TB

NGUYỄN TƯ GIẢN, MỘT TRÍ THỨC LỚN CỦA NƯỚC TA THẾ KỶ XIX

TRẦN NGHĨA

LTS. Nhân kỷ niệm lần thứ 110 ngày mất Nguyễn Tư Giản (1890 - 2000), Bộ môn Hán Nôm Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp cùng Trung tâm hoạt động Văn hóa - Khoa học Văn miếu - Quốc tử giám, Tạp chí Hán Nôm, và dòng họ Nguyễn (gốc Lý) ở Vân Điềm - Du Lâm (Đông Anh, Hà Nội) chuẩn bị tổ chức một Hội thảo khoa học về danh nhân lịch sử, văn hóa Nguyễn Tư Giản tại Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội vào khoảng tháng 9 năm 2000.

Được sự đồng ý của Ban tổ chức, Tạp chí Hán Nôm kỳ này trích giới thiệu một số tham luận của hội thảo, nhằm cung cấp cho bạn đọc, đặc biệt là những người không có điều kiện đến dự Hội thảo, những thông tin sốt dẻo.

Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn"(1), Nguyễn Tư Giản với tư cách một vị Hoàng giáp của thế kỷ XIX, đã luôn luôn thao thức trước những vấn đề trọng đại mà thời cuộc đang đặt ra cho thế hệ ông.

1. Vấn đề tri thức.

Muốn xây dựng và phát triển đất nước, không thể thiếu hiểu biết, nhất là vào thời kỳ đầu triều Nguyễn, khi mà học hành thi cử sau nhiều năm bị chiến tranh làm gián đoạn, còn khá hoang sơ. Cần đào tạo lại đội ngũ làm công tác quản lý từ trên xuống dưới, trước hết là những người giữ vai trò cầm cân nảy mực ở triều đình.

Theo ý tưởng này, Nguyễn Tư Giản đã cùng một số đình thần xin vua Tự Đức cho mở nhiều buổi thuyết giảng về các tác phẩm kinh điển nhằm bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực quản lý đất nước cho các quan trong triều mà hồi bấy giờ gọi là “kinh diên”, tức chiếu giảng riêng dành cho nhà vua trên danh nghĩa. Trong một tờ sớ gửi lên Tự Đức, Nguyễn Tư Giản viết: “Chúng thần trộm nghĩ: việc đặt ra chiếu giảng, ý nghĩa thật không nhỏ. Muốn trình bày tường tận cái học của các bậc thánh, bồi dưỡng đức độ cho nhà vua, hiểu được nỗi sâu kín trong lòng dân, cứu xét những đắc thất trong việc trị nước, không thể không dựa vào chiếu giảng”(2). Tự Đức đã chấp thuận đề nghị này và buổi sinh hoạt đầu tiên được tổ chức vào tháng 2 năm Kỷ Dậu (1849). Hôm khai giảng, Nguyễn Tư Giản cảm kích làm bài phú có đoạn: “Chiếu giảng đã bày, cử tọa tề chỉnh. Giảng quan bèn mở sách kinh điển, giảng giải những chỗ thực hư khó phân biệt, cùng ý nghĩa sâu xa của chúng, nhằm thấy rõ con đường dẫn tới trị loạn hưng phế, hiểu được chuẩn mực của tu tề trị bình. Qua thảo luận mà thấy chỗ dị đồng, từ hỏi han mà nắm điều cốt yếu”(3).

Ngoài việc thuyết giảng mang tính đại trà như vừa nói, còn một hình thức đào tạo, bồi dưỡng nữa mang tính chuyên sâu cũng được áp dụng, đó là “ngự chế” và “ứng chế”. “Ngự chế”, tức nhà vua nêu lên một vấn đề thường là bức xúc, và “ứng chế” tức bề tôi trình bày những hiểu biết hoặc kiến giải riêng của mình chung quanh vấn đề được nêu. Có tới hàng chục chuyên đề như vậy được đưa ra luận bàn dưới triều Tự Đức. Người “ứng chế” phần nhiều là những nhà khoa bảng nổi tiếng như Bảng nhỡn Vũ Duy Thanh (1811 - 1863), Thám hoa Mai Anh Tuấn (1815 - 1855), Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890), Hoàng giáp Lê Đình Diên (1824 - ?) v.v.

Riêng Nguyễn Tư Giản có các bài ứng chế đáng chú ý sau đây:

1. Học giả dĩ trị sinh vi tiên luận (Bàn về việc học phải lấy phục vụ đời sống làm đầu);

2. Đôn sĩ tập luận (Bàn về việc làm cho quan lại có thói quen thành thật, đáng tin cậy);

3. Thuần thần luận (Bàn về việc làm cho bề tôi trở nên trung thành, chân chất);

4. Văn thần bất ái tiền luận (Bàn về văn thần không hám tiền bạc);

5. Dĩ đức vi xa, dĩ lạc vi ngự phú (Bài phú về việc lấy đức làm xe, lấy niềm vui làm người đánh xe);

6. Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa luận (Bàn về người quân tử đoàn kết mà không a dua với nhau; kẻ tiểu nhân a dua với nhau mà không đoàn kết);

7. Lịch đại văn nhân luận (Bàn về nhà văn các đời);

8. Lịch đại thi nhân luận (Bàn về nhà thơ các đời);

9. Hữu vi vô vi luận (Bàn về hữu vi và vô vi);

10. Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa (Bàn về thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa);

11. Phụ tử chi gian bất trách thiện luận (Bàn về việc giữa cha và con không đặt vấn đề bàn bạc thương lượng để đi tới quan hệ tốt) (chuyện bàn bạc thương lượng nhân nhượng chỉ đặt ra trong quan hệ bạn bè. Còn giữa cha và con thì phải xử lý theo một quan hệ khác: phụ giáo , tử hiếu  ).

Nhà Nguyễn sở dĩ có được một ông vua hay chữ như Tự Đức và đám triều thần có trình độ học vấn cao, cũng là nhờ ở chỗ biết coi trọng tri thức, trong đó có phần thúc đẩy và đóng góp không nhỏ của Nguyễn Tư Giản.

2. Vấn đề canh tân đất nước.

Làm sao cho dân giàu nước mạnh, hầu ứng phó được với thời cuộc ?

Muốn thế, điều cần làm ngay, theo Nguyễn Tư Giản, là phải tiến hành việc cải cách hành chính để thay đổi tình trạng bộ máy Nhà nước kém hiệu lực như hiện thấy. Trong một bài ứng chế viết cho Tự Đức năm 1853, ông nêu lên 6 cái tệ lớn của quan lại đương chức, mà nhức nhối hơn cả là nạn tham nhũng và hiện tượng quan viên ngồi chơi. Nguyễn Tư Giản viết: "Nay, trong thì các nha thuộc sáu bộ; ngoài thì tỉnh, phủ, châu, huyện cho đến dinh, vệ, bảo, suất, số viên chức lên tới hàng vạn, bệ hạ có chắc họ đều trong sạch cả không? Lương cấp cho họ liệu có đủ để trên thì phụng dưỡng cha mẹ, dưới thì nuôi nấng vợ con không ? (...). Với cảnh lương bổng ít ỏi như hiện nay mà ngày nào cũng yêu cầu quan lại phải thanh liêm, thì khác nào ngựa nuôi trong chuồng, rơm cỏ không cho ăn đủ mà đòi trở thành thiên lý mã, cây trồng vừa mới lớn, nước nôi không tưới đều mà đòi trở thành danh mộc to mấy sải ôm. Trong khi đói rét bức bách, hình pháp đốc thúc, triều đình đãi ngộ nhân tài một cách vô liêm sỉ như vậy thì quan lại làm sao không tham nhũng, dân chúng làm sao không khốn khổ?"(4).

Về hiện tượng quan viên ngồi chơi, Nguyễn Tư Giản viết: "Đất chỉ vừa một huyện thì bày ra thành một tỉnh, đất chỉ vừa một tổng thì bày ra thành một phủ, đất chỉ vừa một ấp thì bày ra thành một huyện, số quan lại văn võ trong và ngoài triều đình ăn lương Nhà nước do vậy trở nên quá đông. Quan nhiều thì công việc không thể không rối rắm, mà công việc đã rối rắm thì dân không thể không oán trách. ấy là cái nạn "nhũng viên", tức là kẻ nhàn tản quá nhiều trong cơ quan Nhà nước"(5).

Năm 1859, quân Pháp tiến đánh Gia Định và năm sau, chúng gửi cho Tự Đức tờ "Hòa ước" gồm 11 khoản. Quá nửa triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ tỏ ra bối rối, muốn cắt đất cầu hòa. Được tin này, Nguyễn Tư Giản nghĩ: "Trời sinh ra con người trong mỗi thời đại, tất đủ sức để giải quyết các công việc của thời đại đó"(6). Lịch sử, theo ông, không đặt ra những câu hỏi mà thời đại chưa có khả năng giải đáp. Điều quan trọng là ta có quyết tâm vượt qua thách thức hay không. Nguyễn Tư Giản liền gửi lên Tự Đức một tập "gián ngôn" dài, trong đó phân tích kỹ lý do vì sao không nên giảng hòa với giặc, mà cần kiên trì kháng chiến để bảo toàn lãnh thổ và giữ cho được chủ quyền đất nước trước cuộc xâm lăng của “Tây dương”. Nhưng Tự Đức đã gạt phắt sang một bên những lời can gián trên đây của Nguyễn Tư Giản với cái cớ: “Xử lý việc Dương di, là xuất từ ý trẫm. Để trẫm bàn lại với các đại thần trong triều, mong sao cho công việc tốt đẹp, không xảy ra điều gì đáng tiếc. Khanh đang ở bên ngoài, nghe tin đồn chưa chính xác, nên lời lẽ hùng hồn mà không trúng, thậm chí quá đáng. Tuy nhiên, nói thật nói thẳng cũng là bổn phận của bề tôi, trẫm miễn tội cho khanh. Mọi việc đã có triều đình lo liệu, khanh nói lắm làm gì?"(7). Được ít lâu, sáu tỉnh Nam Bộ rơi vào tay giặc Pháp. Nguyễn Tư Giản đành ngậm ngùi than cùng Nguyễn Thông lúc này vừa rời Vĩnh Long ra tị nạn ở Bình Thuận để tỏ ý không chịu khuất phục quân cướp nước:

Tâm đồng Thân tử ỷ tường khốc;

Thân tự Tương Như phụng bích hoàn.

(Lòng như Thân Bao Tư dựa vào tường mà khóc để xin quân cứu viện;

Thân giống Lận Tương Như quyết giữ ngọc lại, không trao cho kẻ bịp lừa)(8).

Để cứu vãn tình thế, nhất là sau khi đi sứ Trung Quốc trở về nước, Nguyễn Tư Giản cùng một số nhân sĩ thức thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện... dâng sớ lên vua Tự Đức trình bày một kế hoạch “canh tân tự cường”, như mở rộng bang giao với các nước phương Tây, gửi học sinh ra nước ngoài du học v.v., những điều mà các nước trong khu vực như Nhật Bản, Xiêm La cũng đang làm(9). Nhưng rốt cục, Tự Đức lại vẫn gạt sang một bên. Nghe nói vào khoảng cuối đời, Nguyễn Tư Giản từng dẫn người con út xuống Hải Phòng định sang Hương Cảng, nhưng chuyến đi không thành, đành khép lại ước vọng “canh tân” đã vô phương thực hiện(10).

3. Vấn đề tôn trọng và gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc.

Vào những năm làm Tham tán quân vụ hoạt động tại Hải Dương, Nguyễn Tư Giản có ghé thăm lăng tẩm các vua nhà Trần ở Yên Sinh (Mễ Sơn, Đông Triều). Ông đã soạn cuốn Trần triều lăng tẩm đồ mạn ký để nói về những thu hoạch nhân chuyến đi này, trong có đoạn: “Giản tôi mới đến, chưa kịp đi thăm khắp. Vừa rồi, nhân việc công mà qua đây. Ai cũng bùi ngùi xúc động (...). Có người mang tấm bản đồ lăng tẩm nhà Trần ra cho tôi xem (...). Giản tôi đỡ lấy bức vẽ và ghi lại tất cả...”. Cuốn Trần triều lăng tẩm đồ mạn ký hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu VHv.1755, nhiều người cho đây là thủ cảo của Nguyễn Tư Giản. Đáng tiếc là sách do quá cũ nên nhiều chữ không xem nổi, và tấm bản đồ về lăng tẩm nhà Trần mà Nguyễn Tư Giản từng cẩn thận sao chép lại nay cũng đã mất. Dù vậy, với những gì còn đọc được, nhất là mấy chữ “... thị Thái Tôn, Thánh Tôn dữ truyền nghi” (...ấy là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và các truyền thuyết về hai ngài) ở cuối sách, ta cũng có thể thấy sự khâm phục và trân trọng rất mực những chiến công hiển hách của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông dưới sự lãnh đạo tài tình của các vua Trần.

Tinh thần tôn trọng và ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của Nguyễn Tư Giản còn được thể hiện qua bài Biện di thuyết do ông soạn thảo trong dịp sang sứ Trung Quốc vào mùa thu năm 1868. Ông kể lại: khi đoàn sứ bộ ta tới Quảng Tây, thấy trong hiệu sách đang bày bán tập

Việt Tây dư địa đồ thuyết, trong đó, phàm những nơi đất Trung Hoa tiếp giáp với Việt Nam đều ghi là giáp “mỗ di châu, di huyện”. Xem chưa hết tấm bản đồ, ông thở dài than rằng: “Ôi! Nói thế mà nghe được sao ? Người Trung Quốc cho họ là “trung thổ”, còn các nước chung quanh họ là “phiên phong”. Nhưng kìa xem trời che phủ địa cầu, ngoài người Trung Hoa ra, còn có muôn nghìn nước, làm sao phân biệt được đâu là “trung”, đâu là “ngoại”? Chả lẽ ai cùng khu vực với mình thì gọi là “hạ”, mà không tương thích với mình thì gọi là “di” ? Nên nhớ Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam xưa kia có lúc là một, cũng “Thi, Thư, Lục nghệ”, cũng “Lễ, Nhạc, y quan”... Lại kìa như đất đai có lớn có nhỏ, thế nước có lúc mạnh lúc yếu, ấy là chuyện tự nhiên. Nếu đức nghĩa không tì vết, thì tuy yếu mà mạnh, tuy nhỏ mà lớn. Cho nên lấy đức để đối xử với nhau thì thiên hạ sẽ hướng về, ấy là đạo lý từ xưa. Chưa nghe nói ai kiêu căng, ngạo mạn mà khiến người ta sùng phục. Sách Tả thị viết: “Anh đừng bảo nước Tần không có người”, đấy là câu nói của nước đối phương dùng để trả lời khách!”(11).

4. Vấn đề hài hòa lợi ích chung với lợi ích riêng.

“Túc dạ tại công, vong tư vong gia”, hầu hết thời gian dành cho việc dân việc nước, Nguyễn Tư Giản thấy mình thật có lỗi với xứ sở quê hương. Năm 1856, ông xin nghỉ phép, về Du Lâm để sửa sang mồ mả và nhà thờ cha mẹ. Trong tờ sớ Thỉnh qui tảo tiên mộ, Nguyễn Tư Giản viết: “Thần phụ mẫu đều mất sớm, chưa kịp phụng dưỡng. Ra làm quan đã 14 năm mà chưa một lần về tảo mộ và cúng giỗ gia tiên, đấy là điều khiến thần luôn luôn nghĩ ngợi, cảm thấy bứt rứt, tự thương, tự tiếc. Năm Thiệu Trị 6 (1846), vợ thần qua đời, thần được phép về quê một tháng để lo liệu việc chôn cất. Lần đó, vội vội vàng vàng, hết phép lại đi ngay, không có thời gian để tu sửa mồ mả cha mẹ. Thấm thoắt đã 10 năm. Năm ngoái, huyện nhà bị vỡ đê, làng của thần cách chỗ vỡ đê có một mũi tên nên bị nước lũ tràn ngập. Phần mộ và từ đường thờ cha mẹ thần cũng đều ở đấy cả, bị mưa dập, gió day, nước xoi, đất lở... Hễ nghĩ tới chuyện này là lòng thần đau nhói, trán toát mồ hôi.”...

Như để trang trải phần nào món nợ tình cảm đối với bà con quê hương, Nguyễn Tư Giản đã tranh thủ những lúc việc công rảnh rỗi, sưu tầm tư liệu và biên soạn bộ Vân Điềm Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả, qua đó nêu cao truyền thống chịu thương chịu khó, cần cù lao động và đặc biệt là tinh thần hiếu học của dòng họ Nguyễn ở Vân Điềm - Du Lâm.

Có thể thấy Nguyễn Tư Giản là một trí thức lớn của nước ta thế kỷ XIX. Những điều ông nghĩ, những việc ông làm vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với thời đại ngày nay, nhất là khi chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, coi trọng tri thức, coi trọng truyền thống, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng.

Chú thích:

(1). Nguyễn Trãi: Mạn hứng 62. Câu này vốn là câu của Tô Đông Pha.

(2). Thạch Nông toàn tập A.376/4, Q15, Kinh diên gián sớ.

(3). Thạch Nông toàn tập A.376/4, Q11, tr.54b - 56b, Trọng xuân Khâm Văn điện phủ khai kinh diên phú.

(4),(5). Xem Đôn sĩ tập luận (Tập hiền viện khởi cư trú Nguyễn Tư Giản phụng chế), trong sách Trướng đối cập ứng chế văn A.2923.

(6). Trần triều lăng tẩm đồ mạn ký VHv.1755. Nguyên văn: “Thiên sinh nhất thế nhân, tự túc liễu nhất thế sự”.

(7). Xem Trướng đối tạp lục, VHv.1920, tr103a - 119b.

(8). Xem bài Tống Tỉ bộ Nguyễn Hy Phần, Thạch Nông toàn tập A.376/4, Q.6, Yên thiều thi tập, tr.1b.

(9). Nhật Bản phát động cuộc “Minh Trị duy tân” vào năm 1868; cũng vào thời gian này, vua nước Xiêm là Chulalongkorn quyết tâm thay đổi pháp chế, lên đường đi thăm ấn Độ và một số nước Châu Âu, cử con em du học... “Nhiều vua chúa và quí tộc Thái Lan đã sang Tây học, thông thạo ngoại ngữ, đã góp phần tạo nên một văn hóa Thái Lan được phương Tây hóa về nhiều mặt, trong đó có vai trò của vua Mongkut, tức Rama IV (1851 - 1868), của Chulalongkorn, tức Rama V (1868 - 1910), của Vajiravudh, tức Rama VI (1910 - 1925) đều là những người am hiểu phương Tây, biết duy trì độc lập dân tộc với những nhân nhượng cần thiết với phương Tây đồng thời đổi mới đất nước theo con đường Tây phương hóa về chính trị, pháp luật, kinh tế” (Phan Ngọc).

(10). Nguyễn Triệu Luật: Ngược đường Trường Thi, Phổ thông bán nguyệt san, 1939, tr.138.

(11). Xem Thạch Nông văn tập A.376/4, Q.15, tr.49b.

TB

BẢN LĨNH NGUYỄN TƯ GIẢN
QUA BIẾN ĐỘNG CỦA CUỘC ĐỜI

TRẦN BÁ CHÍ

Trong Lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Tư Giản là một nhân vật thể hiện rõ nét về tài năng và gặp nhiều cảnh ngộ ly kỳ trong cuộc đời hoạt động.

Nguyễn Tư Giản vốn tên là Nguyễn Văn Phú, tự Hy Bạch, Tuân Thúc, hiệu Thạch Nông, sinh năm Quý Mùi (1823), mất năm Canh Dần (1890), thọ 67 tuổi. Ông là cháu nội của danh sĩ Nguyễn án (Kiếm Hồ Ngư ẩn), quê làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội. Nhờ xuất thân từ một gia đình khoa bảng nhiều đời, nên mới 21 tuổi ông đã đậu Hoàng giáp khoa Giáp Thìn (1844) và từ đó được đem tài năng ra giúp nước. Ông bước vào sự nghiệp chính trị khi tình hình đất nước đang biến thiên phức tạp, thực dân Pháp ráo riết xâm lược Đông Dương để mở rộng thị trường tư bản, các nhà truyền giáo phương Tây đang tìm mọi cách đi vào tâm lý xã hội Việt Nam, nội bộ triều đình Tự Đức đang phân hóa rõ rệt giữa tư tưởng chủ hòa chủ chiến, cuộc sống nhân dân cực khổ lầm than vì nạn lụt lội và chiến tranh xâm lược... Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Tư Giản bước vào đời đã luôn luôn tỏ rõ được lòng yêu nước thương dân, tỏ rõ được tư tưởng chủ chiến, quyết tâm chống thực dân Pháp đến cùng để bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Bởi vậy, dù cuộc đời trải qua bao lần thăng trầm, ông vẫn giữ vững được tiết tháo, giữ vững được bản lĩnh tốt đẹp.

I. BA LẦN BỊ GIÁNG BỊ CÁCH, MỘT LẦN BỤ TRÁCH VẤN

1. Lần thứ nhất bị giáng chức

Sau khi đậu Hoàng giáp, ông được sơ bổ chức Quang lộc tự khanh, làm việc ở triều đình Huế. Năm 1857, triều đình đặt Nha Đê chính ở Bắc Kỳ, điều Vũ Trọng Bình đương chức Tuần phủ Ninh - Thái (Bắc Ninh, Thái Nguyên) sang làm Đê chính sự vụ, điều Nguyễn Văn Vỹ đương chức án sát Hà Nội sang làm Đê chính tham biện, trực tiếp lo việc trị thủy các con sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình. Nhưng rồi hai ông này bất lực trong việc hộ đê, vua Tự Đức phải trưng cầu ý kiến các bề tôi có hiểu biết về tình hình sông nước ngoài Bắc. Nhân đó, mùa thu năm Đinh Tị (1857), Nguyễn Tư Giản dâng vua một bản Phương lược trị thủy Nhị Hà gồm 9 điều. Vua Tự Đức đánh giá cao bản Phương lược này, rồi quyết định bổ nhiệm Nguyễn Tư Giản thay Vũ Trọng Bình làm chức Hiệp lý Đê chính sự vụ, phái ông về quê lo việc đê điều.

Trong những ngày ra Bắc trực tiếp lo việc hộ đê, Nguyễn Tư Giản vẫn luôn luôn hướng về triều đình Huế, nghe ngóng tình hình hoạt động kháng chiến của triều đình. Đặc biệt, ông quan tâm nhiều đến diễn biến tư tưởng của các đình thần trước thời cuộc Tổ quốc lâm nguy.

Về phía thực dân Pháp, sau khi ký Hiệp ước Thiên Tân với Trung Hoa ngày 27.6.1858, đến tháng 8 chúng cho chiến hạm xâm phạm vùng biển Đà Nẵng nước ta, nổ súng chiếm bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình phản công lại, nhưng đều bất lợi. Pháp chiếm xong Sơn Trà, tướng Giownuiy đưa hải quân vào chiếm Sài Gòn. Đến mùa hè năm 1859, quân Pháp chuẩn bị chiếm Kinh thành Huế, vua Tự Đức và các đình thần hốt hoảng lo lắng. Họp triều bàn thì có nhiều ý kiến trái ngược nhau, tất cả đều đến tai Nguyễn Tư Giản.

Về nội bộ triều đình, bấy giờ có mấy ý kiến khác nhau: phái Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản chủ trương thế thủ, nghị hòa cũng để thế thủ; phái Trương Quốc Dụng và Phan Huy Vịnh chủ trương chống giữ lâu dài; phái Tô Trân, Hồ Sĩ Tuấn,... chủ trương quyết đánh, không nghị hòa với Pháp. Vua Tự Đức đang hoang mang giữa các dòng tư tưởng đó. Ngoài ra chờ đợi hiến kế, chẳng thấy ai nêu ý gì mới hơn, chỉ có một tờ sớ của Nguyễn Tư Giản từ xa gửi về cho vua.

Tháng 7 năm Kỷ Mùi (1859), Nguyễn Tư Giản dâng sớ về Huế, thiết tha mong nhà vua đừng hòa với thực dân Pháp. Vua đưa tờ sớ ấy hỏi ý kiến Viện cơ mật; đại thần Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản cực lực phản đối và cho rằng tờ sớ của ông đã xúc phạm đến ý tốt của họ. Tuy nhiên, vua Tực Đức vẫn công nhận ý kiến của Nguyễn Tư Giản là chân thành, thẳng thắn, xuất phát từ lòng yêu nước.

Cũng do quan tâm nhiều đến việc chống Pháp, lại thiếu sở trường về mặt trị thủy, nên công việc hộ đê không đáp ứng được yêu cầu của vua, ông đã bị vua khiển trách. Tháng Giêng năm Tân Dậu (1861), ông và Nguyễn Văn Vỹ đều bị giáng chức. Năm 1862, ông phải đi hiệu lực, phục dịch chiến sự dẹp giặc ở vùng biển Quảng Yên chờ cơ hội lập công chuộc tội. Đó là lần giáng chức thứ nhất.

2. Lần thứ hai bị giáng chức

Giặc biển Quảng Yên lúc này chủ yếu là gian thương, dân vong mạng người nước Thanh. Chúng có hàng trăm thuyền chiếm đóng huyện Nghiêu Phong, huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Yên và huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Tại đây chúng thường xuyên kéo quân đi cướp của, giết dân, gây nên bao cảnh thảm khốc! Cũng có số giặc cướp thường gọi là “Giặc Tàu Ô”.

Cũng thời này, ở Bắc Ninh có Tạ Văn Phụng mạo xưng là dòng dõi vua Lê Lợi, đổi họ tên là Lê Duy Minh, đã nêu chiêu bài “phục Lê, diệt Nguyễn”, cùng tên Nguyễn Huân tự xưng là cháu ba đời dòng vua Lê, đổi tên là Lê Huân, làm minh chủ cho đạo quân của hội Gia Tô, cấu kết với thế lực hải tặc ở Quảng Yên gây biến loạn, đời sống nhân dân rất khổ.

Nguyễn Tư Giản lúc này tham gia chiến sự với chức danh “Chuyên biện quân nhu” - là một việc làm rất khó khăn, mới lạ đối với ông. Các trận đánh lớn ở Cát Bà, Chàng Sơn, Cành Động, U Lang, Trực Cát, Đồ Sơn, giặc có hàng trăm thuyền lớn, hàng ngàn tay súng. Quân triều đình cần có nhiều lương, nhiều thuyền, nhiều súng mới có thể dẹp nổi giặc. Nguyễn Tư Giản cùng các cộng sự thật khó lòng xoay xở đầy đủ. Điều khó khăn cho ông nữa là: khi vua điều ông lo việc quân nhu, vẫn bắt ông kiêm nhiệm lo cả việc đê điều với lý do chưa có người thay thế.

Trong năm 1862, Nguyễn Tư Giản vừa phải tâu vua về tình hình đê điều, vừa phải hiến kế phá giặc. Vua hỏi Cơ mật đại thần Trương Đăng Quế về tình hình giặc ở Quảng Yên như thế nào, Quế tâu: Đối với địa bàn Hải Dương, Quảng Yên, nên trước dùng quân bộ, rồi sau dùng quân thủy phối hợp, có thể phá được giặc. Bấy giờ, bọn giặc biển đang chia quân quấy nhiễu các hạt Kinh Môn, Bình Giang, Ninh Giang, vua phái Nguyễn Đình Tân đương chức Tổng đốc Nam Định, Hưng Yên sang làm Kinh lược quân vụ Hải Dương, Quảng Yên, chỉ huy việc dẹp hải tặc. Nguyễn Tư Giản cùng Nguyễn Đình Tân chia quân thành hai đạo đi dẹp. Vua được tin, vừa khen, vừa lo vì cho rằng: hai viên này đều chưa thành thạo việc binh! Kết quả, đúng như điều vua lo vậy, trận nào cũng tâu “bất lợi”.

Vua đã khiển trách các tướng bại trận rằng: "Nguyễn Dũng thì ngu đần mà thua trận Cẩm Giàng, Nguyễn Tư Giản chỉ nói khoác, thiếu thực tế, Nguyễn Trạch ra trận thì nhút nhát. Cách chức 3 viên này, cho được lưu để gắng sức lập công". Sau đó, vua hỏi triều đình về việc thay người. Các đình thần đã tiến cử Thượng thư bộ Hình Trương Quốc Dụng làm Tổng đốc quân vụ Hải Dương - Quảng Yên, cử Phạm Tam Tỉnh làm Hộ lý Tổng đốc, cử Đặng Hạnh làm Đề đốc quân vụ. Từ đó, thế giặc có cơ đẩy lùi dần.

Tháng 6 năm Giáp Tý (1864), sau nhiều trận lớn tiêu diệt hải tặc, Thống tướng Trương Quốc Dụng cũng bị tử trận ở trận địa tổng Hà Nam, vua tạm điều Tuần phủ Bắc Ninh là Đỗ Quang ra làm Tham tán quân thứ Hải Yên cùng Tuần phủ Quảng Yên là Nguyễn Hữu Thường tiếp tục việc đánh dẹp. Rồi vua lại phái thêm Thống tướng Nguyễn Tri Phương, Đốc binh Ông ích Khiêm cùng Tán lý quân vụ Hải - Ninh Phạm Chi Hương hội quân dẹp giặc biển. Mùa thu năm ất Sửu (1865) quan quân thắng nhiều trận lớn, các tướng đầu sỏ của giặc cũng đều bị bắt.

Sáu tướng đầu sỏ của giặc là Nguyễn Văn Niên (giáo dân), Tạ Văn Phụng (giáo dân), Nguyễn Đình Ước (thổ phỉ), Lê Bá Đức (thổ phỉ), Vy Xuân và Phan Văn Khương (thương nhân) đều bị tử hình, thế lực tan rã. Từ đó Nguyễn Tư Giản cũng được xét khai phục.

3. Lần thứ ba bị cách chức

Nguyễn Tư Giản được khai phục, vua điều về Kinh đô Huế tiếp tục công việc tu soạn ở Viện Hàn lâm. ở đây ông gặp lại nhiều nhân sĩ thân quen, lại gặp những người “tâm đồng ý hợp” như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện... nên thời gian này ông sáng tác nhiều tác phẩm và một vài bài điều trần dâng vua, tỏ được lòng mong muốn canh tân đất nước.

Tháng 6 năm Mậu Thìn (1868), ông được vua chọn đi sứ nước Thanh. Sứ đoàn Việt Nam do Lê Tuấn làm Chánh sứ, ông và Hoàng Tịnh làm Phó sứ, mọi biểu sớ giấy tờ quan hệ đều do ông thảo. Triều đình tổ chức tiễn đưa sứ đoàn ở Kinh đô Huế rất long trọng. Vua Tự Đức đã làm bài thơ tiễn sứ đoàn.

Chuyến thông sứ sang Thanh lần này có liên quan đến hoạt động của tàn quân Thái Bình Thiên Quốc (TBTQ) tràn sang Việt Nam. Từ năm 1863 bị triều Thanh đàn áp mạnh, tàn quân TBTQ tràn sang nước ta dần dần biến chất, đều “thổ phỉ hóa”, rồi chia thành 3 phe tàn sát lẫn nhau: Phe Cờ đen do tướng Lê Vĩnh Phúc cầm đầu; phe Cờ trắng do Lương Văn Lợi, Triệu Hữu Điền cầm đầu; phe Cờ vàng do Ngô Côn, Hoàng Sùng Anh cầm đầu. Mấy vạn quân của 3 phe này tràn sang nước ta gây bao cảnh giết người, cướp của rất thảm khốc. Triều đình Huế đang bận chống Pháp, không dám đụng tới chúng, chỉ lợi dụng chúng tàn sát lẫn nhau mà xua đuổi dần, nới giảm dần đau thương cho trăm họ.

Qua chuyến đi sứ Thanh, Nguyễn Tư Giản hiểu biết thêm về tình hình Trung Quốc, Nhật Bản và tình hình các châu lục. Ông thấy thanh niên Trung Quốc du học nhiều nước trên thế giới; ông cũng muốn nước ta quan hệ với Âu Mỹ để cho người sang học kỹ nghệ mới lạ. ý kiến này của ông có tâu vua Tự Đức trong bản điều trần và được người bạn thân tín là Bùi Viện ủng hộ. Các ông đã tập hợp nhau thành một tổ chức hoạt động cứu nước gọi là Tân Đảng. Đảng này gồm có Hoàng Phan Thái, Lê Tuấn, Đặng Đức Thuận, Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện và ông. Vua Tự Đức cũng biết ông là nhân vật quan trong trong đảng này, nhưng không cấm đoán gì, mà còn giao ông đảm đương nhiều công việc. Tháng 2 năm Giáp Tuất (1874) vua đã đề bạt ông làm Thượng thư bộ Lại kiêm lãnh việc Quốc tử giám. Sau đó mấy tháng, ông lại đảm đương thêm một phần việc ở bộ Lễ và Nha Thương bạc.

Đến tháng 7 năm ất Hợi (1875), Nguyễn Tư Giản lại bị cách chức, phải đi khai hoang cải tạo. Lý do bị kết tội như sau: ông làm Thượng thư bộ Lại, lấy một học trò thân tín là Phan Văn Nhã quê ở Thanh Hóa làm văn thư. Do quá thân quen, tên Nhã làm giả quả ấn Quan phòng Thanh Hóa, mạo làm những tấm bảng Cửu phẩm xin việc ở các bộ. Khi Nhã đưa bằng ra, xin chữ ký của bộ, Thượng thư Nguyễn Tư Giản, Tham tri Nguyễn Văn Thúy, Thị lang Nguyễn Mậu Đạo đều không để ý, điềm nhiên ký tên đóng dấu vào. Việc bị phát giác tâu lên, vua giao Pháp ty chiếu luật định án. Việc bị giáng 4 cấp và cách chức, bắt phải lên miền núi phía Tây Thừa Thiên làm chức Mộ phu khai hoang để chuộc tội.

Sau 3 năm cải tạo tích cực, đến tháng Giêng năm Mậu Dần (1878), vua Tự Đức ân xá cho Nguyễn Tư Giản được về triều phục chức, cho làm Hàn lâm thị giảng học sĩ, sung chức Quản viện. Trong thời gian này, ông biên soạn và sáng tác được nhiều tác phẩm có giá trị cho đời sau, nhiều bài điều trần mang tư tưởng duy tân tiến bộ.

Năm Bính Tuất (1886), vua Đồng Khánh cử Nguyễn Tư Giản làm Thị lang bộ Hộ, rồi giao ông làm Tổng đốc Ninh - Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên). Lúc này, Nguyễn Tư Giản tuổi đã cao, cuộc đời trải qua bao thăng trầm mỏi mệt, ông không còn thiết tha gì cái chức danh Tổng đốc, vì phải phụng sự hai lớp quan trên là quan Tây và quan Nam triều. Trước kia, Tổng đốc cấp tỉnh được trực tiếp lên bộ, lên nhà vua, nay thì Tổng đốc phải qua Nha kinh lược Bắc Kỳ (đóng ở Tràng Thi, Hà Nội) rồi mới tới được triều đình Huế.

Từ triều Đồng Khánh, Nguyễn Tư Giản thấy thế sự ngày càng phức tạp, nên đã mấy lần đệ đơn xin về hưu. Vả lại, thời này, phong trào Cần vương đang mong chờ những người từng nêu cao tư tưởng chủ chiến chống Pháp, ông không muốn ngồi mãi trên ghế quan trường, đem thân hầu hạ quan Tây. Đó là lý do để cuối đời quan, ông lại bị một lần chất vấn.

4. Lần thứ 4 bị trách vấn.

Nguyễn Tư Giản từ ngày nhậm chức Tổng đốc Ninh Thái đã làm đầy đủ mọi phần trách nhiệm của mình. Đến tháng 3 năm 1887, vua Đồng Khánh trích công quỹ 1.000 đồng Đông Dương góp cho chính phủ Pháp để mua đồng đúc tượng Toàn quyền Paul Bert nói là khoản tiền do dân An Nam quyên góp tri ân. Nhân đó, các quan trong Nha Kinh lược Bắc Kỳ (Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Chính) cũng bày chuyện lạc quyên các quan hàng tỉnh, hàng huyện góp tiền mua đồng gửi sang Pháp, hy vọng được các quan Tây cho chút ơn huệ. Thế nhưng các quan chức ở Bắc Ninh - Thái Nguyên không quyên góp một đồng nào. Nha Kinh lược Bắc Kỳ hạch sách quan Tổng đốc rồi tâu vua, xin cho trách vấn và đổi chức. Vua Đồng Khánh cho Nguyễn Xuân Duẩn thay làm Tổng đốc Ninh - Thái, triệu Nguyễn Tư Giản về Nha Kinh lược xét hỏi.

Vào trách vấn, Nguyễn Tư Giản biện giải rằng: Việc này, không do chỉ dụ nhà vua giao trách nhiệm cho cả 3 kỳ. Chỉ riêng Nha Kinh lược Bắc Kỳ định ra, các Tổng đốc không được dự bàn thì không trách cứ được. Hai nữa, quyên góp là việc làm tự nguyện, pháp luật cũng không ràng buộc; các quan chức Ninh-Thái hiện nay đang rất túng quẫn, không thể có tiền góp sang nước Pháp. Cuối cùng Nha Kinh lược cũng im lặng, không hỏi gì thêm. Ông được thôi chức Tổng đốc Ninh-Thái, vui mừng như được thoát nạn. Từ đó, ông về quê sống thanh thản cho đến năm 1890.

II. VUA ĐÁNH GIÁ VÀ TỰ TRÁCH

Nguyễn Tư Giản ba lần bị giáng, bị cách, nhưng vẫn vui vẻ, sống thanh thản tự tin. Vua giao việc, ông gắng sức làm; bị trách phạt, ông cũng không oán trách vua. Đó là nhân cách, là bản lĩnh một đại trượng phu, một danh nho quân tử. Bởi vì, mỗi sai sót trong đời xảy ra, có khi do mình tạo nên, cũng có khi do người dùng mình không đúng chỗ. Nguyễn Tư Giản đã tự tin mình như vậy.

Về phía vua Tự Đức, khi bực tức thì trách mắng, khi ngồi rỗi, suy sâu nghĩ kỹ đã thấy lỗi của người có khi do mình kém sáng suốt trong việc xét, dùng.

Đây là lời vua Tự Đức nói với quần thần, rằng: “Nguyễn Tư Giản hiệu lực ở quân thứ tỉnh Đông lâu ngày, trẫm cũng băn khoăn. Tư Giản văn học hơn cả các Tiến sĩ, trẫm đã dùng lầm cho làm việc đê sông, không phải là nghề sở trường, thành ra khi đình thần nghị sự, thì Tư Giản bị mắc tội. Nay nên cho về triều tùy việc sai phái để có dịp lập công”(1).

Từ năm 1868, ông đi sứ sang Thanh, rồi về nước làm được nhiều việc, được thăng Thượng thư bộ Lại, rồi chia thêm việc ở bộ Lễ và sung làm ở Quốc tử giám. Vua Tự Đức có lời dụ rằng: “Quốc tử giám là nơi dưỡng dục nhân tài, đào tạo người học thức rộng, lòng ngay thẳng, để giúp việc nước. Đó là việc hệ trọng, thế mà lâu nay không để ý gây dựng, nên học trò không thuần đức hạnh, nhân tài kém phát đạt. Nay chuẩn cho Nguyễn Tư Giản và Phạm Phú Thứ kiêm lãnh công việc. Các ngươi đều là người học vấn cao, nên đến thúc giục khuyến khích để học trò giỏi có nết na, giúp ích cho xã hội. Trẫm mong hai ngươi cố gắng”(2).

Năm 1875, Nguyễn Tư Giản lại bị cách chức, phải đi khai hoang cải tạo. Tuy vua sai Pháp ty xét tội nặng(3), nhưng vua cũng biết: vụ này Nguyễn Tư Giản không có tham vọng gì, chỉ bởi quá tin người học trò. Mà thực ra là do trò hại thầy, làm tội thầy. Cho nên Phan Văn Nhã đã bị khép án tử hình, thì bắt Nguyễn Tư Giản đi khai hoang cũng là điều bất đắc dĩ để rút kinh nghiệm mà thôi.

Nguyễn Tư Giản là nhân vật lịch sử hoạt động vào cuối thế kỷ XIX. Cuộc đời trải qua bao nhiêu gian truân thử thách, ba lần bị cách bị giáng mà chí không nản. Lòng yêu nước thương dân của ông bộc lộ rõ trong những bản điều trần, trong lời sớ thiết tha mong vua đừng nghị hòa với giặc Pháp. Đó là những những nét đẹp về tấm lòng, về nhân cách, về bản lĩnh của ông. Chúng ta ghi nhận, tưởng nhớ và trân trọng học tập.

CHÚ THÍCH

1. Đại Nam thực lục. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1974, tập XXX, tr.7.

2. Đại Nam thực lục. Sđd, xuất bản 1975, tập XXXIII, tr.40.

3. Đại Nam thực lục. Sđd, tr.220-221.

TB

NGUYỄN TƯ GIẢN – TRƯỞNG MÔN
HỒ ĐÌNH VỚI LỖ AM TIÊN SINH

VŨ THẾ KHÔI

Trên tấm bia đá lớn Lỗ Am tiên sinh từ đường ký, do môn sinh lập năm 1873 tại nhà thờ thầy Vũ Tông Phan, cũng lại do chính họ sau ba năm mãn tang dựng năm 1855 ngay trên nền trường Hồ đình cũ (vị trí cạnh tượng Lê Thái Tổ ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ngày nay), có khắc những dòng lạc khoản, nguyên văn như sau: “Tứ Giáp Thìn khoa Tiến sĩ Cáo thụ trung phụng đại phu, quyền lĩnh Lại bộ Thượng thư, sung Quốc Sử quán Phó tổng tài, trưởng mon Đông Ngạn Nguyễn Tư Giản bái soạn” (1, tr.301-305).

Trong di sản Hán Nôm cũng có tư liệu sớm hơn, chẳng hạn cuốn Nhĩ Hoàng di ái lục của Đặng Huy Trứ, khắc in năm 1869, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu A.1382), nhắc đến Lỗ Am tiên sinh cùng ngôi trường nổi tiếng bên bờ Kiếm Hồ với hai môn sinh xuất sắc đỗ Hoàng giáp là Nguyễn Tư Giản (1844) và Lê Đình Diên (1849). Nhưng mấy dòng lạc khoản trên bia này có lẽ là tài liệu gốc sớm nhất xác nhận cương vị Trưởng môn Hồ đình của Nguyễn Tư Giản. Điều này cần một lần nữa nhắc lại bởi vì trong khi đó, những lời truyền luôn luôn song hành về vị “Phó trưởng môn” Nguyễn Trọng Hợp, sau cũng làm đến Thượng thư, như chúng tôi đã chứng minh, cũng trên cơ sở một số tư liệu góc viết bằng chữ Hán, chỉ là những giai thoại xuất phát từ sự lầm lẫn tên họ (1, tr.176-177, 320-321), nhưng cho đến nay vẫn được sách báo (kể cả một vài công trình!) sao chép, “dĩ ngoa truyền ngoa”(a).

Quá trình nghiên cứu về Tiến sĩ Vũ Tông Phan cho thấy: Việc xác định thực chất những mối quan hệ của các nhân vật cùng thời rất quan trọng đối với sự tìm hiểu tư tưởng và sự nghiệp của họ. Quan hệ bộc lộ bản chất sự vật. Chính nhờ nghiên cứu các mối quan hệ giữa Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý... mà chúng tôi đã thấy được: những việc từng người trong số họ làm tưởng như đơn lẻ, ngẫu nhiên như tức sự trước những cảnh nghịch mắt ở đất cố đô văn hiến, xướng họa nhân mở các tư thục trong làng xã, ngâm vịnh đền chùa, miếu mạo quanh hồ Hoàn Kiếm v.v - khi xâu chuỗi lại, so sánh với nhau và đối chiếu với sử liệu, bi ký, gia phả... bỗng bắt đầu bộc lộ một số tư tưởng và hoạt động văn hóa - xã hội của sĩ phu Hà Thành đầu triều Nguyễn (1, tr.28-58; 2, tr.35-38; 3, tr.199-226). Phát hiện này gợi ý thử tìm hiểu sâu hơn mối quan hệ của sĩ phu tiền bối với thế hệ tiếp nối họ. Một số nhà nghiên cứu lớp trước đã có viết về sự “nối chí thầy” ở những môn đệ của Lỗ Am tiên sinh, tuy đỗ đạt nhưng khước từ hoạn lộ, ở nhà mở trường dạy học như ông Cử Kim Cổ Ngô Dạng, ông Cử Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức... Vậy thì những môn sinh thành đạt đã xuất chính, người một thời gian, người suốt đời phục vụ triều Nguyễn bất chấp mọi thăng trầm nơi hoạn hải, thì sao? Họ có “nối chí thầy” Lỗ Am không và cụ thể tiếp nối như thế nào? Thiết tưởng, một sự nghiên cứu đầy đủ hơn khía cạnh này sẽ góp phần tìm hiểu các trào lưu tư tưởng trong sĩ phu triều Nguyễn.

Và lẽ đương nhiên, đi sâu vào khía cạnh này, chúng tôi bắt đầu từ mối quan hệ: Vũ Tông Phan (1800-1851) - Nguyễn Tư Giản (1823-1890).

Hiện thời chúng tôi chưa tiếp cận được một tư liệu đáng tin cậy nào cho biết Nguyễn Tư Giản bắt đầu thụ giáo Vũ Tông Phan từ bao giờ, trước đó có học với ai không. Bài ký trên bia thờ thầy, ông viết năm 1873, tức kể từ khi đỗ Hoàng giáp (1844) đã trải qua 30 năm thăng trầm trên biển hoạn, đương chức Quyền Thượng thư Bộ Lại, sung Phó tổng tài Quốc sử quán. Hơn hai mươi trong ba chục năm ấy, thầy học của ông đã vắng bóng trên trần thế, lịch sử đất nước lại trải qua những biến động lớn sau khi Lỗ Am tiên sinh qua đời: 1858, giặc Tây dương bắt đầu xâm lược Đại Nam, 1862 chúng cướp trắng Nam Kỳ và đương thời (tức 1873) đang lăm le đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. Tất cả những điều đó không thể không ảnh hưởng đến diễn biến tư tưởng của Nguyễn Tư Giản. Nếu chỉ căn cứ bài ký trên bia từ đường, dẫu là một tư liệu quý hoàn toàn xác thực, để tìm hiểu quan hệ thầy trò và ảnh hưởng tư tưởng thì e rằng khó tránh khỏi những suy diễn chủ quan. Bởi vậy, chúng tôi bắt đầu từ việc sưu tầm thêm những tư liệu xác thực về mối quan hệ giữa Lỗ Am tiên sinh và vị Trưởng môn Hồ đình, sau này trở thành một yếu nhân trong triều đình Tự Đức.

Kinh nghiệm khảo cứu về Tiến sĩ Vũ Tông Phan cho biết rằng: nhiều điều chính sử và gia phả không ghi, có thể tìm thấy trong thơ văn xướng họa, trướng đối mừng/ viếng - một mảng khá lớn thơ văn chữ Hán, tiềm ẩn nhiều sự việc và mối quan hệ đương thời, nhưng còn ít được quan tâm khai thác.

Và lần này chúng tôi cũng đã không lầm. Lật giở lướt qua 2464 trang Thạch nông toàn tập, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội(4), đã sơ bộ phát hiện thêm được những tư liêụ hữu quan sau đây:

1. Lỗ Am tiên sinh nội điệu vãn tự, - tức lời viếng truy điệu bà vợ của thầy Lỗ Am.

Mặc dù Nguyễn Tư Giản ghi nhầm bà “nguyên phối” (vợ đầu) của Vũ Tông Phan là “Trần nghi nhân”, nhưng các thông tin khác đều khớp với những điều Trục nguyệt Kỵ phổ - 1885 và Lương Vũ Kỵ phổ - 1898 ghi về bà chính thất Vũ Thị Bản: “tuế tại Yêm mậu” là vào năm Tuất, tức Canh Tuất = 1850, “tinh cư tưu Tuy” là vào cuối tháng Giêng, tức 20 - 1, “tốt vu Thăng Lng chi cố cư” là mất tại nơi cư trú cũ ở Thăng Long. Lý do nhầm lẫn nhỏ về họ của bà Bản được chính câu văn sau đây giải thích: “các học trò đang nhậm chức tại phủ đệ nghe tin, bèn bàn nhau làm bài viếng” (môn nhân thệ sĩ để hạ giả văn nhi mưu dĩ điếu chi). Vậy là Nguyễn Tư Giản viết bài văn viếng này khi đang tòng chức Thị độc học sĩ trong Hàn lâm viện tại Kinh đô Huế (đến tháng 11/1850 bắt đầu làm việc ở Nội các – theo Đại Nam thực lục)(5), không thể trực tiếp hỏi những người thân thích trong gia đình thầy để ghi chính xác.

Bài viếng dài ± 470 chữ Hán này có lẽ là tài liệu xác thực nhất (tháng Giêng 1850) về mối quan hệ Vũ Tông Phan - Nguyễn Tư Giản, viết khi Lỗ Am tiên sinh còn sống, nhưng từ sau những chính biến trong triều đình nhà Nguyễn cùng với việc đăng quang tai tiếng (6, tr.185) của Tự Đức, khoảng cuối năm 1848 đã lui về ẩn dật, tiêu dao ở vùng Sơn Minh ven sông Kim Giang (tức sông Đáy) (1, tr.58-65). Trong kho tư liệu Hán Nôm, khá nhiều bài văn viếng thầy học, viếng cha mẹ của thầy, nhưng viếng vợ của thầy, lại truy điệu từ xa, do các học trò đương nhiệm trong triều đình bàn nhau làm, thì quả là trường hợp hy hữu! Qua bài văn của Nguyễn Tư Giản, bà chính thất của Lỗ Am tiên sinh hiện lên như một phụ nữ (lược dịch) “bẩm sinh tính nhu thuận, giữ tròn đạo vợ chồng”; dẫu là thuở tiên sinh còn “nương náu nơi thôn dã bên bờ song Nhĩ Hà, mở trường dạy học”, hay khi “từ bỏ vinh hoa ở đất Bắc (Bắc Ninh), trở về với ruộng vườn” thì bà luôn là “người trợ lực đồng tâm”; “như nàng Địch Thị lo việc củi bếp, mà yên với phận nghèo của ông Ngũ Liễu; tựa bà Khổng Cơ, hái rau đắng ăn mà chẳng thẹn với nghĩa trăm năm”. Chuyện Địch Thị, Khổng Cơ không chỉ là những điển cố ngoa dụ, bởi Nguyễn Tư Giản từng tâu trình với vua Tự Đức về tình trạng đội ngũ quan lại quá đông nên lương bổng ít ỏi, không đủ đảm bảo cho sự thanh liêm. Quan Lang trung Bộ Lại, ông Nghè Đông Tác Nguyễn Văn Lý cũng từng than trong bài thơ An ủi vợ (ủy gia nội - Đông Khê thi tập):

Bổng quan ít ỏi, tôi vừa đủ;
Sinh kế quê xa lại cậy bà!...

Khi Vũ Đốc học “trả thẻ bài” (từ quan), thì bà gia nội của ông lại “quay xe trở về nhà, cùng vui múa điệu Lão Lai”, quán xuyến cửa nhà, “sớm viếng khuya hầu” cha mẹ, dạy cháu con “đông vui đàn lũ”, lo toan cho một “tứ đại nghĩa môn” được “sớm hôm đông ấm, hè mát”. Và Nguyễn Tư Giảng như tổng kết một cuộc đời: “Trộm xét bà nghi nhân quả Hiếu, Thuận, Kính, Từ có thể xứng được coi là trọn vẹn vậy”.

Có lẽ chỉ nhờ bài văn viếng này của vị Trưởng môn Hồ đình mà hậu thế của Lỗ Am tiên sinh và người đời mới được biết đến tấm gương xán lạn của bà Vũ Thị Bản, cũng là một hình mẫu của phụ nữ nước Nam thuở xưa, luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp của chư vị danh sĩ, nhưng chỉ đôi lần thoáng bóng qua vài bài thơ kín đáo gửi “gia nội”, còn thường thì chỉ để lại cái họ và cái tên hiệu vô hình trong đôi dòng gia phả vắn tắt.

2. Lỗ Am tiên sinh tang đồng môn vãn văn, - tức bài văn viếng của Nguyễn Tư Giản cùng đồng môn Hồ đình trong tang lễ thầy Lỗ Am một năm rưỡi sau đó, dài ± 720 chữ Hán.

Đây có thể coi là tư liệu xác thực sớm nhất (trước bài văn bia 22 năm và 34 năm trước quyển kỵ phổ xưa nhất dòng họ còn giữ được) về ngày mất và là tài liệu gốc đương thời duy nhất ghi rõ nơi mất và tang lễ trọng thể của Vũ Tông Phan mà gia phả cũng không thấy chép: “Tháng 6 mùa hè năm Tân Hợi [=1851], ngày Tân Tỵ [=26] thầy Lỗ Am ta bị bệnh mất ở Kim Giang, Sơn Minh, Hà Nội; thọ 52 tuổi. Sau đó phụng mệnh đem về táng tại nơi ở cụ bên thành Long Biên, học trò mặc áo mũ sô gai cùng dự lễ an táng có đến nghìn người” (nguyên văn: “Tân Hợi chi Hạ lục nguyệt nhật duy Tân Tỵ ngô - Lỗ Am tiên sinh dĩ tật tốt vu Hà Nội Sơn Minh chi Kim Giang, thọ niên ngũ thập hữu nhị. Kí phụng tang quy Long Biên thành cố cư, môn đệ tử ma điệt hội táng giả thiên sổ”). Theo sách Đại Nam thực lục, thì từ khi bắt đầu làm việc với Nội các (11/1850), Nguyễn Tư Giản liên tục ở Huế cho đến tháng 10/1857 được bổ nhiệm chức Hiệp lý Đê chính mới ra Bắc lo việc đê điều. Nhưng trong bài Tế Đốc học Tự Tháp Vũ Lỗ Am văn của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý có câu: “Tang lễ đây, hàng đệ tử, những ai chưa mất đều có mặt”(7). Vậy là môn sinh Hồ đình “thệ sĩ để hạ” được triều đình cho phép về Hà Nội chịu tang thầy? Hay đây cũng lại là bài viếng vọng từ xa? Bất luận trong trường hợp nào thì bài văn viếng này đều chứng tỏ tình nghĩa sâu nặng của Nguyễn Tư Giản đối với thầy Lỗ Am. Bài văn viếng soạn ngay khi thầy mất, nên những thông tin nó cung cấp, như trên đã điểm qua, là hoàn toàn chính xác và thêm một lần khẳng định những điều hai ông Đinh Khắc Thuân, Đinh Tú đính chính về năm mất (1851) của Vũ Tông Phan (8, tr.60-68) và chúng tôi đính chính về năm sinh (1800) của ông (9, tr.37-42). Diều này cũng cần nhắc lại vì một số sách (kể cả sách tra cứu, từ điển!) vẫn tiếp tục ghi sai(b).

Tuy nhiên, điều có giá trị hơn nhiều là thêm một tư liệu thuyết phục nữa, cùng với bài văn tế Vũ Tông Phan của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý mà chúng tôi đã giới thiệu trước đây, phản ánh sự đánh giá của sĩ phu đương thời đối với ông Nghè Tự Tháp. Bài văn viếng của Nguyễn Tư Giản, tuy là học trò cũ nhưng lúc ấy đã giữ trọng trách trong Nội các triều đình, có thể coi như lời tổng kết đầu tiên về bản lĩnh, cuộc đời và sự nghiệp của Lỗ Am tiên sinh: “học vấn đúng đắn mà uyên bác, nên thơ văn chính trực mà tinh hoa; lễ ngày mỗi tôn kính, nên đức ngày mỗi cao dày” (học chính nhi bác, cố văn chính nhi ba; lễ nhật dĩ tôn, cố đức nhật dĩ dụ), “xuất hay xử đều là hành đạo, vẫn cùng với đời” (hoặc xuất hoặc xử giai đạo chi hành, thế chi thướng đồng), “dẫu còn hay mất, tiến hay lui đều không để mất đi sự chân chính” (tồn vong tiến thoái bất thất kỳ chính).

Bài văn viếng này (1851) và bài ký trên bia từ đường, soạn hơn hai chục năm sau (1873), cùng một tác giả, nội dung sự việc tương tự, nhưng viết trong những bối cảnh khác nhau, nên chắc hẳn khi đem đối chiếu sẽ cho những phát hiện lý thú.

Ngoài hai tư liệu lớn trên, trong Thạch nông toàn tập còn có các câu đối của vị Trưởng môn trường Hồ đình viếng nghiêm phụ của thầy là cụ Tú Cửu Vũ Vĩnh Trai, mất năm 1860 tại Hồ đình và viếng thế huynh, con trai cả của thầy là Tú Kép Vũ Như Trâm, mất tháng 9/1873 tại Mậu Hòa thục.

Câu đối viếng thứ nhất cho biết thêm: sau khi thầy Lỗ Am mất, ngoài ngày tế giỗ ở từ đường, học trò cũ thường vẫn đến Hồ đình bàn luận văn chương (nhất thất luận văn do hỷ cựu đồ lai). Chắc hẳn thời gian công tác đê điều ở Bắc Hà (1857 - 1865), Nguyễn Tư Giản cũng có lui tới tham gia luận bàn, nên mươi năm sau, đầu năm 1873, khi trở lại Hồ đình cùng đồng môn lập bia thờ thầy tại từ đường, ông mới cảm khái trong bài thơ nhan đề Du Hoàn Kiếm hồ:

Bất đáo Hồ đình thập dư tải,
Thắng du không ức Phương Đình ông.

(Không đến Hồ đình mười năm lẻ, Chơi thăm cảnh đẹp nhớ Phương Đình - tức Nguyễn Văn Siêu, mọt đồng chí thân thiết của Vũ Tông Phan, người kế tiếp ông làm Hội trưởng Hướng thiện đền Ngọc Sơn, cũng vừa mới mất năm 1872).

Câu đối viếng thế huynh Tú Trâm xin dẫn nguyên văn:

Tiên sư y bát sinh bình cảm,
Quy khách quan hà tử tang uy.

Xin phép lưu ý chữ “uy” (trong “uy vũ”, “uy phong”). Ông Tú Kép chỉ nối nghiệp dạy học của cha ở Hồ đình (tiên sư y bát), thì khi chết đi sao lại “tử tang uy” được? Liệu cái chết của ông, cũng như cái chết của ấm Ba Cầu trước đó hai tháng, và việc các gia đình họ Vũ phải bỏ Hồ đình với từ đường Lố Am tiên sinh lánh về Mậu Hòa thục, có liên quan gì đến “sự cố Jean Dupuis” hồi tháng 6 - 7/1873 không? “Tử tang uy” có phản ánh không khí sôi sục của văn thân và dân chúng Hà Nội trước sự ngang ngược của bọn “Quỷ Tây dương” không? Về những hành động và đòi hỏi của bọn lái buôn và cha cố kiêm mật thám Pháp tại Hà Nội thời gian ấy, Đại Nam thực lục có ghi nhưng lại không nhắc gì tới phản ứng của văn thân và dân chúng Hà Nội. Theo sử gia kiêm nhà văn Chu Thiên (tiểu thuyết Bóng nước hồ Gươm) thì phản ứng đó khá quyết liệt: Văn đoàn Thọ Xương đứng đầu là Cử nhân Ngô Dạng, học trò cũ của thầy Lỗ Am, đã đánh trả bọn Jean Dupis dám ngang nhiên do thám thành Hà Nội và láo xược xúc phạm Hoàng giáp Đốc học Lê Đình Diên, cán môn Hồ đình. Tiểu thuyết lịch sử không phải là sử, vẫn là truyện, tuy nhiên có thể phản ánh không khí và tính cách một thời.

Các văn bản mới phát hiện này còn đang được tiếp tục xử lý và còn phải được đối chiếu với các tài liệu thơ văn khác của cả hai tác giả thì mới mong đưa ra những kết luận xác đáng, tuy nhiên rõ ràng có mối liên quan về tư tưởng của một Nguyễn Tư Giản đề cao vai trò người thầy với những phương châm chấn hưng văn hóa của Vũ Tông Phan và nhóm sĩ phu lớp trước trong hội Hướng thiện(c), khi họ kêu gọi sĩ phu về “làm các bậc quân tử trong làng, làm các vị thầy đồ trong xã” (vi hương quân tử, vi xã tiên sinh - Nguyễn Văn Lý-3, tr.205), bởi vì đối với các nhà nho này điều cốt tử không phải tư tưởng trung quân mà là “trung với dân” và “lo cho dân” (trung ư dân, quân tử vụ dân chi nghĩa - Vũ Tông Phan - 1, tr.228 - 229). Lại nữa, một Nguyễn Tư Giản tôn vinh vai trò phụ nữ đối với nếp nhà, hẳen không thể không biết đến câu đối của Lỗ Am tiên sinh từng treo tại bái đường Văn chỉ Thọ Xương, một trung tâm văn hóa lớn của Hà Nội thế kỷ XIX, do Nguyễn Văn Lý đè xướng, Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng hiến đát và xây dựng, Vũ Tông Phan chủ trì (3, tr.204-205); câu đối đó là:

Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến,
Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh.

(Xin tạm dịch: Phong văn nước cũ truyền người trước, Mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau - Vũ Tông Phan - 1, tr.40).

Câu đối ấy tiềm ẩn phương châm chấn hưng văn hóa của Vũ Tông Phan và các đồng chí của ông là: kết hợp nền văn hiến cổ truyền (đương nhiên bao gồm các thuần phong mỹ tục, kể cả nếp nhà: một trong những đề giảng tập của Lỗ Am tiên sinh ở trường Hồ đình là câu Phong tục thiên hạ chi đại sự) với tư tưởng không phải của Tống Nho, lại càng không phải Nho học đời Thanh, được triều Nguyễn ra sức bắt chước cả trong khoa cử lẫn hình luật, mà là đạo Nho cổ đại - chân Nho (phải là “cổ đạo” ấy thì mới bất biến được: “Ngô đạo bất duyên tang lỗ cuộc” - Đạo ta không liên quan thời cuộc bể dâu(d) - Vũ Tông Phan - 1, tr.208-211). Trong Nho giáo cổ đại, đaok lý làm người (chữ Nhân) chứ không phải tư tưởng làm tôi (chữ Trung) là căn bản, là nền tảng cuat vận nước, như người đồng chí tương đắc nhất của Lỗ Am tiên sinh là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý từng vấn nạn: Quốc vận trung hưng, nhân đạo khởi vô tái chấn? - Trung hưng vận nước nhà mà không chấn chỉnh đạo lý làm người được sao? (5, tr.223).

CHÚ THÍCH

(a) Xin xem: Nguyễn Phong Nam (chủ biên) - Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn - Nxb. Giáo dục, 1997; tr.101

(b) Xin xem: Các nhà khoa bảng Việt Nam - Nxb. Văn học, 1993; Từ điển văn hóa Việt Nam - Nxb. Văn hóa Thông tin, 1993.

(c) Trong bài Hội hướng thiện đền Ngọc Sơn (tuần báo Người Hà Nội, số 35, ra ngày 1-10-1986) cụ Đinh Tú khẳng định Nguyễn Tư Giản là Hội trưởng Hội Hướng thiện sau Nguyễn Văn Siêu. Tiếc rằng cụ không đưa ra tư liệu nào minh chứng quan hệ về mặt tổ chức này của Nguyễn Tư Giản với Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Siêu. Chúng tôi cũng chưa tìm được căn cứ xác thực nào để khẳng định hoặc bác bỏ ý kiến đó, nên xin để tồn nghi.

(d) Sau khi Vũ Tông Phan mất, “bất duyên” trong Lỗ Am di cảo thi tập đã đổi thành “nhất nguyên” trong thi tập Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ của ông, do Tiến sĩ Đông Tác điểm duyệt, khiến “ngô đạo = cổ đạo” của Vũ Tông Phan đã biến thành “ngô đạo = Nho giáo nhất nguyên với thời cuộc triều Nguyễn” và cầu thơ không còn ý phủ định thời cuộc bá đạo nữa. Điều này Nguyễn Văn Lý cũng đã phải làm với thơ văn của bản thân mình. Xin tham khảo (3, tr.212-215).

(1) Vũ Tông Phan, cuộc đời và văn thơ - Vũ Thế Khôi biên khảo, tuyển chọn và dịch; Nguyễn Đức Sâm hiệu đính - Văn học, 1995; hoặc: Tạp chí Xưa và Nay, số 33, tháng 11/1996.

(2) Vũ Thế Khôi - Thần Siêu dựng Phương đình dạy học từ bao giờ? Tạp chí Hán Nôm, số 4/1995.

(3) Vũ Thế Khôi - Nguyễn Văn Lý với Vũ Tông Phan - Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học năm 1998 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, Hà Nội - 1999.

(4) Thạch Nông toàn tập - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, ký hiệu A.176/1-6.

(5) Đại Nam thực lục - Tổ phiên dịch Viện Sử học: Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính - Hà Nội 1963.

(6) Yosiharu Truboi - Nước Đại Nam đối diện với nước Pháp và Trung Hoa - Nguyễn Đình Hầu dịch, Hội Sử học Việt Nam in lần thứ 2, Hà Nội - 1992.

(7) Nguyễn Văn Lý - Đông Khê văn tập - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv. 2375; bản dịch của Vũ Thế Khôi và Nguyễn Đức Sâm trong sđd (1, tr.299-300).

(8) Đinh Khắc Thuân, Đinh Tú - Về bia Tiến sĩ Vũ Tông Phan vừa phát hiện được ở Hà Nội - Tạp chí Khảo cổ học, số 1/1993.

(9) Vũ Thế Khôi - Về thân thế Tiến sĩ Vũ Tông Phan - Tạp chí Hán Nôm, số 3/1993.

TB

HOÀNG GIÁP NGUYỄN TƯ GIẢN TRƯỚC NHỮNG ƯU ÁI CỦA CÁC VUA NGUYỄN

NGUYỄN ĐẮC XUÂN

Nguyễn Tư Giản đỗ Hoàng giáp khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1844), dưới thời vua Thiệu Trị. Ông đỗ dưới Nguyễn Văn Chương một bậc. Thế nhưng khi viết về tiểu sử của ông, cụ Cao Xuân Dục - tác giả sách Quốc triều Đăng khoa lục, đã dành một lượng từ gấp 10 lần lượng từ dành cho ông Nguyễn Văn Chương. Sách được biên soạn dưới thời vua Thành Thái 1873, tức sau ngày ông Nguyễn Tư Giản đỗ Hoàng giáp đến gần 50 năm. Ông Cao Xuân Dục là người cẩn trọng, rất am tường sử nhà Nguyễn mà đã dành cho Nguyễn Tư Giản một lượng chữ nghĩa như vậy chứng tỏ các vua Nguyễn đã có một ưu ái khác thường đối với người trí thức núi Tản sông Hồng Nguyễn Tư Giản. Với bài viết này, chúng tôi muốn thử điểm qua lịch sử các vua Nguyễn đã ưu ái Nguyễn Tư Giản như thế nào.

1. Cử người tài giỏi

Sau khi đỗ Hoàng giáp năm 1844, Nguyễn Tư Giản được bổ vào Viện Hàn lâm với hàm thự Thị độc học sĩ, một chức quan chính tứ phẩm (4-1). Tháng 11 năm Tự Đức thứ 3 (1850), thực hiện lệnh của vua Tự Đức, Kinh diên giảng quan đã cử Nguyễn Tư Giản là “người học nhiều tài giỏi, văn chương cao nhã, giỏi làm thơ”(1) ăn lương Viện Hàn lâm làm việc với Nội các. Sáu năm sau, vào tháng 7 năm Tự Đức 9 (1856) vua dụ rằng: “Thị độc học sĩ tham biện các vụ là Nguyễn Tư Giản có chút văn học, vâng chỉ tinh tường kính cẩn, Tư Giản chuẩn cho thăng thự Quang lộc tự khanh (hàm tùng tam phẩm 3-2) sung làm việc ở Nội các(2). Nguyễn Tư Giản rời khỏi Viện Hàn lâm chính thức chuyển qua làm việc ở Nội các, chuyển từ công việc biên soạn các văn bản cho triều đình qua làm việc hành chính, lo việc giúp vua trị dân. Qua Nội các được hơn một năm, đến tháng 9, năm Tự Đức thứ 10 (1857), với sự tin dùng của nhà vua, Nguyễn Tư Giản tâu bày công việc trị thủy ở miền Bắc quê ông, được vua Tự Đức chuẩn y, cho ông lấy nguyên hàm Quang lộc tự khanh ở Nội các chuyển qua làm Hiệp lý Đê chính lo việc thủy lợi. Nhà vua nghĩ rằng bổ dụng Nguyễn Tư Giản vào chức vụ ấy “để (Nguyễn Tư Giản) đem hết tài năng ra thi hành”(3). Ngày lên đường trở về miền Bắc làm nhiệm vụ đê điều, Nguyễn Tư Giản được vua Tự Đức cấp cho 50 lạng bạc làm tiền lộ phí, 1 cái áo mặc ấm dệt bằng tơ xen lông màu bảo lam tay rộng, 1 cái áo triều tay chẽn. Và đặc biệt nhất, vua Tự Đức đã đích thân làm một bài thơ(4) để động viên Nguyễn Tư Giản cố gắng hoàn thành nhiệm vụ(5). Kết thúc bài thơ 10 câu, vua viết:

Tha niên nhược kỉ hà bình công,
Danh tự chiêu chương Thọ Phong(6) kiệt.

(Một ngày kia có ghi công trị thủy, tất nhiên là tên nhà ngươi sẽ rực rỡ trong bia Thọ Phong).

Đến tháng 8 năm Tự Đức thứ 11 (1858), Nguyễn Tư Giản chính thức thay Vũ Trọng Bình giữ chức Đê chính cùng với Nguyễn Văn Vỹ(7). Mới nhậm chức được một tháng (tháng 9 năm Tự Đức thư 11, 1858), “Bắc kỳ tâu các dòng sông yên sóng. Vua bảo là các Đê chính Vũ Trọng Bình, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Văn Vỹ mới một lần đầu trù tính việc đê, hơi có thành hiệu. Chuẩn gia thưởng cho tiền vàng (mỗi người một đồng) và bạc lạng, mỗi người 10 lạng”(8). Một tháng sau (tháng 10, năm Tự Đức thứ 11, 1858), Nguyễn Tư Giản đề xuất 5 việc về đê sông, được vua sai đình thần bàn nghĩ và cho làm y theo lời bàn đó(9). Một tháng sau đó nữa (tháng 11, năm Tự Đức thứ 11, 1858), Nguyễn Tư Giản lại tâu xin đào chuyển dòng chảy của sông Đuống cũng được vua y cho(10).

Trong những tháng này, vua quan triều Nguyễn đang rất bận rộn đối phó với liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh phá Đà Nẵng, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dự định cùng với giáo dân tiến công đánh Kinh đô Huế. Nhưng kế hoạch đó không thành, chúng rút khỏi Đà Nẵng xuôi tàu vào đánh phá tỉnh thành Gia Định trong Nam Bộ. Trong triều đình có ý kiến muốn hòa với Pháp. Từ miền Bắc xa xôi, tháng 7 năm Tự Đức thứ 12 (1859), quan Đê chính Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản dâng sớ thiết tha xin vua Tự Đức không nên hòa với Tây dương(11). Cuộc chiến tranh chống Pháp đã bắt đầu, triều đình phải dành hết nhân tài vật lực để đánh giặc ngoại xâm, vì thế sau đó Nguyễn Tư Giản dâng sớ xin di dân 15 xã thôn ở ngoài đê sông Thiên Đức(12) và khơi thẳng một dòng sông mới(13) không được triều đình quan tâm như trước nữa.

2. Những bước thăng trầm

Kế hoạch di dân ngoài đê sông Thiên Đức vào trong đê không thành. Đến khi đê Thiên Đức vỡ không những người tiền nhiệm bị phạt mà Nguyễn Tư Giản mới đến cũng phải gánh chịu một phần trách nhiệm, nên vào tháng Giêng năm Tự Đức thứ 14 (1861), Nguyễn Tư Giản bị giáng 1 cấp, nhưng vẫn được lưu dụng làm công tác đê điều(14). Đến tháng 6 năm Tự Đức thứ 14 (1861), đê Hà Nội, Sơn Tây cũng bị vỡ, vua Tự Đức cả giận, yêu cầu Nguyễn Tư Giản phải tường trình lại toàn bộ sự việc hộ đê đã qua và đề xuất kế hoạch “tiêu nước đi để cho dân được yên ở”(15). Đến tháng Giêng, năm Tự Đức thứ 15 (1862), Nguyễn Tư Giản tâu xin làm một số việc như xây cửa cống, khơi sông, đắp đê. Nhưng rất tiếc kế hoạch trù tính của Nguyễn Tư Giản không được chấp nhận. Vua Tự Đức phê: “Lúc này, tiền túng thiếu, công việc nhiều, không nên lại làm mệt sức dân”. Triều đình không đủ sức lo liệu việc đê điều nữa, “bãi bỏ Nha môn Đê chính”, từ đó nhà vua giao việc hộ đê lại cho “sở tại chiểu theo lệ thường sửa đắp”. Người phụ trách Đê chính là Nguyễn Tư Giản chuyển đổi qua làm Tham biện quân vụ Hải Yên(16).

Về Hải Yên chưa được bao lâu thì tỉnh thành Hải Dương bị lực lượng nổi dậy của Tạ Văn Phụng bao vây. Tỉnh thành dâng sớ báo cấp, vua Tự Đức đang bận rộn đối phó với thực dân Pháp ở Nam Bộ, nên nghe tin này nhà vua rất tức giận. Tháng 5, năm Tự Đức thứ 15 (1862), nhà vua hạ lệnh cách chức hết những người có trách nhiệm trong việc phòng thủ ở Hải Yên. Nguyễn Tư Giản bị đưa đi “tiền quân hiệu lực” ở quân thứ tỉnh Đông để lo lập công chuộc tội(17). Kỷ luật Nguyễn Tư Giản xong, có lẽ sau đó nhà vua thấy rằng việc để tỉnh thành Hải Dương bị địch vây không phải lỗi của Tham biện quân vụ Nguyễn Tư Giản, nên khi quân nổi dậy của Tạ Văn Phụng bị dẹp yên, vua bỏ qua tội cho ông. Nhưng giữa lúc ấy, Nguyễn Tư Giản lại bị đình thần nghị tội là công việc không có kết quả trong thời gian làm Đê chính. Vua Tự Đức muốn cứu Nguyễn Tư Giản nên đã nhận một phần lỗi lầm ấy thuộc về mình. Tháng Giêng năm Tự Đức 16 (1863), vua dụ thứ thần rằng: Nguyễn Tư Giản đi hiệu lực quân thứ ở tỉnh Đông lâu ngày. “Tư Giản văn học hơn cả các Tiến sĩ, trẫm dùng lầm làm việc sông đê, không phải là nghề sở trường, thành ra đến mắc vào đình thần nghị tội. Nay nên tùy việc sai phái, để cho lập công”(18).

Vua Tự Đức rút Nguyễn Tư Giản về Kinh, cho làm Tu soạn (6-2), tham gia sửa chữa sách Vận hải hợp biên. Tháng Giêng năm Tự Đức thứ 19 (1866), Vận hải hợp biên làm xong, Nguyễn Tư Giản được vua khen và cho thăng thụ hàm Thị độc (5-1)(19). Chỉ tham gia sửa sách mà được vua thăng một lần hai bậc từ tùng lục phẩm (6-2), lên chính ngũ phẩm (5-1). Tưởng như thế được yên, không ngờ cuối năm ấy (1866), Nguyễn Tư Giản bị đình nghị, theo lời tâu của Tổng đốc Định An Nguyễn Đình Tân. Triều thần bảo Nguyễn Tư Giản đã sử dụng 1.500.000 quan tiền, 200.000 hộc gạo cho việc đê điều mà không có kết quả. Nay phải bồi thường cho Nhà nước. Vua Tự Đức liền can thiệp để cứu Nguyễn Tư Giản. Vua dụ rằng: “Nguyễn Tư Giản cho theo hàm mới (gần đây coi làm sách Văn hải hợp biên được thưởng hàm Hàn lâm viện Thị độc), phải cách lưu, còn như các khoản bắt đền, trừ số tiền quyên, tiền điền mẫu phải nộp hơn 500.00 quan ra, còn bao nhiêu phải đền 5 thành, tha cho 5 thành”.

Nếu không được vua Tự Đức ưu ái khoan hồng, thì Nguyễn Tư Giản không thể vượt qua được vụ kiện này(20).

Trong thời gian hai năm sau đó, Nguyễn Tư Giản được thăng Hồng lô tự thiếu khanh (4-2) làm Biện lý Bộ Hộ. Vào tháng 6 năm Tự Đức thứ 21 (1868), nhân triều Nguyễn có việc bang giao với Trung Quốc, vua Tự Đức liền cho Nguyễn Tư Giản thăng thụ Hồng lô tự khanh (4-1), và sung làm Giáp phó sứ(21) sang nước Trung Quốc(22). Tiễn đoàn sứ bộ, vua Tự Đức đã làm bài thơ động viên và sau này Nguyễn Tư Giản đã chép bài thơ vào tác phẩm Yên Thiều thi thảo(23) của ông. Sau gần một năm rưỡi đi về, (tháng Giêng năm Tự Đức thứ 23 1870), Nguyễn Tư Giản cùng các ông Lê Tuấn, Hoàng Tịnh được vua “ban yến, úy lạo và thưởng cho cấp bậc”(24). Vua Tự Đức là một ông vua sính văn chương, trọng người có học. Cho nên khi có cơ hội ban thưởng cho Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản là vua thực hiện ngay, không hề suy tính đắn đo.

3. Danh vọng tột đỉnh và...

Đi sứ về được 4 năm, năm 1872, Nguyễn Tư Giản đột nhiên được ngồi vào ghế Thượng thư Bộ Lại (2-1) của cụ Nguyễn Tri Phương. Và sau đó vào tháng Giêng năm Tự Đức thứ 27 (1874), vua chuẩn cho Nguyễn Tư Giản thăng thự Thượng thư Bộ Lại(25) sung Cơ mật viện, kiêm lãnh luôn việc trông coi Quốc tử giám(26) và kiêm coi luôn bộ Lễ thay cho ông Lê Bá Thận(27). Đến tháng Mười năm Tự Đức thứ 27 (1874), Nguyễn Tư Giản được cử kiêm sung Nha Thương bạc(28) để lo việc tiếp xúc với các đại diện Pháp. Có lẽ vì giữ quá nhiều chức, và công việc ngoại giao với Pháp lúc đó rất lắt léo nên Nguyễn Tư Giản đã dâng sớ từ chối việc ở Nha Thương bạc. Nhưng vua Tự Đức hết sức tin cẩn Nguyễn Tư Giản nên vẫn giữ ý kiến, buộc ông phải kiêm sung Nha Thương bạc(29). Và để bớt việc cho Nguyễn Tư Giản, vua đã cho ông “được giả Viện Cơ mật đại thần”(30). Đến tháng Năm năm Tự Đức thứ 28 (1875), Thự Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản cùng với Nguyễn Văn Tường làm quan đọc quyển kỳ thi Hội khoa ất Hợi (1875), trong khoa này, ông Phạm Như Xương - người Quảng Nam, đậu Hoàng giáp(31).

Tưởng lên đến tột đỉnh danh vọng như thế rồi, Nguyễn Tư Giản có thể yên vị để thi thố tài năng. Không ngờ chưa được bao lâu, thì tháng Bảy năm Tự Đức thứ 28 (1875), ông bị cách hết chức tước. Chuyện Nguyễn Tư Giản bị giáng lần này được sử biên niên của triều Nguyễn chép như sau: "Khi ấy, học trò Nguyễn Tư Giản là Phan Văn Nhã làm giả ấn Quan phòng tỉnh Thanh mặc làm cửu phẩm cấp bằng chờ bổ, xin bổ ở Bộ. Tư Giản và Tham tri Nguyễn Văn Thúy, Thị lang Nguyễn Mậu Đạo đều đóng ấn ký tên. Biện lý Tôn Thất Phan đem việc ấy tâu lên. Vua cho Pháp ty xét nghĩ: Phan Văn Nhã phải trảm giam hậu (hiện trốn chờ bắt được sẽ chiếu án thi hành). Nguyễn Tư Giản không tra xét phải giáng 4 cấp đổi bổ chức khác, Thúy và Đạo phải phạt 6 tháng lương. Quan Nội các tâu nghĩ xử bọn Nguyễn Tư Giản chưa xứng đáng. Vua lại sai báo, giao cho xét lại. Đến khi án đệ lên, Nguyễn Tư Giản lại phải phạt trượng tột bực và tội đồ. (...). Quan Nội các tâu xin giúp cho (nói viên ấy tâu về, ở chỗ tội tình nặng của tên Nhã, cũng không phải không thực. Vậy tội danh đáng phải chờ chỉ định đoạt). Vua phê bảo: “Nguyễn Tư Giản thiên tư dung túng, rất phụ lòng yêu dùng của trẫm, phải cách chức ngay, chuẩn cho đến miền núi mộ dân khẩn hoang làm việc chuộc tội”(32).

Biết mình có lỗi, Nguyễn Tư Giản thanh thản lên miền núi mộ dân khai hoang. Kỷ luật Nguyễn Tư Giản rồi lòng dạ vua Tự Đức không yên. Đến đầu năm Tự Đức thứ 31 (1878), gặp ngày Khánh tiết, vua Tự Đức xuống dụ khôi phục cho Nguyễn Tư Giản. Bài dụ ấy về sau được đăng vào Ngự chế văn tam tập (từ trang 1a đến trang 2a, quyển 5). Cụ Tây Hồ Bùi Tất Niên đã dịch bài dụ ấy ra Việt ngữ như sau (xin trích phần viết về Nguyễn Tư Giản):

“Nguyễn Tư Giản nguyên Lại bộ Thượng thư phạm tội đã bị cách chức, là người có văn học được trẫm biết đến không phải là đã không lâu, cứ kể tài học của viên ấy, đời nay ít có ai hơn. Duy cai viên thô suất lười biếng, có danh không có thực, lại không biết kiềm giữ mình, để đến nỗi bị phạm vào pháp luật, mà trẫm cũng từng khoan thứ. Nhưng lại còn thoái thác ra làm chức khẩn điền, chả qua là muốn tìm việc nhàn rỗi, để thỏa tính lười biếng, song cũng chỉ là nói suông, không thành tựu được việc gì. Nay mấy năm liền, gặp kỳ quốc khánh, phàm các công việc từ phú văn chương phải cần có tay tài giỏi soạn thảo, mà viên ấy không biết đem tài học sở trường của mình để cung ứng chức vụ, cam tâm tự làm lu mờ thì càng rõ không biết tự lượng. Vậy nay chuẩn trước khai phục cho hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ (4-2), sung quản việc ấy, vậy khanh phải mau mau tựu chức ...”(33).

Qua đoạn dụ trên ta thấy:

1. Dù trong cảnh nào, vua Tự Đức cũng phải công nhận: “cứ kể tài học của viên ấy (chỉ Nguyễn Tư Giản), đời này ít có ai hơn”.

2. Nguyễn Tư Giản chán ngán cuộc đời làm quan nên muốn mượn việc đi khai hoang mà ở ẩn.

3. Có lẽ nhiều lần vua Tự Đức muốn đưa Nguyễn Tư Giản trở lại triều đình nhưng ông không đồng ý, lần này vua phải xuống dụ khai phục cho Nguyễn Tư Giản trước khi Nguyễn Tư Giản đồng ý về triều.

4. Vua Tự Đức rất cương quyết giục Nguyễn Tư Giản về triều, có lẽ vì thế Nguyễn Tư Giản không từ chối được đành phải về “quản Viện Hàn lâm” (34)

Tháng Giêng năm Tự Đức thứ 32 (1879), khi bàn định lại phép thi Hội, vua lại khen “Nguyễn Tư Giản là người “học rộng lời tao nhã”(35). Những năm cuối đời của vua Tự Đức, Nguyễn Tư Giản sống yên ở Viện Hàn lâm. Trải qua thời kỳ Tứ nguyệt tam vương, và biến cố thất thủ Kinh đô tháng 5 năm ất Dậu (7.1885), Nguyễn Tư Giản qua giữ chức Thị lang Bộ Hộ (3-1). Có lẽ lúc đó Nguyễn Tư Giản không chịu nổi vua Đồng Khánh đưa nhiều Việt gian vào triều nên ông đã giả ốm xin về nghỉ. Để lấy lòng nhân sĩ Bắc Hà, tháng 8 năm Đồng Khánh thứ nhất (1886), ông vua tay sai thực dân Pháp Đồng Khánh chuẩn cho Nguyễn Tư Giản “thăng thụ Tổng đốc Bắc Ninh-Thái Nguyên (2-1)” với lời giải thích “Nguyễn Tư Giản là người bề tôi kỳ lão của tiên triều, vốn có danh vọng. Cho nên có đặc ân ấy, để tỏ là nghĩ đến người cũ”(36). Với cái chức đặc ân Tổng đốc Ninh - Thái trong xứ thuộc địa Bắc Kỳ rất to nhưng không mua chuộc được Nguyễn Tư Giản. Vì thế chỉ đến tháng 8 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), Nguyễn Tư Giản “có việc bị can, phải triệt về Nha Kinh lược đợi xét”(37). Sử triều Đồng Khánh không cho biết Nguyễn Tư Giản bị can về tội gì. Nhưng qua những quan chức bị can khác dưới triều Đồng Khánh chỉ có một tội phải triệt là tội tiếp tay cho các phong trào chống Pháp và chống triều đình tay sai Pháp Đồng Khánh mà thôi.

Từ ngày Nguyễn Tư Giản đậu Hoàng giáp (1844) cho đến ngày ông bị can ở ghế Tổng đốc Ninh - Thái (1887) là ngót 43 năm, phục vụ 7 đời vua triều Nguyễn. Trong 43 năm ấy, những khi ông được ngồi làm sách, soạn thảo từ chương được khen tặng bao nhiêu thì những khi ông làm việc chính quyền, dù là Đê chính, Thượng thư Bộ Lại, hay Tổng đốc, ông lại bị “lên bờ xuống ruộng” nhiều lần.

Các vua Nguyễn nói chung rất ưu ái Nguyễn Tư Giản, nhưng đứng trước các ưu ái ấy, Nguyễn Tư Giản luôn có sự lựa chọn. Chấp nhận, từ chối hay chống lại tùy theo hoàn cảnh. Chế độ quân chủ Việt Nam giai đoạn sau đời Thiệu Trị bắt đầu suy thoái. Nguyễn Tư Giản là một đại thần nòng cốt của giai đoạn lịch sử ấy làm sao ông có thể thành công được trên bước đường chính trị. Nhưng dù sao ông cũng còn hơn nhiều người đồng triều khác vì ông có tài văn học. Cái tài ấy ông không thể sử dụng được trong cương vị người làm quan, nên ông đã dành để trước tác nhiều tác phẩm có giá trị. Sự nghiệp cầm bút của ông tỏa sáng đến nỗi vua Tự Đức - một vua tự cho mình là hay chữ cũng phải hết lời ca ngợi. Và nhờ những trước tác đó hôm nay chúng ta và chắc sẽ nhiều đời sau nữa vẫn còn nhớ đến ông.

Gác Thọ Lộc, tháng 1 năm 2000

CHÚ THÍCH

1. Đại Nam thực lục chính biên (ĐNTLCB), Nxb. KHXH, 1973, tập XXVII, tr.252.

2.ĐNTLCB, Sđd, tập XXVIII, tr.263

3.ĐNTLCB, Sđd, tập XXVIII, tr.375 - 376.

4. Cao Xuân Dục: Quốc triều Đăng khoa lục, Sđd, bản dịch của Trúc viên Lê Mạnh Liêu, bộ QGGD, Sài Gòn, 1962, tr.87.

5.ĐNTLCB, tập XXVIII, tr.378.

6. Thọ Phong: tên một quận trong số 5 quận thường bị nước lụt của Trung Quốc ngày xưa.

7. ĐNTLCB, Sđd, tr.449 - 450.

8. ĐNTLCB, Sđd, tr.456.

9. ĐNTLCB, Sđd, tr.461.

10.ĐNTLCB, Sđd, tr.463.

11. ĐNTLCB, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1974, tập XXIX, tr.59.

12.ĐNTLCB,Sđd, tập XXIX, tr.61.

13.ĐNTLCB, Sđd, tập XXIX, tr.180.

14.ĐNTLCB, Sđd, tập XXIX, tr.184.

15.ĐNTLCB, Sđd, tập XXIX, tr.228-229.

16.ĐNTLCB, Sđd, tập XXIX, tr.282.

17.ĐNTLCB, Sđd, tập XXIX, tr.307.

18.ĐNTLCB, Sđd, tập XXX, tr.7.

19.ĐNTLCB, Sđd, tập XXXI, tr.9.

20.ĐNTLCB, tập XXXI, tr.101 - 102.

21. Chánh sứ là ông Lê Tuấn.

22.ĐNTLCB, tập XXXI, tr.226.

23. Thơ văn Nguyễn Tư Giản làm trong dịp đi sứ Trung Quốc, trích lại từ bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam, tập 3, tr.718.

24.ĐNTLCB, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1975, tập XXXII, tr.9.

25. Nguyễn Tư Giản là Thượng thư bộ Lại thứ 25/47 kể từ Gia Long.

26.ĐNTLCB, tập XXXIII, tr.39.

27.ĐNTLCB, tập XXXIII, tr.55.

28. Cơ quan ngoại giao, nơi tiếp xúc của quan lại triều Nguyễn với các đại diện Pháp.

29.ĐNTLCB, tập XXXIII, tr.126.

30. ĐNTLCB, tập XXXIII, tr.136.

31. Theo Quốc triều Đăng khoa lục, tr.183. Nhưng trong ĐNTLCB thi phúc hạch Cử nhân (tập XXXIII, trang 209), thì bảo đây là “kỳ thi phúc hạch Cử nhân”. Trong Quốc triều Hương khoa lục không thấy có kỳ thi Cử nhân nào được tổ chức vào năm 1875 cả. Sách ĐNTLCB chép nhầm chăng?

32. ĐNTLCB, tập XXXIII, tr.220.

33. Tự Đức: Thánh chế văn tam tập, bản dịch của Tây Hồ Bùi Tấn Niên, phủ QVKPTVH, Sài Gòn, 1971, tr.155 - 156.

34. ĐNTLCB, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1976, tập XXXIV, tr.98.

35. ĐNTLCB, Sđd, tập XXXIV, tr.218.

36. ĐNTLCB, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tập XXXVII, tr.193.

37. ĐNTLCB, Sđd tập XXXIII, tr.8.

TB

QUÊ HƯƠNG NGUYỄN TƯ GIẢN,
VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ - VĂN HÓA

NGUYỄN VĂN THÀNH

Hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình bồi đắp nên đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu màu mỡ.

Từ đỉnh của tam giác sông Hồng ở Việt Trì, sau khi nhận thêm nước sông Đà và sông Lô, sông Hồng chảy về xuôi độ 80 km nữa thì đến ngã ba Dâu. Tại cửa Dâu, sông Hồng tách ra một chi lưu, đó là sông Đuống (Đức Giang). Còn sông Đuống đi từ cửa Dâu đến cửa Lục Đầu nối hệ thống sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình.

Xa xưa, khi xe cộ chưa có, sông Đuống đóng vai trò cực kỳ to lớn trong việc giao lưu ở châu Thổ sông Hồng. Trên sông thuyền bè đi lại không ngớt. Từ cửa Dâu, sông Đuống xuôi khoảng 5km là gặp đất Du Lâm, quê hương của Nguyễn Tư Giản. Dọc theo hai bờ sông Đuống, nơi nào làng mạc cũng đông vui, cây cối xanh tốt, đất đai màu mỡ. Các làng Du Nội, Du Ngoại, Du Bi nằm sát nhau ở sát tả ngạn sông. Hiện nay dân cư làm nhà cả ở ngoài đê và trong đồng. Du Lâm là một làng của tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc mà thời Nguyễn đổi là tỉnh Bắc Ninh.

Ngày nay Đông Ngàn là đất huyện Đông Anh và một số xã của huyện Gia Lâm, huyện Tiên Sơn. Xưa kia người ta xếp Đông Ngàn là một huyện văn vật vào bậc nhất.

Đông Ngàn nằm ở quãng giữa thị xã Bắc Ninh và Kinh thành Thăng Long, mảnh đất ngàn năm văn vật. Từ Du Lâm sang Thăng Long chỉ 10km. Các huyện khác của phủ Từ Sơn đều nổi tiếng là nơi văn vật và phồn thịnh. Vùng Từ Sơn, Phù Ninh, Đình Bảng, Phù Lưu nằm giữa đường cái quan là một vùng buôn bán thịnh vượng có tiếng trong nước. Nghề thủ công ở vùng này cũng rất phát đạt. Vùng rèn Đa Hội là một huyền thoại về sản xuất đồ sắt. Về văn học, tất cả các huyện trong phủ Từ Sơn đều nổi tiếng có nhiều người đậu Tiến sĩ. Huyện Đông Ngàn có tới 130 Tiến sĩ, đứng đầu tất cả các huyện trong cả nước. Đông Ngàn có nhiều Tiến sĩ như thế vì đây là vùng đất phát triển từ rất lâu đời. Việc học ở đây khá phồn thịnh, có nhiều thầy giỏi, sĩ tử thi nhau cùng rèn luyện, người này động viên người kia. Đông Ngàn chỉ cách trường Giám ở Hà Nội khoảng hơn 10 km, nên sĩ tử nơi đây khá thuận lợi trong việc cùng các sĩ tử Kinh kỳ tham dự các kỳ đại tập, tiểu tập.

Từ Yên Viên, tức là từ Đông Ngàn xưa, các con đường số 1, 2, 3 xòe ra như những nan quạt vươn tới hầu khắp các tỉnh phía Bắc nước ta.

Đường số 1 từ Đông Ngàn qua các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn và có thể vươn tới Hồng Quảng.

Đường số 2 qua Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang. Nếu đi dọc sông Hồng, ta có thể lên Yên Bái, Lào Cai và lên vùng Tây Bắc.

Đường số 3 qua Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng.

Chính ở vào vị trí tâm điểm nửa vòng tròn gồm các tỉnh phía Bắc sông Hồng, nên ngay từ thời Lý, nhà vua đã cho xây dựng nhà cửa ở Gia Lâm đối ngạn với Đông Ngàn để đón tiếp sứ thần phương Bắc và đón tiếp các phiên thần ở phía Bắc nước ta, làm chỗ nghỉ ngơi khi có việc về Thăng Long.

Xưa kia huyện Đông Ngàn có hai con sông nhỏ vừa lấy nước tưới cho đồng ruộng, vừa dùng làm đường giao thông, đó là sông Ngũ Huyện và sông Thiên Đức. Cả hai con sông này đều có cửa ra sông Hồng ở làng Du Lâm, Thái Đường, Hội Phụ. Sông Ngũ Huyện từ sông Hồng đi sâu vào đất Đông Ngàn ở vùng Đông Hội, Lộc Hà, men theo Dục Tú, Đa Hội sang vùng Phù Lưu - Đồng Kỵ. Sông này tiếp tục đi sang Yên Phong ở vùng Thọ Khê, Thọ Chãi. Sông Thiên Đức nối vào sông Hồng ở Mai Hiên, Du Lâm, vòng qua Yên Thường, xuống Dốc Lã trên đường số 1, vòng xuống Đình Xuyên, Ninh Hiệp rồi qua Đình Bảng vòng sang Phù Chẩn, Dương Lôi. Sông này nối với Tương Giang ở xã Tương Giang ngày nay với thiên bi hận tình “Trương Chi - Mị Nương” và lời ca:

Ngày xưa có anh Trương Chi,
Người thì thật xấu, hát thì thật hay.

Sông Ngũ Huyện ngày nay còn thông dòng, tuy có chỗ hẹp nhưng không thể dùng làm đường giao thông được nữa, vì ngày nay xe cộ phát triển, người ta đi bằng đường bộ. ở vùng Trịnh - Nguyễn, cạnh đường sắt Yên Viên, Đông Anh, Nhà nước đã cho xây một trạm bơm lấy nước lên sông máng rộng đến 20 m tưới cho rất nhiều vùng ở Bắc Ninh. Con sông Thiên Đức xưa, nay đã bị lấp dần, nhiều đoạn đã trở thành con lạch nhỏ ở Dốc Lã. ở Đình Xuyên, Ninh Hiệp và Phù Lưu, Đình Bảng, Dương Lôi còn sót lại những hố dài, sâu mà ai nhìn cũng thấy rõ, đó là vết tích của dòng sông lớn thời xưa. Thời Lý, thuyền rồng vua Lý thường xuyên đi lại trên sông Thiên Đức. Từ Thăng Long thuyền đi theo sông Hồng vào sông Đuống ở Cửa Dâu. Từ sông Đuống thuyền qua cửa sông Thiên Đức ở Du Lâm rồi về vùng Đình Bảng, Dương Lôi. Hai bên bờ sông, nhà vua cho xây nhiều Ly cung. Vùng cửa sông Du Lâm cũng là một hành cung của vua Lý. Các cụ nói: ngày xưa vùng Hội Phụ chỉ là một bãi đất dân cư thưa thớt. Vua Lý xây Ly cung, lập Ngự uyển lấy phu coi vườn (viên đinh). Lúc đầu vùng này gọi là Hoa Lâm Lục thôn ở vòng quanh Ngự uyển. Số dân tăng dần, vùng này thành 12 làng của tổng Hội Phụ. Thái Đường là nơi nhà Lý xây Nhà thờ họ ngoại, Lộc Hà là nơi vua Lý phát lộc, Đông Trù là nơi nấu nướng để cúng lễ và Hoa Lâm là rừng hoa, tức vườn Ngự uyển. ở vùng này còn có những cái ao dài, vết tích của sông Thiên Đức xưa, các vua nhà Lý thường đến đây câu cá. Du Lâm xưa là nơi vua nhà Lý thường xuyên đi lại và cũng là nơi nằm gần cửa sông Thiên Đức, Ngũ Huyện, nên rất phồn thịnh. Vùng này tuy là trung tâm của một vùng rất phồn thịnh, buôn bán rất sầm uất nhưng Du Lâm không phải là thành trì nên không bị tàn phá mỗi khi có sự thay đổi triều chính.

Thái Đường chỉ cách Du Lâm một đoạn ngắn nhưng đã sinh ra 2 ông Tiến sĩ thời Lê: Trịnh Đức Nhu, Trịnh Xuân Thụ và rất nhiều ông Cống, ông Đồ. Nhưng ở Du Lâm thời Lê không ai đỗ Tiến sĩ cả.

Tại sao với hoàn cảnh gần giống nhau cùng ở trong huyện Đông Ngàn văn vật, cùng ở ven sông Đuống ruộng đất phì nhiêu nằm sát cửa hai con sông Ngũ Huyện và Thiên Đức mà trong suốt thời Lê, Du Lâm không có một Tiến sĩ nào, trong khi huyện Đông Ngàn có đến 130 Tiến sĩ ?

Rõ ràng sự phồn vinh này còn phụ thuộc nhiều điều kiện ngoài hai điều kiện thiên thời và địa lợi.

Từ thời Lê về sau, đời sống nhân dân được nâng cao hơn trước, việc học hành được mở rộng, Nhà nước dùng khoa cử để tuyển người ra làm quan thay cho việc đề cử. Trong nước các sĩ tử nô nức học hành để đi thi mong xuất thân phò vua, giúp nước.

Vùng Đông Ngàn nằm ở giữa vùng phồn thịnh ngay sát Kinh kỳ, nên có nhiều gia đình đã gây được truyền thống học hành, rèn luyện rất nhiều đời.

Muốn tạo nên một dòng văn học lẫy lừng, một dòng họ khoa hoạn nổi tiếng, ngoài hai điều kiện thiên thời, địa lợi trên còn cần phải có điều kiện rất quan trọng, đó là con người mà các cụ ngày xưa gọi là nhân hòa.

Xét gia đình Nguyễn Tư Giản ta thấy:

Nguyễn Tư Giản là con cháu Lý Quang Bật dòng dõi Lý Thánh Tông.

Cuối đời Lý, triều chính thối nát, quyền thần lộng hành, không còn bầy tôi giỏi như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành. Giặc giã nổi lên khắp nơi, cộng với mất mùa đói kém làm cho nhân dân chết đói, xác chồng lên nhau. Chính quyền trung ương của nhà Lý không còn lực lượng để bảo vệ nhân dân nữa. Nhiều thế lực nổi dậy khắp nơi. Nhà Trần chiếm cứ vùng hạ lưu sông Hồng, Nguyễn Nộn chiếm cứ vùng Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ vùng Hồng Châu và Lý Quang Bật - một hoàng thân nhà Lý cũng trở thành một lực lượng. Các lực lượng đánh lẫn nhau và đều lấy danh nghĩa là phò trợ nhà Lý. Cuối cùng họ Trần thắng thế nhờ tiêu diệt nhà Lý bằng ván cờ giết Lý Huệ Tông và đưa Lý Chiêu Hoàng lên ngôi.

Khi các lực lượng của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn không còn nữa thì Lý Quang Bật cũng bị tiêu diệt. Trần Thủ Độ đã giật bẫy ở Thái Đường giết hơn 70 hoàng thân nhà Lý cùng hàng trăm cung nữ. Người họ Lý còn lại bị đuổi lên ở vùng Bà Điểm, Bằng Hà, không được đi thi, không được làm quan.

Khi nhà Trần mất, nhiều gia đình họ Lý đã bị đổi thành họ Nguyễn tìm cách về xuôi. Một số nhà về được cánh đồng làng Hương Mạc lập thành họ Nguyễn ở làng đó. Vùng này còn gọi là Kẻ Đóm mà nay là làng Vân Điềm của xã Vân Hà. Hương Mạc là một vùng văn học nổi tiếng mà họ Đàm ở đây là nổi bật nhất. Họ Đàm có nhiều người nghĩa khí. Khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, nhiều người họ Đàm đã tử tiết, nổi tiếng nhất là ông nghè Đàm Thận Huy, cả hai vợ chồng và hai thầy trò cùng chết theo vua. Họ Đàm còn có những người nổi tiếng như quốc sư Đàm Công Hiệu.

Sống qua mấy đời làm ruộng ở Kẻ Đóm, nhà họ Nguyễn gốc Lý này đến đời Lê Trung Tông vào năm 1555 đã sinh ra một cậu bé tên là Nguyễn Thực.

Nguyễn Thực lớn lên thông minh, học giỏi, làm con rể Tiến sĩ Thượng thư triều Mạc là Đàm Cư và là học trò của Tiến sĩ họ Nguyễn người làng Kim Thiều cũng là một đại thần của nhà Mạc. Nguyễn Thực biết nhà Mạc sắp dứt, nhà Lê sẽ Trung hưng, nên không ứng thí với nhà Mạc, điều này chứng tỏ sự tiết nghĩa của họ Đàm ở Hương Mạc có ảnh hưởng đến ông. Sau khi họ Trịnh lấy lại được Thăng Long, vua Lê mở khoa thi ở bến Thảo Tân vào năm 1595, Nguyễn Thực đã ra ứng thí và đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. Sau Nguyễn Thực, họ Nguyễn gốc lý này còn nhiều người đỗ đạt như Nguyễn Nghi, Nguyễn Sí, Nguyễn Khuê, Nguyễn Thưởng và rất nhiều Hương cống và Sinh đồ. Họ này cũng có nhiều người làm quan võ, có người làm đến Thượng tướng quân.

Rõ ràng vùng Kẻ Đóm (Vân Điềm), xã Vân Hà ngày nay là nơi đã sinh ra dòng họ khoa hoạn này.

Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Đường là Nho sinh trúng thức, làm Hiến sát sứ, đã từng ngồi chung với chúa Nam Đoan Vương Trịnh Khải đánh trận Ngũ Long. Khi quân vỡ, ông bị lạc chúa và đi ở ẩn.

Nguyễn Án con Nguyễn Đương dời về Du Lâm. Ông là tác giả sách Tang thương ngẫu lục và nhiều tác phẩm khác. Nguyễn Án là bạn của Phạm Đình Hổ, một danh sĩ Bắc Hà ở ẩn. Cả hai ông không chịu ra làm quan với nhà Tây Sơn.

Năm 1805, sau khi lấy được Thăng Long, nhà Nguyễn mở khoa thi, Nguyễn án đỗ Hương cống và ra làm quan với nhà Nguyễn.

Du Lâm gần Thăng Long hơn Vân Điềm. ở đất mới thuận lợi hơn đất cũ, họ này lại phát triển rực rỡ. Cháu Nguyễn Án là Nguyễn Văn Phú, tức Nguyễn Tư Giản, đậu Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư và là một nhà văn học nổi tiếng có nhiều tác phẩm. Con Nguyễn Tư Giản là Nguyễn Kham cũng đậu Tiến sĩ và làm quan to. Anh em con cháu ông nhiều người đậu Cử nhân, Tú tài. Rõ ràng đất Du Lâm gần Hà Nội, trung tâm chính trị - văn hóa của miền Bắc, đã làm cho dòng họ này phát triển rực rỡ.

Gần đây dòng họ này tản vào các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh là những vùng công nghiệp phát triển, đời sống văn hóa cao hơn những vùng khác. Họ này đã sinh ra nhiều nhân tài như nhà văn Nguyễn Triệu Luật có tên trong Danh nhân văn hóa Việt Nam Lược truyện các tác gia Việt Nam.

Một số người trong dòng họ này xuất dương trở thành những nhà khoa học có tên tuổi.

Thiên thời, địa lợi, nhân hòa là ba yếu tố đã sinh ra một dòng họ nổi tiếng trong nước là dòng họ của danh nhân Nguyễn Tư Giản.

TB

CHUYẾN ĐI SỨ CỦA NGUYỄN TƯ GIẢN

PHAN VĂN CÁC

Bài viết này nhằm giới thiệu vài nét về chuyến đi sứ của Nguyễn Tư Giản, chủ yếu dựa trên Như Thanh nhật ký, bản sách chép tay lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.102, cùng một số bài thơ của ông.

Như Thanh nhật ký như lời đề ở đầu sách, là tác phẩm của tập thể sứ bộ năm Tự Đức 21 (1868) tâu báo lên nhà vua sau khi hoàn thành chuyến đi, trong đó Nguyễn Tư Giản là người có vai trò số 2.

Cầm đầu sứ bộ là Chánh sứ Lê Tuấn, người xã Hà Trung, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, Cử nhân khoa Canh Tuất, Tự Đức năm thứ 3 (1850); Hoàng giáp khoa Quý Sửu, năm Tự Đức 6 (1853), sau khi đi sứ về thăng Thượng thư Bộ Hình, về sau còn sung Chánh sứ qua Pháp và khi chết được tặng hàm Hiệp biện đại học sĩ.

Đứng sau Nguyễn Tư Giản trong sứ bộ là Hoàng Tịnh, tức Hoàng Công Ngạn, người xã La Văn, huyện Quảng Điền, Cử nhân khoa Bính Ngọ, năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), làm quan Bố chánh Quảng Bình, bấy giờ được phong làm Phó sứ thứ hai.

Thơ Nguyễn Tư Giản có bài Đêm trừ tịch viết trình hai ông Bồi thần Lê Hoàng với những câu tuyệt diệu:

Ngôi Bắc nhìn sao ngoài vạn dặm,
Hồn Nam nhớ liệu cách hai sông,
Sớm mai ước có lầu ngàn thước,
Một hướng quê nhà, đứng tựa song.

(Hoàng Tạo dịch)

chính là lời thơ tâm sự với hai vị sứ thần đồng hành này.

Sứ bộ được chính thức lĩnh mệnh kể từ khi làm lễ vọng bái tại điện Càn Chánh theo lời truyền đạt của Bộ Lễ ngày 24 tháng 6 năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868) và tới hôm đó lĩnh thơ ngự chế.

Ngày 25, Bộ Lễ công bố danh sách những người tùy tòng, những người này đi trước ra Hà Nội để kiểm điểm các khoản cống phẩm.

Ngày 27, Chánh sứ Lê Tuấn bái mệnh phụng lĩnh Quốc thư và các đạo dụ chỉ.

Ngày 29, ba vị Chánh, Phó sứ dâng biểu tạ ơn.

Ngót một tháng sau, ngày 21 tháng 7, sau khi nhận đủ mọi thứ cống phẩm vật tư đóng hòm buộc chặt, sứ bộ đến Hành cung của tỉnh Hà Nội làm lễ vọng bái nhà vua, và tế thần Tổ đạo. Giờ Thìn ngày 22, sứ bộ rời Hà Nội trong sự hộ tống của Lãnh binh Nguyễn Nhàn Thủy và Cơ hiệp quản Nguyễn Tựu cùng binh tượng và dân phu khiêng vác. Giờ Ngọ cùng ngày qua sông Nhị Hà, thì tỉnh Bắc Ninh đã phái Lãnh binh Vũ Văn Phùng dẫn binh tượng chực đón ở trạm Bắc Liêm, cùng dân phu thay thế cho dân phu Hà Nội, giờ Dậu đến công quán Bắc Ninh.

Ngày 23 phải ở lại công quán Bắc Ninh vì trời mưa. Sang ngày 24, Bắc Ninh cử Niết sứ ti Phạm Thận Duật cùng Hiệp quản Lê Loan dẫn binh tượng hộ tống đến trạm Bắc Mĩ thay dân phu, giờ Mùi gặp mưa, giờ Dậu mới đến xã Phú Xuyên thuộc phủ Lạng Giang và dừng chân ở đó.

Ngày 25, sáng khởi hành, tối đến trạm Bắc Cầu thay dân phu. Giờ Tỵ đến đền Cần Doanh bái yết (lễ vật do phủ Lạng Giang biện), giờ Dậu đến trạm Bắc Lệ nghỉ.

Ngày 26, đi qua Liên Khê, tục gọi là Suối Lằn có miếu rất thiêng, giờ Ngọ tiếp kiến Quản Lãnh binh tỉnh Lạng Trần Đức Khoa, mang long đình tàn lọng và biền binh giới trượng ra nghênh tiếp, rồi đến đồn Quỷ Môn làm lễ yết cáo (lễ vật do phủ Trường Khánh biện), giờ Mùi đến trạm Lạng Quang, thay dân phu là thổ dân tỉnh Lạng khiêng vác, nhưng quan chức binh tượng và giới trượng tỉnh Bắc vẫn ở lại hộ tống lên đến tận cửa ải.

Ngày 27, lên đường sớm, qua quán Cây Thu (tương truyền dưới khe có giao long), đá Liễu Thăng (mình một hòn, đầu một hòn), giờ Ngọ đến trạm Lạng Nhân, qua núi Diều Lớn, núi Diều Nhỏ, giờ Tuất đến tỉnh thành Lạng Sơn nghỉ lại.

Ngày 28, sứ bộ dẫn đoàn tùy hành mặc hiền phục đến hành cung tỉnh Lạng Sơn làm lễ vọng bái, rồi đến miếu Hội Đồng làm lễ yết cáo (lễ vật do tỉnh Lạng biện). Tỉnh cắt cử thổ dân trực chờ khiêng vác và phái thêm binh tượng hộ tống.

Ngày 29, sứ đoàn đến miếu Thành hoàng núi đất của tỉnh bái yết, có Thượng phái án sát sứ của tỉnh là Nguyễn Thứ cùng đi, giờ Mùi đến châu Văn Uyên (phố Đồng Đăng) nghỉ lại (đã sai Thủ ải đội trưởng Đồng Xá báo cho Nội địa hộ tống, trưởng tống chép điền chức, hàm, họ tên vào tờ tấu).

Ngày 1 tháng 8, giờ Dần, sứ bộ dẫn các nhân viên tùy hành cùng Hậu mệnh thần Nguyễn Thứ dẫn đoàn hộ tống gồm quan chức văn võ binh tượng của hai tỉnh Bắc Ninh, Lạng Sơn hộ đệ Quốc thư cùng các hòm của công tiến đến cửa ải đứng chờ, ra lệnh sắp hàng binh tượng nghi trượng ở hai bên tả hữu cửa ải, rồi sai thông sự mang danh thiếp xin gặp phía Thanh Quốc. Thự lí hộ tiếp nhà Thanh là Tri phủ Thái Bình Phụng nghị đại phu Từ Diên Húc, Hiệp trấn Tân Thái Quảng Tây Vũ công tướng quân Tường Anh, Hộ cống vũ ủy viên Vũ Dực, Đô úy Quỹ Đạo, Doanh chiêm vũ đô úy Trương Thiệu Tự, Thự lí Long Châu đồng tri Phụng trực Tri phủ Dương Đình Nho... đến tề tựu trên cửa ải, mang theo danh thiếp ra tiếp đón. Giờ Mão mở khóa cửa ải, sứ bộ mặc triều phục đệ trình Quốc thư lên Long đình, đi qua cửa ải đến Chiêu Đức đài sắp hàng làm lễ tam quỳ, cửu khấu (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu) rồi trở lại đền Chiêu Đức đài thay thổ phục trao danh thiếp chào hỏi rồi lại đến Chiêu Đức đài làm lễ Chấp biến. Hộ tiếp quan kính cẩn thăm hỏi sức khỏe Hoàng thượng ta cùng tình hình mùa màng, úy lạo sứ bộ và mời ngồi đãi trà (quà ra mắt gồm quạt ngà voi, lông đuôi voi...). Sau đó bàn giao rõ ràng danh mục các hòm xiểng qua cửa ải, đem các dấu tập tư văn cùng các dụ chỉ đóng quốc ấn đã lĩnh trước kia niêm phong cẩn mật trao lại cho Hậu mệnh thần Nguyễn Thứ nhận đủ về tỉnh trình lên. Giờ Tỵ sứ bộ qua cửa ải, giờ Mùi qua Mạc phủ, giờ Dậu đến châu Bằng tường nghỉ lại. Sai thông sự mang danh thiếp đến chào. Hộ tống quan Phụng trực đại phu Thổ tập Hạ Thạch tri châu Bế Hàn Hiền, Thế tập Thượng Long di chính đường Triệu Đức Tuấn đều đưa danh thiếp thăm hỏi.

Ngày mồng 2, sai hành nhân và thông sự mang danh thiếp đến tặng quà Lý Thuyên (10 tấm vải, 12 chiếc lông đuôi voi, 3 cây sáp hương đồi mồi, 5 mảnh vỏ quế), tặng tiền bạc thưởng người hầu bếp hầu trà ở châu Bằng Tường, và ti Thượng Long, Long Châu, cấp phát cho những lưu dân Cao Bằng, Lạng Sơn tại đây mỗi người một tấm vải. Giờ Thìn lên đường, giờ Ngọ đến Thụ Hàng thành (thuộc phân châu Thượng Thạch, châu Ninh Minh), giờ Dậu đến bến Ninh Minh xuống thuyền.

Ngày mồng 3, kiểm điểm rương hòm sắp xếp vào thuyền (cả thảy là 12 chiếc thuyền). Quan chức châu này là La Am Đức đưa danh thiếp đến chào, sai người đệ tống tiệc rượu và cung ứng vật hạng đến thuyền. Sứ bộ cảm tạ và đưa bạc trắng nhờ biện lễ để tế thần sông, nhưng phía Thanh cho biết đã sắm lễ, trả lại bạc trắng chỉ nhận quà tặng như lụa, sáp, quế.

Ngày mồng 4, Phó sứ Hoàng Tịnh lên bờ tế thần sông và cấp phát quà tiền cho tất cả những người giúp việc, kể cả tay trống, tay pháo, cấp bạc trắng cho Biện sai châu Ninh Minh và trình Hộ cống quan định ngày khai thuyền.

Trở lên trên, chúng tôi cố gắng trình bày chi tiết những công việc tế toái cùng các nghi lễ dọc đường sứ bộ đi qua để chúng ta hình dung được phần nào về một chuyến công du của sứ đoàn Việt Nam giữa thế kỷ XIX.

Dưới đây xin tóm lược hành trình đi về của sứ bộ Lê Tuấn, Nguyễn Tư Giản, Hoàng Tịnh như sau: Lượt đi tính từ mồng 1 tháng Tám năm Tự Đức thứ 21 (tức năm Đồng Trị thứ 7 nhà Thanh, CN 1868) mở cửa ải Nam Quan, đến ngày 29 tháng Giêng năm sau đến Yên Kinh, trong đó:

- Từ Nam Quan đến châu thành Ninh Minh đi 2 ngày đường bộ.

- Từ châu thành Ninh Minh đến bến phủ thành Ngô Châu hết 30 ngày (19 ngày đi, 11 ngày đỗ) đường thủy.

- Từ phủ thành Ngô Châu đến bến tỉnh thành Quảng Tây hết 24 ngày (18 ngày đi, 6 ngày đỗ) đường thủy.

- Từ tỉnh thành Quảng Tây đến Toàn Châu thành đi 13 ngày đường bộ (đi 4 ngày, ở 9 ngày).

- Từ Toàn Châu thành đến tỉnh thành Hồ Nam đi 26 ngày đường thủy (đi 20 ngày, đỗ 6 ngày).

- Từ tỉnh thành Hồ Nam đến huyện thành Hán Dương tỉnh Hồ Bắc đi 30 ngày đường thủy (đi 12 ngày, đỗ 18 ngày).

- Từ huyện thành Hán Dương đến huyện thành Vinh Trạch hết 25 ngày đường bộ (đi 17 ngày, đỗ 8 ngày).

- Từ huyện thành Vinh Trạch đến huyện Thanh Uyển, tỉnh Trực Lệ hết 21 ngày (đi 19 ngày, ở 2 ngày).

- Từ huyện Thanh Uyển tỉnh Trực Lệ đến Yên Kinh, hết 10 ngày (đi 6 ngày, ở 4 ngày).

Tổng cộng từ Nam Quan đến Yên Kinh mất 181 ngày (dọc đường lưu trú 64 ngày, thực đi 117 ngày, 73 ngày đường thủy, 44 ngày đường bộ).

Lượt về tính từ ngày 10 tháng Tư xuất phát ở Yên Kinh đến ngày 13 tháng Mười một đến Nam Quan, trong đó:- Từ Yên Kinh đến huyện thành Tân Trịnh, hết 30 ngày đường bộ (đi 27 ngày, ở 3 ngày).

- Từ huyện thành Tân Trịnh, đến công quán Phàn Thành hết 16 ngày đường bộ (đi 12 ngày, ở 4 ngày).

- Từ Phàn Thành đến bến tỉnh thành Hà Bắc, hết 38 ngày đường thủy (đi 13 ngày, đỗ 25 ngày).

- Từ bến tỉnh thành Hồ Bắc đến bến tỉnh thành Hồ Nam hết 11 ngày đường thủy (đi 6 ngày, 5 ngày đỗ).

- Từ bến tỉnh thành Hồ Nam đến bến châu thành Toàn Châu tỉnh Quảng Tây hết 39 ngày đường thủy (đi 26 ngày, đỗ 13 ngày).

- Từ Toàn Châu đổi sang đường bộ đến bến huyện thành Linh Xuyên hết 7 ngày (đi 3 ngày, ở 4 ngày).

- Từ bến huyện thành Linh Xuyên đến bến châu thành Ninh Minh hết 60 ngày đường thủy (đi 41 ngày, đỗ 19 ngày).

- Từ bến châu thành Ninh Minh đến Nam Quan, đi đường bộ mất 5 ngày (đi 3 ngày, ở 2 ngày).

Tổng cộng từ Yên Kinh đến Nam Quan mất 206 ngày (lưu trú 75 ngày, đi 131 ngày).

Thời gian lưu trú ở Yên Kinh là 70 ngày, kể từ ngày 29 tháng Giêng năm Tự Đức thứ 22 qua Lư Câu Kiều, giờ Thân đến Quảng An Môn, đi thêm mấy dặm vào Chính Dương môn, sứ bộ cùng các nhân viên tùy hành đến nghỉ ở Tứ Dịch công quán của phủ Nội Vụ... Thời gian này ngoài công việc chính là dâng biểu trình quốc thư và nộp cống phẩm qua Thượng thư Bộ Lễ Vạn Thanh Lê (mọi công việc giao dịch chủ yếu thông qua Di Phó, quan chức ở Ti Chủ Khách - tức Vụ Lễ tân - Bộ Lễ), sứ bộ còn lưu lại dự Vạn thọ khánh tiết của Hoàng đế Đồng Trị nhà Thanh, ba lần dự đón xa giá Hoàng đế ở Thần Vũ môn.

Trong thời gian này, có ít nhất 2 ngày 12 và 13 tháng Hai, Nguyễn Tư Giản ngộ cảm phong hàn, đau đầu mỏi người và ho nhiều không dự được buổi đón Hoàng đế nhà Thanh đến Thái Cao điện thắp hương mà theo lệ tất cả sứ thần đều phải quỳ đón ngoài Thần Vũ môn sáng ngày 13. Từ ngày 12 khi chủ khách đi bẩm cáo việc này và đến ngày 13 chỉ có Chánh sứ Lê Tuấn cùng ất phó sứ Hoàng Tịnh tham dự.

Dõi theo Như Thanh nhật ký có thể thấy nỗi gian lao vất vả của các sứ thần, ngoài những việc hệ trọng liên quan đến quốc sự, quốc thể ra, họ còn phải xử lý bao nhiêu công việc đời thường, từ việc cử người hàng ngày lo quà cáp biếu xén các vị quan chức địa phương nơi sứ bộ tạm nghỉ chân dọc đường, chi tiêu phục vụ ăn uống, cho đến việc mấy cái đinh, thuê công thợ đóng lại rương hòm cống phẩm,... Như Thanh nhật ký còn ghi có trường hợp đột xuất hiếm có: đó là mấy hôm sau khi nộp cống phẩm, phía quan chức nhà Thanh phàn nàn rằng do một số hòm bị vỡ, họ phải đền oan mất 400 lạng bạc. Dĩ nhiên sứ bộ không chịu trách nhiệm vì khi nộp cống phẩm đã bàn giao đầy đủ, song sứ bộ đã bàn nhau, một khi phía nhà Thanh đã có sự phàn nàn như vậy, thì ta cũng chi ra một trăm lạng bạc tự cấp, v.v.

ấy vậy mà, như chúng ta đã biết, sứ thần Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản qua chuyến đi sứ đã để lại nhiều thơ văn bang giao giàu cảm xúc, nhiều câu đẹp, nhiều bài điêu luyện về mặt nghệ thuật, man mác một lòng yêu quê hương đất nước.

Chỉ xin lấy ra đây một bài trong số hàng trăm bài để cùng thưởng thức:

Sương thiên

Lạc nguyệt mang mang thủy thượng lâu,
Hiểu nhân như vũ mãn giang châu.
Bán mai lục thụ thiêm hoàng diệp,
Nhất dạ thanh sơn tận bạch đầu.
Vân ám bất lai Hành Lộc nhạn,
Thiên hàn độc ỷ Sở Giang châu.
Lĩnh mai dục vấn hoa khai vị ?
Cực mục phong yên giáo khách sầu.

Trời sương

Trăng về mờ soi mái thủy lầu,
Sương mai như dội bãi sông sâu.
Lưng đèo cây biếc vàng thêm lá,
Một tối non xanh bạc hết đầu.
Hành Lộc mây mờ nghe nhạn vắng,
Sở Giang trời lạnh cắm thuyền lâu.
Ngàn mai Ngũ lĩnh đơm hoa chửa?
Mỏi mắt trời mây khách rộn sầu(1).

Cùng với hàng ngàn sứ thần trong lịch sử, Nguyễn Tư Giản đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp ngoại giao Việt Nam sớm mang đậm dấu ấn hai đặc điểm nổi bật là tính bất khuất quật cường của một quốc gia yêu chuộng hòa bình nhưng kiên quyết giữ vững độc lập chủ quyền và tính mềm dẻo khôn khéo của một dân tộc đất không rộng, người không đông nhưng luôn phải đương đầu với những thế lực xâm lược lớn mạnh gấp bội.

CHÚ THÍCH

(1). Bản dịch của Hoàng Tạo, trong Thơ đi sứ. Phạm Thiều, Đào Phương Bình chủ biên. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.

TB

VỀ TÁC PHẨM YÊN THIỀU THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN TƯ GIẢN

HOÀNG VĂN LÂU

Năm Tự Đức 21 (1868), Nguyễn Tư Giản với tư cách là Hồng lô tự khanh, được cử làm Phó sứ thứ nhất trong đoàn sứ bộ (Giáp phó sứ) sang sứ nhà Thanh.

Theo Đại Nam liệt truyện chính biên, sau lần đi sứ này, Nguyễn Tư Giản để lại ba tác phẩm là: Yên thiều thi thảo, Yên thiều văn thảo Trung châu quỳnh giao tập...

Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được bộ Yên thiều thi văn tập. Trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (gọi tắt là Đề yếu), Tập 3, tr.718, mục 4519 Yên thiều thi văn tập có giới thiệu 3 văn bản của bộ sách là: A.199, A.1211 và VHv.1436. Trong đó, A.1211 có tên Yên thiều thi thảo, 1 quyển 101 trang, chỉ có phần thơ; VHv.1436 có tên Yên thiều thi thảo, thiếu phần Tạ biểu... Nội dung đầy đủ nhất là bản A.199.

Bản A.199 do Học viện Viễn đông Pháp sao chép. Bản này có 316 trang, khổ sách 31cm x 23cm. Mỗi trang viết chữ 9 dòng, mỗi dòng 20 chữ. Trang 1 có Yên thiều thi thảo của Lý Văn Điền (người Trung Quốc). Trang 5 có Yên thiều thi thảo tự của Ngô Trọng Tự (người Trung Quốc) viết năm Đồng Trị 8 (1868). Trang 9, dòng 1 ghi: Yên thiều thi thảo Quyển nhất; dòng 2: Đông Ngàn Nguyễn Tư Giản, Tuân Thúc trứ. Quyển này (Q.1) có 82 trang (từ tr.9 đến tr.90). Trang 91, dòng 1 ghi Yên thiều thi thảo Quyển hạ. Quyển này có 90 trang (từ tr.91 đến tr.180). Phần Yên thiều thi thảo gồm 2 quyển (Quyển nhất và Quyển hạ), 172 trang, 355 bài thơ.

Trang 181, dòng 1 ghi: Yên thiều văn tập Quyển thượng. Phần này có 51 trang (từ tr.181 đến tr.231), sưu tập 32 bài Biền văn, Tế văn, Thiếp, Công văn, Thư, Tự, Bạt, Thuyết, Khải... chỉ có quyển Thượng, không thấy quyển Hạ.

Trang 232, dòng 1 ghi: Trung Châu quỳnh giao tập. Phần này có 52 trang (từ tr.232 đến tr.283), sưu tập 108 bài thơ tặng đáp giữa sứ bộ với các nhân vật Trung Châu (Trung Quốc).

Trang 283, dòng 1 ghi: Phụ lục. Phần Phụ lục từ trang 284 đến trang 316, gồm 33 trang. Phần này sưu tập một số bài thơ, văn tự, bạt, của các văn nhân Trung Quốc.

Như vậy là, Yên thiều thi văn tập, bản A.199 là bộ sưu tập gồm 3 tác phẩm: Yên thiều thi thảo, Yên thiều văn thảo, Trung Châu quỳnh giao tập của Nguyễn Tư Giản đã được nói tới trong Truyện Nguyễn Tư Giản của Đại Nam liệt truyện, chỉ khác ở chỗ: Đại Nam liệt truyện ghi Yên thiều thi thảo 3 quyển., thì ở bản A.199 chia thành hai quyển: Quyển Nhất và Quyển Hạ; Yên thiều văn thảo, Liệt truyện ghi 1 quyển thì ở bản A.199 ghi “Quyển Thượng” (mà không có quyển Hạ), còn Trung Châu quỳnh giao tập thì bản A.199 không ghi số tập, số quyển, còn Liệt truyện ghi 1 quyển. Có thể nghĩ rằng, ba tác phẩm này vốn lưu hành riêng lẻ (tác phẩm đã nhờ hai văn nhân Trung Quốc đề tựa cho Yên thiều thi thảo). Sau này, trong quá trình sao lục, người ta biên tập cả 3 tác phẩm vào một sách, lấy tên chung là Yên thiều thi văn tập. Trong một số bộ sưu tập thơ văn Nguyễn Tư Giản khác như Thạch Nông thi tập, Thạch Nông văn tập. Thạch Nông toàn tập cũng có sưu tập thơ văn đi sứ của Nguyễn Tư Giản. Ngoài ra, những văn kiện của đoàn sứ bộ Việt Nam trong chuyến sang Trung Quốc (năm 1868 - 1869) được sưu tập trong sách Yên thiều bút lục, cũng do Nguyễn Tư Giản soạn, đều là những tác phẩm quan trọng giúp tìm hiểu các quan điểm và tài năng ngoại giao của Nguyễn Tư Giản nói riêng và sự nghiệp thơ văn nói chung của ông.

Trong tập thơ văn này, chúng ta hay gặp nhóm từ chỉ thời gian như “thập ngũ niên” (mười lăm năm), “thập lục niên” (mười sáu năm)...

Thập lục niên tiền sứ tiết qua (Ngô Châu bát thủ chi tứ)
(Mười sáu năm xưa, sứ đã qua...)

Hồi đầu thập lục niên tiền sự,
Thùy tín thiên hà hữu lộ thông (Yên Đa thập nhị kỷ)

(Mười sáu năm rồi, nay nghĩ lại,
Lên trời, ai nghĩ có đường thông!).

Tam niên nhất cống chu nhi phục,
Thập ngũ niên tiền lộ cức kinh
Tạm đình sứ Bắc thiều xa cốc...
(Lê Thân Sản Tống Nhị sứ thần thi)
(Cứ ba năm một lần tiến cống,
Mười lăm năm đường rậm cỏ gai
Tạm dừng xe sứ tới nay...)

Theo thường lệ, cứ ba năm sứ thần Việt Nam lại tiến cống Bắc triều một lần. Đến lúc này (1868) đã 16 năm, mới lại có sứ bộ Lê Tuấn, Nguyễn Tư Giản, Hoàng Tịnh sang Yên Kinh, tức là từ năm 1852 đến năm 1868 Việt Nam và Trung Quốc không có sứ bộ qua lại. Đoàn sứ bộ cuối cùng trước khi đường đi sứ bị cắt đứt gồm các ông: Phan Huy Vịnh, Phạm Chi Hương, Lưu Lượng, Nguyễn Duy, Vũ Văn Tuấn... do “bọn giặc quấy nhiễu, đường sá bị cách trở” phải lưu lại ở Trung Quốc 3 năm, từ năm 1850 đến năm 1852, (cuối cùng) phải vượt biên về nước (Lý Văn Phức: Sứ trình chí lược thảo; tr.115). Do đó, lần này, Vua Tự Đức dặn dò rất kỹ, và sứ thần cũng rất thận trọng nghiêm cẩn. Đoàn sứ bộ trở về, phải báo cáo rất cụ thể, chi tiết (Xem Lê Tuấn, Nguyễn Tư Giản, Hoàng Tịnh: Như Thanh nhật ký).

Ngoài sách Như Thanh nhật ký cùng soạn với Lê Tuấn và Hoàng Tịnh, trong lần đi sứ này, Nguyễn Tư Giản đã để lại một bộ sưu tập văn kiện ngoại giao Yên thiều bút lục, và những sáng tác thơ văn, hiện sưu tập khá đầy đủ trong Yên thiều thi văn tập.

335 bài thơ làm trong dịp đi sứ là tiếng lòng giàu cung điệu của một nhà thơ lớn, biết gắn bó số phận của mình với nhân dân, với dân tộc trong giai đoạn khó khăn, đầy biến cố của lịch sử.. Trong khi đó, hơn 30 bài văn còn giữ được, lại thể hiện tầm hiểu biết rộng lớn, ý thức chính trị sâu sắc, đặc biệt là ý thức tự tôn dân tộc đáng khâm phục. Bức thư trả lời Mã Long Phường (Đáp Mã Long Phường thư), trình bày cô đọng tình hình văn học, khoa cử, nhân tài... của Việt Nam; bức thư gửi cho ông Đạo đài họ Lý, đề cập tới việc tiễu trừ tàn dư quân Thái Bình Thiên Quốc ở các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang; bài Biện di thuyết cực lực bác bỏ luận điệu hoang đường phân biệt “di”, “hạ” của các chính khách Quảng Tây... rất giàu ý nghĩa hiện thực và giá trị lịch sử. Tất cả điều đó tạo nên tầm vóc riêng cho tập thơ văn đi sứ Yên thiều thi văn tập của Nguyễn Tư Giản.

TB

NGUYỄN TƯ GIẢN
CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM

TRỊNH KHẮC MẠNH

Nguyễn Tư Giản sống gần 70 năm trọn trong thế kỷ XIX, danh tiếng của ông không được nổi như một số nhân vật cùng thời, có thể kể như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Quang Bích, Bùi Viện v.v., nhưng ông cũng được liệt vào hàng những người hoạt động chính trị, những người sáng tác thơ văn của thế kỷ này. Các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Tư Giản để lại cho đời nay trong kho tàng văn hóa thành văn của dân tộc còn khá nhiều, nhưng đáng tiếc là cho đến nay, chưa được phiên dịch và công bố bao nhiêu. Tôi cho rằng, trong một tương lai gần, giới nghiên cứu khoa học nói chung và giới nghiên cứu Hán Nôm nói riêng nên bắt tay vào việc biên soạn cuốn sách giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Tư Giản cùng các tác phẩm văn chương của ông với đông đảo bạn đọc; nhằm góp phần vào việc khai thác di sản Hán Nôm của ông cha để lại, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Nguyễn Tư Giản sinh năm (1823) mất năm (1890), người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội). Ông vốn tên là Nguyễn Văn Phú, được vua phê bút son đổi là Nguyễn Tư Giản 阮 思 僩. Ông có hiệu là Thạch Nông 石 農 và Vân Lộc 雲 麓, tự là Tuân Thúc 洵 叔.

Được sinh ra và lớn lên trong một dòng họ khoa bảng, lại được thầy học là Tiến sỹ Vũ Tông Phan dạy dỗ, nên Nguyễn Tư Giản đã sớm thành đạt trong trường khoa cử. Năm 21 tuổi, Nguyễn Tư Giản thi đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị 3 (1843) và năm 22 tuổi lại thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, niên hiệu Thiệu Trị 4 (1844) đời vua Nguyễn Hiến Tổ. Trong cuộc đời quan trường của mình, Nguyễn Tư Giản giữ nhiều chức quan, như Nội các sự vụ Đê chính, Tán lý quân thứ Hải An, từng được sung vào đoàn sứ bộ sang sứ nhà Thanh (Trung Quốc). Khi trở về được thăng Thượng thư Bộ Lại, sau bị giáng chức, đổi làm Sơn phòng sứ ở Chương Mỹ, rồi lại được phục chức, làm Tổng đốc Ninh-Thái, rồi về hưu. Trong thời kỳ làm quan, Nguyễn Tư Giản đã tham gia cùng với nhóm của Nguyễn Trường Tộ dâng nhiều bản điều trần tâu lên triều đình nhà Nguyễn xin duy tân cải cách, nhưng không được triều đình chấp nhận. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Tư Giản đứng về phe chủ chiến, có lúc ông cùng Bùi Văn Dị cầm quân đánh Pháp.

Cuộc đời của Nguyễn Tư Giản, bên cạnh sự nghiệp làm quan, ông cũng để lại khá nhiều tác phẩm thơ, văn viết bằng chữ Hán trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XIX. Nhân kỷ niệm 110 năm mất của Nguyễn Tư Giản, nhằm cung cấp cho bạn đọc cái nhìn bao quát về các tác phẩm của ông, chúng tôi xin nêu ra một danh mục các tác phẩm của ông hiện đang lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm để bạn đọc tham khảo.

Trong quá trình thống kê tác phẩm của Nguyễn Tư Giản, chúng tôi tạm phân chia theo 3 loại: một là những tác phẩm do chính ông biên soạn, hai là những tác phẩm ông tham gia biên soạn, ba là thơ văn của ông được sao chép ở các sách khác.

Tác phẩm do chính Nguyễn Tư Giản biên soạn gồm có:

1- Nguyễn Tuân Thúc thi tập 阮 洵 叔 詩 集, VHv.32, sách chép tay, dày 175 trang, có 1 bài tựa. Tập thơ của Nguyễn Tư Giản, gồm các tập: Quan hà tập 觀 河 集, Đông chinh tập 東 征 集, Yên thiều thi thảo 燕 軺 詩 草, Tiểu Tuyết Sơn phòng thi tập 小 雪 山 防 詩 集.

2. Sử lâm kỷ yếu 史 林 紀 要, A.2654. Tác phẩm được soạn năm Tự Đức 13 (1860), sách chép tay, dày 132 trang. Tập sách của Nguyễn Tư Giản, viết theo thể thơ 4 chữ về lịch sử của Trung Quốc từ thời Bàn Cổ đến đời Minh cùng những việc hay dở của vua quan Trung Quốc. Có lời châu phê của vua Tự Đức.

3. Thạch Nông thi tập 石 農 詩 集, có 3 bản đều chép tay, VHv.28 dày 104 trang, VHv.700 dày 108 trang và VHv.1149/1-2 dày 200 trang. Tập thơ của Nguyễn Tư Giản, gồm những bài thơ trích từ các tập Quan hà thi thảo 觀 河 詩 草, Đông chinh tập 東 征 詩 集, Văn lâm thi thảo 文 林 詩 草, Yên thiều thi thảo 燕 軺 詩 草, Vân Lộc thi thảo 雲 麓 詩 草, Tuyết tiều ngâm thảo 雪 樵 吟 草...

4. Thạch Nông toàn tập 石 農 全 集, A.376/1-6, sách chép tay, dày 2494 trang. Đây là bộ toàn tập gồm cả thơ và văn của Nguyễn Tư Giản. Về thơ gồm các tập Quan hà tập 觀 河 集, Đông chinh tập 東 征 集, Văn lâm thi thảo 文 林 詩 草, Yên thiều thi thảo 燕 軺 詩 草, Vân Lộc thi thảo 雲 麓 詩 草, Tuyết tiều ngâm thảo 雪 樵 吟 草, Nam hành thi thảo 南 行 詩 草, Tiểu Tuyết Sơn phòng thi tập 小 雪 山 防 詩 集. Về văn gồm các tập Đối liên tập 對 聯 集, Yên thiều bút lục 燕 軺 筆 錄, Thạch Nông văn tập 石 農 文 集...

5. Thạch Nông văn tập 石 農 文 集, VHv.1389, sách chép tay, dày 365 trang. Đây là tập văn của Nguyễn Tư Giản, gồm thư gửi quan lại tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), bi ký, sớ và văn trên đường đi sứ Trung Quốc. Trong tập sách này có Yên thiều tập 燕 軺 集.

6- Vân Điềm Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả 雲 恬 榆 林 阮 族 合 譜, có 2 bản chép tay, VHv. 2416 dày 176 trang và A.1008 dày 80 trang. Sách ghi chép về gia phả họ Nguyễn ở làng Vân Điềm và làng Du Lâm thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Dòng họ này có nhiều người đỗ đạt, như: Nguyễn Thực đỗ Hoàng giáp, Nguyễn Nghi và Nguyễn Sỹ đỗ Tiến sỹ, Nguyễn Tư Giản đỗ Hoàng giáp...

7. Yên thiều thi văn tập 燕 軺 詩 文 集, A.199, sách chép tay, dày 250 trang. Tập thơ, văn của Nguyễn Tư Giản làm trong dịp đi sứ Trung Quốc.

8. Yên thiều thi thảo 燕 軺 詩 草, VHv.1436, sách chép tay, dày 194 trang. Tập thơ làm trong dịp Nguyễn Tư Giản đi sứ Trung Quốc.

9. Yên thiều thi tập 燕 軺 詩 集, A.1211, sách chép tay, dày 101 trang. Tập thơ làm trong dịp Nguyễn Tư Giản đi sứ Trung Quốc.

Các tác phẩm Nguyễn Tư Giản tham gia biên soạn gồm có:

1- Liễu Đường biểu thảo 柳 堂 表 草, VHv.1143. Tập văn đồng tác giả với Hà Tông Quyền và Phạm Đôn Nhân, gồm nhiều bài biểu, tấu tạ ơn vua.

2- Như Thanh nhật ký 如 清 日 記, A.102. Tập nhật ký đồng tác giả với Lê Tuấn và Hoàng Tịnh, nhật ký của đoàn sứ giả Việt Nam đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) vào năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức 21 (1868) đời vua Nguyễn Dực Tông.

3- Phụng tương vũ lược ẩn dật thần tiên liệt nữ thưởng lãm các sách soạn thành thi tập 奉 將 武 略 隱 逸 仙 列 女 賞 覽 各 册 撰 成 詩 集, A.1093. Tập thơ cùng biên soạn với Miên Thẩm Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Phạm Thanh và Nguyễn Văn Giao, gồm nhiều bài thơ của nhiều tác gia.

Thơ văn của Nguyễn Tư Giản chép trong các sách (khoảng trên 30 sách), như:

Bái Dương Ngô Thế Vinh kinh hồi tiễn hành thi tập 沛 陽 吳 世 榮 京 回 餞 行 詩 集, A.2639; Canh Tý ân khoa văn tuyển 庚 子 恩 科 文 選, A.479; Chư danh gia thi 諸 名 家 詩, VHb.225; Chư đề mặc 諸 題 默, VHv.18; Du Hương Tích động ký 遊 香 跡 峒 記, A.1814; Du Hương Tích sơn tiền tập 遊 香 跡 山 前 集, A.314; Điều trần đê chính sự nghi tập 條 陳 堤 政 事 宜 集, VHv.169/1-2 và VHt.9; Đối liên thi văn tạp chí 對 聯 詩 文 雜 志, VHv.612; Hải Vân am thi tập 海 雲 庵 詩 集, A.1515; Hàn các tạp lục 翰 閣 雜 錄, A.1463; Hạnh Thị song nguyên Lê Phiên hầu thi văn 杏 市 雙 元 黎 藩 侯 詩 文, A.2260; Hoàng gia cẩm thuyết 皇 家 錦 說, A.428; Kim triều chiếu chỉ 今 朝 詔 旨, A.399; Minh kính hiên văn sao 明 鏡 軒 文 抄, VHb.220; Nghĩa Khê thi tập 義 溪 詩 集, A.1842 và A.3216; Nguyệt Đình tạp chí 月 亭 雜 志, A.387; Ninh Bình sự tích 寧 平 事 跡, A.1406; Quốc Triều danh nhân thi thái 國 朝 名 人 詩 採, VHv.37; Tạp văn 雜 文, A.3231; Tạp văn sao 雜 文 抄, VHt.6; Thái bổ địa lý di cục 太 補 地 里 遺 局, VHv.1659; Thám hoa văn tập 探 花 文 集, A.528; Thi khóa tập tịnh biểu trướng văn 詩 課 集 並 表 帳 文, A.2876/1-2; Thi văn loại 詩 文 類, VHv.39; Tống Khê Nguyễn Vĩnh Lại công niên biểu 宋 溪 阮 永 賴 公 年 表, VHv.333 và VHv.44; Trần triều lăng tẩm đồ mạn ký 陳 朝 陵 寢 圖 漫 記, VHv.1755; Trướng đối cập ứng chế văn 帳 對 及 應 制 文, A.2923; Trướng đối tạp lục 帳 對 雜 錄, VHv.1920; Từ uyển xuân hoa 詞 苑 春 花, A. 2518; Tự Đức thời văn 嗣 德 時 文, A.285; Tương sơn hành quân thảo lục 湘 山 行 軍 草 錄, A.2583; Vạn lý hành ngâm 萬 里 行 吟, VHv.486, A.2840, VHv.867, VHv.869/1-2, A.305, A.2363; Văn tập 文 集, VHv.260/1-4; Văn tuyển tạp biên thi khải 文 選 雜 遍 詩 啟, VHv.1862; Yên đài anh thoại 燕 臺 嬰 話 VHv.2153, A.1918, VHv.78; v.v.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tư Giản, thơ chữ Hán là nhiều hơn cả. Thơ của ông chủ yếu là những bài thơ cảm tác, tức cảnh, đề vịnh thiên nhiên phong cảnh, các loài hoa quý, các di tích danh lam thắng cảnh ở trong nước và khi đi sứ Trung Quốc; hoặc là những bài thơ tiễn tặng, xướng họa với bạn bè.. Thơ của Nguyễn Tư Giản đã được dịch và công bố một số bài trong tập Thơ đi sứ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.

Về văn, Nguyễn Tư Giản có tập gia phả ghi chép về dòng họ Nguyễn ở làng Vân Điềm và làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh; đây là tập gia phả có giá trị khi nghiên cứu về phả hệ một dòng họ khoa bảng ở vùng quê Kinh Bắc. Ngoài ra, ông còn một số bài văn khác, như sớ, biểu, thư từ trao đổi với các quan lại, văn bia, v.v... Văn của Nguyễn Tư Giản đã được dịch và công bố một số bài trong cuốn Tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX, tài liệu lưu hành nội bộ (in rônêô) của Viện Triết học thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

Với một khối lượng tác phẩm đồ sộ như nêu ở trên, theo tôi Nguyễn Tư Giản là một tác gia Hán Nôm xứng đáng được hậu thế tôn vinh. Tôi tin chắc rằng, một ngày không xa các tác phẩm của ông sẽ được phiên dịch, nghiên cứu và giới thiệu cùng đông đảo bạn đọc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lược truyện các tác gia Việt Nam (tập I), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1971.

2. Thư mục Hán Nôm-Mục lục tác giả, Ban Hán Nôm, Hà Nội, 1977 (bản in ronêô).

3. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (3 tập), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993

4. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội 1993.

5. Từ điển nhân vật lịch sử, Nxb. Văn hóa, 1997 (bản in lần thứ tư).

TB

MỘT NHÂN CÁCH NHO SĨ, MỘT TÀI THƠ QUA “ĐƯỜNG TRUNG PHẠM ĐÔN NHÂN NGUYÊN THẢO”

HOÀNG THỊ MAI HƯƠNG

Đầu mùa hè năm nay, chúng tôi được trao tập thơ chụp từ Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo, ký hiệu A.467 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội từ tay một hậu duệ của tác giả Phạm Sĩ Ái.

Phạm Sĩ Ái mới được biết đến qua:

* Lược truyện các tác gia Việt Nam (Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, 2 tập)

* “Bài thơ Phạm Sĩ Ái nhớ Cao Bá Quát” (Nguyễn Văn Bách. Tạp chí Hán Nô m số 3, 1994).

* Trong 101 bài thơ Tây Hồ, bài dịch Họa Cao Mẫn Hiên du Tây Hồ mạn ngâm kiến ký (Bùi Hạnh Cẩn. Nxb. Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 1996).

* Phạm Sĩ Ái, con người tài hoa với cuộc đời ngắn ngủi (Trần Hồng Đức. Tạp chí Xưa và Nay, số 72B tháng 2 năm 2000).

Song việc nghiên cứu để làm nổi bật chân dung Phạm Sĩ Ái qua các trước tác của ông thì đến nay vẫn chưa ai làm.

Đây là một nho sĩ tài hoa, nhân hậu nhưng cũng đầy bất hạnh. Phạm Sĩ Ái tự Đôn Nhân, hiệu Nghĩa Khê, sinh năm 1806, người làng Nghĩa Khê, xã Trung Chỉ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Sau khi học xong Hương học, ông ra Thăng Long theo học một số thầy, trong đó có Tiến sĩ Phạm Quý Thích. Trong thời gian mười mấy năm này, Phạm Sĩ Ái ở tại ngôi nhà gần chùa Linh Động (ngõ Thiên Hùng, phố Khâm Thiên, Hà Nội). Năm 1828, ông đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định và bốn năm sau, đỗ Hoàng giáp ở Kinh đô Huế cùng với Nguyễn Văn Lý. Ngay sau khi đỗ, vua Minh Mệnh đã bổ ông vào chức Hàn lâm viện Tu soạn, rồi Tri phủ Cam Lộ (Quảng Trị), Viên ngoại lang Thanh lại ty, án sát tỉnh Hà Tĩnh, sung làm Giám khảo trường thi Hội (1838). Năm 1839, vua triệu ông về Kinh làm Biện lý Bộ Binh. Phạm Sĩ Ái mất đột ngột khi làm Chánh chủ khảo khoa thi Hương ở trường thi Gia Định (1840).

Phạm Sĩ Ái ra làm quan vào thời kỳ đầu chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Tuy đã củng cố được quyền lực, xây dựng được bộ máy trung ương tập quyền, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn dung túng một số quan lại sâu mọt lộng hành. Nhiều vị quan lại công tâm luôn đặt yêu cầu vì chính nghĩa, vì lẽ phải lên trên hết, lấy việc làm quan là để giúp dân, để chấn hưng văn hóa... đã không tránh khỏi cạm bẫy của sự vu cáo và hãm hại.

Tận mắt chứng kiến các tủi nhục, uất hận của những “tâm hữu” như Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795 - 1868), Tiến sĩ Hà Tôn Quyền (1798 - 1839), Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (1802 - 1856), Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1804 - 1862), danh sĩ Cao Bá Quát (1809 - 1853)... Phạm Sĩ Ái cũng chung một tâm trạng như họ: Thế thái nhân tình thế này thì còn làm quan làm gì nữa (Nguyễn Văn Lý).

Có lẽ vì e ngại và chán ngán trước công việc chính sự, lại thêm có sẵn sở thích về văn chương nên Phạm Sĩ Ái dồn tâm lực vào sáng tác thơ văn và đã để lại một số tác phẩm như:

1. Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo (ký hiệu A.467)

2. Nghĩa Khê thi tập (ký hiệu A.1862; A.3216; VHv.234; VHv.2244)

3. Liễu Đường biểu thảo.

4. Tại Kinh lưu thư.

Ngoài hai tác phẩm Liễu Đường biểu thảo Tại Kinh lưu thư là những áng văn được lưu giữ ở Kinh đô, 2 thi phẩm còn lại đều là thơ hay, như vua Minh Mệnh đã từng khen:

Chính sự Hà Tôn Quyền, văn chương Phạm Sĩ Ái.

Tìm đến với nguyên bản của tác phẩm Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo, chúng tôi thấy: bản gốc là một quyển sách dày 74 trang, khổ 32x31cm bằng giấy Tây, bìa cũng bằng giấy Tây màu vàng nhạt, được chép bằng chữ Hán chân phương. ở trang đầu phía bên phải, trên là tên tác phẩm Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo. Phía dưới ghi rõ:

Đông Tác Nguyễn Tuần Phủ châu bình(1)

Cát Động Hà Tốn Trai mặc bình(2)

Bái Dương Ngô Trọng Phu nhàn bình(3).

Bên trái là hai bài thơ đầu tiên:

* Hưng Hóa tỉnh dữ đường huynh Huệ Trai dạ lưu biệt.

* Hạ Lại bộ Lang trung Phạm Bạt Khanh lục tuần song thọ chi khánh.

Nhưng trong suốt 161(4) bài của tập thơ (trong đó bài 134 dở dang và bài tiếp sau đó chỉ có 2 câu kết) chỉ có dấu ngắt câu bằng mực son, không có dấu hiệu gì của những lời bình như trang đầu đã giới thiệu. Vì vậy chúng tôi phải tham khảo thêm Nghĩa Khê thi tập của Phạm Sĩ Ái.

1. Nghĩa Khê thi tập ký hiệu A.3216, dày 124 trang, khổ 27x16cm bằng giấy dó, bìa đã rách, trình bày bằng chữ Hán đá thảo khá đẹp. Hai trang đầu và vài trang cuối bị nát. Tất cả các bài thơ của tập này đều có những dấu khuyên, dấu chấm son và đen chi chít bên phải mỗi hàng chữ. Ngoài ra khá nhiều bài được kèm lời nhàn bình, chứng tỏ tập thơ đã được nhiều người đọc và tâm đắc. Đối chiếu 2 tập thơ trên từng bài một, thì thấy rằng cả 2 tập thơ đều có nội dung và thứ tự các bài thơ giống hệt nhau (kể cả phần chú thích ở trang đầu). Đến bài 134 Cẩm trực hiểu khởi thì phát hiện ra bài này còn 4 câu ngũ ngôn nữa. Tiếp theo, còn 3 bài mà Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo không có, đó là:

* Mạn thành.

* Tống Khanh nhân nguyên nhậm Trà Vinh huyện doãn bất tranh thị quy điền.

* Tam nguyệt thất nhật Xuân Khanh Phan Tướng công phản ức cố hương Sài Nham hội xứ tăng khách nhân giai liêu hữu tức tịch phú thảo.

Bài 138 Giai liêu hữu bồi Phan Tướng công dạ yến phụng họa tống xuân nguyên xướng ở A.467 thiếu 6 câu thất ngôn. Chỉ có 2 câu kết.

Trang cuối bản A.3216 thì không có bài Tiễn linh khoa cấp sự trung Vũ Tiên sinh điều bổ Hải Dương đề học chi lỵ như ở cuối bản A.467. Còn lại từ trang 72 đến trang 124 là 21 bài văn tế, biểu chúc thọ... của tác giả.

Như vậy, có thể kết luận rằng: Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo và phần thơ ở Nghĩa Khê thi tập A.3216 là một.

2. Nghĩa Khê thi tập ký hiệu A.1862: chưa tìm thấy văn bản.

3. Nghĩa Khê thi tập ký hiệu VHv.2345, dày 116 trang, khổ 27x15cm bằng giấy dó, bìa giấy Tây chữ Hán viết tay đá thảo, giống bút tích ở A.3216. Trang liền bìa ghi: “Giá quyển Phạm Sĩ Ái nguyên thảo, Tiến sĩ Nguyễn Tuần Phủ, Tiến sĩ Hà Tôn Quyền, Tiến sĩ Ngô Thế Vinh hội đồng điểm duyệt”. Ở trang 1 là tên sách Nghĩa Khê thi tập.

Nội dung và trình tự các bài thơ ở đây gần như giống hoàn toàn với A.3216. Chỉ khác một điểm: đến bài thứ 76 Dữ Cao Mẫn Hiên dạ tự cảm thành, bản VHv.2345 có thêm 4 bài nữa chen vào:

* Đoan Dương tiền nhất nhật yêu tặng chư đồng chí.

* Mộ phỏng Phương Đình ngụ xá thích Phương Đình hồi chu trấn hải du hồi để tân thư tịch nhân hỉ tặng.

* Tịch nhân hữu phiến họa dĩ lan nhân thư tứ tuyệt dĩ tặng.

* Phỏng Cao Mẫn Hiên mộ hồi nhân thứ Mẫn Hiên sở tặng nguyên vận.

Tập thơ này cũng có nhiều dấu khuyên, chấm, lời bình, song không nhiều bằng A.3216, từ trang 82 trở đi là 15 bài văn tế, chúc thọ... của tác giả.

4. Lập Trai Phạm Tiên sinh thi tập, ký hiệu VHv.2244, dày 120 trang, khổ 28x17cm, bìa giấy Tây, ruột giấy dó, chữ viết tay như 2 bản A.3216 và VHv.2345.

Trang 1 ghi: Phạm Tiên sinh thi tập.

Từ trang 2 đến trang 22 là 68 bài thơ của Phạm Tiên sinh.

Trang 24 ghi: Tốn Trai học vịnh.

Từ trang 24 đến hết thơ của Tốn Trai (Hà Tôn Quyền), và Lập Trai (hiệu của Phạm Quý Thích, thầy dạy của Phạm Sĩ Ái). Chúng tôi ngờ rằng 68 bài thơ đầu tập là của Lập Trai chăng ?

Nói tóm lại có thể kết luận rằng: thơ của Phạm Sĩ Ái, cho đến nay, khẳng định chắc chắn là 169 bài trong Nghĩa Khê thi tập Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo.

Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo có 165 bài thơ, trong đó có 143 bài và các chùm thơ sau đây:

* Thu hứng thập Vịnh (Mười bài thu hứng)

* Mộ xuân ngọa bệnh nhị thủ (Cuối xuân mắc bệnh, 2 bài)

* Vi trung tức sự (Tức sự nơi trường thi, 5 bài)

* Thu lạo tứ thủ (Lụt mùa thu, 4 bài).

* Đoan Dương khán hoa lục tuyệt (Tiết Đoan Dương ngắm hoa, 6 bài).

Nội dung tập thơ nổi bật 2 mảng đề tài: thơ thù tạc với bạn bè và thơ vịnh cảnh. Những bài thơ thù tạc của Phạm Sĩ Ái (chiếm tới 82 bài) ấm lên tình cảm đằm thắm nồng hậu mà ông dành cho bè bạn:

- Nguyễn Văn Lý: 11 bài.

- Hà Tôn Quyền: 8 bài.

- Cao Bá Quát: 8 bài .

- Đỗ Huy Phủ: 7 bài.

- Ngô Thế Vinh: 5 bài.

- Nguyễn Văn Siêu: 2 bài.

Phạm Sĩ Ái và Nguyễn Văn Lý có một sự đồng cảm đặc biệt sâu sắc. Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý vừa là bạn vong niên (hơn Phạm những 10 tuổi) vừa là bạn đồng khoa đồng tâm của nhà thơ:

Khả thị đồng niên đồng bệnh khách,
Tri tâm ưng dĩ thử tâm đồng.

(Là bạn cùng khoa người cùng bệnh,
Hiểu nhau đây đấy vốn tâm đồng.)
(Trung dạ thuật hoài trình Nguyễn Tuần Phủ)

Có lẽ họ đồng tâm ở chỗ: làm quan không màng đến nghiệp quan; việc nhập thế ra làm quan chỉ là sự không đừng được, chứ không phải là sở nguyện của họ. Vừa chung tâm sự cay đắng ấy, Nguyễn và Phạm luôn còn đồng bệnh vì luôn day dứt một niềm: hành hay tàng đây và luôn trăn trở trước việc đời:

Nhập thế dĩ ưng an thiển liệt,
Tại quan vị cảm thuyết suy đồng.

(Nhập thế thôi đành cam thiển cận,
Làm quan đâu dám lộ đau buồn.)
(Trung dạ thuật hoài trình Nguyễn Tuần Phủ)

Phạm Sĩ Ái rất mực yêu quý, kính trọng, tin tưởng Nguyễn Tuần Phủ (Nguyễn Văn Lý), coi Nguyễn như người anh lớn tuổi, luôn quan tâm, thấu hiểu và chia sẻ nỗi niềm cùng với mình. Họ đã ở cùng nhau một nhà, đêm thu cùng uống rượu bên nhau, đêm đông cùng thắp hương xem sách, làm thơ trò chuyện. Phạm làm sao quên được khi mắc bệnh, rét quá được Tuần Phủ cho áo cầu:

Trân trọng trùng điêu phân bán khứ
(Trân trọng áo dày tình xẻ nửa)
(Bệnh trung hàn thậm niên gia Nguyễn Tuần Phủ tặng dĩ cầu nhân nhi mạn thành)

Họ trùng hợp nhau trong cả cảnh ngộ bất hạnh lẫn thái độ trước những biến thiên, chìm nổi của cuộc đời. Nguyễn Văn Lý khi nhận thư biết nhà cũ bị cháy, đồ dùng bị cháy hết, chỉ còn lại cờ biển vinh quy, tâm sự:

Khả thị hữu hình chung hữu hoại,
Đan tâm do tín vị thành hôi.

(Phàm vật có hình đều có hoại,
Lòng son đâu dễ hóa tro tàn.)
(Đắc gia thư cố cư thất hỏa khí dụng hủy duy vinh quang kỳ điển thượng tồn ngẫu thành)

Phạm Sĩ Ái khi nghe tin nhà cũ ở Hà Nội bị cháy (nhà ở Linh Động, Hà Nội), cũng nhủ lòng:

Vị vong thượng hữu tâm điền tại,
Hà dụng tang thương cản biến thiên.

(Tấm lòng kẻ sống, còn chưa mất,
Dâu bể đâu đành chịu ngả nghiêng.)
(Văn Hà Nội cố cư thất hỏa)

Hà Tôn Quyền (hơn Phạm Sĩ Ái 8 tuổi) cũng là bạn tâm tình của Phạm. Trong một lần hẹn cùng Hà Các Lão (Hà Tôn Quyền) mà không thành, suốt đêm Phạm cứ bâng khuâng mãi:

Tinh nguyệt mãn thuyền nhân độc tọa,
Bồi hồi hải quốc ngũ canh thu.

(Thuyền ắp trăng sao người lẻ bạn,
Bồi hồi sông nước suốt đêm thâu.)
(Dữ Hà Các Lão hữu ước bất quả dạ tọa mạn thành)

Cao Bá Quát (Cao Mẫn Hiên) danh sĩ Bắc Hà thua Phạm 5 tuổi mà vẫn luôn được Phạm khâm phục vì tài năng và nghĩa khí. Nghe tin Cao không được dự coi thi, ông phẫn uất thay cho bạn, thương bạn không sao chợp mắt được, từ chốn trường thi, ông gửi vội cho bạn vài lời an ủi:

Tân Hưng thịnh điển vị thùy khai,
Tạo vật vô đoan giải đố tài,
Nhất dạ lân quân miên bất khứ,
Mãn liêm tinh nguyệt cộng bồi hồi.

(Đãi hiền hội lớn mở vì ai,
Tạo vật không dưng ghét bỏ tài,
Thương bạn suốt đêm nằm chẳng ngủ,
Trăng sao rèm nặng thảy ngùi ngùi. )
(Văn Cao Mẫn Hiên bất đắc nhập trường chi tín)

Phạm gọi Ngô Thế Vinh (Ngô Dương Đình), Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829) là tâm hữu (bạn lòng) và mơ gặp Ngô, sáng dậy làm thơ gửi tặng:

Biệt lai phục tiếp cố nhân nhan,
Tạc dạ phân minh ác thủ hoan.

(Xa lâu nay lại gặp nhau đây,
Đêm trước hân hoan tay nắm tay. )
(Mộng kiến Ngô Dương Đình hiểu khởi kí trình)

Đối với đông đảo các bạn đồng liêu: người nhận chức, kẻ về chí sĩ, người thăng quan, kẻ bị giáng đi hiệu lực, người có cha mẹ thọ, kẻ bỏ mình vì nước... Ông Phạm đôn hậu nhân ái đều có thơ chia vui, sẻ buồn cùng họ bằng một tấm lòng thành mặn mà sâu nặng. Đâu chỉ an ủi để mà an ủi, Phạm Sĩ Ái tặng Nguyễn Lão Đài(5), nguyên là Thị Lang bộ Hình bị cách, đi hiệu lực, những lời tâm huyết của một người hiểu bạn, khẳng định phẩm cách, công lao của bạn:

Đồng kinh hấn hạ thanh nhưng tráng,
Kiếm đới Phong thành khí vị phong.
Hào kiệt tòng lai vô cửu khuất,
Mạc chi mộ cảnh thán long chung.

(Thân vòng qua lửa còn vang tiếng,
Kiếm giắt thành phong khí vẫn còn.
Hào kiệt xưa nay không náu mãi,
Đừng than mệt nhọc lúc chiều đông.)
(Tặng nguyên Hình bộ Thị lang cách tòng bản phủ hiệu lực Nguyễn Lão Đài)

Chắc hẳn Nguyễn Lão Đài sẽ thấy nhẹ lòng. Ngược lại, người nào quan tâm, giúp đỡ Phạm dù dưới hình thức nào, cũng đều nhận được ở ông sự tri ân thắm thiết. Phạm Sĩ Ái cầm chiếc quạt của quan phủ doãn huyện Mộ Hoa tặng, cảm thấy như nó có hồn:

Tuy nhiên vật dĩ tặng,
Vị nhiên tâm tương thành.

(Đành rằng là vật tặng,
Chưa bằng tâm chân thành.)
(Đáp Mộ Hoa Huyện doãn huệ phiến)

Rồi lại viết nhanh một bài thơ đáp tạ Tôn Thất Quỳ tặng canh hạt sen, đáp tạ Hà Các Lão ban cho giấy bút và một bài thơ... Vốn là người luôn quan tâm chu đáo tới những người xung quanh, Phạm Sĩ Ái đặc biệt thương những người lính thú. Ông hình dung rõ cảnh sống nhọc nhằn nơi biên ải của họ:

Bình sa mạc mạc hiểu hàm mai,
Đoạn lũng thê thê dạ liệt mộ.
Tiêu tô dã thám bất thành xan,
Bán phá trinh bào túc lãnh lộ...
Nhân sinh đại để các lao nhương,
Cảnh huống vô như chinh thú khổ.

(Cát dài dằng dặc sớm ngậm hơi,
Lũng dốc hắt hiu đêm màn rủ.
Lá khô bếp bãi chẳng nên cơm,
áo trận tả tơi khuya sương rỏ...
Đời người xét ra mọi nhọc nhằn,
Tình cảnh chẳng bằng chinh thú khổ. )
(Tiễn thuộc tỉnh Dương Vũ Vệ phó vệ úy Tôn Thất Quỳ vãng thú Sơn Tây chi tác)

Quê ở Hải Dương mà làm Tri phủ tận Cam Lộ rồi chuyển ra Hà Tĩnh, xa nhà, xa người thân, thậm chí lấy vợ sinh con rồi mà vẫn bận bịu không báo về nhà được. Việc làm quan rõ ràng với ông là sự bất đắc dĩ. Nhìn cảnh Lê Yên Lãnh phải về hiệu lực ở phủ nhà, Phạm Sĩ Ái chua xót nhận thấy vòng luẩn quẩn của cuộc đời làm quan:

Tự tiếu phù danh hệ thử thân,
Cách niên quan kiếm lão phong trần.
Nhân sinh ná đắc như tâm sự,
Thế lộ do đa vị liễu nhân.
Quan cái kỷ hồi vân độ hạc,
Lâu đài hà xứ nhật nghi nhân.

(Danh hão cười mình buộc lấy thân,
Mấy năm đao kiếm mãi phong trần.
Đời người đâu được như tâm sự,
Cuộc thế còn bao nỗi nợ nần.
áo mũ mấy hồi mây chở hạc,
Lâu đài đâu chốn hợp người nhân.)
(Thứ nguyên Nam Sách Phủ doãn tòng bản phủ hiệu lực Lê Yên Lãnh thuật hoài kiến thị)

Bản thân ông từng bôn ba không yên khi phải phụng mệnh đi Bình Thuận - Khánh Hòa trong cảnh gia đình neo đơn:

Phục chẩm thê thùy tử,
Lâm sàng tử dục sinh.
Đông tây thần tử phận,
Cự cảm thuyết gia tình.

(Nhàu gối vợ đau bệnh,
Trên giường con sắp sinh.
Đông tây phận thần tử,
Nào dám kể gia tình.)
(Phụng phái Đổng lí thanh tra Thuận Khánh nhị tỉnh)

Ông cũng hết sức khổ tâm vì chị gái mất không về được:

Đệ viễn trùng kiêm phu diệc khách,
Gia bần huống phục tử do si.
Môn lan tịch mịch không hồi thủ,
Trường đoạn Tây phong lệ mãn y.

(Em xa thêm nỗi chồng đất khách,
Nặng gánh nhà nghèo trẻ dại ngây;
Vườn tược quạnh hiu suông ngó lại,
Lệ tuôn đứt ruột với làn Tây.)
(Khấp trưởng vong tỷ)

Mang tiếng làm quan tới án sát mà ngày giỗ cha đúng vào trăm ngày, chị cũng chỉ biện được:

Khách xá tiêu sơ nhất thảo diên,
Tư thân khấp tỷ bội tiềm nhiên...

(Quán khách đìu hiu mọn một mâm,
Thương cha khóc chị nặng tình thâm...)
(Tiên thân húy nhật thích lâm vong tỷ bách nhật lệ tùy bút hạ)

và đành đầm đìa nước mắt vái vọng về mộ chị (phía tây Trúc Bạch, bên trái La Thành, Hà Nội), về quê cha. Về quê là niềm ao ước thường trực của Phạm Sĩ Ái:

Dạ lai dục tác viên điền mộng,
Vô ná xuân sầu bất hứa miên.

(Đêm về muốn mộng vui vườn ruộng,
Vô cớ sầu xuân ngủ chẳng yên.)
(Mộ xuân cảm hoài)

Triều hồi vị ức niên tiền sự,
Ban thái cao đường bái lưỡng thân.

(Hết buổi chầu về ôn chuyện trước,
Áo Ban(6) thêm cũ vái mẹ thầy.)
(Xuân đán)

Nhiều khi ông cảm thấy vô cùng cô đơn, thao thức không ngủ được:

Độc ngọa cô trai bán yểm quynh,
Thê phong trệ vũ bất kham thinh.

(Một mình thổn thức chốn phòng không
Gió táp mưa sa quá lạnh lùng.)
(Mạn thành)

Bán liêm phong vũ sầu tương bức,
Nhất chẩm quan san mộng bất thành.

(Nửa đêm mưa gió sầu da diết,
Gối chiếc quan san mộng chẳng thành.)
(Thu dạ thư hoài)

U trai nhân độc ngọa,
Thử ý cộng thùy ngôn.
(Phòng lẻ người đơn độc,
Tâm sự ngỏ cùng ai.)
(Tĩnh dạ văn tuyển)

Tâm bệnh dằn vật trở thành bệnh cốt (bệnh ngấm tận xương, không chữa được) trong con người ông. ở tập thơ này có tới 16 lần tác giả than thở về bệnh tật của mình:

Nhất niên giai tiết bán tương vi,
Tật bệnh kinh tuần ngọa phấn vi.

(Một năm tiết đẹp sắp trôi đi,
Nằm bẹp mươi ngày thuốc ích chi.)
(Trung thu tiết ngọa bệnh thư hoài)

Độc bão kinh tuần bệnh,
An tri thất tịch thu.

(Chục ngày ngồi ôm bệnh,
Thất tịch đến nào hay.)
(Thất tịch hậu nhất nhật truy ức)

Sầu thôi mấn phát kiêm tuần bệnh
(Sầu xui thêm bệnh dài thêm tóc.)
(Trung nguyên tiết vãn vọng)

Sầu bệnh tương quan lưỡng bất trừ

Sầu bệnh giằng nhau thật khó trừ
(Dữ Tuần Phủ dạ tự cảm thành)

Bệnh đáo cùng thời bất thiểu khoan,
Sấu cốt tam phân kinh phục thử,
Đơn khâm nhất bức hộ khinh hàn.

(Bệnh đến khi cùng chẳng nhẹ thêm,
Gầy yếu ba phần kinh sợ nóng,
Chăn đơn một chiếc tạm che thân.)
(Mộ xuân ngọa bệnh)

Đã có những lúc thật cùng quẫn, bế tắc.

Nhân kiêm bệnh phục bần,
Hề nang kim tự khánh,
Đan táo hỏa thường tân.

(Người đã bệnh lại cùng,
Túi tiền sao nhanh hết,
Lửa lò thuốc thường đun.)
(Mộ xuân ngọa bệnh)

Bệnh cửu phiên vô dược,
Nang không thặng hữu thi.

Bệnh lâu không đủ thuốc,
Túi rỗng dư thơ suông.
(Kí niên gia Diễn Châu Tri phủ Đặng Huy Phủ)

Mặc dầu vậy, ông vẫn là người mẫn cán, chu tất trong việc được giao: làm Giám khảo trường thi Hội là một trọng trách, mặc cho công việc dồn dập, căng thẳng:

Thôi quyển vị lan trùng tống quyển
(Quyển trước chưa xong đà quyển mới.)
(Vi trung tức sự)

phải chấm đến tận canh ba, song vị Giám khảo ấy vẫn nghiêm túc, cẩn trọng, cân nhắc nâng lên, đặt xuống nhiều lần bài thi của thí sinh.

Bình hành nhất bút trọng đê hồi,
Duyệt bãi đăng tiền yểm phục khai.
Mạc đạo văn chương toàn định mệnh,
Nhất phân khoa cử túc tài bồi.

(Ngập ngừng cân nhắc bút không nguôi,
Đọc quyển bên đèn mở gấp hoài.
Chớ bảo văn chương toàn mệnh sẵn,
Một phân nương nhẹ, một chăm tài.)
(Vi trung tức sự)

Thái độ trân trọng, chăm chút với nhân tài đất nước của Phạm Sĩ Ái còn thể hiện qua lời tâm sự khi tiễn Ngô Dương Đình về quê hưu trí:

Thánh đại tức kim ưu dưỡng sỹ,
Vị năng cao ngọa học Trang - Ly.

(Thời nay vua thánh chăm người sỹ,
Chẳng thể nằm cao học Trang-Ly(7))
(Tống Ngô Dương Đình qui điền)

Ở bài cuối cùng của tập thơ, Phạm Đôn Nhân tiễn Vũ Tiên sinh(8) được bổ nhiệm chức Đề đốc ở Hải Dương (quê hương nhà thơ) cùng với lời nhắn nhủ, cậy mong:

Ngô châu sỹ tử năng vi học,
Bằng tịch tiên sinh thử chấn dương.

(Đất ta sỹ tử đều hay học,
Sách vở nhờ thầy giúp mở mang.)
(Tiễn Binh khoa Cấp sự trung Vũ tiên sinh điều bổ Hải Dương Đề đốc chi lị)

Tâm tình của Phạm Sĩ Ái lai láng trong tập thơ. Cảnh ở đây cũng hầu hết là tâm cảnh, mang tâm trạng của tác giả.

Mùa thu, nhìn vách núi chơi vơi giữa mây mờ, nhà thơ buồn cho tình cảnh của mình:

Độc hữu suy ông khan bất yếm,
Lăng tằng bệnh cốt thái tương liên.

(Chỉ độc lão gầy ngồi ngắm mãi,
Chênh vênh thân ốm những thương hoài.)
(Hữu thu sơn)

Dường như sắc tươi vàng của hoa cúc giữa tiết hanh hao đã nói hộ nỗi lòng ông:

Bất dữ quần hoa tính tác thôn,
Cô trinh nhất điểm vãn do tồn.
Uyên Minh khứ hậu thùy tri kỷ,
Độc lập tây phong tiếu bất ngôn.

(Chẳng với ngàn hoa kết xóm chòm,
Muộn màng vẫn giữ chút cô trinh.
Uyên Minh(9) đi khỏi ai tri kỉ,
Ngạo với gió tây cười lặng thinh.)
(Hữu thu cúc)

Hiếm hoi lắm mới thấy trong thơ ông một cảnh biển buổi sớm với vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi nguyên sơ của nó. Mặc dầu vậy vẫn phảng phất nỗi cô đơn:

Thu đương nhất diệp thuyền,
Bạch sa phân đại hải.
Hồng nhật thương giao thiên,
Vụ bạc phàm sơ xuất,
Yên thâm lộ độc miên.

(Trời thu một lá thuyền,
Cát trắng chia biển lớn.
Trời đỏ tầng mây lên,
Mù nhẹ buồm vừa ló,
Sương dầy cò lẻ bên.)
(Tam Lộ khẩu hiểu điểu)

Cảnh ở trong bài Dạ khởi ngẫu thành mang đậm dấu ấn tài hoa của một tâm hồn tinh tế nhạy cảm. Đó là cảnh đêm thu ở vùng núi miền Trung. Nhà thơ nhìn trăng sáng quá chuyển sang màu trắng như sương và cảm thấy trăng cũng mang luôn cái sắc lạnh của sương, không sao phân biệt được đâu là trăng, đâu là sương nữa.

Thu sương hà lãnh liệt,
Thu nguyệt hà hạo khiết,
Tương tranh nhất đình quang,
Bất biện sương dữ nguyệt.

(Sương thu sao buốt rét,
Trăng thu sao thanh khiết,
Giành soi sáng khoảng sân,
Trăng sương nào phân biệt.)
(Dạ khởi ngẫu thành)

Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo của Phạm Sĩ Ái được tới ba bậc đàn anh, ba vị Tiến sĩ, danh sĩ nổi tiếng thời Minh Mệnh đọc và khen ngợi bởi lối dùng ngôn từ nhẹ nhàng mà có sức gợi cảm sâu lắng.

Rõ ràng đây là một tập thơ sáng giá. Sáng giá bởi cái tâm và cái tài của một con người đôn hậu nhân ái, một nhân cách nho sĩ thanh liêm, luôn luôn trăn trở trước thời cuộc, trước lương tâm và nghĩa vụ. Tâm sự của Phạm Sĩ Ái chính là nỗi lòng của đông đảo nho sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Tác giả khiến chúng ta phải suy ngẫm về tâm tư, phẩm cách của một kẻ sĩ chân chính không chỉ riêng ở thời đại nào.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Văn Lý, bình bằng mực son.

(2) Hà Tôn Quyền, bình bằng mực đen.

(3) Ngô Thế Vinh, bình bằng lời văn.

(4) Không phải 162 bài như Trần Văn Giáp và Trần Hồng Đức giới thiệu.

(5) Chưa rõ tên thật.

(6) Áo hoa sặc sỡ: Lão Lai tử người nước Sở thời Xuân thu thờ cha mẹ rất có hiếu, năm 70 tuổi còn cha mẹ già, ông vẫn mặc áo hoa vào chào cha mẹ, giả vờ ngã làm như thủa còn thơ dại, khiến cha mẹ vui cười.

(7) Có lẽ là Trang Chu và Khuất Nguyên (Tác giả của Ly Tao).

(8) Chưa rõ là ai.

(9) Đào Tiềm người nước Tấn, tính tình cao khiết không màng danh lợi, văn thơ nổi tiếng cao nhã, làm Huyện lệnh Bành Trạch hơn 80 ngày. Năm ấy có quan trên về, lệnh cho ông phải mang đai ra mắt. Đào Tiềm nói “Ta lẽ nào vì 5 đấu gạo mà phải khom lưng trước một thằng nhãi ranh hay sao?” Nói rồi lập tức treo ấn từ quan. Ông có bài từ Quy khứ lai (Về đi thôi). Ông cũng nổi tiếng vì rất yêu hoa cúc.

TB

TƯỞNG NHỚ NHÀ HÁN HỌC NGUYỄN ĐỨC VÂN (Nhân kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Tiên sinh)

NGUYỄN CÔNG LÝ

Trong học thuật, nghiên cứu, có người thật giỏi, có đóng góp và do đó nổi danh nhưng cũng có người giỏi thật, có nhiều đóng góp mà chẳng mấy ai để ý, biết đến. Dù vậy người ấy vẫn âm thầm, lặng lẽ làm việc, chẳng khác nào con tằm nhả tơ, con ong hút nhụy dâng mật ngọt cho đời, hoặc nói theo văn hào Lỗ Tấn, như “con bò ăn thì ăn cỏ nhưng lại tiết ra sữa bò nuôi sống cho đời”. Nhà Hán học Nguyễn Đức Vân là một con người như thế.

Người viết bài này là một kẻ hậu sinh lại thiển học, nhưng qua công việc, ít nhiều cũng có dịp đọc những công trình nghiên cứu, những dịch phẩm của Tiên sinh với lòng ngưỡng mộ, khâm phục bởi sự quảng kiến đa văn của cụ. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tiên sinh (tháng 7/1900 - 7/2000), xin có vài dòng nói thêm về cụ, cũng là điều cần thiết. Mong được xem đây như một chút lòng thành của cháu con, như một nén tâm hương kính cẩn dâng lên cụ và mong cụ chứng giám.

Theo những người sống gần cụ cho biết, sinh thời cụ là người nhân từ, độ lượng, phúc hậu, hiền lành và ít nói. Hiền lành đến mức hầu như cụ không biết giận hờn, trách móc ai bao giờ. Trong cuộc sống, cụ sống rất giản dị, bình thản, ung dung, được không mừng và mất cũng chẳng lo. Trong công tác, cụ chỉ biết làm việc và đã làm thì làm hết sức lực, tâm trí mình, thật cần mẫn, chu đáo, cho dù ở bất kỳ cương vị công tác nào. Từ những ngày đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 làm Chủ tịch xã, rồi làm cán bộ ủy ban huyện nơi quê nhà, cho đến những năm 1960, được điều động về làm cán bộ nghiên cứu tại tổ Hán Nôm thuộc Ban Văn học Cổ - Cận đại, Viện Văn học, bao giờ cụ cũng làm việc hết mình. Có người kể lại rằng những ngày công tác tại Viện Văn học, cơm trưa xong, anh em trẻ mải lo trà lá, đánh tú-lơ-khơ, còn cụ nghỉ ngơi một tí rồi đọc sách hoặc dịch sách ngay. Việc làm ấy đến nay vẫn còn là một ấn tượng đẹp, như tấm gương sáng cho bao thế hệ các nhà nghiên cứu ở Viện noi theo. Lối sống ấy, nhân cách ấy dễ mấy ai có được ?

Xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, khoa bảng, văn chương, học thuật và yêu nước cách mạng vào loại nhất huyện, thuộc dòng họ Nguyễn Đức ở Nghệ An, năm 1900, năm bản lề của thế kỷ XIX và thế kỷ XX, Nguyễn Đức Vân Tiên sinh cất tiếng khóc chào đời tại xóm Xuân á (A), xã Cẩm Trường, nay là xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông nội của Tiên sinh (thế hệ thứ IV của dòng họ Nguyễn Đức) từng đậu Cử nhân Hán học, làm quan rồi bỏ quan về nhà, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp dưới ngọn cờ đại nghĩa của quan Ngự sử Phan Đình Phùng. Thân phụ của cụ là Nguyễn Đức Công, một nhà Nho nổi tiếng thông minh, hay chữ, đã từng thi đỗ đầu xứ, nhưng không đi thi tiếp mà lại tham gia hoạt động cách mạng với cái tên rất quen thuộc là Hoàng Trọng Mậu. Cụ Hoàng Trọng Mậu là một chí sĩ yêu nước lớn đầu thế kỷ XX, đã từng hoạt động với nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu và bị thực dân Pháp xử bắn tại trường bắn Bạch Mai, Hà Nội (1916). Cụ có bốn người con trai, người con cả và người con thứ ba đều tham gia cách mạng; Nguyễn Đức Vân là con thứ hai. Cũng như bao gia đình Nho học khác, thuở thiếu thời cụ học chữ Hán và theo học trường tiểu học Pháp Việt. Nhưng vì gia cảnh: cha bị bắn, mẹ bị bắt bớ giam cầm, gia sản nhiều lần bị tịch thu, nên cụ phải nhường việc học cho em, ở nhà làm ruộng. Tuy vậy, bằng con đường tự học, cuối cùng cụ không những chỉ giỏi về Hán học mà còn thông thạo tiếng Pháp. Vốn Hán học của cụ được nhiều vị học giả ở Viện Văn học kính nể và cụ trở thành một dịch giả nổi tiếng. Còn tiếng Pháp, bằng tự học, cụ đã thuộc lòng tự điển Pháp Việt do Trương Vĩnh Ký biên soạn và có lúc cụ cùng hai em là Nguyễn Đức Tịnh, Nguyễn Đức Bính ra Hà Nội làm báo, có khi viết báo bằng tiếng Pháp.

Ở đây, chỉ nói riêng về cụ với tư cách là một nhà Hán học. Từ năm 1960, như đã nêu, cụ được chuyển ra Hà Nội công tác tại tổ Hán Nôm Viện Văn học. Nơi đây, cụ luôn nhận mình là người thiển học bên cạnh nhiều vị khoa bảng. Nhưng trong thực tế, có lẽ cụ là người đóng góp nhiều công sức, có nhiều thành tích dịch thuật nhất trong tổ. Để góp phần bảo tồn di sản Hán học, Viện Văn học đã mở lớp đào tạo cán bộ nghiên cứu có trình độ Hán học, cụ Nguyễn Đức Vân đã tham gia giảng dạy cho lớp học đó. Về dịch thuật, có thể liệt kê ra đây một số công trình chủ yếu của cụ đã được xuất bản như Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đồ sộ này do nhiều người dịch, trong số đó có cụ Phó bảng Bùi Kỷ làm nhóm trưởng. Nhưng công việc vừa bắt đầu thì cụ Bùi Kỷ qua đời, do vậy công việc gặp khó khăn, bởi các cụ tuy đỗ đại khoa, rất giỏi thánh kinh hiền truyện nhưng không mấy thông thạo về ngoại thư. Cụ Nguyễn Đức Vân đã hầu giúp các cụ khoa bảng vượt qua khó khăn này ngoài phần dịch của mình. Khi bộ Hồng lâu mộng được xuất bản, Nhà xuất bản muốn ghi tên cụ là người hiệu đính, nhưng cụ nhất quyết chối từ với lý do đứng tên hiệu đính là không phải, là “thất lễ” với các bậc đại khoa. Cụ đã cùng với ông Nguyễn Khắc Hanh dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Cụ cũng đã miệt mài dịch Tùy Viên thi thoại - một bộ sách lý luận văn học nổi tiếng của Viên Mai. Riêng bộ sách này, Viện Văn học và gia đình cho biết cụ đã dịch cả nghìn trang viết tay. Mới đây Viện Văn học và Nhà xuất bản Văn học đã chọn lọc cho in vài trăm trang trong số bản thảo chép tay dày dặn ấy.

Cụ còn dịch tác phẩm Trung Quốc tư tưởng sử của Dương Vinh Quốc và tuyển tập Dân ca Trung Quốc.

Trên đây là sách nước bạn. Còn thơ văn xưa của cha ông ta, cụ đã dịch một số tác phẩm như Vân Nang tiểu sử của Phạm Đình Dục, Đình đối sách, Thơ văn Tự Đức; dịch và giới thiệu Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Thơ văn Nguyễn Trung Ngạn... Cụ đã cùng cụ Nguyễn Sĩ Lâm, PGS. Nguyễn Văn Hoàn chú giải Truyện Kiều, cùng PGS. Kiều Thu Hoạch dịch Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Chỉ riêng dịch phẩm này, mấy chục năm qua, trong nhà trường các cấp (Trung học, Cao đẳng, Đại học) thầy và trò đều học theo bản dịch này nhưng thử hỏi mấy ai để ý đến tên tuổi của dịch giả ? Cụ còn có công trong việc sưu tầm, dịch và giới thiệu quan niệm văn chương của cha ông như Lý Tử Tấn, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Vịnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyện Địch Cát, Lý Văn Phức, Phan Thanh Giản, Nhữ Bá Sĩ, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Miên Tông (Thiệu Trị), Vũ Phạm Khải, Nguyễn Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Phạm Thú Thứ, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Hồng Nhậm (Tự Đức), Bùi Văn Dị, Ngô Dưỡng Hạo, Lê Hữu Kiều v.v.

Đặc biệt, cụ là người có công lớn trong việc tham gia sưu tầm, dịch thuật Thơ Văn Lý Trần do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội in ấn phát hành gồm ba tập. Bộ tuyển tập đồ sộ này có độ dày 2425 trang in khổ lớn (27x19cm) với 914 đơn vị tác phẩm (tập I gồm 635 trang với 136 đơn vị tác phẩm; Tập II, quyển thượng, gồm 968 trang với 363 đơn vị tác phẩm và tập III, gồm 822 trang với 415 đơn vị tác phẩm).

Điểm qua như trên để thấy đóng góp của cụ Nguyễn Đức Vân đối với di sản văn học quá khứ. Rõ ràng là công trình dịch thuật của cụ thật không nhỏ. Trong số đó, phần lớn đã được xuất bản.

TB

"CHINH PHỤ NGÂM"
TRONG "TRUYỀN KỲ MẠN LỤC" ?

NGUYỄN NAM

Cách đây vài năm, trong cuộc thi bình thơ văn của Kiến thức ngày nay (đợt 1) giải nhì đã thuộc về Gs. Đặng Anh Đào với bài Người con gái Nam Xương và dòng sông kỳ ảo. Đáng chú ý là bài viết trên đã chỉ ra được sự hiện diện của những đoạn Chinh phụ ngâm trong "lời lẽ của nhân vật Vũ Thị và lời người kể chuyện!"(1).Vì sao lại có chuyện lạ này ? Và bản thân sự việc ấy nên được lý giải như thế nào ?

Dẫn văn Chinh phụ ngâm

Bài bình văn của GS. Đặng Anh Đào dựa vào "văn bản của Nxb. Văn nghệ, Hội nghiên cứu - giảng dạy văn học Tp. HCM, 1988"(2). Đó chính là bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, vốn được công bố lần đầu tiên trên Phổ thông bán nguyệt san năm 1943(3), được nhà Tân Việt xuất bản năm 1952 tại Sài Gòn, và sau lại được nhà xuất bản Văn học ấn hành với lời giới thiệu của Bùi Kỷ viết năm 1957(4). Trong bản dịch "Nam Xương nữ tử lục" (hay "Chuyện người con gái Nam Xương") của Trúc Khê, nàng họ Vũ nâng chén rượu đầy tiễn chồng xuất chinh mà rằng:

- Ngày tháng lữa lần, tin hơi xa cách"Gió tây nổi khôn đường hồng tiện, xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra ngõ ngoài...Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề..."(5)

Nửa chừng nàng nghẹn lời, người người tuôn lệ xót xa:

- Rồi đó chén đưa vừa cạn, vó ngựa thẳng bon, "bóng cờ tiếng trống xa xa, sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng."(6)

Các văn bản hẳn có dụng ý khi đưa các đoạn có gốc từ Chinh phụ ngâm vào trong ngoặc kép(7), nhằm phân cách chúng khỏi mạch chính văn. Dựa vào Trúc Khê, dịch bản Pháp văn mới nhất của Truyền kỳ mạn lục (Vaste recueil de la transmisson des merveilles) ắt cũng đã thấy được điều này nên đã tháo bỏ các dấu ngoặc kép, thêm vào mấy từ diễn giải "comme dit le poet" ("như nhà thơ có nói"), và in nghiêng tất cả những đoạn trích từ Chinh phụ ngâm(8). Hiển nhiên cả bản dịch Việt ngữ và Pháp văn đều ý thức được tính chất ngoài văn bản của dẫn văn và cố gắng khu biệt nó với chính văn. Thế thì điều gì sẽ xảy ra trong nguyên tác ?

Đọc lại chính văn Nam xương nữ tử lục

Chỉ cần đối chiếu nguyên tác Hán văn "Nam xương nữ tử lục" với bản dịch tiếng Việt "Người con gái Nam Xương" của Trúc Khê là có thể kết luận ngay rằng Chinh phụ ngâm hoàn toàn không xuất hiện trong Truyền kỳ mạn lục. Trong nguyên tác Hán văn, Nàng họ Vũ ngậm ngùi:

Cuồng Liêu bô tru, Vương sư khoáng nhật: phá trúc vãn phu công chi tấu, cập qua yêm đại thú chi kì; sử ấu thiếp quan hoài, từ vi quải lự. Vọng Tràng An phiến nguyệt, tắc châm viễn tái chi hàn y; kiến phế mạch thùy dương, tắc động thú lâu chi hà tuởng. Túng hữu thiên hàng thư tín, chỉ khủng vô kế đắc lân hồng tiện dã.

狂 獠 逋 誅 , 王 師 曠 日 . 破 竹 晚 膚 公 之 奏 , 及 瓜 淹 代 戍 之 期 , 使 幼 妾 關 懷 , 慈 闈 掛 慮 . 望 長 安 片 月 , 則 砧 遠 塞 之 寒 衣 . 見 廢 陌 垂 陽 , 則 動 戍 樓 之 遐 想 . 縱 有 千 行 書 信 , 只 恐 無 計 得 鱗 鴻 便 也(9).

Đoạn văn trên từng được Nguyễn Thế Nghi dịch Nôm như sau:

Rợ dại sợ chốn tội, quân vua đóng lâu ngày. Thế phá trúc muộn chưng tâu công cả. Đến mùa dưa lâu chưng hẹn thay giữ. Khiến thiếp trẻ bận lòng, mẹ lành mang lo. Trông phiến nguyệt chốn Tràng An thì nện chưng áo chống rét cho người viễn tái. Thấy cành dương rũ đường nát thì động chưng lòng xa nhớ tới kẻ thú lâu. Dù có tin ngàn hàng, chỉn lệ chăng có chước được tiện lân hồng vậy(10) .

Và đây là cảnh phân ly:

Dĩ nhi, li diên sạ tán, chinh duệ tài phân, cử mục y nhiên, dĩ thị biệt quan san ý tứ. . 已 而 離 筵 乍 散 , 征 袂 纔 分 , 舉 目 依 然 , 已 是 別 關 山 意 思.

Nguyễn Thế Nghi diễn ra Nôm:

Đã mà tiệc ghẽ nhau bèn thôi, áo hành chinh xảy phân; cất mặt coi vẻn vẹn vậy. Đã thực ý tứ ghẽ chốn quan san(11).

So với các đoạn trên (nguyên tác Hán văn và dịch Nôm), trừ bản dịch của Trúc Khê, các bản dịch Việt văn khác đều có thông số tương cận(12).

Từ lược thuật đến dịch thuật

Sau đây chỉ là một giả thiết nhằm lý giải vì sao Trúc Khê đưa Chinh phụ ngâm, một văn bản của thế kỷ XVIII, vào bộ tiểu thuyết truyền kỳ của thế kỷ XVI.

Hai năm trước khi Truyền kỳ mạn lục đăng tải, năm 1941, cũng trên Phổ thông bán nguyệt san (số 80), Trúc Khê cho ra mắt bộ Tình sử Việt Nam. Ở mục "Tình hám"người đọc tìm thấy truyện "Trương Sinh" vốn là lược thuật (hay cũng có thể xem là cải biên) của "Nam Xương nữ tử lục"(13). Lời của Vũ Nương trong truyện này cũng không khác gì với "Người con gái Nam Xương". Nói cách khác, tiếng thở dài của Chinh phụ ngâm đã xen vào tiếng khóc ngậm ngùi của người phụ nữ bạc mệnh huyện Nam Xương. Nàng Vũ Thị trong "Trương Sinh" đã nói ...Ngày tháng lữa lần, tin hơi xa cách. Gió tây nổi không đường hồng tiện, xót cõi ngoài tuyết quyết, mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài... Vì chàng lệ thiếp rỏ đôi, vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề...(14) Chỉ khác một điều là do tính chất của văn bản ("lược thuật" hay "cải biên"), khi dẫn dụng Chinh phụ ngâm, thay vì đặt dẫn văn trong ngoặc kép, "Trương Sinh" đã để lời thơ của người chinh phụ thế kỷ XVIII hòa lẫn với tiếng thở than của người thiếu phụ tiễn chồng ra quan ải viết ở thế kỷ XVI.

Nỗi lòng chinh phụ có khác gì nhau, hơn thế nữa, các từ ngữ, điển cố ước lệ gốc Hán thường được cả hai dòng văn học Hán và Nôm ở ta sử dụng. Những cụm từ quan hoài, chỉ khủng vô kế đắc lân hồng tiện dã trong nguyên tác Hán văn của "Nam Xương nữ tử lục" hẳn đã khiến Trúc Khê liên tưởng đến Chinh phụ ngâm, khúc ngâm não lòng của người chinh phụ mà ai nấy đều hay. Xen lời thơ Chinh phụ ngâm vào tiếng khóc biệt ly của Vũ Nương trong điều kiện "lược thuật", "cải biên", Trúc Khê có lẽ đã xem những vần thơ này như tiếng lòng chung của những người phụ nữ có chồng tòng chinh, tựa như những lời tâm sự thường gặp trong ca dao khuyết danh, và vì thế vấn đề tác giả tạm thời được gác lại không bàn đến. Việc dẫn dụng này thật tự nhiên, và đạt được hiệu quả nhất định. Thế nhưng với trường hợp "Người con gái Nam Xương", vấn đề đã chuyển sang một cấp độ khác.

Tự do, phóng khoáng, không quá câu nệ vào văn bản gốc - đấy là diều quan trọng khu biệt "dịch thuật" với "phiên dịch"(15), và "Người con giá Nam Xương", có thể được xem là một tác phẩm dịch thuật. Từ chỗ "lược thuật", "cải biên", Trúc Khê bước sang "dịch thuật", mang theo cả văn từ của một văn bản khác (Chinh phụ ngâm) vào trong một quan hệ chặt chẽ hơn giữa nguyên tác và dịch bản (Nam Xương nữ tử lục và Người con gái Nam Xương). Xét từ góc độ văn bản học, việc làm này dễ dàng gây nhiễu quá trình tiếp nhận và thuyên thích của người đọc, đặc biệt là với độc giả chỉ dựa vào bản dịch và không có điều kiện tham chiếu nguyên bản Hán văn(16).

Thay lời kết

Truyện "Người con gái Nam Xương" được dạy trong chương trình Văn lớp 9, và các nhà giáo đã có lý khi nhắc nhở học sinh cẩn trọng khi phân tích ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm(17). Việc đưa Chinh phụ ngâm vào bản dịch "Nam Xương nữ tử lục" có thể là kết quả của quá trình chuyển tiếp từ "lược thuật", "cải biên" sang "dịch thuật", trong đó các yếu tố ngoài văn bản được đưa vào một cách có ý thức nhằm tăng hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. Nhận chân được thao tác này của người dịch là việc cần thiết nhằm tránh những ngộ nhận trong tiếp nhận và thuyên thích văn học. Hiện tượng "Chinh phụ ngâm trong Truyền kỳ mạn lục" cũng cho thấy tính phổ quát, nhất quán của hình tượng người chinh phụ trong văn học Việt Nam: chính đây là cơ sở cho phép lời thơ Chinh phụ ngâm lẫn với tiếng lòng của Vũ Nương trong "Người con gái Nam Xương".

CHÚ THÍCH

(1) Đặng Anh Đào, "Người con gái Nam Xương và dòng sông kỳ ảo", Tiếng nói tri âm, Nxb. Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh, 1994: "Ngay cả tác giả của tác phẩm, dường như sự xác định vẫn không đơn giản như ta tưởng. Dù cuốn sách công bố tác phẩm này ghi vào dưới nhan đề một cái tên của tác giả (Nguyễn Dữ) nhưng có vài đoạn ở văn bản lại làm cho người ta ngờ vực rằng ông đâu phải là tác giả duy nhất. Người con gái Nam Xương thật sự là một chuyện (khác với truyện) bởi có thể nó đã qua bàn tay sáng tạo của nhiều tác giả hơn thế. Điều lạ lùng đập vào mắt ta: trong văn bản của Nguyễn Dữ (người được coi là sống ở thế kỷ XVI) lại có những đoạn Chinh phụ ngâm, qua lời lẽ của nhân vật Vũ Thị và lời người kể chuyện !" (tr.113).

(2) Sđd, tr.117.

(3) Xem phụ lục. Bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Trúc Khê Ngô Văn Triện được công bố liên tiếp trên Phổ thông bán nguyệt san trong tháng 2 và 3 năm 1943 (số 124, 125, và 126).

(4) Bài viết này dùng bản Tân Việt (1952, gọi tắt là bản A) và bản in lần thứ hai của Nxb. Văn học (1971, gọi tắt là bản B) làm cứ liệu trích dẫn.

(5) Xem bản A, tr.201-202; bản B, tr.183.

(6) Như trên.

(7) Xem Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm khúc, Văn Bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thích, Tân Việt, Saigon, 1952, tr.77, 96, và 26.

(8) Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục - Vaste recueil de la transmission des merveilles, Hoàng Đức Quảng, Nguyễn Văn Sĩ, Phạm Văn Thắm, tổ chức Hợp tác văn hóa (Pháp) và Viện Hán Nôm, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1994, tr.256.

(9) Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh (Chủ biên), Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ mạn lục, Pháp quốc Viễn đông học viện & Học sinh thư cục, Đài Bắc, 1987, tr.379.

(10) Phiên theo bản Nôm trong Xuyên Bản Bang Vệ (Kawamoto Kunie), Truyền kỳ mạn lục san bản khảo, Khánh ứng nghĩa thục Đại học, Ngôn ngữ Văn hóa nghiên cứu sở, Đông Kinh, 1998, tr.261. Cũng xem thêm bản phiên âm của GS. Nguyễn Quang Hồng, "Một tác phẩm văn xuôi tiếng Việt cuối thế kỷ XVI - Truyện Người con gái Nam Xương", Ngôn ngữ đời sống, 6/1995, và 1/1996.

(11) Như trên.

(12) Bản Cát Thành, Truyện lạ nước Nam diễn nghĩa (Impimerie Tonkinoise, 1912), lược dịch như sau: "Quân phải đóng lâu ngày, để cho phận thiếp nhớ mong, mẹ già thương xót. Ví dù có tờ thư nghìn dòng, cũng e khó lòng tìm cách gửi được". Và "Tiệc tiễn vừa xong, rẽ áo ra đi, ngửng mặt lên trông đã ra ý tứ quan san cách biệt" (tr.67); Thứ Lang Bùi Xuân Trang (Tân biên Truyền kỳ mạn lục, Trung tâm học liệu, Saigon, 1970): "Man mọi mà còn lẩn lút, vương sư phải dẹp lâu lai; công huân đâu có dễ dàng, kỳ hạn còn nhiều trắc trở, khiến cho vợ trẻ nhớ mong, mẹ già khắc khoải. Nhìn mảnh trăng kinh địa, trạnh nhớ người quan ải lạnh lùng; trông bóng liễu tha ma, thêm thương kẻ chòi canh tịch mịch. Dẫu rằng: ngàn hàng kể lể gần xa, cánh hồng, tăm cá đâu mà nhắc nhe ?" và "Rồi đó, chén đưa vừa cạn, dứt áo ra đi. Đoái trông phong cảnh y nguyên mà người đã quan san cách biệt" (tr.350-351); Trần Thị Băng Thanh (Cù hựu - Tiễn đăng tân thoại; Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục, Nxb. Văn học, 1999): "Rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng, động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về" và "Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt" (tr.384).

Năm 1962, lần đầu tiên Truyền kỳ mạn lục, được Nguyễn Trần Huân dịch toàn bộ ra Pháp văn (Vaste recueil de légends merveilles, Gallimard). Do dịch trực tiếp từ Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (bản Cảnh Hưng năm 24, tức 1763), bản dịch này đã tránh được việc dịch dẫn văn Chinh phụ ngâm trong Truyền kỳ mạn lục (xem tr.9 và 208).

(13) Khác với "Nam Xương nữ tử lục," truyện "Trương Sinh" kết lại ở cái chết oan ức của nàng họ Vũ, với bài thơ đề miếu Vũ Thị nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông: "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương..." Xem Tình sử Việt Nam, trong Phổ Thông Bán Nguyệt San, số 80 (1/4/1941), tr.48-52.

(14) Như trên. tr.48.

(15) Hán - Anh Từ Điển (The Pinyin Chinese - English Dictionary, Commercial Press và John wiley & Sons, Inc., Hongkong, 1983) giải thích "dịch thuật" là "translate (  render) freely", trong khi "phiên dịch" được thích là "translate". Vân Bình Tôn Thất Lương lấy bản dịch Tỳ bà hành Chinh phụ ngâm làm ví dụ để chỉ ra sự khác nhau giữa "phiên dịch" và "dịch thuật": "Tỳ bà hành theo lối phiên dịch dịch từng câu, Chinh phụ ngâm khúc theo lối dịch thuật hoặc từng câu, hoặc thêm bớt". Xem Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm khúc, Vân Bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thích, sđd., tr.7.

(16) Xem chú thích 1.

(17) Lê Khánh Sằn, Nguyễn Ngọc Hóa, Tống Trần Ngọc, Dàn bài tập làm văn 9 tái bản lần thứ 9, Nxb. Giáo dục, 1998: "Đây là một truyện dịch từ nguyên bản bằng chữ Hán (bản dịch này dựa theo bản dịch của Ngô Văn Triện), do đó khi phân tích, đánh giá nghệ thuật của tác phẩm, ta không nhất thiết bám vào lời văn như đối với các tác phẩm viết bằng chữ Nôm (...) hoặc bằng chữ Quốc ngữ sau này" (tr.65).

TB

BẢN NÔM IN TRONG QUYỂN
TRUYỆN KIỀU TẬP CHÚ KHÔNG PHẢI
BÚT TÍCH CỦA TRẦN BÍCH SAN

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Nhà xuất bản Đà Nẵng vừa cho ấn hành quyển Truyện Kiều tập chú của các ông Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận và Phạm Văn Hòa.

Quyển này đã tập hợp các chú thích của một số nhà chú giải và có làm khảo dị để so sánh các chỗ khác nhau giữa những văn bản Truyện Kiều.

Các ông có cho in lại trong phần Phụ lục bản Nôm chép tay quyển Truyện Kiều mà cụ Giản Chi còn giữ được.

Ở trang đầu, cụ Giản Chi có ghi:

Bản Nôm này do ông nội để lại. Quí là vì bút tích của cụ Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San(1), ông ngoại anh Hoàng Châu Hoach, cháu ngoại cụ Trần Anh Hoạch là con cụ Trần Anh Hoàng Tài làng Cót.

Để chứng thực cho lời ghi ấy của cụ Giản Chi, nhóm các ông Trần Văn Chánh có đưa ra bài văn sách(2) của cụ Trần Bích San làm trong kỳ thi Đình mà ông Nguyễn Nguyên cho biết bài ấy chính là bút tích của Trần Bích San.

Chúng tôi có xem kỹ chữ viết trong bản Kiều Nôm và chữ viết trong bài văn sách thì thấy hai kiểu chữ viết ấy không giống nhau. Chữ của người sao chép bản Kiều Nôm bay bướm hơn nhiều. (Xem các bản chụp minh họa)

Chúng tôi sau khi so sánh hai bản chữ viết, đã xem lại bản Kiều Nôm, thì thấy có sự sai lầm rõ ràng. Chứng cớ là ở đầu quyển Truyện Kiều Nôm của cụ Giản Chi có sao chép bài Tựa Thanh Tâm Tài Nhân lục của Chu Mạnh Trinh viết trong cuộc thi thơ vịnh Kiều năm 1904, do Lê Hoan tổ chức ở Hưng Yên. Bài tựa ấy và toàn tập thơ Vịnh Kiều đã được khắc in trong quyển Kim Vân Kiều tân tập do Quan Văn Đường tàng bản, ấn hành năm 1906.

Chúng tôi chỉ phiên âm mấy câu đầu như sau:

"Kim sử duyên đề tặng phiến, Liêu Dương bất qui thúc phụ chi tang; biến khởi mại ti, Lôi Châu tức biện oan dân chi án, tắc sắt cầm hảo hợp, cốt nhục đoàn viên, bích ngọc trường lưu, tử thoa bất đoạn, yên hoa thương khách hà lai mãi tiếu chi kim; thanh giáo ngoại thần, chung trở quy hàng chi giáp."

(“Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười; mà chắc biên thùy một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp.")(3)

Sau bài Tựa Thanh Tâm Tài Nhân lục của Chu Mạnh Trinh còn có một bài tựa nữa của Nguyễn Tấn Cảnh cũng được viết ra vào năm 1904 để dự cuộc thi thơ Vịnh Kiều ở Hưng Yên. Bài này, trong quyển Truyện Kiều tập chú, được in ở trang 1042, từ dòng thứ 2 trở xuống.

Chúng tôi chỉ phiên âm mấy câu đầu như sau:

"Cổ vãng kim lai, vũ trụ thị chung tình chi cảnh; anh hùng nhi nữ, hàn mặc lưu hữu số chi văn.

Hồng phấn thiên thu, Thúy Kiều nhất lục. Sự hữu quan ư chính biến, nghĩa bất gián hồ sơ chung..."

(Vũ trụ là cảnh chung tình, tự cổ chí kim vẫn thế.

Câu chuyện anh hùng nhi nữ, sử xanh ghi lại được bao ?

Tức như tập truyện Thúy Kiều, vào hạng phấn son muôn thuở.

Việc có liên quan đến cơ chính biến, đời vẫn giữ trọn được nghĩa thủy chung...(4))

Với hai bài Tựa của Chu Mạnh Trinh và Nguyễn Tấn Cảnh được sao chép ở đầu quyển Truyện Kiều Nôm kể trên, chúng ta thấy ngay được bản ấy không phải là bút tích của cụ Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San vì cụ đã mất từ năm 1877 mà hai bài tựa kia mãi đến năm 1904 mới được viết ra.

Nếu không có hai bài tựa này thì có thể chúng ta sẽ bị nhầm lẫn về niên đại của quyển Truyện Kiều Nôm nói trên như ông Trần Văn Chánh đã ước đoán: "Vào khoảng năm 1858, xưa hơn bản Kim Vân Kiều tân truyện của Liễu văn Đường in trong năm Tự Đức 24 (1871)."

Sự thực thì bản Kiều Nôm mà cụ Giản Chi còn lưu giữ được mới chỉ được sao chép lại từ sau năm 1906, sau cuộc thi thơ vịnh Kiều ở Hưng Yên.

Vậy chúng tôi xin nói rõ để tránh một sự ngộ nhận về niên đại của một bản Kiều Nôm quý, chữ viết thảo rất đẹp.

CHÚ THÍCH

(1) Trần Bích San (1838 - 1877): hiệu là Mai Nham, quê ở xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

(2) Ông Nguyễn Nguyên được một người bạn cùng quê là Nguyễn Văn Huyền đưa cho bài văn sách của cụ Trần Bích San làm trong kỳ thi Đình (1865). Ông Nguyên đã tặng lại cho ông Trần Văn Chánh để in vào quyển Truyện Kiều tập chú.

(3) Bài dịch đăng trên Tạp chí Nam phong số 31, tháng1 năm 1920, ký tên Đoàn Quỳ. Sau trên Tạp chí Tri Tân số 63, tháng 9 năm 1942 Hoa Bằng lại cho biết dịch giả là Đoàn Tư Thuật (? )

(4) Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch.

TB

PHÁT HIỆN THÊM MỘT SỐ CÁCH PHIÊN ÂM KHÁC VỀ HAI CHỮ “SONG NHẬT”

NGÔ ĐĂNG LỢI

Hai chữ song nhật 日 xuất hiện 8 lần trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi được Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm phiên âm là song viết(1), 12 lần trong Hồng Đức Quốc âm thi tập được Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm là song viết(2), xuất hiện 3 lần trong Bạch Vân Quốc ngữ thi tập được Lê Trọng Khánh và Lê Anh Trà phiên âm là song nhật hay song nhặt(3). Đào Duy Anh trong Nguyễn Trãi toàn tập thì cho rằng hai chữ song viết là do các chữ: sớm tối, nô bộc, thong thả, túng kiết bị sao chép sai nên đã chữa theo cách hiểu của mình(4). Đỗ Văn Hỷ cho rằng vốn là chữ song nhật nhưng nên phiên âm là suông nhạt. Nguyễn Công Hoan cho là song kiết(5). Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn vận dụng phương pháp ngữ âm lịch sử cho rằng hai chữ đó phải đọc là rông vát(6). Cụ Nguyễn Quảng Tuân cho rằng thư tịch cổ nước ta và thư tịch cổ Trung Quốc như Đường thư, Tống sử, Khúc lễ... đều có chữ song nhật nghĩa là ngày chẵn, trái với chích nhật là ngày lẻ. Từ đó cụ khẳng định hai chữ ấy cứ đọc là song nhật, chứ không phải là song viết(7). Paul Schneider khi dịch Bạch Vân Quốc ngữ thi và trong Tự vựng lịch sử chữ Nôm (Dictionnaire historique des Idéogrammes Vietnamiens) đều phiên âm hai chữ trên là song viết với nghĩa là của cải, tài sản, gia tài, đầy tớ.

Như vậy, giữa các nhà học giả đã có cách phiên âm, cách hiểu hai chữ trên khác nhau.

Vừa qua, nhân có người nhờ tôi đi xem và chú thích hộ một cuốn sách Hán - Nôm nhan đề: “Chiêm nam nữ kết hôn hợp ngũ hành bát quái kiến cung cát hung”. Người nhờ xem cho biết cuốn sách này của cụ Kiều Văn Chú hơn 90 tuổi, người thôn Quang Thẩm, xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Trước kia cụ làm nghề dạy chữ Hán, bốc thuốc và lấy số tử vi. Cụ đã phiên âm ra Quốc ngữ sách trên với cách phát âm của người vùng ven biển Thái Bình như s=th, l=n...

Trong sách trên có hai chữ ( 日) xuất hiện hai lần mà cụ phiên âm là thong nhật:

a- Tuổi Canh Thìn kết duyên với tuổi Tân Tị thì:

Vàng tuy bạch lạp tính khá gan,
Mệnh ấy chẳng giàu nhiều cái con.
Đã phá hết giàu thời lại có,
Cửa nhà thong (song) nhật hết lại còn.

b- Tuổi Giáp Ngọ kết duyên với tuổi Ất Mùi thì:

Đất vàng trong cát một mang (?) trong,
Mệnh ấy nào ai dám sánh cùng,
Quan tước được giàu tài vật có,
Cửa nhà thong (song) nhật thuở nào xa.

Ngoài ra tủ sách của gia đình tôi còn giữ được quyển Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa do Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Lê Thành ý soạn, Nhà in Nghiêm Hàm, Hà Nội ấn hành năm 1925, trong đó có bài thơ vịnh Ngư, Tiều, Canh, Mục (trang 148). Bài vịnh Ngư như sau:

Bông lau muôn khóm mọc xanh - om,
Bàn đá trơ - trơ đứng đấy nom,
Mảnh áo - yên hoa bay tướp tướp,
Cần câu thủy-nguyệt rủ khom khom.
Ngư hà song nhặt ngày hằng đủ,
Bạch duật - đôi co thế ngại nom.
Phạm - Lãi, Tử - Nha tìm bạn cũ,
Năm hồ bốn bể một đôi chòm.
Vô danh thị (Thơ cổ)

Điều đáng chú ý là trong cuốn sách này, các soạn giả đặc biệt quan tâm giải thích, giảng nghĩa từ ngữ, điển cố, thành ngữ, tục ngữ... nhưng hai chữ song nhặt thì không. Chúng tôi đoán rằng các soạn giả cho hai chữ song nhặt là thông dụng, không cần giảng giải. Chúng ta cũng thấy khi Đông Châu giới thiệu Bạch Vân thi tập (thơ văn của cụ Trạng Trình) trên Nam Phong tạp chí từ năm 1918, số 14, hai lần người soạn đã lưu ý bạn đọc “Thơ này kể ra đã cổ lắm, bản quán cứ theo bản Nôm cũ mà soạn ra, hoặc có chỗ nào ngợ, xin các ngài có biết thì sửa lại cho. Đông Châu” và bên cạnh những chữ còn ngờ, soạn giả kèm dấu hỏi (?) để chỉ sự nghi vấn, nhưng cạnh chữ song nhặt ở bài 38 không thấy có dấu hỏi (?). Như vậy đối với Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến chữ song nhặt không có gì xa lạ với người đọc lúc ấy.

Theo chúng tôi ba trường hợp phiên âm là song nhật, song nhặt vừa nêu, nghĩa của từ là tài sản, của cải, đầy tớ thì hợp với mạch văn và ý nghĩa cũng trở nên rõ ràng.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Ức Trai quốc ngữ thi tập. Nxb. Sử - Địa, Hà Nội, 1956.

(2) Xem Hồng Đức Quốc âm thi tập. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1962.

(3) Xem Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1957.

(4) Xem Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1962.

(5) Xem Nguyễn Công Hoan. Tạp chí văn học số 5. 1974.

(6) Xem Nguyễn Tài Cẩn. Tạp chí văn học số 2. 1974.

(7) Xem Nguyễn Quảng Tuân. Tạp chí Hán Nôm số 2. 1984.

(8) Xem Paul Schneider (Dictionnaire historique des Idéogrammes Vietnamiens). Bản đánh máy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ức Trai Quốc ngữ thi tập. Trần Văn Giáp - Phạm Trọng Điềm phiên âm chú giải. Nxb. Văn, Sử, Địa, Hà Nội, 1956.

2. Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ triết lý - Lê Trọng Khánh, Lê Anh Trà. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1957.

3. Hồng Đức quốc âm thi tập. Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu. Nxb. Văn hóa, Hà Nội 1962.

4. Nguyễn Trãi toàn tập. Đào Duy Anh phiên âm lại và chú giải toàn bộ phần Quốc âm thi tập. Nxb.KHXH tái bản lần thứ hai, Hà Nội, 1976.

5. Bạch Vân Quốc ngữ thi tập. Paul Schneider dịch ra Pháp văn và chú giải, in trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises - Sai Gon 1974. Tr.612-849.

6. “Song viết” hay “song kiết”, “song biết” - Nguyễn Công Hoan. Tạp chí văn học số 5. 1974.

7. Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ "song viết" - Nguyễn Tài Cẩn. Tạp chí văn học số 2. 1974.

8. "Song nhật" chứ không phải là "Song viết" - Nguyễn Quảng Tuân. Nghiên cứu Hán Nôm số 2. 1985.

9. Tự vựng lịch sử chữ Nôm (Dictionnaire historique des Ideogrammes Vietnamiens) Paul Schneider. Bản đánh máy.

TB

TRẦN QUANG DIỆM VÀ BÀI CÁO
PHỤNG CHỈ CẦN VƯƠNG

TRẦN NGUYÊN TRINH

Trần Quang Diệm(1) (1838-1907), tự Nguyên Táo, hiệu Bưu Khê Tử, biệt hiệu Di Sơn Sơn Nhân. Ông sinh trong một gia đình văn học, ở làng Bút Trận, xã Lương Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An (nay là xã Diễn Thái, Diễn Châu, Nghệ An). Nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, ông phải bôn ba vất vả kiếm sống nên việc học hành thường bị gián đoạn. Năm Đinh Mão, 1867 ông mới thi đậu Cử nhân trường Nghệ, đồng khoa với Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã. Năm Kỷ Mão (1879), ông được bổ là Huấn đạo huyện Thanh Chương, Nghệ An. Năm Giáp Thân (1884), ông được bổ Tri phủ Tùng Thiện, Sơn Tây. Năm ất Dậu (1885), hưởng ứng Chiếu Cần Vương Hàm Nghi, ông cáo quan về nhà tham gia khởi nghĩa với bạn hữu cùng quê là Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Nhật Tân. Ông giữ chức An Vĩnh quân thứ thương biện nhung vụ trong Bộ Tham mưu của nghĩa quân.

Cuối năm 1887, sau khi Chủ tướng Nguyễn Xuân Ôn bị địch bắt, Đinh Nhật Tân bị bệnh mất, một mình ông gánh vác trách nhiệm lãnh đạo nghĩa quân. Để tránh tổn thất trước sự tấn công của giặc, ông phải kéo quân vào rừng núi trú ẩn chờ đợi thời cơ. Năm 1889, Phan Đình Phùng từ ngoài Bắc về, phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh lại lên mạnh. Trần Quang Diệm bèn đem quân ra nhập với nghĩa quân Phan Đình Phùng, được phong làm An Tĩnh Bố chính sứ kiêm An Tĩnh quân thứ Tán lý quân vụ. Tên gọi ông là “Bố Việm” có từ đó.

Mùa xuân năm Tân Mão (1891), ông bị Pháp bắt. ít lâu sau được tha, ông về nhà dạy học trò. Đầu năm Mậu Thân (1907), ông bị bệnh và mất, thọ 69 tuổi.

Bài cáo Phụng chỉ Cần Vương được ông làm và đọc trong lễ Tế cờ của nghĩa quân, mùa thu năm ất Dậu (1885), tại làng Cồn Sắt, quê hương Nguyễn Xuân Ôn.

Sau đây là phần dịch nghĩa của chúng tôi:

"Từng nghe:

Nhà Chu dẫn quân chinh phạt Hiểm Doãn ở phía Bắc. Nhà Hán cử binh chặn đường Hung Nô xâm lược phương Nam. Người xưa chống ngoại xâm trừ cường bạo để nước trị, dân yên.

Nước Việt Nam ta từ thuở Hồng Bàng, đất nước thiết lập, núi cao sông sâu, bao đời bồi đắp, phong thuần tục hậu. Đinh Tiên Hoàng cờ lau dấy binh bình định các Sứ quân, mở đầu nền thống nhất. Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Ngô, lời Đại cáo còn vang. Việt Nam là một cõi định sẵn giữa trời đất thiên hạ. Cạnh giường ngủ của ta, sao để bọn người lạ vào nằm trợn mắt? Mới rồi lũ Tây dương khác giống tanh hôi khởi hấn, đánh chiếm Kinh thành. Chúa Thượng phải xuất bôn, kéo ngựa xe ra sơn phòng Hà Tĩnh dựng hành tại, hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi khẩn cấp. Nghe tin ấy, ai chẳng rơi lệ. Buổi quốc gia gặp cơn nguy biến, chẳng phải khi thần tử ngồi yên. Lời xưa chúa lo, tôi nhục, chúa nhục, tôi chết, chính là nói lúc này đây. Song nếu không động viên được nghị lực như hùm gấu làm sao diệt được dã tâm bọn sói lang. Phàm dân nước Việt Nam ta ai chẳng có lòng nhiệt huyết thấy việc nghĩa lại bỏ qua. Vậy nên người có của góp của, kẻ có sức góp sức, đồng tâm đồng đức, đoàn kết cứu nạn. Chớ nói bởi tay không đành cam chịu bó tay. Xưa bậc đại hiền Mạnh Tử có câu: Dân ta được rèn luyện sâu sắc lòng hiếu đễ trung tín nên có thể dùng gậy gộc mà đánh thắng quân Tần Sở giáp bền gươm sắc. Câu nói có ý vị làm sao!

Nay ta lấy quân nhân nghĩa, đối chọi với kẻ địch hung tàn, so đức so nghĩa, cả hai điều ta đều được cả. Nếu ai ai chỉ nghĩ riêng mình, điềm nhiên ngồi nhìn, không suy xa, tất có mối lo gần. Đầu tiên địch dùng kế “tàm thực”, tiếp đó dần dần ngang ngược cho hổ sói ăn tươi nuốt sống. Đến lúc ấy nước phá nhà tan, làm sao cho kịp!

Tôi từng nghe: triều đình lấy lễ đãi sĩ suốt ba trăm năm mà Cần Vương không ai góp một tay, khiến Đường Minh Hoàng ôm hận. Nước nhà, nuôi quân ba mươi năm, lúc bá cáo Cần Vương không một người hưởng ứng, Tống Văn Tông phải lấy làm xấu hổ. Việc trong vũ trụ là việc trong phận sự của mọi người dân, bốn cõi đất nước lầm than, không phải chỉ có Khanh phu chịu nhục. Tôi vốn thư sinh, chức vụ nhỏ mọn, gắng gỏi hết mình, góp phần cát bụi. Dẫu không được lưu danh thiên cổ thì cũng khỏi mang tiếng xấu muôn đời. Ôi! Nếu không được nên sự nghiệp như các trung thần nghĩa sĩ thuở xưa thì cũng là tỏ chút lòng son!

Hỡi đồng bào cả nước! Hãy suy nghĩ, gắng sức, xin đừng bảo lời tôi nói khoác lác! ấy là điều tôi mong mỏi. Nay đặc cáo!(2)

Trần Nguyên Trinh dịch

CHÚ THÍCH

(1) Quốc triều Hương khoa lục chép là Trần Đăng Diệm.

(2) Bài cáo Phụng chỉ Cần Vương này do ông Nguyễn Xuân Hãn, một bạn thân của tôi và là cháu nội của cụ Nguyễn Xuân Ôn ở làng Cồn Sắt (Diễn Thái, Diễn Châu) sưu tầm và tặng tôi vào năm 1974 trước khi về hưu, với sự ủy thác dịch và giới thiệu khi có điều kiện. Bản chữ Hán in kèm theo đây là do tôi sao lại theo nguyên văn bản cũ của ông Nguyễn Xuân Hãn cấp - Trần Nguyên Trinh.

TB

THANH HÓA VƯỜN VĂN BIA

TRẦN THỊ BĂNG THANH

Văn bia là một thể loại đặc biệt của văn học. Mỗi tác phẩm (bài văn bia) thường được ra đời trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Không ai sáng tác truyện để khắc vào bia. Thông thường những bài văn bia phải được viết nhân một sự việc thực(1), cảnh thực. Mục đích của văn bia thường rất rõ ràng: để ghi nhớ công đức của một hoặc nhiều người, để ghi lại một việc làm tốt khiến cho người đời sau noi gương, và nhiều nhất là ghi lại lai lịch một danh thắng, một kiến trúc văn hóa, tôn giáo (chùa, đình, đền miếu, văn chỉ, núi non, hang động), cả những công trình đem lại lợi ích xã hội (làm chợ, xây cầu, làm cống)... Tác phẩm văn bia, về cơ bản, là thành phần của một công trình văn hóa, xã hội nhất định. Bia Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự gắn liền với chùa Hương Nghiêm; bia Du Kim Sơn động ký tự gắn liền với động Kim Sơn; bia Đỉnh tạo lục kiều công đức bi ký gắn liền với chiếc cầu “thượng gia hạ trì” do Thái hậu và Tĩnh vương Trịnh Sâm bỏ tiền ra làm... Vì thế tuổi thọ của tác phẩm văn bia thường lệ thuộc vào cơ sở vật chất tạo điều kiện ra đời cho nó và không ít trường hợp đã bị mai một cùng với cơ sở vật chất ấy. Chùa chiền hang động được bảo tồn thì tác phẩm được lưu giữ, còn nếu chẳng may di tích bị hủy hoại thì tác phẩm ấy cũng “cầm bằng” bị xóa sổ... Tác phẩm văn bia của Việt Nam nói chung và của Thanh Hóa nói riêng còn được bao nhiêu, hai cuộc làm thác bản của Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp những năm hai, ba mươi và của Viện Nghiên cứu Hán Nôm những năm 90 của thế kỷ XX có thể trả lời được. Song số tác phẩm đã bị mất không tìm ra tăm tích là bao nhiêu thì không hy vọng có câu trả lời chính xác. Điều đó thật đáng tiếc!...

Thanh Hóa) cho đến công cuộc in rập đầu thế kỷ XX là một “vườn bia” rất phong phú - giàu có về số lượng, phong phú về nội dung và nghệ thuật có thể không thua kém địa phương nào. Có điều, hiện nay tình hình bia còn mất ra sao, thì cũng như tình trạng chung, ngay ngành văn hóa có lẽ cũng khó trả lời chính xác. Người ta đã biết đến sự mất tích của tấm bia chùa Hương Nghiêm đời Lý, đã gặp nhiều tấm bia có niên đại Tự Đức hoặc sớm hơn bị vùi lấp trong cỏ dại, có tấm vạ vật trên đường lại qua mặc cho trâu bò, người xe giẫm dè lên. Cũng không ít những cột bia hình trụ không hiểu liên quan đến di tích nào, nhưng trong điều kiện cấp bách của chiến tranh, đã được dùng làm cột barrière... Ngoài ra cũng còn những tấm bia quý mà Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp chưa kịp sưu tập, như bia chùa Hưng Phúc, khoảng những năm bảy mươi còn đứng chơ vơ giữa nắng mưa trên cánh đồng thôn Trường Tân, xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, nay may mắn đã được đặt trong nhà bia. Hy vọng với những kinh nghiệm đã qua, vườn bia Thanh Hóa sẽ không còn phải chịu nhiều rủi ro như những năm trước đây nữa!

Dẫu sao, may mắn là chúng ta còn kho thác bản. Và may mắn hơn, Thanh Hóa đã có một vài bộ sưu tập văn bia mà hiện nay, còn lại được cuốn Thanh Hóa tỉnh bi ký thi văn loại biên(2). Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu(3) thì cuốn này chính là Ái Châu bi ký. Sách gồm 99 đơn vị bia(4) ghi chép bi ký, thơ, minh, được chia làm 12 đề mục: tôn thành (thành), thí trường (trường thi), văn chỉ, vũ chỉ, lăng (lăng mộ), từ miếu (đền miếu), tự (chùa), đình, thần đạo (sự tích những người có công được phong hoặc tôn làm thần), sơn động (hang núi), kiều (cầu), thị (chợ) và phụ chép bài Thọ Xuân huyện phú của Trần Đình Phong, Tri phủ Thọ Xuân. Không rõ soạn giả Ái Châu bi ký là ai, và sách được hoàn thành vào thời điểm nào, nhưng bài văn bia có niên đại muộn nhất, cũng là bài cuối tập sách là của Hồ Đức Dự, Hàn lâm viện thừa chỉ, Giáo thụ phủ Quảng Hóa làm năm Duy Tân thứ ba (1909). Chắc chắn Ái Châu bi ký không thu thập được hết văn bia của Thanh Hóa nhưng soạn giả cũng đã lựa chọn được nhiều tác phẩm quan trọng, có giá trị tiêu biểu cho thể loại trong “vườn bia” cổ này. Căn cứ vào Ái Châu bi ký, Thơ văn Lý Trần(5), Văn khắc Hán Nôm(6) Văn khắc Hán Nôm Việt Nam(7) có thể thấy “vườn bia Thanh Hóa khá phong phú về chủng loại; tạm phân chia như sau:

- Bia văn chỉ, võ chỉ: chủ yếu ghi chép về việc xây dựng các cơ sở phụng tự, kỉ niệm và danh sách các vị người của địa phương đỗ đạt, quan chức của hai ngành văn, võ.

- Bia công đức: ghi chép họ tên và số tiền, số ruộng của các vị hảo tâm đóng góp cho việc xây dựng, trùng tu đình, chùa, đền miếu và làm chợ, làm cầu...

- Bia khắc thơ đề vịnh: thường được khắc ngay trên vách hang động, đôi khi được khắc bia dựng ngay trong đền, chùa... Những bia này số chữ ít, nhưng phần lớn là tác phẩm của các danh gia: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Trịnh Sâm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Bùi Văn Dị...

- Bi ký: loại này có số lượng nhiều nhất, nhiều trường hợp bao gồm cả bia công đức, Văn chỉ, Võ chỉ, và là loại quan trọng của vườn bia Thanh Hóa.

Vườn bia Thanh Hóa có một lịch sử lâu dài vào loại nhất nước. Bia sớm nhất là Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn, khắc năm Đại Nghiệp 14 nhà Tùy (618). Nội dung bia ca tụng giáo lý nhà Phật và ca ngợi đạo học cùng sự nghiệp của Viên Thứ sử Cửu Chân họ Lê. Theo học giả Đào Duy Anh thì hai cha con ông Thứ sử này đã chống lại nhà Đường và đều tử trận, vì thế được nhân dân địa phương lập đền thờ, cho đến gần đây vẫn còn cúng bái. Bia đã bị mờ nhiều chữ, tác phẩm không còn nguyên vẹn, nhưng nó là văn bản văn bia cổ nhất còn lại ở Việt Nam, có thể giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu đạo Phật và địa lý, lịch sử. Những tấm bia muộn nhất có niên đại thập kỷ 40 của thế kỷ XX, trong đó đáng chú ý là Viễn Chiếu tổng Văn chỉ bi ký (Bia Văn chỉ tổng Viễn Chiếu), tạo năm Bảo Đại 13 (1938). Bài văn dài khoảng 1.600 chữ, nói về việc Việt Nam tôn sùng Nho học, và ghi việc chuyển dời Văn chỉ cùng họ tên các vị đỗ đạt trong tổng. Như vậy “vườn bia” Thanh Hóa có một lịch sử dài đến trên 13 thế kỷ với bốn chủng loại như chúng tôi đã tạm phân chia. Khó có thể nói rằng loại nào trong đó giá trị và quan trọng hơn, song xét về tính chất văn học thì đương nhiên phải chú ý đến hai loại cuối. Trong bài viết này chúng tôi cũng sẽ chủ yếu xem xét hai loại vừa nêu.

Bia khắc thơ đề vịnh ở Thanh Hóa không nhiều lắm, chúng tập trung ở những huyện có nhiều thắng cảnh thiên nhiên như Nga Sơn với động Bích Đào, núi Vân Lỗi, động Vân Nham, động Bạch ác; Đông Sơn với núi Bàn A, Quan Lan sào; Vĩnh Lộc với động Hồ Công, động Ngọc Sơn, Kim Sơn... ở những nơi này có thể tìm được những tác phẩm rất cổ và của nhiều thi gia danh tiếng. Ví như bài Đề Hồ Công động của Thiên Nam Động Chủ Lê Thánh Tông được khắc vào vách đá động Hồ Công, xã Thiên Vực, huyện Vĩnh Lộc vào năm Hồng Đức thứ 9 (1478):

Thần chùy quỷ tạo vạn trùng san,
Hư thất cao song vũ trụ khoan.
Thế thượng công danh đô thị mộng,
Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn.
Hoa Dương long hóa huyền châu trụy,
Bích Lạc truyền lưu bạch ngọc hàn.
Ngã dục thừa phong lăng tuyệt đỉnh,
Vọng cùng vân hải hữu vô gian.

Bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển như sau:

Quỷ thần gây dựng núi muôn trùng,
Nhà rỗng song cao giữa khoảng không.
Cõi tục công danh đều huyễn ảo,
Bầu tiên ngày tháng thỏa thung dung.
Hoa Dương rồng hóa châu rơi rớt,
Bích Lạc dòng xuôi ngọc lạnh lùng.
Cưỡi gió ta mong lên đỉnh núi,
Nhìn mây cao vút nước mênh mông.

Bài thơ còn một lời dẫn cho biết Lê Thánh Tông đi thuyền về Lam Kinh qua động Hồ Công, lên chơi, cảm hứng đề thơ.

Hoặc như bài Dương Tuyên hầu Trần Bá Tân, Thượng thư bộ Lại, Tiến sĩ năm 1736 đề vịnh chùa Đại Khánh, xã Đại Khánh huyện Đông Sơn, khắc năm Tân Dậu (1741) niên hiệu Cảnh Hưng:

Đại Khánh đồn tiền Đại Khánh sơn,
Sơn tiền trấn bích khởi thiền quan.
Kim thân bán hiện khan triều đại,
Cổ đạo tà lâm dịch thế gian.
Trác tích tăng bàn nguy thạch tọa,
Thúc tân tiều phụ tịch dương hoàn.
Trùng du ức khởi niên tiền sự,
Lăng cốc vô cùng nhất ỷ lan.

Tạm dịch :

Non trước, đồn sau, tên Đại Khánh,
Trước non rộng mở một thiền quan.
Thân vàng nửa lộ xem triều đại,
Đường cổ nghiêng nghiêng đổi thế gian.
Gậy chống, sư ngồi bàn đá dựng,
Củi về, tiều đợi ánh chiều tan.
Lại chơi, chợt nhớ chuyện năm cũ,
Một bóng bên hiên, núi ngút ngàn.

Tập trung nhiều thơ đề vịnh nhất có lẽ là núi Bàn A, huyện Thụy Nguyên, sau thuộc huyện Đông Sơn. ở đây, ngoài chùm tác phẩm của Ngô Thì Sĩ về Quan Lan sào gồm ký sự, minh, thi còn có nhiều thơ của nhiều tác giả khác về núi Bàn A. Sớm nhất là bài đề của Lê Hiến Tông năm Cảnh Thống 4, Tân Dậu (1501), sau đó là bài của Tĩnh Vương Trịnh Sâm, rồi đến một loạt bài xướng họa của các ông Đốc học Thanh Hóa Nguyễn Thuật, cựu án sát Thanh Hóa Nguyễn Tiêu, án sát sứ Tôn Thất, Bắc Kỳ kinh lược sứ Bùi Văn Dị... đề vịnh trong khoảng hai thập niên 80 và 90 của thế kỷ XIX. ở những bài thơ này các thi nhân thời Tự Đức, Thành Thái đều nhắc và nhớ Ngô Thì Sĩ:

Như thử kỳ phong tú thủy gian,
Siêu nhiên tiên cảnh quýnh nhân hoàn.
Tứ phương chiến phạt hà đa sự?
Cửu nhật đăng lâm tá nhất nhàn.
Hàn khởi mộ triều lai vạn lý,
Tình khai thu sắc nhập thiên san.
Khả lân phiến thạch đề thi xứ,
Cư sĩ phong lưu khứ bất hoàn.

Tạm dịch:

Nước tú non kỳ đẹp cảnh tiên
Nơi đây vời vợi cách trần gian.
Bốn phương chinh chiến sao nhiều việc,
Ngày chín lên cao mượn chút nhàn.
Rét nhẹ sóng triều về vạn dặm,
Trời trong thu sắc nhuốm muôn ngàn.
Thương sao phiến đá đề thơ ấy,
Cư sĩ đi rồi bỏ núi non.
(Bùi Văn Dị: Cửu nhật du Bàn A Sơn trình Nguyễn Hà Đình)

Trong một bài khác, cũng “ Lên núi Bàn A”, viết vào cuối thu năm Quý Mùi (1883), sau khi Tự Đức mất, Bùi Văn Dị không chỉ có “ cảm hứng đăng lâm” mà còn ngổn ngang nỗi niềm thế sự:

Nhật mộ phong hàn cô nhạn phi,
Thanh sơn lục thủy tứ y y.
Ban sư hữu chiếu tòng thiên hạ,
Thùy lão vô gia thử địa quy.
Thương hải vụ tinh sầu cực mục,
Đỉnh Hồ vân đoạn thế chiêm y.
Quan Lan cư sĩ kim hà tại?
Thả bạn sào biên phất điếu ky.

Tạm dịch:

Gió lạnh chiều buông chiếc nhạn bay,
Non xanh nước biếc tứ còn đây.
Lui quân có chiếu từ trời xuống,
Tuổi tác không nhà chọn đất này.
Biển thẳm mù tanh sầu ngút mắt,
Đỉnh Hồ mây dứt lệ tuôn đầy.
Quan Lan cư sĩ rày đâu tá ?
Phủi đá bên “sào” tựa điếu đài.
(Đặng Bàn A sơn)

Cũng có khi thi nhân không định khắc đá đề thơ, nhưng người đời sau thấy cảnh hợp tình, bèn đem thơ thi nhân khắc lên vách đá để "thi và cảnh cùng thọ với đất trời", như trường hợp bài thơ Du Bích đào động của Lê Quý Đôn được quan huyện Nga Sơn khắc lên vách động năm 1905:

Hải thượng quần tiên sự diểu mang,
Bích đào động khẩu cửu hoang lương.
Kiền khôn nhất yết cùng Từ Thức,
Vân thủy song nga lão Giáng Hương.
Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nhật,
Sa diên vô vị niết thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thùy thức Thiên Thai diệc hý trường.

Tạm dịch:

Nhà tiên trên biển, chuyện mơ hồ,
Cửa động Bích Đào dầm gió mưa.
Một vạt đất trời Từ Thức quẫn,
Đôi hàng mây nước Giáng Hương già.
âm vang trống đá mai chào nắng,
Vị nhạt muối đồng sương nhuốm thu.
Người thế, Thiên Thai mơ ước mãi,
Thiên Thai, đâu biết cũng trò đùa!

Nếu để tâm sưu tầm, chắc chắn giới nghiên cứu sẽ còn tìm được nhiều tác phẩm quý mà sách vở chưa đưa vào, hơn thế, từ những bài thơ vách đá này còn có thể cảm nhận được phần nào sự hưng suy của thế cuộc, sự cùng thông của vận nước, sự biến đổi của nhân tâm trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó quả là những tài sản văn hóa rất quý giá đáng được trân trọng, giữ gìn.

So sánh với thơ khắc đá, thể loại văn xuôi - bi ký - nhiều hơn. Số bia này rải rác khắp các huyện, nhưng dường như sự phân bố cũng có tính “chuyên đề” ở một mức độ nhất định. Chẳng hạn các huyện miền hạ lưu sông Chu, sông Mã và vùng lân cận TP. Thanh Hóa ngày nay, số bia về đình chùa cầu chợ nhiều hơn. Căn cứ vào những bài văn bia này có thể thấy chuyện mở chợ bắc cầu là những sự việc trọng đại trong cuộc sống người dân. Cầu không chỉ có ý nghĩa về mặt giao thông mà còn là nơi giao lưu văn hóa, là một cảnh quan của địa phương. Vì lẽ đó, dân cư góp tiền góp sức làm cầu đã đành mà các bậc quan cao, các vị hoàng hậu, công chúa, phi tần, cả các chúa Trịnh cũng hoặc phát tiền kho, hoặc bỏ bổng lộc riêng để bắc cầu cho dân. Tĩnh vương Trịnh Sâm bắc sáu chiếc cầu gỗ có mái ngói trên con đường nối Tây kinh và Đông kinh, là một sự kiện lớn trong năm Cảnh Hưng 33, Nhâm Thìn (1772); Đăng quận công Nguyễn Cự nối chí ông nội và cha làm chiếc cầu Cổ Bôn ở xã Phúc Triều, huyện Đông Sơn. Cầu khởi công từ tháng Năm năm Nhâm Dần, đến tháng Mười cùng năm thì hoàn thành. Nhân sẵn nguyên vật liệu và thợ thuyền, ông lại làm thêm ba chiếc cầu nữa: cầu Phúc Lai năm gian, cầu Hữu Nhưng ba gian và cầu Mỹ Ngọc ba gian. Những chiếc cầu này không chỉ có ý nghĩa giúp người ta khỏi phải “lụy đò” mà còn là những công trình nghệ thuật. Cầu Cổ Bôn “bắc 13 gian, như chiếc cầu vồng rực rỡ xà ngọc. Hai bên lan can gió mát, trên và dưới toàn bằng gỗ lim, mái lợp ngói sen vàng; cột chọc trời cao vời vợi, mái che trăng xòe cánh chim”. “Người ngồi trên cầu cảm thấy chót vót như được lên trời cao, trong tay ôm mặt trời đỏ; kẻ đi trên cầu cảm thấy phẳng lì như giẫm trên đất bằng, dưới chân đạp mây xanh”. Ngày lạc thành cầu, dân vui mừng khôn xiết, họ tri ân Đăng quận công và mong muốn công đức ấy, sự việc tốt đẹp ấy được ghi lại. Phùng Khắc Khoan Thượng thư Bộ Hộ, Tế tửu Quốc tử giám thể theo nguyện vọng của họ đã viết bài văn bia, có câu như sau: “Ta cho rằng ruộng phúc có tám hạng, bắc cầu là lớn nhất. Đối với ông, việc truyền nếp nhà bằng tích đức tụ phúc thì phúc đã có nền móng rồi vậy” Phúc Triền xã Cổ Bôn kiều bi). Bài văn bia được viết vào niên hiệu Hoằng Định (1601-1619). Không chỉ một mình Trạng Bùng viết văn bia về cầu, đồng thời với ông, còn có Tiến sĩ đệ nhị giáp Nguyễn Thực viết bia cho việc trùng tu cầu Phượng Hoàng, Tiến sĩ chế khoa Nguyễn Văn Nghi viết bia về việc trùng tu cầu Ngọc Khê năm Quang Hưng 5 (1582) và đến thời Thành Thái, Tiến sĩ Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thượng Phiên ca ngợi công đức người làm cầu và lợi ích của cầu nhân dịp làm cầu Nhiếp Vân... Bia về cầu còn rất nhiều, ngoài ra còn có cả bia về chợ Mỹ Quang ở huyện miền núi Quan Hóa, cho thấy việc buôn bán đông vui nhiều người góp tiền của đất đai, trong danh sách ấy có cả phu nhân của Trịnh Tráng. Các bia Văn chỉ tuy ít tính văn học nhưng đôi bài cũng cho biết những tục lệ tốt đẹp của địa phương, như tinh thần khuyến học của xã Quảng Chiếu được thể hiện trong bia Văn hội khoán lệ điền thổ. Lệ quy định người trong xã đỗ Tiến sĩ được Văn hội sửa lễ mừng 12 quan tiền; đỗ Cử nhân mừng 6 quan, đỗ Tú tài mừng 4 quan...

Bộ phận bia về chùa phong phú hơn và cũng xuất hiện sớm hơn. Ngay từ thời Lý Trần, trong số chừng hơn 30 bia của cả nước (số lượng còn lại hiện nay được biết), Thanh Hsa đã chiếm 7 và 6 văn bản đã là những tác phẩm văn học được đánh giá cao. Đó là các bia: An Hoạch sơn Báo ân tự bi ký của Chu Văn Thường khắc năm 1100; Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh của sư Pháp Bảo soạn năm 1118; Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự khắc năm 1125; Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh dựng năm 1126; Sùng Nghiêm tự Vân Lỗi sơn Đại Bi của Phạm Sư Mạnh viết năm 1372; Hưng Phúc tự bi viết năm 1324. Bốn văn bia đời Lý có thể cho biết trong khoảng vài thập niên đầu thế kỷ XII đạo Phật ở Thanh Hóa đã rất được chú ý. Các nhân vật quan trọng trong chính giới đương thời như Lý Thường Kiệt, Lưu Khánh Đàm, Thông phán họ Chu, người kế nhiệm Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa, đều rất sùng đạo Phật. Dưới sự bảo trợ của các ông, chỉ trong vòng chừng hai chục năm, bốn ngôi chùa (Báo Ân ở An Hoạch, Sùng Nghiêm ở Thọ Hạc, Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn, Hương Nghiêm ở núi Càn Ni) đã được xây dựng lộng lẫy, quy mô khang trang, cảnh trí thanh kỳ, trở thành những nơi tụ hội đông đảo, sinh hoạt văn hóa. Có thể xem đó là những công trình kiến trúc tạo được sự hòa hợp với tự nhiên, trở thành một bộ phận làm tăng vẻ tráng quan của tự nhiên. Phải chăng từ đó có thể đoán định rằng đạo Phật lúc này - thế kỷ XII - mới thật sự có chỗ đứng vững chắc ở Thanh Hóa (?). Có điều các văn bia trên không chỉ bàn riêng về đạo Phật. Ngoài phần mở đầu ngắn ca ngợi cái “diệu lý” của nhà Phật, ca ngợi công đức lớn lao của Phật, ý nghĩa của việc làm chùa - để thể hiện lòng hướng về Phật, để tiếng chuông tiếng khánh, câu kệ câu kinh thức tỉnh chúng sinh thoát khỏi vòng mê muội - bài văn bia dành một phần lớn chữ nghĩa ngợi ca công đức vị đại tín chủ. Chính từ dung lượng nội dung này mà nhiều nét tiểu sử của Lý Thường Kiệt, Thông phán họ Chu, Trấn quốc Bộc xạ họ Lê đã được biết đến. Lý Thường Kiệt có công phá Tống bình Chiêm, điều hành tốt chính sự ở Thanh Hóa, chẳng những là một tướng cầm quân giỏi mà còn là một quan cai trị tài ba, nhân ái.Vua yêu quý phong ông làm “Thiên tử nghĩa đệ’ (em nuôi vua); dân trọng vọng ông, coi ông là bậc ân nhân. Thông phán họ Chu cũng là “bậc hiền lương làm nên công tích”, Trấn quốc Bộc xạ Lê công được tin cậy dưới thời Đinh Tiên Hoàng, là người tổ chức làm chùa... Có điều, trong khi làm chùa xây tháp, các ông đều không quên một niềm ước nguyện: dân yên vật thịnh, vận nước dài lâu, đức vua muôn tuổi. ý nguyện “tự giác giác tha” của một tín đồ đạo Phật và trách nhiệm giáo hóa của một quan chức uyên thâm kinh điển Nho gia nơi các ông dường như ranh giới rất mờ nhạt. Có thể đó cũng là một trong những biểu hiện của tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” của thời đại.

Về mặt văn chương, bốn bài “bi ký” này đều đã đạt đến trình độ nghệ thuật, lời văn dào dạt tình cảm, nhiều đoạn tự sự giàu hình ảnh và sinh động, chứng tỏ văn xuôi chữ Hán đời Lý ngôn ngữ đã trong sáng, cú pháp già dặn, có khả năng gợi tả thành công chân dung nhiều nhân vật lịch sử. Đó cũng là nét độc đáo của văn bia chùa đời Lý. Sang những thế kỷ sau, đặc tính này sẽ nhạt hơn, những vấn đề về giáo lý, cảm quan Phật giáo giảm đi mà chất Nho học có phần tăng lên. Ngoài ra mỗi bài văn bia về chùa thường là một bài ký phong cảnh hoặc ghi chép về những sự kiện có quan hệ mật thiết với ngôi chùa ấy và tác giả thường bộc lộ cảm hứng khi du ngoạn. Bài văn bia của Phạm Sư Mạnh đề trên núi Vân Lỗi khá tiêu biểu cho loại này. Ngoài Hiệp Thạch sau khi ca ngợi sự uyên áo của Dịch lý, đã nói đến sự giáo hóa bằng hình tượng. Và điểm này chính là dấu nối, là sự hòa đồng giữa Phật và Lão và Nho. Có điều, mặc dù chủ ý làm chùa vẫn nhằm mục đích “sớm chiều cầu đảo cho cơ đồ nhà vua bền vững, thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi”, nhưng hứng thú cá nhân khi “đăng lâm” cũng đã là một nhân tố quan trọng. Sở dĩ có ngôi chùa trên núi Vân Lỗi, có tượng Tam Thế, Đại Bi được đúc “toàn bằng vàng” chính là do Hòa thượng chùa Khánh Lâm “nhân thừa hứng du ngoạn, thấy núi Vân Lỗi bốn bề tươi tốt, trong lòng ưa thích, bèn mở núi bạt rừng, xây dựng vài am”. Sự lựa chọn thế đất của Hòa thượng không nhằm vào nơi am thanh cảnh vắng mà lại chú ý “lấy chốn tụ họp đông người” và thế đất đẹp, theo quan niệm phong thủy. “Lỗi Sơn là chủ các núi”, bốn phương giới hạn đều là cảnh dân cư thịnh đạt: “Phía Đông có xóm làng, nhà cửa đông đúc, có thể làm thành sự giàu có của các nhà hào phú; phía Nam nhìn ra cửa sông lớn đổ vào biển, có thể làm nên chốn mênh mang của thế giới; phía Tây có sông Kinh, nguồn mạch thông tới hương Đại Lợi núi Ma Ni, phía bắc có đường dẫn tới cửa biển Thần Đầu, có thể làm nơi dừng nghỉ của người qua kẻ lại”.

Một phong cảnh như thế khiến cho Phạm Sư Mạnh sau khi viết bài bia ghi việc, cũng cảm hứng đề thơ:

Môn sâm lịch tỉnh thướng vân đoan,
Thân tại bích tiêu Ngân hán gian.
Hạ thị kình đào thiên vạn lý,
Trường thiên phù thủy thủy phù san.

(Trèo mây tay với trăng sao,
Thân nơi sông Bạc, tầng cao xanh mờ.
Cúi nhìn muôn dặm sóng xô,
Nước lưng trời thẳm, non phô mặt duềnh)
(Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ)

Sau Phạm Sư Mạnh, xu hướng này khá phong phú. Những bài bia về đình chùa đền miếu thường thể hiện rõ nét cảm hứng sáng tạo và cảm xúc trữ tình của tác giả. Phạm Bành Quý Trạm viết bài ký về chùa Cam Lộ đã miêu tả cảnh móc ngọt giáng xuống khu vực chùa như một huyền thoại rất sinh động:

“... Phía đông chùa là phòng tăng, phía trước về bên trái là miếu thờ thần, bên phải là đền thờ Đao quận công. Non xanh nước biếc phô dáng thanh phía trước chùa, cây lâu năm xòe tán xanh, hoa mới nở phô vẻ đẹp, cũng là một danh lam vậy. Tháng Bảy mùa thu năm Mậu Thìn có móc ngọt giáng xuống mé đông chùa. Điều này từ khi làm chùa đến nay mới thấy. Ngày 14 tháng ấy, ni sư trụ trì ở chùa đến nói rằng: Đêm mồng sáu rạng ngày mồng bảy, phương tây trăng vừa lặn, trời quang không gợn mây, chợt nghe trong lùm cây có tiếng như sương rơi nặng hạt. Đến sáng nhìn xem thì phía sau phòng tăng từ mé đông bắc chuyển qua mé tây, trên một khoảnh đất ước chừng nửa mẫu, không phải sương, không phải khói, nhưng là một làn khí mờ mờ bao phủ, đến trưa cũng không tan. Từ cây to đến cọng cỏ đều được tưới nhuần, trên cây sương còn đọng thành keo, vị ngọt như mật. Nhưng ngoài khoảnh đất ấy ra thì chẳng có gì kỳ lạ cả. Suốt ngày, từ sáng đến tối ong bướm kéo đến hút mật, vu vu u u như tiếng đàn cầm của trời đất rót vào tai vậy”.

(Hậu Lộc huyện Trường Xá xã ấp tự cam lộ ký)

Nhiều bài văn bia được viết rất công phu, không những chỉ có cảm hứng thưởng ngoạn mà còn thể hiện tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa. Ví như bài bia về núi Đồng Cổ của Nguyễn Văn Giai, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580), Thượng thư Bộ Lại. Ông viết: “Núi Đồng Cổ cũng là một danh sơn, nơi thần giáng, vạn cổ anh linh còn mãi... Vì đánh trống đồng, phá giặc tại trận, biểu hiện là thần có công, vì thế đặt tên cho miếu (...). Núi phía dưới giữ vững cõi đất, phía trên là cột chống trời, cao át các núi, chung đúc anh linh muôn đời...” (Đan Nê xã, Đồng Cổ sơn miếu bi). Hoặc như bài bia viết về việc trùng tu chùa Du Anh của Phùng Khắc Khoan, hay bài bia về đình Mỹ Tân của Hoàng Thận Hiên. Các ông đều nêu bật vẻ độc đáo của thắng cảnh mình đề cập đến trong bài văn bia. Nếu trong chùa Du Anh các vị Phật là “Phật tức Tiên”, cùng với các Tiên nhưng “Tiên là Phật” trong động Hồ Công tạo nên vẻ đẹp, sức cuốn hút các thi nhân của vùng Thiên Vực, Vĩnh Lộc thì ngôi đình Mỹ Tân lại là “công đường của hương đảng”, là ngôi đình của dân. Theo Hoàng Thận Hiên thì đó là điều Trung Quốc xưa không có. Đời Thành Chu có các “sở” để tụ hội tân khách, họp mặt phân chia thứ bậc trong làng trong họ. Đến đời Tần Hán mới có trường đình, đoản đình, dịch đình, đình có đình trưởng, về sau thì sơn, thủy, dã (đồng nội), viên (vườn) đều có đình, nhưng đều là nơi dừng nghỉ khi du ngoạn, chưa từng nghe có đình họp dân. Nước ta từ xưa, dân xã ngoài chùa, miếu còn lập một nơi để hội họp bàn bạc gọi là đình. Tuy chưa viết thành văn để giải thích nhưng đại để chữ đình hiểu theo nghĩa “nơi an định của dân”. Trong hương đảng, đình chính là nơi để bàn bạc, công bố việc phải việc trái, việc nên việc không đó vậy” (Quảng Tế huyện, Mỹ Tân đình bi). Quả là một phát hiện tinh tế và chính xác của Hoàng Thận Hiên. Cũng là một ngôi đình, nhưng “phong tục Bắc Nam có khác”, ngôi đình Việt Nam chính là nơi còn bảo tồn được những sinh hoạt cộng đồng làng xã, có thể là nơi đã lưu giữ được chút ít tinh thần dân chủ của công xã nông thôn thời xưa (?).

Trái với xu hướng thưởng ngoạn, qua nhiều đề tài của văn bia các huyện, văn bia huyện Thọ Xuân lại chủ yếu chuyên về lăng mộ, từ đường và tập trung vào hai dòng họ vua Lê chúa Trịnh cùng các công thần nhà Lê. Đáng chú ý nhất là vườn bia xã Lam Sơn. Trong vườn bia này, trừ bia Văn chỉ, các bia khác đều là bia về hoàng tộc nhà Lê: bia Vĩnh Lăng (lăng Lê Lợi), do Nguyễn Trãi soạn, là bia sớm nhất, tạo năm 1433; bia Hựu lăng (lăng Thái Tông) do Hàn lâm viện Thị độc Nguyễn Thiên Tích soạn, tạo năm 1442; bia Chiêu lăng (lăng Thánh Tông) do Tiến sĩ Thân Nhân Trung, Thượng thư Bộ Lại, Đông các Đại học sĩ soạn năm 1498; bia Khôn Nguyễn chí đức chi lăng (lăng bà Ngô Thị Ngọc Dao) do Nguyễn Bảo, Tả thị lang Bộ Lễ và Nguyễn Xung Xác, Chưởng Hàn lâm viện sự soạn năm 1498; bia Cảnh Thống đề thi khắc bài thơ Lê Hiến Tông ca ngợi phụ hoàng Lê Thánh Tông cũng làm năm 1498; bia Dụ Lăng (lăng vua Hiến Tông) do ba vị Đông các Đại học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp (Tiến sĩ năm 1466), Phạm Thịnh (Tiến sĩ năm 1478), Trình Chí Sâm (Tiến sĩ năm 1487) soạn, dựng năm 1504. Những bài văn bia này được viết với cảm hứng sử thi, nhằm ca ngợi các vị vua có nhiều công tích. Tác giả của chúng đều là các bậc khoa bảng mà tài học, tài văn chương nổi tiếng một thời. Khác với loại bi ký chúng tôi đã trình bày ở trên, mỗi bài văn bia ở Lam Kinh là một tiểu truyện. Bia Vĩnh Lăng là tiểu truyện Lê Lợi, song với tài năng của ngòi bút đại gia, Nguyễn Trãi không những đã viết đầy đủ tiểu sử mà còn trình bày một cách rất súc tích và minh xác công tích của Lê Lợi đối với cuộc kháng chiến chống giặc Minh giành độc lập của dân tộc ta thế kỷ XV. Lê Lợi là một lãnh tụ, một anh hùng và nhà chiến lược tài ba:

“Tuy gặp thời loạn mà chí lớn càng bền, giấu mình ở Lam Sơn làm nghề cày cấy. Vì giận giặc tàn bạo, càng chuyên tâm vào sách lược thao, dốc hết của nhà khoản đãi tân khách.

Năm Mậu Tuất dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mũi nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.

Năm Đinh Mùi giặc gửi viện binh, An Viễn hầu Liễu Thăng đem mười vạn quân do Quảng Tây tiến, Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem năm vạn quân do Vân Nam tiến. Một trận Chi Lăng, Liễu Thăng nộp đầu, chém quân giặc hơn mấy vạn tên, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn ba trăm người và hơn vạn binh sĩ. Sắc mệnh và binh phù bắt được của Liễu Thăng gửi đến quân Vân Nam, Mộc Thạnh trông thấy nhân đêm chạy trốn, giặc bị chém đầu và bị bắt sống không biết bao nhiêu mà kể(8). Văn bia Vĩnh Lăng viết về “truyện” của Lê Lợi nhưng lại là một thiên sử toát yếu về công cuộc kháng chiến đuổi giặc Minh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta, được Nguyễn Trãi viết rất tài tình. Nguyễn Trãi là người đương thời, những sử kiện ông ghi lại có độ tin cậy cao. Hơn thế, viết bài văn bia này, Nguyễn Trãi đã sử dụng bút pháp chép sử, bài văn không có phần “minh” tụng ca, ngôn ngữ cũng giản dị, cô đọng, không dùng bút pháp khoa trương thể phú... Chính vì vậy có thể xem văn bia Vĩnh Lăng là một tài liệu tín sử, góp phần minh xác và bổ sung cho chính sử thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn.

Trong vườn bia Lam Sơn, bia Vĩnh Lăng là hiện tượng độc đáo. Các văn bia Chiêu Lăng, “ Khôn nguyên chi đức lăng”, Dụ lăng lại được viết với bút pháp khác, gần với ký văn học. Ba bài văn bia này đều trên dưới 3.000 chữ; cuối văn bia Lê Thánh Tông có bài minh gồm 117 câu, bài minh bia Lê Hiến Tông gồm 110 câu(9). Các bài văn bia này viết kỹ về hành trạng nhân vật, thu thập nhiều huyền thoại, văn chương diễm lệ mang tính ngợi ca. Dù vậy, tinh thần xác thực lịch sử vẫn được tôn trọng ở những sự kiện chính yếu, vì thế, các tác giả đã cung cấp cho người đọc đương thời và hậu thế chân dung các nhân vật lịch sử khá rõ nét, thực và trên nhiều phương diện đạt đến vẻ đẹp nghệ thuật.

Thọ Xuân còn nhiều văn bia thuộc loại viết về hành trạng, ví như bia về bà Minh Phi vợ vua Lê Anh Tông, bia về bà Kính Phi vợ vua Lê Thánh Tông (do Lương Thế Vinh soạn), bia về các công chúa Thụy Hoa, Thiều Dương (con gái Lê Thánh Tông), bia Cảo lăng (Lê Huyền Công), bia sự tích Tướng công Lê Phúc Toàn, bia về bà Đàm Thị Ngọc Điều, cung tần của chúa Trịnh Tạc... nhưng về dung lượng phần nhiều chưa đạt đến quy mô các bia tiêu biểu ở Lam Sơn. Ngoài ra, ở các huyện khác, tuy ít nhưng cũng rải rác có một số bia ghi hành trạng nhân vật, và một số do các đại gia soạn thảo. Chẳng hạn ở Đông Sơn có hai bia về Mãn quận công Lê Trung Nghĩa do Bảng nhãn Lê Quý Đôn soạn thảo. Trong đó bài minh ở bia đền thờ hậu tuy ngắn nhưng rất giàu chất thơ: Bỉ sơn chi Đông, Hữu thạch trùng trùng; Miếu mạo kỳ địa, Càn khôn vô cùng (Núi kia sườn Đông, Có đá chất chồng; Nơi dựng đền miếu, Đất trời vô cùng - Nhuệ thôn hậu thần Mãn quận công từ bi). Ở Hà Trung có bài bia của Nhữ Đạm Trai (tức Nhữ Bá Sĩ) viết về hành trạng Lý Thường Kiệt (Lý Thường Kiệt Ngưỡng Sơn miếu bi tính minh); ở Hậu Lộc có bài của ông viết về hành trạng bà Triệu (Hậu Lộc Phú Điền xã thần từ di tích). Là một nhà sử học, Nhữ Bá Sĩ đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu, từ chính sử của Quốc sử quán đến các cuốn sử tư gia, có sử địa phương Trung Quốc (như Quảng Đông tân ngữ) và truyền thuyết dân gian để khắc họa hình tượng hai vị anh hùng dân tộc. Ở bài Ngưỡng sơn miếu bi, hình tượng Lý Thường Kiệt vừa bảo đảm được tính xác thực của một nhân vật lịch sử có thật lại vừa đạt đến độ phong phú giàu mỹ cảm của nhân vật anh hùng của văn học. Với bà Triệu, ngòi bút của Nhữ Bá Sĩ phóng khoáng hơn và ông đã có một nhân vật nữ anh hùng thật đẹp. Đẹp vì một tư tưởng lớn:

“Có người bàn về việc chồng con, ẩu than rằng:

- Bọn nam nhi đầy trước mắt đều chịu để cho người phương Bắc trói buộc đè nén như đối với tôi tớ lẽ mọn, ta lấy ai đây ?

Bèn ở vậy không lấy chồng”.

Và đẹp vì một hình thức oai phong rất con gái nhưng cũng rất hào hùng:

“Khoảng năm Xích Ô nhà Ngô, quận lại bạo ngược, dân chúng không chịu nổi, ẩu uất giận buộc tóc nổi dậy, họp chúng kết đảng ở trong núi Bồ Điền, đánh cướp các quận huyện. Bà thường mặc áo vàng đi dép ngà, cưỡi voi trắng, hô to truyền lệnh chiến đấu. Quân địch trông thấy liền chạy trốn, tan vỡ” (Hậu Lộc Phú Điền xã thần từ di tích).

ở Thanh Hóa số bia được viết theo dạng thức này cũng còn khá nhiều, như: Quảng Nam phủ thư Bố chánh Nguyễn Điềm Trai tuẫn tiết sự bi, nói về Nguyễn Điềm Trai giữ thành Thái Nguyên bị quân Thanh vây hãm, mất thành tuẫn tiết; Vĩnh Lộc huyện bi nói về ba người tiết nghĩa trong huyện: Định niết sứ Cao Bằng Hoàng Tạo, Tri phủ Nam Sách Nguyễn Lữ và Thái phiên Biện hạ Nguyễn (Điềm Trai), Mã đồng từ miếu nói về người giám mã của Chiêu Thống...

Nhìn chung lại, Thanh Hóa có một “vườn bia” phong phú, nhiều bia cổ, nhiều chủng loại, nhiều bài văn bia đạt đến trình độ nghệ thuật, là một kho tác phẩm quý của thể loại văn bia Việt Nam. ở đây giới nghiên cứu có thể khai thác được nhiều tư liệu quý về sử học, phong tục học, dân tộc học, văn học và nhiều vấn đề kinh tế, chính trị khác. Chính vì giá trị tàng trữ quý giá như vậy, chúng tôi hy vọng rằng “vườn bia” Thanh Hóa sẽ được giữ gìn, sưu tập và tổ chức khai thác tốt trong một thời gian gần đây.

Hà Nội mùa xuân năm Rồng (2000).

CHÚ THÍCH

(1) Trong quan niệm của người thời Trung đại “sự thực” đôi khi bao gồm cả những truyền thuyết, huyền thoại... mà họ tin là có thực.

(2) Ký hiệu Thư viện Hán Nôm VHv.1739.

(3) Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.

(4) Trong sách này, Quan Lan sào thập cảnh thi được tính là một đơn vị.

(5) Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội 1977.

(6) Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.

(7) Tập I, école Franỗaise d’Extrême - Orient - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris - Hà Nội, 1998.

(8) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1976, in lần thứ hai, Văn Tân dịch.

(9) Theo thống kê của Văn khắc Hán Nôm, Sđd.

TB

TRUYỆN KIỀU CHỮ NÔM ĐÃ KHẮC VÁN IN BAO NHIÊU LẦN ?

NGUYỄN KHẮC BẢO

Trong toàn bộ các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam trước đây, chưa có một tác phẩm nào được xuất bản nhiều lần và lưu truyền rộng rãi như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngay từ khi mới ra đời, Truyện Kiều đã sớm được truyền tụng trong giới sĩ phu và nhân dân cả nước. Nhiều nhà khoa bảng, học giả đã rất cẩn trọng trong khi sưu tầm, khảo đính, chú thích để xuất bản, tái bản Truyện Kiều. Nhiều nhà nho lại tự mình chép và chú thích, dẫn giải Truyện Kiều để vừa bày tỏ quan điểm và sự cảm nhận của mình, vừa như một thứ gia bảo để dành cho con cháu trong nhà sau này.

Bản Kiều Nôm in cổ nhất còn giữ được đến ngày nay là bản do Nhà Liễu Văn Đường in năm 1871 (đời Vua Tự Đức) và các bản in của Thịnh Mỹ Đường năm 1879, Quan Văn Đường năm 1879... đều không có Lệ ngôn, Tựa, khảo dị nên cũng không rõ quá trình biên khảo ra sao ? Chỉ tới bản in của Abel Des Michels (Pháp) xuất bản ở Paris năm 1884, ở lời nói đầu trang 12, Tập I có viết: “Bản mà tôi đã dựa vào để bắt đầu bản dịch này thì hầu như không thể đọc được nữa... may thay, tôi còn nhận được từ Bắc Kỳ một bản thứ hai, bản này hơn hẳn về chữ khắc...”. Như vậy, khi biên khảo bản Truyện Kiều của mình, Des Michels đã có ít nhất 2 bản in Kiều Nôm trong tay làm tài liệu tham khảo. Đến Kiều Oánh Mậu khi biên khảo Đoạn trường tân thanh năm 1902 cũng đã có trong tay nhiều bản Kiều khác nhau. Ông viết: “Các bản Phường vì không hiểu, tự ý thay đổi thật đáng chê cười, những chỗ như loại này, nay đều theo bản Kinh và tham chước các bản tư gia mà sửa lại“. Như vậy Kiều Oánh Mậu đã có trong tay các bản Phường, bản Kinh và các bản tư gia mà sau này ông dùng để khảo đính gọi là Phường bản, Kinh bản, nhất tác, hoặc tác. Năm1925, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim cũng căn cứ vào một bản Nôm cổ để in tại nhà Vĩnh Hưng Long quyển Truyện Thúy Kiều. Tiếp đến năm 1941, nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng hợp nhiều bản chữ Nôm và bản Quốc ngữ đã in trước để biên khảo thành Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện. Sau này, mỗi nhà xuất bản khi in Truyện Kiều đều dựa vào các bản Nôm cổ và các bản Quốc ngữ phổ biến từ trước làm cơ sở để chú giải và biên khảo nên bản Truyện Kiều của mình.

Từ sau năm 1939 thì không thấy còn xuất bản Truyện Kiều chữ Nôm nữa, nhưng cũng chưa thấy tác giả nào thống kê đầy đủ các bản Kiều Nôm đã in. Chỉ đến năm 1965, vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 200 năm sinh của đại thi hào Nguyễn Du, Viện Văn học có giao cho nhóm các nhà nghiên cứu: Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân v.v. nhiệm vụ tra cứu, hiệu đính, chú thích bản Truyện Kiều của Nhà xuất bản Văn học. Theo nhóm này thì chúng ta biết được danh mục các bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm đã được xuất bản ở Việt Nam đến năm 1939 là 23 đầu sách. Trong đó có rõ ràng, đầy đủ nhà tàng bản và năm xuất bản gồm 16 bản sau đây:

1. Liễu Văn Đường, năm 1871.

2. Thịnh Mỹ Đường, năm 1879.

3. Quan Văn Đường, năm 1879.

4. Duy Minh Thị, năm 1879.

5. Abel Des Michels, năm 1884.

6. Kiều Oánh Mậu, năm 1902.

7. Quan Văn Đường, năm 1906.

8. Liễu Văn Đường, năm 1914.

9. Phúc Văn Đường, năm 1918.

10. Quảng Thịnh Đường, năm 1922.

11. Quan Văn Đường, năm 1923.

12. Phúc Văn Đường, năm 1923.

13. Phúc Văn Đường, năm 1929.

14. Phúc Văn Đường, năm 1932.

15. Phúc An Hiệu, năm 1933.

16. Phúc Văn Đường, năm 1933.

và còn lại 7 bản chưa thật rõ nhà tàng bản và năm xuất bản, đó là:

17. Bản Phạm Quý Thích, khoảng năm 1789-1825 ?

18. Bản Kinh, khoảng năm 1847-1883 ?

19. Bản Kim Vân Kiều chính bản, phụ dẫn giải phê bình (giống bản Liễu Văn Đường, 1914).

20. Bản Kim Vân Kiều tân truyện, năm 1924.

21. Bản VN B 60 - khắc ván (Minh Mệnh ngự lãm tứ danh).

22. Bản AB.233 sao chép tay của Thư viện Khoa học T.Ư.

23. Bản AB.234 sao chép tay của Thư viện Khoa học T.Ư.

Những thông tin này rất đáng tin cậy vì: “Trong qua trình nghiên cứu, nhóm này đã được nhiều vị am hiểu về văn bản Truyện Kiều và nhiều đồng chí lãnh đạo ân cần chỉ giáo cho nhiều ý kiến quý báu... Một số đồng bào trong nước, Kiều bào ở nước ngoài cũng đã vui lòng gửi tặng hoặc cho mượn nhiều tài liệu quý” (trích lời nói đầu sách dẫn trên, trang VII). Chính vì thế ông Đào Duy Anh trong Truyện Kiều (Nxb. Văn học, 1979, tr.17) cũng đã viết: “Theo bài nghiên cứu về văn bản Truyện Kiều ở đầu sách Truyện Kiều do Viện Văn học xuất bản năm 1965 thì hiện biết có 23 bản Nôm in, trong số ấy có 3 bản thuộc về đời Tự Đức là những bản xưa nhất”. Năm 1984, Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục, tr.26 cũng viết: “ở nước ta, Truyện Kiều đã được xuất bản 23 lần bằng chữ Nôm (bản cổ nhất hiện còn là bản in năm 1871, hiện được lưu giữ ở Thư viện Trường Sinh ngữ Phương Đông (Paris), bản mới nhất là bản in năm 1939”.

Năm 1988, Thái Kim Đỉnh trong Giai thoại - tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb. Nghệ Tĩnh, tr.104 cũng cho biết: "Riêng ở Thư viện Quốc gia và Thư viện Khoa học Hà Nội đến năm 1965 đã thu thập được 24 bản in chữ Nôm và 27 bản in chữ Quốc ngữ". nhưng trong phần liệt kê thì Thái Kim Đỉnh cũng chỉ kể sơ qua các bản Nôm nên chưa chỉ ra bản thứ 24 là bản nào ? Năm 1991, Phạm Đan Quế trong Truyện Kiều đối chiếu, Nxb. Hà Nội, tr.14 cũng thống nhất là: "Cho đến năm 1939 đã có tới hơn 23 lần xuất bản bản chữ Nôm khác nhau".

Như vậy là cho đến nay, các nhà nghiên cứu Truyện Kiều nói trên bằng nhiều nguồn tư liệu khác nhau cũng đều thống nhất là: "Cho đến năm 1939 đã có 23 lần xuất bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm".

Chúng ta biết được rằng, muốn xuất bản một ấn phẩm bằng chữ Nôm từ năm 1939 trở về trước, cách duy nhất là phải dùng bản khắc gỗ để in. Riêng với Truyện Kiều, nếu nhà in Liễu Văn Đường khắc in năm 1939, cần tới 70 bản khắc gỗ với gần 23.000 chữ khắc. Còn như bản in của Kiều Oánh Mậu năm 1902 phải cần tới 90 bản khắc gỗ và bản Liễu Văn Đường năm 1916 phải cần tới 103 bản khắc gỗ với gần 23.000 chữ phần chính văn và trên 10.000 chữ phần khảo đính, chú thích, lệ ngôn, tựa v.v. Như vậy, có thể hình dung ra mỗi lần xuất bản phải đầu tư công sức, tiền của, trí tuệ vất vả tốn kém như thế nào. Điều đó càng làm nổi bật giá trị của Truyện Kiều và sự trân trọng yêu thích của nhân dân ta với tác phẩm bất hủ này.

Nhưng thực tế có phải là số lần xuất bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm chỉ dừng ở mức là 23 lần như nhóm các nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hoàn... đã công bố từ năm 1965 hay không ? Qua nghiên cứu, tra tìm trong các ấn phẩm đã được xuất bản của một số tác giả khác, chúng tôi nhận thấy rằng còn một số lần xuất bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm nữa mà chưa được liệt kê ở danh mục Truyện Kiều Nôm của nhóm các ông Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân. Xin được giới thiệu các bản Kiều Nôm đó để các vị học giả, các nhà nghiên cứu văn học tham khảo và cùng góp ý kiến.

1. Bản Liễu Văn Đường năm 1882 do ông Nguyễn Thạch Giang giới thiệu trong bản Truyện Kiều, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, năm 1973, trang 579.

2. Bản Kim Vân Kiều quảng tập truyện do Thiên Khẩu Thủy khắc in năm 1904, do ông Đào Duy Anh giới thiệu trong Truyện Kiều, Nxb. Văn học, năm 1979, tr.18.

3. Bản Quan Văn Đường năm 1925, do ông Vũ Văn Kính giới thiệu trong cuốn Đoạn Trường Tân Thanh, xuất bản tại Sài Gòn năm 1971, tại số nhà 233 Nguyễn Thiện Thuật.

Như vậy với sự tham gia tìm tòi, lưu trữ, giới thiệu của các ông Nguyễn Thạch Giang, Đào Duy Anh, Vũ Văn Kính đã giúp ta biết thêm được 3 bản Truyện Kiều chữ Nôm nữa.

Nhưng ngay từ năm 1965 nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hoàn, cũng đã viết: “Rất có thể là ở trong nhân dân ta, vùng Nghệ Tĩnh quê hương Nguyễn Du, vùng Bắc Ninh quê mẹ Nguyễn Du, vùng Hải Dương quê hương Phạm Quí Thích... vẫn còn có thể tìm được một vài bản Kiều quí (tr.LXV).

Với lòng yêu thích Truyện Kiều, say mê sưu tập các văn bản Truyện Kiều Nôm, trong nhiều năm qua, chúng tôi đã tìm đến nhiều gia đình có truyền thống nho học trong vùng Kinh Bắc cũ và nhờ đó mà đã sưu tập thêm được 7 bản Truyện Kiều Nôm không trùng với 26 bản kể trên. Xin được nêu ra đây để bạn đọc cùng tham khảo:

1) Bản Quan Văn Đường năm 1911 có kích thước 18x12cm; trang đầu ghi: Kim Vân Kiều tân truyện; Quan Văn Đường tàng bản, Tiên Điền Lễ tham Nguyễn Hầu soạn; Duy Tân ngũ niên Tân Hợi san khắc. Phần văn bản chia làm 2 tầng, tầng trên câu lục, tầng dưới câu bát, chép hàng 12, thuộc loại có 3.254 câu nhưng thực tế văn bản chỉ còn từ câu 1 đến câu 2880(1).

2) Bản Liễu Văn Đường năm 1916, có kích thước 21x12cm. Ngoài bìa sách ghi: Khải Định nguyên niên thu, Kim Vân Kiều quảng tập truyện, Liễu Văn Đường tàng bản. Phần văn bản Truyện Kiều gồm 102 tờ, mỗi trang chia làm 3 tầng, tầng trên là thơ văn và bình luận, tầng giữa là câu lục, tầng dưới câu bát, chép hàng 8. Bản này có 3262 câu, dài hơn bản Phường Liễu Văn Đường năm 1871 là 8 câu.

3) Bản Thịnh Mỹ Đường năm 1919, có kích thước 17x12cm. Ngoài bìa sách ghi: Khải Định Kỷ Mùi mạnh xuân tân san, Kim Vân Kiều tân truyện; Hà Nội, Thịnh Mỹ Đường tàng bản. Phần Văn Bản gồm 68 tờ, mỗi trang chia làm 2 tầng, tầng trên câu lục, tầng dưới câu bát, chép hàng 12. Bản này cũng có 3.254 câu.

4) Bản Liễu Văn Đường năm 1919, có kích thước 21x12cm. Ngoài bìa sách ghi: Khải Định tứ niên nhị nguyệt cát nhật tân khắc. Kim Vân Kiều quảng tập truyện, Liễu Văn Đường tàng bản. Phần văn bản gồm 102 tờ, chia làm 3 tầng, tầng trên cùng chép thơ văn và bình luận, tầng giữa chép câu lục, tầng dưới chép câu bát, chép hàng 8 gồm 3262 câu.

5) Bản Liễu Văn Đường năm 1924, có kích thước 21x12cm. Ngoài bìa sách ghi: Khải Định cửu niên Tùng nguyệt cát nhật tân khắc, Kim Vân Kiều Quảng tập truyện, Liễu Văn Đường tàng bản. Phần văn bản gồm 102 tờ, mỗi trang chia làm 3 tầng, tầng trên cùng chép thơ văn và bình luận, tầng giữa là câu lục, tầng dưới câu bát, chép hàng 8. Bản này cũng gồm 3.262 câu, chữ khắc cùng loại LVĐ 1916.

6) Bản Kinh Bắc (chưa rõ năm và nhà khắc ván in) có kích thước 20x13,5cm. Tờ đầu bị mất trang 1; trang 2 ghi bài: Thi Vân của Lương Đường Phạm tiên sinh soạn. Phần văn bản gồm 68 tờ, mỗi trang chia 2 tầng, tầng trên câu lục, tầng dưới câu bát, chép hàng 12. Bản này có nhiều câu chưa thấy ở một bản Kiều Nôm nào cả.

Ví dụ: Câu 5: Lạ gì bỉ sắc thử phong (các bản Kiều khác là: tư)

Câu 1391: Phải sao chịu tốt một bề (Các bản Kiều khác là: Quyết ngay biện bạch).

Ngoài ra những câu mà bản Kiều Oánh Mậu 1902 và bản Kinh chép tay R2003 chú là “Nguyên tác” thì bản Kinh Bắc cũng chép đúng như “Nguyên tác”(2).

7) Bản Bắc Ninh (chưa rõ năm và nhà khắc ván in) có kích thước 22,5 x 12,5cm. Bản này bị mất nhiều tờ đầu và cuối, nhưng với phần còn lại thì rất giống bản Quan Văn Đường 1906 của Chu Mạnh Trinh về cả cấu tạo, cách trình bày. Nhưng phần nội dung có sai khác gần 50 trường hợp.

Ví dụ: Câu 795: Trùng phùng dù họa Hữu khi (bản CMT.1906 là: Có)

Câu 799: Trên án sẵn có THANH dao (bản CMT 1906 là: Con)

Qua đó sơ bộ kết luận bản Bắc Ninh chắc cũng do nhà Quan Văn Đường khắc in theo nội dung của bản do Chu Mạnh Trinh biên khảo nhưng có sửa chữa ít nhiều(3).

Như vậy là theo thống kê năm 1965 của nhóm các nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân, thì mới có 23 lần xuất bản Truyện Kiều Nôm từ trước đến năm 1939. Nay qua nhiều văn bản còn lưu giữ được, ta có thể thấy các ông Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang và Vũ Văn Kính phát hiện thêm được 3 bản nữa và chúng tôi, những người yêu thích Truyện Kiều trên quê hương Kinh Bắc - cũng đã sưu tầm và lưu giữ được thêm 7 bản Kiều Nôm nữa (như trình bày ở phần trên). Nghĩa là cho đến nay - sau hơn 30 năm trời, kể từ 1965- chúng ta có thể tạm biết được số lần xuất bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm giai đoạn trước năm 1939 là 33 lần.

Với lòng yêu thích Truyện Kiều, trân trọng di sản văn hóa của dân tộc, chúng tôi xin được góp một vài tư liệu quý về vấn đề trên. Rất mong được các vị học giả, các nhà nghiên cứu chuyên sâu về Truyện Kiều cho ý kiến chỉ giáo.

CHÚ THÍCH

(1) Về bản Quan Văn Đường 1911 và quan hệ với VNb.60 (Minh Mệnh ngự lãm tứ danh) sẽ giới thiệu vào dịp khác.

(2) Bản Kiều Kinh Bắc đã được giới thiệu tại Hội nghị thông báo Hán Nôm 1-1998 tại Hà Nội.

(3) Về bản Kiều Bắc Ninh và quan hệ với bản Quan Văn Đường 1906 sẽ xin giới thiệu kỹ vào dịp sau.

TB

HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ
DANH NHÂN VĂN HÓA NGUYỄN TRỰC

Ngày 13 tháng 8 năm 2000 tại sảnh đường Văn Miếu Quốc tử giám đã có cuộc hội thảo về Danh nhân Văn hóa Lưỡng Quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực thời Lê Thái Tông- 1442.

Tới dự Hội thảo có trên 200 đại biểu gồm: Trung tâm Nghiên cứu giáo dục lịch sử truyền thống thuộc Bộ văn hóa, Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu -Quốc tử giám, Cục Bảo tồn bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa, Các nhà nghiên cứu khoa học lịch sử Viện sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Đại biểu ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Bảo tàng tỉnh Hà Tây, Đảng ủy ủy ban nhân dân xã Tam Hưng nơi đặt lăng mộ Nguyễn Trực, đông đảo các chi dòng họ Nguyễn Trực cùng một số ban ngành hữu quan khác.

Sau lễ dâng hương tưởng niệm vị Lưỡng quốc Trạng nguyên, Ông giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc tử giám long trọng đọc lời khai mạc.

Hội thảo bắt đầu bằng bản tham luận của Tiến sĩ sử học Đinh Công Vĩ - cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm - về thân thế sự nghiệp của Trạng nguyên Nguyễn Trực. Bản tham luận đã phân tích một cách chi tiết về nguồn gốc xuất thân, cuộc đời khoa hoạn và tài năng nhiều mặt của Nguyễn Trực. Đặc biệt tham luận đi sâu vào Luận văn Đình đối 1442 của ông - một bài luận văn đã đưa Nguyễn Trực lên địa vị Trạng nguyên khai khoa chính thức của nhà Hậu Lê. Ông có tên đầu tiên trên tấm bia đá số 1 của Văn Miếu - Quốc tử giám.

Sau bản tham luận trên, có tham luận của Phó giám đốc Bảo tàng Hà Tây Nguyễn Thị Giang về các di tích lịch sử liên quan đến Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực trên đất Hà Tây; tham luận của Thạc sĩ Hoàng Thị Mai Hương về “Một vài suy nghĩ qua các văn sách thi Đình thời Hậu Lê” v.v.

Hội thảo có một số kiến nghị sau đây:

1- Cần đặt tên Nguyễn Trực trên một đường phố Hà Nội.

2- Tấm bia đá đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1443) là Bia số 1 đặt tại Văn Miếu - Quốc tử giám cần được phục chế vì lâu ngày chữ mòn gần hết.

3- Cần tôn tạo và xếp hạng nhà thờ Nguyễn Trực và các di tích khác liên quan đến Nguyễn Trực.

P. Đ. Ư.

TB

BẢO VỆ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM

Ngày 17/ 6/2000, tại giảng đường trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ môn Hán Nôm Khoa Ngữ văn đã tổ chức cho sinh viên chuyên ngành Hán Nôm K41 bảo vệ luận văn tốt nghiệp.

Qua một ngày làm việc khẩn trương, 12 bản luận văn đã lần lượt được báo cáo trước Hội đồng Giám khảo. Nhìn chung, các luận văn đều bám sát thực trạng văn bản hoặc tài liệu Hán Nôm để giải mã, nhiều luận văn đã góp phần giải quyết những vấn đề thiết thực đang đặt ra trong thực tế. Tất cả 12 luận văn đều được Hội đồng Giám khảo đánh giá cao. Đáng chú ý là lần này có tới 5 luận văn được đánh giá xuất sắc. Đó là luận văn của các sinh viên sau đây:

1. Nguyễn Đức Toàn: “Giới thiệu tư liệu Hán Nôm chùa Trấn Quốc”.

2. Nguyễn Thị Tú Mai: “Bước đầu tìm hiểu thơ đi sứ của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản”.

3. Lê Thị Thanh Thùy: “Bước đầu tìm hiểu sách dạy chữ Hán cho người mới học ở giai đoạn đầu thế kỷ XX tại Việt Nam.

4. Nguyễn Đức Dũng: “Khảo sát hệ thống bản khắc Hán Nôm đền Quan Thánh”.

5. Nguyễn Thị Thủy: “Vấn đề phiên âm nhân danh, địa danh từ các ngôn ngữ Châu Âu sang chữ Nôm qua văn bản Nôm Thánh Mẫu phương danh.

Số Cử nhân này sau khi ra trường, sẽ góp phần xứng đáng vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

P.V.

TB

LỄ TIẾP NHẬN HỆ THỐNG MICROFILM CỦA CHÍNH PHỦ NHẬT BẢN TRAO TẶNG VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

Ngày 17 tháng 7 năm 2000, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã diễn ra Lễ trao tặng thiết bị bảo quản văn bản cổ trong khuôn khổ viện trợ văn hóa không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản. Tham dự về phía Nhật Bản, có Ngài Kunio Takahashi - Công sứ Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam; Đại diện Công ty Mitsubishi và các nhân viên của Đại sứ quán Nhật Bản; tham dự về phía Việt Nam có GS. VS Nguyễn Duy Quí - Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, TS Trịnh Khắc Mạnh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cùng một số cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, phóng viên các báo đài và những người quan tâm.

Có thể nói Việt Nam là một trong số ít các nước ở Đông Nam á hiện còn lưu giữ được nhiều tài liệu bằng chữ viết trong thời kỳ tiền cận đại và cận đại. Và đã từ lâu Viện Nghiên cứu Hán Nôm trở thành nơi thu thập, bảo tồn và nghiên cứu, khai thác các tài liệu cổ được viết bằng chữ Hán chữ Nôm của Việt Nam. Tuy nhiên, những văn bản này dễ bị hư hỏng, mặc dù Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các cơ quan có liên quan đã cố gắng làm hết sức mình để bảo vệ số tài liệu đó, nhưng nếu tiếp tục được lưu giữ trong tình hình khó khăn như hiện nay thì những di sản quan trọng như vậy có nguy cơ sẽ bị hỏng nát dần. Trước tình trạng này, trên cơ sở lời đề nghị của Chính phủ Việt Nam, nhân dịp Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải sang thăm Nhật Bản vào tháng 3 năm 1999, Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ Việt Nam đã tiến hành lễ trao đổi văn bản hai bên về Viện trợ văn hóa không hoàn lại. Và hôm nay, các thiết bị cần thiết để bảo tồn văn bản cổ đã được trao tặngViện Nghiên cứu Hán Nôm.

GS.VS. Nguyễn Duy Quí - Giám đốc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn đã phát biểu tại buổi lễ. Giáo sư nhấn mạnh: Chính phủ Việt Nam, lãnh đạo Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có nhiều cố gắng trong công tác bảo quản, sưu tầm và nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm. Từ nay, với sự giúp đỡ của các nước và đặc biệt là của Chính phủ Nhật Bản Công ty Mitsubishi, công tác bảo quản thư tịch và tài liệu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ được nâng lên một tầm cao mới.

Trong bài phát biểu của mình, Ngài Công sứ Takahashi nêu rõ: Tư liệu lịch sử là nền móng của một Quốc gia, là bản sắc của một dân tộc. Cho đến nay, Nhật Bản đã hợp tác với phía Việt Nam trong việc bảo tồn tư liệu lịch sử thông qua việc phái cử chuyên gia về bảo tồn văn bản cổ sang Việt Nam. Lần này, bằng việc trao tặng thiết bị sử dụng cho việc bảo tồn văn bản cổ cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chính phủ Nhật Bản thực sự vui mừng được cống hiến cho việc bảo tồn tư liệu lịch sử và cho công tác nghiên cứu lịch sử của Việt Nam. Thông qua việc tiếp tục giao lưu văn hóa và hợp tác văn hóa với Việt Nam, Chính phủ Nhật Bản dự định sẽ cố gắng thúc đẩy sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.

Với sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Tài chính và Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn; sự giúp đỡ về kỹ thuật và vật chất của các nước, đặc biệt là của Chính phủ Nhật Bản, chắc chắn trong những năm tới, Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ làm tốt hơn nữa công tác bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm.

TB

TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN THƠ CỔ
VIỆT NAM

VƯƠNG TIỂU THUẪN

LTS: Mùa hè năm 1998, GS.TS Vương Tiểu Thuẫn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa Trung Quốc thuộc trường Đại học Dương Châu tỉnh Giang Tô có sang Việt Nam tìm hiểu và đọc sách Hán Nôm. Mới đây, Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm có nhận được bài viết của GS Vương với nhan đề "Việt Nam phỏng thư trát ký" (Những ghi chép nhân chuyến sang thăm kho sách Hán Nôm của Việt Nam) gồm 34 trang giấy A4, khoảng 27.000 chữ Hán. Bài trát ký được chia ra làm 9 đề mục như sau:

1- Về hai loại thư mục cổ Việt Nam.

2- Kinh thư và Nho học.

3- Văn khắc và sử liệu làng xã.

4- Yên hành ký và Bắc sứ thi văn.

5- Diễn âm, diễn nghĩa, diễn ca và diễn tự.

6- Tiểu thuyết và truyện thơ cổ Việt Nam.

7- Ca trù - hát ả đào.

8- Sách Nôm các dân tộc.

9- Thay lời kết: Có một so sánh.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu đề mục thứ 6 "Tiểu thuyết và truyện thơ cổ Việt Nam" qua bản dịch của nhà nghiên cứu Hán Nôm Đinh Văn Minh để bạn đọc tham khảo.

Trong công tác chỉnh lý cổ tịch Việt Nam gần đây, ngoại giao sử và tiểu thuyết là thể tài được coi trọng hơn. Viện Nghiên cứu trung ương Đài Loan đang xúc tiến chương trình nghiên cứu Trung Việt ngoại giao sử liệu vựng biên. Thư cục Học Sinh Đài Bắc trong năm 1987 - 1992 đã in 2 tập Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san. Hai tập “tùng san” này do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp, Đại học Văn hóa Trung Quốc Đài Loan và Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam hợp tác biên tập, có giải đề tác phẩm một cách kỹ càng, có hiệu khám và chấm câu kiểu mới, tiêu biểu cho trình độ mới nhất về chỉnh lý cổ tịch Việt Nam.

Ý nghĩa của “tùng san” là ở chỗ: nó không những cung cấp một loạt tư liệu nghiên cứu tiểu thuyết mà còn cung cấp một cách lý giải về tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Thí dụ, nó chỉ ra rằng “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam hiện còn ước chừng 30 bộ, khoảng 3.000.000 chữ”, về đại thể đã xác định được phạm vi tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Ngoài ra nó còn chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam ra các loại: "Truyền kỳ tiểu thuyết", "Lịch sử tiểu thuyết"; “Bút ký tiểu thuyết” “Thần thoại truyền thuyết”, đấy là chưa kể ở từng thiên tiểu thuyết đều có nói rõ tiêu chí để phân loại và nguồn gốc của nó. Bởi vậy, chúng ta cần phải khảo sát nội dung cơ bản của việc phân loại đã nói ở trên.

1. Loại truyền kỳ: “Đoản thiên bằng văn ngôn, giống như tiểu thuyết đời Đường”. Như: Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục, Thánh Tông di thảo, Kiến văn lục, Việt Nam kỳ phùng sự lục, v.v.

2. Loại tiểu thuyết lịch sử: Diễn giải chú thích “lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19” như: Hoàng Việt xuân thu, Việt Nam khai quốc chí truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt Long hưng chí, v.v...

3. Loại tiểu thuyết bút ký: “Sự tích nhân vật là chính”. Như: Nam Ông mộng lục, Công dư tiệp ký, Nam Thiên trân dị, Thính văn dị lục, Sơn cư tạp thuật, Vân nang tiểu sử, Đại Nam hiển ứng truyện, Tang thương ngẫu lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc vĩ nhân truyện, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Khoa bảng tiêu kỳ, Nhân vật chí, v.v...

4. Loại truyền thuyết thần thoại: “Thần thoại và truyền thuyết về quốc gia dân tộc Việt Nam và nguồn gốc sự vật, bao gồm cả truyện ký về các vị thần”. như: Việt điện u linh lục, Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Nam quốc dị nhân sự tích lục, v.v. (1)

Chẳng nghi ngờ gì nữa, những phán đoán này là cơ sở để nhận thức tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nhưng giống như mọi công việc đầu tiên, nó hãy còn chỗ chưa hoàn thiện. Chúng ta chú ý đến: trong công việc biên soạn thực tế, tập 2 “tùng san” liệt kê thêm “loại tiểu thuyết bút ký truyền kỳ” và xếp Hội chân biên, Tân truyền kỳ lục vào loại này. Nếu như nói rằng Tân truyền kỳ lục là phỏng tác Truyền kỳ mạn lục thế thì, xếp hai sách đó vào hai loại là không thích hợp lắm; huống chi “bút ký truyền kỳ” là một loại nội dung pha tạp, vị tất có thể đứng riêng. Ngoài ra, có 2 điểm e rằng hơi phi lý: Nam quốc dị nhân sự tích lục chép 5 thiên truyện ký về các vị thần, An Nam cổ tích liệt truyện chép 12 thiên truyện ký về các vị thần, những thiên ấy đều có xuất xứ ở Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, rõ ràng chúng có quan hệ nguồn gốc về thể tài, ấy vậy mà “tùng san” lại xếp vào hai Bộ và Loại khác nhau; lại nữa, lời tựa Thính văn dị lục nói đến nguồn gốc của sách này, rằng: “các bậc tiền bối có Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Truyền kỳ mạn lục, Nam Thiên truyện ký, đều chép những việc thần dị của nước ta”, tự cho mình là “hiệu tần” (bắt chước) mấy bộ sách này mà làm, ấy vậy mà “tùng san” lại xếp riêng số sách có quan hệ với nhau này vào ba Bộ, Loại khác nhau. Do đó có thể thấy, thể lệ công tác chỉnh lý tiểu thuyết cổ đại Việt Nam chưa thật chặt chẽ rõ ràng. Nói cách khác, những vấn đề về phạm vi, phân loại, nguồn gốc của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (nói rộng ra là tiểu thuyết cổ Việt Nam) vẫn còn phải thảo luận thêm.

Trên thực tế, khảo sát và phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam là vấn đề của nghiên cứu văn học, nói đúng hơn, là vấn đề của văn hiến học. Bởi vì giới học thuật chưa có một khái niệm “tiểu thuyết” xác định. Trước mắt, quan niệm về “tiểu thuyết” của người nghiên cứu văn học Trung Quốc chẳng hạn bắt nguồn từ hai truyền thống khác nhau. Một là bắt nguồn từ sử học cổ đại Trung Quốc hoặc thư mục học, ý muốn trỏ là “những câu nói lặt vặt cũ kỹ” đóng vai trò bổ sung cho trước tác lịch sử quan phương, cho rằng phạm vi của nó bao gồm “thuật lại chuyện vặt” “ghi chép chuyện lạ” “góp nhặt từ ngữ vụn vặt”(2). Hai là bắt nguồn từ lý luận văn học châu Âu, ý muốn trỏ là văn học tự sự thể tản văn, cho rằng đặc trưng cơ bản của nó là “thông qua tình tiết câu chuyện nhất định, miêu tả nghệ thuật cụ thể về các khía cạnh của nhân vật, như mối quan hệ, số phận, tính cách, hành vi, tư tưởng, tình cảm, trạng thái tâm lý và hoàn cảnh hoạt động(3). Dẫu rằng tiêu chuẩn châu Âu rất khớp với sự phân loại các ngành khoa học hiện đại, nhưng trong thực tiễn nghiên cứu, nó lại chưa có thể hoàn toàn thay thế được tiêu chuẩn cổ điển của Trung Quốc. Bởi vì một khi lấy đó để giới định tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc thì sẽ cắt đứt nguồn lịch sử “tiểu thuyết” nghĩa hiệp (loại tiểu thuyết thuộc dòng văn học tự sự thể tản văn), và còn khiến cho hàng loạt “bút ký tiểu thuyết” không có chỗ dựa về học thuật. Đó là sự thực cần rõ ràng dứt khoát khi chỉnh lý nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Sự thực này có nghĩa là “tiểu thuyết” mà chúng ta đối mặt vừa có tiểu thuyết phù hợp tiêu chuẩn châu Âu hoặc tiêu chuẩn hiện đại, lại có tiểu thuyết phù hợp khái niệm cổ đại Trung Quốc, còn có cả tiểu thuyết gắn với truyền thống tự sự bản địa Việt Nam.

Theo khảo sát bước đầu của tôi, các loại tiểu thuyết này đại thể có thể phân chia như sau:

(1) Tiểu thuyết chương hồi: Nhìn nhận với nhãn quang hiện đại, đây là tiểu thuyết điển hình nhất trong cổ tịch chữ Hán. Đặc điểm của nó là thể tản văn bạch thoại, qui mô lớn, chia đoạn bằng chương hồi, chủ yếu miêu tả những sự kiện lịch sử lớn. Cho nên có học giả gọi nó là “lịch sử diễn nghĩa”(4). Có điều, đề tài tiểu thuyết chương hồi Việt Nam không hạn chế bởi lịch sử. Trong sách “tùng san” chưa xếp “loại tiểu thuyết lịch sử” Hoan châu ký và Hậu Trần dật sử có miêu tả các nhân vật 8 đời trở về trước của dòng họ Nguyễn Cảnh vùng Nghệ Tĩnh và cuộc kháng chiến chống quân Minh của Trần Quý Khoáng đời hậu Trần, tác phẩm thứ 2 lẽ ra thuộc loại “anh hùng diễn nghĩa”. Trong sách “tùng san” chưa xếp vào diện “tiểu thuyết” còn có Đào hoa mộng ký, Nam Thành du dật toàn truyện. Đào hoa mộng ký còn có tên Lan Nương tiểu truyện, Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh, v.v, là tiểu thuyết tình yêu chữ Hán 20 hồi, nay còn 2 hồi; Nam thành du dật toàn truyện hiện còn 4 hồi cũng là tiểu thuyết tình yêu chữ Hán thể chương hồi.

Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Giữa chúng còn có sự phân biệt, ở chỗ, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc là thể tài do những nghệ nhân chuyên nghề thuyết thư sáng tạo ra, còn tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thường được hình thành bởi bàn tay của trí thức tầng lớp trên. Tác giả và đối tượng sáng tác thay đổi tạo nên sự thay đổi về văn thể. Thứ nhất, tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam thường viết cho độc giả (chứ không phải cho thính giả). Cho nên Hoàng Lê nhất thống chí cuối hồi 2, cuối hồi 8, lẽ thường thì “hãy nghe hồi sau phân giải” bị thay thế bởi “hãy xem hồi sau phân giải” v.v. Thứ hai, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam có tính chất ghi thực rất mạnh mẽ, bản thân tác giả cũng thường là người trong cuộc, chẳng hạn ba tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đều đã từng tham gia những sự kiện lịch sử chép trong sách. Học giả người Nga Lý Phúc Thanh (Riptin) cho rằng, điều đó nói lên tác giả tiểu thuyết Việt Nam không những dựa vào truyền thống Trung Quốc mà còn dựa vào truyền thống tản văn lịch sử của bản địa (5) (Chẳng hạn Lam Sơn thực lục mang tính chất văn hiến lịch sử). Thứ ba, ngoài tiểu thuyết chương hồi chữ Hán thích hợp với “xem đọc”, ở Việt Nam còn ra đời một loạt tiểu thuyết chương hồi chữ Nôm dùng cho thuyết giảng. Số này bao gồm “diễn âm” đối với lịch sử diễn nghĩa chữ Hán, như Việt Nam khai quốc chí diễn âm Đường chinh tây diễn truyện; cũng bao gồm cả tiểu thuyết Nôm trường thiên, như Sự tích ông Trạng Lợn 19 hồi, Sự tích ông Trạng Quỳnh 23 hồi. Ngoài ra, trong tiểu thuyết cổ Việt Nam, còn có hàng loạt truyện thơ Nôm thể chương hồi, ví dụ Bích Câu kỳ ngộ 30 hồi, Phú bần truyện diễn ca 12 hồi, Đổng Thiên Vương tân truyện 12 hồi. Những truyện thơ này phần nhiều là thể lục bát, có sắc thái thuyết xướng rất rõ rệt. Hiển nhiên và dễ dàng thấy rằng, chúng đều phải quy vào phạm trù tiểu thuyết chương hồi.

(2) Tiểu thuyết truyền kỳ: Theo định nghĩa của ông Trịnh A Tài, “truyền kỳ” là chỉ loại tiểu thuyết bằng văn ngôn chịu ảnh hưởng chí quái thời Lục triều và truyền kỳ đời Đường(6). Định nghĩa này rất hợp lý. Xét các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích, “truyền kỳ” là tên gọi của một loại văn thể được các tác gia Việt Nam chấp nhận; đặc điểm của nó thường là ghi chép những việc kỳ dị, nhiều thành phần hư cấu, thường gồm nhiều thiên thành tập, mỗi thiên không dài nhưng kết cấu hoàn chỉnh, miêu tả uyển chuyển khúc chiết. Những tiểu thuyết Việt Nam phù hợp tiêu chuẩn này có Dị nhân lược chí (tập truyện truyền kỳ về nhân vật Việt Nam), Dị nhân tạp lục (tập truyện truyền kỳ về nhân vật Trung Quốc), Truyện ký trích lục (13 câu chuyện truyền kỳ), Việt Tuấn giai đàm tiền biên (44 câu chuyện cổ Việt Nam), Lam Trì kiến văn lục (45 câu chuyện kỳ dị), Khoái thư đệ nhất chủng trích lục (tập chuyện dân gian Trung Quốc), Bà tâm huyền kính lục (66 chuyện dân gian), Bản quốc dị văn (30 chuyện dân gian) v.v, mười mấy tên sách vừa nêu chưa được đưa vào “tùng san”.

Trong “tùng san” có một loại “bút ký tiểu thuyết”. Các học giả Trung Quốc thường cho rằng, điểm phân biệt giữa truyền kỳ và tiểu thuyết bút ký là, truyền kỳ chú trọng văn vẻ, nhiều hư cấu; còn tiểu thuyết bút ký chỉ viết ngắn, chép thực. Nếu theo cách nhìn nhận đó, thì trong loại “bút ký tiểu thuyết” cũng có khá nhiều tác phẩm thuộc truyền kỳ. Chẳng hạn, Kiến văn lục “phàm việc lạ thì chép”(7), Đại Nam hiển ứng truyện tập truyền thuyết dân gian “không hoàn toàn đúng với sự thực lịch sử nhưng có nhiều thú vị”(8), đều là tập tác phẩm truyền kỳ chứ không phải tập tác phẩm bút ký.

Ngoài ra, “tùng san” đưa vào loại “tiểu thuyết thần thoại”, về mặt thể tài, tác phẩm ấy cũng thuộc truyền kỳ. Bởi vì, xét các tên sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, những tác phẩm ấy cũng được biên soạn giống như vậy, theo tôn chỉ ghi chép những sự lạ; xét về nội dung, cũng có nhiều hư cấu như vậy, gồm nhiều thiên thành tập. Thần linh mà trong sách có chép, như “lịch đại đế vương”, “lịch đại nhân thần” v.v, cũng giống như Thành hoàng, Thổ địa, Quan Thánh đế quân, Kim Sơn đại vương, thuộc thần dân tục, chứ không phải là vị thần mà thần thoại học gọi là đóng vai trò phương thức tư duy, giải thích nguồn gốc thế giới. Cho nên Vũ Quỳnh coi tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của mình là “sử trong truyện”, cho rằng trong đó Hồng Bàng thị truyện “làm rõ nguyên do Hoàng Việt mở nền”, Dạ Soa vương truyện “nói qua về tương lai của nước Chiêm Thành”, Bạch trĩ truyện “chép về họ Việt Thường, Kim Quy truyện “chép về An Dương Vương”, so với Sưu thần ký của người đời Tấn, U quái lục của người đời Đường cũng vậy thôi(9). Trên đây bàn về mối liên quan giữa các sách Tân truyền kỳ lục, Truyền kỳ mạn lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, Thính văn dị lục, Thiên Nam truyện ký v.v. Chúng đều thuộc về loại tiểu thuyết truyền kỳ. Tóm lại, chúng ta không có lý do để nói rằng trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam tồn tại loại “thần thoại truyền thuyết”, số chuyện thần linh ngoài tác phẩm mà “tùng san” đã chép, chẳng hạn như Thần thánh hiển linh lục (chép 42 chuyện thần dị), Trần triều hiển thánh linh tích (tập chuyện thần dị), Sử Nam chí dị (chép 66 chuyện thần dị như Trầu cau, Bánh chưng, Chử Đồng Tử, Bạch Vân Am cư sĩ, Mạc Đĩnh Chi v.v), Hưng Yên tỉnh danh tích lược biên (chép 14 chuyện thần dị như Đông Hải đại vương, Phạm Đại Vương, Đế Thích, Chử Đồng Tử v.v), vẫn nên quy về truyền kỳ.

Điều cần phải nói rõ thêm là, những chuyện thần linh đã nói ở trên, truyền thống mà nó dựa vào không chỉ có “truyền kỳ” với tư cách là một thể tài văn học, mà còn có “thần tích” với tư cách là một thể tài sử học. Căn cứ vào lời tựa của tác giả Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập nguyên được biên tập để ca ngợi các vị thần thờ cúng trong các đền miếu, tính chất của nó là hội biên truyện ký về các vị thần. Điều này có nghĩa là, gần trăm cuốn sách “ngọc phả” “thần tích” hiện còn ở Việt Nam, đa phần thuộc tiểu thuyết bởi vì chúng cũng vậy, là truyện thần được biên tập để ca ngợi các vị thần thờ cúng trong các đền miếu. Chẳng hạn, Nam Hải Quan âm Phật sự tích ca ca ngợi thần Quan Âm trong chùa, sách Nôm thể lục bát, chia ra 29 đoạn: “Trang Vương cầu tự”, “Bồ Tát tiền thân”, “Bồ Tát giáng sinh”, “Công chúa mộ Phật”, v.v, so sánh với Quan âm chân kinh diễn nghĩa, tên từng đoạn giống nhau, nhưng văn thể khác nhau, hiển nhiên càng đậm tính văn học. Lại như Ngọc Bảo cổ truyện, Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyện, Cao tăng thiền sư ngọc phả cổ truyện, Đông cung thủy thần bộ chúa chi tử, Bột Hải đại vương ngọc phả cổ lục, Vân Cát thần nữ cổ lục, Lê Hoàng ngọc phả, Phạm đại vương ngọc phả, Hùng triều bát vị thủy thần ngọc phả, Chử Đồng Tử cập Tiên Dung Tây Cung nhị vị tiên nữ ngọc phả, Thiên Bản Vân Hương Lê triều Thánh Mẫu ngọc phả, Phan thần nương ngọc phả, Đinh thánh mẫu ngọc phả, Tản Viên thánh sự tích, Trương tôn thần sự tích, Yên Lãng hậu thổ sự tích, Nhị đại vương sự tích, Đoàn Đại vương sự tích, Triệu Việt Vương thần tích, Cứu sinh Trinh Thánh Tổ sự tích, Cổ Châu tứ pháp phả lục (sự tích 4 vị Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, phụ chép truyện thơ Nôm thể lục bát), Pháp Vũ tự thực lục (sự tích thần Pháp Vũ thờ ở xã Đình Tổ) v.v. cũng có giá trị văn học rất rõ. Có điều, những tác phẩm này ghi chép kỹ càng đầu đuôi cốt truyện, độ dài khá lớn, mỗi thiên truyện là một sách, không thuộc loại “truyền kỳ”, mà thuộc loại “sự tích truyện”, sẽ nói ở phần sau.

(3) Bút ký tiểu thuyết: Đây là chính thống “tiểu thuyết” trong con mắt của nhà thư mục học cổ đại Trung Quốc, lấy việc ghi thực và ngắn gọn làm đặc trưng. Loại văn thể này hoặc chép việc lạ, hoặc tự thuật dã sử, hoặc khảo về các danh vật, chủng loại đa dạng, trong đó có nhân vật, có văn chương tình tiết, được các nhà nghiên cứu hiện đại đưa vào diện tiểu thuyết. Chịu ảnh hưởng điển tịch Trung Quốc, trong cổ tịch chữ Hán Việt Nam cũng có thể loại này. Chẳng hạn Thượng Hữu lược ký do Vũ Trừng Phủ biên tập, sách dày 66 trang, chép 252 chuyện cổ từ đời Hán đến đời Tống; Vân nang tiểu sử do Phạm Đình Dục soạn, sách dày 290 trang, chép 252 chuyện lạ; Mẫn Hiên thuyết loại do Cao Bá Quát sưu tập, tạp ghi các câu chuyện báo ứng, truyện kỳ về các danh lam cổ tích và nhân vật nổi tiếng; Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, biên chép truyền thuyết giai thoại đầu thế kỷ 18, phân ra 12 đề mục: danh thần, danh nho, tiết nghĩa, chí khí, ác báo, tiết phụ, ca nữ v.v; Nam Thiên trân dị tập của tác giả khuyết danh mô phỏng Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, gồm 72 trang ghi chép chuyện lạ dã sử; Tang thương ngẫu lục do Phạm Đình Hổ và Nguyễn án biên tập, lấy “tồn cổ”, “tồn nghi” làm tôn chỉ, chép 90 thiên quái dị về nhân sự. Số tác phẩm này đại thể có thể xếp vào loại bút ký tiểu thuyết.

Việc xác định tác phẩm bút ký tiểu thuyết, liên quan đến một vấn đề là xem xét truyện ký như thế nào. Theo “tùng san”, tiêu chuẩn của loại tiểu thuyết bút ký là “lấy sự tích nhân vật làm chủ”, cho nên nó thu nhận hai loại tác phẩm: một là truyện ký nhiều thành phần hư cấu, hai là truyện ký đậm nét tả thực. Về loại truyện ký thứ nhất, bên trên đã kiến nghị gộp vào truyền kỳ; còn loại thứ hai, hiện nay xem ra cũng có một vấn đề khác biệt với tác phẩm loại truyện ký thuộc Sử bộ. Chẳng hạn Khoa bảng tiêu kỳ mà “tùng san” thu nạp, quyển 1 là Đăng khoa viên số khảo, quyển 2 là Quốc triều Trạng nguyên khảo..., Liệt truyện đăng khoa khảo thể tài tương tự của cùng một tác giả (Phan Huy Ôn) đại loại gần với loại cổ tịch chữ Hán Việt Nam như Lịch đại đăng khoa lục, Đại Việt lịch đại Tiến sĩ thực lục, Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa khảo, Sơn Tây đăng khoa khảo, Lịch triều đăng khoa bị khảo, Tam khôi bị khảo, Đại Việt đỉnh nguyên Phật lục (tiểu sử và truyền thuyết về 46 Trạng nguyên Việt Nam) v.v. Lại nữa, “tùng san” thu nạp Thiên Nam trung nghĩa thực lục, Lê triều tiết nghĩa lục, Nam quốc vĩ nhân truyện, Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện, v.v, đều ghi tiểu sử hoặc lý lịch nhân vật, dạng này có nguồn gốc từ truyện ký trong các sách thuộc Sử bộ của Trung Quốc. Cũng ở Việt Nam có số lượng lớn tác phẩm cùng loại - như Thiền uyển tập anh chép “Thiền học tông phái sự tích” qua các đời, Danh thần lục “chép sự trạng danh thần các đời”, Nam Minh thiền lục “chép sự tích thiền tăng các đời khá rõ”(10), Xuyết thập tạp ký chép 30 bài truyện ký về các nhà thơ cổ đại, và Thoái thực ký văn (còn có tên Công hạ ký văn), Dã sử (còn có tên Liệt truyện), Hồng Lạc lưu anh lục (còn có tên Danh thần truyện), Quốc triều trung hưng trung tiết hiển trung chư thần (còn có tên Lê mạt tuẫn tiết truyện), Danh hiền lục, Danh thần danh nho truyện ký, Hậu Lê dã lục, Lê triều dã sử, Lão song thô thực, Lịch đại danh thần thực lục, Lê mạt tuẫn tiết chư thần tính danh sự trạng, Lê triều công thần liệt truyện, Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện, Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện, Nguyễn triều liệt truyện, Trần Lê ngoại truyện, v.v. Trong lúc khảo sát tư liệu bút ký tiểu thuyết, chắc chắn phải xem xét đến số tác phẩm này, bởi vì chúng chí ít cũng tạo nên bối cảnh phát triển tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

(4) Sự tích truyện: “truyện” là thể văn tự sự truyền thống bản địa Việt Nam. Nó thường lấy một nhân vật, một thời đại làm đơn nguyên tự thuật, cho nên cũng gọi là “sự tích”. So sánh với truyền kỳ, bút ký tiểu thuyết thì nó miêu tả dài hơn, ngôn ngữ thông tục hơn và giàu tính văn học hơn, cho nên nó cũng giống như “truyện” của Triều Tiên, vị trí của nó trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết ngang với “thoại bản” hoặc “thị nhân tiểu thuyết”, cao hơn truyền kỳ(11). Xét về số lượng, thì đây là thể tài quan trọng nhất trong tiểu thuyết cổ Việt Nam. Việt Nam kỳ phùng sự lục mà “tùng san” tập 1 xếp vào “truyền kỳ loại” và Thúy Kiều lục, Thục An Dương Vương sự tích, Thục An Dương Vương triều công thần nhất vị đại vương phả lục, Trạch Hải đại vương sự tích, Trương tôn thần sự tích, Vân Cát nữ thần cổ lục, Vân Cát nữ thần truyện v.v, mà “tùng san” tập 3 cứ thế đưa vào chính là thuộc loại này.

Trên đây đã bàn đến một truyền thống văn hóa chuyện thần linh trong tiểu thuyết loại truyền kỳ Việt Nam, chứng minh bằng một loạt tác phẩm chữ Hán thể truyện sự tích. Dẫu rằng, con số đó có tới hơn 10 tên sách, nhưng không có nghĩa là nội dung chính của thể truyện sự tích là chuyện kể thần linh. Ngược lại, trong thể tài này, chúng ta có thể thấy được nhiều chuyện thế tục. Chẳng hạn, Trùng Tương tân lục kể về Tư Mã Trùng Cương đầu thai thành Tư Mã ý, Sài Sơn thực lục kể chuyện sư Từ Đạo Hạnh dựng chùa Sài Sơn, Vũ dù thị tiên sư di sự khảo kể về cuộc đời Bùi Quốc Khái - người đầu tiên làm ô dù, Tứ Vị Thánh Bà sự tích văn kể chuyện bốn phụ nữ Trung Quốc gặp nạn ngoài biển được người Việt Nam cứu giúp, Điểu thám kỳ án kể về một người giỏi tiếng chim, sai khiến loài chim ăn đêm phá án, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai tân truyện kể chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào cảnh tiên, về sau trải qua bao biến đổi bãi bể nương dâu của trần gian, Từ Thức tân truyện kể chuyện Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương, hai người yêu nhau rồi lấy nhau, Nguyễn Đạt Nguyễn Sinh tân truyện kể về hai anh em sinh đôi họ Nguyễn phẫn chí học hành, Nữ tú tài tân truyện kể chuyện một phụ nữ đời Tống giả trai học hành thi đỗ Tiến sĩ, Cổ quái bốc sư truyện kể chuyện một thầy bói rất cổ quái, xem bói cho một quan viên thời Lê mạt Đỗ Thế Giai, nhân đó chế diễu triều chính, La Tổ truyện kể chuyện La Tổ đi tu vì vợ lấy chồng khác. Những tác phẩm này nói lên một cách đầy đủ tính đặc thù thị dân hóa của truyện sự tích.

Từ các đặc điểm kể trên của truyện sự tích, có thể biết được chỗ dựa của nó vừa có truyền thống sử truyện, vừa có truyền thống văn học truyền miệng, chứ không như ba loại tiểu thuyết: bút ký, chương hồi, truyền kỳ chủ yếu được chuyển dịch từ điển tịch chữ Hán sang. Vài ví dụ dưới đây cũng sẽ giúp ích cho việc thuyết minh vấn đề này. Thứ nhất, có một loại tiểu thuyết thể lục bát, thuật chuyện Lưu Kinh vì lười nhác mà phải vào Địa ngục, sau được vợ tiên nhờ Phật cứu ra, chuyện này đề là Lưu Kinh truyện thoại bản - chữ “thoại bản” ngầm chỉ tác phẩm có nguồn gốc văn học truyền miệng. Thứ hai, thể thức chủ yếu của truyện sự tích Việt Nam thực ra không phải là tản văn mà là văn vần, phù hợp với nhu cầu nhớ và kể. Tiểu thuyết chữ Hán dạng này có: Hoài Nam ký (truyện thơ lục bát kể về chúa Nguyễn), Đường Cao đô hộ Bột Hải quận vương thi truyện (truyện thơ về Cao Biền đời Đường), Lý Công tân truyện (truyện thơ lục bát về Lý Công nước Tống), Thạch Sanh tân truyện (truyện Thạch Sanh thể lục bát), Tống Trân tân truyện (truyện Tống Trân thể lục bát) v.v. Chúng thường dùng thể tài thuyết xướng lục bát, niên đại của nó muộn hơn truyện thơ Nôm (trong đó ra đời tương đối sớm là Hoài Nam ký do Hoàng Quang soạn năm 1777), hiển nhiên có nguồn gốc nghệ thuật thuyết xướng. Thứ ba, ngoài truyện sự tích chữ Hán, trong tiểu thuyết Việt Nam còn có rất nhiều truyện sự tích Nôm, như Tiên phả dịch lục, Truyện ông đồ Ba Vẫy, Hán Sở tranh hùng truyện, Tiên hoa lục, v.v, thường dịch Nôm hoặc diễn nghĩa tiểu thuyết chữ Hán (Tiên hoa lục tức là Hoa tiên truyện dịch từ tiểu thuyết Trung Quốc). Dịch Nôm có thể thỏa mãn nhu cầu thuyết xướng miệng. Từ những tác phẩm Nôm này có thể biết được đặc điểm thế tục hóa của truyện sự tích song hành với đặc điểm khẩu ngữ hóa của nó. Thứ tư, điều quan trọng nhất, hình thức chủ yếu của truyện sự tích là hình thức truyện thơ Nôm giàu phong cách dân gian. Đặc điểm này đáng được luôn nhắc tới.

Gọi là “truyện thơ Nôm” cũng chính là truyện sự tích dùng hình thức thể thơ Nôm, ở Việt Nam quen gọi là “truyện Quốc âm”. Văn thể của nó chủ yếu là thể lục bát, đề tài chủ yếu là tình duyên trai gái, hình thức lưu truyền chủ yếu là hình thức bản in, mỗi truyện trên dưới 100 trang. Những truyện thơ Nôm phù hợp những điều kiện này, có: Bướm hoa tân truyện, Hoàng Tú tân truyện, Hữu Ké truyện, Hoa tiên nhuận chính, Phương Hoa tân truyện, Chúa Thao cổ truyện, Tuyển phu ngộ phối tân truyện, Ngọc Hoa cổ tích truyện, Bạch Viên tân truyện v.v. Chúng phản ánh đặc tính tiểu thuyết dân gian Việt Nam, kể chuyện tình yêu bằng phương thức thuyết xướng. Chúng có tỷ lệ cao về ấn loát, chứng tỏ rằng truyện thơ Nôm là loại tiểu thuyết được quần chúng hoan nghênh nhất. Một số truyện thơ Nôm khác, chẳng hạn Quả báo tân truyện, Lưu nữ tướng truyện, Trê cóc tân truyện, Trinh thử tân truyện, Lưu Bình Dương Lễ tân truyện, Đồng tiền truyện v.v, tuy không phải là đề tài tình yêu nữa, nhưng vẫn sử dụng thể lục bát như vậy, vẫn kể chuyện ngày thường như vậy, lưu truyền bằng hình thức bản in như vậy. Tính rộng rãi của lưu truyền, nói lên hai truyền thống văn hóa có trong tiểu thuyết Việt Nam, truyện thơ Nôm tiêu biểu cho truyền thống dân gian đối lập với đề tài cỡ lớn của diễn nghĩa lịch sử, thần quái truyền kỳ.

Nhưng xét từ phương diện khác, truyện thơ Nôm vẫn quan hệ chặt chẽ với tiểu thuyết Trung Quốc. Trong đó, một bộ phận lớn tác phẩm “diễn âm” hoặc “diễn truyện” tiểu thuyết Trung Quốc, chẳng hạn Bình Sơn Lãnh yến diễn âm, Hảo Cầu tân truyện diễn âm, Lưu Nguyên phổ truyện, Ngọc Kiều Lê tân truyện, Nhị Độ Mai diễn ca, Nhị Độ Mai truyện, Nhị Độ Mai diễn ca, Nhị Độ Mai truyện, Nhị Độ Mai tinh tuyển, Nhuận chính trung hiếu tiết nghĩa Nhị Độ Mai, Phan Trần truyện, Phan Trần truyện trùng duyệt, Tái sinh duyên truyện, Chiêu Quân cống Hồ truyện, Tống chí truyện quyển bát, Tây du truyện, Phù Dung tân truyện tân truyện, Tỳ bà quốc âm tân truyện. Khá nhiều truyện thơ Nôm có bản in Trung Quốc, chẳng hạn Bạch Viên thi tập, Lý Công tân truyện có bản in Quảng Đông. Điều này rất thú vị, chúng phản ánh con đường cơ bản và phương thức cơ bản Việt Nam hóa văn học Trung Quốc, và cũng chứng tỏ tiểu thuyết hai nước Trung Việt cùng có bối cảnh thể thơ chung. Chúng ta cần chú ý: những truyện diễn âm kể trên chủ yếu diễn dịch các câu chuyện đời Tống; về cơ bản chúng là những tác phẩm của những tác gia có tiếng, khác hẳn với truyện thơ Nôm không phải loại diễn âm - loại thứ hai này thông thường tác giả khuyết danh. Điều này nói lên rằng, người trí thức thời xưa của Việt Nam dựa vào sự hiểu biết của họ về thoại bản đời Tống để sáng tác truyện thơ Nôm chủ yếu bằng phương thức phiên dịch. Nói cách khác, truyện thơ Nôm là sản phẩm kết hợp giữa hai truyền thống: một là thuyết xướng dân gian Việt Nam; hai là thoại bản và tiểu thuyết đàn xướng Trung Quốc thịnh hành từ đời Tống được du nhập thông qua các tác gia Việt Nam. Trong khi nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, đương nhiên không thể coi nhẹ tiểu thuyết thể thơ loại này - vô luận truyện thơ Hán hay truyện thơ Nôm.

Đinh Văn Minh dịch

CHÚ THÍCH

(1) Trên đây đều dựa vào lời tựa Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san của Trần Khánh Hạo.

(2) Tứ khố toàn thư tổng mục - Tử bộ - Tiểu thuyết gia loại tự.

(3) Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - Trung Quốc văn học quyển - Tiểu thuyết Nxb. Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc 1986.

(4) Trịnh A Tài: Việt Nam Hán văn tiểu thuyết trung đích lịch sử diễn nghĩa cập kỳ đặc sắc đăng trong Trung Hoa văn hóa dữ thế giới Hán văn học luận văn tập: văn học ti tô.

(5) Ríptin: Hoàng Lê nhất thống chí dữ Viễn đông chương hồi tiểu thuyết truyền thống, bản dịch Trung Văn đăng trong Hán văn cổ tiểu thuyết luận cảo, Nxb. Cổ tịch Giang Tô, năm 1992.

(6) Như chú thích(4).

(7) Xem tựa của Ngô Huyền Trai trong Kiến văn lục.

(8) Xem Đại Nam hiển ứng truyện xuất bản thuyết minh đăng trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san.

(9) Xem Lĩnh Nam chích quái đẳng tư liệu tam chủng - Lĩnh Nam chích quái tự do Đới Khả Lai và Dương Bảo Quân hiệu điểm, Nxb. Cổ tịch Trung Châu 1991.

(10) Đoạn dẫn trên đây là giải đề trong Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí - Truyện ký.

(11) Xem Ríptin: Viễn đông cổ điển tiểu thuyết, bản dịch Trung văn đăng trong Hán văn cổ tiểu thuyết luận hành, xem chú thích(5).