TT | Khoa thi | LTĐKL | Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh |
1 | Cảnh Thống 2 (1499) | Nguyễn Bá Tuấn: người huyện Vũ Ninh (VHv. 2140/1, tờ 47b) | Xã Văn Phong huyện Vũ Ninh (No.4934) |
2 | Cảnh Thống 2 (1499) | Nguyễn Hùng Lãm: người huyện Quế Dương (VHv.2140/1, tờ 49a) | Xã Đô Đàn huyện Quế Dương (No.4934) |
3 | Cảnh Thống 2 (1499) | Lê Đình Tấn: người huyện Vũ Ninh (VHv. 2140/1, tờ 50a) | Xã Đông Viên huyện Vũ Ninh (No. 4934) |
4 | Đoan Khánh 4 (1508) | Nguyễn Côn: Người huyện Tiên Du (VHv. 2140/1, tờ 7a) | Xã Nội Duệ huyện Tiên Du (No.4935) |
5 | Sùng Khang 3 (1568) | Nguyễn Hy Lương: người huyện Lương Tài (VHv. 2140/1, tờ 48b) | Xã Uyên Lãng huyện Lương Tài (No.4937) |
Đính chính địa danh tên huyện cho 4 nhà khoa bảng |
TT | Khoa thi | LTĐKL | Bia đề danh tiến sĩ văn miếu hà nội | Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh |
1 | Thánh Nguyên 1 (1400) | Vũ Mộng Nguyên: người xã Viên Khê huyện Đông Sơn (VHv. 2140/1, tờ 8a | (chưa có bia) | Xã Đông Sơn huyện Tiên Du. (No.4932) |
2 | Hồng Đức 21 (1490) | Đỗ Công Cẩn: người xã Tiên Phong huyện Tiên Phong (VHv.2140/1, tờ 39a) | (chưa có bia) | Xã Tiên Trà huyện Yên Phong (No.4934) |
3 | Diên Thành 3 (1580) | Nguyễn An: người xã Đông Xuyên, huyện Tiên Phong (VHv. 2140/1, tờ 56b) | (chưa có bia) | Xã Đông Xuyên huyện Yên Phong. (No.4937) |
4 | Bảo Thái 2 (1721) | Nguyễn Đăng Giai: người xã Hương Triện, huyện Gia Lâm (VHv. 2140/3, tờ 48a) | Xã Hương Triện, huyện Gia Định (No.1379) | Xã Hương Triện huyện Gia Định. (No.4940) |
Cung cấp thông tin về sự thay đổi địa danh tên xã cho 14 nhà khoa bảng (tức ghi địa danh vào thời điểm lập bia) |
TT | Khoa thi | LTĐKL | Bia đề danh tiến sĩ văn miếu hà nội | Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh |
1 | Quang Thuận 7 (1466) | Ngô Lôi: người xã Phù Khê (VHv.2140/1, tờ 15a) | Xã Phù Khê (No.1316) | Xã Phúc Khê (No.4932) |
2 | Hồng Đức 9 (1478) | Nghiêm Phụ: người xã Lan Độ (VHv.2140/1, tờ 24a) | Xã Lan Độ (No.1313) | Xã Quan Độ (No.4933) |
3 | Hồng Đức 9 (1478) | Ngô Trinh Chấp: người xã Xuân Lôi (VHv.2140/1, tờ 25a) | Xã Xuân Lôi (No.1313) | Xã Thụy Lôi (No.4933) |
4 | Hồng Đức 15 (1484) | Tạ Tài: người xã Tùng Hộ (VHv.2140/1, tờ 30a) | (chưa có bia) | Xã Lâm Hộ (No.4933) |
5 | Hồng Đức 24 (1493) | Đỗ Tuy: người xã Chu Cầu (VHv.2140/1, tờ 43b) | (chưa có bia) | Xã Ngọ Cầu (No.4934) |
6 | Thống Nguyên 5 (1526) | Nguyễn Văn Hiến: người Xã Cẩm Xá (VHv.2140/1, tờ 20a) | (chưa có bia) | Xã Đặng Xá (No.4935) |
7 | Thống Nguyên 5 (1526) | Nguyễn Xưởng: người xã Ngô Đồng (VHv.2140/2, tờ 21a) | (chưa có bia) | Xã Ngô Cương |
8 | Minh Đức 3 (1529) | Nguyễn Doãn Địch: người xã Hoàng Phỉ (VHv.2140/2, tờ 22b) | Xã Hoàng Vân (No.1305) | Xã Hoàng Vân (No.4936) |
9 | Đại Chính 3 (1532) | Nguyễn Địch Khang: người xã Vĩnh Thế (VHv.2140/2, tờ 24a) | (chưa có bia) | Xã Tư Thế (No.4936) |
10 | Đại Chính 6 (1535) | Nguyễn Thừa Hưu: người xã Vĩnh Thế (VHv.2140/2, tờ 26a) | (chưa có bia) | Xã Tư Thế (No.4936) |
11 | Quang Bảo 2 (1556) | Trần Đạo Tiềm: người xã Hương ổ (VHv. 2140/2, tờ 42a) | (chưa có bia) | Xã Xuân ổ (No.4937) |
12 | Diên Thành 3 (1580) | Nguyễn Đán: người xã Khánh Duệ (VHv.2140/2, tờ 55b) | (chưa có bia) | Xã Nội Duệ (No.4937) |
13 | Diên Thành 6 (1583) | Lê Minh: người xã Thanh Liễu (VHv.2140/2, tờ 58a) | (chưa có bia) | Xã Thanh Da (No.4937) |
14 | Vĩnh Trị 1 (1676) | Chu Danh Tể: người xã Thụy Ninh (VHv.2140/3, tờ 27a) | Xã Thụy Ninh (No.1327) | Xã Mật Ninh (No.4939) |
Cung cấp thông tin về 7 nhà khoa bảng thời Trần. 7 vị này đã được TS. Nguyễn Thúy Nga công bố trong cuốn Nghiên cứu văn bản học Đăng khoa lục Việt Nam(10), đều khắc ở bia “Phụ ký” (No.4942) |
TT | Họ tên | Quê quán | Năm đỗ |
1 | Trần Đăng Tập | Xã Bình Lâm huyện Yên Phong | Thái học sinh năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long (1266) |
2 | Đào Toàn Mân | Xã Song Khê huyện Yên Dũng | Thái học sinh (chưa rõ năm) |
3 | Đặng Xuân | Xã Sơn Đông huyện Quế Dương | Trạng nguyên (chưa rõ năm) |
4 | Nguyễn Công Cao | Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang | Thái học sinh (chưa rõ năm) |
5 | Đỗ Mỹ | Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang | Thái học sinh (chưa rõ năm) |
6 | Nguyễn Kiều | Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang | Thái học sinh (chưa rõ năm) |
7 | Hoàng Công Trù | Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang | Thái học sinh (chưa rõ năm) |
Câu Kiều số | |
1. Liêu Dương: Quê Kim Trọng, huyện thuộc tỉnh Liêu Ninh | 533 - 2742 |
2. Bắc Kinh: Nơi ở của gia đình Thúy Kiều | 289 |
3. Lâm Thanh: huyện phía Bắc tỉnh Sơn Đông | 626 - 2828 - 2881 |
4. Lâm Tri: huyện phía Nam tỉnh Sơn Đông | 920, 1276... 2986 |
5. Châu Thai: Phủ Thai Châu thuộc tỉnh Giang Tô | 2105, 2108, 2921 |
6. Dương Châu: tức Châu Dương thuộc tỉnh Giang Tô | 2950 |
7. Thường Châu: tức Châu Thường, phủ thuộc tỉnh Giang Tô | 1277 |
8. Vô Tích: huyện thuộc phủ Thường Châu tỉnh Giang Tô | 1277 - 2291... |
9. Hàng Châu: thủ phủ tỉnh Chiết Giang | 2957 |
10. Nam Bình: huyện thuộc tỉnh Phúc Kiến | 2949 |
11. Phúc Kiến: Tỉnh phía nam Trung Hoa, trên tỉnh Quảng Đông | 2594 |
12. Chiết Giang: Tỉnh phía trên Phúc Kiến | 2594 |
13. Sông Tiền Đường: đoạn chảy qua Hàng Châu | 999 - 2619 - 2691... 2985 |
VỀ NĂM BẢN NGUYỄN XUÂN DIỆN Theo Hán ngữ đại từ điển: “Nhạc chương xưa chỉ những thơ, từ phối vào nhạc, sau cũng phiếm chỉ những thơ, từ có thể phổ vào nhạc (樂 章 古 代 指 配 樂 的 詩 詞 , 後 亦 泛 指 能 入 樂 的 詩 詞 = Nhạc chương, cổ đại chỉ phối nhạc đích thi từ, hậu diệc phiếm chỉ năng nhập nhạc đích thi từ). Theo Từ nguyên: “Khúc lễ, Kinh Lễ: Khi hết tang thì đọc nhạc chương. Sớ: Nhạc chương là gọi các bài của Nhạc thư. Là thơ vậy (禮 , 曲 禮 : 喪 復 常 讀 樂 章 . 疏 : 樂 章 謂 樂 書 之 篇 章 , 詩 也 = Lễ, Khúc lễ: tang phục thường độc nhạc chương. Sớ: Nhạc chương, vị Nhạc thư chi thiên chương, thi giã). Trần Hạo trong Lễ ký tập thuyết khi chú từ Nhạc chương đã viết: “Nhạc chương là thơ phổ vào ca nhạc vậy (樂 章 絃 歌 之 詩 也 = Nhạc chương, huyền ca chi thi dã). (Tứ thư ngũ kinh, quyển trung - Trung Quốc thư điếm xuất bản, 1996, tr.18). Mục từ Nhạc chương được ghi nhận trong Từ hải, mục Nhạc chương tập, Nhạc thư trong Từ nguyên cũng với nội dung: Nhạc chương là chỉ về phần lời của một làn điệu âm nhạc được dùng trong các giáo phường, hoặc trong các nghi lễ. Nhìn chung lại, nhạc chương là các bài thơ (câu thơ) hay bài từ thuộc về ca từ (phần lời) của các bản nhạc được dùng trong các nghi lễ tế tự, triều hội, yến ẩm, khánh hạ...(được diễn ra khi không còn tang sự). Nghiên cứu về Nhạc chương, do vậy, không chỉ là tìm hiểu về các thể văn chương cổ, về ca nhạc mà còn về nghi lễ, phong tục trong đời sống văn hóa trong quá khứ. 1. Ở Việt Nam, tài liệu xưa nhất cho biết về việc viết ca khúc là Việt sử lược, ghi chép về Lý Nhân Tông là người “rất giỏi âm luật, những ca khúc mà nhạc công tập đều do vua thân hành sáng tác”. Tuy nhiên Việt sử lược không cho biết về tên gọi của làn điệu hoặc trích dẫn ca từ của các ca khúc do Lý Nhân Tông soạn. Về đời Trần, qua An Nam chí lược của Lê Trắc, ta biết được tên của một số điệu hát: Nam thiên nhạc, Ngọc lâu xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu trường. Sách Sứ Giao Châu tập của Trần Cương Trung cho biết có các ca khúc: Trang Chu mộng điệp, Bạch Lạc Thiên mẫu biệt tử, Vi Sinh Ngọc tiêu đạp thanh ca. An Nam chí lược còn cho ta biết một thông tin hết sức thú vị, đó là ngoài ca khúc Trung Quốc, ta cũng dùng thổ ngữ làm các ca khúc để tiện ngâm nga. Về thời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức 26 (1495) nhân thời tiết thuận hòa, được mùa lớn, trong nước thanh bình, nhà vua làm 9 bài: Phong niên, Quân đạo, Thần tiết, Minh lương, Anh hiền, Kỳ khí, Thư thảo, Văn nhân, Mai hoa. Sau đó chín bài thơ này được ghép vào khúc hát nên gọi là Quỳnh uyển cửu ca. Những bài thơ chữ Hán này, là các ca khúc bằng chữ Hán được tấu lên cùng nhã nhạc và biểu diễn trong cung đình thời Lê Hồng Đức thịnh trị. Như vậy, ca khúc đã có từ đời Lý, rất thịnh vào đời Trần (với các bản ca khúc, được viết bằng thổ ngữ - có thể là chữ Nôm Việt chăng?); nhưng chúng ta không còn biết được ca từ. Các ca khúc thời Hồng Đức trong Quỳnh uyển cửu ca tuy chưa bao giờ được gọi là nhạc chương nhưng có thể xem như những ca khúc sớm nhất được biết cả phần lời. 2. Về năm bản nhạc chương đời Lê mới phát hiện: 2.1 Dựa vào chỉ dẫn của Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, chúng tôi tiến hành thâm nhập văn bản Cố Lê nhạc chương thi văn tập lục (gồm hai ký hiệu A.1186 và VHv.2658) thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây cũng là nhóm văn bản nhạc chương đời Lê duy nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm; và đặc biệt hơn nó lại được viết bằng chữ Nôm. A.1186 là bản xưa hơn VHv.2658; trên văn bản có dấu của Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp, và là bản chép tay trên giấy bản cũ, chữ dễ đọc, đã được chấm câu. Các bản nhạc chương được chép trong các trang từ 1a đến 3b. Tên sách có hai chữ “Cố Lê” (故 黎) cho thấy nó được sao chép lại khi nhà Lê đã mất (tức là khoảng thời gian được tính từ sau năm 1788). Bản VHv.2658 cũng là bản chép tay và là Phụ bản của Thư viện khoa học xã hội, sao từ bản A.1186. Các bản nhạc chương được chép trong các trang từ 1a đến 4a. Hai văn bản này không có sự sai khác gì đặc biệt. Mở đầu phần chép nhạc chương có dòng chữ “Phụng nghĩ nhạc chương ngũ đạo, do quốc âm” (奉 擬 樂 章 五 道 , 由 國 音: Vâng mệnh soạn nhạc chương năm đạo, bằng quốc âm). Ghi chép ấy cho biết các nhạc chương này đã được biên soạn theo lệnh của vua chúa. Những nhân vật được nhắc tới và ca tụng trong các bản nhạc chương đều là các tiên liệt dòng chúa Trịnh và đều được gọi bằng tôn hiệu. Cụ thể như sau: - Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn (ở ngôi chúa từ năm 1682 đến 1709). - Lương Mục vương Trịnh Vĩnh (là con trưởng của chúa Trịnh Căn), mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa. - Tấn Quang vương Trịnh Bính (là con trưởng của Lương Mục Vương và là cha của chúa Trịnh Cương). Mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa. - Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (ở ngôi chúa từ năm 1709 đến 1729). - Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (ở ngôi chúa từ năm 1740 đến 1767). Tiểu sử và sự nghiệp của các tiên liệt họ Trịnh hiện lên trong các bản nhạc chương với lối ước lệ và khoa trương trong âm hưởng tụng ca, nhưng không phải là không hé mở những chi tiết đáng lưu ý xung quanh hành trạng các nhân vật này. Các bản nhạc chương tấu trong nghi lễ ở cung miếu họ Trịnh được viết bằng chữ Nôm là điều ít ngờ tới. Song, còn ngạc nhiên hơn, khi chúng ta biết các tác giả của các bản nhạc chương này. Họ đều là những nhà khoa bảng lừng danh (trừ Mai Thế Uông chỉ đỗ Hương cống), là những nhà văn, nhà thơ, những sử gia, chính trị gia nổi tiếng. Trong số 5 tác giả: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Hoãn, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh, Mai Thế Uông, thì Mai Thế Uông hiện chúng ta chưa biết nhiều về các tác phẩm văn học của ông. Còn lại, các ông đều là những người có sở trường về Nôm. Nguyễn Huy Oánh không chỉ là tác gia y học, văn học chữ Hán mà còn là tác giả của bản ca Nôm Huấn tử ca với độ dài 632 câu thơ lục bát. Lê Quý Đôn, bên cạnh các trước tác khảo cứu còn có các tác phẩm Nôm khá độc đáo. Nguyễn Nghiễm không chỉ là một sử gia nổi tiếng, ông còn có bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu công... Nguyễn Hoãn cũng vậy, ông có tới 15 bài thơ Nôm. Phát hiện về nhạc chương Nôm được dùng trong cung miếu nhà Trịnh mà tác giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ phong kiến sẽ bổ sung thêm cho những hiểu biết về văn học các thế kỷ XVII và XVIII. Việc sáng tác văn chương chữ Nôm ở thời kỳ này khá sôi nổi và thực sự có tiếp thu từ nguồn mạch dân gian. Các chúa Trịnh rất yêu thích và đã sáng tác bằng chữ Nôm mà trường hợp Thiên hòa doanh bách vịnh (88 bài thơ Nôm) của Trịnh Căn, Càn Nguyên ngự chế thi (240 bài thơ Nôm) của Trịnh Doanh là những ví dụ tiêu biểu. Việc dùng nhạc chương Nôm trong nghi lễ cung miếu cũng như việc các trí thức lớn của thời đại sáng tác nhạc chương Nôm theo yêu cầu của chúa Trịnh đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội và văn học bấy giờ, cho thấy đây là một thời đại tương đối cởi mở với nhiều xu hướng. 2.2. Dưới đây là phần phiên âm và chú giải năm bản nhạc chương Nôm đời Lê do chúng tôi thực hiện với cố gắng cao nhất: Bài 1: Chiêu tổ khang vương Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm phụng soạn Nghìn năm một hội dương khai (1) Nền vương dõi có thánh tài nối ngôi Nẻo xưa năm Dậu tháng Mùi (2) ứng điềm xích thất(3), nẩy chồi kim chi(4) Cung xanh(5) rạng đức trùng huy(6) Thay trời dựng việc trợ thì ra tay Nam hà(7) mấy trận gio bay Cõi bờ gió quét, cỏ cây mưa nhuần Bắc chinh(8) thuở dậy uy thần Ba quân Giang Hán(9) mấy lần sơn xuyên Vũ thành(10) túi quẩy cung tên(11) Văn công(12) sao rạng, chính quyền mây nghiêm Thái bình vẫn nghiệm càn chiêm(13) Đường thông lời tượng(14), chằm êm tiếng hồng(15) Mở mang noi nghiệp tổ tông Doành Phong bao kỷ(16), cẩn lòng bao tang(17) Tộ(18) truyền dặc dặc thế vương Chấn quang bách phúc(20), chưng thường thiên thu(21) Chúc mừng tượng thuở đản phù(22) Miếu Chu thơ Vũ, sân Ngu dịp Thiều(23) Bài 2: Lương Mục vương Thụy Trạch hầu Nguyễn Hoãn phụng soạn Nền nhân nẻo trước triệu bồi(24) Cây giồng lá ngọc, sông khơi dòng vàng Cung xuân(25) trong tiết thanh thương(26) Hồng tinh dãi bóng(27), thiên hương nức mùi Duệ thông(28) nối đấng thượng tài Còn tuần mông dưỡng(29) doành ngôi quốc trừ(30) Một phen xuất các mai sơ(31) Cầm quyền Đô phủ, dựng cờ Tả dinh(32) Vui hôm lo sớm cung đình Kính thừa đạo Vũ(33), hiếu thành lòng Văn(34) Ngong trông đâu đấy muôn dân Ca câu tam thiện(35), tụng văn tứ trùng(36) Xưa sau thế đích nối dòng Sẵn nền kiến đốc(37), rạng công cấu đường(38) Phúc nhà truyền dõi ngôi vương Nhân dường lân chỉ(39), thịnh dường chung ty (tư)(40) Tòa rồng ứng tượng quang nghi(41) Hiệu dâng sách ngọc(42), dấu ghi đỉnh vàng(43) Thăng ca tấu dịp sênh hoàng(44) Mượn thơ Trường phát(45) một chương nối vần Bài 3: tấn quang vương Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn phụng soạn Đoài cung(46) tượng ứng kim canh(47) Bến Hoa(48) bỗng hiện Dao tinh vẻ lồng(49) Đản di(50) vừa tiết thiên trung(51) Phong nghi đĩnh dị(52) minh thông khác thường Chấn văn vừa nẩy hào dương(53) Đan thư sớm đã tỏ tường điềm Chu(54) Cung xuân(55) hương quế thơm tho Huân đào(56) chẳng lọ trao đồ Cơ công(57) Dưỡng mông(58) chưng thuở suối trong(59) Đòi phen vinh dụ(60), tấc lòng hiếu ty (tư)(61) Phủ xanh(62) từ nẩy chính ky (cơ)(63) Đảm đương việc nước chỉ huy lệnh trời Huy luân(64) ca nọ nối lời Gần xa khen ngợi trong ngoài ngong trông Sáu truyền(65) sang mối tổ tông Gây nền thánh tử, khơi dòng thần tôn Công này đáng sánh càn khôn Đã ghi vạc báu, lại tôn sách vàng(66) Tư văn(67) dâng tụng đòi(68) chương Miếu đường dặc dặc(69), chưng thường(70) muôn thu Bài 4: Hy tổ nhân vương Thạc Lĩnh hầu Nguyễn Huy Oánh phụng soạn Bảy truyền(71) trong vận long hưng(72) Lạ thay buồng quế nức lừng hương đưa Đản sinh(73) điềm ứng ban xưa Năm vừa Nhu triệu(74), tiết vừa Nhuy tân(75) Tài gồm văn võ thánh thần Đương quyền phụng sưởng(76) mới tuần gia quan(77) Nguyên hanh nối đức thừa càn(78) Tụng bài Phỏng lạc(79), ca đàn Nam phong(80) Quy mô trăm mối sửa xong Mở nền văn vật dựng công trị bình Tinh mao(81) mấy độ tỉnh canh(82) Phong niên có vịnh(83), hoa trình có thơ(84) Lân bang đều gội móc mưa Gần dâng tuế cống, xa đưa địa đồ Rành rành vũ liệt văn mô(85) Trời Nam đem lại Đường Ngu(86) thái hòa Đời đời truyền dõi nghiệp nhà Rỡ hàng chiêu mục(87), rạng tòa Đẩu tinh(88) Thăng ca tấu khúc Tư thình (thành)(89) Khí thiêng càng thỏa miếu đình muôn thu Bài 5: Nghị tổ ân vương Lã Xuyên hầu Mai Thế Uông phụng soạn Đầu canh sơ chiếng(90) một dương Non đan bảng sáng, sông vàng sạch trong(91) ứng kỳ sinh đấng anh hùng Phong tư lỗi lạ, cao thông tót vời(92) Kinh luân(93) nẻo thuở vân lôi(94) Thay quyền xuất chấn(95) ra tài hanh truân(96) Mấy vì xã tắc sinh dân Tấc son giãi với chín lần xanh xanh Xe loan uy dậy tứ chinh(97) Bừa không cáo tổ, quét thanh ong đàn(98) Hơi xuân vây lại giang san Dấu so hưng Hạ(99), công hơn bình Hoài(100) Mối giềng muôn việc trong ngoài Một phen phấn sức(101) nên đời hạo hy(102) Truyền sau chước nhiệm(103) yến di(104) Rành rành tiếng ngọc, rạng ghi bút rồng Nhạc dâng bảy đức(105), chín công(106) Rỡ trong tông miếu, sánh cùng càn khôn Khí thiêng vốn hãy nhơn nhơn(107) Phúc doành văn tử, văn tôn muôn đời(108). Phiên âm từ bản A.1186 (từ trang 1a đến 3b) và bản VHv.2658 (từ trang 1a đến 4a) 3. Về các bản nhạc chương đời Nguyễn đã được phát hiện: Nhân phát hiện các bản nhạc chương đời Lê, chúng tôi thấy không thể không nhắc tới các bản nhạc chương đời Nguyễn đã được Nguyễn Văn Huyên và Trần Văn Giáp phát hiện và giới thiệu lần đầu trên tờ tạp chí Est số 4 năm 1939. Bài viết Les chants rituels des fêtes de Nam Giao (Các bài cúng trong lễ tế Nam Giao), đã chép đầy đủ 9 bản nhạc chương được dùng trong nghi lễ tế ở đàn Nam Giao, do một quan chức triều Nguyễn đã từng chứng kiến nghi lễ này cung cấp. Về sau, vào năm 1968, tại Sài Gòn, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề cho xuất bản cuốn sách Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam, trong đó có chép rất nhiều bản nhạc chương được dùng trong các nghi lễ triều Nguyễn. Tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện cũng có một số tập nhạc chương triều Nguyễn. Tất cả các bản nhạc chương thời Nguyễn đã được biết đến đều được viết bằng chữ Hán. Hy vọng là chúng tôi sẽ có dịp giới thiệu trong một bài viết khác. CHÚ THÍCH (1) Dương khai: tức Tam dương khai thái. ý nói vào tháng Giêng (Tam dương) mùa xuân thì muôn vật có điều kiện sinh sôi nảy nở, phát triển thịnh vượng. (2) Năm Dậu tháng Mùi: chúa Trịnh Căn sinh vào tháng Mùi (tháng 6) năm Quý Dậu (1633). (3) Xích thất: nhà đỏ, tức ánh sáng đỏ đầy nhà. Khi những đấng phi thường sinh ra thì có những điềm kỳ lạ như dao quang quán nguyệt, cầu vồng, ánh đỏ đầy nhà...Sách Lam Sơn thực lục cũng có chép khi Lê Thái Tổ sinh có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm... (4) Kim chi: cành vàng, chỉ con cháu, dòng dõi đế vương. (5) Cung xanh: tức thanh cung, cung của Thái tử. Theo sách Thần dị kinh thì: Phương đông có cung điện tường bằng đá xanh, cửa bằng bạc, đề rằng: “Thiên địa trưởng nam chi cung” (Cung của con trưởng trời đất). Vì thế mới gọi cung của Thái tử là Đông cung hay Thanh cung. Câu này nói về lúc Trịnh Căn còn làm Thế tử. (6) Trùng huy: hai lần sáng, ý nói nối được đức sáng, sự nghiệp vẻ vang của cha. Tượng truyện quẻ Ly, Kinh Dịch viết: “Minh lưỡng tác, Ly, đại nhân dĩ kế minh chiếu hồ tứ phương” (Sự sáng hai lần đấy là quẻ Ly, đấng đại nhân coi đó mà kế tiếp sáng soi bốn phương). (7) Nam Hà: chỉ miền đất từ sông Gianh trở vào Nam, do các chúa Nguyễn cai quản thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Dương Vương Trịnh Tạc (cha Trịnh Căn) từng sai Trịnh Căn vào Nghệ An cùng với Ninh quốc công Trịnh Toàn đánh Đàng Trong và cai trị ở Nghệ An, ở đó được sáu năm, đánh thắng được tướng của chúa Nguyễn, thu lại được bảy huyện. (8) Bắc chinh: đánh phía Bắc, chỉ việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở Bắc Hà - Đàng Ngoài - miền đất từ sông Gianh trở ra Bắc do Lê - Trịnh cai quản. (9) Giang Hán: tên bài thơ trong phần Đại nhã - Kinh Thi, nội dung ca ngợi công nghiệp đánh dẹp Hoài Di của Mục công Thiệu Hổ đời Chu Tuyên Vương. Đây dùng để ca ngợi vũ công của Trịnh Căn. (10) Vũ thành: vũ công đã hoàn thành. Đây cũng là tên một thiên trong phần Chu thư - Kinh Thư nội dung nói về thắng lợi của Chu Vũ Vương trong việc đánh Trụ diệt nhà Thương. (11) Túi quẩy cung tên: ý nói vũ công đã hoàn thành, cung tên không còn phải dùng đến nữa, cất vào trong túi. (12) Văn công: sự nghiệp văn trị. (13) Điềm thái bình vẫn nghiệm thấy khi xem trời (trời ở đây còn chỉ chúa Trịnh). (14) Đường thông lời tượng: Có lẽ là nhắc điển “Khang cù kích nhưỡng”, chỉ cảnh cực trị. Đời Đế Nghiêu, vua Nghiêu mặc thường phục đi vi hành ở khang cù (đường thông) thấy ông lão gõ cái Nhưỡng (một thứ nhạc khí thời cổ) hát rằng: “Mặt trời mọc thì ta làm, mặt trời lặn thì ta nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, sức vua đối với ta có gì đâu” (Nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức, tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai). ý nói trị đạo cực thịnh, dân được sống thảnh thơi, sung sướng, tự nhiên, tưởng như không phải nhờ vào vua nữa. (15) Chằm êm tiếng hồng : ở đầm không có tiếng chim hồng kêu, ý nói không còn giặc giã. Đây lấy chữ từ thơ Hồng nhạn ở phần Tiểu nhã - Kinh Thi: “Hồng nhạn vu phi, tập vu trung trạch... Hồng nhạn vu phi, ai minh ngao ngao...” (Hồng nhạn bay, đậu ở giữa đầm... hồng nhạn bay, cất tiếng kêu đau buồn...) hình tượng dân chúng vất vả khổ sở kêu than vào thời nhà Chu suy. (16) Doành Phong bao kỷ: cây kỷ ở sông Phong. Đây lấy chữ từ thơ Văn Vương hữu thanh phần Đại nhã - Kinh Thi: “Phong thủy hữu kỷ, Vũ Vương khởi bất sĩ, di quyết tôn mưu, dĩ yến dực tử, Vũ Vương chưng tai” (Sông Phong có cây kỷ, Vũ Vương há không có việc gì sao ? Để lại mưu cho cháu để giúp cho con được yên, Vũ Vương thực xứng đáng làm vua). Đây dùng điển này ý nói mưu tính lâu dài cho con cháu đời sau. (17) Cẩn lòng bao tang: lòng cẩn thận buộc vào cây dâu rậm. Đây lấy chữ từ quẻ Bĩ - Kinh Dịch. Lời hào từ hào Cửu ngũ quẻ Bĩ rằng: “Hưu bĩ, đại nhân cát - Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang” (Nghỉ bĩ, đấng đại nhân tốt. Này mất, này mất, buộc vào cây dâu rậm). Hào Cửu ngũ dương cương trung chính lại ở cuối thời bĩ nên có thể tắt nghỉ sự bĩ nhưng vẫn chưa hết thời bĩ nên có câu răn “Này mất, này mất, buộc vào cây dâu rậm”, ý nói răn dè cẩn thận tìm cách giữ yên ổn vững chắc như buộc vào cây dâu rậm vậy. (18) Tộ: vận nước, phúc nước, ngôi vua. (19) Dặc dặc: lâu dài mãi mãi (từ cổ). (20) Chấn quang bách phúc: khởi phát rạng rỡ, hưởng trăm phúc. (21) Chưng thường thiên thu: hưởng tế lễ nghìn năm. Chưng là tế mùa đông, thường là tế mùa thu (theo Kinh Lễ). Dùng chữ chưng thường chỉ tế lễ. (22) Tượng thuở đản phù: hợp với điềm tốt. (23) Miếu Chu thơ Vũ, sân Ngu dịp Thiều: tấu thơ Vũ ở tông miếu nhà Chu, tấu nhạc Thiều ở sân nhà Ngu. Vũ là nhạc do Chu Vũ Vương làm ra, Thiều là nhạc do vua Thuấn nhà Ngu chế ra. Đức Khổng Tử khen nhạc Thiều là tận thiện tận mỹ, nhạc Vũ là tận mỹ. (24) Triệu bồi : tạo dựng, vun đắp. (25) Cung xuân: tức cung của Thái tử – cũng như chữ Thanh cung, Đông cung (xem chú thích 5). Phương đông thuộc hành mộc, ứng với màu là màu xanh, ứng với mùa là mùa xuân nên Đông cung, Thanh cung hay Xuân cung là như nhau. Đây chỉ cung của Thế tử. (26) Thanh thương: trong trẻo. (27) Hồng tinh dãi bóng: dãi bóng cầu vồng. Bà mẹ vua Thiếu Hạo là bà Loa Tổ khi ra bến Hoa thấy có ngôi sao cực lớn, sáng như cầu vồng sa xuống, cảm điềm ấy mà có thai sinh ra vua Thiếu Hạo. Đây chỉ điềm lành sinh đấng phi thường. (28) Duệ thông: sáng suốt, sâu sắc. (29) Mông dưỡng: nuôi sự chính từ khi còn tuổi trẻ. Đây lấy chữ từ Kinh Dịch. Thoán truyện quẻ Mông – Kinh Dịch có câu: “Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã” (Trẻ thơ nuôi sự chính, đó là công làm nên bậc thánh vậy). ý nói từ khi tuổi trẻ đã nuôi dưỡng sự chính, là cách để có thể trở nên bậc thánh. Câu này nói Lương Mục Vương khi còn tuổi trẻ. (30) Quốc trừ: người sẽ sau này nối ngôi. (31) Xuất các mai sơ: bắt đầu ra gác – ý nói bắt đầu tham gia việc chính sự. (32) Đô phủ, Tả dinh: chức vị và nơi làm việc của Lương Mục Vương khi đó. (33) Kính thừa đạo Vũ: theo đạo của vua Vũ kính cẩn thuận thừa. Thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư có câu “Chi thừa vu đế” (Kính cẩn thuận thừa đế Thuấn). Vũ đây là vua Đại Vũ, mở đầu nhà Hạ, được vua Thuấn nhường ngôi cho. (34) Hiếu thành lòng Văn: lòng như Văn Vương thành tâm hiếu kính. Chu Văn Vương khi còn làm Thế tử hết lòng trọn vẹn đạo hiếu đối với cha là Vương Quý, hàng ngày ba lần yết kiến thăm hỏi (xem thiên Văn Vương thế tử - Kinh Lễ). (35) Tam thiện: chữ trong thiên Văn Vương thế tử - Kinh Lễ. Sau thường dùng để ca tụng đức độ của Thái tử hay Thế tử. Tam thiện (ba điều thiện) là: thân người thân, tôn vua, kính người tôn trưởng. (36) Tứ trùng: đây đọc hiệp vận, chính xác phải là Tứ trọng (Bốn điều trọng): Lời nói thận trọng thì có phép, nết thận trọng thì có đức, dáng mặt thận trọng thì có oai, sự ưa thích thận trọng thì có sự trông vào (Pháp ngôn). (37) Kiến đốc: gây dựng, dốc sức. Đây lấy chữ từ thiên Vũ thành phần Chu thư - Kinh Thư: “... Duy tiên vương kiến bang khải thổ, Công Lưu khắc đốc tiền liệt...” (Các tiên vương (nhà Chu) dựng nước mở đất, đến Công Lưu dốc sức nối noi sự nghiệp trước...). “Sẵn nền kiến đốc” ý nói sẵn cơ nghiệp của tổ tiên đã gây dựng. (38) Cấu đường: dựng nhà. Đây lấy chữ từ thiên Đại cáo phần Chu thư - Kinh Thư : “... nhược khảo tác thất, ký để pháp, quyết tử nãi phất khẳng đường, thẩn khẳng cấu...” (... Như cha xây nhà, đã đặt ra quy mô, thế mà con lại không đắp nền, huống chi là xây nhà...). Từ đó chữ “cấu đường” thường dùng để chỉ con cháu nối tiếp và phát huy sự nghiệp của cha ông. Câu “Sẵn nền kiến đốc rạng công cấu đường” ý nói đã sẵn cơ nghiệp của cha ông gây dựng, nay nối tiếp và phát triển hơn lên. (39) Lân chỉ: chân con lân. Con lân là một loài thú có nhân đức, khi kỳ lân xuất hiện là điềm có thánh nhân ra đời. Kinh Thi phần Chu nam có thơ Lân chỉ: “Lân chi chỉ, chân chân công tử, hu ta lân hề...” (Chân con lân, công tử nhân đức, ôi chao con lân...) ca ngợi công tử, công tôn, công tộc nhân đức như con lân vậy. (40) Chung tư: chung tư là gọi con giọt sành, thuộc loài côn trùng. Chung tư là tên bài thơ trong phần Chu nam – Kinh Thi ca ngợi bà Hậu phi của Chu Văn Vương có nhân đức nên được con cháu đông đúc thịnh vượng (như loài chung tư). (41) Tượng quang nghi: vẻ uy nghiêm rực rỡ. (42) Sách ngọc: khi xưa phong, tặng tước vị tôn quý thì ban cho sách ngọc hay sách vàng, sách bạc, trong sách có ghi lời chế văn phong, tặng. (43) Dấu ghi đỉnh vàng: ý nói tên tuổi sự nghiệp được đúc vào đỉnh báu truyền lại lâu dài. (44) Sênh hoàng: sênh, hoàng là hai loại nhạc khí thời cổ. (45) Trường phát: tên bài thơ trong phần Thương tụng - Kinh Thi ca ngợi các tiên vương nhà Thương: “Tuấn triết duy Thương, trường phát kỳ tường...” (Nhà Thương nối đời có các vị vua sáng suốt, điềm lành đã phát từ rất lâu rồi...). (46) Đoài cung: tây cung. Đoài là tên một quẻ trong bát quái phương vị ở về chính Tây. (47) Kim canh: cũng chỉ phương Tây. Hành Kim phương vị về chính Tây, ứng với thiên can thì hành Kim thuộc Canh, Tân. Vậy nên Kim, Canh đều chỉ phương Tây. (48) Bến Hoa: Xem chú thích 27. (49) Dao tinh vẻ lồng: bà Xương Bộc là vợ của Xương ý (con Hoàng Đế) cảm điềm Dao quang quán nguyệt (ánh sáng Dao tinh xuyên mặt trăng) mà có thai sinh ra vua Chuyên Húc. Đây cũng chỉ điềm sinh đấng phi thường. (50) Đản di: đến tuần sinh nở, ngày sinh. (51) Thiên trung: tiết chính trung, đúng giữa (đây có lẽ là giữa tháng). (52) Phong nghi đĩnh dị: phong thái dung mạo khác lạ. (53) Chấn văn vừa nảy hào dương: ý nói sinh con trai trưởng. Quẻ Chấn tượng trưởng nam, có một hào dương ở dưới. (54) Đan thư sớm đã tỏ tường điềm Chu: “Đan thư” là Sách đỏ. Theo sách Lã thị Xuân thu, vào thời Văn Vương nhà Chu có con chim mỏ đỏ (xích điểu) ngậm đan thư đậu ở nền xã nhà Chu. Văn Vương nói: “Hỏa khí mạnh”, nên chuộng màu đỏ. Đó là điềm lành trời ban cho Chu Văn Vương. (55) Cung xuân: xem chú thích 25. (56) Huân đào: hun đúc, rèn giũa. (57) Cơ công: có lẽ chỉ Cơ Đán, tức Chu Công, em Vũ Vương, chú của Thành Vương nhà Chu. Chu Công phụ chính thời Thành Vương còn nhỏ, sau khi Thành Vương lớn, ông trao lại chính quyền cho Thành Vương. Câu này có lẽ ý nói Thế tử còn nhỏ, phải rèn giũa, bồi dưỡng để sau này trao cơ đồ cho. (58) Dưỡng mông: xem chú thích 29. (59). Thuở suối trong: ý nói tuổi thơ rất thuần khiết, trong sạch, phải bồi dưỡng, rèn giũa sự chính từ lúc này. (60) Vinh dụ: vẻ vang, giàu thịnh. (61) Hiếu tư: suy nghĩ về đạo hiếu. Đây lấy chữ từ thơ Hạ Vũ phần Đại nhã - Kinh Thi: “...Vĩnh ngôn hiếu tư, hiếu tư duy tắc...” (Mãi mãi suy nghĩ về đạo hiếu, lòng hiếu thuận làm phép tắc...). (62) Phủ xanh: tức cung Thế tử (xem chú thích 5). (63) Nảy chính cơ: ý nói bắt đầu tham gia chính sự. (64) Huy luân: chưa hiểu điển tích, ý nghĩa. (65) Sáu truyền: kể từ Thế tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm mở nghiệp, truyền: 1- Thành tổ Triết Vương Trịnh Tùng. 2- Văn tổ Nghị Vương Trịnh Tráng. 3- Hoằng tổ Dương Vương Trịnh Tạc. 4- Chiêu tổ Khang Vương Trịnh Căn. 5- Lương Mục Vương Trịnh Vĩnh. 6- Tấn Quang Vương Trịnh Bính. (66) Vạc báu, sách vàng: xem chú thích 42, 43. (67) Tư văn: tên bài thơ trong phần Chu tụng - Kinh Thi - cũng là bài nhạc tế Hậu Tắc (viễn tổ nhà Chu): “Tư văn Hậu Tắc, khắc phối bỉ thiên...” (Hậu Tắc có văn đức, sánh hợp với trời...). (68) Đòi: nhiều (từ cổ). (69) Dặc dặc: xem chú thích 19. (70) Chưng thường: xem chú thích 21. (71). Bảy truyền: xem chú thích 65. Hy tổ Nhân Vương Trịnh Cương là con trưởng của Tấn Quang Vương Trịnh Bính. (72) Long hưng: rồng dậy, ý nói thịnh vượng. Hào Cửu ngũ quẻ Càn – Kinh Dịch có câu “Long phi tại thiên” (Rồng bay trên trời). (73) Đản sinh: giáng sinh, sinh ra. (74). Nhu triệu: tức can Bính. Theo Nhĩ nhã - Thích thiên: “Thái tuế tại Bính viết Nhu triệu” (Thái tuế tại Bính gọi là Nhu triệu). (75) Nhuy tân: tên 1 luật trong 12 luật, ứng với tháng trọng hạ (tháng 5). Thiên Nguyệt lệnh trong Kinh Lễ có viết: “Trọng hạ chi nguyệt... luật trúng Nhuy tân...” (Tháng trọng hạ... ứng luật Nhuy tân). (76) Phụng sưởng: dâng rượu tế (Sưởng là rượu tế); ý nói đứng làm chủ tế lễ nơi tông miếu, tức là được nối ngôi. (77) Gia quan: tuổi 20. Theo thiên Khúc lễ trong Kinh Lễ thì tuổi 20 gọi là tuổi Nhược, làm lễ gia quan (đội mũ) đánh dấu người con trai đó trưởng thành. Sách Lịch triều hiến chương loại chí nói chúa (Trịnh Cương) giữ quyền chính 20 năm, thọ 44 tuổi. Như vậy Trịnh Cương lên ngôi chúa năm 24 tuổi - hơn tuổi gia quan (20) một chút. (78) Nguyên hanh nối đức thừa càn: ý nói nối tiếp công đức, sự nghiệp của tiên vương. Quẻ Càn là tượng đế vương, có bốn đức: Nguyên, hanh, lợi, trinh (Đầu, hanh thông, lợi, chính bền). (79) Phỏng lạc: tên bài thơ trong phần Chu tụng - Kinh Thi, nội dung là những lời nói của Chu Thành Vương sau khi tế Vũ Vương, ý nói vua nối ngôi phải cố gắng noi theo đạo của tiên vương để được yên ổn, rạng rỡ. (80) Nam phong: tức khúc Nam huân của vua Thuấn, có câu: “Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi vấn hề. Nam phong chi thời hề, khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề…” (Gió Nam ấm áp chừ có thể cởi bỏ những nỗi buồn giận cho dân ta - Gió Nam đúng lúc chừ, có thể làm cho dân ta có nhiều của cải). (81). Tinh mao: cờ quạt nghi trượng của đế vương. (82) Tỉnh canh: xem cày ruộng, thăm hỏi việc nhà nông. (83) Phong niên: theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vụ mùa năm Nhâm Dần (1722) được mùa to, Trịnh Cương đi ra phía Tây kinh thành xem dân gặt lúa, ban cho trâu, rượu, lại làm một bài từ về “Phong niên” (Năm được mùa) để ghi nhớ (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, H. 1998. Tập II, tr.436). (84) Hoa trình có thơ: Đi sứ có thơ. Năm 1718, Nguyễn Công Hãng và Nguyễn Bá Tông lên đường đi sứ sang nhà Thanh báo tang vua Lê Hy Tông và cầu phong. Trịnh Cương có ban cho hai người một bài thơ chữ Hán và một bài thơ Nôm để úy lạo (Xem Ngô Cao Lãng - Lịch triều tạp kỷ - Bản dịch của Hoa Bằng, Nxb. KHXH. H. 1995, tr.245-247. 85) Vũ liệt Văn mô: mưu Văn Vương, công nghiệp Vũ Vương. Đây lấy chữ từ thiên Quân Nha trong phần Chu thư - Kinh Thư: “Phi hiển tai Văn Vương mô, phi thừa tai Vũ Vương liệt” (Sáng suốt vĩ đại thay mưu Văn Vương, kế thừa vĩ đại thay công nghiệp Vũ Vương). (86) Đường Ngu: thời vua Nghiêu (Đường) và vua Thuấn (Ngu), thời cực thịnh trị. (87) Chiêu mục: thứ tự sắp xếp bài vị thờ ở tông miếu. Miếu thủy tổ ở giữa, hai bên là hàng chiêu hàng mục, tả là hàng chiêu, hữu là hàng mục, thờ các đời nối tiếp. (88) Đẩu tinh: sao Bắc Đẩu, tượng đế vương. (89) Tư thành: chữ trong thơ Na phần Thương tụng - Kinh Thi: “Tuy ngã tư thành” (Yên lòng tưởng nhớ của ta). Đây là bài thơ, cũng là nhạc tế vua Thành Thang nhà Thương “Tấu khúc Tư Thành” ý nói tấu bản nhạc tế. (90) Chiếng (từ cổ): nảy. Sơ chiếng một dương: mới nảy một dương (xem chú thích 53). (91) Non đan: Đan sơn - núi đỏ. Theo sách Viên sơn tùng nghi đô ký: có ngọn đan sơn, trong núi thường có khí đỏ bao trùm, núi rừng rực một màu đỏ. Câu “Non đan bảng sáng, sông vàng sạch trong” cũng chỉ điềm sinh bậc phi thường. “Sông vàng” tức là Hoàng Hà. Nước Hoàng Hà luôn luôn đục, nhưng theo tục truyền thì khi nước Hoàng Hà trong là điềm sinh ra thánh nhân. (92) Tót vời: hơn hết thảy. (93) Kinh luân: Kinh là sắp từng sợi tơ dọc, luân là xe nhiều sợi tơ lại với nhau, sau Kinh luân được dùng với nghĩa là sửa sang, trị lý. (94). Vân lôi: đây dùng chữ trong Kinh Dịch, quẻ Truân. Tượng truyện quẻ Truân: “Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân” (Tượng mây sấm là quẻ Truân, quân tử coi đó mà sửa sang trị lý thiên hạ). Thời truân là thời khó khăn gian nan, là lúc quân tử làm việc, sửa sang trị lý thiên hạ để qua lúc gian nan. “Kinh luân nẻo thuở vân lôi” ý nói ra tài sửa sang trị lý trong lúc gian nan khó khăn. (95) Xuất chấn: chỉ hoàng đế, vua hay chủ tể, lấy chữ trong Thuyết quái truyện - Kinh Dịch: “Đế xuất hồ chấn” (Đế ra ở cung chấn). “Thay quyền xuất chấn” tức là thay quyền vua. (96) Hanh truân: làm cho “truân” thành “hanh”, làm cho gian nan khó khăn thành hanh thông. (97) Tứ chinh: chinh phạt, đánh dẹp bốn phương. (98) Bừa không cáo tổ, quét thanh ong đàn : ý nói công nghiệp đánh dẹp của Trịnh Doanh như quét sạch đàn ong, tổ cáo. (99) Hưng Hạ: phục hưng nhà Hạ, chỉ vua Thiếu Khang nhà Hạ. Nhà Hạ đến đời vua Thái Khang bị cướp mất nước, vua Thiếu Khang đã trung hưng được cơ nghiệp. (100) Bình Hoài: tức bình định Hoài Di, chỉ vua Tuyên Vương nhà Chu. Vua Tuyên Vương sai Mục công Thiệu Hổ đi bình định Hoài Di thắng lợi (xem thơ Giang Hán - Đại Nhã - Kinh Thi). (101) Phấn sức: tô điểm, sửa sang. (102) Hạo hy: tức “hy hy hạo hạo” nghĩa là hòa vui, thỏa thuê, tươi sáng. Chữ này thường dùng cực tả thời thịnh trị Nghiêu Thuấn... (103) Chước nhiệm: kế sách mưu tính màu nhiệm. (104) Yến di: truyền lại cho con cháu, mưu tính cho con cháu (xem chú thích 16). (105) Bảy đức: chỉ bảy đức về võ công ghi trong Tả truyện - Tuyên công thập nhị niên: “Vũ hữu thất đức...: Cấm bạo (cấm bạo ngược), tập binh (ngăn chặn việc binh đao), bảo đại (giữ gìn nghiệp lớn), định công (lập công), an dân (làm cho dân yên), hòa chúng (làm cho dân hòa thuận), phong tài (giàu của)...” (106) Chín công: chữ trong thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư : “Thủy, hỏa, kim, mộc, thổ, cốc, duy tu; chính đức, lợi dụng, hậu sinh, duy hòa. Cửu công duy tự...” (Sửa sang lục phủ (Nước, lửa, kim, mộc, đất đai, thóc gạo) và điều hòa tam sự (chính dân đức, lợi dân dụng, hậu dân sinh), chín công có thứ tự...). Chín công gồm lục phủ và tam sự. (107) Nhơn nhơn: (từ cổ) đường đường, oai phong lẫm liệt. (108) Văn tử, văn tôn: con cháu có văn đức. TƯ LIỆU THAM KHẢO 1. Bản triều nhạc chương tập (A.2511) 2. Nam Giao nhạc chương (A.2228) 3. Trấn Quốc Vượng - Đinh Xuân Lâm: Về nguồn gốc và lịch sử tuồng chèo Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 4 – 1966. 4. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề : Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam . Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992. 5. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề: Việt Nam ca trù biên khảo. Sài Gòn, 1962. 6. Nguyễn Văn Huyên - Trần Văn Giáp: Các bài cúng trong lễ tế Nam Giao. Tạp chí EST, H. 1939. // In trong tập Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Tập 1. Nxb KHXH, H. 1995. 7. Phạm Thị Thoa: Tìm hiểu thêm về Nguyễn Hoàn. Tạp chí Hán Nôm, số 2 - 1992. 8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Phần Nhân vật chí và Lễ nghi chí). Nxb. KHXH, H. 1992. 9. Thái Kim Đỉnh: Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ. Nxb. Nghệ An, 1995. |
CHUÔNG CHÙA KHÁNH LÂM NGUYỄN DUY HỢP Khánh Lâm là tên của chùa Chằm thuộc hai xã Mão Điền và Mão Điền Đông, huyện Siêu Loại, nay là xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa làm vào năm nào không rõ, đến năm Giáp Tí, niên hiệuVĩnh Tộ thứ 6 (1624) đời Lê được trùng tu lớn. Đợt trùng tu này có sự đóng góp của Trịnh Lệ (con chúa Trịnh Tùng, em chúa Trịnh Tráng) với chức danh Thắng Nghĩa dinh Phó đô tướng, Bắc quân đô đốc phủ Tả đô đốc, Chưởng phủ sự, Thái bảo, Quỳnh quận công và Vũ Linh người bản xã với chức danh Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ ti Đô chỉ huy sứ, Chính phú hầu. Liền trong mấy năm, chùa được dựng lại khá khang trang. Bài minh trên bia đá khắc vào dịp khánh thành, tạo năm Bính Dần (1626) mô tả cảnh chùa có câu: Tự danh viết Khánh, Dịch nghĩa: Chùa tên là Khánh, Người viết đã dụng công chơi chữ Khánh, Lâm, Thụy để chỉ phía bắc chùa Khánh Lâm có làng Thụy Mão. Trong các di văn của chùa, ngoài tấm bia Vĩnh Tộ nói trên, đáng chú ý còn có bia Hậu, tạo năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) và Chuông chùa đúc năm Gia Long thứ 2 (1803) mà bài viết này sẽ giới thiệu. Chuông chùa Khánh Lâm cao 1,54m (kể cả quai), đường kính miệng chuông 72cm. Đôi rồng áp lưng vào nhau, miệng ngậm viên ngọc, hai chân trước quỳ xuống, thân uốn cong, đuôi vồng lên tạo thành quai treo. Thân chuông chia làm bốn phần, mỗi phần cách nhau bằng ba đường chỉ chạy suốt từ trên xuống đến vú chuông. Bốn vú chuông phân đều bốn mặt. Riêng hai mặt Nam và Bắc đối diện, mỗi mặt thêm một vú nữa bên dưới, tạo thành sáu vú tất cả. Sáu vú chuông kích thước bằng nhau, mỗi vú đường kính 12cm, chung quanh chạy 33 hạt lựu. Bốn phần của thân chuông mỗi phần lại chia làm hai ô được chạy hoa văn chữ triện và đường hoa thị (xxx) chung quanh. Ô trên hình chữ nhật đứng, ô dưới hình chữ nhật nằm. Bốn ô trên, mỗi ô có một chữ lớn theo trình tự: Khánh, Lâm, Tự, chung. Bốn ô dưới là bốn bức tranh cảnh rùa bơi trong hồ sen, phượng càm thư, cá hóa rồng, rồng phun nước, tạc trên nền gấm, có hoa lá sen, mây bay, sóng nước và cua giơ càng rất sinh động. Bài minh được viết ở ô trên thứ nhất, dưới chữ khánh, nét chữ chân phương, khắc sâu, gồm 28 dòng, mỗi dòng chừng 30 chữ, nhưng không ghi tên tác giả. Dưới đây là bản dịch đoạn văn bài minh đó: CHUÔNG CHÙA KHÁNH LÂM Thường nghe rằng tiếng chuông có tác dụng rất mạnh mẽ. Bởi vậy, tiếng chuông tác động đến tai người nghe mà cảnh tỉnh những chúng sinh mê muội, nhắc họ làm việc phúc để được đến nơi chính giác. Chùa Khánh Lâm của hai xã Mão Điền và Mão Điền Đông thuộc huyện Siêu Loại, từ xưa đã có quả chuông lớn, do những người Đàn na(1) đem của cúng dàng đúc nên. Chuông được treo trên một cái xà ngang vững chắc. Trải qua nhiều năm, chuông vốn bị rè lại thêm han rỉ ngày một ăn loang lổ, làm cho mất hẳn tiếng. Vắng tiếng chuông, cửa Thiền càng thêm cô liêu, tịch mịch. Không ai bảo ai mà Phật tử, từ các viên mục kỳ lão trong làng đến khách thiện tín ở mười phương đều muốn gia ơn trùng tu quả phúc. Mọi người hội họp đông đủ, mua sắm đồng đỏ và sáp trắng sẵn sàng. Kẻ tu hành đọc kinh cầu nguyện. Bọn con hát dâng nhạc làm vui. Sau đó khấn thần Lửa, đốc thợ khéo, thổi bễ lớn nấu đồng. Nhờ có Thần thiêng giúp rập, ban cho tài lộc mà chỉ nháy mắt đã đúc xong quả chuông. Bữa đó nhằm ngày 14 tháng Ba năm Quý Hợi (1803) vậy. Đúc xong, tháo bỏ khuôn cốt thấy chuông lộ ra đẹp đẽ hoàn toàn như ý muốn. Thân chuông không pha lẫn tạp chất, tròn nhẵn, láng bóng. Vú chuông và các đường triện, hoa văn nổi rõ, sắc nét. Tiếng chuông ứng theo luật âm thanh. Càng treo cao, càng vang xa. Đánh to tiếng kêu to; đánh nhỏ tiếng kêu nhỏ. Nhân ngày lạc thành, người ta nhờ tôi làm bài tựa, tôi vui vẻ nhận lời. Ôi, Trời Đất lấy tiếng sấm cổ động vạn vật, Thánh nhân lấy tiếng nhạc giảm bớt nỗi sợ hãi tám khổ(). Phàm ta lấy tiếng chuông nhắc nhở những điều trọng yếu. Xem thế thì tạo hóa, thần linh và con người chẳng đâu coi nhẹ tiếng (thanh) vậy! Tuy nhiên Phật vô tâm mà chuông thì có tiếng. ở chỗ động tĩnh tương hàm(3) chính là Đạo vậy. Nhưng Đạo vốn không có khí, chẳng có hình, cho nên phải mượn tiếng chuông để nuôi dưỡng chân tâm, đạt tới nguyên khí. Cất lên tiếng Nhân rộng lớn, mở ra cho mọi người hiểu lẽ huyền vi, tiếng chuông do đó có nghĩa sâu xa lắm vậy. Há chẳng thấy từ dưới vạn nấm mồ đến trên chín tầng mây, nghe tiếng chuông mà rung động đó sao! Chuông chùa ta đây cũng không ra ngoài cái mạch chung ấy, cũng nhằm lấy tiếng của âm thanh giúp cho những người còn lờ mờ, những kẻ ngu ương, đơn bạc mau chóng hồi thuần, những kẻ ngu si đổi lỗi theo điều thiện để được hưởng cái vui vẻ, ấm áp. ấy là cách khả dĩ đưa chúng sinh siêu thoát khỏi bể khổ, đường mê hạo kiếp(4). Một đời làm việc Nhân là để phúc dày mãi mãi. ấy là việc làm của người đáng tôn sùng. ấy là phúc quả tròn đầy vậy. Làm việc Thiện được hưởng Phúc đó là lẽ tất nhiên. Thiện làm càng nhiều thì Phúc càng bền chắc. Ai làm việc Thiện vào bất kỳ ngày nào, ở bất kỳ nơi nào thì Trời sẽ trả Phúc cho người ấy nhiều như số cát sông Hằng(5) vậy. Há chẳng đúng như lời cổ ngữ “Cầu được ước thấy” vậy sao! Xin kính cẩn mượn bút viết làm bài tựa. Hoàng triều Gia Long năm thứ hai, ngày tốt tháng Ba, Quý Hợi (1803). Sưu tầm và phỏng dịch CHÚ THÍCH (1) Đàn na: tín đồ Phật giáo thường xuyên đem của cúng vào nhà chùa. (2) Tám khổ: tám nỗi khổ: sinh, lão, bệnh, tử, yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải ở với nhau… (3) Động tĩnh tương hàm: ý nói âm dương hòa hợp với nhau. (4) Hạo kiếp: danh từ nhà Phật, chỉ thời gian rất dài, sinh sinh hóa hóa của con người và vũ trụ. (5) Sông Hằng: một con sông lớn ở ấn Độ. |
HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ XXXVI VỀ NGHIÊN CỨU CHÂU Á VÀ BẮC PHI, TỔ CHỨC TẠI MONTREAL, CANADA Từ ngày 27 tháng 8 đến 2 tháng 9 năm 2000, tại hội trường Palais des Congress, Montreal, Canada, đã diễn ra cuộc Hội thảo quốc tế về Nghiên cứu Châu á và Bắc Phi (XXXVIth International Congress of asian and North african Studies, ICANAS). Đại học Montreal là đơn vị chủ trì cuộc họp lần này. Tham dự Hội thảo có rất nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về châu á và các nước Bắc Phi, đến từ rất nhiều quốc gia trên hành tinh. Cuộc họp đã đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, lịch sử và chính trị,... Ngoài hai phiên toàn thể (Khai mạc và Bế mạc), Hội thảo được chia thành 19 ngành nghiên cứu với 258 tiểu ban, tập trung thảo luận 1314 tham luận. Một số chủ đề đã được thảo luận sôi nổi trong cuộc họp là: 1) Nghiên cứu ấn Độ và Hindi. 2) Nghiên cứu Đạo Phật với các vấn đề cụ thể như: Đạo Phật và xã hội; Đạo Phật và đạo đức trong môi trường toàn cầu; Tín ngưỡng Đạo Phật và thực hành; Tiếp xúc, ảnh hưởng và việc đồng hóa trong giao lưu Trung Hoa - ấn Độ và văn minh châu á, ... Nghiên cứu Đông Nam á với các vấn đề cụ thể như: Nghiên cứu về phụ nữ; Vấn đề xây dựng nền dân chủ ở các nước Đông Nam Á; Xã hội và văn hóa Đông Nam á; Vấn đề toàn cầu hóa và chiến lược phát triển ở Đông Nam á; Các dân tộc thiểu số ở Đông Nam á; Xã hội Việt Nam và sự phát triển; Diện mạo văn hóa Việt Nam đương đại; Bản sắc văn hóa Đông Nam á; Quan hệ quốc tế và giao lưu văn hóa ở Đông Nam Á, ... 3) Nghiên cứu Nhật Bản với các vấn đề: Diện mạo của xã hội và văn hóa truyền thống Nhật Bản; Nhật hóa từ thời cổ đại đến thời hiện đại; Quan hệ quốc tế; Ngôn ngữ; Thơ ca; Tiểu thuyết; Chính trị; Mạng lưới trí thức và sản phẩm văn hóa đầu thế kỷ XIX ở Nhật Bản, ... 4) Nghiên cứu Trung Quốc với các vấn đề: Xây dựng và xây dựng lại vị thế của trí thức trong xã hội Trung Quốc từ năm 200 đến năm 2000; Quyền lợi và luật pháp của người Trung Quốc; Thơ ca cổ đại ở Trung Quốc; Chiến tranh ở Trung Quốc; Kiến trúc Trung Quốc; Ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại; Ngôn ngữ Trung Quốc hiện đại; Triết học Trung Quốc hiện đại và đương đại; Đạo Lão; Những truyền thuyết của Trung Quốc cổ đại; Các văn bản đạo Lão; Diện mạo của triết học Trung Quốc truyền thống; Việc phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; Quan hệ thương mại và văn hóa Trung Quốc; Tôn giáo Trung Quốc hướng tới thế kỷ XXI: Đạo Lão và Tôn giáo Trung Quốc; Địa lý và lịch sử Trung Quốc; Tôn giáo Trung Quốc hướng tới thế kỷ XXI: Di sản tư tưởng Trung Hoa; Triết học Trung Quốc cổ đại; Quan hệ chính trị ở Trung Quốc, ... Nghiên cứu về Việt Nam, có 5 thành viên tham dự Hội thảo. ở tiểu ban Xã hội Việt Nam và sự phát triển: ông Lê Bình (Việt Kiều Mỹ) trình bày về Cấu trúc thông tin hiện đại cho các nước Đông Dương và Bà Trần Hoàng Hạnh (Việt Kiều Canada) trình bày tham luận nhan đề Niềm hạnh phúc trẻ thơ (nói về sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ với trẻ em cơ nhỡ Việt Nam); Tại tiểu ban Nghiên cứu phụ nữ: Bà Nguyễn Thị Hạnh (cán bộ dự án của tổ chức SIDA, hiện đang theo học tại Đại học Montreal, Canada) trình bày tham luận về Phụ nữ Hà Nội với phong trào “làm xanh, sạch, đẹp thành phố” và Tiến sĩ Trần Thị Liên (Việt Kiều Pháp) trình bày tham luận giới thiệu gương mặt Henriette Bui - Việt Kiều Pháp là nữ bác sĩ đầu tiên đạt giải thưởng y học tại Pháp; ở tiểu ban Diện mạo văn hóa Việt Nam đương đại: Thạc sĩ Chu Tuyết Lan (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) trình bày tham luận về vấn đề Bang giao giữa Việt Nam và phương Tây trong triều Nguyễn. Cũng tại tiểu ban này, các học giả nước ngoài đã sôi nổi tham gia vào phần thảo luận xung quanh vấn đề ảnh hưởng và tác động của văn hóa phương Tây với xã hội Việt Nam và một vài vấn đề liên quan đến triều Nguyễn, ... Hội thảo được tổ chức ba năm một lần, lần lượt tại các quốc gia khác nhau, đã tạo cơ hội tốt cho các học giả từ khắp nơi trên thế giới đến để gặp gỡ, trao đổi và xúc tiến hợp tác nghiên cứu. Đặc biệt tại phiên Bế mạc, có nhiều học giả danh tiếng trên thế giới đã trình bày về vấn đề toàn cầu hóa và bàn về những giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa ở mỗi quốc gia trong thiên niên kỷ mới. C.T.L |
LỄ KỶ NIỆM 765 NĂM SINH VÀ 745 NĂM MẤT Ngày 9 tháng 9 năm 2000 tại di tích Văn miếu – Quốc tử giám ,hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với Trung tâm hoạt động Văn hóa Khoa học Văn miếu – Quốc tử giám và Ban liên lạc dòng họ Nguyễn Hiền tổ chức lễ tưởng niệm và sinh hoạt lịch sử nhân dịp kỷ niệm 765 năm sinh và 745 năm mất Trạng nguyên Nguyền Hiền. Nguyễn Hiền (1235 – 1255) người xã Dương A, huyện Thượng Hiền, nay là thôn Dương A thuộc xã Nam Thắng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính Bình 16 (1247), đời Trần Thái Tông. Nguyễn Hiền là hiện tượng đặc biệt trong lịch sử khoa cử Việt Nam, thi đỗ Trạng nguyên ông mới 13 tuổi. Các thư tịch cổ cũng như truyền thuyết dân gian còn kể lại nhiều câu chuyện về tài học, tài ứng đối của thần đồng Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Công, nhưng mất sớm khi mới 21 tuổi. Các bài tham luận đã đi sâu tìm hiểu thân thế sự nghiệp, phương pháp học tập cũng như trí thông minh đặc biệt của Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Nhiều tham luận nêu bật đây là tấm gương và là niềm tự hào của các thế hệ học trò Việt Nam. N.T.L |
VĂN KHẮC VÀ SỬ LIỆU LÀNG XÃ. DIỄN ÂM, DIỄN NGHĨA, DIỄN CA VÀ DIỄN TỰ LTS: Trên Tạp chí Hán Nôm số 3 - 2000, chúng tôi có đăng bài “Tiểu thuyết và truyện thơ cổ Việt Nam” của Vương Tiểu Thuẫn. Nay xin đăng tiếp 2 bài nữa, cũng trích từ “Việt Nam phỏng thư trát ký” của ông, để bạn đọc tham khảo. Trong cổ tịch Việt Nam, điển tịch tương ứng với loại kim thạch thuộc Sử bộ của Trung Quốc, chủ yếu là một số văn hiến văn khắc. Nếu phân loại thì có 6 loại: một là bia thành cổ, như Hà Nội thành bi ký; hai là bia Phật tích, như Chùa Sở Phật tổ di tích bi; ba là bia từ đường, như Thượng thư Tể tướng công từ đường bi ký; bốn là bia ma nhai, như Ma nhai kỷ công văn; năm là bia xã thần, như Phù Cầm xã hậu thần bi ký; Độc Bộ xã thần từ bi ký tịnh biển sao lục; sáu là bia chùa, như Đọi Sơn bi ký; Bắc Ninh tự miếu bi văn. Trong đó số lượng nhiều nhất là bia chùa và bia xã thần. Khí hậu Việt Nam ẩm thấp, sách vở khó giữ gìn, cho nên văn bia có thể lấp chỗ trống về mảng sử liệu được ghi năm tháng từ buổi đầu. Chẳng hạn, văn bia khá sớm có Tùy Đại Nghiệp bi văn ghi chép tài học và gia thế của quan viên ở ái Châu (nay là tỉnh Thanh Hóa) vào năm 618 sau công nguyên; muộn hơn một ít có Đọi Sơn bi ký do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121, Ma nhai kỷ công văn, do Nguyễn Trung Ngạn soạn năm 1335. Bia ma nhai này khắc trên vách đá Mật Châu, ghi công nghiệp của Trần Minh Tông chinh phạt Ai Lao. Nhưng đại bộ phận văn khắc Việt Nam, chưa được chỉnh lý thành sách, mà được bảo tồn với hình thức thác bản. ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 22.000 thác bản văn bia, do một nhóm nhỏ chuyên gia chỉnh lý. Phạm Thùy Vinh, tác giả của cuốn sách Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã cho tôi biết, thác bản văn bia vùng Kinh Bắc mà chị đã nghiên cứu có tới 1.063 tấm, đề cập đến 327 thôn của 17 huyện. Tôi xem qua số thác bản này, chúng khác với văn hiến văn khắc đã được in thành sách ở chỗ nội dung tiếp cận hơn với xã hội hạ tầng. Đây là sử liệu quan trọng để nghiên cứu làng xã cổ đại Việt Nam. Theo tôi, sự phân biệt hai loại văn khắc như vậy vừa vặn tương ứng với sự phân biệt văn khắc hai nước Trung - Việt. Bởi vì, văn khắc cổ đại Trung Quốc chủ yếu là mộ chí. Có một sự thực rất rõ ràng: văn khắc là phương thức chuyển tải quan trọng của văn hóa lịch sử Việt Nam, phương thức ấy có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng chức năng của nó lại không hoàn toàn giống văn khắc Trung Quốc. Trong văn khắc Việt Nam, loại có tỷ lệ cao nhất là bia đình, bia từ đường, bia chùa quán, bia cầu, bia chợ, thường phản ánh hoạt động của tập thể chứ không phải là hoạt động của cá thể. Chẳng hạn, đình làng là vật tượng trưng làng xã (tương đương với miếu Thành hoàng ở Trung Quốc), thường là do các quan viên nghỉ hưu tổ chức xây dựng, văn bia khắc ghi chức hàm của người xây dựng, kết cấu làng xã và hệ thống tôn giáo. ở một số văn khắc khác, có thể thấy tư liệu kinh tế làng xã và tư liệu phong tục như: khế ước, luật lệ, thuế má, công ích v.v. Từ thế kỷ 16 trở đi, ở Việt Nam xuất hiện hiện tượng những người phụ nữ không có con đến đình, chùa “gửi giỗ”. Hiện tượng có ý nghĩa xã hội quan trọng này được phản ánh thông qua văn bia, do vậy nó trở thành điểm chú ý của người nghiên cứu. Điều thú vị là, đặc điểm nói trên của văn khắc không phải tồn tại một cách cô lập, trong các sách thuộc Sử bộ, tương tự có thể thấy khá nhiều ghi chép liên quan đến hoạt động tập thể của các tầng lớp xã hội. Mặc dầu Việt Nam có rất nhiều điển tịch ghi chép về đế vương và việc quân quan trọng, xét từ góc độ mục lục học, chúng hình thành loại chính sử, biên niên, tạp sử, thông chế, chức quan, quân sự, chiếu lệnh tấu nghị v.v. nhưng xét từ góc độ sử học, tỷ trọng chất và lượng của cổ tịch Việt Nam đều thiên về một số bộ và loại giàu sắc thái lịch sử xã hội. Dưới đây xin giới thiệu 8 loại tiêu biểu: 1. Nghi chế: Nghi chế của triều đình cổ đại Việt Nam ít nhiều mô phỏng Trung Quốc, có tế tự trời đất, tế tự tổ miếu, cũng có các nghi thức quan, hôn, tang, tế. Nghi tiết tế tự bao gồm các khoản cầu phúc, cầu mưa, tế thần chủ, tế thủy thần v.v. Loại này bởi thế có thể quy về đối tượng nghiên cứu lễ nghi. Nhưng trong đó vẫn có hai loại thư tịch khác phong phú sử liệu xã hội: một là chế độ mệnh lệnh liên quan đến đền miếu địa phương, chẳng hạn như Bình An vương lệnh chỉ do Trịnh Tùng ban bổ vào năm 1559 (phê chuẩn 21 người quản lý đền thờ Đỗ Thiện đại đế Long Vương), Thanh Đô vương lệnh chỉ do Trịnh Tráng ban bố vào năm 1628 (phê chuẩn 12 người quản lý đền thờ Đỗ Thiện đại đế Long Vương Trung đẳng thần); hai là ghi chép hoạt động nghi thức phường hội địa phương, chẳng hạn như Hà Đông tỉnh Hoài Đức phủ Thượng Hội xã khảo dị, hoặc Hà Đông tỉnh Thượng Hội tổng khai hội nghênh thần ca khúc. 2. Công độc: Công độc chỉ giấy tờ hành chính của chính quyền các cấp. Việt Nam thời cổ đại, bộ phận chủ yếu của giấy tờ này là văn thư hành chính pháp luật của cơ cấu các cấp cơ sở. Chẳng hạn Hà Đông Hòe Thị các tích công văn thu thập các giấy tờ kiện tụng từ năm 1661 trở đi, Đa Hòa xã sức văn là đơn trình và sức văn liên quan đến việc thôn Phong Hòa thuộc xã Đa Hòa tách làm hai thôn; Đại Đồng xã cáo văn bao gồm 71 bài cáo văn quan phương liên quan đến lễ nghi của làng Đại Đồng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Phúc Yên; Vũ Liệt xã trình đơn là thư của bà con xã Vũ Liệt tố cáo một người đưa thi hài bố mẹ chôn trộm bên mộ Thượng đẳng thần, Ninh Thuận đạo Kinh Quản tổng Kinh Quản xã tập biên thu thập những giấy tờ như cáo thị, biển đề v.v., Vũ Liệt xã trường đệ nhất giáp Bùi Chu Giám mục tranh tụng từ thuộc hồ sơ pháp luật. 3. Hương ước: Đây là một trong những loại còn lại nhiều nhất trong sách thuộc Sử bộ, có tất cả hơn 120 cuốn. Có thể sơ lược phân chia 3 thể tài “khoán”, “ước”, “lệ”. “Khoán” là những quy định có liên quan đến sự việc thường ngày, chẳng hạn như Chùa nhất giáp khoán là những quy định tài vụ chi tiêu thường ngày có liên quan đến tế tự, hôn thú, yến ẩm, ruộng đất của thôn Kim Hoàng, làng Vân Canh, huyện Từ Liêm năm 1874; Mộ Trạch xã Cựu khoán là những quy định có liên quan đến thi đỗ, chức tước, giao thông, trị an, nông tang, kinh tế, chính trị ở xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Loại “Khoán” hiện còn hơn 10 tên sách: Cổ Ninh hương khoán, La Khê xã Bắc Đình giáp khoán, Văn Lâm Phạm tộc khoán cảo v.v. “Ước” chỉ quy ước chung do dân địa phương cùng nhau lập ra, nội dung thường liên quan đến quản lý hành chính. Nay còn hơn 20 tên sách, như: Phú Khố xã hương ước, Trường Sơn thôn hương ước, Ngọc Đồng hương ước, Cao Xá xã Trung thôn hương ước, Đô Lương xã hương ước, Chi Nê xã hương ước, Bá Khê hương ước, Đông Trù kế hương ước, Đại Từ xã hương ước và Đông Viên thôn điều ước. “Lệ” còn gọi là tục lệ, là sự thể chế hóa tập quán hàng ngày, thường liên quan đến khen chê, thu chi, thuế má và lễ nghi phong tục. Trong số đó, niên đại khá sớm có Đông Thành huyện các xã thôn khoán lệ lập năm 1665, Danh hương khoán lệ lập năm 1666, Dương Liễu, Quế Dương, Mậu Hòa đẳng xã giao tục lệ, lập từ năm 1667 đến năm 1691, Hòe Thị thôn điều lệ lập năm 1720 đến năm 1886. 4. Điền đinh bạ: Sổ điền, đinh hiện còn khoảng hơn 40 tên sách. Tên gọi hoặc là “địa bạ” như Nông Cống huyện Mậu thân niên địa bạ (năm 1788), hoặc gọi “ điền bạ”, như Đông Ngạc Đông Nhị giáp điền bạ (năm 1795), hoặc gọi “đinh bạ”, như Vũ Liệt xã đinh bạ (năm 1800 trở đi). Loại văn hiến tương tự bao gồm sổ ghi tên quân sĩ tại ngũ và đã ra quân, như Vũ Liệt xã thần bạ soạn năm 1780; ngoài ra còn có các loại khế ruộng, soạn những năm từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, như Mại điền thổ khế văn, Cơ Xá Nguyễn Đăng Khôi phân điền từ, Vũ Liệt xã điền giới đơn, Kỳ Linh xã thuận nhận điền giới đơn, Đông Ngạc xã Phan Trọng Uyển khai điền đơn từ. 5. Sổ ghi công nợ: Danh mục sổ ghi công nợ cổ đại Việt Nam rất nhiều, thể lệ cũng khác nhau. Trong văn hiến hiện còn, có loại có con số thống kê làng, trấn, như Hải Đô đinh điền số mục viết năm 1911; loại ghi phẩm vật, như Vũ Liệt xã cung tiến ký từ viết năm 1880; loại có giấy ghi công nợ hoạt động tôn giáo, như Vũ Liệt xã khai thần sắc chi phí bạ viết năm 1848, Vũ Liệt xã cung tiến tu lý từ vũ thư viết năm 1868, Vũ Liệt xã lý tác hạ miếu chi tiêu bạ viết năm 1812; loại hồ sơ thu thuế, như Vũ Liệt xã nạp thuế biên nhận, Vũ Liệt xã thuế biên từ, Phương Lâm tỉnh đinh điền thuế lệ sao lục, Hoa Ngạc xã cổ thuế chỉ. Các loại sổ sách ghi công nợ khác có Khánh Hòa Vĩnh Xương Phương Sài thôn chu bạ sao ký, Vũ Liệt tổng nạp tài mộc bạ, Vũ Liệt xã cương tiền bạ, Vũ Liệt xã cựu đơn từ, Đông Ngạc xã Thổ Oa phường lưu chiếu từ, Khất lĩnh mễ văn v.v. đề cập đến nhiều khoản thu chi tập thể. 6. Giao từ, chúc thư và phân thư: Đây là loại văn thư chủ yếu trong dân gian Việt Nam. “Giao từ” đại loại như bây giờ gọi là giao kèo, “chúc thư” bây giờ gọi là “di chúc”. “Giao từ”, “chúc thư” hiện còn mỗi loại hơn 10 tên sách; niên đại tương đối sớm có Đông Ngạc xã Phạm tộc giao thư lập năm 1812 và năm 1875, Bộ La xã Thượng thôn Đông giáp giao lệ từ lập năm 1825, Đông Ngạc xã Nguyễn Bá Đa chúc thư lập năm 1844, Ngọc Than xã Nguyễn Thị Tốn chúc từ lập năm 1862. “Giao từ” còn được gọi là “giao hảo lệ”, “lệ bạ” như: Tử Dương Cống Xuyên lưỡng ấp giao hảo lệ, Đông Ngạc xã các giáp lệ bạ. (Giao kèo giữa các giáp trong xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Nội). “Phân thư” thường là cách gọi khác của chúc thư, như Đông Ngạc xã Phạm Gia An chúc thư còn có tên là Phạm tộc chúc thư hoặc Đông Ngạc xã Phạm Gia An phân thư, một loại di chúc mà nội dung thường là phân chia tài sản. Sự thực, phân chia tài sản cũng là nội dung của các loại giao kèo. Cho nên, trong cổ tịch Việt Nam có thể thấy “giao từ”, “phân thư”, “chúc thư” được dùng lẫn lộn. Như Phạm tộc giao từ là thỏa thuận phân chia tài sản của vợ chồng Phạm Quang Thăng; Vũ Liệt Tổng các xã giao từ là giấy biên nhận, văn khế của các xã trong tổng Vũ Liệt tỉnh Nghệ An; Chúc thư văn khế cựu chỉ tạp sao bản di chúc của Vũ Văn Bân làm năm 1747; chúc thư về ruộng đất của Trương Thị Hương làm năm 1761, văn khế vay nợ của Hoàng Công Khâm lập năm 1831. 7. Ngọc phả: là truyện phả về các vị thần, còn gọi là “thần tích”, đây là loại lớn trong loại sách thuộc Sử bộ. Sách hiện còn không dưới 80 tên sách (thống kê của Việt Nam Hán Nôm di sản mục lục là 535 đầu sách). Xét về góc độ nguồn gốc của các vị thần, có thể chia ra: Ngọc phả nhân vật truyền thuyết, Ngọc phả nhân vật tôn giáo, Ngọc phả nhân vật lịch sử, Ngọc phả anh hùng giòng họ. Ví dụ: Tản Viên sơn ngọc phả, Yên Lãng hậu thổ sự tích; còn có tên Yên Lãng ứng thiên hóa dục hậu thổ sự tích thực lục là phả nhân vật truyền thuyết; Hàm Giang Đinh tộc sinh phong Đại vương hành trạng thực lục, Trần gia ngọc phả, Vân Cát Lê gia ngọc phả là phả anh hùng giòng họ; Cao tăng thiền sư ngọc phả cổ truyện, Yên Lãng Chiêu Thiền tự Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục, là phả nhân vật tôn giáo; Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyện, Tam vị đại vương sự tích là phả nhân vật lịch sử. Tam vị đại vương trong tên sách vừa kể là chỉ Chu Cẩn, Chu Khiêm và Chu Đàm quê ở đất Ba Trung. Nghe nói, thời Hán Vũ đế ba người này đến Việt Nam, sau khi chết hiển linh, giúp thủy tổ triều Nguyễn là Nguyễn Kim đánh họ Mạc, vì thế được phong là Bảo Trung đại vương, Uy Mãnh đại vương, Uy Liệt đại vương. Trong mảng ngọc phả, loại sử liệu làng xã khá phong phú, như Đoàn phương xã ngọc phả, Đinh gia miếu ngọc phả truyện, Bắc Ninh tỉnh Yên Phong huyện ân Phú tổng Tam Tảo xã tứ vị ngọc phả lục, Bắc Ninh tỉnh Yên Phong huyện Phong Quang tổng Đông Mai xã ngọc phả lục. Điều đáng chú ý nhất là: rất nhiều ngọc phả được gọi là “thần tích”, lấy đơn vị làng xã để ghi chép, thể hiện đúng tính chất “thần chí” làng xã. Loại ngọc phả này có Chu Quyến xã thần tích, Đa Hòa xã thần tích, Huân Trầm thôn thần tích, Định Công trang thần tích, Đông Kết xã thần tích, Giáo Dục xã thần tích, Bối Khê xã thần tích, Thanh Trà xã thần tích, Vũ Liệt xã khai thần tích, Thượng Thụy ngũ vị thần tích, Huống Thượng xã tự phả, Ninh Bình tỉnh Gia Viễn phủ Lê Xá xã Trà Đỉnh xã thần tích, Thần tích Bắc Ninh Từ Sơn Phù Lưu xã Nội thôn, Phúc Lập xã phụng sao thần tích, Đông Nhuế xã thừa sao thần tích, Hà Nội tỉnh Thanh Liêm huyện Kỷ Cầu tổng Thạch Tổ xã thần tích tịnh phả ký. Chu Quyến xã thần tích còn có tên Việt Thường thị Lý Hoàng tự Nhã Lang Vương ngọc phả; Đa Hòa xã thần tích còn có tên Chử Đồng Tử cập Tiên Dung Tây Cung nhị vị tiên nữ ngọc phả; Đông Kết xã thần tích thần chủ là Tướng quân Nguyễn Triển - từng giúp Ngô Quyền thống nhất quốc gia, sau khi mất được phong Thần. Qua đó có thể thấy, ngọc phả làng xã thường lấy nhân vật lịch sử bản địa và nhân vật truyền thuyết lịch sử làm cốt truyện, thực tế là một biểu hiện lịch sử làng xã. 8. Phả điệp: Phả điệp Việt Nam hiện còn, chỉ có một ít là thế hệ phả các bậc tiên Vương, còn thì tuyệt đại bộ phận là gia tộc phả. Tên gọi hoặc là “gia phả” hoặc là “tộc phả”, mỗi loại khoảng hơn 100 tên sách. “Gia phả” có Kim Sơn gia phả (Viết tựa năm 1691), Đàm thị gia kê (Viết tựa năm 1718), Lai Nguyệt Nguyễn thị gia phả (soạn năm 1754), Lê tộc gia miếu tân phả (biên tập năm 1780) v.v. “Tộc phả” có Bát Tràng xã Nguyễn tộc gia phả thực lục (viết lời dẫn năm 1686), Đông Đồ xã Phạm tộc gia phả (viết tựa năm 1718), Hoạch Trạch Nhữ tộc phả (viết tựa năm 1745), Đỗ tộc phả ký (viết tựa năm 1752) v.v. Ngoài ra có gia phả được lập bởi nhân vật có tiếng, như Bối Khê Trạng nguyên gia phả, Đại Nam Kinh Bắc trấn Lục Đạo xã Dương thị thế phả (phả chủ Dương thị đỗ Trạng nguyên năm 1547), Yên Lãng Thượng thư công gia phả, Đoàn tướng công gia phả (soạn năm 1750). Có loại hội biên gia phả như Gia phả tập biên chép gồm Tiên Điền Nguyễn gia thế phả, Việt Yên Phan gia thế phả và Uy Viễn Nguyễn gia thế phả. Biên độ lịch sử của một số phả khá lớn, như Thịnh Liệt Đông ấp Bùi thị giáp chi liệt tổ hành trạng chép thủy tổ sinh vào thời Lê Nhân Tông, tức năm 1443 - 1459; tổ thứ ba sinh vào thời Lê Thần Tông, tức năm 1619 - 1643. Ngoài những loại nói trên, trong gia huấn, gia lễ còn có sử liệu liên quan đến giáo dục làng xã. Trong những loại khác thuộc Sử bộ, có thể thấy tạp ký liên quan đến tổ chức xã hội và phong tục làng quê. Như Hương biên làng Quỳnh ghi danh sách những người thi đỗ hương hiền, phong tục và lệ làng; Phong tục tạp lục ghi đơn vị hành chính, tổ chức xã hội, và tập tục ma chay cưới xin. Một đặc điểm quan trọng của cổ tịch chữ Hán Việt Nam là tính địa phương mà sử liệu làng xã loại này có thể xem là tiêu tiêu biểu. DIỄN ÂM, DIỄN NGHĨA, DIỄN CA VÀ DIỄN TỰ Thư tịch chữ Hán từ Trung Quốc sang Việt Nam là quá trình truyền nhập văn hóa và cũng là quá trình tiếp nhận và cải tạo chúng. Sự tiếp nhận và cải tạo đó, ở Việt Nam dùng từ “diễn” để biểu đạt. “Diễn âm” tương đương với nghĩa phiên dịch thông thường; “diễn nghĩa” tương đương với dịch thuật và chú thích, cắt nghĩa; “diễn ca” là viết lại - dịch tản văn ra thơ ca, cải biên sách gốc ra thuyết xướng, cải biên tiểu thuyết ra hý kịch (ví dụ trong tuồng, có Tam Quốc diễn ca - Giang tả cầu hôn; Tam Quốc diễn ca - Tam cố thảo lư v.v.). Với tư cách là thể tài ngôn ngữ văn hóa, “diễn âm” còn gọi là “quốc âm”; “diễn nghĩa”, “diễn ca” còn gọi là “quốc âm ca”. Chẳng hạn, Tỳ bà hành diễn âm ca in năm 1872 dịch từng câu văn Hán ra câu văn Nôm; Nhị thập tứ hiếu diễn ca in năm 1871 (của Lý Văn Phức) dùng thơ ca Nôm diễn dịch câu chuyện nhị thập tứ hiếu của Trung Quốc. Lại như bản sao Vũ kinh diễn nghĩa ca (Vũ kinh trực giải diễn nghĩa ca) dịch thuật Vũ kinh thất thư trực giải đời Minh bằng thơ Nôm thể lục bát. Đó là những điển hình của “diễn”. Đương nhiên, các thuật ngữ “diễn âm”, “quốc âm” cũng có thể dùng thay thế cho phiên dịch, chuyển thuật giữa các thể tài khác nhau. Chẳng hạn, Xuân Đình gia huấn do Lê Hữu Tập (hiệu Xuân Đình Chủ Nhân) biên soạn, chính là cùng ấn hành với Xuân Đình gia huấn quốc âm ca. Trong cổ tịch Việt Nam hiện còn, loại tác phẩm “diễn âm”, “diễn ca” có khoảng 400 tên sách. Con số này về đại thể phản ánh số lượng bản dịch Việt Nam của điển tịch Trung Quốc. Trong đó loại lớn nhất là điển tịch Phật giáo, có hàng chục tên sách, như: Giới sát phóng sinh diễn âm, Chư kinh diễn âm, Bảo đản nhật diễn âm, Hiền ngu kinh diễn âm, Long thư tịnh thổ diễn âm. Đặc điểm của nó là “diễn âm” chiếm phần lớn, rất ít “diễn ca”; đối dịch tản văn ra tản văn là chủ yếu, chứ không dịch tản văn ra thơ ca. Chúng ta biết rằng, Phật giáo Trung Quốc có rất nhiều phương thức diễn xướng thông tục, chẳng hạn “bại tán”, “chuyển độc”, dùng cho người xuất gia; “tục giảng”, “xướng đạo” dùng cho người tại gia; “Phật khúc”, “chuyển biến” dùng cho lễ hội Phật giáo. Các tác phẩm loại này phần nhiều là văn vần. Tình hình trên đây phải chăng có nghĩa là Việt Nam thiếu vắng phương thức thuyết xướng tương tự ? Từ những tác phẩm “diễn âm” và số ít tác phẩm “diễn nghĩa” Phật giáo hiện còn, xét thấy, câu trả lời là phủ định. Cũng có nghĩa là, Việt Nam thật ra không phải không có thuyết xướng Phật giáo, có điều, hình thức có khác với Trung Quốc. Ví như, trong sách Chư kinh diễn âm có phụ lục Đại Di Đà chính văn trì niệm trích yếu diễn âm, hoặc trong Cúng văn tạp sao có phụ lục một vài bài kệ tán thể ca Nôm. Điều này nói lên rằng, diễn âm kinh Phật ở Việt Nam thường dùng vào việc trì niệm; kệ tán kinh Phật thường dùng vào việc xướng tụng; chúng đều là những bộ phận hợp thành của nghi thức Phật giáo. Lại như một tên sách khác Quan âm chân kinh diễn nghĩa còn gọi là Đức Phật Bà truyện, Nam Hải Quan âm Phật sự tích ca văn Nôm thể lục bát, kể sự tích công chúa con vua Diệu Trang Vương tu hành đắc đạo trở thành Phật Bà Quan Âm. Phần đầu của sách dùng văn Hán ghi 12 điều trong Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn, Tịnh thân chân ngôn, Phụng thỉnh nhập Bồ Tát, Khai kinh kệ, Phật thuyết Cao Vương Quan Thế Âm kinh và Cao Vương kinh nguyên dẫn. Điều này lại chứng tỏ, tuyên giảng Phật giáo, thường thường ngoài xướng tụng bằng Hán văn, người ta còn dùng phương thức kể chuyện sự tích (dưới đây sẽ xếp vào mục tiểu thuyết) hoặc truyện thơ Nôm. Quan Âm chân kinh diễn nghĩa hiện còn 7 bản in và 1 bản sao, qua đó có thể thấy rằng đây là phương thức “diễn âm” lưu hành rộng rãi và rất được hoan nghênh. Ngoài “diễn âm”, “diễn ca”, cái gọi là “chân kinh” thực tế cũng là tên gọi một loại thể tài. Trong điển tịch Phật giáo, danh từ này đại biểu cho một loại văn thể có quan hệ với khẩu ngữ. Chân kinh đề tài Phật giáo, có Siêu thần chân kinh, ca Nôm thể lục bát, tuyên giảng luân hồi và báo ứng thiện ác; Di Lặc chân kinh diễn âm, Nguyễn Phi Thường dịch, bản Nôm Di Lặc kinh, thể lục bát, miêu tả thế giới cực lạc, khuyên người đời làm điều thiện; Hương Sơn Quan Thế Âm kinh tân dịch, Kiều Oánh Mậu dịch Nôm, kể sự tích công chúa con gái Diệu Trang Vương tu luyện thành Phật. Trong mấy thí dụ vừa rồi, “chân kinh” hầu như có thể lý giải là một phương thức thuyết xướng thông tục. Cũng có lẽ bởi vậy, trong điển tịch tôn giáo dân gian Việt Nam có khối lượng lớn tác phẩm “chân kinh”. Chẳng hạn, Linh tâm quốc âm chân kinh, Lương tâm quốc âm chân kinh, Báo ân quốc âm chân kinh, Thiên hoa phóng nhụy Nam âm chân kinh, Việt Nam nội đạo tam thánh thường tụng chân kinh, Kính tích tự chỉ chân kinh v.v, không dưới 70 tên sách. Dẫu rằng, có rất nhiều truyền thuyết qui “chân kinh” là văn giáng bút của “thần” và “công chúa”, cho rằng chúng ra đời bởi một nghi thức nào đó, song chúng ta vẫn có thể thấy được mối liên hệ giữa chúng với điển tịch Trung Quốc trong cách ghi chép. Ví dụ các cổ tịch Việt Nam dưới đây: Văn đế cứu kiếp chân kinh diễn âm, Ngô Vi Lâm dịch Nôm (diễn âm), in năm 1902, ca Nôm thể lục bát. Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh thích ca, Phạm Đình Toái dịch Nôm (diễn ca) năm 1880, ca Nôm thể lục bát. Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh diễn nghĩa ca (còn có tên Cứu kiếp chân kinh diễn nghĩa ca), Cung Bích Như dịch Nôm (diễn ca) năm 1875, ca Nôm thể lục bát”… đều xuất xứ từ sách Trung Quốc Văn đế cứu kiếp chân kinh, Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh. Điều này nói lên cái gì ? Nói lên rằng “Chân kinh” vốn là một loại văn thể thông tục về Phật giáo lưu hành ở Trung Quốc. Nếu nói rằng tín ngưỡng Văn Xương Đế Quân và Quan Thánh Đế Quân, chủ yếu lưu truyền ở phương Nam Trung Quốc và lấy việc tôn giáo dân gian Trung Quốc hưng thịnh ở miền Nam làm bối cảnh thì điều đó lại nói rõ phương thức thuyết xướng tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống dân gian miền Nam Trung Quốc, mà không giống như Trung Quốc nội địa buổi đầu thuyết xướng, Phật giáo chủ yếu có nguồn gốc từ Phạn xướng Tây Vực. Việc lưu truyền hai tôn giáo Phật và Đạo ở Việt Nam, thời đại đó có thể truy ngược lên cuối đời Hán. Quyển 1 sách Hoằng minh tập chép, sau khi Hán Linh đế băng hà, Mâu Tử cùng với mẹ tỵ nạn ở Giao Chỉ, từng mang theo Ngũ kinh và các sách về Đạo gia thuật sĩ. Sau khi tới Việt Nam, ông “nuôi chí ở đạo Phật”, viết thiên Lý hoặc luận. Bấy giờ là cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, chính là lúc Sĩ Nhiếp nhậm chức Thái thú Giao Châu (năm 187 - 226). Từ điển chữ Nôm Việt Nam Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa nói: Sĩ Nhiếp từng “tập thành thơ ca quốc ngữ rồi ghi đề mục, sắp xếp vần “Chỉ nam phẩm hội” gồm 2 quyển thượng hạ. Mặc dầu chúng ta không có cách nào khảo chứng sự khởi đầu của diễn âm, nhưng sự ghi chép như trên, chứng tỏ cuối đời Hán, Việt Nam đã có điều kiện và nhu cầu diễn âm. Ghi chép sớm nhất về sách diễn âm thì thấy ở cuối thế kỷ 14. Theo Đại Việt sử ký toàn thư - Trần kỷ của Ngô Sĩ Liên thì vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly từng “biên tập Vô dật thiên”, dịch ra Quốc ngữ để dạy các quan”. Từ đó trở về sau, lịch sử diễn âm cổ tịch chữ Hán được mở ra một cách mạnh mẽ. Trong đó có 2 việc lớn đáng được nhắc tới sau đây: Việc lớn thứ nhất là chữ Nôm, dịch Nôm Thi kinh. Theo ghi chép, triều Tây Sơn (1786 - 1802) khi xây dựng thư viện Sùng Chính. Viện trưởng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng cho khắc in Thi kinh giải âm và diễn Nôm “Tiểu học”, “Tứ thư”. Sách Thi kinh giải âm hiện còn hai loại văn bản: một là bản khắc năm 1792 (Năm Quang Trung thứ 5) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản này có 12 quyển. Hai là bản khắc năm 1714 (năm Vĩnh Thịnh thứ 10) ở Viện Văn học Hà Nội, trang đầu đề mấy chữ “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nhật tập thành, Kế Thiện đường bản, Kỷ Quyết nhân san” là một tên sách có niên đại sớm nhất trong các sách diễn âm, giải âm được biết hiện thời. Sách này có tất cả 6 sách, hiện còn 4 sách, theo mục lục có 10 quyển. Cả hai văn bản có chữ Hán và chữ Nôm xen kẽ, chữ Hán chú âm, chữ Nôm chú nghĩa thơ. ý nghĩa của bộ điển tịch này ở chỗ, nó mở màn cho lịch sử thời đại văn học dịch - văn học Nôm Việt Nam. Sách diễn Nôm Thi kinh ra đời sau đó có Thi kinh diễn nghĩa, Thi kinh diễn âm, Thi kinh quốc ngữ ca, Thi kinh chính nghĩa truyện chú v.v. Là những bản dịch Nôm, chú Nôm Thi kinh những sách này thường dùng hình thức đối chiếu Hán Nôm, thường dùng thể lục bát (thí dụ như Thi kinh diễn âm là lối phỏng dịch Thi kinh bằng thể thơ lục bát và song thất lục bát. Câu đầu tiên ở lời tựa thơ dịch Thi kinh quốc ngữ ca là “Học đòi thánh đạo, dám đọc Thi kinh; Cổ kim ngâm vịnh tính tình”, vì thế thúc đẩy một cách hữu hiệu bước quá độ của văn học Việt Nam từ thể thơ cổ Trung Quốc sang thể thơ Nôm Việt Nam. Việc lớn thứ hai là lưu hành bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Kim Vân Kiều truyện là tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân cuối đời Minh, miêu tả câu chuyện tình yêu ly hợp buồn vui của 3 người là Kim Trọng, Vương Thúy Vân và Vương Thúy Kiều, tên sách cũng là tên của 3 người này hợp thành. Năm 1812, nhà thơ Việt Nam đến Trung Quốc với tư cách là Chánh sứ triều cống, năm sau về nước, dịch Kim Vân Kiều truyện ra thơ Nôm thể lục bát, dài hơn 3.200 câu. Bản dịch của Nguyễn Du còn có tên Đoạn trường tân thanh và Kim Vân Kiều tân truyện. Dẫu rằng, bản dịch vẫn giữ nguyên nhân vật và cốt truyện của nguyên tác, hơn nữa “có 30 chỗ dịch toàn câu thơ cổ Trung Quốc, 27 chỗ mượn ngữ vựng, ý câu thơ cổ Trung Quốc, 46 chỗ lấy ngữ liệu Kinh Thi, 50 chỗ ngữ và ý có nguồn gốc từ điển tịch kinh truyện khác của Trung Quốc”(1), nhưng ở trình độ tương đương, nó vẫn thuộc loại tái sáng tác. ở điểm này liên quan đến cuộc đời của Nguyễn Du. Nguyễn Du nguyên quán là một miền quê, thời trẻ thường giao du với những người làm nghề thủ công xung quanh, thích tham gia các hoạt động dân gian như lễ hội, hát đối đáp. Bởi thế “ diễn âm” của ông thay đổi văn thể của nguyên tác, đi đầu trong việc dùng thể lục bát vào tự sự trường thiên; ông đã thơ hóa tiểu thuyết, thường dùng ngôn ngữ trữ tình để khắc họa hoạt động nội tâm của nhân vật, ông còn sử dụng một số tục ngữ, ngạn ngữ dân gian Việt Nam, như “Đào tiên giống tốt không ai biết, không thích đào tiên lại thích cam quýt”(2). So sánh hai loại Kim Vân Kiều truyện của hai nước Trung - Việt, chúng ta có thể hiểu được đặc trưng chung của tác phẩm “diễn âm” Việt Nam. Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du gây ảnh hưởng to lớn ở Việt Nam, trở thành kinh điển quan trọng nhất trong văn học Việt Nam. Tác phẩm này được in đi in lại nhiều lần với các danh nghĩa khác nhau và cũng ra đời một số lượng lớn tác phẩm chú thích, phỏng tác, diễn thơ, diễn ca. Trong đó, tác phẩm chú thích có Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu; có phụ chép Kim Vân Kiều quảng tập truyện liên quan đến bình luận và khảo chứng Truyện Kiều; có Kim Vân Kiều chú bình, tựa, bạt, có Kim Vân kiều truyện chú, Kim Vân Kiều lục do Phạm Quý Thích và một số người nữa soạn; có Kim Vân Kiều hợp tập, Kim Vân Kiều tân tập hợp biên hai loại Kim Vân Kiều truyện chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó tác phẩm phỏng tác, có Kim Vân Kiều tập (ý nói “phỏng theo Kim Vân Kiều”), in trước năm 1875, thể loại hát chầu văn (điệu nhạc hát dân gian miền Bắc Việt Nam ), cả thảy 3 hồi, diễn xướng câu chuyện Thúy Kiều gặp Kim Trọng, Thúy Kiều báo ân báo oán; có Thù thế tân thanh do Trần Thử soạn, cả thảy 6 hồi, diễn xướng câu truyện Kim Vân Kiều bằng điệu chèo; có Kim Vân Kiều phú tác giả khuyết danh. Trong đó, tác phẩm diễn thơ, diễn ca, có Thanh Tâm Tài nhân thi tập do Trần Bích San, Chu Mạnh Trinh soạn, biên góp 20 bài thơ Nôm vịnh thân thế Thúy Kiều; có Hội đề Kiều thi do Hà Quyền soạn, biên góp 50 bài thơ Nôm; có Vịnh Thúy Kiều thi tập do Thập Xuân Thị (hiệu Phong Tuyết Chủ Nhân) soạn, biên tập năm Mậu Tý niên hiệu Minh Mệnh (năm 1829); có Thơ vịnh Kiều ca vịnh câu chuyện Thúy Kiều gặp Kim Trọng, nhảy xuống sông Tiền Đường, được tiên công cứu sống; có 30 bài Thúy Kiều sở ngộ cảnh huống thi do Nguyễn Thực Đình soạn; có Thúy Kiều lục, Thúy Kiều tập của tác giả khuyết danh; có Kim Vân Kiều ca do Lương Gia Tử biên tập; có Kim Kiều diễn ca của tác giả khuyết danh. Những tác phẩm này không ngừng làm lớn mạnh truyền thống văn học Việt Nam lấy “diễn” làm tiêu chí - biểu hiện của việc coi trọng các hình thức nghệ thuật của các đề tài khác nhau, sự thẩm thấu của việc coi trọng yếu tố văn học giữa các thể tài khác nhau. Sự thẩm thấu ấy được sáng tạo dưới danh nghĩa mô phỏng, kết quả là làm phong phú thêm sức biểu hiện của văn Nôm và cũng hình thành một loạt tập quán thẩm mỹ và mô thức văn học dân tộc. Điều đặc biệt thú vị là, trong lúc Thanh Tâm Tài Nhân hầu như bị người Trung Quốc lãng quên dần thì Kim Vân Kiều truyện lại đang thực hiện chuyến trở về Trung Quốc hoặc thế giới Hán ngữ. Một biểu hiện quan trọng trong đó là, trong dân chài dân tộc Kinh ở Sơn Tâm, Vạn Vĩ tỉnh Quảng Tây lưu truyền bài ca tự sự bằng tiếng Kinh về Kim Trọng và A Kiều, “Mỗi lần đến hội hát xướng, ở nơi đình hát, gái trai ca hát diễn xướng”(3). Sau khi nhóm người từ Việt Nam thiên di đến học được tiếng Hán, những bài ca tự sự liên quan đến Kim Trọng với A Kiều lại được dịch ra phương ngôn tiếng Hán Quảng Đông, được lưu truyền bằng hình thức câu chuyện dân gian(4). Một hiện tượng khác là, ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được thư tịch “diễn âm” Kiều truyện từ Nôm dịch ra Hán. Trong đó bao gồm Việt Nam âm Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi (thể thơ thất ngôn) của Từ Nguyên Mạc, Thúy Kiều quốc âm dịch xuất Hán tự (thể thơ thất ngôn) của Lê Mạnh Thát, Kim Vân Kiều Hán tự diễn âm ca (thể lục bát, còn có tên Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca) của Lê Dụ(5), cũng bao gồm hai quyển chép tay Vương Kim truyện quốc âm - Vương Kim truyện diễn tự do Nguyễn Kiên chú thích và dịch Hán, và Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập của “Đông y học sĩ Trương Tam Vũ”. Sách của Nguyễn Kiên do Vương Kim truyện quốc âm và Vương Kim truyện diễn tự hợp thành. Vương Kim truyện quốc âm dùng chữ Hán chú thích điển cố và chữ khó trong Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du Vương Kim truyện diễn tự dịch Hán theo thể lục bát Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Sách của Trương Cam Vũ là thể thơ thất ngôn, sáng tác năm 1961. Hai hiện tượng nói trên, thực tế đại biểu cho một phương thức “diễn” nữa - phương thức diễn từ Nôm ra Hán, người Việt Nam gọi đó là “Hán tự diễn âm” và “diễn tự”. Phương thức này lại thấy ở sách Quốc âm diễn thi thuộc loại Tổng tập. Sách này dùng thơ tứ ngôn phiên dịch phương ngôn, tục ngữ và ca dao Việt Nam, cho nên còn có tên “Quốc âm diễn tự”. Sự lưu hành các thuật ngữ “diễn tự”, “diễn thi” chứng tỏ giao lưu văn hóa luôn luôn là hai chiều, nó là tấm đệm ấm thai nghén thể văn mới. Lời tựa Tỳ bà quốc âm tân truyện nói “người Bắc dùng văn tự cầu thanh âm, văn tự bèn thành giọng điệu; người Nam lấy thanh âm cầu văn tự, thành âm có đủ thể tài” v.v. Chúng ta biết rằng những thuật ngữ này còn phản ánh cách nhìn nhận của người Việt Nam đối với đặc trưng văn học ngôn ngữ Trung Việt: văn học Trung Quốc lấy “chữ” làm phương tiện chuyển tải chủ yếu, còn văn học Việt Nam lại chủ yếu lấy “âm” làm phương tiện chuyển tải. CHÚ THÍCH (1) Trương Chính: Cha ông ta đã cố gắng làm trong sáng và phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc như thế nào ? Tạp chí Ngôn ngữ (tiếng Việt) số 2 năm 1972. ở đây trích chuyển dẫn của Lâm Minh Hoa trong Trung Quốc văn học tại Việt Nam. Xem Trung Quốc văn học tại Đông Nam Á, Nxb. Đại học Ký Nam, năm 1999, tr.45. (2) Đổng Văn Thành: So sánh “Kim Vân Kiều truyện” Trung - Việt, in trong Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, tập 5. Nxb. Văn nghệ Xuân Phong, 1987. (3) Kim Trọng dữ A Kiều đăng trong Tuyển tập chuyện dân gian dân tộc Hồi, Di, Thủy, Ngật, Lão, Mao Nam, Kinh, Nxb Nhân dân Quảng Tây, 1988; Kinh tộc văn học sử, Nxb. Giáo dục Quảng Tây, 1993, tr.106. (4) Xem Phó Quang Vũ: Dã đàm Kim Trọng dữ A Kiều cập Trung Việt văn hóa giao lưu. Nxb. Đại học Vân Nam, 1994. (5) Các sách kể trên, xem Trần ích Nguyên: Việt Nam Kim Vân Kiều truyện, đích Hán văn dịch bản, đăng trong Trung Hoa văn hóa dữ thế giới Hán văn học luận văn tập: Văn học ti lộ, Hội nhà văn Hoa Văn thế giới, 1998. |