|
NHỚ LẠI MỘT THỜI - NHÂN KỶ NIỆM 30 NĂM XÂY DỰNG VIỆN HÁN NÔM
PHẠM HUY CHÂU(*)
Một đêm tháng 11 năm 1972, anh Trần Phương (lúc ấy là Phó chủ nhiệm ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) triệu tôi đến gặp và thuyết phục tôi về nhận công tác mới tại Ban Hán Nôm. Tôi gặp anh tại nhà riêng ở phía ngoài đê sông Hồng. Trong lúc nói chuyện, máy bay Mỹ nhiều lần lượn vòng sà xuống mặt sông, lia bắn lẹt đẹt. Hiểu rõ yêu cầu của anh, tôi thật ngỡ ngàng và phân vân. Ngỡ ngàng vì tôi đang công tác ở Viện Triết, nghiên cứu một đề tài thật hiện đại, là “Đấu tranh giai cấp ở miền Bắc trong thời kì quá độ”, mà công tác Hán Nôm ắt là phải vùi đầu vào giữa những chồng sách cũ. Phân vân, vì vốn liếng Hán học của tôi chẳng có gì: Hồi nhỏ, lúc còn học tiểu học Pháp Việt, được cha tôi dạy kèm thêm tại nhà quyển Tam tự kinh, quyển Ấu học tân thư; lớn lên, đi làm, có tự học thêm đôi chút, nhưng chủ yếu là để có thể đọc hiểu được văn thơ cổ điển Việt Nam. Thế rồi, cách mấy hôm sau, tôi nhận được quyết định của ủy ban đề ngày 27-11-1972, “xét nhu cầu công tác” cử tôi về “nhận công tác Phó Ban Hán Nôm”. Tôi tự nhủ: cứ lao vào công việc mới, rồi sẽ thấy niềm vui trong đó.
Ban Hán Nôm đã được thành lập từ quý 4 năm 1970. Thời gian đầu đã tập hợp được gần hai chục cán bộ tách ra từ các viện Văn, Sử, Thư viện Khoa học xã hội. Lớp cán bộ có tuổi, có vốn cựu học sâu sắc là các cụ Phạm Thiều (Trưởng ban), Cao Xuân Huy, Đào Phương Bình, Hoa Bằng, Thạch Can, rồi đến Bùi Thanh Ba, Nguyễn Văn Huyên, Cụ Trần Duy Vôn được mời về làm "cộng tác viên thường trú" (thời Pháp thuộc, cụ đã từng viết bài cho tạp chí Nam phong phần chữ Hán, với bút danh Nhàn Vân Đình, làm cộng tác viên chữ Hán cho Học viện Viễn đông Bác cổ). Lớp cán bộ trẻ đều đã tốt nghiệp lớp Đại học Hán Nôm 1965 - 1968 mở tại Viện Văn - lớp Đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc. Đó là các anh chị: Kiều Thu Hoạch, Mai Quốc Liên, Cao Hữu Lạng, Nguyễn Thị Xuân, Dương Thái Minh, Ngô Thế Long, Nguyễn Ngọc Nhuận, Đỗ Thị Hảo, Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Kim Hưng. Cán bộ quyết định hết thảy: trong hoàn cảnh sơ tán, cứ có cán bộ là đủ thành cơ quan. Vì cán bộ sinh hoạt và làm việc ngay tại nhà dân, bàn ghế có thiếu cũng mượn được của dân; chỉ cần một người phụ trách hành chính - quản trị (lúc ấy là bác Kiên) liên hệ với địa phương, sắp đặt chỗ ở cho mọi người. Còn cán bộ nghiên cứu thì có sách và giấy bút là đủ công cụ làm việc. Tuy vậy, có được quyển sách Hán Nôm để đọc cũng khá diệu vợi: sách Hán Nôm bấy giờ nằm trong kho của Thư viện Khoa học Xã hội; để bảo quản kho sách quý Hán Nôm trong hoàn cảnh có chiến tranh, phá hoại, Thư viện đã sơ tán nó vào những ngôi nhà sàn dựng giữa đồi cọ, xa nhà dân, ở mãi trên huyện Lập Thạch (Vĩnh Phú); Ban cần quyển gì, phải mượn Thư viện và cử cán bộ đi hàng ngày đường để đèo về.
Và thế là cuối năm 72, tôi phải về Ban, lúc ấy đóng ở các thôn Dinh Đồng, Nội Cả thuộc xã Thường Thắng (Hiệp Hòa, Bắc Giang), để kịp đón 21 cán bộ mới tuyển dụng đều là sinh viên vừa tốt nghiệp khoa Trung văn trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ (các anh Bảy, Bến, Dân, Giáp, Hồng, Đinh Minh, Nhí, Quyền, Quýnh, Thắm, Thức; các chị Anh, Lựu, Việt Nga, Lệ Nga, Nguyệt, Phượng, Thảo, The, Thoa, Trang). Cơ quan đã có tới bốn chục người. Ngoài các cụ có vốn Hán Nôm vào bậc thầy, còn lại đều là cán bộ trẻ, đã qua lớp Đại học Hán Nôm hoặc mới chỉ có vốn Đại học Hán ngữ với tư cách là sinh ngữ. Cũng may là sang năm 73 thì Đế quốc Mĩ buộc phải rút quân khỏi Việt Nam, miền Bắc thoát được cuộc đánh phá bằng không quân, các cơ quan thuộc ủy ban Khoa học xã hội lục tục hồi cư về Hà Nội. Ban Hán Nôm được Thư viện Khoa học xã hội (phố Lý Thường Kiệt) nhường cho một ngôi nhà 1 tầng ở sân sau làm trụ sở; anh em đã có nơi làm việc tập trung, dù sao cũng đã khang trang hơn trước.
Là một cơ quan mới, Ban đụng ngay vào hai vấn đề lớn: một là bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, hai là tổ chức cơ quan, tổ chức công tác của cơ quan.
Vấn đề cán bộ thật bức xúc. Số người có vốn cựu học thuộc thế hệ trước còn lại rất ít. Vì vậy vừa cần gấp rút chiêu tập, khai thác lớp cựu học có tuổi, vừa cần gấp rút bồi dưỡng, đào tạo lớp trẻ kế tiếp.
Ban đã tìm, liên hệ, xây dựng được một mạng lưới cộng tác viên gần hai chục cụ ở Hà Nội. Các cụ nhận dịch thuê cho Ban, theo kế hoạch Ban giao. Một số cụ làm cộng tác viên thường trú, tức là ở luôn cơ quan hay thường xuyên đến làm việc tại cơ quan; ngoài cụ Trần Duy Vôn đã kể, về sau thêm các cụ Nguyễn Thúc Linh, Lê Duy Chưởng, Nguyễn Hữu Chế, Nguyễn Văn Lãng. Anh em cán bộ luôn có điều kiện tiếp cận các cụ, học hỏi trong công việc. Nhiều cụ không đến cơ quan, nhưng cũng vui lòng hướng dẫn cán bộ trẻ, thường là giải đáp, duyệt các bản dịch và nhận hiệu đính các bản dịch (như các cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Đỗ Ngọc Toại). Cũng có cộng tác viên là cán bộ đương chức, như bác Trương Đình Nguyên, cán bộ giảng dạy trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ, bác Vũ Tuân Sán cán bộ Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội (bác Sán sau về hẳn Ban công tác, thay bác Bùi Thanh Ba).
Để bồi dưỡng đào tạo cán bộ trẻ, Ban liên tiếp mở hai lớp chuyên tu Hán Nôm tại chức: lớp sau Đại học 73 - 75 dành cho những anh chị em mới tốt nghiệp Đại học Trung văn, và lớp trên Đại học 74 - 77 dành cho những cán bộ đã qua lớp Đại học Hán Nôm.
Chương trình của lớp chuyên tu sau Đại học có 3 phần. Phần chuyên môn Hán Nôm gồm: cổ Hán văn Trung Quốc, cổ Hán văn Việt Nam, học những đoạn trích các tác phẩm tiêu biểu từ cổ đại đến cận đại (hết thời phong kiến), chữ Nôm, bốn dạng chữ Hán (tứ thể); có bổ sung môn ngữ pháp văn ngôn. Giảng viên là cán bộ có tuổi trong Ban, có mời thêm người ngoài Ban như cụ Đỗ Ngọc Toại, bác Trương Đình Nguyên tham gia giảng dạy. Mục đích của phần này được xác định là để học viên “thông văn mạch sách Hán, hiểu ngữ pháp Hán cổ, thạo cách phát âm Hán Việt, đọc được chữ Nôm, có một số vốn nhất định về những điển cố thường dùng trong sách Hán Nôm của Việt Nam”. Phần thứ hai là Triết học, nhằm giúp học viên nắm vững vấn đề tư tưởng cơ bản (tâm và vật), vấn đề phương pháp luận Macxít và đường lối văn hóa của Đảng, để có thể vận dụng vào công tác khai thác văn bản cổ; phần này, mời các cán bộ chủ chốt của Viện Triết đến giảng. Phần thứ ba gồm các chuyên đề cần thiết cho người khai thác sách cổ Hán Nôm, như văn bản học, lịch sử tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam, lịch sử Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo; phần này, mời các giảng viên Đại học đến thuyết trình (các GS. Hà Văn Tấn, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Đình Hượu v.v.)
Lớp chuyên tu trên Đại học được mở với danh nghĩa là lớp của ủy ban Khoa học xã hội, do Ban Hán Nôm chủ trì. Có 31 cán bộ theo học, đến từ nhiều cơ quan (Ban Hán Nôm 10, Viện Văn 6, Viện Sử 1, Thư viện KHXH 3, Thư viện Quốc gia 1, Trường Đại học Tổng hợp 1, các Trường Đại học Sư phạm 5). Chương trình gồm hai phần. Phần bổ túc kiến thức có: cổ Hán văn, mở rộng và nâng cao hơn chương trình lớp Đại học Hán Nôm, môn Triết học như ở lớp sau Đại học, có bổ sung chuyên đề văn bản học. Phần này đã tổ chức thi kiểm tra xong trong năm 1974, kết quả 23 người đạt điểm. Phần thứ hai là luận văn tốt nghiệp. Yêu cầu là học viên tự chọn một tác phẩm Hán Nôm Việt Nam, nghiên cứu văn bản, giới thiệu tác giả, nội dung chủ yếu và giá trị của tác phẩm, cuối cùng là phiên dịch (hoặc phiên âm) nguyên bản (có thể chọn một đoạn, nếu tác phẩm quá dài) kèm theo những chú giải cần thiết. Chỉ có hơn 10 cán bộ dự làm luận văn; nhiều người đã chọn tác gia thời Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Đoàn Nguyễn Tuấn... có người chọn thời Nguyễn, như Nguyễn Đức Đạt, hoặc chọn chuyên đề như quan chế thời Minh Mạng. Mỗi luận văn, Ban đều cử người hướng dẫn, đến khi chấm có lập Hội đồng chấm thi nghiêm túc. Kết quả: 10 cán bộ Ban Hán Nôm đã đạt điểm tốt nghiệp (các chị Hảo, Hưng, Xuân, Thúy, các anh Lạng, Liễn, Long, Lương, Minh, Nhuận); ngoài Ban, có anh Ngô Đức Thọ (Thư viện Quốc gia) tốt nghiệp, sau chuyển về công tác tại Ban.
Năm 1976, Ban có mở một lớp học chữ Thảo trong cơ quan, liền mấy tháng, do bác Đào Phương Bình phụ trách.
Ngoài ra, Ban cũng thường xuyên tổ chức những buổi báo cáo khoa học chuyên đề, nhằm nâng cao thêm trình độ kiến thức cho toàn cơ quan: cụ Đỗ Ngọc Toại thuyết trình về hôn lễ, tang lễ, tế tự thời phong kiến; GS Nguyễn Tài Thư nói về Nho giáo ở Việt Nam, ông Minh Chi nói về Phật giáo ở Việt Nam và các thuật ngữ Phật học, GS. Nguyễn Tài Cẩn nói về những vấn đề trong nghiên cứu chữ Nôm, GS. Hoàng Như Mai bình về những bài thơ dịch Ngục trung nhật kí, nhà thơ Khương Hữu Dụng giới thiệu kinh nghiệm dịch thơ chữ Hán sang tiếng Việt...
Cơ quan đầy không khí học tập và giao lưu học thuật thật tấp nập.
Vấn đề lớn thứ hai là xây dựng cơ quan, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đồng thời cũng là xây dựng Chuyên ngành Hán Nôm với tư cách là một ngành nghiên cứu.
Nhìn lại lịch sử, dễ thấy rằng nhu cầu nghiên cứu, khai thác di sản Hán Nôm không phải đến bây giờ mới có. Thời Pháp thuộc, nhiều học giả đã làm. Có người chọn dịch một số văn, thơ chữ Hán của Việt Nam, song nhiều nhất là phiên ra chữ Quốc ngữ rất nhiều tác phẩm trước kia viết bằng chữ Nôm như các phong dao, các bài văn thơ Nôm, các truyện Nôm, từ những diễn ca mang tính bình dân cho đến những áng văn chương tuyệt tác như Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều. Công việc ấy thể hiện một tinh thần dân tộc chưa hề mai một, một tấm lòng nhiệt thành đối với nền văn hóa dân tộc, song tất cả đều mang tính tự phát.
Sau Cách mạng, việc khai thác di sản Hán Nôm nằm trong quỹ đạo xây dựng nền văn hóa mới. Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã nêu ra ba phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Văn bản chữ Nôm rõ ràng là mang tính dân tộc trực tiếp. Chữ Nôm chẳng qua là một hình thức ghi tiếng Việt; các cụ xưa gọi thơ văn Nôm là thơ văn quốc âm, quốc ngữ. Văn bản chữ Hán dùng Hán văn cổ, có thể ghi việc, ghi ý, dùng trong giao tiếp, nhưng là giữa những người có học biết chữ Hán, khác hẳn tiếng Việt. Người Trung Quốc ngày nay gọi Hán văn cổ là văn ngôn, phân biệt với bạch thoại; người Trung Quốc có trình độ văn hóa phổ thông chỉ hiểu được bạch thoại; muốn thạo văn ngôn phải được đào tạo, học tập riêng. Hán văn cổ Việt Nam được viết theo mô hình của văn ngôn Trung Quốc, về hình thức văn tự là vay mượn. Song trong lịch sử, Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, chữ Hán gần nghìn năm dần dà đã có vị trí chính thống trong công vụ Nhà nước, trong việc giáo dục và đào tạo nhân tài, các nho sĩ lại đã dùng chữ Hán để sáng tác, ghi lại những sự kiện của lịch sử Việt Nam, phản ánh tâm tư, tình cảm, nhận thức tư tưởng của Việt Nam, chính nội dung ấy là mang tính dân tộc. Song muốn cho người ngày nay hiểu được nội dung ấy, phải “dân tộc hoá” nó, nghĩa là chuyển dịch nó sang tiếng Việt, ghi bằng chữ mà ta gọi là chữ Quốc ngữ dựa vào chữ cái La tinh. Về mặt văn tự, tương lai của dân tộc ta, nước ta thuộc về thứ chữ này. Từ đầu thế kỷ, “ông nghè ông cống cũng nằm co”; chữ Hán, chữ Nôm đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó.
Khi nghiên cứu Văn học, Sử học, lịch sử tư tưởng thời trước, các Viện Văn, Sử, Triết đã vấp phải các văn bản Hán Nôm, buộc phải thuê dịch Hán Nôm ra tiếng Việt, chữ Việt, lấy những bản dịch làm tư liệu nghiên cứu. Có điều là những bản dịch ấy chất lượng không đều, lại xuất phát từ những văn bản chưa hề được khảo sát, giám định về mặt lai lịch làm sao có thể đảm bảo được là những căn cứ có tính khoa học ? Hơn nữa, việc khai thác văn bản Hán Nôm như vậy là phân tán, ít nhiều vẫn có tính tự phát. Lập ra cơ quan nghiên cứu Hán Nôm, Chuyên ngành Hán Nôm, là để tiến hành công tác nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm không những theo quan điểm mới, mà còn là nghiên cứu khai thác một cách khoa học hơn và có tổ chức.
Vậy nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm, trong Chuyên ngành Hán Nôm, như thế nào ?
Trước hết, cần khẳng định: đối tượng nghiên cứu của ngành Hán Nôm là những văn bản Hán Nôm của Việt Nam, trước mắt là những văn bản đã thu thập được trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chưa kể những thứ còn sót lại và tản mát trong các tư gia, các đền chùa và di tích văn hóa khác. Đó là những đối tượng cụ thể, những sản phẩm lịch sử đã định hình, có hạn, không phát triển.
Đối tượng nghiên cứu quy định nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.
Văn bản Hán Nôm là sản phẩm của thời kỳ phong kiến rất dài. Trải qua sự thăng trầm của các thời đại, sự tàn phá của các cuộc chiến tranh, lại do nghề in chưa phát triển, mới đạt đến trình độ in khắc ván gỗ, phần rất lớn là những văn bản được lưu truyền qua viết tay trên giấy, khó bảo quản, dễ hư nát, vì vậy không còn giữ được nguyên trạng của thời kỳ văn bản xuất hiện. Văn bản gốc rất hiếm (có lẽ chỉ trừ những văn bản khắc bia, khi bia đá chưa mòn nét chữ hoặc chưa bị đục). Đại bộ phận là chép tay, lại là chép vào thời gian chưa xưa lắm (Kho sách Hán Nôm hiện nay chủ yếu là tiếp thu từ kho của Học viện Viễn đông Bác cổ, có những bản cũ mà Học viện thu thập và những bản mới mà Học viện thuê chép).
Vấn đề đặt ra đầu tiên cho người nghiên cứu là phải khảo cứu, giám định văn bản, tìm bản gốc hoặc bản gần nhất với bản gốc, tái hiện lại diện mạo đích thực của văn bản trong lịch sử.
Ở Trung Quốc, đầu đời Thanh, đã có nhiều công trình khảo chứng lại các thư tịch cổ, phát hiện ra và đính chính lại nhiều nhận thức sai lầm trước kia về những câu, đoạn trong văn bản, thậm chí cả về niên đại xuất hiện, về tác giả của văn bản; người Trung Quốc gọi việc này là khảo chứng học. Phương Tây khi nghiên cứu các tác phẩm cổ đại (trong văn học Hi La chẳng hạn) cũng đã có nhiều kinh nghiệm bổ sung, đính chính văn bản. Có tác giả thử tổng kết những kinh nghiệm ấy, sắp xếp thành hệ thống, gọi là Văn bản học (Textologie). Ở Việt Nam, biết là có tình trạng “tam sao thất bản”, nhiều người đã cẩn thận nêu kèm các bản dịch những chú thích khảo dị, nhưng mới chỉ nêu ra những sai biệt mà không phân tích, lí giải. Ngày nay nghiên cứu văn bản một cách khoa học thì việc đầu tiên là phải giám định văn bản, khảo cứu nó về mặt văn bản. Đó là một nhiệm vụ của Chuyên ngành Hán Nôm. Đó cũng là ý thức trách nhiệm của người nghiên cứu đối với lịch sử, đối với tiền nhân.
Đặc điểm lớn thứ hai của văn bản Hán Nôm là viết bằng chữ Hán, chữ Nôm ngày nay không còn thông dụng. Nghiên cứu, khai thác văn bản xưa không phải là vì xưa, mà là để xây dựng nền văn hóa mới, phải tạo thuận lợi cho người Việt Nam ngày nay và mai sau tiếp cận được, lĩnh hội và thưởng thức những giá trị văn hóa cổ. Như vậy khai thác văn bản Hán Nôm phải bao gồm việc phiên dịch văn bản chữ Hán sang tiếng Việt, phiên âm văn bản chữ Nôm thành chữ Quốc ngữ hiện đại. Đó là phá vỡ cái vỏ văn tự cổ xưa để lộ ra cái ruột, phần tinh hoa. Công việc này không phải là mới; vấn đề là phải thực hiện một cách khoa học, đảm bảo cho bản dịch là hình ảnh trung thực của nguyên bản. Đây cũng là một nhiệm vụ mà Chuyên ngành Hán Nôm không thể thoái thác; nếu chuyên gia Hán Nôm không làm, thì việc này dành cho ai ? Đương nhiên là tùy theo ý nghĩa, giá trị của từng văn bản mà bản dịch có thể công bố trong nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau: phạm vi rộng, đại trà đối với những tác phẩm có giá trị phổ biến, phạm vi hẹp hơn cho giới nghiên cứu (Văn, Sử, Triết, Ngôn ngữ học, Dân tộc học, Văn hóa học...), thậm chí có phạm vi hẹp hơn nữa (nhất thiết phải in nguyên dạng chữ Hán, chữ Nôm) cho giới chuyên gia Hán Nôm, liên quan đến các vấn đề của văn bản học, văn tự học hay khoa dịch thuật.
Phiên dịch tức là chuyển từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Đây là một nhu cầu thực tế, đã có và còn phát triển lâu dài khi việc giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng ra phạm vi thế giới. Công tác phiên dịch đòi hỏi người phiên dịch phải hiểu được nội dung của nguyên bản, lại phải nhuần nhuyễn cả hai thứ ngôn ngữ. Chưa ai nói đến môn Phiên dịch học, song cũng như kinh nghiệm văn bản học phụ thuộc vào tình trạng: những văn bản cụ thể nào là đối tượng nghiên cứu, kinh nghiệm và kỹ năng phiên dịch cũng tùy thuộc vào chỗ: từ tiếng nào dịch sang tiếng nào. Trong việc dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, các cụ xưa đã truyền lại ba chuẩn mực là: tín, đạt, nhã. Chuẩn mực hàng đầu là tín; nếu dịch sai tức là phản lại nguyên bản. Đạt, có thể hiểu là: dịch sang tiếng Việt thì đúng là tiếng Việt thuần túy, trong sáng, thoát khỏi sự ràng buộc của nguyên ngữ. Có thể hiểu nhã là yêu cầu cao khi dịch văn chương. Ta có kinh nghiệm: khi dịch thơ thì vừa dịch nghĩa (yêu cầu là tín, đạt), vừa dịch thơ (lột tả cả vần, điệu tứ thơ, hồn thơ, phong cách). Người xưa cũng đã từng tạo ra những bản dịch tuyệt vời, như bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm, bản dịch Nôm bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị.
Để phiên âm chữ Nôm, phải biết đọc đúng; muốn vậy, phải hiểu cách cấu tạo chữ Nôm và quá trình diễn biến của nó. Từ lúc xuất hiện cho đến lúc bị thay thế, chữ Nôm chưa bao giờ được tôn trọng bằng chữ Hán; có lẽ vì thế mà nó chưa được thật chuẩn hoá. Do đó, Chuyên ngành Hán Nôm phải nghiên cứu chữ Nôm với tư cách là văn tự, nghiên cứu chữ Nôm về mặt văn tự học. Có như thế mới có thể đọc đúng chữ Nôm, khôi phục lại nguyên dạng văn bản Nôm vào thời kỳ nó ra đời. Việc nghiên cứu này lại có phần đóng góp cho ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt, chẳng hạn như phát hiện ra những từ, cụm từ tiếng Việt cổ.
Tóm lại, có thể hình dung một công trình nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm của Chuyên ngành Hán Nôm là như sau: có phần giám định văn bản hay nghiên cứu văn bản học: tìm hiểu lai lịch các dị bản, lấy bản nào làm nền, đính chính và bổ sung những chỗ lầm lẫn sai sót, khôi phục lại đúng hay gần đúng nguyên bản; có phần phiên dịch (hay phiên âm) ra tiếng Việt, kèm những chú giải cần thiết về mặt ngữ nghĩa hay lịch sử; có phần giới thiệu nội dung chính và giá trị lịch sử của văn bản (Mô hình này mấy năm sau đã được vận dụng khi đặt ra yêu cầu đối với luận văn tốt nghiệp lớp Hán Nôm trên Đại học).
Những nhận thức trên đây về Chuyên ngành Hán Nôm là kết quả của quá trình bàn bạc, trao đổi giữa các cán bộ chủ chốt của Ban trong 5 buổi họp, và đưa ra lấy ý kiến chung của tất cả anh chị em toàn cơ quan trong một ngày họp, tiến hành vào khoảng cuối năm 1973.
Sau khi thành lập, làm việc ở nơi sơ tán với số lượng cán bộ ít ỏi, Ban bắt đầu làm một số công trình, theo sáng kiến của lớp cán bộ có tuổi, am hiểu hơn, đề ra. Thoạt đầu làm công trình “tựa, bạt”, định giới thiệu tất cả các bài tựa, bài bạt của những quyển sách, bộ sách có giá trị. Sau đó, lại chủ trương làm 2 công trình “thơ văn bang giao” và “văn bia”, chia cán bộ thành 2 tổ để tiến hành. Đó là hướng đặt chương trình công tác theo chuyên đề.
Bước đầu tiên là lập danh mục các bài, các sách cần dịch. Để làm việc này, phải dựa vào bộ Thư mục Hán Nôm của Thư viện KHXH. Bộ Thư mục gồm 9 tập (về sau được Ban Hán Nôm làm tiếp 3 tập sách dẫn, cộng thành 12 tập) do các anh Cao Hữu Lạng, Dương Thái Minh, các chị Nguyễn Thị An Tâm, Vũ Thanh Hằng, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Cẩm Thúy biên soạn theo bảy tiêu chuẩn thư mục học. Nó giới thiệu toàn bộ các thư tịch được coi là tác phẩm, và còn để ngoài chưa đụng đến những thác bản văn bia, những địa bạ, hương ước, thần tích, xã chỉ... mà Thư viện đã có. Thế là tổ văn bia phải dựa vào các phiếu cũ của Thư viện, bổ sung và biên soạn ra bộ Thư mục đầu tiên về văn bia, phản ánh 23 nghìn thác bản, đánh máy thành 23 tập, có sách dẫn tên bia, tên địa phương, niên đại, tên người, tên tác giả. Đến cuối năm 1973, hai tổ thơ văn bang giao và văn bia đã biên dịch được một phần quan trọng các văn bản, song hai công trình đều chưa hoàn thành được.
Sau khi trở về Hà Nội, Ban định soát lại toàn bộ số sách Hán Nôm, xem trong mỗi loại, bao nhiêu quyển đã được dịch, công bố ? Bao nhiêu quyển còn lại, chưa khai thác ? Số còn lại giá trị nhiều, ít như thế nào ? (xếp giá trị thành 3 bậc A, B, C ). Có nắm được tình hình như thế mới có căn cứ rõ rệt để xây dựng chương trình khai thác từ nay về sau. Ban dựa vào số cán bộ cũ để làm việc này gọi là làm điều tra cơ bản, tiến hành vào quý 3 năm 1973. Tất cả có chừng 5.500 tên sách. Để tiến hành điều tra, phải chia loại theo cách phân loại khoa học hiện nay cho dễ quan niệm: Văn, Sử, Địa, Triết, Nôm. Kết quả thấy rằng chia như vậy là tương đối phù hợp với thực trạng các sách hiện có. Sách Nôm tuy ít, nhưng là loại đặc biệt: ngoài nhu cầu phiên âm văn bản Nôm, còn có nhiệm vụ nghiên cứu chữ Nôm về mặt văn tự. Số sách chữ Hán rất lớn. Sách văn học nhiều. Có những sách đủ thứ, nhưng số lượng mỗi thứ lại quá ít ỏi, như các sách về kĩ thuật, lễ nghi, phong tục, bói toán, phong thủy v.v, tạm dồn vào loại lớn là sử học, số sách địa chí tương đối ít. Số sách có tính học thuật, biện luận về Tam giáo, tuy không nhiều nhưng lại phản ánh tình hình phát triển tư duy trừu tượng của dân tộc, được xếp vào loại Triết. Trên cơ sở chia loại sách (là đối tượng khai thác) cũng đã chia cán bộ (là người khai thác) thành các tổ nghiên cứu, như: Nôm, Văn, Sử - Địa, Triết. Không kể Nôm, cách chia theo môn học như vậy cũng có tính tương đối, vì trong sáng tác thời xưa tình trạng chung là “Văn Sử Triết bất phân”; song cũng có phần thuận lợi cho việc nghiên cứu và khai thác: mỗi môn là một phạm vi kiến thức, có từ vựng và phong cách viết riêng, do đó cán bộ cũng dễ có điều kiện đi sâu và chuyên môn hóa.
Cuối năm 1973, ủy ban Khoa học xã hội ra quyết định (số 131 ngày 10-12-73) xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban Hán Nôm. Như vậy là từ 1974, Ban đã thành một cơ quan nghiên cứu khá chững chạc. Biên chế 47 người, một người phụ trách hành chính - quản trị, 1 nhân viên đánh máy. Có bộ phận tư liệu, nhiệm vụ là mượn sách Hán Nôm của Thư viện, kể cả sách công cụ, cho anh em nghiên cứu; lưu giữ những bản dịch của các cộng tác viên, đồng thời quản lí luôn công tác thuê dịch và thanh toán thù lao. Còn lại là 4 tổ nghiên cứu: Nôm, Văn, Sử - Địa, Triết. Chỉ đạo, thẩm định công tác nghiên cứu là một Hội đồng khoa học gồm 8 cán bộ chủ chốt.
Ban có chủ trương chuyển hướng đặt chương trình khai thác di sản Hán Nôm theo thời đại. Để bắt đầu, hai tổ Văn, Triết chọn thời đại Tây Sơn, với nhận định: đây là một thời kỳ lịch sử rực rỡ, văn hóa có xu hướng phát triển tiến bộ, mà triều Nguyễn kế tiếp lại đã ra sức xóa bỏ mọi dấu vết. Các tổ đã đặt kế hoạch khai thác các tác giả Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn. Tổ Sử tiếp tục công trình về văn bia. Tổ Nôm khai thác văn thơ Nôm chống Tây Sơn (Nguyễn Bá Xuyến) và có chương trình riêng: tiếp tục điều tra thư mục, phiên âm các tập ca dao.
Cuối năm 1976, Ban tổ chức Hội thảo khoa học về nghiên cứu chữ Nôm; tham dự có toàn thể cán bộ trong Ban, những cán bộ quan tâm ngoài Ban (các ông Đỗ Văn Hỉ - Viện Văn học, Nguyễn Tài Cẩn - Đại học Tổng hợp Hà Nội, Lê Hiệu - Đại học Sư phạm Hà Nội...) cùng tất cả các học viên lớp Hán Nôm trên Đại học, ngồi chật cả gian phòng lớn của cơ quan. Tổ trưởng tổ Nôm, Kiều Thu Hoạch có “Báo cáo điều tra về loại sách Nôm và tình hình khai thác Nôm từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay” (bài này sau có in trong quyển Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới, năm 1979). Anh Nguyễn Tá Nhí tham luận về tình hình nghiên cứu chữ Nôm từ trước đến nay, chị Nguyễn Cẩm Thúy bàn về thơ văn Nôm thời Tây Sơn...
Có thể nhận xét rằng về mặt đặt chương trình công tác thì Ban còn lần mò, chưa vạch ra được quy hoạch lâu dài có tính chiến lược cho việc nghiên cứu, khai thác văn bản Hán Nôm, mới chỉ đề ra những kế hoạch ngắn hạn, và cũng đã có những thành tựu đầu tiên. Tổ Nôm đã hoàn thành tập Thư mục sách Nôm khá công phu, chia hơn 1000 quyển sách thành 3 loại: toàn Nôm, Hán diễn Nôm, Hán có Nôm. Một số tác phẩm do cán bộ trong Ban khảo cứu, biên dịch được xuất bản: truyện Nôm Ngọc Kiều Lê của Lý Văn Phức (Trần Văn Giáp dịch, Kiều Thu Hoạch chỉnh lý, chú thích và giới thiệu), xuất bản năm 1976; Tuyển tập văn bia Hà Nội, 2 tập (Vũ Tuân Sán giới thiệu), năm 1978; Thơ văn Phan Huy ích 3 tập (Nguyễn Ngọc Nhuận giới thiệu), năm 1978, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm (Cao Xuân Huy dịch, Hà Thúc Minh giới thiệu), năm 1978. Một số sách khác đã hoàn thành ở dạng bản thảo đánh máy, như tập Ca dao thời Lê, Nguyễn (phiên âm 7 đầu sách chữ Nôm như Nam phong giải trào, Quốc phong thi hợp thái, Lý hạng ca dao, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao tập chú...); có một số mãi về sau mới có dịp xuất bản, như Thơ đi sứ, Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn.
Những năm 70 là thời kỳ xây dựng cơ quan, xây dựng chuyên môn ngành Hán Nôm. Cán bộ vừa học (hoặc vừa dạy) vừa làm. Học nhiều, làm chưa mấy, và cũng đã nhìn ra con đường của Chuyên ngành. Tuy có lúc vất vả, có bước gập ghềnh, song nét chính là cơ quan từng bước được kiện toàn, có khí thế vươn lên, nhất là từ sau khi trở lại Hà Nội, miền Bắc có hoàn cảnh hòa bình, cơ quan mở rộng việc giao lưu học thuật với bên ngoài. Hai lớp cán bộ già trẻ nương tựa vào nhau cùng tiến; lớp già vui vì thấy vốn kiến thức cũ kĩ của mình có đất sử dụng, lớp trẻ vui vì luôn luôn có hiểu biết mới khi học cũng như khi làm. Mọi người phấn chấn. Xin chép lại ở đây một bài thơ phản ánh được những việc đã làm cũng như không khí thời ấy: đó là bài thơ của bác Đào Phương Bình- giảng viên hai lớp chuyên tu và lớp chữ Thảo, Tổ trưởng tổ Văn - đọc ngày 16.2.1977 để mừng cơ quan nhân dịp đón Tết, đón Xuân Đinh Tị:
Khoa học vang lừng trống tiến quân,
Ra tay chèo lái bến sông xuân.
Hán Nôm ngành học xây không mỏi;
Tân cựu rừng hoa hái rất cân.
ánh đuốc soi vàng thau, ngọc đá;
Ngọn cờ giương Sử, Triết, Nôm, Văn.
Sang năm Đinh Tị nhiều thanh thản,
Ai nấy cùng vui đức “nhật tân”.
Tháng 4-1978, Ban tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề “Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới” (có in kỷ yếu, năm 1979).
Tháng 9 năm đó, tôi được chuyển công tác sang nghiên cứu Trung Quốc học. Rời Ban Hán Nôm, tôi cũng có niềm vui là trong một thời gian đã có phần đóng góp xây dựng của mình.
Tháng 9 năm 1979, ủy ban Khoa học xã hội ra quyết định nâng Ban lên thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Điều đó là hợp lý: Ban cùng với lớp cán bộ trẻ của Ban, thật đã trưởng thành.
CHÚ THÍCH
(*) Nguyên Phó trưởng Ban Hán Nôm thời kì 1972 - 1978.
|