Nghiên cứu Hán Nôm >> Tác giả >> D >> Nguyễn Thị Dung
Nguyễn Thị Dung
18. Về Ký sĩ vương trong Đại Việt sử ký toàn thư (TBHNH 2009)

Cập nhật lúc 22h27, ngày 16/11/2011

VỀ “KỈ SĨ VƯƠNG” TRONG ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ CỦA
NGÔ SĨ LIÊN

NGUYỄN THỊ DUNG

Ban quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội

Sĩ Nhiếp (士燮, 137-226) tên tự là Ngạn Uy, người huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô (nay là huyện Thương Ngô tỉnh Quảng Tây). Tổ tiên vốn người Vấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng, tránh đến đất này (Quảng Tín, Thương Ngô) đến Sĩ Nhiếp là sáu đời (Theo Tam quốc chí Việt điện u linh tập. Đại Việt sử kí toàn thư ghi là sang ở đất Giao Châu, tức nước ta được 6 đời). Cha ông tên là Tứ, thời Hán Hoàn đế làm Thái thú Nhật Nam. Khi còn trẻ tuổi, Sĩ Nhiếp từng du học ở kinh đô nhà Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên – một danh gia kinh học đương thời, chuyên nghiên cứu về sách Tả thị xuân thu, được cử Hiếu liêm, bổ làm Thượng thư lang, vì việc công bị miễn chức; hết tang cha, lại được cử Mậu tài, bổ làm Huyện lệnh Vu Dương, rồi đổi làm Thái thú Giao Châu, đặt trị sở tại Luy Lâu 羸樓 (Có sách chép thành Doanh Lâu 贏樓, hoặc Doanh Lâu 嬴樓 do hình dạng văn tự giống nhau).

Sĩ Nhiếp cai trị ở Giao Châu trong 40 năm (từ năm 187 đến năm 226), ốm chết vào năm 226, thọ 90 tuổi. Ông từng được phong các chức: thời Hán, được phong là: Thái thú Giao Châu (có sách ghi là Thái thú Nhật Nam), Tuy Nam trung lang tướng, An viễn tướng quân, tước Long Độ đình hầu. Thời Đông Ngô, được phong là: Vệ tướng quân, tước Long Biên hầu.

Sĩ Nhiếp là một nhân vật lịch sử hết sức quan trọng gắn với đất Giao Châu vào giai đoạn cuối thời Hán, đầu thời Tam quốc, do đó các bộ sử xưa viết về nước ta giai đoạn này không thể không nhắc đến ông. Nói về Sĩ Nhiếp, trong Đại Việt sử kí toàn thư, Ngô Sĩ Liên trân trọng dành riêng cho ông một “kỉ”, đặt tên là “Sĩ Vương kỉ” (Kỉ Sĩ Vương 士王紀). Đại Việt sử kí toàn thư là bộ chính sử đặc biệt có uy tín của nước ta, lại là bộ sử ra đời sớm, nên ảnh hưởng của nó hết sức sâu rộng. Chính vì lẽ ấy nên khi nói về Sĩ Vương, các tài liệu đời sau thường tham khảo theo sách này (Xem: Bắc Ninh tỏa kí - A.87, Bắc Ninh tự miếu bi văn - A.277), Vương sự tích - A.426, v.v…).

Điều đáng chú ý là “Kỉ Sĩ Vương” trong Đại Việt sử kí toàn thư, ngoài các lời đánh giá về Sĩ Vương của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ, các đoạn khác về căn bản đều giống các bộ sách trước đó, tiêu biểu là Việt sử lược (khuyết danh - thời Trần), An Nam chí lược (của Lê Trắc thời Trần, sau chạy sang nhà Nguyên, viết tại Trung Quốc) và Việt điện u linh tập (của Lí Tế Xuyên thời Trần). Hai sách Việt sử lượcAn Nam chí lược vốn lưu truyền tại Trung Quốc trong khoảng thời gian dài, gần đây mới được đưa về dịch và giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam. Do đó, đương thời hẳn Ngô Sĩ Liên cũng chưa chắc có điều kiện tham khảo chúng. Sở dĩ có hiện tượng tương đồng như trên là vì Việc sử lược, An Nam chí lược, Việt điện u linh tậpĐại Việt sử kí toàn thư (sau đó là Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn) vốn đều tham khảo chung một nguồn, đó là “Sĩ Nhiếp truyện 士燮傳”, thuộc phần “Ngô chí” trong bộ Tam quốc chí của Trần Thọ thời Tấn (Phân biệt với tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nguyên tên đầy đủ là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là tiểu thuyết chương hồi – một sáng tác văn chương thời Minh - Thanh). Riêng Đại Việt sử kí toàn thư, ngoài Tam quốc chí, Ngô Sĩ Liên hẳn có tham khảo thêm Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên.

Về “Kỉ Sĩ Vương” trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán thời Nguyễn tỏ ý bất đồng, cho rằng:

"Sĩ Nhiếp theo lệnh triều đình Trung Quốc phái sang làm Thái thú, không từng xưng Vương bao giờ, thế mà sử cũ cũng chép riêng thành một kỉ, nay tước bỏ đi, chỉ chép thẳng công việc thời ấy để ghi lấy sự thực...".

Ngô Sĩ Liên làm sách Đại Việt sử kí toàn thư trên cơ sở kế thừa các sử sách đời trước, điều này được khẳng định rõ ở phần Phàm lệ về việc biên soạn sách Đại Việt sử kí toàn thư: “Sách này làm ra, gốc ở hai bộ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo với Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại, rồi khảo chính mà biên chép thành” (纂脩大越史記全書凡例 -是書之作, 本黎文休, 潘孚先大越史記二書, 參以北史, 野史, 傳志諸本, 及所傳授見聞, 校編輯為之). Do vậy, việc dành cho Sĩ Nhiếp một “kỉ” riêng chưa hẳn do ông tự đặt ra. Tương tự như trường hợp Sĩ Nhiếp, Cao Biền cũng là quan đô hộ của nhà Đường được phái sang Giao Châu. Trong thời gian Cao Biền ở nước ta, không những họ Cao không có thành tựu trị lí như Sĩ Nhiếp, mà còn có một số hành vi biểu hiện ý đồ đè nén, triệt hạ người bản xứ (như việc trấn yểm long mạch… mà các sách cổ từng ghi). Tuy vậy, Cao Biền vẫn được tôn xưng là “Cao Vương”. Cách gọi đó ít nhất được ghi rõ trong Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) của Lí Thái Tổ (Câu: “Huống Cao Vương cố đô Đại La Thành 況高王故都大羅城”, nghĩa là: Huống chi đất này vốn là kinh đô cũ của Cao Vương - Cao Biền). Cho nên Sĩ Nhiếp là người có nhiều đóng góp cho Giao Châu, như mở mang việc học tập, tiến cử nhân tài, giữ vững sự ổn định giữa thời loạn, ví như được tôn xưng là “Sĩ Vương” cũng là điều dễ hiểu.

Vậy tôn hiệu “Sĩ Vương” có phải chỉ xuất hiện từ Đại Việt sử kí toàn thư về sau? Về vấn đề này, cũng theo Ngô Sĩ Liên, “thế truyền rằng sau khi Vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp [Chiêm Thành] vào cướp, đào mộ của Vương, thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ đắp lại, người địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "vị tiên Sĩ Vương" (士王仙 - Sĩ Vương tiên). Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy” (Đại Việt sử kí toàn thư).

Như vậy, trong Đại Việt sử kí toàn thư không chỉ có “Sĩ Vương kỉ” mà còn có cả danh hiệu “Sĩ Vương tiên”. Danh hiệu “Sĩ Vương tiên” hẳn phải xuất hiện sau danh hiệu “Sĩ Vương”.

Trong đoạn trên, cái mà tác giả Ngô Sĩ Liên gọi là “thế truyền” (世傳) thực chất là nguồn tư liệu nào?

Khảo sát Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên thời Trần, trong phần ghi về Sĩ Nhiếp (tức phần: “Gia ứng thiện cảm linh vũ đại vương嘉應善感靈武大王”), sách dẫn theo Báo cực truyện 報極傳, ghi:

“Sĩ Vương giỏi thuật nhiếp dưỡng, từ khi Vương mất, táng xuống đất, đến cuối thời Tấn, trải qua hơn 160 năm, khi người Lâm Ấp và cướp phá, đào mộ của Vương ở xã Tam Á huyện Gia Định, thấy thân thể Vương vẫn không rữa nát, diện mạo hệt khi đang sống, chúng cả sợ pháp lấp lại. Dân địa phương truyền nhau việc ấy, cho là thần linh, lập miếu thờ, gọi là Tiên Sĩ Vương - (Sĩ Vương tiên)”.

Sách Việt điện u linh tập còn dẫn lại việc Cao Biền đi đánh Nam Chiếu, khi về qua Tam Á, Sĩ Vương hiển linh, hai bên cùng nói chuyện thời Tam quốc, rồi ghi lại bài thơ của Cao Biền như sau:

“Tự Ngụy Ngô nhi hậu,

Tương lai ngũ bách niên.

Đường, Hàm Thông bát tải,

Hạnh ngộ Sĩ Vương tiên.”

Nghĩa là:

Từ sau thời Ngô, Ngụy;

Đã trải năm trăm năm.

Năm Hàm Thông thứ tám thời Đường,

May được gặp “Sĩ Vương tiên”.

Đối chiếu hai đoạn trích của Đại Việt sử kí toàn thưViệt điện u linh tập, có thể dễ dàng nhận ra cái được Ngô Sĩ Liên gọi là “thế truyền” chính là sự ghi chép của Báo cực truyện, được dẫn lại trong Việt điện u linh tập.

Hiện không rõ về tác giả Báo cực truyện, niên hiệu hình thành sách cũng như nội dung cụ thể của nó, chỉ biết rằng sách này do tác giả người Việt biên soạn, còn được gọi là Cực báo truyện 極報傳Báo đức truyện 報德傳. Báo cực truyện được tác giả Việt điện u linh tập trích dẫn, chứng tỏ nó là một sách khá uy tín, hình thành trước năm Khai Hựu thứ nhất triều Trần [1329] - năm Việt điện u linh tập hoàn thành. Điều này cũng có nghĩa là chí ít trong tài liệu thành văn từ 1329 trở về trước đã ghi chép về danh xưng “Sĩ Vương”, không phải đến Đại Việt sử kí toàn thư về sau mới có danh xưng này. Nếu sự ghi chép của Báo cực truyện như đã dẫn trong Việt điện u linh tập là khả tín, tức là sau khi Sĩ Nhiếp chết được 160 năm xuất hiện danh xưng “Sĩ Vương tiên”,vậy, suy rộng ra, danh xưng “Sĩ Vương” phải xuất hiện trước đó, thậm chí là danh xưng của người đương thời dành cho “Sĩ Nhiếp”, không chỉ là danh xưng của giới sử gia thời quân chủ nói chung cũng như Ngô Sĩ Liên nói riêng tôn xưng nhân vật này. Bản thân tác giả Việt điện u linh tập cũng ghi: “người trong châu đều gọi ông [Sĩ Nhiếp] là “Vương” (Việt điện u linh tập - Lịnh đại nhân quân - Gia ứng thiện cảm anh vũ đại vương).

Việt điện u linh tập không những giúp ta hiểu hơn về nguyên lai của danh hiệu “Sĩ Vương” mà còn hé lộ thêm về việc hình thành “Kỉ Sĩ Vương” trong Đại Việt sử kí toàn thư. Trong phần lời tựa sách Việt điện u linh tập, Lí Tế Xuyên cho rằng các thần được thờ tự ở nước ta, vốn “phẩm loại không giống nhau”, và ông tiến hành phân các bậc thần được ghi chép làm 3 loại:

1/ Lịch đại nhân quân (歷代人君),

2/ Lịch đại nhân thần (歷代人臣),

3/ Hạo khí anh linh (灝氣英靈).

Điều đáng lưu ý là ông đã đưa Sĩ Nhiếp (tức thần: Gia ứng thiện cảm linh vũ đại vương) lên đứng đầu phần “Lịch đại nhân quân” (vua chúa quan các đời, theo A.1919. Có bản Việt điện u linh tập ghi là “Lịch đại đế hậu 歷代帝后” - A.2879, “Lịch đại đế vương 歷代帝王” - A.751), trước một số vị thần vốn là các vua khác ở nước ta, như: Phùng Hưng (thần: Bố Cái phu hựu chương tín Sùng nghĩa đại vương), Triệu Quang Phục (Thần: Minh đạo khai cơ thánh liệt thần vũ hoàng đế)... Điều này cũng có nghĩa là tác giả Lí Tế Xuyên thời Trần coi Sĩ Nhiếp ngang hàng các vị vua của nước ta. Thống nhất với việc đưa Sĩ Nhiếp lên ngang hàng các vị vua khác ở nước ta, tác giả sách này khi viết về việc Sĩ Nhiếp chết dùng chữ “Hoăng ” (Thiên tử chết gọi là “Băng ”, vua chư hầu chết gọi là “Hoăng”), thể hiện tiếp thu lối viết ngụ ý chính danh của các sử gia thời quân chủ, coi Sĩ Nhiếp là vị vua chính đáng của một nước. Ngô Sĩ Liên khi giải thích về việc đưa Sĩ Nhiếp lên ngang hàng các vị Vương khác có viết: “Thời Sĩ Vương tuy có chức Thái thú, nhưng Vương là chư hầu chủ một nước, người trong nước ai cũng gọi là Vương 士王之時, 雖有守任, 然王以諸候當國, 國人皆呼為王” (Phàm lệ về việc biên soạn sách Đại Việt sử kí toàn thư). Ở Kỉ Sĩ Vương, ông lại khẳng định thêm một lần nữa rằng “Người trong nước yêu quý ông [Sĩ Nhiếp], đều gọi là Vương 國人愛之, 皆呼曰王” (Đại Việt sử kí toàn thư - Sĩ Vương kỉ).

Có thể thấy cánh ghi của Việt điện u linh tập về Sĩ Nhiếp, xét về tính chất không có nhiều khác biệt so với “Sĩ Vương kỉ” của Đại Việt sử kí toàn thư. Từ kết quả khảo sát, chúng ta có cơ sở để để cho rằng việc Ngô Sĩ Liên dành cho Sĩ Nhiếp một “kỉ” riêng như trong Đại Việt sử kí toàn thư là do ông đã tiếp thu từ các tác giả đời trước, đặc biệt là quan điểm của Lí Tế Xuyên trong Viện điện u linh tập.

 

Tài liệu tham khảo chính:

1. Trần Thọ: Tam quốc chí - Ngô chí - Sĩ Nhiếp truyện.

2. Lê Trắc: An Nam chí lược, bản dịch, Nxb. Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, 2002.

3. Lí Tế Xuyên: Việt điện u linh tập (xem các kí hiệu: A.1919, A.2879, A.751…).

4. Việt sử lược (bản dịch của Trần Quốc Vượng), Nxb. Văn Sử Địa, H. 1960.

5. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kí toàn thư, bản dịch của Cao Huy Giu, tập I, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2006.

6. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kí toàn thư, bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1993, Tập IV, phụ lục nguyên văn bản chữ Hán năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, H. 1998.

(Cùng một số sách khác như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt Nam sử lược, Bắc Ninh tỏa kí - A.87, Bắc Ninh tự miếu bi văn - A.277, Sĩ Vương sự tích - A.426, v.v…)./.

(Thông báo Hán Nôm học 2009; tr.253-260)

In
Lượt truy cập: