VĂN BIA THIÊN Y TIÊN NỮ TRUYỆN KÝ CỦA PHAN THANH GIẢN ĐỖ VĂN KHOÁI (Trung tâm QLDT - DL Khánh Hòa) TRẦN VĂN HỮU (Đại học Khoa học Huế) Tại khu di tích quốc gia Tháp Bà PoNaGar thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa còn 02 tấm bia chữ Hán, khắc dựng vào thời Tự Đức. Một bia được Phan Thanh Giản soạn vào năm Tự Đức thứ 9 (1856), có tiêu đề là Thiên Y Tiên nữ truyện ký 天依僊女傳記. Một bia dựng vào năm Tự Đức thứ 12 (1859), không có tiêu đề, phía dưới đồng khắc tên tập thể tám vị quan chức đầu tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận là các quan Bố chánh sứ, Tuần vũ, Án sát sứ, Hàn lâm viện thị độc sung Điển nông xứ, Đốc học… khi du lãm nơi Tháp Bà nhân đọc văn bia của Phan Thanh Giản, lại thấy cảnh trí sơn thủy hữu tình mà cao hứng đề vịnh. Về văn bia Thiên Y Tiên nữ truyện ký của Phan Thanh Giản, cũng được nhắc đến trong tập Bi ký tạp biên 碑記雜編, (ký hiệu VHv.278), Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nội dung của văn bia viết về truyền thuyết Thiên Y A Na, một trong những vị thần được cư dân trong vùng xem như là thánh mẫu. Truyền thuyết Thiên Y A Na trong bia của Phan Thanh Giản có nội dung tương tự như truyền thuyết về Thiên Y A Na trong sách Đại Nam nhất thống chí, tập III, phần nói về tỉnh Khánh Hòa - Quốc sử quán triều Nguyễn. Cũng tại khu di tích này còn có một tấm bia do cụ Quách Tấn soạn bằng bằng tiếng Việt lược dịch sự tích Thiên Y A Na trong bia của Phan Thanh Giản và được dựng kế bên để phục vụ du khách tham quan. Tuy nhiên, qua tìm hiểu chúng tôi thấy, trong sách Đại Nam nhất thống chí cũng như văn bia dịch tiếng Việt dựng tại di tích do mục đích riêng của người biên soạn, nên các tác giả chỉ biên chép về sự tích của Thiên Y A Na. Trong khi đó, tại văn bia của Phan Thanh Giản, ngoài truyền thuyết rất kỳ thú của Bà được tác giả để ở phần giữa của văn bia, còn có phần mở đầu và phần kết luận với nội dung là những ý tứ riêng của Phan Thanh Giản về những sự lạ ở đời và những lời ta thán đức thánh mẫu Thiên Y. Xét thấy nội dung văn bia Thiên Y Tiên nữ truyện ký của Phan Thanh Giản có những giá trị nhất định, nên chúng chúng tôi tuyển chọn toàn văn và giới thiệu trong Thông báo Hán Nôm học năm 2011. Dịch nghĩa: Bài ký truyện tiên nữ Thiên Y Phàm trong thiên hạ, đời càng xưa thì sự việc càng ly kỳ, đất càng rộng thì sự tích càng lạ lùng, cốt yếu là có bậc cứu nhân độ thế, thời phải ghi vào sách vở mà không được bỏ đi vậy. Như Quán Thế Âm của Lạc Già, Lâm Thiên Hậu của Việt Dương, chuyện chẳng phải chẳng kỳ sao, tích chẳng phải chẳng lạ sao? Mà thường thường thấy chuyện đó được ghi chép trong sách vở. Tỉnh Nam Định có chúa Liễu Hạnh giáng thai và các việc thần quái nơi thôn quê còn nói đến. Rực rỡ miền Nam Trung phong khí rất dày dặn, tốt tươi, rất sâu xa, cùng đối với cõi Mân Việt ở phương Bắc mỗi nơi trị riêng một cõi. Phương Nam giáo hóa chưa yên định, xe pháo chưa được chu cấp. Thời đó, nước nhỏ dân ít mà đức lành đồn xa, bữa ăn đạm bạc mà hòa mục thịnh trị, thần linh thường giáng hạ chốn thôn quê. Có thể chứng rằng Phương trượng Bồng Lai với nhân gian không xa vậy. Nghe chuyện chúa Thiên Y thuở xưa mà hận không có sách để khảo cứu. Nhân kinh lược qua tỉnh Khánh Hòa, hỏi thăm các bô lão, còn có người kể lại và tìm được sách ghi chép việc cũ ở vùng quê, tuy ít ỏi nhưng có đầu mối, những lời đó đều nói rằng Thiên Y là tiên nữ vậy. Xưa bà giáng linh ở núi Đại An(3), nay thuộc xã Đại An, tỉnh Khánh Hòa vậy. Đất ấy gần với biển Cù Huân(4), phía ngoài là biển lớn bao bọc các hòn núi. Biển biếc trời cao thật là nơi di tích cổ của tiên linh vậy. Có hai vợ chồng già mà không con, làm nhà ở tựa vào núi, khi ruộng dưa chín quả, thường có người hái trộm. Bèn lấy làm lạ, mới dò xét sự việc, thì có một bé gái tuổi chừng hơn mười, đang hái dưa vui đùa dưới trăng. Liền đến lại gần hỏi thăm thì thương cho tuổi thơ mà phải mồ côi, bèn dẫn về làm con nuôi. Ông bà rất yêu thương cô. Rồi một ngày nọ, núi bị nước mưa ngập lụt, cô bỗng nhớ cảnh cũ thần tiên, (cô) lấy đá làm hòn giả sơn để tượng như cảnh thần tiên. Ông lão không biết gì mới nổi giận mà mắng cô. Đang lúc buồn bực thì có cây Già Nam theo nước lũ trôi đến, cô bèn ẩn thân vào cây. Cây theo đại dương bồng bềnh trôi đi, cứ trôi nổi như vậy rồi dạt vào bờ biển Bắc. Người phương Bắc lấy làm lạ, cùng nhau đến kéo nhưng nặng không thể nhấc nổi. Thái tử của nước đó tuổi chừng hai mươi, đang chọn người trong nước làm vợ, nhưng không được ai vừa ý, trong lòng buồn bực không vui. Như chỗ mong cầu, thái tử nghe chuyện ấy thì vui mừng, bèn lệnh xa giá đến bên bờ biển, đích thân xuống kéo cây Già Nam, vừa mới động tay thì đã nhấc lên được, rồi đưa về để nơi điện các. Thái tử thường vỗ về cây, lưu luyến bên cây, theo ánh trăng có hương thơm, trong khí mây xa xa như thấy có người đi lại. Cứ như vậy không phải chỉ một lần, nhưng khi tới gần thì lại biến mất. Trong lòng thái tử rất lấy làm lạ về việc đó. Rồi một đêm, nhân lúc mọi người đã ngon giấc, một mình thái tử đến rình xem chuyện gì, chờ đợi hồi lâu, lại thấy như lần trước, kề gần quả đúng là một người đẹp. Vừa bị phát hiện, cô đã muốn bỏ trốn, nhưng thái tử giữ lại hỏi chuyện nên không thể đi được, bèn nói hết duyên cớ. Vừa mừng vừa sợ, thái tử tâu với nhà vua, vua lệnh cho bói quẻ thì được quẻ tốt, bèn cho kết hôn. Ở với nhau thời gian lâu, thì sinh một trai đặt tên là Tri, sinh một gái đặt tên là Quý, vợ chồng hòa thuận chưa từng cãi nhau. Bỗng một ngày nọ, nàng nhớ quê cũ, không thể kìm lòng được, bèn bồng hai con cùng nhập vào cây gỗ thơm vượt biển về Nam, thẳng đến Cù Huân, tìm lại chốn cũ trên núi, thì ông bà già đã mất lâu rồi. Nàng bèn khai hoang thêm ruộng vườn, lập đền để thờ cha mẹ. Nhân vì giáng linh đã lâu, dân miền núi thật thà, chất phác không biết đường sinh nhai, tránh điều họan nạn, nàng vì đó mà đặt ra phép tắc, kỷ cương, dạy cách làm ăn, khiến cho dân chúng biết đạo tương sinh tương dưỡng. Lại trên đỉnh núi, nàng tạc đá lưu tượng. Rồi bỗng chốc giữa ban ngày, nàng cưỡi loan tiên bay đi. Thái tử Bắc hải bị mất tiên nữ bèn dong thuyền đi tìm tung tích. Đám thuộc hạ trên thuyền không biết uy linh của nàng, bạo ngược với dân chúng sở tại, lại bất kính thần tượng. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên nhấn chìm thuyền, nơi cửa biển lại nổi lên một cồn đá to, trên đó có chữ đều như con nòng nọc, không thể hiểu được. Từ đó càng thêm linh ứng, anh linh thường qua lại trong khoảng đảo Yến, núi Cù, cứu giúp chúng dân, có cầu liền ứng. Dân địa phương tôn lên làm thần, xa gần không đâu là không đến cúng tế cầu đảo. Trên núi Cù Lao bèn xây tháp cao sáu trượng để thờ Tiên Chúa, bên phải xây một tháp nhỏ cao hai trượng để thờ thái tử. Phía sau xây một miếu nhỏ để thờ con trai, con gái của Tiên Chúa, bên trái dựng một miếu nhỏ để thờ hai ông bà già(5). Phía trước tháp lại dựng một bia đá có chữ giống với chữ trên những hòn đá ở ngoài cửa biển. Đến nay, khu vườn hoa quả tươi tốt, người lên đó đều có thể ăn no nhưng không thể mang về được. Mỗi lúc gặp tuần tiết thì sơn thú hải tộc không khi nào là không bơi lội chầu phục trước đền. Người xưa gọi là Thiên Y A Na Diễn Phi Chúa Ngọc Thánh Phi. Triều ta đã nhiều lần phong tặng là Hồng nhân Phổ tế Linh cảm thượng đẳng thần, lấy dân Cù Lao sung làm phu thờ. Ôi, lạ thay! Ví bằng tiên nữ ở đâu mà đến? Ban đầu ở bên sườn núi nhờ ơn nuôi dưỡng, tưởng đã trọn đời ở đó. Vô cớ giã từ vượn hạc, vượt sóng gió từ Nam lên Bắc. Vội vàng đi đâu vậy? Vợ chồng đang nồng thắm, tình duyên bỗng đứt, xả bỏ kết nghĩa trăm năm mà về chốn cũ, cũng thật lạ thay! Đến lúc cửa hang đã mở, cảnh đó người đâu! Sau lại cưỡi gió lướt mây hiển rõ uy linh. Việc thần đi hay ở, tuy quỷ thần cũng chẳng tự chủ được chăng? Ấy lại là cái kỳ trong cái kỳ vậy! Ngày 12 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (năm 1856). Hữu Hiệp biện Đại học sĩ lãnh Lễ bộ Thượng Thư Phan Thanh Giản phụng soạn. Thông chánh phó sứ điều lãnh Khánh Hòa Bố chánh sứ Nguyễn Quýnh phụng lập bia. Tài liệu tham khảo: Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập III, Nxb. Thuận Hóa, Huế 2006. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa: Địa chí Khánh Hòa, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2003. Quách Tấn: Xứ trầm hương, Hội VHNT Khánh Hòa, 2002./. (Thông báo Hán Nôm học 2011, tr.723-727)
|