Nghiên cứu Hán Nôm >> Năm 2008
Nguyễn Ngọc Nhuận - Nguyễn Văn Lãng
67. Bài văn tế Mai Anh Tuấn của Thượng thư kinh lược Bắc Kỳ Nguyễn Đăng Giai (TBHN 2008)

Cập nhật lúc 23h08, ngày 24/11/2010


BÀI VĂN TẾ MAI ANH TUẤN CỦA

THƯỢNG THƯ KINH LƯỢC BẮC KỲ NGUYỄN ĐĂNG GIAI

NGUYỄN VĂN LÃNG - NGUYỄN NGỌC NHUẬN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Thám hoa Mai Anh Tuấn, tên tự là Lương Phu, người huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Tổ 8 đời là Mai Thế Châu, vào thời Lê Trung hưng đã lấy nghề võ khởi nghiệp, được bổ làm Phụ quốc công thần Toàn Quận công, từ đó trở về sau đời đời có công lao với nước nhà. Đến tổ 4 đời của ông là Mai Thế Chuẩn đỗ Tiến sĩ cập đệ đời Vĩnh Khánh (1729 - 1732) làm Binh bộ Thị lang tước Hương Lĩnh hầu. Thân phụ ông là Mai Thế Trinh, tránh loạn ẩn cư nuôi dưỡng chí khí, đến đầu triều Gia Long ra ứng tuyển được bổ Tri huyện Thanh Trì, có tập thơ “Mông trai” truyền bá ở đời.

Mai Anh Tuấn lúc nhỏ học hành thông minh, cường ký, đến 20 tuổi nổi tiếng về văn chương. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) ông đi thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa). Mai Anh Tuấn khi trước tên là Mai Thế Tuấn, tới lúc đỗ, nhà vua mừng tuyển chọn được người tài nên ban cho tên là: Mai Anh Tuấn, và ban cho một bài thơ để tỏ lòng yêu mến. Lúc đầu Mai Anh Tuấn được bổ Hàn lâm viện Trước tác, sung Nội các bí thư sở, rồi đổi Thị độc học sĩ sung biên công việc tòa Nội các.

Có lần ông dâng sớ lên vua tâu về việc cần quan tâm tới binh sĩ ở vùng biên giới Lạng Sơn, cần phải động viên họ giết giặc giữ yên bờ cõi. Tờ sớ tâu vào, vua giao xuống Bộ Lại bàn tội, các đại thần liên tiếp dâng sớ xin khoan tha. Vua bèn trách nhẹ rồi cho ra làm Án sát sứ ở Lạng Sơn. Bấy giờ thế giặc đang bành trướng, mọi người phần nhiều cho là nguy hiểm, nhưng ông hăng hái nhận mệnh vua lên vùng biên ải nhậm chức. Mới hơn một tháng ông đã dẫn quân đánh thắng được giặc ở Hữu Khánh, được vua xuống chỉ khen ngợi. Nhân đó ông lại dâng sớ xin “Thư sức dân, rèn tập thổ dõng, ngầm bài xích thế giặc”.

Có lần giặc Tam Đường bên Trung Quốc 3000 tên tràn sang biên giới nước ta cướp phá. Ông cùng Chưởng vệ Nguyễn Đạt đem quân đánh đuổi giặc đến Yên Bắc, nhưng vì thế giặc mạnh, quân đông gấp bội nên Mai Anh Tuấn đã hi sinh trước trận tiền. Bấy giờ là ngày 06 tháng 02 năm Tự Đức thứ 8 (1855). Nhà vua nghe tin rất cảm động thương xót truy tặng ông làm Hàn lâm viện trực học sĩ, cho đưa linh cữu về an táng tại Thịnh Hào (nay thuộc Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội).

Mai Anh Tuấn là một sỹ phu có khí phách, đối với kẻ dưới hòa nhã, thờ vua lấy điều trung can ngăn, khi lâm sự giữ được điều nghĩa. Sau khi hy sinh được các sĩ phu trong nước tưởng nhớ, thương xót, mà tỉnh thành Lạng Sơn thời đó đã dựng đền thờ (theo Đại Nam chính biên liệt truyện).

Bài văn tế dưới đây do Tổng đốc Kinh lược Bắc kỳ Nguyễn Văn Giai viết nhằm ca ngợi tinh thần vì nghĩa mà hy sinh thân mình, dẹp giặc lập công của Thám hoa Mai Anh Tuấn. Bài văn tế được chép trong cuốn Lạng trình kỷ thực, sách mang ký hiệu VHv.1422 hiện lưu giữ trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sau đây là toàn văn bài văn tế được phiên âm dịch nghĩa.

Phiên âm:TẾ VĂN

Ô hô! Anh hùng bất khả dĩ thành bại luân nhi bất khả dĩ tử sinh kê. Duy hiếu, trung nghĩa dũng túc dĩ đương chi. Thống duy Lạng Sơn niết đài Mai công, khiêm khiêm chi tiết; khiển khiển chi phong. Khôi giáp đỉnh khoa; Đương danh hiển thân, hiếu dã. Nội các kháng sớ, mạo xúc kỵ huý, trung dã. Phó chánh tướng chi nan, lâm tử địa nhi bất tỵ, nghĩa dã. Tiến sĩ tốt chi hoạn, nhu cường địch nhi bất uý dã, hữu thử tứ giả, nhi tử hà hám dã. Sở khả tích giả, công chi khích liệt khí thắng địch khái. Phàm sinh bất vi Hoài Dương Cấp Trưởng Nhụ, bất vi Giang đô Đổng đại nho, bất vi Triều Châu Hàn Xương Lê, Bất vi Nhai Châu Khấu Lai công, Hà nãi cảm vi Giả phó tử ư nhất chức, như thử hồ? Thử ngã thâm vi triều đình tích chi, vi thiên hạ sĩ phu tích chi, bất độc vị công tích chi dã. Ô! Tây phong phiêu phiêu, bắc tái liêu liêu. Biên manh hữu cảnh, cuồng khấu tuyên kiêu. Cô quân trực đảo dĩ phó đồng liêu. Nhất tử báo quốc, bất cập sùng triều. Hiếu trung nghĩa dũng, vạn cổ cao tiêu. Tri vi bất tri, hận tích nan tiêu, thấu ngã tâm tri vân, hà trướng trù, Viên nhất ngữ dĩ khấp điếu, ký công chi đại tiết ư thử hồ, chiêu chiêu dã dư. Ô hô ! Thống tai !

Dịch nghĩa: Bài văn tế (Thám hoa Mai Anh Tuấn)

Than ôi! Anh hùng không thể lấy sự thành bại mà bàn; cũng không thể việc sống chết mà kể. Duy có hiếu, trung, nghĩa, dũng đủ để đảm đương đấy.

Đau đớn thay! Ông họ Mai là quan Án sát tỉnh Lạng Sơn. Là người khí tiết khiêm nhường, phong thái cẩn trọng. Khôi giáp đỗ đầu khoa, nổi danh, rạng rỡ người thân, đó là hiếu vậy; ở Nội các làm sớ kháng, xúc phạm kỵ huý, đó là trung vậy. Đi làm chánh tướng là khó, vào đất chết mà chẳng trách, đó là nghĩa vậy. Đi trước quân sĩ trong hoạn nạn đánh nát kẻ địch mạnh mà không sợ, đó là dũng vậy. Có bốn điều ấy mà chết, đâu có gì phải hận cảm vậy. Điều đáng tiếc, là cái chí khí kích liệt; tâm khái thắng địch của ông. Sống, không làm Cấp Trường Nhụ ở Hoài Dương, không làm Đổng Đại Nho ở Giang Đô, không làm Hàn Xương Lê ở Triều Châu, không làm Khấu Lai Công ở Nhai Châu. Sao lại cam làm Giả Phó chết tại một chức vậy! Đó là kẻ bày tôi nặng lòng vì triều đình mà tiếc đấy; vì sĩ phu trong thiên hạ mà tiếc đấy; chẳng riêng vì ông mà tiếc vậy.

Ôi ! Gió tây ù ù, ải Bắc u u. Dân vùng biên có biến động; giặc cuồng dông kiêu căng. Quân đơn đánh thẳng, để đến với đồng liêu. Đem cái chết để báo đền Tổ quốc, chẳng kịp tâu với triều đình. Hiếu, trung, nghĩa, dũng; muôn thuở nêu cao. Biết cùng không biết; hận tiếc khôn nguôi. Riêng lòng tôi biết; sao mà chằn chọc. Bèn bằng một lời để khóc viếng nhau. Mong ông như bậc khí tiết lớn, nơi đây soi xét cho tôi.

Than ôi! đau đớn lắm thay!

Thông báo Hán Nôm học 2008; tr. 772-775

In
Lượt truy cập: