Nghiên cứu Hán Nôm >> Chủ đề >> Văn tự
Trương Đức Quả
70. Thêm một văn bản Nôm: Ninh Quốc công cổ truyện (TBHN 2008)

Cập nhật lúc 22h43, ngày 24/11/2010


THÊM MỘT BẢN TRUYỆN THƠ NÔM VỀ

NINH QUỐC CÔNG TRỊNH TOÀN

TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Năm 2008, chúng tôi được một người thân quen là anh Đào Kim Đức (quê ở thôn Trung Hy xã Hoằng Vinh huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, hiện đang trú tại số 7 ngõ 24 đường Hoàng Quốc Việt, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy Hà Nội) cho xem một bộ gia phả họ Trịnh. Bộ gia phả này được phía họ ngoại bên mẹ của anh là cụ Trịnh Thị Vượng cất giữ. Cụ Vượng là hậu duệ của chi Trịnh Toàn trong dòng họ Trịnh, bộ gia phả gồm có 10 quyển chép tay bằng chữ Hán và chữ Nôm, ghi thế thứ các đời thuộc họ Trịnh, trong đó có Trịnh Toàn. Trong quyển 5 có chép truyện thơ bằng chữ Nôm với tên đề: Ninh quốc công cổ truyện, bên dưới đề: (lục thế tôn Trịnh Trinh phụng sao), nghĩa là cháu đời thứ 6 là Trịnh Trinh vâng sao chép. Gia phả không cho biết ai là tác giả của chuyện thơ này.

Truyện thơ được chép trên 10 tờ giấy dó mỗi tờ 10 dòng (chữ chân phương, có một số tờ đã rách mất chữ ở mép và góc, gồm 761 câu thơ lục bát, trong đó có hai bài văn thề. Nội dung kể chuyện về Ninh Quốc công Trịnh Toàn, con trai út của Trịnh Tráng. Trịnh Toàn khi ấy mới 18 tuổi, được vua sai chỉ huy mấy vạn quân thủy bộ cùng các tướng vào Nghệ An chống nhau với chúa Hiền - Nguyễn Phúc Tần. Trước khi xuất quân theo đề nghị của Ninh Quốc Công, trước sự chứng kiến của cha là Trịnh Tráng, hai anh em Trịnh Toàn và Trịnh Tạc làm lễ ăn thề. Mỗi người có một bài văn, thề trung thành, nếu ai phản bội sẽ bị trời đánh chết.

Sau mấy lần giao chiến ác liệt, nhờ tài chỉ huy và sự dũng mãnh của Trịnh Toàn, quân Trịnh Toàn đã đánh bại quân chúa Hiền và ở lại trấn giữ Nghệ An. Khi Trịnh Toàn đang trấn giữ Nghệ An thì ở kinh đô, cha là Trịnh Tráng mất, người anh trai là Trịnh Tạc lên thay nắm giữ quyền lực. Ở kinh đô Tây vương Trịnh Tạc nghe lời nói xấu của một số cận thần nghi Ninh có mưu phản, sai hai người là cậu Vĩnh cậu Tài cùng xá nhân vào Nghệ An triệu Ninh ra kinh đô. Ra đến kinh đô, Trịnh Tạc sai đóng cũi nhốt Ninh. Một số tướng lĩnh thân Ninh, thấy Ninh bị oan bèn kéo quân vào trong thành để cứu Ninh. Ninh nhất quyết không chịu vì đã có lời thề trung thành khi trước. Trịnh Tạc sai người đem thuốc độc đến giết Ninh. Người mang bát thuốc độc đến trước mặt Ninh luống cuống đánh đổ hết. Đang đêm Ninh phá cũi, ra vườn đào lấy khăn làm dây treo cổ lên cây tự vẫn. Trịnh Tạc ban cho gia quyến 100 lượng vàng, cử đội thuyền đưa thi hài về Thanh Hoa xây lăng an táng rất hậu.

Trên đây là những tình tiết chính trong chuyện thơ Ninh quốc công cổ truyện so với ghi chép trong Đại Việt sử kí toàn thư có một vài chi tiết hơi khác. Về Trịnh Toàn có thể tóm lược những thông tin chính từ Đại việt sử kí toàn thư như sau:

Mùa đông tháng 10 (Ất Mùi - Lê Thần Tông 1655) sai Tả Đô đốc Ninh Quận công Trịnh Toàn làm Thống lĩnh, Bồi tụng Thiêm đô ngự sử Lê Đình Dự làm Đốc thị, Đô đốc đồng tri Đào Quang Nhiêu làm Đốc suất...lại lấy Tả Đô đốc Vũ Văn Thiêm đốc suất thủy quân, chia đường đi đánh giặc, khi quan quân tiến đến địa phương Kỳ Hoa thì quân Nguyễn rút lui.

- Tháng 12 (1655) lấy Trịnh Toàn làm Thiếu bảo, cho mở dinh là Tả dực nội quân, có ấn riêng .

- Đầu năm 1656 sai Thiếu bảo Trịnh Toàn thống lĩnh các tướng trấn giữ Nghệ An. Tháng năm quân Nguyễn tiến đến giao tranh ở huyện Thạch Hà. Trịnh Toàn đốc thúc quân kị, cưỡi voi xông ra đánh, quân Nguyễn thua chạy. Quân Trịnh Toàn truy đuổi, bắt được nhiều voi, ngựa và khí giới, giết được nhiều quân giặc. Vì có công, Trịnh Toàn được phong làm Khâm sai tiết chế thủy bộ chư doanh, Phó Đô tướng Thái úy Ninh quốc công, được mở phủ đệ riêng gọi là Dương Uy.

- Tháng 6 (1656) quân Trịnh Toàn tiếp tục giao chiến với quân Nguyễn ở Quảng Khuyến huyện Thiên Lộc, quân Nguyễn lại thua chạy.

Khi ấy Tiết chế Trịnh Toàn cậy công tự phụ ngầm có lòng khác, tự tiện đem quân về An Trường. Thống lĩnh Phó đô tướng Trịnh Căn dò biết được ý định của Trịnh Toàn

- Ngày 16 tháng 4 năm Đinh Dậu 1657 Trịnh Tráng mất.

Bấy giờ mưu phản của Trịnh Toàn đã lộ, thủ hạ là Trịnh Bàn, Trương Đắc Danh bỏ trốn, từ đấy quân lính giải tán, các thuộc tướng theo về với Tả tướng (Trịnh Căn). Trịnh Toàn xin về kinh sư. Tây vương Trịnh Tạc giao cho đình thần tra xét rõ các tội trạng, không nỡ giết cho an trí trong ngục.

Bộ chính sử Đại Việt sử kí toàn thư chỉ cho chúng ta một số thông tin về Trịnh Toàn như vậy. Trịnh Toàn mưu phản cụ thể như thế nào không thấy ghi rõ. Trong bộ gia phả này cũng tại quyển 5 mục chép về Trịnh Toàn có một số thông tin chi tiết hơn, cụ thể như sau:

- Tiết chế Ninh Quốc công Trịnh Toàn sinh giờ Ất Sửu ngày Kỷ Sửu - 15 tháng ba ( Nhâm Thìn) năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 ( Lê Thần Tông - 1631), là con trai thứ 18 của Văn tổ Trịnh Tráng, từ nhỏ đã bộ lộ tính hiếu học và trí thông minh. Lúc trưởng thành, khởi đầu Trịnh Toàn được phong tước Ninh Quận ông, chức Chưởng tả thủy quân doanh. Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652) khi ấy Quốc công 22 tuổi, được lệnh đem Tả quân thủy theo vua đi tuần sát các nơi. Năm Ất Mùi niên hiệu Thịnh Đức thứ 3 (Lê Thần Tông -1655) Trịnh Toàn 25 tuổi, khi ấy 7 huyện thuộc vùng Nam Hà Nghệ An có giặc ( Nguyễn Phúc Tần). Trịnh Toàn được phong làm Khâm sai tiết chế thủy bộ chư doanh kiêm Hành Phó đô tướng, Thái úy phủ trị xứ Nghệ An, tước Ninh Quốc công đem nội quân Tả dực đi trừ giặc. Trịnh Toàn liên tiếp đánh lui quân giặc, lập được công lớn, được ở lại trấn giữ Nghệ An. Năm Đinh Dậu (1657) Trịnh Toàn 27 tuổi, Văn tổ Nghị vương Trịnh Tráng mất, Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc lên kế vị. Quân Nguyễn ở xứ Thuận Quảng sai người thi hành kế phản gián. Trịnh Tạc tin theo sai người triệu Trịnh Toàn về kinh sư, giam trong ngục. Trải qua 18 năm an trí đã 3 lần định dùng vồ đập chết Trịnh Toàn. Năm Giáp Dần niên hiệu Dương Đức thứ 3 ( 1674) tháng 5 ba quân nổi dậy. kéo đến nơi giam giữ để đem Trịnh Toàn ra, Trịnh Toàn nhất quyết không chịu. Ngày Nhâm Thâm mùng 9 sai Hán Quận công(1) đem rượu độc đến ban cho Trịnh Toàn, đến giờ Canh Tuất (7h - 9h tối) thì mất, thọ 44 tuổi.

Vương (Trịnh Tạc) ban cho ba trăm xâu tiền cổ cùng áo quan sai quốc lão Ứng Quận công(2) đến làm lễ tế, đem về quê an táng bên trái phủ Dương Uy thuộc thôn Trung Hy, xã Phú Vinh.

Về sự nghiệp và cái chết của Trịnh Toàn chúng tôi nêu ra những thông tin trên để bạn đọc tham khảo. Câu chuyện Trịnh Toàn trong lịch sử là thuộc về vấn đề nội bộ của họ Trịnh thời ấy. Truyện thơ Nôm Ninh Quốc công cổ truyện thuộc về lĩnh vực văn học sử, thể hiện quan điểm và cảm xúc riêng của người sáng tác. Tinh thần toát lên trong các câu thơ của truyện thơ này là lòng tiếc thương một vị tướng trẻ tài danh bị người anh xử chết một cách oan khuất.

Về thời điểm ra đời của truyện thơNinh Quốc công cổ truyện, gia phả (tr.35 quyển 5) có đoạn chép:

(Nam Hà thất huyện chi dân, thâm cảm uy đức, các vi chi lập miếu dĩ tự yên. Thiên hạ nhân mạc bất ai thống, toại bản kỳ sự nhi ký chi, dụng quốc âm cách danh: Ninh quốc công cổ truyện, ấn bản ban thiên hạ lưu bá chung cổ". Nghĩa là: Dân trong bảy huyện vùng Nam Hà ( Nghệ An) cảm nhớ uy đức sâu xa [ca Trịnh Toàn] đều dựng miếu để thờ. Người trong thiên hạ không ai là không đau buồn, mới ghi chép lại gốc tích sự việc, dùng thể quốc âm (chữ Nôm ), đặt tên là Ninh Quốc công cổ truyện, in thành các bản ban ra thiên hạ, lưu truyền rộng khắp suốt thời ấy.

Qua đoạn văn trích trong gia phả họ Trịnh trên đây, chúng ta có thể thấy Ninh Quốc công cổ truyện được sáng tác không lâu sau cái chết của Trịnh Toàn, sau đó còn được đem khắc in lưu hành và truyền bá rộng khắp.

Về tác giả, cũng từ đoạn văn trên, chúng ta có thể suy đoán, đây không phải là sáng tạo tập thể, mà là của một người ẩn danh vì lý do an toàn bởi lẽ việc ca ngợi lòng trung thành của Trịnh Toàn và cái chết oan khuất của Quốc công vào thời điểm lịch sử đó là phạm tội nặng.

Về bản in truyện thơ Nôm Ninh Quốc công cổ truyện dù gia phả nói rằng lưu truyền rộng khắp, nhưng đến nay rất hiếm thấy. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ được 02 bản in, một bản có tên là 翁寧古傳Ông Ninh cổ truyện, kí hiệu AB.42, với dung lượng 16 tờ (32 trang) khổ 17x12,5cm. Bản 2 in trong sách Thích tĩnh nhã thú, ký hiệu VNb.42, in chung với một vài truyện Nôm khác cũng có tên Ông Ninh cổ truyện với 32 trang. Nội dung các câu thơ và chữ in như hệt bản AB42. Như vậy có thể xem 2 bản có chung một bản ván khắc. Bản AB.42 (Ký hiệu cũ AN.42) có tất cả 548 câu thơ lục bát, so với bản Ninh Quốc công cổ truyện chép trong gia phả họ Trịnh ít hơn đến 213 câu. Chúng tôi sơ bộ đối chiếu các câu thơ giữa hai bản, có đoạn trùng nhau, có đoạn hoàn toàn khác nhau. Nội dung trong bản AB.42 chỉ kể đến đoạn Ninh Quốc công bị triệu về triều là kết thúc, không có đoạn kể về việc Ninh Quốc công bị giam cầm cho uống thuốc độc và rồi tự vẫn chết. Như vậy về nội dung bản AB.42 sơ lược hơn nhiều so với bản Ninh Quốc công cổ truyện chép trong gia phả. Mục tiêu của bài viết này chỉ nhằm giới thiệu cho độc giả biết có một bản truyện thơ Ninh Quốc công cổ truyện chép trong bản gia phả họ Trịnh. Việc đi sâu nghiên cứu đối chiếu kỹ càng từng câu thơ, sự xuất nhập giữa các văn bản sẽ được công bố vào một dịp khác.

Tóm lại đây là một văn bản truyện thơ Nôm có giá trị nghiên cứu về văn học sử, được chép lại vào cuối thời Nguyễn, nhưng người chép vẫn giữ khá trung thành với bản cũ bởi lẽ đây đó vẫn còn giữ nguyên được chữ Nôm cổ, ví dụ như chữ “trong” vẫn chép là “”. Chúng tôi xin được trích phiên một đoạn đầu và đoạn kết của truyện thơ, để bạn đọc tham khảo.

Trích đoạn mở đầu:

Làm trai chí cả nên trai

Chí lăm vượt bể, quét trời nên tiên.

Làm trai có chí thì nên,

Lấy được vợ hiền là tiểu đăng khoa.

Bốn phương phẳng lặng can qua(3),

Dân yên chăn chiếu xướng ca chơi bời.

Cao Bằng, Đồng Mỏ mọi nơi,

Đều ra tiến cống thửa nơi bạc tiền.

Còn một trong Quảng chúa Hiền(4)

Cha con Đoan quận chẳng ra kinh kỳ

Một lòng đánh báo nhà Lê

Tranh quyền cướp nước trở về Nghệ An

Chúa bác(5) lòng giận tức gan.

Lấy ai mà dẹp cho tan giặc này.

Đòi lấy Ninh Quận(6) vào đây.

Ta sai nó đánh giặc này cho tao.

Ông Ninh đặt gối thấp cao,

Dọng qua chúa bác ngôi cao trùng trùng.

Ninh còn thơ ấu yếu xung

Ninh mới mười tám trong lòng tiếc chi.

Bác sai thời tôi phải đi,

Ninh xin trảy vào dẹp giặc Nghệ An...

Đoạn kết.

Chúa Tây(7) mới ngự vào ngôi trướng tòa.

Lời bàn lòng hận xót xa

Để Ninh còn, phải oan gia có ngày.

Thế thời cậu phải ra tay

Đức ông nghe thấy thương thay dưng là.

“Ta thời giữ đạo hiền hòa

Vì sao những dạ giết ta thế này.

Giả ơn bảy tám chúng bay

Ninh thời tự vẫn đêm nay cho rồi”

Chân thời đạp cũi ra ngoài

Tay thời(8) … nơi vườn đào,

Lấy khăn thắt cổ tiêu hao

Ba hồn bảy phách đi vào động tiên

Rạng ngày đức chúa Tây truyền

Bay ra ngoài chốn .. xem sao.

Cậu vâng ra đến đào viên,

Thấy ông Ninh đã treo vào gốc cây.

Cậu liền vào dọng(9) chúa Tây,

Người đã tự vẫn thuở này ban đêm.

Truyền ra mở nó vào xem,

Sai người mở trói cho em tức thì.

Tư bề tướng phủ tứ vi(10),

Cho ra đòi lấy thê nhi(11) vào chầu.

Thê nhi vào thấy vật chầu

Ôm con mà khóc oan thù vì đâu?

Chúa Tây bước xuống dưới lầu

Tìm lời han giả nước non hỡi nàng

Rằng thì giận mắng sang thương,

Ai ngờ nó đã lên đường gió mây

Lòng tao cũng cám cảnh thay,

Ai ngờ nó lại đang tay cả lòng.

Vàng mươi trăm lạng thư phong,

Cho mày làm của nghĩa chồng báo Ninh.

Thê nhi lăn khóc vật mình,

Rằng anh rày đã được thành công chưa?

Nhọc lòng giãi nắng dầm mưa,

Chúa thương trung nghĩa chúa cho vàng này.

Chúa liền nghe chạnh lòng tây(12)

Truyền cho cậu Vĩnh(13) mau tay dọn thuyền

Chớ cho trì hoãn chẳng nên,

Cậu vâng lệnh chúa dọn(15) thuyền làm song.

Dọn cho năm chiếc thuyền rồng,

Chọn ngày lành mới đưa ông Ninh về.

Lập lăng mới táng một khi.

Long trường bổ đoản, tứ vi hữu tình,

Thê nhi trai gái nữ trinh

Cứ lời chồng dặn phân minh tỏ tường.

Dầu ba năm kết tóc tang,

Bước vào từ đường lạy tạ tổ tông.

Lại ra phần mộ khấn chồng

Giả chốn báo bồng(16) giở về phú vinh

Khuyên con khuya sớm học hành

Sôi kinh nấu sử tập tành mười phân.

Tìm nơi cảnh giới tu thân

Đạo trời bụt cứu sinh dân hộ mình.

Kinh đô để mặc chúa anh(17),

Mẹ hiền con thảo, thanh danh muôn đời.

Ăn nhờ vì cậy đạo trời,

Ông Ninh truyện để muôn đời làm gương.

Chú thích:

(1) Chưa rõ tên họ Hán Quận công là ai.

(2) Chưa rõ họ tên Ứng Quận công là ai.

(3) Can là cái mộc. Qua là cái mác, chỉ chiến tranh. Phẳng lặng can qua: không có chiến tranh.

(4) Chúa Hiền tức Nguyễn Phúc Tần thời ấy chiếm giữ vùng Thuận Quảng.

(5) Chúa bác chỉ Chúa Tráng.

(6) Ninh quận tức Ninh Quận công Trịnh Toàn, khi ấy chưa được phong là Ninh Quận công.

(7) Chúa Tây tức Tây vương Trịnh Tạc anh trai Trịnh Toàn.

(8) Do bản gốc chữ Nôm bị rách nên có một số câu phải để dấu (…).

(9) Dọng: từ cổ nghĩa là tâu bày.

(10 Tư bề, tứ vi đều có nghĩa là xây kín.

(11) Thê nhi: vợ con.

(12) Lòng tây: nỗi lòng riêng. Tây: từ cổ có nghĩa là riêng, tư.

(13) Chưa xác định được thời ấy cậu Vĩnh là ai.

(14) Dọn từ cổ nghĩa là chuẩn bị, sắp đặt.

(15) Long trường: rồng dài, hổ đoản: hổ ngắn. Xưa những nhà quyền quý quan tài khâm liệm người mất thường bên trái vẽ rồng và bên phải vẽ hổ.

(16) Câu này ý nói giã từ chốn kinh đô trở về quê Phú Vinh.

(17) Chúa anh tức Trịnh Tạc, sau khi cha là Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên nối ngôi Chúa./.

Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.802-811

In
Lượt truy cập: