Nghiên cứu Hán Nôm >> Chủ đề >> Văn khắc
Lê Viết Nga
62. Bia mộ tháp ghi niên hiệu Đại Tùy (601) ở chùa Thiền Chúng huyện Long Biên xứ Giao Châu (TBHNH 2012)

Cập nhật lúc 22h15, ngày 09/02/2015

BIA MỘ THÁP GHI NIÊN HIỆU ĐẠI TÙY (601)

Ở CHÙA THIỀN CHÚNG HUYỆN LONG BIÊN XỨ GIAO CHÂU

LÊ VIẾT NGA

Bảo tàng Bắc Ninh

Đầu tháng 8 năm 2012, tổ công tác thuộc phòng Nghiên cứu Sưu tầm Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh(1) đã phát hiện và sưu tầm được hai cổ vật độc đáo ở chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ Giao Châu xưa.

1. Bia mộ tháp: gồm hai phần có hình gần vuông, kích cỡ (45cm x 46cm) úp khít vào nhau: phần dưới (thân bia) dày 9cm được cắt khá nhẵn xung quanh, một mặt khắc chữ Hán còn rất rõ nét, gồm 133 chữ, chia thành 13 dòng, dòng đầu khắc 4 chữ “Xá lợi minh tháp”, dòng thứ 2 ghi khắc “Duy Đại Tuỳ nhân thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu”. Nội dung cơ bản được phiên âm và lược dịch như sau:

Phiên âm: Xá Lợi tháp minh

Duy Đại Tuỳ Nhân Thọ nguyên niên, tuế thứ Tân Dậu, thập nguyệt Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu.

Hoàng đế phổ vi nhất thiết pháp giới, u hiển sinh linh. Cẩn ư Giao Châu, Long Biên huyện, Thiền Chúng tự phụng an xá lợi, kính tạo linh tháp.

Nguyệt Thái tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng hậu. Hoàng đế, Hoàng hậu, Hoàng Thái tử, chư vương, tử tôn đẳng tịnh nội ngoại quần quan ái cập dân thứ lục đạo, tam đồ. Nhân phi nhân đẳng, sinh linh thế thế, trị Phật văn pháp, vĩnh ly khổ không đồng thăng diệu quả.

Sắc sử Đại Đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ Kỵ Uý khương huý tống xá lợi ư thử khởi tháp.

Lược dịch:

“Trước ngày Ất Sửu (tức ngày 15), tháng Tân Hợi (tháng 10), năm Tân Dậu nước Đại Tuỳ niên hiệu Nhân Thọ năm thứ nhất (601).

Hoàng đế cẩn trọng mở rộng dòng thuyết pháp, mở cõi u hiển đến mọi sinh linh ở chùa Thuyền Chúng (Thiền Chúng) thuộc huyện Long Biên đất Giao Châu để kính cẩn dựng ngôi tháp thiêng đặt yên xá lợi theo ước nguyện của Thái tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng hậu.

Tất cả các bậc từ Hoàng đế, Hoàng hậu, hoàng Thái tử, đến các con cháu trong hoàng tộc cùng các quan được sủng ái, thứ dân không kể lục đạo, tam đồ trên cõi đời đều thuận theo lời dạy của đức Phật mãi thoát khỏi cõi khổ ải trầm luân, cùng hưởng quả phúc.

Sắc cho Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ Kỵ uý Khương Huy dựng ngôi tháp và an vị xá lợi ở đó...

Phần còn lại (nắp đậy) mỏng hơn dày khoảng 4 cm úp lên trên phiến đá có chữ, mặt dưới tạo gờ nổi xung quanh đặt xuống vừa khít vào phần khắc chữ phía dưới, mặt trên tạo góc bạt chéo hình trụ.

2. Liễn (đỉnh) đá: bên cạnh bia mộ tháp nêu trên tại vị trí phát hiện các di vật còn có một liễn (đỉnh) đá. Hiện vật này trên có nắp đậy cũng bằng đá - loại đá gần giống như bia đá, kích cỡ (45cm x 46cm x 33cm) lòng sâu cỡ (26cm x 27,5cm), nắp đậy có kích cỡ (45cm x 46cm x 8cm)(2).

Cả hai di vật trên đều đặt trên một tấm đá hình chữ nhật dày 25cm, kích cỡ (65cm x 100cm).

Các di vật trên do ông Nguyễn Văn Đức, thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành đào được từ cuối năm 2004 trong lúc đào đất làm gạch ở khu đồng sau chùa, cách chùa làng Xuân Quan hiện nay khoảng 20m. Ông Đức cho biết: khi đào đất làm gạch ngói đã dùng máy múc để đào. Các di vật bằng đá nằm ở độ sâu hơn 2m, khi đào được các di vật này, bia mộ tháp có 2 phần úp khít vào nhau bằng chất kết dính gì đó mà phải cậy bằng mai đào đất mãi mới tách đôi ra được, và vì thế cạnh ngoài nắp có chữ bị sứt vỡ mấy miếng nhỏ nhưng không ảnh hưởng tới phần khắc chữ. Ở mặt trong cả 2 nắp bia khi cạy ra đều sạch bóng, không có chất gì khác bám vào mặt, kể cả nước. “Liễn (đỉnh) đá” có nắp đậy, ở bên trong có một ít tạp chất màu thâm đen, phải chăng là tro cốt cao tăng (Thiền sư)? Sau khi đào được các di vật đá nêu trên, ông Đức đem bộ bia đá và nắp đá đậy trên “liễn (đỉnh) đá” về nhà, còn lại ông mang ra chùa làng (Huệ Trạch tự) từ đó đến nay ít người được biết.

Sau khi Phòng Nghiên cứu Sưu tầm Bảo tàng báo cáo về tình hình các cổ vật quý hiếm này, lãnh đạo Bảo tàng, Giám đốc Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh, trưởng phòng VHTT huyện Thuận Thành đã trực tiếp xuống địa phương làm việc với ông Nguyễn Văn Đức. Và ông Đức đã quyết định hiến tặng (giao nộp) các di vật này cho Bảo tàng tỉnh để bảo quản và phát huy tác dụng.

3. Một vài nhận xét, đánh giá

- Tên chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng) ghi khắc trong bia mộ tháp chúng tôi đã tra cứu nhiều tư liệu sử sách từ xưa đến nay mới thấy có sách Thiền uyển tập anh - quyển Hạ (trang 102) có ghi về 1 chùa mang tên là “Thiền Chúng” như sau: “Thiền sư Định Không (? - 808) ở chùa Thiền Chúng, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, nhưng ở phần chú cuối trang lại ghi “Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong “Quảng hoằng minh tập” có ghi chùa Thiền Chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao Châu. “Thiền uyển tập anh” nói dựng tháp nơi chùa Pháp Vân, có lẽ hợp lý hơn”.

- Địa điểm phát hiện các cổ vật trên thuộc khu đất chùa làng Xuân Quan (Huệ Trạch tự), xã Trí Quả, huyện Thuận Thành ngày nay. Chùa nằm ở địa phận giáp phía Bắc thành cổ Luy Lâu - thủ phủ của chính quyền đô hộ phương Bắc trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Phật chủ chùa này là Đại thành pháp vân Vương phật - là vị “Tứ Pháp trưởng” làm chủ tế địa phương. Chùa Huệ Trạch thuộc hệ thống chùa thờ “Tứ pháp” vùng Dâu, là một trong những địa điểm đóng quân lớn của quan quân nhà Trần, do tướng Trần Hồng (con vợ thứ của Trần Quốc Tuấn) chỉ huy trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Và sau đó chính ông đã cho dân địa phương xây dựng chùa này(3). (Vị trí phát hiện các di vật trên cách thành Luy Lâu khoảng 800m, cách chùa Dâu khoảng 1000 về phía Bắc). Các tư liệu chữ Hán hiện còn ở chùa Huệ Trạch, trong đó có một bia đá 4 mặt là cổ nhất - dựng khắc năm Chính Hoà thứ 20 (1699) nội dung ghi “Huệ Trạch tự tôn tạo hồng chung các thanh bi ký”, nhưng đều không ghi gì về chùa Thiền Chúng xưa.

- Bia mộ tháp chùa Thiền Chúng là di sản văn hóa vật thể độc đáo ghi khắc về tên huyện Long Biên, xứ Giao Châu, góp phần quan trọng minh chứng cho các tư liệu, sử sách và các công trình nghiên cứu khoa học (luận văn, luận án) khi xác định - Long Biên ở vùng hoặc chính là Luy Lâu.

- Chùa Thiền Chúng ghi trong bia mộ tháp được xây dựng từ đó, sau khi bị đổ nát quá lâu ngày nên đã bị lãng quên trong lịch sử. Chùa tan, tháp đổ nên sau đó các cổ vật bên trong đã được chôn cất sâu và bày đặt rất cẩn trọng trong lòng đất thuộc khu vực chùa xưa, đến nay tình cờ mà người dân đào đất làm gạch ngói đã phát hiện được. Do các cổ vật được phát hiện từ lâu (1994), lớp đất vùi bên trên, người dân dùng làm gạch ngói hết, nên sau này tiến hành nghiên cứu khảo sát lại địa điểm phát hiện cổ vật trên, các cán bộ ngành văn hoá không tìm được các di vật gì khác góp phần minh chứng thêm về các cổ vật bằng đá đã đào được từ trước đây (gần 10 năm).

- Hai di vật nêu trên cùng với “mảnh khuôn đúc trống đồng” do nhà khảo cổ học Nhật Bản Nishimura phát hiện ở trong thành cổ Luy Lâu năm 1999 và hai bộ sách kinh bằng đồng (55 tờ = 112 trang) phát hiện năm 2009 trong tháp đá Tôn Đức nơi đặt xá lị của Thiền sư Minh Hành ở chùa Bút Tháp do Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên cho khắc năm 1660 (cách Luy Lâu 3km)... là những cổ vật quý hiếm - xứng đáng đưa vào danh mục “Báu vật quốc gia”. Đó là di sản văn hóa vật thể có giá trị độc đáo, góp phần minh chứng về vùng đất cổ Luy Lâu còn nhiều giá trị tiềm ẩn cần được tiếp tục khai thác nghiên cứu làm sáng tỏ thêm. 

Chú thích:

(1). Tổ công tác gồm: Phó trưởng phòng Kiều Thị Thơm và 2 chuyên viên - Nguyễn Văn An và Nguyễn Thị Biển.

(2). Loại đá có màu nâu nhạt, riêng nắp “liễn đá” chất đá khác “bia đá” nên đã bị phong hóa một phần.

(3). Theo hồ sơ xếp hạng di tích chùa Xuân Quan, do Nguyễn Hữu Toàn - cán bộ Bảo tàng Hà Bắc (nay là Phó Cục trưởng Cục Di sản văn hóa) lập năm 1989-1990.

Chùa Xuân Quan - Bộ VHTT xếp hạng năm 1990.

(Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.496-501)

In
Lượt truy cập: