Nghiên cứu Hán Nôm >> Chủ đề >> Câu đối
Trần Thị Thanh
66. Câu đối trên kiến trúc Đại nội Huế

Cập nhật lúc 22h00, ngày 05/02/2009

CÂU ĐỐI HÁN NÔM HIỆN CÒN Ở ĐẠI NỘI HUẾ

TRẦN THỊ THANH

Trường Đại học Khoa học Huế

Đại Nội Huế - nơi cung điện lầu son gác tía của các vua triều Nguyễn, nơi kinh đô cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam - đến nay hãy còn nhiều di tích để lại. Những di tích về vật thể và phi vật thể đã làm nên diện mạo của 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân, Huế. Một trong những di tích phi vật thể để lại của triều đại nhà Nguyễn là những câu đối được ghi trên kiến trúc Đại Nội. Những câu đối đó không những làm tôn thêm vẻ đẹp của công trình mà còn phần nào nói lên bộ mặt tinh thần của một thời đại. Khi nghiên cứu về câu đối ở Đại Nội Huế chúng tôi thấy có hai nội dung chính sau đây:

1. Câu đối ở cung điện ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, nền chính trị tốt đẹp

Bước vào Đại Nội, vào tới điện Thái Hòa, chúng ta thấy hàng loạt các bài thơ được trang trí trên các ô hộc. Nếu dng lại đọc và suy ngẫm, chúng ta sẽ thấy nội dung các bài thơ ấy phần lớn nói lên niềm tự hào về một đất nước thống nhất, có vua sáng tôi hiền, có cảnh sống yên ấm thanh bình của làng quê. Bài thơ tứ tuyệt sau:

文 獻 千 年 國

車 書 萬 里 圖

鴻 龐 開 闢 後

南 服 一 唐 虞

Văn hiến thiên niên quốc

Xa thư vạn lý đồ

Hồng Bàng khai tịch hậu

Nam phục nhất Đường Ngu

đã nói lên niềm tự hào to lớn về chiến công thống nhất đất nước của triều đình nhà Nguyễn và lòng tự hào dân tộc không bao giờ vơi cạn của mỗi người dân Việt Nam. Nước Việt Nam ta là một nước có nền văn hiến hàng ngàn năm. Triều đình nhà Nguyễn đã thống nhất giang sơn thành một dải hàng ngàn dặm. Từ lúc Hồng Bàng mở nước tới nay, nước Nam ta lại có một triều đình thanh bình và tốt đẹp như triều đại Đường Ngu của vua Nghiêu, vua Thuấn. Với nội dung này không những chỉ bài thơ được khắc trong nội điện đề cập đến mà những câu đối được trang trí ở khắp các kiến trúc Đại Nội Huế đều nói lên điều đó.

Thái Bình lâu hay còn gọi là Thái Bình ngự lãm thư lâu là nơi vua thường ngồi đọc sách, nghỉ ngơi sau những giờ thiết triều căng thẳng. Nó là kiến trúc duy nhất bên trong Tử cấm thành còn nguyên vẹn sau ngày Pháp chiếm đóng Huế. Kiến trúc này được thay đổi từ thời Minh Mệnh cho đến năm 1887 thời Đồng Khánh. Do vậy cách trang trí các câu đối ở đây là từ thời Đồng Khánh. Còn nội dung các câu đối có thể là những ý tưởng chung của cả một triều đại nối tiếp nhau từ thế hệ này đến thế hệ khác. Câu đối ở trụ cổng và mặt phía đông của toà lầu được ghép bằng những mảnh sứ màu trên các trụ vôi, không những để trang trí mà còn chuyển tải tư tưởng của một tầng lớp xã hội đương thời cho hậu thế. Niềm tự hào dâng lên bất tận thấm vào từng câu từng chữ.

一 統 山 河 重 光 日 月

八 荒 户 牖 六 合 庭 除

Nhất thống sơn hà trùng quang nhật nguyệt

Bát hoang hộ dũ lục hợp đình trừ

(Câu đối ở Thái Bình lâu)

(Thống nhất sơn hà nhật nguyệt về hội tụ.

Xa xôi nhà cửa lục hợp chiếu thềm sân).

Thống nhất đất nước luôn là niềm tự hào của các vua triều Nguyễn. Trải qua quá trình dựng nghiệp, nhà Nguyễn đã xác lập được bản lĩnh của dòng họ mình. Mưu tính mở đất về phương Nam từ thời Nguyễn Hoàng (1558) đã được các thế hệ sau nối tiếp thực hiện. Chính việc thống nhất đất nước đã tạo ra tiền đề rất lớn để đất nước ngày càng phát triển phồn thịnh. Lúc này đất nước không phần biệt nam bắc, quan lại triều cũ triều mới. Nếu ai có tài đều được trọng dụng. Đất nước như bừng sáng sau những ngày tháng tăm tối trong cảnh “nồi da xáo thịt”, “kiền khôn bĩ” đã đến ngày “thái”. Ánh sáng của vầng nhật nguyệt đã đem nguồn sáng cho cả loài người, đất Việt đã thanh bình nay lại càng như sáng hơn. Vua Nguyễn đã rọi thấu thềm sân của dân chúng ở tám phương sáu hướng, làm cho thôn cùng xóm vắng dân cũng được hưởng ơn sâu. Ơn sâu chiếu khắp chúng dân đó là do vua hết lòng lo lắng cho dân. Ngày thiết triều giải quyết công việc, đêm lo lắng đọc sách thánh hiền mong tìm điều hay lẽ phải để lấy đó làm gương soi.

殫 心 萬 歲 勞 神 百 姓

希 蹤 二 帝 換 美 三 王

Đàn tâm vạn kỷ, lao thần bách tính,

Hy tung nhị đế, hoán mỹ tam vương.

(Câu đối ở Thái Bình lâu)

(Hết lòng vì muôn việc, nhọc nhằn lo cho dân,

Nguyện theo gương Nghiêu Thuấn, để đẹp lòng tam vương).

Đối với dòng họ nhà Nguyễn, thế hệ sau luôn tiếp bước thế hệ trước, cố gắng làm tròn những gì mà thế hệ trước chưa kịp làm. Cả ba đời vua trước: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đã gắng hết sức mình dựng xây đất nước trong cảnh thái bình thì đến Tự Đức lại nối theo cái đức ấy của cha ông để nghiệp vương ngày càng rạng rỡ như thời vua Thuấn, vua Nghiêu.

大 同 之 世 外 户 不 閑

三 代 之 民 直 道 而 行

Đại đồng chi thế ngoại hộ bất bế,

Tam đại chi dân trực đạo nhi hành.

(Câu đối ở Thái Bình lâu)

(Đời Đại Đồng cửa ngoài không cần đóng,

Dân tam đại đạo đúng cứ theo làm).

Thời đại đồng - thời vua Nghiêu, vua Thuấn, dân chúng ấm no đất nước thanh bình, nhà cửa không cần đóng luôn luôn được coi là chuẩn mực để các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như Việt Nam noi theo. Thời vua sáng tôi hiền, dân phong thuần hậu, nền chính trị tốt đẹp đã đề ra đường lối đúng đắn để dẫn dắt muôn dân, thật là một kỳ vọng để cho các vua triều Nguyễn vươn tới. Do vậy, câu đối này được khắc ở Thái Bình lâu để có ý như nhắc nhở, động viên những bậc “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân), phải luôn chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho dân, làm cho cuộc sống của dân giống như thời vua Nghiêu, Thuấn. Điều mong ước này có lúc thành sự thật. Nó chính là kết quả của sự phấn đấu bền bỉ không ngừng của cả một dòng họ trong vòng mấy trăm năm. Công này đã được hậu thế đánh giá đúng mức. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã từng viết: “Ngay từ thời các chúa Nguyễn, vùng đất Ô Châu đã thành nơi đô hội phồn vinh. Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán”.

Một thời chinh chiến khói lửa luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của vua tôi triều Nguyễn. Điều này một lần nữa lại được nhắc ở một số câu đối phía trước và phía sau ngai vàng trong điện Thái Hòa trang trí ở các ô hộc:

霧 散 陰 消 清 宇 宙

雲 開 日 曜 麗 山 河

Vụ tán âm tiêu thanh vũ trụ,

Vân khai nhật diệu lệ sơn hà.

(Câu đối phía sau ngai vàng)

(Âm khí tiêu tan trời trong sáng,

Nắng vàng mây trải núi sông xinh).

Cảnh đẹp ấy còn được tô thắm thêm bởi cảnh sống yên ả thanh bình ở làng quê, với những phong tục tập quán tốt được khôi phục lại sau những năm tháng chiến tranh nhọc nhằn người dân đã bỏ quên.

閭 閻 醇 厚 民 風 美

天 氣 溫 和 室 宇 春

Lư diêm thuần hậu dân phong mỹ,

Thiên khí ôn hòa thất vũ xuân.

(Câu đối phía trước ngai vàng)

(Xóm thôn thuần hậu dân phong tốt,

Khí hậu ôn hòa nhà nhà xuân).

Có lẽ cảm hứng của câu đối trên đã bắt nguồn từ một thực cảnh ấm no hạnh phúc của nhân dân đương thời. Đọc các câu đối trong kiến trúc của Đại Nội, hậu thế đã hình dung ra phần nào cảnh sống thanh bình của dân ta dưới thời nhà Nguyễn.

萬 物 氣 華 資 發 育

九 州 光 被 似 和 勻

Vạn vật khí hoa tư phát dục,

Cửu châu quang bị tự hòa quân.

(Câu đối phía trước ngai vàng)

(Vạn vật xinh tươi đều nẩy nở,

Nước non hòa điệu nắng xuân vui).

Bằng những nét chấm phá, phác họa đơn giản, câu đối ở Đại Nội đã vẽ nên bức tranh thái bình nhiều màu nhiều vẻ từ chốn cung đình đến nơi thôn dã. Điều đó cũng chính là “bản lai diện mục” mà triều Nguyễn phô bày ở nơi thiết triều uy nghiêm lộng lẫy để cho sứ giả các nước tới bang giao biết được thế đứng vững trãi của triều đình. Bởi dân có no thì nước mới mạnh, lương thực có đủ thì quân đội mới hùng cường.

Cảnh ấm no hạnh phúc của dân, của thời đại đương thời không những được thể hiện ở các câu đối mà còn được thể hiện trong rất nhiều bài thơ được trang trí trong điện Thái Hoà và các bài thơ được khắc trên kiến trúc lăng Minh Mạng.

倉 以 盈 秋 穀

野 將 茂 夏 禾

鳴 庶 無 戎 嘆

擊 壤 有 農 歌

Thương dĩ doanh thu cốc

Dã tương mậu hỏa

Minh thứ vô nhung thán

Kích nhưỡng hữu nông ca

(Thơ ở Sùng Ân điện)14)

(Trong kho đầy lúa thu,

Ngoài đồng lúa hạ đến thì lên xanh.

Tiếng chim rộn rã đầu cành,

Tuyệt không có cảnh khóc than kêu hờ).

Cảnh yên ấm thanh bình này cũng sinh động chẳng kém gì cảnh vật trong bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông. Bài thơ được khắc trong Sùng Ân Điện của lăng Minh Mệnh, tuy không đề rõ tên tác giả nhưng người đọc có thể phán đoán được người làm thơ có một thế đứng cao, với một tầm quan sát rộng và có xen chút tự hào về cảnh sống ấm no vui tươi hạnh phúc của dân. Có được cảnh ấm no vui tươi ấy, đâu phải chỉ công lao của một ai. Đó là sự lao động cần cù chịu khó, một trong những đức tính tốt có từ ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Có được vụ mùa bội thu, nhà nhà đầy cót thóc trong khi ngoài đồng lúa đã sắp làm đòng thì phải đâu chỉ dân chăm là được mà còn là kết quả của những chính sách khuyến nông, giảm thuế mà triều đình nhà Nguyễn đã ban bố để động viên dân:

農 被 木 和 恩 澤 廣

士 蒙 振 作 教 功 深

Nông bị mộc hòa ân trạch quảng,

Sĩ mông trấn tác giáo công thâm.

(Câu đối ở dãy phía trước ngai vàng)

(Nhà nông trúng vụ nhờ ơn trạch,

Kẻ sĩ đua tài bởi giáo công).

Triều đình nhà Nguyễn không những quan tâm đến đời sống vật chất của dân mà còn giúp dân mở mang trí óc. Đó là công giáo hóa của các học quan mà triều đình đã phân bổ về tới các trường phủ, trường huyện. Những sinh đồ có học tài đều được nhà nước chu cấp cho lương bổng để ăn học. Vào năm thứ 8 niên hiệu Minh Mệnh nhà vua ban chiếu rằng: “Những kẻ dũng cảm trí lực, phương vũ tài năng hơn người sẽ sung vào làm Bộ Binh, cấp lương bổng hàng tháng để học thành tài” (Minh Mệnh chính yếu - phần “Cầu hiền”). Hay nhà vua còn nói: “Trẫm từ khi làm việc chính sự đến nay đã cho thi văn tuyển võ, rồi theo thứ tự đỗ đạt mà cất nhắc” (Minh Mệnh chính yếu - phần “Cầu hiền”). Đến năm thứ 15, Minh Mệnh truyền lệnh rằng: “Hương cống loại ưu đặt làm giáo thụ, hương cống loại bình đặt làm hướng đạo, hương cống loại liệt thứ ở vùng Quảng Bình trở về phía nam được phái làm hành tẩu, còn từ Hà Tĩnh trở ra phía bắc thì sẽ được phóng hồi cho về quê lập nghiệp (Minh Mệnh chính yếu - phần "Cầu hiền”). Cách cai trị của vua Minh Mệnh thật đáng để kẻ sĩ trong nước đua tài. Bởi nhà vua nghĩ: “Trẫm luôn nghĩ nhân tài là tài khí của quốc gia, không thể để cho nó chìm đắm” (Minh Mệnh chính yếu - phần "Cầu hiền”). Thật đúng là:

陶 功 渙 零 千 秋 似

華 政 仁 輪 萬 世 傳

Đào công hoán linh thiên thu tự,

Hoa chính nhân luân vạn thế truyền.

(Câu đối phía trước ngai vàng)

(Công lao giáo hóa ngàn năm chảy,

Chính trị tốt đẹp bởi nhân truyền muôn đời).

Câu đối trong cung điện đã vẽ nên bức tranh hài hoà giữa thiên nhiên tạo hóa và bàn tay xây dựng tài hoa của con người. Khung cảnh tự nhiên, trời đất bao la, núi mây non nước như gấm thêu đã làm cho đế đô càng thêm hùng tráng.

屏 嶺 前 臨 香 水 秀

皇 城 高 望 帝 都 雄

Bình lãnh tiền lâm Hương Thủy tú,

Hoàng thành cao vọng đế đô hùng,

(Câu đối ở miếu vườn Cơ Hạ)

(Núi Ngự Bình chắn phái trước, dòng Hương đẹp chảy qua.

Hoàng thành cao vòi vọi, đế đô trông oai hùng).

Sau gần một phần tư thế kỷ sống lưu vong, Nguyễn Ánh đã trở về chiếm lại Phú Xuân, thu giang sơn về một mối và bắt đầu xây dựng nghiệp đế của dòng họ mình. Năm 1802, Nguyễn Ánh xưng đế lấy niên hiệu Gia Long và quyết định chọn Phú Xuân làm kinh đô của triều Nguyễn. Địa thế tự nhiên được con người lựa chọn đã tạo thành một cảnh đẹp “độc nhất vô nhị” ở chốn kinh sư. Sông Hương núi Ngự xưa nay đã trở thành những đề tài bất tận cho thơ ca nhạc họa và nó cũng chính là cảm hứng để các nghệ sĩ làm câu đối, làm thơ khắc trong điện Thái Hòa. Hai câu thơ đầu của một bài thơ tứ tuyệt khắc trên điện Thái Hòa đã ví sông Hương đẹp như một dải Ngân Hà ở trên bầu trời. Núi Ngự Bình như một bức tranh chạm trổ tinh xảo với nhiều đường nét hài hòa của tự nhiên.

香 水 拖 銀 帶

屏 水 抗 綺 旒

Hương thủy đà ngân đái,

Bình Sơn kháng ỷ lưu.

(Bài thơ khắc trong điện Thái Hòa)

(Sông Hương như giải ngân hà,

Ngự Bình vai ngự án).

Cảnh đẹp hòa cùng sắc trời sẽ tạo nên một bức thêu làm bình phong tuyệt đẹp.

新 圍 湖 水 環 青 帶

三 面 雲 山 列 錦 屏

Tân vi hồ thủy hoàn thanh đới

Tam diện vân sơn liệt cẩm bình

(Câu đối dãy sau ngai vàng)

四 面 光 凝 瓊 闥 日 林 千 載 樹

九 霄 風 定 蘭 庭 香 滿 百 枝 花

Tứ diện quang ngưng quỳnh thát, nhật lâm thiên tải thụ,

Cửu tiêu phong định lan đình hương mãn bách chi hoa.

(Câu đối ở Triệu Tổ miếu)

Sắc trời, lòng người như hòa quyện vào nhau làm cảnh vật ở đây như sáng trong tươi đẹp hơn. Cung điện vàng son nguy nga lộng lẫy giữa Đại Nội cùng các công trình lớn nhỏ khác nhau rực sáng hơn lên giữa không gian tràn nắng gió hương hoa.

倚 院 新 梅 升 壁 百

從 簷 古 樹 入 階 青

Ỷ viện tân mai thăng bích bạc,

Tùng thiềm cổ thụ nhập giai thanh.

(Câu đối trước ngai vàng)

(Mai mới nở vươn mình trên tường trắng,

Cổ thụ xanh tỏa bóng theo hiên nhà).

Rõ ràng cung điện không chỉ đẹp bởi lầu son gác tía, không phải chỉ đẹp vì kiến trúc hài hòa và cách trang trí của nó mà còn đẹp bởi quang cảnh thiên nhiên, bởi cỏ cây hoa lá. Hoa lá làm cho cung điện sống động trong cảnh thanh bình chứ không buồn lắng của chốn thâm cung. Ở đây con người và thiên nhiên gần gũi, giao cảm.

牆 外 鶯 殽 喧 茂 椅

階 前 秀 石 點 鮮 苔

Tường ngoài oanh hào huyên mậu ỷ

Giai tiền tú thạch điểm tiên đài

(Câu đối trước ngai vàng).

(Ngoài tường lũ oanh huyên náo trong bụi rậm.

Trước thềm đá đẹp điểm màu rêu xanh).

岌 業 層 樓 照 景 仰

森 嚴 列 杖 壯 觀 瞻

Ngập nghiệp tằng lâu chiếu cảnh ngưỡng

Sâm nghiêm liệt trượng tráng quan chiêm

(Câu đối trước ngai vàng).

(Nghiệp cao chót vót người người ngắm.

Cung son hùng tráng vạn thế xem).

Tóm lại, hiểu được nội dung câu đối(1) ở Đại Nội Huế, phần nào chúng ta sẽ thấy được diện mạo văn hóa Huế trên một loại hình văn bản độc đáo.

Chú thích:

(1) Tất cả các câu đối và bài thơ sử dụng trong bài viết là do chúng tôi đi điền dã rồi phiên âm, dịch nghĩa./.

Tài liệu tham khảo:

1. Bản cục biên tập Bộ, Từ hải, Trung Hoa thư cục cổ phần hữu hạn công ty. Trung Hoa dân quốc tứ thập bát niên.

2. Phong Châu: Câu đối Việt Nam (in lần thứ 3), Nxb. KHXH, H. 1991.

3. Huỳnh Minh Đức: Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa, Nxb. Trẻ, 1994.

4. Hoàng Văn Hòe - Nguyễn Quang Tô: Minh Mệnh chính yếu, Tập 1, Sài Gòn, 1984.

5. Quốc sử quán, Đại Nam nhất thống chí, Bản dịch của Viện Sử học, Tập 1, Nxb. Hà Nội, H. 1969.

6. Mai Khắc Ứng: Lăng của Hoàng đế Minh Mạng, Hội sử học Việt Nam - Hội Sử học, Thừa Thiên - Huế, 1993./.

Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.660-670)

In
Lượt truy cập: