|
THANH HÓA VƯỜN VĂN BIA
TRẦN THỊ BĂNG THANH
Văn bia là một thể loại đặc biệt của văn học. Mỗi tác phẩm (bài văn bia) thường được ra đời trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Không ai sáng tác truyện để khắc vào bia. Thông thường những bài văn bia phải được viết nhân một sự việc thực(1), cảnh thực. Mục đích của văn bia thường rất rõ ràng: để ghi nhớ công đức của một hoặc nhiều người, để ghi lại một việc làm tốt khiến cho người đời sau noi gương, và nhiều nhất là ghi lại lai lịch một danh thắng, một kiến trúc văn hóa, tôn giáo (chùa, đình, đền miếu, văn chỉ, núi non, hang động), cả những công trình đem lại lợi ích xã hội (làm chợ, xây cầu, làm cống)... Tác phẩm văn bia, về cơ bản, là thành phần của một công trình văn hóa, xã hội nhất định. Bia Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự gắn liền với chùa Hương Nghiêm; bia Du Kim Sơn động ký tự gắn liền với động Kim Sơn; bia Đỉnh tạo lục kiều công đức bi ký gắn liền với chiếc cầu “thượng gia hạ trì” do Thái hậu và Tĩnh vương Trịnh Sâm bỏ tiền ra làm... Vì thế tuổi thọ của tác phẩm văn bia thường lệ thuộc vào cơ sở vật chất tạo điều kiện ra đời cho nó và không ít trường hợp đã bị mai một cùng với cơ sở vật chất ấy. Chùa chiền hang động được bảo tồn thì tác phẩm được lưu giữ, còn nếu chẳng may di tích bị hủy hoại thì tác phẩm ấy cũng “cầm bằng” bị xóa sổ... Tác phẩm văn bia của Việt Nam nói chung và của Thanh Hóa nói riêng còn được bao nhiêu, hai cuộc làm thác bản của Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp những năm hai, ba mươi và của Viện Nghiên cứu Hán Nôm những năm 90 của thế kỷ XX có thể trả lời được. Song số tác phẩm đã bị mất không tìm ra tăm tích là bao nhiêu thì không hy vọng
có câu trả lời chính xác. Điều đó thật đáng tiếc!...
Thanh Hóa) cho đến công cuộc in rập đầu thế kỷ XX là một “vườn bia” rất phong phú - giàu có về số lượng, phong phú về nội dung và nghệ thuật có thể không thua kém địa phương nào. Có điều, hiện nay tình hình bia còn mất ra sao, thì cũng như tình trạng chung, ngay ngành văn hóa có lẽ cũng khó trả lời chính xác. Người ta đã biết đến sự mất tích của tấm bia chùa Hương Nghiêm đời Lý, đã gặp nhiều tấm bia có niên đại Tự Đức hoặc sớm hơn bị vùi lấp trong cỏ dại, có tấm vạ vật trên đường lại qua mặc cho trâu bò, người xe giẫm dè lên. Cũng không ít những cột bia hình trụ không hiểu liên quan đến di tích nào, nhưng trong điều kiện cấp bách của chiến tranh, đã được dùng làm cột barrière... Ngoài ra cũng còn những tấm bia quý mà Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp chưa kịp sưu tập, như bia chùa Hưng Phúc, khoảng những năm bảy mươi còn đứng chơ vơ giữa nắng mưa trên cánh đồng thôn Trường Tân, xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, nay may mắn đã được đặt trong nhà bia. Hy vọng với những kinh nghiệm đã qua, vườn bia Thanh Hóa sẽ không còn phải chịu nhiều rủi ro như những năm trước đây nữa!
Dẫu sao, may mắn là chúng ta còn kho thác bản. Và may mắn hơn, Thanh Hóa đã có một vài bộ sưu tập văn bia mà hiện nay, còn lại được cuốn Thanh Hóa tỉnh bi ký thi văn loại biên(2). Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu(3) thì cuốn này chính là Ái Châu bi ký. Sách gồm 99 đơn vị bia(4) ghi chép bi ký, thơ, minh, được chia làm 12 đề mục: tôn thành (thành), thí trường (trường thi), văn chỉ, vũ chỉ, lăng (lăng mộ), từ miếu (đền miếu), tự (chùa), đình, thần đạo (sự tích những người có công được phong hoặc tôn làm thần), sơn động (hang núi), kiều (cầu), thị (chợ) và phụ chép bài Thọ Xuân huyện phú của Trần Đình Phong, Tri phủ Thọ Xuân. Không rõ soạn giả Ái Châu bi ký là ai, và sách được hoàn thành vào thời điểm nào, nhưng bài văn bia có niên đại muộn nhất, cũng là bài cuối tập sách là của Hồ Đức Dự, Hàn lâm viện thừa chỉ, Giáo thụ phủ Quảng Hóa làm năm Duy Tân thứ ba (1909). Chắc chắn Ái Châu bi ký không thu thập được hết văn bia của Thanh Hóa nhưng soạn giả cũng đã lựa chọn được nhiều tác phẩm quan trọng, có giá trị tiêu biểu cho thể loại trong “vườn bia” cổ này. Căn cứ vào Ái Châu bi ký, Thơ văn Lý Trần(5), Văn khắc Hán Nôm(6) và Văn khắc Hán Nôm Việt Nam(7) có thể thấy “vườn bia Thanh Hóa khá phong phú về chủng loại; tạm phân chia như sau:
- Bia văn chỉ, võ chỉ: chủ yếu ghi chép về việc xây dựng các cơ sở phụng tự, kỉ niệm và danh sách các vị người của địa phương đỗ đạt, quan chức của hai ngành văn, võ.
- Bia công đức: ghi chép họ tên và số tiền, số ruộng của các vị hảo tâm đóng góp cho việc xây dựng, trùng tu đình, chùa, đền miếu và làm chợ, làm cầu...
- Bia khắc thơ đề vịnh: thường được khắc ngay trên vách hang động, đôi khi được khắc bia dựng ngay trong đền, chùa... Những bia này số chữ ít, nhưng phần lớn là tác phẩm của các danh gia: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Trịnh Sâm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Bùi Văn Dị...
- Bi ký: loại này có số lượng nhiều nhất, nhiều trường hợp bao gồm cả bia công đức, Văn chỉ, Võ chỉ, và là loại quan trọng của vườn bia Thanh Hóa.
Vườn bia Thanh Hóa có một lịch sử lâu dài vào loại nhất nước. Bia sớm nhất là Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn, khắc năm Đại Nghiệp 14 nhà Tùy (618). Nội dung bia ca tụng giáo lý nhà Phật và ca ngợi đạo học cùng sự nghiệp của Viên Thứ sử Cửu Chân họ Lê. Theo học giả Đào Duy Anh thì hai cha con ông Thứ sử này đã chống lại nhà Đường và đều tử trận, vì thế được nhân dân địa phương lập đền thờ, cho đến gần đây vẫn còn cúng bái. Bia đã bị mờ nhiều chữ, tác phẩm không còn nguyên vẹn, nhưng nó là văn bản văn bia cổ nhất còn lại ở Việt Nam, có thể giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu đạo Phật và địa lý, lịch sử. Những tấm bia muộn nhất có niên đại thập kỷ 40 của thế kỷ XX, trong đó đáng chú ý là Viễn Chiếu tổng Văn chỉ bi ký (Bia Văn chỉ tổng Viễn Chiếu), tạo năm Bảo Đại 13 (1938). Bài văn dài khoảng 1.600 chữ, nói về việc Việt Nam tôn sùng Nho học, và ghi việc chuyển dời Văn chỉ cùng họ tên các vị đỗ đạt trong tổng. Như vậy “vườn bia” Thanh Hóa có một lịch sử dài đến trên 13 thế kỷ với bốn chủng loại như chúng tôi đã tạm phân chia. Khó có thể nói rằng loại nào trong đó giá trị và quan trọng hơn, song xét về tính chất văn học thì đương nhiên phải chú ý đến hai loại cuối. Trong bài viết này chúng tôi cũng sẽ chủ yếu xem xét hai loại vừa nêu.
Bia khắc thơ đề vịnh ở Thanh Hóa không nhiều lắm, chúng tập trung ở những huyện có nhiều thắng cảnh thiên nhiên như Nga Sơn với động Bích Đào, núi Vân Lỗi, động Vân Nham, động Bạch ác; Đông Sơn với núi Bàn A, Quan Lan sào; Vĩnh Lộc với động Hồ Công, động Ngọc Sơn, Kim Sơn... ở những nơi này có thể tìm được những tác phẩm rất cổ và của nhiều thi gia danh tiếng. Ví như bài Đề Hồ Công động của Thiên Nam Động Chủ Lê Thánh Tông được khắc vào vách đá động Hồ Công, xã Thiên Vực, huyện Vĩnh Lộc vào năm Hồng Đức thứ 9 (1478):
Thần chùy quỷ tạo vạn trùng san,
Hư thất cao song vũ trụ khoan.
Thế thượng công danh đô thị mộng,
Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn.
Hoa Dương long hóa huyền châu trụy,
Bích Lạc truyền lưu bạch ngọc hàn.
Ngã dục thừa phong lăng tuyệt đỉnh,
Vọng cùng vân hải hữu vô gian.
Bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển như sau:
Quỷ thần gây dựng núi muôn trùng,
Nhà rỗng song cao giữa khoảng không.
Cõi tục công danh đều huyễn ảo,
Bầu tiên ngày tháng thỏa thung dung.
Hoa Dương rồng hóa châu rơi rớt,
Bích Lạc dòng xuôi ngọc lạnh lùng.
Cưỡi gió ta mong lên đỉnh núi,
Nhìn mây cao vút nước mênh mông.
Bài thơ còn một lời dẫn cho biết Lê Thánh Tông đi thuyền về Lam Kinh qua động Hồ Công, lên chơi, cảm hứng đề thơ.
Hoặc như bài Dương Tuyên hầu Trần Bá Tân, Thượng thư bộ Lại, Tiến sĩ năm 1736 đề vịnh chùa Đại Khánh, xã Đại Khánh huyện Đông Sơn, khắc năm Tân Dậu (1741) niên hiệu Cảnh Hưng:
Đại Khánh đồn tiền Đại Khánh sơn,
Sơn tiền trấn bích khởi thiền quan.
Kim thân bán hiện khan triều đại,
Cổ đạo tà lâm dịch thế gian.
Trác tích tăng bàn nguy thạch tọa,
Thúc tân tiều phụ tịch dương hoàn.
Trùng du ức khởi niên tiền sự,
Lăng cốc vô cùng nhất ỷ lan.
Tạm dịch :
Non trước, đồn sau, tên Đại Khánh,
Trước non rộng mở một thiền quan.
Thân vàng nửa lộ xem triều đại,
Đường cổ nghiêng nghiêng đổi thế gian.
Gậy chống, sư ngồi bàn đá dựng,
Củi về, tiều đợi ánh chiều tan.
Lại chơi, chợt nhớ chuyện năm cũ,
Một bóng bên hiên, núi ngút ngàn.
Tập trung nhiều thơ đề vịnh nhất có lẽ là núi Bàn A, huyện Thụy Nguyên, sau thuộc huyện Đông Sơn. ở đây, ngoài chùm tác phẩm của Ngô Thì Sĩ về Quan Lan sào gồm ký sự, minh, thi còn có nhiều thơ của nhiều tác giả khác về núi Bàn A. Sớm nhất là bài đề của Lê Hiến Tông năm Cảnh Thống 4, Tân Dậu (1501), sau đó là bài của Tĩnh Vương Trịnh Sâm, rồi đến một loạt bài xướng họa của các ông Đốc học Thanh Hóa Nguyễn Thuật, cựu án sát Thanh Hóa Nguyễn Tiêu, án sát sứ Tôn Thất, Bắc Kỳ kinh lược sứ Bùi Văn Dị... đề vịnh trong khoảng hai thập niên 80 và 90 của thế kỷ XIX. ở những bài thơ này các thi nhân thời Tự Đức, Thành Thái đều nhắc và nhớ Ngô Thì Sĩ:
Như thử kỳ phong tú thủy gian,
Siêu nhiên tiên cảnh quýnh nhân hoàn.
Tứ phương chiến phạt hà đa sự?
Cửu nhật đăng lâm tá nhất nhàn.
Hàn khởi mộ triều lai vạn lý,
Tình khai thu sắc nhập thiên san.
Khả lân phiến thạch đề thi xứ,
Cư sĩ phong lưu khứ bất hoàn.
Tạm dịch:
Nước tú non kỳ đẹp cảnh tiên
Nơi đây vời vợi cách trần gian.
Bốn phương chinh chiến sao nhiều việc,
Ngày chín lên cao mượn chút nhàn.
Rét nhẹ sóng triều về vạn dặm,
Trời trong thu sắc nhuốm muôn ngàn.
Thương sao phiến đá đề thơ ấy,
Cư sĩ đi rồi bỏ núi non.
(Bùi Văn Dị: Cửu nhật du Bàn A Sơn trình Nguyễn Hà Đình)
Trong một bài khác, cũng “ Lên núi Bàn A”, viết vào cuối thu năm Quý Mùi (1883), sau khi Tự Đức mất, Bùi Văn Dị không chỉ có “ cảm hứng đăng lâm” mà còn ngổn ngang nỗi niềm thế sự:
Nhật mộ phong hàn cô nhạn phi,
Thanh sơn lục thủy tứ y y.
Ban sư hữu chiếu tòng thiên hạ,
Thùy lão vô gia thử địa quy.
Thương hải vụ tinh sầu cực mục,
Đỉnh Hồ vân đoạn thế chiêm y.
Quan Lan cư sĩ kim hà tại?
Thả bạn sào biên phất điếu ky.
Tạm dịch:
Gió lạnh chiều buông chiếc nhạn bay,
Non xanh nước biếc tứ còn đây.
Lui quân có chiếu từ trời xuống,
Tuổi tác không nhà chọn đất này.
Biển thẳm mù tanh sầu ngút mắt,
Đỉnh Hồ mây dứt lệ tuôn đầy.
Quan Lan cư sĩ rày đâu tá ?
Phủi đá bên “sào” tựa điếu đài.
(Đặng Bàn A sơn)
Cũng có khi thi nhân không định khắc đá đề thơ, nhưng người đời sau thấy cảnh hợp tình, bèn đem thơ thi nhân khắc lên vách đá để "thi và cảnh cùng thọ với đất trời", như trường hợp bài thơ Du Bích đào động của Lê Quý Đôn được quan huyện Nga Sơn khắc lên vách động năm 1905:
Hải thượng quần tiên sự diểu mang,
Bích đào động khẩu cửu hoang lương.
Kiền khôn nhất yết cùng Từ Thức,
Vân thủy song nga lão Giáng Hương.
Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nhật,
Sa diên vô vị niết thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thùy thức Thiên Thai diệc hý trường.
Tạm dịch:
Nhà tiên trên biển, chuyện mơ hồ,
Cửa động Bích Đào dầm gió mưa.
Một vạt đất trời Từ Thức quẫn,
Đôi hàng mây nước Giáng Hương già.
âm vang trống đá mai chào nắng,
Vị nhạt muối đồng sương nhuốm thu.
Người thế, Thiên Thai mơ ước mãi,
Thiên Thai, đâu biết cũng trò đùa!
Nếu để tâm sưu tầm, chắc chắn giới nghiên cứu sẽ còn tìm được nhiều tác phẩm quý mà sách vở chưa đưa vào, hơn thế, từ những bài thơ vách đá này còn có thể cảm nhận được phần nào sự hưng suy của thế cuộc, sự cùng thông của vận nước, sự biến đổi của nhân tâm trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó quả là những tài sản văn hóa rất quý giá đáng được trân trọng, giữ gìn.
So sánh với thơ khắc đá, thể loại văn xuôi - bi ký - nhiều hơn. Số bia này rải rác khắp các huyện, nhưng dường như sự phân bố cũng có tính “chuyên đề” ở một mức độ nhất định. Chẳng hạn các huyện miền hạ lưu sông Chu, sông Mã và vùng lân cận TP. Thanh Hóa ngày nay, số bia về đình chùa cầu chợ nhiều hơn. Căn cứ vào những bài văn bia này có thể thấy chuyện mở chợ bắc cầu là những sự việc trọng đại trong cuộc sống người dân. Cầu không chỉ có ý nghĩa về mặt giao thông mà còn là nơi giao lưu văn hóa, là một cảnh quan của địa phương. Vì lẽ đó, dân cư góp tiền góp sức làm cầu đã đành mà các bậc quan cao, các vị hoàng hậu, công chúa, phi tần, cả các chúa Trịnh cũng hoặc phát tiền kho, hoặc bỏ bổng lộc riêng để bắc cầu cho dân. Tĩnh vương Trịnh Sâm bắc sáu chiếc cầu gỗ có mái ngói trên con đường nối Tây kinh và Đông kinh, là một sự kiện lớn trong năm Cảnh Hưng 33, Nhâm Thìn (1772); Đăng quận công Nguyễn Cự nối chí ông nội và cha làm chiếc cầu Cổ Bôn ở xã Phúc Triều, huyện Đông Sơn. Cầu khởi công từ tháng Năm năm Nhâm Dần, đến tháng Mười cùng năm thì hoàn thành. Nhân sẵn nguyên vật liệu và thợ thuyền, ông lại làm thêm ba chiếc cầu nữa: cầu Phúc Lai năm gian, cầu Hữu Nhưng ba gian và cầu Mỹ Ngọc ba gian. Những chiếc cầu này không chỉ có ý nghĩa giúp người ta khỏi phải “lụy đò” mà còn là những công trình nghệ thuật. Cầu Cổ Bôn “bắc 13 gian, như chiếc cầu vồng rực rỡ xà ngọc. Hai bên lan can gió mát, trên và dưới toàn bằng gỗ lim, mái lợp ngói sen vàng; cột chọc trời cao vời vợi, mái che trăng xòe cánh chim”. “Người ngồi trên cầu cảm thấy chót vót như được lên trời cao, trong tay ôm mặt trời đỏ; kẻ đi trên cầu cảm thấy phẳng lì như giẫm trên đất bằng, dưới chân đạp mây xanh”. Ngày lạc thành cầu, dân vui mừng khôn xiết, họ tri ân Đăng quận công và mong muốn công đức ấy, sự việc tốt đẹp ấy được ghi lại. Phùng Khắc Khoan Thượng thư Bộ Hộ, Tế tửu Quốc tử giám thể theo nguyện vọng của họ đã viết bài văn bia, có câu như sau: “Ta cho rằng ruộng phúc có tám hạng, bắc cầu là lớn nhất. Đối với ông, việc truyền nếp nhà bằng tích đức tụ phúc thì phúc đã có nền móng rồi vậy” Phúc Triền xã Cổ Bôn kiều bi). Bài văn bia được viết vào niên hiệu Hoằng Định (1601-1619). Không chỉ một mình Trạng Bùng viết văn bia về cầu, đồng thời với ông, còn có Tiến sĩ đệ nhị giáp Nguyễn Thực viết bia cho việc trùng tu cầu Phượng Hoàng, Tiến sĩ chế khoa Nguyễn Văn Nghi viết bia về việc trùng tu cầu Ngọc Khê năm Quang Hưng 5 (1582) và đến thời Thành Thái, Tiến sĩ Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thượng Phiên ca ngợi công đức người làm cầu và lợi ích của cầu nhân dịp làm cầu Nhiếp Vân... Bia về cầu còn rất nhiều, ngoài ra còn có cả bia về chợ Mỹ Quang ở huyện miền núi Quan Hóa, cho thấy việc buôn bán đông vui nhiều người góp tiền của đất đai, trong danh sách ấy có cả phu nhân của Trịnh Tráng. Các bia Văn chỉ tuy ít tính văn học nhưng đôi bài cũng cho biết những tục lệ tốt đẹp của địa phương, như tinh thần khuyến học của xã Quảng Chiếu được thể hiện trong bia Văn hội khoán lệ điền thổ. Lệ quy định người trong xã đỗ Tiến sĩ được Văn hội sửa lễ mừng 12 quan tiền; đỗ Cử nhân mừng 6 quan, đỗ Tú tài mừng 4 quan...
Bộ phận bia về chùa phong phú hơn và cũng xuất hiện sớm hơn. Ngay từ thời Lý Trần, trong số chừng hơn 30 bia của cả nước (số lượng còn lại hiện nay được biết), Thanh Hsa đã chiếm 7 và 6 văn bản đã là những tác phẩm văn học được đánh giá cao. Đó là các bia: An Hoạch sơn Báo ân tự bi ký của Chu Văn Thường khắc năm 1100; Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh của sư Pháp Bảo soạn năm 1118; Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự khắc năm 1125; Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh dựng năm 1126; Sùng Nghiêm tự Vân Lỗi sơn Đại Bi của Phạm Sư Mạnh viết năm 1372; Hưng Phúc tự bi viết năm 1324. Bốn văn bia đời Lý có thể cho biết trong khoảng vài thập niên đầu thế kỷ XII đạo Phật ở Thanh Hóa đã rất được chú ý. Các nhân vật quan trọng trong chính giới đương thời như Lý Thường Kiệt, Lưu Khánh Đàm, Thông phán họ Chu, người kế nhiệm Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa, đều rất sùng đạo Phật. Dưới sự bảo trợ của các ông, chỉ trong vòng chừng hai chục năm, bốn ngôi chùa (Báo Ân ở An Hoạch, Sùng Nghiêm ở Thọ Hạc, Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn, Hương Nghiêm ở núi Càn Ni) đã được xây dựng lộng lẫy, quy mô khang trang, cảnh trí thanh kỳ, trở thành những nơi tụ hội đông đảo, sinh hoạt văn hóa. Có thể xem đó là những công trình kiến trúc tạo được sự hòa hợp với tự nhiên, trở thành một bộ phận làm tăng vẻ tráng quan của tự nhiên. Phải chăng từ đó có thể đoán định rằng đạo Phật lúc này - thế kỷ XII - mới thật sự có chỗ đứng vững chắc ở Thanh Hóa (?). Có điều các văn bia trên không chỉ bàn riêng về đạo Phật. Ngoài phần mở đầu ngắn ca ngợi cái “diệu lý” của nhà Phật, ca ngợi công đức lớn lao của Phật, ý nghĩa của việc làm chùa - để thể hiện lòng hướng về Phật, để tiếng chuông tiếng khánh, câu kệ câu kinh thức tỉnh chúng sinh thoát khỏi vòng mê muội - bài văn bia dành một phần lớn chữ nghĩa ngợi ca công đức vị đại tín chủ. Chính từ dung lượng nội dung này mà nhiều nét tiểu sử của Lý Thường Kiệt, Thông phán họ Chu, Trấn quốc Bộc xạ họ Lê đã được biết đến. Lý Thường Kiệt có công phá Tống bình Chiêm, điều hành tốt chính sự ở Thanh Hóa, chẳng những là một tướng cầm quân giỏi mà còn là một quan cai trị tài ba, nhân ái.Vua yêu quý phong ông làm “Thiên tử nghĩa đệ’ (em nuôi vua); dân trọng vọng ông, coi ông là bậc ân nhân. Thông phán họ Chu cũng là “bậc hiền lương làm nên công tích”, Trấn quốc Bộc xạ Lê công được tin cậy dưới thời Đinh Tiên Hoàng, là người tổ chức làm chùa... Có điều, trong khi làm chùa xây tháp, các ông đều không quên một niềm ước nguyện: dân yên vật thịnh, vận nước dài lâu, đức vua muôn tuổi. ý nguyện “tự giác giác tha” của một tín đồ đạo Phật và trách nhiệm giáo hóa của một quan chức uyên thâm kinh điển Nho gia nơi các ông dường như ranh giới rất mờ nhạt. Có thể đó cũng là một trong những biểu hiện của tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” của thời đại.
Về mặt văn chương, bốn bài “bi ký” này đều đã đạt đến trình độ nghệ thuật, lời văn dào dạt tình cảm, nhiều đoạn tự sự giàu hình ảnh và sinh động, chứng tỏ văn xuôi chữ Hán đời Lý ngôn ngữ đã trong sáng, cú pháp già dặn, có khả năng gợi tả thành công chân dung nhiều nhân vật lịch sử. Đó cũng là nét độc đáo của văn bia chùa đời Lý. Sang những thế kỷ sau, đặc tính này sẽ nhạt hơn, những vấn đề về giáo lý, cảm quan Phật giáo giảm đi mà chất Nho học có phần tăng lên. Ngoài ra mỗi bài văn bia về chùa thường là một bài ký phong cảnh hoặc ghi chép về những sự kiện có quan hệ mật thiết với ngôi chùa ấy và tác giả thường bộc lộ cảm hứng khi du ngoạn. Bài văn bia của Phạm Sư Mạnh đề trên núi Vân Lỗi khá tiêu biểu cho loại này. Ngoài Hiệp Thạch sau khi ca ngợi sự uyên áo của Dịch lý, đã nói đến sự giáo hóa bằng hình tượng. Và điểm này chính là dấu nối, là sự hòa đồng giữa Phật và Lão và Nho. Có điều, mặc dù chủ ý làm chùa vẫn nhằm mục đích “sớm chiều cầu đảo cho cơ đồ nhà vua bền vững, thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi”, nhưng hứng thú cá nhân khi “đăng lâm” cũng đã là một nhân tố quan trọng. Sở dĩ có ngôi chùa trên núi Vân Lỗi, có tượng Tam Thế, Đại Bi được đúc “toàn bằng vàng” chính là do Hòa thượng chùa Khánh Lâm “nhân thừa hứng du ngoạn, thấy núi Vân Lỗi bốn bề tươi tốt, trong lòng ưa thích, bèn mở núi bạt rừng, xây dựng vài am”. Sự lựa chọn thế đất của Hòa thượng không nhằm vào nơi am thanh cảnh vắng mà lại chú ý “lấy chốn tụ họp đông người” và thế đất đẹp, theo quan niệm phong thủy. “Lỗi Sơn là chủ các núi”, bốn phương giới hạn đều là cảnh dân cư thịnh đạt: “Phía Đông có xóm làng, nhà cửa đông đúc, có thể làm thành sự giàu có của các nhà hào phú; phía Nam nhìn ra cửa sông lớn đổ vào biển, có thể làm nên chốn mênh mang của thế giới; phía Tây có sông Kinh, nguồn mạch thông tới hương Đại Lợi núi Ma Ni, phía bắc có đường dẫn tới cửa biển Thần Đầu, có thể làm nơi dừng nghỉ của người qua kẻ lại”.
Một phong cảnh như thế khiến cho Phạm Sư Mạnh sau khi viết bài bia ghi việc, cũng cảm hứng đề thơ:
Môn sâm lịch tỉnh thướng vân đoan,
Thân tại bích tiêu Ngân hán gian.
Hạ thị kình đào thiên vạn lý,
Trường thiên phù thủy thủy phù san.
(Trèo mây tay với trăng sao,
Thân nơi sông Bạc, tầng cao xanh mờ.
Cúi nhìn muôn dặm sóng xô,
Nước lưng trời thẳm, non phô mặt duềnh)
(Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ)
Sau Phạm Sư Mạnh, xu hướng này khá phong phú. Những bài bia về đình chùa đền miếu thường thể hiện rõ nét cảm hứng sáng tạo và cảm xúc trữ tình của tác giả. Phạm Bành Quý Trạm viết bài ký về chùa Cam Lộ đã miêu tả cảnh móc ngọt giáng xuống khu vực chùa như một huyền thoại rất sinh động:
“... Phía đông chùa là phòng tăng, phía trước về bên trái là miếu thờ thần, bên phải là đền thờ Đao quận công. Non xanh nước biếc phô dáng thanh phía trước chùa, cây lâu năm xòe tán xanh, hoa mới nở phô vẻ đẹp, cũng là một danh lam vậy. Tháng Bảy mùa thu năm Mậu Thìn có móc ngọt giáng xuống mé đông chùa. Điều này từ khi làm chùa đến nay mới thấy. Ngày 14 tháng ấy, ni sư trụ trì ở chùa đến nói rằng: Đêm mồng sáu rạng ngày mồng bảy, phương tây trăng vừa lặn, trời quang không gợn mây, chợt nghe trong lùm cây có tiếng như sương rơi nặng hạt. Đến sáng nhìn xem thì phía sau phòng tăng từ mé đông bắc chuyển qua mé tây, trên một khoảnh đất ước chừng nửa mẫu, không phải sương, không phải khói, nhưng là một làn khí mờ mờ bao phủ, đến trưa cũng không tan. Từ cây to đến cọng cỏ đều được tưới nhuần, trên cây sương còn đọng thành keo, vị ngọt như mật. Nhưng ngoài khoảnh đất ấy ra thì chẳng có gì kỳ lạ cả. Suốt ngày, từ sáng đến tối ong bướm kéo đến hút mật, vu vu u u như tiếng đàn cầm của trời đất rót vào tai vậy”.
(Hậu Lộc huyện Trường Xá xã ấp tự cam lộ ký)
Nhiều bài văn bia được viết rất công phu, không những chỉ có cảm hứng thưởng ngoạn mà còn thể hiện tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa. Ví như bài bia về núi Đồng Cổ của Nguyễn Văn Giai, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580), Thượng thư Bộ Lại. Ông viết: “Núi Đồng Cổ cũng là một danh sơn, nơi thần giáng, vạn cổ anh linh còn mãi... Vì đánh trống đồng, phá giặc tại trận, biểu hiện là thần có công, vì thế đặt tên cho miếu (...). Núi phía dưới giữ vững cõi đất, phía trên là cột chống trời, cao át các núi, chung đúc anh linh muôn đời...” (Đan Nê xã, Đồng Cổ sơn miếu bi). Hoặc như bài bia viết về việc trùng tu chùa Du Anh của Phùng Khắc Khoan, hay bài bia về đình Mỹ Tân của Hoàng Thận Hiên. Các ông đều nêu bật vẻ độc đáo của thắng cảnh mình đề cập đến trong bài văn bia. Nếu trong chùa Du Anh các vị Phật là “Phật tức Tiên”, cùng với các Tiên nhưng “Tiên là Phật” trong động Hồ Công tạo nên vẻ đẹp, sức cuốn hút các thi nhân của vùng Thiên Vực, Vĩnh Lộc thì ngôi đình Mỹ Tân lại là “công đường của hương đảng”, là ngôi đình của dân. Theo Hoàng Thận Hiên thì đó là điều Trung Quốc xưa không có. Đời Thành Chu có các “sở” để tụ hội tân khách, họp mặt phân chia thứ bậc trong làng trong họ. Đến đời Tần Hán mới có trường đình, đoản đình, dịch đình, đình có đình trưởng, về sau thì sơn, thủy, dã (đồng nội), viên (vườn) đều có đình, nhưng đều là nơi dừng nghỉ khi du ngoạn, chưa từng nghe có đình họp dân. Nước ta từ xưa, dân xã ngoài chùa, miếu còn lập một nơi để hội họp bàn bạc gọi là đình. Tuy chưa viết thành văn để giải thích nhưng đại để chữ đình hiểu theo nghĩa “nơi an định của dân”. Trong hương đảng, đình chính là nơi để bàn bạc, công bố việc phải việc trái, việc nên việc không đó vậy” (Quảng Tế huyện, Mỹ Tân đình bi). Quả là một phát hiện tinh tế và chính xác của Hoàng Thận Hiên. Cũng là một ngôi đình, nhưng “phong tục Bắc Nam có khác”, ngôi đình Việt Nam chính là nơi còn bảo tồn được những sinh hoạt cộng đồng làng xã, có thể là nơi đã lưu giữ được chút ít tinh thần dân chủ của công xã nông thôn thời xưa (?).
Trái với xu hướng thưởng ngoạn, qua nhiều đề tài của văn bia các huyện, văn bia huyện Thọ Xuân lại chủ yếu chuyên về lăng mộ, từ đường và tập trung vào hai dòng họ vua Lê chúa Trịnh cùng các công thần nhà Lê. Đáng chú ý nhất là vườn bia xã Lam Sơn. Trong vườn bia này, trừ bia Văn chỉ, các bia khác đều là bia về hoàng tộc nhà Lê: bia Vĩnh Lăng (lăng Lê Lợi), do Nguyễn Trãi soạn, là bia sớm nhất, tạo năm 1433; bia Hựu lăng (lăng Thái Tông) do Hàn lâm viện Thị độc Nguyễn Thiên Tích soạn, tạo năm 1442; bia Chiêu lăng (lăng Thánh Tông) do Tiến sĩ Thân Nhân Trung, Thượng thư Bộ Lại, Đông các Đại học sĩ soạn năm 1498; bia Khôn Nguyễn chí đức chi lăng (lăng bà Ngô Thị Ngọc Dao) do Nguyễn Bảo, Tả thị lang Bộ Lễ và Nguyễn Xung Xác, Chưởng Hàn lâm viện sự soạn năm 1498; bia Cảnh Thống đề thi khắc bài thơ Lê Hiến Tông ca ngợi phụ hoàng Lê Thánh Tông cũng làm năm 1498; bia Dụ Lăng (lăng vua Hiến Tông) do ba vị Đông các Đại học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp (Tiến sĩ năm 1466), Phạm Thịnh (Tiến sĩ năm 1478), Trình Chí Sâm (Tiến sĩ năm 1487) soạn, dựng năm 1504. Những bài văn bia này được viết với cảm hứng sử thi, nhằm ca ngợi các vị vua có nhiều công tích. Tác giả của chúng đều là các bậc khoa bảng mà tài học, tài văn chương nổi tiếng một thời. Khác với loại bi ký chúng tôi đã trình bày ở trên, mỗi bài văn bia ở Lam Kinh là một tiểu truyện. Bia Vĩnh Lăng là tiểu truyện Lê Lợi, song với tài năng của ngòi bút đại gia, Nguyễn Trãi không những đã viết đầy đủ tiểu sử mà còn trình bày một cách rất súc tích và minh xác công tích của Lê Lợi đối với cuộc kháng chiến chống giặc Minh giành độc lập của dân tộc ta thế kỷ XV. Lê Lợi là một lãnh tụ, một anh hùng và nhà chiến lược tài ba:
“Tuy gặp thời loạn mà chí lớn càng bền, giấu mình ở Lam Sơn làm nghề cày cấy. Vì giận giặc tàn bạo, càng chuyên tâm vào sách lược thao, dốc hết của nhà khoản đãi tân khách.
Năm Mậu Tuất dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mũi nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Năm Đinh Mùi giặc gửi viện binh, An Viễn hầu Liễu Thăng đem mười vạn quân do Quảng Tây tiến, Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem năm vạn quân do Vân Nam tiến. Một trận Chi Lăng, Liễu Thăng nộp đầu, chém quân giặc hơn mấy vạn tên, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn ba trăm người và hơn vạn binh sĩ. Sắc mệnh và binh phù bắt được của Liễu Thăng gửi đến quân Vân Nam, Mộc Thạnh trông thấy nhân đêm chạy trốn, giặc bị chém đầu và bị bắt sống không biết bao nhiêu mà kể(8). Văn bia Vĩnh Lăng viết về “truyện” của Lê Lợi nhưng lại là một thiên sử toát yếu về công cuộc kháng chiến đuổi giặc Minh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta, được Nguyễn Trãi viết rất tài tình. Nguyễn Trãi là người đương thời, những sử kiện ông ghi lại có độ tin cậy cao. Hơn thế, viết bài văn bia này, Nguyễn Trãi đã sử dụng bút pháp chép sử, bài văn không có phần “minh” tụng ca, ngôn ngữ cũng giản dị, cô đọng, không dùng bút pháp khoa trương thể phú... Chính vì vậy có thể xem văn bia Vĩnh Lăng là một tài liệu tín sử, góp phần minh xác và bổ sung cho chính sử thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn.
Trong vườn bia Lam Sơn, bia Vĩnh Lăng là hiện tượng độc đáo. Các văn bia Chiêu Lăng, “ Khôn nguyên chi đức lăng”, Dụ lăng lại được viết với bút pháp khác, gần với ký văn học. Ba bài văn bia này đều trên dưới 3.000 chữ; cuối văn bia Lê Thánh Tông có bài minh gồm 117 câu, bài minh bia Lê Hiến Tông gồm 110 câu(9). Các bài văn bia này viết kỹ về hành trạng nhân vật, thu thập nhiều huyền thoại, văn chương diễm lệ mang tính ngợi ca. Dù vậy, tinh thần xác thực lịch sử vẫn được tôn trọng ở những sự kiện chính yếu, vì thế, các tác giả đã cung cấp cho người đọc đương thời và hậu thế chân dung các nhân vật lịch sử khá rõ nét, thực và trên nhiều phương diện đạt đến vẻ đẹp nghệ thuật.
Thọ Xuân còn nhiều văn bia thuộc loại viết về hành trạng, ví như bia về bà Minh Phi vợ vua Lê Anh Tông, bia về bà Kính Phi vợ vua Lê Thánh Tông (do Lương Thế Vinh soạn), bia về các công chúa Thụy Hoa, Thiều Dương (con gái Lê Thánh Tông), bia Cảo lăng (Lê Huyền Công), bia sự tích Tướng công Lê Phúc Toàn, bia về bà Đàm Thị Ngọc Điều, cung tần của chúa Trịnh Tạc... nhưng về dung lượng phần nhiều chưa đạt đến quy mô các bia tiêu biểu ở Lam Sơn. Ngoài ra, ở các huyện khác, tuy ít nhưng cũng rải rác có một số bia ghi hành trạng nhân vật, và một số do các đại gia soạn thảo. Chẳng hạn ở Đông Sơn có hai bia về Mãn quận công Lê Trung Nghĩa do Bảng nhãn Lê Quý Đôn soạn thảo. Trong đó bài minh ở bia đền thờ hậu tuy ngắn nhưng rất giàu chất thơ: Bỉ sơn chi Đông, Hữu thạch trùng trùng; Miếu mạo kỳ địa, Càn khôn vô cùng (Núi kia sườn Đông, Có đá chất chồng; Nơi dựng đền miếu, Đất trời vô cùng - Nhuệ thôn hậu thần Mãn quận công từ bi). Ở Hà Trung có bài bia của Nhữ Đạm Trai (tức Nhữ Bá Sĩ) viết về hành trạng Lý Thường Kiệt (Lý Thường Kiệt Ngưỡng Sơn miếu bi tính minh); ở Hậu Lộc có bài của ông viết về hành trạng bà Triệu (Hậu Lộc Phú Điền xã thần từ di tích). Là một nhà sử học, Nhữ Bá Sĩ đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu, từ chính sử của Quốc sử quán đến các cuốn sử tư gia, có sử địa phương Trung Quốc (như Quảng Đông tân ngữ) và truyền thuyết dân gian để khắc họa hình tượng hai vị anh hùng dân tộc. Ở bài Ngưỡng sơn miếu bi, hình tượng Lý Thường Kiệt vừa bảo đảm được tính xác thực của một nhân vật lịch sử có thật lại vừa đạt đến độ phong phú giàu mỹ cảm của nhân vật anh hùng của văn học. Với bà Triệu, ngòi bút của Nhữ Bá Sĩ phóng khoáng hơn và ông đã có một nhân vật nữ anh hùng thật đẹp. Đẹp vì một tư tưởng lớn:
“Có người bàn về việc chồng con, ẩu than rằng:
- Bọn nam nhi đầy trước mắt đều chịu để cho người phương Bắc trói buộc đè nén như đối với tôi tớ lẽ mọn, ta lấy ai đây ?
Bèn ở vậy không lấy chồng”.
Và đẹp vì một hình thức oai phong rất con gái nhưng cũng rất hào hùng:
“Khoảng năm Xích Ô nhà Ngô, quận lại bạo ngược, dân chúng không chịu nổi, ẩu uất giận buộc tóc nổi dậy, họp chúng kết đảng ở trong núi Bồ Điền, đánh cướp các quận huyện. Bà thường mặc áo vàng đi dép ngà, cưỡi voi trắng, hô to truyền lệnh chiến đấu. Quân địch trông thấy liền chạy trốn, tan vỡ” (Hậu Lộc Phú Điền xã thần từ di tích).
ở Thanh Hóa số bia được viết theo dạng thức này cũng còn khá nhiều, như: Quảng Nam phủ thư Bố chánh Nguyễn Điềm Trai tuẫn tiết sự bi, nói về Nguyễn Điềm Trai giữ thành Thái Nguyên bị quân Thanh vây hãm, mất thành tuẫn tiết; Vĩnh Lộc huyện bi nói về ba người tiết nghĩa trong huyện: Định niết sứ Cao Bằng Hoàng Tạo, Tri phủ Nam Sách Nguyễn Lữ và Thái phiên Biện hạ Nguyễn (Điềm Trai), Mã đồng từ miếu nói về người giám mã của Chiêu Thống...
Nhìn chung lại, Thanh Hóa có một “vườn bia” phong phú, nhiều bia cổ, nhiều chủng loại, nhiều bài văn bia đạt đến trình độ nghệ thuật, là một kho tác phẩm quý của thể loại văn bia Việt Nam. ở đây giới nghiên cứu có thể khai thác được nhiều tư liệu quý về sử học, phong tục học, dân tộc học, văn học và nhiều vấn đề kinh tế, chính trị khác. Chính vì giá trị tàng trữ quý giá như vậy, chúng tôi hy vọng rằng “vườn bia” Thanh Hóa sẽ được giữ gìn, sưu tập và tổ chức khai thác tốt trong một thời gian gần đây.
Hà Nội mùa xuân năm Rồng (2000).
CHÚ THÍCH
(1) Trong quan niệm của người thời Trung đại “sự thực” đôi khi bao gồm cả những truyền thuyết, huyền thoại... mà họ tin là có thực.
(2) Ký hiệu Thư viện Hán Nôm VHv.1739.
(3) Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.
(4) Trong sách này, Quan Lan sào thập cảnh thi được tính là một đơn vị.
(5) Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội 1977.
(6) Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.
(7) Tập I, école Franỗaise d’Extrême - Orient - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris - Hà Nội, 1998.
(8) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1976, in lần thứ hai, Văn Tân dịch.
(9) Theo thống kê của Văn khắc Hán Nôm, Sđd.
|