Nghiên cứu Hán Nôm >> Năm 2004
27. Giới thiệu tác phẩm NGỰ CHẾ MINH VĂN CỔ KHÍ ÐỒ của Minh Mạng (TBHNH 2004)

Cập nhật lúc 06h01, ngày 26/06/2007

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NGỰ CHẾ MINH VĂN

CỔ KHÍ ĐỒ CỦA MINH MẠNG 

TRƯƠNG SĨ HÙNG

Viện Nghiên cứu Đông Nam Á

THÁI TRUNG SỬ

Hội Văn nghệ Hà Tây

Ngự chế minh văn cổ khí đồ là tác phẩm tập hợp 33 bài minh của vua Minh Mạng. Điểm đặc sắc của tác phẩm chính là ở chỗ 33 bài minh này do chính Minh Mạng ngự chế để khắc vào 33 đồ cổ khí. Minh Mạng năm thứ 19 (1838) đã cho chế tạo "bác đồ cổ" có 33 thứ, mỗi thứ 10 chiếc... Năm thứ 20 niên hiệu Minh Mạng (1839), Châu Phê cho phép đổi "bác cổ đồ" thành "cổ khí đồ"(1). 33 đồ cổ khí được khắc theo mẫu của ba đời Thương, Chu và Hán, thể hiện ước muốn của Minh Mạng muốn xây dựng Đại Nam thành một nước cường thịnh, thái hòa như thời Tam hoàng, Ngũ đế.

Qua khảo sát, văn bản tác phẩm này hiện có hai bản. Một bản in hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Pari - Pháp có ký hiệu EFEC.VIET/A/ART/1. Và một bản in đang được lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán - Nôm. Bản in này có ký hiệu A.147.

Do điều kiện không thể tiếp xúc với bản in tại Pháp, ở đây chỉ xin khảo cứu qua bản in A.147 được lưu trữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán - Nôm.

Văn bản gồm 72 trang khổ 26,5x16cm. In năm 21 niên hiệu Minh Mạng (tức năm 1840).

Trang đầu có ghi dòng chữ Ngự chế minh văn cổ chí đồ được đóng khung ở giữa, hai bên mép của dòng chữ được khắc hình 2 con rồng theo chiều dài của khung, xung quanh có điểm xuyết hình vân.

Trang hai có 2 dấu ấn từ trên xuống. Một ấn ghi: Thể Thiên Hành Kiện. Một ấn ghi; Minh Mạng thần hàn. Ở hai bên phía trên có dấu của Trường Viễn đông Bác cổ cũng được vẽ hai con rồng theo hình elip chầu mặt trời. Ngoài viền được trang trí các hình gấp vuông và hoa văn khác.

Từ trang 3 đến trang 68 là nội dung chính ghi lại 33 bài minh của Minh Mạng, thứ tự: trang trước là hình vẽ đồ cổ khí trang sau ghi nội dung của bài minh. Từ trang 69 đến trang 72 là bài bạt của Nội các về 33 bài minh này. Trang cuối cùng ghi ngày, tháng, năm và niên hiệu in: "Minh Mạng nhị thập niên lục nguyệt sơ bát nhật" (ngày 8tháng 6 năm thứ 21 niên hiệu Minh Mạng). Cuối cùng cũng có dấu ấn của trường Viễn đông Bác cổ Pháp.

Chữ khắc rõ nét, sắc cạnh. Tác phẩm còn hoàn toàn nguyên vẹn không bị rách, mờ.

Trong cuốn sách "Những người bạn cố đô Huế"(2), có dịch lại tác phẩm này từ tiếng Pháp, không có phiên âm chú thích, chính vì vậy người đọc khó hiểu, hơn nữa lại dịch lại từ tiếng Pháp vì vậy có nhiều chỗ chưa thật sát với nguyên bản. Để khắc phục những hạn chế này, chúng tôi xin đươc dịch lại tác phẩm từ nguyên văn chữ Hán, đồng thời có kèm theo phiên âm và chú thích.

BÀI MINH SỐ 1

a. Phiên âm

Ngự chế: Dư thụ thiên dữ Hoàng khảo Minh Mạng, phủ ngự Đại Nam, nhận nghĩa thị pháp, dĩ kỳ hàm ngũ nhi đăng tam. Chính vị thượng lý, tâm dĩ vi tàm. Ngã chi tử tôn, thân hiền viễn nịnh, vô tửu sắc thị đam. Tỉ khắc bảo bang gia, vĩnh ưng đại bảo thị kham.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương sách mệnh đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài Minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Ta nhận mệnh sáng của trời và của vua cha, ngự trị nước Đại Nam. Noi theo nhân nghĩa để mong được sánh với Ngũ Đế Tam vương. Việc chính trị chưa được cực trị thì lòng ta vẫn cảm thấy hổ thẹn. Con cháu ta phải gần gũi với người hiền, tránh xa kẻ nịnh bợ, chớ có ham mê tửu sắc, để có thể sửa trị được nước nhà, ngôi báu đời đời bền vững.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Sách mệnh đỉnh" của nhà Thương.

Câu "Dĩ kỳ hàm ngũ nhi đăng tam" ý là: mong sánh với Ngũ đế Tam vương.

Tam vương chỉ: Đại Vũ, Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương.

Ngũ đế chỉ: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

BÀI MINH SỐ 2

a. Phiên âm

Ngự chế: Niệm khai sáng chi gian nan, tư thủ thành chi bất dị. Tử tử tôn tôn, vĩnh bảo dụng thử khí.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Phủ Ất đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Ngẫm việc sáng lập cơ nghiệp thật gian nan mà việc giữ vững thành quả ấy lại không dễ. (Vì thế) con con cháu cháu ta, mãi mãi phải biết trân trọng giữ gìn mà sử dụng đồ vật này.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Phủ Ất đỉnh" của nhà Thương.

BÀI MINH SỐ 3

a. Phiên âm

Ngự chế: Cổ xưng Tam Đại, truyền chi vĩnh niên, lương pháp thi hiệu, ái dân kính thiên.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Phụ Kỷ đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Thời cổ ca ngợi thời Tam Đại, truyền tụng đến muôn đời. Noi theo khuôn phép tốt, phải yêu mến dân và tôn kính trời.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Phủ Kỷ đỉnh" của nhà Thương.

c. Chú thích

Tam Đại: Sách đã dẫn

BÀI MINH SỐ 4

a. Phiên âm

Ngự chế: Phỏng kỳ khí, pháp kỳ nhân. Bang tuy cựu, mệnh duy tân. Bách thế tử tôn, vạn tải tuân tuần.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Văn Vương đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Phỏng theo đồvật ấy, noi theo con người ấy, nước tuy là nước cũ (nhưng) mệnh trời ban cho thì lại mới. Con cháu trăm đời của ta, hãy muôn năm noi theo.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo đỉnh của Văn Vương nhà Chu.

c. Chú thích

Câu "Bang tuy cựu, mệnh duy tân" lấy ở Văn Vương - Đại Nhã "Chu tuy cựu bang, kỳ mệnh duy tân" của Kinh thi (nhà Chu tuy là một nước cũ nhưng cái mệnh trời ban cho thì lại mới).

BÀI MINH SỐ 5

a. Phiên âm

Ngự chế: Duy Minh Mạng nhị thập Kỷ Hợi, dư thụ thiên quyến hựu, hà thuận tuế phong, đạo tặc bình tức. Niên cận tri thiên, viên pháp cổ chế khí, phàm tam thập tan loại, thử đỉnh kỳ nhất dã, dụng truyền lai hử. Ngã chi tử tôn, nhược năng thân hiền viên nịnh, ái dân kính thiên.

Minh Mệnh Kỷ Hợi. Phỏng Chu Vương Bá đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng thứ 20, ta được trời yêu mến giúp đỡ, sông thuận, được mùa, nạn trộm cắp được trừ yên. Ta đã sắp đến tuổi biết mệnh trời, bèn theo phép cổ mà đúc khí vật, tất cả 33 loại. Đỉnh này là một trong số 33 loại ấy, để truyền lại cho đời sau. Con cháu của ta phải biết gần gũi với người hiền, tránh xa kẻ nịnh bợ, biết thương dân và kính trời, thì bói xem được bao nhiêu năm, bao đời, có thể còn kéo dài hơn cả nhà Chu. Thiên hạ phải sợ phục, nước Đại Nam ngày một thịnh vượng. Mãi mãi có thể trân trọng giữ gìn và sử dụng (vật này).

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng thứ 21. Phỏng theo đỉnh của Vương Bá nhà Chu.

c. Chú thích

"Niên cận tri thiên" ý là tuổi đã sắp biết mệnh trời. Năm Minh Mạng thứ 20, Minh Mạng 50 tuổi. Ông cho tổ chức sinh nhật và khắc 33 bài minh của mình vào những đồ cổ khí này.

Trong Luận ngữ có câu của Khổng Tử: "Ngô thập hựu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ" (ta 15 tuổi để chí ở việc học hành, 30 tuổi mới lập thân, 40 tuổi không có sự ngờ vực, 50 tuổi biết được mệnh trời, 60 tuổi hiểu tất cả, 70 tuổi làm những điều mình muốn nhưng không được vượt qua khuôn phép nhất định). Như vậy Minh Mạng lấy ý nghĩa trong câu này.

BÀI MINH SỐ 6

a. Phiên âm

Ngự chế: Cổ nhân chế khí, khả truyền chí ti (tư). Kim nhân chế khí, khởi vô hữu ti (tư). Tử tử tôn tôn, ứng vạn thế thùy. Trì doanh bảo thái, vĩnh bảo hương chi.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Ung công Giam đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Người xưa làm đồ vật có thể truyền được đến ngày nay. Người nay cũng làm ra đồ vật, há chẳng có trăn trở gì hay sao? Con con cháu cháu của ta phải giữ gìn đến muôn đời. Phải biết duy trì sự thịnh vượng, bảo vệ sự hanh thông, mãi mãi được trân trọng giữ gìn hưởng thụ.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng"Ung công Giam đỉnh" của nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 7

a. Phiên âm

Ngự chế: Duy tính tác phúc, tác uy, ngọc thực, nhiên vô dĩ uy phúc vi kỷ tư, ngọc thực vi kỷ chức.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu tử Phủ Cử đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Chỉ có vua mới có quyền làm phúc, ra oai, và hưởng dụng các đồ ăn quý báu nhưng chớ lấy oai phúc là cái của riêng mình, đồ ăn quý báu là chức phận của mình.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "tử Phủ Cử đỉnh" củanhà Chu.

c. Chú thích

Câu "Duy tích tác phúc, duy tích tác uy, duy tích ngọc thực" (Nghĩa là: chỉ có vua mới có quyền làm phúc, chỉ có vua mới có quyền ra oai, chỉ có vua mới được hưởng những đồ ăn quý) lấy trong thiên Hồng phạm - Kinh Thư.

BÀI MINH SỐ 8

a. Phiên âm

Ngự chế: Hữu công bất thưởng vô dĩ khuyến, hữu tội bất phạt vô dĩ trừng. Sự quy bình doãn, vật ngụ ái tằng.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương hủy dữu.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Có công mà không thưởng thì không lấy gì để khuyến khích. Có tội mà không phạt thì không lấy gì để răn đe. Mọi việc phải quy về công bằng ổn đáng, chớ có chứa sẵn sự yêu ghét.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái "Hủy dữu" của nhà Thương.

c. Chú thích

Hủy: là tên 1 loài vật (tê giác cái), Hủy Dữu là đồ đựng rượu có điêu khắc hình con Hủy.

BÀI MINH SỐ 9

a. Phiên âm

Ngự chế: Vi chính chi đạo, tín thưởng tất phạt. Dụng hình ninh sảo khoan, hữu công thù vật khuyết. Tùy sự nhi thi, chiêu chiêu bất bội.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Phủ Tân dữu.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Đạo trị nước, phải thưởng phạt công minh dứt khoát. Dùng hình phạt nên khoan dung một chút, cócông thì thưởng chớ bỏ sót. Tùy theo việc mà thi hành, rõ ràng minh bạch mà không trái lẽ.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Phủ Tân dữu" của nhà Thương.

BÀI MINH SỐ 10

a. Phiên âm

Ngự chế: Việt kê tiền cổ, duy Thương Thái Mậu, hưởng quốc miên trường, nhất bách ngũ thọ. Chính vụ hòa bình, tâm tồn nhân hậu. Cảnh ngưỡng cao sơn, thứ năng đắc tựu.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Tổ Mậu tôn.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Xét thời xa, chỉ có vua Thái Mậu nhà Thương là được hưởng vận nước lâu dài, thọ đến 105 tuổi. Việc chính trị thì cốt hài hòa, bình ổn, luôn giữ tấm lòng nhân hậu. Ngẩng trông núi cao, mong được như vậy.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Tổ Mậu tôn" của nhà Thương.

c. Chú thích

Trong Kinh Thi có câu: "Cao Sơn ngưỡng chỉ" ngụ ý ngưỡng mộ một bậc cao thượng hiền tài... Câu "Cảnh ngưỡng cao Sơn" trong bài minh này là lấy ý đó.

BÀI MINH SỐ 11

a. Phiên âm

Ngự chế: Hữu tượng chi quốc giả đa, duy ngã độc hùng. Phất tị thương bác thỉ thạch, năng hãm kiên chiết xung. Dụng tập vương hội, hữu uy nghi dung. Nha văn lôi nhi văn dữ cổ, sở vịbất đồng.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu tượng tôn.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng nước có voi thì nhiều nhưng chỉ có của ta là hùng mạnh. Không né tránh tên đạn, có thể hãm chế được quân địch, bẻ gẫy mũi tiến công của chúng. Dùng trong vương hội thì có cái dáng vẻ uy nghi, ngà cong vút mà hoa văn như thời cổ - đó là chỗ khác nhau.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo “Tượng tôn” (cái chén hình con voi) của nhà Chu

c. Chú thích

Vương hội: Triều hội của tiên tử

BÀI MINH SỐ 12

a. Phiên âm

Ngự chế: Đắc nhân xương, thất nhân vương (vong). Nhất thành nhất lữ, do túc dĩ vượng. Ức triệu chi đa, khởi vô trung lương, dữ ngã cố kim thang.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Hồ tôn

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Được người (hiền) thì nước thịnh, mất người (hiền) thì nước mất. Có một thành, một đội quân còn đủ để thống nhất thiên hạ. Huống chi là nhiều đến triệu triệu, há lại không có bậc trung lương để cùng ta giữ cơ nghiệp vững bền.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Hồ tôn" của nhà Chu.

c. Chú thích

"Kim thang" có nghĩa là "kim thành thang trì" (thành vững như vàng, hào nóng như nước sôi) chỉ sự bền vững không thể xâm phạm được.

BÀI MINH SỐ 13

a. Phiên âm

Ngự chế: Tỉnh thân tâm, tu quốc chính. Chính triều đình, nhi bách quan vạn dân mạc cảm bất chính.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Hợp tôn tổ đinh cô.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Xem xét thân mình, lòng mình, sửa sang nền chính trị trong nước. Làm cho triều đình được ngay thẳng thì trăm quan muôn dân chẳng có ai là không dám không ngay thẳng cả.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái "Hợp tôn tổ đinh cô" của nhà Chu.

c. Chú thích

Câu này lấy ở bài Đối sách "Thiên nhân tam sách" của Đổng Trọng Thư đời Hán.

BÀI MINH SỐ 14

a. Phiên âm

Ngự chế: Pháp cổ chế khí, bất thiên bất pha. Dận tự kỳ xương, phúc thọ kỳ đa.

Minh Mạng Kỷ hợi. Phỏng Thương Quỳ long cô

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Theo phép xa mà làm ra đồ vật này, không nghiêng không lệch. Con cháu đời sau sẽ thịnh vượng, sẽ được hưởng nhiều phúc thọ.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Quỳ long cô" của nhà Thương.

BÀI MINH SỐ 15

a. Phiên âm

Ngự chế: Tự dưỡng dưỡng nhân, chính đạo thiết thi, thận ngôn ngữ ẩm thực, vật kiến dục nhi đóa di.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Sơn lôi cô

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Tự nuôi mình là nuôi người, thi hành chính đạo. Thận trọng trong nói năng ăn uống, đừng thấy ham mà trễ mép thèm nhỏ dãi.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Sơn lôi cô" của nhà Chu.

c. Chú thích

Chữ "Đóa đi" là chữ trong quẻ Di của Kinh Dịch.

BÀI MINH SỐ 16

a. Phiên âm

Ngự chế: Bách độ duy trinh, dần lượng thiên công, y ôn tư chức, thực bão mẫn nông.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Lôi văn thao thiết cách.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Trăm việc được chính đáng, kính cẩn làm sáng tỏ công việc của trời. Mặc áo ấm nghĩ đến người dệt vải, ăn cơm no biết thương nhà nông.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo “Lôi văn thao thiết cách” (vạc nấu hình con thú Thao Thiết) của nhà Thương.

c. Chú thích

Câu "Lượng thiên công" (Làm sáng tỏ công việc của trời) lấy từ thiên Thuấn điển - Kinh Thư.

BÀI MINH SỐ 17

a. Phiên âm

Ngự chế: Phủ tự lê nguyên, khắc hưởng trị bình. Tử tử tôn tôn, bảo thái trì doanh.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Miệt Ngao cách.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Chăm sóc nuôi dưỡng lê dân, được hưởng nền chính trị thái bình. Con con cháu cháu phải biết bảo vệ sự hanh thông và duy trì nền chính trị.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Miệt Ngao cách" của nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 18

a. Phiên âm

Minh Mạng Kỷ Hợi. Ngự chế: Tiêm La hôn cuồng, khuy tứ biên cương, ngã vũ duy dương, thát phạt dụng trương. Xú lỗ bại bắc, chu táng nhân vương (vong). Tân Long, Bình Thành, công kỷ kỳ thường. Phỏng Chu Chu Bá đỉnh.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Bọn Xiêm La ngu si và u tối kia dám nhòm ngó biên cương, vũ công của ta chấn khởi, mở rộng đánh phạt vây bắt. Bọn giặc xấu xa ấy bị đánh tan tành và bỏ chạy, thuyền đắm người chết. Trận Tân Long, Bình Thành, công lao được ghi lên cờ mao, cờ tiết.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo “Chu Bá đỉnh” (vạc của ông Chu Bá) nhà Chu.

c. Chú thích

Tiên La tức Xiêm La (Thái Lan).

BÀI MINH SỐ 19

a. Phiên âm

Ngự chế: Bạc liễm hậu thí, giới xa trất dục. Bách tính túc, quân thục dữ bất túc

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Thiết cách.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Hãy giảm nhẹ thuế khóa mà ban ân hậu cho dân, răn rè xỉ kiềm chế dục vọng. Trăm họ được đầy đủ thì vua còn không đủ với ai ?

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo “Thiết cách” (vạc nấu có hình con thú Thao thiết) của nhà Chu.

c. Chú thích

"Bách tính túc, quân thục dữ bất túc" (trăm họ được đầy đủ vua còn không không đủ với ai) là chữ lấy trong Luận ngữ.

BÀI MINH SỐ 20

a. Phiên âm

Ngự chế: Hòa canh tắc diêm mai, tế xuyên tư chu tiếp. Dụng hiền vật nhị, tỉ tá ngã bang gia, âm dương điều nhiếp.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Thương Phụ Phủ Định hòa.

b. Dịch nghĩa

Bài minh của vua Minh Mạng nói rằng: Điều chế canh thì dùng muối và mơ, vượt sông phải dựa vào thuyền và mái chèo. Dùng người hiền chớ có nghi ngờ, khiến họ phò tá nước nhà của ta, âm dương sẽ được điều hòa.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo bình đựng gia vị của ông Phụ Phủ Định nhà Thương.

c. Chú thích

Hòa diêm mai, tế chu tiếp: Lấy chữ thiên Duyệt mệnh - Kinh Thư.

Dụng hiền vật nhị: Lấy chữ trong thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư.

BÀI MINH SỐ 21

a. Phiên âm

Ngự chế: Tá kim vi quang, tỉ thạch vi cương. Hậu thế vĩnh hưởng, tỷ xí tỷ xương.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu giao ly hòa.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Mượn vàng làm ánh sáng, cứng rắn sánh với đá. Đời sau mãi mãi được hưởng, hãy khiến cho sáng thêm lên, thịnh vượng thêm lên.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo bình đựng gia vị hình con Giao ly của nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 22

a. Phiên âm

Ngự chế: Quốc chi đại sự, duy tự dữ nhung. Tự chủ kính, nhung kỳ hữu công.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Việc lớn của Quốc gia (có 2) là việc tế tự và việc binh. Việc tế tự phải chuyên chú ở sự kính cẩn, việc binh phải mong được có công.

BÀI MINH SỐ 23

a. Phiên âm

Ngự chế: Tư pháp Tam đại, khởi chỉ Hán Đường? Vĩnh hưởng vật thất, thế thế kỳ xương.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Ngữ đôn.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Phải suy nghĩ (mà) noi theo Tam Đại, há chỉ dừng lại ở đời Hán đời Đường thôi sao? Hãy mãi mãi hưởng dụng chớ có để mất, đời đời sẽ được thịnh vượng.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái Ngữ đôn của nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 24

a. Phiên âm

Ngự chế: Khí dĩ thình vật, phương dĩ nghĩa dụ. Vật túng dục bại độ, đương dĩ nhân nghĩa vi tiên vụ

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Kỷ Dậu phương di.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Khí cụ là để chứa đựng đồ vật, vuông văn là để ví dụ cho đức nghĩa. Chớ phóng túng ham muốn mà phá hỏng pháp độ, phải coi nhân nghĩa là việc làm trước tiên.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái chén vuông Kỷ Dậu của đời Chu.

c. Chú thích

Câu "Phương dĩ nghĩa dụ" lấy chữ trong quẻ Khôn - Kinh Dịch

BÀI MINH SỐ 25

a. Phiên âm

Ngự chế: Phỏng cổ khí, tư sở trọng. Tử tử tôn tôn, vĩnh bảo dụng.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu bàn quỳ trực văn di.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Phỏng theo đồ vật xa mà nghĩ đến điều trọng yếu. Con con cháu cháu ta hãy mãi mãi trân trọng giữ gìn mà sử dụng.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo "Bàn quỳ trực văn di" của nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 26

a. Phiên âm

Ngự chế: Vật thái khoan, vật thái mãnh, ứng bội huyền vi, sự kỳ bình doãn, khắc thận cơ vi.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Thúc bang phủ.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng; Chớ có rộng rãi quá, chớ có nghiêm ngặt quá. Nên co dãn nhịp nhàng, các công việc phải mong cho được công bằng ổng đáng, phải thận trọngcơ vi.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái liễn vuông (phủ) của ông Thúc Bang nhà Chu.

c. Chú thích

"Cơ vi" là sự việc khi chưa phát sinh (cơ) hoặc mới phát sinh còn rất nhỏ (vi). Vì thế phải tiên liệu được trước các công việc.

BÀI MINH SỐ 27

a. Phiên âm

Ngự chế: Nhân tâm nguy, đạo tâm vi. Ngã chi tử tôn, các nghi triêu tịch tư chi.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Thái Sư Vọng quỹ.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Nhân tâm nguy hiểm, đạo tâm vi diệu. Con cháu của ta, các ngươi nên sớm tối nghĩ về điều đó.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái liễn phan tròn (quỹ) của ông Thái Sư Vọng đời Chu.

c. Chú thích

Câu "Nhân tâm nguy, đạo tâm vi" lấy ý trong câu "Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung" (nhân tâm nguy hiểm, đạo tâm vi diệu phải tinh và phải nhất, dốc lòng để giữ lấy cái trung ấy) trong thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư

BÀI MINH SỐ 28

a. Phiên âm

Ngự chế: Cuồng dược vật đam, táng nghi thất đức. Yến hội lý nan phế, hữu tiết hữu lượng vi đắc.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu Tử Ất giả.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Chớ có đam mê rượu mạnh mà đánh mất uy nghi, đánh mất đức độ. Trong yến tiệc thì lẽ khó bỏ, song cần phải biết điều tiết, biết liều lượng mới được.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái chén ngọc của ông Tử Ất nhà Chu.

BÀI MINH SỐ 29

a. Phiên âm

Ngự chế: Nhật ty (tư) dạ ty (tư), vị dân ưu chi. Phất cảm dật dự, dĩ bảo bang ky (cơ).

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu ly thủ phương hồ.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Ngày đêm suy nghĩ, lo lắng cho dân. Chẳng dám nhàn rỗi ham chơi, để bảo vệ nền móng nước nhà.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái hồ vuông hình đầu con ly đời Chu

BÀI MINH SỐ 30

a. Phiên âm

Ngự chế: Hữu Chu công tài mĩ kiêu lận do trí ky. Huống bất cập giả đa, nhĩ nghi ngoạn vị kỳ tỳ (từ).

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Chu lôi văn li thủ khiết hồ.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Giả sử có tài năng tốt đẹp như Chu Công mà kiêu căng và biển lận thì vẫn còn bị chê trách. Huống chi còn không theo kịp được thế nhiều, các ngươi nên ngẫm nghĩ kỹ về lời dạy này.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái hồ xách tay hình đầu con ly có hoa văn sấm chớp của nhà Chu.

c. Chú thích

Cả bài minh này lấy một ý câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ": "Tử viết; như hữu Chu Công chi tài chi mỹ, sử kiêu thả lận, kỳ dư bất túc quân dã dĩ".

BÀI MINH SỐ 31

a. Phiên âm

Ngự chế: Tĩnh tắc hữu thủ, động tắc hữu dụng. Kinh tế hợp nghi, văn võ đạo cộng.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Hán Sơn Long ôn hồ.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Khi tĩnh thĩ giữ trọn tiết nghĩa, khi động thì thể hiện được tác dụng. Việc kinh bang tế thế thích nghi phù hợp, dùng song song cả văn và võ.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái hồ có hình núi, rồng của nhà Hán.

BÀI MINH SỐ 32

a. Phiên âm

Ngự chế: Bất cập loạn, thánh nhân dương chi. Phi thánh nhân, hồ khả hiệu chi.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Hán hi thủ bôi.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: (Uống rượu có hạn độ) không đến mức say khướt, thánh nhân làm được điều đó. Không phải là thánh nhân, sao có thể theo được như vậy.

Năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng. Phỏng theo cái chén uống rượu hình đầu trâu đời Hán.

c. Chú thích

Câu "Bất cập loạn" lấy trong câu "Duy tửu vô lượng, bất cập loạn" của thiên Hương đảng sách "Luận ngữ" ý nói rằng: uống rượu thì thoải mái nhưng không để quá say.

BÀI MINH SỐ 33

a. Phiên âm

Ngự chế: Phu phụ tương y, vật dĩ tình vũ gián chi.

Minh Mạng Kỷ Hợi. Phỏng Hán Cưu xa.

b. Dịch nghĩa

Bài minh văn của vua Minh Mạng nói rằng: Đạo vợ chồng phải biết nương tựa vào nhau, chớ vì khi tạnh khi mưa mà chia lìa.

BÀI BẠT CHO CUỐN SÁCH NGỰ CHẾ MINH VĂN CỔ KHÍ ĐỒ

a. Phần phiên âm

Nội các thần đẳng thiết văn: đạo phi khí bất hình, truyền kỳ khí nãi sở dĩ tồn kỳ đạo dã.

Tự cổ chế khí thượng tượng vi thiên hạ lợi, đại tắc hữu chi nhi khí chi hữu minh, tắc tự Thương Chu thủy. Thang chi bàn minh, Vũ Vương chi kỷ minh, trượng minh, giai dĩ ngụ đề ti cảnh tỉnh chi ý, vô phi nhân khí dĩ kiến đạo dã. Ngã Hoàng thượng, thánh học thiên túng, quân đức nhật tân. Chế tác văn vi, mạc phi tư đạo chi sở ngụ. Nãi vạn cơ chi hạ, bác lãm cổ thư. Kiến sở tải khí loại bất nhất, gián hữu nhất nhị minh văn, tự nghĩa khuyết dật, dĩ bất khả khảo, mục nhiên hữu tồn cổ chi tư. Ư thị chích tự Thương Sách mệnh đỉnh chí Hán Cưu xa, phàm tam thập tam loại, phó hữu ty, chiếu dạng thuyên chú. Chú thành, phụng thân chế Minh văn, án loại tính khắc, tựu trung. Kính thiên, pháp tổ, càn chính, ái dân. Dữ phù giám, tiền nhân, thuỳ thị hậu thế. Phàm sở dĩ tu tề trị bình chi đạo. Tùy kỳ sở xúc, nhi ngụ ý yên, mĩ bất cai quát hồ thử. Thực dữ Thang chi bàn minh, Vũ Vương chi kỷ minh trượng minh, cắng thiên cổ nhi đồng nhất quỹ. Ích kiến cổ nhân chi khí, nhân minh dĩ truyền Thánh nhân chi đạo, nhân khí dĩ hình, trực khả thùy vạn thế nhi bất ma hĩ. Chí nhược duệ tạo chi chiêu hồi, thiên văn chi bính hoán, tuy mãn đình bách chấp, bất năng tán nhất từ. Thần đẳng thượng cảm tác vân vân chi dự dã da. Chỉ dĩ hạnh bồi thúy các, mật nhĩ thanh quang, phụng thần hàn nhi thư thiên ngữ, nãi chức phận nội sự. Toại nãi đoan túc huân mộc, cung tương ngự chế cổ khí minh tam thập tam tắc, vựng biên thành tập, tính phụ dĩ sở kiến vu tập hậu vân.

Sung biện Nội các sự vụ, Lễ bộ Tả Thị lang, gia Tham tri hàm, thần Nguyễn Văn Chương. Thông chánh sứ ty Thông chánh phó sứ, thần Lâm Duy Nghĩa, thần Trương Văn Uyển, bái thủ khể thủ cần bạt.

b. Phần dịch nghĩa

Chúng thần trong Nội các trộm nghe: Đạo mà không có đồ vật thì không thể hiện được. Truyền đồ vật chính là để giữ cáiđạo. Từ xa làm ra đồ vật theo hình tượng quẻ vì của thiên hạ thì đời nào cũng có, mà có bài minh trên đồ vật thì khởi đầu tự đời Thương, đời Chu. Bài minh khắc trên chậu tắm của vua Thành Thang bài minh khắc trên cái ghế, cái gậy của vua Vũ Vương, tất cả đều ngụ ý răn đe cảnh tỉnh không gì là không dựa vào đồ vật để thể hiện đạo.

Hoàng thượng ta, có cái học của thánh nhân được trời phú bẩm, đức của vua ngày ngày đổi mới. Việc chế tác không có gì là không đạo. Vì thế, nhân lúc nhàn rỗi trong muôn việc bận, ngài đọc rộng cổ thư, thấy sự ghi chép về các loại đồ vật không thống nhất. Thỉnh thoảng có 1,2 bài minh thì chữ nghĩa sai xót lộn xộn, không thể khảo cứu được, ngài thành thật có ý muốn giữ gìn cái cổ. Vì vậy chọn lựa từ "Chu Sách mệnh đỉnh" đến "Hán Cưu xa", tất cả 33 loại, giao cho Hữu ti theo hình dạng mà đúc. Đúc xong, ngài đích thân làm ra minh văn, theo đặc tính của mỗi loại mà khắc. Tựu trung (nội dung các bài là) kính trời, noi theo phép tổ tiên, chăm chỉ việc trị nước và yêu thương dân. Cũng là xét kỹ tiền nhân, truyền dạy hậu thế. Đại khái là để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, tùy theo cảm xúc mà ngụ ý, không có gì là không bao quát ở đấy. Thực cùng với bài minh trên chậu tắm của vua Thành Thang và bài minh trên ghế, gậy của vua Vũ Vương, suốt từ nghìn xa mà (vẫn) cùng chung một đạo, càng thấy là đồ vật của người xưa dựa vào bài minh để truyền lại mà đạo của thánh nhân nhờ vào đồ vật để hiển hiện ra có thể truyền đến nghìn đời mà không bị mai một.

Còn như văn chương ngự chế rực rỡ, sâu xa, tuy trăm quan đầy triều cũng không thể thay đổi được một từ, vậy thì chúng thần còn dám làm những lời ca tụng vụn vặt nữa hay sao ? Chỉ là may được hầu nơi cấm điện, gần sát thanh quang, kính phụng bút vua mà viết lời trời, đó là chức phận của chúng thần.

Bèn cung kính tắm gội, đem 33 bài minh văn ngự chế biên thành tập, rồi phụ thêm ý kiến của mình vào sau tập mà thôi.

Sung biện Nội các sự vụ. Lễ bộ Tả Thị lang, gia hàm Tham tri - thần Nguyễn Văn Chương. Thông chánh sứ ty Thông chánh phó sứ - thần Trần Duy Nghĩa, thần Trương Văn Uyển.

Chắp tay dập đầu kính cẩn viết lời bạt.

Ngày 8 tháng 6 năm Minh Mạng 21.

Chú thích:

(1) Đại Nam hội điển sự lệ. Nxb. Thuận Hóa - Huế 1993.

(2) Đại Nam hội điển sự lệ. Nxb. Thuận Hóa - Huế 1997.Tập I ./.

Thông báo Hán Nôm học 2004 (tr.225-247)

In
Lượt truy cập: