Ý NGHĨA CÂU ĐỐI Ở MỘT SỐ DÒNG HỌ TIÊN CÔNGHUYỆN YÊN HƯƠNG TỈNH QUẢNG NINHViện Nghiên cứu Hán NômCâu đối thường gặp ở các di tích văn hoá tôn giáo trong cả nước, và còn tồn tại trong các đình và nhà thờ của dòng họ. Câu đối ở chùa thường nói về giáo lý Phật giáo, câu đối ở đình đền thì ca công tụng đức của các vị thần được tôn thờ, câu đối ở gia đình và các dòng họ thì thường là những lời hay ý đẹp khuyên con cháu hiếu, đễ, trung tín, nhớ ơn ông bà tổ tiên. Câu đối ở một số dòng họ Tiên công của huyện Yên Hưng ngoài cái chung ra còn có đặc điểm riêng như: 1. Nói rõ công cuộc việc khai hoang lấn biến và sự đoàn kết thuỷ chung của các dòng họ Tiên Công Tiên Công là tên gọi chung cho các cụ tổ các dòng họ khai hoang lấn biển ở vùng đất Hà Nam, Yên Hưng; Miếu Tiên Công thờ chung 17 cụ tổ các dòng họ ấy, tại đây có câu đối: 能力堅強埠堤御水懇荒揚名今古 奇功偉大桑海成田耕作建業子孫 Năng lực kiên cường phụ đê ngự thuỷ khẩn hoang dương danh kim cổ Kỳ công vĩ đại tang hải thành điền canh tác kiến nghiệp tử tôn Tạm dịch: Năng lực kiên cường đắp đê ngăn nước khai hoang mở đất nổi danh kim cổKỳ công vĩ đại thay chua rửa mặn canh tác cấy trồng khởi nghiệp cháu con Nhà thờ họ Vũ thôn Cung Đường xã Phong Cốc có câu đối: 築海成田神弟一 箕裘克紹止戈祠 Trúc hải thành điền thần đệ nhất Cơ cầu khắc thiệu chỉ qua từ Tạm dịch: Ngăn biển thành ruộng đồng tổ thần là số mộtNoi theo nghiệp ông cha từ đường họ Vũ này Nhà thờ họ Nguyễn xóm Cung Đường xã Phong Cốc có câu đối: 開耕廟烈三公祖 翌保朝封四社神 Khai canh miếu liệt tam công tổ Dực bảo triều phong tứ xã thần Tạm dịch: Dực bảo trung hưng phong làm bốn xã thần Nhà thờ họ Đào xã Lưu Khê có câu đối: 開耕功神流後世 祠堂陶族創前人 Khai canh công thần lưu hậu thế Từ đường Đào tộc sáng tiền nhân Tạm dịch: Mở đất khai hoang công lao tổ thần lưu hậu thế Nhà thờ họ Đào khai sáng xây dựng tự người xưa 2. Nhớ về cội nguồn nơi phát tích: Nhà thờ họ Nguyễn xóm Cung Đường xã Phong Cốc có câu đối: 龍成夢應光先世 蝸井聲聞啟後人 Long Thành mộng ứng quang tiên thế Oa tỉnh thanh văn khải hậu nhân Tạm dịch: Long Thành ứng mộng vẻ vang tiên tổ Giếng Ếch âm vang khởi nghiệp đời sau. Truyền thuyết nói rằng thời Lê Thánh Tông một số dòng họ Vũ, Nguyễn, Hoàng, Đào... từ Thăng Long nghe chỉ dụ khuyến nông của Lê Thánh Tông, họ đã từ Thăng Long (Ba Đình, Kim Liên, Giáp Nhất, Giáp Nhị...) đi đến vùng biển Yên Hưng quai đê ngăn mặn để trồng cấy và đánh cá. Khi họ đặt chân đến đây không hề có nước ngọt. Ban đêm đang lúc đói khát họ nghe thấy tiếng ếch kêu bèn đoán biết nơi ấy có nước ngọt. Họ lần mò đến nơi, quả nơi ấy có cái giếng khá rộng, chứa nhiều nước ngọt. Nhờ nước ngọt của giếng mà các cụ Tiên Công đã sống và trụ lại trên đất này để khai canh mở đất. Giếng ấy sau gọi là Oa Tỉnh, hiện nay vẫn còn. Nhà thờ họ Vũ thôn Cung Đường xã Phong Cốc cũng có câu đối: 龍城舊址三兄弟 東海開耕二萼花 Long Thành cựu chỉ tam huynh đệ Đông Hải khai canh nhị ngạc hoa Tạm dịch: Đông Hải khai canh chú với anh Các cụ dòng họ Vũ ở đây vẫn còn gia phả. Trong đó nói việc ba anh em từ Thăng Long xuống lấn biển khai canh ở vùng đất Hà Nam huyện Yên Hưng. Sau khi đã gây dựng được cơ nghiệp, cuộc sống ổn định thì người anh lại phải trở về quê cũ là làng Kim Liên của Thăng Long để chăm lo thờ cúng tổ tiên, gìn giữ mảnh đất của ông cha để lại. Kết luận: Qua câu đối, gia phả, văn bia và truyền thuyết ta thấy người dân Thăng Long từ rất xa xưa đã hưởng ứng những cuộc vận động khai hoang lập ấp, quai đê lấn biển của triều đình. Đặc biệt là thời Lê Thánh Tông cùng với việc mở mang bờ cõi vị vua anh minh sáng suốt này đã có chính sách khai hoang di dân rất tài tình. Điều này thấy rõ ở việc quai đê lấn biến ở huyện Yên Khánh và Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Con đê to lớn này chạy từ biển vòng qua hai huyện đến tận dẫy núi Tam Điệp. Hiện nay vẫn gọi con đê này là đê Hồng Đức. Điều này còn chứng tỏ qua gia phả dòng họ Nguyễn ở Quảng Bình nói về việc các quan đã vâng theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông đưa con cháu dòng họ của mình vào khai phá vùng đất mới ở đây. Điều này chứng tỏ ở việc các dòng họ Vũ, Nguyễn, Hoàng, Đào, Đàm... ở Thăng Long, Bắc Ninh, Hà Nam đã nghe theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông để đi đến vùng biển xa xôi ở Yên Quảng, không có nước ngọt để khai hoang lấn biển lập nên các làng xóm trù phú hôm nay. Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.169-173
|