LỜI BÀN VỀ THÁI HẬU Ỷ LAN QUA BIỂN GỖ ĐỀN PHÚ THỊ NGUYỄN ĐỨC TOÀN Viện Nghiên cứu Hán Nôm Đền Phú Thị nằm trong một quần thể di tích bao gồm Đình - Đền - Chùa thuộc địa bàn phường Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đất Phú Thị còn có tên gọi Nôm là làng Sủi, nên đình - đền - chùa cũng còn được gọi gắn với tên địa danh ấy, đền Sủi, chùa Sủi. Tương truyền, chùa Sủi có tên chữ là Đại Dương Thiền tự 大楊禪寺 do Thái hậu Ỷ Lan cho xây dựng từ thời Lý, hiện trên văn bia tại chùa vẫn còn nhắc đến. Theo chính sử ghi, Thái hậu rất sùng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền, mà cũng tục truyền Thái hậu do ân hận về việc giết hại Dương thái hậu nên cho xây chùa để sám hối: “Quý Sửu, /Thái Ninh/ năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông. Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ 5), … Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).” Nhưng nội dung tấm biển gỗ treo tại đền Sủi, có niên đại năm Nhâm Thân niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (1932), do Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn, căn cứ đối chiếu với tư liệu thần tích tại đền lúc đó lại có lời bàn tương đối độc lập so với lời “tục truyền” trong chính sử. Chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn, phiên âm và thêm tư liệu để hiểu dịch tấm biển này, mong cung cấp thêm nguồn tư liệu tại địa phương về Thái hậu Ỷ Lan, góp phần gợi hé về vụ án cung Thượng Dương cách đây gần 10 thế kỷ. Nguyên văn chữ Hán: 奉案倚蘭黎夫人好逑李帝璜瑀凝禧誕毓仁皇光華復旦其發祥為有自矣俗所傳魚骨女裝鳳鞋宮選不經甚矣以史考之征占監國功懋丹庭贖貧嫁鰥春生白屋國民頌之曰觀音女妃后中鮮有其儔矣惟上陽宮一案為盛累史又以為夫人後回悔故多修福造寺以懺之鉄案也然考之御案正編楊妃非嫡辯之以詳又參之神跡所載者夫人幼有日者謂他日大貴但不免十八年限障耳果而蘭倚野叢桑垂雲蓋天作之合矣當此桂腋承恩椒房擅寵以常情論楊未必不之妒及皇儲尚晚帝意耽憂聖主祈神觀音送子而彼此益以相形假作有身陰謀奪子浸潤献讒幽囚其母想楊為之而宮人党之也十八載冷宮孤燈隻影念佛誦經長門之苦何況可思以辰並宋人記者曾比之包公劉李案也幸而震宮日出旱魃仁事親不足於孝欤主上倣桑林而自責回天可有其機矣宮人提故事以升聞幽宮促駕膏雨隨車感應之機不爽而白頭雙鬂紅痴兩肩母猶得以相見宜帝之恨之深而刑之濫也夫又從而寬解之真所謂觀音女也然則宮裡幽戕山陵逼殉或楊自作之孽耶非然者但以預正而妒之則仁之仁何至於殺又何至於七十六人之繁有徒哉據此所言與史大異而情理頗近未可以稗剩略之也但記者文用國音又無表志不知何所據而云然辛未冬偶遊祠瞻拜畢閱神跡題詩二首文家之常套耳寺僧者曰是詩也無論工拙破千古之疑案發潛德之幽光可以備一說請勒之于祠故引 其一 睿哲君臨號聖皇 宮中底事自蒼黃 南征幾度無纖芥 內治當初驗採桑 十八年間消愛障 廿餘寺所發神光 只應慧果風陳鍊 到得生修證佛堂 其二 休將底事恨君王 幾載長門德愈彰 雲罩桑田天作合 福凝椒腋日重光 自然旱魃仁商后 何必包公假玉皇 他日蓮花成佛果 甘醍遍洒一枝楊 安山舉人黃叔會拜題 保大壬申秋本寺住持僧阮惟進敬書恭鐫 Dịch nghĩa: Phụng án rằng: Ỷ Lan phu nhân họ Lê(1) phối duyên với vua Lý (Thánh Tông), như ngọc hoàng, ngọc vũ(2) ngưng kết điềm lành, sinh ra vua (Lý) Nhân Tông, quang hoa rực rỡ(3), triệu phát cát tường đã sẵn rõ. Nghe tục truyền rằng, phu nhân là người đẹp, được vẻ nữ trang ngư cốt, duyên gót phượng vào cung(4), không phải qua tuyển chọn khắt khe. Khảo xét trong chính sử thì các việc khi vua Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành, bà làm Giám quốc, công lớn khắp triều. (Giúp) chuộc kẻ nghèo hèn, (dựng) vợ cho người cô độc(5), khiến những nhà nghèo khó cũng được vui vẻ làm ăn(6), người dân trong nước ca tụng là Phật Quan âm(7). Trong đám cung phi, hoàng hậu ít người sánh kịp. Duy có một vụ án cung Thượng Dương là gây tiếng lụy lớn(8). Sử sách lại cho rằng Phu nhân về sau hối hận vì cái án ấy mà làm nhiều điều phúc, xây dựng chùa chiền để tự sám hối(9), thành ra cái án sắt như vậy. Nhưng mà, khảo trong Ngự án chính biên(10) thì Dương phi không phải là mẹ đích (của Nhân Tông), lời biện luận thế là đã rõ ràng. Lại tham khảo ở ghi chép trong Thần tích(11), thì thấy (có đoạn): Phu nhân khi còn nhỏ có nói: “(Ta) ngày sau ắt sẽ đại quý, chỉ hiềm không tránh được ách hạn 18 năm thôi”. Quả nhiên, nơi ruộng bãi dựa gốc lan, lá dâu vầng mây rủ lọng(12), đúng là duyên trời sắp đặt vậy. Đương lúc ấy, gội ơn vua quế dịch ân nồng, nơi tiêu phòng chuyên lòng sủng ái(13). Lấy tình thường mà luận, họ Dương kia chưa chắc đã không đem lòng đố kỵ. Đến như (lúc ấy) ngôi hoàng thái tử còn đương muộn màng(14), nên lòng vua càng thêm say đắm. Thánh quân (làm lễ) cầu khấn Phật Quan âm ban con cho, mà đây kia lại thêm lấy vẻ tướng hình bên ngoài(15) giả tác là có mang, âm mưu đoạt con, ngấm ngầm sàm tấu để giam cầm người mẹ. Thiết tưởng, ấy là do họ Dương kia làm nên mà bọn cung nhân thì hùa theo bè đảng. Suốt 18 năm trời nơi lãnh cung, đèn côi bóng chiếc, niệm phật tụng kinh, chịu cái khổ như ở cung Trường Môn(16). Huống chi lại còn xét với việc thời bấy giờ của người Tống ghi, từng so ví (việc ấy) với án Lưu - Lý của Bao Công vậy(17). May thay, cung Chấn vầng dương(18) hiện, hạn hán tai ương cũng liên quan đến việc người(19). Phải chăng kẻ làm con thờ cha mẹ mà không đủ hiếu chăng ! Chúa thượng tự lui về chốn ruộng dâu để tự trách(20), mong có cơ mà vãn hồi ý trời. Gặp được cung nhân nhắc lại chuyện cũ, chốn u cung thúc giá tìm đến, mưa ngọt theo xe tưới nhuần, cái cơ cảm ứng thật nhạy bén. Người mẹ gặp được con mà đầu bạc hai búi, bệnh gánh hai vai(21). Vậy nên lòng hận của vua thật là sâu mà dẫn đến việc gia hình quá lạm vậy. Phu nhân lại thuận theo mà khuyên giải khoan dung(22), thật đáng gọi là Phật Quan âm vậy. Nhưng còn chuyện thâm cung giam cấm, bức tuẫn táng chốn sơn lăng, ấy hoặc là do họ Dương kia tự gây nên mầm nghiệt họa chăng! (Chứ) không phải như vậy, thì chỉ lấy việc ghen ghét không được tham dự chính sự, thì người nhân đức, đâu đến nỗi tàn sát, lại liên lụy tai vạ động đến tận 76 cung nhân ư(23) ! Cứ theo lời nói ở đây so với chính sử thì khác xa mà cả tình cả lý lại có vẻ hợp, chứ không thể coi đấy là những điều dư thừa hỗn tạp của văn chương(24) mà bỏ, lược thuật qua loa được. Nhưng những điều ghi chép đây, lại dùng văn Quốc âm, lại không có chép biểu tấu gì, thì căn cứ vào đâu mà nói. Mùa đông năm Tân Mùi (1931), (ta) ngẫu nhiên đến thăm đền, làm lễ chiêm bái xong, duyệt xem thần tích, liền đề hai bài thơ, ấy cũng là cái thói thường của kẻ văn gia thôi. Vị sư trụ trì chùa nói: thơ này, không luận bàn về cái khéo cái dở, mà là chỗ phá tan được nghi án của muôn đời, khiến đức ngầm mở phát hào quang, có thể là đầy đủ để làm một lời thuyết giải, xin được khắc lại ở đền. Thế nên làm bài dẫn (này). Bài 1 Duệ triết giúp vua thành bậc chúa sáng, Nhưng việc nhỏ trong cung lại phải tự bôn ba. Nhà vua mấy lần đi đánh phương Nam thì không có một họa nhỏ nào, Việc nội trị trong nước vẫn giữ được như cũ, nghiệm như việc hái dâu. Mười tám năm(25) trời tiêu tan hết khổ hạn, Hơn hai mươi nơi chùa viện(26) còn sáng tỏ ánh thần quang. Chỉ vì tuệ quả được đào luyện với phong trần, Nên sống mới tu chứng thành được trước phật đường. (Khoan dung đỡ chúa bậc thánh minh, Trong cung gây hấn chịu một mình. Nam chinh mấy độ không tai họa, Nội trị yên bình nghiệm dâu xanh. Mười tám năm trời tiêu khổ hạn, Hai mươi chùa viện rạng quang minh. Phong trần đào luyện nên tuệ quả, Phật đường đắc đạo chứng tu thành.) Bài 2 Chớ vì việc nhỏ mọn mà oán trách bậc quân vương, Mấy năm trời chịu khổ như cung Trường Môn, đức lại càng tỏ rạng. Mây che phủ khắp ruộng dâu, thực là duyên do trời tác hợp, Phúc lành ngưng kết, lại có ngày hiện ánh trùng quang. Tự nhiên hạn hán báo điềm nhân như việc vua nhà Thương,(27) Đâu cần đến Bao Công phải giả làm Ngọc hoàng.(28) Ngày sau hoa sen nở thành Phật quả, Nước ngọt cam đề một nhành dương vẩy khắp.(29) (Việc chi nhỏ mọn hận quân vương, Trường Môn chịu khổ đức càng dương. Mây lành che phủ duyên trời dựng, Ngưng kết trùng quang phúc cát tường. Hạn báo điềm nhân Thương hậu cũ, Bao công chi bận giả Ngọc hoàng. Ngày sau sen nở nên quả phật, Cam đề nước ngọt một nhành dương). Cử nhân Hoàng Thúc Hội, hiệu Yên Sơn bái đề.(30) Mùa thu năm Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại (1932), trụ trì bản tự là Nguyễn Duy Tiến kính chép và khắc. Chú thích: 5 “Lại phát tiền kho nội phủ chuộc những gái nghèo đã bị cầm đợ mà gả cho người không có vợ” (KĐVSTGCM, Chính biên, quyển 3). 8 “Đường thư: Cung Thượng Dương được xây cất giữa niên hiệu Thượng Nguyên đời vua Đường Túc Tông. Vua Đường Cao Tông ở cung ấy, để dự thính triều chính”. Do đó, triều nhà Lý lấy chữ "Thượng Dương" đặt tên cho cái cung của bà Thái hậu ở, Thái hậu ở trong, buông rèm kín cùng xử lý việc nước, vì Thái hậu ở cung ấy nên gọi là Thái hậu Thượng Dương”(Ngự chế Việt sử tổng vịnh). 9 “Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và 36 cung nhân, Bấy giờ vua không có con trai, cho nên lập nhiều hoàng hậu và cung nhân, làm đàn chạy để cầu tự. Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan) (Sđd). 14 “Quý Mão, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 5 [1063], (Tống Gia Hựu năm thứ 8). Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông” (Sđd). 23 Quý Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên. Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.(Sđd); Thần tích chép là 72 người.(Sđd).
|