Nghiên cứu Hán Nôm >> Năm 2006
Lưu Đình Tăng
64. Về bài ca từ của bà chính phi Thịnh Mỹ

Cập nhật lúc 22h03, ngày 05/02/2009

VỀ BÀI CA TỪ CỦA BÀ CHÍNH PHI THỊNH MỸ

LƯU ĐÌNH TĂNG

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

 Chính phi Thịnh Mỹ là phi nhân của chúa Trịnh Doanh (1740 - 1767). Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760) do làm trái ý chúa nên bị đẩy vào lãnh cung. Khi ở trong nhà giam bà Chính phi ăn năn hối lỗi liền làm bài ca lục bát dài 72 câu và cả bài thơ thất ngôn bát cũ gửi lên Ân Vương Trịnh Doanh. Nhận được bài ca, chúa vô cùng cảm động trước thịnh tình của bà phi, bèn ban lệnh ân xá. Bài ca Nôm này được đời sau truyền tụng rất nhiều, do vậy đã được chép vào sách Kim văn loại tụ. Hiện nay vẫn còn một bản chép lưu giữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.1059. Nhận thấy đây là tư liệu qúy giá, nên chúng tôi xin phiên âm, chú giải và giới thiệu trong Hội nghị thông báo Hán Nôm năm 2007 này.

Toàn văn như sau:

 

Trời cao muôn trượng thẳm xa,

Quảng Hàn nỡ để Hằng Nga lạnh lùng.

Tường nguồn cơn khéo chạnh lòng

Trách duyên, dám trách cửu trùng thắm phai.

5.

Hổ tôi kém sắc thua tài

 

Bao dung muôn đội lượng trời ấm che.

 

Xét mình bồ liễu le te

 

Dám rằng cù mộc dám khoe hảo cầu.

 

Phận thường mọn mảy nữ lưu

10

Muôn trông xét biết ái ưu ghi lòng.

 

Sách vàng rỡ rỡ hiển phong

 

Những lo xứng chỉ, lấy ân báo đền.

 

Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên

 

Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi.

15.

Non nhân bể đức bằng trời

 

Muôn phần báo đáp chớ vời một ly.

 

Trộm xem trên cả nhân nghì

 

Vậy nên ai nấy bấc chì mỉa mai.

 

Tay bưng sao khắp miệng ai

20.

Nắng mưa cũng tiếng bẻ bai lọ là.

 

Thấy chiều nhạt nguyệt thắm hoa

 

Thừa cơ dễ khiến gièm pha nhiều điều

 

Nghĩ rằng đức Thuấn nhân Nghiêu

 

Hán Đường dù có đam phiêu vầy vò.

25.

Chắc rằng sông núi hẹn hò

 

Hay đâu bể ái nhỏ dò cũng hao.

 

Đành thôi há dám rằng sao

 

Canh chầy võ võ lầu cao nguyệt tà.

 

Tưởng phen cầm sắt khúc hòa

30.

Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai.

 

Bây giờ tin diễn vãng lai

 

Cửa ngăn dì gió, nguyệt cài then sương.

 

Tưởng khi đầm ấm thiên hương

 

Ngõ bề một nghĩa để gương muôn đời.

35.

Bây giờ gần bến xa rời

 

Một lòng khôn ngỏ, nhiều lời nể nang.

 

Tưởng khi lạm sánh ngôi vàng

 

Ngàn cân dễ chuốc được trường mộng xuân.

 

Bây giờ hiểm nữa ải Tần

40.

Một bề trực phận mấy lần khôn thâu.

 

Tưởng phen ngỡ buổi rối sầu

 

Ngu trung dễ biết đến mầu thiên cơ.

 

Cớ chi nên nỗi sinh sơ

 

Bâng khuâng chí ước, ngẩn ngơ dạ nguyền.

45.

Ví còn quế dặng non Yên

 

Thời chi đến nỗi truân chiên dường này.

 

Nhắn rằng cất giận làm khuây

 

Buồn xem Vu Nữ nước mây thêm ngờ.

 

Lắm phen cơn trận vang lừng

50.

Bồ hòn đắng chát thì từng lại cay.

 

Nào khi ngự giá bình Tây

 

Thành cao chẳng ngại gió lay sương hàn.

 

Rày sao mình biếng ngôi càn

 

Tấc gang cánh nỡ mấy ngàn non tây.

55.

Bỗng lâu vả tiếng một ngày

 

Nỡ cho kẻ mọn kết bày dao ca.

 

Quản bao phận tiện dã hoa

 

Nỡ trong thể thống quốc gia dường nào.

 

Dám xin tài đoán thẳm cao

60.

Quyền cương chưa thể mấy trao kẻ ngoài.

 

Vững phù mạch nước lâu dài

 

Dẫu sao thì cũng là người nhà Vương.

 

Nghĩ đà trọm dự tao khang

 

Trị bình cũng lấy tam cương làm đầu.

65.

Ngập ngừng kể bõ xiết đâu

 

Bút hoa mấy chữ, lệ châu đôi hàng.

 

Cản lòng gửi trước nhà vàng

 

Cậy gương nhật nguyệt rỡ ràng chiếu lâm.

 

Nghìn năm khắc cốt minh tâm

70.

Kẻo buồn nỗi chữ tình thâm thế cười.

 

Nền vương nghiệp rạng giữa trời

 

Hạnh nhờ hồng phúc đồng đời lâu xa.

 

Thơ rằng:

 

Mọn mảy muôn trông đức cửu trùng

 

Trời cao đất rộng kể khôn cùng

 

Trâm gieo bệ ngọc còn e lệ

 

Hương tỏa phong tiêu luống ngại ngùng

 

Điểm tuyết chưa đền ơn Thượng Thánh

 

Dứt tơ chỉn cậy đức Thiên công

 

Khôn riêng ước giãi niềm trung ái

 

Ngõ vẹn xưa sau đạo thuận tòng.

Chú thích:

(Số hiệu trong mục chú thích, chúng tôi tính theo số thứ tự của câu thơ lục bát).

4. Cửu trùng: chỉ vào ngôi chúa.

8. Hảo cầu: xứng đôi vừa lứa.

11. Hiển phong: phong thưởng rõ ràng.

12. Xứng chỉ: phù hợp với ý chỉ của chúa.

13. Kỳ ngộ thiên duyên: duyên trời khéo xe cho được gặp gỡ.

18. Bấc chì mỉa mai: tiếng bấc tiếng chì chê bai.

23. Thuấn Nghiêu: tên hai vị vua thời cổ đại của Trung Quốc, nổi tiếng nhân nghĩa.

24. Hán Đường: chỉ vào Hán Vũ đế và Đường Thái Tông, hai ông vua lập nhiều võ công mà cũng rất đa tình.

31. Tin diễn: tin tức xa xôi.

39. Hiểm nữa ải Tần: hiểm trở hơn quan ải Hàn Cốc của nhà Tần.

45. Non Yên: tức YênSơn, nơi hiển đạt của danh nhân Đậu Quế.

48. Vũ nữ: thần nữ núi Vu Sơn ở nước Sở, nổi tiếng phong tình.

51. Bình Tây: đánh dẹp miền Tây, ý nói chúa Trịnh đem quân đi đánh Lê Duy Mật ở Thanh Hóa và đánh Hoàng Công Chất ở Hưng Hóa.

53. Ngôi càn: ngôi chúa.

56. Dao ca: câu ca đồng dao.

57. Phận diện dã hoa: hoa cỏ, hèn hạ.

60. Nấy trao: trao cho, giao cho.

67. Nhà vàng: nhà chúa.

68. Chiếu lâm: soi xét đến.

72. Hạnh: may mắn./.

Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.648-652)

In
Lượt truy cập: