TB

PHẤN ĐẤU XÂY DỰNG VIỆN HÁN NÔM XỨNG ĐÁNG LÀ TRUNG TÂM BẢO TỒN CÁC TƯ LIỆU NGUYÊN BẢN GHI BẰNG CHỮ HÁN, CHỮ NÔM VÀ NGHIÊN CỨU KHAI THÁC DI SẢN
HÁN NÔM CỦA NƯỚC TA
*

NGUYỄN DUY QUÍ

Kính thưa các vị đại biểu

Thưa các đồng chí và các bạn,

Hôm nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức kỷ niệm 30 năm thành lập Viện và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba, thay mặt lãnh đạo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, tôi xin gửi tới các vị đại biểu và toàn thể cán bộ của Viện lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Bảo tồn lâu dài và khai thác có hiệu quả kho di sản Hán Nôm ở nước ta là để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại ngày nay.

Như mọi người đều biết, di sản Hán Nôm gồm những thư tịch và tài liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, là kho tàng văn hóa thành văn to lớn và phong phú nhất trước khi có các văn bản ghi bằng chữ cái La tinh như hiện nay. Kho di sản Hán Nôm là kho trí tuệ của cha ông ta, ghi lại quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như các hoạt động về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa - xã hội của dân tộc Việt Nam trải hàng ngàn năm lịch sử. Bởi vậy, di sản Hán Nôm từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu khai thác của các nhà khoa học trong và ngoài nước.

Di sản Hán Nôm hiện được lưu giữ tập trung nhất và phong phú nhất tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, với khoảng 20.000 cuốn sách, gần 40.000 đơn vị thác bản văn khắc Hán Nôm và hơn 3.000 các tư liệu Hán Nôm khác, như tục lệ, thần tích, địa bạ v.v. Các tư liệu Hán Nôm này, phần lớn được Viện Viễn đông bác cổ (Pháp) thu thập vào những năm đầu thế kỷ XX và được Viện Nghiên cứu Hán Nôm bảo quản, tiếp tục thu thập trong gần 30 năm qua.

Những tác phẩm Hán Nôm ưu tú từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, là một di sản quý giá của nền văn hóa Việt Nam. Về thơ văn, có Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Nam quốc sơn hà của Thái úy Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Hịch đánh quân Thanh của Quang Trung và nhiều thơ văn của các tác gia, như Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, v.v. thể hiện chính khí, hơi thở hào hùng của một dân tộc anh hùng. Về sử, có Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương mục tiết yếu, v.v. là những công trình biên soạn lịch sử đồ sộ của nhiều nhà sử học nổi tiếng của nước ta. Về địa, có Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Hồng Đức bản đồ, Đồng Khánh dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí v.v. ghi chép địa lý Việt Nam trải qua các triều đại phong kiến. Về tư tưởng triết học, có Thiền uyển tập anh, Thiền tông bản hạnh, Thượng sĩ ngữ lục, Khóa hư lục, Hương Hải thiền sư ngữ lục, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh v.v. và nhiều tác phẩm thơ, văn của các tác gia như Trương Hán Siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn v.v. đã thực sự góp phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam. Những tác phẩm Hán Nôm khác về Giáo dục, Pháp chế, Kinh tế, Ngoại giao, Ngôn ngữ văn tự, Toán học, Y học, Quân sự quốc phòng, Tôn giáo, Dân tộc, Nghệ thuật; đến những tác phẩm Hán Nôm tổng hợp “văn sử triết bất phân”; hoặc những tác phẩm Hán Nôm có nội dung đan xen các ngành công, nông, thương, kỹ nghệ trong một văn bản. Tất cả là sự biểu hiện hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.

Đảng và Nhà nước ta, ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã quan tâm chú ý tới công tác sưu tầm, bảo quản và nghiên cứu khai thác kho di sản Hán Nôm; coi đó là những tác phẩm thể hiện tâm hồn và cốt cách Việt Nam, được hun đúc trải qua nhiều thế kỷ. Từ nhận thức đúng đắn này, Đảng và Nhà nước ta đã chú ý tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm trong chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Các lớp đào tạo đội ngũ Hán Nôm học được triển khai, như lớp Đại học Hán học (1965 - 1968), lớp chuyên tu Hán Nôm sau Đại học (1972 - 1975) của ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam; từ năm 1972 trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tuyển sinh bậc Đại học chuyên ngành Hán Nôm và Trường Đại học Sư phạm, một số Viện nghiên cứu chuyên ngành, cơ quan văn hóa cũng dạy chữ Hán và chữ Nôm. Đặc biệt vào năm 1970, ủy ban Khoa học xã hội thành lập Ban Hán Nôm và năm 1979, Chính phủ có quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây là cơ quan lớn nhất trong cả nước với đầy đủ chức năng nhiệm vụ là sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu các tư liệu Hán Nôm và đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm bậc sau Đại học.

Chúng ta hết sức biết ơn các thế hệ Hán Nôm học tiền bối, như GS. Đặng Thai Mai, GS. Cao Xuân Huy, GS. Phạm Thiều, GS. Đào Duy Anh, cụ Hoa Bằng, cụ Trần Văn Giáp, cụ Nam Trân, cụ Ca Văn Thỉnh, cụ Đỗ Ngọc Toại, cụ Đào Phương Bình v.v. và các thế hệ đàn anh khác đã có công đào tạo đội ngũ Hán Nôm học và xây dựng Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngày nay, cùng với sự phát triển của ngành Hán Nôm học Việt Nam.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong 30 năm qua, đã làm tốt các chức năng nhiệm vụ của mình mà Đảng và Nhà nước giao cho, trong các lĩnh vực công tác về sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm. Những thành tựu mà Viện gặt hái được như trong Báo cáo tổng kết Viện Nghiên cứu Hán Nôm - 30 năm xây dựng và phát triển mà đồng chí Viện trưởng Trịnh Khắc Mạnh vừa trình bày, đã khẳng định tinh thần trách nhiệm, sự lao động cần mẫn của nhiều thế hệ cán bộ của Viện, góp phần bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc.

Thay mặt lãnh đạo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, tôi nhiệt liệt biểu dương tinh thần làm việc hăng say và sáng tạo của các đồng chí, những thành tựu mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm đạt được trong công tác phục vụ nghiên cứu và nghiên cứu khoa học, xứng đáng được Nhà nước tặng phần thưởng cao quý - Huân chương lao động hạng Ba. Xin chúc mừng các đồng chí.

Tuy nhiên, với một khối lượng di sản Hán Nôm đồ sộ hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các cơ quan khác, cũng như đang cất giữ ở nhiều địa phương trong cả nước, thì những việc mà các đồng chí đã làm được còn rất khiêm tốn so với yêu cầu của Đảng và Nhà nước về bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Những năm gần đây, được Chính phủ cho phép, được sự thỏa thuận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia đã phê duyệt Dự án tổng thể về bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đặc biệt, với sự chỉ đạo của lãnh đạo Trung tâm, Viện đã xây dựng Quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong sự phát triển và trong mối quan hệ hữu cơ với Quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001 - 2010). Tôi tin tưởng rằng, trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ có những điều kiện tốt hơn, những định hướng phát triển hợp lý hơn để hoàn thành các chức năng và nhiệm vụ của mình về bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm, đặc biệt chú ý về những nhiệm vụ nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm mà Đảng và Nhà nước đã giao.

Những năm qua, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã phấn đấu thực hiện nhiệm vụ của mình theo hướng đoàn kết, ổn định và phát triển. Tôi tin tưởng rằng, những năm tới Viện sẽ tiếp tục đoàn kết, ổn định phát triển hơn, cùng xu thế phát triển chung của đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhân dịp này, thay mặt Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Bộ ngành Trung ương và các địa phương đã quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tôi cũng xin cảm ơn các tổ chức quốc tế đã dành cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm sự giúp đỡ và Hợp tác có hiệu quả.

Xin gửi tới các vị đại biểu và toàn thể cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các đồng chí đã nghỉ hưu hoặc chuyển sang các cơ quan khác có mặt ở đây lời cảm ơn chân thành, lời chúc sức khỏe, thành đạt và hạnh phúc.

CHÚ THÍCH

* Bài phát biểu của Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Duy Quí, ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba (Ngày 24 tháng 4 năm 2000).

TB

NHỚ LẠI MỘT THỜI - NHÂN KỶ NIỆM
30 NĂM XÂY DỰNG VIỆN HÁN NÔM

PHẠM HUY CHÂU(*)

Một đêm tháng 11 năm 1972, anh Trần Phương (lúc ấy là Phó chủ nhiệm ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) triệu tôi đến gặp và thuyết phục tôi về nhận công tác mới tại Ban Hán Nôm. Tôi gặp anh tại nhà riêng ở phía ngoài đê sông Hồng. Trong lúc nói chuyện, máy bay Mỹ nhiều lần lượn vòng sà xuống mặt sông, lia bắn lẹt đẹt. Hiểu rõ yêu cầu của anh, tôi thật ngỡ ngàng và phân vân. Ngỡ ngàng vì tôi đang công tác ở Viện Triết, nghiên cứu một đề tài thật hiện đại, là “Đấu tranh giai cấp ở miền Bắc trong thời kì quá độ”, mà công tác Hán Nôm ắt là phải vùi đầu vào giữa những chồng sách cũ. Phân vân, vì vốn liếng Hán học của tôi chẳng có gì: Hồi nhỏ, lúc còn học tiểu học Pháp Việt, được cha tôi dạy kèm thêm tại nhà quyển Tam tự kinh, quyển Ấu học tân thư; lớn lên, đi làm, có tự học thêm đôi chút, nhưng chủ yếu là để có thể đọc hiểu được văn thơ cổ điển Việt Nam. Thế rồi, cách mấy hôm sau, tôi nhận được quyết định của ủy ban đề ngày 27-11-1972, “xét nhu cầu công tác” cử tôi về “nhận công tác Phó Ban Hán Nôm”. Tôi tự nhủ: cứ lao vào công việc mới, rồi sẽ thấy niềm vui trong đó.

Ban Hán Nôm đã được thành lập từ quý 4 năm 1970. Thời gian đầu đã tập hợp được gần hai chục cán bộ tách ra từ các viện Văn, Sử, Thư viện Khoa học xã hội. Lớp cán bộ có tuổi, có vốn cựu học sâu sắc là các cụ Phạm Thiều (Trưởng ban), Cao Xuân Huy, Đào Phương Bình, Hoa Bằng, Thạch Can, rồi đến Bùi Thanh Ba, Nguyễn Văn Huyên, Cụ Trần Duy Vôn được mời về làm "cộng tác viên thường trú" (thời Pháp thuộc, cụ đã từng viết bài cho tạp chí Nam phong phần chữ Hán, với bút danh Nhàn Vân Đình, làm cộng tác viên chữ Hán cho Học viện Viễn đông Bác cổ). Lớp cán bộ trẻ đều đã tốt nghiệp lớp Đại học Hán Nôm 1965 - 1968 mở tại Viện Văn - lớp Đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc. Đó là các anh chị: Kiều Thu Hoạch, Mai Quốc Liên, Cao Hữu Lạng, Nguyễn Thị Xuân, Dương Thái Minh, Ngô Thế Long, Nguyễn Ngọc Nhuận, Đỗ Thị Hảo, Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Kim Hưng. Cán bộ quyết định hết thảy: trong hoàn cảnh sơ tán, cứ có cán bộ là đủ thành cơ quan. Vì cán bộ sinh hoạt và làm việc ngay tại nhà dân, bàn ghế có thiếu cũng mượn được của dân; chỉ cần một người phụ trách hành chính - quản trị (lúc ấy là bác Kiên) liên hệ với địa phương, sắp đặt chỗ ở cho mọi người. Còn cán bộ nghiên cứu thì có sách và giấy bút là đủ công cụ làm việc. Tuy vậy, có được quyển sách Hán Nôm để đọc cũng khá diệu vợi: sách Hán Nôm bấy giờ nằm trong kho của Thư viện Khoa học Xã hội; để bảo quản kho sách quý Hán Nôm trong hoàn cảnh có chiến tranh, phá hoại, Thư viện đã sơ tán nó vào những ngôi nhà sàn dựng giữa đồi cọ, xa nhà dân, ở mãi trên huyện Lập Thạch (Vĩnh Phú); Ban cần quyển gì, phải mượn Thư viện và cử cán bộ đi hàng ngày đường để đèo về.

Và thế là cuối năm 72, tôi phải về Ban, lúc ấy đóng ở các thôn Dinh Đồng, Nội Cả thuộc xã Thường Thắng (Hiệp Hòa, Bắc Giang), để kịp đón 21 cán bộ mới tuyển dụng đều là sinh viên vừa tốt nghiệp khoa Trung văn trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ (các anh Bảy, Bến, Dân, Giáp, Hồng, Đinh Minh, Nhí, Quyền, Quýnh, Thắm, Thức; các chị Anh, Lựu, Việt Nga, Lệ Nga, Nguyệt, Phượng, Thảo, The, Thoa, Trang). Cơ quan đã có tới bốn chục người. Ngoài các cụ có vốn Hán Nôm vào bậc thầy, còn lại đều là cán bộ trẻ, đã qua lớp Đại học Hán Nôm hoặc mới chỉ có vốn Đại học Hán ngữ với tư cách là sinh ngữ. Cũng may là sang năm 73 thì Đế quốc Mĩ buộc phải rút quân khỏi Việt Nam, miền Bắc thoát được cuộc đánh phá bằng không quân, các cơ quan thuộc ủy ban Khoa học xã hội lục tục hồi cư về Hà Nội. Ban Hán Nôm được Thư viện Khoa học xã hội (phố Lý Thường Kiệt) nhường cho một ngôi nhà 1 tầng ở sân sau làm trụ sở; anh em đã có nơi làm việc tập trung, dù sao cũng đã khang trang hơn trước.

Là một cơ quan mới, Ban đụng ngay vào hai vấn đề lớn: một là bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, hai là tổ chức cơ quan, tổ chức công tác của cơ quan.

Vấn đề cán bộ thật bức xúc. Số người có vốn cựu học thuộc thế hệ trước còn lại rất ít. Vì vậy vừa cần gấp rút chiêu tập, khai thác lớp cựu học có tuổi, vừa cần gấp rút bồi dưỡng, đào tạo lớp trẻ kế tiếp.

Ban đã tìm, liên hệ, xây dựng được một mạng lưới cộng tác viên gần hai chục cụ ở Hà Nội. Các cụ nhận dịch thuê cho Ban, theo kế hoạch Ban giao. Một số cụ làm cộng tác viên thường trú, tức là ở luôn cơ quan hay thường xuyên đến làm việc tại cơ quan; ngoài cụ Trần Duy Vôn đã kể, về sau thêm các cụ Nguyễn Thúc Linh, Lê Duy Chưởng, Nguyễn Hữu Chế, Nguyễn Văn Lãng. Anh em cán bộ luôn có điều kiện tiếp cận các cụ, học hỏi trong công việc. Nhiều cụ không đến cơ quan, nhưng cũng vui lòng hướng dẫn cán bộ trẻ, thường là giải đáp, duyệt các bản dịch và nhận hiệu đính các bản dịch (như các cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Đỗ Ngọc Toại). Cũng có cộng tác viên là cán bộ đương chức, như bác Trương Đình Nguyên, cán bộ giảng dạy trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ, bác Vũ Tuân Sán cán bộ Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội (bác Sán sau về hẳn Ban công tác, thay bác Bùi Thanh Ba).

Để bồi dưỡng đào tạo cán bộ trẻ, Ban liên tiếp mở hai lớp chuyên tu Hán Nôm tại chức: lớp sau Đại học 73 - 75 dành cho những anh chị em mới tốt nghiệp Đại học Trung văn, và lớp trên Đại học 74 - 77 dành cho những cán bộ đã qua lớp Đại học Hán Nôm.

Chương trình của lớp chuyên tu sau Đại học có 3 phần. Phần chuyên môn Hán Nôm gồm: cổ Hán văn Trung Quốc, cổ Hán văn Việt Nam, học những đoạn trích các tác phẩm tiêu biểu từ cổ đại đến cận đại (hết thời phong kiến), chữ Nôm, bốn dạng chữ Hán (tứ thể); có bổ sung môn ngữ pháp văn ngôn. Giảng viên là cán bộ có tuổi trong Ban, có mời thêm người ngoài Ban như cụ Đỗ Ngọc Toại, bác Trương Đình Nguyên tham gia giảng dạy. Mục đích của phần này được xác định là để học viên “thông văn mạch sách Hán, hiểu ngữ pháp Hán cổ, thạo cách phát âm Hán Việt, đọc được chữ Nôm, có một số vốn nhất định về những điển cố thường dùng trong sách Hán Nôm của Việt Nam”. Phần thứ hai là Triết học, nhằm giúp học viên nắm vững vấn đề tư tưởng cơ bản (tâm và vật), vấn đề phương pháp luận Macxít và đường lối văn hóa của Đảng, để có thể vận dụng vào công tác khai thác văn bản cổ; phần này, mời các cán bộ chủ chốt của Viện Triết đến giảng. Phần thứ ba gồm các chuyên đề cần thiết cho người khai thác sách cổ Hán Nôm, như văn bản học, lịch sử tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam, lịch sử Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo; phần này, mời các giảng viên Đại học đến thuyết trình (các GS. Hà Văn Tấn, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Đình Hượu v.v.)

Lớp chuyên tu trên Đại học được mở với danh nghĩa là lớp của ủy ban Khoa học xã hội, do Ban Hán Nôm chủ trì. Có 31 cán bộ theo học, đến từ nhiều cơ quan (Ban Hán Nôm 10, Viện Văn 6, Viện Sử 1, Thư viện KHXH 3, Thư viện Quốc gia 1, Trường Đại học Tổng hợp 1, các Trường Đại học Sư phạm 5). Chương trình gồm hai phần. Phần bổ túc kiến thức có: cổ Hán văn, mở rộng và nâng cao hơn chương trình lớp Đại học Hán Nôm, môn Triết học như ở lớp sau Đại học, có bổ sung chuyên đề văn bản học. Phần này đã tổ chức thi kiểm tra xong trong năm 1974, kết quả 23 người đạt điểm. Phần thứ hai là luận văn tốt nghiệp. Yêu cầu là học viên tự chọn một tác phẩm Hán Nôm Việt Nam, nghiên cứu văn bản, giới thiệu tác giả, nội dung chủ yếu và giá trị của tác phẩm, cuối cùng là phiên dịch (hoặc phiên âm) nguyên bản (có thể chọn một đoạn, nếu tác phẩm quá dài) kèm theo những chú giải cần thiết. Chỉ có hơn 10 cán bộ dự làm luận văn; nhiều người đã chọn tác gia thời Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Đoàn Nguyễn Tuấn... có người chọn thời Nguyễn, như Nguyễn Đức Đạt, hoặc chọn chuyên đề như quan chế thời Minh Mạng. Mỗi luận văn, Ban đều cử người hướng dẫn, đến khi chấm có lập Hội đồng chấm thi nghiêm túc. Kết quả: 10 cán bộ Ban Hán Nôm đã đạt điểm tốt nghiệp (các chị Hảo, Hưng, Xuân, Thúy, các anh Lạng, Liễn, Long, Lương, Minh, Nhuận); ngoài Ban, có anh Ngô Đức Thọ (Thư viện Quốc gia) tốt nghiệp, sau chuyển về công tác tại Ban.

Năm 1976, Ban có mở một lớp học chữ Thảo trong cơ quan, liền mấy tháng, do bác Đào Phương Bình phụ trách.

Ngoài ra, Ban cũng thường xuyên tổ chức những buổi báo cáo khoa học chuyên đề, nhằm nâng cao thêm trình độ kiến thức cho toàn cơ quan: cụ Đỗ Ngọc Toại thuyết trình về hôn lễ, tang lễ, tế tự thời phong kiến; GS Nguyễn Tài Thư nói về Nho giáo ở Việt Nam, ông Minh Chi nói về Phật giáo ở Việt Nam và các thuật ngữ Phật học, GS. Nguyễn Tài Cẩn nói về những vấn đề trong nghiên cứu chữ Nôm, GS. Hoàng Như Mai bình về những bài thơ dịch Ngục trung nhật kí, nhà thơ Khương Hữu Dụng giới thiệu kinh nghiệm dịch thơ chữ Hán sang tiếng Việt...

Cơ quan đầy không khí học tập và giao lưu học thuật thật tấp nập.

Vấn đề lớn thứ hai là xây dựng cơ quan, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đồng thời cũng là xây dựng Chuyên ngành Hán Nôm với tư cách là một ngành nghiên cứu.

Nhìn lại lịch sử, dễ thấy rằng nhu cầu nghiên cứu, khai thác di sản Hán Nôm không phải đến bây giờ mới có. Thời Pháp thuộc, nhiều học giả đã làm. Có người chọn dịch một số văn, thơ chữ Hán của Việt Nam, song nhiều nhất là phiên ra chữ Quốc ngữ rất nhiều tác phẩm trước kia viết bằng chữ Nôm như các phong dao, các bài văn thơ Nôm, các truyện Nôm, từ những diễn ca mang tính bình dân cho đến những áng văn chương tuyệt tác như Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều. Công việc ấy thể hiện một tinh thần dân tộc chưa hề mai một, một tấm lòng nhiệt thành đối với nền văn hóa dân tộc, song tất cả đều mang tính tự phát.

Sau Cách mạng, việc khai thác di sản Hán Nôm nằm trong quỹ đạo xây dựng nền văn hóa mới. Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã nêu ra ba phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Văn bản chữ Nôm rõ ràng là mang tính dân tộc trực tiếp. Chữ Nôm chẳng qua là một hình thức ghi tiếng Việt; các cụ xưa gọi thơ văn Nôm là thơ văn quốc âm, quốc ngữ. Văn bản chữ Hán dùng Hán văn cổ, có thể ghi việc, ghi ý, dùng trong giao tiếp, nhưng là giữa những người có học biết chữ Hán, khác hẳn tiếng Việt. Người Trung Quốc ngày nay gọi Hán văn cổ là văn ngôn, phân biệt với bạch thoại; người Trung Quốc có trình độ văn hóa phổ thông chỉ hiểu được bạch thoại; muốn thạo văn ngôn phải được đào tạo, học tập riêng. Hán văn cổ Việt Nam được viết theo mô hình của văn ngôn Trung Quốc, về hình thức văn tự là vay mượn. Song trong lịch sử, Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, chữ Hán gần nghìn năm dần dà đã có vị trí chính thống trong công vụ Nhà nước, trong việc giáo dục và đào tạo nhân tài, các nho sĩ lại đã dùng chữ Hán để sáng tác, ghi lại những sự kiện của lịch sử Việt Nam, phản ánh tâm tư, tình cảm, nhận thức tư tưởng của Việt Nam, chính nội dung ấy là mang tính dân tộc. Song muốn cho người ngày nay hiểu được nội dung ấy, phải “dân tộc hoá” nó, nghĩa là chuyển dịch nó sang tiếng Việt, ghi bằng chữ mà ta gọi là chữ Quốc ngữ dựa vào chữ cái La tinh. Về mặt văn tự, tương lai của dân tộc ta, nước ta thuộc về thứ chữ này. Từ đầu thế kỷ, “ông nghè ông cống cũng nằm co”; chữ Hán, chữ Nôm đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó.

Khi nghiên cứu Văn học, Sử học, lịch sử tư tưởng thời trước, các Viện Văn, Sử, Triết đã vấp phải các văn bản Hán Nôm, buộc phải thuê dịch Hán Nôm ra tiếng Việt, chữ Việt, lấy những bản dịch làm tư liệu nghiên cứu. Có điều là những bản dịch ấy chất lượng không đều, lại xuất phát từ những văn bản chưa hề được khảo sát, giám định về mặt lai lịch làm sao có thể đảm bảo được là những căn cứ có tính khoa học ? Hơn nữa, việc khai thác văn bản Hán Nôm như vậy là phân tán, ít nhiều vẫn có tính tự phát. Lập ra cơ quan nghiên cứu Hán Nôm, Chuyên ngành Hán Nôm, là để tiến hành công tác nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm không những theo quan điểm mới, mà còn là nghiên cứu khai thác một cách khoa học hơn và có tổ chức.

Vậy nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm, trong Chuyên ngành Hán Nôm, như thế nào ?

Trước hết, cần khẳng định: đối tượng nghiên cứu của ngành Hán Nôm là những văn bản Hán Nôm của Việt Nam, trước mắt là những văn bản đã thu thập được trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chưa kể những thứ còn sót lại và tản mát trong các tư gia, các đền chùa và di tích văn hóa khác. Đó là những đối tượng cụ thể, những sản phẩm lịch sử đã định hình, có hạn, không phát triển.

Đối tượng nghiên cứu quy định nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.

Văn bản Hán Nôm là sản phẩm của thời kỳ phong kiến rất dài. Trải qua sự thăng trầm của các thời đại, sự tàn phá của các cuộc chiến tranh, lại do nghề in chưa phát triển, mới đạt đến trình độ in khắc ván gỗ, phần rất lớn là những văn bản được lưu truyền qua viết tay trên giấy, khó bảo quản, dễ hư nát, vì vậy không còn giữ được nguyên trạng của thời kỳ văn bản xuất hiện. Văn bản gốc rất hiếm (có lẽ chỉ trừ những văn bản khắc bia, khi bia đá chưa mòn nét chữ hoặc chưa bị đục). Đại bộ phận là chép tay, lại là chép vào thời gian chưa xưa lắm (Kho sách Hán Nôm hiện nay chủ yếu là tiếp thu từ kho của Học viện Viễn đông Bác cổ, có những bản cũ mà Học viện thu thập và những bản mới mà Học viện thuê chép).

Vấn đề đặt ra đầu tiên cho người nghiên cứu là phải khảo cứu, giám định văn bản, tìm bản gốc hoặc bản gần nhất với bản gốc, tái hiện lại diện mạo đích thực của văn bản trong lịch sử.

Ở Trung Quốc, đầu đời Thanh, đã có nhiều công trình khảo chứng lại các thư tịch cổ, phát hiện ra và đính chính lại nhiều nhận thức sai lầm trước kia về những câu, đoạn trong văn bản, thậm chí cả về niên đại xuất hiện, về tác giả của văn bản; người Trung Quốc gọi việc này là khảo chứng học. Phương Tây khi nghiên cứu các tác phẩm cổ đại (trong văn học Hi La chẳng hạn) cũng đã có nhiều kinh nghiệm bổ sung, đính chính văn bản. Có tác giả thử tổng kết những kinh nghiệm ấy, sắp xếp thành hệ thống, gọi là Văn bản học (Textologie). Ở Việt Nam, biết là có tình trạng “tam sao thất bản”, nhiều người đã cẩn thận nêu kèm các bản dịch những chú thích khảo dị, nhưng mới chỉ nêu ra những sai biệt mà không phân tích, lí giải. Ngày nay nghiên cứu văn bản một cách khoa học thì việc đầu tiên là phải giám định văn bản, khảo cứu nó về mặt văn bản. Đó là một nhiệm vụ của Chuyên ngành Hán Nôm. Đó cũng là ý thức trách nhiệm của người nghiên cứu đối với lịch sử, đối với tiền nhân.

Đặc điểm lớn thứ hai của văn bản Hán Nôm là viết bằng chữ Hán, chữ Nôm ngày nay không còn thông dụng. Nghiên cứu, khai thác văn bản xưa không phải là vì xưa, mà là để xây dựng nền văn hóa mới, phải tạo thuận lợi cho người Việt Nam ngày nay và mai sau tiếp cận được, lĩnh hội và thưởng thức những giá trị văn hóa cổ. Như vậy khai thác văn bản Hán Nôm phải bao gồm việc phiên dịch văn bản chữ Hán sang tiếng Việt, phiên âm văn bản chữ Nôm thành chữ Quốc ngữ hiện đại. Đó là phá vỡ cái vỏ văn tự cổ xưa để lộ ra cái ruột, phần tinh hoa. Công việc này không phải là mới; vấn đề là phải thực hiện một cách khoa học, đảm bảo cho bản dịch là hình ảnh trung thực của nguyên bản. Đây cũng là một nhiệm vụ mà Chuyên ngành Hán Nôm không thể thoái thác; nếu chuyên gia Hán Nôm không làm, thì việc này dành cho ai ? Đương nhiên là tùy theo ý nghĩa, giá trị của từng văn bản mà bản dịch có thể công bố trong nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau: phạm vi rộng, đại trà đối với những tác phẩm có giá trị phổ biến, phạm vi hẹp hơn cho giới nghiên cứu (Văn, Sử, Triết, Ngôn ngữ học, Dân tộc học, Văn hóa học...), thậm chí có phạm vi hẹp hơn nữa (nhất thiết phải in nguyên dạng chữ Hán, chữ Nôm) cho giới chuyên gia Hán Nôm, liên quan đến các vấn đề của văn bản học, văn tự học hay khoa dịch thuật.

Phiên dịch tức là chuyển từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Đây là một nhu cầu thực tế, đã có và còn phát triển lâu dài khi việc giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng ra phạm vi thế giới. Công tác phiên dịch đòi hỏi người phiên dịch phải hiểu được nội dung của nguyên bản, lại phải nhuần nhuyễn cả hai thứ ngôn ngữ. Chưa ai nói đến môn Phiên dịch học, song cũng như kinh nghiệm văn bản học phụ thuộc vào tình trạng: những văn bản cụ thể nào là đối tượng nghiên cứu, kinh nghiệm và kỹ năng phiên dịch cũng tùy thuộc vào chỗ: từ tiếng nào dịch sang tiếng nào. Trong việc dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, các cụ xưa đã truyền lại ba chuẩn mực là: tín, đạt, nhã. Chuẩn mực hàng đầu là tín; nếu dịch sai tức là phản lại nguyên bản. Đạt, có thể hiểu là: dịch sang tiếng Việt thì đúng là tiếng Việt thuần túy, trong sáng, thoát khỏi sự ràng buộc của nguyên ngữ. Có thể hiểu nhã là yêu cầu cao khi dịch văn chương. Ta có kinh nghiệm: khi dịch thơ thì vừa dịch nghĩa (yêu cầu là tín, đạt), vừa dịch thơ (lột tả cả vần, điệu tứ thơ, hồn thơ, phong cách). Người xưa cũng đã từng tạo ra những bản dịch tuyệt vời, như bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm, bản dịch Nôm bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị.

Để phiên âm chữ Nôm, phải biết đọc đúng; muốn vậy, phải hiểu cách cấu tạo chữ Nôm và quá trình diễn biến của nó. Từ lúc xuất hiện cho đến lúc bị thay thế, chữ Nôm chưa bao giờ được tôn trọng bằng chữ Hán; có lẽ vì thế mà nó chưa được thật chuẩn hoá. Do đó, Chuyên ngành Hán Nôm phải nghiên cứu chữ Nôm với tư cách là văn tự, nghiên cứu chữ Nôm về mặt văn tự học. Có như thế mới có thể đọc đúng chữ Nôm, khôi phục lại nguyên dạng văn bản Nôm vào thời kỳ nó ra đời. Việc nghiên cứu này lại có phần đóng góp cho ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt, chẳng hạn như phát hiện ra những từ, cụm từ tiếng Việt cổ.

Tóm lại, có thể hình dung một công trình nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm của Chuyên ngành Hán Nôm là như sau: có phần giám định văn bản hay nghiên cứu văn bản học: tìm hiểu lai lịch các dị bản, lấy bản nào làm nền, đính chính và bổ sung những chỗ lầm lẫn sai sót, khôi phục lại đúng hay gần đúng nguyên bản; có phần phiên dịch (hay phiên âm) ra tiếng Việt, kèm những chú giải cần thiết về mặt ngữ nghĩa hay lịch sử; có phần giới thiệu nội dung chính và giá trị lịch sử của văn bản (Mô hình này mấy năm sau đã được vận dụng khi đặt ra yêu cầu đối với luận văn tốt nghiệp lớp Hán Nôm trên Đại học).

Những nhận thức trên đây về Chuyên ngành Hán Nôm là kết quả của quá trình bàn bạc, trao đổi giữa các cán bộ chủ chốt của Ban trong 5 buổi họp, và đưa ra lấy ý kiến chung của tất cả anh chị em toàn cơ quan trong một ngày họp, tiến hành vào khoảng cuối năm 1973.

Sau khi thành lập, làm việc ở nơi sơ tán với số lượng cán bộ ít ỏi, Ban bắt đầu làm một số công trình, theo sáng kiến của lớp cán bộ có tuổi, am hiểu hơn, đề ra. Thoạt đầu làm công trình “tựa, bạt”, định giới thiệu tất cả các bài tựa, bài bạt của những quyển sách, bộ sách có giá trị. Sau đó, lại chủ trương làm 2 công trình “thơ văn bang giao” và “văn bia”, chia cán bộ thành 2 tổ để tiến hành. Đó là hướng đặt chương trình công tác theo chuyên đề.

Bước đầu tiên là lập danh mục các bài, các sách cần dịch. Để làm việc này, phải dựa vào bộ Thư mục Hán Nôm của Thư viện KHXH. Bộ Thư mục gồm 9 tập (về sau được Ban Hán Nôm làm tiếp 3 tập sách dẫn, cộng thành 12 tập) do các anh Cao Hữu Lạng, Dương Thái Minh, các chị Nguyễn Thị An Tâm, Vũ Thanh Hằng, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Cẩm Thúy biên soạn theo bảy tiêu chuẩn thư mục học. Nó giới thiệu toàn bộ các thư tịch được coi là tác phẩm, và còn để ngoài chưa đụng đến những thác bản văn bia, những địa bạ, hương ước, thần tích, xã chỉ... mà Thư viện đã có. Thế là tổ văn bia phải dựa vào các phiếu cũ của Thư viện, bổ sung và biên soạn ra bộ Thư mục đầu tiên về văn bia, phản ánh 23 nghìn thác bản, đánh máy thành 23 tập, có sách dẫn tên bia, tên địa phương, niên đại, tên người, tên tác giả. Đến cuối năm 1973, hai tổ thơ văn bang giao và văn bia đã biên dịch được một phần quan trọng các văn bản, song hai công trình đều chưa hoàn thành được.

Sau khi trở về Hà Nội, Ban định soát lại toàn bộ số sách Hán Nôm, xem trong mỗi loại, bao nhiêu quyển đã được dịch, công bố ? Bao nhiêu quyển còn lại, chưa khai thác ? Số còn lại giá trị nhiều, ít như thế nào ? (xếp giá trị thành 3 bậc A, B, C ). Có nắm được tình hình như thế mới có căn cứ rõ rệt để xây dựng chương trình khai thác từ nay về sau. Ban dựa vào số cán bộ cũ để làm việc này gọi là làm điều tra cơ bản, tiến hành vào quý 3 năm 1973. Tất cả có chừng 5.500 tên sách. Để tiến hành điều tra, phải chia loại theo cách phân loại khoa học hiện nay cho dễ quan niệm: Văn, Sử, Địa, Triết, Nôm. Kết quả thấy rằng chia như vậy là tương đối phù hợp với thực trạng các sách hiện có. Sách Nôm tuy ít, nhưng là loại đặc biệt: ngoài nhu cầu phiên âm văn bản Nôm, còn có nhiệm vụ nghiên cứu chữ Nôm về mặt văn tự. Số sách chữ Hán rất lớn. Sách văn học nhiều. Có những sách đủ thứ, nhưng số lượng mỗi thứ lại quá ít ỏi, như các sách về kĩ thuật, lễ nghi, phong tục, bói toán, phong thủy v.v, tạm dồn vào loại lớn là sử học, số sách địa chí tương đối ít. Số sách có tính học thuật, biện luận về Tam giáo, tuy không nhiều nhưng lại phản ánh tình hình phát triển tư duy trừu tượng của dân tộc, được xếp vào loại Triết. Trên cơ sở chia loại sách (là đối tượng khai thác) cũng đã chia cán bộ (là người khai thác) thành các tổ nghiên cứu, như: Nôm, Văn, Sử - Địa, Triết. Không kể Nôm, cách chia theo môn học như vậy cũng có tính tương đối, vì trong sáng tác thời xưa tình trạng chung là “Văn Sử Triết bất phân”; song cũng có phần thuận lợi cho việc nghiên cứu và khai thác: mỗi môn là một phạm vi kiến thức, có từ vựng và phong cách viết riêng, do đó cán bộ cũng dễ có điều kiện đi sâu và chuyên môn hóa.

Cuối năm 1973, ủy ban Khoa học xã hội ra quyết định (số 131 ngày 10-12-73) xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban Hán Nôm. Như vậy là từ 1974, Ban đã thành một cơ quan nghiên cứu khá chững chạc. Biên chế 47 người, một người phụ trách hành chính - quản trị, 1 nhân viên đánh máy. Có bộ phận tư liệu, nhiệm vụ là mượn sách Hán Nôm của Thư viện, kể cả sách công cụ, cho anh em nghiên cứu; lưu giữ những bản dịch của các cộng tác viên, đồng thời quản lí luôn công tác thuê dịch và thanh toán thù lao. Còn lại là 4 tổ nghiên cứu: Nôm, Văn, Sử - Địa, Triết. Chỉ đạo, thẩm định công tác nghiên cứu là một Hội đồng khoa học gồm 8 cán bộ chủ chốt.

Ban có chủ trương chuyển hướng đặt chương trình khai thác di sản Hán Nôm theo thời đại. Để bắt đầu, hai tổ Văn, Triết chọn thời đại Tây Sơn, với nhận định: đây là một thời kỳ lịch sử rực rỡ, văn hóa có xu hướng phát triển tiến bộ, mà triều Nguyễn kế tiếp lại đã ra sức xóa bỏ mọi dấu vết. Các tổ đã đặt kế hoạch khai thác các tác giả Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn. Tổ Sử tiếp tục công trình về văn bia. Tổ Nôm khai thác văn thơ Nôm chống Tây Sơn (Nguyễn Bá Xuyến) và có chương trình riêng: tiếp tục điều tra thư mục, phiên âm các tập ca dao.

Cuối năm 1976, Ban tổ chức Hội thảo khoa học về nghiên cứu chữ Nôm; tham dự có toàn thể cán bộ trong Ban, những cán bộ quan tâm ngoài Ban (các ông Đỗ Văn Hỉ - Viện Văn học, Nguyễn Tài Cẩn - Đại học Tổng hợp Hà Nội, Lê Hiệu - Đại học Sư phạm Hà Nội...) cùng tất cả các học viên lớp Hán Nôm trên Đại học, ngồi chật cả gian phòng lớn của cơ quan. Tổ trưởng tổ Nôm, Kiều Thu Hoạch có “Báo cáo điều tra về loại sách Nôm và tình hình khai thác Nôm từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay” (bài này sau có in trong quyển Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới, năm 1979). Anh Nguyễn Tá Nhí tham luận về tình hình nghiên cứu chữ Nôm từ trước đến nay, chị Nguyễn Cẩm Thúy bàn về thơ văn Nôm thời Tây Sơn...

Có thể nhận xét rằng về mặt đặt chương trình công tác thì Ban còn lần mò, chưa vạch ra được quy hoạch lâu dài có tính chiến lược cho việc nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm, mới chỉ đề ra những kế hoạch ngắn hạn, và cũng đã có những thành tựu đầu tiên. Tổ Nôm đã hoàn thành tập Thư mục sách Nôm khá công phu, chia hơn 1000 quyển sách thành 3 loại: toàn Nôm, Hán diễn Nôm, Hán có Nôm. Một số tác phẩm do cán bộ trong Ban khảo cứu, biên dịch được xuất bản: truyện Nôm Ngọc Kiều Lê của Lý Văn Phức (Trần Văn Giáp dịch, Kiều Thu Hoạch chỉnh lý, chú thích và giới thiệu), xuất bản năm 1976; Tuyển tập văn bia Hà Nội, 2 tập (Vũ Tuân Sán giới thiệu), năm 1978; Thơ văn Phan Huy ích 3 tập (Nguyễn Ngọc Nhuận giới thiệu), năm 1978, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm (Cao Xuân Huy dịch, Hà Thúc Minh giới thiệu), năm 1978. Một số sách khác đã hoàn thành ở dạng bản thảo đánh máy, như tập Ca dao thời Lê, Nguyễn (phiên âm 7 đầu sách chữ Nôm như Nam phong giải trào, Quốc phong thi hợp thái, Lý hạng ca dao, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao tập chú...); có một số mãi về sau mới có dịp xuất bản, như Thơ đi sứ, Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn.

Những năm 70 là thời kỳ xây dựng cơ quan, xây dựng chuyên môn ngành Hán Nôm. Cán bộ vừa học (hoặc vừa dạy) vừa làm. Học nhiều, làm chưa mấy, và cũng đã nhìn ra con đường của Chuyên ngành. Tuy có lúc vất vả, có bước gập ghềnh, song nét chính là cơ quan từng bước được kiện toàn, có khí thế vươn lên, nhất là từ sau khi trở lại Hà Nội, miền Bắc có hoàn cảnh hòa bình, cơ quan mở rộng việc giao lưu học thuật với bên ngoài. Hai lớp cán bộ già trẻ nương tựa vào nhau cùng tiến; lớp già vui vì thấy vốn kiến thức cũ kĩ của mình có đất sử dụng, lớp trẻ vui vì luôn luôn có hiểu biết mới khi học cũng như khi làm. Mọi người phấn chấn. Xin chép lại ở đây một bài thơ phản ánh được những việc đã làm cũng như không khí thời ấy: đó là bài thơ của bác Đào Phương Bình- giảng viên hai lớp chuyên tu và lớp chữ Thảo, Tổ trưởng tổ Văn - đọc ngày 16.2.1977 để mừng cơ quan nhân dịp đón Tết, đón Xuân Đinh Tị:

Khoa học vang lừng trống tiến quân,
Ra tay chèo lái bến sông xuân.
Hán Nôm ngành học xây không mỏi;
Tân cựu rừng hoa hái rất cân.
ánh đuốc soi vàng thau, ngọc đá;
Ngọn cờ giương Sử, Triết, Nôm, Văn.
Sang năm Đinh Tị nhiều thanh thản,
Ai nấy cùng vui đức “nhật tân”.

Tháng 4-1978, Ban tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề “Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới” (có in kỷ yếu, năm 1979).

Tháng 9 năm đó, tôi được chuyển công tác sang nghiên cứu Trung Quốc học. Rời Ban Hán Nôm, tôi cũng có niềm vui là trong một thời gian đã có phần đóng góp xây dựng của mình.

Tháng 9 năm 1979, ủy ban Khoa học xã hội ra quyết định nâng Ban lên thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Điều đó là hợp lý: Ban cùng với lớp cán bộ trẻ của Ban, thật đã trưởng thành.

CHÚ THÍCH

(*) Nguyên Phó trưởng Ban Hán Nôm thời kì 1972 - 1978.

TB

NHỮNG THÀNH QUẢ ĐÁNG TỰ HÀO

ĐẶNG ĐỨC SIÊU*

...Được may mắn có quan hệ và cộng tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm từ những ngày đầu, từ lúc còn là một Ban, đến khi đã là một Viện nhưng quy mô còn nhiều hạn hẹp, cho đến ngày nay với cái bề thế của một Viện Nghiên cứu chuyên ngành, có một vị thế đặc biệt trong sự nghiệp kế thừa và phát huy tinh hoa di sản văn hóa thành văn của dân tộc, tôi tự nghĩ không phải là quá mạo muội khi cảm thấy rằng mình đã vui mừng đón chào những thành quả tốt đẹp ấy của Viện như đón chào thành tích của chính cơ quan đơn vị mình !

Quả thực là như vậy. Với tư cách là người chủ trì việc thiết kế và thực thi công tác đào tạo những nhà chuyên môn về Ngữ văn Hán Nôm cho ngành Giáo dục đào tạo, từ bậc Cử nhân cho tới Tiến sĩ, ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội, mỗi bước tiến, mỗi thành công của Viện về các mặt xác định phương hướng nghiên cứu, triển khai các hoạt động khoa học, xây dựng, quy hoạch đào tạo cán bộ, sưu tầm công bố tư liệu v.v tất cả đều tạo ra cho bản thân tôi cũng như các bạn đồng nghiệp của tôi trong nhà trường những sự hỗ trợ vô cùng quý báu. Những cuộc hội thảo khoa học với hệ thống vấn đề hấp dẫn, việc xuất bản Tạp chí Hán Nôm với nội dung khoa học phong phú, những công trình sưu tập văn bản Hán Nôm có giá trị cao, những sách công cụ tra cứu hoàn chỉnh... do Viện tổ chức biên soạn đều thực sự đã là những sự kiện khoa học quan trọng đối với chúng tôi. Về phía mình, chúng tôi cũng đã tích cực hợp tác với Viện trong việc nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ. Chúng tôi cũng đã thành tâm chia sẻ với các bạn đồng nghiệp bên Viện những nhận thức, những kinh nghiệm mà chúng tôi đã tổng kết được qua quá trình xây dựng bộ môn Ngữ văn Hán Nôm trong trường Đại học thành một bộ môn khoa học thực sự có đóng góp hữu hiệu vào sự nghiệp nâng cao dân trí nhằm góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Tất cả những điều trên đây đã nói lên một sự thực: tăng cường sự hợp tác chặt chẽ và rộng rãi giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm và bộ môn Ngữ văn Hán Nôm trong trường Đại học trong thời gian tới là rất cần thiết. Sự hợp tác này sẽ là một bảo đảm chắc chắn cho thành công của sự nghiệp chung của chúng ta, đó là: đưa di sản văn hóa thành văn Hán Nôm vào cuộc sống văn hóa hiện đại nhằm góp phần thực hiện những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước đã trao cho các ngành Khoa học xã hội và Nhân văn...(1)

CHÚ THÍCH:

* Nhà giáo ưu tú, Chủ nhiệm bộ môn Hán Nôm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

(1) Trích bài phát biểu tại buổi Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm và đón nhận Huân chương Lao động, tổ chức tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngày 24 - 4 - 2000.

TB

CHÚNG TA MÃI BÊN NHAU TRONG
SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO
VỀ HÁN NÔM*

NGUYỄN VĂN THỊNH

...Hôm nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện và đón nhận Huân chương Lao động, phần thưởng cao quý của Nhà nước trao tặng Viện, tôi thay mặt toàn thể cán bộ của Bộ môn Hán Nôm, học viên và sinh viên Ngành Hán Nôm khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, gửi tới các vị lãnh đạo, các Giáo sư, Tiến sĩ và toàn thể thành viên của Viện lời chúc mừng nồng nhiệt. Chúc quý Viện từ sức mạnh của tuổi “nhi lập”, “đang xoan” tiếp tục những bước tiến dài hơn, cao hơn.

Nhân dịp này chúng tôi xin trân trọng cảm ơn các bậc cao niên, các Giáo sư, các nhà khoa học, các vị khách quý hiện diện tại buổi lễ long trọng này. Các vị đã hằng để tâm tới di sản Hán Nôm, đến văn hóa Hán Nôm mà quan tâm, giúp đỡ toàn Ngành Hán Nôm trong đó có Bộ môn Hán Nôm chúng tôi trong quá trình xây dựng và phát triển.

Ba mươi năm qua Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã hoàn thành tốt đẹp công việc bảo quản, sưu tầm bổ sung, đồng thời phát huy giá trị của kho di sản Hán Nôm từ nhiều mặt: phục vụ bạn đọc, biên soạn các công trình thư mục, sách dẫn, nghiên cứu và dịch thuật văn bản, công bố thường xuyên các công trình mới qua hội thảo khoa học, Tạp chí... Thành tựu của Viện đã là những nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, góp phần đặc biệt để đắp vững nền móng, nâng độ cao và sức bền của bản sắc, bản lĩnh văn hóa Việt Nam để dân tộc ta đứng vững và hòa nhập với thế giới hiện đại với những biến động, thử thách lớn lao, kể cả những thành công kỳ diệu của thế kỷ tới.

Ngành Hán Nôm ở trường chúng tôi cũng đã qua 28 năm kể từ ngày thành lập, 18 khóa Cử nhân Hán Nôm đã được đào tạo tại Ngành. Ngay từ khóa đầu tiên đã được Viện đón nhận và từ đó đến nay mỗi khóa tốt nghiệp lại được góp phần bổ sung cho đội ngũ cán bộ trẻ của Viện.

Thực tế công tác tại Viện của sinh viên Ngành Hán Nôm đã giúp cho chúng tôi xem xét, điều chỉnh đáng kể về phương hướng và mô hình đào tạo.

Trong những năm gần đây, nhiều Giáo sư, Tiến sĩ của Viện đã trực tiếp kiêm nhiệm và đóng góp trên nhiều mặt của công tác đào tạo Cử nhân và Thạc sĩ. Các vị đã không hề quản ngại khó khăn. Vì thời gian có hạn, công việc thì nhiều, đã dành tâm lực cho sự nghiệp “đào thục hậu tiến”.

Chúng tôi cũng được tiếp nhận các thành tựu nghiên cứu của Viện: đây là nguồn bổ sung thường xuyên về tri thức Hán Nôm cho Ngành chúng tôi.

Những điều nói trên chứng minh sự quan tâm giúp đỡ, mối quan hệ hợp tác đã có từ ngày đầu của Viện và Bộ môn qua nhiều công việc. Chúng tôi mong từ sự hỗ trợ và hợp tác đã có, những ý tưởng đã hình thành được thực thi trên quy mô rộng hơn, chủ động hơn, mật thiết hơn.

Hiện nay, công cuộc phục hưng văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc đang tạo điều kiện cho Khoa học Hán Nôm mở ra với bình diện rộng hơn, với sức sống mạnh mẽ hơn. Chẳng hạn việc bảo tồn di sản Hán Nôm cần đi đôi với bảo tồn và nuôi dưỡng trí tuệ Hán Nôm. Văn hóa Hán Nôm cần vận hành sinh động, nó không chỉ ở chiều khai thác thưởng thức mà cần như một “chất liệu” tham gia cấu thành và tái tạo văn hóa. Hoạt động Hán Nôm không chỉ bó hẹp trong phạm vi Viện nghiên cứu hay Ngành đào tạo trong nhà trường mà cần mở rộng ra trong cuộc sống rộng lớn của nhiều tầng lớp, nhiều thế hệ. Thực tế cuộc sống đang nẩy nở, đang đặt ra những vấn đề như thế. Đó là sức mạnh, sức sống, lâu bền và tiềm tàng của gần nghìn năm văn hóa - giáo dục Hán Nôm... Tất cả đang đặt ra với chúng ta, đòi hỏi ở chúng ta, quả là “nhậm trọng lộ viễn” (gánh nặng đường xa), “phi hoằng nghị bất khả” (không có nhiều nghị lực thì không làm được), “hữu đại chí cánh thành” (có chí lớn ắt sẽ thành công).

Ba mươi năm so với một đời người là đáng kể, nhưng so với một ngành cổ học như Ngành Hán Nôm của chúng ta, có lịch sử từ xa xưa truyền lại thì còn là ngắn ngủi. Vì vậy thành công của Viện là những thành công ở buổi đầu càng phải nâng niu, trân trọng hơn. Phía trước chúng ta còn nhiều thời gian. Rồi đây, Viện Hán Nôm sẽ tổ chức kỷ niệm 35 năm, 40 năm thành lập Viện. ở những mốc thời gian ấy, chắc chắn Viện sẽ có những thành công lớn hơn nhiều.

Các bậc tiền nhân đã kế tiếp nhau “dùi mài kinh sử”, “trước thư lập ngôn”, để lại cho các thế hệ sau cả một di sản đồ sộ. Đó là mồ hôi, tâm huyết, là trí tuệ, là tinh hoa văn hóa dân tộc. Chúng ta lại được nhiều tầng lớp nhà Nho cuối cùng của nền Nho học, kết hợp với kiến thức Tây học truyền thụ cho vốn tri thức Hán Nôm quí giá nhưng còn hạn hẹp để đảm đương công việc vô cùng khó khăn này. Nhưng nhiều bạn đồng nghiệp có tâm sự giống tôi: chúng ta trực tiếp hấp thu tinh hoa Hán Nôm, chắc chắn mỗi chúng ta sẽ dần tốt đẹp hơn, mạnh mẽ hơn, sáng suốt hơn trong sự nghiệp thiêng liêng này.

Xin trân trọng cảm ơn và chúc sức khỏe các vị túc nho cao niên, các vị lãnh đạo, các vị khách quý và các bạn đồng nghiệp có mặt tại buổi lễ long trọng đáng ghi nhớ này.

CHÚ THÍCH:

(*) Trích bài phát biểu của Tiến sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Chủ nhiệm Bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH & NV, tại buổi Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm và đón nhận Huân chương Lao động.

TB

CHỮ NÔM TRONG
“THIÊN NAM NGỮ LỤC”

NGUYỄN THỊ LÂM

Chữ Nôm là thứ chữ viết xưa nhất của người Việt còn lại đến nay. Hầu như trong mỗi thời kỳ phát triển, chữ Nôm đều mang những dấu ấn đặc trưng khá rõ nét. Điều này thường được thể hiện qua những tác phẩm tiêu biểu. Vì vậy, đi vào nghiên cứu chữ Nôm ở những tác phẩm ấy sẽ có thể giúp ích cho việc tìm hiểu quá trình diễn biến của loại hình văn tự này. Thiên Nam ngữ lục (TNNL) là một tập diễn ca lịch sử ra đời vào cuối thế kỷ XVII. Đây là tác phẩm văn vần đồ sộ nhất trong kho tàng văn học viết bằng chữ Nôm. Giá trị của TNNL đã từng được giới nghiên cứu khẳng định trên nhiều mặt. Ngoài ra, tác phẩm có độ dài 8.316 câu lục bát với trên năm vạn rưởi chữ Nôm còn là nguồn tài liệu quý giá để góp phần tìm hiểu về tình hình chữ Nôm ở một giai đoạn bản lề giữa hai thế kỷ XVII - XVIII.

Hiện nay, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 6 dị bản TNNL mang các ký hiệu AB.478, AB.192, AB.315, AB.337, AB.573, AB.38. Hầu hết đó là những bản chép tay không ghi năm tháng, tên người sao chép hoặc nơi tàng trữ. Về nội dung, chỉ có bản mang ký hiệu AB.478 là khá cổ và đầy đủ hơn cả(1). Chữ Nôm ở đây viết khá đều đặn, sắc nét và người sao chép đã tỏ ra trung thành với văn bản được sao chép. Trong văn bản có khá nhiều chữ Nôm cổ, từ ngữ cổ thường thấy ở những sách chữ Nôm đời Lê mà các bản khác không có hoặc ít gặp. Nếu căn cứ vào cấu trúc nội tại thì chữ Nôm trong TNNL chủ yếu bao gồm các loại như sau:

1. Dùng chữ Hán ghi âm Hán Việt.

Loại này bao gồm các từ như: tài, đức, học, nam, nữ... Âm Hán Việt như ta đã biết, đó là những tiếng gốc Hán du nhập vào tiếng Việt từ đời Đường (khoảng thế kỷ VII - VIII) trở về sau và được người Việt đọc với hệ thống ngữ âm gọi là cách đọc Hán Việt. Trong kho tàng từ vựng tiếng Việt những từ gốc Hán đọc với âm Hán Việt còn khá phổ biến nên việc mượn ngay chữ Hán để ghi những từ mượn ở tiếng Hán Việt là điều hoàn toàn có thể chấp nhận được trong quá trình tạo chữ Nôm. Trong tác phẩm TNNL, loại chữ này chiếm tới 55.5%.

2. Dùng chữ Hán ghi âm tiền Hán Việt.

Các âm tiền Hán Việt (còn gọi là Hán Việt cổ) bao gồm những tiếng gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt từ khoảng đầu đời Đường trở về trước, nghĩa là trước khi hệ thống âm Hán Việt hình thành, ví dụ như: buồm, bùa, mùi, tuổi... Vì thâm nhập vào tiếng Việt đã lâu, được đồng hóa rất mạnh nên những tiếng này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa. Vì không nhận ra mối quan hệ lịch sử giữa chúng nên có người đã lầm lẫn với loại Nôm dùng chữ Hán mà đọc theo nghĩa. Thực ra buồm, mùa, mùi, tuổi là âm cổ của phàm, vụ, vị, tuế. Đây là loại chữ Nôm còn mang dấu vết phụ âm đầu Hán Việt cổ(2). Về sau, càng ngày người ta càng có xu thế quên đây là những tiếng gốc Hán nên có khi dùng một chữ Hán khác để phiên âm hoặc thêm một bộ phận biểu ý vào mà thành chữ hình thanh. Vì vậy, số lượng chữ thuộc loại này ngày càng ít đi và trở thành tài liệu quý hiếm đối với những người nghiên cứu ngữ âm lịch sử. Trong TNNL loại này chỉ chiếm tỉ lệ 0,04%.

3. Dùng chữ Hán ghi âm hậu Hán Việt.

Trong cách đọc chữ Nôm, có những tiếng bắt nguồn từ cách đọc Hán Việt, nhưng chúng lại có một âm đọc khác được sản sinh ra theo sự biến đổi của ngữ âm Hán Việt. Đó là các âm hậu Hán Việt hay còn gọi là Hán Việt hóa. Chính âm đọc thứ hai này đã đưa chúng vào một vị trí sâu hơn trong tiếng Việt. Ví dụ như các trường hợp: gần - cận; ven - biên; gác - các; dừng - đình... trong TNNL, loại này chiếm tỉ lệ khoảng 0,5%.

4. Dùng chữ Hán ghi âm Nôm một cách chính xác.

Có hiện tượng dùng chữ Hán để ghi âm Nôm một cách chính xác là do giữa hệ thống ngữ âm tiếng Việt và hệ thống ngữ âm Hán Việt có hiện tượng đồng âm. Những người tạo chữ Nôm đã biết lợi dụng điều này trong khi mượn những tiếng Hán Việt để ghi những tiếng thuần Việt đồng âm nhưng không đồng nghĩa. Ví dụ dùng chữ “bán” (với nghĩa một nửa) để ghi “mua bán”, dùng “ta” với nghĩa là “chút ít” để ghi “chúng ta”... Tuy nhiên, những chữ thuộc loại này không nhiều lắm, trong văn bản TNNL chỉ có khoảng 0,4%.

5. Dùng chữ Hán ghi âm Nôm một cách không chính xác.

Do hệ thống ngữ âm Hán Việt nghèo hơn hệ thống ngữ âm thuần Việt mà trong điều kiện dùng chữ Hán đọc với cách đọc Hán Việt để ghi tiếng thuần Việt thì hiện tượng ghi thiếu chính xác là một lẽ dĩ nhiên. Ví dụ các trường hợp dùng “biệt” ghi “biết”, dùng “cố” ghi có, dùng “quần” ghi “còn”... Trong TNNL loại này chiếm khoảng 10,43%. Theo các nhà nghiên cứu, loại chữ ghi âm không chính xác ở thời kỳ đầu xuất hiện tương đối nhiều. Về sau, chúng được bổ sung thêm các bộ thủ hoặc chữ Hán biểu ý để thành chữ hình thanh nên số lượng có bị giảm dần.

6. Dùng chữ Hán đọc theo nghĩa.

Đây là các chữ Nôm mượn nghĩa trực tiếp từ chữ Hán. Ví dụ các trường hợp: khóc - khấp, ong - phong, giáo - sóc, trộm-đạo, câu - điếu... Trong TNNL chữ Nôm mượn nghĩa chỉ chiếm tỉ lệ 0,1%. Có người đã không phân biệt loại chữ này với những chữ Nôm mượn âm phi Hán Việt (tiền Hán Việt và hậu Hán Việt). Gần đây, Lã Minh Hằng có nêu lên những tiêu chí để nhận diện chữ Nôm mượn nghĩa(3) cũng là để khắc phục tình trạng nói trên.

7. Ghép bộ với chữ.

Ví dụ chữ “trăng” (= nguyệt + lăng), chữ “cháy” (= hỏa + chí), Chữ “đá” (= thạch + đa)...

8. Ghép chữ với chữ.

Ví dụ chữ “ba” (= ba + tam), chữ “bảy” (= bãi + thất), chữ “cỏ” (= thảo + cổ)...

Có thể nói lối chữ sáng tạo chủ yếu được tạo ra do hai phương thức này. Theo cụ Đào Duy Anh, chữ Nôm đã vay mượn khoảng 60 bộ trong tổng số 214 bộ thủ của chữ Hán. Ngoài ra, còn có thêm hai bộ “cự” và “tư” của chữ Nôm(4). Thực ra, trong một số trường hợp hai bộ ấy còn đóng vai trò biểu âm. Ví dụ chữ “tròn” được ghi bằng (cự + luân), chữ “trai” được ghi bằng (tư + lai) trong sách Chỉ nam ngọc âm vốn là những chữ Nôm mang dấu vết tổ hợp phụ âm đầu KL, TL trong tiếng Việt cổ(5). Khi bộ phận biểu ý là một bộ thủ thì nó chỉ biểu thị ý nghĩa một cách khái quát. Còn khi là một chữ Hán cụ thể thì nó chỉ biểu thị ý nghĩa một cách rất cụ thể, nghĩa là có tính chất xác chỉ. Trong TNNL còn có những chữ được tạo ra do ghép một bộ thủ với một chữ Nôm mà cụ Vũ Văn Kính gọi là hình thanh Nôm, như chữ “lời” ghi bằng (khẩu + trời), chữ “vuông” ghi bằng (phương + bông) nhưng ít gặp. Có lẽ giai đoạn đầu, hai loại chữ kể trên không có nhiều lắm, vì chữ Nôm được tạo ra chủ yếu theo lối giả tá, nhưng về sau chúng tại có xu thế phát triển do nhu cầu chính xác hóa ngày càng cao. Trong TNNL, loại này có khoảng 22,7%.

9. Ghép âm với âm.

Trong TNNL, những chữ Nôm thuộc loại này rất ít nhưng cũng rất đáng lưu ý vì chúng ghi được các tổ hợp phụ âm đầu KL, BL, TL trong tiếng Việt cổ. Ví dụ:

- Chữ “trống” ghi bằng (cổ + lộng)> klống > trống.

- Chữ “trăng” ghi bằng (ba + lăng)> blăng > trăng.

- Chữ “lời” ghi bằng (ma + lợi)> mlời > lời...

Những chữ Nôm như trên còn thấy khá phổ biến trong các tác phẩm Nôm từ thế kỷ XVII trở về trước như Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc âm thi tập, Chỉ Nam ngọc âm, Truyền kỳ mạn lục... Điều này chứng tỏ chữ Nôm trong TNNL đã phản ánh đúng cách phát âm đương thời. Từ điển Việt - Bồ -La của Alexandre de Rhodes xuất bản tại Rôm năm 1651 còn ghi lại cho chúng ta ba tổ hợp phụ âm đôi là BL, TL, ML. Nhưng có lẽ trước đó còn có cả KL, bởi vì chắc không phải ngẫu nhiên mà sách An Nam dịch ngữ chú từ “trâu” bằng (cách + lâu)(6). Có thể do nguồn hình thành lâu đời của chữ Nôm mà ở đây còn có thể tìm thấy những tình trạng của tiếng Việt xưa hơn mà tư liệu chữ Quốc ngữ ở thế kỷ XVII không có. Trong TNNL, loại này có tỉ lệ 0,09%.

10. Ghép ý với ý.

Về loại chữ Nôm được tạo thành do các bộ phận biểu ý ghép lại, trong TNNL chúng tôi chỉ thấy có năm chữ , , , , 眾 (trời, mấy, sánh, tro, chúng). Ngoài ra, còn một số chữ như , , , , , , 辸, , , , (đời, giêng, giếng, ngà, gồm, lạy, cũ, xem, vôi, vắn, trống). ở đây, chữ Nôm được tạo thành bởi một bộ phận biểu ý và một bộ phận đọc với âm phi Hán Việt vừa có tác dụng biểu ý và vừa có tác dụng biểu âm, ví dụ chữ “vắn” do chữ “đoản” (nghĩa là ngắn) + bán (một nửa). “Bán” ở đây vừa thể hiện ý nghĩa của chữ Nôm, lại vừa gợi âm đọc của chữ do mối quan hệ giữa hai thanh mẫu b > v. Xét về mặt cấu tạo thì chúng có thành phần ý + (âm + ý). Do tỉ lệ nghiêng về biểu ý nên có ý kiến coi đây là những chữ Nôm ý + ý có cấu trúc đặt biệt(7). Trong TNNL những chữ thuộc loại này chỉ chiếm tỉ lệ 0.06%.

11. Ghép chữ với ký hiệu phụ.

Ký hiệu phụ trong văn bản Nôm TNNL thường là “dấu nháy” hoặc chữ “khẩu”. Lại có khi được thể hiện bằng “hai dấu chấm” đặt bên trái của chữ. Ví dụ chữ “gặp” ghi bằng (hai chấm + cập); chữ “vội” ghi bằng (hai chấm + bội)... Đây là loại ký hiệu thường thấy trong những tác phẩm Nôm của Maiorica giữa thế kỷ XVII hoặc trong Càn nguyên ngự chế thi tập của Trịnh Doanh đầu thế kỷ XVIII. Các loại ký hiệu phụ trên đây hoàn toàn không có ý nghĩa gì mà chỉ có tác dụng báo cho người đọc biết ở đây dùng giả tá là không chính xác và khi đọc phải đọc chệch đi so với cách đọc Hán Việt. Sự sáng tạo ở đây tuy chưa nhiều nhưng nói không có sáng tạo là không đúng, bởi vì với những chữ này người Trung Quốc vẫn không thể nhận ra mặt chữ của họ. Trong TNNL, loại chữ này có khoảng 5,7%.

Một điều dễ nhận thấy là chữ Nôm ở 6 loại đầu có dạng đồng nhất với chữ Hán, ta vẫn quen gọi là lối chữ giả tá. Còn ở các loại khác thì chỉ đồng nhất với chữ Hán theo từng bộ phận mà thôi, đó là những chữ Nôm do người Việt sáng tạo. Trong TNNL, chữ giả tá chiếm tới 71,3%, trong khi đó chữ sáng tạo chiếm 28,6%, tập trung nhiều nhất ở hai loại ghép bộ vào chữ và ghép chữ với chữ (có khoảng 23,7%). Con số này phần nào cho thấy ở TNNL lối chữ giả tá (sử dụng nguyên hình chữ Hán) còn cao nhưng lối chữ sáng tạo đã khá phát triển (so với Quốc âm thi tập là 17,6%; Chỉ nam ngọc âm 18% và Maiorica 21%)(8).

Trong TNNL cũng có tình hình một chữ có thể có nhiều cách đọc cách viết. Chẳng hạn về phụ âm đầu: thông thường nếu âm đầu trong hệ thống âm Hán Việt trùng với âm đầu trong hệ thống tiếng Việt thì người ta sẽ dùng chữ Hán có âm đầu Hán Việt để ghi. Song cũng có nhiều trường hợp phải mượn chữ gần âm. Ví dụ: để ghi chữ Nôm có phụ âm đầu v [v] người ta dùng chữ Hán có phụ âm đầu b [b] như dùng “bản” ghi “vốn”, dùng “bối” ghi “với”. Lại có khi dùng chữ Hán có phụ âm đầu ph [f] như dùng “phi” ghi “vậy”, dùng “phức” ghi “vức”... Thực ra, đây là những chữ Nôm mang dấu vết phụ âm đầu tiếng Việt cổ. Hiện nay, giữa tiếng Việt và tiếng Mường còn có sự tương ứng: vào - bào, với - bới, vạch - bạch, vả - bả... Hoặc ở trong dân ca vùng Bắc Trung bộ:

Ta cũng gói cơm bầu nác,
Cũng đi phở (vỡ) ruộng lầy.

(Thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh)

Như vậy, những cách ghi như trên chứng tỏ người viết chữ Nôm đã ghi đúng âm đọc ở thời kỳ lịch sử của nó. Tác phẩm cũng còn lưu lại khá nhiều chữ Nôm thể hiện dấu vết của vần Việt cổ. Chẳng hạn, ở các trường hợp ghi “bầy” (= bài), nấy (= nãi), “câu” (= cú), “dầu” (= du)... Sự đối lập giữa a-â, âu-u là những hiện tượng vẫn thường gặp, như ở tiếng Việt và tiếng địa phương Bắc Trung bộ: trái - trấy, gái - gấy, dâu - du, bầu - bù:

Ả em gấy như trấy cau non,
Ả em du như bù nác nẻ...

(Thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh)

Ngoài ra, các trường hợp ghi “chìm” (= trầm), “tìm (= tầm), “kíp” (= cấp), “kịp” (= cập)... là những chữ Nôm còn mang dấu vết vần Hán Việt cổ đã từng được giới nghiên cứu khẳng định và chứng minh(9).

Như vậy, những cách ghi như trên không phải là một sự tùy tiện dễ dãi mà trái lại, hình như ở đây có sự cân nhắc lựa chọn. Đằng sau những cách ghi đó là những mối quan hệ ngữ âm vốn có trong lịch sử tiếng Việt. Bên cạnh đó, sự tồn tại của những tổ hợp phụ âm đầu KL, BL, ML trong văn bản là gắn liền với hệ thống ngữ âm tiếng Việt từ thế kỷ XVII trở về trước. Sang các thế kỷ tiếp theo, khi các tổ hợp phụ âm đầu đã hoàn toàn biến mất thì các chữ Nôm mang các tổ hợp phụ âm đó cũng dần dần được cải cách, các yếu tố khó hiểu, rườm rà sẽ bị lược bớt và thay bằng các yếu tố mới dễ hiểu, phù hợp hơn. Ví dụ:

- Chữ “trước”: TNNL ghi (cư + lược). Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều ghi (tiên + lược).

- Chữ “trống”: TNNL ghi (cổ + lộng) Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều ghi (lộng + sinh).

- Chữ “trăng”: TNNL ghi (ba + lăng) Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều ghi (nguyệt + lăng).

- Chữ “lời”: TNNL ghi (ma + lợi) Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều ghi (khẩu + trời)...

Có thể nói, trong văn bản TNNL phần lớn được ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê. Có những chữ nhất loạt được ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê như: trước, sau, xưa, một... Có những chữ được ghi theo cả lối chữ đời Lê và đời Nguyễn nhưng vẫn nghiêng về lối chữ đời Lê. Ví dụ: chữ “trả” xuất hiện 25 lần thì 15 lần ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê; chữ “trống” xuất hiện 7 lần thì 6 lần ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê; chữ “con” xuất hiện 312 lần thì 275 lần ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê... Những trường hợp được thể hiện bằng cách viết của cả hai thời kỳ như vậy đối với TNNL cũng là điều dễ hiểu. Bởi đó là cuốn sách ra đời vào thời nhà Lê nhưng văn bản được sao chép ra sớm nhất là vào đầu thời Nguyễn(10). Do tính chất kế thừa và ổn định của văn tự, chữ Nôm trong TNNL vẫn còn bảo lưu được lối viết cổ. Tuy nhiên, lối chữ sáng tạo đã có một bước phát triển mới so với các tác phẩm trước TNNL; điều này như một dấu hiệu báo trước sự phát triển mạnh mẽ của nó ở những giai đoạn tiếp theo.

Mặt khác, chữ Nôm trong TNNL còn gắn liền với khá nhiều từ Việt cổ mà hiện nay đã biến mất hoặc còn nhưng nghĩa đã thay đổi. Ví dụ các từ: Bui (duy, chỉ); Ca (ở, tại); Mựa (chớ, đừng); Tua (nên)... Đặc biệt, tác phẩm còn ghi lại được một số từ đơn tiết tiếng Việt thể hiện bằng hai mã chữ Nôm như La đá (hòn đá); Bà cắt (chim cắt); Bồ cóc (con cóc). GS. Nguyễn Ngọc San gọi đó là những từ cổ bao gồm một âm tiết mờ và một âm tiết tỏ (hay một âm tiết phụ tố và một âm tiết căn tố)(11). Ta có thể tìm thấy các ví dụ tương tự trong các tác phẩm Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Quốc âm thi tập, Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa... Từ Việt cổ hiện nay không còn thấy xuất hiện trong ngôn ngữ thành văn nữa, nhưng lẻ tẻ chúng vẫn được sử dụng trong khẩu ngữ ở một số địa phương. Đại bộ phận những từ thuộc loại này đã trở nên xa lạ và khó hiểu đối với độc giả phổ thông hiện nay nên khi phiên âm chúng ra Quốc ngữ cần có sự chú thích rõ ràng.

Qua một số nội dung trình bày sơ bộ trên đây, TNNL đã có thể phần nào giúp ta hình dung được diện mạo của chữ Nôm và tiếng Việt ở giai đoạn cuối thế kỷ XVII. Việc đi sâu vào những tác phẩm tiêu biểu như TNNL chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều bổ ích cho việc tìm hiểu quá trình phát triển của chữ Nôm và công tác nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.

CHÚ THÍCH

(1), (10) Nguyễn Thị Lâm: “Về các văn bản TNNL hiện còn”. Tạp chí Hán Nôm số 4-1997.

(2) Vương Lực: Hán ngữ sử luận văn tập. Bắc Kinh 1958, tr.363.

(3),(7) Lã Minh Hằng: Các ký tự Hán với chức năng biểu thị ý nghĩa trong chữ Nôm Việt. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. Hà Nội 1999.

(4) Đào Duy Anh: Chữ Nôm-Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. Nxb. KHXH. Hà Nội 1975.

(5),(8) Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải. Nxb. KHXH. Hà Nội 1985, tr.45 và 50.

(6) Vương Lộc: An Nam dịch ngữ. Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học 1995.

(9) La Thường Bồi - Chu Tổ Mô: Hán Ngụy Tấn Nam Bắc triều văn bộ diễn biến nghiên cứu. Khoa học xã hội xuất bản xã, tr.54.

(11) Nguyễn Ngọc San: “Thử đưa ra quan niệm và giải thích về chữ Nôm cổ”. Tạp chí Hán Nôm số 3-1993.

TB

NHỮNG YẾU TỐ HOA TRONG
PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ

CAO TỰ THANH

Chính thức xuất hiện trên bản đồ văn hóa Việt Nam từ 1698, Nam Bộ là một vùng lịch sử văn hóa có điều kiện và kiểu thức phát triển mang những đặc điểm khác với nhiều địa phương. Sự tích tụ lâu dài và đồng hóa liên tục các yếu tố ngoại sinh khiến tiến trình văn hóa Việt Nam ở vùng này mang nhiều sắc thái riêng, trong đó phải kể tới các yếu tố Trung Hoa bắt đầu theo chân các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam du nhập vào một cách tương đối có hệ thống từ thế kỷ XVIII. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, quá trình song ngữ văn hóa Việt Hoa ở đây đã dẫn tới một kết quả là sự hiện diện rất đáng lưu ý của các yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ. Trên cả ba bình diện ngữ âm, từ vựng và phong cách, các yếu tố này đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc làm hình thành diện mạo của tiếng Việt ở địa phương hiện nay.

Năm 1627, khi chúa Nguyễn Phước Nguyên dàn quân chống Trịnh trên sông Nhật Lệ thì Việt Nam chưa có Nam Bộ, mà mãi đến 1698 thiết chế văn hóa - xã hội của người Việt mới bắt đầu chính thức hình thành ở đây. Có thể nói trong thời kỳ trước 1802, tiếng Việt ở Nam Bộ phát triển chủ yếu trên cơ sở tiếng Việt ở Đàng Trong, mặc dù tiếng Việt ở Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII khác với tiếng Việt ở Đàng Ngoài thế nào thì hiện còn nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận thống nhất. Nhưng nếu ở Bình Trị Thiên tiếng Việt chỉ có bốn thanh điệu thì từ Quảng Nam trở vào nó lại có tới năm thanh điệu, và rõ ràng phương ngữ Nam Bộ đã phát triển trong những điều kiện ngữ âm khác hơn: từ thế kỷ XVII ở Hội An đã hình thành một loại ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam(1). Sử sách cũng ghi nhận rằng từ 1679 các nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch đã tới cư trú ở Biên Hòa và Mỹ Tho - miền Đông và Trung Nam Bộ. Những đợt di cư của người Hoa qua Nam Bộ trong các thế kỷ sau tuy không mang tính chất chính trị nữa nhưng nhìn chung vẫn khá liên tục, ngay cả khi Nam Kỳ rồi Việt Nam đã bị rơi vào ách đô hộ của thực dân phương Tây. Các chứng cứ lịch sử ấy cho thấy ngay từ khi hình thành, phương ngữ Nam Bộ đã tiếp xúc với tiếng Hoa một cách trực tiếp, thường xuyên và toàn diện, nên việc nó tiếp nhận nhiều yếu tố Hoa cũng là điều tất yếu và tự nhiên.

Quan sát tiếng Việt ở Nam Bộ, dễ nhận thấy nó có nhiều khác biệt về ngữ âm so với cả nước, chẳng hạn hai phụ âm đầu [d,gi] bị chập làm một và biến thành bán nguyên âm [j]. Hoặc như trong phần vần thì kết cấu tiếp hợp chặt (nguyên âm chính ngắn hơn phụ âm cuối) đã hoàn toàn bị thay thế bởi tiếp hợp lỏng (nguyên âm chính dài hơn phụ âm cuối) dẫn tới sự triệt tiêu các cặp phụ âm cuối [-n,-t] và [-ch,-nh]. Tìm hiểu cặn kẽ và lý giải chi tiết quá trình này là một công việc khó khăn và phức tạp, nhưng kết quả chắc chắn có thể đoán biết chúng có liên hệ với các biến động ngữ âm ở Trung Hoa mà chủ yếu là Hoa Nam những thế kỷ trước. Người Quảng Đông ở Nam Bộ hiện nay nói dách, dì (nhất, nhị - một, hai) với phụ âm đầu [d] biến thành bán nguyên âm [j] không khác gì người Nam Bộ, và tiếng Hoa ở Nam Bộ hiện cũng ít có lối tiếp hợp chặt trong đó phụ âm cuối dài hơn nguyên âm chính. Đặc biệt, phải nói tới sự du nhập cách đọc chữ Hán theo Minh âm, Thanh âm mà kết quả là tạo ra hàng loạt biến thể trong cách đọc các từ Việt Hán như: Chính - Chánh, Đỉnh - Đảnh, Kính - Cảnh, Tính - Tánh, Vũ- Võ, Phù - Phò, Thụ - Thọ, Uy - Oai, Súy - Soái, Thụy - Thoại, Phúc - Phước, Trúc - Trước, Trọc - Trược, Trọng - Trượng... trên địa bàn từ Quảng Nam trở vào Nam mà nhiều người vẫn lầm tưởng là vì lệ kiêng húy thời phong kiến(2). Và mặc dù đại bộ phận các phụ âm đầu trong các từ Việt Hán vẫn không thay đổi, cách đọc Trung Hoa ấy vẫn để lại dấu vết của việc chuyển đổi phụ âm đầu [d] thành [m] ở Trung Quốc, chẳng hạn như trường hợp tên hiệu Mính (Đường âm đọc là Dánh, Hán tự viết với thảo đầu+danh) Viên (Vườn trà) của Huỳnh Thúc Kháng hay tên tờ báo Nông cổ mín(h) đàm.

Về mặt từ vựng, phương ngữ Nam Bộ có nhiều khác biệt so với tiếng Việt ở Trung Bắc, và các yếu tố Hoa đóng một vai trò khá quan trọng trong việc dẫn tới sự khác biệt này. Trong Gia Định thành thông chí hoàn thành năm 1821, Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận người Nam Bộ trò chuyện hàng ngày thường dùng chen từ Hoa và từ Khmer (Kỳ nhân thổ đàm thường tạp dụng Đường ngữ Cao Man ngữ) đồng thời ghi lại một số từ Hoa như xá (vái lạy), mỳ xọa (miến)...(3). Và nếu lập một bảng thống kê chi tiết thì số từ vựng gốc Hoa du nhập theo con đường khẩu ngữ trong phương ngữ Nam Bộ có thể lên tới hàng ngàn đơn vị. Người Nam Bộ hiện không lạ gì với những từ như Bò bía (pò pía biến âm, tức Bạc bính - một món ăn làm bằng bánh tráng mỏng), Cắc (Giác - đơn vị tiền tệ, một phần mười của đồng), Ghe (Kha - một loại thuyền vận tải lớn ở vùng Giang Nam), Hên xui (Hạnh tai - may rủi), Tía (gia - cha), Tiệm (Điếm - quán bán hàng), Ké (Ký - nhờ vả), Lẩu (lô - cái lò, món canh), Xào (Sao - rang thức ăn có dầu mỡ), Sủi cảo (Thủy giảo - thịt vo viên ăn với nước), Há cảo (Hà giảo - thịt tôm vo viên), Xập xám (Thập tam - một lối chơi bài mười ba lá), Xịn (Tân - mới, tốt như mới), Xíu (Xỉu bị biến âm tứ Tiểu - nhỏ), Xỉu (Hưu - tình trạng ngất đi như đã chết), Xỉn (Trình - tình trạng bị bệnh vì rượu, say cả ngày mới tỉnh)... Nhưng trong thực tiễn sử dụng mảng từ này vẫn tuân thủ nguyên tắc ngữ pháp tiếng Việt: người Việt nói áo xịn, Ăn ké, Tiệm trà chứ không nói là Xịn áo, Ké ăn, Trà tiệm... ở đây những từ đơn như Ké, Xịn, Tiệm mang các giá trị khác với Ký, Tân Điếm trong mảng từ Việt Hán: dưới áp lực sinh ngữ Hoa Hán, chúng đã được tháo rời khỏi các tổ hợp cố định kiểu Tâm thư, Ký sinh, Tửu điếm và được sử dụng tự do như mới, nhờ, quán hàng trong tiếng Việt. Chính trên đường hướng này mà chúng đã hoàn toàn trở thành tiếng Việt, cũng được sử dụng vào việc tạo từ. Chẳng hạn trong phương ngữ Nam Bộ thì Nhỏ xíu khác hẳn với Nhỏ nhỏ, hay người Việt ở Nam Bộ nói Sao thuốc, Sao trà và Xào rau, Xào thịt với sự khác biệt ý nghĩa rất rõ ràng giữa Sao và Xào... Trong một số trường hợp đặc biệt, nhiều từ Hoa còn sống một đời sống khác hẳn với ý nghĩa và phong cách ban đầu trong khung cảnh tiếng Việt, chẳng hạn từ Mánh (Văn - đồng tiền, tiền) trong Chạy mánh do đồng âm với Mánh (lới) trong tiếng Việt nên đã mang một nội dung ít lương thiện, hay từ Nhẩm chẩu (ẩm tửu - uống rượu) có lẽ vì được nói lè nhè với giọng say rượu nên đã bị chập và biến âm thành Nhậu, đưa lại cho hành vi sinh hoạt này của người Nam Bộ một dáng cách và ý vị riêng... Sự Việt hóa một cách sáng tạo và sử dụng một cách chủ động mảng từ vựng Hoa như vậy còn đem lại cho phương ngữ Nam Bộ một nguồn lực phát triển quan trọng, tác động một cách đáng kể tới ngôn ngữ và phong cách trong tác phẩm văn hóa viết sáng tác bằng tiếng Việt từ quốc ngữ Nôm tới quốc ngữ La Tinh ở địa phương. Trong bài Văn đĩ tế chệt mỉa mai những người Hoa tham gia cuộc binh biến Lê Văn Khôi ở thành Phiên An nửa đầu thế kỷ XIX, một tác giả người Gia Định đã viết “Quan binh rung trống trận ba hồi, nghe dớn dác khự tố lô (khứ tẩu liễu - chạy đi thôi) lập cập; Quan binh tống thiên oai một phát, nghe ầm ì xí ngầu lác (tử ngã liễu - chết tôi rồi) ngổn ngang”(4). Còn mở đầu bài Ngồi trăng chế nhạo bọn hương chức hống hách với nhân dân nửa sau thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Lạc cũng viết “Hóa (ngã - tôi) An Nam, lứ (nhĩ - anh) khách trú”(5). Nhiều nhà văn nhà báo Lục tỉnh đầu thế kỷ XX cũng sử dụng một cách rất tự nhiên những từ như Hên xui, Tàu hủ, Hủ tíu, Tiệm nước, Té xỉu, Nhỏ xíu... trong các tác phẩm văn chương báo chí của mình.

Trên phương diện phong cách, phương ngữ Nam Bộ là một loại tiếng Việt gắn liền với cuộc sống dân dã nên có lối diễn đạt bình dị mộc mạc, khỏe khoắn và hóm hỉnh của nhân dân lao động. Chính với đặc điểm lịch sử - văn hóa ấy mà nó đã dung nạp khá mau lẹ và dễ dàng một số yếu tố phong cách đặc sắc của ngôn ngữ và văn hóa Hoa. Cho nên câu Lưu Bị khen Triệu Vân “Toàn thân đô thị đảm” (Toàn thân đều là mật) đã được người Nam Bộ Việt hóa thành “Gan cùng mình”; thành ngữ “Cấm nhược hàn suyền” (Sợ sệt như con ve mùa lạnh) đã được họ dịch thành “Sợ xếp (cánh) ve”. Trong lối ví von dân dã của người Nam Bộ như gan dạ thì nói là "Cóc cắn trời gầm không nhả", con cháu bất hiếu thì nói là "Đồ đâm cha chém chú"; bị mất việc làm và nguồn thu nhập không ổn định thì nói là "Bị bể chén cơm"; chạy vạy khắp nơi thì nói là "Chạy Tần chạy Sở"... cũng bàng bạc phong cách diễn đạt hình tượng, ngoa dụ và hài hước phổ biến trong tiếng Hoa. Còn phải điều tra, thống kê và đối chiếu chi tiết số thành ngữ gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ mới có thể đi tới một kết luận chính xác, nhưng nói một cách tổng quát thì phong cách trong phương ngữ Nam Bộ cũng chứa đựng nhiều quá trình song ngữ và song văn hóa Việt Hoa.

*
**

Sự hiện diện của những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ ba thế kỷ nay mang một ý nghĩa hai mặt: đối với người Việt, nó là một trong những kết quả của sự tiếp nhận lại một lần nữa các yếu tố văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam sau thời Bắc thuộc, còn đối với người Hoa ở Nam Bộ, nó là một trong những bằng chứng về quá trình Việt hóa của họ. Vì khác với thời Bắc thuộc, người Việt ở Nam Bộ từ thế kỷ XVIII đến nay đã tiếp nhận các yếu tố Hoa trong tư thế chính trị khác và nhất là với trình độ phát triển văn hóa - xã hội khác. Chính vì vậy mà khi quá trình Việt hóa về mặt chính trị của các nhóm di dân người Hoa ở Nam Bộ đã ít nhiều bị khựng lại từ 1862 đến 1945 vì sự có mặt của thực dân Pháp rồi phát xít Nhật, thì quá trình Việt hóa về mặt văn hóa của họ vẫn được kế tục trong bối cảnh lịch sử mới. Trên tấm bia Trùng kiến Tây Cống Quảng Triệu Hội quán nhận quyên phương danh kỷ niệm đề “Ngày tốt tháng 11 năm Nhâm Tuất, Trung Hoa Dân Quốc thứ 11 (1922)” ở Quảng Triệu Hội quán số 122 đường Bến Chương Dương, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hai địa danh tiếng Việt viết với mã chữ Nôm khá đặc biệt mà đọc theo âm Việt Hán là Thổ Long Mộc và Ná Điều. Nhưng nếu đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông thì gần như Thủ Lùng Mộc (Thủ Dầu Một) và Lá Thiều (Lái Thiêu): đây rõ ràng là một loại “chữ Nôm của người Hoa” dùng để ghi âm các địa danh tiếng Việt, mặc dù họ hoàn toàn có thể Hán hóa thành Đơn Du thủ (Trạm thuế có một cây dầu lẻ) và Thiêu thương (nhà buôn Thiêu). Có thể coi đây là một loại biến thể song ngữ và song văn hóa Việt Hoa ở Nam Bộ thời Pháp thuộc, ở đó đại bộ phận nhân dân lao động người Hoa phải tìm những cách thức phản ảnh và thể hiện quyền lợi của mình nơi thiết chế văn hóa - xã hội Việt Nam.

Sau hết, trên các phương diện ngôn ngữ học, văn học, từ điển học, sự quan tâm một cách thích đáng tới những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ có thể sẽ giúp những người nghiên cứu học hỏi được thêm nhiều điều bổ ích đồng thời tránh được nhiều sai lầm không đáng có. Học giả Huỳnh Tịnh Paulus Của trong quyển từ điển song ngữ Đại Nam quốc âm tự vị cuối thế kỷ XIX cũng có những sai sót về mặt này, chẳng hạn đã ghi chữ Hên (Hạnh - may) bằng mã chữ Nôm là Hưng (hưng thịnh), có lẽ đọc theo âm Nôm là Hơng gần âm với Hên, trong khi đúng ra phải viết bằng mã chữ Hạnh và giải thích là đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông. Phải nói thêm rằng sai lầm này đã di căn vào một công trình nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ, trong đó tác giả thấy chữ Hên được viết bằng mã chữ Nôm Hưng bèn tưởng đó là mã chữ Hán rồi suy diễn Hên xui là Hưng suy! Rõ ràng nếu không biết chữ Hán Nôm, Trung văn và các phương ngữ Hoa Nam thì rất khó nếu không nói là không thể tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ, điều này đặt ra những yêu cầu nghiêm túc trong việc tìm hiểu tiếng Việt ở Nam Bộ nói riêng và từ Quảng Nam trở vào Nam nói chung.

CHÚ THÍCH:

(1) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.161-166.

(2) Xem thêm Cao Tự Thanh, Hoàng - Huỳnh, Phúc - Phước, Vũ - Võ... với vấn đề "kiêng húy", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 12, 1994.

(3) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, Sài Gòn, 1972, phần chữ Hán in kèm, Phong tục chí, tờ 10b.

(4) Theo Trương Vĩnh Ký di chỉ, tài liệu chép tay hiện được lưu giữ ở Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội Hà Nội, ký hiệu VĐ.35/4, tr.84-85. Vì chỉ có bản phiên âm ra quốc ngữ La Tinh nên rất khó kiểm chứng, nhưng theo chúng tôi thì mấy chữ Nôm được Trương Vĩnh Ký phiên âm là Xí ngầu lác nói trên phải được đọc là Xẩy ngộ lớ tức "Tử ngã liễu" đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông.

(5) Theo Nguyễn Văn Kinh, Nam âm, Recueil de morceaux choisis de Poésie annamite à l’usage de la Jeunesse avec explications des mots, notices biographiques et commentaires, Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn, 1925, tr.78. Vì hiện chúng tôi chưa được thấy văn bản chữ Nôm nào của bài thơ này nên không rõ chữ Hóa ở đây được viết với mã chữ Nôm nào, song tuy nhiều văn bản quốc ngữ La Tinh phiên là Hóa nhưng trong thực tế chữ này được phát âm gần như Oá, Quá, có lẽ Hán tự cũng viết là Ngã (Wo), là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, số ít đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu. Trong phương ngữ Nam Bộ chữ này bị biến âm thành Qua.

TB

VỀ MỘT QUẢ ẤN ĐỒNG THỜI TRẦN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Trong số hiện vật ấn chương còn lưu giữ được tới ngày nay tại các cơ quan Bảo tàng ở Việt Nam thì quả ấn đồng có tên gọi “Môn hạ sảnh ấn” ở Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại Hà Nội được coi là quả ấn đồng cổ nhất ở nước ta(1).

ấn có chất liệu bằng đồng, núm ấn làm theo hình mặt bia đá có đế tam cấp. ấn có chiều cao 8cm , phần rộng nhất tức là phần đế ấn là 7,3cm. Núm cầm trên rộng 3,7cm và dày 1,2 cm. Mặt ấn có hai dòng chữ Hán khắc ở hai bên thành ấn ngay bậc thứ nhất. Bên phải là bốn chữ “Môn hạ sảnh ấn” 門 下 省 印, chữ thứ ba tuy khá mờ nhưng có thể xác định rõ là chữ “sảnh”. Bên trái là dòng chữ Hán có chữ đầu và ba chữ khác bị sứt mờ rất khó đọc. Sau khi nghiên cứu, chúng tôi cho rằng đây là các chữ “Long Khánh ngũ niên ngũ nguyệt nhị thập tam nhật tạo” 隆 慶 五 年 五 月 二 十 三 日 造 (xem hình 1).

Mặt dấu hình vuông có kích thước 7,3 x 7,3cm, văn khắc mặt dấu là bốn chữ Triện, nét khắc uốn nhiều lần. Đó là bốn chữ “Môn hạ sảnh ấn” 門 下 省 印 (xem hình 2).

Như vậy niên đại của ấn được xác định rõ, ấn được đúc vào ngày 23 tháng 5 năm Long Khánh thứ 5 đời Trần Duệ Tông (1377). Dòng chữ khắc trên mặt ấn và hình dấu “Môn hạ sảnh ấn” đã cho chúng ta biết đây là con dấu của một chức quan thời Trần. Nhưng “Môn hạ sảnh” là cơ quan gì, chức năng nhiệm vụ của nó như thế nào, ai là chủ sở hữu của quả ấn, đó là những điều nan giải khi tài liệu thời Trần liên quan đến các vấn đề này cho đến nay còn quá sơ sài, khiến chúng ta phải tìm từ cội nguồn của "Môn hạ sảnh".

Môn hạ sảnh là một cơ quan trung ương nằm trong bộ ba “Tam sảnh” là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh, ba cơ quan cao nhất ở triều đình phong kiến thời cổ. ở Trung Quốc xưa kia ba cơ quan riêng biệt Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh được hình thành từ thời Đông Hán. Ban đầu lấy Thượng thư thay Thừa tướng, tiếp đó lấy Trung thư thay thế Thượng thư, cuối cùng lấy Môn hạ để chia quyền với Trung thư. Đến thời Tùy - Đường mới phát triển thành chế độ Tam sảnh. Sách Khốn học kỷ văn. Hán, Ngụy, Tấn chính bính sở quy viết: “Thời sơ Đường bắt đầu hợp Tam sảnh, Trung thư chủ mộc ra mệnh lệnh, Môn hạ kiểm duyệt bác bỏ mệnh lệnh nào không hợp, Thượng thư chủ việc thi hành”(2). Từ hảI (súc ấn bản) giải nghĩa "Tam sảnh" theo sách Tân Đường thư. Bách quan chí 1: “Thời Tùy Đường, Tam sảnh là cơ quan cao nhất, trong đó tòa Trung thư đóng vai trò quyết sách, tòa Môn hạ giữ vai trò thẩm nghị, tòa Thượng thư có trách nhiệm chấp hành; trên thực tế, ba vị quan đứng đầu ba tòa này cùng nhau phụ trách công việc của Trung khu”.

Năm 1368 khi Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh đã ra lệnh bãi bỏ Trung thư sảnh và đến triều Minh Vĩnh Lạc (1403 - 1418) mới thiết lập Nội các thay thế cho Môn hạ sảnh. Dần dần chức năng nhiệm vụ của Nội các cũng đa dạng hơn và được cải biến nhiều lần để phù hợp với quá trình phát triển của thể chế phong kiến Trung Quốc.

Ở Việt Nam nhà Trần xếp đặt quan chức chủ yếu dựa vào phép đặt quan của nhà Lý, đồng thời có tham bác và mô phỏng theo quan chức chế của nhà Đường - Tống Trung Quốc. Chế độ nhà Trần các vương công tôn thất đều ở phủ đệ riêng nơi thôn dã, đến kỳ triều kiến thì mới vào Kinh và xong việc lại quay về phủ đệ. Khi nhậm chức họ cũng chỉ nắm giữ những cái chính còn thực quyền thì nằm trong tay quan Hành khiển. Nhà Trần đặt ra “Tam sảnh” là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh đều gắn với chức Hành khiển. Hành khiển là chức rất lớn bao trùm “Tam sảnh” trong đó có các chức Lệnh Thị lang, Tả ty, Hữu ty, Lang trung... Khi có các việc trọng đại của triều đình thì chức Thượng thư lệnh và Lý chức sự của Thượng thư sảnh cùng với chức Trung thư lệnh của Trung thư sảnh thống nhất họp bàn, sau đó giao cho Môn hạ sảnh xét lại, rồi giao trở lại cho Trung thư sảnh vâng mệnh thi hành.

Chức quan ở Môn hạ sảnh thời Trần đều do những đại thần tài giỏi đảm nhiệm, như năm Khai Thái thứ 6 (1329) Trần Minh Tông phong Vũ Nghiêu Tá làm Nhập nội Hành khiển Môn hạ Hữu ty Lang trung. Năm Khai Hựu 11 (1339) Trần Hiến Tông lấy Trương Hán Siêu làm Môn hạ Hữu ty Lang trung rồi sai Trương Hán Siêu cùng Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo đính bộ Hình thư để ban hành(3). Những thay đổi về danh xưng ở Ty Hành khiển cũng không làm nó thay đổi về chức năng nhiệm vụ, như năm Thiệu Phong 4 (1344) Trần Dụ Tông đổi Thánh từ Hành khiển ty làm Thượng thư sảnh, và Hành khiển ty vẫn để là Môn hạ sảnh như cũ.

Các đại thần tài giỏi tuy đã làm ở Sảnh rồi vẫn được kiêm nhiệm chức vụ khác, như Hành khiển Phạm Sư Mạnh năm Đại Trị 5 (1362) được Trần Dụ Tông phong thêm chức Tri khu mật viện sự. Cũng có người không vì tài cao nhưng vì có công đối với nhà vua nên cũng được giữ chức Hành khiển như Nguyễn Nhiên năm Thiệu Khánh 1 (1370) được Trần Nghệ Tông trả ơn cho làm Hành khiển Tả Tham tri chính sự. Sự kiện này về sau đã bị sử thần Ngô Sĩ Liên phê phán ở chính sử.

Chế độ “Tam sảnh” thời Trần đã dẫn đến việc chuyên quyền của các đại thần ở cơ quan này, họ có quyền phê phán, thậm chí cách, bãi cả chức Thượng thư ở Lục bộ và các vị quan to thuộc những cơ quan ngang Bộ. Chế độ “Tam sảnh” đó còn tồn tại mãi trong giai đoạn Lê sơ, nên cuối đời Lê Thánh Tông (1460-1497) với công cuộc cải cách hành chính quy mô, Thánh Tông đã giảm dần quyền lực của “Tam sảnh” và chuyển hẳn chức năng của Trung thư sảnh cùng Môn hạ sảnh thuần túy chỉ là chức năng văn phòng của Hoàng đế, rồi đặt chức tước của chính quan hai Sảnh này nằm dưới Thượng thư lục bộ(4) .

Trở lại quả ấn đồng “Môn hạ sảnh ấn” trên, nó được đúc vào năm 1377 và được dùng đóng trên những văn bản hành chính quan trọng từ đời Trần Phế Đế về sau. Đáng tiếc về vấn đề này, như trên đã nói, không còn một văn bản Hán Nôm đời Trần nào còn sót lại, cho nên việc tìm lại tên họ những đại thần có gắn bó với quả “Môn hạ sảnh ấn” này may chăng là việc làm có ý nghĩa.

Năm Thiệu Khánh 3 (1372) Trần Nghệ Tông cho Đỗ Tử Bình làm Hành khiển tham mưu quân sự, trải qua đời Duệ Tông đến thời Trần Phế Đế năm Xương Phù 2 (1378) Đỗ Tử Bình vẫn giữ chức Hành khiển như cũ. Đến năm Xương Phù 4 (1380) Đỗ Tử Bình lại được thêm chức Nhập nội Hành khiển Tả Tham tri chính sự lãnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang(5).

Sách Đại Việt sử ký tiền biên còn ghi rõ tên họ, năm tháng những đại thần giữ chức Hành khiển: “Năm Xương Phù 5 (1381) cho Đào Sư Tích làm Nhập nội Hành khiển Hữu ty Lang trung”. “Năm Xương Phù 8 (1384) sai Hành khiển ty là Trần Nghiêu Dụ đốc thúc Vận sứ của các Lộ vận chuyển lương đến đầu huyện Thủy Vĩ cấp cho quân...”. “Năm Xương Phù 12 (1388) cho Nhập nội Hành khiển Tả ty là Vương Hữu Chu về hưu trí”(6).

Trong số những đại thần trên thì Trần Nghiêu Dụ mới đúng là người quản lý và sử dụng “Môn hạ sảnh ấn”, vì Môn hạ sảnh chính là Hành khiển ty, còn các chức Hành khiển khác thì chỉ liên quan đến Môn hạ sảnh thôi. Quả ấn này được chế tác năm 1377 nhưng mãi đến năm 1384 thì Trần Nghiêu Dụ mới được bổ nhiệm đứng đầu Môn hạ sảnh, còn trước năm 1384 và sau Trần Nghiêu Dụ là ai thì chúng tôi cũng chưa tìm ra được.

Sở dĩ việc coi “Môn hạ sảnh ấn” này là quả ấn đồng cổ nhất của Việt Nam vì chúng tôi nghĩ rằng những quả ấn mà Viện khảo cổ học và các cơ quan Bảo tàng Lịch sử Bộ Văn hóa sưu tầm về đã xác định khoảng niên đại trước thời Trần, nhưng chưa công bố chi tiết nội dung và khẳng định là ấn của Việt Nam hay Trung Quốc. Cho nên “Môn hạ sảnh ấn” tạm thời được xem là quả ấn đồng cổ nhất Việt Nam, cũng là để mong được sự chỉ giáo của các học giả quan tâm đến đề tài này.

Từ một quả ấn đồng đơn giản với một hình dấu có bốn chữ Triện hoàn thiện, chúng tôi hi vọng phần nào cung cấp thêm chút ít tư liệu cho các nhà nghiên cứu giai đoạn thời Trần và Lê sơ, giai đoạn mà tư liệu thành văn phần nhiều bị mai một và chứng tích hiện vật ngày nay còn lại không đủ đại diện cho một bộ phận của cả một vương triều phong kiến Việt Nam xưa.

CHÚ THÍCH

(1) Quả ấn “Môn hạ sảnh ấn” này đã được ông Nguyễn Văn Huyên giới thiệu trong bài Bước đầu tìm hiểu các ấn đồng cổ đã biết được ở nước ta - Tạp chí Khảo cổ học số 20-1976, tr. 49. Toàn văn: “Chiếc ấn cổ thứ hai là “Môn hạ sảnh ấn” phát hiện tại xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh năm 1962 được chế tạo năm “Long Khánh ngũ niên” đời Trần Duệ Tông (1377)”. ấn cổ nhất ông cho là 6 chiếc ấn tìm thấy trong mộ táng ở Thiệu Dương, Thanh Hóa, có niên đại khoảng cuối thời Tây Hán đến đầu thời Đông Hán. Tác giả chưa có điều kiện giới thiệu và cũng chưa chứng minh được 6 chiếc ấn này là ấn của Việt Nam hay Trung Quốc, do đó chúng tôi tạm coi “Môn hạ sảnh ấn” là quả ấn cổ nhất ở nước ta.

(2) Xem “Chức ty ngoại triều” trong Đời sống cung đình Trung Quốc. Nxb. Văn hóa Thông tin, 1997, tr. 90 - 94.

(3) Xem Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. KHXH. Hà Nội 1997, tr. 437 - 438.

(4) Xem Lê triều quan chí. Viện Sử học và Nxb. Văn hóa - Thông tin 1997.

(5) Xem Đại Việt sử ký tiền biên Nxb. KHXH. Hà Nội 1997, tr. 469 - 477.

(6) Xem Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.479, 481, 483.

TB

TB

HÒE HIÊN TRẦN HIỀN (1684 - 1742) - NGƯỜI HIỀN ĐẤT VÂN CANH

VIỆT ANH

Trong cuốn sách biên soạn về Hà Nội nửa đầu thế kỷ (Nguyễn Văn Uẩn, Nxb. Hà Nội, 1986, 3 tập) có một nhận định rằng: “Vân Canh có hai ông thầy bị liên lụy vì học trò, là Trần Hiền và Lý Trần Quán”. Vân Canh ở đây là tên xã, vào khoảng thế kỷ 18 thuộc về huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Lý Trần Quán là vị Tiến sĩ nhà Lê, được nhắc tới trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái biên soạn). Vì có môn sinh là tuần Trang bắt chúa Trịnh Tông nộp cho quân Tây Sơn, Lý Trần Quán đã tự tử để bày tỏ lòng trung liệt. Còn Trần Hiền là nhân vật ít được nhắc tới trong sử sách. Tuy vậy, có thể tìm thấy trong Từ Liêm huyện đăng khoa chí (1) lời nhận xét trang trọng về ông: “Vi thời đại tôn sư (...) môn nhân thành đạt giả đa.” (Là bậc thầy đáng kính của thời ấy (...) học trò thành đạt có nhiều). Huyện Từ Liêm có bốn làng Mỗ, La, Canh, Cót được gọi là “tứ quý danh hương - bốn làng nổi tiếng”. Trong đó “Canh” chính là hương Vân Canh, người xưa quen gọi là làng. ở Vân Canh, họ Trần là dòng họ có truyền thống văn chương. Theo ghi chép trong gia phả, thủy tổ họ Trần vốn ở Khoái Châu (Hưng Yên), mấy đời sau di cư đến thôn Hoàng Bảng, xã Vân Canh ở Từ Liêm sinh sống. Cho đến cuối thế kỷ 19, dòng họ Trần này đã lập nên một danh sách khoa bảng gồm 39 người từ Sinh đồ tới Tiến sĩ. Và chính Trần Hiền, vị Tiến sĩ niên hiệu Long Đức 2 (1733) là người đầu tiên đỗ đạt cao nhất trong họ, làm rạng danh gia tộc. Tiếc rằng trong các bộ sách Quốc ngữ chuyên dùng để tra cứu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, hiện nay có lẽ chỉ có Lược truyện các tác gia Việt Nam (Trần Văn Giáp, Nxb. Khoa học xã hội, 2 tập) và Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội) là có giới thiệu, dù chỉ sơ lược, chân dung Tiến sĩ Trần Hiền.

Theo Trần gia thế phả(2), Trần Hiền sinh năm Giáp Tý (1684), cha là nhà giáo Trần Thứ. Trần Hiền có người em gái tên Tú, được gả cho học trò của cha là Đặng Trần Diễm(3) người huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, sinh hai trai là Lý Trần Quán, Lý Trần Dự đều đậu Tiến sĩ. Như vậy, hai vị Tiến sĩ họ Lý Trần này đều là cháu gọi Tiến sĩ Trần Hiền bằng bác ruột. Thêm nữa, sau này Lý Trần Dự làm con rể của Lê Trọng Thứ - cha của Lê Quí Đôn. Trần Hiền có người em họ (con của chú) là Trần Hiểu, rất uyên thâm về học vấn. Người đương thời có câu: “Trần Hiền, Trần Hiểu thiên hạ thiểu”; ý nói giỏi như Trần Hiền, Trần Hiểu, trong thiên hạ ít có.

Trần Hiền, tên tự là Liêm Bình, hiệu Hòe Hiên (học trò của ông là Trần Đồng, Tiến sĩ người xã Đan Phượng Thượng, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây, cũng có hiệu Hòe Hiên). Ngay từ nhỏ, Trần Hiền đã bộc lộc tính ham học, thường đứng đầu trong nhiều kỳ thi khảo hạch tại trường lớp, địa phương. Lớn hơn chút nữa, Trần Hiền theo học Thám hoa Vũ Thạnh người xã Đan Luân, huyện Đường An (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). 25 tuổi đậu Hương cống, 26 tuổi đậu khoa Hoành từ; từ đó, nhất là từ sau khoa thi Hội năm 1718 chỉ trúng cách 3 trường, Trần Hiền càng cảm thấy không ham mê quan lộc. Ông dựng nhà trên đất An Trai xã Vân Canh, lấy việc dạy học làm vui, an lòng với cảnh sống thanh bần. Có người chú khuyên nên nghĩ đến mẹ già mà ra làm quan, cộng thêm nguyên nhân cảnh nhà thiếu thốn; vì thế, vào niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723) đời Lê Dụ Tông, Trần Hiền nhận mệnh tới xứ Hải Dương mở trường giảng tập. Môn sinh quanh vùng theo học rất đông, nhiều người về sau đỗ đạt. Chẳng bao lâu, ngẫm cảnh mẹ già, con muộn, lại không ham việc đời, Trần Hiền xin từ chức, rồi lại được thăng Ty kinh cục điển hàn (là chức quan đứng thứ hai trực thuộc Tả Xuân phường ở cung Thái tử đời Lê, phụ trách việc sổ sách, giấy tờ). Tài năng, nhân cách của ông ngày thêm nổi tiếng.

Đời vua Lê Thuần Tông, niên hiệu Long Đức 2 (1733), Trần Hiền đi thi và đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ ở tuổi 50. Đỗ cùng khoa này có Trần Mô (xã Di ái), Trần Đồng (xã Đan Phượng Thượng) và Trần Danh Tiêu (xã Yên Sở) đều thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây), đều là học trò của ông. Bốn thầy trò cùng vinh quy, người đời không ai không tấm tắc ngợi khen. Cả Tiến sĩ Vũ Miên đỗ khoa Cảnh Hưng 9 (1748) - người có công trong việc biên soạn bộ sách Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục - cũng là học trò của ông.

Sau khi đỗ đạt, Trần Hiền từng giữ chức Thiêm sai (một trong những chức quan có nhiệm vụ xét lại các việc kiện tụng). Rồi học trò của ông là cống Cừ (Nguyễn Cừ - dòng dõi Tiến sĩ Nguyễn Mại) tham gia khởi nghĩa nông dân chống triều đình; người em họ của Trần Hiền là cống Diễm (em ruột của Trần Hiểu) theo người hoàng tộc Lê Duy Mật kéo quân nổi dậy. Quan Tham tụng lúc ấy là Trần Cảnh (Tiến sĩ niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 tức năm 1718) vì mâu thuẫn riêng với Trần Hiền, đã nhân đó làm to chuyện này, khiến Trần Hiền bị bãi chức. Ông về quê sống cảnh thanh bần và qua đời năm Nhâm Tuất (1742) đời Lê Cảnh Hưng. Đến năm 1768, các học trò của ông như Tiến sĩ Tham tụng Vũ Miên, Thượng thư Nguyễn Gia Dung là những bậc quyền thế, dẫn lệ cũ tâu xin cho thầy mình. Trần Hiền được truy tặng Hiển Cung đại phu, Hàn lâm viện Thị giảng.

Ngoài một ít thông tin được lưu giữ trong gia phả của dòng họ Trần như đã giới thiệu ở trên, những tư liệu Hán Nôm khác liên quan tới Trần Hiền còn đến nay không nhiều. Có thể kể ra một số sáng tác của ông như: văn bia, câu đối, và nhất là 193 bài thơ do con trưởng của ông là Trần Tân sao chép. Đây chính là mảng tư liệu đáng lưu ý khi nhìn nhận cuộc đời và sự nghiệp của Tiến sĩ Trần Hiền.

Cũng như các nhà thơ khác, sáng tác của Trần Hiền thể hiện rất nhiều tâm sự đối với con người, cảnh vật. Về đại thể, qua tập hợp 193 bài thơ của ông, ta thấy nổi lên hai vấn đề: thế sự và đời thường.

1. Người lo thế sự

Trong sáng tác của Trần Hiền, những bài vịnh sử, những bài tả cảnh là sự thể hiện rõ nét nhất dòng suy tư của người trí thức có trách nhiệm với nước nhà. Có những dòng thơ, tứ thơ dường như bộc lộ một cách kín kẽ tư cách của nho sĩ:

Nhân sở vi nhân hữu ngũ luân,
Luân trung tối đại hữu quân thần.
Tôn ty trật tự càn khôn định,
Thượng hạ hoan nhiên cốt nhục thân.

(Đáng mặt làm người, có ngũ luân,
Ngũ luân lớn nhất có quân thần.
Tôn ty trật tự càn khôn định,
Trên dưới vui vầy cốt nhục thân).
(Quân thần)

Tưởng rằng, như vậy là ông bằng lòng với vị trí của mình trong cuộc đời. Nhưng không! Luân lý thì ít đổi thay, còn xã hội thì nhiều biến động. Trong một bài thơ tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc Trung Hoa là Nhạc Phi, Trần Hiền viết:

Trung thần bất khẳng vong thù lỗ,
ám chúa thiên năng tín cự gian.
Giang tích thao thao hoành đới khách,
Anh hùng nhược tự mộng Chi Nhan(4).

(Tôi trung chẳng chịu quên thù giặc,
Chúa tối riêng tin kẻ đại gian.
Sông nước ào ào ngăn trở khách,
Anh hùng mê mải mộng Chi Nhan.)
(Kinh Nhạc Châu phủ thành, bắc vọng Nhạc vương miếu)

Những câu thơ như trái ngược với giáo lý ngũ luân, tuy không hỏi mà thực chất lại nổi lên câu hỏi: trong trường hợp tôi trung - chúa tối - gian thần như vậy, ngũ luân cương thường có còn do trời đất định, có còn trên dưới vui vầy được nữa không ?

Trần Hiền sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII. Đó là một chặng trong cả thời kỳ nhiều rối ren của nước nhà. Miền Nam, các chúa Nguyễn cát cứ, lực lượng ngày thêm hùng hậu. Miền Bắc, chúa Trịnh kèm bên vua Lê, thao túng quyền hành. Khởi nghĩa của các phái khác nhau liên tiếp nổ ra, không chỉ khuấy động an ninh xã hội, mà còn lay chuyển cả nhiều quan niệm tưởng chừng thâm căn cố đế. Vấn đề của người trí thức đương thời không phải là xét “tôi trung không thờ hai vua” hay không. Điều trọng yếu của người có trách nhiệm với thời cuộc là: có tìm được bậc “chân chúa”, người “thực sự anh hùng” để dẹp loạn phò an hay không. Có lẽ, Trần Hiền cũng mang tâm trạng ấy. Vì thế, trong thơ, nhiều khi hiện rõ những ước ao về một "thuở xa xưa":

Cố quốc sơn hà dĩ đại thù,
Cố viên tùng cúc bán hoang vu,
(...)
Hữu nhân khuyến ngã bôi trung thú,
Vị vấn Tam Lư (5) khẳng túy vô.

(Nước cũ non sông đã khác xưa,
Vườn quê thông cúc nửa hoang vu.
(...)
Có người khuyên mãi vui trong chén,
Hãy hỏi Tam Lư có chịu cho).
(Tức sự thư hoài)
Tự cổ nguy thời tư vũ lược,
Độc lân bạch diện xí nhung mao.

(Từ xưa khi nguy cấp mới rõ tài thao lược võ bị,
Riêng thương mình, phận thư sinh mặt trắng lại dự vào việc quân).

(Văn mệnh tham Giang Bắc nhung vụ)

Cái gọi là “thuở xa xưa” ấy, trong niềm hoài cổ của những nho sĩ như Trần Hiền, chưa chắc thuộc về một thời kỳ cụ thể nào. Gọi là “thuở xưa”, nhưng cũng có thể là buổi chưa tới. Chung quy lại, trực tiếp đối mặt với thực tế phũ phàng là điều rất khó.

Tương tự như vậy, Trần Hiền có thể gửi thơ họa, đáp, tặng, tiễn, chúc, mừng nhiều thi nhân cùng thời, nhưng trong sâu kín, ông vẫn thấy lẻ loi cô độc. Ông viết cho mình:

Xa mã tuy huyên tâm tự không,
Cao tình nhã thú hựu thùy đồng.

(Xe ngựa tuy vang lòng rỗng không,
Cao tình nhã thú biết ai cùng).
(Ký Thăng Long thành ngoại y giả.)

Đọc thơ Trần Hiền, ta có thể nảy ra rất nhiều thắc mắc. Khi xe ngựa xênh xang cũng buồn; lúc sống nơi thôn làng cũng chẳng vui, nhận mệnh vua mà thẹn cho mình; than hộ người lại buồn cho thân... Tại sao vậy ? Phải chăng vì lễ giáo và bản thân siết chặt khuôn phép đã quen, khiến mỗi người cứ khiêm nhường, cứ xếp sau thiên hạ mà nín nhịn một cách nghẹn ngào. Bên cạnh đó, mơ ước “vua sáng, tôi hiền” chỉ có thể tồn tại trong tâm tưởng. Lực bất tòng tâm, tận đáy lòng, mỗi người trách cứ nhiều mối, nhưng rốt cuộc, lại chỉ dám oán mình:

Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Bất tưởng Thiên Thai diệc hý trường.

(Người đời khổ mộng Thiên Thai mãi,
Chả biết Thiên Thai cũng hý trường)
(Du Bích Đào động)

Đó là hai câu thơ bất chợt hiện ra trong thơ Trần Hiền. Đó cũng chính là hai câu thơ thâm diệu mà học giả đời sau từng tranh luận là của Đinh Lễ hay là của Lê Quý Đôn...

Qua 193 bài thơ được tập hợp lại của Tiến sĩ Trần Hiền, có thể thấy, song song với những ưu tư về thời cuộc là quá trình tìm kiếm, nhận thức chính bản thân mình.

2. Người trong đời thường

Trong mối quan hệ ruột thịt, xóm làng, con người Trần Hiền sinh động hẳn lên. Thơ của ông bất ngờ rộ nét xuân:

Xuân vũ xuân giao xuân thảo chí,
Xuân phong xuân thụ xuân cầm minh.
Tộc nhân quy hậu, hương nhân chí,
Bạch tửu huân thời dược tửu khuynh.
Bán bách tu mi đăng lý xỷ,
Lưỡng tam sắc mục tự thôn tình.
Kim niên cấm tuyệt chư ban bạc,
Hỷ cộng nhân nhân sấn tảo canh.

(Mưa xuân gội đồng xuân, cỏ xuân mướt dậy,
Gió xuân rờn cây xuân, chim xuân hót ran.
Họ hàng về rồi, người làng tới,
Rượu trắng hết, rượu thuốc lại rót.
Đàn ông (như ta) năm chục tuổi lên hàng lão,
Vài ba hào mục kể chuyện làng.
Năm nay cấm hẳn mọi trò đánh bạc,
Mừng cùng nhà nhà sớm ra đồng).
(Xuân đề)

Đây chính là chút giải tỏa giữa những bức bối, phiền muộn về thời thế! Giữa những trằn trọc trăm mối, ghi chép của Trần Hiền, có đôi khi đau đáu tình nặng nghĩa sâu với người vợ tảo tần. Ông có những đôi câu đối rằng :

Nhị kỷ lân quân đồng khổ cảnh,
Nhất triêu não ngã tác quan nhân.

(Hai kỷ thương ai chung cảnh khổ,
Một mai tự xót hóa chồng côi).

Tạo vật thái lạo nhân, hải thệ sơn minh thành biệt hận,
Xuân khuê thùy tác chủ, thủy lưu hoa tạ tối thương tâm.

(Tạo vật quá nhiễu nhau, biển hẹn non thề thành hận biệt,
Phòng khuê ai làm chủ, nước trôi hoa rụng mấy thương tâm).

Sực tỉnh giấc triền miên, bỗng thấy mồ côi vợ. Nhớ những ngày áo cơm eo hẹp, một mình vợ thắt lưng buộc bụng ngược xuôi, còn đèo thêm ông chồng hàn sĩ trầm lặng ra vào... tình thương vợ dâng trào cùng hối hận. Khi đã mất bà, ông mới nhận ra điều ấy.

Và bao trùm lên tất cả, là thái độ cố gắng tự nhàn của một người nhiều tâm sự:

Hữu lư tế phong vũ,
Hà tất hiềm lậu trách;
Hữu điền cung chiên chúc,
Hà tất yêu phụ quách.
(...)
Túy lý tâm vô sầu,
Nhàn trung chí tự thích.

(Có lều che mưa gió,
Sao cứ hiềm hẹp nhỏ;
Có ruộng cho cháo rau,
Sao cứ cầu lầu gác.
(...)
Say thỏa lòng không sầu,
Thanh nhàn chí tự thích).
(Trừ tịch thư hoài)

Sự say thỏa cho bớt sầu trong vòng tay quê hương là giây phút thở phào nhẹ nhõm hiếm hoi của Trần Hiền, không phải chén rượu mồi chài buông xuôi theo thế tục.

So với nhiều nhân sĩ nổi tiếng đương thời như Ninh Địch, Vũ Công Tể, Lê Hữu Kiều mà sáng tác thơ văn còn lại ít ỏi, thì 193 bài thơ của Trần Hiền là nguồn tư liệu đáng quý. Đó là dẫn chứng cụ thể về thân phận, về suy tư của một nhà trí thức trên hành trình tìm kiếm chính mình.

CHÚ THÍCH

(1) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.507.

(2) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.642.

(3) Đặng Trần Diễm sau đổi thành Lý Trần Diễm.

(4) Tên núi ở Trung Quốc. Thời Hán, tướng Vệ Thanh truy đuổi quân Hung Nô ở đây. Trong thơ, ý chỉ chí lớn.

(5) Chức quan của Khuất Nguyên.

TB

"TÂN ĐÍNH HIỆU BÌNH VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP" ĐÃ ĐƯỢC BIÊN SOẠN NHƯ THẾ NÀO?

ĐÀO PHƯƠNG CHI

Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập (TĐHB) của Gia Cát thị là một văn bản khá đặc biệt trong số các tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại. Tên của tác phẩm cho ta thấy rằng, tác giả của nó đã dựa trên cơ sở một tác phẩm có từ trước để sáng tác, đó là Việt điện u linh tập (VĐULT) của Lý Tế Xuyên. Mặc dù tác giả cho rằng, mình chỉ làm một công việc rất nhỏ: tân đính hiệu bình (hiệu đính và bình luận mới), nhưng thực chất, tác giả đã "hoán cốt" cho VĐULT, biến một tác phẩm thần tích thành tác phẩm văn học nghệ thuật. Điểm đặc sắc của TĐHB là ở chỗ, tác giả của nó đã lấy cảm hứng sáng tác từ VĐULT của Lý Tế Xuyên, hay nói một cách khác là trên cơ sở nhân vật và cốt truyện từ VĐULT, tác giả đã biên soạn lại, khiến cho qui mô tác phẩm của Lý Tế Xuyên được mở rộng rất nhiều. Tác phẩm đã tự khẳng định mình qua bút pháp độc đáo, tạo dựng một khung cảnh hoành tráng về cuộc đấu tranh kiên cường chống sự xâm lược từ phương Bắc của dân tộc Việt Nam thời Bắc thuộc, qua đó, địa linh nhân kiệt Việt Nam trong VĐULT một lần nữa lại được tái hiện đầy đủ hơn, cụ thể và sinh động hơn trong TĐHBT.

VĐULT là sự hòa trộn của cả ba tư tưởng Nho, Lão, Phật, cùng tập quán thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, mục đích bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là để phục vụ cho việc thờ cúng. Đây là điều rất phù hợp với tâm lí "truy viễn" của dân ta. Phải chăng chính vì điều này mà tác phẩm đã trở thành một trong những sản phẩm văn tự có ảnh hưởng khá lớn đến dòng văn học tự sự lịch sử Việt Nam suốt thời Trung đại. Liên tiếp trong 7 thế kỉ, bắt đầu từ Lý Tế Xuyên (thế kỉ XIV), cho đến Nguyễn Văn Chất (thế kỉ XV), Nguyễn Hàng, Đoàn Vĩnh Phúc, Lê Tự Chi (thế kỉ XVI), Lê Hữu Hỉ, Kim Miện Muội, Gia Cát thị (thế kỉ XVIII), Cao Huy Diệu (thế kỷ XIX), Ngô Giáp Đậu (thế kỷ XX)... nó luôn là mối quan tâm của các học giả. Và theo bước chân của Lý Tế Xuyên, các tác giả nói trên đã dồn nhiều công sức vào việc tục biên, tăng bổ, trùng bổ, tân đính, hiệu bình... khiến cho tác phẩm luôn mang hơi thở của thời đại. Có thể nói, đây là một hiện tượng khá đặc biệt của dòng văn học tự sự Trung đại. Một trong số những người có tâm huyết với VĐULT kể trên là Gia Cát thị. Tuy tiếp tục con đường của những người đi trước, nhưng Gia Cát thị đã bứt lên khỏi công việc "tăng bổ", "trùng bổ"... và đã lựa chọn cho mình một phương thức khác: biến đổi một tác phẩm văn học chức năng lễ nghi(1) thành một tác phẩm đậm đà sắc thái văn học nghệ thuật. Có thể nói, đến TĐHBT, VĐULT đã được thay đổi về chất.

Đây là một trong số những tác phẩm có giá trị trong văn học Việt Nam thời Trung đại, văn bản của tác phẩm cũng có khá nhiều điều thú vị, nhưng thật tiếc là nó chưa từng được xuất hiện một cách hoàn chỉnh trong một bản dịch nào(2). Bởi vậy, trong bài viết này, chúng tôi thấy có nhiệm vụ phải giới thiệu một số vấn đề về văn bản cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm và bước đầu tìm hiểu về tác giả của TĐHB.

1. Vấn đề Tác giả:

Theo các thư tịch hiện nay, tác giả của Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập là Lễ bộ Chủ bạ Hồng đô Gia Cát thị(3). Vậy Gia Cát thị là ai? Theo lời Dẫn nhập của VĐULT(4) Lời dẫn của Việt điện u linh tập lục toàn biên(5), thì ông là người Hồng Đô, tỉnh Hải Dương, đã từng làm Biên tu bộ Lễ, đời Lê Hiển Tông (1740-1786). Chẳng biết hai tác giả trên căn cứ vào đâu để khẳng định điều này. Hiện chúng tôi chưa tìm được nguồn tài liệu nào để có thể biết về tiểu sử Gia Cát thị, chỉ biết rằng, Gia Cát thị viết TĐHB năm Cảnh Hưng 35 (1774) khi ông giữ chức Chủ bạ bộ Lễ. Rất có thể, ông sống vào khoảng cuối thời Lê - Trịnh, qua thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn. Theo Hoàng Việt long hưng chí, trong khoảng thời gian này, có một người cũng làm ở bộ Lễ (nhưng giữ chức Tham tri) là Nguyễn Gia Cát(6). Chẳng biết Gia Cát thị và Nguyễn Gia Cát có phải là một không(7). Nếu quả là một người, thì Gia Cát thị đã từng đi sứ sang nhà Thanh năm 1805(8) và cũng đã từng bị tù vì tội mạo cấp sắc phong, suýt bị xử chém, rồi lại được tha(9). Và ngoài TĐHBT, với bút danh Gia Cát thị, ông còn có một số tác phẩm khác như Bi Nhu quận công phương tích lục 悲 柔 郡 公 芳 績 錄 Hoa trình thi tập華 程 詩 集 và viết tựa cho cuốn Hoàng Việt nhất thống dư địa chí 皇 越 一 統 輿 地 志 . Điều này có thể tin được, vì từ 1774, năm Gia Cát thị viết TĐHBT đến 1805 không xa. Giả thiết này khiến chúng tôi nghĩ tới ý nghĩa của chữ thị trong cụm từ Gia Cát thị. ở đây, chữ thị có thể mang một trong hai ý nghĩa sau:

a. Có thể tác giả hâm mộ tài năng Gia Cát Lượng, rồi lấy họ ấy chăng ? Trong trường hợp này, chữ thị có nghĩa là họ.

b. Nếu Gia Cát thị chính là Nguyễn Gia Cát, thì Gia Cát là tên. Nếu vậy, thị sẽ không có nghĩa là họ nữa. Tra trong Hán ngữ đại từ điển, chúng tôi thấy chữ này có một nghĩa khác là từ tôn xưng. Từ điển cho biết, Mạnh Tử được tôn xưng là "Mạnh Kha thị", thậm chí, khi muốn tỏ ý trân trọng với người em gái, người ta cũng dùng từ "muội thị"(13)... Và như vậy, chữ thị ở đây đã mang một nghĩa khác ngoài nghĩa thông thường là họ. Và nếu quả là chữ thị mang nghĩa tôn xưng, thì rất có khả năng, cụm từ Gia Cát thị không phải do tác giả tự viết, mà do người đời sau gọi.

Hai nghĩa trên của từ thị đã dẫn đến sự khó chọn lựa giữa hai khả năng: Gia Cát là tên hay là họ. Vì hiện nay chưa tìm được nguồn tài liệu thật chính xác, bước đầu, chúng tôi tạm đưa ra hai giả thuyết trên. Còn để khẳng định được chắc chắn, chúng tôi thiết nghĩ, vẫn cần có những tư liệu khác để soi sáng thêm.

Tóm lại, về tác giả của TĐHBT, cho tới nay chúng ta chỉ mới có thể biết như vậy mà thôi. Sau này, nếu có điều kiện và tư liệu, chúng tôi sẽ.

2. Văn bản :

Hiện nay, tại Việt Nam, TĐHBT chỉ còn một văn bản duy nhất, lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A. 335. Sách không còn bìa gốc. Bìa sách hiện nay làm bằng một tờ giấy xi măng phết sơn ta, mới được đóng thêm vào. Tác phẩm gồm 155 tờ, viết tay, giấy dó loại tốt, khổ 32 x 22cm, trang 9 dòng, dòng 20 chữ. Mở đầu sách là đầu đề tác phẩm 新 訂 較 評 越 甸 幽 靈 集 Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập) được viết riêng ở một mặt giấy. Tiếp đó là phần chính văn. Ở tờ 1a, tên tác phẩm được viết lại một lần nữa. Tiếp theo là bài tựa của Lý Tế Xuyên, nhưng không được mở đầu bằng 5 chữ 越 甸 幽 靈 序 V iệt điện u linh tự) mà lại là 5 chữ 第 二 奇 書 序 Đệ nhị kì thư tự (Lời tựa cho cuốn sách lạ thứ hai)(14). Cuối lời tựa (tờ 1b) là dòng lạc khoản ghi năm tháng soạn và tác giả VĐULT: 開 佑(15) 元 年 春 正 月 上 浣 日 序 大 藏 書 大 正 掌 中 品 奉 御 安 越 還 路 轉 運 使 李 濟 川 謹 序 Khai Hựu nguyên niên xuân chính nguyệt thượng cán nhật tự Đại Tạng thư Đại chính chưởng Trung phẩm phụng ngự An Việt Hoàn lộ Chuyển vận sứ Lý Tế Xuyên cẩn tự: Viết Lời tựa vào ngày thượng cán (mùng 1-10) tháng Giêng mùa xuân năm Khai Hựu nguyên niên. Đại Tạng thư Đại chính chưởng Trung phẩm phụng ngự An Việt Hoàn lộ Chuyển vận sứ là Lý Tế Xuyên kính cẩn đề tựa). Sau đó là lời Tự dẫn của Gia Cát thị (tờ 1b-tờ 2b). Cuối lời Tự dẫn là dòng lạc khoản ghi: 景 興 甲 午 秋 中 浣 日 序 禮 部 主 簿 鴻 都 諸 葛 氏 謹 頓 序 Cảnh Hưng Giáp Ngọ thu trung cán nhật tự. Lễ bộ Chủ bạ Hồng Đô Gia Cát thị cẩn đốn tự: (Viết lời) Tự dẫn vào ngày trung cán (11-20) mùa thu năm Giáp Ngọ Cảnh Hưng (1774). Chủ bạ bộ Lễ là Hồng đô Gia Cát thị kính cẩn cúi đầu đề tựa).

Mở đầu tờ 3a là phần Mục lục, với bốn quyển:

Quyển 1: Lịch đại nhân quân 歷 代 人 君, gồm 8 truyện (kể về các nhân vật lịch sử tự xưng, hoặc được tôn xưng là vương, đế): Xã Tắc Đế quân kí, Lệ Hải bà vương kí, Vạn Xuân quốc đế kí, Nhất Dạ trạch vương kí, Dã Năng động vương kí, Ô Diên thành đế kí, Hương Lãm Mai đế kí, Đường Lâm Phùng vương kí .

Quyển 2: Lịch đại nhân thần 歷 代 人 神, gồm 11 truyện: An Trì Linh Lang lục, Than Lại Cao công lục, Long Đỗ Tô công lục, Nam Bình nhị Trương lục, Bộ Đầu Lý công lục, Đô hộ Phạm công lục, Na Sơn Lê công lục,Long Khang Lý công lụcThái Hòa Lý công lục, Dâm Đàm Mục công lục, Thiên Mạc Đô úy lục 

Quyển 3: Hạo khí anh linh 灝 氣 英 靈, gồm 12 truyện: Ma Lôi đại đế truyệPhù Đổng thần vương truyện, Bà Như thổ thần truyệnBạch Mã thần miếu truyện, Phong Châu thổ lệnh trưởng truyện, Thanh Hải địa thần truyện, Bố Bái đại vương truyện(16)Đằng Châu linh đài truyện, Đồng Cổ sơn chúa truyện, An Lãng nguyên quân truyện, Vĩnh Lâm Bồ trĩ truyện,Lạng Sơn Kì Cùng truyện.

Quyển 4: Túy tinh vĩ tích 粹 精 偉 績, gồm 10 truyện: Hội Xuyên Lê công phả, Trường Tân nhị tướng quân phả, Kiêu Điền Trần Phò mã phả, Phùng Uyên long thần phả, Hoan Tân Chiêu trưng phả, Sâm Thành Đỗ miếu phả, Khắc Dương Nguyễn hầu phả,Mục Lịch Từ sinh phả, Minh Động tượng từ phả,Hồi Sơn Bố Lộ phả.

Cuối phần mục lục là câu: 以 上 四 卷 共 四 十 一 記 錄 傳 譜 (Dĩ thượng tứ quyển cộng tứ thập nhất kí, lục, truyện, phả: Trở lên là 4 quyển, tổng cộng 41 kí, lục, truyện, phả). 

Tiếp sau đó, từ giữa tờ 4a đến tờ 4b, là một đoạn có tính chất gần như phàm lệ của tác giả, qui định rõ 3 qui tắc biên soạn TĐHBT. Sau đoạn này là 5 chữ 書 序 目 錄 完 Thư tự mục lục hoàn: Hết phần Tựa sách và Mục lục).

Đầu tờ 5b, dòng thứ nhất là hàng chữ: 新 訂 較 評 越 甸 幽 靈 集 卷 一 (Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập quyển nhất) và 4 chữ Đệ nhị kì thư được lặp lại. Tiếp đó, tác giả một lần nữa khẳng định nguồn gốc tác phẩm và tác giả: 大 正 掌 中 品 濟 川 李 氏 撰 禮 部 主 簿 鴻 都 嘉 葛 氏 校(17). Đại chính chưởng Trung phẩm Tế Xuyên Lý thị soạn. Lễ bộ Chủ bạ Hồng Đô Gia Cát thị hiệu: Đại chính chưởng Trung phẩm Tế Xuyên họ Lý soạn. Chủ bạ bộ Lễ Hồng đô Gia Cát thị hiệu đính).

Sau đó, bắt đầu vào nội dung truyện với Quyển 1: Lịch đại nhân quân, từ giữa tờ 5b đến giữa tờ 43a.

Quyển 2: Lịch đại nhân thần, từ giữa tờ 43a đến hết tờ 81b.

Quyển 3: Hạo khí anh linh, từ giữa tờ 82a đến hết tờ 118b.

Quyển 4: Túy tinh vĩ tích, từ đầu tờ 119a đến hết tờ 155a.

Tờ 155b kết thúc tác phẩm bằng dòng chữ:明 命 五 年 五 月 十 三 日 Minh Mệnh ngũ niên ngũ nguyệt thập tam nhật : Ngày 13 tháng 5 năm Minh Mệnh 5, tức 1824).

Tác phẩm không ghi ai sao lục và sao lục từ văn bản nào. Năm Minh Mệnh 5 (1824) có thể là ngày được sưu tầm hoặc sao chép lại.

Như đã trình bày ở trên, TĐHBT, hiện nay, tại Việt Nam, chỉ còn một văn bản duy nhất, được lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, một công trình hợp tác giữa Việt Nam, Pháp và Đài Loan(18) (gọi tắt là VNHv) cũng có in toàn văn TĐHBT. Theo như lời Xuất bản thuyết minh của cuốn sách này, TĐHBT ở đây là bản in theo một bản sao khác, cùng thế hệ (đồng bản dị sao) với bản A.335, do GS. Đái Mật Duy 戴 密 維(19) lưu giữ (gọi tắt là bản Đái Mật Duy). Dựa trên phần Thư ảnh (chụp từ đầu đến một phần đầu của truyện Xã Tắc đế quân ký), chúng tôi thấy A.335 và bản này có nhiều khác biệt. Chẳng hạn như:

Ở bản A.335, các chữ Hoàng Việt 皇 越 (tờ 1a), Việt 越 (tờ 1b), Cảnh Hưng 景 興 (tờ 2b) v.v. không được viết đài, ở bản Đái Mật Duy được viết đài; trong bản A.335 là chữ Khai Hựu 開 佑 và diên thảo 沿 草 (tờ 1b), thì ở bản Đái Mật Duy là Khai Hựu 開 祐 và diên cách 沿 革; ở bản A.335, phần Mục lục, hai chữ công 公 bị viết nhầm thành sĩ 士 (tờ 3b, 4a), thì ở bản Đái Mật Duy là 公. Trên đây đều là những trường hợp bản A.335 chép sai, mà bản Đái Mật Duy lại chép đúng. Bên cạnh đó, còn một số trường hợp bản A.335 sao chép đúng, mà bản Đái Mật Duy lại chép sai, như ở bản A.335 là tuy 雖 (tờ 2a), ức 抑 (tờ 2a), quí 癸 (tờ 2a), thì ở bản Đái Mật Duy là nan 難, ức 臆, quí 季 v.v.; và một trường hợp cả hai bản cùng sai. Đó là chữ Hội Xuyên 會 川 bị chép thành Hội Lăng 會 陵 ở phần Mục lục. Có lẽ, sự lầm lẫn này là do chính từ văn bản được người sao chép bản A.335 và người sao chép bản Đái Mật Duy dùng để sao lại. Từ những trường hợp sai dị nhiều hơn là tương đồng trên giữa hai văn bản, chúng tôi thấy băn khoăn về kết luận A.335 và Đái Mật Duy là 2 văn bản "đồng bản dị sao" của VNHV. Nhưng dù kết luận của VNHV có chính xác hay không, thì chúng tôi vẫn cho rằng có thể coi bản Đái Mật Duy như một dị bản và vì không có toàn bộ văn bản này trong tay, nên, chúng tôi tạm gác lại trong bài viết. Sau này, khi có điều kiện, sẽ xin tìm hiểu tiếp.

Trở lên là sơ bộ khảo sát một số điểm chính trong văn bản của tác phẩm. Dưới đây, chúng tôi sẽ đi vào giá trị nghệ thuật của TĐHB.

3. Vài nét về giá trị nghệ thuật:

Thế kỷ XVIII là thế kỷ nổi dậy của nông dân. Chưa bao giờ người dân chứng tỏ sức mạnh của mình bằng lúc này. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua các cuộc khởi nghĩa liên tiếp và sôi động của Lê Duy Mật (1738); Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh (1739); Nguyễn Danh Phương - Quận Hẻo (1740); Nguyễn Hữu Cầu - Quận He (1742); và đỉnh cao là chiến thắng của anh em Tây Sơn (1771)...

Phong trào nông dân lớn mạnh bao nhiêu, thì chính quyền phong kiến suy yếu bấy nhiêu. Trước tình hình đó, một số người cầm bút trong hàng ngũ sĩ phu phong kiến cảm thấy lo ngại, thất vọng và có tâm trạng hoài cổ, muốn quay trở về với quá khứ. Một trong số đó là Gia Cát thị. Để thực hiện điều này, cũng như Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Hàng, Lê Tự Chi, Lê Hữu Hỉ, Vũ Khâm Lân... trước đó, ông cũng tìm đến với một tác phẩm quen thuộc: vđult. Nhưng so với tác phẩm của các học giả kể trên, về phương diện nội dung và nghệ thuật, có thể nói,TĐHB có vị trí đặc biệt.

Một trong những quy luật phát triển của văn học là quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Bởi vậy, bước chuyển từ VĐULT sang TĐHB là một bước tiến do sự vận động tự thân của thể loại, do thời đại mang tới và do tài năng của người nghệ sĩ.

Như chúng tôi đã trình bày, VĐULT của Lý Tế Xuyên là loại văn học chức năng tôn giáo. Mục đích biên soạn là để ghi chép lại sự tích các vị thần. Đây cũng là đặc điểm chung của các tác phẩm đầu thời kỳ Trung đại. Vì vậy, giá trị văn chương nghệ thuật không phải là điều được tác giả thực sự quan tâm. Còn tác giả của TĐHB không dừng lại ở việc tục biên, tăng bổ, trùng bổ... như những đồng nghiệp khác, mà đã phá bỏ được hàng rào văn học lễ nghi, vươn tới mảnh đất của thể loại văn học nghệ thuật. Và, tuy trong một số truyện vẫn còn mang "cái đuôi" thần tích qua việc liệt kê các đợt gia phong, nhưng thực chất, TĐHB đã là một tác phẩm có quan hệ họ hàng gần với văn học nghệ thuật. Tác phẩm đã đánh dấu một bước nhảy vọt so với một số tác phẩm cùng loại trước đó.

Không chỉ dừng lại ở việc thêm bớt các truyện, viết TĐHB, Gia Cát thị đã có ý thức sắp xếp chúng theo trình tự thời gian. Ví dụ như: ở phần Lịch đại nhân quân, truyện Xã tắc đế quân được Lý Tế Xuyên xếp thứ 3, sang đến Tđhb, Gia Cát thị đã đưa lên đầu; truyện Phùng Hưng, ởVĐULT là truyện đầu tiên, sang TĐHB, lại là truyện cuối cùng(20). Nhờ sắp xếp lại các truyện theo trình tự thời gian, mà nhiều truyện đã được kết nối với nhau theo kiểu liên hoàn một cách liền mạch, sự kiện trước tạo tiền đề cho sự kiện sau. Vượt qua rào chắn chung của nhiều truyện văn xuôi trước đó, TĐHB gần như đã đặt chân sang một vùng đất mới: Tiểu thuyết chương hồi. Tiêu biểu nhất cho xu hướng này là trường hợp chuyển từ truyện Khâm Minh Anh Liệt Nhân Hiếu Thánh Vũ hoàng đế - Minh Đạo Khai Cơ Thánh Liệt Thần Vũ hoàng đế (Triệu Việt vương - Lý Nam đế) trong VĐULT sang thành 4 truyện Vạn Xuân quốc đế kí (Lý Bí), Nhất Dạ trạch vương kí (Triệu Quang Phục), Dã Năng động vương kí (Lý Thiên Bảo) và Ô Diên thành đế kí (Lý Phật Tử) trong TĐHB. Nếu như Lý Bí và Lý Thiên Bảo chỉ được nhắc tới một cách thoáng qua, để làm nền cho hai nhân vật là Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử trong VĐULT, thì ở TĐHB, những nhân vật lịch sử này đã hiện lên thật sống động, qua những lời kể kĩ lưỡng, đầy hấp dẫn về nguồn gốc, gia thế cũng như mưu lược của họ... Ta hãy cùng so sánh một số dẫn chứng sau trong hai tác phẩm:

* Ở VĐULT:

"Khâm Minh Anh Liệt Nhân Hiếu Thánh Vũ hoàng đế họ Lý, húy là Phật Tử, tục gọi là Lý Nam đế (đền thờ tại cửa biển Tiểu An). Minh Đạo Khai Cơ Thánh Liệt Thần Vũ hoàng đế họ Triệu, húy là Quang Phục, tục gọi là Việt vương. Theo Sử ký Thế truyền, hai ngài đều là tướng tá của Tiền Lý Nam đế Lý Bí cả.

Thời Lương Vũ đế, ở Giao Châu ta, huyện Thái Bình, có Lý Bí, đời đời giàu có, bẩm sinh có tài lạ, làm quan. (...một đoạn nói về Tinh Thiều...) Bí cùng Thiều trở về làng. Nhân quan Thứ sử nước ta là Tiêu Tư tàn bạo, rất mất lòng người, hai người bèn tính kế chống lại.

Bấy giờ, Bí đến châu Cửu Đức, liên kết với hào kiệt mấy châu cùng nhau khởi binh. Tư biết chuyện, chở đồ đến hối lộ cho Bí, rồi về Quảng Châu. Bí ra chiếm đóng châu thành. Gặp lúc người Lâm ấp vào cướp đất Nhật Nam, Bí sai tướng là Phạm Tu đánh giặc ở Minh Đức. Vì thắng địch, Đế bèn tự xưng là Việt đế, đặt trăm chức quan, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Vua nhà Lương nghe thấy thế, bèn phong Thứ sử Quảng Châu là Trần Bá Tiên(21) làm Thứ sử Giao Châu, đem quân đánh. Bí đánh nhau được mấy trận thì tan, phải rút về, không đánh nữa, lui quân về động Khuất Lạo, chờ quân địch mệt mỏi thì tính kế sau. Không bao lâu, mắc bệnh mà chết. Bá Tiên vì thế mà thu được thành công. Kể từ lúc xưng vương hiệu, tức là năm Đại Đồng 7 đến năm Thái Thanh 2 thì được 8 năm. (...) Nam đế là người có họ với Lý Bí. Khi lệnh đệ là Lý Bí chết, thì Phật Tử theo anh của Bí là Thiên Bảo dẫn ba vạn quân chạy về Cửu Chân. Bá Tiên đem quân đuổi theo, đánh Cửu Chân. Thiên Bảo chỉ cần thoát thân, cùng Nam đế đem hai vạn quân chạy về động Khuất Lạo. Bá Tiên treo giải thưởng để tìm, nhưng không ai biết họ đi đâu. Thiên Bảo đến động Dã Năng, ở đầu nguồn sông Đào, thấy đất đai rộng phẳng mà lại màu mỡ, bèn xây thành mà ở, dần dần trở thành nước Dã Năng. Mọi người bèn suy tôn Thiên Bảo lên làm Đào Lang vương. Chẳng bao lâu, Thiên Bảo chết không có con. Mọi người bàn bạc tôn Nam đế lên thay..."

* Ở TĐHB:

... "Tiên tổ Đế người phương Bắc, có tên là Lý Thuận, cuối thời Tây Hán, thiên hạ đại loạn, khổ vì chinh chiến, mới đem gia đình sang định cư ở đất Nam. Lý Thuận chết, con trai là Lý Hành có chút của cải, lại chăm chỉ việc ruộng đồng, trở nên giàu mạnh, người làng vốn rất tôn phục. Hành sinh ra Lý Năng, Lý Năng sinh ra Lý Như, Lý Như sinh ra Lý Quỹ, Lý Quỹ sinh ra Lý Uy. Được bảy đời thì thành người Nam. Lý Uy lấy người cùng châu là Ma thị, hiền hậu lại có đức, việc nhà trong ngoài không gì không chu toàn. Hai người sinh được tám trai, đều có sức khỏe, thuộc loại họ lớn trong làng. Họ đặt tên cho các con là Thanh, Tân, Quí, Thuần, Hanh, Hội, Tần, Câu. Vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Lý Thanh đem hơn 300 người trong dòng tộc, theo Thứ sử Đàn Hoà Chi đánh dẹp Lâm ấp, vì có công nên được cho thế tập chức Thổ tù. Lý Thanh sinh ra Lý Hoa, Hoa sinh ra Lý Căng. Căng lấy Phí thị, sinh các con trai, cả là Thiên Bảo, thứ là Đế, sau lại sinh thêm Xuân và Hùng, cả 4 người con trai đều có khí phách, là những người đứng đầu trong châu" (Vạn Xuân quốc đế ký) [12b - 13a]...

... "Đế (...) cho Lý Phục Man làm Tả vệ hiệu quân, Phạm Tu làm Hữu vệ hiệu quân, đem năm vạn quân ra đồn trú ở Vân Lâm để chuẩn bị; và lấy Tinh Thiều làm Tán nghị sứ, Triệu Túc làm Tán nghị sứ Tiếp ứng sứ, ba đường cùng tiến, giành đường mà đi. Khi đại quân sắp đến đầu địa giới Hợp Phố thì gặp quân của Tử Hùng. Triệu Túc xuất ngựa, một mình khiêu chiến với Tử Hùng. Hai bên giao chiến mới được hơn ba mươi hiệp thì Tinh Thiều từ trên gò cao nhìn thấy Tử Hùng rất dũng mãnh, Tôn Quýnh ở phía sau như đang có ý giận dữ, vội vẫy cờ trắng. Thế là hai cánh quân cùng hét vang. Phục Man dẫn quân tiến đánh từ mé trái. Phạm Tu dẫn quân tiến đánh từ mé phải, xông tới giết. Quân Tử Hùng đại bại bỏ chạy, chết sáu bảy chục mạng, vứt hết khí giới quân trang, chạy toán loạn. Quân ta toàn thắng" (Vạn Xuân quốc đế ký) [14b - 15a]...

... "Đến khi Bá Tiên đem quân xâm lược phương Nam, Nam đế lánh nạn ở động Khuất Lạo, Vương bàn với tộc tướng Lý Phật Tử rằng:

- Quân ta mới thành lập, rất hỗn loạn, sao có thể địch lại với quân phương Bắc mạnh mẽ. Nay nghe nói Triệu Quang Phục đóng quân ở Chu Diên, cầm cự với Bá Tiên, chưa phân thắng bại, Nam đế đóng quân ở Khuất Lạo, thủ hiểm tự trước. Nay quân Lương từ xa đến, tướng tốt mệt mỏi. Nếu dùng kế lạ ra tay ở chỗ chúng không ngờ tới, tấn công ở chỗ chúng không phòng bị, tất sẽ toàn thắng.

Sau đó, Vương và Phật Tử đem theo hơn ba vạn người, chia làm hai cánh, tiến vào Cửu Chân"...

Và cứ như vậy, ba nhân vật còn lại là Triệu Quang Phục, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử cũng được xuất hiện ở ba truyện kế tiếp trong cách miêu tả sinh động, cụ thể ấy, tái hiện một phần bức tranh lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, dưới sự chỉ huy của các lãnh tụ từ Lý Bí, Triệu Quang Phục và Lý Thiên Bảo cho tới Lý Phật Tử.

Tóm lại, qua những dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy được bước chuyển rõ rệt về qui mô phản ánh của TĐHB, bằng bản lĩnh và tài nghệ độc đáo của mình, Gia Cát thị đã khiến cho tác phẩm trở nên hấp dẫn hơn, gây hứng thú hơn cho người đọc. Với quy mô phản ánh rộng, tác giả đã vươn tới rất nhiều phương diện xã hội, từ những vấn đề bình dị như vai trò người phụ nữ, sự nỗ lực diệt trừ cái ác, cho tới chủ đề rộng lớn, phức tạp như cuộc đấu tranh chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc. ở phương diện nào, người viết cũng khá thành công. Qua đó, bản lĩnh của người cầm bút đã được thể hiện rõ rệt. Không chỉ có vậy, bằng "tay nghề" cao trong việc khắc họa tính cách nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình tiết và đặc biệt là với yếu tố bất ngờ của xu hướng chương hồi hoá, TĐHB đã đem lại cho người đọc những giây phút thư giãn thực sự, khi thưởng thức tác phẩm. Vì những lí do trên, TĐHB xứng đáng được đứng trong hàng ngũ các tác phẩm văn xuôi tự sự đáng chú ý thời trung đại.

Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập là một hiện tượng khá đặc biệt trong kho tàng văn học dân tộc. Dựa trên chất liệu của VĐULT, Gia Cát thị đã biến đổi một tác phẩm chức năng lễ nghi thành một tác phẩm văn học nghệ thuật. Nhờ tài năng của người cầm bút, bước đi đó đã thành công. Nếu đặc trưng thể loại đã khiến cho "nhân vật của Lý Tế Xuyên khuôn vào công thức âm phù dương trợ (...), không có cuộc sống riêng tư, chỉ có chân nguyên bất hủ (...), giản đơn và hoạt động không theo quy luật thực tại"(22), thì nhân vật trong TĐHBT cụ thể, sinh động và bám chắc vào mảnh đất thực, mỗi nhân vật như được gắn liền với từng hoàn cảnh xuất thân, với suy nghĩ và hành động riêng biệt. Hầu hết các nhân vật của Gia Cát thị đều được khắc họa kỹ lưỡng về gia thế, sự nghiệp, cũng như đời sống nội tâm. Có thể nói, đây là một nhịp cầu nối giữa văn học thế kỷ XIV với văn học thế kỷ XVIII và nếu như VĐULT gây được nhiều chú ý nhờ chức năng lễ nghi tôn giáo của nó, thì TĐHBT rất đáng được khẳng định và ngưỡng mộ vì tác phẩm đã ghi dấu ấn một bước chuyển từ quy mô văn học chức năng sang quy mô văn học nghệ thuật.

Hà Nội 10/1999 - 4/ 2000

CHÚ THÍCH

(1) Chúng tôi theo từ dùng của tác giả Tìm hiểu quan điểm biên soạn và phương pháp biên soạn Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên. Tạp chí Văn học. Số 1 / 1986.

(2) Chỉ có 3 trong số 41 truyện của TĐHB Lệ Hải bà vương ký, Hương Lãm Mai đế ký Trường Tân nhị tướng quân phả được GS. Đinh Gia Khánh giới thiệu trong Việt điện u linh. Nxb, Văn học, H. 1972.

(3) Phần lớn các học giả đều phiên âm là Chư Cát thị. Chúng tôi phiên âm là Gia Cát, vì theo các ông Ngọc Hồ và Nhất Tâm (Việt điện u linh tập lục toàn biên - Sống mới - Sài Gòn, 1974), Trung văn đại từ điển, khi phân biệt chữ 諸, với nghĩa chỉ dòng họ, cho biết: "Họ ấy ở Lang Tà (tỉnh Sơn Đông) thì đọc Chư Cát (vì có huyện Chư), nếu ở nơi khác thì đọc Gia Cát".

(4) VĐULT, Khai Trí, Sài Gòn, 1961. tr.11.

(5) VĐULT lục toàn biên, Sống mới, Sài Gòn, 1972.

(6) Chữ gia ở đây được viết là 嘉 .

(7) Giả thiết này đã được PGS - PTS Nguyễn Đăng Na đặt ra lần đầu tiên trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại - Nxb. Giáo dục. Hà Nội, 1997.

(8) Tổng tập văn học Việt Nam. Tập 8b. Nxb. KHXH. Hà Nội. 1996. tr.549.

(9) Tổng tập văn học Việt Nam. Sđd. tr.585.

(10) Bi Nhu quận công phương tích lục 悲 柔 郡 公 芳 績 錄: Đốc học Hoa Xuyên hầu Nguyễn Gia Cát 阮 嘉 葛 soạn. Nam Trung ẩn sĩ Trương Sĩ Tải 張 士 載 khảo lược. In tại Hương Cảng năm 1897.

(11) Hoa trình thi tập 華 程 詩 集: Nguyễn Gia Cát, hiệu Địch Hiên soạn. Lý Trần Lại 李 陳 賴 biên tập. Lê Lương Thận 黎 良 慎 và Nguyễn Du 阮 攸 hiệu duyệt.

(12) Hoàng Việt nhất thống dư địa chí 皇 越 一 統 輿 地 志: Còn được gọi là Nhất thống dư địa chí, do Lê Quang Định 黎 光 定, Binh bộ Thượng thư, Mẫn Chính hầu biên soạn năm Gia Long Bính Dần (1806). Nguyễn Gia Cát Lễ bộ Tả tham tri, Quỳ Giang hầu viết tựa năm Gia Long 5 (1806).

(13) Hán ngữ đại từ điển. Tứ Xuyên từ thư xuất bản xã. Hồ Bắc từ thư xuất bản xã. 1988.

(14) Theo GS. Đinh Gia Khánh, đệ nhất kì thư có thể là Lĩnh Nam chích quái hoặc Truyền kì mạn lục.

(15) Đáng lẽ là chữ 祐, ở văn bản lại viết là 佑.

(16) Trong phần chính văn, tên truyện lại là Bố Bái long quân truyện 布 拜 龍 君 傳. Theo chúng tôi thì hai chữ Long quân hợp lý hơn hai chữ đại vương, vì truyện cho biết "Thần là tinh Anh long ở thủy cung Đông hải" (tờ 99b) và phần ghi chép về các mỹ tự được sắc phong của thần ở cuối truyện ghi là Long vương (tờ 103b).

(17) ở đây không viết là 較 như phần trên, mà lại viết là 校.

(18) Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san; Trần Khánh Hạo - Trịnh A Tài - Trần Nghĩa đồng Chủ biên; Pháp quốc Viễn đông học viện xuất bản; Đài Loan học sinh thư cục ấn hành. 

(19) Theo GS. Phan Văn Các, ba chữ này được phiên âm từ tên Pháp: Demiéville.

(20) Thứ tự các truyện mà chúng tôi nêu lên ở đây là không tính đến truyện Sĩ Nhiếp, truyện đầu tiên trong Việt điện u linh tập, vì truyện này đã bị Gia Cát thị bỏ đi rồi (Xin xem phần "Phàm lệ" ở đầu tác phẩm).

(21) Văn bản chép là Trình Bá Thiên 呈 霸 偏.

(22) Nguyễn Đăng Na - Sự phát triển truyện văn xuôi Hán Việt từ thế kỷ X đến cuối XVIII đầu XIX qua một số tác phẩm tiêu biển. Luận án PTS. Khoa học. Chuyên ngành Văn học Việt Nam. Hà Nội. 1987.

TB

"BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ"
"TIỀN XÍCH BÍCH PHÚ"

PHẠM TUẤN VŨ

So sánh là một việc làm cần thiết khi nghiên cứu những tác phẩm văn học vừa có sự tương đồng vừa có sự khác biệt. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi nghiên cứu những tác phẩm của một thời kỳ văn học chịu ảnh hưởng nhiều mặt của văn học nước ngoài như văn học Việt Nam trung đại. Mục đích cuối cùng của công việc này là làm giàu cho nhận thức thẩm mỹ.

Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu (đời Trần) và Tiền Xích Bích phú của Tô Thức (đời Tống, Trung Hoa)(1) có cùng hình thức thể loại, cùng sử dụng chữ Hán, có điểm tương đồng trong cách tự sự và trữ tình. Sau Tiền Xích Bích phú, Tô Thức còn có Hậu Xích Bích phú, nhưng bài trước cấu trúc nội dung gần với bài phú của Trương Hán Siêu hơn. Người xưa cũng có sự liên tưởng giữa hai bài phú này, chẳng hạn qua việc Nguyễn Mộng Tuân (thế kỷ XV) đặt tên cho bài phú của mình cũng viết về sông Bạch Đằng là Hậu Bạch Đằng Giang phú(2). Bên cạnh nhiều sự tương đồng ấy, nhận ra được sự khác biệt càng có ý nghĩa. Thời trung đại, người Việt Nam tiếp thu ở văn chương Trung Hoa cả thể loại, ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật về thế giới. So sánh một bài phú nổi tiếng của Việt Nam với một bài phú nổi tiếng của Trung Hoa nhằm nhận ra sự bảo lưu và biến đổi, nhất là sự khác biệt ở bài phú Việt Nam.

Thể phú Trung Hoa không phải nhất thành bất biến mà trái lại, về hình thức đã có mấy lần thay đổi lớn. Việc phân chia và định danh các tiểu loại phú cũng không hoàn toàn thống nhất. Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc theo cách phân định của Từ Sư Tằng (đời Minh) trong Văn thể minh biện. Theo đó, phú bao gồm cổ phú, bài phú, luật phú và văn phú. Tiền Xích Bích phú được xem là điển hình của văn phú. Văn phú ra đời do chịu ảnh hưởng của phong trào cổ văn đời Đường. Những dấu hiệu hình thức nổi bật của loại phú này là câu văn dài ngắn khác nhau, gieo vần tự do hơn. Phương pháp sáng tác của nó là phương pháp sáng tác của văn xuôi, cấu trúc nội dung của văn phú rất gần với văn xuôi. Cho đến nay sự phân loại phú như vậy vẫn chưa thật quen thuộc với giới nghiên cứu Việt Nam. Còn phú lưu thủy là tên gọi mà nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam hay dùng để chỉ một tiểu loại phú. Phan Kế Bính lấy phú viết về Xích Bích của Tô Thức làm dẫn chứng cho loại phú này(3). Dương Quảng Hàm giải thích rằng phú lưu thủy như một bài văn xuôi có vần và ông lấy Bạch Đằng Giang phú làm dẫn chứng(4). Tóm lại, về văn thể hai tác phẩm này cùng một tiểu loại trong phú. Hai tác giả đã sử dụng một tiểu loại phú giàu chất văn xuôi. Họ không dùng cổ phú có phong cách dùng từ hóc hiểm. Họ cũng không dùng luật phú là loại dùng để thi cử với những ràng buộc rất nghiêm ngặt. Ví dụ: về gieo vần thường phải có 8 vần nên gọi là luật phú tám vần (bát vận luật phú). Số chữ của luật phú cũng được quy định, thường không quá 400 chữ. Những tư tưởng, cảm xúc mạnh mẽ phóng khoáng của Tô Thức và của Trương Hán Siêu khiến họ tìm đến văn phú.

Cùng một tiểu loại phú nên cách gieo vần của hai bài phú cũng tương đồng. Chẳng hạn, đây là một đoạn Tiền Xích Bích phú:

Khách viết: “Nguyệt minh tinh hi, ô thước nam phi, thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu, đông vọng Võ Xương, sơn xuyên tương liệu, uất hồ thương thương, thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ ? Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi đông dã trực lư thiên lý, tinh kỳ tế không, si tửu lâm giang, hoành sáo phú thi; cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại tai? Huống ngô dữ tử, ngư tiền ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc; giá nhất diệp chi thiên chu, cử bào tôn dữ tương chúc, ký phù du ư thiên địa, diểu thương hải chi nhất túc, ai ngô sinh chi tu du, tiện trường giang chi vô cùng; hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung; tri bất khả hồ sậu đắc, thác di hưởng ư bi phong”.

Và đây là một đoạn trong Bạch Đằng Giang phú:

Quải hãn mạn chi phong phàm;
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên Tương;
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu giang, Ngũ hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nhân tích sở chí, mi bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách,
Nhi tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã.

Điểm tương đồng là cả hai đoạn lúc thì gieo vần liên tiếp, lúc thì gieo vần cách câu. Xét cả toàn tác phẩm thì ở Bạch Đằng Giang phú gieo vần nhiều hơn ở Tiền Xích Bích phú(5). Đó cũng là một yếu tố khiến cho bài phú của Trương Hán Siêu giàu chất thơ hơn, còn bài của Tô Thức chất văn xuôi rõ rệt hơn.

Cả hai tác phẩm cùng triển khai nội dung với đủ các phần của một bài phú. Đây không phải là chuyện đương nhiên vì trong thực tế có những bài phú không đủ các phần của một kết cấu chuẩn mực mà vẫn hay (cũng như thơ bát cú Đường luật, có những bài rất hay những nhìn kỹ thì không theo kết cấu thông thường, ví dụ như có bài thơ hai câu luận vẫn tiếp tục miêu tả như hai câu thực, nghĩa là thực chất thì không có hai câu luận).

Về xây dựng hình tượng, cả hai tác phẩm đều dùng cặp hình tượng chủ - khách, là lối làm phú phổ biến có từ đời Hán. Khách với ý nghĩa là khách thể, là nhân vật đối thoại với chủ thể - hình tượng nhân vật tự sự và trữ tình ở bài phú. Ở Tiền Xích Bích phú chủ xưng danh cụ thể là Tô Tử. Ở Bạch Đằng Giang phú chủ xưng bằng khách (Khách hữu), một danh ngữ phiếm chỉ quen thuộc trong phú. Còn hình tượng khách là phụ lão. Đối thoại không phải là đặc hữu của phú và cũng không phải mọi bài phú đều có đối thoại, nhưng đây là một dấu hiệu đáng kể biểu hiện tính chất của phú là đứng giữa thơ và văn xuôi. Nói chung, trong tác phẩm phú nội dung cảm xúc ít hơn so với thơ trữ tình nhưng nội dung miêu tả và triết lý lại nhiều hơn. Xây dựng hình tượng khách góp phần tạo ra đặc tính đó. Nó làm xuất hiện thêm điểm nhìn và nội dung trần thuật, làm phong phú thêm cảm xúc và giọng điệu. Về tư tưởng tình cảm, chủ và khách có thể tương đồng hay khác biệt nhưng cả hai trường hợp đều có tác dụng làm cho nội dung triết lý của tác phẩm sâu đậm hơn vì được bổ sung (nếu tương đồng), được cọ xát (nếu khác biệt). Có những tác phẩm đặc biệt chú trọng thủ pháp này, ví dụ Giải trào phú (của Dương Hùng đời Hán) có hai lần vấn đáp giữa chủ và khách, Tử Hư phú Thượng Lâm phú (của Tư Mã Tương Như đời Hán) lại có đối thoại giữa chủ và hai khách. Suy cho cùng chủ và khách đều là sự phân thân của tác giả trong sáng tạo nghệ thuật. Trong hai bài phú của Trương Hán Siêu và Tô Thức lời kể của khách đều là cơ sở để chủ nghị luận. Chủ và khách gần gũi về tư tưởng cảm xúc bởi vậy trong Bạch Đằng Giang phú khách nối vào lời ca của chủ (Khách tòng nhi canh ca viết). Trong bài phú của Tô Thức, sự hòa hợp giữa chủ và khách được thể hiện bằng nhiều chi tiết. Chủ cất lời ca, khách dùng tiếng sáo họa theo. Chủ thâm nhập tiếng sáo bằng lỗ tai của Chung Tử Kỳ. Chủ và khách đối diện đàm tâm rồi nằm gối lên nhau trong thuyền, quên hết sự đời.

Mở đầu hai bài phú chúng ta đều bắt gặp hình tượng con người khao khát được thưởng thức cái đẹp kỳ vĩ, trong sạch của thiên nhiên. Tuy nhiên càng về cuối tác phẩm thì sự khác biệt càng rõ, đến mức có thể kết luận được rằng đó là những con người mang nhân sinh quan đối lập.

Tô Thức đỗ Tiến sĩ đời Gia Hựu nhà Bắc Tống, làm chức Sử quan. Vì trái ý Tể tướng Vương An Thạch mà ông bị đổi ra Hoàng Châu rồi Hồ Châu, Huệ Châu, Quỳnh Châu. Lúc ở Hoàng Châu ông dựng nhà ở Đông Pha, lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ. Tiền Xích Bích phú làm khi ở Hoàng Châu (tỉnh Hồ Bắc sau này). Hoàn cảnh ấy khiến cho tư tưởng hư vô siêu thoát thâm nhập thật sâu đậm ở người nghệ sĩ này. Bao trùm trong tác phẩm là hình tượng một con người tự do phóng nhiệm kiểu Trang Chu. Con người ấy quên hết phiền lụy của cuộc đời, hòa nhập tận cùng với thiên nhiên: “Móc trắng tỏa ngang sông, ánh nước nối liền trời. Mặc cho con thuyền nhỏ tự trôi đi, vượt muôn khoảng nước bao la. Lồng lộng như lướt không cưỡi gió, không biết dừng lại nơi nào, phơi phới như bỏ đời đứng riêng, mọc cánh bay lên tiên”. Thật gần gũi với hình tượng mà Trang Chu tả: “Mộng làm chim mà đến với trời xanh, mộng làm cá mà chìm xuống vực sâu” (Đại tông sư).

Cho đến nay người ta vẫn chưa biết đích xác năm sinh của Trương Hán Siêu. Ông là người tính tình chính trực, học vấn sâu rộng, làm chức Hàn lâm Học sĩ đời Trần Anh Tông, sau đó còn giữ nhiều chức vụ quan trọng từ triều Trần Anh Tông đến Trần Dụ Tông. Trương Hán Siêu mất năm 1354, được truy tặng chức Thái bảo. Năm 1372 vua Trần Nghệ Tông cho thờ ông ở Văn Miếu.

ở bài phú của Trương Hán Siêu cũng xuất hiện một con người mang thú tiêu dao: “Giương buồm giong gió khơi vơi; lướt bể chơi trăng mải miết”. Vẻ phóng khoáng hào mại của con người được tác giả thể hiện qua cách miêu tả thời gian và không gian đổi thay mau chóng: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt” (Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương; Mộ u thám hề Vũ Huyệt). Rồi hàng loạt địa danh liên tiếp xuất hiện: Cửu giang, Ngũ hồ, Tam Ngô, Bách Việt... Chúng ta hiểu đây là cách nói khoa trương. Phải có tính chất khoa trương mới là ngôn ngữ phú. Thời xưa nói chuyện ngao du sơn thủy không chi bằng nói chuyện Ngũ hồ. Phạm Lãi cùng người đẹp Tây Thi ngao du Ngũ hồ theo triết lý công thành thân thoái, xa lánh công danh và cả phòng tránh hậu họa. Không hề yếm thế, con người trong phú của Trương Hán Siêu ngang dọc sơn hà vì hùng tâm tráng chí, bụng đã nuốt mấy trăm đầm Vân Mộng mà hãy còn thấy thiếu (Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách, nhi tứ phương chi tráng chí do khuyết dã). Con người ấy ra đi theo cái chí của Tử Trường (Túng Tử Trường chi viễn du). Tử Trường là tên chữ của Tư Mã Thiên, nhà sử học kiệt xuất đời Hán. Tử Trường đi nhiều để mở rộng sự kiến văn, để rồi bằng ngọn bút làm giàu cho cuộc sống tinh thần của người đời.

Phần phá đề của bài phú nói rõ lý do của cuộc đi, làm cho hình ảnh sông Bạch Đằng xuất hiện thật tự nhiên. ở đoạn văn tiếp theo cũng có nhiều địa danh, điểm khác là địa danh của đất nước ta. Vẫn là hơi văn khoáng đạt nhưng ngôn ngữ thì bớt ước lệ:

Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, nổi trôi mặc chèo.
(Thiệp Đại Than khẩu, tố Đông Triều đầu
Để Bạch Đằng Giang, thị phiếm thị phù).

Hình tượng trữ tình trong hai bài phú đều mang tâm sự hoài cổ. Quá khứ đều được tái hiện bằng lời kể của ngôi khách. ở Tiền Xích Bích phú lời của khách đã tạo nên hình tượng đẹp về một tướng lĩnh - thi sĩ và biểu lộ nỗi cảm khái: a “Đương khi phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, xuôi dòng mà sang đông, thuyền bè ngàn dặm, cờ xí rợp trời, đứng trên sông mà rót rượu, chỉ ngang ngọn giáo mà làm thơ, đó thực là bậc anh hùng một thời, nay thì ở đâu ?” Rõ ràng là quá khứ đã được nhìn với quan niệm hư vô. Quá khứ nối sang hiện tại, chuyện của người chuyển sang chuyện của mình bằng quan hệ từ biểu thị sự tăng tiến "huống": “Huống ngô dữ tử, ngư tiều ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc = Huống chi tôi cùng bác đánh cá, kiếm củi trên bãi sông, kết thân cùng tôm cá, làm bạn với hươu nai”. Những người danh tiếng lẫy lừng rồi cũng không còn vết tích, huống hồ kẻ ẩn dật - những người mà ngay cả khi sống đã không mấy ai biết đến. Và dù là bậc anh hùng cái thế hay kẻ ẩn dật thì cũng là kiếp người nhỏ bé hữu hạn so với sự vô cùng vô tận của vũ trụ. Tư tưởng hư vô yếm thế đã được bộc lộ thật thấm thía.

Bài phú kết thúc bằng lời nghị luận của Tô Tử: “Khách có biết nước với trăng kia không ? Trôi như thế nọ mà thật ra không hề đi, tròn khuyết như thế kia mà rốt cuộc không từng thêm bớt. Bởi vì nếu đứng về mặt biến đổi mà xem ra, thì cả cuộc trời đất đều không hết được một cái chớp mắt; nếu đứng về mặt không biến đổi mà xem ra, thì vạn vật cùng ta đều không bao giờ hết cả”.

Đó là tư tưởng mang màu sắc tương đối luận của Trang Tử rất rõ rệt. Đoạn sau nghị luận về mối quan hệ giữa con người với vũ trụ cũng cho thấy ảnh hưởng của tư tưởng mỹ học Lão - Trang, xem thiên nhiên là cái đẹp thuần khiết tuyệt đối, vô tận mà con người chỉ có thể noi theo chứ không thể dùng trí hay lực của mình để sửa đổi:

“Vả chăng trong khoảng trời đất, mọi vật đều có chủ; nếu không phải là của ta thì dầu một mảnh ta cũng không lấy. Chỉ có cơn gió mát ở trên sông cùng với vầng trăng sáng ở trong núi, tai nghe thành tiếng mắt trông nên màu, lấy không ai cấm, dùng nhiều không hết. Đó là cái kho vô tận của tạo hóa và là cái sở thích chung của bác với tôi”.

Nằm trong mạch văn như vậy, hình ảnh chủ và khách nằm gối lên nhau trong thuyền, không biết phương đông đã sáng rồi mang bóng dáng của con người chí nhân, chân nhân ngủ không mộng, thức không ưu tư được Trang Tử miêu tả trong Đại tông sư.

Trương Hán Siêu cũng tự gọi mình là người hoài cổ (hoài cổ nhân). Đứng trước cảnh sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô, người hoài cổ ấy buồn vì thảm cảnh, đứng lặng giờ lâu. Xưa nay khi nói đến nỗi niềm trước một di tích chiến trường người ta thường nghĩ đến Điếu cổ chiến trường văn của Lý Hoa đời Đường. ở tác phẩm đó, sau những lời cảm khái tác giả cho xuất hiện ông Đình trưởng kể về di tích: “Đây là bãi chiến trường xưa, từng là nơi tiêu diệt ba quân, thường thường có tiếng quỷ khóc, nghe rõ lúc tối tăm”(6). Lời kể ấy rất khác lời kể của phụ lão trong Bạch Đằng Giang phú. Nó không cần cụ thể vì với tác giả việc ai giết ai không quan trọng, mà cốt yếu là chỗ việc ấy gây nên đau thương oan khốc đời đời. Còn lời kể của phụ lão là ký ức rành rọt, thấm đượm lòng hứng khởi tự hào về võ công của tiền nhân. ở bài phú của Trương Hán Siêu, cảm xúc của con người công dân hết sức nổi bật. Với Trương Hán Siêu, hoài cổ là để làm sống lại kinh nghiệm lịch sử, chân lý của đời sống. Đó là: sự nghiệp lớn chỉ thành khi có đủ nhân, trí, dũng. Cái trí của dân tộc ta thể hiện qua xét đoán của những nhân vật ưu tú để tìm được nơi quan hà hiểm yếu, biết được năm nay giặc dễ phá (kim niên tặc nhàn). Cái dũng không phải quân thù không có, nhưng tham vọng không thành vì chúng phi nhân. Trời chỉ giúp đỡ kẻ có nhân (Hoàng thiên trợ thuận, hung đồ phi mị). Giá trị tinh thần mà tác giả đề cao nhất là nhân đức. Nó đã được chủ khẳng định: “nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu dẫn”, lại còn được khách tái khẳng định: “bất tại quan hà chi hiểm hề duy tại ý đức chi mạc kinh”. ở chỗ này xin nêu một thiển ý: Đã có nhiều bản dịch bài phú này, trong đó nhân nhân đều được dịch là anh hùng. Chữ nhân trước là điều nhân, chữ nhân sau là người. Thiết tưởng người có nhân và kẻ anh hùng là những khái niệm khác nhau, nhất là theo cách hiểu của người trung đại.

Đọc Bạch Đằng Giang phú người ta hay liên tưởng đến bài phú viết ở Xích Bích của Tô Thức. Trương Hán Siêu khi hình dung về chiến trận ở sông Bạch Đằng cũng cho rằng khác nào trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay (Mạnh Đức chi sư, đàm tiếu phi khôi). Cả hai bài phú đều từ những võ công mà bàn luận về sự mất còn của con người. Sự tương đồng về phương thức cảm xúc ấy đã làm nổi bật sự khác biệt trong nhân sinh quan của hai tác giả. Qua quá khứ, Tô Thức thấm thía sự nghiệt ngã của thời gian và thấy cái phù du vô nghĩa của hiện tại. Còn Trương Hán Siêu thì phân biệt rành rọt rằng chỉ có kẻ bất nhân mới mai một trôi theo sóng nước, còn kẻ có nhân thì tiếng thơm đời đời còn mãi với giang sơn, với sự trường tồn của nòi giống (Nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu dẫn). Từ quá khứ, Trương Hán Siêu nhận ra sự bất tử. Những số phận khác nhau trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã tạo nên sự khác nhau trong nhân sinh quan của những nghệ sĩ lớn đó.

Trong Bạch Đằng Giang phú Tiền Xích Bích phú đều có những câu thơ. Những câu thơ trong bài phú được gọi là lời ca. Người Trung Hoa từ xa xưa đã cố gắng phân biệt phú với các thể tài khác, chẳng hạn trong Hán thư mục Nghệ văn chí đã chỉ ra rằng không hát mà đọc gọi là phú (bất ca nhi tụng vị chi phú). Việc xen lẫn những câu thơ trong bài phú được xem là một dấu hiệu của sự thi ca hóa ở thể văn này. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết đây là một xu hướng khá rõ từ cuối thời Lục triều và đến đầu đời Hán càng mạnh mẽ. Trong bài phú của Tô Thức lời ca gồm hai cặp câu tứ lục (chữ đệm hề không tính), dấu vết của câu thơ phổ biến trong Kinh Thi (4 chữ) và câu thơ Sở từ (6 chữ hoặc bảy chữ kể cả chữ đệm hề). Đó là lời trữ tình biểu lộ nỗi khát khao gặp được kẻ tri âm mà tác giả gọi bóng gió là mỹ nhân. ở bài phú của Trương Hán Siêu lời ca cũng cơ bản được tạo từ câu tứ lục. Nó tiếp tục mạch “trữ tình công dân” và đúc kết những bài học lịch sử ở phần kết thúc tác phẩm. Việc có nhiều lời ca hơn cũng là một yếu tố khiến cho chất thơ ở Bạch Đằng Giang phú rõ hệt hơn.

Với hình thức liên kết những đoạn văn ngắn giàu nhạc tính trong một cảm hứng nhất quán và mạnh mẽ, Bạch Đằng Giang phú thực sự có sức lôi cuốn của một khúc tráng ca. Trần Văn Huy (thế kỷ XV) đã bình là “lời và ý đầy đặn uyển chuyển như một dòng trường giang không có xoáy nước” (ngữ ý viên chuyển, như trường giang nhất phái, võng hữu hồi trạng). Học giả Lê Quý Đôn khi kể ra 13 bài phú chữ Hán còn lại của thời Trần Hồ đã nhận xét: “Văn thể phú về triều nhà Trần, phần nhiều khôi kỳ hùng vĩ, lưu loát đẹp đẽ âm điệu cách vận giống như thể văn nhà Tống(7)”. Với người xưa, cho là “tương tự như Trung Hoa” là một cách đánh giá cao. Ngoài việc thuộc số những bài phú ít ỏi còn lại của đời Trần, Bạch Đằng Giang phú còn có vinh dự là tác phẩm phú duy nhất của thời đó trực tiếp viết về một chiến công giữ nước. Nguồn mạch được nó khơi nên sẽ được kế thừa xứng đáng với Chí Linh Sơn phú (hai bài phú cùng tên của Nguyễn Trãi và Nguyễn Mộng Tuân) Xương Giang phú (Lý Tử Tấn), Lam Sơn Lương Thủy phú (Lê Thánh Tông)... sau này.

Tìm hiểu Bạch Đằng Giang phú trong mối quan hệ với một tác phẩm Trung Hoa có những điểm tương đồng và khác biệt, chúng ta có thêm cơ sở để khẳng định rằng ngay cả khi viết bằng một thể văn Trung Hoa có tính quy phạm chặt chẽ và dùng nhiều chất liệu văn chương nước ngoài, Trương Hán Siêu vẫn thực sự tạo được một áng văn đậm bản sắc Việt Nam và mang hơi thở của thời đại.

CHÚ THÍCH:

(1) Chúng tôi sử dụng bản dịch Bạch Đằng Giang phú trong Thơ văn Lý - Trần (Tập II, Quyển thượng, Nxb. KHXH, H, 1989, tr.741-743). Bản dịch Tiền Xích Bích phú của Trần Trọng San trong Hán văn, Bắc đẩu xuất bản, S. 1973, tr.323-324.

(2) Vân Trình dịch, Giảng văn (Tập I) Nxb. ĐH và THCN, H. 1982, tr.260-262.

(3) Việt Hán văn khảo, Trung Bắc tân văn xuất bản, 1930, tr.23.

(4) Việt Nam văn học sử yếu. Nha học chính Đông Pháp xuất bản, H, 1943, tr.133-134.

(5) Trong Phú Nôm (Vĩnh - Hưng - Long thư quán, H, 1931, tập trên, tr.20). Vũ Khắc Tiệp cho rằng Tiền Xích Bích phú không có vần. Thực ra thi học truyền thống Trung Hoa cho rằng trong phú, vần chân không nhất thiết gieo cuối câu. Nếu như chữ cuối câu là một hư từ thì thường gieo vần ở trước hư từ đó. Đây là sự kế thừa cách gieo vần ở Kinh Thi Sở từ.

(6) Xem: Trần Trọng San, Hán văn, sđd, tr.299.

(7) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2 ( Kiến văn tiểu lục ) Nxb. KHXH, H. 1977, tr.218-219.

TB

TRƯỜNG VIỄN ĐÔNG BÁC CỔ - MỘT NHỊP CẦU VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI THẾ GIỚI

NGUYỄN VĂN TRƯỜNG

Trường Viễn Đông Bác cổ là tên gọi tiếng Việt của một Hiệp hội người Pháp được thành lập năm 1900, tiền thân của nó là một Phái đoàn khảo cổ thường trực do Toàn quyền P. Doumer thành lập từ năm 1898. Cái tên gọi hơi ngồ ngộ Việt - Hán ấy chưa hẳn đúng với nghĩa tiếng pháp của nó (école Franầaise d’Extrême - Orient - gọi tắt là E.F.E.O) nhưng được nhiều người trong và ngoài nước biết đến bởi các thành tựu khoa học rất có giá trị trong việc nghiên cứu và khôi phục những nền văn minh, văn hóa lâu đời của các dân tộc Việt Nam nói riêng và của vùng Viễn Đông nói chung.

Tuy gọi là Trường (Trường Viễn Đông Bác cổ) nhưng không thực hiện chức năng đào tạo như các trường khác mà thực hiện chức năng chính là nghiên cứu lịch sử văn hóa và các nền văn minh của các dân tộc vùng Viễn Đông: Nhật Bản, Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Đông Nam á, ấn Độ, Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Từ khi thành lập, Trường Viễn Đông Bác cổ có trụ sở chính đóng ở Việt Nam và hoạt động rất có hiệu quả, đã khai thác, sưu tầm và bảo tồn được nhiều nguồn sử liệu quý hiếm có giá trị nhân văn cao. Những cổ vật tiêu biểu của các thời kỳ lịch sử còn được trưng bày trong nhiều gian của Viện Bảo tàng Lịch sử (Hà Nội), Bảo tàng Huế, Bảo tàng Chàm (Đà Nẵng), T.P. Hồ Chí Minh, Vientian (Lào), Phnom Penh (Cam-pu-chia), những kho sách khổng lồ bằng nhiều thứ tiếng, bằng nhiều phương ngữ khác nhau, và những thước phim, ảnh tư liệu mà hàng trăm cán bộ, nhân viên của Thư viện Thông tin KHXH, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam ngày nay đã và đang cố gắng bảo quản và khai thác là minh chứng cho sự làm việc cần mẫn và rất nghiêm túc của các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ.

Song song với công tác khai thác và sưu tầm những nguồn sử liệu, Trường Viễn Đông Bác cổ còn đề nghị lên Toàn quyền Đông Dương cho thực thi những biện pháp bảo quản và trùng tu các di tích, ra lệnh cấm xuất khẩu, buôn bán các loại đồ cổ bằng mọi chất liệu. Trường Viễn Đông Bác cổ cũng đã trình lên Toàn quyền Đông Dương ký cho xếp hạng hơn một ngàn di tích lịch sử như khu di tích chùa Hương, đền Quán Thánh, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc, chùa Lý Quốc Sư, chùa Một Cột, đền Bạch Mã, chùa Bà Đá... Nhiều khu di tích được trùng tu như Văn Miếu Quốc tử giám được trùng tu năm 1918-1920, chùa Một Cột (năm 1922), chùa Bút Tháp và chùa Phật Tích ở Bắc Ninh (năm 1930). Trong khoảng thời gian đó, các đền Po Nagar ở Nha Trang, Po Garai ở Phan Rang, Thạt-Luông ở Vientian (Lào) đều được thực hiện đồng loạt.

Bên cạnh những hoạt động bề nổi nêu trên, Trường Viễn Đông Bác cổ còn xuất bản nhiều tập sách có giá trị như: chuyên đề về Phật giáo viết thành nhiều tập của Paul Mus; Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn của Madelaine Colani; Tôn giáo và Tín ngưỡng của L. Cadière; Văn học của M. Durand. Các sách chuyên khảo như Những người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ (Les paysans du delta tonkinois), Cách sử dụng đất (L’utilisation du sol) của Pierre Gourou, Kinh tế nông nghiệp ở Đông Dương (Economie agricole de l’Indochine) của Yves Henry. Đặc biệt, Trường Viễn Đông Bác cổ còn cho ra mắt thường kỳ liên tục từ số 1 - năm 1901 tới nay tạp chí của mình (Bulletin de l’Ecole Franầaise d’Extrême - Orient - BEFEO) để đăng tải các công trình nghiên cứu. Trong đó người ta không chỉ thấy các công trình của các nhà nghiên cứu người Pháp mà còn được biết đến nhiều công trình tiêu biểu của các học giả Việt Nam nổi danh như Trần Văn Giáp nghiên cứu về Phật giáo; Nguyễn Văn Huyên về Nhà sàn của các dân tộc thiểu số VN; Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan với nhiều chuyên khảo khác về đình, chùa, cổ tích, về nền văn minh Cham-pa...

Khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1954), Trường Viễn Đông Bác cổ không thể tiếp tục hoạt động tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu, tài liệu cổ sử, cổ vật và sách vở cùng các cơ sở của Trường là một di sản vô giá đã chính thức được bàn giao vào năm 1957 cho cơ quan chức năng Việt Nam.

Chắc hẳn, người Pháp đã nuối tiếc những gì đã và đang làm trong hơn 50 năm ấy (1900-1957) trên vùng Viễn Đông, vì thế họ đã liên tục mở thêm và tái lập nhiều cơ sở trong khu vực: ở Chiêng-Mai (Thái Lan) mở năm 1975; Ku-a-la-lam-pua (In-đô-nê-si-a) năm 1987, Hồng-Kông, Đài Bắc, To-ky-o, Xiêm-Riệp và Bắc Kinh.

Còn ở Việt Nam - nơi khai sinh ra Trường Viễn Đông Bác cổ thì người Pháp thực sự mong đợi một ngày, đó là ngày 10 tháng 2 năm 1993 khi hai nước Việt Nam và Pháp có mối quan hệ tốt về mọi mặt, trong đó có mối quan hệ truyền thống về văn hóa, Trường Viễn Đông Bác cổ mới được tái lập ở Việt Nam với tên gọi là Văn phòng Đại diện của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam, nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Cộng hòa Pháp Franầois Mitterrand.

Những ngày đầu mới tái lập, quy mô của Văn phòng chưa lớn, trụ sở được đặt tạm thời trong một phòng nhỏ tại số 26, phố Lý Thường Kiệt, ngay trong khuôn viên của Thư viện Khoa học xã hội (Thư viện cũ của Trường Viễn Đông Bác cổ). Các công việc phục vụ sách và tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu với chức năng như một thư viện chưa được phổ biến rộng rãi. Chỉ đến tháng 4 năm 1995, Văn phòng được chuyển về địa chỉ số 5A, xóm Hạ Hồi, Văn phòng Đại diện của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội mới chính thức được khai trương, mở đầu cho một giai đoạn mới - giai đoạn nghiên cứu “trong khuôn khổ hợp tác văn hóa khoa học và kỹ thuật để mở rộng quan hệ văn hóa giữa hai nước, nhằm đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu về Việt Nam học và tăng cường trao đổi khoa học về Viễn Đông học...” giữa hai nước Việt Nam và Pháp.

Về tổ chức mới của Văn phòng Đại diện trong giai đoạn mới, số thành viên biên chế chính thức chỉ có một, đó là Tiến sĩ Sử học Philippe Papin được chỉ định làm Trưởng Đại diện tại Việt Nam. Với nguồn tài chính hằng năm còn khiêm tốn (chưa đầy 50.000 đô-la), biết rằng không thể so sánh với tài chính và quy mô tổ chức cũ của Trường trong thời kỳ Pháp thuộc, song bằng chính lòng nhiệt thành chuyên tâm nghiên cứu về Việt Nam của mình, nhà nghiên cứu trẻ tuổi và năng động ấy sớm thắt chặt mối quan hệ với các Viện nghiên cứu, các cơ quan hữu quan, các đồng nghiệp Việt Nam đã đề ra phương hướng hoạt động cụ thể và các chương trình nghiên cứu có hiệu quả. Tính đến nay chỉ mới 6 năm, Trường Viễn Đông Bác cổ đã có nhiều công trình xuất bản rất có giá trị cho ra mắt bạn đọc Việt Nam và nước ngoài:

1. Địa lý hành chính Kinh Bắc (Tableau de géographie administrative d’une ancienne province vietnamienne) - bản thảo của Nguyễn Văn Huyên (1996), với sự tham gia xây dựng ấn phẩm: Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, E. Poisson và Nguyễn Văn Trường.

2. Chữ húy Việt Nam qua các triều đại (Les caractères interdits au Vietnam à travers l’histoire) - Ngô Đức Thọ, Emmanuel Poisson dịch ra tiếng Pháp và chú thích (1997).

3. Văn thơ Đông kinh nghĩa thục (Prose et poésie du Đông Kinh nghĩa thục), người giới thiệu: Giáo sư Đinh Xuân Lâm (1997), biên soạn: Philippe Papin, Vũ Văn Sạch, Vũ Thị Minh Hương.

4. L’Univers des Truyện Nôm (Thế giới của truyện Nôm) - Maurice Durand (1998), biên soạn: Philippe Papin, Nguyễn Văn Nguyên và Đinh Gia Khánh.

5. Những vấn đề văn bản học quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi (Les Ecrits à l’Armée de Nguyễn Trãi - Questions de philologie) - Nguyễn Văn Nguyên (1999), dịch và trình bày: Philipe Papin.

6. Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Répertoire des toponymes et des archives villageoises du Bắc-kỳ ) - nhóm biên soạn Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên và Philippe Papin.

Trường Viễn Đông Bác cổ còn đóng góp tích cực vào việc dịch và xuất bản một số ấn phẩm như: Về Văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt của Léopold Cadière (1998); Từ vựng các phương ngữ Ê-Đê (Lexique des dialectes Êdê) của Đoàn Văn Phúc (1998). Đặc biệt cần phải nói tới tập san Những người bạn của Cố đô Huế (Bulletin des Amis du Vieux Huế) là một ấn phẩm điện tử được xuất bản trên đĩa CD-ROM, với sự phối hợp của Trường Đại học Huế, Công ty Pacific R.I.M.

Một chương trình nghiên cứu cổ sử - Văn bia Việt Nam do Trường Viễn Đông Bác cổ đề ra được hợp tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, Đại học Trung Chính (Đài Loan) và Claudine Salmon - nữ nghiên cứu viên người Pháp để dịch, chú thích và nghiên cứu Văn khắc trên bia nhằm giới thiệu với độc giả Việt Nam và quốc tế các văn bản cổ khắc trên bia. Cuối năm 1998 kết quả đầu tiên đã ra mắt là tập I gồm 26 bia từ thời Bắc thuộc đến đời Lý, in tại Paris với nhan đề Văn khắc Hán Nôm Việt Nam - (Epigraphie en chinois du Vietnam - de l’occupation chinoise à la dynastie des Lý). Tập II gồm các bia thời Trần và một số công trình lớn khác như Đồng Khánh địa dư chí... sẽ tiếp tục được ra mắt bạn đọc theo một chương trình nghiên cứu dài hạn.

Cũng trong chương trình nghiên cứu cổ sử, các nhà khảo cổ Việt Nam và Pháp đã tiến hành khai quật di chỉ óc - Eo ở Miền Nam từ tháng 1 năm 1998.

Bên cạnh chương trình nghiên cứu cổ sử là chương trình nghiên cứu Làng xã Việt Nam (Các làng đặc trưng tiêu biểu thuộc vùng châu thổ sông Hồng) được triển khai từ tháng 9 năm 1996. Đây là một chương trình nghiên cứu liên ngành, tập trung vào việc điều tra thực địa, mở đầu là những địa chỉ có cơ sở. Chương trình này được sự phối hợp chặt chẽ của các Giáo sư đầu ngành của Việt Nam như Phan Huy Lê, Lê Bá Thảo, Phan Đại Doãn, Đào Thế Tuấn, Đặng Nghiêm Vạn, Tương Lai, đại diện cho các ngành sử học, địa lý học, xã hội học, tôn giáo, nông học và một số ngành có liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn cùng nhiều nhà nghiên cứu người Pháp và Việt Nam có trình độ chuyên môn cao như P. Papin, Nguyễn Tùng, Nelly Krowolski, Oliver Tessier, A. Fiorucci, Nguyễn Văn Khánh, Đỗ Văn Thịnh, Trương Xuân Trường, Đặng Thế Đại... Với nhiều lần đi thực địa và sau nhiều năm cộng tác với nhau, họ cũng đã khép lại chương trình nghiên cứu này bằng nhiều cuộc hội thảo, mạn đàm về “Làng và không gian làng Việt Nam”. Các kết quả nghiên cứu sẽ được công bố trong một ngày không xa thông qua chương trình xuất bản của Trường.

Trong mấy năm qua, Trường Viễn Đông Bác cổ còn tổ chức nhiều cuộc hội thảo, thuyết trình về các vấn đề lịch sử, khảo cổ, dân tộc học, văn học và ngôn ngữ với sự phối hợp của một số Giáo sư và nhiều nhà khoa học, đồng thời cũng góp phần vào việc tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về Việt Nam học, đón nhận nhiều nghiên cứu sinh từ Pháp và giúp đỡ sinh viên nước ngoài thực tập và làm luận án tại Việt Nam liên quan đến ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Với những hoạt động tốt được ghi nhận ở trên, cùng những pho sách, tài liệu và cổ vật được đánh giá là quý hiếm có giá trị văn hóa cao mà Trường Viễn Đông Bác cổ lâu nay đã dày công xây dựng chính là một phần đóng góp tích cực vào việc giới thiệu tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng góp phần vào việc phát triển quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Pháp. Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp thực sự là nhịp cầu giao lưu văn hóa Việt Nam với thế giới.

TB

MỘT NÉT ĐẸP TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỦA CÁC CỤ YÊU THÍCH THƠ HÁN NÔM

THẾ ANH

Thơ Đường luật và nhất là thơ và câu đối viết bằng chữ Hán thì từ lâu ít thấy xuất hiện trên các trang sách báo và được coi là một thứ “đồ cổ” không còn được nhiều người thưởng thức và ưa chuộng, bởi lẽ nó không đáp ứng được những nhu cầu phong phú và đa dạng của cuộc sống hiện nay đang diễn ra hết sức sôi động. Thế nhưng đối với lớp người cao tuổi mà lại có được một ít vốn liếng chữ Hán thì hình như thể thơ này vẫn có sức hấp dẫn và lôi cuốn họ. Trong bài này tôi muốn đề cập đến mảng thơ bằng chữ Hán và thơ dịch của những tác giả nghiệp dư cao tuổi. Số lượng tuy không nhiều nhưng các cụ đã tập hợp lại thành Nhóm(1), có sinh hoạt thường kỳ đều đặn để đọc cho nhau nghe những “tác phẩm” mới hoàn thành, trao đổi với nhau những vần thơ tâm đắc, góp ý cho nhau những chữ dùng chưa đạt, những lời dịch chưa thoát, sưu tầm những nguồn tư liệu Hán Nôm rải rác đó đây chưa được phát hiện, “sáng tác” và viết giúp bà con những đôi câu đối và bức trướng mừng thọ, dịch hộ những cuốn gia phả của dòng họ và gia đình, và đôi khi còn đi tân trang câu đối ở các đình chùa và nhà thờ họ... Các cụ đã cho ra mắt được 13 số tập san lấy tên là Hán Nôm Thi kể từ khi thành lập vào mùa thu năm Nhâm Thân 1992 để lưu lại những vần thơ, bài văn... và cả những nét bút tài hoa của nhiều người viết chữ đẹp. Sắp tới trong năm 2000 các cụ đang dự định cho ra mắt một tuyển tập thơ chữ Hán nhân dịp Thăng Long - Thủ đô Hà Nội tròn 990 tuổi. Mục tiêu và ước vọng của các cụ thật đơn giản và khiêm tốn:

Tích niên bôn tẩu phong trần ngoại,
Kim nhật tương đồng thanh khí du.
Tùng cúc hương nùng quân tự lạc,
Cầm thi nhã hứng ngã vong ưu.

(Nguyễn Đức Chỉnh)

(Trước ham rong ruổi đời sương gió,
Nay được bạn bè mến tới lui.
Người mượn cúc tùng làm lạc thú,
Ta thời thơ nhạc tạo nguồn vui(2)).

Sinh hoạt tinh thần của các cụ thật thanh thản, nhẹ nhàng nhưng rất phong phú:

Tửu trà tương thưởng thi ngâm vịnh,
Ái Hán Nôm thi cộng cảm hoài.

(Văn Tung)

(Bầu bạn vui vầy thơ xướng họa,
Cảm hoài vốn cổ chén đầy vơi).

Niên mại hồi hưu sảo đắc thư,
Hán văn ôn tập tác thi từ.
Năng đồng thi khách tần giao tiếp,
Thắng độc vô liêu bách quyển thư.

(Trương Đăng Xung)

(Thư thái về hưu tuổi luống rồi,
Hán văn ôn tập viết thơ chơi.
Được cùng thi hữu năng giao tiếp,
Hơn cả trăm pho sách đọc hoài )

Cuộc sống vật chất của các cụ thì đạm bạc: “Nhà tranh an phận, cao sang không màng”. Nhưng thực ra thì chưa hẳn đã đúng như vậy, vì có một thực tế là các cụ đã phải cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho hai cuộc kháng chiến, rồi lại tiếp tục những tháng năm gian khổ sau chiến tranh và đến lúc nghỉ hưu thì đâu còn sức khỏe và cơ hội làm ăn để mưu cầu một cuộc sống dư dật về vật chất, nên đành an ủi:

Bố y sơ phạm tùy ư ngộ,
Thảo thất an bần, lạc thử thân.
Tất hạ giai nhi thần mộ ủy,
Quĩ trung hiền phụ tảo tần hoan.

(Nguyễn Đức Chỉnh)

(Cơm rau, áo vải ta mang,
Nhà tranh an phận, cao sang không màng.
Quanh mình có được con ngoan,
Vợ hiền chạy chợ lo toan việc nhà).

Chỉ với một niềm vui nho nhỏ là cơi nới thêm được một ít diện tích cho chỗ ở thêm thoáng đãng, bớt nóng nực cũng gợi cho các cụ những nguồn cảm hứng dồi dào, đầy thơ mộng và chứa chan tình cảm bạn bè:

Cửu vọng thiêm thành tiểu thượng lâu,
Giảm ta hạ nhật nhiệt viêm lao.
Hạ thanh minh nguyệt hòa nùng mộng,
Hiểu tĩnh lương phong tẩm túy âu.
Hoa luyến phong quang thường vũ tiếu,
Thi đa hoài hứng nhạ thôi xao.
Gia tăng thiểu quảng tình tăng quảng,
Bằng hữu giao du toại sở cầu.

(Đỗ Quang Liên)

(Cơi một gian buồng mấy ước ao,
Dịu đi cái nóng buổi trưa nào.
Đêm thanh nồng mộng trăng vàng tới,
Sáng tỉnh say ca gió mát vào.
Hoa mến phong quang thường vũ tiếu,
Thơ nhiều cảm hứng nhắc thôi xao.
Nhà thêm chút rộng, tình thêm rộng,
Bầu bạn chan hòa quí biết bao).

Chủ đề sáng tác của các cụ rất rộng và không hạn chế ở một quy mô nào, nhưng có lẽ mùa xuân là nguồn thi hứng dồi dào của các cụ, nên đã có những vần thơ, những cặp đối mang âm hưởng của Đường thi cổ kính:

Đào hoa hàm tiếu kiều y cựu,
Dương liễu thùy liêm sắc uyển tân.
Thi quyện mặc duyên triền mặc khách,
Tình nùng xuân tứ túy xuân quân.

(Vũ Văn Tình)

(Cười nụ bông đào duyên sắc thắm,
Buông mành tơ liễu dáng thanh tân.
Thơ xe duyên bút vương lòng khách,
Tình đượm hương trời đắm chúa xuân).

Đông khứ hương nùng hoa diễm sắc,
Xuân hồi nhật noãn cảnh phong quang.
Thuần phong khôi phục hinh tân ốc
Mỹ tục duy trì lạc cố hương.

(Văn Tung)

(Đông hết hương nồng hoa thắm sắc,
Xuân về trời ấm cảnh phong quang.
Lề hay khôi phục thơm tân ốc,
Thói đẹp duy trì rộn cố hương).

Cảm thông với “những người muôn năm cũ” và đồng thời cũng để tưởng niệm một hồn thơ bất tử Vũ Đình Liên, có cụ đã dồn hết tâm lực dịch bài thơ “Ông đồ” ra tiếng Hán - một thao tác mà từ trước đến nay ít người làm, đoạn thơ dịch mô tả những ngày “huy hoàng” của một thời dĩ vãng mà tôi cho là khá đạt:

Kỷ đa nhân thi tự,
Trách trách tán dương chi.
Diệu thủ nhất huy bút
Như phượng vũ long phi.

(Văn Tung)

(Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài,
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay).

Và đoạn mô tả cảnh tiều tụy đáng thương của ông đồ “Giấy đỏ buồn không thắm, Mực đọng trong nghiên sầu” cũng được người dịch chuyển sang tiếng Hán một cách thanh thoát:

Hồng tiên bi sắc đạm,
Truy nghiễn sầu mặc lưu.

Hoặc câu:

“Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưu bụi bay”.

được dịch là:

Tiên thượng hoàng diệp lạc,
Không trung tế vũ phi.

Bài Bức tranh ông đồ của Vũ Đình Liên cũng được lương y Đỗ Bạch Mai dịch ra tiếng Hán:

... Hội tụ thiên xuân hoa diễm lệ,
Hợp hòa vạn khúc nhạc tiêu tao.
Nhất liên thủy mặc quang hồng bộc,
Sỗ điểm đan thanh ánh bích đào.

(... Tưởng cả ngàn xuân hoa thắm đỏ,
Nghe như muôn khúc nhạc xôn xao.
Một câu đối nổ như tràng pháo,
Mấy nét tranh tươi tựa khóm đào.)
(Trích thơ Vũ Đình Liên)

Chắc hẳn tác giả bài Ông đồ cũng ngậm cười nơi chín suối khi có nhiều người cảm thông với nỗi niềm day dứt của mình và một điều đáng mừng là hiện nay Ông đồ cũng không đến nỗi phải tủi thân vì ngoài hai Câu lạc bộ thư pháp trẻ còn có cả một tổ chức chính thức mới được thành lập là CLB UNESCO Thư pháp Việt Nam.

Ngoài những vần thơ thù tạc và xướng họa với nhau, các cụ cũng quan tâm nhiều đến những vấn đề đổi thay của đất nước, trăn trở trước những hiện tượng tiêu cực hiện nay và tỏ thái độ bất bình đối với vấn đề xuống cấp của đạo đức xã hội:

Nhược bất tảo thanh tham nhũng tệ,
Hạt năng đính trú đống lương khuynh.

(Nếu chẳng diệt phường tham nhũng mọt,
Thì sao giữ nổi nước non mình).

Thiên chân hoạt bát tiểu hài nhi,
Hà nhẫn vô cô thụ hoạch bì,
Nhân diện thú tâm nghi tảo trị,
Sử kỳ thiếu giả đắc hoài chi.

(Trương Đăng Xung)

(Trẻ con đang độ thơ ngây,
Bị dao rạch mặt tội nay tày đình.
Loại này không thể làm thinh,
Trị ngay bọn chúng, yên lành trẻ thơ).

Có những bài thơ tâm huyết không đi vào những đề tài rộng lớn và những câu chữ sáo mòn mà chỉ khai thác một khía cạnh trong sinh hoạt đời thường như một lời rỉ tai nhẹ nhàng với vợ là không nên buôn bán đường dài khi mới về hưu:

Dạ thâm phân phó dữ hiền thê,
Mệnh dĩ an bài mạc khả vi.
Chúc phạn nhật thường liên hũ phất,
Chiên cừu hạ chí mãn đình phi.
Tàm tang tiểu nghệ nhân hằng trọng,
Phán mại trường đồ thế dị khi.
Bần phạp ngã gia tri tiện túc,
Tế vi hạnh phúc thọ song kỳ.
(Lê Hữu Nhiệm)

Canh khuya thức vợ dặn bên lòng,
Giàu đã giàu rồi chớ chạy rong.
Cơm cháo ngày còn hai bữa thổi,
Áo chăn hè đến vẫn phơi phong.
Tằm tơ nghề gốc là ăn chắc,
Buôn bán đường dài dễ mất không.
Tùng tiệm tuy nghèo chưa hẳn thiếu,
Cơm ngon hạnh phúc trọn đời chung).

Hoặc bài thơ khuyến học dùng toàn những điển tích lấy trong sách Tam tự kinh - cuốn giáo khoa dùng cho học sinh vỡ lòng học chữ Hán:

Thư trung hữu ngọc kỷ nhân tri,
Tam tự chân truyền học xướng thi.
Lương Hiệu bát tuần khôi chúng sĩ,
Lão Tuyền trấp thất phấn tâm suy.
Phụ tân, quải giác, phong nhương mật,
ánh tuyết, nang huỳnh, tàm thổ ti.
Hối ngã tiểu sinh vô miễn lực,
Ấu nhi bất học, lão hà vi.
(Nguyễn Đức Chỉnh)

(Ai hay trong sách có vàng,
Mượn kinh Tam tự tập làm bài ca.
Thuở xưa Lương Hiệu đã già,
Tám mươi hai tuổi đăng khoa đỗ đầu.
Lão Tuyền thất học từ lâu,
Hăm bảy tuổi, mới bắt đầu bút nghiên.
Chăn trâu, kiếm củi phận hèn,
Như ong gây mật không quên học hành.
Đom đóm thay ngọn đèn xanh,
Như tằm rút ruột nên danh với đời.
Trách mình thuở nhỏ ham chơi,
Bé mà không học, già rồi làm chi).

Mảng đề tài lịch sử như Hội nghị Diên Hồng, Trần Quốc Toản, Nguyễn Biểu... hoặc ca ngợi những danh lam thắng cảnh của đất nước như Hà Nội cảnh thập vịnh, Tây Hồ, Chiêu Thiền tự... cũng được nhiều cụ quan tâm.

Do cảm hứng và nhu cầu thưởng thức, các cụ đã không ngần ngại khi dịch những bài thơ Đường nổi tiếng mà nhiều nhà thơ lớp trước như Tản Đà, Ngô Tất Tố, Nam Trân, Khương Hữu Dụng... đã có những bản dịch rất đạt. Có cụ còn sáng tác cả những bài ca trù bằng tiếng Hán. Nói tóm lại thơ chữ Hán của các cụ rất đa dạng, trong phạm vi một bài viết ngắn tôi không thể nêu hết những ý hay, lời đẹp trong ngót 400 bài thơ, bản dịch và câu đối của trên ba chục tác giả. Có một điều rất đáng phấn khởi là những số tập san nội bộ của Nhóm đã vượt ra khỏi phạm vi Thủ đô Hà Nội và đã được nhiều cụ ở các tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, có cả những cụ ở tận thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu hoan nghênh và đón nhận một cách nhiệt tình và thường xuyên gửi bài, trao đổi ý kiến và còn ủng hộ cả vật chất nữa. Tất nhiên trong những vần thơ của các cụ đôi khi cũng khó tránh khỏi những chỗ bất cập, như chữ nghĩa có chỗ nhớ, chỗ quên, ý tứ có chỗ chưa thật chỉnh, nhưng trên tất cả là một tấm lòng, một thái độ đối với cuộc sống, một thú vui tao nhã để di dưỡng tinh thần của lớp người đã được nghỉ ngơi sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Theo tôi đó là một điều rất quí và đáng trân trọng. Hy vọng sẽ được nhiều người hưởng ứng, cổ vũ và động viên, vì đó là một nét đẹp văn hóa cần được duy trì và phát triển.

T.A

CHÚ THÍCH:

(1) Nhóm yêu thơ Hán Nôm ở Hà Nội do lương y Đỗ Quang Liên làm Nhóm trưởng.

Địa chỉ: Số 58B tổ 17, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội.

(2) Phần dịch đặt trong ngoặc đơn là do tác giả tự dịch. Bên dưới cũng đều như thế.

TB

TRIỂN LÃM THƯ PHÁP XUÂN 2000 – KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA MỘT SỰ HỒI SINH

VƯƠNG THỊ HƯỜNG

Thư pháp chỉ cách thức dùng bút lông viết chữ Hán, một nghệ thuật truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông có sử dụng chữ Hán(1). Cùng với chữ Hán, nghệ thuật Thư pháp được truyền vào nước ta từ khá sớm. Và chúng ta thật tự hào vì đã có nhiều người nổi tiếng viết chữ đẹp như Lê Thánh Tông, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Tự Đức...

Nhưng dường như việc gì cùng đến thì cũng cùng đi. Chữ Hán với nền Nho học suy vi thì Thư pháp Việt Nam cũng vì thế mà ra đi theo. Hay nói như một số người thì mạch sống của Thư pháp Việt Nam “may ra” chỉ còn là mạch sống ngầm. Mà đã là mạch sống ngầm thì khó ai đoán biết cái mạch ngầm ấy mạnh hay yếu, chỉ biết rằng lâu nay môn nghệ thuật này gần như bị lãng quên. Mỗi một năm qua đi, số người biết thư pháp cũng thưa vắng dần, nhiều người sốt ruột lo rằng nghệ thuật thư pháp Việt Nam sẽ mất đi vĩnh viễn.

Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, bao suy nghĩ vẫn chất chứa trong lòng người nhiệt huyết. Làm gì để loại hình nghệ thuật này sống lại và phát triển? Câu hỏi đó ngày càng làm day dứt bao người yêu quý thư pháp. Lâu nay, người yêu thư pháp chỉ biết đến một vài cuộc triển lãm mang tính chất cá nhân như cuộc triển lãm của Lê Xuân Hòa(2), Lê Quốc Việt,... mà mọi người cũng chỉ dám nghĩ đến việc còn duy trì được Thư pháp ở vài cá nhân như thế chứ chẳng thể nào dám nghĩ tới sẽ có hẳn một cuộc triển lãm với qui mô lớn hơn.

Không thể ngồi nhìn những gì đã có đang dần mất đi, bằng tất cả tấm lòng và nghị lực của mình, quyết tâm khơi lại cái mạch ngầm đang chảy âm ỉ, nhiều người đã vì nền thư pháp nước nhà cố gắng thành lập những Câu lạc bộ Thư pháp, chẳng hạn vào năm 1996 một Câu lạc bộ ra đời tại Hà Nội, lấy tên là Câu lạc bộ Thư họa Thăng Long. Số thành viên ban đầu còn khiêm tốn, hoạt động của Câu lạc bộ cũng chưa đặc sắc. Nhưng chỉ tí lâu sau, vào lần kỷ niệm hai năm ngày thành lập, Câu lạc bộ này đã có những bước tiến đáng kể: số thành viên đã tăng lên, đưa tổng số thành viên lên tới 40 người(3); Câu lạc bộ đã xây dựng được nội quy, quy định; tự xây dựng nền nếp sinh hoạt cho mình. Tiếng lành đồn xa, những người yêu quý Thư pháp khắp nơi trong cả nước cùng tập hợp nhau lại để chấn hưng loại hình nghệ thuật đặc sắc này, trên tinh thần phát huy và giữ gìn tinh hoa văn hóa truyền thống góp phần xây dựng và tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử Việt Nam.

Ngày 31 tháng 10 năm 1999, tại Trung tâm Văn miếu - Quốc Tử Giám - Hà Nội, Câu lạc bộ UNESCO Thư pháp Việt Nam đã tiến hành Đại hội toàn thể lần thứ nhất(4).

Hòa trong không khí tưng bừng đón

xuân Canh Thìn, kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, tại Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám “bỗng nhiên” diễn ra Triển lãm Thư pháp Việt Nam từ ngày 3-2 đến ngày 9-2 năm 2000 do Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Quỹ phát triển văn hóa Việt Nam - Thụy Điển và Câu lạc bộ UNESCO Thư pháp Việt Nam phối hợp tổ chức, khiến nhiều người rất ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên của họ không phải không có căn cứ vì chưa bao giờ họ nghĩ tới sẽ có một cuộc triển lãm lớn như thế.

Thực ra cuộc triển lãm Thư pháp Xuân 2000 lần này là kết quả công lao vất vả của bao người tâm huyết. Họ phải cạy cục lo kinh phí, lo tìm và mời những Thư pháp gia... Nhưng quả thật “không có việc gì khó” mọi dự định đã thành công, triển lãm được khai trương...

Triển lãm Thư Pháp Xuân 2000 lần này đã giới thiệu chữ viết của đông đảo tác giả thuộc nhiều thành phần ở mọi miền đất nước, già có, trẻ có, nam có, nữ có; những tên tuổi đáng kính nể trong làng thư pháp đương đại như cụ Lê Xuân Hòa, cụ Nguyễn Văn Bách... cho tới những sinh viên mới bước vào nghề. Cuộc triển lãm không những hội tụ được khá nhiều cây bút trong cả nước với đầy đủ thành phần mà qua cuộc triển lãm, nhiều người thấy rõ hơn, hiểu rõ hơn về thư pháp. Cuộc triển lãm đã trưng bày 98 tác phẩm của 28 tác giả. Mỗi người một phong cách riêng, có người ưa chữ Chân, chữ Thảo; có người lại thích thể hiện mình bằng chữ Triện, chữ Lệ...

Nội dung những bức Thư pháp cũng nhiều màu nhiều vẻ. Có người mượn câu thơ của người khác, cũng có người viết những chữ, những câu do mình nghĩ ra. Chủ đề được đề cập đến trong các bức thư họa cũng rất phong phú. Ví dụ, để ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân, Nguyễn Phước Hải Trung có chữ “Mai” viết Thảo với sự rung cảm sâu sắc từ câu thơ của Cao Bá Quát (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa - cả đời chỉ biết cúi đầu bái hoa mai). Phan Thị Minh Bạch với viết chữ Lệ tràn đầy ánh xuân (Hàn tuyết mai trung tận, Xuân phong liễu thượng quy - Tuyết lạnh tan trong nụ mai, Gió xuân về trên cành liễu). Nói về đường hướng đổi mới của đất nước ta và cũng là quyết tâm của người dân Việt trong công cuộc xây dựng đất nước, Nguyễn Đại Cồ Việt có bức “Hòa nhi bất đồng” (Hòa mà không đồng). Nhà nghiên cứu Hán Nôm Cung Khắc Lược có bức viết Thảo (Nhật lệ phong hòa khai thịnh thế, Đảng minh chính hảo mãn xuân quang - Gió lành trời thắm mở thời thịnh, Đường đúng Đảng minh ngập ánh xuân). Nhà giáo Lại Cao Nguyện dùng chữ Thảo thể hiện khát vọng “có được anh tài trong thiên hạ để mà giáo dục” (Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi). Đi vào cõi Thiền đầy quyến rũ bí ẩn, Nguyễn Đình Thảng có chữ “Tĩnh”, mong người đời cảm nhận được sự sâu lắng tận cùng của kiếp sống trần tục (Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, Nhàn đàm mạc luận nhân phi - Tĩnh tọa thường nghĩ lỗi mình, Chuyện phiếm chớ luận tội người). Thế Anh có chữ “Nhẫn” (Nhẫn đắc thời chi khí, Miễn đắc nhật chi ưu. Dục hòa thượng hạ nhẫn tự vi tiên. Phụ tử nhẫn chi kim tử bất cô. Huynh đệ nhânc chi gia trung vô hại. Bằng hữu nhẫn chi, kì tình bất sơ. Tự thân nhẫn chi, nhân nhân ái lạc - Nhẫn nhịn được cái tức một lúc, tránh được mối lo trăm ngày. Muốn hòa thuận trên dưới, nhẫn nhịn đứng hàng đầu. Cha con nhẫn nhịn nhau, giữ vẹn được đạo lý. Vợ chồng nhẫn nhịn nhau, con cái khỏi bơ vơ. Anh em nhẫn nhịn nhau, trong nhà yên ấm cả. Bạn bè nhẫn nhịn nhau, ai ai cũng yêu mến). Lê Xuân Hòa với tấm lòng trong sạch muốn phiêu diêu thoát bụi trần: “Giữ gìn trong dạ câu tình nghĩa, Gác bỏ ngoài tai chuyện đảo điên”. Nguyễn Văn Bách lại say sưa với sự thanh cao của nghẹ thuật thư pháp, muốn níu kéo, chiêm ngưỡng cái thần thoáng gặp (Chỉ thượng ngưng thần - Cái thần đọng trên trang giấy); Đinh Thanh Hiếu đi vào triết lý Nho giáo cùng chữ “Kính nghĩa” (Kính dĩ trực nội, Nghĩa dĩ phương ngoại - Dùng “kính” để ngay thẳng trong lòng, Dùng “nghĩa” để đoan chính bên ngoài)...

Công bằng mà nói, mỗi một bức viết là một tâm hồn, một sự rung động, một sự gửi gắm tình cảm của người viết với người xem, khiến người xem như lạc vào một thế giới của nhạc, họa và thơ.

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số bức thư pháp tiêu biểu trong vườn hoa thư pháp nhiều màu vẻ được trưng bày tại triển lãm lần này.

CHÚ THÍCH

(1) Trích trong Thư pháp và mỹ học thư pháp - Thọ Nhân, Tạp chí Hán Nôm số 3(32) - 1997.

(2) Khoảng 5 năm trước cụ Lê Xuân Hòa đã kết hợp với một số cơ quan chức năng của Thành phố Hồ Chí Minh mở cuộc triển lãm cá nhân tại Đồng Khởi 10 ngày; tại Quận 5, 10 ngày; tại Bến Thành 10 ngày. Cụ cũng có một số buổi triển lãm tại Hà Nội vàc các năm 1995, 1997.

Trong FESTIVAL tại Huế vừa qua, cụ Lê Xuân Hòavà một số người (trong đó có nhà sư Thích Phước Thành) cũng được mời tham dự triển lãm thư pháp.

(3) (4) Tạp chí Hán Nôm số 4(37) - 1998, 4(41) - 1999 đã đưa tin về các hoạt động này.

TB

TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỚI DỊCH GIẢ DUY PHI VỀ TẬP “249 BÀI THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU”

NGUYỄN DUY HỢP

Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong những thi hào lớn nhất của nền thơ ca cổ điển Việt Nam. Ngoài kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) Văn chiêu hồn bằng chữ Nôm, Nguyễn Du còn có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên tiền hậu tập 78 bài, Nam trung tạp ngâm 40 bài và Bắc hành tạp lục 131 bài. Tổng cộng 249 bài.

Từ năm 1959, Nhà xuất bản Văn hóa đã bước đầu giới thiệu 102 bài Thơ chữ Hán Nguyễn Du do các bậc túc nho Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch.

Năm 1965, kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào, Nhà xuất bản Văn học lại cho ra đời tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du đầy đủ hơn do các vị Lê Thước, Trương Chính biên soạn và dịch.

Đến năm 1996, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông Tin công bố 192 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản dịch của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn.

Lần này 1999, 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, nghĩa là toàn bộ tác phẩm viết bằng chữ Hán của thi hào còn tới ngày nay, được dịch giả Duy Phi biên soạn và dịch, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản

Thế là trong vòng 40 năm đã có bốn dịch phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du được ấn hành và giới thiệu.

Ba tập trước do các bậc túc nho phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ đều là những công trình chất lượng cao. Điều ấy có nghĩa là Duy Phi phải nâng cao trách nhiệm của mình trước công chúng, như anh đã nói Cùng bạn đọc: “Tập sách này có sự khảo cứu, chỉnh lý một số nét về mặt phiên âm, chú thích và in 240 bản dịch mới... Những bản dịch thơ mới này là sự kế thừa phấn đấu theo hướng: dịch sát, với ngôn ngữ thi ca thể hiện được sự hàm súc, tinh tế của nguyên tác... Đây là tập sách được biên soạn với tinh thần cẩn trọng, nghiêm túc nhất”.

Tuy nhiên ý muốn tốt đẹp không phải ở bài nào cũng thực hiện được, nhất là đối với dịch thơ từ Hán sang Việt, vốn được coi là một khoa học, một nghệ thuật.

Vậy Duy Phi đã làm như thế nào và đóp góp được gì vào sự giữ gìn một di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc ?

Theo chỗ tôi biết, trước khi trở thành nhà thơ, Duy Phi đã làm nghề dạy học. Chắc chắn anh đã nghiên cứu, giảng dạy thơ văn Nguyễn Du nhiều niên khóa tại trường phổ thông. Gần đây Duy Phi dành hẳn ba, bốn năm để tìm hiểu và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Với tinh thần khiêm tốn, thực sự cầu thị, anh đã viết bài Trao đổi thêm về những bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du trong Văn 10 in trên tạp chí Trung học phổ thông (số 18-1997), báo Giáo dục và Thời đại (số 38-1998) và Tạp chí Hán Nôm (số 1-1999) để “mạnh dạn trình bày đôi điều băn khoăn về những bản dịch đang lưu hành, đồng thời có mấy lời bàn thêm và đưa ra kiến giải của mình”.

Phải công nhận rằng từ sự học hỏi và kế thừa như thế, Duy Phi đã phần nào tránh được những điều chưa thỏa đáng của người đi trước và đưa ra những bản dịch hợp lý hơn, sát với tinh thần nguyên tác hơn.

Làm một đối chiếu như sau đây giữa bản dịch đang lưu hành với bản dịch mới của Duy Phi qua từng câu trong một số bài ta sẽ thấy rõ điều đó (Số thứ tự bài đánh theo 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du. Phần dịch khác nhau được in nghiêng):

Bài số Nguyên tác Bản dịch đang lưu hành Bản dịch mới
16 - Đông Bích hàn trùng bi cách tân - Oán rét sâu tường giọng đắng cay - Vách đông giá rét dế sầu than
53 - Sài phi dạ tĩnh khốn thân ngâm - Cửa trúc đêm im nhức bắp gân - Đêm vắng then cài ốm rỉ rên
56 - Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan - Chén rượu ngang đèn mặt ửng ran - Rượu nhắp bên đèn mặt chớm hồng
119 - Trang tích bệnh trung vi Việt ngâm - Buồn như tiếng Việt Trang nằm đau rên - Buồn như Tích ốm điệu ngâm quê nhà
125 - Cứ an bị giáp tật như phi - Riêng ông yên giáp nhảy bon bon - Vẫn thường mặc giáp phốc yên cương
125 - Hương lý ninh tri huynh đệ bi - Đâu biết anh em ngán xóm làng - Đâu biết anh em xóm xót thương
125 - Tính danh hợp thướng Vân đài họa - Đài Mây tên họ sao không để - Họ tên chỉ đáng Vân đài vẽ
163 - Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn - Muôn thuở cương thường gộp một dinh - Muôn thuở cương thường một mái vinh
168 - Tương Sơn tự lý hữu chân thân - Chân thân còn để ở chùa Tương / Trong chùa Tương Sơn còn chân thân - Chân thân có ở Tương Tơn này
169 - Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hĩ - Mặt nhơ tay tím thực đau khổ - Tay rã mặt dàu, đau khổ chịu
173 - Chỉ hữu sấu tích vô sung phì - Gầy còm xơ xác không còn thịt da - Đâu béo tốt ? chỉ gầy nhom võ vàng
173 - Giảo tước nhân nhục cam như di - Cắn xé thịt người ngon mía de - Mà nhai xương thịt dân lành ngọt không
184 - Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại - Vài sào lúa nếp ngoài gà lợn - Gà lợn ngoài kia dăm đám lúa
246 - Y quần hà khuông nhương - Quần áo vẻ co rúm - Áo quần đều rách bướp
246 - Mãn trác trần chư dương - Lợn dê bày khắp bàn - Thịt lợn dê đầy bàn

Chúng ta biết rằng dịch thơ chữ Hán của cổ nhân ra thơ Việt cho công chúng hiện nay là một điều cực kỳ khó khăn, nhất là với thơ luật. Nhiều khi dịch từng câu, từng ý thì hay nhưng đặt vào trong toàn bài với những qui định khắt khe, chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối... thì lại không ổn. Thường gặp trường hợp được ý thì mất vần, được niêm luật lại hỏng về câu, chữ. Có khi chỉ cần thay một câu hay một từ mà phải dịch lại cả bài. Hiểu như thế ta mới cảm thông với nỗ lực của dịch giả Duy Phi và vui mừng trước kết quả mà anh thu hái được qua việc dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đó là những bài Sông Lam (43), Sông Đồng Lung (69), Ngắm cảnh chiều ở đất Hán Dương (183), Đền thờ ông thị trung họ Kê (199), Dọc đường chợt hứng (135), Lầu trúc ở Hoàng Châu (236) v.v.

Duy Phi tự đề ra cho mình nhiệm vụ dịch sát, với ngôn ngữ của thi ca, thể hiện được sự hàm súc của nguyên tác.

Ở nơi nào anh thực hiện được những yêu cầu ấy thì tác phẩm dịch có sáng tạo và truyền cảm. Chẳng hạn khi dùng từ vèo để dịch từ Khứ trong câu Tha hương nhân dữ khứ niên biệt thành Tha hương năm cũ vèo ngang mặt cũng như thêm hình ảnh Nghiêng để dịch câu Cổ độ tà dương khan ẩm mã thành Ngựa uống chiều tà nghiêng bến cũ thì những từ vèo, từ nghiêng đã đặt đúng chỗ vừa có hình ảnh vừa rất gợi.

Câu Phù vân ưng bất đoạn mà dịch là Mây nổi mây liền mây thì ba từ mây đi với từ liền đã đạt hiệu quả cao, thể hiện được hình ảnh những đám mây bay nối tiếp nhau không dứt đoạn...

Còn ở nơi nào anh quá chú trọng đến chữ nghĩa, điển cố thì làm mờ nhạt ý thơ. Đó là trường hợp dịch câu Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ thành Tiếng nhạn khơi dòng biệt mấy năm thì có sát nhưng không có thơ. Câu Trạch xã đoạn mã quí đông lân mà dịch là Hàng xóm ngựa còm thận lắm ru. Hoặc câu Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường dịch là Ruột gấm sợ chi huỳnh lửa vương là quá nệ vào điển cố nên dịch không thoát. Đến câu Hữu sinh bát đái công hầu cốt dịch là Thuở sinh thiên mệnh công hầu khuyết. Hay câu Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng dịch thành Như cũ non xanh thắm nắng phơi là đã xa ý nguyên tác. Hai câu đó diễn nghĩa là lúc sinh ra không ai mang sẵn trong mình bộ xương công hầu. Bóng chiều vẫn in ánh sáng đỏ ở dải núi xanh kia. Câu trên Duy Phi dùng nhiều từ Hán liền vẫn không dịch được ý nghĩa triết học của nó, vẫn mất từ quan trọng nhất là bất đái và từ cốt. Câu dưới bỏ mất từ tịch (chiều tà) nên câu thơ dịch có thể hiểu là nắng của buổi trưa!

Nhân tiện cũng trao đổi ý kiến luôn với dịch giả Duy Phi về một vài chi tiết cần xem xét lại. Chẳng hạn Ký Huyền Hư tử (bài 34) dịch là Gửi anh Huyền Hư thì có hiện đại quá do đó mất ý vị cổ nhân chăng ? Câu Kìa “Ai đó ? Người chăng ? Đá chăng ?” (Bài 72) có thể dịch “Ai đó ? Người chăng ? Hay đá chằng ?” để đảm bảo niêm luật ? Bài “Tần Cối tượng” (201) phần chữ Hán viết là VU, phiên âm lại là Ư. Vậy Vu hay Ư ?

Điều cuối cùng cần nói thêm là dịch thơ luật ra thơ luật thì phải tuân thủ luật thơ, không được sai sót. Dịch 240 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, Duy Phi đã mắc một số lỗi thất niêm (bài số 19, 31, 72). Có bài thất niêm để giữ lấy ý, nhưng cũng có bài hẳn là chưa được gia công đến mức cần thiết chăng ?

Từ xưa đến nay Tín, Đạt, Nhã là ba tiêu chuẩn cao nhất của việc dịch thơ. Dịch giả nào thực hiện được ba tiêu chuẩn ấy là dịch giả tài năng và sáng tạo. Dịch phẩm của họ được công chúng tiếp nhận, có đời sống văn học. Nhiều khi người đọc quen thuộc tác phẩm dịch hơn cả nguyên tác nên trong chừng mực nào đó có thể thay thế cho nguyên tác. Lịch sử văn học Việt Nam đã có nhiều minh chứng. Đó là Đoàn Thị Điểm với bản dịch Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Phan Huy Vịnh dịch Tì bà hành của Bạch Cư Dị, Tản Đà dịch Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu Tố Hữu dịch Đợi anh về của Xi - mô - nốp...

Cùng với thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, thơ chữ Hán Nguyễn Du là một di sản đặc sắc của dân tộc. Dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du ra thơ Việt để phổ biến rộng rãi trong nhân dân, luôn luôn là thôi thúc của người có tâm huyết với văn hóa dân tộc. Dịch phẩm của Duy Phi có đôi chỗ cần trao đổi ý kiến, cần được sửa chữa cho lần tái bản. Nhìn chung đây là một bản dịch tốt, là một nén nhang thành kính kỷ niệm 180 năm ngày mất của Nguyễn Du (16/9/1820 - 16/9/2000).

TB

TÚ TÀI PHẠM VẬNG CHINH VÀ MỘT SỐ TÁC PHẨM HÁN NÔM DO ÔNG ĐỂ LẠI

NGUYẪN TIẾN ĐOÀN

Những làng gọi là văn hiến ở Thái Bình, các ông Phủ hiệu đường sinh, Phủ hiệu hiệu sinh, Tú tài, Mền, Kép đến các ông Khóa sinh, nhiêu học thì đấu đong chẳng hết. Các ông Tú tài theo quy định khoa cử xưa chưa được xếp vào hàng phát khoa nên không có biển khắc hai chữ “phát khoa” sơn son thiếp vàng rước về và dĩ nhiên cũng không có tên trong các cuốn “Hương khoa lục” của làng hay “Quốc triều hương khoa lục” của nhà nước.

Trong các vị Tú tài thời xưa không ít người đã để lại những sự nghiệp sáng giá của mình. Họ là những nhà văn, nhà thơ, nhà viết sử, viết sách, nhà giáo mẫu mực trong một vùng, một làng, thậm chí tên tuổi họ còn được cả nước mến phục như trường hợp Tú Xương, Tú tài Từ Diễn Đồng, Kép Trà v.v.

Ở Thái Bình không ít những ông Tú tài như thế. Trong số đó phải kể đến Tú tài Phạm Vậng Chinh (1862 - 1933) người làng Động Trung, nay là xã Vũ Quý, huyện Kiến Xương.

Ông sinh ngày 26 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1862) triều Tự Đức. Tên trong hương tịch là Duy Trinh, sau khi thi đỗ đổi là Vậng Chinh, tự Tử Chính, hiệu Cù Khê.

Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, thân phụ ông là Phạm Đình Khải, một người văn võ đều giỏi, mới 26 tuổi đã giữ chức Đội trưởng Tiền quân Tử tiệp cơ tỉnh Nam Định, cũng năm ấy thân phụ ông bị bọn bất lương hãm hại do chuyện hiềm khích chốn hương đảng... Thân mẫu ông mới 22 tuổi ở vậy nuôi con, tần tảo chợ búa bán gạo, bán cám ở chợ Sóc nuôi cậu bé Chinh ba tuổi. Hằng ngày cậu theo mẹ ra chợ quẩn quanh bên thúng gạo chờ đến bữa được ấp vú mẹ.

Năm lên bảy, Chinh được mẹ tìm thầy cho đi học. Đó là cụ nhị trường Vũ Ngọc Trân người làng Mỹ Lạc cùng huyện, sau lại học cụ nhị trường Đặng Xuân Sảng người cùng làng. Thầy Sảng là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Chinh.

Tính Nguyễn Vậng Chinh thật thà, chất phác, lại kém thông minh. Ông tự nhận mình là kẻ “lỗ độn, ngu mông”. Học đến 8 năm mới thông nghĩa sách. Bàn tay phải của ông ngón cái sinh đôi, lực bị phân tán nên viết chữ rất khó khăn. Đi thi mà chữ xấu thì quan trường không thèm để mắt, cho nên hằng ngày cậu cố gắng luyện cho chữ đẹp. Trong lời tự thuật, ông viết:

Bởi vì lỗ độn, ngu mông,
Tám năm rồi mới sảo thông văn bài.
Tay hữu ngón cái sinh đôi,
Vậy nên viết chữ đọ người kém xa.

(Phạm Vậng Chinh - Tự trần học tổ Nam âm)

Phạm Vậng Chinh lại học tiếp 9 năm nữa ở ông Kép Phạm Luận, người làng Đa Cốc; Cử nhân Đào Điền, người Lỗ Xá, huyện Cẩm Giàng đang giữ chức Huấn đạo huyện Chân Định, học ngay tại văn chỉ làng Động Trung. Cũng ở đây ông còn học các Thầy tú Phạm Hữu Lập, Nguyễn Thọ.

Năm Quý Mùi (1883) Pháp đánh thành Nam Định, phong trào chống Pháp sôi nổi khắp vùng Kiến Xương. Các tráng đinh, các ông đội mãn hạn của hơn hai mươi dòng họ trong làng và các làng lân cận theo ông Nguyễn Hữu Bản sang chiến đấu giữ thành. Trước khí thế ấy, Phạm Vậng Chinh xin gia nhập nghĩa quân nhưng thủ lĩnh Nguyễn Hữu Bản khuyên: việc giúp nước còn nhiều cơ hội, anh hãy học thành tài đã!

Nghe theo lời khuyên của bậc đàn anh, ông lại tiếp tục sách đèn. Năm sau là năm Giáp Thân (1884) vì lý do chiến tranh, cơ sở vật chất bị phá hủy, trường thi Hà Nội và Nam Định phải vào “hợp thí” ở Thanh Hóa. Khoa này ông cùng thi với Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thượng Hiền. Ông lọt vào kỳ đệ tam thì trượt. Năm sau, ông vừa qua kỳ trung khảo thì được tin mẹ mất, phải về cư tang.

Năm Bính Tuất (1886) có ân khoa, năm Mậu Tý (1888) có chính khoa, làng Động Trung lại sôi lên không khí thi nhau học tập.

Nhà học ở Văn chỉ và Văn từ phố Phủ Sóc đông ních sĩ tử khắp nơi kéo về, riêng Phạm Vậng Chinh lại có ý thôi hẳn đèn sách về cầm cày.

May thay lại chính thầy Đặng Xuân Sảng, người đã dạy ông bảy năm trời khi trước đã động viên ông. Vâng theo lời thầy, các khoa Tân Mão (1891), Giáp Ngọ (1894) Phạm Vậng Chinh lại lều chõng đi thi. Khi yết bảng, Chinh lại kêu lên: Thế là “Tôn Sơn chi ngoại” (Trượt rồi ! )

Bốn năm sau, năm Đinh Dậu (1897) chí vẫn không nản, lần thứ năm ông lại lều chõng lên đường. Khoa ấy Phạm Vậng Chinh chỉ thấy tên mình ở ất bảng (bảng Tú tài). Ông tự nói “may mà đỗ vậy!”.

Đỗ Tú tài cũng là sự vui rồi, nhưng cũng là một sự khổ. Bởi lẽ, như trên kia đã nói, cái học vị này nó chưa vào hàm vào đố gì cả. Bổ quan thì hơi bị khó, còn ăn lương vợ là cái chắc!

Phạm Vậng Chinh lại chỉnh đốn hành trang một lần nữa, quyết khoa đoạt lấy Cử nhân. Khoa Canh Tý (1900), ông cố đi thi lần thứ sáu để rồi lại vẫn trượt!

Ông về sống với dân làng. Theo yêu cầu của dân làng mở mang dân trí, ông làm nghề dạy học. Ông tự nói: “Thời thế đã khác rồi, nếu tôi đỗ Cử nhân được bổ quan tôi cũng không màng”. Phương châm dạy học của ông trước hết là dạy làm người, có đạo đức, có bản lĩnh chống lại những lố lăng vong bản thời Tây hóa. Cho nên khi phong trào Đông Kinh nghĩa thục từ Hà Nội phát triển về Thái Bình, ông hăng hái tham gia ngay cùng với các ông ấm Cương, Tú tài Nguyễn Đình Trí, Tú tài Nguyễn Minh Quán và nhiều vị khác ở trong làng. Cơ sở Đông Kinh nghĩa thục ở Động Trung tập hợp được hầu hết các nhà Nho yêu nước trong vùng. Nhiều vị Cử nhân đồng khoa với Phạm Vậng Chinh như Lương Trọng Phan, Nguyễn Trí Trạch cũng tham gia giảng dạy với ông theo những nội dung đổi mới của nhà trường.

Thực dân Pháp và bọn tay sai thừa biết những hoạt động này của các ông. Các ông nâng cao dân trí, cổ động việc dùng hàng nội hóa, học những bài ca yêu nước, đề cao lòng tự tôn dân tộc, để rồi lật đổ chúng lúc nào không hay.Viên quan phủ sở tại là Trần Gia Du được lệnh quan thầy theo dõi chặt chẽ hoạt động của các ông nhà Nho bất trị của làng Động Trung mà tên Hào ứng làng Niềm Hạ là đắc lực nhất.

Phạm Vậng Chinh tham gia phong trào này vừa tròn một năm thì bị Pháp khủng bố. Chúng bắt cha con ấm Cương đi đày biệt xứ ở Cần Thơ và Cà Mau. Phong trào tan rã, các ông giáo Đông Kinh mỗi người tìm một phương tiếp tục nghề dạy học. Ông khăn gói ra đi Kiến An, huyện Thủy Nguyên nơi 80 năm trước là nơi đặt chân đầu tiên của Phan Bá Vành đã đội trời khuấy nước làm nghiêng ngả triều đình nhà Nguyễn một thời.

Thời gian này ngoài việc dạy học, ông để tâm vào việc viết sách và nghiên cứu các tục lệ cổ truyền của người Việt Nam. Những điều sở học uyên bác, những tâm sự đau đời, ông đều gửi gắm một cách kín đáo nhẹ nhàng vào những tác phẩm ông biên soạn.

Tác phẩm của ông có:

- Ba tập Gia phả dày dặn công phu, ngoài các tiểu truyện của các vị tiền bối trong họ có công trạng với dân với nước, là sự khảo xét rất chi tiết về mảnh đất và con người Động Trung.

- Gia lễ phục chế.

- Nghi tiết tế văn.

- Phép đặt tên theo các bộ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

- Sớ văn tập thành.

- Sử biên trích cẩm.

Tư tưởng và nhân cách ông được thể hiện rõ nét nhất trong bài Tự trần học tổ Nam âm, một áng văn Nôm, thể lục bát và cuốn Tiểu Phạm gia huấn toàn lục chữ Hán - gồm 10 chương.

Sự kính trọng, thủy chung với thầy học, lòng quý mến bạn bè, thương yêu môn đệ là những nét nổi bật trong bài trần thuật lục bát. Đọc toàn văn, gấp sách lại nghĩ về ông và người thời ông không ai không thương cảm, kính phục ông về sự vượt gian khổ trong học tập, chia xẻ cùng ông những hoài bão và những lời gửi gắm cho lớp người sau.

Cuốn Tiểu Phạm gia huấn toàn lục là một loại sách gia huấn viết công phu hiếm có ở thời ấy. Cuốn sách nêu đạo lý ứng xử toàn bộ các mối quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, họ hàng, làng xóm, quan hệ trẻ già, bè bạn đến kế hoạch duy trì nếp sống, đời sống gia đình, yêu quý và giữ gìn đồ dùng vật dụng trong gia đình.

Ngoài ra, ông còn một mẫu bài văn “bát cổ”.

Tóm lại, Phạm Vậng Chinh là một người thầy học mẫu mực, học vấn uyên bác, đạo cao đức trọng. Ông được các nhà văn thân trong phủ huyện kính trọng, được bầu giữ chức Văn hội trưởng của hai tổng Xuân Vũ và Thụy Lãng. Những công hiến của ông mà ngày nay còn được coi trọng chính là nhân cách của một trí thức yêu nước đã để lại những tác phẩm công phu, nghiêm túc giúp ích cho các nhà văn hóa học ngày nay nhiều tư liệu quý giá.

Có thể nói nơi ông và làng Động Trung xứng đáng là một địa chỉ văn hóa vùng Đông nam Bố Hải Khẩu.

Dưới đây, chúng tôi phiên âm phần nguyên văn bằng chữ Nôm và dịch phần chú thích bằng chữ Hán bài Tự trần học tổ Nam âm, để bạn đọc có một ý niệm nào đó về tác phẩm của Phạm Vậng Chinh.

TỰ TRẦN HỌC TỔ NAM ÂM

Lời dẫn của tác giả: “Tú tài Phạm Vậng Chinh đỗ Tú tài khoa Đinh Dậu (1879) năm Thành Thái thứ 9 tự thuật trước sau về quá trình học tập, học những thầy nào để lưu giữ cho con cháu biết.”

Loại dân sinh ấy có ba,
Tôi con đội đức vua cha lên đầu(1).
Ví bằng chẳng dạy biết đâu,
Tối tôn hai chữ thiên thu dõi truyền(2).
Không thầy sao mày làm nên,
Thanh lam, băng thủy như in khác gì(3).
Mình ta ta sẽ kể đi,
Mới lên ba tuổi cha về cõi tiên(4).
Một niềm mẹ những khẩn nguyền,
Mong nuôi khôn lớn cho chuyên học hành(5).
Vừa khi bảy tuổi xung linh,
Chỉ qua Thúc Ngọc Tiên sinh vỗ lòng(6).
Bởi vì lỗ độn ngu mông,
Tám năm rồi mới sảo thông văn bài(7).
Tay hữu ngón cái sinh đôi,
Vậy nên viết chữ đọ người kém xa(8)
Tây tân thầy Vũ về nhà,
Khuyên rằng học cố may ra danh thành(9).
Rồi theo Đăng ấp tiên sinh,
Khẩu truyền, tâm thụ nghĩa tinh cũng nhiều (10).
Tìm thầy học, chọn bạn giao,
Tới miền Đa Cốc lại vào Đậu thôn.
Dạy nghiêm nghe vẫn tiếng đồn,
Tiên sinh họ Phạm cập môn đa hiền.
Vái rồi thầy sẽ hỏi tên,
Thầy khen tính hạnh, thầy truyền đích chân(11).
Ấy là “tư thục chư nhân”,
Lại còn công tập ở sân học đường(12).
Quan Đào Trân Ngọc Cẩm Giàng,
ở làng Lỗ Xá vẫn thường học luôn(13).
Quan Phạm Lục Nhất Đan Loan,
Quan Nguyễn Ngọc Thọ dạy khuyên đấy mà (14).
Nhớ từ tối hai mươi ba,
Giáp Thân Kiến Phúc ấy khoa thi đầu.
Hà, Nam hợp thí với nhau,
Ở trường Thanh Hóa lọt vào đệ tam.
Thủ khoa là Vũ Phạm Hàm,
“Tôn Sơn chi ngoại” cũng cam trượt rồi(15)!
Tưởng rằng mẫu thọ còn dài,
Nào ngờ Bảo Vụ sao rời phút đi !
Khoa ất Dậu vua Hàm Nghi,
Cư lô còn tưởng lối gì công danh !
Bấy giờ mình chỉ trách mình,
Kiến không kịp kiến thôi đành chịu thôi !
Bính Tuất (1886) Mậu Tý (1888) mặc người,
Đã không đại dưỡng vậy thời quy canh (16).
Thầy Đăng ấp dẫn Lễ kinh,
Dạy rằng có chữ di danh bề bề(17).
Tân Mão (1891) Giáp Ngọ (1894) lại thi,
Văn phòng tứ hữu ba kỳ cũng thông(18).
Chửa hay danh chiếm bảng rồng,
Bao giờ những được cái phong đuôi này.
Há rằng phụ cả công thầy
Gặp khoa Đinh Dậu (1897) tới đây lại vào.
Chắc rằng giáp đệ danh cao,
Ai ngờ những đoạn nhặt vào ti ti(19).
Đến khoa Canh Tý (1900) cức vi,
Thành công đã quyết ở kỳ sách văn.
Lại vì đàn lũ quấn chân,
Người xem bảng lớn ta lần bảng con(20).
Lý ngư chửa vượt Long môn,
Nhưng mà tam cấp đã toan mấy lần(21).
Ấy ai lăn lóc tay chân,
Ấy ai dạy dỗ nên thân con người.
Bội sư mặc kẻ vô loài(22),
Sư cùng quân phụ ta thời kính đây.
Thờ thầy lại được làm thầy,
Tử Hư họ Phạm xưa nay vẫn truyền(23).
Muôn đời con cháu thảo hiền,
Nhớ câu nhất sự chớ quên mới là !
Ngày 26 tháng 5 năm Nhâm Tuất Khải Định thứ 7 (1922)
Tú tài Phạm Vậng Chinh soạn

CHÚ THÍCH

1. Trong sách Quốc ngữ, Nhiếp Trang Tử nói:

Dân sinh có 3 việc phải phụng sự như sau:

a- Đối với người cha sinh ra mình.

b- Đối với thầy học dạy mình.

c- Đối với vua nuôi nấng mình, cho mình được sống.

Đó là tộc loại sinh ra như thế. Đối với việc này phải phụng sự suốt đời. Sách Hậu Tần lục, Diêu Hoằng nói: Cái nghĩa của ba việc trên không thể không coi trọng. Liền đến vái Thuần Vu Kỳ ở dưới giường. Cho nên nói: “Ngô nhân đầu thượng hữu quân thân” (Trên đầu ta có vua, có cha mẹ).

2. Căn cứ Ngũ Đạt Đạo, phần tiểu chú có nói: Thầy học là người bạn rất tôn kính.

3. Ngạn ngữ Việt Nam: “Không thầy đố mày làm nên”.

Sách Tuân Tử nói: Màu xanh sinh ra từ màu chàm, nhưng xanh hơn màu chàm. Băng sinh ra từ nước mà lạnh hơn nước (Thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam. Băng sinh ư thủy nhi hàn ư thủy).

4. Tôi (Tú Chinh) sinh giờ Ngọ, ngày 26 tháng 5 năm Tự Đức 15 (1862). Cha tôi mất giờ Tý, ngày 3 tháng 6 năm ất Sửu (1865). Bấy giờ tôi lên ba tuổi.

5. Mẹ tôi người họ Đỗ, bấy giờ bà 22 tuổi, ân cần chăm sóc tôi, cầu trời đất mong tôi trưởng thành, chăm chỉ vào việc học.

6. Ngày tốt, tháng Giêng năm Tự Đức 21 (1868), ông bà tôi mời thầy học là Vũ Trân, hiệu Thúc Ngọc. Quê thầy học ở thôn Nguyên Xá, xã Mỹ Lạc, tổng Cao Mại thuộc huyện nhà (Chân Định, Kiến Xương ngày nay). Về sau làng này phân sách đổi là xã Mỹ Nguyên. Thầy Vũ Trân là thầy học vỡ lòng cho tôi về đạo Khổng Mạnh.

7. Bản chất tôi ngu lỗ, cho nên thầy Vũ vất vả dạy tôi đến 8 năm mới thấy tôi thông được văn bài.

8. Người ta có 10 ngón tay, tôi lại 11 ngón. Tay phải ngón cái sinh đôi, lực bị chia sẻ nên gân tay yếu. Viết chữ công phu lắm mới thành.

9. "Tây tân" nghĩa là thầy học. Khi thầy Vũ về Nguyễn Xá có khuyên tôi (Chinh) rằng: Anh tìm thầy mà học tiếp, sau hẳn thành danh, không hổ với đời !

10. Sau tôi theo học thầy Đặng Xuân Sảng người trong làng. Nhờ thầy truyền thụ mà lý rõ, nghĩa tinh.

11. Sau tôi được tin trong huyện nhà, ở thôn Sơn Đậu, tổng Đa Cốc có cụ Phạm Luận đỗ hai khoa Tú tài, húy Huy Đĩnh mở lớp dạy học. Học trò đến học rất đông. Cụ hỏi tôi, tôi trả lời họ Phạm, tên Chinh. Thầy rằng: Nay ta mới biết ở làng Động Trung có họ Phạm. Anh sẽ là kẻ sĩ mà ta cho được ở nơi phòng sách của ta !

12. Mạnh Tử nói: Ta cư xử tốt, thân thiết với mọi người. “Tư” là thân thiết. “Thục” là tốt, là thiện vậy. Câu này của Mạnh Tử còn ý nữa: Ta rèn luyện bản thân cho thật tốt. (Tư thục chư nhân). Học đường ở đây là nhà học của huyện.

13. Cử nhân Đào Điền ( đọc là Điền - chữ Chân và chữ Ngọc ghép thành) người xã Lỗ Xá, huyện Cẩm Giàng, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, làm Huấn đạo huyện Chân Định. Tôi thường đến nhà học của huyện học tập. Sau, thầy Đào làm Tri phủ Kiến Xương.

14. Chữ Lục Áự và chữ Nhất ềằ là chữ Lập. Chữ Ngọc ểủ và chữ Thọ ấÙ là chữ Thọ . Cụ Tú tài Phạm Đình Lập người làng Đan Loan, tỉnh Hải Dương. Bấy giờ cụ làm Huấn đạo huyện Chân Định. Tôi đến nhà học của huyện được cụ rất quý mến, muốn gả con gái cho tôi. Biết tôi có vợ rồi nên thôi. Sau đến Tú tài Nguyễn Thọ làm Huấn đạo huyện Chân Định. Cụ dạy bảo tôi ở nhà học cố gắng đỗ phen này ! Về sau cụ Phạm Đình Lập làm Tri huyện Tiền Hải, Cụ Nguyễn Thọ làm Tri huyện Quỳnh Côi, sau thăng Tri phủ Kiến Xương.

15. Năm Giáp Thân đời vua Kiến Phúc nguyên niên (1884) tôi 23 tuổi, tháng 9 vào thi ở trường Thanh Hóa. Năm ấy trường Hà Nội, Nam Định hợp thí ở Thanh Hóa. Khoa này đỗ đầu là Vũ Phạm Hàm. Bấy giờ tôi vào tam trường thì bị rớt. Tôn Sơn đời Đường cùng Chu Sinh đi thi. Khi yết bảng thì Sơn ở chót bảng. Sinh nhờ Sơn xem hộ tên mình - Sơn đáp, mình đã xem hết, Tôn Sơn ở cuối bảng, tên anh chắc là ở ngoài Tôn Sơn - Nay dùng điển “ở ngoài Tôn Sơn” có nghĩa là thi truợt !

16. Giờ Dậu ngày 12 tháng 4 năm Hàm Nghi nguyên niên ất Dậu (1885) mẹ tôi qua đời. Lúc ấy tôi đã qua kỳ trung khảo. Được tin buồn, về cư tang, tiếc nuối vô cùng, sao mẹ không sống để nhìn thấy thành công học tập của mình. Từ nay về sau nếu như có được mũ lọng hoa hài, không đền đáp được 9 chữ cù lao, thì than ôi! thế là chí thanh vân bị tiêu tan! Năm Bính Tuất đời Đồng Khánh có ân khoa, năm Mậu Tý có chính khoa, nhiều người thi nhau học tập, luyện rèn, còn tôi thì lặng thầm suy tư, học thuật và kinh sách chẳng sáng suốt nữa, thà về đi cày cho xong.

17. Đặng tiên sinh khuyên tôi: Kinh Lễ có nói: Cha mẹ đã qua đời, thì suy nghĩ tốt nhất là làm sao cho tên tuổi cha mẹ được sống mãi. Nếu con mà sa sút ý chí thì làm sao mà “Quang tiền, thùy hậu” được (Làm vẻ vang tiền nhân và để lại cho đời sau một cái gì). Công 10 năm đèn sách của con thế là bỏ đi !

18. Năm Tân Mão (1891), năm Giáp Ngọ (1894) có thi Hương. Tôi từng vào đến tam trường - Kịp khi yết bảng thì đều ở ngoài Tôn Sơn !

19. Năm Đinh Dậu (1897), Thành Thái thứ 9, tôi trúng Tú tài. May mà đỗ vậy !

20. Khoa Canh Tý (1900) Thành Thái 13, tôi đã vào đến đệ tam trường. Bạn cùng tuổi là Nguyễn Vũ Khang người xã Trà Xương và bạn thân thiết là Chu Văn Mặc (tức Mược) người xã Mỹ Lạc. Bạn khế hữu là Vũ Đại người xã Trà Xương, thế huynh (con thầy học) là Vũ Ngọc Quyên, người xã Mỹ Nguyên (nay thuộc xã Quang Hưng, Kiến Xương), chủ nhà là Chánh tổng Đặng Phổ, hội viên Anh hào hội, người Trà Xương, gửi người con trưởng là Đặng Khối (tên trong sổ bộ là Đặng Xuân Đàn) đều cùng trong một Vi. Đề văn sách ra đã viết nháp xong và giao các bạn chép. Riêng phần kim văn của Đặng Khối đến tối rồi cũng chưa kịp viết, vì thế tôi cần phải chờ bạn. Kịp khi nộp quyển để ra khỏi Vi thì lúc đó ba hồi trống trường thi vừa dứt. Và phải chờ bảng phúc khảo. Thế là tôi và Đặng Khối bị liệt ở ngoài bảng.

21. Trạng nguyên thi có câu:

Vũ môn tam cấp lãng
Bình địa nhất thanh lôi.

(Vũ môn ba cấp sóng,
Đất bằng tiếng sấm rền).

Hà Tân có tên là Long Môn, sóng bạc đầu cuồn cuộn, cá vượt lên trên ngọn sóng, con nào vượt qua sẽ hóa rồng. Nếu không vượt nổi thì cụp đuôi mà về !

22. Bọn vô loài thì học thầy lại phản thầy. Thầy Mạnh Tử trách anh em Trần Trương thờ thầy Trần Lương. Thầy Lương chết bèn phản thầy đi học Hứa Hành.

23. Phạm Tử Hư người xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương thờ thầy học là Dương Trạm. Khi thầy Trạm qua đời, Tử Hư trông nom mộ thầy học ba năm. Khoa Mậu Thìn (1148) triều Lý, ông Trạm làm châu lại ở Đồng Quan. Nhà vua phóng bảng 17 người, phụng chỉ vua lấy thêm một người nữa. Ông Trạm tâu vua xin cử Tử Hư, ông ra báo cho Tử Hư biết. Vua phỏng vấn để chọn thêm một người. Vì là người giỏi cho nên quả nhiên khoa đó được vua ban yến. Tử Hư đến sau, 17 người đều đứng dậy. Vua hỏi, Tử Hư đều lấy lời thầy Trạm để thưa. Vua bèn cho Tử Hư ngồi ở bàn trên. Cho nên tục ngữ có câu: “Thờ thầy lại được làm thầy”. Đó là nguyên ủy câu văn tôi viết trong bài.

TB

MẤY NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU QUA CÁC BẢN ĐINH BẠ THỜI TÂY SƠN Ở CHÂU QUẢNG HÓA (ĐẠI LỘC, QUẢNG NAM)

HUỲNH CÔNG BÁ

Qua thực địa điền dã tại làng Quảng Hóa Đại, thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, chúng tôi đã tìm được 11 bản đinh bạ thời Tây Sơn của làng này (Lúc ấy được gọi là châu Quảng Hóa Đại, thuộc Phú Châu, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam). Đây là những văn bản gốc, có ấn chú đầy đủ, có đóng dấu “Phó chấp bằng” và chữ ký của Cai lại, Thủ hợp tướng thần lại ty; Cai lại, Cai hợp Binh bộ; Cai lại, Cai hợp Hộ bộ... ở đây, chúng tôi xin trình bày những nhận xét bước đầu qua các bản đinh bạ nói trên.

1. Với số đinh bạ tìm được, có thể thấy công tác kê khai đinh bạ dưới thời Tây Sơn được tiến hành gần như liên tục qua từng năm một (có những năm có đến 2 lần làm đinh bạ, như năm Thái Đức 11 và Quang Trung 4) và được thực hiện khá chặt chẽ, cước chú rõ ràng các trường hợp “tráng hạng”, “lão hạng”, “tật hạng”, “vị cập”, “thủy hồi”, “tân đáo”, “đào hạng”, “trùng hạng” (loại thuộc về châu khác) v.v. Qua trường hợp của một châu và trong khoảng thời gian chỉ có 10 năm từ Thái Đức 7 (1784) đến Cảnh Thịnh 1 (1793), ít nhất đã ra đời đến 11 bản đinh bạ. Nội dung các bản đinh bạ cho biết, vào năm ất Tỵ (1785), chính quyền Tây Sơn đã tổ chức một cuộc duyệt tuyển lớn. Đến năm Mậu Thân (1788), vua Quang Trung còn tổ chức một cuộc tổng điều tra dân số nữa. Theo đó, tất cả các hạng dân từ biệt tính, biệt nạp, binh lính, hương binh tòng thuộc cho đến tráng hạng, dân đinh, dân thiếu, thủy hồi, tân đáo, ngụ cư, vị cập, ký ngụ... thảy đều được ghi tên vào sổ bộ và có giấy chứng nhận để sử dụng thông hành, ai không có tín bài tín chỉ thì khi qua lại giữa các làng xã sẽ bị bắt giải quan nhằm “canh thủ ngữ gian tế”. Đồng thời đây cũng là một biện pháp nắm dân để tuyển binh lính và lập thành dân binh địa phương. Sổ bộ điều tra kê khai được lập thành hai bản nộp lên chính quyền cấp trên để quản lý dân cư.

2. Về mặt dân số trong châu, theo đinh bạ Thái Đức 7 (1784) châu Quảng Hóa Đại có các hạng nhân số là 6 người, gồm: Tiện nghi Xã Chúc Lê Thế Lưu, Cha Lộc Huỳnh Văn Lan, Cha Nhiêu Lê Thế Điển, Cha Bái Nguyễn Văn Nếm, Cha Thu Nguyễn Văn Thu và Thắng Biện Huỳnh Văn Biện. Sang đinh bạ Thái Đức 8 (1785), ngoài 6 người trên còn có thêm loại “vị cập” (chưa đến tuổi) 1 người là Huỳnh Văn Xu; loại “gia cư” (cư trú tạm trong nhà) gồm 2 người là Phan Hữu Lộng và Nguyễn Văn Tứ; loại “ngụ cư” 1 người là Trần Văn Cây (do Thuận Hóa lưu dân). Như vậy là có hiện tượng dân di cư từ Thuận Hóa vào. Đến đinh bạ Thái Đức 10 (1787), các trường hợp trên đều thuộc vào loại tráng hạng và thực nạp hoặc biệt nạp, ngoài ra còn có thêm một người nữa là Trần Văn Hóa được xếp vào loại “tráng hạng”. Sang đinh bạ Quang Trung 4 (1791) có thêm 1 người được xếp vào hạng “tân đáo” là Nguyễn Văn Giao. Từ đó cho đến đinh bạ Cảnh Thịnh 1 (1793) cũng vẫn những tên tuổi như vậy. Tất nhiên, suốt trong khoảng thời gian dưới niên hiệu Thái Đức và Quang Trung, ở châu này cũng có những trường hợp “đào hạng” (bỏ đi làng khác) và “thủy hồi” (tức quay trở về địa phương). Chẳng hạn ở đinh bạ Thái Đức 11 (1788) có 2 trường hợp "đào hạng"là Huỳnh Văn Lan và Nguyễn Văn Nếm. Đến năm Quang Trung 2 (1789) lại thêm 1 trường hợp “đào hạng” nữa là Trần Văn Hóa. Sang năm Quang Trung 3 (1790) có thêm một trường hợp “đào hạng” nữa là Huỳnh Văn Biện. Sang năm sau, Quang Trung 4 (1791), Huỳnh Văn Biện lại trở về làng (thủy hồi). Các bản đinh bạ trên cho thấy số dân trục hạng của châu này lúc cao nhất là 10 người (1787), lúc thấp nhất là 6 người (1784). Gấp 4 hoặc 5 lần số đó, để tính cả vợ con của họ, thì số dân của châu này ở thời điểm đó hãy còn rất ít. Tối đa không quá 100 người, kể cả nam, phụ, lão, ấu.

3. Theo quy định của chính quyền Tây Sơn, việc kê khai dân số để lập đinh bạ là nam xã dân từ 15 tuổi trở lên và 60 tuổi trở xuống. Theo bản đinh bạ Thái Đức 8 (1785) “vị cập” Huỳnh Văn Xu với “niên sinh Kỷ Sửu” (1769) “thập thất tuế” (tức 17 tuổi). Đến đinh bạ Thái Đức 10 (1787), ông này đã thuộc “tráng hạng”. Như vậy, “đinh tráng” được “trục hạng” dưới thời Tây Sơn là 18 (hoặc 19) tuổi. Cũng theo đinh bạ Thái Đức 8(1785), tráng hạ Lê Thế Điển có “niên sinh Mậu Thân” (1728), “ngũ thập bát tuế” (tức 58 tuổi) và tráng hạng Nguyễn Văn Nếm có “niên sinh Đinh Mùi” (1727), “ngũ thập cửu tuế” (tức 59 tuổi). Sang đinh bạ Thái Đức 10 (1787), ông Nguyễn Văn Nếm còn thuộc “tráng hạng” và sang năm sau (Thái Đức 11) ông Nếm đã bỏ làng đi nơi khác (bị xếp vào loại “đào hạng”). Còn ông Lê Thế Điển ở đinh bạ Thái Đức 10 (1787) đã chuyển sang loại “biệt nạp”. Từ đây cho đến năm Quang Trung 4 (1791), ông Lê Thế Điển đều thuộc hạng “biệt nạp” (biệt tính). Vậy là cho đến năm 64 tuổi (1791), ông Lê Thế Điển vẫn phải nộp thuế đinh theo loại “biệt nạp”. Đến đinh bạ Quang Trung 5 (1792) ông Lê Thế Điển được xếp vào loại “lão hạng” và cũng phải nộp thuế đinh theo loại biệt nạp”. Sang năm sau 1793, theo đinh bạ Cảnh Thịnh 1, ông Lê Thế Điển cũng phải nộp thuế đinh theo loại “biệt nạp” (Chỉ sang đinh bạ Cảnh Hưng 62 (?)(1801) và Gia Long 1 (1802) mới không thấy tên ông Lê Thế Điển cùng với khoản thuế “biệt nạp”). Và như vậy là “lão hạng” được tính từ 60 hay 65 tuổi ? Ông Lê Thế Điển đến năm 65 tuổi (tức năm 1792) mới được cước chú là “lão hạng” và ở “lão hạng”, ông cũng vẫn phải nộp thuế loại “biệt nạp” với số tiền 1 quan 1 mạch giống như là “tráng hạng”.

4. ở đinh bạ Thái Đức 7 (1784) chưa thấy tên các ông Phan Hữu Lộng, Nguyễn Văn Tứ và Trần Văn Cây. Đến đinh bạ Thái Đức 8 (1785) mới thấy tên 3 ông này; Ông Lộng và ông Nếm được ghi chú thuộc loại “gia cư”, ông Cây thuộc loại “ký ngụ” (do Thuận Hóa lưu dân). Cả 3 người đều chưa phải chịu thuế. Nhưng sang đinh bạ Thái Đức 10 (1787), ông Nguyễn Văn Tứ được xếp vào “tráng hạng”, ông Trần Văn Cây được xếp vào loại “biệt tính” (có lẽ do ở vào lão hạng) và cả hai người đều phải chịu thuế đinh. Riêng ông Phan Hữu Lộng không thấy ghi tên (có lẽ sau đó ông đi nơi khác). Không tìm thấy đinh bạ Thái Đức 9 (1786) của năm trước. Vậy là chỉ sau hai năm, loại “gia cư” và “ký ngụ” đều được trục hạng thành dân châu và chịu thuế. Như vậy phải chăng chỉ sau vài năm, dân ngụ cư đều trở thành dân chính cư ? Giải thích điều này, phải chăng do chủ trương của triều Tây Sơn hay do tình hình ruộng đất của vùng đất mới được khai phá chưa lâu, dân số không đến mức chật chội và sự phân biệt chính cư, ngụ cư không nghiêm ngặt ?

5. Về chế độ thuế đinh ở đây được phân chia làm hai loại chính: loại thực nạp (đối với tráng hạng), nộp cho cấp Bộ ở chính quyền Trung ương; và loại biệt nạp (hay biệt tính) đối với các hạng khác (như lão hạng, tật hạng...), nộp cho Câu kê, Cai lại, Cai hợp ở cấp hành chính địa phương (từ dinh trở xuống), trong đó có phần trích cho quan lại ăn lộc. Đối với mỗi trường hợp “thực nạp” đều phải nạp 2 khoản: một là tiền sai dư một quan và hai là tiền thập vật (hay suất tiền) 1 mạch (Sau này, đến đầu triều Nguyễn, theo đinh bạ Cảnh Hưng 62 (1801) và Gia Long 1 (1802) mỗi suất sai dư cũng là 1 quan cộng với suất tiền 1 mạch. Chỉ đến đời Minh Mạng (đinh bạ năm Quý Mùi - 1823) mới thấy sai dư tiền tăng lên 1 quan 2 mạch, cộng với suất tiền một mạch, thành 1 quan 3 mạch, tức cao hơn so với trước 2 mạch). Đối với mỗi trường hợp “biệt nạp” thường chỉ nộp sai dư tiền 1 quan. Nhưng cũng có khi (như vào các năm Quang Trung 4, Quang Trung 5, Cảnh Thịnh 1), loại biệt nạp cũng phải nộp “thập vật suất tiền” 1 mạch. Có trường hợp đinh bạ ghi cụ thể là “lão hạng” như ông Trần Văn Cây (đinh bạ Quang Trung 5 và Cảnh Thịnh 1), nhưng cũng cước chú số tiền sai dư phải nộp là 1 quan cộng với suất tiền thập vật là 1 mạch, giống như “tráng hạng” và “lão hạng” chỉ khác nhau ở nghĩa vụ lao dịch và binh dịch, còn thuế đinh thì vẫn như nhau ? Có trường hợp là “tật hạng”. Vậy phải chăng giữa "tráng hạng" như ông Nguyễn Văn Thu, đinh bạ Thái Đức 7 (1784) và 8 (1785) đều ghi “do bị tật tả thủ chỉ giai khuất, hữu thủ trung chỉ thất nhất tiết” (ngón tay trái trỏ bị cụt hoàn toàn và ngón tay phải giữa bị mất một đốt), nhưng trong các năm Thái Đức 7 và 8, ông này vẫn xếp vài loại “tráng hạng”, nộp thuế theo chế độ “thực nạp”. Chỉ từ năm Thái Đức 10 (1787) trở đi cho đến Cảnh Thịnh 1 (1793) ông này mới được xếp vào loại “biệt tính” và nộp theo chế độ “biệt nạp”, sai dư tiền 1 quan. Và cũng giống như các trường hợp “biệt nạp” khác, từ năm Quang Trung 3 (1790) trở đi ông này cũng phải nộp thêm suất tiền thập vật 1 mạch, nghĩa là mức nộp hoàn toàn giống như là “tráng hạng”.

Về việc giảm thuế đinh, chỉ đến năm Quang Trung 3 (1790) và Quang Trung 4 (1791), đinh bạ cho thấy có “chiếu chinh thập phân chi nhị”, tức là giảm 2 phần 10 số thuế sai dư cho các hạng. Như vậy là trong các năm này cùng với việc thu tiền thập vật đối với loại “biệt nạp”, chính quyền Quang Trung đã có việc giảm 2/10 thuế sai dư chung cho các hạng. Nhưng đến năm Quang Trung 5 (1792) thì không thấy có sự giảm 2/10 thuế sai dư nữa. Sang năm sau, Cảnh Thịnh 1 (1793), mới trở lại chế độ giảm thuế và giảm đến một nửa số tiền sai dư (chinh tư niên thập phân chi nhị bán). Bởi vậy năm này toàn châu chỉ có 8 người thuộc các hạng. Trừ 1 suất “ngoại tiêu sai” là “xã chính châu sắc” không phải nộp, còn lại 7 người phải nộp thuế đinh, thành ra tổng “sai dư tiền thất quan” (7 quan), nhưng “phụng chiếu chinh tư niên thập phân chi nhị bán, tiền sai dư tam quan ngũ mạch”, do đó “chỉ tồn sai dư tiền tam quan ngũ mạch” (tức là chỉ phải nộp 3 quan 5 mạch).

6. Về loại “biệt tính” (biệt nạp) thường là phần trích riêng nộp cho bộ máy quan lại địa phương (ở cấp dinh). Chẳng hạn theo đinh bạ Thái Đức 10 (1787) toàn châu có 10 người, trong đó “tráng hạng” là 5 người, còn “biệt tính” là 5 người được ghi rõ là “Quảng Hóa Cẩm niên đội Câu kê Thành Tính bá phân thu ngũ nhân”. Đinh bạ Thái Đức 11 (1788) lập vào tháng 2 cho biết tổng các hạng nhân số 8 người, trong đó “nội chấp bằng bộ nhị nhân” và “nội chấp bằng bộ biệt tính lục nhân” và cũng do “Quảng Hóa Cẩm niên đội Câu kê Thành Tính bái phân thu”. Nhưng sang đinh bạ Thái Đức 11 (1788) lập vào tháng 6, đối với 6 trường hợp “biệt nạp nhập nội” lại được ghi là “Phụng sai Đốc suất Thôi Hợp hầu phân thu hổ phần chi Quảng Hóa trại lục nhân”. ở đinh bạ Quang Trung 2 (1789) cũng ghi như vậy. Đến đinh bạ Quang Trung 3 (1790) và Quang Trung 4 (1791) lập vào tháng 7 đổi ghi là “Thị nội Cai bạ Sĩ Tiến hầu phân suất bả canh Quảng Hóa trại”. ở đinh bạ Quang Trung 4 (1791) lập vào tháng 10 và Quang Trung 5 (1792) , đối với các trường hợp “biệt tính” được ghi là “Thị nội Công bộ Hữu Thị lang Sĩ tín hầu suất bả canh Quảng Hóa trại”. Đặc biệt ở đinh bạ Quang Trung 4 (1791) lập tháng 7 có một trường hợp “thủy hồi” (mới trở về lại làng) là ông Huỳnh Văn Biện được ghi là nộp cho “Thị nội Công bộ Sĩ Đức hầu suất bả canh Quảng Hóa trại hữu nhị nguyệt kỳ”. Và đối với trường hợp ông Nguyễn Văn Giao, là người mới đến nhập bạ châu vào tháng 7 năm Quang Trung 4 (1791) thuộc diện “tân đáo”. Đến đinh bạ Quang Trung 4 (1791) lập vào tháng 10, ông Nguyễn Văn Giao được xếp vào “tráng hạng” và nộp thuế theo loại “thực nạp”. Sang đến đinh bạ Quang Trung 5 (1792), phần thuế của ông Nguyễn Văn Giao được ghi là “Thị nội Đô chỉ huy sứ Nghi Vương hầu phân thu bạch bố trại”. Vậy, đối với những trường hợp “biệt nạp” phải chăng nên hiểu là phần “ăn lộc” của các quan lại do nhà vua ban cho và thu ở dân địa phương ?

7. Đối với viên chức đứng đầu xã (châu), các đinh bạ Thái Đức 7 (1784) và 8 (1785) đều ghi là “Tiện nghi xã”. Đến đinh bạ Thái Đức 10 (1787) ghi là “Tri thâu Tiện nghi xã”. Đến đinh bạ Thái Đức 11 (1788) ghi là “Tiện nghi Cai xã”. Đến đinh bạ Quang Trung 3 (1790), Quang Trung 4 (1791), Quang Trung 5 (1792) và Cảnh Thịnh 1 (1793) đều ghi là “Xã chính”, kèm theo hai chữ “châu sắc”. Như vậy là từ năm 1790, dưới thời Quang Trung, tên gọi chính thức của viên chức đứng đầu cấp xã là “Xã chính” và được nhà vua cấp sắc có đóng dấu đỏ để thi hành công việc. Trước đây (trước năm 1790), viên chức Cai xã cùng xếp vào loại “tráng hạng”, phải nộp thuế sai dư và tiền thập vật như những người khác. Nhưng kể từ năm 1790 trở đi, cùng với việc đổi tên là “Xã chính”, viên chức này được miễn sai dư thập vật và được xếp hạng “ngoại tiêu sai” của làng xã. Tình hình đó được tiếp tục sang cả thời Cảnh Thịnh. Như vậy, qua tư liệu đinh bạ, ta được biết thêm một nội dung cụ thể trong công tác cải cách và hoàn thiện bộ máy quản lý cấp xã của vua Quang Trung. Nhờ đó, nó đã giúp cho chính quyền Trung ương thời Tây Sơn quản lý được một cách chặt chẽ cấp hành chính cơ sở làng xã.

Tóm lại, chỉ qua 11 bản đinh bạ thời Tây Sơn ở châu Quảng Hóa Đại, thuộc Phú Châu, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam ta cũng có thể biết được nhiều điều về chính sách quản lý dân cư, quản lý xã hội, quản lý địa phương, chế độ thuế đinh, vấn đề cải cách hành chính cấp cơ sở của chính quyền Tây Sơn, nhất là dưới triều đại Quang Trung.

H.C.B

TB

THÊM MỘT TẤM BIA THỜI MẠC

NGUYỄN THỊ DƯƠNG

Văn bia được tạo dựng vào thời Mạc (1527 - 1593) hiện nay còn lại không nhiều. Trong cuốn Văn bia thời Mạc(1), Tiến sĩ Đinh Khắc Thuân cho biết tổng số văn bia đã được phát hiện là 155 đơn vị. Tác giả chỉ tuyển chọn giới thiệu được 147 bài, còn lại một phần do nét chữ trên bia quá mờ, không nhận ra đường nét hoặc chưa có điều kiện thu thập nên chưa có mặt trong cuốn sách này. Tác giả cũng kỳ vọng có dịp sẽ tiếp tục tìm kiếm và phát hiện thêm bia mới.

Vừa qua, trong dịp đi công tác tại tỉnh Hà Tây, chúng tôi đã phát hiện thêm một tấm bia có niên đại đời Mạc, mà chưa thấy nhắc đến trong cuốn sách nói trên. Thiết nghĩ, đây sẽ là một đóng góp nhỏ vào mảng Văn bia thời Mạc, nới rộng và cung cấp thêm tài liệu cho việc nghiên cứu. Điều ý nghĩa hơn nữa là tấm bia này lại có mặt ở ngay quê hương của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, vị khai quốc công thần bậc nhất của triều Lê Trung hưng, người có công lớn trong việc “phò Lê diệt Mạc”. Thế mà chính ngay ở quê hương vị khai quốc công thần ấy, một tấm bia ca ngợi đời Mạc thịnh trị vẫn ngang nhiên tồn tại, qua nhiều thế kỷ. Vậy nên, giới thiệu bổ sung tấm bia thời Mạc này là việc làm cần thiết.

Tấm bia hiện được lưu giữ tại chùa Kim Liên, thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Từ Hà Nội, đi theo đường quốc lộ Láng - Hòa Lạc, đến cây số 15 rẽ phải, theo hướng đi chùa Tây Phương khoảng 2 km, sẽ tới chùa Kim Liên. Nhân dân nơi đây đã quan tâm, đưa bia về dựng trong nhà bia trước cửa chùa. Bia vừa phải, kích cỡ 80cm x 58cm. Trán bia có hình rồng chầu mặt trời. Diềm bia trang trí hoa văn dây leo. Bia có hai mặt. Mặt trước là bài ký nói về việc tu tạo chùa Kim Liên. Mặt sau ghi tên khách thập phương đã công đức. Đáng tiếc mặt sau bia chữ mờ gần hết. Mặt chính của bia được viết bằng chữ Hán, gồm 21 dòng, mỗi dòng khoảng 20 chữ. Nét chữ trên bia khá rõ, có thể đọc được gần hết. Bia dựng ngày 24 tháng 2 năm Kỷ Mão niên hiệu Diên Thành 2 (1579). Còn trong bia, có nhắc đến niên hiệu Diên Thành sơ niên (năm đầu niên hiệu Diên Thành). Tác giả văn bia là Hiệu sinh Nguyễn Vĩnh Bảo. Văn bia này cũng mang những đặc điểm chung của văn bia thời Mạc, đó là những năm đầu các niên hiệu vua không viết “nguyên niên” mà viết “sơ niên” (tránh tên húy Mạc Phúc Nguyên)(2). Nội dung văn bia giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và quá trình tu tạo ngôi chùa Kim Liên ở Phùng Xá, Thạch Thất, đồng thời cũng cung cấp thêm nhiều tư liệu lịch sử có giá trị khác, chẳng hạn như nói đến một vị công thần triều Mạc, người có chức vị bậc cao nhất trong hàng tướng lĩnh, đó là Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Hương Sơn bá Nguyễn Bá Lân. Dưới đây, chúng tôi xin dịch nghĩa toàn văn để bạn đọc tham khảo.

Bài văn bia nói về việc tu tạo chùa Kim Liên.

Thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai từ xưa vốn có ngôi chùa cổ Kim Liên. Hàng năm, dân làng thường đến đây đốt hương tế lễ, cầu chúc thánh thọ vô cương, toàn thôn khang thái, đều rất linh ứng. Gần đây, trải qua nhiều cơn binh lửa, mấy độ đổi thay, cột kèo đổ nát. Đến ngày 14 tháng 12 năm Bính Tý niên hiệu Sùng Khang 9 (1576) hai giới các cụ trong tám giáp ở bản thôn, từ Nguyễn Đình Chấn trở xuống, cả thảy 32 người cùng phát thiện tâm, gây dựng nền nhân, lấy tiền của riêng nhà mình để xây dựng một gian hai chái chùa Kim Liên. Công việc thật là hoàn hảo. Đến ngày 25 tháng Giêng năm Mậu Dần niên hiệu Diên Thành 1 (1578), Hội phúc thiện(3), từ Nguyễn Đình Chấn đến Nguyễn Bá Lân gồm 18 người, đã mở rộng lòng bồ đề, tô được 4 pho tượng Phật. Nguyễn Cảnh Tinh tô một pho tượng gỗ. Tượng Phật tô tạo đã xong, đến ngày 18 tháng Giêng năm Kỷ Mão (1579) bèn mời Pháp sư về bản chùa làm lễ hô thần nhập tượng, khai quang điểm nhãn. Công đức viên mãn, bèn lập bia ghi lại sự việc, truyền cho muôn đời cốt để biểu dương công đức của người đương thời và để cho người đời sau chiêm ngưỡng.

Các tín chủ, tín thí, cùng ruộng đất dưỡng tăng xin liệt kê cả ra dưới đây:

Người có công đức dựng chùa tạo tượng gồm 18 vị là: 1. Tiền xã trưởng Nguyễn Đình Chấn; 2. Hỗ bôn vệ chính khống lãnh Hoàng Văn Hiển; 3. Tạ Hữu Tâm; 4. Hiệu sinh Nguyễn Vĩnh Bảo; 5. Trung úy Đỗ Như Hối; 6. Tiền xã trưởng xã Ngô Sài(4) Nguyễn Quỳnh Khôi; 7. Trung úy Nguyễn Ngọc Bút; 8. Quan viên tử Nguyễn Bá Câu; 9. Quan viên tôn Nguyễn Thuấn Du; 10. Quan viên tôn Lê Bao; 11. Trung úy Lê Doãn Tăng; 12. Nguyễn Phiếu; 13. Quan viên tử Chúc Văn An; 14. Tạ Nhân; 15. Quan viên tôn Nguyễn Văn Khôi; 16. Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Hương Sơn bá Nguyễn Bá Lân; 17. Vợ của Ty phó Ty Thái giám Ngự chu Nguyễn Thị Ngọc Trúc; 18. Đặng Thị Cầu.

Nguyễn Cảnh Tinh; Trung úy Nguyễn Văn Tuấn, tự Huyền Hưng; Nguyễn Đăng Quang.

Hiệu sinh Nguyễn Vĩnh Bảo soạn.

Binh bộ Đô lại Cấn Chỉ Trung viết chữ.

Ngày 24 tháng 2 năm Diên Thành 2 (1579).

Thợ khắc họ Phạm người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn khắc.

CHÚ THÍCH

(1) Văn bia thời Mạc, Đinh Khắc Thuân, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1996.

(2) Xem Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997; và Văn bia thời Mạc, sđd.

(3) Hội phúc thiện: hội của những người tín tâm tại gia, chuyên làm việc thiện, thường tụ họp quy theo một ngôi chùa nào đó, giống như các Hội Phật tử ngày nay, chẳng hạn Hội Phật tử chùa Quán Sứ, Hội Phật tử chùa Chân Tiên v.v...

(4) Ngô Sài: tên làng ở gần Phùng Xá, nay thuộc xã Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

TB

BÀI THƠ CHỮ HÁN CỦA NHẬT NAM NGUYÊN CHỦ Ở ĐỘNG HỒ CÔNG

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

Trong bài viết: Phát hiện tác giả mấy bút tích chữ Hán ở một số hang động Thanh Hóa, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 4 năm 1999, chúng tôi có đề cập đến bài thơ của "Nhật Nam nguyên chủ", tức là chúa Trịnh Sâm (1737 - 1782), đề ở động Hồ Công, thuộc xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Như bài viết trên đã trình bày, nhờ phần đề từ của bài thơ này mà chúng tôi phát hiện được 4 chữ "Thanh kì khả ái" và 2 chữ "Ngọc Hồ" khắc trên đá nơi động Hồ Công, là bút tích của chúa Trịnh Sâm, chứ không phải của chúa Trịnh Tùng, hoặc của vua Lê Thánh Tông, như bấy lâu vẫn nhầm lẫn ! Nhưng còn nội dung bài thơ, thì do máy bay thực dân Pháp ném bom, làm hỏng mất 16 chữ, nên đến nay không còn đọc được hết.

Vừa qua, may mắn trong một chuyến đi thực địa, khảo sát các văn bia, chúng tôi sưu tầm được cuốn Thanh Hóa kỉ thắng bằng chữ Hán của Hoàng Mậu và Lê Bá Đằng(1), chép năm Thành Thái 9 (1897). Trong sách này thấy ghi trọn vẹn bài thơ nói trên của chúa Trịnh Sâm.

Sau khi đối chiếu với những chữ còn lại của bút tích khắc trên đá, chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bài thơ, một tư liệu văn học viết bằng chữ Hán chưa thấy công bố, đồng thời cũng mong góp phần nào bổ sung vào những hiểu biết về động Hồ Công, một thắng cảnh nổi tiếng, còn để lại khá nhiều bút tích của danh nho nước ta.

Nguyên văn bài thơ bằng chữ Hán như sau:

層 層 岩 径 转 盤 紆
高 处 玉 一 壶
石 化 旧 蟾 珠 影
丹 餘 真 像 雪 顏
雲 踪 飘 忽 行 仙 锡
日 屈(2) 安 排 大 造 炉
福 地 古 來 多 胜 跡
何 芳 点 缀 辋 川 图
日 南 元 主 題
庚 寅 小 春 臣 高 縛 奉 寫

Phiên âm:

Tằng tằng nham kính chuyển bàn vu,
Cao xứ hàm nha ngọc nhất hồ.
Thạch hóa cựu thiềm châu ảnh tán,
Đan dư chân tượng tuyết nhan cù.
Vân tông phiêu hốt hành tiên tích,
Nhật khuất an bài đại tạo lô.
Phúc địa cổ lai đa thắng tích,
Hà lao điểm xuyết võng xuyên đồ.
Nhật Nam nguyên chủ đề
Canh Dần - Tiểu xuân - Thần Cao Phược phụng tả.

Dịch nghĩa:

Tầng tầng lối đá tắt quanh co,
Trên cao mở thoáng ra một bầu ngọc.
Đá hóa thành hình con cóc già rực lên như ngọc,
Mầu son nơi bức tượng tuyết loang gầy gò.
Dấu mây bồng bềnh như vết chân tiên bước,
Mặt trời xuyên vào hang hiện ra như một lò lửa lớn.
Đất phúc từ xưa đến nay vẫn là nơi nhiều danh lam thắng cảnh,
Cần gì phải nhọc công tô vẽ thêm bức tranh suối "Võng Xuyên".
Nhật Nam nguyên chủ sáng tác.
Năm Canh Dần-tháng 10 (11/1770). Thần Cao Phược vâng viết(3)
(Hồng Phi phiên âm và dịch)

Dịch thơ:

Trập trùng lối đá lượn quanh co,
Đỉnh núi cao nhô một Ngọc Hồ(4).
Đá hóa cóc già châu tỏa sáng(5),
Son phai tượng cũ tuyết loang mờ.
Bóng mây chấp chới hình tiên bước,
Hang nắng lung linh dáng hỏa lò.
Đất phúc xưa nay nhiều thắng tích,
Nhọc chi tô điểm "Võng Xuyên đồ"(6)
(Hồng Phi - Hương Nao tạm dịch).

CHÚ THÍCH

(1). Hoàng Mậu người làng Đông Biện, nay là xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Cử nhân khoa Giáp Thân, niên hiệu Kiến Phúc (1884). Lê Bá Đằng người làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, đỗ Cử Nhân khoa thi năm Đinh Dậu, triều Thành Thái (1897). Cuốn Thanh Hóa kỷ thắng do chúng tôi sưu tầm được ở nhà cụ Lê Doãn Phê, lương y huyện Đông Sơn, Thanh Hóa.

(2) 2 bản Thanh Hóa kỷ thắng ở Viện Hán Nôm là VHv.1243 (in) và VHv.1372/b (chép tay) đều ghi chữ này là 窟 (BT).

(3) Thời điểm sáng tác, xem chú thích ở Tạp chí Hán Nôm số 4 năm 1999, tr.78. "Cao Phược" là bút danh của ai hiện chưa tra cứu được.

(4) Ngọc Hồ: chỉ động Hồ Công, tên do chúa Trịnh Sâm đặt và khắc trong động, nay vẫn còn.

(5) Trước động Hồ Công ngày xưa có hòn đá hình con cóc (Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn - Tập 2 - Nxb. Thuận Hóa - Huế 1992, tr.257).

(6) Võng Xuyên đồ: chỉ bức tranh vẽ phong cảnh con suối Võng Xuyên, (còn gọi là sông Võng Cốc) ở Chung Nam, Thiểm Tây, Trung Quốc, nơi nhà thơ Vương Duy đời Đường ở ẩn.

TB

LỄ KỶ NIỆM 30 NĂM THÀNH LẬP VÀ ĐÓN NHẬN HUÂN CHƯƠNG LAO ĐỘNG HẠNG BA CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

Sáng ngày 24 tháng 4 năm 2000, tại Hội trường Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội đã diễn ra buổi Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba của Viện. Tới dự có GS.VS Nguyễn Duy Quí - ủy viên Ban chấp hành T.Ư Đảng, Giám đốc Trung tâm KHXH & NVQG; PGS.TS Đỗ Hoài Nam - ủy viên Ban chấp hành T.Ư Đảng, Phó Giám đốc Trung tâm KHXH & NVQG; GS. Lê Hữu Tầng - Phó giám đốc Trung tâm KHXH & NVQG; Ông đại diện Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội, các đại biểu tới từ các đơn vị: Vụ Sau đại học - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công nghệ Môi trường, Cục xuất bản - Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ môn Hán Nôm - Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội; Bộ môn Hán Nôm - Trường Đại học KHXH & NV, Trung tâm lưu trữ quốc gia I, các sở Văn hóa thuộc các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Công ty Mitsubishi Nhật Bản... cùng đông đảo các cộng tác viên của Ban Hán Nôm trước đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay và toàn thể cán bộ của Viện.

Mở đầu lễ kỉ niệm là bài phát biểu của đồng chí Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm - TS. Trịnh Khắc Mạnh.

Bài phát biểu đã điểm lại quá trình hình thành và phát triển của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, những thành tựu về các mặt nghiên cứu, điều tra sưu tầm, bảo quản tư liệu, đào tạo cán bộ, hợp tác nghiên cứu, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu v.v. của Viện trong 30 năm qua, đồng thời tổng kết những điểm cần rút kinh nghiệm trong thời gian qua và phương hướng phát triển Viện từ nay tới năm 2010, bao gồm các mặt như lưu giữ, quản lý tư liệu Hán Nôm bằng phương tiện mang tin điện tử và hiện đại hóa quy trình phục vụ, lưu trữ, nghiên cứu khai thác thông tin; điều tra sưu tầm và quản lý tư liệu Hán Nôm còn rải rác ở các địa phương; nghiên cứu khai thác các tư liệu Hán Nôm có giá trị; kế hoạch hoạt động của Tạp chí Hán Nôm; tổ chức hội thảo khoa học; đưa chữ Nôm vào bảng mã chuẩn quốc tế; đào tạo đội ngũ cán bộ; quan hệ hợp tác và cơ sở vật chất.

Tiếp theo là bài phát biểu của GS. Nguyễn Duy Quí. Bài phát biểu đã khẳng định vai trò của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đối với sư nghiệp văn hóa của đất nước, đồng thời ghi nhận những thành tựu mà Viện đã đạt được trong 30 năm qua.

Cuối cùng, trong không khí phấn khởi chung, nhiều đại biểu đã bày tỏ tình cảm cùng lời chúc tốt đẹp nhất tới Viện và hy vọng rằng, những năm tới, Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ tiếp tục phát triển hơn, cùng xu thế phát triển chung của đất nước.

PV.

TB

LỄ KỶ NIỆM 500 NĂM NGÀY MẤT CỦA
DANH NHÂN THÂN NHÂN TRUNG

Ngày 21-12-1999, tại Trung tâm Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra buổi Lễ kỷ niệm 500 năm ngày mất của danh nhân chính trị - văn hóa Thân Nhân Trung, do Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử - văn hóa Việt Nam và Bảo tàng Tỉnh Bắc Giang phối hợp tổ chức.

Tới dự buổi lễ kỷ niệm có Giám đốc Trung tâm VM-QTG, Giám đốc Sở VH-TT Bắc Giang, Tổng thư ký Hội KHLS Việt Nam, cùng đông đảo các nhà khoa học thuộc Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và những người quan tâm thuộc các đơn vị khác.

Sau lời khai mạc và lễ dâng hương là phần hội thảo. Các bài tham luận đều có chung một nhận định: danh nhân Thân Nhân Trung là một Nho sĩ chân chính, có tư tưởng lấy con người làm gốc, nhiệt tình với công cuộc giáo dục, đào tạo nhân tài, coi trọng việc kết hợp học với hành. Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của ông về vai trò của người trí thức sẽ mãi mãi là bài học quí giá đối với đời sau.

PV.

TB

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ VỀ GIA PHẢ VÀ CÁC NGUỒN TƯ LIỆU VỀ GIA PHẢ
TỔ CHỨC TẠI THƯ VIỆN THƯỢNG HẢI,
TRUNG QUỐC

Hội thảo khoa học quốc tế về gia phả và các nguồn tư liệu về gia phả (The 2000 International Conference on Genealogies and Genealogical Resources) vừa tổ chức tại Thư viện Thượng Hải từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 5 năm 2000.

Tham dự hội thảo có 98 nhà khoa học, chuyên gia về gia phả học, Thông tin tư liệu thư viện và Tin học, đến từ 15 tỉnh, thành phố khác nhau ở Trung Hoa lục địa, cùng 26 khách nước ngoài đến từ nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Việt Nam. Các tham luận chủ yếu bàn về những vấn đề sau đây:

Tình hình và triển vọng của việc nghiên cứu gia phả.

Tiến trình và sự phát triển của gia phả.

Cách thức biên soạn gia phả.

Giá trị của gia phả đối với các nguồn tư liệu lịch sử khác.

Việc sử dụng và khai thác các nguồn tư liệu về gia phả.

Vấn đề số hóa tư liệu gia phả.

Vấn đề sưu tầm, sắp xếp và biên mục gia phả.

Gia phả và khoa học xã hội.

Nghiên cứu và so sánh gia phả Trung Quốc và nước ngoài.

Đoàn Việt Nam đến hội thảo này với hai tham luận: tham luận của Thạc sĩ Chu Tuyết Lan (Phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện) giới thiệu khái quát về gia phả Việt Nam và việc sử dụng, khai thác các nguồn tư liệu gia phả ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng như ở Việt Nam; tham luận của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Oanh (Phòng nghiên cứu Văn hiến dân tộc và khu vực) giới thiệu tình hình và nhu cầu nghiên cứu nguồn gia phả hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Không giống với các hội thảo khác, hội thảo này không nặng về trình bày mà tập trung vào thảo luận các vấn đề lớn như việc sưu tầm gia phả, việc nghiên cứu, biên soạn gia phả, việc ứng dụng khoa học công nghệ để bạn đọc từ khắp mọi nơi trên thế giới có thể truy cập vào nguồn tư liệu lịch sử đồ sộ và vô giá này.

Hiện nay Thư viện Thượng Hải đã có một website (WWW.Xungen.com) có số biểu ghi của 12.000 gia đình, với 90.000 tập gia phả từ thế kỷ 14 trở lại đây.

CTL.

TB

MỘT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC DO CÁN BỘ VIỆN HÁN NÔM VỪA BẢO VỆ THÀNH CÔNG
TẠI PHÁP

Tiến sĩ Ngữ văn Đinh Khắc Thuân, cán bộ nghiên cứu Viện Hán Nôm được cử đi làm nghiên cứu sinh tại Trường Cao học Khoa học xã hội Pháp, từ tháng 11 năm 1997, đã hoàn thành luận án Tiến sĩ Sử học với đề tài “Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc (1527 - 1592) ở Việt Nam”, dưới sự hướng dẫn của GS Claudine Salmon, thuộc Trung tâm Khoa học xã hội Pháp. Luận án đã được bảo vệ thành công ngày 22 tháng 3 năm 2000, với kết quả xuất sắc (mention très raisonnable). Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm 6 chương:

Chương 1: Từ những nhận định có tính đạo đức đến một khái quát về lịch sử chính trị.

Chương 2: Tổ chức chính quyền trung ương.

Chương 3: Tổ chức chính quyền địa phương.

Chương 4: Những hoạt động kinh tế.

Chương 5: Nơi thờ cúng và Tam giáo.

Chương 6: Ngôi đình, trung tâm làng xã.

Nguồn tư liệu chính được sử dụng cho luận án bao gồm 218 minh văn thời Mạc (trong đó văn bia 165, chuông 1, khắc trên bệ tượng 6 và khắc trên đồ gốm 46). Ngoài ra là tư liệu thư tịch Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XVI liên quan đến nhà Mạc, đặc biệt một số thư tịch Trung Quốc được biên soạn dưới thời Minh vào thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII lần đầu tiên được biết đến như Hoàng Minh chiếu lệnh (Các lệnh chỉ của nhà Minh), An Nam lai quy đồ sách (Ghi về việc quy phụ của An Nam), An Nam đồ thuyết (Bàn về An Nam), An Nam đồ chí (Địa chí An Nam). Trong số tư liệu trên, có một bản đồ Việt Nam dưới thời Mạc An Nam đồ với các địa danh từ đạo đến phủ, huyện thuộc 13 đạo thừa tuyên và một Trung đô phủ, cùng các cửa biển của nước ta thế kỷ XVI như Bạch Đằng hải khẩu, An Dương hải khẩu, Đồ Sơn hải khẩu, Đa Ngư hải khẩu, Thái Bình hải khẩu, Vọng Doanh hải khẩu, Bắc Bình hải khẩu, Thần Phù hải khẩu, Linh Tràng hải khẩu, Tiểu Trường Sa hải khẩu và Đại Trường Sa hải khẩu.

P.V

TB

BÀN VỀ CÁC BẢN IN
SÁCH TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

KAWAMOTO KUNIYÉ

Lời dẫn

Bài này viết để kính tặng GS. Léon vandermeersh. Vào tháng chạp năm 1992, để kỷ niệm lần thứ 90 ngày thành lập trường Viễn đông bác cổ Pháp tại Hà Nội, một cuộc hội thảo kéo dài trong nhiều ngày với chủ đề "90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam" đã được tổ chức ngay trên địa điểm cũ của nhà trường. GS. vandermeersh lúc bấy giờ đang làm Giám đốc trường Viễn đông bác cổ Pháp tại Paris, đã đề nghị tôi nhân dịp này có thể thông báo một cách ngắn gọn những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn lục (TKML). Thế là, theo sự gợi ý của GS. tôi đã lấy tập truyện kể Việt Nam viết bằng văn xuôi chữ Hán vừa nêu làm đề tài tham luận, đặt tên là "Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn lục". Bản tóm lược bài thuyết trình của tôi về sau được in trong tập kỷ yếu mang tiêu đề cuộc hội thảo do Nxb. Khoa học xã hội ấn hành(1). Tuy nhiên, có một số điểm quan trọng trong bài thuyết trình của tôi qua nhiều năm thấy cần được đính chính, nên tôi đã đem bài thuyết trình ra sửa chữa và dịch sang tiếng Pháp, vốn là ngôn ngữ chung (lingua franca) của Hội thảo, mong được các nhà chuyên môn Pháp và Việt Nam phủ chính cho.

Từ mấu chốt (Key words): Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ, Văn học Việt Nam.

*
**

I. Dưới đây, xin nói về các điểm cần đính chính và cách nhìn bổ sung của tôi đối với các bản in TKML có giám định văn bản (éditions critiques) mà tôi đã công bố qua bài thông báo của tôi ngày trước. Được biên soạn vào thế kỷ XVI, TKML của Nguyễn Dữ là một cải biên (adaptation) củaJian - deng Xin - hua*(2) (剪 燈 新 話) của tác giả Trung Quốc Qu you* (瞿 佑), hoặc một mô phỏng (imitation) của tập truyện này. Cũng tương tự như cách trình bày của tác phẩm Trung Quốc, TKML gồm có 4 quyển với 20 truyện tản mạn (contes fantaisistes), tính đến nay đã có 5 bản in và nhiều bản chép tay. Tình hình các bản in cụ thể như sau:

(a) Bản TKML in có giám định văn bản năm 1712 (Vĩnh Thịnh 8), trong đó có phần hội chú và phần giám định văn bản của Loại Am đối với các lần in trước.

(b) Bản TKML in mới, do Nhà xuất bản Kế Thiện Đường thực hiện vào năm 1714 (Vĩnh Thịnh 10), được bổ sung phần dịch ra tiếng Việt in bằng chữ Nôm (Giải âm 解 音) trình bày dưới dạng cước chú, bên cạnh các chú thích đã có trong các lần in trước.

(c) Bản TKML in mới, nội dung cũng như bản (b), do Nhà xuất bản Cự Linh thực hiện vào năm 1737 (Vĩnh Hựu 3).

(d) Bản TKML in mới, thực hiện vào năm 1763 (Cảnh Hưng 24) trên cơ sở các bản thuộc quyền sở hữu của gia đình Nguyễn Bích, nội dung cũng như bản (b).

(e) Bản TKML in mới, thực hiện vào năm 1774 (Cảnh Hưng 35), in lại theo bản của gia đình Nguyễn Đình Lân, xã trưởng làng Liễu Chàng, nội dung cũng như bản (b).

Bản in thứ nhất (a) đã ra đời và từng được xem như một bản in bằng hoạt tự (caractères mobiles en bois = những con chữ rời bằng gỗ), nguyên là sách thuộc quyền sở hữu của Ô. NAGATA Yasukichi 永 田 安 吉; nay được đưa về lưu giữ tại Đông Dương văn khố (Tôyô Bunko). Bản in thứ hai (b) và bản in thứ ba (c) hiện đều không còn Q1 và Q2. Riêng bản in thứ hai (b) thuộc quyền sở hữu của GS. YAMAMOTO Tatsuro 山 本 達 郎 là một bản thuộc loại hiếm và được bảo quản rất tốt, gồm những trang với các dòng chữ ngay ngắn, đáng được đánh giá cao. Bản in thứ ba (c) nguyên thuộc quyền sở hữu của GS. Henri MASPéro nay được đưa về tàng trữ tại Hiệp hội châu á Paris. Hai bản in cuối cùng (d) và (e) thì bản (d) là của GS. MATSUMOTO Nobuhiro 松 本 信 廣 vàbản (e) là của GS.émile GASPARDONE, cả hai bản này hiện được lưu giữ ở Thư viện Đại học Keio (Khánh ứng, Tokyo, Nhật Bản - ND). Phần đầu Q1 của cả hai bản in vừa nêu rõ ràng là đều bị mất. Có điều, những trang mất này nay đã được chép bổ sung, dựa vào một bản in có niên đại 1763 khác. Vấn đề ở đây là từ hai bản in đã tàn khuyết (d) và (e) đúc lại thành một bản duy nhất, như thế ta sẽ có được bản in 1763 (d) hoàn chỉnh. Tuy nhiên, theo sự khảo sát của chúng tôi thì bản in thứ năm (e) hiện lưu trữ tại Viện Sử học Hà Nội mà tôi đã có dịp đọc vào năm 1985, là bản in đầy đủ.

Trong bài thuyết trình trước đây, tôi xếp bản in năm 1712 (a) vào loại in bằng hoạt tự, theo như chỉ dẫn của Đông Dương văn khố An nam bản mục lục (Répertoire des livres annamites). Trong khi đó thì các bản in năm 1763 (d) và 1774 (e) lại được xếp vào loại in mộc bản, với trường hợp bản in 1714 (b) cũng vậy. Nhưng, với sự khảo sát tiếp theo đây dưới nhiều góc độ về bản in 1712 (a) và sự so sánh giữa các bản chép tay của những bản in 1737 (c), 1763 (d) và 1774 (e) với nhau, cùng những trang in và điều kiện chế tác của các bản (a), (d) và (e), tôi đã đi tới chỗ thấy cần xem xét lại cách nhìn trước đây của mình.

II. Những vấn đề liên quan tới bản Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam in bằng hoạt tự.

Do trong tiêu đề bài tựa có chữ "Cựu biên TKML" 舊編傳奇漫錄 nên bản in năm Vĩnh Thịnh 8 (a) thường được gọi là "Cựu biên" để đối sánh với bản (b) và 2 bản "Tân biên TKML" 新 編傳奇漫錄 khác. Nhưng tôi không nghĩ rằng các chữ Hán "Cựu" (cũ) và "Tân" (mới) ở đây được sử dụng theo ý nghĩa liên quan (đối sánh - ND). Bình luận về chữ "Cựu biên" này, Zhang xiu min* 張 秀 民 nhà thư mục học Trung Quốc căn cứ vào Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục(3) đã viết, vấn đề là trong số các bản in, có một bản tương đối cổ in bằng hoạt tự được biết tới ở Việt Nam(4). Tuy nhiên, GS. YAMAMOTO Tatsuro sau khi xem xét kỹ tác phẩm này, đã tỏ ra ít nhiều nghi ngờ về tính thuyết phục của một khẳng định như vậy.

Dựa vào một số đặc trưng dễ nhận thấy như trên nhiều trang sách xuất hiện những dòng chữ in không ngay ngắn, và đường vạch ranh giới cho các dòng có chỗ hơi cong, Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục đã xếp bản này vào loại in hoạt tự. Nhưng theo GS. YAMAMOTO, nếu quan sát kỹ một số mặt nào đó thể hiện trên văn bản, ta cũng có thể kết luận rằng đây là một bản in từ ván khắc. Chẳng hạn các trang in không chừa lề đóng; về mặt in ấn thì rõ ràng không tuân theo một quy cách nhất định; lề giấy ở đầu và cuối các trang sách không đồng đều nhau; cũng như, và có lẽ đây là điểm đáng chú ý nhất, dấu vết những chỗ ván nứt, những vệt trắng đè ngang qua nhiều con chữ. GS. YAMAMOTO từ đó đã kết luận rằng, vấn đề ở đây là liệu có một bản in bằng mộc bản dựa vào một bản in bằng hoạt tự xuất hiện trước bản in năm Vĩnh Thịnh 8 hay không.

Tiếp theo bốn điểm mà GS. YAMAMOTO nêu lên để chứng minh Cựu biên TKML của Đông Dương văn khố là một bản in bằng mộc bản chứ không phải bằng hoạt tự(5), tôi muốn nhấn mạnh thêm một điểm nữa là, trong nhiều trang của cuốn sách, có những chữ in chập lên đường chia ranh giới các dòng, khiến cho những đường này biến mất. Đây là hiện tượng khó có thể xảy ra ở một bản in bằng hoạt tự.

Ngoài ra, bài tựa sách TKML in năm Vĩnh Thịnh 8 còn cho ta một chỉ dẫn liên quan tới vấn đề liệu có hay không có một bản in bằng mộc bản dựa vào một bản in bằng hoạt tự. Bài tựa vừa nêu có thể chính là bài tựa do Hà Thiện Hán viết cho bản in năm 1547 (Vĩnh Định sơ niên); bài tựa này có kèm theo lời ghi chú của nhà in không rõ viết vào năm nào rằng: "Xuất bản bởi Nguyễn Lập Phu 阮 立 夫, nhà nghiên cứu (hậu học - ND) ở Tùng Châu". Tuy nhiên, chín chữ "Thư phường Hồng Lục Nguyễn Tự Tín tẩm tử 書 坊 紅 蓼 阮 自 信 鋟 梓 xuất hiện ở phía bên trái bìa sách lại có nghĩa là tác phẩm được in bằng ván khắc của Nguyễn Tự Tín, người xã Hồng Lục, một phường làm nghề khắc ván in thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Chẳng lẽ điều này lại không chứng tỏ rằng cuốn sách đã không được in bằng hoạt tự ?

Nhưng mặt khác, những gì có thể biết được về Loại Am và Nguyễn Lập Phu, cùng lai lịch tác phẩm, lẽ nào lại không cho phép ta đưa một giả thiết như sau ? Rằng cách đây đã lâu, từng xuất bản một cuốn TKML in bằng hoạt tự, với cái mà người ta gọi là Chú thích của Loại Am (Loại Am hội chú - ND), trong đó, một nhà văn hiệu là Loại Am đã đối chiếu và tập hợp các chú thích của ông ta về các bản in khác nhau của TKML xuất bản trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII. Việc công bố những Chú thích (Hội chú - ND) này phải xảy ra muộn nhất là vào trước thế kỷ XVII. Và có lẽ vào một thời điểm sau bản in năm Vĩnh Thịnh 8, một người tên là Nguyễn Lập Phu đã viết lời phẩm bình (mei pi* 眉 批 my phê) ở lề trên một số trang của một bản in thuộc loại có các Chú thích của Loại Am và đặt cho tác phẩm này cái tên Cựu biên TKML do Nguyễn Lập Phu xuất bản. Cách gọi như vậy có nghĩa là phần văn bản của tác phẩm cũng như phần hội chú đều giữ nguyên không thay đổi; cuốn sách khi in lại, chỉ thêm phần mi phê và những đính chính dưới dạng ghi chú mà thôi. Thậm chí có thể vẫn logic nếu nghĩ rằng chính Nguyễn Tự Tín, một thợ khắc xã Hồng Lục đã tháo gỡ các tờ sách của Loại Am hội chú bản dán lên ván gỗ để theo đó mà khắc vào một ngày tháng ba năm Vĩnh Thịnh 8, như lời chỉ dẫn ở đầu sách. Vậy là, một bản TKML được giám định, với sự hội chú của Loại Am đã được in vào năm 1712 (Vĩnh Thịnh 8), nói cách khác, đó chính là bản Cựu biên TKML mà người xuất bản là Nguyễn Lập Phu.

Khi cần in lại một cuốn sách mà những tấm ván khắc cũ của nó được lưu giữ tại hiệu sách hoặc nhà xuất bản đã bị hư hỏng một phần hoặc toàn bộ (như ván khắc bị nứt, bị cong queo, bị sứt gãy v.v.), hay chỉ đơn giản là bị mất hoặc thiếu một số tấm, thì người ta có thể tháo rời các tờ của một bản sách cũ dán lên ván mới để theo đó mà khắc lại.

Nhưng ở trường hợp này lại khá đặc thù, những cuốn sách in bằng hoạt tự khó có thể giữ lại được các tấm ván gốc. Nếu sách lần in đầu đã bán hết, cần tái bản, thường người ta có thể thực hiện việc in mới bằng cách phối hợp khắc ván với hoạt tự. Nhưng để tranh thủ thời gian và để cho công việc tiến hành được dễ dàng, rất ít khi người ta áp dụng kiểu in như vừa trình bày. Cách in (chỉ bằng ván khắc - ND) của Cựu biên TKML năm Vĩnh Thịnh 8 có lẽ cũng là cách in thường được thực hiện ở Nhật Bản trong thời kỳ tương ứng, tức thời kỳ Edo (1603 - 1867).

III. Hai lần tái bản vào những năm Cảnh Hưng

Thuật khắc gỗ thông thường được nhận thức như là việc khắc chữ dựa theo các tờ gốc của một cuốn sách in bằng ván khắc và thuật khắc gỗ dựa theo một cuốn sách in bằng hoạt tự có thể là một ngoại lệ khi cách in này được thực hiện với số lượng ít hơn so với cách in đầu. Nếu thuật khắc gỗ dựa theo những cuốn sách in bằng hoạt tự không tầm thường về mặt phương pháp so với thuật khắc gỗ dựa theo những cuốn sách in bằng ván khắc thì đấy là do bởi những khó khăn có tính chất kỹ thuật buộc phải dùng đến các tờ sách được coi như bản gốc; hoặc những khó khăn về sự khác biệt trong kiểu chữ in giống như trường hợp bản in năm Vĩnh Thịnh 8, ở đây các dòng chữ không nhất loạt thẳng hàng như trường hợp một bản in bằng mộc bản (khiến người ta phải dựa theo những tờ sách in bằng hoạt tự - ND).

Thuật khắc gỗ cố nhiên được thực hiện rộng rãi ở Trung Quốc. Song trong trường hợp Trung Quốc, giấy mao bian zhi* 毛 邊 紙 không trong suốt bằng giấy Nhật Bản và do vậy, không cho phép khắc trực tiếp khi dùng các tờ sách cũ. Hầu như trên thực tế, ở trường hợp này, người ta đem những tờ sách cũ can - kê lại trên loại giấy mỏng hơn. Phương pháp đó có khả năng đã được áp dụng ở Việt Nam, cho dù giấy dó dùng để in của Việt Nam rất dai, nhưng lại mỏng và có độ trong cần thiết.

Trong bài thuyết trình trước đây, tôi có nói các bản in vào năm 1763 và 1774 đều theo thuật khắc gỗ của bản in 1714. Nếu có gì khác nhau thể hiện giữa hai lần in, thì đó không đơn thuần là do có sự khác nhau về kỹ thuật in được áp dụng. Nếu sự phỏng đoán này là đúng, thì bản in 1763 phải được xem là trực tiếp ra đời từ mộc bản 1714, còn bản in 1774 lại có thể ra đời từ một ván khắc phỏng chế. Tuy nhiên, nếu cả hai đều theo thuật khắc gỗ của bản in 1714 thì tại sao trong khi đó lại có quá nhiều điểm khác nhau giữa chữ viết của các tờ thể hiện trên ván khắc, tới mức bản in 1774 dường như chuẩn xác hơn bản in 1763. Trong bài thuyết trình trước của tôi, hai bản in TKML này được giới thiệu như là sản phẩm của mộc bản 1714. Vậy mà những khảo sát tiếp theo lại khiến tôi nghĩ rằng ít ra là một trong hai lần in, ở đây là lần in 1763, thực ra không theo thuật khắc gỗ của bản in 1714. Chính vì thế mà tôi đã đi tới chỗ thay đổi nhận định cũ của mình.

Quả thực, sau khi trình bày bản tham luận, tôi có dịp nghiên cứu bản in 1737 hiện tàng trữ tại Hiệp hội châu á Paris và so sánh nó với bản in năm 1714. Tôi cũng đã ghi nhận rằng bản in 1737 từng được giới thiệu như là một bản in mới của nhà sách Cự Linh, có khả năng là một bản in bằng mộc bản rất tốt theo bản in năm Vĩnh Thịnh 10 (1714). Vả lại, việc xem xét tỉ mỉ hai bản in khác - bản trùng san của gia đình Nguyễn Bích vào năm 1763 (Cảnh Hưng 24) và bản trùng san của gia đình Nguyễn Đình Lân vào năm 1774 (Cảnh Hưng 35) - khiến tôi nghĩ rằng chúng không được in theo mộc bản năm Vĩnh Thịnh 10 mà trái lại, theo mộc bản năm Vĩnh Hựu 3. Sự khảo sát qua các trang sách cho thấy, thí dụ chữ khắc ở bản in năm Cảnh Hưng 24 đều rất sai lệch so với bản năm Vĩnh Thịnh 10. Điển hình là các chữ Nôm trong phần chú thích, mặc dù được khắc cùng một phong cách với những chữ Nôm khác trong văn bản, nhưng vẫn chứa đựng một số lượng lớn những chữ không đọc được. Sự tương phản đó cũng thể hiện ở bản in năm Vĩnh Hựu 3, là một phản ánh trung thực nhất về sự khác nhau của chúng đối với bản in năm Vĩnh Thịnh 10. Cách trình bày vụng về của bản in năm Cảnh Hưng 24 không phải đến từ kỹ thuật thợ khắc ván, mà chủ yếu là bởi nó được "khắc in" hệt theo bản in năm Vĩnh Hựu 3. Phần cuối bài tựa của bản in năm Cảnh Hưng 35 có nói rõ "Nguyễn Đình Lân, Xã trưởng xã Liễu Chàng đã tháo gỡ các tờ của bản TKML của gia đình ra và khắc in lại sách vào năm Giáp Ngọ (1774), với ý đồ bán cho những người có học thức thuộc các thế hệ công chúng tương lai sử dụng làm định hướng cho cuộc đời". "Bản của gia đình" có nghĩa là sách này được lưu truyền trong họ tộc từ đời này qua đời khác và điều này hiển nhiên cho thấy sách không phải được in theo mộc bản Vĩnh Thịnh 10, mà là theo mộc bản Vĩnh Hựu 3.

Trong số những điểm đáng được nhắc tới còn lại, đầu tiên có vấn đề liên quan tới bài tựa của các lần in nối tiếp nhau. Bản in năm Vĩnh Thịnh 10 trước hết không có bài tựa. Nhưng từ vẻ sáng sủa và cách trình bày của bản in, ta có thể suy ra rằng bản in này vốn không có bài tựa. Và như tôi đã nói, bản in năm Vĩnh Hựu 3 rất có thể là một bản khắc theo mộc bản năm Vĩnh Thịnh 10. Thế mà bản in trước lại mang một bài tựa lấy từ bài tựa của in năm Vĩnh Thịnh 8. Nếu bản in năm Vĩnh Thịnh 10 đã có một bài tựa thì bản in năm Vĩnh Hựu 3, một phiên bản của nó không cần thiết phải chép lấy bài tựa của bản in năm Vĩnh Thịnh 8. Nói khác đi, bản in năm Vĩnh Thịnh 3 đã "khắc" theo bản in năm Vĩnh Thịnh 10 nhưng, trong khi bản in năm Vĩnh Thịnh 10 không có bài tựa, thì bài tựa của bản in năm Vĩnh Thịnh 8 cần được chép lấy và thêm vào phía trước mục lục để làm bài tựa cho bản in năm Vĩnh Thịnh 3.

Thế mà bài tựa bản in năm Vĩnh Thịnh 8 lại do Hà Thiện Hán viết vào năm Vĩnh Định sơ niên dưới triều nhà Mạc và gắn liền với lần in đầu, ngay sau khi bộ tiểu thuyết hoàn thành. Nhưng Loại Am - tác giả của TKML hội chú bản, một tác phẩm từng làm nền tảng cho bản in năm Vĩnh Thịnh 8 - trong khi tiến hành so sánh các bản in TKML, chỉ giữ lại bài tựa của bản in cổ nhất của bộ sách và bài tựa này tiếp đó, được in lại trong bản Cựu biên Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Lập Phu. Nhưng bài tựa bản in năm Vĩnh Hựu 3 không đề tên Hà Thiện Hán, cũng không ghi năm Vĩnh Định sơ niên (1547). Cộng vào đó, bản in năm 1737 lấy lại bài tựa của bản in năm Vĩnh Thịnh 8 để giới thiệu thân phụ của tác giả tên là Tường Phiêu 翔 縹, Tiến sĩ triều đại trước. Bản in năm Vĩnh Thịnh 8 ghi niên đại của bài tựa là 1547. Điều đó chẳng có gì là mâu thuẫn cả. Tuy nhiên, dù nó được in vào năm Vĩnh Hựu triều Lê (nửa đầu TK XVIII) và được giới thiệu như thể bài tựa là do người xuất bản sách soạn, dẫu điều này trở thành lố bịch khi mà cũng chính người xuất bản sách vẫn giữ nguyên lời ghi chú trong bản in này về một vị Tiến sĩ triều Lê thời Hồng Đức ở thế kỷ XV, tức "Tiến sĩ triều trước 前 朝 進 士" để chỉ một lần công bố sách dưới triều Mạc, một triều đại tiếm quyền nhà Lê. Cũng vậy, bài tựa bản in năm Vĩnh Hựu 3 còn mang dấu vết một đoạn văn trong bài tựa của bản in năm Vĩnh Thịnh 8 bị sửa chữa lại và trong lúc tái lập đoạn văn liên quan tới thân phụ của tác giả, bài tựa đã mắc phải hai lỗi về sao chép - hai chữ - ở phần cuối. Những ghi chú ở bản in năm Cảnh Hưng 24 cùng những ghi chú ở bản in năm Cảnh Hưng 35 đều là sự tái lập các ghi chú của bản in năm Vĩnh Hựu 3.

Nói cách khác, cả ba bản in này đều chứa đựng một sai lệch giống nhau liên quan đến thân phụ của tác giả. Cuối cùng, trên trang bìa của bản in năm Vĩnh Hựu 3, ở phía bên trái và phía bên phải, đặc biệt có dòng chữ “鄉 名 字 之 ” (衍 各 字 之 縱 - ND ) với nghĩa là "Một áng văn hay trên cơ sở một tác phẩm cổ" (Diễn tổng hợp các chữ - ND) và 引 絹 書 之 跡 (引 舊 書 之 跡 - ND) với nghĩa là "Nêu lên những gì mà các sách cổ đã để lại" (Dẫn sự tích sách xưa - ND). Bản in năm Cảnh Hưng 24 cũng có một trang bìa y như thế, kể cả hai dòng chữ viết trên bìa. Bản in năm Cảnh Hưng 35 trái lại, có trang bìa khác với trang bìa của bản in năm Vĩnh Hựu 3. Các dòng chữ viết trên bìa của bản này (1774) là “述 前 賢 之 舊 跡” tức "Khẳng định những việc mà các vị thông thái trước đã làm" và “曉 後 學 之 易 知” tức "Giúp cho lớp học sau dễ nắm vững". Vậy mà, một sự so sánh về tự dạng của hai bản lại cho thấy một cách rõ rệt rằng bài tựa của bản in năm Cảnh Hưng 35 đúng là đã can - kê theo bản in năm Vĩnh Hựu 3. Do đó, dù phương pháp được chấp nhận là thế nào chăng nữa thì cũng rất có khả năng các lần trùng san vào năm Cảnh Hưng không hẳn đều theo cùng một kiểu khắc ván in của năm Vĩnh Thịnh 10, mà phần nào cũng có theo kiểu khắc ván in của năm Vĩnh Hựu 3; nói cách khác, một bản in theo bản in năm Vĩnh Thịnh 10 và một bản đúp theo kiểu in của bản in năm Vĩnh Hựu 3.

Sau năm Quảng Hòa 2 (1542), vua Mạc được nhà Minh phong cho làm Đô thống sứ 都 統 使, tước hiệu này đã phải từ bỏ vào năm Vũ An 1 (tương đương với năm Nguyên Hòa nhà Lê, 1592), trước cuộc tiến công về quân sự của Trịnh Tùng nhằm khôi phục lại triều nhà Lê tại Thăng Long (Hà Nội). Sang năm sau, triều Mạc đã biến mất trên thực tế. Có lẽ vào nửa cuối thế kỷ XVII, sau khi nhà Mạc thất bại ở lưu vực sông Hồng, quyền lực trở về tay nhà Lê, đây cũng là lúc xuất hiện những chú thích về các bản in khác nhau của TKML, và trong bài tựa của Hà Thiện Hán, sau mấy chữ "Vĩnh Định sơ niên", được thêm câu ghi chú "niên hiệu của ngụy Mạc 偽 莫 年 號". Cho nên, đúng như trên kia đã thấy, người xuất bản sách lần này rất có thể chính là Nguyễn Lập Phu.

Mặt khác, những chữ "Thư phường Hồng Lục 書 坊 紅 蓼" trong câu ghi chú "Thư phường Hồng Lục Nguyễn Tự Tín tẩm tử 書 坊 紅 蓼 阮 自 信 鋟 梓" được in thêm trên bìa cuốn Cựu biên, về nguyên tắc, có nghĩa là đây không phải nói về một hiệu sách có tên Hồng Lục, mà là về một xã hay một làng có phường hội thợ khắc. Vì phía bên dưới dòng chữ Loại Am hội chú bản 類 庵 會 註 本, tức bản hội chú của Loại Am có dấu ấn lõm của Loại Am, và theo cùng với nó là một dấu ấn lồi viết bằng chữ triện (篆書 Zhuan shu*) mang dòng ghi chú "Con dấu của Nguyễn Tinh Đường 阮 晶 堂" điều này vạch chỉ danh nghĩa pháp lý của thợ khắc Nguyễn Tự Tín. Bởi lẽ, một nghiên cứu về phả hệ những người thợ khắc ở làng này cho thấy thư phường Hồng Lục và Liễu Chàng gồm những người thợ khắc ván liên kết lại với nhau trên cơ sở nghề nghiệp truyền thống mang danh nghĩa pháp lý. Thậm chí có thể nghĩ Nguyễn Tự Tín ở Hồng Lục là một người thợ khắc mang danh nghĩa pháp lý qua tên gọi "Nguyễn Tinh Đường".

Trái lại, bản in 1714 không để lộ một thông tin nào có tính chất lời Nhà xuất bản chỉ ra rằng có một bản "Tập thành" 輯 成 của Kế Thiện Đường 繼 善 堂. Cũng như chữ "Tập thành" có thể hiểu là "xuất bản", dòng chữ (Kế Thiện Đường tập thành bản 繼 善 堂 輯 成 本 - ND) đến lượt mình, dường như chỉ các chú giải trong cuốn sách đều do những học giả từng gắn bó với hiệu sách thực hiện. Cho nên cái tên Kế Thiện Đường cũng vậy, có thể mang danh nghĩa pháp lý của thợ khắc. Về phần mình, bản in 1763, sau phần mục lục, có mấy lời Nhà xuất bản như sau: "Vào một ngày tháng giêng năm Cảnh Hưng 24, đã in lại bản sách của gia đình Nguyễn Bích (Nguyễn Bích gia bản 阮 碧 家 本 - ND), người làng Liễu Chàng". "Gia bản" ở đây dĩ nhiên có nghĩa là một bản in do gia đình bảo quản, như cách giải thích của GS. Emile GASPARDONE về "Nguyễn Bích"(6), ta có thể hiểu đây là cuốn sách do một người có tên là Bích, thuộc họ Nguyễn, lưu giữ. Gia đình này có lẽ là một gia đình thợ khắc ở làng Liễu Chàng, và lời Nhà xuất bản vạch chỉ một người thuộc làng Liễu Chàng là Nguyễn Bích vào ngày nói trên đã in và xuất bản cuốn sách do gia đình ông tàng trữ. Đúng như điều vừa xác nhận, đáng lẽ giữ lại những tấm ván khắc đã dùng để in, thì theo thói quen, không nghi ngờ gì nữa, người ta lại giữ những bản sách nổi tiếng của gia đình cho những thợ khắc thuộc dòng họ mình trong tương lai, đây cũng là cách tạo điều kiện để tái bản một tác phẩm theo yêu cầu bạn đọc.

Người dịch: Thọ Nhân
(Theo bản tiếng Pháp, in trong Hạnh Lâm Đại học giáo dưỡng bộ môn, Q.16 ; 3 - 1999).

CHÚ THÍCH

(1) KAWAMOTO Kuniyé: Những vấn đề khác nhau liên quan đến "Truyền kỳ mạn lục"; in trong cuốn 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam (90 ans de recherches sur la culture et l'histoire du Vietnam), Hà Nội, 1995.

(2) Dấu hoa thị chỉ cách đọc theo âm Bắc Kinh hiện nay; bên dưới cũng thế.

(3) Đông Dương văn khố sở tàng Triều Tiên bản mục lục, phụ An Nam bản mục lục, 1939, tr.99.

(4) Trương Tú Dân: Trung Quốc ấn loát thuật đích phát minh cập kỳ ảnh hưởng, Bắc Kinh, 1958, tr.155.

(5) YAMAMOTO Tatsuro: Sự phát triển của kiểu in hoạt tự ở Việt Nam dưới triều Lê: Một nghiên cứu so sánh lịch sử giữa Việt Nam và Nhật Bản. Tham luận trình bày ở Hội thảo quốc tế nghiên cứu về châu á và Bắc Phi lần thứ 33, Toronto, tháng 8 năm 1990.

(6) Emile GASPARDONE: Thư mục Việt Nam (Bibliographie annamite). Kỷ yếu Trường Viễn đông Pháp, số 34, 1935, các tr.133-5.