Chi tiết
Nguyễn Minh Đăng
Văn chầu Đức Thánh Từ (Tạp chí Hán Nôm, Số 4 (83) 2007)

Cập nhật lúc 11h42, ngày 19/05/2009

VĂN CHU ĐC THÁNH T

NGUYỄN MINH ĐĂNG

Nhà nghiên cứu Hán Nôm

Đức Thánh Từ tức Thiền sư Từ Đạo Hạnh thời Lý được thờ ở chùa Thiên Phúc xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây. Theo Thiền phả được lưu giữ ở chùa Thiên Phúc, thì Đức Thánh quê ở làng Yên Lãng huyện Từ Liêm, sau đó tu luyện ở Sài Sơn rồi đắc đạo thành Phật. Tương truyền hậu thân của Đức Thánh là vua Lý Thần Tông (1128 - 1138), hiện được thờ ở chùa Ông thôn Bình Lương xã Tân Quang huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Sự tích Đức Thánh được ghi chép rất nhiều, có khi còn được diễn ra thơ lục bát. Hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được văn bản Thần tích chép tay kí hiệu: AE.a10/14. Trong văn bản chép bài văn chầu Đức Thánh Từ, nhan đề là: Thụy Nham đại từ chầu văn (Văn chầu ở đền thờ Thụy Nhan). Thụy Nham là tên cũ của thôn Thụy Khuê thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Bài văn chầu này gồm 180 câu song thất lục bát, lời văn tương đối cổ kính. Trong văn bản thấy sử dụng một số từ Việt cổ như:

1. No (câu 50, 61) nghĩa là:đủ, gồm đủ.

2. Thốt (câu 69) nghĩa là: nói

3. Gở (câu79) nghĩa là: quái gở

4. Khuây (câu 101) nghĩa là: quên

5. Đòi nao (câu 102) nghĩa là: nhiều phen

6. Phô ngựa (câu 105) nghĩa là: con ngựa

7. Nhơn nhơn (câu 142) nghĩa là: oai nghiêm

Tác giả soạn bài văn chầu này tuy chưa rõ là ai, song ở đoạn cuối tác giả tự giới thiệu mình là người sống ở chùa sớm hôm đèn hương thờ Phật, đã căn cứ vào bài Thánh lục để ở chùa mà diễn Nôm giới thiệu.

Tôi nay khuya sớm đèn hương,

Lục xưa chấp chểnh lời thường nôm na.

(câu 176)

Do vậy chúng tôi đoán định tác giả có thể là nhà sư chùa Thiên Phúc soạn bài văn chầu này vào khoảng thế kỷ XIX. Dưới đây chúng tôi xin phiên âm giới thiệu toàn văn:

Nam mô A Di Đà Phật

Niệm na mô A Di Đà Phật

1. Trăm tám tiếng hồi kình thưa nhặt,

Nửa triện hương dần dật thơm tho.

Lầm dầm niệm chữ Na mô,

Tấc lòng tôn kính mọi tòa chứng minh.

5. Trước đan đình quỳ tâu một sớ,

Sắc thị không mở rộng lòng từ.

Băng miền Yên Lãng xa xa,

Làng nam xóm ấy quê nhà thánh xưa.

Họ từ tăng quan nối dấu,

10. Dòng lương gia thánh mẫu họ Tăng.

Đất thiêng đúc lại tính hằng,

Tiên phong đạo cốt khác chưng người trần.

Hội gia [ ] cùng ba họ khác,

Ngày sáo đàn cờ bạc giả danh.

15. Đêm thì đèn sách một mình,

Tựa an dường ngủ quyển kinh chẳng dời.

Trên tuyển tài mở khoa Tăng thí,

Tạng Bạch liên trúng đệ nhất danh.

Thù Điên chưa giả bao đành,

20. Phép màu dễ chống chữ tình luống nan.

Cùng hữu nhân Minh Không, Giác Hải,

Kim Xỉ man thẳng ruổi dặm ngàn.

Gập ghềnh ngàn thẳm suối han,

Còn xa xôi nẻo dể men móc đường.

25. Trỏ nam phương trông về cố quận,

Dạ tới lui nổi trận bồi hồi.

Bỗng đâu trước mặt một người,

Phơ phơ tóc bạc khơi khơi duyềnh đào.

Nhẹ miệng chào khoan khoan ướm hỏi,

30. Rằng Tây Thiên chừng đỗi bao xa?

Đạo tâm thay bấy ông già,

Trao thuyền cho gậy tắt qua một giờ.

Thánh còn chờ cắm thuyền xuống bãi,

Để Minh Không Giác Hải cùng lên.

35. Hai ông học được chân truyền,

Hơn lòng trước đã ruổi miền cố hương.

Sự lạ dường thấy bà gánh nước,

Đôi sọt thưa chứa được phè phè.

Hỏi thăm biết bạn đã về,

40. Đạo thì bà dạy, phép thì bà trao.

Ngõ âm hao Phật Bà mới nhủ,

Hãy hãy về phép đủ thần thông.

Đà la chú thuộc làm lòng,

Phép thêm rút đất ngày giong khắp trời.

45. Giận hai người cướp đường lên trước,

Hóa hổ hình thử chước trêu ngươi.

Hậu thân bỗng nguyện một lời,

Kiếp sau vâng mệnh trị đời hóa nên.

Rằng hữu duyên bỏ hờn vẹn nghĩa,

50. Chia đôi lời huynh đệ no ba.

Cầu Báo lời tục từ xưa,

Tới nay còn để dấu thừa bao quên.

Trải sơn xuyên tìm nơi thắng cảnh,

Thấy Sài Sơn một đỉnh kỳ phong.

55. Khéo thay Cắc Cớ thiên công,

Thẳm khơi hang thánh lạnh lùng động Tiên.

Trước cửa Chiền trì kinh chuyển chú,

Đôi cây rồng bỗng hóa như không.

Thiên vương bốn tướng anh hùng,

60.Chạnh niềm công đức dốc lòng quy y.

Gẫm thần cơ đã no sáu trí,

Mối thù xưa chi để chung trời.

Duyềnh Tô thả trượng thử chơi,

Dựng ngay trên nước chia trôi ngược dòng.

65. Trỏ trên không khoan khoan giơ cánh,

Thày Đại Điên tính mệnh như phiêu.

Lòng hờn niềm tục đều tiêu,

Thăm chùa Hóa Đạo pha đèo Pháp Vân.

Phạm cao nhân A Na chờ thốt,

70. Kệ chân nhân nghe lọt nghĩa sao?

Thụy Nham cảnh cũ một lầu,

Lại về tu luyện chẳng cầu lợi danh.

Đạo càng tinh lòng thiền càng chín,

Loài thú cầm sai khiến dường tên.

75. Qua sông lấy dép thay thuyền,

Nương mây cưỡi gió chước tiên rất vời.

Nẻo nghe hơi rồng chầu cáo nép,

Ngày nắng mưa gặp phép nhẫn không.

Gở thay Yên Quyết duyềnh sông,

80. Hồn Điên lẩn quất mơ mòng chưa tan.

Chí rắp toan giả kỳ trích giáng,

Ở bẹ cau rơi xuống ra người.

Giác Hoàng sao khéo lạ vời,

Mượn danh đế tử đạo ngôi Lý hoàng.

85. Thiết đàn tràng cửu trùng xui dạ,

Chực đầu thai phi ngự quảy bày.

Thương đời thánh phải ra tay,

Trên rèm gieo ấn lưới vây thiết thành.

Quỷ tan hình một giây phút biến,

90. Lòng vua còn quyến luyến tiếc thay.

Nghĩ rằng có kẻ cao tay,

Trêu ngươi nổi giận chua cay luống hờn.

Quan Sùng Hiền ấm lòng sư sự,

Bạt thần liêu bàn phá phải chăng.

95. Chầu thôi đón rước tưng bừng,

Lễ nên sư đệ, tiệc mừng chủ tân.

Ơn báo ơn lòng vừa phát nguyện,

Nước tú chung đã hiện chân hình.

Thung dung trở lại thiền quynh,

100. Ân cần thánh dặn, đinh ninh mấy lời.

Thuở hoa khai bỗng khuây lời dặn,

Sức cù lao còn quặn đòi nao.

Ba ngày lần lữa canh thâu,

Bỗng liền xảy nhớ lời sau dặn dò.

105. Phô ngựa đình kíp sai tín bạch,

Lên động mây rũ sạch trần ai.

Như không tươi tốt hình hài,

Vết đầu ngấn gót Như Lai rành rành.

Lấy giờ sinh so cùng giờ hóa,

110.Chẳng chút sai đương ngọ chính trung.

Sơn anh dục, hải tú chung,

Gót lân bay bướm mặt rồng phương phi.

Chiếu nhường vì mỗi con hoàng đệ,

Chọn lấy tài chủ tể nguyên lương.

115. Nên ba, tài đã khác thường,

Ngọc âm chỉ phán, thanh phường định ngôi.

Vâng mệnh trời gian nan phải gắng,

Mười bốn năm gánh nặng sơn hà.

Túc nhân ngần ấy thôi mà,

120. Bồ Đề sẵn thú, Di Đà có duyên.

Chính tam thập tam thiên nguyên chủ,

Rạng đèn từ tế độ quần sinh.

Chùa xưa từ ấy anh linh,

Bỗng nhiều sự lạ dễ kinh lòng thường.

125. Trong thôn hương người người kính úy,

Đem việc tâu hoàng đế ngự hay.

Khâm sai nội sứ ruổi bay,

Sắm sanh trai lễ dãi bày lòng tin.

Ban lệnh truyền hưng vương tạo tác,

130. Áng lâu đài liên lạc am mây.

Một trời móc rưới mưa rây,

Đã dào đức Bụt lại dày ơn vua.

Biển chữ vàng rằng chùa Thiên Phúc,

Chứa càn khôn hạt thóc thông thênh.

135. Có tiên, núi được có danh,

Lạ thay sinh hóa, hóa sinh vốn còn.

Thẳng trên non từ đâu đâu tới,

Gió đìu hiu phơi phới thơm bay.

Bốn trăm năm lẻ thu chầy,

140. Minh nhân binh mã một ngày xảy qua.

Sực nức đưa mùi hương nồng nã,

Dễ xui lòng Bát Nhã nhơn nhơn.

Hang sâu lác thấy hình tiên,

Hoa còn hơn hớn, ngọc in làu làu.

145. Mới khẩn cầu rước ra đàn hỏa,

Chốn Hương Sơn rỡ rỡ bảy ngày.

Lửa than chất chứa trùng vây,

Phau phau chẳng bén hây hây chẳng hề.

Thấy sự kỳ đã hầu rắp nghĩ,

150. Đêm mơ màng dường rỉ bên tai.

Rằng lòng đã nguyện Như Lai,

Tìm cây sách mộc những nơi tân phần.

Cứ lời thần áo ào một thoảng,

Lấy tro tàn thánh tượng thửa nên.

155. Ngẫm xưa lời dạy nê hoàn,

Đành hay là sự túc duyên từ rày.

Phút phút bay ba trăm năm nữa,

Tới Lê triều vận mở trùng hanh.

Gia Miêu quan Thái uý trinh,

160. Con làm hoàng hậu, kỳ sinh muộn màng.

Lập đàn tràng dâng lời khấn vái,

Bỗng đá bay đem lại trước lòng.

Ứng điềm sinh đức Hiến Tông,

Dân nguyện tạo lệ sắc phong linh thần.

165. Mộc quốc ân xiết bao cảm kích,

Bút sử còn lai lịch sau xưa.

Hộ nhi năm mấy trăm thừa,

Chiếu chăn đầm ấm nắng mưa điều hòa.

Hội tháng ba giữa ngày mồng bảy,

170. Cứ hội lề lừng lẫy ca xoang.

Đâu đâu sĩ nữ đòi phương,

Dép giày náo nức quai vàng thướt tha.

Rạng sơn hà hoàng đồ củng cố,

Chúc tuổi vua vạn thọ vô cương.

175. Tôi nay khuya sớm đèn hương,

Lục xưa chấp chểnh lời thường nôm na.

Trước đàn hoa kiền thành ca dắng,

Nguyện độ trì phúc đẳng hà sa.

Nhà nhà phú quý vinh hoa,

180. Dân khang vật phụ quốc gia trị trường.

Na mô A Di Đà Phật

Niệm na mô A Di Đà Phật

Chú thích:

(Số thứ tự của các chú thích tính theo số câu của bài)

14. Ý cả câu nói: ban ngày giả vờ ham chơi đàn sáo cờ bạc.

17. Tuyển tài: kén chọn nhân tài

Tăng thí: thi cử tuyển chọn tăng tài.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì từ đời nhà Lý, triều đình đã tổ chức khoa thi Tam giáo, Bạch Liên để kén chọn nhân tài.

19. Điên: Tức Đại Điên, vị pháp sư đã giết thân phụ của Đạo Hạnh là Từ Vinh.

22. Kim Xỉ: chỉ vùng Ấn Độ cổ đại.

41. Âm hao: tin tức.

44. Đà la chú: tức chú Đà la ni của môn phái Mật Tông.

51. Cầu Báo: tên cây cầu ở huyện Hoài Đức, hiện nay vẫn còn địa danh này.

55. Thiên công: trời bày đặt ra. Hang Cắc Cớ ở trên núi Sài Sơn, một thắng cảnh nổi tiếng ở khu vực chùa Thày.

61. No sáu trí: đủ sáu trí thần thông.

66. Như phiêu: như bị phiêu bạt, tức là bị giết chết.

76. Chước tiên: biện pháp hay, phép tiên.

79. Gở: quái gở, ma quái.

81. Trích giáng: người trên thiên đình phạm tội bị đày xuống hạ giới.

83. Giác hoàng: danh hiệu tôn xưng đức Phật

88. Thiết thành: thành bọc sắt, thành trì vững chắc.

96. Chủ tân: chủ và khách.

98. Tú chung: chung đúc nên anh tú.

99. Thiền quynh: cửa Thiền.

101. Khuây: quên, lãng quên.

105. Tín bạch: đưa tin báo lên.

110. Đương Ngọ chính trung: giữa giờ chính Ngọ

119. Túc nhân: nhân duyên kiếp trước. Ý cả câu nói vua Lý Thần Tông là kiếp sau của thánh Từ Đạo Hạnh, chỉ ở ngôi 10 năm là mãn trần duyên.

127. Khâm sai nội sứ: sứ thần của nhà vua.

140. Minh nhân: người Minh, ở đây nhắc đến sự kiện quân Minh sang xâm lược nước ta đã đốt chùa Thầy, hủy chuông chùa.

142. Nhơn nhơn: uy nghiêm.

152. Tân phần: mộ mới chôn.

155. Nê hoàn: niết bàn.

165. Mộc quốc ân: gội nhuần ơn nước.

167. Hộ nhi: dân địa phương trông nom thờ thánh, được miễn lao dịch.

170. Ca xoang: khúc ca, ca nhạc.

176. Lục: kinh lục, sự tích đức thánh.

177. Ca dắng: ca nhạc, ca hát./.

(Tạp chí Hán Nôm, Số 4 (83) 2007; Tr.55 - 59)

In