Nghiên cứu Hán Nôm >> Tổng mục lục
25. Linh mục Đặng Đức Tuấn và cuốn sách thuật tích việc nước Nam (TBHNH 2003)

Cập nhật lúc 21h39, ngày 22/04/2007

LINH MỤC ĐẶNG ĐỨC TUẤN VÀ
CUỐN SÁCH THUẬT TÍCH VIỆC NƯỚC NAM

VŨ THU HÀ

NGUYỄN NGỌC QUỲNH

Viện nghiên cứu tôn giáo

Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806 - 1974) là một trí thức Công giáo tiêu biểu thời cận hiện đại, là người Công giáo đầu tiên đưa ra ý tưởng kính Chúa và Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ông quê ở Gia Hựu, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Ông thông thạo Hán văn và am hiểu Nho học, từng có thời gian 7 năm du học ở trường đào tạo giáo sĩ Pênang (Malaixia), sử dụng được tiếng La tinh, Pháp, Anh, hiểu biết về thần học, triết lý, lịch sử Giáo hội. Linh mục Tuấn trước tác khá nhều, được các bậc thức thức giả thời bấy giờ coi là người có kiến văn, là một trang quốc sĩ.

Những di thảo của Linh mục Đặng Đức Tuấn để lại cho thấy tinh thần yêu nước của một người Công giáo Việt Nam, biết kết hợp hai lý tưởng Thiên Chúa và Tổ quốc. Bên cạnh những tác phẩm như Nguyên đạo, Minh đạo là những tác phẩm tình bày bản chất, giáo lý đạo Công giáo nhằm giải tỏa những sự ngộ nhận, hiểu lầm của các nhà Nho đối với đạo, là những sách bàn về kế sách đánh giặc như Hoành mao hiến bình Tây sách, Sát tả bình Tây hịch, Minh đạo bình Tây sách… ngoài ra Đặng Đức Tuấn còn để lại nhiều bài văn thơ chữ Hán liên quan đến vấn đề quốc sử và giáo sử như Nguyễn vương phục quốc, Gia Long thống nhất, Những ngày truyền giáo đầu tiên, Việc cấm đạo thời Minh Mạng, Thiệu Trị… và các bài văn tế kể về hoạn nạn của ông như Trên đường lâm nạn, Phụng chỉ lai kinh điều trần việc nước việc đạo, các bài văn tế khóc giáo dân tử nạn…

Bài viết này chúng tôi giới thiệu thêm một cuốn sách chữ Nôm do Linh mục Đặng Đức Tuấn viết.

Cuốn sách Thuật tích việc nước Nam, được viết bằng chữ Nôm, là thơ viết theo thể văn. Bản viết tay gồm 56 trang; khổ 31x22cm. Có ký hiệu, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm là: AB.196.

Nội dung sách khá có thể được chia làm hai phần chính:

Phần thứ nhất kể lịch sử truyền đạo Công giáo ở Việt Nam.

Thơ kể vắn tắt từ khi người Bồ Đào Nha đến truyền giáo dưới triều Lê Vĩnh Tộ, đến khi người Pháp nhận việc truyền giáo ở Việt Nam vào thời Cảnh Hưng. Kể lại bối cảnh lịch sử cuối triều Lê: Lê Chiêu Thống chạy sang cầu cứu nhà Thanh, sau mất ở phương Bắc, Quang Trung lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Vương lưu vong:

“Lê Chiêu Thống tìm nơi cầu viện

Qua thanh triều an kiệt, giá băng

Tây Sơn mặc sức hung hăng

Phân chia cõi đất xâm lăng ngôi trời

Bời bời khắp chốn đòi nơi

Du nghiêng thế nước bặt hơi anh hung

Thái Đức, Cảnh Thịnh, Quang Trung

Trăm hai sông núi ngàn trùng phong ba

Nam Bắc lừng lẫy binh qua

Xoay nền tiếm vị đốt toà vương công

Đàng ngoài nhẫn đến Đàng Trong

Lê gia thành quách hoàn không tro tàn

Nguyễn chúa tỵ nạn gian quan

Đã qua Phú Quốc lại hoàn Trấn Tiên”

Sau đó bài vãn kể việc giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh, phò tá Nguyễn vương sang nước Xiêm, mang hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, đem quân và tầu chiến về giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn.

“Ra tay tá quốc An Nam

Dực phù Nguyễn chúa đem sang Xiêm thành

Vua tôi thầy vữa xuất hành

Mấy trung non nước tới thành Kim Lan

Nguyễn chúa ở lại Xiêm bang

Đức thầy phụng mệnh lại hoàn Tây Dương

Bôn lo khôi phục cố cương

Một phen toan tính một trường phân ly

Đông cung niên thiếu ra đi”

(Đông cung Thị Nguyễn vương trưởng tử tòng Bá Đa Lộc vãng Tây Dương)

“Thác cô gánh nặng quyền thời nghĩa thông

Trèo non vượt biển mấy trùng

Một lòng ái kính một lòng nghĩa nhân

Về cố quốc thiệt hơn bày tỏ

Xin viện binh đem tộ Nguyễn gia”

Khi Bá Đa Lộc mất, vua thương tiếc và điếu tang phong tặng rất hậu:

“Núi Kỳ Sơn ngàn tầm chất thảm

Thành Quy Nhơn ảm đạm phong swong

Ngẫm than hai chữ vô thường

Ngàn năm ly biệt một trường bi ai

Cảm công đất rộng trời dài

Ngự bài điếu ngự bài sắc phong

Về Gia Đình Đàng Trong an táng

Lập lăng phần nêu sáng công cao

Đông cung chu lệ thấm bào

Tống chung một thuở ngậm sầu ba thu”.

Sau khi kể lại thời kỳ tốt đẹp của đạo Công giáo thời vua Gia Long và đầu đời Minh Mệnh, bài vãn kể đến cuộc cấm đạo đầu tiên vào năm Minh Mệnh thứ 13 (1932).

“Chỉ truyền cấm đạo mọi nơi

Minh Mệnh trị đời năm thứ mười ba

Năm bắc khắp cõi gần xa

Đạo thánh triệt hạ các cha tử hình

Giáo nhân ai chẳng thuận tình

Trảm giảo lập tức lôi đình oai gia

Ai mà thập chữ bước qua

Thị là thiên thiện chỉ tha về nhà”

Vua Minh Mệnh là vốn rất không ưa Công giáo, năm 1832 đã bắt đầu trục xuất các Thừa sai. Sau cái chết của Lê Văn Duyệt, phó vương Nam kỳ, là người bảo trợ công khai cho Công giáo, tiếp đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, mà các Thừa sai và giáo dân đã có dinh slíu vào làm cho nhà vua thêm cứng rắn. Thực ra nguyên nhân sâu xa về phía triều đình gây nên cuộc cấm đạo là nhà vua nhìn thấy trong sự phát triển mạnh của đạo Công giáo một nguy cơ về mặt tư tưởng đối với Nho giao smà vương triều Nguyễn đặt cơ sở trên đó, có thể có hại cho uy quyền của vương triều. Nhưng nguyên nhân trực tiếp việc đàn áp dân Công giáo vùng miền Trung, một chi tiết lịch sử được linh mục Tuấn cho biết là sự tranh chấp đất đai giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo tại hạt Thừa Thiên:

“Dương Sơn Cổ Lão cơ cầu

(Dương Sơn, Cổ Lão hai xã tại Thừa Thiên hạt)

Kiện nhau giới hạn tranh nhau đất làng

Dương Sơn có đạo vẹn toàn

Cổ Lão không đạo quyết toan kỳ thù

Bời lòng căm ghét phao vu

Trước thưa huyện phủ sau vô pháp đường

Rằng đạo ỷ thế Tây Dương

Phiên kinh đạo trưởng mối giềng đôi co

Cao minh chê lấp khôn dò

Việc đầu thời nhỏ sau to bằng trời

Chỉ truyền cấm đạo mọi nơi”.

Tuy triều đình cấm đạo gắt gao, nhưng do những cố gắng của các nhà truyền giáo và giáo dân, đạo vẫn phát triển.

“Kể phen ở tối đi thầm

Sói hùm chi quản sơn lâm chi nài

Ra tay phạt gốc giống gai

Viên nho vun quên đắc tài dưỡng nuôi

Gại năm nhen nhóm lần hồi

Dịch kinh ấn sách trau dồi đàn chiên

Bản quốc Linh mục chức truyền

Trong thời nguy hiểm khắp miền giữ chăn

Tìm học đồ gửi Pênang

Cho học thông thái để hằng giảng khuyên

Lại chia gánh nặng đàn chiên

Gia Định một mối Thừa Thiên một quyền

Trong ngoài đều có mối giường

Đạo tuy nghiêm cấm đèn thiêng sáng ngời

Giáo nhân ở các phương trời

Thấy gương phúc đức như lời ủy an

Bắc nam ngàn dặm quan san

Quyền trên có đủ ân ban cũng đồng”.

(Gia Định Giám mục Nghĩa, Bình Định Giám mục Thể, Thừa Thiên Giám mục Phan, Nghệ An Giám mục Liệu, Lạng Sơn Giám Sơn Vọng. Tự Gia Định chí Lạng Sơn Giám mục ngũ nhân)

Ba vụ tàu chiến Tây Dương xâm phạm Đà Nẵng vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) năm Tự Đức thứ 9 (1856) và Tự Đức năm thứ 11 (1858) đã làm cho triều đình càng thêm nghi ngờ đạo trưởng, giáo dân tiếp tay cho giặc Pháp. Nhiều lệnh cấm đạo nghiêm khắc được ban hành, đạo Công giáo trải qua bao nhiêu sóng gió, người Công giáo thực sự đứng giữa hai làn đạn:

“Mượn câu giảng đạo làm danh

Làm cho giáo hữu tán tình phen ni

Làm cho nhà nước sinh nghi

Bàn cấm đầu mục khinh khi đạo trời

Làm cho xao xác trong đời

Rung động đến nước đổi dời gió trăng

Ngôi ải Vân khói tan mấy khúc

Cõi Đồng Nai gió xúc ngọn sầu

Khôn cùng mọi nỗi lo âu

Một mình ở giữa hai đầu bắn nhau

Nghĩ thôi mà sợ người sau

Bách tùng đã đốn tranh lau nào trừ

Ngạn rằng diều quạ ăn dừa

Bắt cò phơi nắng nghiêm nhật khắp nơi

Giữa đường mang ách ra đời oan ương

Kẻ ở Tây Dương qua bắn súng

Người bên Nam Việt lạ mang gông

Trời cao khổ vấn khôn đâu thấu

Lý vạy tình ngay nào xét công

Khác trời khác biển Tây Đông

Vì giữ đạo chúa cùgn dồng vấn vương

Mật truyền tỉnh phủ huyện đường

Đạo nhân tận số đền trường đầu khai

Bất kỳ già trẻ gái trai

Mỗi tháng đòi bắt mặc hoài lao đao

Những đi mời xuống ra vào

Cửa nhà bỏ đó hư hao kể gì

Đến quan dạy bảo một khi

Bay mà xuất giáo tất thì xá cho

Đứa nào cứng cổ cưỡng cô

Thừng roi có đó nẹp vỗ có đây

Bay đừng quen chối dại ngây

Đạo ta thì bỏ đạo tây lại thờ

Xá tu cải đạo bây giờ

Bước qua thập tự ngĩ nhờ xá ân…”

Những cuộc cấm đạo đó đã đem lại bao nhiêu đau khổ cho giáo dân và những thiệt hại nặng nề cho các giáo phận. Khi Linh mục Tuấn khi được tha trở về thì: “Tuấn về thăm viếng đã nhiều. Mười phần cố cựu tàn phiêu bảy phần”. Bài vãn còn kể lại tên các giáo sĩ, giáo dân đã tử vì đạo qua các đợt khủng bố với những lời thương xót và ca ngợi.

Phần thứ hai của sách là lời tự thuật của linh mục Tuấn về cuộc đời và những gian khổ ông trải qua cùng những việc ông đã làm cho giáo dân và triều đình từ khi ông bị bắt cho đến khi được thả.

Ông vốn sinh trong gia đình theo đạo Công giáo, cha mẹ anh em đều không còn, sau khi được thụ phong Linh mục ở trường dòng Pênang, ông về làm Mục vụ ở Quảng Ngãi, được khoảng 5, 6 năm thì lệnh cấm đạo cảu triều đình được thi hành nghiêm ngặt, ông phải trốn tránh một thời gian. Năm 1862, Linh mục Tuấn bị bắt giải về tỉnh đường Tư Nghĩa. Tại đây ông một mực kêu oan và xin viết tờ khai, trong đó ông trình bày thành thật rõ ràng về đạo Công giáo cùng sự oan uổng của ông và giáo dân. Bị giam cầm, tra tấn, ông cũng không thay đổi thái độ. Lúc đó có quan bộ Hình, trong Cơ Mật viện đi kinh lý qua, quan đầu bèn tỉnh tâu bày việc của Linh mục Tuấn. Quan Triều đình liền lệnh đưa Linh mục Tuấn về Huế. Ông bị tra tấn đến nỗi không tự đi được phải cho người cáng. Đến Huế, ông ra mắt Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, những người được vua ra lệnh xét hỏi ông về hai việc: Về văn nguyên đạo Gia Tô và về duyên cớ hành động của quân Pháp, Linh mục Tuấn trình bày:

“Đạo dạy thờ Chúa linh thiềng

Dựng nên trời đất cầm quyền tử sinh

Hễ người thời có tính linh

Giữ lối đạo chính trường sinh cõi trời

Đạo dạy thờ vua dưới trời

Vì vua thay mặt chúa trời trị dân

Đạo dạy thảo kính sinh thân

Cù lao báo nghĩa tư cần đền ơn

Đấy là ba đấng trọng hơn

Hội ra quân phụ có quyền khác nhau.

Rô Ma có một giáo hoàng

Cội đầu hội thánh mối mang đạo trời

Tuy là đạo ở khắp nơi

Giáo hữu chốn chốn vâng lời pa pa

Như giặc bởi nước Rô Ma

Thì tôi cam chịu đạo qua phá rầy

Vốn nay chẳng phải làm vây

Lãng Sa nước khác đến gây chiến trường

Giặc này tôi chẳng biết tường

Nhưng mà ước cũng tìm đường lợi danh

Vậy nên gây cuộc chiến tranh

Nói đi giảng đọa hoành hành lao niên

Xin thôi lấy việc năm trên

Đạo mà nội qứng với thuyền Lãng Sa

Thời khi thuyền ấy mới ra

Thời là bỏ xứ chạy ồn theo Tây

Bởi đạo không có lòng này

Đây đó bình tịnh xưa nay như thường

Phụng công giữ pháp mọi đường

Binh thuế như hcúng kiều lương như người

Không ý mạn pháp…

Không làm đạo tặc không lời khinh khi

Chẳng dám xuất giáo tuỳ thời

Là vì đạo chúa chẳng vì Lãng Sa

Triều đình là lượng mẹ cha

Bắt roi thời chịu thứ tha thời nhờ

Dễ đâu tôi dám nói vờ

Việc việc đều có sờ sờ chẳng không”

Sau những lời điều trần đó ông được đối xử tử tế hơn. Sau đó ông được quan Thượng mời lên nói chuyện và được yêu cầu làm tờ trình lên vua:

Ngày sau quan Thượng đòi mời

Đem vào mật thất một bên dạy ngồi

Hỏi sao cơ sự đầu đuôi

Truyền soạn cơm nước xong rồi mới ăn

Ăn rồi quan mới hỏi năng

Triều đình nhiều kẻ băng xưng nghi ngờ

Bề trên cũng đã làm ngơ

Cực vì các tỉnh sớ tờ thường tâu

Xin làm nhiều sự cay sâu

Bề trên cũng chịu từ sau đến rày

Như nay đạo trưởng là đây

Làm điều trần án dâng ngay ngự tiền

Nói rõ sự tích căn nguyên

Lượng vua phán đặc việc hiền chớ lo”.

Lúc bấy giờ triều đình Tự Đức đang gặp khó khăn. Phía bắc Lê DuyPhụng nổi loạn, phía nam tranh chấp với Pháp. Triều đình Huế đành phải chọn nhượng bộ Pháp để rảnh tay đối phó với những xuộc nổi loạn phía bắc có vẻ nguy hiểm hơn. Hiệp ước Sài Gòn ký ngày 5/6/1862 trong đó công nhận sự tự do hành đạo của đạo Công giáo và nhượng cho Pháp 4 tỉnh miền đông Nam Kỳ là Biên Hoà, Gia Định, Định Tưởng và đảo Côn Lôn. Trong cuộc ký kết này Linh mục Tuấn được cử làm phái viên phụ tá hai ông Phan Thanh Giản và Lân Duy Hiệp thay mặt triều đình.

“Thuyền Tây ra Huế tháng ba

Hỏi triều đình có chịu hòa hay không

Vua sai quan xuống hội dồng

Chịu giao hoà cuộc cho xong nước nhà

Đến ngày mười bốn tháng ba

Tàu Tây ra lại gửi thư lên thành

Xin cho quan lớn xuất hành

Vào trong Gia Định lập thành lời giao

Triều đình bàn luận lao xao

Khó sao khó định ông nào ra đi

Vì còn nhiều lý kinh nghi

Chưa biết bàn định lý gì cho hay

Phan, Lâm đòi Tuấn hỏi ngay

Tàu Tây xin vậy Tuấn bày làm sao

Tuấn rằng ông lớn lượng cao

Thưa tâu hoàng đế xin vào Đồng Nai

Cho tôi tòng phái mấy người

Tôi cảm quả quyết không ai làm gì

Hoà đặng thời ta hào đi

Bằng hòa chẳng đặng ta thì về ngay

Quan Lâm về tấu nội ngày

Vua ban sắc xuống y rày lời xin”.

Linh mục Tuấn cùng phái bộ đến Sài Gòn. Qua bài thơ ta có thể cảm nhận được không khí Sài Gòn sầm uất, nhộn nhịp, năng động và đang biến đổi rất nhanh chóng, mở ra với thế giới bên ngoài thời bấy giờ. Thật là tương phản với chính sách bảo thủ cô lập của triều đình Huế.

“Đến thành Gia Định tàu dừng

Quan Tây bắn súng chào mừng vang tai

Nam kỳ thiên hạ ai ai

Nghe tầu vua đến ra ngoài ngóng trông

Các dân các nước quá đông

Dập dìu tàu lửa tàu đồng bốn phương

Nghênh ngang phố xá cầu lương

Giang sơn chốn cũ khách thương lạ lùng”.

Phần cuối kể về cuộc thương lượng và ký kết, xong việc Linh mục Tuấn trở về Huế. Các giáo dân bị bắt dần dần được tha và Linh mục cũng trở về quê.

Cuối cùng văn bản cho biết bài vãn di Khâm sai Đặng Đức Tuấn sáng tác. Người chép lại có tên là Lý, chép vào ngày mồng 6 tháng 3 năm Canh Thìn.

Lịch sử truyền đạo Công giáo vào Việt Nam đã xảy ra những sự kiện đáng tiếc mà Linh mục Đặng Đức Tuấn vừa là nhân chứng vừa là người trong cuộc, hơn thế ông đã cửu động đem tài sức của mình tham gia để có thể cải thiện tình hình trong phạm vi có thể. Và điều chúng ta rất biết ơn là ông đã ghi chép lưu lại cho hậu thế. Cùng với những tác phẩm khác của Linh mục Đặng Đức Tuấn, cuốn sách thơ Nôm Tích việc nước Nam của ông là tài liệu quý báu cho những người nghiên cứu lịch sử Thiên chúa giáo nước nhà.

Thông báo Hán Nôm học 2003, Tr.210-222

In
Lượt truy cập: