TB

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 TRONG
TÂM TƯ MỘT SỐ NHÀ NHO QUA THƠ VĂN HỌ

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN

Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám năm 1945 và vài ba năm tiếp theo, các nhà khoa bảng thời lều chõng những nhà nho uyên bác có lòng yêu nước nồng nàn không kể chính giới, chính kiến khác nhau đều được quy tụ dưới lá cờ đỏ sao vàng, dưới uy tín về chính sách dùng người của Hồ Chủ tịch. Trong số đó phải kể đến các cụ: Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Đinh Chương Dương, Bùi Kỷ, Võ Liêm Sơn. Các cụ này ít nhiều đã có thơ xướng họa với Hồ Chủ tịch. Song còn rất nhiều các nhà Nho nơi thôn dã mà trình độ học vấn, lòng yêu nước của họ không thua kém ai. Thơ văn một số cụ mà chúng tôi sưu tập được đã phản ánh sinh động nỗi niềm và lòng tin của họ vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc đang thời trứng nước. Do điều kiện tuổi tác và sức khỏe, các cụ hồi bấy giờ phần nhiều không thể thi thố tài năng bằng cách lên đường đi cứu nước. Có cụ đang nằm trên giường bệnh, khi cách mạng thành công cũng bật dậy viết những bài “thời cảm” đầy sảng khoái. Nay đọc lại những bài thơ ấy, chúng ta không khỏi cảm động, không chỉ cảm thương cuộc đời lận đận vì nước vì dân của các cụ mà chưa toại chí thanh vân. Nó còn là một bảng niên giám phản ánh những suy tư trước thời đại mới của lớp nhà nho thời lều chõng mà những người làm văn học sử giai đoạn giáp ranh này không thể không lưu tâm.

Sau đây là những minh chứng:

Thời cảm ngẫu hứng

Bài 1

Độc lập cơ quan diệu nhược thần,
Giải huyền chửng nịch cứu ngô dân.
Tự hữu anh hùng tạo thời thế,
Toàn bằng chiến sĩ lập công huân.
Do đa quốc thủ trù hương sách,
Thả hướng giang đấu bạn ẩn luân.
Lô vĩ hoa gian tọa điếu tẩu,
Nhất xoa phong nguyệt triển duyên luân.

Dịch xuôi:

Nền độc lập là then khóa kỳ diệu như thần,
Cởi người bị treo, vớt người chết đuối để cứu dân ta.
Đất nước từ khi có người anh hùng xoay lại thời cuộc,
Là nhờ có chiến sĩ lập nên công lao.
Còn nhiều nhân tài tầm cỡ để bàn mưu kế hay,
Đã tạm lui về chốn mom sông làm kẻ nhàn nhã,
Giữa đám hoa lau lách làm ông già câu cá,
Với bầu gió trăng cởi bỏ sự ràng buộc cũ.

Bài 2

Quốc vận long hưng đại cục thành,
Lư diêm trùng điểu cấm vô thanh.
Quân dân nhất thể tiêu cường địch,
Nhật nguyệt trùng quang ngưỡng Chí Minh.
Lô Tản sơn hà hân tái tạo,
Tiên long miêu duệ úy tam sinh.
Thái hòa sạ tỉnh Lư Chu mộng,
Bạch thủ phù lê thượng lộ hành.

Dịch xuôi:

Vận nước thịnh trị, đại cục đã thành,
Trong thôn xóm nhân dân im bặt tiếng kêu than.
Quân dân đoàn kết đánh tan giặc mạnh,
Mặt trời, mặt trăng lồng sáng, (nhân dân) ngưỡng mộ cụ Hồ Chí Minh.
Non sông Lô Tản nay mừng được xây dựng lại,
Giống nòi Rồng Tiên được yên vui cuộc sống.
Đời thanh bình chợt tỉnh mộng Lư Chu,
Đầu bạc cũng chống gậy lên đường giúp nước.

Bài 3

Nhật xuất đông phương chiếu Hán thư,
Hà dương xử sĩ tiếu vô lư.
Trì khu trí lực tê Hồ mã,
Dịch thuật vô tài quý đố ngư.
Lộ thượng thanh vân giai tuấn tú,
Sàng đầu hoàng quyển tự kê cư.
Luyện đan thí tự tầm tiên phẩm,
Cảm vị đa văn phú ngũ xa !

Dịch xuôi:

Phương đông mặt trời mọc soi vào chồng sử sách,
Người xử sĩ ở bên sông cười mình không có nhà.
Bao năm rong ruổi hết sức, ngựa Hồ gào rát cổ,
Không có tài sắp đặt sự việc, thẹn với con mọt sách.
Trên đường người cao sang đều là những bậc tài tuấn,
Nhà nho với quyển sách bìa vàng ở đầu giường.
Thử luyện đan tựa như tìm thuốc tiên,
Đâu dám nói học rộng những năm xe sách !

Ba bài này tác giả viết vào trang bìa giữa Quyển 1 Quyển 2 cuốn Cổ văn quan chỉ. Tác giả không ghi tên, ta chỉ biết ông là bạn của cụ Nguyễn Công Chuẩn (1885 - 1956). Bấy giờ (8/1945) cụ Chuẩn đang làm Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Qua ba bài, tác giả ca ngợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 kỳ diệu như thần và thấy nhân tài của đất nước xuất hiện rất nhiều. Liên hệ với mình, vậy thì ta lui về nơi mom sông làm một ẩn sĩ chăng ? Làm một ông già trong đám hoa lau lách ngồi câu, lấy trăng gió làm bạn, sống một cuộc sống tự do ? Ca ngợi Cách mạng nhưng chưa dám nhập cuộc.

Đến bài 2 và 3 thì tư tưởng tác giả đã tiến triển theo hướng tích cực. Đã tỉnh mộng Lư Chu (Phải chăng là Lư Sinh người nước Yên, thời Tần Thủy Hoàng nhận mệnh lệnh xuống biển tìm thuốc tiên không kết quả bèn trốn mất tích ?), dù tuổi đã già vẫn chống gậy lên đường, cùng con cháu làm nhiệm vụ giúp nước hợp theo với khả năng của mình.

Tác giả tự soát xét lại mình, trước đây ta cũng từng hoạt động, từng rong ruổi. Chữ “Tê Hồ mã” dùng rất hay, do câu thơ cổ: “Việt điểu sào nam chi, Hồ mã tê bắc phong”, Chim Việt (gốc phương Nam) chọn cành phía Nam để làm tổ; ngựa Hồ (gốc phương Bắc) hí lên mỗi khi gió Bắc thổi, ý nói tác giả đi theo Cách mạng là chuyện hết sức tự nhiên.

Tác giả tự khiêm không có tài dịch thuật. “Dịch thuật” ở đây không có nghĩa là “dịch sách” mà là tài tổ chức, chỉ huy, sắp đặt công việc quốc kế dân sinh, vì vậy mà thẹn với con mọt sách. Thực tế là thẹn với sách vở, với cổ nhân. Vậy thì ta, kẻ nho sĩ này, với quyển sách bìa vàng ở đầu giường luôn tự nghiên cứu, nghiền ngẫm. “Hoàng quyển” còn có thể hiểu là sách Nội kinh của Hoàng Đế. Nay Cách mạng đã nổ ra muốn tìm đến giúp. Đó là ý bóng của câu “Luyện đan thí tự tầm tiên phẩm”(Thử luyện đan tựa như tìm thuốc tiên). Thuốc tiên đây chính là nền độc lập của Tổ quốc sau 80 năm dài nô lệ, nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng quần chúng cách mạng đã giành được chính quyền về tay nhân dân, như cởi người bị treo cổ, vớt người bị chết đuối.

Nay đọc lại những bài này vừa thấy nhớ vừa thấy thương tác giả và cũng là dịp cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa lịch sử và tầm vóc có tính quốc tế của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Bài Cảm hứng của cụ Đặng Xuân Viện (1880 - 1958)(1) người làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định viết vào dịp đầu xuân năm 1946 lại ngụ một ý vị vừa hồ hởi vừa kín đáo:

Thanh niên thời đại hỷ vi nhi,
Kỳ nại niên hoa giới cổ hy.
Lão nhãn tằng kinh tang hải biến,
Thâm hoài chỉ hứa thụ vân tri.
Cửu tàng trọng bảo tồn gia thặng,
Độc lập tiên phong khán quốc kỳ.
Liệu đắc xuân lai hoa hủy hảo,
Giang sơn trùng hoán cựu tu my.

Dịch xuôi:

Thanh niên thời đại (ngày nay) mừng được làm trai,
Có sá chi tuổi tác đã tới tuần bảy mươi.
Đôi mắt già đã từng qua bao phen dâu bể,
Đáy lòng ta chỉ có cây cối và trời mây biết.
Gia phả quý lâu đời cất giữ vẫn còn,
Nền độc lập là tiên phong được ngắm nhìn lá quốc kỳ.
Mùa xuân đến hoa cỏ sẽ tốt tươi,
Non sông này đã đổi mới bộ mặt xưa.

Dịch thơ:

Xuân xanh mừng phận được làm trai,
Nào quản chi tuần tới bảy mươi.
Đôi mắt đã từng bao biến đổi,
Tấm lòng mong mỏi gặp hiền tài.
Nhà còn gia phả lâu đời quý,
Nước có quốc kỳ độc lập vui.
Mong đến xuân sang hoa nở thắm,
Cùng non sông đổi mới đua tươi !

Dịch thể lục bát:

Thanh xuân mừng được làm trai,
Kể chi lứa tuổi bảy mươi là già.
Mắt từng dâu bể phôi pha,
Lòng riêng mong mỏi thiết tha hiền tài.
Quý thay gia phả lâu đời,
Quốc kỳ độc lập rợp trời tung bay.
Xuân về sắc thắm hương say,
Non sông cùng với cỏ cây rạng ngời.

Cụ Đinh Chương Dương quê Thanh Hóa, là một trong những nhà Cách mạng tiền bối của nước ta. Năm 1950 tôi đến thăm cụ ở Mả Hùm huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bấy giờ cụ đã già yếu lắm nhưng tinh thần vẫn tươi vui, minh mẫn. Cụ biết tôi là con cháu gia đình ở nhà số 7 phố Bến Ngự, Nam Định nơi cụ đã gặp đồng chí Lê Hồng Sơn năm 1925 để tìm chọn những thanh niên trí thức yêu nước đưa sang Quảng Châu để dự lớp huấn luyện chính trị đặc biệt do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc tổ chức. Dạo ấy cụ đọc cho nghe một số bài thơ cụ sáng tác, nay chỉ còn nhớ được bài Tản cư sau đây:

Tản cư đến ở giữa rừng xanh,
Chỉ có non sông mới có mình.
Mười mặt um tùm cây đắp lũy,
Bốn phương lai láng nước xây thành.
Bi boong hồi giục cồng xua thú,
Bí bốp khua chừng mõ khắc canh.
Thấp thoáng đèn khuya mưa bốn vách,
Chuyện nhà, việc nước nghĩ loanh quanh.
Đời không ta thiếu có ta thừa,
Quyển sách cầm tay giấc ngủ trưa.
Danh lợi mặc đời cơn gió thoảng,
Áo quần tươm tướp xuống màu dưa.
Ngại đi nên bạn luôn hò hẹn,
Hay tắm cho lòng sạch bụi nhơ.
Kháng chiến bền gan hẳn thắng lợi,
Rừng xanh núi thẳm khách ngâm thơ.

Trong bài thơ ngũ ngôn dài 44 câu gửi bạn tâm khế Vũ Cánh Sinh, Trúc Khê Ngô Văn Triện(2) giãi bày tâm sự mang màu sắc của sự phản tỉnh. Bài thơ trang nhã, thành thực với chính mình, với tri âm tri kỷ. Cảnh quan trong thơ dù là mấy nét chấm phá cũng gợi cho người đọc hôm nay cảm nhận được sự gian khổ hy sinh và quyết tâm của toàn dân chống xâm lược lớn lao và sắt đá như thế nào !

Sau đây là phần phiên âm và dịch thơ bài Ký lão tâm khế Vũ Cánh Sinh của Ngô Văn Triện:

Phiên âm:

Ký lão tâm khế Vũ Cánh Sinh

1. Tương vi duyệt ngũ nguyệt,
Bồi hồi Vũ Cánh Sinh.
Quốc vận tao truân kiển,
Thân cố các phiêu linh.
5. Công cư Hát Giang lục,
Ngã ẩn Tản Sơn thanh.
Địch quân lũ khủng bố,
Khởi cư vô nhật ninh.
Đỗ Lăng thi đoạn tục,
10. Vương Xán lệ tung hoành.
Sinh kế các nhật bách,
Khả tưởng tiến tiền trình.
Nại sự thế tiện thử,
Như dục đáo chiến chinh.
15. Duy hữu tự chất lệ,
Toàn dân lâm lỗ đình !
Chiến sự tất yếu phát,
Võ công tất yếu thành.
Duy tư tạ thời nhật,
20. Dân thụ đại hy sinh.
Ngô bối tiền hứa thời,
Hữu chí sự vô thành.
Điều kiện vị sinh bị,
Cam nhận bất tài danh.
25. Tế thử phong lôi vận,
Dũng dược nan dung hình.
Kham tích khí lực suy,
Tùy lực hiệu vi khinh.
Hậu phương tiến thoái độn,
30. Nan vi kiến mã hành.
Ức công sở vị nhân,
Bất dữ thế tương tranh.
Trí tiết linh nhân kính,
Phong độ linh nhân khuynh.
35. Thất nội thường lũ không,
Thần thái nhưng ôn bình.
Vong niên kết bạn tốt,
Ngã hạnh thiệp Lan Đình.
Quan hà viễn âm tín,
40. Vân thủy hạt thăng bình.
Kiền lai anh bệnh tháp,
Lũ huống dữ huỳnh huỳnh.
Tư công nhật cánh thiết,
44. Hồng tiện thái tường trình !

(Đinh Hợi thu)

Dịch thơ

Gửi bạn già tâm đắc Vũ Cánh Sinh(3)
(Tác giả Ngô Văn Triện tự dịch)

1. Cách nhau vừa 5 tháng,
Càng nhớ Vũ Cánh Sinh.
Vận nước gặp truân kiển,
Thân cố đều phiêu linh.
5. Ông ở dòng Hát biếc,
Tôi ẩn Tản Sơn xanh.
Quân địch thường khủng bố,
Ăn ở không yên lành.
Đỗ Lăng(4) thơ đứt nối,
10. Vương Xán(5) lệ tung hoành.
Sinh kế dần quẫn bách,
Tưởng tượng thấy tiền trình.
Vì sự thế đến thế,
Nếu muốn trốn chiến tranh.
15. Chỉ có tự gông trói,
Toàn dân làm tù binh!
Chiến sự tất phải có,
Võ công tất yếu thành.
Còn phải trải ngày tháng,
20. Chịu gắng đại hy sinh.
Chúng ta lớp người trước,
Có chí mà không thành.
Mọi sự không đầy đủ,
Cam chịu bất tài danh.
25. Vận may cơn gió thuận,
Mừng rỡ khôn dung hình.
Chỉ tiếc tuổi suy kém,
Tùy lực góp đỉnh đinh.
Phương sau đành lẽo đẽo.
30. Trông theo cuộc đấu tranh.
Nhớ ông vốn là người,
Danh lợi không tranh giành.
Trí tiết khiến người kính,
Phong độ khiến người khuynh.
35. Nhà trong thường thiếu thốn,
Thần thái vẫn ôn bình.
Quên tuổi tìm bạn tốt,
Cùng ta chốn Lan đình(6)
Quan hà bặt âm tín,
40. Mây nước biết bao tình.
Từ khi ta phải bệnh,
Nhớ bạn những loanh quanh.
Nhớ ông càng tha thiết,
44. Tin nhạn muốn bay nhanh.
Mùa thu năm Đinh Hợi (1947)

CHÚ THÍCH

1- Cụ Đặng Xuân Viện là con thứ tư của Tiến sĩ Hy Long Đặng Xuân Bảng và là thân phụ của cố Chủ tịch Trường Chinh. Cụ Viện vốn dòng dõi Nho học, chịu ảnh hưởng tân học Khang, Lương, không chuyên về cử nghiệp, thiên về tân học, chuyển sang nghiên cứu Việt sử, Việt văn, đề cao tinh thần dân tộc, là người rất có khí phách. Bài thơ của cụ Viện đã được Chủ tịch Trường Chinh xem lại và có sửa một chữ “Kỳ” ở đầu câu thứ hai, trước khi chuyển tới Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh ủy Thái Bình do đồng chí Nguyễn Thanh Vân làm Trưởng ban, ngày 28 - 5 - 1982 - NTĐ.

2- Ngô Văn Triện (? - 1949): hiệu Trúc Khê, người làng Thị Cấm, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Những năm 1928 - 1929 ông hoạt động trong Việt Nam Quốc dân đảng thời Nguyễn Thái Học; bị bắt giam ở Hà Nội nhân vụ đảng này giết tên Ba Jin của sở mộ phu Ba lăng tháng 3 năm 1929. ít lâu sau ông được tha, từ đó ông chuyên viết và dịch sách. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tản cư lên Ba Vì tỉnh Sơn Tây và mất ở đây vào năm 1949.

3- Vũ Cánh Sinh: tức Vũ Ngọc Thụy (1883 - 1960) con cụ Vũ Trác (tục gọi Kép Canh). Cụ Trác là Trưởng giáo Đông Kinh nghĩa thục (ĐKNT) (1907), đã từng về Hà Đông diễn thuyết với Hoàng Tăng Bí và Phan Chu Trinh. Nơi diễn thuyết đầu tiên là làng Phương Canh, huyện Hoài Đức (Trần Văn Giàu - Lịch sử cận đại Việt Nam - Nxb. Giáo dục, 1975, tr.227).

Vũ Ngọc Thụy là hội viên ĐKNT, phụ trách cửa hiệu Đồng Lợi Tế ở Vĩnh Yên. Phong trào ĐKNT thất bại, Ngọc Thụy trốn sang Trung Quốc, không bắt liên lạc được với các đồng chí ở hải ngoại, trở về đến biên giới bị Pháp bắt giam bảy năm ở Tuyên Quang. Hết hạn tù, bị quản thúc 5 năm. Thời gian này Ngọc Thụy (Vũ Cánh Sinh) sống ở quê nhà dạy học và làm thuốc. Bạn bè thân cận của Ngọc Thụy có Trúc Khê Ngô Văn Triện, cụ lang Hàm (thân phụ đồng chí Xuân Thủy, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao). Trong kháng chiến, ông tản cư về làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây cũ tiếp tục làm nghề dạy học và làm thuốc, sống cuộc đời thanh bạch (Tư liệu trên do ông Vũ Ngọc Kha, con cụ Vũ Ngọc Thụy người xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, trú quán ở Lô A17 - Phòng 6E-17 - khu tập thể Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, Hải Phòng cung cấp cho người viết bài này).

4- Đỗ Lăng: tức Đỗ Phủ, nhà thơ lớn đời Đường.

5- Vương Xán: người Cao Bằng nước Ngụy thời Tam Quốc. Ông tên chữ là Trọng Tuyên, là người học rộng, biết nhiều, giỏi về văn học. Sái Ung rất ngạc nhiên về kỳ tài của Vương Xán, thân hành đến mời. Mọi người thấy Vương Xán ít tuổi, nhỏ bé đều lấy làm kinh ngạc. Cuối đời Hán, ông tránh loạn ở Kinh Châu, dựa vào Lưu Biểu. Sau làm quan với Ngụy đến chức Thị Trung - Ông là một trong bảy tài tử đời Kiến An.

6- Lan đình: Nơi Vương Hy Chi, nhà thư pháp nổi tiếng của Trung Quốc đời Tấn viết bài Lan đình tự cùng đông đảo các bạn bè của ông. Lan đình trở thành biểu tượng chốn hội tụ các nhà văn, các nghệ sĩ tài danh.

TB

QUAN HỆ VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC
TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

NGUYỄN VĂN HIỆU

1.Từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm l945, quan hệ văn học Việt Nam - Trung Quốc rơi vào thế rất không thuận chiều, so với những thế kỷ trước đó.

Trước hết là do sự chi phối mạnh mẽ của thực dân Pháp. Ngay từ buổi đầu xâm lược, dù theo đường lối “đồng hóa” (assimilation) hay "hợp tác" (association), thực dân Pháp cũng đều xem việc tách Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc là một trong những biện pháp hữu hiệu để nô dịch(l). Chúng cũng sớm nhận ra chữ Nho là một cản trở lớn đối với sự phát triển của nền văn minh châu Âu(2) và là lợi khí của người Việt trong việc tiếp thu văn minh Trung Hoa, Nhật Bản(3). Thay chữ Nho bằng chữ quốc ngữ Latinh để từng bước thay toàn bộ bằng chữ Pháp, triệt tiêu hoặc gạt bỏ Hán học ra khỏi địa vị chính thống là những chủ trương thâm độc và nhất quán của thực dân Pháp và chúng cũng đã khá thành công. Ngày 17/3/l879 Pháp thiết lập Sở học chính Nam Kỳ (Service de l’Instruction Publique) và đặt hệ giáo dục Pháp - Việt ở Nam Kỳ đánh dấu sự mất địa vị chính thống của Hán học ở đây. Năm 1917 với bộ Học chính tổng quy (Reglementation général de l' lnstruction Publique en Indochine) do toàn quyền Sarraut ban hành bằng Nghị định ngày 21-12-1917 thì Hán học chỉ còn là cái bóng mờ, cả ở Bắc lẫn Trung kỳ. Học chính tổng quy chỉ cho phép Hán học trở thành một môn cổ điển dạng như môn “cổ điển Hy - La” ở Châu Âu.

Cùng với những chủ trương nô dịch đó, thực dân Pháp đặc biệt phong bế quan hệ Việt - Trung, nhất là sau làn sóng Tân thư đầu thế kỷ XX. Theo Giáo sư Đặng Thai Mai, “từ năm 1910 trở đi, chúng đã rào đón rất gắt không cho tư tưởng mới của Trung Quốc lọt vào đất nước Việt Nam này nữa. Chúng đã kiểm duyệt từng tờ báo, từng cuốn tạp chí mà người Hoa kiều mang theo để đọc... Bộ sách Cộng hòa quốc văn là một cuốn sách dạy cho học sinh Trung Quốc tập đọc và tập viết văn “mới”. Nhưng chính phủ Đông Dương cũng cấm lưu hành một tập trong số đó, chỉ vì trong đó có bài tập đọc có mấy câu về vận động giải phóng các dân tộc bị áp bức”(4). Đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho suốt thời gian khá dài chúng ta hầu như không biết gì hoặc biết hết sức mơ hồ, phiến diện về những cuộc vận động chính trị, văn hóa cũng như những tên tuổi lớn của nền văn học mới Trung Quốc vốn có tiếng vang từ thời Ngũ tứ vận động (1919). Đến những năm bốn mươi của thế kỷ XX, từ 1942, nền văn học mới Trung Quốc qua những tên tuổi tiêu biểu như Lỗ Tấn, Tào Ngu mới được giới thiệu ở Việt Nam và tính đến Cách mạng tháng Tám đấy vẫn chỉ là việc làm có phần đơn độc của giáo sư Đặng Thai Mai. Có thể nói đây là một khoảng trắng đáng sợ trong quan hệ giao lưu văn hóa Việt - Trung(5).

Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng gắn với nhận thức đương thời về xu thế văn hóa - lịch sử của thời đại, cụ thể là của á Đông trước làn sóng bành trướng của phương Tây. Đó là xu thế theo gương Nhật, học tập theo mô hình văn minh phương Tây để tự cường. Không phải không có cơ sở khi có người cho rằng: “xét về mặt lý luận, đối với văn học Việt Nam hiện nay, sự tiếp xúc văn học Việt - Pháp còn quan trọng hơn tiếp xúc văn học Việt - Hoa, mặc dù sự tiếp xúc thứ nhất kéo dài hai ngàn năm, trái lại sự tiếp xúc thứ hai chủ yếu bó hẹp trong một thời gian ngắn ngủi dưới một thế kỷ (l858 - 1945)(6). Trong bối cảnh đó quan hệ văn hóa, văn học Việt - Trung từng bước bị đẩy vào hàng thứ yếu. ở một góc độ nào đó cũng có thể nói, có một quá trình “giải thiêng” đối với mẫu hình Trung Hoa. Từ cuối thế kỷ XlX, Nguyễn Lộ Trạch trong Thiên hạ đại thế luận (1892) đã trình bày thực trạng nước Trung Hoa và xem nước này không mất đã là may mắn lịch sử. Qua đầu thế kỷ XX, Hán học đã nhanh chóng trở thành "cựu học" ngay cả với người xuất thân từ chính “cửa Khổng sân Trình”. Từ sau những cuộc vận động văn hóa - chính trị đầu thế kỷ bị đàn áp, từ sau thời nhiệt thành với tư tưởng Khang, Lương, hầu như chúng ta không quan tâm và không tin tưởng mấy ở Trung Quốc, cả về chính trị lẫn văn hóa. Năm 1933 ông Lê Dư coi cuộc "Tân văn hóa vận động của Trung Quốc chỉ là chuyện ta đã làm trước Tàu ngót nghìn năm rồi"(7). Đến những năm bốn mươi, Hoài Thanh cũng cho Trung Quốc hiện đại không có gì, chỉ còn cái đẹp cổ xưa như sứ Giang Tây, thơ Đường.

ở một vận động hẹp hơn, trước thực tiễn xây dựng nền văn học mới, văn chương cũ càng ngày càng bộc lộ vẻ sáo mòn, gò bó trong khi nền văn học mới trên cơ sở chữ quốc ngữ ngày càng được xã hội hóa lại vận động theo hướng “văn ngôn nhất trí”. Văn quốc ngữ có mầm mống từ cuối thế kỷ XIX qua đầu thế kỷ XX đã nhanh chóng trở thành bộ phận văn học chủ đạo và lối viết theo kỹ thuật phương Tây dần dần được chú trọng. Ngay từ 1901 những người chủ trương Nông cổ mín đàn (NCMĐ) cũng muốn theo điệu của TrươngVĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của mà viết theo “điệu văn từ” hơn là theo “điệu ca ngâm” trước đây (NCMĐ số 14 - 1901). Không chỉ có văn xuôi. Nói đến thơ Mới hầu như không thể không nói đến nguồn ảnh hưởng của văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp. Trong tương quan với quan hệ văn học Việt - Trung, có thể thấy nhận xét của Lê Thanh là xác đáng: “Cái ảnh hưởng kia càng mạnh bao nhiêu thì cái ảnh hưởng của văn học Trung Hoa nhạt đi bấy nhiêư”(8).

2. Tình hình trên hạn chế nhiều mặt đến giao lưu văn hóa, văn học Việt - Trung. Đó là điều đáng tiếc, nhất là trong lúc vận động văn học hai nước có nhiều nét tương đồng và nền văn học mới Trung Quốc cũng có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên cũng chính trong sự “phân giải quan hệ” này lại nổi lên khá đặc trưng vai trò của văn học Trung Quốc với văn học Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa.

2.l. Điểm nổi bật đầu tiên là văn học Trung Quốc, đúng hơn là văn học thông tục Trung Quốc, như có một "sinh mệnh mới" trong buổi đầu của nền văn học mới Việt Nam. Chúng được dịch hoặc được vận dụng như là vốn sẵn có để sáng tác lại với một số lượng lớn, phong phú, đa dạng góp phần quan trọng trong sự hình thành nền văn xuôi quốc ngữ. Nếu như cuối thế kỷ XIX, công việc dịch thuật hoặc cải biên kia còn gắn chủ yếu với mục đích phổ biến chữ quốc ngữ thì qua đầu thế kỷ XX đã gắn với mục đích đáp ứng nhu cầu đọc và thị hiếu thẩm mỹ của công chúng(9). Chính nhu cầu, thị hiếu này là động lực của việc dịch thuật, cải biên văn học Trung Quốc đầu thế kỷ XX và khởi phát nên phong trào dịch thuật truyện Tàu chỉ trong vòng bốn, năm năm (1906 - 1910) đã có ngót trên 30 bộ được dịch, trong đó có những bộ có giá trị cổ điển như Tam quốc chí (1901, 1907), Đông Chu liệt quốc (1906), Thủy hử (1907)...

Đã có nhiều ý kiến về dịch thuật truyện Tàu trong buổi đầu nền văn chương quốc ngữ. Theo chúng tôi, cần chú ý nhiều hơn đến thực tiễn văn học bấy giờ, nhất là đến nhu cầu thưởng thức của công chúng. Không phải ngẫu nhiên Canavaggio, người dịch Tam quốc chí trong Nam từ 1901 và Phan Kế Bính, người dịch Tam quốc chí ngoài Bắc từ 1907, lại gặp nhau ở điểm đều xuất phát từ nhu cầu đọc của công chúng (tác phẩm văn học truyền thống không nhiều trong khi lượng người đọc ngày càng cao)(10) và đều chọn dịch Tam quốc chí diễn nghĩa. ý kiến của Phan Kế Bính có nhắc đến vai trò của chữ quốc ngữ rất đáng lưu ý: “Đáng tiếc là chữ dễ đọc, người người đều hiểu, nhưng biết tìm sách đâu mà đọc ? Đọc hết Cung oán ngâm khúc lại đọc Truyện Kiều, tất cả cộng lại cũng không quá mấy chục loại, người đọc nhanh chỉ ba ngày là hết sạch... Vì những nguyên nhân trên chúng tôi mới quyết định xuất bản những tập sách này” (tựa Tam quốc chí diễn nghĩa, 1907).

Bên cạnh tính thương mại, mà thực ra cũng là một biểu hiện của sinh hoạt văn học hiện đại, dịch thuật, cải biên văn học Trung Quốc nói chung, cao trào dịch thuật truyện Tàu hồi đầu thế kỷ XX nói riêng, còn phản ánh một thực tế là trong buổi đầu của nền văn học mới, dịch thuật thường đi trước sáng tác và dịch thuật thường xuất phát từ những vùng văn học gần gũi với mình, cả với dịch giả lẫn công chúng. Đó là hiện tượng mang tính quy luật và điều dễ thấy là nhiều tích truyện Trung Quốc vốn gần gũi với tâm thức của người Việt đã trở thành nguồn văn liệu phong phú cho văn học Việt Nam. Về mặt này, do mối quan hệ đặc biệt của quan hệ văn học Việt - Trung có từ lâu đời, nhiều giá trị văn học Trung Quốc đến với tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam như bước ra từ truyền thống. Và thực ra, trên văn đàn văn học Việt Nam buổi đầu cũng không phải độc chiếm mảng dịch thuật văn học Trung Quốc. Truyện thơ, đặc biệt là thơ dân gian phổ biến bằng hình thức “bổn cũ soạn lại” hoặc sáng tác mới cũng đáng gọi là phong trào. Tuy nhiên trong bối cảnh buổi đầu xây dựng nền văn học mới mà trước hết là nền văn xuôi quốc ngữ, công việc dịch thuật, cải biên văn học Trung Quốc bằng thứ ngôn ngữ gần gũi với đời sống là có ý nghĩa rất lớn. Cũng chính trong bối cảnh này, văn học thông tục Trung Quốc vô hình chung thành chất xúc tác cho sáng tác văn học . Năm l906, chủ bút NCMĐ bấy giờ là Trần Chánh Chiếu phát động cuộc thi tiểu thuyết trước hết là vì truyện Tàu đã được dịch nhiều nhưng truyện trong nước thì chưa có (NCMĐ số 262 - 23/10/1906). Mặt khác, việc truyện Tàu được dịch rầm rộ đã thật sự kích thích tự ái dân tộc của nhiều người cầm bút làm nở rộ những “tiểu thuyết kim thời” hoặc tiểu thuyết lịch sử trong vài thập niên sau của không ít tên tuổi như Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Văn Vinh, Hồ Biểu Chánh... Những tác phẩm này chịu ảnh hưởng sâu đậm của kết cấu truyện Tàu nhưng không phải không có những yếu tố phi truyền thống, cả về kết cấu lẫn thể tài.

2.2. Điểm nổi bật thứ hai dễ thấy là nếu như văn học thông tục Trung Quốc gắn rất sát với vận động của văn học Việt Nam về tiếp nhận cũng như sáng tạo và cho thấy sức hấp dẫn khá rộng rãi, lâu dài thì tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc - được hiểu là văn học “phi thông tục” - lại được “khai thác” trước hết là theo hướng bảo tồn và có phần muộn hơn khi ý thức học thuật có phần rõ nét và báo chí đã có bước trưởng thành. So sánh tiếp nhận văn hóa Đông - Tây trong giai đoạn này, có thể nói về cơ bản là tiếp nhận phương Tây để học theo và tiếp nhận vốn văn hóa cổ điển á Đông để lưu giữ - cả văn hóa Trung Quốc lẫn văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận định về công việc dịch thuật của ông Phan Kế Bính, cũng là nhận định có tính khái quát đối với công việc dịch thuật văn chương cổ điển Trung Quốc bấy giờ: “Những thứ văn ông biên tập và dịch thuật không phải hạng văn để người tầm thường đọc”(ll). Tuy nhiên công bằng mà nói, đó không phải là tinh thần hiếu cổ và dù chưa thật có hệ thống, những công trình biên khảo, dịch thuật của các ông Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục trên Đông Dương tạp chí; Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật trên Nam phong tạp chí (1917 - 1934) v.v. là đặc biệt có ý nghĩa trong buổi Hán học suy tàn và vốn văn hóa truyền thống có nguy cơ không có nhịp cầu nối vì sự chuyển đổi văn tự. Đó là chưa kể những công trình khảo cứu, dịch thuật văn học cổ điển Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn đối với nền văn học dịch và cả đối với khoa nghiên cứu văn học trong buổi chập chững của mình mà Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính, đăng trong chuyên mục Đông Dương tạp chí (từ số 167 - 180), sau in thành sách, đáng kể là tác phẩm tiêu biểu. Riêng về thơ, qua khảo sát, chúng tôi nhận ra điều khá thú vị : văn học quốc ngữ, trong đó chủ yếu là mảng dịch thuật, phát triển khá sớm ở trong Nam nhưng suốt mấy chục năm đầu thế kỷ XX, thơ cổ Trung Quốc hầu như không được để tâm đến, kể cả thơ Đường. Bài thơ Đường được dịch ra chữ Quốc ngữ sớm nhất có lẽ là bài Văn lân gia lý tranh của Từ An Trinh, Trương Minh Ký dịch thành hai bản, một theo vần bằng một theo vần trắc, nhưng là để minh họa cho phép làm thơ trong quyển Thi pháp nhập môn (1898). Qua 1901 trên NCMĐ có bản dịch bài Tiết phụ ngâm của Trương Tịch và dường như chỉ có thế. Điều đáng chú ý là Việt Nam ta có truyền thống dịch thơ Đường từ khá sớm và về phương diện này thực ra cũng không có khó khăn lắm đối với văn học dịch quốc ngữ, hoặc phiên âm hoặc dịch mới. Theo chúng tôi, đó cũng là một biểu hiện đáng chú ý về tiếp nhận văn học. Phải chăng, truyền thống văn hóa Nam Bộ thường có xu hướng tiếp nhận, thưởng thức những giá trị văn hóa văn học gần gũi với đời sống thường nhật hơn trong khi thưởng thức văn học ở miền Bắc có tính văn chương nghệ thuật hơn. Thực tiễn sáng tác và tiếp nhận văn học ở ta tính đến đầu thế kỷ XX cũng cho thấy điều đó là có cơ sở. Riêng cách dịch tiểu thuyết Trung Quốc cũng đã cho thấy “cách dịch tiểu thuyết ở Nam gần khẩu ngữ miền Nam còn cách dịch ở Bắc có phần văn chương hơn” như Giáo sư Phan Ngọc nhận định(12). Tuy nhiên ngay trên đất Bắc, khi Nam phong tạp chí dành đất cho trang văn uyển, dịch thơ cổ và đặc biệt là sau những bản dịch thơ Đường do Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến sao lục khởi in từ Nam Phong số 9 (1918) thì việc sao lục hoặc dịch thuật thơ cổ Trung Quốc mới thật sự khởi sắc, và vẫn chủ yếu là thơ Đường.

Thơ Đường trên Nam Phong chiếm số lượng lớn. Chỉ riêng sao lục của hai ông Đông Châu và Lê Dư đã ngót 200 bản; Phạm Sỹ Vĩ dịch Thiên gia thi; Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục dịch gần 100 bài và rất nhiều dịch giả khác như Đàm Xuyên, Nguyễn Thế Nức, Trần Sở Kiều... Những người chủ trương Nam Phong quan niệm “cổ văn càng nhiều người dịch càng hay” (NP số 53/1921) nên thường giới thiệu nhiều bản dịch của cùng một nguyên tác, tạo nên một “sân chơi” dịch thuật rất phong phú, ý vị, trong đó có nhiều bản dịch được sưu tập in lại trong các tuyển thơ Đường về sau.

Nam Phong là tạp chí khởi đầu đồng thời dấy lên phong trào dịch thuật thơ Đường rộng rãi nhất trong mấy mươi năm đầu thế kỷ XX đồng thời cũng cho thấy thơ Đường được tiếp nhận sâu rộng ở Việt Nam như thế nào, nhất là đang trong trào lưu tân học. Sau Nam Phong, nhiều báo và tạp chí vẫn có mục dịch thơ Đường và qua những năm bốn mươi đã có thể thấy những bộ sách dịch thơ Đường dày dặn của Dương Mạnh Huy, Trần Trọng Kim. Ngô Tất Tố, Nhượng Tống và thu hút cả những nhà thơ Mới, tiêu biểu và khá độc đáo như J. Leiba.

Nhiều người đã nói đến cội nguồn và ảnh hưởng của thơ Đường đối với thơ Mới. Nhiều nhà thơ Mới cũng thừa nhận nguồn ảnh hưởng này. Điều đó thực ra cũng không có gì khó hiểu nếu xét “vai trò lịch sử” của thơ Đường ở Việt Nam cũng như những vận động đặc thù của “một thời đại mới trong thi ca” giai đoạn 1930 - 1945.

3. Nói đến quan hệ và tiếp nhận văn học Trung Quốc ở việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa còn cần phải xét trên nhiều bình diện với nhiều cấp độ. ảnh hưởng của tân thư đầu thế kỷ XX; hiện tượng Từ Chẩm á đều là những vấn đề có ý nghĩa không nhỏ trên bình diện quan hệ và tiếp nhận. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ dừng lại ở mức phác thảo và sơ bộ rút ra vài nhận xét mà theo chúng tôi, xưa nay nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam chưa được chú ý lắm:

Trước hết, văn học hiện đại Trung Quốc chỉ được giới thiệu vào những năm cuối trong tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam và ảnh hưởng chưa phải đã sâu rộng. Nhấn mạnh việc tiếp nhận văn học hiện đại Trung Quốc ở Việt Nam để hiện đại hóa là thiếu cơ sở. Trong khi đó, cần chú ý hơn đến vai trò của văn học cổ Trung Quốc đối với tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam, nhất là trong buổi đầu của tiến trình.

Do mối quan hệ văn học đặc biệt giữa hai nước - quan hệ đồng văn, mang tính văn hóa vùng và được đặc trưng bởi tính chất quan hệ văn học trung đại - nền văn học cổ Trung Quốc vừa như mẫu hình vừa rất gần gũi với người Việt, cả về mặt quan phương lẫn bình dân, thông tục. Nhiều thành tố văn, văn học Trung Quốc, do đó đã trở thành như bộ phận, như những thành tố văn hóa, văn học Việt Nam. Hiện đạị hóa bao giờ cũng xuất phát từ những vận động nội tại của văn học và trước hết là dựa trên nguồn lực nội sinh.

Trong tiến trình hiện đại hóa, văn học Việt Nam đã tự giác hay không tự giác đều tìm đến truyền thống văn hóa dân tộc cũng như nhiều thành tố văn hóa, văn học Trung Quốc như tìm về nguồn nội sinh để hiện đại hóa là điều tất yếu. Văn học Pháp cũng ảnh hưởng đặc biệt sâu đậm đến văn học Việt Nam nhưng so với văn học Trung Quốc lại không có đặc trưng này.

Tiếp nhận văn học cổ Trung Quốc trong tiến trình hiện đại hóa văn học một mặt cho thấy văn học Trung Quốc, trong hoàn cảnh quan hệ rất không thuận chiều, vẫn ảnh hưởng khá sâu rộng ở Việt Nam, mặt khác cũng phản ánh xu thế phát triển của nền văn học mới. Đó là nền văn học phát triển theo xu hướng gắn bó với đời sống hiện thực, với đại chúng đồng thời biết tiếp nhận những thành tựu mẫu mực của nhân loại để tạo nên những giá trị đặc sắc trên tiến trình hiện đại hóa mà việc tiếp biến Đường thi trong thơ Mới là một trong những biểu hiện tiêu biểu.

Quá trình chuyển biến quan hệ văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc từ “đồng văn” sang “dị văn” cũng đồng thời là quá trình chuyển biến về quan hệ trên bình diện ý thức giữa “ta” và “người”, giữa tính chất khu vực và thế giới, giữa phạm trù ý thức văn học trung đại và hiện đại... Trong buổi giao thời đó, văn học Trung Quốc đã có vai trò quan trọng đối với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam và được ghi nhận trước hết vẫn như những yếu tố gần gũi, nội sinh.

CHÚ THÍCH

(1),(2),(3) Xin xem thêm Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc - Nam Sơn. S.1974. (Phần các Thông tư, Nghị định về chữ Quốc ngữ, về học chánh).

(4) Đặng Thai Mai toàn tập , tập 3. Nxb. Văn học, 1998, tr.1000.

(5), (7) Xin xem thêm Nguyễn Văn Hiệu - Tìm hiểu việc nghiên cứu, giới thiệu Văn học hiện đại Trung Quốc ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tập san Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. HCM), số 9, 1999.

(6) Phan Ngọc- Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1998, tr 480.

(8) Lê Thanh - Văn học Việt Nam hiện đại (1900 - 1940), Tạp chí Tri Tân số 141/1944.

(9), (10) Xin xem thêm Nguyễn Văn Hiệu - Vài nét về dịch thuật và sáng tác trên “Nông cổ mín đàm (1901 - 1924)”. Bình luận văn học, Niên giám 1998, số 2, Nxb. KHXH, H. 1999, tr.30.

(11) Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại, Nxb. Thăng Long, S. 1960, tr.76.

(12) Phan Ngọc – az Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 3, 1996.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CỦA CHỮ HÁN VÀ VẤN ĐỀ HỌC CHỮ HÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TRẦN NGỌC CHÙY

1. Đặc trưng văn hóa của chữ Hán:

1.1 Mối quan hệ giữa chữ viết (văn tự) và văn hóa.

Chữ viết (văn tự) là hệ thống ký hiệu để ghi chép ngôn ngữ. Mỗi một loại chữ viết đại diện cho một thứ ngôn ngữ, nhưng không phải mọi thứ ngôn ngữ trên thế giới đều có chữ viết riêng của mình ngay từ khi hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ ra đời cùng với sự ra đời xã hội loài người, nhưng chữ viết thì chỉ đến khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ văn minh nhất định mới có thể ra đời. Vì rằng ngôn ngữ là công cụ giao tiếp và giao lưu tư tưởng của con người, nhưng ngôn ngữ nói mang âm thanh nên chỉ có thể giao lưu trực tiếp. “Lời nói gió bay” không thoát khỏi hạn chế của thời gian và không gian. Xã hội loài người ngày càng phát triển, việc giao tiếp và giao lưu tư tưởng đòi hỏi ngày càng cao hơn. Con người cần ghi lại những kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm cuộc sống để truyền đi xa, truyền lại cho con cháu đời sau. Nhu cầu văn hóa đó thúc bách con người phải tìm ra cách giải quyết. Chữ viết ra đời đã thỏa mãn được yêu cầu đó.

Mọi hình thái chữ viết của các nền văn minh cổ xưa trên thế giới (Ai Cập, ấn Độ, Ba By Lon, Trung Quốc, ...), lúc đầu đều bắt nguồn từ những hình vẽ gắn liền với sự vật cụ thể, dần dần về sau mới chuyển sang các phù hiệu, rồi các ký hiệu biểu trưng và ước lệ cao như ngày nay.

Chữ viết ra đời quả là một công cụ lợi hại không những hỗ trợ cho việc giao tiếp, giao lưu tư tưởng mà còn truyền bá tri thức của nhân loại, tích luỹ được qua nhiều thế hệ, thúc đẩy các nền văn minh và văn hóa nhân loại phát triển không ngừng. Về mặt này có thể nói chữ viết là một hình thái đặc thù của ngôn ngữ.

Nhưng mọi dân tộc trên thế giới không phải sáng tạo ra chữ viết trong cùng một lúc, mà tùy thuộc vào trình độ phát triển xã hội và trình độ văn minh của từng dân tộc. Vì vậy có thể nói sự ra đời chữ viết của một dân tộc là mốc quan trọng đánh dấu trình độ văn minh và là dấu ấn văn hóa của dân tộc đó.

1.2. Đặc trưng văn hóa của chữ Hán:

Chữ Hán là sản phẩm của nền văn hóa Trung Hoa ra đời cách đây gần 4000 năm, là một trong số những loại chữ ra đời sớm và có lịch sử lâu đời vào bậc nhất trên thế giới.

Chữ Hán cũng là loại chữ hiếm hoi trên thế giới còn để lại nhiều dấu ấn đồ họa từ thời tiền sử chữ viết của nhân loại. Cũng vì vậy mà chữ Hán có những đặc trưng văn hóa hiếm thấy trong các loại chữ theo lối ghi âm. Dưới đây xin nêu một số đặc trưng tiêu biểu của chữ Hán.

1.2.1 Chữ Hán giàu tính biểu tượng:

Chữ Hán vốn thoát thai từ đồ họa (hình vẽ), phát triển từ đồ họa văn tự (chữ hình vẽ) đến hình thanh văn tự (chữ hình thanh). Nhưng những ký tự Hán chỉ dừng lại ở âm tiết, chưa phát triển đến các ký tự âm tố, do đó mà chữ Hán chưa thoát ra khỏi loại chữ ghi nghĩa để chuyển thành chữ ghi âm. Nhìn vào bất kỳ một ký tự Hán nào, hầu như chúng ta đều có thể liên tưởng đến ý nghĩa biểu tượng của một sự vật, nhất là những chữ thuộc loại tượng hình, chỉ sự, hội ý hoặc hình thanh (theo cách phân loại của Hứa Thận).

Điều liên tưởng này hoàn toàn không xảy ra đối với những loại chữ ghi âm như chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Nga... chẳng hạn. Vì vậy có thể nói tính biểu tượng là đặc trưng của chữ Hán.

1.2.2. Tính “phổ biến” của chữ Hán:

Chữ Hán mang đậm tính chất ghi nghĩa; ký tự Hán không quan hệ mật thiết với âm thanh. Một ký tự Hán biểu đạt một nghĩa nhưng có thể đọc theo nhiều cách, tùy theo qui ước của từng dân tộc, thậm chí tùy theo từng vùng khác nhau. Nhờ tính phổ biến này mà chữ Hán dù cho là một thứ chữ khó học, nhưng vẫn tồn tại qua mấy ngàn năm trên một đất nước đa dân tộc hơn một tỷ dân mà không hề bị chữ ghi âm thay thế. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao chữ Hán còn vượt cả biên giới quê hương của mình để đến với các nước láng giềng như Việt Nam, Nhật Bản...hơn nữa còn làm cầu nối để đưa các yếu tố tiếng Hán du nhập vào ngôn ngữ các nước láng giềng một cách dễ dàng. Đó chính là tính phổ biến của chữ Hán.

1.2.3. Tính “trường cửu” của chữ Hán:

Tính trường cửu của chữ Hán được biểu hiện ở hai phương diện: ngoại hình ý nghĩa. Về ngoại hình, chữ Hán tuy có thay đổi tự dạng qua nhiều lối viết khác nhau, nhưng về cơ bản vẫn là loại chữ có nhiều dấu ấn của đồ họa từ thời nguyên thủy. Về ý nghĩa, dù cho đến nay, ngữ nghĩa đã được mở rộng, nhưng ý nghĩa từ nguyên cơ bản vẫn được bảo lưu. Dù cho âm đọc biến đổi ra sao mặc lòng, nghĩa cơ bản vẫn không hề thay đổi. Người Hán hiện đại hay người Việt, người Nhật dù cho đọc thơ Đường theo mỗi lối riêng của mình, nhưng ý nghĩa, nội dung của bài thơ vẫn được hiểu như nhau. Tính trường cửu này cũng không thể có đối với loại văn tự ghi âm, vì âm đọc thay đổi thì chữ cũng thay đổi theo.

Về mặt thông báo ý nghĩa, chữ Hán vừa có tính phổ biến (rộng khắp) vừa có tính trường cửu (lâu dài)

1.2.4. Tính “đặc trưng” khái quát:

Về hình dạng, tuy mỗi chữ Hán đều khuôn trong một ô vuông, song kỳ thực mỗi một ký tự lại có một hình dạng riêng. Khi học thì khó viết khó nhớ, nhưng khi nhìn để nhận dạng thì lại dễ phân biệt hình thể của từng chữ. Điều này phù hợp với quy luật nhận biết sự vật của thị giác con người. Thực chất khi một người đọc sách, thông thường không ai đánh vần từng âm tiết, dù có đọc thành tiếng hay không thì người đọc cũng nhận biết mặt chữ qua thị giác với tổng thể hình dạng của từng chữ (âm tiết đối với ngôn ngữ đơn tiết tính, từ đối với ngôn ngữ biến đổi hình thái) mà thôi. (Điều này có thể ví như ta nhận biết người thân quen ở hình dạng cơ thể chứ không phải ở từng chi tiết).

Cách nhận biết chữ Hán theo khuôn hình khái quát này, tạo cho người đọc chữ Hán, dù có cách phát âm khác nhau, đều có một cách đọc chung đó là đọc bằng mắt (khán) không cần đọc bằng miệng (độc). Và nói chuyện với nhau bằng cách bút đàm thay cho cách hội thoại. Đây cũng là một đặc trưng riêng của chữ Hán. Tôi tạm gọi đó là đặc trưng khái quát.

1.2.5. Tính “huyền bí” của chữ Hán:

Có lẽ vì chữ Hán còn giữ nhiều dấu vết của hình vẽ và đậm ý nghĩa biểu tượng, mỗi ký tự Hán giống như một bức tranh tượng trưng thu nhỏ hoàn chỉnh, nên chữ Hán rất gây ấn tượng và gợi sự huyền bí trong ta.

Mặt khác mỗi chữ Hán tuy hình dạng khác nhau, nhưng lại ở trong một khuôn vuông như nhau, điều này theo tôi đã gây ấn tượng cho người ta khi nhìn vào một dòng chữ Hán, tưởng như nhìn vào một tập hợp chỉnh tề của các sinh thể sống động giữa cuộc đời, chẳng hạn như một hàng quân. Vì thế gợi nên trong tâm thức ta cảm tưởng như những con chữ cũng có linh hồn, thậm chí có thể cựa quậy được. Lại cũng phải nói thêm rằng: do chữ Hán mang tính ghi nghĩa, mỗi nghĩa mang một ký hiệu, kho chữ Hán trở nên quá nhiều, khiến cho không phải ai cũng biết hết được chữ Hán. Để nhận biết và đọc thông chữ Hán không phải chỉ cần một số chữ cái hữu hạn như đối với các loại chữ ghi âm mà phải bỏ nhiều công phu, thậm chí cả đời người tưởng cũng chưa thuộc hết mặt các chữ Hán. Phải chăng đây cũng thêm một lý do nữa gây cho ta cảm giác choáng ngợp trước biển chữ Hán, khiến cho chữ Hán trở thành một thứ linh tự chứa đầy tính huyền bí tồn giáo mà bản thân văn tự vốn không có.

1.2.6. Tính “thẩm mỹ” của chữ Hán:

Năm đặc trưng ở trên đã khiến cho chữ Hán ngoài chức năng ghi chép ngôn ngữ, còn mang thêm một chức năng của hình thái nghệ thuật độc đáo gần với hội họa mà các loại văn tự ghi âm khác không có.

Viết chữ Hán từ thời cổ đã trở thành một môn nghệ thuật riêng gọi là thư pháp. Người viết chữ Hán đạt đến trình độ nghệ thuật gọi là thư pháp gia. Những tác phẩm thư pháp trở thành tác phẩm mỹ thuật như những bức họa, về mặt nghĩa hẹp nào đó còn hơn cả những bức họa. Người ta có thể ngắm những bức thư pháp say mê như những bức danh họa, nhưng đây lại không phải là họa phẩm ! Những loại văn tự ghi âm dẫu cũng có những lối viết đẹp nhưng không thể sánh được với chữ Hán về tính thẩm mỹ này.

Tất cả những đặc trưng trên của chữ Hán đã làm cho chữ Hán trở thành một loại chữ có những đặc trưng văn hóa độc đáo bậc nhất trong các loại chữ viết hiện có trên thế giới.

Người Trung Hoa quả là có thể tự hào vì đã sáng tạo nên thứ chữ có một không hai như vậy. Và theo tôi, đó cũng là một nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Trung Hoa chăng ?

2. Vấn đề học chữ Hán ở Việt Nam hiện nay.

2.1. Quan hệ giữa chữ Hán với tiếng Việt

Như phần trên đã trình bày, do chữ Hán có tính phổ biến, nên nó trở thành văn tự dùng chung cho nhiều dân tộc. ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây, chữ Hán trở thành văn tự chính thống; vì thế từ thời cổ trung đại, người Việt đã sáng tạo ra cách đọc chữ Hán theo một lối riêng duy trì đến tận ngày nay, mà ta quen gọi là âm Hán Việt. Để rồi sau đó, chính thông qua hệ thống âm đọc Hán Việt này, các yếu tố tiếng Hán có nhịp cầu nối thuận lợi để du nhập ồ ạt vào tiếng Việt một cách dễ dàng, để đến nay ta có số lượng từ Hán Việt ước tính tới 60 - 70%.

2.2. Từ Hán Việt và vấn đề giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt:

Con số ước tính của các nhà ngôn ngữ về tỷ lệ từ Hán Việt ở trên đủ nói lên vị trí và vai trò của loại từ này trong tiếng Việt là quan trọng và không thể thiếu vắng.

Từ Hán Việt không chỉ góp phần làm cho tiếng Việt phong phú thêm về số lượng từ vựng mà còn làm phong phú thêm các sắc thái ý nghĩa trừu tượng, sắc thái biểu cảm trong phong cách. Bởi lẽ những yếu tố tiếng Hán khi du nhập vào tiếng Việt thành từ Hán Việt không những đã được Việt hóa về âm đọc (âm Hán Việt hoặc Hán Việt Việt hóa), mà được Việt hóa cả về ý nghĩa và sắc thái biểu cảm, tạo nên những đặc tính mới mà trong nghĩa gốc của từ Hán không có. Có thể quy thành 4 đặc điểm chính như sau: đó là các đặc điểm: cố định, đa nghĩa, trừu tượng, trang trọng và tao nhã. Nhờ những đặc điểm này, từ Hán Việt đã góp phần làm tiếng Việt phong phú thêm rất nhiều, giúp ta diễn đạt được đủ các cung bậc ý nghĩa với mọi sắc thái, tình cảm phong phú của người Việt.

Một số ý kiến trước đây quan niệm từ Hán Việt là từ ngoại lai, cực đoan hơn, còn định thay thế nó bằng các từ thuần Việt. Tôi nghĩ rằng đó là những ý kiến có phần máy móc, phiến diện về nhận thức bản chất vai trò vị trí của từ Hán Việt. Trong kho từ vựng tiếng Việt, từ Hán Việt là một phần quan trọng, như máu thịt của cơ thể sống, làm sao mà loại bỏ đi được. Trên thực tế cũng không thể thực hiện được điều đó. Không những thế, đây còn là một kho dự trữ từ vựng quan trọng. Mỗi khi có một khái niệm, một sự vật mới xuất hiện, nhờ sẵn có những yếu tố Hán Việt dự trữ, ta chỉ việc chọn những yếu tố thích hợp ra lắp ráp thành những từ mới để định danh ngay sự vật đó mà không thấy ngỡ ngàng. Những từ mới xuất hiện gần đây như vĩ mô, vi mô, sinh quyển, hóa thân hoàn vũ, kích cầu... chẳng phải đã nói rõ điều này hay sao ?

Do vậy việc giữ gìn trong sáng tiếng Việt không phải chỉ ở chỗ dùng loại từ Hán Việt hay thuần Việt mà quan trọng ở chỗ sử dụng như thế nào để đúng chức năng tính chất của mỗi loại, sao cho phát huy được triệt để giá trị sử dụng của chúng. Muốn vậy phải hiểu tiếng Việt sâu sắc, trong đó có 70% từ Hán Việt là số từ mà đa phần là trừu tượng khó cắt nghĩa nếu không hiểu nghĩa từ nguyên của nó. Muốn hiểu từ Hán Việt sâu sắc, lại cần phải biết lượng chữ Hán tối thiểu. (Theo giáo sư Phan Ngọc khoảng gần 300 chữ(1), là các âm tiết có sức sản xuất từ Hán Việt cao.)

Xem thế thì việc học chữ Hán không phải chỉ cần thiết đối với những người cần giao tiếp bằng tiếng Hán, hoặc của những người nghiên cứu chữ Hán, mà có thể nói, cần thiết cho bất kỳ một nhà khoa học thậm chí một người dân bình thường nào đang sử dụng tiếng Việt. Điều này là khó đối với mọi người, những người không có điều kiện học. Nhưng đối với các nhà khoa học, nhất là khoa học xã hội nhân văn thì không thể coi là khó mà bỏ qua tình trạng hiện này.

2.3. Vấn đề học chữ Hán ở Việt Nam hiện nay:

ở Việt Nam, trước đây việc học chữ Hán được coi trọng vì học chữ Hán để đi thi đỗ đạt, làm quan. Từ khi nhà nước phong kiến thuộc địa bỏ cách tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử chữ Hán (kỳ thi hội cuối cùng ở nước ta là vào năm 1919), thay bằng con đường tân học (chữ Pháp và Quốc ngữ) Hán học tàn tạ dần. Chữ Hán trở thành lạc hậu, thậm chí bị coi là hủ lậu, người biết chữ Hán bất kể là ai đều bị liệt là hủ Nho. Nhiều địa phương, chữ Hán được coi là dấu hiệu của phong kiến phản động, bị đem đốt sạch. Khổng học bị phê phán kịch liệt. Sau Cách mạng, chỉ còn những người học chữ Hán với ý nghĩa của môn ngoại ngữ, để phiên dịch giao tiếp với Trung Quốc. May còn một số học giả xuất thân từ gia đình khoa bảng cũ là còn được truyền dạy chữ Hán trực tiếp của ông cha mình. Vì vậy số người uyên thâm Hán học hiện nay có thể điểm trên đầu ngón tay, nhưng phần lớn cũng vào lớp tuổi “xưa nay hiếm” rồi. Lớp Hán học kế tiếp, đi vào Hán học từ Hán ngữ hiện đại, số người đào tạo chính quy cũng rất ít, mà phần nhiều họ phải vươn lên bằng con đường tự học. Số này phần lớn cũng đã đến tuổi về hưu, vả lại học chữ Hán đã khó, nghề nghiệp lại khó kiếm sống để nuôi gia đình, cái khó bó cái khôn, khó mà vươn lên xuất sắc được. Một số đào tạo tại hai ngành Hán Nôm tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, số này cũng không nhiều và nói chung học vấn còn phải tích luỹ nhiều nữa mới kịp được trình độ của các lớp Hán học tiền bối.

Ngoài ra cũng phải kể đến đội ngũ những người học Hán ngữ hiện đại ở các trường ngoại ngữ, ngoại giao, nhưng ở đây đào tạo thiên về Hán ngữ hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt cho nhiệm vụ giao tiếp là chủ yếu. Vì vậy việc đi sâu vào nghiên cứu chữ Hán ở Việt Nam chỉ còn dồn lại mỗi Viện Hán Nôm với một đội ngũ chẳng lấy gì là đông đảo...

Điểm qua tình hình cụ thể như trên ta có thể thấy rằng việc học chữ Hán ở Việt Nam chưa được coi trọng đúng mức, nhất là đối với các ngành khoa học xã hội nhân văn, đáng lẽ phải học chữ Hán bắt buộc thì lại hoàn toàn không đếm xỉa gì đến chữ Hán. Ta cứ thử thống kê đội ngũ các nhà khoa học xã hội nhân văn xem thử số người thông thạo chữ Hán là bao nhiêu ? Vì vậy, tôi nghĩ, hãy còn chưa muộn, những nhà lãnh đạo về văn hóa giáo dục nên chăng hãy xác định nhiệm vụ học chữ Hán không chỉ đặt ra ở những ngành chuyên ngữ tiếng Hán mà cần phải coi là nhiệm vụ cấp bách, tối thiểu đối với các ngành thuộc khoa học xã hội nhân văn, đồng thời có những biện pháp thiết thực khuyến khích việc học chữ Hán. Chỉ có điều, tùy theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, mà coi cách học chữ Hán theo âm Hán Việt (cho tiếng Việt) hay theo âm Bắc Kinh (cho tiếng Hán) là chủ yếu, để thoát khỏi tình trạng người Việt mà lại không am tường một bộ phận quan trọng trong tiếng nói của chính mình.

Tất nhiên nếu kết hợp học chữ Hán theo cả hai loại ngữ âm hoặc ba loại ngữ âm (âm Hán Việt, âm Bắc Kinh, Ngô âm, Hán âm của người Nhật...) thì, theo tôi, đó là cách học chữ Hán hoàn thiện vì nó sẽ giúp chúng ta không chỉ hiểu người mà hiểu cả chính mình. Đạt được đến trình độ tri kỉ tri bỉ, đó là bài học thực tiễn lịch sử của tiền nhân đã để lại cho chúng ta và hậu thế.

Thái Nguyên, tháng 12 năm 1999

CHÚ THÍCH

(1). Xem Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, Phan Ngọc, Nxb. Đà Nẵng.

TB

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHẬP VÀ LƯU HÀNH
TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI Ở VIỆT NAM

NGUYỄN NAM

Đã có nhiều công trình khảo cứu nêu bật ảnh hưởng Tiễn đăng tân thoạ i của Cù Hựu (1347-1433) đời Minh đối với văn học truyền kỳ ở Đông Á (bao gồm Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam)(1). Nay xin tập trung giới thiệu phác thảo quá trình truyền nhập và lưu hành bộ tiểu thuyết truyền kỳ Trung Quốc này ở Việt Nam cho đến thế kỷ 18.

Tiễn đăng tân thoại vào Việt Nam

Cũng như ở Triều Tiên và Nhật Bản, Tiễn đăng tân thoại du nhập vào Việt Nam và có ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển của dòng văn học truyền kỳ ở nước ta.

Để truy tầm thời điểm Tiễn đăng tân thoại đến với Việt Nam, các học giả thường quay về với các ký lục lịch sử. Một đoạn viết trong tập 6 sách Thù vực chu tư lục (phần An Nam) của Nghiêm Tòng Giản ít nhiều giải đáp cho vấn đề này. Tác giả phân các sách Trung Quốc du nhập vào Việt Nam thành ba loại:

1. Nho thư.

2. Thiên văn, địa lý, lịch pháp, tướng thư.

3. Phật kinh, tạp truyện.

Danh mục Nho thư được chép như sau:

Các sách Nho học gồm có Thiếu Vi sử, Tư trị thông giám sử, Đông lai sử, Ngũ kinh Tứ thư, Hồ Thị Tả truyện, Tính lý, Thị tộc, Vận phủ, Ngọc thiên, Hàn Mặc loại tụ, Hàn Liễu tập, Thi học đại thành, Đường thư, Hán thư, Cổ văn tứ trường tứ đạo, Nguyên lưu cổ xúy, Tăng vận Quảng vận, Hồng Vũ chính vận, Tam Quốc chí, Võ kinh, Hoàng Thạch Công An thư, Vũ Hầu tương Uyển bách truyện, Văn tuyển, Văn túy, Văn hiến, Nhị sử cương mục, Chính quan chính yếu, Tất dụng thanh, Tiền Trung Châu vạn tuyển Thái Công gia giáo, Minh tâm bảo giám, Tiễn đăng tân thoại, Dư thoại(2).

Dựa vào đấy, các học giả đoán định rằng Tiễn đăng tân thoại đã được du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI(3).

Gần đây, Từ Sóc Phương và Suzuki Yoichi đã đưa thêm một giả định khác về sự truyền nhập của Tiễn đăng tân thoại vào Việt Nam. Theo hai tác giả này: “Dưới thời Vĩnh Lạc, Thái sư Anh quốc công Trương Phụ bốn lần hoặc được cử làm thống soái, hoặc Phó thống soái trong các chiến dịch chống phá An Nam. Vài năm sau, Trương Phụ trở thành ân nhân của tác giả Tiễn đăng tân thoại. Đấy là vào năm thứ nhất niên hiệu Hồng Hy (1425), chưa đầy mười năm sau lần cuối cùng Trương Phụ nhận lệnh dẫn binh viễn chinh. Trương Phụ dâng tấu, xin cho Cù Hựu được rời biên tái, về lại Kinh sư. Sau đấy, Cù Hựu lưu lại nhà của Trương Phụ trong ba năm để dạy cho con của Trương Phụ. Về sau, Trương Phụ còn dùng “gia hạm” đưa Cù Hựu về lại quê nhà. Khi dẫn binh viễn chinh, Trương Phụ có thể đã yêu thích Cù Hựu và tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của ông. Do các cuộc xâm lược của nhà Minh và mối quan hệ giữa Trương Phụ [với Cù Hựu và tác phẩm của ông], Tiễn đăng tân thoại đã được lưu hành ở An Nam vào thời ấy. Khả năng này tất phải tính đến”(4).

Giả thuyết của Từ Sóc Phương và Suzuki Yoichi về thời điểm Tiễn đăng tân thoại truyền nhập vào Việt Nam cụ thể hơn giả định đã có trước đấy. Việc du nhập tác phẩm của Cù Hựu vào Việt Nam được “đóng khung” trong các cuộc xâm lược của nhà Minh. Quan hệ giữa Trương Phụ và Cù Hựu là một yếu tố quan trọng, nhưng nên chăng cần xem xét thời điểm này trong một bối cảnh lịch sử rộng hơn. Về mặt cá nhân, Trương Phụ có thể đã yêu thích Tiễn đăng tân thoại, và đã mang tập sách này vào nước ta trong các đợt viễn chinh xâm lược. Tuy nhiên, việc truyền bá tập sách này ắt phải liên quan đến chính sách văn hóa của nhà Minh ở Việt Nam: trước hết, hủy diệt văn hóa bản địa; và thứ đến là truyền bá văn hóa Hoa Hạ như một sự thay thế cho cái bị hủy diệt.

Trong bộ Việt kiệu thư, Lý Văn Phượng ghi lại một sắc lệnh đề ngày thứ tư, tháng bảy nhuận, năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Lạc (1406). Sắc lệnh được gửi đến Chu Năng và đồng bọn, chỉ dạy mười kế sách cần làm. Sau đây là một trong mười điều khoản ấy, “Khi quân vào An Nam, ngoại trừ các văn bản Phật giáo và Đạo giáo vốn không được hủy hoại, các bản sách, từ văn tự cho đến các loại sách lễ tục, khai tâm cho trẻ kiểu như Thượng đại nhân Khâu ất kỷ, nhất thiết phải được tận hủy. Trong nước ấy, hễ gặp những bi ký do Trung Quốc lập tự ngàn xưa thì phải bảo tồn. Nhưng nếu là bi ký do An Nam tạo lập thì phải phá hủy, ngay đến manh giấy, một chữ cũng không được để sót”(5).

Tuy vậy, nhà Minh vẫn tiếp tục sưu tập các sách và tư liệu của người Việt để mang về Trung Quốc: Mà thu, tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh sai sứ là Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thời sang lấy các sách ghi chép cổ kim sự tích của nước ta”(6). Mặt khác, nhà Minh lại đưa sách Hán vào Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Mùa xuân, tháng hai năm Kỷ Hợi (1419), nhà Minh sai Giám sinh Đường Nghĩa mang các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện âm chất, Hiếu kinh sự thực v.v. Sang các trường Nho học thuộc phủ, châu, huyện ở nước ta”(7).

Các điều vừa nêu cho phép phỏng đoán rằng Tiễn đăng tân thoại đã được đưa vào Việt Nam sau khi nhà Minh thiết định thành công ách thống trị trên đất nước ta. Việc Tiễn đăng tân thoại được xếp chung với kinh điển Nho giáo cũng là bằng cứ cho thấy sách đã vào Việt Nam trước khi nó bị cấm ở Trung Quốc vào năm 1442.

Phần nào dựa vào Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI), đã viết nên Truyền kỳ mạn lục. Ngay ở tựa đề bộ sách này, truyền kỳ với tư cách là một thể loại văn học, đã xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam. Có thể nói rằng truyền thống truyền kỳ Việt Nam đã được chính thức xác lập qua sự xuất hiện của Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.

Tiễn đăng tân thoại hẳn đã được lưu hành khá rộng rãi ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV, chính vì vậy, đã ảnh hưởng sâu đậm đến Nguyễn Dữ. Việc tác giả mô phỏng một số truyện trong Tiễn đăng tân thoại cho thấy tập sách của Cù Hựu đã được lưu truyền trong một số trí thức thời ấy, và tạo được một sự hâm mộ nhất định. Nhà nho Việt Nam Hà Thiện Hán còn được đọc Tiễn đăng tân thoại và so sánh tập sách này với bộ truyền kỳ của Nguyễn Dữ khi viết tựa cho Truyền kỳ mạn lục vào một ngày lành, tháng bảy, mùa thu năm đầu niên hiệu Vĩnh Định (1546). Bài tựa của Hà Thiện Hán viết, “Xem văn từ [của Truyền kỳ mạn lục] thấy không thoát khỏi phên dậu của Tông Cát”(8).

Tiễn đăng tân thoại trong Thiên hạ dị kỷ

Tuy thế, chỉ vài thế kỷ sau, không biết vì nguyên do gì, việc tìm đọc Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam dường như đã trở nên khá khó khăn. Khi nhắc đến nguồn tư liệu ảnh hưởng sâu đậm đến Truyền kỳ mạn lục, học giả Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã chỉ ra rằng tác phẩm của Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của tập Tiễn đăng lục của một nhà nho thời Nguyên (Nguyên nho). Ở bản in năm 1763 Tân biên Truyền kỳ mạn lục, có một chú thích dài trong truyện Long Đình đối tụng lục. Chú thích này hầu như sao chép lại toàn văn truyện Thủy Cung khánh hội lục của Tiễn đăng tân thoại. Thật đáng ngạc nhiên là khi nhắc đến nguồn gốc của truyện này, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (gọi tắt là Tập chú) mách với người đọc rằng đấy là “Quảng Lợi hải thần truyện” trong sách Thiên hạ dị kỷ.

Thiên hạ dị kỷ là sách gì ? Khảo sát thư tịch Trung Quốc (Tứ Khố đồ thư tập thành) không đem lại một kết quả gì khả dĩ bổ cứu về lai lịch của bộ sách này. Tuy nhiên, những chú thích trong Tập chú lại ít nhiều giúp ta hiểu thêm Thiên hạ dị kỷ. Tập chú dùng Thiên hạ dị kỷ để chú thích một số điển cố. Thông qua điều tra sơ bộ, có thể nhận ra ngay rằng Thiên hạ dị kỷ sưu tập văn liệu và sắp xếp lại theo chủ đề, ví như dưới đề mục chung Quảng Lợi hải thần truyện, không chỉ có chuyện Thủy Cung khánh hội lục của Cù Hựu, mà còn có cả thích giải về cõi trời Đâu Suất thiên (Tusita); ở đề mục Thính kinh viên truyện (chuyện vượn nghe kinh), có chuyện Vương Tân đời Đường đọc sách ở Tung Sơn, mà Sào Nam, Lâm Đại Tiết, Tôn Văn úy, và Thạch Kê (vốn đều là vượn) đến nghe, lại có chuyện Viên Tú Tài cũng là vượn hóa thân đến nghe kinh ở chùa Long Tế; ở mục Lệnh ngôn truyện (chuyện giỏi biện luận), có kể tích Phong Đẩu (Trắc?) hội kiến Thượng Nguyên phu nhân, người thống lĩnh mười vạn ngọc nữ, ở thâm sơn; chuyện Lam Thái Hòa, một trong Bát tiên, được xếp vào Tiên loại (Loại mục thần tiên), và chuyện Hồng Tiêu (tức Côn Luân nô) thuộc về Kỹ truyện (chuyện các kỹ nữ). Các chuyện Thẩm A Chi đời Chu thương khóc viết bài minh cho công chúa Lộng Ngọc, chuyện Hằng Nga - Hậu Nghệ, cũng thấy chép trong Thiên hạ dị kỷ(9). Hiện chưa rõ ai là người biên soạn bộ Thiên hạ dị kỷ, nhưng có phần chắc rằng bộ sách này thu thập thần thoại, truyền thuyết, và chuyện truyền kỳ Trung Hoa, xếp đặt theo môn loại, và được dùng như một loại sách công cụ giải điển, lưu hành khá rộng rãi ở nước ta khoảng thế kỷ XVIII (hoặc sớm hơn đôi chút).

Các điều kiện nêu trên cho thấy rằng đến giữa thế kỷ XVIII, nhận thức về mối liên hệ giữa các truyện trong Tiễn đăng tân thoạii và trong Truyền kỳ mạn lục vẫn chưa hề bị quên lãng hoàn toàn. Tuy nhiên, có lẽ do các truyện của Cù Hựu được đưa vào nhiều tập sách khác nhau, nguyên gốc của chúng dường như đã trở nên mơ hồ.

Vì sao Tiễn đăng tân thoại thất truyền ở Việt Nam ?

Việc lưu truyền Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam cũng tương tự như trường hợp những tiểu thuyết Trung Quốc khác. Trí thức Việt Nam yêu thích tiểu thuyết Trung Quốc và cải biên những tác phẩm này, biến chúng thành một bộ phận trong nền văn học của mình. Dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, thi hào Nguyễn Du (1766-1820) viết Đoạn trường tân thanh. Tiểu thuyết bị cấm ở Trung Hoa Kim Thạch duyên được Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) cải biên thành tuồng Kim Thạch kỳ duyên. Thế nhưng với tư cách là nguyên gốc của một số tác phẩm văn học Việt Nam, phần lớn các tiểu thuyết Trung Quốc đã bị lãng quên sau khi được người Việt cải biên. Bản chép tay Kim Vân Kiều truyện hiện còn lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã từng bị lầm tưởng là một tác phẩm của người Việt, viết lại vào thế kỷ XIX, nhưng chẳng bao lâu sau khi công bố, dường như không còn mấy người biết đến nguyên gốc của nó(11). Để hiểu được những hạn chế trong việc lưu truyền tiểu thuyết Trung Quốc (bao gồm cả Tiễn đăng tân thoại) chí ít cần chú ý đến hai nhân tố cơ bản.

Trước tiên là rào cản ngôn ngữ. Dù rằng văn ngôn đã được sử dụng ở Việt Nam trong một thời gian dài như ngôn ngữ quan phương trong công văn, báo cáo, chỉ có trí thức Việt Nam mới có khả năng viết và đọc nó. Học giả Trần Văn Giáp nêu một “nghịch cảnh” trong việc đọc tiểu thuyết Hán văn mà độc giả Việt Nam đã từng kinh lịch: “Các cụ ta xưa còn đi học chữ Hán thì xem ngay sách Tàu. Nhưng tuy vậy, tiểu thuyết Tàu đối với ta xưa chưa lấy làm thịnh: bọn dân gian thì ít người xem nổi, phải đi học thì không được xem”(12). Lý do vì sao không được xem sẽ bàn tiếp ở phần kế tiếp, tạm không nói ở đây. Dù rằng ưu thích tiểu thuyết Trung Quốc, trí thức Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất để phổ cập hóa chúng. Đó là cải biên, biến chúng thành những truyện thơ Nôm. Nhờ truyện Nôm mà tiểu thuyết Trung Quốc trở nên phổ biến ở Việt Nam(13).

Sau khi chữ Nôm và chữ Hán được thay thế hoàn toàn bở chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ này, cải biên cũng được thay thế bằng phiên dịch. Trong bài nguyên cứu về ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt Nam, học giả Trung quốc Yan Bao (Nhan Bảo) có cung cấp cho người đọc một danh sách gồm 316 tiểu thuyết Trung Hoa đã được dịch ra Việt ngữ(14). Khi một bộ tiểu thuyết Trung Quốc đã có được bản Việt dịch, người Việt Nam sẽ nhanh chóng quên đi nguyên gốc của nó. Có thể nêu Đoạn trường tân thanh Kim Thạch kỳ duyên như hai minh họa cho trường hợp này. Tiễn đăng tân thoại được du nhập vào Việt Nam, nhưng nó chỉ được lưu hành hạn hẹp trong một số trí thức Việt Nam thời ấy. Tuy có cải biên một số truyện của Tiễn đăng tân thoại, Nguyễn Dư vẫn viết Truyền kỳ mạn lục bằng văn ngôn. Cũng như Tiễn đăng tân thoại, tập truyện của ông đầy rẫy điển cố. Văn ngôn và điển cố có thể là hai nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của bản chú giải và đối dịch Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú. Thay vì chú giải Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu như người Triều Tiên đã làm, người Việt chọn Truyền kỳ mạn lục, một tập truyện truyền kỳ với người và đất quen thuộc với họ, để diễn giải và phiên dịch. Sau khi khai sinh cho truyền thống văn học truyền kỳ Việt Nam, cũng tựa như những tiểu thuyết Trung Quốc khác, Tiễn đăng tân thoại bị lãng quên ở Việt Nam, có lẽ ít nhiều cũng do rào cản ngôn ngữ và điển cố của bản thân tác phẩm.

Thứ đến, dù yêu thích tiểu thuyết Trung Quốc, cũng như các học giả Trung Hoa, trí thức Việt Nam không đánh giá cao tiểu thuyết. ở chương bàn về sách vở du nhập từ Trung Hoa (“Thư tịch”) trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn có nhắc đến và đánh giá cao một số sách Trung Quốc, “Ngũ kinh, Luật ngữ, Mạnh Tử quả như nhật, nguyệt; sử truyện bách gia sách với sao trời.”(15) Thủy Hử truyện Tam Quốc diễn nghĩa là hai bộ tiểu thuyết Trung Quốc duy nhất được nhắc đến trong phần này, nhưng lại bị Lê Quý Đôn nghiêm khắc phê phán. Đồng ý với Ủy hạng tùng đàm, Lê Quý Đôn xem Thủy Hử truyện là một bộ sách làm băng hoại tâm thuật con người (hoại nhân tâm thuật). Tam Quốc diễn nghĩa bị đánh giá như một loại sách đặt điều, vô căn (Niết tạo không thuyết), không thực (vô chân kiến). Cùng san sẻ quan điểm với Lê Quý Đôn, các nhà nho Việt Nam chính thống không mấy chú ý đến việc bảo tồn tiểu thuyết. Thúc Ngọc Trần Văn Giáp có viết đại lược về ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Hoa đối với Việt Nam như sau:

“Các cụ ta xưa chuyên theo Khổng học, rồi sau chuyển sang lối khoa cử; khi đi học, ngoại Tứ thư, Ngũ kinh, Sử ký ra, các sách khác cho là ngoại thư, cấm không được xem. Mà các cụ ngày xưa đã cấm thì học trò thế nào cũng phải tuân theo đúng mẫu mực, tự mình cũng cho là sách nhảm, rặt là những chuyện tà thuyết, bạo hạn có hại đến luân thường đạo lý. Trừ một ít người gia giáo kém nghiêm, học thuật lỗ mãng thì mới dám xem”(16).

Các nhà nho Việt Nam xưa không đặt chân vào cương giới của tiểu thuyết vì bị cấm, tự cấm, và cấm chỉ nghiêm ngặt lớp hậu sinh không được để mắt đến “ngoại thư.” Cho đến những thập niên đầu thế kỷ 20, cái “hại” của tiểu thuyết Trung Hoa tiếp tục được thực dân Pháp rao truyền, xem đó là đầu mối bất an cho xã hội. Sau vụ Phan Xích Long(17), chưởng lý Michel kết luận:

“Những việc dị đoan huyễn hoặc vô lý như thế, mà chúng nó làm được cho dân ngu, mê tin tưởng thiệt, chỉ do bởi xứ Nam Kỳ có nhiều tiểu thuyết Tàu, dịch ra Quốc ngữ v.v.”18

Lời “luận tội” này được một số người, như Lê Thành Lân, tin theo và bàn thêm: “Nói tóm lại, vạn ác cũng đều bởi tiểu thuyết Tàu mà tạo nhơn cả.”(19)

Không đánh giá cao, thậm chí giới cấm tiểu thuyết, xem đó là nguyên nhân biến loạn xã hội - quan điểm này đã tồn tại ở ta qua nhiều thế kỷ. Đây cũng là một nguyên nhân bổ sung, giải thích vì sao người Việt nhanh chóng lãng quên Tiễn đăng tân thoại.

CHÚ THÍCH

1. Ở đây chỉ giới thiệu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu công bố bằng tiếng Việt (xếp theo trình tự thời gian): Trần Nghĩa, “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân thoại”, Tạp Chí Hán Nôm, 1(2), 1987; Phạm Tú Châu, “Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại Truyền kỳ mạn lục” Tạp chí văn học, 3.1987; Phạm Tú Châu, “Truyền kỳ chữ Hán ở Hàn Quốc và Việt Nam”, Tạp chí văn học, 10.1995; Nguyễn Thị Oanh, “Ca tỳ tử (Otogiboco) và Vũ nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatari) với Truyền kỳ mạn lục", Tạp chí Hán Nôm, số 4.1995; Jean Hyae Kyeong, “So sánh thể loại tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc, và Việt Nam (qua ba tác phẩm Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, và Truyền kỳ mạn lục)”, Tạp chí văn học, 5.1995; Kawamoto Kurive, “Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn lục (Lịch sử sáng tác, xuất bản, và nghiên cứu theo cái nhìn văn học so sánh)”, Tạp chí văn học, 6.1996. Một thư mục tương đối đầy đủ các công trình viết bằng tiếng nước ngoài liên quan đến Tiễn đăng tân thoại và văn học truyền kỳ ở Đông Á có thể xem ở Trần ích Nguyên, Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục chi tỉ giảo nghiên cứu, Học sinh thư cục, Đài Bắc, 1990.

2. Xem Nghiêm Tòng Giản, Thù vực chu tư lục, quyển 6, An Nam. Cũng xem Trung Quốc xã hội khoa học viện Lịch sử Nghiên cứu sở, “Cổ đại Trung Việt quan hệ sử tư liệu nghiên cứu tuyển biên” Biên tập tổ, Cổ đại Trung Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biên, Trung Quốc Xã hội khoa học xuất bản xã, 1982, tr.448.

3. Do Thù vực chu tư lục được biên soạn vào khoảng 1547, một số nhà nghiên cứu ngờ rằng Tiễn đăng tân thoại ắt đã phải được đưa vào Việt Nam trong khoảng thời gian này. Xem Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Truyền kỳ loại, đệ nhất sách, Truyền kỳ mạn lục, Pháp Quốc Viễn Đông học viện xuất bản, Đài Loan Học sinh thư cục ấn hành, 1987, tr.4.

4. Từ Sóc Phương và Suzuki Yoichi, “Cù Hựu đích Tiễn đăng tân thoại cập kỳ tại cận lân Hàn, Việt hòa Nhật Bản đích hồi hưởng”, Trung Quốc văn hóa, 12. 1995, tr.152.

5. Xem Lý Văn Phượng, Việt kiệu thư, bản chép tay, Thư viện Harvard-Yenching, số ký hiệu 2492.54/4407(1-6), quyển 2, tr.17a.

6. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, quyển 1, “Lê kỷ”. Theo Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, “Văn tịch chí”, nhà Minh đã mang các sách sau đây về Trung Quốc: Lý Thái Tông, Hình thư; Trần Thái Tông, Quốc triều thông lễ, Hình luật , Thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi, Di hậu lục, Cơ cừu lục, Thi tập; Trần Nhân Tông, Trung hưng thực lục; Trần Anh Tông, Thủy vân tùy bút; Trần Minh Tông, Thi tập; Trần Dụ Tông, Trần triều đại điển; Trần Nghệ Tông, Bảo Hòa điện dư bút, Thi tập; Trần Hưng Đạo, Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền; Chu Văn Trinh, Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi; Trần Quốc Toại, Sâm Lâu tập; Trần Quang Khải, Lạc đạo tập; Trần Nguyên Đán, Băng Hồ Ngọc hác tập; Nguyễn Trung Ngạn, Giới Hiên thi tập; Phạm Sư Mạnh, Hiệp Thạch tập; Trần Quang Triều, Cúc Đường di thảo; Hồ Tông Thốc, Thảo nhàn hiệu tần tập, Việt Nam thế chí, Việt sử cương mục; Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký; Nguyễn Phi Khanh, Nhị Khê thi tập; Hàn Thuyên, Phi Sa tập; Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập. Cũng xem Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Tân Việt, Sài Gòn, 1964, tr.200 - 201.

7. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, quyển 1, “Lê kỷ”.

8. Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ loại - Đệ nhất sách - Truyền kỳ mạn lục, sđd, tr.23.

9. Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ loại - Đệ nhất sách - Truyền kỳ mạn lục, sđd, tr.135 (chú 170), 148-150 (chú 31), 173 (chú 30), 182 (chú 99), 183 - 184 (chú 104), 228 (chú 100), 280 - 281 (chú 11), 340 (chú 42), 348 (chú 89), và 461 (chú 76).

10. Xem Nguyễn Đình Diệm (dịch), Kim Vân Kiều - Thanh Tâm Tài Tử, hai tập, Nha Văn hóa, Phủ Quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa, Sàigòn, 1971, tập 1, tr.5.

11. Xem Bùi Quang Nghĩa, L’Union Merveilleuse de Kim et Thach, Merveilleuse en Chu Nom precede d’une introduction - Transcription en quoc ngu et traduction en francais avec une introduction et des commentaries par P.Midan, Extrait du Bulletin de la Societe des Etudes Indochinoses, Tome IX, no. 1-2, Saigon, 1934.

Trong lời giới thiệu, P.Midan viết rằng, “Chủ đề được vay mượn từ Trung Quốc, từ một tác phẩm dã sử mà tác giả không cho biết tên. Người ta không rõ đâu là nguyên gốc. Phần lớn những tác phẩm văn chương cổ Trung Hoa thường là khuyết danh” (tr.224).

Các học giả Việt Nam đã lãng quên nguyên gốc của Kim Thạch kỳ duyên trong một thời gian dài. Thập niên 90 là lúc liên hệ giữa Kim Thạch duyên và Kim Thạch kỳ duyên được các học giả Việt Nam tái lập.

12. Trần Văn Giáp, “Lược khảo tiểu thuyết Tàu”, Thanh Nghị, 11 (4/1942), tr.14.

13. Trong luận văn Tiến sĩ mang tựa đề Việt Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết chi nghiên cứu - Thượng, hạ, Taiwan National University, 1973, Trần Quang Huy đã chỉ ra những quan hệ giữa một số tiểu thuyết Trung Quốc và truyện Nôm Việt Nam, ví như: Chiêu Quân cố sự - Vương Tường truyện, (Tôn Các truyện) - Lâm tuyền kỳ ngộ truyện, Hoa tiên ký- Hoa tiên truyện, Tùy Đường diễn nghĩa - Quân trung đối truyện, Nữ Tú tài di hoa tiếp mộc - Nữ Tú tài truyện, Thôi Tuấn Thần khảo hội phù dung bình - Phù dung tân truyện, Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai - Nhị độ mai truyện, Ngọc Kiều Lê truyện - Ngọc Kiều Lê tân truyện, Tây du ký - Tây du truyện, Quan âm xuất thân Nam du ký truyện - Phật Bà Quan âm truyện, Long Đồ bảo quyển - Phương Hoa truyện.

14. Yan Bao, “The Influence of Chinese Fiction on Vietnamese Literature” (ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với Văn học Việt Nam), Literary Migrations - Traditional Chinese Fiction in Asia (17-20 Centuries) (Truyền nhập văn học-Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu á (từ thế kỷ XVII-XX), Claudine Salmon biên tập, International Culture Publishing Corporation, Beijing 1987, tr.286-312. Có thể xem thêm giản bản của sách này qua bản dịch Hoa văn Trung Quốc truyền thống tiểu thuyết tại Á Châu, Bắc Kinh Đại học tỷ giảo nghiên cứu tùng thư), Quốc tế văn hóa xuất bản công ty, Bắc Kinh, 1989, tr.208-236.

15. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, Quyển nhất, “Mục lục dẫn,” Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Saigon, 1972, tr.6b.

16. Trần Văn Giáp, “Lược khảo tiểu thuyết Tàu,” bđd, tr.14.

17. “Phan Xích Long, tức Phan Phát Sanh, nhận là dòng dõi “nhà trời” xuống làm vua nước Nam, tự xưng là “Phan Xích Long hoàng đế,” lập căn cứ ở núi Thất Sơn (Châu Đốc), hô hào đánh Pháp, bị bắt ở Phan Thiết, tháng 3-1913.” Lịch sử Việt Nam , Tập II, Nxb. KHXH, Hà Nội 1985, tr.139, chú 2.

18. Lê Thành Lân, “Chỉ hại về truyện Tàu,” Lục Tỉnh tân văn, 23 Mars 1916.

19. Trong bài Chỉ hại về truyện Tàu, Lê Thành Lân viết: “Như đọc Lương Sơn bạc thì nghĩ mình là Hoa Hòa thượng, là Hắc Toàn Phong; coi Hoa nguyệt ngân lại tưởng mình như Hàn Hà Sanh, Vi Si Châu (...) Trông người lại ngẫm đến ta, như tiểu thuyết Tàu, quanh đi quẩn lại, chỉ trong một cái quyền sáo nhứt trị nhứt loạn mà thôi. Anh hùng như Thủy hử, phong tình đến Hồng lâu, chẳng qua chỉ mở thói dâm bôn, dục lòng trộm cướp, chớ chẳng có cuốn nào mà gọi được là khai dân trí cả. Huống chi lại còn như Tây du, Phong thần, Chinh đông, Chinh tây, Bình nam, Tảo bắc, Đông Hán, Tây Hán, Thuyết Nhạc, Phản Đường, v.v. Thuần là những phép tiên, phép yêu, hoang đàng quá lẽ, làm cho thiên hạ chỉ chắc về thần quyền, không còn nghĩ gì đến nhơn lực. ấy nước Tàu mà cựa mình không nổi, cất đầu chẳng lên, tuy có nhiều cái tệ, mà tiểu thuyết cũng là một cái độc lớn.// Người Nam ta, hay có tánh chuộng lạ, tưởng đó là đồ tiêu khiển, là thú giải phiền, thành thế cái giống độc của Tàu, mới truyền nhiễm vào những não tủy nhi đồng phụ nhụ, trong dân đoàn xã hội một nước Việt Nam ta, khá chẳng nên thương hại lắm”. (bđd)

TB

VIỆT NAM TRONG QUÁ KHỨ ĐÃ TIẾP NHẬN NHỮNG GÌ Ở TƯ TƯỞNG ĐẠO GIA
TRUNG QUỐC ?

TRẦN NGHĨA

Tư tưởng Đạo gia và một phái sinh của nó là Đạo giáo đã truyền vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên, được người nước ta tiếp nhận theo cách thức riêng của mình cho đến tận 1945, khi lịch sử sang trang. Nội dung và cách thức tiếp nhận có thể chia làm hai thời kỳ khác biệt: thời Bắc thuộc và thời độc lập tự chủ.

I - Thời Bắc thuộc

Hãy nói trước hết về tư tưởng Đạo gia. Có 3 tác phẩm khả dĩ giúp ta tìm hiểu vấn đề này, đó là Lý hoặc luận của Mâu Bác (người Giao Châu, sống vào cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III); Sáu bức thư tranh luận về Đạo Phật giữa Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu (cuối thế kỷ V); và bài phú Bạch vân chiếu xuân hải của Khương Công Phụ (thế kỷ VIII).

- Trong Lý hoặc luận, Mâu Bác đã 15 lần trích lời Lão Tử, và 5 lần tôn vinh Lão Thị. Ông nói: “Lão Tử từ bỏ thánh trí, sửa mình để giữ lấy cái chân thực, muôn vật không đụng chạm đến chí hướng, thiên hạ không xê dịch nổi niềm vui, thiên tử không dùng được làm bầy tôi, chư hầu không kéo được làm bè bạn, ấy là điều đáng quý” (Tựa). Tư tưởng Đạo gia được Mâu Bác tiếp nhận như là một phương tiện để chứng giải cho giáo lý nhà Phật. Ông viết: “... Tôi dốc chí vào Đạo Phật, đồng thời nghiên cứu sách Lão Tử gồm 5000 chữ, lấy lẽ huyền diệu làm rượu để nhấm nháp” (Tựa).

- Trong Sáu bức thư, Đạo Cao và Pháp Minh cũng 5 lần dẫn Đạo gia. Khác với Lý hoặc Luận là ở chỗ nếu đối tượng trích dẫn của sách này là Lão Tử, thì đến Sáu bức thư, đối tượng trích dẫn lại là Trang Tử ? Và nếu ở Lý hoặc luận nội dung trích dẫn là những câu triết lý, thì đến Sáu bức thư, nội dung trích dẫn lại là các chuyện ngụ ngôn như “võng tượng huyền châu” (Trang Tử. Thiên địa); “Sô cẩu” ( Trang Tử. Thiên vận); “Thuyên đề” (Trang Tử. Ngoại vật); “Bào Đinh” (Trang Tử. Dưỡng sinh chủ)...

- Trong bài phú Bạch vân chiếu xuân hải, Khương Công Phụ đã phát huy cái nhìn “Thiên đạo tự nhiên” của Lão Tử và quan điểm “mỹ giả tự mỹ” của Trang Tử.

Bên cạnh Đạo gia mà chủ yếu là tư tưởng Lão Trang, Đạo giáo cũng để lại một số dấu vết trong tín ngưỡng và văn hóa nước ta thời Bắc thuộc.

- Lý hoặc luận cho thấy vào cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, người Giao Châu đã biết tới chuyện Kiều Tùng, chuyện bùa chú của Bát tiên, chuyện tịch cốc để trường sinh bất tử. Và trong dân gian cũng đã có người thực hành một số phép tu luyện của Đạo giáo. Nhưng cũng có kẻ không tin, như tác giả Lý hoặc luận chẳng hạn. Mâu Bác viết: “Sách thần tiên khi nghe thì đầy rẫy cả tai, nhưng tìm sự hiệu nghiệm thì tựa hồ nắm gió bắt bóng” (Chương 29). Ông viết tiếp: “Khi tôi chưa hiểu đạo cả (Chỉ Đạo Phật - TN) thì cũng từng học tịch cốc. Phép thuật này có hiệu quả hàng trăm hàng nghìn kiểu, nhưng thực hiện không thấy có hiệu quả, không thấy tin tưởng nên mới thôi. Cứ xem như ba người thầy mà tôi theo học, ông nào cũng nói mình đã sống 700 tuổi, hoặc 500 tuổi, hoặc 300 tuổi, thế mà tôi học họ chưa đầy ba năm, tất cả đều chết ráo” (Chương 31).

- Trong Sáu bức thư, ta thấy Đạo giáo tuy vẫn tiếp tục phát triển trong dân gian, nhưng đối với giới trí thức Phật giáo thì vẫn là đối tượng bị phê phán giống như thời Mâu Bác. Pháp Minh viết trong bức thư trả lời Lý Miễu: “gửi lòng dạ, ở cỗ xôi bà cốt, dốc thành tâm vào câu chú đạo bùa, nắm cái tà để mong cái chính, giữ cái giả để chờ cái thật (...) thì dù Phật có “hiện rõ thân hình, tỏa ánh sáng, chuyển rung mặt đất, liệu có thể thấy được chăng” (Bức thư số 6).

- Đến Bạch vân chiếu xuân hải phú, một tác phẩm của Nho sĩ, Đạo giáo trở thành nguồn cảm hứng để sáng tác:

"Vòm trời thoắt mở màu tốt đẹp trải trăng,
Hơi thẩn vừa thu, ánh trong lành chiếu vạch"...
"Bấy giờ thì:
Gò đảo băng tan,
Bãi bờ tuyết sạch.
Lâu đài hiện rõ chốn Tam Sơn.
Hoa cỏ gồm thu vào một cảnh,
Gần cây quỳnh mà rỡ ràng,
Phủ Đài Dao mà óng ánh..."
Rõ là một cảnh thần tiên tuyệt đẹp!

II - Thời độc lập tự chủ

Từ thế kỷ X trở về sau, tư tưởng Đạo gia không còn được sự tá trợ nhiều của đạo Phật để trở thành một thứ anh Hai trong gia đình Tam giáo (Phật, Lão, Nho) như dưới thời Bắc thuộc, thời đạo Phật phát triển mạnh. Đạo gia trong thời kỳ nước ta độc lập tự chủ đã bị đẩy dần xuống hàng thứ ba sau Nho và Phật, thường được dẫn dụng như là những từ ngữ hoặc điển cố để minh họa cho tư tưởng “nhân sinh nhược đại mộng”, “phú quý tự phù vân” trong triết lý cũng như trong thơ văn, nhất là từ giữa thế kỷ XV trở đi, khi Nho giáo chiếm lĩnh vũ đài học thuật, và từ thế kỷ XVI trở đi, khi nước ta bước vào thời kỳ Nam - Bắc phân tranh... Điều này được minh chứng qua các sách Phật giáo như Khóa hư lục (thường dẫn các điển của Đạo gia như “Man Xúc tương trì”, “Thác thược”, “Tử Cơ ẩn kỷ”, “Bằng điểu”, “Thiên lại”, “Hồ điệp mộng”), Thượng sĩ ngữ lục (“Hòa quang đồng trần”, “Nhất khúc vô sinh”) và trong thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho mai đến Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, với “Đời đáng chán hay không đáng chán”, “Giấc mộng lớn”, “Giấc mộng con”...

Có thể nói so với thời kỳ Bắc thuộc, vai trò của tư tưởng Đạo gia ở Việt Nam và trong giai đoạn sau mỗi lúc một lu mờ!

Nhưng với Đạo giáo thì ngược lại. Nhờ dung hợp được với tín ngưỡng và phong tục tập quán bản địa, Đạo giáo cơ hồ ngày càng được hoan nghênh và phát triển mạnh ở Việt Nam.

Ngay từ thời Lý Trần, đã xuất hiện những Đạo sĩ lừng danh như Thông Huyền, Hoàn Nguyên, Huyền Vân. Đặc biệt về sau đã xuất hiện cuốn Kê song xuyết thập mà hậu thân của nó là Hội chân biên ghi lại sự tích 27 vị “tiên Việt Nam” qua 25 truyền thuyết Đạo giáo, trong đó có 13 tiên ông và 14 tiên nữ, với các Đạo tổ, Chân nhân, Thánh Mẫu, Tiên Nương, Tiên nữ...

Tìm hiểu kỹ, ta thấy cả hai phái Đạo giáo “Phù lục” và “Đan đỉnh” đều tìm được đất sống ở Việt Nam.

- Phái “Phù lục” nghiêng về bùa chú, gọi là “Đạo giáo phù thủy” đã đi sâu vào dân gian theo hướng dùng phép thuật, niệm chú, cầu cơ, vẽ bùa... để trấn yểm, trừ tà, chữa bệnh, nhằm cứu nhân độ thế. Về mặt này, ta có các sách đáng chú ý như: Thái Thượng cảm ứng thiên, Cứu kiếp hoàng kinh, Tiêu tai diên thọ diệu kinh, Lã Tổ chỉ huyền thiên bí chú, Trần triều hiển thánh độ thế chân kinh, Thỉnh phù tróc ngục ấn quyết... (trong đó có một số ít sách là của Trung Quốc, do ta in lại và bổ sung thêm).

- Phái “Đan đỉnh” thì nghiêng về tu tiên luyện đan, gọi là “Đạo giáo thần tiên”, với các Đạo sĩ, Đạo cô sẵn sàng rời gia đình để rong du cõi ngoại. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa thấy xuất hiện loại người này. Một nhà tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX từng nói:

Cần lao tự cổ trường sinh tể,
Hà tất cao đường tọa thám lư!
(Từ xưa, lao động là món thuốc bổ để sống lâu,
Cứ gì phải ngồi trên nhà cao để luyện thuốc trường sinh bất tử).

Nhưng riêng đối với tiểu thuyết cổ Việt Nam thì Đạo giáo thần tiên lại gây nhiều ảnh hưởng, đặc biệt là với tiểu thuyết chữ Hán. Dễ dàng nhận thấy dấu ấn của Đạo giáo thần tiên qua không ít câu chuyện chép trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Thánh Tông di thảo, Đào hoa mộng ký v.v. ở lĩnh vực này, các truyền thuyết Đạo giáo thần tiên đã được chăm chú khai thác và tiểu thuyết hóa về các mặt cốt truyện, nhân vật, khung cảnh...

Có thể nói Đạo giáo đã kích thích óc tưởng tượng của giới nhà văn trên đường đi tìm cái đẹp trong cuộc sống con người, làm cho con người trở nên ngày một hoàn thiện hơn, hưởng thụ nhiều mỹ cảm văn học hơn. Đối với sự phát triển của thể loại văn học nước ta, chính Đạo giáo đã góp phần dẫn dắt tiểu thuyết cổ Việt Nam đi từ bút ký đến chí quái, truyền kỳ và một vài thể loại tiểu thuyết khác nữa như diễm tình, công án...

ở đây có một câu hỏi đáng được đặt ra là liệu trong thế kỷ XXI, Đạo gia có vai trò gì trong văn hóa Việt Nam, và nhìn rộng ra là văn hóa Đông phương, văn hóa cả hành tinh ? Về vấn đề này tôi xin giới thiệu một nhận định của Trương Đăng Quế từ giữa thế kỷ XIX để chúng ta cùng suy ngẫm. Ông viết:

“Lão Tử trốn đời, tuy vô tâm mà thật ra là hữu tâm (...) Lão Tử rất hiểu và rất sành về thuật xử thế, gọi là vô tâm nhưng rất dính dáng với đời, như thế vẫn là hữu tâm” (Quảng Khê văn tập. Sử học)

Nghĩa là đời còn thì tư tưởng Đạo gia vẫn chưa phải đã gác sang một bên được !

TB

CỤM VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ Ở VĂN MIẾU BẮC NINH: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
TƯ LIỆU

NGUYỄN HỮU MÙI

Trong số các Văn miếu hàng tỉnh ở nước ta còn lại đến ngày nay thì Văn miếu Bắc Ninh, ngoài chức năng thờ Khổng Tử, tứ phối, còn có một hệ thống văn bia ghi về họ tên, quê quán, chức tước của những người địa phương đỗ đại khoa qua các khoa thi do nhà nước phong kiến tổ chức. Những năm gần đây, đã có khá nhiều người đề cập đến văn bia(1), nhưng chưa ai đi sâu tìm hiểu niên đại, tác giả, nguồn tài liệu, phương pháp biên soạn, nhất là những giá trị tư liệu do nó chuyển tải. Với bài viết này, chúng tôi muốn trình bày các kết quả nghiên cứu của mình có liên quan tới những vấn đề vừa nêu, qua 12 tấm văn bia đề danh Tiến sĩ tại Văn miếu Bắc Ninh.

1. Vài nét về hình thức văn bia

Kho thư tịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) hiện nay còn lưu trữ được hai bộ thác bản văn bia do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp in rập trước đây tại Văn miếu Bắc Ninh, mang ký hiệu No. 4932 - 4943 và 16737 - 16749. Đây là những bia vốn dựng tại nhà bi đình của khu di tích cũ (nay là núi Phúc Sơn, xã Đại Phúc, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Cả 12 tấm văn bia đều có khổ trung bình, dao động từ 85 đến 100 x 70 đến 75cm, dày từ 15 đến 20cm, tương đương với bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Huế. Bia chỉ khắc chữ ở mặt trước, trang trí giống nhau: trán bia khắc nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh có các hình mây cuốn. Dòng tiêu đề khắc nổi, nét đậm, với bốn chữ Kim bảng lưu phương 金 榜 留 芳 (lưu tiếng thơm trong bảng vàng). Dưới dòng tiêu đề, phía bên phải khắc chữ Thành Thái Kỷ Sửu 成 泰 己 丑. Phía bên trái khắc chữ Thập nguyệt cung khắc 十 月 恭 刻, cho biết thời gian khắc bia là tháng 10 năm Kỷ Sửu (1889), niên hiệu Thành Thái. Diềm bia để hẹp, khổ từ 1,5 đến 2cm, không khắc hoa văn. Lòng bia khắc toàn chữ Hán, tổng cộng khoảng 10.000 chữ, theo thể Khải thư, gồm 3 phần: Phần chữ nhỏ ở trên ghi khoa thi, triều vua. Phần chữ to, đậm ở giữa ghi đỗ thứ hạng gì và họ tên người đó. Phần chữ nhỏ ở dưới ghi quê quán, gồm tên xã và huyện cùng chức quan cao nhất. Nhìn chung, đây là những văn bia có hình thức đẹp, trang nhã.

2. Xác định niên đại

Như trên có nhắc đến, tất cả các bia đều cho biết thời gian khắc bia, tức niên đại dựng bia, là vào tháng 10 của năm Kỷ Sửu (1889), thuộc niên hiệu Thành Thái. Theo cách hiểu thông thường ngày nay, những người đỗ sau mốc điểm đó, đương nhiên không được khắc văn bia. Nhưng thực tế cho thấy có cả những người đỗ sau năm 1889, như Đàm Liêm(2), Nguyễn Đạo Quán(3), thậm chí đỗ năm 1901, như trường hợp Nguyễn Đình Tuân(4), vẫn được khắc vào bia.

Sau khi tiến hành khảo sát văn bản, chúng tôi nhận ra đây là những văn bia vốn được dựng vào các thời điểm khác nhau. Tựu trung, phân biệt thành hai đợt chính.

Đợt đầu, gồm 11 văn bia, tức từ văn bia thứ nhất đến văn bia thứ 11, mang ký hiệu từ No.4932 - 4942. Đợt này, không chỉ khắc vào tháng 10 như văn bia ghi nhận, mà vẫn tiếp tục khắc rải rác vào những năm sau đó thuộc niên hiệu Thành Thái (1889 - 1907). Dấu vết của đợt khắc còn bảo lưu qua chữ “Chiêu” 昭, chữ này được PGS.TS Ngô Đức Thọ xác định là chữ húy đời Thành Thái(5), thấy viết bớt nét , xuất hiện 4 lần tại các bia số 5 (No. 4935: Nguyễn Chiêu Huấn, Bảng nhãn 1514), bia số 6 (No. 4936: Nguyễn Nhân Chiêu, Tiến sĩ (1532), bia số 7 (No.4937 Nguyễn Nhân Chiêu, Tiến sĩ 1574) và bia số 11 (No. 4942: Phạm Phúc Chiêu, Hoàng giáp 1472).

Đợt thứ hai, là tấm bia còn lại, tức văn bia thứ 12, ký hiệu No.4943. Đây là tấm bia ghi tên 33 vị đại khoa dưới triều Nguyễn (16 vị Tiến sĩ, 17 vị Phó bảng), trong đó có nhiều vị, như đã nêu tên, được khắc sau thời điểm dựng bia. Niên đại của bia này được nhắc đến ở một bia khác thuộc cùng khu di tích, đó là bia Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký 重 修 北 寧 碑 亭 記, dựng năm Duy Tân 6 (1912), cho biết: “Ngày tế thu năm ngoái (tức năm 1911), các vị văn thân trong tỉnh bàn bạc muốn trùng tu Văn miếu và khắc tên các vị tiên sinh đỗ Phó bảng qua các khoa thi vào bia. Bèn xin với quan tỉnh đường là Mai Viên Đoàn công (Đoàn Triển) cho phép (...), rồi mời thợ khắc bia, dựng cùng với bia đình, đặt tại cửa hai miếu Hội đồng đại thánh cho tiện tế tự”(6). Như vậy, niên đại của bia thứ 12, cũng chính là niên đại của bia Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký, dựng vào năm 1912.

3. Tác giả

Khác với bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Hưng Yên, bia Văn miếu Bắc Ninh có đặc điểm không ghi tên người soạn. Căn cứ vào đoạn tư liệu đã dẫn, kết hợp với đoạn tư liệu sau đây, cũng của bia Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký, cho thấy tác giả của những văn bia này là một tập thể, gồm các vị văn thân của tỉnh Bắc Ninh: “Trước đây Văn miếu Bắc Ninh đặt tại sơn phận xã Thị Kiều, do lâu ngày đổ nát, đến năm Quý Tỵ, niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1893), quan hàng tỉnh cho di dời về núi Phúc Đức của huyện Võ Giàng. Khi ấy, quan Đốc học tỉnh nhà là tiên sinh Đỗ Trọng Vĩ(7), người xã Đại Mão bàn tính với các vị văn thân hàng tỉnh lập bia đình, đặt trước Văn miếu môn, hai bên tả hữu đều khắc đầy đủ thứ bậc, họ tên, thuỵ hiệu của các vị tiên triết đỗ đại khoa trong tỉnh Bắc Ninh”(8).

4. Nguồn tài liệu biên soạn

Như chúng ta đã biết, Đăng khoa lục (ĐKL), đặc biệt với bộ “quốc sử” Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (LTĐKL) do nhóm soạn giả gồm các nhà khoa bảng Nguyễn Hoản, Vũ Miên, Phan Lê Phiên và Uông Sĩ Lãng biên tập, khắc in năm Cảnh Hưng 44 (1783), là một nguồn tài liệu cơ bản dùng để tra cứu tiểu sử các vị đỗ đại khoa trong cả nước. Muốn có thông tin về các nhà khoa bảng của địa phương mình một cách tốt nhất, các nhà biên soạn văn bia Tiến sĩ Bắc Ninh không thể không dựa vào đó. Bằng chứng rõ nhất xác nhận cho điều này, là ở tấm bia thứ 11 có nhắc đến chữ “Biệt lục”, tức phần “Biệt lục” của bộ sách công cụ nổi tiếng kể trên. Tiếp theo LTĐKL, các tác giả còn bổ sung thích đáng bằng nhiều nguồn tư liệu khác như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt thi tuyển, Huyện phả (của các hội Tư văn có trong tỉnh), Hương phả (của hội Tư văn hàng xã có trong tỉnh) cho đến bia đá, biển gỗ, tượng...Chính nguồn bổ sung thứ hai này sẽ tạo ra những thông tin mới sẽ được chúng tôi trình bày ở phần cuối.

5. Phương pháp biên soạn

Cũng như các sách ĐKL, bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Bắc Ninh được biên soạn theo phương pháp lịch đại. Các tác giả dường như chỉ việc liệt kê số người của địa phương mình đỗ trong các khoa thi theo trật tự thời gian, với các yếu tố: Khoa thi, thứ hạng, tên người, quê quán và chức quan cao nhất do người đó đảm nhiệm. Nhưng có một số biệt lệ.

+ Có mục qui đổi địa danh tên huyện, tính vào thời điểm lập bia. Mục này đặt ở bia thứ nhất, ghi sau dòng tiêu đề: Huyện Gia Định, nay đổi là huyện Gia Bình. Huyện Tế Giang, nay đổi là huyện Văn Giang. Huyện Thiện Tài, này đổi là huyện Lương Tài..., gồm 8 huyện. Các huyện còn lại, do không có sự thay đổi nên vẫn giữ nguyên.

+ Bia không ghi tuổi đỗ cũng như mối quan hệ huyết thống đăng khoa (trừ 2 trường hợp Đào Toàn Mân và Vũ Đăng Long ghi ở bia thứ 11).

+ Mở rộng người của tỉnh đỗ trong các khoa “Hoành từ” và “Thần đồng” cùng người tỉnh Bắc Ninh nhưng có hộ tịch ở tỉnh khác, cũng được khắc vào bia (Quan điểm này ghi ở mục “Cẩn án” của bia thứ 11). Riêng khoa “Thần đồng”, hiện chưa có tài liệu nào đề cập đến. Không rõ khoa thi này tổ chức như thế nào ?

Theo tinh thần đó, số người đỗ đại khoa của tỉnh Bắc Ninh đăng ký ở từng bia như sau.

Bia thứ nhất, ghi từ Lê Văn Thịnh, đỗ “Trạng nguyên” khoa Minh Kinh bác học năm ất Mão, niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) đến Đàm Văn Lễ, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận 10 (1469), gồm 45 vị, đỗ trong 21 khoa.

Bia thứ hai, ghi từ Vũ Kiệt, đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức 3 (1472), đến Nguyễn Thận Lễ, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1478), gồm 66 vị, đỗ trong 6 khoa.

Bia thứ ba, ghi từ Lê Tuấn Mậu, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490), đến Nguyễn Hiếu Tư, đỗ Tiến sĩ khoa ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh 1 (1505), gồm 79 vị, đỗ trong 6 khoa.

Bia thứ tư, ghi từ Nguyễn Giản Thanh, đỗ Trạng Nguyên khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh 4 (1508), đến Phạm Vĩnh Truyền, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, niên hiệu Thống Nguyên 5 (1526), gồm 65 vị, đỗ trong 7 khoa.

Bia thứ năm, ghi từ Đỗ Tông, đỗ Trạng nguyên khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức 3 (1529) đến Trần Vi Nhân, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch 3 (1550), gồm 88 vị, đỗ trong 8 khoa.

Bia thứ sáu, ghi từ Nguyễn Lượng Thái, đỗ Trạng nguyên khoa Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Lịch 6 (1533), đến Phạm Tòng Mệnh, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592), gồm 81 vị, đỗ trong 15 khoa.

Bia thứ bảy, ghi từ Nguyễn Thực, đỗ Hoàng giáp khoa ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng 18 (1595), đến Nguyễn Văn Bảng, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi, niên hiệu Phúc Thái 1 (1643), gồm 40 vị, đỗ trong 16 khoa.

Bia thứ tám, ghi từ Nguyễn Đăng Cảo, đỗ Thám hoa khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4 (1646), đến Nguyễn Duy Viên, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hòa 15 (1694), gồm 50 vị, đỗ trong 15 khoa.

Bia thứ chín, ghi từ Nguyễn Quyền, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa 18 (1697), đến Đặng Công Diễn, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái 8 (1727), gồm 42 vị, đỗ trong 11 khoa.

Bia thứ mười, ghi từ Trần Danh Ninh, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi, niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731), đến Nguyễn Đăng Vận, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787), gồm 42 vị, đỗ trong 20 khoa.

Bia thứ 11, ghi từ Trần Đăng Tập, đỗ Thái học sinh khoa Bính Dần, niên hiệu Thiệu Long nhà Trần (1266), đến Nguyễn Kim Hoán, đỗ Chính bảng (Tiến sĩ), khoa Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị 2 (1842), gồm 46 vị (trong đó có 30 vị ghi đủ họ tên, 16 vị hoặc khuyết họ, hoặc khuyết tên, hoặc khuyết cả họ và tên) đỗ trong 46 khoa (trong đó chỉ xác định được 7 khoa, còn 39 khoa bị khuyết).

Bia thứ mười hai, ghi từ Chu Văn Nghị , đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mệnh 7 (1826), đến Nguyễn Duy Thiện, đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái 13 (1901), gồm 33 vị, đỗ trong 19 khoa.

Tổng cộng là 677 vị, người tỉnh Bắc Ninh(9) đỗ đạt qua 156 khoa thi, kể từ năm 1075 đến 1901, trong đó xác định rõ họ tên của 661 vị, còn 17 vị để trống.

6. Giá trị tư liệu

Dù tạo dựng vào cuối thế kỷ 19, cho đến những năm đầu của thế kỷ 20, muộn hơn nhiều so với các sách ĐKL biên soạn trước đó, nhưng bù lại, đây là những văn bia được biên soạn bằng nguồn tư liệu phong phú, đa dạng, do các văn thân là người địa phương thực hiện, bởi vậy nó chứa đựng nguồn thông tin có giá trị về nhiều mặt. Nếu so sánh những thông tin này với thông tin có trong LTĐKL, chẳng hạn với bản mang ký hiệu VHv. 2140/1-3 của VNCHN, thì thấy có những đóng góp sau đây.

Bổ sung tên xã cho 5 nhà khoa bảng

TT Khoa thi LTĐKL Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh
1 Cảnh Thống 2 (1499) Nguyễn Bá Tuấn: người huyện Vũ Ninh (VHv. 2140/1, tờ 47b) Xã Văn Phong huyện Vũ Ninh (No.4934)
2 Cảnh Thống 2 (1499) Nguyễn Hùng Lãm: người huyện Quế Dương (VHv.2140/1, tờ 49a) Xã Đô Đàn huyện Quế Dương (No.4934)
3 Cảnh Thống 2 (1499) Lê Đình Tấn: người huyện Vũ Ninh (VHv. 2140/1, tờ 50a) Xã Đông Viên huyện Vũ Ninh (No. 4934)
4 Đoan Khánh 4 (1508) Nguyễn Côn: Người huyện Tiên Du (VHv. 2140/1, tờ 7a) Xã Nội Duệ huyện Tiên Du (No.4935)
5 Sùng Khang 3 (1568) Nguyễn Hy Lương: người huyện Lương Tài (VHv. 2140/1, tờ 48b) Xã Uyên Lãng huyện Lương Tài (No.4937)

Đính chính địa danh tên huyện cho 4 nhà khoa bảng

TT Khoa thi LTĐKL Bia đề danh tiến sĩ văn miếu hà nội Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh
1 Thánh Nguyên 1 (1400) Vũ Mộng Nguyên: người xã Viên Khê huyện Đông Sơn (VHv. 2140/1, tờ 8a (chưa có bia) Xã Đông Sơn huyện Tiên Du. (No.4932)
2 Hồng Đức 21 (1490) Đỗ Công Cẩn: người xã Tiên Phong huyện Tiên Phong (VHv.2140/1, tờ 39a) (chưa có bia) Xã Tiên Trà huyện Yên Phong (No.4934)
3 Diên Thành 3 (1580) Nguyễn An: người xã Đông Xuyên, huyện Tiên Phong (VHv. 2140/1, tờ 56b) (chưa có bia) Xã Đông Xuyên huyện Yên Phong. (No.4937)
4 Bảo Thái 2 (1721) Nguyễn Đăng Giai: người xã Hương Triện, huyện Gia Lâm (VHv. 2140/3, tờ 48a) Xã Hương Triện, huyện Gia Định (No.1379) Xã Hương Triện huyện Gia Định. (No.4940)

Cung cấp thông tin về sự thay đổi địa danh tên xã cho 14 nhà khoa bảng (tức ghi địa danh vào thời điểm lập bia)

TT Khoa thi LTĐKL Bia đề danh tiến sĩ văn miếu hà nội Bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh
1 Quang Thuận 7 (1466) Ngô Lôi: người xã Phù Khê (VHv.2140/1, tờ 15a) Xã Phù Khê (No.1316) Xã Phúc Khê (No.4932)
2 Hồng Đức 9 (1478) Nghiêm Phụ: người xã Lan Độ (VHv.2140/1, tờ 24a) Xã Lan Độ (No.1313) Xã Quan Độ (No.4933)
3 Hồng Đức 9 (1478) Ngô Trinh Chấp: người xã Xuân Lôi (VHv.2140/1, tờ 25a) Xã Xuân Lôi (No.1313) Xã Thụy Lôi (No.4933)
4 Hồng Đức 15 (1484) Tạ Tài: người xã Tùng Hộ (VHv.2140/1, tờ 30a) (chưa có bia) Xã Lâm Hộ (No.4933)
5 Hồng Đức 24 (1493) Đỗ Tuy: người xã Chu Cầu (VHv.2140/1, tờ 43b) (chưa có bia) Xã Ngọ Cầu (No.4934)
6 Thống Nguyên 5 (1526) Nguyễn Văn Hiến: người Xã Cẩm Xá (VHv.2140/1, tờ 20a) (chưa có bia) Xã Đặng Xá (No.4935)
7 Thống Nguyên 5 (1526) Nguyễn Xưởng: người xã Ngô Đồng (VHv.2140/2, tờ 21a) (chưa có bia) Xã Ngô Cương
8 Minh Đức 3 (1529) Nguyễn Doãn Địch: người xã Hoàng Phỉ (VHv.2140/2, tờ 22b) Xã Hoàng Vân (No.1305) Xã Hoàng Vân (No.4936)
9 Đại Chính 3 (1532) Nguyễn Địch Khang: người xã Vĩnh Thế (VHv.2140/2, tờ 24a) (chưa có bia) Xã Tư Thế (No.4936)
10 Đại Chính 6 (1535) Nguyễn Thừa Hưu: người xã Vĩnh Thế (VHv.2140/2, tờ 26a) (chưa có bia) Xã Tư Thế (No.4936)
11 Quang Bảo 2 (1556) Trần Đạo Tiềm: người xã Hương ổ (VHv. 2140/2, tờ 42a) (chưa có bia) Xã Xuân ổ (No.4937)
12 Diên Thành 3 (1580) Nguyễn Đán: người xã Khánh Duệ (VHv.2140/2, tờ 55b) (chưa có bia) Xã Nội Duệ (No.4937)
13 Diên Thành 6 (1583) Lê Minh: người xã Thanh Liễu (VHv.2140/2, tờ 58a) (chưa có bia) Xã Thanh Da (No.4937)
14 Vĩnh Trị 1 (1676) Chu Danh Tể: người xã Thụy Ninh (VHv.2140/3, tờ 27a) Xã Thụy Ninh (No.1327) Xã Mật Ninh (No.4939)

Cung cấp thông tin về 7 nhà khoa bảng thời Trần. 7 vị này đã được TS. Nguyễn Thúy Nga công bố trong cuốn Nghiên cứu văn bản học Đăng khoa lục Việt Nam(10), đều khắc ở bia “Phụ ký” (No.4942)

TT Họ tên Quê quán Năm đỗ
1 Trần Đăng Tập Xã Bình Lâm huyện Yên Phong Thái học sinh năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long (1266)
2 Đào Toàn Mân Xã Song Khê huyện Yên Dũng Thái học sinh (chưa rõ năm)
3 Đặng Xuân Xã Sơn Đông huyện Quế Dương Trạng nguyên (chưa rõ năm)
4 Nguyễn Công Cao Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang Thái học sinh (chưa rõ năm)
5 Đỗ Mỹ Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang Thái học sinh (chưa rõ năm)
6 Nguyễn Kiều Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang Thái học sinh (chưa rõ năm)
7 Hoàng Công Trù Xã Đan Nhiễm huyện Tế Giang Thái học sinh (chưa rõ năm)

CHÚ THÍCH

(1) Xin nêu lên một số bài tiêu biểu: Hệ thống văn bia Văn miếu Bắc Ninh của Nguyễn Cầm Phong, Thông báo Hán Nôm học, Nxb. KHXH, H.1995, tr.276-283; Về tấm bia phụ ký trong Văn miếu Bắc Ninh của Nguyễn Quang Khải, Tạp chí Hán Nôm số 2. 1999, tr.76-80; Giá trị văn hóa của văn bia trong Văn miếu Bắc Ninh của Nguyễn Quang Khải; Về tấm bia “Kim bảng lưu phương” thứ 12 của Văn miếu Bắc Ninh của Nguyễn Hữu Mùi. Hai bài sau cùng này hiện được in trong Văn miếu Bắc Ninh (kỷ yếu hội thảo khoa học) do UBND thị xã Bắc Ninh, Sở Văn hóa-Thông tin Bắc Ninh xuất bản năm 1999.

(2) Đàm Liên (1860-?): người xã Hương Mặc, huyện Đông Ngàn. Nay là thôn Hương Mạc, xã Hương Mạc, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. 36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi niên hiệu Thành Thái 7 (1895).

(3) Nguyễn Đạo Quán (1867-?): người xã Xuân Cầu, huyện Mỹ Văn. Nay là thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. 32 tuổi đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất niên hiệu Thành Thái 10 (1898).

(4) Nguyễn Đình Tuân (1867-?): người xã Trâu Lỗ, huyện Hiệp Hòa. Nay là thôn Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. 35 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901). Làm quan Đốc học Hà Đông.

(5) Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại Nxb. Văn hóa, H.1997, tr. 166-167.

(6) Nguyên văn: “Khứ niên thu tế nhật, tỉnh thân nghị dục trùng tu tính khắc lịch khoa Phó bảng liệt tiên sinh vu bi, thỉnh vu tỉnh đường chế Mai Viên Đoàn công doãn khả (...), tức mệnh cưu công thành chi, hợp thiết bi đình vu đại thánh Hội đồng nhị miếu chi môn, dĩ tiện tế tự”.

(7) Đỗ Trọng Vĩ: Theo Quốc triều Hương khoa lục, ông là người xã Đại Mão, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý, niên hiệu Tự Đức 17 (1864). Làm quan Đốc học tỉnh Bắc Ninh (A.36/2, tờ 75b). Theo Đỗ môn thế phả, ông sinh năm Kỷ Sửu (1829) thời Minh Mệnh, mất năm Kỷ Hợi (1899) thời Thành Thái, tự là Tham Thiền, hiệu Khôi Hữu, thụy Hiếu Mục. Sinh thời ông làm quan thanh liêm, cần kiệm, từng quyên góp tiền của sửa chữa các di tích, trong đó có Văn miếu Bắc Ninh (Cuốn phả này do ông Đỗ Trọng Thụy tặng chúng tôi).

(8) Nguyên văn: “Bản tỉnh Văn miếu tiền tại Thị Kiều sơn phận, nhật cửu đồi tỵ, Thành Thái ngũ niên Quý Tỵ, tỉnh hiến di kiến vu Võ Giàng chi Phúc Đức sơn. Thời tỉnh học Đại Mão Đỗ tiên sinh Trọng Vĩ mưu dữ tỉnh thân lập bi đình vu Văn miếu môn tiền, tả hữu các nhất thụ bi khắc thạch bị đề bản tỉnh đại khoa liệt tiên triết, khoa thứ, quan tước, tính danh, thụy hiệu”.

(9) Tỉnh Bắc Ninh vào thời điểm lập bia, gồm 26 phủ huyện. Nay bao hàm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, một phần đất tỉnh Hưng Yên, một phần đất tỉnh Vĩnh Phúc và các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn của Hà Nội.

(10) Nguyễn Thúy Nga: Nghiên cứu văn bản học Đăng khoa lục Việt Nam. VNCHN xuất bản. H. 1999, tr.100-101.

TB

NƠI BÁN SÁCH VÀ NGHỀ IN SÁCH MỘC BẢN Ở HÀ NỘI ĐẦU THẾ KỶ XX

NGUYỄN THỊ DƯƠNG

Hà Nội xưa nay luôn tự hào là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước, nổi tiếng với 36 phố phường. Quả đúng như Lý Thái Tổ đã từng nhận xét khi dời đô về Hà Nội: "... Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời..." để rồi đặt cho kinh thành cái tên thật ý nghĩa - Thăng Long. Sự hội tụ tinh hoa ấy không chỉ biểu hiện ở địa linh nhân kiệt, mà còn có thể thấy ngay từ tên gọi phố phường Hà Nội. Thật hiếm có đất nước nào trên thế giới lại có Thủ đô độc đáo như Hà Nội: mỗi phố phường đều gắn liền và là kết tinh của một nghề truyền thống: Hàng Lược, Hàng Hài, Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Giấy, Hàng Gai, Hàng Bè, Hàng Bột, Hàng Thiếc, Hàng Khay, Hàng Thùng, Hàng Quạt, Hàng Bạc, Hàng Than, Hàng Da, Hàng Mành, Hàng Nón, Hàng The, Hàng Nhiễu, Hàng Giày, Hàng Thuốc Bắc, Hàng Vải, Hàng Chỉ, Hàng Mã, Hàng Mụn, Hàng Mã Vĩ, Hàng Bún, Hàng Trống, Hàng Đậu, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Chĩnh, Hàng Vải Thâm... Kinh đô Thăng Long đồng thời cũng là nơi tiêu biểu cho truyền thống văn hiến của dân tộc. ấy vậy mà lần tìm trong số mấy chục "hàng" của Hà Nội, không thấy có "hàng" nào có tên hay mang bóng dáng của việc in sách và bán sách.

Giờ đây, chúng ta đang cận kề với thế kỷ XXI. Người ta có thể mua sách ở bất kỳ một hiệu sách lớn, nhỏ nào trên các đường phố Hà Nội bởi vì giờ đây các ấn phẩm ngút ngàn "trên trời, dưới sách". Thế ở đầu thế kỷ XX, người ta mua sách ở đâu ? Hà Nội bấy giờ có những nơi nào bán và in sách ?

Trong những trang sách viết về Hà Nội xưa, cụ Hoàng Đạo Thúy - một người rất am hiểu về Hà Nội cũng đã từng băn khoăn một điều là "đất văn vật mà lại không có lấy một nơi gọi là phố Hàng Sách". Đối với một đất nước" vốn xưng nền văn hiến đã lâu" như nước ta, điều này kể ra cũng thật đáng tiếc. Song như thế không có nghĩa là Hà Nội hồi đầu thế kỷ XX không có những điểm bán sách. Điều này ít nhiều liên quan tới nghề in sách mộc bản của ta.

Trong lịch sử xưa nay, nghề in với văn hóa của một đất nước bao giờ cũng có mối quan hệ mật thiết. Trước khi văn minh phương Tây cùng kỹ thuật in lối mới (hoạt tự) xâm nhập vào Việt Nam thì nền văn hóa xã hội Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ nghề in mộc bản. Với đặc điểm của nền văn hóa Nho giáo, lấy chữ Hán làm văn tự chính thống cùng chế độ giáo dục khoa cử, nghề in mộc bản thực sự trở thành một phương tiện đắc lực phục vụ đời sống chính trị, xã hội của dân tộc. Thực ra, nghề in mộc bản xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm. Nó gắn liền với việc khắc in những bộ kinh sách để truyền bá đạo Phật khi Phật giáo thịnh hành ở Việt Nam thời Lý- Trần. Song phải đợi đến khi Thám hoa Lương Như Hộc triều Lê, sau hai lần đi sứ (Thái Hòa1-1443 và Thiên Hưng 1-1459) đã đem nghề in mộc bản của Trung Quốc truyền cho dân làng mình thì bấy giờ nghề in sách của ta mới có bước phát triển rõ rệt và dần được truyền đi rộng khắp. Ban đầu phạm vi in ấn hết sức hạn hẹp (chỉ trong khu vực triều đình và nhà chùa. Hơn nữa, kinh phí cũng hết sức tốn kém). Có những khi triều đình phong kiến quản lý việc in ấn khá nghiêm ngặt. Thời Lê, ngay cả những kinh sách đạo Phật, đạo Lão cũng như thơ văn mà triều đình không cho phép thì người dân không được khắc in. Hay như dưới thời Minh Mệnh, người nào muốn in ấn phải có đơn gửi lên cấp quản lý chuyên trách. Tuy vậy, nghề in sách vẫn không vì thế mà không có bước phát triển. Đặc biệt vào cuối thế kỷ XIX, khi nền kinh tế hàng hóa nảy nở, mạng lưới giao thông phát triển, các đô thị lớn nhỏ xuất hiện thì đời sống xã hội Việt Nam có những biến chuyển nhanh chóng, cùng với nhu cầu về đời sống tinh thần của người dân đã khiến cho nghề in nở rộ và trở thành một nghề kinh doanh trong xã hội. Các cơ sở tư nhân mọc lên khắp nơi. Chính vì thế, số thư tịch của ta hiện còn, phần lớn được làm ở giai đoạn này.

Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam lại có những chuyển biến quan trọng. Văn minh phương Tây xâm nhập, đã làm đảo lộn những khuôn phép mà triều đình phong kiến Việt Nam cố công duy trì bấy lâu nay. Các giá trị văn hóa Nho giáo không còn được tôn sùng như trước nữa. Nó đã bị lung lay, khô cứng và trở nên méo mó đến thảm hại:

" Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co...."

Lúc này cùng với bước chân xâm lược của thực dân Pháp, một số sản phẩm của nền văn minh hiện đại bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Trong đó phương thức in bằng con chữ rời đã có những ảnh hưởng lớn tới việc in ấn xuất bản của Việt Nam. Như trên đã nói, nghề in mộc bản gắn liền với văn hóa chữ Hán và giáo dục khoa cử. Thế nhưng ở vào thời điểm nền Nho học nước nhà bắt đầu suy thoái, thêm nữa lối in chữ rời hết sức tiện lợi đã xuất hiện song nghề in mộc bản không phải đã mất đi vai trò của mình. Không những thế lại còn xuất hiện thêm nhiều cơ sở in ấn mới. Tại sao lại như vậy ? Điều này hoàn toàn được quyết định bởi những nguyên nhân lịch sử xã hội:

"Sự lỏng lẻo về vương quyền bên cạnh sự biến chuyển dữ dội của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khiến nhu cầu về sách vở, và các tri thức khoa học trở nên thiết yếu, khiến cho hàng loạt những hiệu, đàn, trai, lâu.... ra đời, báo hiệu một thời kỳ nở rộ của nghề in, kéo theo sự lụi tàn dối già của nền Nho học nước nhà".

Với tư cách là kinh đô của đất nước, đương nhiên việc in ấn sách ở Hà Nội giữ một vị trí quan trọng. Ngoài hai khu vực đền chùa (chủ yếu in kinh sách ấn tống phục vụ nhu cầu tôn giáo) và triều đình (chủ yếu là các bộ sử) thì ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, các nhà in tư nhân hết sức phát triển. Nổi tiếng nhất là phố Hàng Gai với những tên: Liễu Văn đường, Tụ Văn đường, Phúc Văn đường, Đồng Văn đường, Quảng Thịnh đường, Cẩm Văn đường, Quan Văn đường, rồi tới phố Hàng Đào với áng Hiên hiệu... Phố Hàng Ngang, Hàng Đào có bán cả sách Trung Quốc. Nơi bán sách cũ thì nằm trên phố Hàng Quạt...

Những sách mà các cơ sở này in bán gồm:

1. Mảng sách phục vụ khoa cử:

Mặc dù chế độ khoa cử Việt Nam đầu thế kỷ XX có nhiều xáo trộn, song tới tận năm 1919 mới kết thúc bằng khoa thi Hương cuối cùng. Nhu cầu về sách vở phục vụ thi cử là không thể thiếu. Có điều, do nội dung thi cử có phần thay đổi, từ kinh nghĩa, thơ phú chuyển sang văn sách, luận và thêm cả một phần quốc ngữ (dùng chữ cái La-tinh) nên các tập luận và văn sách được chọn lọc và bán khá nhiều như như Luận thể tân thức do hiệu Cát Thành số 3 Hàng Gai in năm 1911, Hội đình văn tuyển (từng được cơ sở Liễu Chàng in năm 1838, sau được Liễu Văn đường, Đồng Văn đường, úc Văn đường nhiều lần tái bản), Hương thí văn tuyển (Liễu Văn đường, úc Văn đường, Trường Văn đường xuất bản), rồi Hà Nam hương thí văn tuyển (Gia Liễu đường, Liễu Văn đường), Luận ngữ tinh hoa ấu học (Lạc Tĩnh viên). Bên cạnh đó là các bộ sử như Trung học Việt sử toát yếu (ván in để tại số 22 Hàng Bè), Nam quốc địa giáo khoa thư, Văn minh tân học sách... của nhóm Đông Kinh nghĩa thục. Bộ Danh gia quốc âm, được hiệu Long Đức ở Hàng Thiếc in hai lần vào hai năm gần nhau 1902,1904......

Bên cạnh mảng sách khoa cử phục vụ tầng lớp Nho sinh, mảng truyện Nôm vốn ra đời ở thế kỷ XVII, phát triển mạnh ở thế kỷ XVIII, XIX đến đầu thế kỷ XX lại tiếp tục phát triển. Ngoài việc tái bản những cuốn cũ còn có thêm nhiều đầu sách mới nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của người dân. Riêng cuốn Phạm Công - Cúc Hoa, từ năm 1907 đến năm 1936, được in cả thảy 15 lần (trong phạm vi cả nước). Đặc biệt là Truyện Kiều được in cả thảy 32 lần. Trong số 25 lần in có ghi rõ thời gian và nhà tàng bản thì có tới 16 lần được in tại Hà Nội. Các truyện Nôm khác, với những đề tài cũ, mới không ngừng ra đời như Lưu Bình Dương Lễ tân truyện, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai tân truyện, Quan Âm chính văn tân truỵện, Mỹ nữ cống Hồ, Bạch Viên tân truyện, Nam nữ đối ca., Đồng tiền truyện... rồi những bản diễn trò như trò Hà Ô Lôi, trò Nghiêu Thuấn... cũng rất phổ biến.

Ngoài ra, còn có những loại sách thuộc lĩnh vực khác như luật, toán, và một số cuốn kinh Phật do cá nhân tự bỏ tiền ra in như bà Trần Thị Trường ở Hàng Gai... Đặc biệt đã xuất hiện những sách cổ động duy tân của nhóm Đông Kinh nghĩa thục. Những sách này, theo Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, được tạo nên ngoài phương thức in mộc bản truyền thống, còn có cả lối in hoạt tự (xem mục Văn minh tân học sách). Một điều không thể không nhắc đến là một số cơ sở in ấn ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, cùng với các thiện đàn” khác trong cả nước, tiếp tục in ấn nhiều thơ văn giáng bút. Nếu như trước đó văn giáng bút chỉ đơn thuần là lời của Phật, Tiên, Thánh khuyên răn con người ăn ở thiện tâm thì sang đầu thể kỷ XX nó đã mang thêm nội dung mới. Ta đã biết, giữa thế kỷ XIX, phong trào Cần vương diễn ra khá sôi nổi. Bằng những vần thi ca đầy nhiệt huyết, các nhà Nho tích cực kêu gọi nhân dân chống Pháp. Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức khủng bố phong trào, cấm lưu hành thơ văn “chống đối”. Để hợp pháp hóa việc tuyên truyền, nhiều nhà Nho của ta liền mượn ngày lời của Phật Tiên Thánh khuyên răn con người ăn ở thiện tâm thì sang đầu thế kỷ XX nó đã mang thêm những nội dung mới. Ta đã biết, giữa thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương diễn ra khá sôi nổi. Bằng những vần thơ ca, các nhà Nho tích cực kêu gọi nhân dân chống Pháp. Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức khủng bố, cấm lưu hành thơ văn "chống đối". Để hợp pháp hóa việc tuyên truyền các nhà Nho liền dùng lời của Phật, Tiên, Thánh kêu gọi nhân dân đoàn kết, chống thói hư tật xấu, chống cường quyền áp bức, nhằm chấn hưng văn hóa dân tộc, văn hóa Thăng Long. Lời của Phật, Tiên, Thánh ở đây không chỉ lấy lời của những nhân vật bên Trung Quốc nữa mà chính là lời của những vị anh hùng dân tộc, những vị" thánh" của dân tộc Việt. Hình thức thể hiện cũng trở nên gần gũi qua những vần thơ Nôm dễ thuộc, dễ nhớ. Chính vì thế nó đã khơi gợi được tinh thần dân tộc, kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước cứu nòi.

Sau năm 1919 chế độ khoa cử chấm dứt song nghề in sách mộc bản ở Việt Nam vẫn tồn tại lác đác đến tận kháng chiến chống thực dân Pháp, và dần thu hẹp phạm vi trong các đền chùa chỉ để in kinh, in thẻ...

Các cơ sở in sách mộc bản trên phố phường Hà Nội đầu thế kỷ XX:

- Áng Hiên hiệu (Hàng Đào)

- Cát Thành hiệu (Hàng Gai)

- Cẩm Văn đường (Hàng Gai)

- Công Thiện đường (?)

- Đông Kinh ấn quán (?)

- Đồng Văn đường (Hàng Gai)

- Lạc Tĩn Viên (?)

- Lạc Khuyến đường (?)

- Liễu Văn đường (Hàng Gai)

- Long Đức hiệu (Hàng Thiếc)

- Mạc Đình Tư hiệu (Hàng Bông)

- Mỹ Văn Đường (?)

- Nghĩa Lợi hiệu (?)

- Nhà in Lê Văn Tân (?)

- Nhà in Viễn Đông (?)

- Phúc An hiệu (?)

- Phúc Văn đường (Hàng Gai)

- Quan Văn đường (Hàng Gai)

- Quảng Thịnh đường (Hàng Gai)

- Thịnh Mỹ đường (Hàng Gai)

- Tụ Văn đường (Hàng Gai)

Đặc biệt có một số cơ sở in còn ghi cả địa chỉ cụ thể như:

Hiệu áng Hiên số 24 Hàng Đào.

Hiệu Cát Thành số 3 Hàng Gai.

Hiệu Mạc Đình Tư 136 Hàng Bông.

Số nhà 22 Hàng Bè.

Hà Nội không chỉ là nơi địa linh nhân kiệt mà còn là nơi nổi tiếng Thi Thư. Chính những cơ sở in này đã góp phần làm nên diện mạo văn hiến một thời của dân tộc ta nói chung cũng như diện mạo văn hiến Thăng Long nói riêng. Nó đã ghi lại đời sống văn hóa của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Nghề in và các cơ sở in ấn ở Hà Nội đầu thế kỷ XX đã có một vai trò tích cực trong việc chấn hưng văn hóa dân tộc, văn hóa Thăng Long.

Nhà thơ Huy Cận đã có một bài thơ thật ý nghĩa:

Phố Hàng Gai ngắn bên Hồ Kiếm.
Nhớ lại 45 năm về trước.
Phố Hàng Gai ngắn bên Hồ Kiếm.
Sách mỏng dân gian bán vỉa hè.
Bìa đỏ, bìa xanh, bìa tím thẫm.
Mười xu một cuốn giấy vàng hoe.
Trương Viên, Trinh thử, cùng Trê Cóc
Bên truyện Thạch Sanh với Tống Trân.
Lục súc tranh công cười ngặt nghẽo
Bích câu kỳ ngộ với Phan Trần
Sãi Vãi, Hoàng Trừu, Nữ tú tài,
Quan âm thị Kính,
khúc bi ai.
Lưu Bình Dương Lễ, ngời tình bạn.
Phạm Tải Ngọc Hoa, Nhị Độ Mai.
Bao nhiêu tình nghĩa bấy nhiêu người.
Thế thái nhân tình dệt những đời.
Thống thiết diễn ca quốc sử nữa,
Hưng vong non nước lúc đầy vơi.
Góc phố hiu hiu chiều chủ nhật
Ta đi thu góp vốn quê nhà,
Gom "Hồn cổ Việt" thành hai tập.
Đậm chữ vàng in trên gáy da.
Lòng yêu tiếng Việt tình da diết,
Hồn nước nằm trong tiếng mẹ cha.
Quán sách dân gian hè phố cũ,
Âm thầm vun vững gốc cho ta.
Hà Nội, 8-4-1983.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Nội nửa đầu thế kỷ. Nguyễn Văn Uẩn. Nxb Hà Nội 1995.

2. Phố phường Hà Nội xưa. Hoàng Đạo Thúy, Sở Văn hóa thông tin Hà Nội, 1974.

3. Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại. Kiều Thu Hoạch, Nxb. KHXH, 1993.

4. Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm. Mai Hồng - Nguyễn Hữu Mùi, T/c Hán Nôm số 1 năm 1986.

5. Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn. Lê Quốc Việt, T/c Khoa học và Tổ quốc.

6. Luận thể tân thức, VHv. 355, Thư viện Hán Nôm.

7. Việt sử tam tự tân ước toàn biên, VHv. 1697, Thư viện Hán Nôm.

8. Bắc sử tân san toàn biên. VHv. 1543, Thư viện Hán Nôm.

9. Quảng tập hoa văn, A. 1134/1, Thư viện Hán Nôm.

10. Luận ngữ tinh hoa ấu học, A 906, Thư viện Hán Nôm.

11. Trung học Việt sử toát yếu, VHv. 987/1-4, Thư viện Hán Nôm.

12. Đồng tiền truyện, VNb. 71, Thư viện Hán Nôm.

13. Truyện Kiều chữ Nôm đã xuất bản bao nhiêu lần ? Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Hữu Giới, T/c Sách, số tháng 6 năm 1998.

TB

TÌM HIỂU MẢNG THƯ TỊCH HÁN NÔM VỀ HÀ NỘI CỔ TRONG KHO SÁCH CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

TRẦN THU HƯỜNG

Trải gần nghìn năm lịch sử, Hà Nội là một trong những Thủ đô cổ kính trên thế giới, một thủ đô với truyền thống văn hiến lâu đời. Theo các từ thư cổ thì “văn hiến” chỉ thư tịch và người hiền tài. “Nghìn năm văn hiến Thăng Long” - Đông Đô - Hà Nội được phản ánh khá rõ nét trong nguồn thư tịch Hán Nôm về Hà Nội cổ. Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu và thống kê mảng thư tịch Hán Nôm về Hà Nội cổ, với mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong việc tìm hiểu về Hà Nội cổ, nhân dịp kỷ niệm 990 năm và 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Thư tịch Hán Nôm về Hà Nội cổ trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu về những cảnh sắc và con người Hà Nội từ xưa cho đến những năm tháng sôi động trước và sau Cách mạng thánh Tám. Hà Nội với những câu ca dao, tục ngữ, truyền truyết, truyện kể của riêng mình, Hà Nội với những phong tục, tập quán làm ăn, lề thói sinh hoạt vật chất và tinh thần của riêng mình..., Hà Nội một địa linh nhân kiệt. ''Đất ấy bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân cư không phải sống tối tăm ẩm thấp, muôn vật cực kỳ phồn thịnh và đông vui''... (Thiên Đô Chiếu của Lý Công Uẩn năm 1010 ).

Dựa vào bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu và cuốn Danh mục thác bản văn khắc Hán Nôm, chúng tôi đã tiến hành thống kê các tài liệu có liên quan đến Hà Nội. Con số thống kê đạt được đã làm cho chúng tôi thực sự ngạc nhiên và hào hứng: có cả thảy 531 cuốn sách và 1074 bài văn bia nói về Hà Nội cổ. Đó là một nguồn tư liệu Hán Nôm cực kỳ phong phú và quý giá, khả dĩ giúp chúng ta thấy được nhiều mặt về Thăng Long - Hà Nội xưa.

Dưới đây, xin được giới thiệu những nội dung chính của mảng thư tịch này, nhằm cung cấp thêm tư liệu cho bạn đọc mà trước hết là các nhà Hà Nội học.

1- Thư tịch về địa bạ, địa dư chí, bản đồ Hà Nội cổ.

Đây là nguồn tư liệu khá phong phú, bút pháp khảo cứu thiên về địa lý - lịch sử. Chiếm số lượng lớn đầu sách trong mảng thư tịch này phải kể đến các sách địa bạ của Hà Nội (61 cuốn) ký hiệu AG a14/1-12: ghi chép về địa bạ các phường thuộc các huyện của Hà Nội cổ như: Quảng Đức, Thọ Xương, Vĩnh Thuận; địa bạ các xã thuộc huyện Từ Liêm (Hà Nội) ký hiệu AG a1/26-70, và địa bạ các xã thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội) ký hiệu AG a15/1-4. Những sách mang tính địa chí, khảo cứu về địa lý, lịch sử, phong tục, nhân vật, sản phẩm... của Hà Nội xưa như: Tây Hồ chí (A.3192/1-2), Hà Nội địa dư (A.1154, VHv.2659), Hà Nội sơn xuyên phong vực (A.541)... Tây Hồ chí: ghi chép về vị trí, hình thế, sông núi, di tích, đền miếu, nhân vật, danh thần, ... của Hồ Tây. Hà Nội địa dư Hà Nội sơn xuyên, giới thiệu về địa lý Hà Nội cổ, gồm các phố và các phủ, huyện trong tỉnh: hình thế, phong tục, danh thắng di tích, thành trì, núi sông, đầm hồ, đền chùa, quán miếu, khí hậu, cổ tích, thổ sản... Cụm thư tịch này còn là bộ sưu tập những truyền thuyết dân gian về Hà Nội xưa, như sự tích miếu Trung Liệt ở Bến Đá Cổ Tân, chùa Ngọc Hồ, chùa Liên Trì..., hay chuyện Trương Phụ bắc cầu phao ở cửa đình Kiên Nghĩa (chỗ này nay là cầu Chương Dương)... Một cuốn khác, Bắc Thành địa dư chí lục (A.1565/1-2) ghi chép về địa lý thành Thăng Long cùng các nghề cổ truyền của Hà Nội, như nghề nhuộm, đúc thiếc, dệt đan, nung vôi, nấu rượu... An Nam vũ cống (A.2251) ghi chép về các nghề giấy, nhuộm, gốm… của Hà Nội. Còn có thể kể các sách cùng loại như: Đại Việt địa chí (A.973/1-2), An Nam địa chí (A.381), Các tỉnh chí (VHv.1716)... Đặc biệt có những sách viết về địa chí văn hóa dân gian của các xã, phủ, huyện của Hà Nội xưa như Hoàn Long huyện chí (A.99) ghi chép về địa lý huyện Hoàn Long (tương đương với 4 quận nội thành Hà Nội ngày nay); Đông Ngạc xã chí (A.2356) ghi chép địa chí xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. An Viên thôn địa bạ (VHv. 2685) là bản khai vị trí, giới hạn, tổng số đất đai, nhà cửa, ruộng vườn, đền chùa... của thôn An Viên, huyện Vĩnh Thuận (Hà Nội ); An Nam cửu long kinh (VHv.482) ghi về địa lý, phong thủy, trong đó có hai huyện Gia Lâm và Thanh Trì (Hà Nội )... Ngoài ra còn có Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ (A.1307) là tập bản đồ 14 tỉnh miền Bắc dưới triều Nguyễn, trong đó có tỉnh Hà Nội ghi chú về sự thay đổi các tên gọi, sổ đinh, số phủ, huyện, tổng, xã, thôn, phường... của Hà Nội. An Nam hình thắng đồ (A.3034) là tập bản đồ đời Lê, trong đó có bản đồ Trung Đô (Kinh đô Thăng Long), bản đồ đường thủy bộ từ Kinh đô Thăng Long đến Chiêm Thành, bản đồ đi sứ từ Thăng Long đến Yên Kinh (Bắc Kinh - Trung Quốc). Bắc hành đồ bản (A.821) gồm 186 tấm bản đồ màu (đen, đỏ, xanh) ghi lại các đoạn hành trình từ Kinh đô Thăng Long (Hà Nội) đến Yên Kinh (Bắc Kinh - Trung Quốc). Bắc trình thản bộ (A.802) ghi tên các trạm, các cung đường, thời gian đi, nơi hiểm trở... của các tuyến đường bộ từ Thăng Long (Hà Nội )vào Kinh đô Huế, từ Thăng Long đi các trấn miền Bắc, tới Nam Quan, từ Thăng Long đi Cao Miên và từ Cao Miên trở về Thăng Long. Hà Nội phó kinh nhật trình (A.1729) ghi các trạm đường từ Hà Nội đến Kinh thành Huế và tuyến đường thủy và bộ từ Hà Nội đi các tỉnh v.v. Đặc biệt Gia Cốc xã bản đồ (A.1895) là bản đồ hai màu xã Gia Cốc, tổng Đa Tốn, huyện Gia Lâm (Hà Nội ); Kiêu Kị xã bản đồ (A.1896) là bản đồ xã Kiêu Kị thuộc huyện Gia Lâm (Hà Nội) gồm khu dân cư, ruộng đất, đền miếu, ao hồ...; Phúc Lâm châu thổ bản đồ (A.587) là bản đồ của 10 thôn thuộc tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xương (Hà Nội), Thái bổ địa lý di cục (VHv.1659) có ghi về hình thế, vị trí, đường sá, nghề nghiệp, phong tục, nhân vật... của các huyện thuộc Hà Nội v.v.

2- Thư tịch về tục lệ, điều lệ, hương ước, khoán lệ khoán ước của các thôn, làng, xã Hà Nội xưa.

Đây là nguồn tư liệu có giá trị trong việc tìm hiểu về những phong tục, tập quán, nếp sống người Hà Nội. An Lãng dân phong tục lệ (A.1023) ghi về vị trí, diên cách, phong tục, thổ sản, nhân vật, tục lệ của làng Yên Lãng (tức làng Láng) Hà Nội; Bạch Mã từ tam giáp hương lệ (A.1023) gồm 215 mĩ tự bao phong của các triều cho thần Bạch Mã, các câu đối trong đền, lệ cúng tế và lệ khoán của ba giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương (Hà Nội). Lập khoán hương lệ (A.1345) ghi lệ của làng Thượng Cát (Từ Liêm, Hà Nội) về việc cưới xin, ma chay, tế lễ...; Long Đằng phường lệ (A.718) gồm 28 điều lệ cũ và 17 điều lệ mới đặt thêm của phường Long Đằng, xã Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Trong Pháp Vân tiên hiền bạ (A.993) có ghi những điều lệ về ẩm thực của xã Pháp Vân, huyện Thanh Trì - Hà Nội. Đông Ngạc xã tục lệ (A.732) ghi tục lệ, khoán ước của xã Đông Ngạc (Hà Nội ) về tế lễ, ngôi thứ, khao vọng, hát xướng, tuần phòng, cứu hỏa... Đông Mai xã điều lệ (AB.465): bản điều lệ tự trị của làng Đông Mai (Hoàng Mai - Hà Nội) gồm các khoản hội đồng, quyền thi hành, tài chính, việc sổ sách, việc tuyển lính, tuần phòng, cưới xin, ma chay v.v. Dịch Vọng tiền xã đệ niên tục lệ ghi chép những lệ của xã Dịch Vọng về thi đỗ, hôn nhân, tử táng, lễ thần...; Đại Lộ xã cải lương lập chính (VNv.524) ghi các điều ước của xã Đại Lộ (Thanh Trì, Hà Nội) gồm 27 điều về xử kiện, khai sinh, giá thú, trình báo, cải táng, vệ sinh, ... và 27 điều về thờ thần, tế tự các tiết, đi việc làng, đi mừng, khao vọng, lên lão, hiếu hỉ, giao hảo... Thịnh Liệt điều ước (A.994) gồm 86 điều ước của xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì (Hà Nội) về việc cúng tế, ăn uống, vào đám, trị an, cheo cưới, cấm cờ bạc, cấm bán ruộng công. Thuộc loại này còn có Kim Hoàng thôn hương lệ (A.727), Long Trung hạng lệ (A.726) v.v. Đặc biệt có khoảng 56 đầu sách mang ký hiệu AF a2/24-35, AF. a2/56-94, AF a7/1-5 là những sách tục lệ của Hà Nội bao gồm các xã, thôn của các huyện Hoàn Long, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh.

3- Thư tịch về thần tích, thành hoàng của Hà Nội.

Nguồn tư liệu này giúp chúng ta tìm hiểu về các truyền thuyết, sự tích của Thăng Long - Hà Nội. Khi nói đến mảng thư tịch này, trước hết chúng ta phải kể đến 57 cuốn sách Thần tích của Hà Nội, ký hiệu AE a7/12, AE a2/14-38, AE a2/59-86, AE a2/103 và AE a11/1-4 ghi về thần tích của các huyện Gia Lâm, Hoàn Long, Từ Liêm, Thanh Trì, Dịch Vọng, Đông Anh. Bên cạnh đó còn có Hà Thành linh tích cổ lục (A.497) ghi sự tích 27 danh thắng của Hà Nội như Văn Miếu, đền Ngọc Sơn, đền Bạch Mã, đền Trấn Vũ, chùa Lý Quốc Sư..., là một tập hợp các dã sử, truyền thuyết, trong đó có các truyện kể xung quanh nhà Giám, chùa Kim Liên, hồ Trúc Bạch v.v. Đại Nam thần lục (A.1213) ghi về truyền thuyết, sự tích 16 vị thần được thờ ở Hà Nội như Thục An Dương Vương, thần Bạch Mã..., An Lãng Chiêu Thiền Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục (A.587) ghi sự tích Từ Đạo Hạnh thờ ở chùa Chiêu Thiền (tức chùa Láng) Hà Nội. Mã Lân dật sử (A.1516) ghi lại một số truyền thuyết liên quan tới Hà Nội như Kim quy thần nỏ, Trấn Vũ ứng mộng... Cổ Loa thành sự tích điền thổ sắc phong hợp biên (A.92) ghi sự tích Thục An Dương Vương và thành Cổ Loa. An Lãng hậu thổ sự tích (A.2879) ghi về sự tích thần Hậu thổ Yên Lãng (Láng - Hà Nội). đã giúp vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, lại giúp Trần Anh Tông giúp dân cứu hạn. Định Công Trang thần tích (A.711) ghi sự tích vị Thượng đẳng phúc thần ở làng Định Công (Thanh Trì, Hà Nội) nguyên là con vua Nghị Vương (Hùng Vương thứ 17). Thượng Thụy xã ngũ vị thần tích (A.2510) ghi sự tích năm vị Thành hoàng của xã Thượng Thụy (Từ Liêm, Hà Nội): Long Đại Vương, Nghị Công Đại Vương, Diệu Bào Công Chúa, Nhạc Phi Công Chúa và Minh Công Đại Vương.

4- Thư tịch về thần sắc Hà Nội.

Đây là tập kê khai duệ hiệu, sự tích của các vị tôn thần được thờ phụng ở các địa phương để xin phong tặng, là bộ sưu tập sắc phong của các triều đại đối với các vị thần tôn kính này như Đại Điên thánh sự tích (A.2721) ghi sự tích thánh Đại Điên ở thôn Tiên, xã Dịch Vọng (Hà Nội); Thiên Mỗ xã thần sắc (A.703) là bảng kê khai những đạo sắc của các triều đại phong cho hai vị Thành hoàng ở xã Thiên Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Bản thổ thần sắc phong mỹ tự (VHb.148) ghi những mỹ tự của các triều đại phong cho hai vị Thành hoàng làng Cao Đỉnh (Từ Liêm, Hà Nội). Bên cạnh các sách kể trên, còn có 28 cuốn sách thần sắc của Hà Nội mang các ký hiệu AD.a7/13, AD.a11/1-2 và AD.a2/37-62 ghi về thần sắc các xã, tổng thuộc các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì.

5- Thư tịch về gia phả, thế phả, chúc thư, giao thư của các dòng họ khác nhau ở Hà Nội.

Nội dung của mảng thư tịch này ghi về thế thứ, hành trạng, những điều lệ, lời gia huấn và tiểu sử các bậc tiên hiền trong các dòng họ khác nhau của đất Kinh đô Hà Nội như Đông Ngạc xã Nguyễn thị gia phả (A.1818) ghi chép gia phả 11 đời của họ Nguyễn ở xã Đông Ngạc, Hoài Đức, Hà Nội: thế thứ, danh hiệu, quan tước của những người trong dòng họ. Thọ Xương Đông Tác Nguyễn tộc phả (A.3294) ghi chép về gia phả của họ Nguyễn ở làng Đông Tác, huyện Thọ Xương (Hà Nội) gồm 10 đời: biểu đồ thế thứ, điều lệ về việc thờ cúng, cheo cưới, thơ văn của người trong dòng họ... Nguyễn tộc phả ký (VHv.2577) ghi chép về dòng họ Nguyễn ở xã Bát Tràng, Gia Lâm (Hà Nội): tên húy, hiệu, quan tước, khoa mục, tuổi thọ, ngày giỗ, phần mộ... của từng người trong dòng họ; văn tế vào các ngày kỵ mùa xuân, thu, văn bia sự nghiệp của Quận công Nguyễn Thành Trân, phả ký nói về nhà thờ họ, ruộng hương hỏa, nghi thức cúng tế... Nguyệt áng Lưu thị gia phả (A.811) ghi chép về họ Lưu ở xã Nguyệt áng, tổng Đại áng, Thanh Trì (Hà Nội): tiểu sử, thế thứ các đời, phần mộ, ngày giỗ, khoa bảng, quan tước... của những người trong dòng họ. Pháp Vân tiên hiền phả ký (A.981) ghi về tiểu sử các bậc tiên hiền làng Pháp Vân, Thanh Trì, Hà Nội. Phú Diễn hương hiền phả (A.1151) ghi hành trạng những người đỗ đạt, làm quan của xã Phú Diễn, Từ Liêm (Hà Nội) từ triều Lê đến triều Nguyễn. Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa khảo (VHv.2339) ghi các bậc khoa bảng của dòng họ Dương ở xã Lạc Đạo, Gia Lâm (Hà Nội). Còn nhiều các sách cùng loại như: Từ Liêm huyện đăng khoa chí (A.2869 và A.507), Bản ấp đăng khoa chí v.v. Mảng thư tịch này còn giới thiệu cho chúng ta về những danh nhân của đất Kinh thành mà cho đến nay tên tuổi của họ còn mãi gắn liền với tên phố, tên đường của Hà Nội như: Tối linh từ thực lục (A.1332) ghi chép về hành trạng của Chu Văn An, người Thanh Trì (Hà Nội). Thanh Trì Nguyễn tộc gia phả (VHv.1760/1-2 và A.182) ghi chép gia phả 10 đời họ Nguyễn ở Kim Lũ, Thanh Trì (Hà Nội), dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan to... Đông Ngạc xã Phan gia chúc thư (A.1739), Đông Ngạc xã Nguyễn Bá Đa chúc thư chép những lời di chúc, của cha mẹ trước khi mất về việc hương hỏa, việc làm từ đường, việc thờ cúng tổ tiên, việc chia gia tài cho con cháu...

6- Thư tịch về cổ chỉ, văn chỉ, xã chí của Hà Nội.

Nguồn thư tịch này tuy không nhiều nhưng chúng cũng phần nào giúp chúng ta biết về tên làng, xã, xóm ấp của các địa phương thuộc Hà Nội ngày trước như huyện Đông Anh, tổng Cổ Loa có ghi tên 15 xã thôn (AJ.4/1), Thọ Xương huyện Văn chỉ bạ (A.731) ghi các điều quy định của hội Văn huyện Thọ Xương (Hà Nội) về lập văn chỉ, mua bán ruộng đất, ao hồ dùng vào việc cúng tế. Đông Ngạc xã chí (A.2356) ghi tên xóm ấp, địa giới, số đinh và thuế ruộng đất của xã Đông Ngạc. Hoa Ngạc xã cổ chỉ (A.1734) gồm 20 bản văn khế mua bán ruộng đất của người làng Hoa Ngạc, Từ Liêm (Hà Nội). Hoa Ngạc xã cổ thuế chỉ (A.1639) ghi sổ nộp thuế bằng tiền và thóc của xã Hoa Ngạc v.v.

7- Thư tịch về văn nghệ dân gian và thơ của các nho sĩ.

Đây là mảng thư tịch có giá trị về lịch sử và văn học nghệ thuật: An Nam phong thổ thoại (AB.483), sưu tầm ca dao ngạn ngữ miền Bắc, trong đó có Hà Nội. Long thành cảnh trí ca (AB.2), một bài ca lục bát gồm 850 câu giới thiệu quang cảnh các phố phường, lâu đài, dinh thự, công sở, danh thắng, cảnh buôn bán, sinh hoạt... của Hà Nội. Chư gia văn tập (A.2995) có ghi những ca khúc về Hà Nội. Tây Hồ phú (AB.299) ghi bài phú và thơ vịnh cảnh nói về nguồn gốc Hồ Tây. An Nam thắng cảnh (A.1193) gồm 20 bài thơ vịnh các cảnh đẹp của Hà Nội như chùa Một Cột, cảnh Hồ Tây, tiếng sáo Cầu Đông... La Thành cổ tích vịnh (A.1841) gồm 25 bài thơ vịnh các danh thắng, cổ tích ở La Thành (Hà Nội) như Núi Nùng, Hồ Hoàn Kiếm, chùa Một Cột, chùa Ngọc Hồ, đền Trấn Vũ, Quốc Tử Giám, miếu Trung Liệt. Long Biên ái hoa hội thi (AB.497) gồm 284 bài thơ nói về thú chơi hoa của Hội ái hoa ở Long Biên - Hà Nội. Và hàng loạt các thi tập khác như Long Biên bách nhị vịnh (A.1310), Thăng Long tam thập vịnh (A.1804), Thăng long thành hoài cổ thập tứ thủ (A.1606)...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. GS. Trần Nghĩa - GS. Prof Franỗois Gros đồng chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.

2. 50 năm sưu tầm nghiên cứu phổ biến văn hóa văn nghệ dân gian của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1997.

3. Danh mục thác bản văn khắc Hán Nôm – GS.TS. Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Nxb. KHXH. H. 1991.

TB

TAM THIÊN TỰ
CUỐN SONG NGỮ HÁN NÔM ĐỘC ĐÁO

TẠ ĐĂNG TUYÊN

Lời nói đầu

Học có nhiều nghĩa, là mô phỏng, bắt chước, thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng v.v... Nhưng chủ yếu vẫn là đọc đi đọc lại nghiền ngẫm cho nhớ, có điều làm sao cho dễ đọc, dễ nhớ, tức là nói đến phương pháp nào hay nhất, tốt nhất.

Chữ Hán lại là chữ khó học, khó nhớ, do đó, người xưa đã soạn những bộ sách vỡ lòng cho con em bằng lối văn vần và đối ngẫu. Câu có vần tất dễ đọc, lời đối nhau thì dễ nhớ. Cuốn Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vỡ lòng được soạn theo phương pháp đó. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu bắt vần với chữ thứ hai câu tiếp theo (cũng gọi là yêu vận), hai chữ trước đối với hai chữ sau, cứ thế kéo dài cho đến hết 3000 chữ, như: Thiên trời Địa đất - Cử cất Tồn còn - Tử con Tôn cháu - Lục sáu Tam ba... Đất vần với Cất, Còn vần với Con; Thiên trời đối với Địa đất, Tử con đối với Tôn cháu.

Theo tài liệu lưu trữ xưa thì sách Tam Thiên Tự là do Ngô Thì Nhậm soạn và đã được khắc in vào cuối thế kỷ 18. Sau này được học giả Đoàn Trung Còn biên soạn, sao lục, Chí Đức tùng thư xuất bản lần đầu năm 1959. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin cho ra mắt bạn đọc cuốn Tam thiên tự. ở đây, tôi muốn nói đến ấn bản lần thứ tư, có sửa chữa và bổ sung, như đã được Nhà xuất bản giới thiệu. Sách được trình bày khá đẹp, có phần phụ lục chữ Hán, chữ Nôm rất thuận tiện cho việc tra cứu, duy có điều là phải tìm đến trang cuối cùng mới biết được sách xuất bản năm 1999.

Trong Lời nói đầu Nhà xuất bản viết: “Theo tài liệu lưu trữ xưa thì sách Tam thiên tự là do Ngô Thời Nhậm soạn và đã được khắc in vào cuối thế kỷ 18. Sau này được học giả Đoàn Trung Còn biên soạn, sao lục, Chí Đức tùng thư xuất bản lần đầu năm 1959.”

Được đọc những dòng trên tôi rất muốn biết:

· Liệu bạn đọc có thể được cung cấp thêm thông tin về Tài liệu lưu trữ xưa - như đã nói ở trên không ?

· Nếu “Tài liệu lưu trữ xưa” này có giá trị khoa học đích thực, hoặc ít nhất đã được thực tế chấp nhận, thì việc chỉ ghi tên người “biên soạn, sao lục” là học giả Đoàn Trung Còn mà không ghi tên tác giả là Ngô Thì Nhậm, phải chăng đó là quy định mới ?

Thực tế cho thấy ấn phẩm tái bản lần thứ tư này không phải là bản Tam thiên tự duy nhất được in bằng chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc ngữ, hoặc có gì khác lạ trong đó. Nếu có khác thì đó là Lời nói đầu và phần phụ lục. Một trong những bản như vậy(1) mà tôi được biết, đã có trước bản của Trí Đức tùng thư xuất bản lần đầu năm 1959 hàng nửa thế kỷ rồi. Người sao lục, khắc in, giới thiệu sách thời ấy cũng không rõ tác giả là ai và vì vậy đã cẩn thận thanh minh trước: “Ngã thực chuyết sĩ, Tẩn cảm tự căng?”, tự dịch ra chữ Nôm và chữ Quốc ngữ: “Ta đây vốn cũng là ngu, Nhẽ đâu lại dám trương phô khoe tài”, hoặc “Bất lận phí nhật, Vụ duyệt lại chi, Thị ngã đích kỳ, Thị dư thâm nguyện, Âm á tự biện, Kỳ vật tiếu thoa”: “Cam lòng tổn mấy ngày giời, Miễn là cho kẻ xem coi được nhờ, ấy là sự ta mong chờ, ấy là chính sự lòng ta chúc mòng, U ơ bập bẹ mấy dòng, Phụ thêm biện bác xin đừng cười chê”. Dù sao chăng nữa, việc Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin tạo cơ hội cho bạn đọc có được cuốn sách của cổ nhân trong tay cũng rất đáng được trân trọng. Nhân đây tôi muốn được lạm bàn đôi chút về cuốn sách độc đáo này.

Quả thật, tất cả mọi người dường như ai cũng có thể đọc dăm ba câu trong Tam thiên tự: Gia - nhà, Quốc - nước, Tiền - trước, Hậu - sau, Ngưu - trâu, Mã - ngựa... Điều đó cho thấy tính phổ biến của cuốn sách như thế nào ! Có lẽ, chủ yếu do tính truyền khẩu tạo nên bởi vần điệu rất gần gũi quảng đại quần chúng. Sở dĩ như vậy vì tác giả đã vận dụng các phương pháp độc đáo và thực tế cho thấy khá hấp dẫn. Đó là:

- Sách được viết bằng thể văn độc đáo với những ngắt đoạn ngắn sau cụm 4 từ một (thông thường là 2 từ Hán và 2 từ giải nghĩa bằng tiếng Việt; đôi khi 1 từ Hán được giải thích bằng 1 cụm gồm 2 từ Việt). Hình như xưa nay chưa có cuốn sách nào có cách viết dân dã như vậy (?). Các cụm 4 từ này liên kết với nhau bằng vần của chữ thứ tư câu trước với chữ thứ hai câu sau.

Thí dụ:

Thiên - trời, địa - đất

Cử - cất, tồn - còn

Tử - con, tôn- cháu

Lục - sáu, tam - ba

hoặc: Huyết - máu, mao- lông

Tân - (lấy) chồng, thú- (lấy) vợ

Địch - rợ, manh - dân

Cách bắt vần này hoàn toàn giống cách bắt vần trong các bài đồng dao vốn rất phổ biến trong dân gian. Điều đó giải thích tại sao trẻ nhỏ thích học, dễ nhớ. Xin so sánh với những bài đồng dao cùng thể loại này:

Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy đầy bát cơm

Lất rơm đun bếp

hoặc: Ông Giẳng ông Giăng

Xuống chơi nhà tôi

nồi cơm nếp

ệp bánh chưng

lưng rượu

Cái khướu đánh đu

...

- Tác giả cố ý đặt các từ trái nghĩa đứng cạnh nhau nhằm giúp người học dễ nhớ và có lẽ quan trọng hơn là biết sử dụng đúng các từ đó. Thí dụ:

Mộ - tối, triêu - mai

Trường - dài, đoản - ngắn

Xà - rắn, tượng – voi

- Ngoài ra tác giả sách còn xếp những từ có cùng “họ” hoặc có liên hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa đứng cạnh nhau không ngoài mục đích để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ:

Mi- mày, mục - mắt

Diện - mặt, đầu - đầu

Tu - râu, phát – tóc

- Tuy nhiên, có lẽ do bí vần hoặc không liệt kê số từ đã được soạn nên có một số từ bị trùng lặp. Chính vì vậy gọi là Tam thiên tự nhưng nếu tính chính xác thì không đủ 3000 từ. Song với số lượng 3000 từ mà chỉ có khoảng trên dưới 10 từ bị trùng lặp thực rất đáng khâm phục. Một số từ được lặp lại như:

Lương - mát, bão- no

Khố - kho, quân - vựa

lặp lại trong:

Kỹ - bợm, bài - trò

Bão - no, Cơ - đói

hoặc: Khuy - dòm, sát - xét

Miện - lét, chiêm – xem

lặp lại trong:

Vị - mùi, phong - thói

Bốc - bói, chiêm – xem

- Theo thiển ý của chúng tôi, do người soạn chú ý viết cho vần, dễ đọc, dễ nhớ nên không tránh khỏi những mặt hạn chế do chính thế mạnh đó gây ra. “Hầu hết trong sách này, người ta cố ý làm lấy vần và đối đáp cho dễ học, nên có ít nhiều chữ lấy nghĩa khí gạn...”(2) Trước năm 1954 cũng có người soạn sách tự học tiếng Pháp theo hướng này, nhưng thường ở thể lục bát. Đại loại có những câu như thế này:

Rõ ràng = ê-vit-đơ-măng (évidemment).

Anh hãy vội vàng = đê-pet-sê-vu (dépêchez - vous)

Gông-phờ-lê (Gonflé) = phồng, bủng, phù …

Còn đối với Tam thiên tự, do có vần, dễ đọc, dễ nhớ nên cũng dễ dẫn đến việc người học dễ học vẹt. Thực tế cho thấy, nhiều người có thể đọc thuộc lòng từng đoạn dài của Tam thiên tự nhưng lại không viết được, đọc được chữ nào trong đó. Học chữ Hán mà không viết được, đọc được chữ thì cũng đồng nghĩa với không học. Tuy nhiên, viết sách mà không hề nghĩ đến danh, khắc in sách mà không hề nghĩ đến lợi; thế mới biết cái tâm của người xưa đối với giáo dục thế hệ trẻ cao đẹp biết chừng nào!

- Vậy ai là tác giả cuốn sách độc đáo này ? Thú thật, tôi chưa được may mắn gặp cuốn Tam thiên tự nào ghi rõ tên tác giả hoặc tên người sưu tầm trên bìa sách. Hơn thế nữa, trong cuốn Tam thiên tự giải dịch Quốc ngữ được trích dẫn trong bài viết này, người làm sách còn nói rõ “Thử thư thành tự, Cổ sĩ thông minh, Thậm tính thùy danh, Ngã sở bất thức”, được dịch ra chữ Nôm, chữ Quốc ngữ là: “Kẻ đã làm nên sách này (ý là tác giả sách), Là người thông thái khôn tày đời xưa. Đây ta không thể khảo tra, Tên hèm, tên họ gọi là chi chi”.

Tuy vẫn ý thức được hiểu biết về cổ học còn rất nông cạn, tôi vẫn đánh bạo đụng chạm đến vấn đề phức tạp này. Làm điều đó, tôi muốn có cơ may được bạn đọc gần xa chỉ bảo.

CHÚ THÍCH

1. Tam thiên tự giải dịch Quốc ngữ - Phát Diệm tổng đường tàng bản, Duy Tân năm thứ hai (1908); Liễu Văn Đường in năm Duy Tân Kỷ Dậu (1909) và ất Mão (1915) (xem Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, tập 3, mục từ 3090.

2. Phần “Dặn riêng mấy điều cần trước” trong tài liệu đã dẫn.

TB

KHÔNG NÊN ĐƯA RA
MỘT BẢN DỊCH NHƯ THẾ

TRẦN NGỌC THỤ

Báo Người Hà Nội số 22 ra ngày 27/5/2000 có đăng bài Người là Hồ Chí Minh của Nguyễn Đỗ Lưu. Thể hiện chủ đề lòng thương người của Bác Hồ, tác giả dẫn ra bài thơ chữ Hán: Phu làm đường (Trúc lộ phu), Chiều (Vãn), Chiều tối (Mộ) trong tác phẩm Ngục trung nhật ký của Bác. Cả ba bài đều in phiên âm nguyên tác chữ Hán và dịch thành thơ Quốc ngữ, nhưng không ghi xuất xứ, người dịch. Đọc kỹ thấy bản dịch thơ bài Phu làm đường Chiều tối là lấy trong sách Nhà xuất bản Văn học; còn bài Chiều không rõ do ai dịch, chính tác giả bài báo hay một người nào khác? Đây là một bản dịch sai lạc so với nguyên tác mà đáng lẽ không nên đưa ra một bản dịch như thế.

Ta hãy xem nguyên văn dẫn ra trong bài báo:

CHIỀU

Phiên âm:

Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm

Dịch thơ:

Cơm xong liễu ngả phía tây vàng
Khắp nẻo sơn ca quyện nhạc vang
Sương rắc Tĩnh Tây vây mái xám
Bỗng thành cảnh đẹp tuyệt trần gian

Trong bốn câu thì câu 2 đỡ sai hơn cả. Chỉ có chữ xứ xứ dịch là khắp nẻo với ý là cả bên ngoài nhà ngục thì không đúng với nguyên ý của bài thơ chỉ là khắp mọi chỗ trong nhà ngục.

Câu 1: Vãn xan (bữa cơm chiều) ngật liễu (ăn xong) nhật tây trầm (mặt trời lặn xuống ở phương tây). Câu này hoàn toàn không có cây liễu, không biết người dịch lấy cây liễu ở đâu ra. Có lẽ người dịch này không biết chữ Hán, đọc hai chữ phiên âm ngật liễu thì tưởng rằng đấy là cây liễu ngật đầu ra đằng sau cho nên mới dịch là liễu ngả chăng?

Câu 3: U ám (tối tăm) Tĩnh Tây (tên địa phương) cấm bế thất (nhà ngục). Cả câu nghĩa đơn giản là: nhà ngục Tĩnh Tây tối tăm, không hề có sương rắc, không hề có mái xám. Người dịch đã tưởng tượng ra một cảnh khác so với nguyên tác.

Câu 4: Hốt thành (bỗng thành) mỹ thuật tiểu hàn lâm (viện hàn lâm mỹ thuật nhỏ). Theo nguyên tác, hai câu 3 và 4 phải hợp với nhau mới thành một câu hoàn chỉnh (Bản dịch nghĩa của Nhà xuất bản Văn học là: Nhà giam Tĩnh Tây u ám này bỗng trở thành một viện hàn lâm mỹ thuật nhỏ). Người dịch ở đây dùng câu 3 tiếp tục tả “cảnh đẹp” “sương vây mái xám” nối với “cảnh đẹp” ở hai câu đầu “liễu ngả phía tây vàng” “sơn ca quyện nhạc vang”, rồi để câu 4 đứng riêng thành một lời bình toàn cảnh “lộng lẫy”: “Bỗng thành cảnh đẹp tuyệt trần gian”.

Xét toàn bài, tác giả thơ chữ Hán dùng bút pháp trào lộng, đem một cảnh đẹp đầy tính văn hóa, nhân văn viện hàn lâm mỹ thuật đối lập với một cảnh xấu xa, đen tối, độc ác (nhà ngục), để lên án nhà đương cục ở đó dùng tù ngục hà khắc đàn áp con người. Bút pháp này được dùng khá nhiều trong Ngục trung nhật ký. Không rõ người dịch trong bài báo này có thấy được điều đó không, còn khách quan của bản dịch thì không thể hiện được, bản dịch chỉ là một bài thơ “ca ngợi cảnh đẹp”. Bản dịch sai lạc quá xa so với nguyên tác.

Bây giờ xin nói thêm một chút về lời dẫn lời bình của bài báo. Không hiểu rõ chữ, rõ câu và cấu trúc của bài thơ dẫn đến dịch sai, tất yếu dẫn đến bình thơ cũng có vấn đề. Xin xem nguyên văn lời bình của tác giả bài báo với bài Chiều tối (Mộ)

...
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng

“Nhà thơ Hồ Chí Minh hiểu thấu cả nỗi đau nhân loại, nhưng cũng hiểu thấu từng giây khắc của tình yêu. Vì sao mà người con gái phải đem ngô ra xay, xay mãi đến lúc lò than đã rực hồng mà không biết. Cái nỗi nhớ chồng của người con gái Hoa cũng như người con gái Việt có khác gì nhau đâu...”

Bài thơ Mộ (Chiều tối) của Bác Hồ là một bài thơ tức cảnh. Mở đầu là một cánh chim mỏi về rừng và một làn mây nhẹ trôi trên không. Có vẻ tĩnh và hơi man mác, nhưng lập tức hiện ra ngay hình ảnh đẹp một thiếu nữ và một lò than hồng, ấm áp. Bài thơ thể hiện một cảm xúc tinh tế, tao nhã và sống động, không hề gợn chút mùi vị của thiếu phụ đêm khuya không chồng. Có lẽ cũng bắt đầu từ chỗ không hiểu chữ thiếu nữ (bản dịch của Nxb. Văn học, các nhà nho đã dịch là Cô em). Người dịch ở đây đã nhầm với thiếu phụ, sương phụ và gán cho cô em là gái vắng chồng, nên đã hạ một lời bình thô thiển với một bài thơ tao nhã như thế !

Thiết tưởng việc đọc thơ, giới thiệu thơ, bình thơ của Bác Hồ và các vị tiền nhân khác là việc làm đáng trân trọng, khuyến khích, song phải có thành tâm và nghiêm túc, cẩn trọng. Giới thiệu và bình ba bài thơ trong Nhật ký trong tù của Bác Hồ cũng là sự thành tâm của Nguyễn Đỗ Lưu, song hiệu quả của bài báo lại nằm ngoài ý muốn của tác giả.

Người viết bài này cũng đắn đo mãi. Trân trọng sự thành tâm của Nguyễn Đỗ Lưu song vẫn phải giãi bày, tất cả vì sự nghiêm túc và trong sáng của văn chương. Mong được thông cảm.

Hà Nội tháng 7 năm 2000

TB

TÌM HIỂU CÁCH PHIÊN ÂM
TỪ “NHẴN NHỤI”

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Chữ nghĩa Truyện Kiều là một vấn đề khá phức tạp. Có nhiều chữ tưởng như không còn có vấn đề gì nữa vì đã quá quen thuộc nhưng rồi lại được đặt thành nghi vấn như chữ 隊 trong câu 628:

鏓 忍 隊 襖 裙 炳 包

Chữ 隊, theo các tự điển, có tới sáu âm. Nếu phân tích ra âm Hán - Việt và âm Nôm thì chữ ấy có thể đọc là:

A. âm Hán - Việt:

Đội: một toán binh sĩ, như binh đội, quân đội, đội ngũ, đội trưởng.

B. âm Nôm:

1- Đội: để lên trên đầu, như đội mũ, đội nón, đội ơn.

2- Đỗi: độ, chừng mực, như quá đỗi, một đỗi xa.

3- Đụi: tiếng vật gì té xuống đất, như Té cái đụi, lụi đụi.

4- Đòi: nhiều, đòi hỏi, yêu cầu, như đòi đoạn, đòi cơn, đòi nợ.

5- Dội: thối lại, dồn lại, như tiếng dội, dội ngửa.

6- Dụi: dòng dây đưa xuống, chúi xuống, như dụi xuống, ngã dụi.

Trong các âm ấy chỉ có ba âm đã được dùng đến trong Truyện Kiều đội, đỗi đòi.

* Đội : 隊

Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng (c.1333)

Đội trời đạp đất ở đời (c. 2171)

Ai ai cũng đội trên đầu biết bao (c.2492)

* Đỗi : 隊

Song đà quá đỗi quản gì được thân (c.1114)

* Đòi : 隊

Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn (c.222)

Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen (c. 788)

Đòi phen gió tựa hoa kề (c.1241)

Đòi phen nét vẽ câu thơ (c.1245)

Nỗi lòng đòi đoạn xa gần (c.1251)

Mối tình đòi đoạn vò tơ (c.1265)

Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn (c.1270)

Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời (c.1820)

Đòi cơn gió quét mưa sa (c.2443)

Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi (c.2797)

Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng (c. 2848) ,v.v.

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai (c.28)

Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu (c.1718)

Qua các thí dụ trên chúng ta nhận thấy chữ 隊 đã được đọc theo đúng âm Nôm là đòi và có các nghĩa khác nhau là nhiều (đòi cơn, đòi đoạn, đòi phen), đòi hỏi, yêu cầu (sắc đành đòi một = về sắc dù có đòi hỏi cũng đành chỉ có một) và ra lệnh gọi (đòi ngay lên hầu).

Âm và nghĩa ấy rất thích hợp cho từng câu và không có vấn đề gì đáng thắc mắc phải đặt ra(1) mà chỉ có âm nhụi là phải tìm hiểu mà thôi.

Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì chữ 隊 cũng đọc là dụi mà theo phép chuyển âm d thường được đổi thành nh.

Các chữ chuyển âm kiểu này chúng ta cũng thấy có khá nhiều trong Truyện Kiều. Thí dụ:

· Dịp - nhịp, như:

Dịp (nhịp) cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang (c.56)

Làm chi lỡ nhịp (dịp) cho đàn ngang cung (c.1460)

· Dòm - nhòm, như:

Gương nga chênh chếch dòm (nhòm) song (c.173)

Vương sư dòm (nhòm) đã tỏ tường thực hư (c.2506)

· Dồi - nhồi, như:

Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi (nhồi) (c.221)

· Dón - nhón, như:

Thang mây dón (nhón) bước ngọn tường (c.319)

Dón (nhón) chân đứng núp độ đâu nửa giờ (c.1996)

· Dỏ - nhỏ, như:

Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ (dỏ) sa (c.1828)

· Dúng - nhúng, như:

Trót vì tay đã dúng (nhúng) chàm (c.1397)

· Dăn - nhăn, như:

Lọt tai Hồ cũng nhăn (dăn) mày rơi châu (c.2572)

· Dường - nhường, như:

Dịp đâu may mắn lạ dường (nhường) (c.1291)

· Diếc - nhiếc, như:

Diếc (nhiếc) rằng: Những giống bơ thờ quen thân (c.1728)

· Dện - nhện, như:

Nhện (dện) này vương lấy tơ kia mấy lần (c.1422)

Ngoài các thí dụ kể trên trích trong Truyện Kiều, chúng ta còn thấy có nhiều chữ khác đã được chuyển âm như vậy.

Thí dụ:

Dím - nhím, dọn - nhọn, dức - nhức, dừ - nhừ, díp - nhíp, dử - nhử, dứ - nhứ, dúm - nhúm, dụt - nhụt, dút - nhút, dún - nhún, dúi - nhúi, v.v.

Thế thì chữ DỤI chuyển âm thành NHỤI cũng không khác gì chữ dúi chuyển âm thành nhúi, như Tự điển tiếng Việt đã ghi:

Dúi: cầm gọn trong tay mà ấn xuống để nhét vào.

Dúi vào tay em bé mấy cái kẹo.

Nhúi: Dúi.

Nhúi vào tay mấy cái kẹo.

Cách chuyển âm này đã thành một qui tắc nên tất cả các quyển Truyện Kiều phiên âm sang Quốc ngữ, từ bản cổ nhất của Trương Vĩnh Ký in năm 1875 đến những bản mới in gần đây đều chép câu 628 là:

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Chép như vậy là đúng vì nhẵn nhụi là một từ láy, nó được đặt đối với bảnh bao, cũng là một từ láy.

Trong Truyện Kiều chúng ta còn thấy có nhiều câu đặt theo lối tiểu đối như vậy.

Thí dụ:

Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng (c.424)

Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng (c.572)

Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh (c.870)

Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng (c.1060)

Hoa quan chấp chới, hà y rỡ ràng (c.2266)

Các từ láy ở đây đều là từ láy âm, các âm đầu được láy lại, như x - x, th - th, tr - tr, kh - kh, d - d, ch - ch, r - r, ng - ng... Như ở câu 628 nếu phiên là nhẵn trụi thì không còn là từ láy âm nữa, mà nghĩa cũng khác hẳn đi.

Nhẵn nhụi: được cạo sạch sẽ, trơn tru không còn sợi râu nào.

Nhẵn trụi: bị vặt sạch, nhẵn lì không còn một sợi lông nào, nhiều khi không còn mọc lại được nữa.

Qua sự giải thích trên, chúng tôi cho rằng chữ 隊 ngoài các âm đội, đỗi, đòi, đụi, dội còn có âm dụi mà theo phép chuyển âm có thể đọc là nhụi được. Vậy hai chữ 忍 隊 mà các quyển Truyện Kiều Quốc ngữ phiên âm là nhẵn nhụi thực ra đã rất ổn, không có gì phải thắc mắc cả.

CHÚ THÍCH

1. Theo Hoàng Xuân Hãn thì: “Đội là để ghi từ trụi, không phải nhụi đâu. Trụi như trụi lông: không có một tí lông nào hết cả. Mà tại sao đội là đọc trụi ? Bởi vì chữ đội ấy có hai âm, một âm đọc nó biến ra chữ trụy... Từ chữ trụy ấy ra chữ trụi, có khi đọc là trọi... Sắc đành trọi một, tài đành họa hai. Trọi một là độc nhất, trọi là chữ độc... Sắc là độc nhất, tài đành họa hai. Thế mới sáng nghĩa chữ ấy” (Hoàng Xuân Hãn nghiên cứu Kiều. Hợp lưu số 29. Tháng 6 + 7/ 1996, tr.108)

TB

CÁC ĐỊA DANH TRONG “TRUYỆN KIỀU” TRÊN BẢN ĐỒ TRUNG QUỐC
NGÀY NAY
*

PHẠM ĐAN QUẾ

Truyện Kiều là tác phẩm vô song trong nền văn học nước nhà, từng làm say mê biết bao người dân nước Việt. Thúy Kiều sau 15 năm lưu lạc đã trải qua biết bao cảnh ngộ, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần: 2 lần vào lầu xanh, 2 lần đi ở, 2 lần đi trốn, 3 lần định tự tử, 3 lần đi tu, 4 lần bị đánh đòn và 5 đời chồng (Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, Từ Hải, Thổ Quan, Kim Trọng). Cuộc đời gian truân của nàng trải dài qua hàng chục địa điểm trên chiều dài quá nửa đất nước Trung Hoa rộng lớn.

Trong cuốn Truyện Kiều đối chiếu, chúng tôi đã lập sơ đồ 15 năm lưu lạc của Thúy Kiều từ năm Gia Tĩnh thứ 11 đến năm Gia Tĩnh thứ 26 (1532-1547) qua các địa điểm:

- Từ Bắc Kinh nơi bắt đầu cuộc đời 15 năm lưu lạc (1532)

- Thúy Kiều phải bán mình về lầu xanh của mụ Tú Bà trên hai năm tại Lâm Tri và ở đây nàng đã lấy lẽ Thúc Sinh hơn một năm nữa: Lâm Tri (1532-1536).

- Thế rồi nàng bị Hoạn Thư sai Ưng-Khuyển bắt cóc đưa về nhà Hoạn Bà rồi sang hầu hạ Hoạn Thư ở Vô Tích. Tại đây nàng bị Hoạn Thư hành hạ, xin được đi tu ở Quan Âm Các rồi bỏ trốn đến ở nhờ Chiêu ẩn Am của Vãi Giác Duyên: Vô Tích hơn hai năm (1536-1538).

- Bị Bạc Bà, Bạc Hạnh lừa đến nhà chứa ở Châu Thai, khoảng gần một năm thì tại đây, Thúy Kiều đã gặp Từ Hải. Được Từ Hải đưa ra khỏi lầu xanh, sống với chàng được nửa năm thì Từ Hải “rứt áo ra đi”, Kiều phải sống trong chờ đợi gần 3 năm nữa: Châu Thai hơn bốn năm (1538-1543).

- Khi Từ Hải đã “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam” về đón thì Thúy Kiều theo chàng đến Hàng Châu. Tại đây nàng đã mắc lừa Hồ Tôn Hiến, khuyên Từ Hải ra hàng để rồi bị làm nhục và phải tự tử ở sông Tiền Đường: Hàng Châu 4 năm (1543-1547).

Khi nghe chúng tôi nói về Truyện Kiều một số thính giả đã đặt câu hỏi: Vậy các địa danh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có còn trên bản đồ Trung Quốc ngày nay ? Chúng tôi đã tìm tấm bản đồ Trung Quốc mới nhất có ghi đến từng huyện lị và thấy rằng: tất cả 12 địa danh có trong Truyện Kiều từ xưa vẫn còn nguyên vẹn trên bản đồ Trung Quốc ngày nay. Chúng tôi xin ghi theo thứ tự từ Bắc xuống Nam Trung Quốc để độc giả dễ theo dõi:

Câu Kiều số
1. Liêu Dương: Quê Kim Trọng, huyện thuộc tỉnh Liêu Ninh 533 - 2742
2. Bắc Kinh: Nơi ở của gia đình Thúy Kiều 289
3. Lâm Thanh: huyện phía Bắc tỉnh Sơn Đông 626 - 2828 - 2881
4. Lâm Tri: huyện phía Nam tỉnh Sơn Đông 920, 1276... 2986
5. Châu Thai: Phủ Thai Châu thuộc tỉnh Giang Tô 2105, 2108, 2921
6. Dương Châu: tức Châu Dương thuộc tỉnh Giang Tô 2950
7. Thường Châu: tức Châu Thường, phủ thuộc tỉnh Giang Tô 1277
8. Vô Tích: huyện thuộc phủ Thường Châu tỉnh Giang Tô 1277 - 2291...
9. Hàng Châu: thủ phủ tỉnh Chiết Giang 2957
10. Nam Bình: huyện thuộc tỉnh Phúc Kiến 2949
11. Phúc Kiến: Tỉnh phía nam Trung Hoa, trên tỉnh Quảng Đông 2594
12. Chiết Giang: Tỉnh phía trên Phúc Kiến 2594
13. Sông Tiền Đường: đoạn chảy qua Hàng Châu 999 - 2619 - 2691... 2985

Xin kèm theo đây bản đồ Trung Quốc ngày nay (mới in tại Hồng Kông có địa danh chữ Trung Quốc và âm La Tinh hóa), với các địa danh trên để quí vị độc giả tham khảo.

CHÚ THÍCH

* Bài viết nhân kỷ niệm 180 năm ngày thi hào Nguyễn Du từ trần (16/9/1820 -16/9/2000).

TB

VỀ NĂM BẢN
NHẠC CHƯƠNG NÔM ĐỜI LÊ

NGUYỄN XUÂN DIỆN
ĐINH THANH HIẾU

Theo Hán ngữ đại từ điển: “Nhạc chương xưa chỉ những thơ, từ phối vào nhạc, sau cũng phiếm chỉ những thơ, từ có thể phổ vào nhạc (樂 章 古 代 指 配 樂 的 詩 詞 , 後 亦 泛 指 能 入 樂 的 詩 詞 = Nhạc chương, cổ đại chỉ phối nhạc đích thi từ, hậu diệc phiếm chỉ năng nhập nhạc đích thi từ).

Theo Từ nguyên: “Khúc lễ, Kinh Lễ: Khi hết tang thì đọc nhạc chương. Sớ: Nhạc chương là gọi các bài của Nhạc thư. Là thơ vậy (禮 , 曲 禮 : 喪 復 常 讀 樂 章 . 疏 : 樂 章 謂 樂 書 之 篇 章 , 詩 也 = Lễ, Khúc lễ: tang phục thường độc nhạc chương. Sớ: Nhạc chương, vị Nhạc thư chi thiên chương, thi giã).

Trần Hạo trong Lễ ký tập thuyết khi chú từ Nhạc chương đã viết: “Nhạc chương là thơ phổ vào ca nhạc vậy (樂 章 絃 歌 之 詩 也 = Nhạc chương, huyền ca chi thi dã). (Tứ thư ngũ kinh, quyển trung - Trung Quốc thư điếm xuất bản, 1996, tr.18).

Mục từ Nhạc chương được ghi nhận trong Từ hải, mục Nhạc chương tập, Nhạc thư trong Từ nguyên cũng với nội dung: Nhạc chương là chỉ về phần lời của một làn điệu âm nhạc được dùng trong các giáo phường, hoặc trong các nghi lễ.

Nhìn chung lại, nhạc chương là các bài thơ (câu thơ) hay bài từ thuộc về ca từ (phần lời) của các bản nhạc được dùng trong các nghi lễ tế tự, triều hội, yến ẩm, khánh hạ...(được diễn ra khi không còn tang sự).

Nghiên cứu về Nhạc chương, do vậy, không chỉ là tìm hiểu về các thể văn chương cổ, về ca nhạc mà còn về nghi lễ, phong tục trong đời sống văn hóa trong quá khứ.

1. Ở Việt Nam, tài liệu xưa nhất cho biết về việc viết ca khúc là Việt sử lược, ghi chép về Lý Nhân Tông là người “rất giỏi âm luật, những ca khúc mà nhạc công tập đều do vua thân hành sáng tác”. Tuy nhiên Việt sử lược không cho biết về tên gọi của làn điệu hoặc trích dẫn ca từ của các ca khúc do Lý Nhân Tông soạn.

Về đời Trần, qua An Nam chí lược của Lê Trắc, ta biết được tên của một số điệu hát: Nam thiên nhạc, Ngọc lâu xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu trường. Sách Sứ Giao Châu tập của Trần Cương Trung cho biết có các ca khúc: Trang Chu mộng điệp, Bạch Lạc Thiên mẫu biệt tử, Vi Sinh Ngọc tiêu đạp thanh ca.

An Nam chí lược còn cho ta biết một thông tin hết sức thú vị, đó là ngoài ca khúc Trung Quốc, ta cũng dùng thổ ngữ làm các ca khúc để tiện ngâm nga.

Về thời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức 26 (1495) nhân thời tiết thuận hòa, được mùa lớn, trong nước thanh bình, nhà vua làm 9 bài: Phong niên, Quân đạo, Thần tiết, Minh lương, Anh hiền, Kỳ khí, Thư thảo, Văn nhân, Mai hoa. Sau đó chín bài thơ này được ghép vào khúc hát nên gọi là Quỳnh uyển cửu ca.

Những bài thơ chữ Hán này, là các ca khúc bằng chữ Hán được tấu lên cùng nhã nhạc và biểu diễn trong cung đình thời Lê Hồng Đức thịnh trị.

Như vậy, ca khúc đã có từ đời Lý, rất thịnh vào đời Trần (với các bản ca khúc, được viết bằng thổ ngữ - có thể là chữ Nôm Việt chăng?); nhưng chúng ta không còn biết được ca từ. Các ca khúc thời Hồng Đức trong Quỳnh uyển cửu ca tuy chưa bao giờ được gọi là nhạc chương nhưng có thể xem như những ca khúc sớm nhất được biết cả phần lời.

2. Về năm bản nhạc chương đời Lê mới phát hiện:

2.1 Dựa vào chỉ dẫn của Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, chúng tôi tiến hành thâm nhập văn bản Cố Lê nhạc chương thi văn tập lục (gồm hai ký hiệu A.1186 và VHv.2658) thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây cũng là nhóm văn bản nhạc chương đời Lê duy nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm; và đặc biệt hơn nó lại được viết bằng chữ Nôm.

A.1186 là bản xưa hơn VHv.2658; trên văn bản có dấu của Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp, và là bản chép tay trên giấy bản cũ, chữ dễ đọc, đã được chấm câu. Các bản nhạc chương được chép trong các trang từ 1a đến 3b. Tên sách có hai chữ “Cố Lê” (故 黎) cho thấy nó được sao chép lại khi nhà Lê đã mất (tức là khoảng thời gian được tính từ sau năm 1788). Bản VHv.2658 cũng là bản chép tay và là Phụ bản của Thư viện khoa học xã hội, sao từ bản A.1186. Các bản nhạc chương được chép trong các trang từ 1a đến 4a.

Hai văn bản này không có sự sai khác gì đặc biệt. Mở đầu phần chép nhạc chương có dòng chữ “Phụng nghĩ nhạc chương ngũ đạo, do quốc âm” (奉 擬 樂 章 五 道 , 由 國 音: Vâng mệnh soạn nhạc chương năm đạo, bằng quốc âm). Ghi chép ấy cho biết các nhạc chương này đã được biên soạn theo lệnh của vua chúa.

Những nhân vật được nhắc tới và ca tụng trong các bản nhạc chương đều là các tiên liệt dòng chúa Trịnh và đều được gọi bằng tôn hiệu. Cụ thể như sau:

- Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn (ở ngôi chúa từ năm 1682 đến 1709).

- Lương Mục vương Trịnh Vĩnh (là con trưởng của chúa Trịnh Căn), mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.

- Tấn Quang vương Trịnh Bính (là con trưởng của Lương Mục Vương và là cha của chúa Trịnh Cương). Mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.

- Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (ở ngôi chúa từ năm 1709 đến 1729).

- Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (ở ngôi chúa từ năm 1740 đến 1767).

Tiểu sử và sự nghiệp của các tiên liệt họ Trịnh hiện lên trong các bản nhạc chương với lối ước lệ và khoa trương trong âm hưởng tụng ca, nhưng không phải là không hé mở những chi tiết đáng lưu ý xung quanh hành trạng các nhân vật này.

Các bản nhạc chương tấu trong nghi lễ ở cung miếu họ Trịnh được viết bằng chữ Nôm là điều ít ngờ tới. Song, còn ngạc nhiên hơn, khi chúng ta biết các tác giả của các bản nhạc chương này. Họ đều là những nhà khoa bảng lừng danh (trừ Mai Thế Uông chỉ đỗ Hương cống), là những nhà văn, nhà thơ, những sử gia, chính trị gia nổi tiếng.

Trong số 5 tác giả: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Hoãn, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh, Mai Thế Uông, thì Mai Thế Uông hiện chúng ta chưa biết nhiều về các tác phẩm văn học của ông. Còn lại, các ông đều là những người có sở trường về Nôm.

Nguyễn Huy Oánh không chỉ là tác gia y học, văn học chữ Hán mà còn là tác giả của bản ca Nôm Huấn tử ca với độ dài 632 câu thơ lục bát. Lê Quý Đôn, bên cạnh các trước tác khảo cứu còn có các tác phẩm Nôm khá độc đáo. Nguyễn Nghiễm không chỉ là một sử gia nổi tiếng, ông còn có bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu công... Nguyễn Hoãn cũng vậy, ông có tới 15 bài thơ Nôm.

Phát hiện về nhạc chương Nôm được dùng trong cung miếu nhà Trịnh mà tác giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ phong kiến sẽ bổ sung thêm cho những hiểu biết về văn học các thế kỷ XVII và XVIII. Việc sáng tác văn chương chữ Nôm ở thời kỳ này khá sôi nổi và thực sự có tiếp thu từ nguồn mạch dân gian. Các chúa Trịnh rất yêu thích và đã sáng tác bằng chữ Nôm mà trường hợp Thiên hòa doanh bách vịnh (88 bài thơ Nôm) của Trịnh Căn, Càn Nguyên ngự chế thi (240 bài thơ Nôm) của Trịnh Doanh là những ví dụ tiêu biểu.

Việc dùng nhạc chương Nôm trong nghi lễ cung miếu cũng như việc các trí thức lớn của thời đại sáng tác nhạc chương Nôm theo yêu cầu của chúa Trịnh đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội và văn học bấy giờ, cho thấy đây là một thời đại tương đối cởi mở với nhiều xu hướng.

2.2. Dưới đây là phần phiên âm và chú giải năm bản nhạc chương Nôm đời Lê do chúng tôi thực hiện với cố gắng cao nhất:

Bài 1: Chiêu tổ khang vương

Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm phụng soạn

Nghìn năm một hội dương khai (1)

Nền vương dõi có thánh tài nối ngôi

Nẻo xưa năm Dậu tháng Mùi (2)

ứng điềm xích thất(3), nẩy chồi kim chi(4)

Cung xanh(5) rạng đức trùng huy(6)

Thay trời dựng việc trợ thì ra tay

Nam hà(7) mấy trận gio bay

Cõi bờ gió quét, cỏ cây mưa nhuần

Bắc chinh(8) thuở dậy uy thần

Ba quân Giang Hán(9) mấy lần sơn xuyên

Vũ thành(10) túi quẩy cung tên(11)

Văn công(12) sao rạng, chính quyền mây nghiêm

Thái bình vẫn nghiệm càn chiêm(13)

Đường thông lời tượng(14), chằm êm tiếng hồng(15)

Mở mang noi nghiệp tổ tông

Doành Phong bao kỷ(16), cẩn lòng bao tang(17)

Tộ(18) truyền dặc dặc thế vương

Chấn quang bách phúc(20), chưng thường thiên thu(21)

Chúc mừng tượng thuở đản phù(22)

Miếu Chu thơ Vũ, sân Ngu dịp Thiều(23)

Bài 2: Lương Mục vương

Thụy Trạch hầu Nguyễn Hoãn phụng soạn

Nền nhân nẻo trước triệu bồi(24)

Cây giồng lá ngọc, sông khơi dòng vàng

Cung xuân(25) trong tiết thanh thương(26)

Hồng tinh dãi bóng(27), thiên hương nức mùi

Duệ thông(28) nối đấng thượng tài

Còn tuần mông dưỡng(29) doành ngôi quốc trừ(30)

Một phen xuất các mai sơ(31)

Cầm quyền Đô phủ, dựng cờ Tả dinh(32)

Vui hôm lo sớm cung đình

Kính thừa đạo Vũ(33), hiếu thành lòng Văn(34)

Ngong trông đâu đấy muôn dân

Ca câu tam thiện(35), tụng văn tứ trùng(36)

Xưa sau thế đích nối dòng

Sẵn nền kiến đốc(37), rạng công cấu đường(38)

Phúc nhà truyền dõi ngôi vương

Nhân dường lân chỉ(39), thịnh dường chung ty (tư)(40)

Tòa rồng ứng tượng quang nghi(41)

Hiệu dâng sách ngọc(42), dấu ghi đỉnh vàng(43)

Thăng ca tấu dịp sênh hoàng(44)

Mượn thơ Trường phát(45) một chương nối vần

Bài 3: tấn quang vương

Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn phụng soạn

Đoài cung(46) tượng ứng kim canh(47)

Bến Hoa(48) bỗng hiện Dao tinh vẻ lồng(49)

Đản di(50) vừa tiết thiên trung(51)

Phong nghi đĩnh dị(52) minh thông khác thường

Chấn văn vừa nẩy hào dương(53)

Đan thư sớm đã tỏ tường điềm Chu(54)

Cung xuân(55) hương quế thơm tho

Huân đào(56) chẳng lọ trao đồ Cơ công(57)

Dưỡng mông(58) chưng thuở suối trong(59)

Đòi phen vinh dụ(60), tấc lòng hiếu ty (tư)(61)

Phủ xanh(62) từ nẩy chính ky (cơ)(63)

Đảm đương việc nước chỉ huy lệnh trời

Huy luân(64) ca nọ nối lời

Gần xa khen ngợi trong ngoài ngong trông

Sáu truyền(65) sang mối tổ tông

Gây nền thánh tử, khơi dòng thần tôn

Công này đáng sánh càn khôn

Đã ghi vạc báu, lại tôn sách vàng(66)

Tư văn(67) dâng tụng đòi(68) chương

Miếu đường dặc dặc(69), chưng thường(70) muôn thu

Bài 4: Hy tổ nhân vương

Thạc Lĩnh hầu Nguyễn Huy Oánh phụng soạn

Bảy truyền(71) trong vận long hưng(72)

Lạ thay buồng quế nức lừng hương đưa

Đản sinh(73) điềm ứng ban xưa

Năm vừa Nhu triệu(74), tiết vừa Nhuy tân(75)

Tài gồm văn võ thánh thần

Đương quyền phụng sưởng(76) mới tuần gia quan(77)

Nguyên hanh nối đức thừa càn(78)

Tụng bài Phỏng lạc(79), ca đàn Nam phong(80)

Quy mô trăm mối sửa xong

Mở nền văn vật dựng công trị bình

Tinh mao(81) mấy độ tỉnh canh(82)

Phong niên có vịnh(83), hoa trình có thơ(84)

Lân bang đều gội móc mưa

Gần dâng tuế cống, xa đưa địa đồ

Rành rành vũ liệt văn mô(85)

Trời Nam đem lại Đường Ngu(86) thái hòa

Đời đời truyền dõi nghiệp nhà

Rỡ hàng chiêu mục(87), rạng tòa Đẩu tinh(88)

Thăng ca tấu khúc Tư thình (thành)(89)

Khí thiêng càng thỏa miếu đình muôn thu

Bài 5: Nghị tổ ân vương

Lã Xuyên hầu Mai Thế Uông phụng soạn

Đầu canh sơ chiếng(90) một dương

Non đan bảng sáng, sông vàng sạch trong(91)

ứng kỳ sinh đấng anh hùng

Phong tư lỗi lạ, cao thông tót vời(92)

Kinh luân(93) nẻo thuở vân lôi(94)

Thay quyền xuất chấn(95) ra tài hanh truân(96)

Mấy vì xã tắc sinh dân

Tấc son giãi với chín lần xanh xanh

Xe loan uy dậy tứ chinh(97)

Bừa không cáo tổ, quét thanh ong đàn(98)

Hơi xuân vây lại giang san

Dấu so hưng Hạ(99), công hơn bình Hoài(100)

Mối giềng muôn việc trong ngoài

Một phen phấn sức(101) nên đời hạo hy(102)

Truyền sau chước nhiệm(103) yến di(104)

Rành rành tiếng ngọc, rạng ghi bút rồng

Nhạc dâng bảy đức(105), chín công(106)

Rỡ trong tông miếu, sánh cùng càn khôn

Khí thiêng vốn hãy nhơn nhơn(107)

Phúc doành văn tử, văn tôn muôn đời(108).

Phiên âm từ bản A.1186 (từ trang 1a đến 3b) và bản VHv.2658 (từ trang 1a đến 4a)

3. Về các bản nhạc chương đời Nguyễn đã được phát hiện:

Nhân phát hiện các bản nhạc chương đời Lê, chúng tôi thấy không thể không nhắc tới các bản nhạc chương đời Nguyễn đã được Nguyễn Văn Huyên và Trần Văn Giáp phát hiện và giới thiệu lần đầu trên tờ tạp chí Est số 4 năm 1939. Bài viết Les chants rituels des fêtes de Nam Giao (Các bài cúng trong lễ tế Nam Giao), đã chép đầy đủ 9 bản nhạc chương được dùng trong nghi lễ tế ở đàn Nam Giao, do một quan chức triều Nguyễn đã từng chứng kiến nghi lễ này cung cấp.

Về sau, vào năm 1968, tại Sài Gòn, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề cho xuất bản cuốn sách Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam, trong đó có chép rất nhiều bản nhạc chương được dùng trong các nghi lễ triều Nguyễn.

Tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện cũng có một số tập nhạc chương triều Nguyễn. Tất cả các bản nhạc chương thời Nguyễn đã được biết đến đều được viết bằng chữ Hán. Hy vọng là chúng tôi sẽ có dịp giới thiệu trong một bài viết khác.

CHÚ THÍCH

(1) Dương khai: tức Tam dương khai thái. ý nói vào tháng Giêng (Tam dương) mùa xuân thì muôn vật có điều kiện sinh sôi nảy nở, phát triển thịnh vượng.

(2) Năm Dậu tháng Mùi: chúa Trịnh Căn sinh vào tháng Mùi (tháng 6) năm Quý Dậu (1633).

(3) Xích thất: nhà đỏ, tức ánh sáng đỏ đầy nhà. Khi những đấng phi thường sinh ra thì có những điềm kỳ lạ như dao quang quán nguyệt, cầu vồng, ánh đỏ đầy nhà...Sách Lam Sơn thực lục cũng có chép khi Lê Thái Tổ sinh có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm...

(4) Kim chi: cành vàng, chỉ con cháu, dòng dõi đế vương.

(5) Cung xanh: tức thanh cung, cung của Thái tử. Theo sách Thần dị kinh thì: Phương đông có cung điện tường bằng đá xanh, cửa bằng bạc, đề rằng: “Thiên địa trưởng nam chi cung” (Cung của con trưởng trời đất). Vì thế mới gọi cung của Thái tử là Đông cung hay Thanh cung. Câu này nói về lúc Trịnh Căn còn làm Thế tử.

(6) Trùng huy: hai lần sáng, ý nói nối được đức sáng, sự nghiệp vẻ vang của cha. Tượng truyện quẻ Ly, Kinh Dịch viết: “Minh lưỡng tác, Ly, đại nhân dĩ kế minh chiếu hồ tứ phương” (Sự sáng hai lần đấy là quẻ Ly, đấng đại nhân coi đó mà kế tiếp sáng soi bốn phương).

(7) Nam Hà: chỉ miền đất từ sông Gianh trở vào Nam, do các chúa Nguyễn cai quản thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Dương Vương Trịnh Tạc (cha Trịnh Căn) từng sai Trịnh Căn vào Nghệ An cùng với Ninh quốc công Trịnh Toàn đánh Đàng Trong và cai trị ở Nghệ An, ở đó được sáu năm, đánh thắng được tướng của chúa Nguyễn, thu lại được bảy huyện.

(8) Bắc chinh: đánh phía Bắc, chỉ việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở Bắc Hà - Đàng Ngoài - miền đất từ sông Gianh trở ra Bắc do Lê - Trịnh cai quản.

(9) Giang Hán: tên bài thơ trong phần Đại nhã - Kinh Thi, nội dung ca ngợi công nghiệp đánh dẹp Hoài Di của Mục công Thiệu Hổ đời Chu Tuyên Vương. Đây dùng để ca ngợi vũ công của Trịnh Căn.

(10) Vũ thành: vũ công đã hoàn thành. Đây cũng là tên một thiên trong phần Chu thư - Kinh Thư nội dung nói về thắng lợi của Chu Vũ Vương trong việc đánh Trụ diệt nhà Thương.

(11) Túi quẩy cung tên: ý nói vũ công đã hoàn thành, cung tên không còn phải dùng đến nữa, cất vào trong túi.

(12) Văn công: sự nghiệp văn trị.

(13) Điềm thái bình vẫn nghiệm thấy khi xem trời (trời ở đây còn chỉ chúa Trịnh).

(14) Đường thông lời tượng: Có lẽ là nhắc điển “Khang cù kích nhưỡng”, chỉ cảnh cực trị. Đời Đế Nghiêu, vua Nghiêu mặc thường phục đi vi hành ở khang cù (đường thông) thấy ông lão gõ cái Nhưỡng (một thứ nhạc khí thời cổ) hát rằng: “Mặt trời mọc thì ta làm, mặt trời lặn thì ta nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, sức vua đối với ta có gì đâu” (Nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức, tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai). ý nói trị đạo cực thịnh, dân được sống thảnh thơi, sung sướng, tự nhiên, tưởng như không phải nhờ vào vua nữa.

(15) Chằm êm tiếng hồng : ở đầm không có tiếng chim hồng kêu, ý nói không còn giặc giã. Đây lấy chữ từ thơ Hồng nhạn ở phần Tiểu nhã - Kinh Thi: “Hồng nhạn vu phi, tập vu trung trạch... Hồng nhạn vu phi, ai minh ngao ngao...” (Hồng nhạn bay, đậu ở giữa đầm... hồng nhạn bay, cất tiếng kêu đau buồn...) hình tượng dân chúng vất vả khổ sở kêu than vào thời nhà Chu suy.

(16) Doành Phong bao kỷ: cây kỷ ở sông Phong. Đây lấy chữ từ thơ Văn Vương hữu thanh phần Đại nhã - Kinh Thi: “Phong thủy hữu kỷ, Vũ Vương khởi bất sĩ, di quyết tôn mưu, dĩ yến dực tử, Vũ Vương chưng tai” (Sông Phong có cây kỷ, Vũ Vương há không có việc gì sao ? Để lại mưu cho cháu để giúp cho con được yên, Vũ Vương thực xứng đáng làm vua). Đây dùng điển này ý nói mưu tính lâu dài cho con cháu đời sau.

(17) Cẩn lòng bao tang: lòng cẩn thận buộc vào cây dâu rậm. Đây lấy chữ từ quẻ Bĩ - Kinh Dịch. Lời hào từ hào Cửu ngũ quẻ Bĩ rằng: “Hưu bĩ, đại nhân cát - Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang” (Nghỉ bĩ, đấng đại nhân tốt. Này mất, này mất, buộc vào cây dâu rậm). Hào Cửu ngũ dương cương trung chính lại ở cuối thời bĩ nên có thể tắt nghỉ sự bĩ nhưng vẫn chưa hết thời bĩ nên có câu răn “Này mất, này mất, buộc vào cây dâu rậm”, ý nói răn dè cẩn thận tìm cách giữ yên ổn vững chắc như buộc vào cây dâu rậm vậy.

(18) Tộ: vận nước, phúc nước, ngôi vua.

(19) Dặc dặc: lâu dài mãi mãi (từ cổ).

(20) Chấn quang bách phúc: khởi phát rạng rỡ, hưởng trăm phúc.

(21) Chưng thường thiên thu: hưởng tế lễ nghìn năm. Chưng là tế mùa đông, thường là tế mùa thu (theo Kinh Lễ). Dùng chữ chưng thường chỉ tế lễ.

(22) Tượng thuở đản phù: hợp với điềm tốt.

(23) Miếu Chu thơ Vũ, sân Ngu dịp Thiều: tấu thơ Vũ ở tông miếu nhà Chu, tấu nhạc Thiều ở sân nhà Ngu. Vũ là nhạc do Chu Vũ Vương làm ra, Thiều là nhạc do vua Thuấn nhà Ngu chế ra. Đức Khổng Tử khen nhạc Thiều là tận thiện tận mỹ, nhạc Vũ là tận mỹ.

(24) Triệu bồi : tạo dựng, vun đắp.

(25) Cung xuân: tức cung của Thái tử – cũng như chữ Thanh cung, Đông cung (xem chú thích 5). Phương đông thuộc hành mộc, ứng với màu là màu xanh, ứng với mùa là mùa xuân nên Đông cung, Thanh cung hay Xuân cung là như nhau. Đây chỉ cung của Thế tử.

(26) Thanh thương: trong trẻo.

(27) Hồng tinh dãi bóng: dãi bóng cầu vồng. Bà mẹ vua Thiếu Hạo là bà Loa Tổ khi ra bến Hoa thấy có ngôi sao cực lớn, sáng như cầu vồng sa xuống, cảm điềm ấy mà có thai sinh ra vua Thiếu Hạo. Đây chỉ điềm lành sinh đấng phi thường.

(28) Duệ thông: sáng suốt, sâu sắc.

(29) Mông dưỡng: nuôi sự chính từ khi còn tuổi trẻ. Đây lấy chữ từ Kinh Dịch. Thoán truyện quẻ Mông – Kinh Dịch có câu: “Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã” (Trẻ thơ nuôi sự chính, đó là công làm nên bậc thánh vậy). ý nói từ khi tuổi trẻ đã nuôi dưỡng sự chính, là cách để có thể trở nên bậc thánh. Câu này nói Lương Mục Vương khi còn tuổi trẻ.

(30) Quốc trừ: người sẽ sau này nối ngôi.

(31) Xuất các mai sơ: bắt đầu ra gác – ý nói bắt đầu tham gia việc chính sự.

(32) Đô phủ, Tả dinh: chức vị và nơi làm việc của Lương Mục Vương khi đó.

(33) Kính thừa đạo Vũ: theo đạo của vua Vũ kính cẩn thuận thừa. Thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư có câu “Chi thừa vu đế” (Kính cẩn thuận thừa đế Thuấn). Vũ đây là vua Đại Vũ, mở đầu nhà Hạ, được vua Thuấn nhường ngôi cho.

(34) Hiếu thành lòng Văn: lòng như Văn Vương thành tâm hiếu kính. Chu Văn Vương khi còn làm Thế tử hết lòng trọn vẹn đạo hiếu đối với cha là Vương Quý, hàng ngày ba lần yết kiến thăm hỏi (xem thiên Văn Vương thế tử - Kinh Lễ).

(35) Tam thiện: chữ trong thiên Văn Vương thế tử - Kinh Lễ. Sau thường dùng để ca tụng đức độ của Thái tử hay Thế tử. Tam thiện (ba điều thiện) là: thân người thân, tôn vua, kính người tôn trưởng.

(36) Tứ trùng: đây đọc hiệp vận, chính xác phải là Tứ trọng (Bốn điều trọng): Lời nói thận trọng thì có phép, nết thận trọng thì có đức, dáng mặt thận trọng thì có oai, sự ưa thích thận trọng thì có sự trông vào (Pháp ngôn).

(37) Kiến đốc: gây dựng, dốc sức. Đây lấy chữ từ thiên Vũ thành phần Chu thư - Kinh Thư: “... Duy tiên vương kiến bang khải thổ, Công Lưu khắc đốc tiền liệt...” (Các tiên vương (nhà Chu) dựng nước mở đất, đến Công Lưu dốc sức nối noi sự nghiệp trước...). “Sẵn nền kiến đốc” ý nói sẵn cơ nghiệp của tổ tiên đã gây dựng.

(38) Cấu đường: dựng nhà. Đây lấy chữ từ thiên Đại cáo phần Chu thư - Kinh Thư : “... nhược khảo tác thất, ký để pháp, quyết tử nãi phất khẳng đường, thẩn khẳng cấu...” (... Như cha xây nhà, đã đặt ra quy mô, thế mà con lại không đắp nền, huống chi là xây nhà...). Từ đó chữ “cấu đường” thường dùng để chỉ con cháu nối tiếp và phát huy sự nghiệp của cha ông. Câu “Sẵn nền kiến đốc rạng công cấu đường” ý nói đã sẵn cơ nghiệp của cha ông gây dựng, nay nối tiếp và phát triển hơn lên.

(39) Lân chỉ: chân con lân. Con lân là một loài thú có nhân đức, khi kỳ lân xuất hiện là điềm có thánh nhân ra đời. Kinh Thi phần Chu nam có thơ Lân chỉ: “Lân chi chỉ, chân chân công tử, hu ta lân hề...” (Chân con lân, công tử nhân đức, ôi chao con lân...) ca ngợi công tử, công tôn, công tộc nhân đức như con lân vậy.

(40) Chung tư: chung tư là gọi con giọt sành, thuộc loài côn trùng. Chung tư là tên bài thơ trong phần Chu nam – Kinh Thi ca ngợi bà Hậu phi của Chu Văn Vương có nhân đức nên được con cháu đông đúc thịnh vượng (như loài chung tư).

(41) Tượng quang nghi: vẻ uy nghiêm rực rỡ.

(42) Sách ngọc: khi xưa phong, tặng tước vị tôn quý thì ban cho sách ngọc hay sách vàng, sách bạc, trong sách có ghi lời chế văn phong, tặng.

(43) Dấu ghi đỉnh vàng: ý nói tên tuổi sự nghiệp được đúc vào đỉnh báu truyền lại lâu dài.

(44) Sênh hoàng: sênh, hoàng là hai loại nhạc khí thời cổ.

(45) Trường phát: tên bài thơ trong phần Thương tụng - Kinh Thi ca ngợi các tiên vương nhà Thương: “Tuấn triết duy Thương, trường phát kỳ tường...” (Nhà Thương nối đời có các vị vua sáng suốt, điềm lành đã phát từ rất lâu rồi...).

(46) Đoài cung: tây cung. Đoài là tên một quẻ trong bát quái phương vị ở về chính Tây.

(47) Kim canh: cũng chỉ phương Tây. Hành Kim phương vị về chính Tây, ứng với thiên can thì hành Kim thuộc Canh, Tân. Vậy nên Kim, Canh đều chỉ phương Tây.

(48) Bến Hoa: Xem chú thích 27.

(49) Dao tinh vẻ lồng: bà Xương Bộc là vợ của Xương ý (con Hoàng Đế) cảm điềm Dao quang quán nguyệt (ánh sáng Dao tinh xuyên mặt trăng) mà có thai sinh ra vua Chuyên Húc. Đây cũng chỉ điềm sinh đấng phi thường.

(50) Đản di: đến tuần sinh nở, ngày sinh.

(51) Thiên trung: tiết chính trung, đúng giữa (đây có lẽ là giữa tháng).

(52) Phong nghi đĩnh dị: phong thái dung mạo khác lạ.

(53) Chấn văn vừa nảy hào dương: ý nói sinh con trai trưởng. Quẻ Chấn tượng trưởng nam, có một hào dương ở dưới.

(54) Đan thư sớm đã tỏ tường điềm Chu: “Đan thư” là Sách đỏ. Theo sách Lã thị Xuân thu, vào thời Văn Vương nhà Chu có con chim mỏ đỏ (xích điểu) ngậm đan thư đậu ở nền xã nhà Chu. Văn Vương nói: “Hỏa khí mạnh”, nên chuộng màu đỏ. Đó là điềm lành trời ban cho Chu Văn Vương.

(55) Cung xuân: xem chú thích 25.

(56) Huân đào: hun đúc, rèn giũa.

(57) Cơ công: có lẽ chỉ Cơ Đán, tức Chu Công, em Vũ Vương, chú của Thành Vương nhà Chu. Chu Công phụ chính thời Thành Vương còn nhỏ, sau khi Thành Vương lớn, ông trao lại chính quyền cho Thành Vương. Câu này có lẽ ý nói Thế tử còn nhỏ, phải rèn giũa, bồi dưỡng để sau này trao cơ đồ cho.

(58) Dưỡng mông: xem chú thích 29.

(59). Thuở suối trong: ý nói tuổi thơ rất thuần khiết, trong sạch, phải bồi dưỡng, rèn giũa sự chính từ lúc này.

(60) Vinh dụ: vẻ vang, giàu thịnh.

(61) Hiếu tư: suy nghĩ về đạo hiếu. Đây lấy chữ từ thơ Hạ Vũ phần Đại nhã - Kinh Thi: “...Vĩnh ngôn hiếu tư, hiếu tư duy tắc...” (Mãi mãi suy nghĩ về đạo hiếu, lòng hiếu thuận làm phép tắc...).

(62) Phủ xanh: tức cung Thế tử (xem chú thích 5).

(63) Nảy chính cơ: ý nói bắt đầu tham gia chính sự.

(64) Huy luân: chưa hiểu điển tích, ý nghĩa.

(65) Sáu truyền: kể từ Thế tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm mở nghiệp, truyền:

1- Thành tổ Triết Vương Trịnh Tùng.

2- Văn tổ Nghị Vương Trịnh Tráng.

3- Hoằng tổ Dương Vương Trịnh Tạc.

4- Chiêu tổ Khang Vương Trịnh Căn.

5- Lương Mục Vương Trịnh Vĩnh.

6- Tấn Quang Vương Trịnh Bính.

(66) Vạc báu, sách vàng: xem chú thích 42, 43.

(67) Tư văn: tên bài thơ trong phần Chu tụng - Kinh Thi - cũng là bài nhạc tế Hậu Tắc (viễn tổ nhà Chu): “Tư văn Hậu Tắc, khắc phối bỉ thiên...” (Hậu Tắc có văn đức, sánh hợp với trời...).

(68) Đòi: nhiều (từ cổ).

(69) Dặc dặc: xem chú thích 19.

(70) Chưng thường: xem chú thích 21.

(71). Bảy truyền: xem chú thích 65. Hy tổ Nhân Vương Trịnh Cương là con trưởng của Tấn Quang Vương Trịnh Bính.

(72) Long hưng: rồng dậy, ý nói thịnh vượng. Hào Cửu ngũ quẻ Càn – Kinh Dịch có câu “Long phi tại thiên” (Rồng bay trên trời).

(73) Đản sinh: giáng sinh, sinh ra.

(74). Nhu triệu: tức can Bính. Theo Nhĩ nhã - Thích thiên: “Thái tuế tại Bính viết Nhu triệu” (Thái tuế tại Bính gọi là Nhu triệu).

(75) Nhuy tân: tên 1 luật trong 12 luật, ứng với tháng trọng hạ (tháng 5). Thiên Nguyệt lệnh trong Kinh Lễ có viết: “Trọng hạ chi nguyệt... luật trúng Nhuy tân...” (Tháng trọng hạ... ứng luật Nhuy tân).

(76) Phụng sưởng: dâng rượu tế (Sưởng là rượu tế); ý nói đứng làm chủ tế lễ nơi tông miếu, tức là được nối ngôi.

(77) Gia quan: tuổi 20. Theo thiên Khúc lễ trong Kinh Lễ thì tuổi 20 gọi là tuổi Nhược, làm lễ gia quan (đội mũ) đánh dấu người con trai đó trưởng thành. Sách Lịch triều hiến chương loại chí nói chúa (Trịnh Cương) giữ quyền chính 20 năm, thọ 44 tuổi. Như vậy Trịnh Cương lên ngôi chúa năm 24 tuổi - hơn tuổi gia quan (20) một chút.

(78) Nguyên hanh nối đức thừa càn: ý nói nối tiếp công đức, sự nghiệp của tiên vương. Quẻ Càn là tượng đế vương, có bốn đức: Nguyên, hanh, lợi, trinh (Đầu, hanh thông, lợi, chính bền).

(79) Phỏng lạc: tên bài thơ trong phần Chu tụng - Kinh Thi, nội dung là những lời nói của Chu Thành Vương sau khi tế Vũ Vương, ý nói vua nối ngôi phải cố gắng noi theo đạo của tiên vương để được yên ổn, rạng rỡ.

(80) Nam phong: tức khúc Nam huân của vua Thuấn, có câu: “Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi vấn hề. Nam phong chi thời hề, khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề…” (Gió Nam ấm áp chừ có thể cởi bỏ những nỗi buồn giận cho dân ta - Gió Nam đúng lúc chừ, có thể làm cho dân ta có nhiều của cải).

(81). Tinh mao: cờ quạt nghi trượng của đế vương.

(82) Tỉnh canh: xem cày ruộng, thăm hỏi việc nhà nông.

(83) Phong niên: theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vụ mùa năm Nhâm Dần (1722) được mùa to, Trịnh Cương đi ra phía Tây kinh thành xem dân gặt lúa, ban cho trâu, rượu, lại làm một bài từ về “Phong niên” (Năm được mùa) để ghi nhớ (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, H. 1998. Tập II, tr.436).

(84) Hoa trình có thơ: Đi sứ có thơ. Năm 1718, Nguyễn Công Hãng và Nguyễn Bá Tông lên đường đi sứ sang nhà Thanh báo tang vua Lê Hy Tông và cầu phong. Trịnh Cương có ban cho hai người một bài thơ chữ Hán và một bài thơ Nôm để úy lạo (Xem Ngô Cao Lãng - Lịch triều tạp kỷ - Bản dịch của Hoa Bằng, Nxb. KHXH. H. 1995, tr.245-247.

85) Vũ liệt Văn mô: mưu Văn Vương, công nghiệp Vũ Vương. Đây lấy chữ từ thiên Quân Nha trong phần Chu thư - Kinh Thư: “Phi hiển tai Văn Vương mô, phi thừa tai Vũ Vương liệt” (Sáng suốt vĩ đại thay mưu Văn Vương, kế thừa vĩ đại thay công nghiệp Vũ Vương).

(86) Đường Ngu: thời vua Nghiêu (Đường) và vua Thuấn (Ngu), thời cực thịnh trị.

(87) Chiêu mục: thứ tự sắp xếp bài vị thờ ở tông miếu. Miếu thủy tổ ở giữa, hai bên là hàng chiêu hàng mục, tả là hàng chiêu, hữu là hàng mục, thờ các đời nối tiếp.

(88) Đẩu tinh: sao Bắc Đẩu, tượng đế vương.

(89) Tư thành: chữ trong thơ Na phần Thương tụng - Kinh Thi: “Tuy ngã tư thành” (Yên lòng tưởng nhớ của ta). Đây là bài thơ, cũng là nhạc tế vua Thành Thang nhà Thương “Tấu khúc Tư Thành” ý nói tấu bản nhạc tế.

(90) Chiếng (từ cổ): nảy. Sơ chiếng một dương: mới nảy một dương (xem chú thích 53).

(91) Non đan: Đan sơn - núi đỏ. Theo sách Viên sơn tùng nghi đô ký: có ngọn đan sơn, trong núi thường có khí đỏ bao trùm, núi rừng rực một màu đỏ. Câu “Non đan bảng sáng, sông vàng sạch trong” cũng chỉ điềm sinh bậc phi thường.

“Sông vàng” tức là Hoàng Hà. Nước Hoàng Hà luôn luôn đục, nhưng theo tục truyền thì khi nước Hoàng Hà trong là điềm sinh ra thánh nhân.

(92) Tót vời: hơn hết thảy.

(93) Kinh luân: Kinh là sắp từng sợi tơ dọc, luân là xe nhiều sợi tơ lại với nhau, sau Kinh luân được dùng với nghĩa là sửa sang, trị lý.

(94). Vân lôi: đây dùng chữ trong Kinh Dịch, quẻ Truân. Tượng truyện quẻ Truân: “Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân” (Tượng mây sấm là quẻ Truân, quân tử coi đó mà sửa sang trị lý thiên hạ). Thời truân là thời khó khăn gian nan, là lúc quân tử làm việc, sửa sang trị lý thiên hạ để qua lúc gian nan. “Kinh luân nẻo thuở vân lôi” ý nói ra tài sửa sang trị lý trong lúc gian nan khó khăn.

(95) Xuất chấn: chỉ hoàng đế, vua hay chủ tể, lấy chữ trong Thuyết quái truyện - Kinh Dịch: “Đế xuất hồ chấn” (Đế ra ở cung chấn). “Thay quyền xuất chấn” tức là thay quyền vua.

(96) Hanh truân: làm cho “truân” thành “hanh”, làm cho gian nan khó khăn thành hanh thông.

(97) Tứ chinh: chinh phạt, đánh dẹp bốn phương.

(98) Bừa không cáo tổ, quét thanh ong đàn : ý nói công nghiệp đánh dẹp của Trịnh Doanh như quét sạch đàn ong, tổ cáo.

(99) Hưng Hạ: phục hưng nhà Hạ, chỉ vua Thiếu Khang nhà Hạ. Nhà Hạ đến đời vua Thái Khang bị cướp mất nước, vua Thiếu Khang đã trung hưng được cơ nghiệp.

(100) Bình Hoài: tức bình định Hoài Di, chỉ vua Tuyên Vương nhà Chu. Vua Tuyên Vương sai Mục công Thiệu Hổ đi bình định Hoài Di thắng lợi (xem thơ Giang Hán - Đại Nhã - Kinh Thi).

(101) Phấn sức: tô điểm, sửa sang.

(102) Hạo hy: tức “hy hy hạo hạo” nghĩa là hòa vui, thỏa thuê, tươi sáng. Chữ này thường dùng cực tả thời thịnh trị Nghiêu Thuấn...

(103) Chước nhiệm: kế sách mưu tính màu nhiệm.

(104) Yến di: truyền lại cho con cháu, mưu tính cho con cháu (xem chú thích 16).

(105) Bảy đức: chỉ bảy đức về võ công ghi trong Tả truyện - Tuyên công thập nhị niên: “Vũ hữu thất đức...: Cấm bạo (cấm bạo ngược), tập binh (ngăn chặn việc binh đao), bảo đại (giữ gìn nghiệp lớn), định công (lập công), an dân (làm cho dân yên), hòa chúng (làm cho dân hòa thuận), phong tài (giàu của)...”

(106) Chín công: chữ trong thiên Đại Vũ mô - Kinh Thư : “Thủy, hỏa, kim, mộc, thổ, cốc, duy tu; chính đức, lợi dụng, hậu sinh, duy hòa. Cửu công duy tự...” (Sửa sang lục phủ (Nước, lửa, kim, mộc, đất đai, thóc gạo) và điều hòa tam sự (chính dân đức, lợi dân dụng, hậu dân sinh), chín công có thứ tự...). Chín công gồm lục phủ và tam sự.

(107) Nhơn nhơn: (từ cổ) đường đường, oai phong lẫm liệt.

(108) Văn tử, văn tôn: con cháu có văn đức.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Bản triều nhạc chương tập (A.2511)

2. Nam Giao nhạc chương (A.2228)

3. Trấn Quốc Vượng - Đinh Xuân Lâm: Về nguồn gốc và lịch sử tuồng chèo Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 4 – 1966.

4. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề : Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam . Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.

5. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề: Việt Nam ca trù biên khảo. Sài Gòn, 1962.

6. Nguyễn Văn Huyên - Trần Văn Giáp: Các bài cúng trong lễ tế Nam Giao. Tạp chí EST, H. 1939. // In trong tập Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Tập 1. Nxb KHXH, H. 1995.

7. Phạm Thị Thoa: Tìm hiểu thêm về Nguyễn Hoàn. Tạp chí Hán Nôm, số 2 - 1992.

8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Phần Nhân vật chí Lễ nghi chí). Nxb. KHXH, H. 1992.

9. Thái Kim Đỉnh: Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ. Nxb. Nghệ An, 1995.

TB

KIM VÂN KIỀU LỤC” MỘT BẢN TRUYỆN KIỀU BẰNG VĂN XUÔI CHỮ HÁN

THẾ ANH

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du đã dựa vào cuốn tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc có nhan đề là Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân viết để sáng tác ra Truyện Kiều bất hủ. Sau khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời, chúng ta lại có một bản Truyện Kiều viết bằng văn xuôi chữ Hán. Đó là cuốn Kim Vân Kiều lục đã được in vào các năm 1876, 1888, 1896 hiện được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia và Thư viện Hán Nôm.

Sách in trên giấy bản thường, có 32 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 10 dòng, mỗi dòng 24 chữ, khắc ván gỗ, in xấu, nhưng vẫn rõ chữ. ở giữa trang đầu mặt sách có ghi 4 chữ “Kim Vân Kiều lục” , bên phải là dòng chữ “Đồng Khánh tam niên trọng xuân san khắc”, bên trái ghi “Quan Văn Đường tàng bản”. Cuốn sách không ghi tên tác giả, nhưng qua nghiên cứu và đối chiếu với các tư liệu của Trung Quốc cũng như cách hành văn thì có thể khẳng định đây là cuốn sách do người Việt Nam viết. Cụ Trần Văn Giáp cho rằng “Có lẽ đó là bản lược thuật lại truyện ở bản Trung Quốc và thêm thơ văn và là bản riêng của Việt Nam”(1). Còn nhà Hán học Trúc Khê - Ngô Văn Triện thì khẳng định “Quyển Kim Vân Kiều lục này do một nhà nho nước ta, áng chừng vào khoảng đời Tự Đức (1848 - 1883), đem quyển Kiều Nôm của cụ Nguyễn Du mà thoát dịch ra Hán văn”(2) và ông cho rằng người dịch chưa được đọc cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nếu đã đọc thì không làm cái công việc thừa ấy.

Nội dung cuốn Kim Vân Kiều lục bám sát trình tự diễn biến trong Truyện Kiều của Nguyễn Du kể từ lúc ông bà Vương viên ngoại sinh con cho đến lúc Kim Trọng gặp lại Thúy Kiều ở chùa và đưa nhau về nhà đoàn tụ. ở trang đầu có ghi bài thơ của Phạm Quý Thích (Hoa Đường Phạm tiên sinh tuyển thi nhất thủ). Nhiều đoạn trong Truyện Kiều được dịch ra văn xuôi chữ Hán rất sát và khá thanh thoát.

Chẳng hạn những câu:

Chàng Kim từ lạ thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.

được dịch là “Trọng hoàn chí thư đường, cơ hoa khát nguyệt, sầu tự bách ban, tích lục tham hồng, u hoài vạn lũ. Thán viết: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (Kim Trọng về đến phòng học, nhớ hoa trông nguyệt, ngổn ngang trăm mối, tiếc lục tham hồng. Than rằng: Một ngày chẳng thấy khác nào ba thu).

Hoặc đoạn:

Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu
Khen: tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này.

được dịch gọn lại là “Đề tất, Trọng xưng chi viết: Cổ sở vị Ban Tạ diệc bất quá thử” (Đề thơ xong, chàng Kim khen là nàng Ban, ả Tạ đời xưa cũng chẳng hơn được thế này), và đoạn sau đây dịch rất văn vẻ:

Than ôi, sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây !
Giá đành trên nguyệt trong mây,
Hoa sao hoa khéo đọa đầy mấy hoa.

“Vân trung nguyệt lạc, hải thượng hoa sinh; liên tai ! liên tai ! Y nhân hữu nhất đại tài hoa, phản vị phồn hoa sở luỵ” (trong mây trăng lặn, trên bể sinh hoa, thương thay! thương thay! Con người ấy có một đời tài hoa, mà lại bị đời phồn hoa làm lụy).

Đặc biệt trong bản Kim Vân Kiều lục có nhiều bài thơ ngâm vịnh, nhưng nội dung khác với lời thơ của bản Thanh Tâm Tài Nhân. Để chứng minh tôi xin nêu đây một vài bài để so sánh.

Bản Thanh Tâm Tài Nhân viết:

“... Vừa khấn vừa đốt hương rồi thụp ngồi trước mộ, bái xong bốn bái, nàng mới đề một bài thơ như sau:

色 香 呵 處 也
凭 吊 痛 心 哉
明 月 冷 鴛 被
暗 塵 封 鏡 臺
玉 雖 黃 土 瘗
名 未 白 雲 埋
尚 有 如 澠 酒
無 人 奠 一 杯

Sắc hương hà xứ dã ?
Bằng điếu thống tâm tai,
Minh nguyệt lãnh uyên bị,
ám trần phong kính đài.
Ngọc tuy hoàng thổ ế (oánh),
Danh vị bạch vân mai.
Thượng hữu như thằng tửu,
Vô nhân điện nhất bôi.

(Hương sắc còn đâu tá ?
Viếng thăm những chạnh lòng.
Chăn uyên đêm nguyệt lạnh,
Lớp bụi phủ gương trong.
Ngọc dẫu bùn đen lấp,
Danh chưa tuyết trắng phong.
Vì còn ao rượu đó,
Ai tế một tuần không.(3))

Bản Kim Vân Kiều lục:

“... Kiều đốt một bó hương trước mộ Đạm Tiên rồi lầm rầm khấn vái. Nàng lại rút trâm đề vào cây phù dung một bài thơ rằng:

泉 下 佳 人 知 也 無
紅 顏 誰 是 更 無 夫
落 雁 沉 魚 迷 客 思
青 風 明 月 觸 人 愁

Tuyền hạ giai nhân tri dã vô,
Hồng nhan thùy thị cánh vô phu.
Lạc nhạn trầm ngư mê khách tứ,
Thanh phong minh nguyệt xúc nhân sầu.

(Người đẹp suối vàng có biết không ?
Má hồng ai bảo ấy không chồng
Cá chìm, chim rớt mê lòng khách,
Trăng gió xui ai những não nùng(4))

Bản Thanh Tâm Tài Nhân:

“... nàng liền rút trâm ở trên mái tóc, vạch vào gốc cây một bài từ tạ như sau:

西 風 何 忽 起
陣 陣 使 人 哀
慘 切 如 含 怨
淒 清 似 有 懷
乘 鸞 疑 乍 去
跨 雁 雅 重 來
不 斷 香 魂 處
蒼 蒼 屐 印 苔

Tây phong hà hốt khởi,
Trận trận sử nhân ai.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê thanh tự hữu hoài.
Thừa loan nghi sạ khứ,
Khóa nhạn nhã trùng lai.
Bất đoạn hương hồn xứ,
Thương thương xỉ ấn đài.

(Gió tây đâu thổi tới,
Mỗi trận một cơn sầu.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê lương tựa nhớ nhau.
Hình oanh vụt biến trước,
Bóng hạc chợt về sau.
Gót ngọc rêu in tỏ,
Hương hồn mất đặng đâu. )

Bản Kim Vân Kiều lục:

“... Kiều nói: “Quỉ thần chẳng xa xôi, có thiêng là biết đến, chị đừng nề lấy lẽ âm dương, xin cùng chị kết nghĩa bạn bè.” Kiều lại đọc thơ tạ từ Đạm Tiên rằng:

靈 爽 不 知 何 處 死
依 然 千 古 凜 如 生

Linh sảng bất tri hà xứ tử,
Y nhiên thiên cổ lẫm như sinh.

(Hồn thiêng thác ở nơi đâu,
Ngàn xưa vẫn thế đẫm màu như sinh.)

Sau đây, thử so sánh 10 bài thơ đoạn trường trong bản Kim Vân Kiều lục và 10 bài từ tương ứng của Thanh Tâm Tài Nhân trong Kim Vân Kiều truyện:

· Kim Vân kiều lục:

Phiên âm:

1- Bạch thỏ tần tần thôi bạch phát,
Hồng quân cảnh cảnh oán hồng quần
Cổ kim duyệt tận tài hoa khách,
Đái đắc phồn hoa lụy thử thân.
2- Nhi nữ lân tai bất hạnh nhi,
Lân tai bất hạnh cánh phi thì.
Bản lai nguyệt tứ nhan đa hậu,
Phao đắc phương tâm sầu bất chi.
3- Vô đoan nguyệt lão oán hồng nhan,
Đả đắc hoa nhan kỷ độ tàn.
Ngũ dạ phong xung hương vị đoạn,
Tam canh tuyết bạc trúc âm hàn.
4- Thùy vị hoa hề sắc hữu hương,
Hữu hương vô sắc, sắc vô hương.
Vật oán hữu hương vô hữu sắc,
Khả lân hữu sắc cánh vô hương.
5- Du du bỉ thương thùy tạo nhân,
Hồng nhan hà tự cánh đa truân.
Chỉ đắc yêu kiều đao liễu mạch,
Uổng tương băng tuyết nhiễm hồng trần.
6- Hoa khai thu dạ hoa dung sấu,
Nguyệt lãng đông thiên nguyệt ảnh hàn.
Hoa nguyệt hoàn vi hoa nguyệt lụy,
Hoa tàn nguyệt khuyết kỷ khai nhan.
7- Tuế nguyệt thôi nhân tự thủy lưu,
Hồng nhan tại thế bạch vân phù.
Thúy mi hoàn thủ thiên nhân đố,
Bạc mệnh chung di vạn thế tu.
8- Kiều dung phận mệnh bạc như tiên,
Tiêu đắc phong quang hữu kỷ niên.
Vạn trận cuồng phong đao lục tiễu,
Kỷ phiên lãnh tuyết trích chu diên.
9- Xích thằng đoạn tục tần kinh mộng,
Đan kiểm khinh doanh lũ chức sầu.
Sầu tự du du tâm tự khổ,
Thiên cao hà xứ tố u sầu.
10- Tự cổ hồng nhan phóng đãng tâm,
Dã dung hoàn thị hối nhân dâm.
Hóa công vụ quả năng tương hậu,
Nguyệt lão vô đoan oán dĩ thâm.

Dịch thơ:

1- Tóc bạc phơ phơ với tháng ngày,
Trời sao oán hận má hồng đây
Khách tài hoa xưa nay xem kỹ,
Luống chịu phồn hoa thân phận này.
2- Thương thay gái trẻ lúc không may,
Không gặp được thì thương tiếc thay.
Dày dặn ý trăng từng vốn sẵn,
Lòng thơm xui khiến vẫn không gầy.
3- Trăng già không nhẽ oán hồng nhan,
Hành hạ mặt hoa mấy lúc tàn.
Gió thổi thâu đêm hương đã dứt,
Ba canh tuyết bám khóm tre khan.
4- Ai bảo hoa này sắc lại thơm,
Có thơm, không sắc, sắc không thơm.
Oán gì có thơm mà không sắc,
Có sắc tiếc thay lại chẳng thơm.
5- Xanh kia thăm thẳm đặt nguyên nhân,
Ai ấy má hồng chịu khổ truân.
Chỉ những yêu kiều lay liễu bá,
Uổng đem băng tuyết nhuốm hồng trần.
6- Đêm thu hoa nở dáng hoa gầy,
Nguyệt rạng trời đông lạnh giá thay.
Hoa nguyệt loanh quanh hoa nguyệt đó,
Nguyệt mòn, hoa lại mấy phen đây.
7- Năm tháng cứ như nước chảy xuôi,
Má hồng trên thế tựa mây trôi.
Loanh quanh gái đẹp ngàn người chán,
Mệnh bạc xui nên miệng thế cười.
8- Mệnh cô gái đẹp mỏng như tờ,
Vẻ sáng tiêu mòn chẳng giống xưa.
Muôn trận gió cuồng lay liễu biếc,
Mấy phen tuyết lạnh tự bao giờ.
9- Chỉ hồng đứt mối sợ chiêm bao,
Má đỏ thân hèn dệt mối sầu.
Mối sầu dằng dặc sầu như khổ,
Đâu chốn trời cao tỏ nỗi sầu.
10- Má hồng phóng đãng tự ngàn xưa,
Gương mẫu dạy người tránh bẩn nhơ.
Chưa hẳn trời xanh từng hậu đãi,
Trăng già không thể oán bao giờ.

· Kim Vân Kiều truyện:

1. Tích đa tài:
Tích đa tài, uyên tiên bất nhẫn tài,
Hợp hoan niên niên vi nhân phả,
Tự thân chỉ bả tương tư ai,
Tương tư ai, tích đa tài.
2. Lân bạc mệnh:
Lân bạc mệnh, dạ dạ thành cô lánh,
Kim ốc thường văn trữ a Kiều.
Thiên ta nhất diện nan kiểu hạnh,
Nan kiểu hãnh, lân bạc mệnh.
3. Bi kỳ lộ:
Bi kỳ lộ, dương trường khổ nan độ,
Lộ gian vị khổ nô tâm gian.
Nhất chiết sai thời thiên chiết ngộ,
Thiên chiết ngộ, bi kỳ lộ.
4. Ức cố nhân:
Ức cố nhân, nhãn kiếu bạch đầu tân,
Hà tằng tích túc vân tiêu thượng.
Nhận đắc bình sinh xa lạp chân,
Xa lạp chân, ức cố nhân.
5. Niệm nô Kiều:
Niệm nô Kiều, đối Kính đốn hồn tiêu,
Ngã kiến do nhiên tần thán tức.
Chẩm giao hồng phấn bất tương trào,
Bất tương trào, niệm nô Kiều.
6. Ai thanh xuân:
Ai thanh xuân, Kiều hoa tự mỹ nhân,
Chính thị thượng lâm xuân sắc hảo.
Nguyện bị phong vũ nhuận hoa thần,
Nhuận hoa thần, ai thanh xuân.
7. Ta kiển ngộ:
Ta kiển ngộ, hảo mộng đô tinh khứ,
Phi thị phùng nhân tiện khất lân.
Chỉ nhân bất thức chu môn lộ,
Chu môn lộ, ta kiển ngộ.
8. Khổ linh lạc:
Khổ linh lạc, nhất thân vô xứ trước,
Lạc hoa từ thụ bạch đông tây.
Cô nhạn thất sào nhiễu liêm mạc,
Nhiễu liêm mạc, khổ linh lạc.
9. Mộng cố viên:
Mộng cố viên, qui hồn thùy khẳng viện,
Tùng cúc cựu lư đô bất thức.
Bạch vân phương thảo mặc vô ngôn,
Mặc vô ngôn, mộng cố viên.
10. Khốc tương tư:
Khốc tương tư, cách yết dĩ đa thì,
Tâm thống hữu thanh, nhẫn bất trụ.
Tình thâm cố thổ hốt thương bi,
Hốt thương bi, khốc tương tư.

Lời dịch:

1. Tờ oanh nỡ bỏ hoài,
Hợp hoan ngày tháng phả cho ai?
Riêng mối tương tư vẫn kéo dài,
Vẫn kéo dài, tiếc đa tài.(5)
2. Đêm đêm mình hiu quạnh,
Nhà vàng nghe nói để át Kiều.
Một mặt nghe chừng khó hân hạnh,
Khổ hân hạnh, thương bạc mệnh.
3. Đoạn đường ruột dê khó,
Đường khó chưa bằng tâm thiếp khổ,
Một bước sai làm ngàn bước lỡ,
Ngàn bước lỡ, thương kỳ lộ.
4. Đầu bạc tình chưa thân,
Can gì trước phải lên vân hán.
Cưỡi xe đội nón mới là chân
Mới là chân, nhớ cố nhân.
5. Soi gương hồn biến đâu ?
Mắt thấy sao còn than thở mãi ?
Son phấn đừng nên diễu cợt nhau,
Diễu cợt nhau, nhớ nô Kiều.
6. Cành hoa giống mỹ nhân,
Xuân sắc núi rừng ôi đẹp đẽ!
Mưa xuân mượn rưới cánh hoa thần,
Cánh hoa thần, xót thanh xuân.
7. Một đẹp tỉnh rồi đó,
Nào phải gặp ai cũng kêu thương?
Chỉ vị lầu son lối chưa tỏ,
Lối chưa tỏ, than cảnh ngộ.
8. Thân này hết đường bước,
Lìa cành hoa rụng khắp đông tây.
Chiếc nhạn tan đàn quanh hiên trước.
Quanh hiên trước, khổ lưu lạc.
9. Hồn về cậy ai đưa?
Cảnh cũ cúc tùng đều bỡ ngỡ,
Cỏ thơm mây trắng lặng như tờ.
Lặng như tờ, mơ vườn xưa.
10. Ngào nghẹn đã nhiều khi !
Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc,
Tình thâm cố thở những sầu bi,
Những sầu bi, khóc tương tư.

Trong cuốn Kim Vân Kiều lục có nhiều thơ và câu đối, chiếm khoảng 1/3 cuốn sách. Đặc biệt có nhiều bài mang âm hưởng rõ rệt của thơ Đặng Trần Côn trong Chinh phụ ngâm. Ta hãy so sánh:

Tu du hề đối diện, khoảnh khắc hề phân ly,
Tương cố bất tương kiến, hà nhật thân u hoài.
(KVKL)

Tu du trung hề! đối diện;
Khoảnh khắc lý hề! phân trình.
......
Tương cố bất tương kiến…
(CPN)

Kim lang hề Kim lang, vân khứ hề lang biệt thiếp,
Vân qui hề thiếp tư lang...
(KVKL)

Vọng vân khứ hề! Lang biệt thiếp;
Vọng vân qui hề! thiếp tư lang.
(CPN)

Du du bỉ thương hề tạo đoan
Bỉ thương bỉ thương hề tạo nhân
(KVKL)

Du du bỉ thương hề! thùy tạo nhân
(CPN)

Nhìn chung, văn thơ trong cuốn Kim Vân Kiều lục tuy theo lối tập cổ, công thức, nhưng cũng có nhiều bài hay, tác giả đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo nguồn tư liệu trong thơ ca cổ điển của Trung Quốc để phục vụ cho nội dung tác phẩm của mình. Chẳng hạn bài thơ sau đây của Vương Quan trong bữa tiệc đoàn viên là một bài hay:

Tuần hoàn bả khán cổ nhân ngôn,
Bĩ thái nguyên lai họa phúc tồn.
Kỷ độ tinh di đồng vũ trụ,
Nhất triêu vân hợp cộng càn khôn.
Thời lai phong tống Đằng Vương các,
Phúc chí xuân hồi Triệu tướng môn.
Lưỡng tính ư kim đồng phúc khánh,
Cổ vân: hữu phúc khán nhi tôn.

(Quẩn quanh giữ mãi lời xưa,
Họa phúc bĩ thái bây giờ còn đây.
Sao dời vũ trụ vần xoay,
Một mai mây họp sách bày càn khôn.
Gác Đằng thuận nẻo gió vờn,
Xuân về phúc đến Triệu môn rỡ ràng.
Phúc nhà hai họ vẻ vang,
Xưa rằng: có phúc xem đàn cháu con)

Tuy chưa xác định được ai là tác giả cuốn Kim Vân Kiều lục, nhưng theo chỗ chúng tôi biết thì đây là cuốn truyện Kiều bằng văn xuôi chữ Hán duy nhất do người Việt Nam viết dựa vào cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Nhân tiện chúng tôi cũng xin nói thêm là trong cuốn Nguyễn Du - người tình và Nguyễn Du - tình người(6) GS. Bùi Văn Nguyên cho biết gia đình ông có cuốn Kim Vân Kiều tân truyện bằng chữ Hán của Tiên Điền Phạm Quý Thích soạn, mở đầu là bài thơ cách luật bằng chữ Hán của Phạm Quý Thích. Cuốn sách chép tay năm Khải Định thứ 3 (1918). Ông viết “Với cùng một nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân, trong khi Nguyễn Du phóng tác thành văn lục bát bằng Quốc âm, thì Phạm Quý Thích lại viết thành một bản tóm tắt bằng chữ Hán...” (Sdd. tr.127). Như vậy cuốn Kim Vân Kiều tân truyện mà Bùi Văn Nguyên nêu lên có phải là quyển Kim Vân Kiều lục không, và tại sao lại đề tên người soạn là Tiên Điền (?) Phạm Quý Thích. Trong bản Kim Vân Kiều lục khắc in vào các năm 1876, 1888 và 1896 cũng như một số bản chép tay mà chúng tôi đã được xem ỏ TVQG và TVHN đều không ghi tên người soạn, nhưng mở đầu vẫn có bài thơ “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường” như hầu hết trong các cuốn truyện Kiều bằng chữ Nôm trước đây. Do đó chưa có cơ sở để kết luận Phạm Quý Thích là tác giả cuốn Kim Vân Kiều lục.

18.7.2000

CHÚ THÍCH

1. Tìm hiểu kho sách Hán-Nôm, T.II. Trần Văn Giáp, Nxb. KHXH, 1990.

2. Tạp chí Tri Tân số 1

3. Lời dịch thơ trong bản TTTN là của Tô Nam Nguyễn Đình Diễm.

4. Lời dịch thơ của bản KVKL là của Nguyễn Bang Hiến.

5. Tiếc đa tài: đây nhắc lại tên của “từ bài” ở đầu bài từ, lẽ ra không nên dịch. Bên dưới, thỉnh thoảng chúng tôi có dịch, cũng chỉ là cốt để ăn nhập với nội dung bài thơ dịch, giúp bạn đọc dễ hiểu mà thôi.

6. Nxb. KHXH, Nxb. Mũi Cà Mau, 1992.

TB

TẤM BIA ĐỜI LÝ VIẾT VỀ
LƯU KHÁNH ĐÀM

LÂM GIANG

Năm 1999, trong lần sưu tầm tài liệu Hán Nôm tại thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, chúng tôi phát hiện tấm bia mộ của Thái phó Lưu Khánh Đàm (1093-1161), đời Lý.

Trong tập Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (viết tắt: Văn khắc), tập 1, (Paris - Hà Nội, 1998), có đăng nguyên văn bia này theo bản chép tay của Lý trưởng Trần Văn Chuyển chép vào đầu thế kỉ này, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (kí hiệu A.1027). Như vậy, Văn khắc chỉ có bản sao, không có nguyên thác bản của bia (tr.199).

Tấm bia mới phát hiện lần này dựng ở giữa lăng mộ Thái phó Lưu Khánh Đàm, trên cánh đồng làng Lưu Xá luôn bị ngập nước về mùa mưa. Lăng xây hình lục giác, qui mô nhỏ, để 2 cửa ở 2 phía có mặt bia quay ra, có thể chui vào đọc bia và thắp nhang. Chúng tôi đã rập thác bản đưa về lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Bia chưa có kí hiệu thư viện).

Đây là tấm bia 2 mặt. Mặt 1 có tên là: Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí 皇 越 太 傅 劉 君 墓 誌. Bài văn bia không ghi niên đại và tên người soạn; khổ bia 95x48cm, gồm 14 dòng, 422 chữ. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, riêng đầu đề bia khắc bằng chữ triện, không hoa văn trang trí. Nội dung của bia nói về thân thế và sự nghiệp của Thái phó Lưu Khánh Đàm (Văn khắc, tr.201).

Mặt 2 của bia có tên: Trùng bốc triệu bi 重 卜 兆 碑, khắc năm Thành Thái thứ 16 (1904), không ghi tên người soạn. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, không hoa văn trang trí. Nội dung mặt bia này nói về việc bốc chuyển lăng mộ Lưu Khánh Đàm từ ngoài bờ sông Luộc vào cánh đồng bãi trong đê. Bia tả khá kĩ về hiện trạng ngôi mộ khi đào lên, và việc chuyển táng, xây lăng mới v.v. y như lăng cũ.

Cách lăng Lưu Khánh Đàm khoảng 50 đến 60 mét, còn có một lăng nữa, có hình dáng như lăng Thái phó, cũng xây theo kiểu hình lục giác, nhưng qui mô nhỏ hơn một chút. Trong lăng cũng có một tấm bia, có tên: Lưu Xá Báo Quốc tháp tự 劉 舍 報 國 塔 寺. Bia không ghi năm tạo, toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, không hoa văn trang trí, cho biết: Nhà sư trụ trì tại chùa Báo Quốc, xã Lưu Xá viết lại. Rằng đây là bia tại lăng mộ ông em vị Thái phó, hai anh em ông có công dẹp giặc Tống. Vì bốn phía lăng mộ là ao đầm, dòng nước chảy, trâu bò giày đạp, tháp bị hủy hoại, nên phải xây lại tháp mới. Văn bia còn cho biết, bia tháp này khắc lại trên nền bia cũ khắc ngày 25 tháng 8 năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 (?). Có lẽ do lăng đổ nát, bia lộ ra ngoài trời mà chữ đã mờ, chỉ còn đọc được đôi chỗ, nên không thể khắc lại thật đúng như nguyên văn bia cũ. Thí dụ bia ghi “năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ 3”, thực ra, năm Canh Tuất là niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), còn niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 là năm Nhâm Tý (1012).

Như vậy, lăng ông em vị Thái phó, vẫn ở chỗ cũ, chỉ xây lại tháp, khắc lại bia với lời văn của nhà sư trụ trì tại chùa Báo Quốc, không phải khắc lại nguyên văn bia cũ. Hiện nay xung quanh tháp này vẫn còn những ao sâu, chúng tôi phải lội qua, chỗ nông nhất cũng tới thắt lưng mới vào tới lăng.

Xin nói thêm, tại Lưu Xá còn có ngôi chùa tên Báo Quốc, tương truyền do ông em vị Thái phó dựng. ở đây còn lưu giữ một quả chuông, bài văn khắc trên chuông đề năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798); một tấm bia gửi giỗ, tạo năm Thành Thái Quí Tỵ (1893); một bia trùng tu, có tên: Trùng tu Báo Quốc tự kí 重 修 報 國 寺 記, cho biết chùa Báo Quốc do ông họ Lưu dựng từ đời Lý… Điều này cắt nghĩa tại sao tấm bia mộ tháp ông em vị Thái phó lại được một vị sư trụ trì tại chùa Báo Quốc viết lại, và lấy tên Lưu Xá Báo Quốc tháp tự 劉 舍 報 國 塔 寺 (Chùa tháp Báo Quốc Lưu Xá).

Tại đền Lưu Xá, còn có tấm bia nhan đề Nhị Lưu Thái phó sự trạng kí do Ngô Dương Đình (tức Ngô Thế Vinh), người Bái Dương, tỉnh Nam Định, đỗ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỉ Sửu, niên hiệu Minh Mệnh (1829), soạn. Bia tạo năm Tự Đức thứ 8 (1855). Tác giả Ngô Thế Vinh ca ngợi công đức 2 vị Thái phó là Thái giám triều Lý, có công giúp rập nhà vua, lập công chống giặc Tống, được phong đến tước công, vì ông em không những có công với nước mà còn có công với dân, nên dân địa phương đã cùng ông xây chùa Báo Quốc.

Trở lại tấm bia tại lăng mộ Thái phó Lưu Khánh Đàm, bước đầu khảo sát, chúng tôi có thể tạm thời khẳng định đây nguyên là bia khắc từ thời Lý, vì:

- Trán bia trang trí bằng tên bia khắc theo lối tiểu triện, thường thấy ở một số bia đời Lý, 8 chữ “Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí” khắc theo hàng dọc, hai chữ một, từ phải sang trái.

- Chữ trên bia khắc vừa phải, nét đậm, sâu, khác hẳn chữ khắc ở mặt sau, khắc năm Thành Thái thứ 16 (1904), nét mảnh, nông.

- Khi chuyển lăng mộ (1904), Lí trưởng Trần Văn Chuyển đã chép lại toàn bộ bia này, và dị bản của nó hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (kí hiệu A.1027) mà Văn khắc đã dùng nó làm cứ liệu. Lí trưởng Trần Văn Chuyển chép lại khá chính xác và khá đầy đủ, tất nhiên cũng có chữ sót, nhưng không đáng kể.

- Do bia dựng ở giữa lăng, không bị mưa gió bào mòn, nguyên trạng gần như cũ. Có một số chữ bị mất hẳn hoặc mờ, do đá vôi bị ẩm ướt, vỡ ra từng mảnh vụn nhỏ, rất khó nhận ra, hoặc khó đoán định những chữ mờ mất nét ấy.

- Những chữ bị mất hoặc mờ ở nguyên thác bản mới in rập thì ở bản chép lại Lí trưởng Trần Văn Chuyển cũng bị lược bỏ. Những điều trên đây chứng tỏ rằng, tấm bia này là bia cổ, chưa từng khắc lại.

Sau đây, xin kê ra những chỗ chép sót, hoặc chép khác với thác bản mới sưu tầm, nhằm củng cố thêm cho nhận định trên.

Trước hết xin gọi bản sao của Lí trưởng Trần Văn Chuyển, 1904 (A.1027) mà Văn khắc dùng làm cứ liệu là Bản A. Thác bản mới sưu tầm tại Lưu Xá là Bản B. Sự khác nhau giữa hai bản cụ thể như sau:

1. Mở đầu bài văn bia, Bản A chép thừa 2 chữ “Hoàng Việt”: Hoàng Việt quang lộc đại phu 皇 越 光 祿 大 夫. Vốn trong nguyên văn (Bản B) chỉ chép: Quang lộc đại phu 光 祿 大 夫.

2. Dòng 2: Thái úy quốc công [gia Thái phó] 太 尉 國 公 [加 太 傅], 3 chữ “gia Thái phó” vốn có trong Bản A (tức bản chép năm 1904), trong nguyên văn (tức Bản B, thác bản mới in rập) bị mất.

3. Dòng 3: “Hữu Huy Triết Công tức lữ vu khách quán yên 有 徽 哲 公 旅 于 客 館 焉. Bản A chép thiếu chữ “tức” 即, Văn khắc đã thêm vào đúng chữ “tức 即” .

Hữu Huy Triết công tức [lữ vu] khách quán yên 有 徽 哲 公 即 [旅 于] 客 館 焉, 2 chữ “lữ vu” mới bị mất gần đây, vì có trong Bản A.

4. Dòng 4: “Sung vu nội phụng chi mâu充 于 內 奉 之 侔”. Bản A chép chữ nội phụng 內 奉 thành nội thị 內 侍.

5. Dòng 5: “Thâm hạnh dị mộc hồng ân 深 幸 異 沐 洪 恩” . Bản A chép chữ thâm hạnh 深 幸 thành chữ phi đặc 非 特.

6. Dòng 7: “Để ưng tứ thế, minh phụng xương triều 應 四 世 , 明 奉 昌 朝”. Bản A chép thiếu chữ để .

7. Dòng 8: “Phân ưu phân đạo, khánh hiệp đồng hoài 分 憂 分 道 , 協 同 懷”. Bản A chép thiếu chữ khánh .

“Tá thế hề cực thế vinh quang 佐 世 兮 極 榮 光”. Bản A chép thiếu chữ thế . Văn khắc thêm vào đúng chữ thế .

8. Dòng 10: Thán nhân sinh chi [tu ước, hệ] lương bật chi phận sự 嘆 人 生 之 修 約 , 係 良 弼 之 分 事. 3 chữ “tu, ước, hệ” mới mất gần đây, vì có trong Bản A.

9. Dòng 11: Sau câu “Tinh thần tại thiên hề anh linh 精 神 在 天 兮 英 靈”, mất 2 chữ, mờ 12 chữ, chỉ còn đọc được 2 chữ du dương 悠 揚, Bản A bỏ hẳn đoạn này, và chép tiếp “kim lô vi điện hề hương phức úc 金 爐 為 奠 兮 香 馥 郁”; vì bỏ đoạn bị mờ, nên thiếu hẳn 2 câu, chỉ chép:

Phát phu qui địa hề thanh lãnh; 髮 膚 歸 地 兮 清 冷 ;
Tinh thần tại thiên hề anh linh. 精 神 在 天 兮 英 靈 .
Kim lô vi điện hề hương phức úc; 金 爐 為 奠 兮 香 馥 郁;
Ngọc chi tam điện hề lệ thành huyết. 玉 卮 三 奠 兮 淚 成 血 .

Nguyên văn đoạn này viết rất đăng đối: 2 câu đầu mỗi câu 7 chữ, 4 câu sau, mỗi câu 8 chữ, như sau:

Phát phu qui địa hề thanh lãnh: 髮 膚 歸 地 兮 清 冷 ;
Tinh thần tại thiên hề anh linh: 精 神 在 天 兮 英 靈 .
[ ] [ ] du dương [hề] [ ] [ ] [ ]: [ ] [ ] 悠 揚 [兮] [ ] [ ] [ ]:
[ ] [ ] [ ] [ ] [hề] [ ] [ ] [ ]: [ ] [ ] [ ] [ ] [兮] [ ] [ ] [ ]:
Kim lô vi điện hề hương phức úc: 金 爐 為 奠 兮 香 馥 郁;
Ngọc chi tam điện hề lệ thành huyết: 玉 卮 三 奠 兮 淚 成 血 .

10. Bài minh cuối bia, chép thiếu 2 câu: Câu 3: “Trụ quốc chi liệt, 柱 國 之 烈”, câu 6: “Thất thập lão thành 七 十 老 成”.

Chính vì chép thiếu như vậy nên bài minh gieo vần lộn xộn, ý nghĩa không mạch lạc. Bản A chép như sau:

Bang quốc thăng bình, 邦 國 昇 平 ,
Thôn  can thành. 村  干 城 .
Lương bật chi đình, 良 弼 之 庭,
Bán thiên gian thế 半 千 間 世 .
Hạn chung  , 限 終  ,
Lược kí phương danh. 記 芳 名 .
Tân Tị trọng đông, 巳 仲 冬 ,
Nhập tư mộ oánh. 茲 墓 瑩 .
Hương hồn diểu diểu hề tư trường tại, 魂 杳 杳 兮 斯 長 在 ,
Thanh chủng trầm trầm hề tư hữu linh. 冢 沉 沉 兮 斯 有 靈 .

Đọc những câu trên, đủ thấy cách gieo vần không ổn, 3 câu đầu đều gieo vần bằng. Sau đây là bài minh chép theo Bản B:

Bang quốc thăng bình, 國 昇 平 ,
Thôn  can thành. [] 干 城 .
Trụ quốc chi liệt, 國 之 烈 ,
Lương bật chi anh. 弼 之 英 .
Bán thiên danh thế, 千 名 世 ,
Thất thập lão thành. 十 老 成 .
Hạn chung  , 終 [ ],
Lược kí phương danh. 記 芳 名 .
Tân Tị trọng đông, 巳 仲 冬 ,
Nhập tư mộ dinh. 茲 墓 營 .
Hương hồn diểu diểu hề tư trường tại, 魂 杳 杳 兮 斯 長 在 ,
Thanh chủng trầm trầm hề tư hữu linh. 冢 沉 沉 兮 斯 有 靈 .

Câu: “Lương bật chi anh 良 弼 之 英”. Bản A chép “Lương bật chi đình 良 弼 之 庭”. Bản A thay chữ “anh 英” bằng chữ “đình 庭”.

Câu: “Bán thiên danh thế 半 千 名 世 Bản A chép “Bán thiên gian thế 半 千 間 世”. Bản A thay chữ “danh 名 ” bằng chữ “gian間”.

Câu “nhập tư mộ dinh 入 茲 墓 營”, Bản A chép: “Nhập tư mộ oánh 入 茲 墓 瑩”. Bản A thay chữ “dinh 營” bằng chữ “oánh 瑩”. Chữ “oánh” gieo vần trắc, không đúng luật thơ.

Qua việc so sánh trên đây, thấy rõ Lí trưởng Trần Văn Chuyển đã chép lại bia khi di chuyển tháp mộ Lưu Khánh Đàm, nhất là gặp đoạn chữ mất và mờ, không đọc được ông đã lược bỏ đi; những sai sót còn lại, không đáng kể. Những chỗ sai sót ấy, còn có thể do người sao lại từ bản sao của Lí trưởng Trần Văn Chuyển để đưa về Hà Nội lưu trữ.

Cũng xin nói thêm, thác bản in rập lần này, vì vướng bát hương thờ xây sát phần đáy, chỗ giữa bia, nên bản rập phải bỏ lại mấy chữ, không in rập được. Khi so sánh, chỗ này hoàn toàn theo như Bản A.

Hà Nội, tháng 8 năm 2000

TB

CHUÔNG CHÙA KHÁNH LÂM

NGUYỄN DUY HỢP
NGUYỄN XUÂN SÁU

Khánh Lâm là tên của chùa Chằm thuộc hai xã Mão Điền và Mão Điền Đông, huyện Siêu Loại, nay là xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Chùa làm vào năm nào không rõ, đến năm Giáp Tí, niên hiệuVĩnh Tộ thứ 6 (1624) đời Lê được trùng tu lớn. Đợt trùng tu này có sự đóng góp của Trịnh Lệ (con chúa Trịnh Tùng, em chúa Trịnh Tráng) với chức danh Thắng Nghĩa dinh Phó đô tướng, Bắc quân đô đốc phủ Tả đô đốc, Chưởng phủ sự, Thái bảo, Quỳnh quận công và Vũ Linh người bản xã với chức danh Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ ti Đô chỉ huy sứ, Chính phú hầu. Liền trong mấy năm, chùa được dựng lại khá khang trang. Bài minh trên bia đá khắc vào dịp khánh thành, tạo năm Bính Dần (1626) mô tả cảnh chùa có câu:

Tự danh viết Khánh,
Địa chiếm thanh u.
Tam thiên thế giới,
Cứ cố bản đồ.
Bắc lâm thụy cảnh,
Nam đạt tiên cù.
Tả sơn cấn nhiễu,
Hữu thủy đoài lưu.

Dịch nghĩa:

Chùa tên là Khánh,
Phong cảnh thanh u.
Ba nghìn thế giới,
Bốn cõi bản đồ.
Bắc vào xóm đẹp,
Nam đến đường to.
Bên phải nước cuốn,
Bên trái núi phô.

Người viết đã dụng công chơi chữ Khánh, Lâm, Thụy để chỉ phía bắc chùa Khánh Lâm có làng Thụy Mão.

Trong các di văn của chùa, ngoài tấm bia Vĩnh Tộ nói trên, đáng chú ý còn có bia Hậu, tạo năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) và Chuông chùa đúc năm Gia Long thứ 2 (1803) mà bài viết này sẽ giới thiệu.

Chuông chùa Khánh Lâm cao 1,54m (kể cả quai), đường kính miệng chuông 72cm. Đôi rồng áp lưng vào nhau, miệng ngậm viên ngọc, hai chân trước quỳ xuống, thân uốn cong, đuôi vồng lên tạo thành quai treo.

Thân chuông chia làm bốn phần, mỗi phần cách nhau bằng ba đường chỉ chạy suốt từ trên xuống đến vú chuông. Bốn vú chuông phân đều bốn mặt. Riêng hai mặt Nam và Bắc đối diện, mỗi mặt thêm một vú nữa bên dưới, tạo thành sáu vú tất cả. Sáu vú chuông kích thước bằng nhau, mỗi vú đường kính 12cm, chung quanh chạy 33 hạt lựu. Bốn phần của thân chuông mỗi phần lại chia làm hai ô được chạy hoa văn chữ triện và đường hoa thị (xxx) chung quanh. Ô trên hình chữ nhật đứng, ô dưới hình chữ nhật nằm. Bốn ô trên, mỗi ô có một chữ lớn theo trình tự: Khánh, Lâm, Tự, chung. Bốn ô dưới là bốn bức tranh cảnh rùa bơi trong hồ sen, phượng càm thư, cá hóa rồng, rồng phun nước, tạc trên nền gấm, có hoa lá sen, mây bay, sóng nước và cua giơ càng rất sinh động.

Bài minh được viết ở ô trên thứ nhất, dưới chữ khánh, nét chữ chân phương, khắc sâu, gồm 28 dòng, mỗi dòng chừng 30 chữ, nhưng không ghi tên tác giả.

Dưới đây là bản dịch đoạn văn bài minh đó:

CHUÔNG CHÙA KHÁNH LÂM

Thường nghe rằng tiếng chuông có tác dụng rất mạnh mẽ. Bởi vậy, tiếng chuông tác động đến tai người nghe mà cảnh tỉnh những chúng sinh mê muội, nhắc họ làm việc phúc để được đến nơi chính giác.

Chùa Khánh Lâm của hai xã Mão Điền và Mão Điền Đông thuộc huyện Siêu Loại, từ xưa đã có quả chuông lớn, do những người Đàn na(1) đem của cúng dàng đúc nên. Chuông được treo trên một cái xà ngang vững chắc. Trải qua nhiều năm, chuông vốn bị rè lại thêm han rỉ ngày một ăn loang lổ, làm cho mất hẳn tiếng. Vắng tiếng chuông, cửa Thiền càng thêm cô liêu, tịch mịch. Không ai bảo ai mà Phật tử, từ các viên mục kỳ lão trong làng đến khách thiện tín ở mười phương đều muốn gia ơn trùng tu quả phúc. Mọi người hội họp đông đủ, mua sắm đồng đỏ và sáp trắng sẵn sàng. Kẻ tu hành đọc kinh cầu nguyện. Bọn con hát dâng nhạc làm vui. Sau đó khấn thần Lửa, đốc thợ khéo, thổi bễ lớn nấu đồng. Nhờ có Thần thiêng giúp rập, ban cho tài lộc mà chỉ nháy mắt đã đúc xong quả chuông. Bữa đó nhằm ngày 14 tháng Ba năm Quý Hợi (1803) vậy. Đúc xong, tháo bỏ khuôn cốt thấy chuông lộ ra đẹp đẽ hoàn toàn như ý muốn. Thân chuông không pha lẫn tạp chất, tròn nhẵn, láng bóng. Vú chuông và các đường triện, hoa văn nổi rõ, sắc nét. Tiếng chuông ứng theo luật âm thanh. Càng treo cao, càng vang xa. Đánh to tiếng kêu to; đánh nhỏ tiếng kêu nhỏ. Nhân ngày lạc thành, người ta nhờ tôi làm bài tựa, tôi vui vẻ nhận lời.

Ôi, Trời Đất lấy tiếng sấm cổ động vạn vật, Thánh nhân lấy tiếng nhạc giảm bớt nỗi sợ hãi tám khổ(). Phàm ta lấy tiếng chuông nhắc nhở những điều trọng yếu. Xem thế thì tạo hóa, thần linh và con người chẳng đâu coi nhẹ tiếng (thanh) vậy!

Tuy nhiên Phật vô tâm mà chuông thì có tiếng. ở chỗ động tĩnh tương hàm(3) chính là Đạo vậy. Nhưng Đạo vốn không có khí, chẳng có hình, cho nên phải mượn tiếng chuông để nuôi dưỡng chân tâm, đạt tới nguyên khí. Cất lên tiếng Nhân rộng lớn, mở ra cho mọi người hiểu lẽ huyền vi, tiếng chuông do đó có nghĩa sâu xa lắm vậy. Há chẳng thấy từ dưới vạn nấm mồ đến trên chín tầng mây, nghe tiếng chuông mà rung động đó sao!

Chuông chùa ta đây cũng không ra ngoài cái mạch chung ấy, cũng nhằm lấy tiếng của âm thanh giúp cho những người còn lờ mờ, những kẻ ngu ương, đơn bạc mau chóng hồi thuần, những kẻ ngu si đổi lỗi theo điều thiện để được hưởng cái vui vẻ, ấm áp. ấy là cách khả dĩ đưa chúng sinh siêu thoát khỏi bể khổ, đường mê hạo kiếp(4).

Một đời làm việc Nhân là để phúc dày mãi mãi. ấy là việc làm của người đáng tôn sùng. ấy là phúc quả tròn đầy vậy.

Làm việc Thiện được hưởng Phúc đó là lẽ tất nhiên. Thiện làm càng nhiều thì Phúc càng bền chắc. Ai làm việc Thiện vào bất kỳ ngày nào, ở bất kỳ nơi nào thì Trời sẽ trả Phúc cho người ấy nhiều như số cát sông Hằng(5) vậy. Há chẳng đúng như lời cổ ngữ “Cầu được ước thấy” vậy sao!

Xin kính cẩn mượn bút viết làm bài tựa.

Hoàng triều Gia Long năm thứ hai, ngày tốt tháng Ba, Quý Hợi (1803).

Sưu tầm và phỏng dịch
Nguyễn Duy Hợp - Nguyễn Xuân Sáu

CHÚ THÍCH

(1) Đàn na: tín đồ Phật giáo thường xuyên đem của cúng vào nhà chùa.

(2) Tám khổ: tám nỗi khổ: sinh, lão, bệnh, tử, yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải ở với nhau…

(3) Động tĩnh tương hàm: ý nói âm dương hòa hợp với nhau.

(4) Hạo kiếp: danh từ nhà Phật, chỉ thời gian rất dài, sinh sinh hóa hóa của con người và vũ trụ.

(5) Sông Hằng: một con sông lớn ở ấn Độ.

TB

HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ XXXVI VỀ NGHIÊN CỨU CHÂU Á VÀ BẮC PHI, TỔ CHỨC TẠI MONTREAL, CANADA

Từ ngày 27 tháng 8 đến 2 tháng 9 năm 2000, tại hội trường Palais des Congress, Montreal, Canada, đã diễn ra cuộc Hội thảo quốc tế về Nghiên cứu Châu á và Bắc Phi (XXXVIth International Congress of asian and North african Studies, ICANAS). Đại học Montreal là đơn vị chủ trì cuộc họp lần này.

Tham dự Hội thảo có rất nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về châu á và các nước Bắc Phi, đến từ rất nhiều quốc gia trên hành tinh. Cuộc họp đã đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, lịch sử và chính trị,... Ngoài hai phiên toàn thể (Khai mạc và Bế mạc), Hội thảo được chia thành 19 ngành nghiên cứu với 258 tiểu ban, tập trung thảo luận 1314 tham luận.

Một số chủ đề đã được thảo luận sôi nổi trong cuộc họp là:

1) Nghiên cứu ấn Độ và Hindi.

2) Nghiên cứu Đạo Phật với các vấn đề cụ thể như: Đạo Phật và xã hội; Đạo Phật và đạo đức trong môi trường toàn cầu; Tín ngưỡng Đạo Phật và thực hành; Tiếp xúc, ảnh hưởng và việc đồng hóa trong giao lưu Trung Hoa - ấn Độ và văn minh châu á, ... Nghiên cứu Đông Nam á với các vấn đề cụ thể như: Nghiên cứu về phụ nữ; Vấn đề xây dựng nền dân chủ ở các nước Đông Nam Á; Xã hội và văn hóa Đông Nam á; Vấn đề toàn cầu hóa và chiến lược phát triển ở Đông Nam á; Các dân tộc thiểu số ở Đông Nam á; Xã hội Việt Nam và sự phát triển; Diện mạo văn hóa Việt Nam đương đại; Bản sắc văn hóa Đông Nam á; Quan hệ quốc tế và giao lưu văn hóa ở Đông Nam Á, ...

3) Nghiên cứu Nhật Bản với các vấn đề: Diện mạo của xã hội và văn hóa truyền thống Nhật Bản; Nhật hóa từ thời cổ đại đến thời hiện đại; Quan hệ quốc tế; Ngôn ngữ; Thơ ca; Tiểu thuyết; Chính trị; Mạng lưới trí thức và sản phẩm văn hóa đầu thế kỷ XIX ở Nhật Bản, ...

4) Nghiên cứu Trung Quốc với các vấn đề: Xây dựng và xây dựng lại vị thế của trí thức trong xã hội Trung Quốc từ năm 200 đến năm 2000; Quyền lợi và luật pháp của người Trung Quốc; Thơ ca cổ đại ở Trung Quốc; Chiến tranh ở Trung Quốc; Kiến trúc Trung Quốc; Ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại; Ngôn ngữ Trung Quốc hiện đại; Triết học Trung Quốc hiện đại và đương đại; Đạo Lão; Những truyền thuyết của Trung Quốc cổ đại; Các văn bản đạo Lão; Diện mạo của triết học Trung Quốc truyền thống; Việc phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; Quan hệ thương mại và văn hóa Trung Quốc; Tôn giáo Trung Quốc hướng tới thế kỷ XXI: Đạo Lão và Tôn giáo Trung Quốc; Địa lý và lịch sử Trung Quốc; Tôn giáo Trung Quốc hướng tới thế kỷ XXI: Di sản tư tưởng Trung Hoa; Triết học Trung Quốc cổ đại; Quan hệ chính trị ở Trung Quốc, ...

Nghiên cứu về Việt Nam, có 5 thành viên tham dự Hội thảo. ở tiểu ban Xã hội Việt Nam và sự phát triển: ông Lê Bình (Việt Kiều Mỹ) trình bày về Cấu trúc thông tin hiện đại cho các nước Đông Dương và Bà Trần Hoàng Hạnh (Việt Kiều Canada) trình bày tham luận nhan đề Niềm hạnh phúc trẻ thơ (nói về sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ với trẻ em cơ nhỡ Việt Nam); Tại tiểu ban Nghiên cứu phụ nữ: Bà Nguyễn Thị Hạnh (cán bộ dự án của tổ chức SIDA, hiện đang theo học tại Đại học Montreal, Canada) trình bày tham luận về Phụ nữ Hà Nội với phong trào “làm xanh, sạch, đẹp thành phố” và Tiến sĩ Trần Thị Liên (Việt Kiều Pháp) trình bày tham luận giới thiệu gương mặt Henriette Bui - Việt Kiều Pháp là nữ bác sĩ đầu tiên đạt giải thưởng y học tại Pháp; ở tiểu ban Diện mạo văn hóa Việt Nam đương đại: Thạc sĩ Chu Tuyết Lan (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) trình bày tham luận về vấn đề Bang giao giữa Việt Nam và phương Tây trong triều Nguyễn. Cũng tại tiểu ban này, các học giả nước ngoài đã sôi nổi tham gia vào phần thảo luận xung quanh vấn đề ảnh hưởng và tác động của văn hóa phương Tây với xã hội Việt Nam và một vài vấn đề liên quan đến triều Nguyễn, ...

Hội thảo được tổ chức ba năm một lần, lần lượt tại các quốc gia khác nhau, đã tạo cơ hội tốt cho các học giả từ khắp nơi trên thế giới đến để gặp gỡ, trao đổi và xúc tiến hợp tác nghiên cứu. Đặc biệt tại phiên Bế mạc, có nhiều học giả danh tiếng trên thế giới đã trình bày về vấn đề toàn cầu hóa và bàn về những giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa ở mỗi quốc gia trong thiên niên kỷ mới.

C.T.L

TB

LỄ KỶ NIỆM 765 NĂM SINH VÀ 745 NĂM MẤT
TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN

Ngày 9 tháng 9 năm 2000 tại di tích Văn miếu – Quốc tử giám ,hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với Trung tâm hoạt động Văn hóa Khoa học Văn miếu – Quốc tử giám và Ban liên lạc dòng họ Nguyễn Hiền tổ chức lễ tưởng niệm và sinh hoạt lịch sử nhân dịp kỷ niệm 765 năm sinh và 745 năm mất Trạng nguyên Nguyền Hiền.

Nguyễn Hiền (1235 – 1255) người xã Dương A, huyện Thượng Hiền, nay là thôn Dương A thuộc xã Nam Thắng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính Bình 16 (1247), đời Trần Thái Tông.

Nguyễn Hiền là hiện tượng đặc biệt trong lịch sử khoa cử Việt Nam, thi đỗ Trạng nguyên ông mới 13 tuổi. Các thư tịch cổ cũng như truyền thuyết dân gian còn kể lại nhiều câu chuyện về tài học, tài ứng đối của thần đồng Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Công, nhưng mất sớm khi mới 21 tuổi.

Các bài tham luận đã đi sâu tìm hiểu thân thế sự nghiệp, phương pháp học tập cũng như trí thông minh đặc biệt của Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Nhiều tham luận nêu bật đây là tấm gương và là niềm tự hào của các thế hệ học trò Việt Nam.

N.T.L

TB

VĂN KHẮC VÀ SỬ LIỆU LÀNG XÃ. DIỄN ÂM, DIỄN NGHĨA, DIỄN CA VÀ DIỄN TỰ

VƯƠNG TIỂU THUẪN

LTS: Trên Tạp chí Hán Nôm số 3 - 2000, chúng tôi có đăng bài “Tiểu thuyết và truyện thơ cổ Việt Nam” của Vương Tiểu Thuẫn. Nay xin đăng tiếp 2 bài nữa, cũng trích từ “Việt Nam phỏng thư trát ký” của ông, để bạn đọc tham khảo.

Trong cổ tịch Việt Nam, điển tịch tương ứng với loại kim thạch thuộc Sử bộ của Trung Quốc, chủ yếu là một số văn hiến văn khắc. Nếu phân loại thì có 6 loại: một là bia thành cổ, như Hà Nội thành bi ký; hai là bia Phật tích, như Chùa Sở Phật tổ di tích bi; ba là bia từ đường, như Thượng thư Tể tướng công từ đường bi ký; bốn là bia ma nhai, như Ma nhai kỷ công văn; năm là bia xã thần, như Phù Cầm xã hậu thần bi ký; Độc Bộ xã thần từ bi ký tịnh biển sao lục; sáu là bia chùa, như Đọi Sơn bi ký; Bắc Ninh tự miếu bi văn. Trong đó số lượng nhiều nhất là bia chùa và bia xã thần. Khí hậu Việt Nam ẩm thấp, sách vở khó giữ gìn, cho nên văn bia có thể lấp chỗ trống về mảng sử liệu được ghi năm tháng từ buổi đầu. Chẳng hạn, văn bia khá sớm có Tùy Đại Nghiệp bi văn ghi chép tài học và gia thế của quan viên ở ái Châu (nay là tỉnh Thanh Hóa) vào năm 618 sau công nguyên; muộn hơn một ít có Đọi Sơn bi ký do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121, Ma nhai kỷ công văn, do Nguyễn Trung Ngạn soạn năm 1335. Bia ma nhai này khắc trên vách đá Mật Châu, ghi công nghiệp của Trần Minh Tông chinh phạt Ai Lao.

Nhưng đại bộ phận văn khắc Việt Nam, chưa được chỉnh lý thành sách, mà được bảo tồn với hình thức thác bản. ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 22.000 thác bản văn bia, do một nhóm nhỏ chuyên gia chỉnh lý. Phạm Thùy Vinh, tác giả của cuốn sách Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã cho tôi biết, thác bản văn bia vùng Kinh Bắc mà chị đã nghiên cứu có tới 1.063 tấm, đề cập đến 327 thôn của 17 huyện. Tôi xem qua số thác bản này, chúng khác với văn hiến văn khắc đã được in thành sách ở chỗ nội dung tiếp cận hơn với xã hội hạ tầng. Đây là sử liệu quan trọng để nghiên cứu làng xã cổ đại Việt Nam.

Theo tôi, sự phân biệt hai loại văn khắc như vậy vừa vặn tương ứng với sự phân biệt văn khắc hai nước Trung - Việt. Bởi vì, văn khắc cổ đại Trung Quốc chủ yếu là mộ chí. Có một sự thực rất rõ ràng: văn khắc là phương thức chuyển tải quan trọng của văn hóa lịch sử Việt Nam, phương thức ấy có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng chức năng của nó lại không hoàn toàn giống văn khắc Trung Quốc. Trong văn khắc Việt Nam, loại có tỷ lệ cao nhất là bia đình, bia từ đường, bia chùa quán, bia cầu, bia chợ, thường phản ánh hoạt động của tập thể chứ không phải là hoạt động của cá thể. Chẳng hạn, đình làng là vật tượng trưng làng xã (tương đương với miếu Thành hoàng ở Trung Quốc), thường là do các quan viên nghỉ hưu tổ chức xây dựng, văn bia khắc ghi chức hàm của người xây dựng, kết cấu làng xã và hệ thống tôn giáo. ở một số văn khắc khác, có thể thấy tư liệu kinh tế làng xã và tư liệu phong tục như: khế ước, luật lệ, thuế má, công ích v.v. Từ thế kỷ 16 trở đi, ở Việt Nam xuất hiện hiện tượng những người phụ nữ không có con đến đình, chùa “gửi giỗ”. Hiện tượng có ý nghĩa xã hội quan trọng này được phản ánh thông qua văn bia, do vậy nó trở thành điểm chú ý của người nghiên cứu.

Điều thú vị là, đặc điểm nói trên của văn khắc không phải tồn tại một cách cô lập, trong các sách thuộc Sử bộ, tương tự có thể thấy khá nhiều ghi chép liên quan đến hoạt động tập thể của các tầng lớp xã hội. Mặc dầu Việt Nam có rất nhiều điển tịch ghi chép về đế vương và việc quân quan trọng, xét từ góc độ mục lục học, chúng hình thành loại chính sử, biên niên, tạp sử, thông chế, chức quan, quân sự, chiếu lệnh tấu nghị v.v. nhưng xét từ góc độ sử học, tỷ trọng chất và lượng của cổ tịch Việt Nam đều thiên về một số bộ và loại giàu sắc thái lịch sử xã hội. Dưới đây xin giới thiệu 8 loại tiêu biểu:

1. Nghi chế: Nghi chế của triều đình cổ đại Việt Nam ít nhiều mô phỏng Trung Quốc, có tế tự trời đất, tế tự tổ miếu, cũng có các nghi thức quan, hôn, tang, tế. Nghi tiết tế tự bao gồm các khoản cầu phúc, cầu mưa, tế thần chủ, tế thủy thần v.v. Loại này bởi thế có thể quy về đối tượng nghiên cứu lễ nghi. Nhưng trong đó vẫn có hai loại thư tịch khác phong phú sử liệu xã hội: một là chế độ mệnh lệnh liên quan đến đền miếu địa phương, chẳng hạn như Bình An vương lệnh chỉ do Trịnh Tùng ban bổ vào năm 1559 (phê chuẩn 21 người quản lý đền thờ Đỗ Thiện đại đế Long Vương), Thanh Đô vương lệnh chỉ do Trịnh Tráng ban bố vào năm 1628 (phê chuẩn 12 người quản lý đền thờ Đỗ Thiện đại đế Long Vương Trung đẳng thần); hai là ghi chép hoạt động nghi thức phường hội địa phương, chẳng hạn như Hà Đông tỉnh Hoài Đức phủ Thượng Hội xã khảo dị, hoặc Hà Đông tỉnh Thượng Hội tổng khai hội nghênh thần ca khúc.

2. Công độc: Công độc chỉ giấy tờ hành chính của chính quyền các cấp. Việt Nam thời cổ đại, bộ phận chủ yếu của giấy tờ này là văn thư hành chính pháp luật của cơ cấu các cấp cơ sở. Chẳng hạn Hà Đông Hòe Thị các tích công văn thu thập các giấy tờ kiện tụng từ năm 1661 trở đi, Đa Hòa xã sức văn là đơn trình và sức văn liên quan đến việc thôn Phong Hòa thuộc xã Đa Hòa tách làm hai thôn; Đại Đồng xã cáo văn bao gồm 71 bài cáo văn quan phương liên quan đến lễ nghi của làng Đại Đồng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Phúc Yên; Vũ Liệt xã trình đơn là thư của bà con xã Vũ Liệt tố cáo một người đưa thi hài bố mẹ chôn trộm bên mộ Thượng đẳng thần, Ninh Thuận đạo Kinh Quản tổng Kinh Quản xã tập biên thu thập những giấy tờ như cáo thị, biển đề v.v., Vũ Liệt xã trường đệ nhất giáp Bùi Chu Giám mục tranh tụng từ thuộc hồ sơ pháp luật.

3. Hương ước: Đây là một trong những loại còn lại nhiều nhất trong sách thuộc Sử bộ, có tất cả hơn 120 cuốn. Có thể sơ lược phân chia 3 thể tài “khoán”, “ước”, “lệ”. “Khoán” là những quy định có liên quan đến sự việc thường ngày, chẳng hạn như Chùa nhất giáp khoán là những quy định tài vụ chi tiêu thường ngày có liên quan đến tế tự, hôn thú, yến ẩm, ruộng đất của thôn Kim Hoàng, làng Vân Canh, huyện Từ Liêm năm 1874; Mộ Trạch xã Cựu khoán là những quy định có liên quan đến thi đỗ, chức tước, giao thông, trị an, nông tang, kinh tế, chính trị ở xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Loại “Khoán” hiện còn hơn 10 tên sách: Cổ Ninh hương khoán, La Khê xã Bắc Đình giáp khoán, Văn Lâm Phạm tộc khoán cảo v.v. “Ước” chỉ quy ước chung do dân địa phương cùng nhau lập ra, nội dung thường liên quan đến quản lý hành chính. Nay còn hơn 20 tên sách, như:

Phú Khố xã hương ước, Trường Sơn thôn hương ước, Ngọc Đồng hương ước, Cao Xá xã Trung thôn hương ước, Đô Lương xã hương ước, Chi Nê xã hương ước, Bá Khê hương ước, Đông Trù kế hương ước, Đại Từ xã hương ước và Đông Viên thôn điều ước. “Lệ” còn gọi là tục lệ, là sự thể chế hóa tập quán hàng ngày, thường liên quan đến khen chê, thu chi, thuế má và lễ nghi phong tục. Trong số đó, niên đại khá sớm có Đông Thành huyện các xã thôn khoán lệ lập năm 1665, Danh hương khoán lệ lập năm 1666, Dương Liễu, Quế Dương, Mậu Hòa đẳng xã giao tục lệ, lập từ năm 1667 đến năm 1691, Hòe Thị thôn điều lệ lập năm 1720 đến năm 1886.

4. Điền đinh bạ: Sổ điền, đinh hiện còn khoảng hơn 40 tên sách. Tên gọi hoặc là “địa bạ” như Nông Cống huyện Mậu thân niên địa bạ (năm 1788), hoặc gọi “ điền bạ”, như Đông Ngạc Đông Nhị giáp điền bạ (năm 1795), hoặc gọi “đinh bạ”, như Vũ Liệt xã đinh bạ (năm 1800 trở đi). Loại văn hiến tương tự bao gồm sổ ghi tên quân sĩ tại ngũ và đã ra quân, như Vũ Liệt xã thần bạ soạn năm 1780; ngoài ra còn có các loại khế ruộng, soạn những năm từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, như Mại điền thổ khế văn, Cơ Xá Nguyễn Đăng Khôi phân điền từ, Vũ Liệt xã điền giới đơn, Kỳ Linh xã thuận nhận điền giới đơn, Đông Ngạc xã Phan Trọng Uyển khai điền đơn từ.

5. Sổ ghi công nợ: Danh mục sổ ghi công nợ cổ đại Việt Nam rất nhiều, thể lệ cũng khác nhau. Trong văn hiến hiện còn, có loại có con số thống kê làng, trấn, như Hải Đô đinh điền số mục viết năm 1911; loại ghi phẩm vật, như Vũ Liệt xã cung tiến ký từ viết năm 1880; loại có giấy ghi công nợ hoạt động tôn giáo, như Vũ Liệt xã khai thần sắc chi phí bạ viết năm 1848, Vũ Liệt xã cung tiến tu lý từ vũ thư viết năm 1868, Vũ Liệt xã lý tác hạ miếu chi tiêu bạ viết năm 1812; loại hồ sơ thu thuế, như Vũ Liệt xã nạp thuế biên nhận, Vũ Liệt xã thuế biên từ, Phương Lâm tỉnh đinh điền thuế lệ sao lục, Hoa Ngạc xã cổ thuế chỉ. Các loại sổ sách ghi công nợ khác có Khánh Hòa Vĩnh Xương Phương Sài thôn chu bạ sao ký, Vũ Liệt tổng nạp tài mộc bạ, Vũ Liệt xã cương tiền bạ, Vũ Liệt xã cựu đơn từ, Đông Ngạc xã Thổ Oa phường lưu chiếu từ, Khất lĩnh mễ văn v.v. đề cập đến nhiều khoản thu chi tập thể.

6. Giao từ, chúc thư và phân thư: Đây là loại văn thư chủ yếu trong dân gian Việt Nam. “Giao từ” đại loại như bây giờ gọi là giao kèo, “chúc thư” bây giờ gọi là “di chúc”. “Giao từ”, “chúc thư” hiện còn mỗi loại hơn 10 tên sách; niên đại tương đối sớm có Đông Ngạc xã Phạm tộc giao thư lập năm 1812 và năm 1875, Bộ La xã Thượng thôn Đông giáp giao lệ từ lập năm 1825, Đông Ngạc xã Nguyễn Bá Đa chúc thư lập năm 1844, Ngọc Than xã Nguyễn Thị Tốn chúc từ lập năm 1862. “Giao từ” còn được gọi là “giao hảo lệ”, “lệ bạ” như: Tử Dương Cống Xuyên lưỡng ấp giao hảo lệ, Đông Ngạc xã các giáp lệ bạ. (Giao kèo giữa các giáp trong xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Nội). “Phân thư” thường là cách gọi khác của chúc thư, như Đông Ngạc xã Phạm Gia An chúc thư còn có tên là Phạm tộc chúc thư hoặc Đông Ngạc xã Phạm Gia An phân thư, một loại di chúc mà nội dung thường là phân chia tài sản. Sự thực, phân chia tài sản cũng là nội dung của các loại giao kèo. Cho nên, trong cổ tịch Việt Nam có thể thấy “giao từ”, “phân thư”, “chúc thư” được dùng lẫn lộn. Như Phạm tộc giao từ là thỏa thuận phân chia tài sản của vợ chồng Phạm Quang Thăng; Vũ Liệt Tổng các xã giao từ là giấy biên nhận, văn khế của các xã trong tổng Vũ Liệt tỉnh Nghệ An; Chúc thư văn khế cựu chỉ tạp sao bản di chúc của Vũ Văn Bân làm năm 1747; chúc thư về ruộng đất của Trương Thị Hương làm năm 1761, văn khế vay nợ của Hoàng Công Khâm lập năm 1831.

7. Ngọc phả: là truyện phả về các vị thần, còn gọi là “thần tích”, đây là loại lớn trong loại sách thuộc Sử bộ. Sách hiện còn không dưới 80 tên sách (thống kê của Việt Nam Hán Nôm di sản mục lục là 535 đầu sách). Xét về góc độ nguồn gốc của các vị thần, có thể chia ra: Ngọc phả nhân vật truyền thuyết, Ngọc phả nhân vật tôn giáo, Ngọc phả nhân vật lịch sử, Ngọc phả anh hùng giòng họ. Ví dụ: Tản Viên sơn ngọc phả, Yên Lãng hậu thổ sự tích; còn có tên Yên Lãng ứng thiên hóa dục hậu thổ sự tích thực lục là phả nhân vật truyền thuyết; Hàm Giang Đinh tộc sinh phong Đại vương hành trạng thực lục, Trần gia ngọc phả, Vân Cát Lê gia ngọc phả là phả anh hùng giòng họ; Cao tăng thiền sư ngọc phả cổ truyện, Yên Lãng Chiêu Thiền tự Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục, là phả nhân vật tôn giáo; Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyện, Tam vị đại vương sự tích là phả nhân vật lịch sử. Tam vị đại vương trong tên sách vừa kể là chỉ Chu Cẩn, Chu Khiêm và Chu Đàm quê ở đất Ba Trung. Nghe nói, thời Hán Vũ đế ba người này đến Việt Nam, sau khi chết hiển linh, giúp thủy tổ triều Nguyễn là Nguyễn Kim đánh họ Mạc, vì thế được phong là Bảo Trung đại vương, Uy Mãnh đại vương, Uy Liệt đại vương.

Trong mảng ngọc phả, loại sử liệu làng xã khá phong phú, như Đoàn phương xã ngọc phả, Đinh gia miếu ngọc phả truyện, Bắc Ninh tỉnh Yên Phong huyện ân Phú tổng Tam Tảo xã tứ vị ngọc phả lục, Bắc Ninh tỉnh Yên Phong huyện Phong Quang tổng Đông Mai xã ngọc phả lục. Điều đáng chú ý nhất là: rất nhiều ngọc phả được gọi là “thần tích”, lấy đơn vị làng xã để ghi chép, thể hiện đúng tính chất “thần chí” làng xã. Loại ngọc phả này có Chu Quyến xã thần tích, Đa Hòa xã thần tích, Huân Trầm thôn thần tích, Định Công trang thần tích, Đông Kết xã thần tích, Giáo Dục xã thần tích, Bối Khê xã thần tích, Thanh Trà xã thần tích, Vũ Liệt xã khai thần tích, Thượng Thụy ngũ vị thần tích, Huống Thượng xã tự phả, Ninh Bình tỉnh Gia Viễn phủ Lê Xá xã Trà Đỉnh xã thần tích, Thần tích Bắc Ninh Từ Sơn Phù Lưu xã Nội thôn, Phúc Lập xã phụng sao thần tích, Đông Nhuế xã thừa sao thần tích, Hà Nội tỉnh Thanh Liêm huyện Kỷ Cầu tổng Thạch Tổ xã thần tích tịnh phả ký. Chu Quyến xã thần tích còn có tên Việt Thường thị Lý Hoàng tự Nhã Lang Vương ngọc phả; Đa Hòa xã thần tích còn có tên Chử Đồng Tử cập Tiên Dung Tây Cung nhị vị tiên nữ ngọc phả; Đông Kết xã thần tích thần chủ là Tướng quân Nguyễn Triển - từng giúp Ngô Quyền thống nhất quốc gia, sau khi mất được phong Thần. Qua đó có thể thấy, ngọc phả làng xã thường lấy nhân vật lịch sử bản địa và nhân vật truyền thuyết lịch sử làm cốt truyện, thực tế là một biểu hiện lịch sử làng xã.

8. Phả điệp: Phả điệp Việt Nam hiện còn, chỉ có một ít là thế hệ phả các bậc tiên Vương, còn thì tuyệt đại bộ phận là gia tộc phả. Tên gọi hoặc là “gia phả” hoặc là “tộc phả”, mỗi loại khoảng hơn 100 tên sách. “Gia phả” có Kim Sơn gia phả (Viết tựa năm 1691), Đàm thị gia kê (Viết tựa năm 1718), Lai Nguyệt Nguyễn thị gia phả (soạn năm 1754), Lê tộc gia miếu tân phả (biên tập năm 1780) v.v. “Tộc phả” có Bát Tràng xã Nguyễn tộc gia phả thực lục (viết lời dẫn năm 1686), Đông Đồ xã Phạm tộc gia phả (viết tựa năm 1718), Hoạch Trạch Nhữ tộc phả (viết tựa năm 1745), Đỗ tộc phả ký (viết tựa năm 1752) v.v. Ngoài ra có gia phả được lập bởi nhân vật có tiếng, như Bối Khê Trạng nguyên gia phả, Đại Nam Kinh Bắc trấn Lục Đạo xã Dương thị thế phả (phả chủ Dương thị đỗ Trạng nguyên năm 1547), Yên Lãng Thượng thư công gia phả, Đoàn tướng công gia phả (soạn năm 1750). Có loại hội biên gia phả như Gia phả tập biên chép gồm Tiên Điền Nguyễn gia thế phả, Việt Yên Phan gia thế phả Uy Viễn Nguyễn gia thế phả. Biên độ lịch sử của một số phả khá lớn, như Thịnh Liệt Đông ấp Bùi thị giáp chi liệt tổ hành trạng chép thủy tổ sinh vào thời Lê Nhân Tông, tức năm 1443 - 1459; tổ thứ ba sinh vào thời Lê Thần Tông, tức năm 1619 - 1643.

Ngoài những loại nói trên, trong gia huấn, gia lễ còn có sử liệu liên quan đến giáo dục làng xã. Trong những loại khác thuộc Sử bộ, có thể thấy tạp ký liên quan đến tổ chức xã hội và phong tục làng quê. Như Hương biên làng Quỳnh ghi danh sách những người thi đỗ hương hiền, phong tục và lệ làng; Phong tục tạp lục ghi đơn vị hành chính, tổ chức xã hội, và tập tục ma chay cưới xin. Một đặc điểm quan trọng của cổ tịch chữ Hán Việt Nam là tính địa phương mà sử liệu làng xã loại này có thể xem là tiêu tiêu biểu.

DIỄN ÂM, DIỄN NGHĨA, DIỄN CA VÀ DIỄN TỰ

Thư tịch chữ Hán từ Trung Quốc sang Việt Nam là quá trình truyền nhập văn hóa và cũng là quá trình tiếp nhận và cải tạo chúng. Sự tiếp nhận và cải tạo đó, ở Việt Nam dùng từ “diễn” để biểu đạt. “Diễn âm” tương đương với nghĩa phiên dịch thông thường; “diễn nghĩa” tương đương với dịch thuật và chú thích, cắt nghĩa; “diễn ca” là viết lại - dịch tản văn ra thơ ca, cải biên sách gốc ra thuyết xướng, cải biên tiểu thuyết ra hý kịch (ví dụ trong tuồng, có Tam Quốc diễn ca - Giang tả cầu hôn; Tam Quốc diễn ca - Tam cố thảo lư v.v.). Với tư cách là thể tài ngôn ngữ văn hóa, “diễn âm” còn gọi là “quốc âm”; “diễn nghĩa”, “diễn ca” còn gọi là “quốc âm ca”. Chẳng hạn, Tỳ bà hành diễn âm ca in năm 1872 dịch từng câu văn Hán ra câu văn Nôm; Nhị thập tứ hiếu diễn ca in năm 1871 (của Lý Văn Phức) dùng thơ ca Nôm diễn dịch câu chuyện nhị thập tứ hiếu của Trung Quốc. Lại như bản sao Vũ kinh diễn nghĩa ca (Vũ kinh trực giải diễn nghĩa ca) dịch thuật Vũ kinh thất thư trực giải đời Minh bằng thơ Nôm thể lục bát. Đó là những điển hình của “diễn”. Đương nhiên, các thuật ngữ “diễn âm”, “quốc âm” cũng có thể dùng thay thế cho phiên dịch, chuyển thuật giữa các thể tài khác nhau. Chẳng hạn, Xuân Đình gia huấn do Lê Hữu Tập (hiệu Xuân Đình Chủ Nhân) biên soạn, chính là cùng ấn hành với Xuân Đình gia huấn quốc âm ca.

Trong cổ tịch Việt Nam hiện còn, loại tác phẩm “diễn âm”, “diễn ca” có khoảng 400 tên sách. Con số này về đại thể phản ánh số lượng bản dịch Việt Nam của điển tịch Trung Quốc. Trong đó loại lớn nhất là điển tịch Phật giáo, có hàng chục tên sách, như: Giới sát phóng sinh diễn âm, Chư kinh diễn âm, Bảo đản nhật diễn âm, Hiền ngu kinh diễn âm, Long thư tịnh thổ diễn âm. Đặc điểm của nó là “diễn âm” chiếm phần lớn, rất ít “diễn ca”; đối dịch tản văn ra tản văn là chủ yếu, chứ không dịch tản văn ra thơ ca. Chúng ta biết rằng, Phật giáo Trung Quốc có rất nhiều phương thức diễn xướng thông tục, chẳng hạn “bại tán”, “chuyển độc”, dùng cho người xuất gia; “tục giảng”, “xướng đạo” dùng cho người tại gia; “Phật khúc”, “chuyển biến” dùng cho lễ hội Phật giáo. Các tác phẩm loại này phần nhiều là văn vần. Tình hình trên đây phải chăng có nghĩa là Việt Nam thiếu vắng phương thức thuyết xướng tương tự ? Từ những tác phẩm “diễn âm” và số ít tác phẩm “diễn nghĩa” Phật giáo hiện còn, xét thấy, câu trả lời là phủ định. Cũng có nghĩa là, Việt Nam thật ra không phải không có thuyết xướng Phật giáo, có điều, hình thức có khác với Trung Quốc. Ví như, trong sách Chư kinh diễn âm có phụ lục Đại Di Đà chính văn trì niệm trích yếu diễn âm, hoặc trong Cúng văn tạp sao có phụ lục một vài bài kệ tán thể ca Nôm. Điều này nói lên rằng, diễn âm kinh Phật ở Việt Nam thường dùng vào việc trì niệm; kệ tán kinh Phật thường dùng vào việc xướng tụng; chúng đều là những bộ phận hợp thành của nghi thức Phật giáo. Lại như một tên sách khác Quan âm chân kinh diễn nghĩa còn gọi là Đức Phật Bà truyện, Nam Hải Quan âm Phật sự tích ca văn Nôm thể lục bát, kể sự tích công chúa con vua Diệu Trang Vương tu hành đắc đạo trở thành Phật Bà Quan Âm. Phần đầu của sách dùng văn Hán ghi 12 điều trong Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn, Tịnh thân chân ngôn, Phụng thỉnh nhập Bồ Tát, Khai kinh kệ, Phật thuyết Cao Vương Quan Thế Âm kinh và Cao Vương kinh nguyên dẫn. Điều này lại chứng tỏ, tuyên giảng Phật giáo, thường thường ngoài xướng tụng bằng Hán văn, người ta còn dùng phương thức kể chuyện sự tích (dưới đây sẽ xếp vào mục tiểu thuyết) hoặc truyện thơ Nôm. Quan Âm chân kinh diễn nghĩa hiện còn 7 bản in và 1 bản sao, qua đó có thể thấy rằng đây là phương thức “diễn âm” lưu hành rộng rãi và rất được hoan nghênh.

Ngoài “diễn âm”, “diễn ca”, cái gọi là “chân kinh” thực tế cũng là tên gọi một loại thể tài. Trong điển tịch Phật giáo, danh từ này đại biểu cho một loại văn thể có quan hệ với khẩu ngữ. Chân kinh đề tài Phật giáo, có Siêu thần chân kinh, ca Nôm thể lục bát, tuyên giảng luân hồi và báo ứng thiện ác; Di Lặc chân kinh diễn âm, Nguyễn Phi Thường dịch, bản Nôm Di Lặc kinh, thể lục bát, miêu tả thế giới cực lạc, khuyên người đời làm điều thiện; Hương Sơn Quan Thế Âm kinh tân dịch, Kiều Oánh Mậu dịch Nôm, kể sự tích công chúa con gái Diệu Trang Vương tu luyện thành Phật. Trong mấy thí dụ vừa rồi, “chân kinh” hầu như có thể lý giải là một phương thức thuyết xướng thông tục. Cũng có lẽ bởi vậy, trong điển tịch tôn giáo dân gian Việt Nam có khối lượng lớn tác phẩm “chân kinh”. Chẳng hạn, Linh tâm quốc âm chân kinh, Lương tâm quốc âm chân kinh, Báo ân quốc âm chân kinh, Thiên hoa phóng nhụy Nam âm chân kinh, Việt Nam nội đạo tam thánh thường tụng chân kinh, Kính tích tự chỉ chân kinh v.v, không dưới 70 tên sách. Dẫu rằng, có rất nhiều truyền thuyết qui “chân kinh” là văn giáng bút của “thần” và “công chúa”, cho rằng chúng ra đời bởi một nghi thức nào đó, song chúng ta vẫn có thể thấy được mối liên hệ giữa chúng với điển tịch Trung Quốc trong cách ghi chép. Ví dụ các cổ tịch Việt Nam dưới đây:

Văn đế cứu kiếp chân kinh diễn âm, Ngô Vi Lâm dịch Nôm (diễn âm), in năm 1902, ca Nôm thể lục bát.

Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh thích ca, Phạm Đình Toái dịch Nôm (diễn ca) năm 1880, ca Nôm thể lục bát.

Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh diễn nghĩa ca (còn có tên Cứu kiếp chân kinh diễn nghĩa ca), Cung Bích Như dịch Nôm (diễn ca) năm 1875, ca Nôm thể lục bát”… đều xuất xứ từ sách Trung Quốc Văn đế cứu kiếp chân kinh, Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh. Điều này nói lên cái gì ? Nói lên rằng “Chân kinh” vốn là một loại văn thể thông tục về Phật giáo lưu hành ở Trung Quốc. Nếu nói rằng tín ngưỡng Văn Xương Đế Quân và Quan Thánh Đế Quân, chủ yếu lưu truyền ở phương Nam Trung Quốc và lấy việc tôn giáo dân gian Trung Quốc hưng thịnh ở miền Nam làm bối cảnh thì điều đó lại nói rõ phương thức thuyết xướng tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống dân gian miền Nam Trung Quốc, mà không giống như Trung Quốc nội địa buổi đầu thuyết xướng, Phật giáo chủ yếu có nguồn gốc từ Phạn xướng Tây Vực.

Việc lưu truyền hai tôn giáo Phật và Đạo ở Việt Nam, thời đại đó có thể truy ngược lên cuối đời Hán. Quyển 1 sách Hoằng minh tập chép, sau khi Hán Linh đế băng hà, Mâu Tử cùng với mẹ tỵ nạn ở Giao Chỉ, từng mang theo Ngũ kinh và các sách về Đạo gia thuật sĩ. Sau khi tới Việt Nam, ông “nuôi chí ở đạo Phật”, viết thiên Lý hoặc luận. Bấy giờ là cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, chính là lúc Sĩ Nhiếp nhậm chức Thái thú Giao Châu (năm 187 - 226). Từ điển chữ Nôm Việt Nam Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa nói: Sĩ Nhiếp từng “tập thành thơ ca quốc ngữ rồi ghi đề mục, sắp xếp vần “Chỉ nam phẩm hội” gồm 2 quyển thượng hạ. Mặc dầu chúng ta không có cách nào khảo chứng sự khởi đầu của diễn âm, nhưng sự ghi chép như trên, chứng tỏ cuối đời Hán, Việt Nam đã có điều kiện và nhu cầu diễn âm. Ghi chép sớm nhất về sách diễn âm thì thấy ở cuối thế kỷ 14. Theo Đại Việt sử ký toàn thư - Trần kỷ của Ngô Sĩ Liên thì vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly từng “biên tập Vô dật thiên”, dịch ra Quốc ngữ để dạy các quan”. Từ đó trở về sau, lịch sử diễn âm cổ tịch chữ Hán được mở ra một cách mạnh mẽ. Trong đó có 2 việc lớn đáng được nhắc tới sau đây:

Việc lớn thứ nhất là chữ Nôm, dịch Nôm Thi kinh. Theo ghi chép, triều Tây Sơn (1786 - 1802) khi xây dựng thư viện Sùng Chính. Viện trưởng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng cho khắc in Thi kinh giải âm và diễn Nôm “Tiểu học”, “Tứ thư”. Sách Thi kinh giải âm hiện còn hai loại văn bản: một là bản khắc năm 1792 (Năm Quang Trung thứ 5) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản này có 12 quyển. Hai là bản khắc năm 1714 (năm Vĩnh Thịnh thứ 10) ở Viện Văn học Hà Nội, trang đầu đề mấy chữ “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nhật tập thành, Kế Thiện đường bản, Kỷ Quyết nhân san” là một tên sách có niên đại sớm nhất trong các sách diễn âm, giải âm được biết hiện thời. Sách này có tất cả 6 sách, hiện còn 4 sách, theo mục lục có 10 quyển. Cả hai văn bản có chữ Hán và chữ Nôm xen kẽ, chữ Hán chú âm, chữ Nôm chú nghĩa thơ. ý nghĩa của bộ điển tịch này ở chỗ, nó mở màn cho lịch sử thời đại văn học dịch - văn học Nôm Việt Nam. Sách diễn Nôm Thi kinh ra đời sau đó có Thi kinh diễn nghĩa, Thi kinh diễn âm, Thi kinh quốc ngữ ca, Thi kinh chính nghĩa truyện chú v.v.

Là những bản dịch Nôm, chú Nôm Thi kinh những sách này thường dùng hình thức đối chiếu Hán Nôm, thường dùng thể lục bát (thí dụ như Thi kinh diễn âm là lối phỏng dịch Thi kinh bằng thể thơ lục bát và song thất lục bát. Câu đầu tiên ở lời tựa thơ dịch Thi kinh quốc ngữ ca là “Học đòi thánh đạo, dám đọc Thi kinh; Cổ kim ngâm vịnh tính tình”, vì thế thúc đẩy một cách hữu hiệu bước quá độ của văn học Việt Nam từ thể thơ cổ Trung Quốc sang thể thơ Nôm Việt Nam.

Việc lớn thứ hai là lưu hành bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Kim Vân Kiều truyện là tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân cuối đời Minh, miêu tả câu chuyện tình yêu ly hợp buồn vui của 3 người là Kim Trọng, Vương Thúy Vân và Vương Thúy Kiều, tên sách cũng là tên của 3 người này hợp thành. Năm 1812, nhà thơ Việt Nam đến Trung Quốc với tư cách là Chánh sứ triều cống, năm sau về nước, dịch Kim Vân Kiều truyện ra thơ Nôm thể lục bát, dài hơn 3.200 câu. Bản dịch của Nguyễn Du còn có tên Đoạn trường tân thanh Kim Vân Kiều tân truyện. Dẫu rằng, bản dịch vẫn giữ nguyên nhân vật và cốt truyện của nguyên tác, hơn nữa “có 30 chỗ dịch toàn câu thơ cổ Trung Quốc, 27 chỗ mượn ngữ vựng, ý câu thơ cổ Trung Quốc, 46 chỗ lấy ngữ liệu Kinh Thi, 50 chỗ ngữ và ý có nguồn gốc từ điển tịch kinh truyện khác của Trung Quốc”(1), nhưng ở trình độ tương đương, nó vẫn thuộc loại tái sáng tác. ở điểm này liên quan đến cuộc đời của Nguyễn Du. Nguyễn Du nguyên quán là một miền quê, thời trẻ thường giao du với những người làm nghề thủ công xung quanh, thích tham gia các hoạt động dân gian như lễ hội, hát đối đáp. Bởi thế “ diễn âm” của ông thay đổi văn thể của nguyên tác, đi đầu trong việc dùng thể lục bát vào tự sự trường thiên; ông đã thơ hóa tiểu thuyết, thường dùng ngôn ngữ trữ tình để khắc họa hoạt động nội tâm của nhân vật, ông còn sử dụng một số tục ngữ, ngạn ngữ dân gian Việt Nam, như “Đào tiên giống tốt không ai biết, không thích đào tiên lại thích cam quýt”(2). So sánh hai loại Kim Vân Kiều truyện của hai nước Trung - Việt, chúng ta có thể hiểu được đặc trưng chung của tác phẩm “diễn âm” Việt Nam.

Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du gây ảnh hưởng to lớn ở Việt Nam, trở thành kinh điển quan trọng nhất trong văn học Việt Nam. Tác phẩm này được in đi in lại nhiều lần với các danh nghĩa khác nhau và cũng ra đời một số lượng lớn tác phẩm chú thích, phỏng tác, diễn thơ, diễn ca. Trong đó, tác phẩm chú thích có Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu; có phụ chép Kim Vân Kiều quảng tập truyện liên quan đến bình luận và khảo chứng Truyện Kiều; Kim Vân Kiều chú bình, tựa, bạt, có Kim Vân kiều truyện chú, Kim Vân Kiều lục do Phạm Quý Thích và một số người nữa soạn; có Kim Vân Kiều hợp tập, Kim Vân Kiều tân tập hợp biên hai loại Kim Vân Kiều truyện chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó tác phẩm phỏng tác, có Kim Vân Kiều tập (ý nói “phỏng theo Kim Vân Kiều”), in trước năm 1875, thể loại hát chầu văn (điệu nhạc hát dân gian miền Bắc Việt Nam ), cả thảy 3 hồi, diễn xướng câu chuyện Thúy Kiều gặp Kim Trọng, Thúy Kiều báo ân báo oán; có Thù thế tân thanh do Trần Thử soạn, cả thảy 6 hồi, diễn xướng câu truyện Kim Vân Kiều bằng điệu chèo; có Kim Vân Kiều phú tác giả khuyết danh. Trong đó, tác phẩm diễn thơ, diễn ca, có Thanh Tâm Tài nhân thi tập do Trần Bích San, Chu Mạnh Trinh soạn, biên góp 20 bài thơ Nôm vịnh thân thế Thúy Kiều; có Hội đề Kiều thi do Hà Quyền soạn, biên góp 50 bài thơ Nôm; có Vịnh Thúy Kiều thi tập do Thập Xuân Thị (hiệu Phong Tuyết Chủ Nhân) soạn, biên tập năm Mậu Tý niên hiệu Minh Mệnh (năm 1829); có Thơ vịnh Kiều ca vịnh câu chuyện Thúy Kiều gặp Kim Trọng, nhảy xuống sông Tiền Đường, được tiên công cứu sống; có 30 bài Thúy Kiều sở ngộ cảnh huống thi do Nguyễn Thực Đình soạn; có Thúy Kiều lục, Thúy Kiều tập của tác giả khuyết danh; có Kim Vân Kiều ca do Lương Gia Tử biên tập; có Kim Kiều diễn ca của tác giả khuyết danh. Những tác phẩm này không ngừng làm lớn mạnh truyền thống văn học Việt Nam lấy “diễn” làm tiêu chí - biểu hiện của việc coi trọng các hình thức nghệ thuật của các đề tài khác nhau, sự thẩm thấu của việc coi trọng yếu tố văn học giữa các thể tài khác nhau. Sự thẩm thấu ấy được sáng tạo dưới danh nghĩa mô phỏng, kết quả là làm phong phú thêm sức biểu hiện của văn Nôm và cũng hình thành một loạt tập quán thẩm mỹ và mô thức văn học dân tộc.

Điều đặc biệt thú vị là, trong lúc Thanh Tâm Tài Nhân hầu như bị người Trung Quốc lãng quên dần thì Kim Vân Kiều truyện lại đang thực hiện chuyến trở về Trung Quốc hoặc thế giới Hán ngữ. Một biểu hiện quan trọng trong đó là, trong dân chài dân tộc Kinh ở Sơn Tâm, Vạn Vĩ tỉnh Quảng Tây lưu truyền bài ca tự sự bằng tiếng Kinh về Kim Trọng và A Kiều, “Mỗi lần đến hội hát xướng, ở nơi đình hát, gái trai ca hát diễn xướng”(3). Sau khi nhóm người từ Việt Nam thiên di đến học được tiếng Hán, những bài ca tự sự liên quan đến Kim Trọng với A Kiều lại được dịch ra phương ngôn tiếng Hán Quảng Đông, được lưu truyền bằng hình thức câu chuyện dân gian(4). Một hiện tượng khác là, ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được thư tịch “diễn âm” Kiều truyện từ Nôm dịch ra Hán. Trong đó bao gồm Việt Nam âm Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi (thể thơ thất ngôn) của Từ Nguyên Mạc, Thúy Kiều quốc âm dịch xuất Hán tự (thể thơ thất ngôn) của Lê Mạnh Thát, Kim Vân Kiều Hán tự diễn âm ca (thể lục bát, còn có tên Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca) của Lê Dụ(5), cũng bao gồm hai quyển chép tay Vương Kim truyện quốc âm - Vương Kim truyện diễn tự do Nguyễn Kiên chú thích và dịch Hán, và Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập của “Đông y học sĩ Trương Tam Vũ”. Sách của Nguyễn Kiên do Vương Kim truyện quốc âm Vương Kim truyện diễn tự hợp thành. Vương Kim truyện quốc âm dùng chữ Hán chú thích điển cố và chữ khó trong Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du Vương Kim truyện diễn tự dịch Hán theo thể lục bát Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Sách của Trương Cam Vũ là thể thơ thất ngôn, sáng tác năm 1961. Hai hiện tượng nói trên, thực tế đại biểu cho một phương thức “diễn” nữa - phương thức diễn từ Nôm ra Hán, người Việt Nam gọi đó là “Hán tự diễn âm” và “diễn tự”. Phương thức này lại thấy ở sách Quốc âm diễn thi thuộc loại Tổng tập. Sách này dùng thơ tứ ngôn phiên dịch phương ngôn, tục ngữ và ca dao Việt Nam, cho nên còn có tên “Quốc âm diễn tự”. Sự lưu hành các thuật ngữ “diễn tự”, “diễn thi” chứng tỏ giao lưu văn hóa luôn luôn là hai chiều, nó là tấm đệm ấm thai nghén thể văn mới. Lời tựa Tỳ bà quốc âm tân truyện nói “người Bắc dùng văn tự cầu thanh âm, văn tự bèn thành giọng điệu; người Nam lấy thanh âm cầu văn tự, thành âm có đủ thể tài” v.v. Chúng ta biết rằng những thuật ngữ này còn phản ánh cách nhìn nhận của người Việt Nam đối với đặc trưng văn học ngôn ngữ Trung Việt: văn học Trung Quốc lấy “chữ” làm phương tiện chuyển tải chủ yếu, còn văn học Việt Nam lại chủ yếu lấy “âm” làm phương tiện chuyển tải.

CHÚ THÍCH

(1) Trương Chính: Cha ông ta đã cố gắng làm trong sáng và phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc như thế nào ? Tạp chí Ngôn ngữ (tiếng Việt) số 2 năm 1972. ở đây trích chuyển dẫn của Lâm Minh Hoa trong Trung Quốc văn học tại Việt Nam. Xem Trung Quốc văn học tại Đông Nam Á, Nxb. Đại học Ký Nam, năm 1999, tr.45.

(2) Đổng Văn Thành: So sánh “Kim Vân Kiều truyện” Trung - Việt, in trong Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, tập 5. Nxb. Văn nghệ Xuân Phong, 1987.

(3) Kim Trọng dữ A Kiều đăng trong Tuyển tập chuyện dân gian dân tộc Hồi, Di, Thủy, Ngật, Lão, Mao Nam, Kinh, Nxb Nhân dân Quảng Tây, 1988; Kinh tộc văn học sử, Nxb. Giáo dục Quảng Tây, 1993, tr.106.

(4) Xem Phó Quang Vũ: Dã đàm Kim Trọng dữ A Kiều cập Trung Việt văn hóa giao lưu. Nxb. Đại học Vân Nam, 1994.

(5) Các sách kể trên, xem Trần ích Nguyên: Việt Nam Kim Vân Kiều truyện, đích Hán văn dịch bản, đăng trong Trung Hoa văn hóa dữ thế giới Hán văn học luận văn tập: Văn học ti lộ, Hội nhà văn Hoa Văn thế giới, 1998.