TB

ĐIỂM QUA TÌNH HÌNH DỊCH THUẬT VÀ BIÊN KHẢO THUỘC LĨNH VỰC HÁN NÔM TRONG THẾ KỶ XX

TRẦN NGHĨA

Nước ta có một lịch sử dịch thuật và biên khảo lâu đời, nhất là về phương diện dịch thuật(1). Để góp thêm kinh nghiệm cho công tác Hán Nôm vững bước tiến sang thế kỷ XXI, bài viết này có thể xem như một phác thảo hồi cố tình hình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm(2) trong thế kỷ XX, thế kỷ vừa thừa hưởng, vừa phát triển và chuyển đổi một cách thành công những gì đã tiếp nhận được trong lịch trình dịch thuật và biên khảo ở những thế kỷ trước đó.

Hãy bắt đầu bằng việc thống kê. Có bao nhiêu cuốn sách dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm được công bố chủ yếu dưới dạng chữ Quốc ngữ (tức thứ chữ cái La tinh dùng để phiên âm tiếng Việt đã dần dần trở thành ký tự chính thức ở nước ta lúc này) trong vòng mười thập kỷ, từ năm 1900 đến năm 2000 ? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã dựa vào các nguồn tư liệu trực tiếp hoặc gián tiếp như Lược truyện các tác gia Việt Nam(3), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm(4), Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu(5), Thư mục Hán Nôm và nguồn tư liệu thư tịch cũ của Việt Nam(6), Nghiên cứu và biên soạn thư mục sách dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt hiện đại (từ năm 1945 đến nay)(7) và đặc biệt là bộ Mục lục phiên dịch của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bao gồm những “phiếu mô tả tài liệu của các Thư viện: Hán Nôm, Thông tin Khoa học xã hội, Quốc gia (Hà Nội), Quân đội, Viện Văn học, Viện sử học, Viện Triết học”(8)… Sau đây là bảng tổng hợp kết quả điều tra bước đầu của chúng tôi.

BẢNG THỐNG KÊ SỐ SÁCH THUỘC LĨNH VỰC HÁN NÔM ĐƯỢC DỊCH THUẬT, BIÊN KHẢO VÀ CÔNG BỐ BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ TRONG THẾ KỶ XX

 

Từ kết quả thống kê trên, ta có thể đi sâu tìm hiểu những vấn đề đằng sau các con số.

DỊCH THUẬT, BIÊN KHẢO NHÌN VỀ DIẾN SÁCH

Các sách dịch thuật và biên khảo trong thế kỷ XX, như bảng thống kê cho thấy, chủ yếu thuộc loại Văn học, Sử học, Triết học, Tôn giáo, Tín ngưỡng, Giáo dục, Y học, Địa lý và Tổng hợp. Tình hình cụ thể đối với từng loại như sau:

1. Văn học:

- Có khoảng 418 tác phẩm được phiên chuyển từ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ, hoặc từ chữ Hán ra tiếng Việt hiện đại, như: Bạch Viên Tôn Các*(10) (1906), Bích Câu kỳ ngộ truyện* (1905), Cai Vàng tân truyện* (1913), Chàng Chuối truyện* (1916), Chinh phụ ngâm* (1906), Công dư tiệp ký (1961), Cung oán ngâm khúc* (1911), Đại Nam quốc sử diễn ca* (1926), Hoa tiên truyện* (1924), Hoan Châu ký (1988), Hoàng Lê nhất thống chí diễn nghĩa (1927), Hoàng Việt thi văn tuyển (1957), Kiến văn lục (1922), Ngư tiều vấn đáp y thuật* (1952), Ngự chế Việt sử tổng vịnh (1970), Nhật ký trong tù (1960), Nhị độ mai * (1920), Nữ tú tài* (1911), Phạm Công Cúc Hoa* (1923), Phan Trần truyện* (1900), Sãi Vãi* (1923), Tang thương ngẫu lục (1961), Thánh Tông di thảo (1963), Thoại Khanh Châu Tuấn* (1906), Trần Sanh diễn ca* (1905), Trùng Quang tâm sử (1957), Truyền kỳ mạn lục (1943), Truyền kỳ tân phả (1962), Tự Đức thánh chế văn tam tập (1971), Việt điện u linh (1960), Việt Nam khai quốc chí truyện (1917), Vũ trung tùy bút (1960), v.v.

- Và khoảng 161 công trình biên khảo, như: Bàn về Hán học (1918), Chữ Nôm nguồn gốc cấu tạo diễn biến (1975), Chữ Nôm với chữ Quốc ngữ (1932), Cổ xúy nguyên âm (1917…), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Dịch từ Hán sang Việt một khoa học một nghệ thuậ t (1982), Hội Tao đàn (1932), Khảo về câu đối Hán (1919), Khảo về lối câu đối Nôm (1926), Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm (1983), Nam âm thi văn khảo biện (1929), Nam thi hợp tuyển (1927), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (1979), Nguồn gốc văn học nước nhà (1933), Nữ lưu văn học sử (1929), Quốc văn cụ thể (1932), Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ (2000), Thi văn bình chú (1941), Thơ mới và thơ cũ (1934), Thơ văn Lý Trần (1977…), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (1997), Tổng tập văn học Việt Nam (1979…), Từ trong di sản (1979…), Văn học Việt Nam thời Bắc thuộc (1956), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (1998), Việt Hán văn khảo (1930), Việt Nam cổ văn học sử (1942), Việt Nam văn học (1942), Việt Nam văn học sử (1932), Việt Nam văn học sử yếu (1941), v.v.

2. Sử học:

- Có khoảng 255 tác phẩm được phiên chuyển từ chữ Hán sang tiếng Việt hiện đại, như: Bản triều bạn nghịch liệt truyện (1963), Công thần lục (1986), Đại Nam liệt truyện chính biên (1919), Đại Nam liệt truyện tiền biên (1918), Đại Nam thực lục (1962…), Đại Việt sử ký tiền biên (1997), Đại Việt sử ký toàn thư (1945), Đại Việt sử ký tục biên (1991), Đại Việt sử lược (= Việt sử lược; 1960), Đại Việt thông sử (= Lê triều thông sử; 1973), Hậu Lê thời sự kỷ lược (1976); Khâm định Việt sử thông giám cương mục (=Việt sử thông giám cương mục; 1965), Lam Sơn thực lục (1945), Lê Quý dật sử (1987), Lê quí kỷ sự (1974), Lịch đại danh hiền phổ (1962), Lịch triều tạp kỷ (1975), Quốc sử di biên (1973), Việt Nam nghĩa liệt truyện (1972), Việt sử tiêu án (1960), Việt sử yếu (1971), v.v.

- Và khoảng 70 công trình biên khảo, như: Chân dung Phan Thanh Giản (1974), Đinh Tiên Hoàng (1929), Đời cách mạng Phan Bội Châu (1945), Giai nhân kỳ ngộ: Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử (1958), Hoàng Hoa Thám và phong trào nông dân Yên Thế (1958), Hồ Quý Ly: nhân vật lỗi lạc nhất thời đại từ Đông sang Tây (1974), Huỳnh Thúc Kháng (1950), Hưng Đạo đại vương (1909 – 1912), Cụ Sào Nam 15 năm bị giam lỏng ở Huế (1956), Kỳ ngoại hầu Cường Để với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng (1951), Lê Đại Hành (1929), Lịch sử Đào Duy Từ (1937), Lịch sử Nguyễn Hữu Cầu (1929), Lịch sử Tây Sơn (1929), Mấy tay Tuần lại nước Tàu đô hộ nước ta xưa (1931), Ngô Vương Quyền (1944), Nguyễn Trãi một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam (1962), Nguyễn Trãi thân thế và sự nghiệp (1951), Nguyễn Tri Phương (1956), Nguyễn Trường Tộ trên lịch sử Việt Nam (1933), Nhuận Hồ tiểu sử (1930), Phạm Hồng Thái (1946), Quốc sử đính ngoa (1941), Trần Nguyên chiến kỷ (1931), Trần Quý Cáp và tự hào cách mạng dân quyền đầu thế kỷ XX (1970), Trần Thủ Độ (1943), Việt Nam sử lược (1915), Vua Bố Cái (1929), Vua Hàm Nghi với việc Kinh thành thất thủ (1935), v.v.

3. Triết học, tôn giáo, tín ngưỡng:

- Có khoảng 50 tác phẩm chữ Hán được phiên chuyển sang tiếng Việt hiện đại, như: Âm chất văn giải âm (1927), Cảm ứng, âm chất, giác thể, công quá cách (1924), Cao Vương Quan Thế Âm kinh (1923), Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan (1924), Diệu pháp Liên hoa kinh (1932), Diệu pháp Liên hoa kinh Quan Thế Âm Bồ Tát, Phổ môn phẩm,Phật thuyết A Di Đà kinh, Hồng Danh,Bửu sám nghi thức (1935), Đại học (1941), Đạo đức kinh (? Nhượng Tống dịch), Khóa hư lục (1972), Kinh Dịch (1943), Kinh Thư diễn nghĩa (1993), Luận ngữ (? Dương Bá Trạc dịch), Luận ngữ cách ngôn (1927), Luận ngữ quốc văn giải thích (1935), Mạnh Tử quốc văn giải thích (1932), Nam Hoa kinh (? Nhượng Tống dịch), Tam tổ hành trạng (1971), Tây Dương Gia Tô bí lục (1981), Thiền uyển tập anh (1990…), v.v.

- Và khoảng 37 công trình biên khảo như: Bình luận về sách Khoá hư (1933), Đạo đức luân lý Đông Tây (1925), Đạo giáo (1923), Đạo làm người của Nguyễn Công Trứ (1962), Học thuyết Mặc Tử (1942), Khảo về lịch sử luân lý nước Tàu (? Nguyễn Hữu Tiến), Khảo về học thuật tư tưởng nước Tàu (Nam phong, số 28, 29), Khảo về sách Xuân thu tả truyện (Nam phong, số 22, 26), Khổng Tử học thuật (1943), Nghi lễ phổ thông (1930), Nho giáo (1930…), Phật giáo đại quan (?), Phật giáo lược khảo (1920), Phật giáo tân luận (1934), Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay (?, Trần Trọng Kim), Phật giáo với Nho giáo (1935), Triết lý nhân sinh Nguyễn Công Trứ (1950), Triết lý truyện Kiều (1954), Việt Nam phong tục (1915), v.v.

4. Giáo dục (kể cả đào tạo và sách giáo khoa):

- Có khoảng 37 tác phẩm chữ Hán được phiên chuyển sang tiếng Việt hiện đại, như: Ấu học quỳnh lâm (1973), Ấu học tùng đàm (1925), Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (1962), Đăng khoa lục sưu giảng (1968), Gia lễ chỉ nam (tang lễ, thọ lễ, hôn lễ) (1928), Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký (1961 – 1969), Ngũ thiên tự diễn âm (1934 – 1935), Nhị thập tứ hiếu (1928), Nhị thập tứ hiếu thi ca (1910), Phượng Dực đăng khoa lục (1995), Quốc triều đăng khoa lục (1952), Quốc triều hương khoa lục (1993), Tam khôi bị lục, v.v.

- Và khoảng 21 công trình biên khảo như: Ấu học Hán tự tân thư (Luân lý, Sử ký, Chính trị, Cách trí; ? Đỗ Văn Tâm), Các nhà khoa bảng Việt Nam (1993), Hán văn sơ học tiệp giải (1941), Huấn tử cách ngôn (?, Nguyễn Chánh Sát), Làm con phải hiếu (1914), Nam học Hán tự (1943), Nguồn gốc và phương pháp học chữ Hán (?, Doãn Kế Thiện), Ngữ văn Hán Nôm (1987…), Sơ học sư phạm khoa yếu lược (?, Trần Trọng Kim), Tự học chữ Nôm (1989), Xét về cách dùng chữ đặt câu trong sự học chữ Hán (1932), v.v.

5. Y học:

- Chủ yếu là sách dịch từ Hán sang Việt, với khoảng 61 tác phẩm, như Ấu ấu tu tri (1961 – 1962), Bách bệnh cơ yếu (1970), Bách giải trân tàng (1963), Châm cứu sơ bộ thực hành (1956), Hải Thượng Lãn Ông (1942), Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (1992), Hoàng Đế nội kinh tố vấn (1953), Nam dược thần hiệu (1972), Y học thiết trùng (1937), v.v.

Ở đây, tác phẩm của Tuệ Tĩnh và Lê Hữu Trác chiếm số lượng nhiều nhất.

6. Địa lý:

- Chủ yếu là sách dịch từ Hán sang Việt, với khoảng 49 tác phẩm như: Bắc Thành dư địa chí (1969), Đại Nam nhất thống chí (1918…), Đại Việt địa dư toàn biên (1997), Gia Định thành thông chí (1972), Hải Dương phong vật chí (1968), Nghệ An ký (1993), Ô Châu cận lục (1961), Phủ biên tạp lục (1964), Phương Đình dư địa chí (1960), Thanh Hóa quan phong (1972), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (= Các tổng trấn xã danh bị lãm, 1981) v.v.

- Về biên khảo, đáng chú ý nhất, có Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ (1945, 1999), cùng một số sách địa chí thuộc các địa phương biên soạn trong những năm gần đây mà chúng tôi chưa có điều kiện bao quát hết.

7. Tổng hợp (kể cả quân sự, luật, từ thư, mục lục):

- Có khoảng 59 tác phẩm dịch từ Hán sang Việt như An Nam chí lược (1960), Binh thư yếu lược (1969…), Châu bản triều Tự Đức (1979), Đại Nam điển lệ toát yếu (1915, 1916), Hoàng Việt giáp tý niên biểu (1963), Hồng Đức thiện chính thư (1959), Huấn địch thập điều (1971), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1993), Kiến văn tiểu lục (1962), Lịch triều hiến chương loại chí (1957…), Minh Mệnh chính yếu (1972), Phương Đình tùy bút lục (1996), Quần thư khảo biện (1995), Vân đài loại ngữ. v.v.

- Và khoảng 115 công trình biên soạn, như: Bảng tra chữ Nôm (1976), Bảng tra chữ Nôm miền Nam (1994), Bảng tra chữ Nôm sau thế kỷ XVII (1994), Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu (1993), Hán Việt tân từ điển (? Hoàng Thúc Trâm), Hán Việt từ điển (1932, 1936 Đào Duy Anh), Hán Việt từ điển (1942, Thiều Chửu), Lược truyện các tác gia Việt Nam (1971, 1972), Tầm nguyên từ điển (1942), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (1970, 1990), Từ điển từ cổ (2001), Từ điển Việt Hán (1960), Từ điển Hán Việt yếu lược (?, Đào Văn Tập), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (1992), Việt Hán thành ngữ lược biên (?, Nguyễn Can Mộng), v.v.

DỊCH THUẬT, BIÊN KHẢO NHÌN QUA CHUYÊN NGÀNH VÀ THỜI GIAN

1. Dịch thuật và biên khảo nhìn qua chuyên ngành.

Như bảng thống kê cho thấy, trong thế kỷ XX, có khoảng 1347 tác phẩm dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm đã được công bố, trong đó:

Văn chiếm 579 tác phẩm .

Sử chiếm 332 tác phẩm.

Triế t chiếm 87 tác phẩm.

Giáo dục chiếm 58 tác phẩm.

Y chiếm 62 tác phẩm.

Địa chiếm 55 tác phẩm.

Tổng hợp chiếm 174 tác phẩm.

Để nhìn rõ những biến động về lượng sách dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm qua thời gian, ta có thể xem đường biểu diễn sau đây:

BIỂU ĐỒ SO SÁNH LƯỢNG SÁCH DỊCH THUẬT VÀ BIÊN KHẢO
QUA CÁC CHUYÊN NGÀNH

Có thể thấy, trừ sách Tổng hợp ra, thì mảng Văn học, Sử học được dịch thuật, biên khảo nhiều nhất, và mảng Triết học…, Giáo dục, Y học, Địa lý được dịch thuật và biên khảo ít nhất. Mặt khác, nếu đem số sách dịch thuật, biên khảo thuộc các chuyên ngành đối chiếu với trữ lượng hiện có của chúng trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay(11) , ta sẽ thấy lượng sách được công bố so với lượng sách chưa khai thác, chiếm tỉ lệ như sau:

Văn khai thác được 579/2500, tức chiếm 23,16% trữ lượng.

Sử khai thác được 332/1000, tức chiếm 33,20% trữ lượng.

Triết khai thác được 87/600, tức chiếm 14,50% trữ lượng.

Giáo dục khai thác được 58/450, tức chiếm 12,89% trữ lượng.

Y khai thác được 62/300, tức chiếm 21% trữ lượng.

Địa khai thác được 55/300, tức chiếm 18,33% trữ lượng.

Như vậy, so với trữ lượng, Sử được khai thác nhiều hơn Văn và nhìn chung, trên mọi chuyên ngành, số sách được dịch thuật, biên khảo còn chiếm một tỉ lệ quá thấp so với những gì mà chúng đang có.

2. Dịch thuật và biên khảo nhìn qua thời gian.

Cũng từ bảng thống kê trên, ta thấy số sách dịch thuật, biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm được công bố qua từng chặng thời gian 5 năm một trong thế kỷ XX như sau:

1900 – 1905 : 6 tác phẩm

1906 – 1910 : 9 tác phẩm

1911 – 1915 : 18 tác phẩm

1916 – 1920 : 34 tác phẩm

1921 – 1925 : 56 tác phẩm

1926 – 1930 : 76 tác phẩm

1931 – 1935 : 73 tác phẩm

1936 – 1940 : 39 tác phẩm

1941 – 1945 : 54 tác phẩm

1946 – 1950 : 22 tác phẩm

1951 – 1955 : 55 tác phẩm

1956 – 1960 : 106 tác phẩm

1961 – 1965 : 148 tác phẩm

1966 – 1970 : 150 tác phẩm

1971 – 1975 : 149 tác phẩm

1976 – 1980 : 50 tác phẩm

1981 – 1985 : 44 tác phẩm

1986 – 1990 : 40 tác phẩm

1991 – 1995 : 80 tác phẩm

1996 – 2000 : 138 tác phẩm

Để nhìn rõ những biến động về lượng sách dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm qua thời gian, ta có thể xem đường biểu diễn sau đây:

Qua đường biểu diễn, ta thấy có 3 thời kỳ sách dịch thuật và biên khảo ra đời nhiều nhất, đó là 1921 - 2935; 1951 - 1980; và 1991 - 2000; trong đó thập niên 1965 - 1975 đạt số lượng cao nhất. Trái lại, có 2 thời kỳ sách dịch thuật và biên khảo xuất hiện ít nhất đó là 1936 - 1950; và 1981 - 1990.

DỊCH THUẬT, BIÊN KHẢO NHÌN TỪ CẤP ĐỘ VÀ CHẤT LƯỢNG

1. Cấp độ: Các công trình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX đã được vấn thế dưới nhiều dạng khác nhau.

- Về mặt dịch thuật, có lược dịch, tuyển dịch và toàn dịch.

Lược dịch chủ yếu dành cho những tác phẩm dịch thuật xuất bản trong giai đoạn đầu thế kỷ. Thí dụ Danh thần lục của Nguyễn Hữu Tiến là một lược dịch từ nguyên bản chữ Hán Đại Nam liệt truyện; Việt Lam xuân thu của ông là một lược dịch từ nguyên bản chữ Hán Việt Lam tiểu sử do Lê Hoan nhuận sắc và in vào năm 1908(12). Hay Đại Nam nhất thống chí (in trên Đông Dương tạp chí, lớp mới, số 70 - 137), Đại Nam liệt truyện tiền biên (Tạp chí vừa dẫn, số 181 - 192) và Đại Nam chính biên liệt truyện (Tạp chí vừa dẫn, số 192…) của Phan Kế Bính, đều là những lược dịch từ các tác phẩm chữ Hán cùng tên. Hoặc công trình Les chapitres bibliographiques de Lê Quý Đôn et de Phan Huy Chú của Trần Văn Giáp là một lược dịch Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn trong Lê triều thông sử Văn tịch chí của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí; v.v. Điều này không liên quan gì đến trình độ Hán văn của các dịch giả mà chủ yếu là do chịu ảnh hưởng của lối phóng dịch được sử dụng khá phổ biến vào cuối thế kỷ XIX ở nước ta. Chẳng hạn Trần Gia Du đã lược dịch một số truyện trong tác phẩm chữ Hán của Việt Nam hoặc Trung Quốc ra văn Nôm để in vào Sử Nam chí dị (1877), và sau đó, đến lượt mình, Edmond Nordemann, một giáo chức trường Thông ngôn Pháp tại Sài Gòn lại trích một phần Sử Nam chí dị của Trần Gia Du phiên âm ra chữ Quốc ngữ và in trong cuốn Quảng tập viêm văn (1898) của ông(13).

Tuyển dịch là phương thức thường được sử dụng đối với loại sách vừa mang tính dịch thuật, vừa mang tính sưu tầm, biên soạn, khảo cứu… như Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (1994), Thơ chữ Hán Nguyễn Du (1959), Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi (1962), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1983), Thơ văn Ngô Thì Nhậm (1978), Tuyển tập thơ Hán Việt (1975), Tuyển tập thơ các vua Trần (1996), Tuyển tập văn bia Hà Nội (1978), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập II: 1962; Tập III: 1963; Tập IV: 1963), v.v.

Toàn dịch là phương thức được sử dụng rộng rãi nhất, phổ biến nhất đối với việc phiên âm một tác phẩm Nôm ra chữ Quốc ngữ, hoặc phiên chuyển một tác phẩm Hán ra tiếng Việt hiện đại. Thuộc trường hợp đầu, như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên, Truyện Phạm Công Cúc Hoa, Truyện Thoại Khanh Châu Tuấn… Thuộc trường hợp sau, như Lê Quý Đôn toàn tập (1977), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (Tập I: 1980; Tập II: 1982), Phạm Thận Duật toàn tập (2000), Phan Bội Châu toàn tập (1990)…

Từ lược dịch, tuyển dịch, đến toàn dịch là một phát triển hợp lôgíc, phản ánh nhu cầu giao lưu ngày càng sâu rộng giữa xưa và nay, truyền thống và hiện đại.

- Về mặt biên khảo, có cả hai loại công trình ngắn gọn và dài hơi.

Ngắn gọn, gồm những bài viết hoặc chuyên luận khoa học thuộc lĩnh vực Hán Nôm đăng tải một hay nhiều kỳ trên các tập san, tạp chí như Kỷ yếu của Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (BEFEO), Đông Dương tạp chí (lớp cũ và lớp mới), Nam phong, Tri tân, Tập san Văn Sử Địa, Nghiên cứu Văn học, Tạp chí văn học, Tạp chí Ngôn ngữ, Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Hán Nôm, v.v.

Dài hơi, chủ yếu là loại sách công cụ Hán Nôm, sách luận đề, sách chuyên khảo về tác giả, tác phẩm Hán Nôm, kể cả những bộ sách hợp tuyển, toàn tập mà trên kia có nhắc tới.

Hai loại công trình “ngắn gọn” và “dài hơi” vừa kể đều đồng thời đến với bạn đọc trong suốt chiều dài của thế kỷ XX. Nếu cần một so sánh, thì có thể nói vào nửa đầu thế kỷ, loại “ngắn gọn” xuất hiện nhiều hơn và sang nửa sau thế kỷ, loại “dài hơi” mới có điều kiện phát triển mạnh.

2. Chất lượng: - Hãy nói trước hết về các công trình dịch thuật. Vào những thập niên đầu thế kỷ, dịch thuật còn mang tính thử nghiệm, mò mẫm trong môi trường xúc tiếp, va chạm văn hóa cũ – mới, Đông – Tây. Nội dung dịch phẩm thuộc về “cựu học”, “Hán học”, trong khi phương tiện chuyển tải, quảng bá lại thuộc về “tân học”, “Tây học”. Rượu cũ, bình mới, dễ có những trục trặc buổi đầu. Công việc dịch thuật, từ chọn đề tài cho đến giám định văn bản và chuyển sang tiếng Việt hiện đại… có thể nói chất lượng đều chưa cao. Vì vậy mà thường xảy ra hiện tượng một tác phẩm phải dịch đi dịch lại nhiều lần rồi mới trụ được với thời gian, thuyết phục được bạn đọc.

Phải đợi đến những thập niên cuối thế kỷ, khi mà dịch thuật Hán Nôm được nhận thức như là “một khoa học, một nghệ thuật” thực thụ, khả dĩ góp phần quan trọng vào việc gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông, thì những khó khăn trên mới dần dần được khắc phục, chất lượng dịch thuật cũng bởi thế mà được từng bước nâng cao. Nhiều bản dịch gần đây còn được in kèm theo cả phần nguyên bản chữ Nôm hoặc chữ Hán để bạn đọc tiện đối chiếu khi cần thiết, đấy cũng là một cố gắng đáng khích lệ.

- Về phía biên khảo, đã có những công trình chững chạc của người Việt Nam bên cạnh các học giả phương Tây trên lĩnh vực Hán Nôm ngay từ những thập niên đầu thế kỷ mà ta có thể kể như Việt Nam phong tục (1915) của Phan Kế Bính, Việt Nam sử lược (1915) của Trần Trọng Kim, Trần Nguyên chiến kỷ (1931) của Thiện Đình, Hán Việt từ điển (1932, 1936) của Đào Duy Anh, Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm, Lược khảo về khoa cử Việt Nam (1941) của Trần Văn Giáp, Việt Nam cổ văn học sử (1942) của Nguyễn Đổng Chi, v.v.

Trong những thập niên còn lại của thế kỷ XX, đặc biệt là từ khi Ngành Hán Nôm Việt Nam chính thức ra đời, với sự thành lập Ban Hán Nôm (1970), Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1979) và Bộ môn Hán Nôm thuộc nhiều trường Đại học, công tác sưu tầm, biên dịch, khảo cứu, giảng dạy… Hán Nôm bắt đầu hoạt động có tổ chức, có bài bản, chất lượng khoa học của các công trình biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm nhờ vậy mà được nhích lên nhiều so với trước, và trên một vài phương diện cũng đã đạt được những thành tựu đáng tự hào.

*
**

Trở lên là mấy nét về tình hình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX. Mặt đóng góp lớn nhất của dịch thuật, biên khảo giai đoạn này là đã giành được một chỗ đứng tuy còn khiêm tốn cho cổ học Việt Nam trước sự chèn ép, tấn công từ nhiều phía của các trào lưu “tân học”. Mặt khó khăn của nó là như đã thấy, do ảnh hưởng của thời cuộc mà lượng sách xuất bản lên xuống thất thường, đề tài lựa chọn thiếu cân đối và tỉ lệ khai thác còn quá thấp so với tiềm năng, trữ lượng.

Tất cả, theo thiển nghĩ, đều là những bài học bổ ích cho công tác dịch thuật, biên khảo Hán Nôm trong thế kỷ XXI.

CHÚ THÍCH:

1. Xem Trần Nghĩa, “Những vấn đề mới đặt ra trong việc dịch từ Hán sang Việt hôm nay”, in trong Dịch từ Hán sang Việt, một khoa học, một nghệ thuật, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1982, tr.13 - 23.

2. “Lĩnh vực Hán Nôm” ở đây, xin được hiểu như “Ngành Hán Nôm”. Sở dĩ không dùng “Ngành Hán Nôm”, vì cụm từ này chỉ thực sự ra đời vào nửa sau thế kỷ XX, khi Ban Hán Nôm (1970), rồi Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1979)… được thành lập. Nghĩa là nó chưa bao quát được cho cả thế kỷ.

3. Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp chủ biên; Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1971; Tập II, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1972.

4. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Trần Văn Giáp soạn; Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, 1970; Tập II, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990.

5. Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa và Franỗois Gros chủ biên, 3 tập, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.

6. Nguyễn Đổng Chi, “Thư mục Hán Nôm và nguồn tư liệu thư tịch cũ của Việt Nam”, in trong tạp chí Khảo cổ học, 1986.

7. Luận văn Cử nhân Khoa học Thông tin Thư viện của Phạm Thị Huệ (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội, 1999.

8. Mục lục phiên dịch, gồm 6 hộp phiếu (46, 47, 48, 49, 50, 51), Tủ phiếu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Câu dẫn, trích từ Lời giới thiệu tủ phiếu, do Dương Thái Minh, Trưởng phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện Viện Hán Nôm soạn. Điều đáng chú ý là trong bộ mục lục này, có giới thiệu cả những tư liệu dịch chưa xuất bản (còn ở dạng đánh máy).

9. Trong bảng thống kê này, các số liệu (1, 2, 3…) về sách đã công bố được xếp theo các chuyên ngành như Văn, Sử, Triết v.v… ở từng chuyên ngành như thế, sách lại chia thành các loại dịch thuật (DT), biên khảo (BK) và tính theo thời gian 5 năm một cho tiện theo dõi. Cuối mỗi hàng ngang (thời gian) và cột dọc (chuyên ngành) có ghi tổng số sách dịch thuật, biên khảo và cả dịch thuật lẫn biên khảo của hàng đó, cột đó. Về cách thống kê, một cuốn sách có thể được tính cùng lúc ở nhiều khoản mục thuộc hàng ngang, hay cột dọc, nếu nội dung, tính chất hoặc lần xuất bản của sách trực tiếp liên quan tới các khoản mục thuộc hàng ngang hoặc cột dọc ấy.

10. Dấu hoa thị “*” chỉ tác phẩm được phiên chuyển từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, để phân biệt với số còn lại không có dấu hoa thị, chỉ tác phẩm được phiên chuyển từ chữ Hán ra tiếng Việt hiện đại.

11. Xem Trần Nghĩa, “Dẫn luận”, in trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Sđd., tr.24.

12. Xem Việt Lam xuân thu, Bd của Trần Nghĩa, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1999, phần Giới thiệu văn bản, tr.12.

13. Xem Nguyễn Nam, Lược dịch Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX; Tạp chí Hán Nôm số 1 - 1998, tr.20-31. Đáng chú ý là trong Quảng tập viêm văn, nhiều truyện Nôm quen thuộc của ta cũng được sớm phiên âm ra chữ Quốc ngữ, như Bích Câu kỳ ngộ, Kim Vân Kiều, Nhị độ mai, Phan Trần, Nữ Tú tài, Phương Hoa, Nhị thập tứ hiếu diễn ca, Cung oán, Chinh phụ ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm, Trinh thử, v.v (Xem Nguyễn Nam, bài đã dẫn, chú thích 2, tr.29-30).

TB

LÀNG QUÊ TRUNG AM TRONG THƠ, VĂN
CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585)

TRỊNH KHẮC MẠNH

Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮 秉 謙 sinh năm 1491 và mất năm 1585, húy là Văn Đạt 文 達, hiệu là Bạch Vân Am 白 雲 庵 và Tuyết Giang Phu Tử 雪 江 夫 子 tự là Hanh Phủ 亨 甫, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng) và yên nghỉ vĩnh hằng cũng chính trên quê hương mình. Từ nhỏ đến năm 1534, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở Thanh Hóa và sống cuộc đời ẩn dật dạy học ở quê nhà. Từ năm 1535 đến năm 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng thí và ra làm quan với nhà Mạc, ông thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh năm ất Mùi, niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời vua Mạc Thái Tông. Ông là người học rộng biết nhiều và làm quan đến chức Tả thị lang Bộ Lại kiêm Đông các đại học sỹ, sau cáo quan xin về trí sỹ. Từ năm 1542 đến năm 1585, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghỉ hưu tại quê nhà, tuy ông đã về nghỉ, nhưng vua nhà Mạc vẫn sai người đến hỏi quốc sự và thăng ông làm Thượng thư Bộ Lại, tước Trình tuyên hầu, rồi Trình quốc công. Nguyễn Bỉnh Khiêm hưởng thượng thọ 95 tuổi, trong đó có 84 năm nằm gọn ở thế kỷ XVI và có khá nhiều năm sống ở nơi quê hương mình. Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm và cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều người đi thi đỗ đạt rồi làm quan, khi bất đắc chí hay vì lý do nào đó cáo quan về ở ẩn, các ông thường chọn một nơi nào đó mà mình ưa thích để ở. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lúc thiếu thời, khi trưởng thành, lúc nghỉ hưu luôn gắn bó với làng quê Trung Am nhỏ bé. Đây là một điều đặc biệt ở con người Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính cái làng quê Trung Am này, thời ấy phần nào đã là nguồn cảm hứng vô tận và tạo nên cốt cách trong thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm; và trong thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một bộ phận không nhỏ là hiện thân của tình yêu quê hương xứ sở.

Nhân dịp kỷ niệm 415 năm mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu làng quê Trung Am trong thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của ông; qua đó, nhằm phác họa lên làng quê Trung Am giàu đẹp, đáng trân trọng, đáng tự hào của tác giả nói riêng và của nhân dân Trung Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng nói chung.

Chúng ta hãy hình dung làng quê Trung Am xinh đẹp qua một đoạn văn trích trong bài Trung Tân quán bi ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Mùa thu năm Nhâm Dần, ta bỏ quan chức về nghỉ ở quê nhà, mời các cụ già đi dạo chơi ở bến Trung Tân. Ngắm ra phía đông là biển (biển Đông); ngó về phía tây là kênh (kênh Thầy); phía nam xa nhìn ngòi Liêm Khê, thấy các làng Trung Am, Bích Động đây đó tiếp giáp nhau; phía bắc cúi nhìn sông Tuyết, chợ Hàn, đò Nhật phải trái vây bọc. Một con đường lớn chạy ngang ở giữa, dấu chân ngựa, vết bánh xe, không biết là mấy ngàn dặm nữa. Ta liền ngoảnh lại bảo các cụ già trong làng rằng: những gì mà trước đây các vị sửa sang xây dựng, như các cầu Nghênh Phong, Thần Xuân, v.v. đẹp thì đẹp đấy, nhưng chưa bằng thắng địa này”. Cách đây hơn bốn trăm năm, cái làng quê Trung Am bé nhỏ ấy đã đẹp đến thế. Trong nhiều bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả phong cảnh quê ông, rất lãng mạn, thật nên thơ và hữu tình, là một nơi địa linh mà ai ai cũng muốn đến tham quan. Trong bài thơ Trung Tân ngụ hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết địa thế của quán Trung Tân thật tao nhã của một miền quê vùng gần biển:

Nguyên văn:

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thủy quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên hữu Vân am trắc.
Luân chuyển trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực...

Nghĩa là:

Làng xóm ở phía tây nam quán,
Sông ngòi ở mạn tây bắc quán.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Cạnh vườn có am Bạch Vân.
Bụi xe chẳng bén tới,
Hoa, trúc tự tay trồng...

Trong bài Hạ cảnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả đôi nét về cảnh quan của quán Trung Tân vào ngày mùa hạ sao mà đẹp đẽ nên thơ, phong cảnh hữu tình làm sao:

Nguyên văn:

Nhật trường Tân quán tiểu song minh,
Phong nạp hà hương viễn ích thanh.
Vô hạn ngâm tình thùy hội đắc,
Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh.

Nghĩa là:

Ngày dài ở quán Trung Tân, cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Gió đượm hương sen, càng xa càng thơm mát.
Tình thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Chiều tà ở trên lầu, tiếng ve ngân vang.

Hay trong một khổ bài thơ Tức sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả làng quê Trung Am thật thanh bình và rất lãng mạn:

Nguyên văn:

Tá tiểu trì viên bạng Tuyết khê,
Xuân thâm cổ mộc tự thành khê.
Giang thiêm tình thái thiên hoa túy,
Bích nhiễu hàn khê vạn trúc đê...

Nghĩa là:

Nhờ vào mảnh vườn, cái ao nhỏ bên cạnh khe Tuyết,
Xuân muộn hàng cây cổ thụ tự thành hàng lối.
Vẻ quang tạnh làm đẹp sông nước, ngàn đóa hoa say,
Mầu biếc vây quanh khe mát, muôn khóm trúc rủ...

Chính nơi đây, trên miền quê thơ mộng này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cùng mọi người trong làng xây dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân; tạo nên một thú quê thanh đạm mà ông hằng yêu mến:

Ba gian am quán lòng hằng mến,
Đòi chốn sơn hà mặt đã quen.
Thanh vắng thú quê dầu nấn ná,
Dữ lành miệng thế mặc chê khen.

(Thơ chữ Nôm - bài 8)

Một địa thế có phong cảnh tuyệt vời như vậy, ắt hẳn cuộc sống nơi đây cũng phong lưu phồn thịnh, con người nơi đây cũng nồng ấm tình quê. Trong bài Nhân thôn, Nguyên Bỉnh Khiêm đã miêu tả:

Nguyên văn:

Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào hoa hấp nhĩ tỷ lân hội,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt,
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn...

Nghĩa là:

Nườm nượp xum xuê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa tụ hội, xóm giềng kề bên nhau,
Lòng người nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.

Làm việc nghỉ ngơi thoải mái với những ngày tháng đời vua Nghiêu (ý là thời thịnh trị),

Cùng ca hát vui chung trong trời đất thời vua Thuấn (ý là thời thịnh trị)...

Và trong bài Ngụ hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết:

Nguyên văn:

Bán y thô thị bán nhân hương,
Trung hữu trì viên nhất mẫu cường.
Am quán trường nhàn xuân bất lão,
Giang san nhập họa bút sinh hương...

Nghĩa là:

Nửa dựa vào chợ quê, nửa dựa vào xóm làng,
Trong đó có ao, có vườn khoảng hơn một mẫu.
Chốn am quán mãi mãi thư nhàn, xuân không già,
Non sông đưa vào tranh vẽ, bút thêm hương sắc...

Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có một tấm lòng yêu quê và làng quê Trung Am nhỏ bé ấy đã hun đúc nên con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hình ảnh quê hương đẹp đẽ như tranh vẽ, gấm thêu luôn lắng đọng trong tâm hồn và trong thơ, văn Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Giang sơn tám bức như tranh vẽ
Phong cảnh tư mùa ấy gấm thêu.

(Thơ chữ Nôm)

Hay trong bài Ngụ hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ một bức tranh tuyệt tác quê mình:

Nguyên văn:

Giang quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa nhàn bả tửu thính ngư ca.
Bán thiên lương đệ thanh phong hảo,
Lưỡng ngạn tình thiêm lục thụ đa.
Hứng kịch dã tình thiên ái cúc,...

Nghĩa là:

Ở quán lên ngắm cảnh bên sông khi mặt trời tà,
Lúc nhàn cầm chén rượu nghe tiếng hát làng chài.
Từ lưng trời, hơi lạnh đưa lại luồng gió mát,
Hai bờ sông, trời quang cây xanh nảy nở.
Cảm hứng trào dâng, tình quê ưa riêng hoa cúc,...

Như vậy, cách chúng ta khoảng 500 năm, làng quê Trung Am đã được mô tả khá nhiều trong các bài thơ, bài văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những nét đẹp văn hóa truyền thống. Qua thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngày nay chúng ta hoàn toàn có thể thấy được làng quê Trung Am nhỏ bé bên bờ sông Thái Bình xưa kia, đã là một nơi thắng địa, một khu di tích văn hóa và xã hội có cuộc sống sinh hoạt phồn thịnh ở vào thế kỷ XVI. Nhưng nay, mọi người nhìn quang cảnh làng quê Trung Am này không được như xưa, ai ai qua đây cũng không khỏi trạnh lòng. Như mọi người đều biết, địa phương nào trên đất nước ta cũng có một nét đẹp văn hóa truyền thống riêng trong nét đẹp văn hóa chung của dân tộc, nếu địa phương đó biết gìn giữ và phát huy. Thủ đô Hà Nội tự hào có Văn miếu - Quốc tử giám, có chùa Trấn Quốc, có đền Quán Thánh, v.v. và luôn được quan tâm, tôn tạo; có nhà Thái học, có thành Cổ Loa được đầu tư xây dựng lại; làm cho cảnh quan của Thủ đô thêm cổ kính và sang trọng, thu hút đông đảo khách tham quan. Tỉnh Hải Dương tự hào có Côn Sơn - Kiếp Bạc và luôn được sửa sang, nay đã trở thành khu văn hóa du lịch nổi tiếng. Tỉnh Quảng Ninh có Hạ Long với núi Bài Thơ, một thắng địa không chỉ riêng của Việt Nam mà của chung cả thế giới. Thiết nghĩ TP. Hải Phòng nên có một dự án đầu tư nhằm tôn tạo và phục hồi những quán Trung Tân, am Bạch Vân, cầu Nghênh Phong, ngòi Liêm Khê, sông Tuyết, chợ Hàn, đò Nhật, v.v. tạo nên một khu tưởng niệm Nguyễn Bỉnh Khiêm và khu văn hóa du lịch ở làng Trung Am, cùng với tục thả đèn trời ở làng Nhân Mục, múa rối nước dân gian ở làng Đồng Minh. Theo tôi, việc đầu tư tôn tạo và phục hồi các di tích ở làng quê Trung Am như thời mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống là hoàn toàn xứng đáng với tầm vóc một nhà văn hóa lớn thế kỷ XVI, uy tín của bậc sư biểu đối với nhân dân Hải Phòng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung(*).

T.K.M

CHÚ THÍCH

(*) Khi viết bài này chúng tôi đã sử dụng và tham khảo các sách:

1- Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm , Nxb. Văn học, H., 1983.

2- Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 6), Nxb. KHXH., H., 1997

TB

MAI AM - NỮ THI NHÂN CUỐI CÙNG CỦA DÒNG THƠ CHỮ HÁN THẾ KỶ XX

ĐỖ THỊ HẢO

Nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam, những nữ thi nhân Hán Nôm quả là thưa thớt, có thể đếm trên đầu ngón tay. Hơn thế nữa, tác phẩm mà các vị đó để lại cũng không nhiều, như trường hợp Lý Ngọc Kiều chỉ có một bài kệ(1). Ngoài ra, phần lớn còn lại dăm ba bài thơ của các tác giả như Bà huyện Thanh Quan (4 bài), Ngô Chi Lan (7 bài), v.v. Người sáng tác nhiều nhất như nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng chỉ tới vài chục bài.

Sở dĩ có hiện tượng trên là vì Nho giáo không chấp nhận vị trí của người phụ nữ trong xã hội. Chỗ đứng của họ là gia đình, với cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con). Trường học, khoa cử là nơi dành cho đấng quân tử mày râu, vì thế ta không ngạc nhiên khi bà Tiến sỹ đời nhà Mạc Nguyễn Thị Duệ đã phải cải trang để đi thi. Phụ nữ làm thơ, làm văn xưa kia hầu hết xuất thân trong các gia đình Nho học. Họ thường “học lỏm” ở cha anh trong lúc dạy dỗ môn sinh, đệ tử nhưng đã để lại cho đời khá nhiều áng thơ bất hủ. Khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Việt Nam kết thúc năm 1919. Từ đây, chữ Quốc ngữ dần thay thế chữ Hán, Nôm. Những nữ sĩ sống tiếp nối giữa hai thế kỷ như Sương Nguyệt Anh() (1864-1921) bên cạnh những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm còn làm cả thơ bằng chữ Quốc ngữ:

Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa,
Xót dạ thần dân chốn lửa than;
Nước mắt cơ cùng trời đất biết,
Biển dâu một cuộc thấy mà thương !
(Cảm tác khi vua Thành Thái ngự giá vào Nam)

Duy có một người phụ nữ chỉ làm thơ chữ Hán và đã để lại cho đời tập thơ Diệu Liên dày dặn với 345 bài, đó là công chúa Mai Am, con gái thứ 25 của vua Minh Mạng.

Từ trước đến nay, tất cả sách báo viết về Mai Am đều không biết bà sinh và mất năm nào(3). Song qua Diệu Liên tập với những dòng ghi chú trong chùm thơ 15 bài khóc con ( Khốc nh i ), bài Phụng họa gia tỷ Nguyệt Đình sơn cư nhàn vịnh kiến ký chi tác (Họa bài thơ chị Nguyệt Đình nhân lúc nhàn rỗi ở sơn cư gửi cho) và tấm bia Tiên mẫu Thục Tân Nguyễn Khắc thị thần đạo biểu do Tùng Thiện Vương soạn, ... ta có thể biết Mai Am sinh giờ Hợi ngày 11 tháng 8 năm Bính Tuất (1826) và mất tháng 1 năm 1904. Qua đây, ta cũng biết khá cặn kẽ về cuộc đời của một bà công chúa hay thơ. Sinh ra và lớn lên trong gia đình hoàng tộc, Mai Am được hưởng sự giáo dục theo khuôn mẫu điển hình của Nho giáo. Ngay từ nhỏ, công chúa đã tiếp nhận được cách dạy dỗ của mẹ, bà Nguyễn Khắc Thị Bửu, con quan Tư không Nguyễn Khắc Thiệu, người làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Bà Bửu là người phong tư trọng hậu, cử chỉ đoan trang, khi nói lúc cười đều có chừng mực; Vốn sẵn thông minh nên hiểu nhiều đạo lý; Bản tính cần cù nên không muốn an nhàn; Hễ buông bút thì cầm kim; Luôn tiếc thời gian vì biết rằng đời người thật ngắn ngủi ...(4)

Chính người mẹ là tấm gương để Mai Am noi theo. Là một công chúa nhưng Mai Am không thích cuộc sống phù phiếm, xa hoa như những người trong hoàng tộc. Sinh thời bà không thích cái vinh hoa của những cuộc vung tiền hay mua đất cho xe ngựa chạy, không hoang phí vào những trò múa hát trong phủ, bỏ bớt lễ tiết, hạn chế điểm trang, không xa xỉ, trang hoàng lộng lẫy.

Mai Am từng bộc bạch những suy nghĩ của mình qua lời dặn dò con em hoặc học trò: “Đọc sách gì cũng có ích song phải tự phòng, nhất là những ngoại truyện kỳ thư là những sách người thường hay đọc. Khi cầm quyển sách người đọc phải có óc phán đoán vững vàng. Nếu không tự chủ được thì rất dễ tiêm nhiễm theo, đến lúc ấy thật khó tẩy trừ”.

Có lẽ đại thi hào Nguyễn Du đã đúng khi cho rằng “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cuộc đời nàng công chúa hay thơ đã trải qua nhiều nỗi truân chuyên, song có lẽ vì thế nên tất cả tâm huyết, tình cảm bà đã gửi gắm vào thơ.

Thực ra ngay từ đầu, Mai Am không có ý định in thơ. Trong bài Đáp Sĩ Luân nhị thập bát vận (Bài thơ 28 vần trả lời Sĩ Luân) bà cho rằng: “Bản tính mình vốn đôn hậu, thuần phác, chỉ nên cố gắng tiếp thu sự dạy dỗ của gia đình. Kiến văn còn thô thiển, hẹp hòi, so với bạn bè còn kém cỏi ... Thật hổ thẹn vì tài mình giống như cây gỗ tạp. Nay nếu đem in e sẽ thành củi rác trong rừng thơ”. Nhưng được sự khuyến khích của bạn bè, nhất là của Sĩ Luân, một nhà thơ đồng thời là cháu của Mai Am, Diệu Liên tập đã được xuất bản lần đầu 100 bản vào năm 1867 niên hiệu Tự Đức 20. Lần in này chính Mai Am tuyển chọn thơ, sắp xếp thành quyển I và quyển II gồm 177 bài. Tùng Thiện Vương đọc duyệt. Phạm Thuật và Thân Trọng Di theo dõi, trông nom việc in ấn. Tuy nhiên, Diệu Liên tập không chỉ được in một lần. Đọc bài Lại Đức công chúa Diệu Liên thi tập đề từ của Châu Giang Bùi Cúc Đình(5) viết sau tiết Trùng dương niên hiệu Thành Thái Canh Dần (1890) sáu ngày, ta biết Diệu Liên tập được tái bản vào niên hiệu Thành Thái 3 (1891) bổ sung thêm quyển II và bổ di(6).

Nằm trong kho tàng sách Hán Nôm Việt Nam, song Diệu Liên thi tập có số phận may mắn hơn nhiều văn bản khác. Hai lần in đều được chính tác giả và người thân - những đại gia đương thời, trực tiếp theo dõi. Ngay Huệ Phố thi tập là tác phẩm của bà chúa em(7) do chính Mai Am đưa in hiện bị thất lạc không còn bản nào.

Có thể nói, hiếm có tác phẩm nào được nhiều ý kiến đánh giá của các tác gia đương thời như đối với Diệu Liên thi tập của Mai Am. Trong bài Mai Am thi tập tự, Thái sư Cần chính điện đại học sĩ, Quận công Trương Quảng Khê viết: “... cứ xem nước Nam ta hàng trăm ngàn năm trở lại đây, thơ văn của những bậc khuê các trước có Phạm Lam Anh, sau đến Hồ Xuân Hương, ngoài hai người ra tuyệt nhiên chẳng nghe nói có ai nữa. Nay Thương Sơn đã là một nhà thơ lão luyện trong nước, quý chúa Mai Am tài thơ cũng chẳng thua kém... Thực là khí thiêng sông núi chung đúc tinh anh, chẳng hiềm phái quần thoa, sao chỉ tập trung vào nơi con vua cửa chúa... Xin đem nguyên tập thơ bình duyệt, thấy rằng văn phong tự nhiên, tứ dường thác chảy vượt hơn hẳn Lam Anh, Xuân Hương, liền cầm bút viết lời tựa này để ghi lại việc hiếm thấy trên đời, ngàn năm có một trong chốn hương khuê” (Tháng 8 năm Quý Hợi, niên hiệu Tự Đức 16 (1863).

Nguyễn Hàm Ninh(8), một danh sĩ đất Kinh kỳ trong Diệu Liên thi tập tự cũng đã khiêm tốn viết như sau: “Tôi học thơ ngài Thương Sơn (tức Tùng Thiện Vương) gần 20 năm, nay đọc thơ của bà chúa em (Mai Am) thì tự biết phận mình không chỉ là học trò nơi nhà Tùng Vân(9) mà còn là học trò nơi đình Thỉnh Nguyệt”.

Không chỉ những danh sĩ người Việt ca ngợi thơ Mai Am mà các vị Tiến sĩ Trung Hoa cũng hết lời thán phục: “Thơ Mai Am đi theo bước của Ban Chiêu, Tả Phàn(10), nối cái đẹp của Lam Anh, Xuân Hương. Cho nên miệng lưỡi kỳ diệu nhả ra hoa sen, tấm lòng thảo thơm phả ra hơi tuyết” (Quế Lâm, Đường Cảnh Tùng).

345 bài thơ trong Diệu Liên tập được sáng tác trong 44 năm, rõ ràng Mai Am đã lấy việc sáng tác thơ làm sự nghiệp của mình. Có thể coi Diệu Liên tập là quyển nhật ký bằng thơ. Qua quyển nhật ký thơ này, với phương pháp ghi chú khá cụ thể, Diệu Liên tập đã làm sáng tỏ được nhiều nghi vấn còn mắc mứu đến nay. Thử đơn cử một số ví dụ: Trước đây giáo sư Bùi Văn Nguyên, nhà nghiên cứu văn học Triêu Dương, và nhiều người khác cứ băn khoăn đặt câu hỏi không biết Bà huyện Thanh Quan làm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ) dưới triều Minh Mạng hay Tự Đức. Đọc bài Tống Lưu ái Lan thất Nguyễn thị quy Hà Nội (Tiễn vợ Lưu ái Lan, bà họ Nguyễn về Hà Nội) do Mai Am viết vào niên hiệu Tự Đức 10 (1857), ẩn số trên đã được giải đáp. Bài thơ như sau:

Phiên âm:

Sổ tải thiên ngung lạc vị cùng,
(Nguyễn thị phả năng thi, dư thường dữ xướng họa)
Vô đoan hành sắc thử thông thông.
Lạc hoa phi nhứ tam xuân mộ,
Hiểu nguyệt tàn dương nhất lộ trung.
Thượng hữu quan hà ngư nhạn tín,
Bất ưng Nam Bắc mã ngư phong.
Long Biên kiến thuyết giai sơn thủy,
Cực mục sầu nan nghiên tịch đồng.

Dịch nghĩa:

Mấy năm ngàn tâm sự buồn vui dãi bày chưa hết,
(Bà họ Nguyễn là người hay thơ, thường cùng ta xướng họa)
Vô cớ phải chia tay nét buồn rười rượi.
Hoa rụng tơ bay đã vào tiết cuối xuân,
Dọc đường đi sẽ là cảnh trăng sớm chiều tà.
Lại còn núi sông cách trở mong tin nhạn,
Đừng nghĩ rằng phong khí Nam Bắc khác nhau.
Nghe nói Long Biên phong cảnh đẹp,
Mỏi mắt ngóng trông, khó lại được nghiên bút cùng.

Mặc dù sống tiếp nối giữa hai thế kỷ, đương thời đã có nhiều người sáng tác bằng chữ Quốc ngữ, song Mai Am chỉ làm thơ bằng chữ Hán. Bà làm thơ để thổ lộ cái “chí” và cái “tình”, bởi thơ khởi phát tự lòng người. Thơ Mai Am chủ yếu làm theo thể cách đời Đường, cách xướng họa hay thú tặng cũng là mô phỏng theo cách của Bạch Cư Dị (11) và Nguyên Vi Chi (12).

Sách Liễu Hoa Uyên nhàn lục chép: “Những người sâu sắc về thơ đều thích thơ Đường, vì thơ đời Đường lấy thanh nhã, ưu sầu, cảm động và ai oán làm chủ cho thi cách... Nó toát lên cái ý thanh khiết, thoát sái (bay bổng) và cô mại (riêng mình vượt xa mọi người)”.

Lê Quý Đôn(13) trong Vân đài loại ngữ (quyển 5) cũng cho rằng: “Phàm tình là người, cảnh là trời, sự việc là hợp trời đất mà xuyên suốt. Lấy tình xen vào cảnh, lấy cảnh kết hợp với việc, gặp việc thì phát ra lời, nhân lời mà thành tiếng. Cảnh không hẹn đến mà tự đến, lời không cố hay mà tự hay, có thể đạt đến chỗ tao nhã của thơ”.

Thơ Mai Am đã hội đủ những yếu tố trên, bà đã dùng thơ làm phương tiện để “ngôn chí”. Dẫu rằng làm thơ thuần túy chữ Hán song sức chuyển tải trong thơ bà khá mạnh mẽ. Mai Am là một trường hợp hiếm và lạ, nhất là đối với những nữ thi nhân thời phong kiến. Tình yêu đối với đất nước, lòng thương dân trong thơ bà thật da diết làm sao. Thơ Mai Am không có nỗi buồn man mác như bà huyện Thanh Quan:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

hoặc luyến tiếc một thời vàng son đã qua, một đi không trở lại của những “lối xưa xe ngựa”, “nền cũ lâu đài”...

Mặc dù sống cùng thời với Thanh Quan, lại thường xuyên cùng nhau đàm đạo xướng họa nhưng tình cảm yêu nước trong thơ Mai Am mãnh liệt và sôi sục. Phải chăng một phần cũng vì chồng bà - Thân Trọng Di, đã hy sinh khi ứng nghĩa Cần Vương theo vua Hàm Nghi tìm đường cứu nước.

Sống vào thời kỳ đất nước bị thảm họa xâm lăng, ở Mai Am nỗi nước với tình nhà là một. Mỗi sự kiện, mỗi biến cố xảy ra đều gắn liền với vận mệnh đất nước, với sự sống còn của hoàng tộc và bản thân nhà thơ. Cửa Thuận An bị tấn công, cửa biển Đà Nẵng bị bắn phá, mấy tỉnh Nam Bộ liên tiếp rơi vào tay giặc. Cuối cùng thực dân Pháp chiếm Kinh thành Huế, thiết lập nền đô hộ ở Việt Nam. Mai Am đã chứng kiến và theo dõi tất cả những sự kiện lịch sử đó. Bà hồ hởi và tự hào khi quân giặc rút khỏi Đà Nẵng:

Phong cương liên báo tuyệt Hồ trần,
Nhật chiếu hồng kỳ tử mạch xuân.
Trác tức côn di bôn sóc mịch,
Phong yên diện phục tịnh Nam tân.
(Tức sự chỉ Quảng Nam lỗ thoái)

Tạm dịch

Tin về đã sạch bóng thù,
Mặt trời chiếu đỏ màu cờ sắc xuân.
Giặc thua tháo chạy bặt tăm,
Khói tan lửa tắt lặng dần bờ Nam.
(Tức sự khi giặc rút khỏi Quảng Nam)

Nhưng bà lại cay đắng xót xa khi trở lại Thuận An trong cảnh vắng lặng, tả tơi (Tái đáo Thuận An hữu cảm chi tác). Xin trích dẫn một phần quang cảnh hãi hùng xảy ra ở Thuận An dưới con mắt một sĩ quan hải quân Pháp - Pierre Loti, người đã từng tham gia cuộc chiến 1883 (Bài trên báo Le Figaro): “... Những thân hình gầy guộc, quần áo tả tơi, đầu đội nón trắng được vũ trang sơ sài bằng giáo mác và những khẩu súng cổ han gỉ. Họ chẳng có vẻ gì là những kẻ thù đáng gờm của chúng ta. Thế mà trong cơn hoảng loạn họ đã bị chúng ta giết sạch ngay tại chỗ bằng lưỡi lê... say sưa vì những tiếng kêu la, vì cuộc đuổi bắt, vì màu đỏ của máu, bọn lính thủy tàn sát một cách thích thú. Khi chẳng còn ai để giết, bọn chúng vẫn còn kích động đến cực độ đã ùa ra khỏi pháo đài để lao tới những kẻ bị thương. Đám người này quá khiếp sợ, kẻ thì gục trong hố giả chết, kẻ rúc vào chiếu kêu rên thảm thiết, giơ hai tay lên van xin đừng giết. Nhưng bọn lính thủy đã kết liễu đời họ, dùng lê đâm nát người hoặc lấy báng súng đập vỡ sọ, tất cả không trừ một ai”.

Trước thực tại như trên, là người ai không đau xót trước thảm cảnh hãi hùng của đồng bào, đồng loại. Đặc biệt đối với Mai Am, một người phụ nữ, một thi nhân vốn giàu lòng yêu nước, nhân ái và luôn khắc khoải nỗi đau đời.

Nói đến thơ Mai Am, ta không thể không nói tới bài Độc điếu nghĩa dân tử trận văn. Có lẽ rất nhiều nhà thơ, nhà văn đương thời (1882) được đọc bài Văn tế nghĩa sĩ trận vong của Nguyễn Đình Chiểu. Nhưng chỉ riêng Mai Am đã bộc lộ những tâm tư, tình cảm của mình bằng lời thơ chân thành làm xúc động lòng người lúc bấy giờ và cả những thế hệ sau này. Nghĩa khí và lòng yêu nước thương nòi đã ngùn ngụt trong từng câu từng chữ của bài thơ:

Xích tử Cần Vương năng địch khái,
Thư sinh dụng võ tích phi tài.

Dân chúng Cần Vương vì ghét địch,
Nhà Nho lâm trận tiếc không tài.
(Lê Thước dịch)

Tận đáy lòng Mai Am cũng như tất cả phụ nữ Việt Nam đều mong muốn được sống bình yên trong tổ ấm gia đình với chồng với con. Nhưng trước họa xâm lăng thì họ có thể hy sinh cả bản thân mình với tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đây chính là một trong nhiều phẩm chất cao đẹp của phụ nữ Việt Nam.

Mai Am đã thấm nỗi đau mất chồng, mất nước, cho nên hơn ai hết bà thông cảm và trân trọng đối với những nghĩa sĩ đã xả thân vì nước. Chỉ riêng bài Độc điếu nghĩa dân tử trận văn , Mai Am cũng xứng đáng được xếp vào hàng các nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Mai Am, nữ thi nhân cuối cùng của dòng thơ chữ Hán thế kỷ XX, dẫu chỉ làm thơ chữ Hán nhưng bà đã để lại những vần thơ bất hủ không chỉ cho hôm nay mà còn cho những thế hệ mai sau.

Đ.T.H

CHÚ THÍCH

(1) Nguyên văn bài kệ:

Sinh lão bệnh tử
Lẽ thường tự nhiên
Muốn cầu siêu thoát
Càng trói buộc thêm
Mê phải cầu Phật
Hoặc thì cầu Thiền
Chẳng cầu Thiền Phật
Mím miệng ngồi yên

(2) Bà tên thật là Nguyễn Xuân Khuê (hay Nguyễn Thị Ngọc Khuê) con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Bà là người phụ nữ đầu tiên ở thế kỷ XX làm Chủ bút tờ Nữ giới chung xuất bản tại Sài Gòn.

(3) Lược truyện các tác gia Việt Nam - Trần Văn Giáp, Thơ văn yêu nước thế kỷ XIX - Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh, ...

(4) Bia Tiên mẫu Thục Tân Nguyễn Khắc thị thần đạo biểu .

(5) Bùi Dị.

(6) Hiện Diệu Liên thi tậP có 9 dị bản trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang các ký hiệu: VHv.685, VHv.696, VHv.688, VHv.689, VHv.1897, A.2604, VHv.1398, A.313.

(7) Quý Khanh.

(8) Nguyễn Hàm Ninh tên tự là Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai, người huyện Bình Chánh tỉnh Quảng Bình. Ông sinh năm 1808, mất năm 1867, đỗ Thủ khoa niên hiệu Minh Mệnh 12 (1831) được bổ Tri huyện Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang) rồi thăng án sát. Nguyễn Hàm Ninh nổi tiếng hay chữ và giỏi thơ ngũ ngôn, từng là bạn xướng họa với Mai Am. Tác phẩm của ông có Tĩnh Trai thi sao.

(9) Thi xã Tùng Vân do Tùng Thiện Vương sáng lập. Đình Thỉnh Nguyệt nơi Mai Am thường chủ trì những đêm thơ với sự tham gia của các danh sĩ đất Kinh kỳ.

(10) Hai nữ thi nhân nổi tiếng của Trung Quốc.

(11) Bạch Cư Dị người đất Thái Nguyên, Trung Quốc, sống thời nhà Đường, đỗ Tiến sĩ niên hiệu Nguyên Hòa. Ông làm đến Hình bộ thượng thư rồi về trí sĩ. Văn thơ của ông tinh khiết, bình dị, cận nhân tình.

(12) Nguyên Vi Chi người đất Hà Nam, cũng sống dưới thời nhà Đường. Ông là bạn thân của Bạch Cư Dị, lối làm thơ dựa theo vần của bài xướng để họa lại bắt đầu từ hai ông.

(13) Lê Quý Đôn (1726-1784) tên tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, người làng Diên Hà tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Tiến sĩ khoa thi niên hiệu Cảnh Hưng 13, làm tới chức Công bộ thượng thư tước Dĩnh quận công. Là một nhà bác học, ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

TB

KINH THI VỚI VĂN THƠ HÁN NÔM

TRẦN LÊ SÁNG

Trong năm bộ kinh điển nổi tiếng của Nho gia (Ngũ kinh), Kinh Thi được xếp hàng đầu: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân thu.

Qua hơn ba nghìn năm lịch sử, từ nhiều phương diện của nội dung và nghệ thuật, ở thời nào Kinh Thi cũng được các học giả Trung Quốc đánh giá cao.

Hơn thế, từ thời xưa, nhiều nước ở Châu Á, đặc biệt với Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản..., Kinh Thi càng được rộng rãi lưu truyền, trân trọng.

Chính vì thế, các tác giả Hán Nôm nước ta đã tiếp thu tinh hoa của Kinh Thi, vận dụng ý hàm súc cũng như câu chữ điêu luyện của Kinh Thi vào tác phẩm của mình một cách tinh tế. Ý của ông Dương Quảng Hàm viết trong bộ Việt Nam văn học sử yếu, theo chúng tôi, đây là ý rất đáng tham khảo. Ông viết:

“A. Kinh Thi là một nguồn thi hứng; các thi sĩ thường mượn đề mục ở đấy.

B. Kinh Thi là một kho điển tích; các nhà làm văn hay lấy điển hoặc lấy chữ ở đấy.

Ta cứ đọc Truyện Kiều thì thấy rất nhiều điển và mượn chữ ở Kinh Thi”(1)

Thực ra, không chỉ ở Truyện Kiều mà không ít tác phẩm Hán Nôm khác cũng lấy điển và chữ ở Kinh Thi, tuy có phần ít hơn. Vừa qua, chúng tôi may có dịp tiếp xúc nhiều hơn với Kinh Thi; nay viết lại đôi phần những chỗ biết được về việc kể trên, mong giúp được phần nào cho những ai quan tâm đến điều này.

*
**

- Người biết chữ Hán, ai đã đến thăm Đền Hùng, qua cổng lên Đền, chắc đều phải dừng lại, suy nghĩ về bốn chữ lớn trên cổng: Cao sơn cảnh hành. Bốn chữ này, gốc ở Chương 5 của bài Xa hạt, phần Tiểu Nhã của Kinh Thi:

Cao sơn ngưỡng chỉ
Cảnh hành hành chỉ

Về hai câu thơ này, có thể nói, sự chú giải của người xưa đã bề bộn đến mức khó bề bộn hơn được nữa; thế nhưng vẫn khó hiểu. Có lẽ phải nghĩ đến sự “tâm lĩnh” vậy chăng! Nhưng nghĩa đại thể là:

Núi cao khiến người ta phải ngẩng trông
Đường lớn khiến người ta phải đi theo

Khổng Tử đánh giá cao tinh thần “hiếu nhân” cao cả của câu thơ trên. Ông viết: “Sự hiếu nhân của Thi đến như vậy. Theo đường gốc ấy mà đi, giữa đường mệt mỏi, quên cả sự già của mình, không biết đến tuổi không còn nhiều, cứ ngày ngày gắng hết sức, đến chết mới thôi”.

- Giở Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử lớn nổi tiếng của nước ta, ở lời bình của các sử gia, thỉnh thoảng chúng ta thấy có dẫn Kinh Thi. Như Lê Văn Hưu (1229 - 1322) bàn về việc Lý Thần Tông hạ chiếu bắt con gái các quan lấy chồng muộn, đã viết: “Lòng cha mẹ ai chả muốn con cái có vợ có chồng. Cho nên Kinh Thi hình dung điều ấy trong Đào yêu(2) và thơ Phiếu hữu mai(3) để khen việc giá thú kịp thì và chê việc để lỗi thì vậy”(4). Ngô Sĩ Liên khi bàn về mối quan hệ giữa Đinh Củng Viên và Lê Tòng Giáo cũng dẫn Kinh Thi: “Lấy tình tốt mà giao hảo với nhau thì không phải là tư giao, như Kinh Thi vịnh việc cho nhau quả mộc qua và quả mận là thế”(5), v.v.

- Đến như bộ Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát, với chữ Nôm và thơ lục bát đặc thù dân gian, việc vận dụng Kinh Thi có lẽ càng đậm hơn. Ở bộ sử này, ngoài một số chỗ, về cách trình bày, thoáng lên vẻ Tụng của Kinh Thi (điều này quả là khó nói cho được rạch ròi, nhưng ngay trong chính văn, tác giả cũng đã dùng thẳng thơ trong Kinh Thi:

Vụ tiên vừa thuở đào yêu
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên(6)

Đào yêu chính là tên một bài thơ trong Kinh Thi mà ở trên chúng ta đã biết.

Noãn bào dù chuyện hoang đường
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì(7)

Huyền điểu là một bài thơ ở Thương tụng, phần Tụng của Kinh Thi. Thơ Huyền điểu kể sự tích bà Giản Địch nuốt trứng chim mà sinh ra ông Tiết, tổ của nhà Thương, v.v.

- Trong văn bia nước ta, việc lấy điển tích từ Kinh Thi cũng khá phổ biến. ở Văn miếu (Hà Nội) có tấm bia được viết từ năm 1463, đó là bia Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký; trong bia có câu: “Thời đương Đại tỵ, sĩ ca Lộc minh nhi lai giả đa chí nhất thiên tứ bách dư danh”, nghĩa là: “Lúc bấy giờ gặp kỳ thi Đại tỵ, kẻ sĩ ca bài Lộc minh mà kéo đến, đông tới hơn 1400 người”(8). Lộc minh chính là bài thơ đầu tiên ở phần Tiểu nhã, Kinh Thi; bài thơ này ca ngợi mối quan hệ gần gũi giữa vua và bầy tôi. Trong bài văn bia Minh Đức tam niên Kỷ Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn miếu, Hà Nội) được viết năm 1529 cũng có câu: “Thời đương Đại tỵ, sĩ ca Lộc minh nhi lai giả đa chí tứ thiên dư nhân” (Lúc bấy giờ gặp kỳ thi Đại tỵ, kẻ sĩ ca bài Lộc minh mà kéo đến, đông tới hơn 4000 người” (9). Trong bài văn bia Quang Thuận thập ngũ niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn miếu, Hà Nội), có câu: “Tiệt thạch phó cụ chiêm chi vọng”; câu này chính lấy chữ từ bốn câu đầu Chương I bài Tiệt Nam Sơn, Tiểu nhã, Kinh Thi:

“Tiệt” bỉ Nam Sơn
Duy “thạch” nham nham
Hách hách Sư Doãn
Dân “cụ” nhĩ “chiêm”

Trong bài văn bia Hồng Đức Tiến sĩ đề danh bi ký, có câu: “Văn Vương vô dịch chi tâm”; ý này lấy ở Đại nhã. Câu “Văn Vương khải đễ chi giáo” lấy chữ ở Chương I, bài Hạn lộc, Đại nhã: “Khải đễ quân tử”. Hai câu: “Vực bốc chi nhân, Thanh nga chi hóa” thì dẫn thẳng thơ Vực bốc Đại nhã và thơ Thanh nga (Thanh thanh giả nga), Tiểu nhã nói về lòng nhân đức và sự chuộng hiền của bậc đế vương. Trong bài văn bia Cảnh Hưng Tiến sĩ đề danh bi ký có câu: “Thi vân: Chiêm bỉ Hạn lộc, trăn hộ tễ tễ; khải đễ quân tử, can lộc khải đễ; nhân tài giả; quốc gia chi trăn hộ dã...”; nghĩa là: Kinh Thi chép: Trông kìa chân núi Hạn, cây trăn cây hộ xanh tươi; bậc quân tử vui vẻ dễ gần, việc tiến thân hưởng lộc sẽ vui vẻ dễ dàng; nhân tài, đấy chính là cây trăn cây hộ của nước nhà vậy...; bốn câu: “Chiêm bỉ... can lộc khải đễ” là lấy nguyên Chương I bài Hạn lộc, Đại nhã. Trong bài văn bia này còn có những câu như: “Tòng kim nhi hậu, bồi dưỡng chấn tác, phú Ngư dược dĩ quan quang, ca Lộc minh nhi tựu liệt, tương tất thương thương dương dương...” (Từ nay về sau, chấn hưng việc học, kẻ sĩ ngâm thơ Ngư dược để ngắm vinh quang, ca thơ Lộc minh mà đến xếp vị trí...). ở đây, thơ Ngư dược (tức Hạn lộc, Đại nhã; thơ Lộc minh, Tiểu nhã đã được tác giả bài văn bia (Lê Quý Đôn) sử dụng làm điển tích.

Trong bài văn bia Thánh Tông Chiêu lăng bi (Hoàng Việt văn tuyển; Quyển III), viết về con cái đông đúc của vua Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung đã lấy thơ Chung tư, Chu nam, Quốc phong và thơ Qua điệt (tức Miên) ở Đại nhã của Kinh thi làm điển: “Chí ư tôn chi tự dận, tắc Chung tư trập trập, Qua điệt miên man...”, v.v.

Điều đáng chú ý nhất là văn bia ở chùa cũng dẫn Kinh Thi. Trong văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi, một trong những văn bia cổ nhất của nước ta (Thơ văn Lý Trần; Tập I; Nxb. KHXH, 1977); có câu: “Lộng ngõa lộng chương”; câu này lấy chữ ở Chương VIII Chương IX, bài Tư can, Kỳ phụ chi thập, Tiểu Nhã, Kinh Thi: “Tái lộng chi chương” và “Tái lộng chi ngõa”. Trong văn bia Trùng tu Huy Văn điện Dục Khánh tự bi ký (Tuyển tập văn bia Hà Nội; Quyển II; Sđd.), có câu: “Quan chi hĩ, Liệt văn, Kỳ úc chi vịnh, kỳ tương thần ngộ nhi tâm đắc dư” (Ngắm cảnh rồi, ngâm thơ Liệt văn, Kỳ úc; việc ấy sẽ giúp sự thần ngộ mà tâm đắc chăng!); Liệt văn chính là tên một bài thơ ở Chu tụng, nói người có công thì được người đời sau cúng tế; còn Kỳ úc là tên một bài thơ ở Vệ phong, Quốc phong, nói về cái đức của người quân tử. ở bài văn bia Hàm Long tự bi ký (Sách vừa dẫn), việc lấy điển từ Kinh Thi càng nhiều hơn, như viết về bà Thái phi Trương Thị rằng: “Nghiễn thiên chi muội, viết tần vu Kinh”; bốn chữ trước lấy ở Chương V, bốn chữ sau lấy ở Chương II, thơ Đại minh, Đại nhã. Lại viết: “Cù mộc chi ca hứng, Chung tư chi vịnh tác”; Cù mộc, Chung tư là hai bài thơ ở Chu nam, Quốc phong, nói về đức độ của bà Hậu phi đời xưa. ở bài Minh lại viết: “Trùng tu cám vũ, điểu cách huy phi”; bốn chữ “Điểu cách huy phi” là lấy chữ ở Chương IV thơ Tư can, Tiểu nhã: “Như điểu tư cách, như huy như phi”, v.v.

- Trong thể văn dùng ở phương diện quốc gia, Kinh Thi cũng xuất hiện tương đối sớm ở nước ta.

Vào cuối năm ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh; trong Thiện vị chiếu có đoạn: “Mỗi niệm cầu hiền lương quân tử, đồng phụ chính trị, túc dạ quyền quyền ư tư cực hĩ. Thi vân: Quân tử hảo cầu, cầu chi bất đắc, ngộ mị tư bặc, du tai du tai...” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thi dẫn ở đây chính là Kinh Thi; đoạn dẫn đã lấy câu cuối ở Chương I và ba câu tiếp cuối của Chương II bài Quan thư Chu nam.

Đời Lê Thái Tông, Thiệu Bình năm thứ 3 (1436), đoàn sứ giả Đào Công Soạn sang nước Minh, trong bài biểu dâng Hoàng Thái hậu có câu: “Thấm nhuần đức hóa Nhị Nam” (Lịch triều hiến chương loại chí; Bang giao chí); Nhị Nam nói ở đây chính là nói Chu nam, Thiệu nam trong Kinh Th i vậy.

Đời Lê Nhân Tông, Thái Hòa năm thứ 2 (1444), Đào Công Soạn lại đi sứ, trong bài biểu dâng Hoàng Thái hậu vẫn dẫn điển Nhị Nam: “Truyền ra phong hóa Nhị Nam, nối mãi lâu dài” (Sđd.).

Triều Lê Thánh Tông, Quang Thuận năm thứ 5 (1464), đoàn Lê Tông Vinh đi sứ, trong bài biểu tạ ơn Hoàng hậu có câu: “ Cù mộc dâng thơ, phúc lộc dài lâu...”; Cù mộc (Nam hữu cù mộc) là tên bài thơ ở Chu Nam, Quốc phong; ca ngợi đức tốt của vợ Chu Văn Vương.

Quang Thuận năm thứ 19 (1488), Hoàng Đức Lương đi sứ tạ ơn ban gấm vóc, bài biểu dâng Hoàng hậu có câu: “Điện Hán nguy nga, cung Trường Lệ chầu hầu cách trở, kinh Chu xa thẳm, thơ Tư trai lời vịnh kính dâng”; Tư tra i chính là một bài thơ ở Đại nhã, ngợi đức tốt của bà Thái Tự, vợ Chu Văn Vương, v.v.

- Ở phương diện giáo hóa, không ít học giả xưa nước ta đã lấy điển từ Kinh Thi. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục(10) của Lê Quý Đôn, viết: “Răn người rối ruột về sự tham lam mù quáng, thơ Tang nhu nói: Gió to có lối, người tham bại loại...”; Tang nhu là thơ Đại nhã, chê Lệ Vương dùng bọn tham nịnh, không nghe lời ngay thẳng. Ông lại viết về việc hiền tài ngày càng thêm nhiều, gần sánh được với ý nghĩa tác thành nhân tài trong thơ Vực bốc...; Vực bốc là bài thơ trong Văn Vương chi thập, Đại nhã, nói Văn Vương có đức lớn nên hiền tài theo nhiều vậy.

Về việc học tập đức tốt trong Kinh Thi, Cung trung bảo huấn (Nôm) của Bùi Vịnh (1508 - 1545) có lẽ là tác phẩm nhắc đến nhiều nhất: “Sao kia nắm nắm còn chầu, gà nọ o o đã thức”; “Thơ Quyển nhĩ, thơ Quan thư, đức thịnh phiên đòi bắt chước”; “Quý nữ kính thay, khay tần tảo tay nâng chắm chắm, Thái Nhâm kiệm bấy, áo khích hi mình mặc thưa thưa”; “Đức lành Cù mộc, ròng ròng đạo dệt cương thường; thơ ngợi Chung tư, dặc dặc phúc thêm tộ dẫn”...(11). ở đây, tác giả bài Huấn lần lượt nhắc đến thơ Tiểu tinh, Thiện nam; thơ Kê minh, Tề phong; thơ Quyển nhĩ; thơ Quan thư, Chu nam; thơ Thái Tần, Thiệu nam; thơ Cát đàm, Chu nam; thơ Cù mộc (Nam hữu Cù mộc) và thơ Chung tư, ... nhằm nêu đức tốt của người phụ nữ mà các thơ này ca ngợi.

- Ở mảng lý luận văn học cổ nước ta, cách đây khoảng hơn chục năm, chúng tôi đã lưu ý đến những bài Tựa, bài Bạt... có trong các tập văn thơ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm(12); nhưng lúc bấy giờ làm vẫn chưa thật được kỹ, việc liên hệ với Kinh Thi... lại càng ít hơn. Thực ra, nhìn chung các bài Tựa, Bạt... trong thi tập Hán, Nôm thường vẫn dẫn Kinh Thi. Chẳng hạn bài Tựa tập Quỳnh uyển cửu ca (Lê Thánh Tông) của Đào Cử (1449 - ?) có viết: “Vịnh thơ Quyền a để suốt tình trên dưới” (Lịch triều hiến chương loại chí; Sđd.); “So với bài ca Cửu công, Cửu như của nhà Ngu, nhà Chu thật thấy như in một lối” (Sđd.)... Quyền a là tên bài thơ ở Sinh dân chi thập, Đại nhã nói về sự yêu quý nhà thơ của Chu Thành Vương. Cửu như là nói bài Thiên bảo, Tiểu nhã chín chữ “như: “Như sơn như phụ, như cương như lăng, như xuyên chi phương chí) (Chương III); “Như nguyệt chi hằng, như nhật chi thăng, như Nam sơn chi thọ,..., như tùng bách chi mậu” (Chương VI). Cửu như chỉ việc chúc tụng.

Trong bài khải tiến tập thơ Càn nguyên thi tập (Trịnh Doanh), Phan Lê Phiên (1734 - 1809) đã dẫn nhiều Kinh Thi: “Như thiên Đại nhã noi theo thánh giáo”, “Để nung đúc tính linh thì thường thấm nhuần Lục nghĩa”, “Răn các tướng, khuyên các quan, theo lối cũ của thơ Thái dĩ, thơ Xa công; nhớ người đi sứ, khen người nhiều tuổi, rõ là phong thái của thơ Hoàng hoa, thơ Hàng vĩ; tỏ lòng thành kính, như thơ Vân hán; ngụ ý vui chơi như thơ Quyền a, trong cung cấm thì bảo ban nghiêm chỉnh, nêu phép thường như thơ Tư trai, ngoài triều đình thì hỏi han khuyên răn, theo mưu hay như thơ Phóng lạc;...; ngày hát thơ Quan thư, Lân chỉ, lấy kinh luân mở phép trị, thường ngâm thơ Thiên bảo, Thái vi...” (13)

Trịnh Sâm trong bài Tựa viết cho tập thơ của ông là Tâm thanh tồn dị tập cũng đã liên hệ nhiều với Kinh Thi, như ông viết: “Nhân đọc bài Tựa của Chu tử nói: Thi là do cảm xúc trong lòng người ta mà hình ra lời nói. Lòng cảm xúc có tà có chính, nên hình ra lời nói có phải có trái. Bấy giờ ta mới biết được mấu chốt của việc học Kinh Thi. Phàm thơ là để nói chí mình, ở trong lòng là chí, phát ra lời là thơ. Cho nên ba trăm thiên Kinh Thi, một lời có thể bao trùm hết là: Nghĩ không thiên lệch. Thơ là một thứ tâm học thôi, có kể gì âm thanh niêm luật khéo vụng”; “Còn như ngâm vịnh tính tình thì một mực lấy Phong nhã làm tôn chỉ...”(14).

Bùi Huy Bích, trong bài Tiểu dẫn cho công trình Lịch triều thi sao cũng viết: “Nước Việt ta từ nhà Trần đến buổi quốc sơ, thì khí thơ có chút hồn hậu, đến đời Hồng Đức thì lời thơ thanh tao xinh đẹp, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung hưng thì thật thà vụng về, từ đời Vĩnh Thịnh, Bảo Thái về sau, lại trôi chảy dễ nghe, gần đây lại hay chuộng khí cách. Từ nay về sau có thể theo được tiếng vang còn lại của thơ Đại nhã chăng? ... Và, theo học giả họ Bùi: “Ôi! Thơ cho đáng thơ chỉ ba trăm thiên Kinh Thi là hay nhất” (Sđd., tr.107).

Thực ra, trước Bùi Huy Bích, người thầy lớn của ông là học giả Lê Quý Đôn cũng thường nhắc đến và đánh giá cao Kinh Thi. Trong bài Lệ ngôn của Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn viết: “Khi mọi việc đã xong, đức Thuần Hoàng cũng thích làm thơ..., không kém phong thái Kinh Thi”. Trong mục Văn nghệ, sách Vân đài loại ngữ, ông viết: “Thơ phát khởi tự trong lòng người ta. Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi, phần nhiều là của nông dân phụ nữ làm ra, mà cũng có những bài văn sĩ đời sau không theo kịp được, như thế là vì nó chân thực” (Điều 47)...

- Đặc biệt, trong thực tiễn sáng tác văn thơ bằng chữ Hán, chữ Nôm, Kinh Thi càng được chắt lọc tinh hoa để vận dụng. Vào thế kỷ XIII, thơ đời Trần, nhiều bài đã dẫn điển Kinh Thi. Nguyễn ức trong bài Tống thị thần Mạc Dĩnh Phu sứ Nguyên, có câu: “Hoàng hoa ca bãi hựu Ly câu”; “Hoàng hoàng” chính là bài Hoàng hoa giả hoa, Tiểu nhã. Thơ Cửu nguyệt hữu nhân lai phong đồng tác của Trần Nguyên Đán, có câu: “Bất quản kiêm hà bạch lộ linh”; trong câu thơ này, bốn chữ “kiêm hà bạch lộ” là lấy chữ ở hai câu đầu Chương I, bài Kiêm hà, Tần Phong, Kinh Thi.

Trong văn thơ chữ Nôm đời Lê, việc dùng điển Kinh Thi đã tương đối nhiều. Bài Thi trong Hồng Đức quốc âm thi tập, các câu: “Mỗ thập phong tao châu lẫn ngọc”, “Ca đào còn để ngàn đời phép, biên Đán chẳng qua một đạo thờ” đều điển lấy từ Kinh Thi. Sau đó, việc lấy điển từ Kinh Th ngày càng nhuần nhuyễn hơn. Giáo sư Đinh Gia Khánh trong bộ Điển cố văn học (Nxb. Khoa học xã hội; Hà Nội; 1997) đã dẫn khá nhiều điển cố trong tác phẩm Nôm lấy từ Kinh Thi; như:

Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc, một sân quế hòe.
(Nguyễn Du)

Phúc lành chín chữ cửu như,
Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào.
(Lê Ngô Cát)

Có ra chi phận má hồng,
Khôn đem chữ hiếu đền công chữ cù.
(Nhị độ mai)

Một thơ giai lão lên lời chúc,
Đôi chữ thừa hoan mượn chén khuyên.
(Lâm tuyền kỳ ngộ)

Điềm lành hùng hủy hiện thân,
Kể đã ba đời sinh được phu nhân.
(Thiên Nam ngữ lục)

Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
Nhờ tay kim tướng đưa duyên xích thằng.
(Bích câu kỳ ngộ)

Lưới thỏ giăng, sãi muốn cho củ củ vũ phu,
Gót lân xéo, sãi muốn cho chơn chơn công tử.
(Nguyễn Cư Trinh)

Mẹ cha một tuổi một cao,
Con thời phận gái thơ đào long đong.
(Phạm Tải - Ngọc Hoa)

Kinh Th i dễ hòa nhập vào văn thơ nước ta, bởi nhiều lý do; song lý do chính có lẽ là bởi thủy thổ, rồi từ đó mà cả con người, có những nét tương đồng. Ngày xưa, thi cử có thi Kinh Thi; trong bộ Phương Đình tùy bút lục, Nguyễn Văn Siêu cho biết ông đã dự chấm thi Kinh Thi ở Đại khoa. Nhưng Kinh Thi cũng đã đi vào dân gian nước ta theo những lối khác nhau. Vũ Ngọc Phan trong bộ Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam cho biết: “Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, Trần Danh án đã sưu tập và biên soạn Quốc phong giải trào và Nam phong nữ ngạn thi. Các soạn giả trên đây đã ghi chép tục ngữ ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với thơ Quốc phong trong Kinh Thi của Trung Quốc(15). Ông lại nói: “Những thể phú, tỉ, hứng của ca dao là những thể mà ca dao Việt Nam và Kinh Th i của Trung Quốc đều có”(16). Tác giả Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam cũng biết quá rõ rằng, các thuật ngữ phú, tỉ, hứng thực ra xuất phát từ Mao thi, tức văn bản Kinh Thi được sưu tầm và lưu truyền sau khi bị nhà Tần đốt; điều đó cũng góp phần nói lên sự hòa nhập của Kinh Thi với văn học nước ta, kể cả ở phương diện nghiên cứu vậy.

19 - 9 - 2000

CHÚ THÍCH

(1). Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu; Trung tâm học liệu xuất bản; In lần thứ 10; Sài Gòn; 1968; tr.50.

(2). Đào yêu: tên bài thơ ở Chu nam; Quốc phong, nói về việc trai gái tìm hiểu, kết hôn.

(3). Phiếu hữu mai: tên bài thơ ở Thiệu nam; Quốc phong, nói về việc con gái nên lấy chồng hợp thì.

(4). Đại Việt sử ký toàn thư: Tập I; Bd; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1972; tr.266.

(5). Đại Việt sử ký toàn thư: Tập II; Bd; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1971; tr.69.

(6) (7). Lê Ngô Cát: Đại Nam quốc sử diễn ca; Bản phiên âm; Nxb. Văn học; Hà Nội; 1996; tr.66, 67.

(8) (9). Ban Hán Nôm: Tuyển tập văn bia Hà Nội; Quyển I; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1978; tr.69, 80.

(10). Lê Quý Đôn; Kiến văn tiểu lục; Bd; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1977. Trích phần Châm cảnh.

(11). Hợp tuyển thơ văn Việt Nam; Tập II; Nxb. Văn hóa; Hà Nội; 1962; tr.452.

(12). Xem Từ trong di sản...; Nxb. Tác phẩm mới; Hà Nội; 1983.

(13), (14). Lịch triều hiến chương loại chí; Bd. Sđd; tr.99, 101.

(15), (16). Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam; In lần thứ tám; Nxb. KHXH, Hà Nội. 1978; tr.14, 87.

TB

GÓP PHẦN TÌM HIỂU LỊCH SỬ
PHIÊN DỊCH LIÊU TRAI CHÍ DỊ Ở VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN HIỆU

Tác phẩm văn học của Trung Quốc được dịch ra chữ Quốc ngữ (La Tinh) ở nước ta có từ rất sớm và có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền văn học dịch và quá trình hiện đại hóa văn học. Riêng với Liêu trai chí dị (LTCD) của Bồ Tùng Linh, nói như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, “việc dịch Liêu trai chí dị ở Việt Nam cũng đã có cả một quá trình lịch sử”(1). Tuy nhiên Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chỉ dừng lại ở năm 1916 với bản dịch của nhóm Nguyễn Chánh Sát, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Tường Vân(2). Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh sau đó đã đưa ra “những cứ liệu cho phép tìm hiểu chính xác hơn về lịch sử phiên dịch LTCD ra chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX” với những bản dịch trên Nông cổ mín đàm từ 1901(3). Thực ra lịch sử phiên dịch LTCD ra chữ Quốc ngữ có bước khởi đầu sớm hơn nhiều, ít ra là từ những năm tám mươi của thế kỷ XIX với gần 70 truyện dịch trong số 112 mục bài trong tập Chuyện giải buồn(4) của Huỳnh Tịnh Của.

Chuyện giải buồn được phổ biến khá rộng rãi ở Miền Nam trước năm 1975. Tính đến 1931, Chuyện giải buồn đã được in lại lần thứ năm, sau đó còn có những lần in lại của Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, vào các năm 1960, 1968, 1970. Hầu như trong Nam không mấy ai không biết đến những truyện như Chí khí cao (dịch từ Cao Sĩ truyện), Cầu tiếng chửi cho rụng lông vịt, Chuyện ông Tiến sĩ lưng mọc lông dê (dịch từ LTCD)... Có lẽ do Huỳnh Tịnh Của không ghi xuất xứ các truyện dịch - hiện tượng phổ biến trong dịch thuật văn học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, và phần nào do văn và truyện dịch của Huỳnh Tịnh Của giản dị, nôm na nên không ít người xem truyện dịch của ông là những sáng tác hoặc ghi chép lại từ chuyện kể của dân gian(5), trong khi theo khảo sát của chúng tôi, hầu hết các truyện trong Chuyện giải buồn được dịch từ các sách, truyện Trung Quốc như Chiến quốc sách, Nam Hoa kinh, Sử k ý Tư Mã Thiên, Truyện truyền kỳ đời Đường và nhiều nhất là LTCD, đúng như Huỳnh Tịnh Của ghi ở đầu sách: “Rút trong các sách hay để giúp trong các trường học cùng những người học tiếng Annam”. Riêng nhan đề truyện, hầu hết ông dịch theo sát nguyên văn nhưng cũng có những nhan đề ông dịch thoát đi, dựa trên nội dung truyện, cốt cho phù hợp, dễ hiểu và hấp dẫn hơn như: Cầu tiếng chửi cho rụng lông vịt (Mạ áp - Mắng kẻ trộm vịt, LTCD, Q.XIII), Rủ nhau chết một lượt (Chúc Ông, LTCD, Q.II), Nợ không trông trả (Kiểu thường trái - Hóa lừa đền nợ. LTCD, Q.XIII), Quân mồ hóng (Hắc quỷ, LTCD, Q.XIV)... Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, chúng tôi chỉ xin giới thiệu 3 bản dịch ngắn (nguyên văn) của Huỳnh Tịnh Của, kèm theo phiên âm từ nguyên bản chữ Hán để tiện tham khảo, đối chiếu (theo bản LTCD, Trường Hưng thư cục, Hương Cảng, 1963).

1. Truyện TỨ THẬP THIÊN (LTCD, Q.XIII)

Tân Thành vương Đại tư mã, hữu chủ Kế bộc, gia xưng tố phong, hốt mộng nhất nhân bôn nhập, viết: “Nhữ khiếm tứ thập thiên, kim nghi hoàn hỉ”. Vấn chi bất đáp, kính nhập nội khứ. Ký tỉnh, thê sinh nam, tri vi túc nghiệt, toại dĩ tứ thập thiên khổn trí nhất thất, phàm nhi y thực bệnh dược, giai thủ cấp yên. Quá tam tứ tuế, thị thất trung tiền cẩn tồn thất bách. Thích nhũ mỗ bảo nhi chí, điều tiếu ư trắc, nhân hô chi viết: “tứ thập thiên tương tận, nhữ nghi hành hỉ. Ngôn dĩ, nhi hốt nhan sắc túc biến, hạng chiết, mục trương. Tái phủ chi, khí dĩ tuyệt hỉ. Nãi dĩ dư ti trị táng cụ nhi ế chi. Thử khả vi phụ, khiếm giả giới dã.

Tích hữu lão nhi vô tử giả, vấn chư cao tăng. Tăng viết: “Nhữ bất khiếm nhân giả, nhân hựu bất khiếm nhữ giả, ô đắc tử ?” Cái sinh giai nhi sở dĩ báo ngã chi duyên, sinh ngoan nhi sở dĩ thủ ngã chi trái. Sinh giả vật hỉ. Tử giả vật bi dã.

(BỐN MƯƠI NGÀN. Ở Tân Thành có quan Đại tư mã, có người coi riêng về kế toán, giàu có tiếng, bỗng nằm mộng thấy một người chạy vào nói: “Ông thiếu bốn mươi ngàn, nay phải trả lại”. Hỏi không trả lời mà vào thẳng trong nhà mất dạng. Khi thức dậy thì vợ đã sinh một đứa con trai, biết là oan nghiệt, bèn lấy bốn mươi ngàn để riêng một chỗ, mọi chuyện ăn mặc, thuốc thang cho đứa bé đều lấy ở đó mà chi tiêu. Khi đứa bé được 3, 4 tuổi thấy tiền nơi cất chỉ còn 700. Vừa lúc ấy bà vú ôm đứa bé đến bên cười đùa, nhân đó ông nói: “40 ngàn sắp hết rồi, mày nên đi đi”. Ông vừa nói xong, đứa bé bỗng ỉu xìu biến sắc, nghẹo cổ trợn mắt. Lại vỗ về nó thì nó đã tắt hơi. Bèn lấy số tiền còn lại lo việc chôn cất nó. Đấy đúng là điều răn cho những kẻ mắc nợ vậy.

Xưa có một người già rồi mà chưa có con, hỏi một vị cao tăng. Vị tăng đáp: “Ông không thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ ông thì làm sao mà có con”. Vì rằng sinh con tốt là để báo duyên ta, sinh con bướng là để đòi nợ ta. Sinh con chớ mừng, con chết cũng chớ buồn vậy”)

Bản dịch của Huỳnh Tịnh Của:

Bốn mươi ngàn (Chuyện giải buồn, Mục bài 19)

Đất Tân Thành có một ông giàu có, nằm chiêm bao thấy có một người chạy vào nhà mà nói rằng: Ông thiếu bốn mươi ngàn, nay phải trả lại. Ông ấy lật đật hỏi thì người ấy thoát vào nhà trong mà đi mất. Đến khi ông nhà giàu thức dậy, thì vợ chuyển bụng đẻ đặng một đứa con trai. Ông ấy biết là oan nghiệt, bèn lấy bốn mươi ngàn đồng tiền để riêng ra một chỗ: nhứt thiết sắm sanh đồ ăn, áo mặc, hay là chạy thuốc thang cho trẻ ấy thì cứ lấy tiền ấy mà tiêu. Khi con nít ấy đặng ba bốn tuổi thì số tiền còn có 700. Tình cờ bà vú bồng đứa nhỏ ấy lại gần, ông nhà giàu bèn kêu nó mà nói chơi rằng: Bốn mươi ngàn gần hết rồi, mày phải đi đi. Ông ấy nói vừa rồi, con nít ấy liền biến sắc dàu dàu, nghẻo cổ trợn mắt, lại ôm nó thì nó đã tắt hơi, bèn lấy tiền dư 700 ấy mà lo việc cấp táng cho nó. ấy cũng nêu gương cho những người mắc nợ mà không chịu trả.

Xưa có một người già mà không có con, hỏi một ông hòa thượng vì cớ gì mà mình không có con. Ông Hòa thượng, trả lời rằng: nhà ngươi không thiếu người ta, người ta không thiếu nhà ngươi, thì làm sao cho có con. Bởi vì sanh con lành, thì để mà trả duyên ta, sanh con dữ thì để mà đòi nợ ta; có con chớ mầng, con chết chớ rầu.

2. Truyện THIỀM HỮU MỖ CÔNG (LTCD, Quyển XIII)

Thiểm Hữu Mỗ Công, Tân Sửu Tiến sĩ, năng ký tiền thân. Thường ngôn tiền sinh vi nữ tử, trung niên nhi tử. Tử hậu, kiến Minh Vương phán sự. Đỉnh xanh, du hoạch, nhất như thế truyền. Điện đông ngung, thiết sổ giá, thượng đáp dương khuyển ngưu mã chư bì. Bạ lại hô danh. Hoặc phạt tác mã, hoặc phạt tác trư, giai khỏa chi, ư giá thượng thủ bì bị chi. Nga, chí công. Văn Minh vương viết: “Thị nghi tác dương”. Quỷ thủ nhất bạch dương bì lai, nại phú công thể. Lại viết: “Thị tằng chửng nhất nhân tử”. Vương kiểm bạ phúc thị, viết: “Miễn chi, ác tuy đa, thử thiện khả thục”. Quỹ hựu sĩ kỳ mao cách. Cách dĩ niêm thể, bất khả phục động. Lưỡng quỷ tróc tí án hung, lực bạt chi, thống khổ bất khả danh trạng. Bì phiến phiến đoạn liệt, bất khả tận tĩnh. Ký thoát, cận kiên xứ, do niêm dương bì đại như chưởng. Công ký sinh, bối thượng hữu dương mao tùng sinh, tiễn khứ phục xuất.

(Ông nọ ở Thiểm Hữu. Đất Thiểm Hữu có ông nọ đậu Tiến sĩ năm Tân Sửu, hay nhớ việc kiếp trước. Ông thường nói kiếp trước làm đàn bà, đến tuổi trung niên thì chết. Sau khi chết, thấy Minh Vương đang tra xét sự tình. Nào là chỏ nước sôi, vạc dầu, đúng như người ta thường kể trên dương gian. ổ góc điện phía đông có đặt vài cái giá, trên treo những tấm da dê, chó, trâu, ngựa. Viên coi sổ bộ gọi tên. Kẻ bị phạt làm ngựa, người bị phạt làm heo, đều bị lột truồng, lấy da trên giá mặc vào. Giây lát đến lượt ông. Ông nghe Minh Vương phán: “Người này phải làm dê”. Bọn quỷ lấy tấm da dê trắng đem tới, phủ khít vào thân thể ông, Viên coi sổ bộ nói: “Người này từng cứu một người khỏi chết”. Minh Vương kiểm tra lại sổ bộ rồi nói: “Tha cho hắn, tội ác tuy nhiều nhưng việc thiện này có thể chuộc được”. Lũ quỷ lại lột tấm da dày rộng ra. Da đã dính vào thân thể rồi, không thể xê xích được. Hai tên quỷ bèn kéo tay, đè ngực, ra sức lột tấm da, đau đớn không thể tả được. Tấm da bị đứt ra từng mảnh, không thể lột sạch hết được. Lột xong, chỗ gần vai còn dính một mảnh da dê to bằng bàn tay. Đến khi ông được tái sinh, trên lưng ông còn có từng chòm lông dê mọc, cạo đi lại mọc ra).

Bản dịch của Huỳnh Tịnh Của:

Chuyện ông Tấn Sĩ Lưng mọc lông dê (Chuyện giải buồn, Mục bài 23)

Đất Hiệp Hữu(6) có một ông Tấn sĩ hay nhớ việc kiếp trước. Ông ấy nói kiếp trước mình làm học trò, được nửa đời người mà chết; xuống âm phủ thấy vua Thập điện đương có tra án, bày những lò vạc gớm ghiếc, y như chuyện người ta nói trên đời; bên góc đền về phía đông, thấy những giá treo da dê, da chó, da trâu, da ngựa cùng các thứ da; thấy người coi bộ kêu tên từ người, hoặc bắt đi làm ngựa, hoặc bắt đi làm heo, quỷ đều lột trần truồng, lấy da trên giá mặc cho. Giây phút kêu tới tên ông Tấn sĩ. Ông ấy nghe vua Thập điện dạy đi làm dê, liền thấy quỷ lấy một cái da dê, bắt ông ấy lột trần, tròng vào khít rịt. Xảy có một tên thơ lại tâu, nói ông ấy có cứu một người khỏi chết. Vua Thập điện tra bộ lại, quả có như lời, bèn trở giận làm vui mà rằng: tội ác nó thiệt quá lắm, song một việc lành ấy cũng cứu nó được. Vua Thập điện nói rồi liền dạy quỷ lấy da dê lại. Chẳng dè da dê đã dính vào trong thịt, cởi không ra, hai thằng quỷ phải nắm cánh tay ông Tấn sĩ, đứa trì đứa lột, đau ông ấy quá chừng, da dê rách từ miếng, lột không sạch, bên vai ông Tấn sĩ hãy còn dính một miếng lớn bằng bàn tay. Đến khi ông ấy sống lại, sau lưng ông có lông dê mọc vấy vá, cạo đi nó mọc lại không tuyệt.

3. Truyện NGHĨA THỬ (LTCD, Q.XIII)

Dương Thiên Nhất ngôn kiến thị thử xuất, kỳ nhất vi xà sở thôn, kỳ nhất trừng mục như tiêu, tự thậm hận nộ, nhiên dao vọng bất cảm tiền. Xà quả phúc, uyển duyên nhập huyệt, phương tương quá bán, thử bôn lai, lực tước kỳ vĩ. Xà nộ, thoái thân xuất. Thử cố tiện tiệp, huất nhiên độn khứ, xà truy bất cập nhi phản. Cập nhập huyệt, thử hựu lai tước như tiền trạng. Xà nhập, tắc lai, xà xuất, tắc vãng. Như thị giả cữu, xà xuất thổ tử thử ư địa thượng. Thử lai, khứu chi, thu thu nhi điệu tích, hàm chi nhi khứ. Hữu nhân Trương Lịch Hữu vi tác Nghĩa thử hành.

(Chuột có nghĩa. Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột đi ăn, một con bị rắn bắt nuốt, con kia trừng mắt như hạt tiêu, có vẻ rất giận dữ nhưng chỉ ở xa nhìn không dám lại gần. Rắn no bụng rồi, uốn éo bò vào hang, vừa lọt quá nửa mình thì con chuột chạy lại ra sức cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui mình bò ra. Chuột nhanh chóng chạy trốn, rắn đuổi theo không kịp đành quay về. Khi rắn vào hang, chuột lại đến cắn lấy như lần trước. Rắn vào hàng, chuột trở lại. Rắn bò ra, chuột lại chạy đi. Cứ thế hồi lâu, rắn bò ra mửa con chuột chết trên mặt đất. Con chuột sống tới ngửi ngửi, kêu nhi nhí như thương tiếc, rồi ngậm tha đi. Có người tên Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành)

Bản dịch của Huỳnh Tịnh Của:

Chuột có nghĩa (Chuyện giải buồn, Mục bài 26)

Hai con chuột đi ăn, rủi thì một con bị rắn bắt, con kia làm bộ giận dữ, lòi hai con mắt như hột tiêu; song cũng ở xa xa mà ngó, không dám lại gần. Con rắn nuốt con chuột vô họng rồi, lểnh nghểnh bò xuống hang, vừa quá nửa mình, con chuột bạn chạy xốc lại cắn riết đuôi con rắn; con rắn giận tháo đầu trở ra. Chuột lẹ nhảy trái, rắn rượt không kịp, trở lộn lại, xăm xăm chun xuống hang; con chuột cứ việc chạy lại cắn đuôi như trước; hễ rắn xuống hang, nó trở lại, rắn thụt ra, nó chạy đi. Nó làm như vậy một hồi lâu, con rắn tức mình phải trở ra, mửa con chuột nuốt ra trên đất, rồi mới trở xuống hang. Con chuột sống thấy xác con chuột chết, chạy lại hít ngửi dường như thương tiếc, rồi tha mà đi mất. Có người ngó thấy chuyện ấy rõ ràng, bèn đem làm chuyện nghĩa thử để đời.

Qua 3 truyện dịch trên, cũng như qua các truyện khác rút từ LTCD trong tập Chuyện giải buồn, có thể thấy các bản dịch của Huỳnh Tịnh Của về cơ bản đã theo sát nguyên văn từ nội dung, tình tiết đến tên tuổi, địa danh... Đó rõ ràng là những truyện dịch hơn là những phóng tác, cải biên. Bên cạnh đó có những nét thuộc về cách dịch, phong cách dịch theo chúng tôi là những đóng góp đặc sắc của Huỳnh Tịnh Của không chỉ đối với việc xã hội hóa chữ Quốc ngữ mà còn đối với quá trình hình thành và phát triển của nền văn học mới về nhiều phương diện:

1. Gắn với mục đích phổ biến chữ Quốc ngữ, Huỳnh Tịnh Của đã rất chú ý đến việc sử dụng một hình thức văn xuôi giản dị có nhiều câu nhiều tiếng thường dùng và chọn những tác phẩm phù hợp với thói quen thưởng thức, tiếp nhận của đông đảo người học, người đọc ở Sài Gòn – Nam Bộ. Một tác phẩm được phổ biến khá rộng rãi ở Việt Nam như LTCD được Huỳnh Tịnh Của chọn dịch nhiều truyện cũng là dễ hiểu. Hầu hết các truyện ông chọn dịch cũng đều gần gũi với quan niệm về nhân quả, khuyến thiện trừng ác của dân gian hơn là những chuyện hồ ly vốn là điểm nổi bật của LTCD. Trong Chuyện giải buồn chỉ có 1 truyện về hồ ly - Chuyện chồn đất Thơ Thủy, nhưng cũng không thuộc dạng thư sinh tài tử với mỹ nhân hồ.

2. Cũng với tinh thần trên, Huỳnh Tịnh Của đã chuyển những truyện theo lối “đoản thiên” của LTCD sang hình thức chuyện kể. Những lời thoại trực tiếp đều được ông chuyển sang hình thức tường thuật làm cho các truyện LTCD vốn thuộc dòng “văn học thông tục” càng gần gũi với truyền thống tiếp nhận theo phong cách truyện kể dân gian. Ngay nhan đề tập sách và chữ chuyện được thêm vào nhiều nhan đề truyện cũng cho thấy điều đó. Thêm vào đó, Huỳnh Tịnh Của cũng rất chú ý đến việc lược bỏ những yếu tố xa lạ hoặc không quan trọng đối với nội dung truyện, hoặc dịch thoát đi cho gần gũi, dễ hiểu. Ông cũng thường “nới rộng” câu “văn ngôn” bằng cách thêm từ ngữ để làm cho câu văn thêm sinh động và đậm màu sắc khẩu ngữ hơn.

Trên đây chỉ là những nhận xét bước đầu của chúng tôi về những bản dịch Liêu trai chí dị của Huỳnh Tịnh Của. Những đóng góp văn học của ông cần có những nghiên cứu riêng. Điều có thể khẳng định được là, với tập Chuyện giải buồn, tiêu biểu là các truyện dịch từ Liêu trai chí dị, Huỳnh Tịnh Của xứng đáng được coi là người mở đầu cho lịch sử phiên dịch tác phẩm văn học Trung Quốc ra chữ Quốc ngữ La tinh ở nước ta và những bản dịch của ông là những “cứ liệu” cho phép xác định lịch sử phiên dịch văn học Trung Quốc ra chữ Quốc ngữ La tinh ở Việt Nam muộn nhất là từ những năm tám mươi của thế kỷ XIX.

CHÚ THÍCH

(1). Nguyễn Huệ Chi - Lời giới thiệu quyển Liêu trai chí dị (tuyển tập). Nxb. Văn học Hà Nội, 1989.

(2). Nguyễn Chánh Sát, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Tường Vân - Liêu trai chí dị: Nhà in J. Viết, Sài Gòn.1916.

(3). Cao Tự Thanh - Vài bản dịch Liêu trai chí dị đầu thế kỷ XX ở Lục Tỉnh. Tạp chí Hán Nôm số 4/1996.

(4) Huỳnh Tịnh Của - Chuyện giải buồn gồm 2 tập. Chuyện giải buồn - Bản in Quản Hạt. Sài Gòn.1885; Tiếp theo Chuyện giải buồn, bản in Nhà Hàng, Sài Gòn, 1886. Tập sau, trừ các án đoán, án tấu, 44 mục bài còn lại rút từ tập trước. ở đây chúng tôi sử dụng tập Chuyện giải buồn, bản in lần thứ 5, Nhà in J. Viết, Sài Gòn. 1931.

(5). Xem Nguyễn Hoàng Khung... Tuyển tập truyện ngắn đầu thế kỷ XX, Nxb. Hội Nhà Văn, 1999, tr.125.

(6) Chữ Thiểm  có tự dạng giống chữ Hiệp  , có lẽ ông Huỳnh Tịnh Của phiêm âm nhầm.

TB

HÁN NÔM VÀO THIÊN NIÊN KỈ MỚI

ĐINH KHẮC THUAN

Trước thềm thiên niên kỉ mới, Viện Nghiên cứu Hán Nôm vừa long trọng tổ chức lễ kỉ niệm Viện tròn 30 tuổi và vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba do Nhà nước trao tặng. Ba mươi năm - một chặng đường "khởi đầu nan" đầy "phấn khởi tự hào bởi những thành tích đã đạt được, nhưng cũng không khỏi băn khoăn day dứt về những thiếu sót, bất cập còn đang tồn tại", như nhận định của ông Viện trưởng nhân lễ kỉ niệm Viện vừa qua(1). Vậy, bước vào thiên niên kỉ mới, hành trang Hán Nôm đã có những gì và còn những băn khoăn day dứt gì ?

Vấn đề định hướng

Chức năng và nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được giao phó là sưu tầm, bảo quản tư liệu Hán Nôm và khai thác, giới thiệu di sản này.

Vậy đã rõ, di văn với loại hình văn tự mà Viện quan tâm sưu tầm, bảo quản và nghiên cứu là văn bản khối chữ vuông: chữ Hán, chữ Nôm. Vì lẽ đó, Viện có các Phòng nghiên cứu Hán Nôm và bảo quản, phục chế, sưu tầm tư liệu Hán Nôm. Cơ cấu tổ chức và công việc triển khai như vậy hoàn toàn tập trung thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Viện.

Vấn đề đặt ra ở đây là trong lịch sử, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã để lại kho tàng văn hóa thành văn quý báu, trong đó có di sản Hán Nôm. Như vậy, ngoài các văn bản khối chữ vuông ra, chúng ta còn có di văn với các loại hình văn tự khác như Chàm, Thái và thậm chí cả chữ Việt trong các thời kì nảy sinh phát triển trước khi chính thức trở thành chữ Quốc ngữ của dân tộc. Vậy, trong phạm vi quốc gia, di văn của các loại hình văn tự này do cơ quan nào đảm nhận? Lẽ nào người sưu tầm tư liệu Hán Nôm khi gặp một văn bản cổ ngoài khối chữ vuông ra, lại có thể dửng dưng, nhất là khi gặp một kho sách cổ của đồng bào dân tộc ít người ?

Có thể đơn cử một ví dụ cụ thể về tư liệu thành văn của người Chàm. Loại di văn này đến nay hầu như khó có thể thu thập được, trong khi đó chức năng sưu tầm, nghiên cứu chưa được phân định cho cơ quan nào. Ngày nay, để tìm đọc và nghiên cứu mảng tư liệu thành văn này, lại có thể thực hiện được ở nước ngoài. Hơn thế nữa, người đọc được những văn tự cổ Chàm này cũng lại là người nước ngoài, chứ không phải là người trong nước. Họ đã tổ chức thành Hội nghiên cứu về Chàm, bao gồm chủ yếu là các học giả Pháp và Ma-lai-xi-a mà hầu như chúng ta ít có thông tin về sự hoạt động cũng như các chương trình nghiên cứu của họ.

So với khối lượng tư liệu chữ Hán, chữ Nôm, thì tư liệu các văn tự này rất nhỏ bé, song không vì thế mà bị lãng quên. Trái lại, nó lại vô cùng quý giá khi minh chứng lịch sử văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong xu thế phát triển, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã mở ra bộ phận nghiên cứu Hán Nôm dân tộc và khu vực, nghĩa là sưu tầm, nghiên cứu chữ Hán, chữ Nôm từng được đồng bào các dân tộc sử dụng và nghiên cứu văn hiến khu vực; hơn thế nữa, lại mở rộng việc sưu tầm tư liệu Hán Nôm ra nước ngoài. Lẽ nào chúng ta lại bỏ qua di văn ngoài khối chữ vuông ở trong nước, khi đang còn hi vọng thu thập chút ít? Có thể chúng ta không hẳn sẽ trở thành Viện cổ tự học, song việc mở rộng sưu tầm, bảo quản hết thảy di sản văn hóa thành văn của dân tộc, thiết nghĩ đương nhiên phải làm.

Bên cạnh công tác sưu tầm là công tác nghiên cứu Hán Nôm, công việc đã được triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của Viện. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực có tính chuyên biệt, như nghiên cứu chữ Nôm Tày Nùng chẳng hạn, Viện cũng đã có người theo đuổi. Song le họ đến với nghề nghiệp hoàn toàn là sự hứng thú cá nhân. Chúng ta cần phải khuyến khích, chỉ định một số nhân sự cụ thể, được định hướng từ việc đào tạo đến nghiên cứu chuyên sâu, từ quyền lợi đến triển vọng nghề nghiệp của họ. Sự hoạch định trên, cần có tính toán chung của toàn Ngành mà nòng cốt là Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Vấn đề đào tạo cơ bản và bồi dưỡng chuyên sâu

Việc đào tạo cơ bản xưa nay luôn luôn hết sức quan trọng, nhằm trang bị cho người làm nghiên cứu khoa học một lượng kiến thức chuyên ngành cơ bản, một phương pháp tư duy và nghiên cứu thích ứng, cùng cả những thao tác kĩ thuật cụ thể, từ cách làm thư mục sách tham khảo đến việc tìm tư liệu, cách đọc sách và chọn đề tài nghiên cứu, cũng như xây dựng nội dung luận án khoa học.

Một vướng mắc khá phổ biến đối với nghiên cứu sinh là chọn lựa đề tài làm sao có giá trị và có thể thực thi được. Trong quy trình đào tạo nghiên cứu sinh ở các nước phương Tây, phương pháp và phương pháp nghiên cứu là một trong những môn học rất được coi trọng. Nhờ đó mà nghiên cứu sinh có thể lựa chọn cho mình một đề tài luận án và tự kiểm tra được khả năng thực thi của đề tài. Những thao tác này thông thường được diễn ra theo quy trình như sau:

Trước hết nghiên cứu sinh có thể nêu bất kì vấn đề gì trong chuyên ngành của họ. Sau đó họ phải lập được một thư mục tài liệu nghiên cứu cơ bản về nó, rồi đọc tài liệu để qua đó thấy được người đi trước đã giải quyết được những gì, còn những gì cần giải quyết, và đặc biệt là những giả thuyết (hypothèses) khoa học được đặt ra. Để minh chứng cho những giả thuyết này, họ phải dựa trên cơ sở của nguồn tư liệu gốc nào và phương pháp tiếp cận như thế nào cho thích ứng. Kết quả thu được nếu phù hợp với nhiệm vụ đặt ra của đề tài, thì luận án có thể thực thi được.

Những điều nêu trên tưởng như không lấy làm lạ ở nước ta, nhưng sự thực không phải giản đơn. Thực trạng ở một số đề cương và luận án Tiến sĩ hiện nay là nghiên cứu sinh không phân biệt được đâu là tài liệu nghiên cứu (études) và đâu là tư liệu gốc (sources). Tài liệu nghiên cứu là những kết quả nghiên cứu, bao gồm những bài viết, những công trình nghiên cứu, mà ở đó người đi sau hoàn toàn được kế thừa và phát triển ngày càng cao kết quả nghiên cứu. Do đó một luận án khoa học không thể chỉ là sự tập hợp của những kết quả nghiên cứu trước, lại càng không thể chấp nhận việc "biến báo" thành quả nghiên cứu trước thành của mình. Trái lại, tư liệu gốc, bao gồm những tư liệu thành văn, hoặc không thành văn, được coi là minh chứng lịch sử. Khi sử dụng tư liệu gốc, nhất là nguồn sử liệu Hán Nôm, cần thiết phải tiến hành giám định độ tin cậy của văn bản, nếu không sẽ phản tác dụng, thậm chí dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Chẳng hạn, việc dẫn văn bản bia Hậu Thần bi ở đình Nguyên Khê, Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương (vốn có niên đại vào thời Nguyễn bị làm giả thành niên đại thời Lê trung hưng thế kỉ 16(2) để làm luận cứ cho nhận xét rằng lệ bầu Hậu Thần xuất hiện phổ biến ở thế kỉ 16, là hết sức tai hại. Mặt khác, việc sử dụng tài liệu gốc chỉ dựa trên các bản dịch thì sức thuyết phục rất hạn chế, thậm chí mắc phải sai lầm không kém phần tai hại như trường hợp dùng phải văn bản giả trên. Trong một bài viết khá sâu về tổ chức làng xã dưới thời Mạc thế kỉ 16, tác giả đưa ra một nhận xét mới là "giáp" ở thời Mạc bao gồm không chỉ nam giới, mà còn có cả nữ giới. Đáng tiếc là để chứng minh luận cứ này, một tác giả đã sử dụng tài liệu dịch văn bia liên quan đến một thành viên của "giáp" vốn là nam giới bị đánh máy nhầm là nữ giới. Khá nhiều đề tài Hán Nôm cũng không nằm ngoài tình trạng trên.

Một thực trạng nữa là, một số luận văn Hán Nôm chủ yếu chú trọng ở mô tả tư liệu, nhất là vì đặc thù nghiên cứu văn bản chữ nghĩa Hán Nôm, nên luôn luôn nhắc đến "tờ A, quyển B, chữ béo chữ gầy, nét mảnh nét đậm, khắc nổi khắc chìm",... mà quên mất nội dung tư liệu vốn rất tiềm ẩn của chúng. Việc mô tả tư liệu là cần thiết, song sau những tư liệu đó cần có tổng hợp và bình phẩm (systhèses). Một công trình khoa học mà không có những systhèses này, thì đó chỉ là một tập hợp tư liệu không hơn không kém. Mặt khác việc đóng góp của luận án quyết không thể chỉ dừng ở khía cạnh luận án được trình bày rõ ràng, vấn đề được đề cập phong phú, điều quan trọng hàng đầu là ở chỗ luận án có gì mới về phương pháp nghiên cứu và học thuật. Nếu không, thì chỉ là sự tập hợp những phát hiện của người đi trước.

Việc đào tạo nghiên cứu sinh nhằm giúp cho họ trang bị kiến thức và phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, đồng thời trong chừng mực nào đó, có thể trở thành người chuyên sâu về vấn đề mà luận án đã đặt ra. Song muốn trở thành chuyên gia thực sự trong lĩnh vực ấy, nghiên cứu sinh phải tiếp tục chuyên sâu và được bổ trợ bằng chương trình đào tạo sau Tiến sĩ mà ở Pháp gọi là post-doc (post-docteur) hay ở Trung Quốc là Hou Jinshi (hậu Tiến sĩ). Chương trình này, chủ yếu bồi dưỡng kiến thức và phương pháp nghiên cứu đa ngành. Một quy trình như vậy diễn ra trong khoảng 10 năm. Một thí sinh sau khi tốt nghiệp Đại học có thể thi và vào học chương trình Cao học, sau đó có thể thi và làm tiếp nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, thông thường nghiên cứu sinh cần có ít nhất ba năm làm nghiên cứu để chuẩn bị tư liệu, cọ xát với thực tế, một công việc hết sức cần thiết giúp nghiên cứu sinh làm tốt luận án Tiến sĩ, công việc này có thể thực hiện trước hoặc sau khi học Cao học.

Đối với chuyên ngành Hán Nôm, trong công tác đào tạo, nghiên cứu và bồi dưỡng chuyên sâu, còn băn khoăn day dứt gì? Xưa nay, Hán Nôm được xếp trong chuyên ngành Ngữ văn, bộ môn Hán Nôm ở các trường Đại học cũng được đặt trong khoa Ngữ văn. Cán bộ Hán Nôm khi thi nghiên cứu sinh, thi nâng ngạch công chức đều xếp ở khối Ngữ văn mà các môn thi thường là Ngôn ngữ học đại cương và tiếng Việt, Lí luận văn học, Lịch sử văn học Việt Nam và Ngữ văn Hán Nôm. Trong khi đó, nhiều người nghiên cứu Hán Nôm nghiêng ở lĩnh vực lịch sử và văn minh, như nghiên cứu ấn triện, văn bia, gia phả, địa bạ, thần tích..., hoàn toàn xa lạ với những vấn đề trên. Ngày nay, có ý kiến cho rằng do tính chất tổng hợp của tư liệu Hán Nôm, nên nghiên cứu Hán Nôm phải là nhà nghiên cứu tổng hợp, đa ngành. Đặc biệt trong bài viết tâm đắc của ông Trần Nghĩa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhằm nhận thức lại ngành Hán Nôm sau 20 năm công tác của ông, đã chỉ ra tiêu chí để phân định người nghiên cứu ở Viện Hán Nôm với các Viện khác là dịch thuật Hán Nôm, là nghiên cứu tổng hợp - đa ngành, là nhà Đông phương học(3). Đúng là nhận thức đời người. Tuy vậy để đạt được tiêu chí đó, quả không giản đơn, dù rằng chúng ta cũng đã có một số nhà Hán Nôm đạt đỉnh cao như vậy, như cố học giả Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn...

Thực tế, tư liệu Hán Nôm tuy mang tính tổng hợp, nhưng từng loại hình tư liệu lại gắn với một chuyên ngành riêng biệt. Cũng không nên lạm dùng thuật ngữ tổng hợp, đa ngành, nhất là "tổng hợp, đa ngành" hình thức để cái gì cũng liệp thiệp, đá gà đá vịt. Vì thế mỗi người cần phải chuyên sâu một chuyên ngành nào đó thích ứng với một loại tư liệu nào đó. Chẳng hạn những tư liệu có tính chất sử liệu thì người xử lí tư liệu đó chưa vội kiến thức đa ngành, tổng hợp, mà hãy có kiến thức lịch sử ra đầu ra đũa. Vừa qua, tôi được đọc một bản phiên dịch một bài minh văn khắc trên chuông Nhật Tảo (Hà Nội) đúc năm 948, trong đó có chữ "xã quan 社 官". Tôi ngạc nhiên vì chức quan này chưa thể có ở Việt Nam trước thế kỉ X được. Xem kĩ lại bản gốc thì là chữ "xã phó 社 副 một chức phó cho "xã", một tổ chức tông giáo phổ biến ở thời Đường Trung Quốc, như "Bạch Liên xã" hoặc "Tùy hỉ xã"(4) chứ không phải là đơn vị hành chính cơ sở sau này. Như vậy, đối với loại tư liệu này, nếu không có kiến thức lịch sử thì không những không thể khai thác được nội dung của nó mà thậm chí không thể phiên đúng, dịch đúng được. Lại nữa, trong văn bản bang giao giữa nhà Minh và nhà Mạc thế kỉ XVI liên quan đến việc nhà Minh lấy lại đất, có câu "Như Tích, Chiêm Lãng nhị đô Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đẳng tứ động..."(5). Do không hiểu chữ "đô" ở đây, nên đến nay các nhà sử học Việt Nam vẫn còn tranh luận là nhà Mạc đã trả lại cho nhà Minh 4 hay 6 động ? Thực tế "đô" là đơn vị hành chính tương tự đơn vị hành chính "tổng" của Việt Nam, nhưng nó chỉ xuất hiện trong giai đoạn nhà Minh ở vùng biên ải nhằm nối kết các động lại với nhau vì mục đích tăng cường khả năng quân sự(6). Vì vậy câu trên phải được dịch là "Bốn động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô (tổng) Như Tích và Chiêm Lãng". Sự thực là các Động trưởng của bốn động trên đã bỏ theo Lê Lợi sau chiến thắng nhà Minh (1426), đến khi nhà Lê mất (1527), con cháu bốn động này lại bỏ về với nhà Minh(7). Rõ ràng là nhà nghiên cứu Hán Nôm ở đây không chỉ bám sát các hoạt động của giới sử học mà còn phát huy thế mạnh "chữ nghĩa" của mình, góp phần bổ chính cho giới sử học.

Theo tôi, tư liệu Hán Nôm có thể phân ra ba loại lớn gắn với ba chuyên ngành là Văn học, Ngôn ngữ học và Sử học. Để nghiên cứu sâu những văn bản Hán Nôm là tác phẩm văn học, thì người nghiên cứu phải được trang bị cơ bản kiến thức văn học và phải có khả năng thưởng thức văn chương nhất định; người chuyên về tư liệu liên quan đến ngôn ngữ văn tự, phải có kiến thức của nhà ngôn ngữ học; người chuyên về văn bản sử liệu thì đương nhiên phải có kiến thức về lịch sử. Trong các chuyên ngành lớn này, người nghiên cứu có thể chọn cho mình chuyên môn hẹp hơn tương ứng với đặc trưng từng loại hình tư liệu. Sau đó bổ sung kiến thức hỗ trợ khác nhằm giúp cho lí giải triệt để tư liệu mà nhà nghiên cứu chuyên sâu. Phân định này định hướng cho việc đào tạo chuyên ngành và bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu. Điều đó cũng góp phần điều chỉnh chương trình và nội dung đào tạo, cũng như định hình chuyên ngành Hán Nôm với tính chất đặc thù của một Ngành Đông phương học. Có như vậy chúng ta mới có thể đi sâu, đi xa hơn được trong thiên niên kỉ mới.

CHÚ THÍCH

(1) Trịnh Khắc Mạnh, "Viện nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển (1970 - 2000)", in trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển: 1970-2000, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000, tr.77.

(2) Xem Đinh Khắc Thuân, "Đính chính niên đại giả trên một số thác bản bia tại kho bia Viện Hán Nôm", trong Nghiên cứu Hán Nôm, 2/ 1985, tr.68-77.

(3) Trần Nghĩa, "Nhận thức lại ngành Hán Nôm sau 20 năm công tác", trong Viện nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển..., Sđd, tr. 143.

(4) Tên gọi "Tùy hỉ xã" từng gặp trên chuông Thanh Mai thế kỉ VIII (Hà Tây). Xem Đinh Khắc Thuân, Hoàng Ngọc, "Văn bản chuông Thanh Mai thế kỉ VIII" trong Tạp chí Hán Nôm 1/1987, tr. 17.

(5) Nguyên văn "如 昔 瞻 浪 二 都 澌 凜 金 勒 古 森 了 葛 等 四 峒...". Đoạn trích trong "Biểu đầu hàng" của Mạc Đăng Dung năm 1540, chép trong Thù vực châu tư lục, của Nghiêm Tòng Giản đời Minh, tái bản 1993, Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục, tr.226.

(6) Michel Cartier, Une réforme locale en Chine au X VIe Hai Rui a Chu'an 1558-1562 (Cải cách chính quyền địa phương Trung Quốc thế kỉ XVI...), Paris, Mouton & Cola Haye, 1973, tr.124.

(7) Lin Xi yuan (Lâm Hy Nguyên), Qin zhou zhi (Khâm châu chí), biên soạn vào thời Minh, do Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã xuất bản, 1982, Q. 9, tr.10a-11b.

TB

NHỮNG ĐIỀU TA CHƯA BIẾT VỀ
NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CŨNG NHƯ VỀ
QUÁ TRÌNH DỊCH THƠ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

TRẦN ĐẮC THỌ

Nhân một dịp được đi nghỉ ở Quảng Ninh ba tuần lễ, có nhiều thì giờ nhàn rỗi, tôi đã sang Hòn Gai tìm mua sách báo về đọc, trong số đó có cuốn Nhật ký trong tù (NKTT) của Bác Hồ, tái bản năm 1983. Tôi có quyển NKTT in lần đầu tiên năm 1960, nhưng vẫn mua quyển vừa nói để xem có gì khác trước, vì tôi có bản chụp nguyên tác của Bác Hồ với tiêu đề Ngục trung nhật ký (NTNK), tôi đã đọc kỹ và khi đem đối chiếu với bản dịch, tôi có những thắc mắc mà mãi đến nay vẫn chưa được giải đáp. May ở thư viện nhà nghỉ có bản in năm 1960, nên việc so sánh cũng thuận tiện.

Nhân tu chính các bản dịch của các Nhà xuất bản mà có nhiều người có ý kiến, tôi đã xem lại bản dịch đầu tiên của Nhà xuất bản Văn hóa phát hành vào dịp kỷ niệm Bác Hồ tròn 70 tuổi (19-5-1960). Lần phát hành ấy, bản dịch chỉ có 114 bài (kể cả 1 bài không có trong NTNK là bài Mới ra tù tập leo núi). So với nguyên tác 133 bài, lần xuất bản năm 1960 đã để lại 20 bài không dịch.

Kể từ năm 1960, hàng triệu bản đã được ấn hành để dùng trong các trường Phổ thông trung học và Đại học, song nội dung vẫn sử dụng bản dịch năm 1960 nên vẫn còn những chỗ thiếu, chỗ dịch sai... thậm chí có chỗ còn sửa văn của Bác. Đó là một điều không thể chấp nhận về mặt văn bản học. Bản năm 1983 có dịch thêm mấy bài, song các bài đã dịch từ năm 1960 hầu như vẫn giữ nguyên như cũ.

Có lần tôi đã tìm hỏi đồng chí Vũ Kỳ là Bí thư của Bác Hồ (Theo quy định, đồng chí Vũ Kỳ có nhiệm vụ nhận những công văn, giấy tờ, kể cả thư riêng gửi lên Bác và khi Bác trả lời cũng do Văn phòng đồng chí Vũ Kỳ vào sổ, nhập phong bì chuyển đi). Đồng chí Vũ Kỳ cho tôi biết: “[đồng chí] không hề nhận được giấy tờ của ai xin ý kiến sửa đổi thơ Bác”, và tất nhiên cũng không có hồi âm của Bác chuyển qua đồng chí Vũ Kỳ. Duy, khoảng đầu năm 1960, Văn phòng Phủ Chủ tịch có nhận được bản thảo tập NKTT đã được dịch ra thơ quốc văn với đề nghị “Bác xem và cho ý kiến”. Đồng chí Vũ Kỳ vội mang trình với Bác, Bác không xem và bảo: “Chú đọc cho Bác nghe mấy bài”. Đồng chí Vũ Kỳ mở tình cờ mấy trang và đọc cho Bác nghe. Được 3 bài, Bác ra hiệu ngừng và nói: “Chú trả lại ngay cho nơi gửi” và nói; “Thơ các chú dịch hay hơn thơ Bác”. (Lời đồng chí Vũ Kỳ, có được ghi âm).

Tôi nghĩ tìm hiểu được Bác Hồ viết nhật ký như thế nào và số phận tập Nhật ký đã lênh đênh ra sao cũng là một điều bổ ích và lý thú.

Tháng 9 năm 1996, trong cuộc họp Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ủy ban Hành chính Bắc Bộ (1946 - 1996) có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Xiển... dự, tôi được gặp cụ Hồ Đức Thành(1). Cụ Thành năm ấy đã 85 tuổi, từng làm Biện sự xứ ở Long Châu (Trung Quốc) để giúp các tổ chức cách mạng Việt Nam cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ này khi cần liên hệ với chính quyền của Tưởng Giới Thạch. Công khai, cụ còn đi dạy chữ Hán cho học sinh Trung Quốc để lấy tiền hoạt động.

Mùa hè năm 1943, cụ đã về Lam Sơn (Cao Bằng) gặp đồng chí Lã tức Bắc Vọng, tức Hoàng Đức Thạc là Bí thư Liên tỉnh ủy Cao - Bắc – Lạng. Cụ đã báo cáo tình hình công tác của mình ở Long Châu, được đồng chí Lã cho nghe tình hình trong nước, giao cho một số nhiệm vụ, trong đó có việc “bằng mọi cách tìm ra tung tích Ông Cụ (Bác Hồ); Kết quả ra sao, báo tin về nước ngay”. (ở nhà lúc ấy, nghe phải một nguồn tin thất thiệt cho là Bác Hồ không còn nữa, nên ai cũng lo lắng, bán tín bán nghi).

Trở lại Long Châu, cụ Hồ Đức Thành vội đến tìm hiểu ở các nhà chức trách Trung Hoa dân quốc, song không ai biết tin gì (Lúc này, Bác Hồ của chúng ta đang trên đường bị “đệ giải” loanh quanh hết huyện này sang huyện khác của tỉnh Quảng Tây, nên không ai rõ tung tích). Mãi đến đầu trung tuần tháng 9 năm 1943, họ mới cho biết Hồ Chí Minh đã được trả lại tự do tại Liễu Châu. Cụ Hồ Đức Thành vội thu xếp đi Liễu Châu ngay và đã được gặp Bác Hồ ở Hợp tác xã của Đệ tứ Chiến khu do Trương Phát Khuê làm Tư lệnh.

Như vậy, cụ Hồ Đức Thành được gặp Bác Hồ vào khoảng cuối trung tuần tháng 9 năm 1943 sau khi Bác Hồ được trả tự do độ 9, 10 ngày và là một trong số ít người được gặp lại Bác sớm nhất, sau khi Bác ra tù. Bác Hồ, theo lời cụ Hồ Đức Thành, lúc ấy rất yếu, đi không vững. Bác được họ bố trí cho ở ngay trong Hợp tác xã quân đội (giống như kiểu các “căng tin” của ta thời bao cấp, có tổ chức bán cơm bữa cho ai muốn dùng). Bác Hồ được hưởng chế độ ưu đãi, nên có lúc ngồi ăn chung với các sĩ quan của Tướng Trương Phát Khuê(2).

Đồng chí Hồ Đức Thành với cương vị là Biện sự xứ, hằng ngày được vào Hợp tác xã gặp Bác Hồ, có khi ở lại cả ngày. Chuyến ấy, đồng chí Hồ Đức Thành ở lại Liễu Châu khoảng 20 ngày. Đồng chí báo cáo với Bác Hồ tình hình công tác ở Long Châu, nghe Bác Hồ giảng giải, phân tích những điều chưa hiểu rõ hoặc làm chưa tốt trong công tác Cách mạng ở hải ngoại, nghe Bác nhận xét về một số nhân vật Trung Hoa dân quốc ở Quảng Tây, về các hoạt động của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam... Được độ hai tuần lễ, câu chuyện vãn dần. Căn buồng của Bác Hồ chỉ rộng hơn 10 mét vuông, có kê một giường gỗ không đến nỗi hẹp lắm, một bàn nhỏ và một ghế gỗ. Một bận đồng chí Hồ Đức Thành và Bác Hồ cùng nằm trên giường nhìn lên trần nhà, đột nhiên Bác hỏi Hồ Đức Thành: “Chú có đếm được số ngói trên trần không?” Hồ Đức Thành nhìn kỹ lại rồi đáp: “Thưa Cụ, tôi chịu”. Bác Hồ liền nói: “Thế mà tôi đếm được đấy; tôi chia mái ngói ra từng ô nhỏ rồi đếm, nhân lên và cộng lại”.

Có lần, Bác hỏi Hồ Đức Thành: “Chú có làm thơ không?” - “Thưa Cụ có”, đồng chí Hồ Đức Thành đáp.

- “Chú đọc tôi nghe một bài!” - Hồ Đức Thành dè dặt thưa: “Thưa Cụ, bài này tôi mới làm, chưa được hoàn chỉnh, xin Cụ phủ chính cho ạ!” Rồi Hồ Đức Thành đọc:

THĂM BÁC VỪA THOÁT NẠN
Nhớ Bác những ngày tại Liễu Châu,
Ra tù mươi bữa khóc ôm nhau!
Thân hình gầy guộc đi không vững,
Mái tóc lưa thưa lại lở đầu.
Đôi mắt lung linh ngời ánh sáng,
Từng lời ấm ấp đậm tình sâu.
Gông cùm, xiềng xích không lay chuyển,
Quyết dựng cơ đồ, chí vút cao!

- “Hừ ! chú này thật đa sự !” Bác nói, rồi chuyển ngay sang chuyện khác.

Chính ở thời điểm này, một buổi sáng, Bác Hồ đã cho đồng chí Hồ Đức Thành xem tập Ngục trung nhật ký. Nó được đóng bằng những tờ giấy báo cắt ra khâu lại, chữ được viết bằng bút máy, khổ giấy to hơn quyển NTNK bằng giấy bản, hiện lưu trữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Xét về mặt văn bản học, quyển mà đồng chí Hồ Đức Thành xem mới đích thực là chính bản; bản lưu trữ hiện nay ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam chỉ là á bản. Theo lời cụ Thành, khi chép lại, Bác Hồ có sửa. Chẳng hạn, bài Khai quyển, bài mở đầu tập NTNK đã được Bác Hồ viết như sau ở chính bản:

KHAI QUYỂN
Lão phu bản bất sính ngâm thi,
Nhân vị ngục trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi ma tuế nguyệt ,
Ngâm thi đẳng đãi tự do thì.
Bác Hồ khi chép lại, đã sửa thành:
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả
đãi tự do thì.

Bác Hồ lại cho các đồng chí Hồ Đức Thành biết: bài Vấn thoại, bài thứ 10 trong tập NTNK, được làm sau khi Bác bị Vương Chi Ngũ(3) chất vấn: “Anh sang Trung Quốc liên lạc với Hán gian hay với Nhật Bản?” Bác đáp: “Tôi là người bị bắt, song tôi có nhân cách của tôi, anh hỏi thế, tôi không trả lời”. Chúng bàn với nhau định mang Bác ra tra tấn. Có tên đã nêu ý kiến: “Tra tấn cũng không khai thác được gì đâu. Chi bằng giải lên cấp trên lĩnh thưởng!”. Nghe cụ Thành kể đến đây, người viết bài này mới rõ lý do Bác Hồ viết đầu đề bài thơ là “Vấn thoại” (Hỏi chuyện) mà không phải là “Vấn cung” vì Bác không chịu nhận mình là kẻ có tội, nên không có gì để cung khai; Bác chỉ một mực cho mình là kẻ bị bắt oan.

Đọc hết tập NTNK, cụ Thành có hỏi Bác Hồ vì sao ở bìa tập nhật ký lại ghi: 29.8.1932 - 10.9.1933. Bác đáp: “Mình muốn đánh lạc hướng, ai hiểu thế nào thì hiểu”.

Nhân tiện tôi có hỏi cụ Thành về việc có người cho rằng trong NTNK, Bác Hồ đã viết sai chính tả nhiều chữ. Bác Hồ thường viết chữ ( ngã: ta) và ( dục: muốn) là 2 chữ không có trong tự điển thông dụng hiện nay. Cụ Thành nói: “Bậy nào ! ở Trung Quốc, chỉ trong các giấy tờ Nhà nước hay trong sách dùng cho học sinh mới bắt buộc phải viết nghiêm chỉnh, ngang bằng sổ ngay (trừ những chữ đã được thay bằng giản thể do Bộ giáo dục quy định). Bình thường viết cho nhau, người ta có quyền viết tắt gọi là “tỉnh bút” (省 筆). Riêng về chữ “ngã” Bác viết “” là một kiểu chữ thảo dùng trong dân dã, nhất là ở hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây là nơi Bác có thời kỳ dài hoạt động Cách mạng, nên không có tự điển thông dụng nào ghi. Bác Hồ viết nhật ký riêng của mình, dùng lối “tỉnh bút” là dĩ nhiên. Trong Trung văn có những chữ nhiều đến trên 30 nét, ai mà nhớ nổi được. Ngay người Trung Quốc có học vấn cao, vẫn phải tra tự điển đối với những chữ nhiều nét hoặc dễ lẫn lộn giữa chữ này chữ kia. Kiểu như ở bên ta, nhiều lúc ta băn khoăn không biết nên viết thế nào cho phải các phụ âm “d”, “gi”, “r”, “s”, “x”, lại phải tra tự điển, mà chữ Quốc ngữ của ta còn đơn giản hơn chữ Trung Quốc nhiều.

Khi về Pác Bó(4), Bác Hồ đã gửi quyển NTNK cho một nhà cơ sở mà không mang theo vào hang, vì sợ giấy bản không chịu được hơi ẩm trong hang. Cơ quan lúc ấy lại đổi chỗ ở luôn nên sau đó, Bác quên bẵng nơi gửi. Chính đồng chí Hồ Viết Thắng, người đồng hương với Bác Hồ, có thời là Bộ trưởng, là Phó Chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã phát hiện ra tập nhật ký này và chính tay đồng chí Hồ Viết Thắng đã trao nó lại cho Bác. Đồng chí Hồ Viết Thắng còn nhớ khi nhận được tập nhật ký, Bác đã nói: “Mình cứ tưởng quyển này đã bị mất rồi, may lại tìm thấy” (Phát biểu của đồng chí Hồ Viết Thắng, có được ghi âm).

Có một điều chúng ta không ngờ: Bác đã cho đưa quyển NTNK vào phòng lưu trữ của Văn phòng Trung ương Đảng.

Mọi chuyện chìm vào quên lãng. Chúng ta không biết số phận tập NTNK sẽ ra sao nếu không có những sự việc sau đây: Đồng chí Hùng, người giữ Phòng lưu trữ lại không biết chữ Hán và khi gửi tập nhật ký vào, cũng không ai nói về lai lịch tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên đồng chí Hùng xếp vào một góc phòng lẫn với những sách vở tài liệu chữ Hán khác.

Phải đến đầu năm 1959, quyển NTNK mới được đồng chí Phạm Văn Bình tình cờ phát hiện ra. Đồng chí Phạm Văn Bình nguyên là Trưởng ban Giáo vụ Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc; đồng chí được phân công giảng về Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1939 - 1945, nên đã đến Phòng lưu trữ của Trung ương Đảng đọc thêm tài liệu. Trong một góc buồng tối, đồng chí thấy một đống sách chữ Hán. Đồng chí Bình đã từng học mấy năm chữ Hán ở Trung Quốc, nên sau một lúc lục lọi, đồng chí đã moi ra được quyển NTNK to hơn bàn tay một chút của Bác Hồ. Đồng chí mang ra đưa cho đồng chí Hùng. Đồng chí Hùng không biết là quyển gì. Sau khi nghe đồng chí Phạm Văn Bình giảng giải, đồng chí Hùng mới hiểu rõ giá trị quyển “sổ” có bìa lem luốc mà đồng chí đã giữ bấy lâu nay. Đồng chí Hùng thuận cho đồng chí Bình mượn mang về dịch với điều kiện dịch xong, sẽ nộp cho phòng lưu trữ một bản dịch.

Đồng chí Phạm Văn Bình mang về giao cho đồng chí Văn Phụng là phiên dịch chữ Hán của trường phiên âm và dịch nghĩa. Dịch xong đến đâu, đưa lại cho đồng chí Bình đến đấy để đồng chí dịch ra thơ Quốc âm (Đồng chí Văn Phụng không biết làm thơ). Khi dịch thơ, đồng chí Bình lấy bút danh là Văn Trực; gặp chỗ nào ngờ ngợ về ngữ nghĩa đồng chí Phạm Văn Bình lại tranh thủ ý kiến cụ Phó bảng Bùi Kỷ khi ấy đang là học viên ở trường, và các nhân sĩ trí thức trong lớp.

Khi dịch xong 133 bài thơ trong NTNK, đồng chí Bình mang báo cáo với đồng chí Trường Chinh thường có giờ giảng ở trường. Đồng chí Trường Chinh khuyên nên đưa cho đồng chí Tố Hữu, hồi đó là Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Bí thư Học ủy của trường, lại là một nhà thơ. Một sáng chủ nhật, đồng chí Phạm Văn Bình đã đến nhà đồng chí Tố Hữu lúc ấy còn ở phố Lý Thường Kiệt, song không gặp. Đồng chí Bình viết thư và để toàn bộ tập tài liệu lại. Vào 5 giờ chiều hôm ấy, đồng chí Tố Hữu đã cho xe xuống đón đồng chí Bình. Đồng chí Bình đến nơi đã thấy hai đồng chí Đặng Thai Mai và Hoài Thanh đến trước. Cuộc họp ngắn gọn. Đồng chí Tố Hữu giao nhiệm vụ cho Viện Văn học (hồi đó đồng chí Đặng Thai Mai là Viện trưởng, đồng chí Hoài Thanh là Viện phó). Về cơ quan, hai đồng chí đã giao cho đồng chi Nam Trân cùng làm việc gấp với đồng chí Phạm Văn Bình để kịp sang năm 1960, có thể phát hành sách vào dịp Bác Hồ tròn 70 tuổi (19 - 5 - 1960). Hai đồng chí Phạm Văn Bình và Nam Trân sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đã nộp bản thảo cho Viện Văn học.

Vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ năm ấy, cuốn sách được phát hành rộng rãi. Đồng chí Bình không thấy tên mình được nhắc tới trong cuốn sách dịch, dù chỉ một lần. Đồng chí Bình có hỏi đồng chí Nam Trân. Đồng chí Nam Trân nói có lẽ sơ suất tại Nhà xuất bản. Công việc chấm dứt ở đó với nỗi niềm không mấy vui của đồng chí Phạm Văn Bình (câu chuyện này cũng được ghi âm).

Sau đó các Nhà xuất bản Giáo dục, Đại học và Trung học chuyên nghiệp dựa vào bản dịch năm 1960, hàng năm ấn hành để dùng trong các nhà trường.

Phải đến năm 1990, 1991 mới có những bản dịch trọn vẹn 133 bài thơ trong NTNK của Viện Văn học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Riêng bản của Viện Văn học vẫn đưa thêm bài Tân xuất ngục, học đăng sơn” vào trong tập NKTT thành ra 134 bài. Việc dịch trọn vẹn NTNK là yêu cầu của đồng chí Trường Chinh khi đồng chí là Chủ tịch nước. Bản của Viện Văn học có bổ sung, sửa chữa một số bài. Bản của Nhà xuất bản Khoa học xã hội có dịch lại gần ba phần tư các bài thơ đã dịch trước đây.

Tôi không hiểu tại sao Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin tháng 8 năm 1996 lại cho ra đời một cuốn NKTT chỉ có 114 bài (kể cả bài Mới ra tù tập leo núi không có trong NTNK). Như vậy còn thiếu 20 bài không dịch. Tất cả những bài in trong NKTT lần này hầu như đều lấy nguyên văn bản dịch năm 1960 của Viện Văn học. Không những thế, lại còn bỏ cả những chú thích của Bác Hồ, đảo lộn trật tự các bài thơ, không tôn trọng trật tự vốn có của nguyên tác mà tác giả đã ghi và đánh số cẩn thận.

Trong NTNK, Bác Hồ dùng nhiều phương ngữ Quảng Đông là nơi Bác đã hoạt động nhiều năm, đã từng viết bài cho các báo Trung Quốc ở tỉnh ấy. Bác bị bắt ở Quảng Tây một cách vô cớ, bị giam lẫn với các tù nhân Trung Quốc cũng nói tiếng Quảng Đông (ở Quảng Tây từ Quế Lâm trở xuống nói tiếng Quảng Đông). Các bản dịch cũ không chú ý tới điểm này nên đã có bài hiểu sai ý Bác và đã sửa cả thơ Bác khi không tìm được xuất xứ.

Bài viết này nếu ngừng ở đây sẽ là một thiết sót lớn nếu không nhắc lại ý kiến của đồng chí Tố Hữu, một người đã theo dõi việc tổ chức dịch và in cho kịp ngày thượng thọ 70 tuổi của Bác Hồ. Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1998, tôi đã được đồng chí Tố Hữu tiếp chuyện. Nhà thơ của chúng ta rất khỏe, vui và cực kỳ minh mẫn. Tự nhiên nhà thơ lại đề cập đến bài thơ Đường Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Chúng tôi cùng trao đổi về bài thơ ấy đến hai mươi phút. Sau đó, đồng chí mới nói đến thơ chữ Hán của Bác Hồ, đúng vào vấn đề mà tôi đang muốn tìm hiểu. Tôi đã nêu một số câu hỏi và được đồng chí trả lời như sau:

1. Xác nhận đồng chí Phạm Văn Bình là người có công phát hiện tập NTNK bị bỏ quên ở kho lưu trữ của Trung ương Đảng, tổ chức phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ.

2. Đồng chí Tố Hữu đã giao cho đồng chí Đặng Thai Mai và đồng chí Hoài Thanh, Viện trưởng và Viện phó Viện Văn học chịu trách nhiệm xem lại bản dịch của đồng chí Bình để kịp phát hành sách vào dịp 19 - 5 - 1960.

3. Đồng chí Nam Trân cùng với đồng chí Phạm Văn Bình đã cùng nhau biên tập lại tập NKTT đã được dịch nghĩa và dịch thơ.

4. Bác Hồ không biết tập nhật ký của mình đang được mang dịch, nên việc nói Bác đồng ý cho sửa chữ này chữ nọ là không đúng. Bác không quan tâm nên sau khi sách được phát hành, Bác cũng không hề đọc, coi như chuyện đã qua.

5. Đồng chí Tố Hữu đã dịch lại hoàn toàn bài thơ Tình thiên mang số 130.

6. Đồng chí Tố Hữu có lần hỏi Bác về việc làm thơ ở trong tù, Bác bảo: “Trong tù không có việc gì làm nên làm thơ cho qua ngày tháng, cho họ biết mình bị bắt oan, mình chỉ là một người yêu nước thôi”.

7. Bác Hồ chưa bao giờ trao đổi với đồng chí Tố Hữu về một bài thơ nào và của ai.

8. Bác Hồ hay làm thơ chữ Hán vì chữ Hán súc tích, lời ít ý nhiều, lại có nhiều điển để diễn tả.

9. Bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy không phải của Bác Hồ. Có lẽ bài này là của đồng chí Xuân Thủy. Bác Hồ chưa một lần đi thuyền trên sông Đáy, làm sao lại có thơ được?

Cuối cùng, trước khi chia tay, đồng chí Tố Hữu cho biết chưa bao giờ đồng chí làm thơ nhiều như bây giờ vì lúc này tâm hồn thanh thản, không lo nghĩ gì (Thơ thường gửi đăng ở báo Nhân dân và báo Văn nghệ).

CHÚ THÍCH

(1) Hồ Đức Thành: một nhà hoạt động cách mạng rất sớm, năm nay cụ 89 tuổi. Đầu năm 1946, cụ được bầu vào Quốc hội khóa I và làm đại biểu Quốc hội trong 14 năm. Cụ được cử làm ủy viên ngoại giao của ủy ban hành chính Bắc Bộ để đối phó với quân Tưởng sang giải giáp quân đội Nhật.

(2) Xem cuốn Đầu nguồn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr.416.

(3) Vương Chi Ngũ (王 之 伍): Đại tá đặc vụ Trung Hoa dân quốc, có sang Việt Nam công tác trong Bộ Tư lệnh giải giáp quân đội Nhật. Chi Ngũ có đến yết kiến Bác Hồ. Bác có tiếp và giao cho ủy viên ngoại giao UBHC Bắc Bộ Hồ Đức Thành chiêu đãi.

(4) Pác Bó: tiếng Tày, có nghĩa là “miệng nguồn”. Thường bị gọi nhầm là Pắc Bó.

TB

CÓ HAI LỐI MIÊU TẢ CẢNH VẬT

LÊ HOÀI NAM

Đọc thơ xưa - Hán Việt cũng như Nôm, nhiều khi người ta gặp một tình hình dường như không được bình thường này: trong cùng một bài thơ có những chi tiết về không gian, nhất là về thời gian, trước sau không thống nhất, không ăn khớp với nhau. Chẳng hạn bài Thu ẩm của Nguyễn Khuyến:

Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lấp lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè !

Câu 2 tả buổi tối không trăng, câu 3 nói về cảnh lúc ban chiều, câu 4 lại tả đêm có trăng và câu 6 thì trở lại cảnh ban ngày. Nếu ở đây có sự không ăn khớp về mặt thời gian, thì trong bài Thu vịnh cũng của cụ Yên Đổ lại có sự không thống nhất về không gian:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ;
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái;
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào !

Bầu trời - Khóm trúc - Mặt ao - Cửa sổ - Hoa sân - Ngỗng trời: các hình ảnh hiện ra không theo một trật tự không gian nào cả; chỗ đứng của tác giả không xác định. Tình hình trên đây không khỏi khiến cho nhiều người đọc không cảm thấy bối rối. Để giải quyết vấn đề này, các nhà nghiên cứu thường qui về đặc trưng bút pháp “tổng hợp” trong nghệ thuật miêu tả cảnh vật của các nhà thơ thời trước. Xuân Diệu khi bình bài Thu ẩm đã viết: “... tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm”(1)

Thực ra, không phải bất cứ bài thơ tả cảnh vật nào cũng đều có tình hình đó. ở những bài thơ khác, cảnh vật hiện ra trong một thể thống nhất về không gian và thời gian xác định. Bài Thu điếu của cùng một tác giả chính thuộc bút pháp miêu tả này: đó là một buổi câu cá trọn vẹn trên thuyền, trong ao làng, vào một ngày thu trong sáng.

Như vậy là trong thơ xưa có hai lối tả cảnh vật khác nhau.

Các bài thơ tả cảnh vật theo bút pháp “tổng hợp” thuộc một loại thơ gọi là “thơ vịnh(2) vật”. Theo Giáo sư Vương Lực trong cuốn Hán ngữ thi luật học (Nhà xuất bản Giáo dục Thượng Hải - In lần thứ ba, 1964), thì loại thơ này có từ thời Thịnh Đường về trước, nhưng thịnh hành vào thời Trung – Vãn Đường. Một bài thơ vịnh vật chân chính lấy việc tránh chữ trong đề mục (tức đối tượng miêu tả) làm nguyên tắc - gọi là “tỵ đề tự”. Như vậy cả bài thơ như một câu đố mà đề mục chính là lời giải. Một bài thơ vịnh vật hay là khi dựa vào nội dung với những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc, người đọc nhận ra ngay bản chất đối tượng miêu tả, không lẫn lộn với những sự vật khác. Đó là một cách khái quát hóa, điển hình hóa nghệ thuật. Tuy nhiên điều này cũng không có tính chất bắt buộc quá khắt khe. Thậm chí có khi có người còn cố ý đưa “chữ đề” vào bài thơ - gọi là điểm đề - thường đặt ở câu đầu, hay câu 3 - 4, ví dụ như các bài vịnh năm canh, vịnh bốn mùa trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Thường thì trong đề mục bài thơ có từ “vịnh” đứng trước tên gọi đối tượng miêu tả, nhưng cũng nhiều khi không. Tuy nhiên qua cách miêu tả, người ta có thể nhận ra được bài thơ đó thuộc vào loại vịnh vật, chẳng hạn như các bài thuộc về các môn: “thiên địa”, “phong cảnh”, “phẩm vật” trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi hay trong Hồng Đức Quốc âm thi tập của các tác giả đời Hồng Đức.

Ngoài ra, còn có loại thơ “vịnh sử” là những bài thơ vịnh người và việc trong lịch sử, có bài chuyên nói về một người, một việc, có bài nói chung việc lịch sử, cũng đều được sáng tác theo lối “tổng hợp”.

Khác với loại thơ “vịnh vật” này là loại thơ “tức cảnh”, “tức sự”. “Tức” ở đây có nghĩa là “đến”, “gần”, “ngay liền”. “Tức cảnh” là nói về phong cảnh trước mắt. “Tức sự” là nói về sự vật trước mắt. ở đây cảnh vật và sự việc hiện ra như những cá thể được nắm bắt và biểu hiện trong dạng thức hiện thực của chúng, trong một sự nhất quán về không gian và thời gian. Chẳng hạn bài Tức cảnh chiều thu (có nơi gọi là “Nhị Hà tức cảnh”) của bà huyện Thanh Quan (có nơi ghi là của Hồ Xuân Hương) là một bức tranh nho nhỏ về một bến sông Nhị Hà, vào một chiều thu có mưa lất phất. Kết thúc bài thơ là một thái độ tình cảm rõ ràng đối với cảnh trước mắt:

Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ!

Nguyễn Trãi có một bài thơ tuyệt cú “tức sự” rất hay - bài Mộ xuân tức sự:

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

Nghĩa là:

Trong cảnh nhàn suốt ngày đóng cửa phòng sách,
Ngoài cửa tuyệt không có khách tục đến.
Trong tiếng cuốc kêu nghe xuân đang về già,
Cả sân hoa xoan nở dưới mưa bụi.

Chớ có thấy ở đây có tiếng chim cuốc, có hoa xoan nở trong mưa bụi mà vội cho rằng đây là một bài thơ tả cảnh. Điều mà tác giả muốn nói đến là cái sự việc ẩn trong tiếng chim, trong những đóa hoa đó. ấy là mùa xuân sắp qua, đang đi đến tàn cục; qua đó, tác giả muốn gửi gắm nỗi niềm đau xót của mình: thời gian cứ trôi qua, mình đã về già, mà cứ phải bị tách rời khỏi cuộc đời, sống một cuộc sống trống rỗng vô vị, không thi thố được tài năng, thực hiện được hoài bão lớn của mình.

Trong các đề mục những bài thơ chữ Hán của Việt Nam, cũng như của Trung Quốc, thỉnh thoảng ta còn gặp những từ: “tức mục”, “tức hứng”, “tức tịch”. “Tức” trong những từ này cũng đều có nghĩa là “ngay lúc ấy”, “ngay chỗ ấy”. “Tức mục”: từ những điều trông thấy lúc đó mà đặt ra đề mục làm văn (Ví dụ bài Tức mục của Nguyễn Khuyến). Tức hứng: có cảm xúc đối với cảnh vật trước mắt, thừa hứng mà làm (Ví dụ bài Long Hạm nham tức hứng - Tức hứng núi Hàm Rồng - của Phan Huy ích). Tức tịch: làm ngay tại chỗ (Ví dụ bài: Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn - Cùng ông huyện họ Nguyễn, và ông huyện cũ họ Trần uống rượu, viết bài này ngay tại chỗ để tiễn biệt - của Nguyễn Khuyến).

Tóm lại trong thơ Hán, Nôm cũ, có hai lối miêu tả sự vật, dù trên đề mục có ghi “vịnh”, “tức” hay không. Không phân biệt các phương thức nghệ thuật khác nhau đó dễ đi đến những cách hiểu, nhận định về bài thơ gượng ép, không đúng đắn. Điều đó đã được thể hiện chẳng hạn trong nhiều ý kiến phân tích bài thơ Cây chuốI của Nguyễn Trãi hai thập kỷ qua, đặc biệt là trong cuộc tranh luận kéo dài mấy tháng trời trên mặt báo Giáo dục và Thời đại. Nhận thấy các chi tiết về cây chuối ở hai câu trên và hai câu dưới nói về hai giai đoạn phát triển khác nhau của cây chuối: giai đoạn trổ buồng

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.

và giai đoạn còn non tơ:

Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.

nghĩa là chúng không thể tồn tại vào cùng một thời điểm trong một cây chuối cụ thể, nhiều người đã cho rằng bài thơ nói về hai cây chuối khác nhau, hoặc là một cây con được bứng từ một nơi khác đưa về trồng cạnh những cây đang trổ buồng, hoặc là cả hai cùng mọc trong một khóm, một vườn chuối. Lại có người - khởi xướng từ Xuân Diệu - tìm cách tạo ra sự nhất quán, nguyên khối của bài thơ bằng cách hiểu từ “buồng” ở câu 2 không phải là buồng chuối mà là buồng ở, hoặc là buồng của người con gái, mùa xuân về, đang khao khát yêu đương, hoặc là buồng của chính thi nhân.

Thực ra, theo thiển ý chúng tôi, bài thơ này chính là bài thơ “vịnh vật”, cũng như các bài thơ viết về các loại cây cối, hoa quả hay thú vật khác của Nguyễn Trãi. Vì vậy không có gì là mâu thuẫn giữa các chi tiết trong bài thơ về mặt thi pháp. Ngược lại, đó là hai chi tiết rất đắt giá để nói về cây chuối. Một chi tiết nói về cây chuối đang trổ buồng, tức là đang ở thời kỳ sung mãn, thời kỳ quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất của đời chuối. Còn chi tiết kia nói về thời kỳ mới lớn lên, trẻ trung, đầy hứa hẹn. Nếu chi tiết trên tả cái đẹp thiên về cảm tính, thì chi tiết dưới bộc lộ cái đẹp nặng về xúc cảm. Cố nhiên trong sáng tác thơ ca, người xưa thường gửi gắm một tâm trạng, một nỗi niềm nào đó, nhưng điều đó không thuộc phạm vi bàn bạc của bài viết này. Cần nói thêm là trong bản Nôm của Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, chữ “buồng” được viết là “  ”, và với tự dạng này, “buồng” chỉ có thể có nghĩa là “buồng chuối”; còn buồng trong nghĩa là “nơi ở” thì thường được viết là “” đọc theo âm Hán cổ (âm Hán - Việt là phòng). Chỉ dựa vào bản phiên ra chữ Quốc ngữ để hiểu “buồng” theo nghĩa buồng khuê, buồng sách e không đúng !

CHÚ THÍCH

(1). Xuân Diệu. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Tập 2. Nxb. Văn hóa 1982, tr.182.

(2). Từ “vịnh” vốn có nhiều nghĩa như: “ca” (ca: vịnh), “ngâm” (ngâm vịnh), có khi có nghĩa rộng là “làm thơ” nói chung.

TB

TÌM HIỂU NGÔN NGỮ Ở KINH THÀNH THĂNG LONG CUỐI THẾ KỶ XVIII QUA “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU

NGUYỄN KHẮC BẢO

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du (1765 - 1820) là con trai thứ bảy của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (1708 - 1776) quê gốc ở xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng thân phụ của thi hào từ năm 16 tuổi (1724) đã ra dự và đỗ đầu kỳ thi sát hạch tại Quốc tử giám, đến năm 23 tuổi lại đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ, trẻ nhất trong số người đỗ đại khoa năm ấy và từ đó liên tục nhận các chức quan ở Thanh Hoa, Sơn Nam. Đến năm 33 tuổi (1741), Cụ bắt đầu ra Thăng Long nhậm chức Tế tửu Quốc tử giám rồi thăng dần đến chức Tham tụng (Tể tướng) tước Xuân quận công, đến khi về trí sĩ được thăng chức Đại Tư đồ. Mẹ của thi hào là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778) quê ở xã Hoa Thiều huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn trấn Kinh Bắc, sinh ra thi hào tại phường Bích Câu Kinh thành Thăng Long. Quan Tham tụng Nguyễn Nghiễm còn có bà vợ thứ 5 là Nguyễn Thị Xuân quê ở xã Tiên Sơn huyện Yên Phong phủ Từ Sơn trấn Kinh Bắc và 2 nàng dâu quê cũng ở trấn Kinh Bắc. Một là vợ của Nguyễn Điều quê ở huyện Siêu Loại phủ Thuận Thành sinh ra Nguyễn Hành (1771 – 1824) cũng là một trong “An Nam ngũ tuyệt” như người chú Nguyễn Du). Hai là vợ của Nguyễn ức (em cùng mẹ với Nguyễn Du) quê ở xã Phù Đổng huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn. Như vậy là trong dinh thự của quan Xuân quận công ở Kinh thành Thăng Long có hai bà phu nhân và hai nàng dâu người trấn Kinh Bắc và dĩ nhiên là sẽ có hàng trăm gia nô, đầy tớ, a hoàn nữa là người xứ Bắc và ở Kinh đô Thăng Long. Môi trường sinh hoạt ấy tổng hòa cả ngôn ngữ tình tứ, trau chuốt của các làn điệu quan họ quê mẹ, sự chuẩn xác, thuần cổ của vùng Nghệ Tĩnh quê cha và nét hào hoa, thanh lịch của Kinh kỳ Thăng Long là nền tảng vững chắc ảnh hưởng rất nhiều đến kho tàng ngôn ngữ của thi hào khi dùng để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ.

Như chúng tôi đã trình bày trong bài: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều khi nào?” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống tháng 6/2000, dựa vào văn bản Truyện Kiều còn nhiều câu chữ có nội dung “yêu thư - yêu ngôn” kiểu như “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”... phạm vào điều 225 luật Gia Long và đặc biệt có nhiều từ phạm trọng húy như: Chủng 種, Lan 蘭, là tên của vua Gia Long và mẹ cả là Huy Gia từ phi, nên có thể kết luận: Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi Gia Long lên ngôi vua, tức là khi thi hào còn ở ẩn tại quê cha Tiên Điền (1796 - 1801). Do văn bản gốc Truyện Kiều của thi hào không còn, nên những bản Truyện Kiều khắc in vào đầu thế kỷ XX như bản của Kiều Oánh Mậu 1902 (đã chủ yếu dựa vào bản Kinh của Đào Nguyên Phổ mang từ Huế ra tặng năm 1898) mà văn bản Kinh này đã bị các văn quan triều Tự Đức sửa chữa với các lý do: nhầm tự dạng, không hiểu nghĩa, tự cho mình có quyền sửa chữa “hay hơn”... nên các từ cổ của thế kỷ XVIII trong nguyên tác đã bị thay bằng các từ “hiện đại” cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dẫn đến làm sai lệch chân diện của nguyên tác. Sau đây chúng tôi xin dựa vào các văn bản Kiều Nôm cổ nhất còn lưu giữ được là:

1. Bản Liễu Văn Đường khắc in năm 1871,

2. Bản Quan Văn Đường khắc in năm 1879,

3. Bản ấn Thư hội khắc in năm 1896,

4. Bản chép tay của cụ Vũ Hữu Đắc ở Bắc Ninh năm Giáp Ngọ 1894,

5. Bản chép tay của cụ Chu Phi Bảng ở Diễn Châu - Nghệ An.

Để khôi phục lại các từ cổ trong Truyện Kiều, mong rằng sẽ phản ánh chính xác ngôn từ của Kinh kỳ Thăng Long hồi cuối thế kỷ XVIII qua ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du.

Các câu Kiều chúng tôi đề nghị hoàn nguyên, chủ yếu là dựa vào sự thống nhất của các bản Kiều Nôm thế kỷ XIX nói trên. Các câu Kiều cho là sai nhưng lại đang được dùng để giảng dạy, truyền bá rộng rãi, được trích dẫn theo bản Truyện Kiều của Nxb. Văn học 1979 do học giả Đào Duy Anh và tập thể các nhà thơ cùng tham gia hiệu đính.

Để thiết thực chào mừng 990 năm Thăng Long - còn 10 năm nữa là tròn 1000 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, chúng tôi xin chọn 10 trường hợp tiêu biểu sau:

. Câu 41: Cỏ non xanh tạn (羡) chân trời.

Câu 831: Miếng ngon kề đến tạn (羡) nơi.

Câu 2610: Nợ đâu ai đã dắt vào tạn (羡) tay.

Câu 2704: Nước xuôi bỗng đã trôi dần tạn (羡) nơi.

Câu 2766: Đánh đường chàng mới tìm vào tạn (羡) nơi.

(Nếu cần ghi âm tận thì chỉ cần khắc chữ (尽) có 6 nét, thay vì 羡 tới 12 nét)

Bản Đào Duy Anh 1979 (ĐDA79) phiên âm câu 41 là:

Cỏ non xanh dợn chân trời (nhưng bản ĐDA 74 lại phiên là: xanh tận) còn các chữ tạn ở các câu sau thì ĐDA79 đều phiên là: tận.

Tạn là âm cổ, theo từ điển Việt - Bồ - La của De Rhodes 1651 đã giải nghĩa: Tạn là vươn tới, chạm tới. Ví dụ: Nước đã tạn gỗ = Nước đã chạm gỗ; Tạn mây = Tới mây.

Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (HTC 1896) còn ghi rõ:

Tạn (羡) (Nôm): Thấu đến nơi, sát một bên, cùng tột.

Ví dụ: Tạn mặt, tạn trời, tạn chân trời, dòm tạn mặt, cho tạn mặt.

J.F.M Genibrel 1898 cũng giảng:

Tạn: Tận, đến tận, đến sát. Ví dụ: Nhìn tạn mặt.

Cho đến gần đây, Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức năm 1971 vẫn ghi:

Tạn (Trạng từ): Tận, sát một bên, thấy cho rõ ràng.

Nhiều tác phẩm Nôm cổ vẫn còn sử dụng từ tạn này như:

+ Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa có câu:

Phong thanh gió mát tạn lầu.

+ Quốc âm thi tập có câu:

Gió tạn rèm thay chổi quét.

Tìm thanh trong vắt tạn trà mai.

+ Song Tinh có câu:

Sinh từ tạn mặt Thể Vân.

Khách tiên tạn mặt ân cần.

+ Ca dao Nghệ An có câu:

Anh ơi đừng chê em đen,

Một ngày tạn tối, nỏ mấy phen em ở nhà.

Như vậy ta thấy từ Tạn được dùng rất nhiều trong văn chương cổ và được ghi nhận trong các từ điển. Nên chăng khôi phục âm Tạn trong Truyện Kiều cho đúng văn bản và phù hợp với âm cổ.

. Câu 484: Tiếng mau phay pháy (派 派) như trời đổ mưa

ĐDA79: Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.

Theo từ điển của HTC 1896 giảng:

Phay pháy: Mày mày như sợi tơ nhỏ lắm.

Mưa phay pháy: Mưa bay, mưa sương, mưa nhỏ hột quá (tr.183).

Tự điển Lê Văn Đức 1971 giảng: Mưa phay pháy còn viết láy pháy, pháy pháy là bay như tro bụi.

Vậy ghi là “sầm sập” với giảng nghĩa là: “Mưa rào đổ mạnh và mau” làm sai cả ý nghĩa của tiếng mưa phay pháy là nhỏ nhẹ như bụi.

ƒ. Câu 590: Tiếng oan dậy đất, án ngờ dựng ( ) mây.

Câu 1841: Dửng ( ) đi chợt nói chợt cười.

Câu 3216: Gà đà gáy sáng trời vừa dựng (孕) đông.

Ở bản ĐDA79 các câu trên được chép là:

Tiếng oan dậy đất án ngời lòa mây.

Ngảnh đi chợt nói chợt cười,

Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.

Theo HTC 1896: Dựng: Tạo lập, cắt đặt, để đứng, dở lên.

Dửng: là dửng dưng, bảng lảng không biết tới nhau.

Vậy các âm Dựng - Dửng rất phù hợp với văn cảnh của câu thơ lại đúng với văn bản chữ Nôm, phản ánh đúng ngôn ngữ dân tộc cuối thế kỷ XVIII, sao ta lại vì các bản “tân thời” mà sửa bỏ các từ cổ đi.

. Câu 898: Trất nhơ (窒 洳) đến nỗi buộc vào tôi ngươi.

ĐDA79: Rớp nhà đến nỗi buộc vào tôi ngươi.

Trất là từ gốc Hán, theo Tự điển Hán Việt của Thiều Chửu nghĩa là: Lấp, bức, mắc mứu. Theo HTC 1896: Trất: nghẹt, tiếng trợ từ. Theo Lê Văn Đức: Trất: bí, nghẹt, bị ngăn lại. Còn Nhơ tất cả các từ điển đều giảng là: Dơ dáy không sạch sẽ. Vậy Trất nhơ là từ sáng tạo Hán + Nôm của Nguyễn Du nghĩa là: bị mắc kẹt vào một việc dơ dáy bẩn thỉu, nét nghĩa đúng hơn từ Rớp nhà chứ!

. Câu 1250: Ngẩn ngơ trăm nỗi dồi ( ) mài một thân.

ĐDA79: Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân.

Theo De Rhodes và HTC 1896 thì Dồi mài có nghĩa là đầy vơi, phản ánh thật đúng tâm trạng của Thúy Kiều lúc phải sa chân lỡ bước vào chốn lầu xanh. Còn phiên âm là Dùi mài với nét nghĩa phổ biến là cần cù chăm chỉ thì quả là oan cho Thúy Kiều. Vì sao Kiều lại chăm chỉ làm cái việc nhơ bẩn ở chốn lầu xanh được?

. Câu 1509: Đôi ta chút nghĩa bèo bồng ( 蓬)

ĐDA79: Đôi ta chút nghĩa đèo bòng.

Phiên âm là Bèo bồng mới đúng với mặt chữ Nôm và phản ánh thực chất mối quan hệ giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều chỉ là tạm bợ như bèo nổi - cỏ bồng bay, lửng lơ không bám rễ vào đâu cả. Còn Đèo bòng là quá khăng khít, gắn bó quấn quýt với nhau thì đời nào Thúy Kiều lại xui dại chàng Thúc về “nói sòng” cái quan hệ mật thiết ấy cho sư tử Hoạn Thư biết.

. Câu 1647: Dẩy ( ) ngay lên ngựa tức thì.

ĐDA79: Vực ngay lên ngựa tức thì.

Nếu bọn Khuyển Ưng lại: Vực Kiều lên ngựa thì chúng quá nhân đạo mà sau này Kiều lại đem xử tử chúng thì oan cho chúng quá. Vậy phiên âm là Dẩy vừa đúng theo mặt chữ Nôm, vừa lột tả đủ bản chất của bọn ác nhân “khốc quỷ kinh thần” là quá đúng sao lại chữa đi ?

ˆ. Câu 1912: Cũng cho nghĩ nghị ( ) trong vòng bước ra.

ĐDA79: Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.

Nghĩ nghị là từ Việt gốc Hán, được Vương Vân Ngũ đại từ điển số 5708/1 giảng là: 擬 議: 揣 度 而 加 評 論.

Nghĩ nghị = Sủy độ nhi gia bình luận. Nghĩa là: Suy xét và thêm bình luận.

HTC 1896 giảng: Nghĩ nghị: Tưởng đến, suy xét rồi quyết định, nhất tính phải làm thế gì. Cả hai cách giảng trên đều rất phù hợp với văn cảnh của đoạn thơ. Nhưng ngay từ thời đó (theo HTC 1896) từ này đã xếp vào loại ít dùng, điều này càng chứng tỏ rằng Nguyễn Du phải viết Truyện Kiều trước năm 1896 rất lâu - vào khoảng cuối thế kỷ XVIII là rất hợp lý.

. Câu 1951: Quản chi trên các dưới duềnh ( )

ĐDA79: Quản chi lên thác xuống ghềnh

Câu thơ: Quản chi trên các dưới duềnh chính là lời thanh minh vụng về của chàng Thúc Sinh miệng hùm gan sứa, tỏ vẻ sẵn sàng học cách đâm đầu từ trên gác xuống tự tử như Dương Hùng thời Hán hoặc nhảy xuống sông tìm cái chết như Khuất Nguyên nước Sở. Một số nhà biên khảo do chưa nắm được điển tích trên lại bị ám ảnh bởi Thúc là lái buôn nên chữa câu thơ thành: Quản chi lên thác xuống ghềnh nghe có vẻ dễ hiểu, dễ lọt tai nhưng thực chất lại sai với nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là: Thúc muốn cùng chết với Thúy Kiều để khỏi phải nhìn cái cảnh đau đớn trước mắt Kiều bị Hoạn Thư hành hạ.

Š. Câu 2362: Càng cay ngạt ( ) lắm càng oan trái nhiều.

ĐDA79: Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

Theo HTC 1896 (Tập I - tr.90):

Cay ngạt: Thường nói về lời gay gắt, cái cay và cái ngạt là cốt cái dao cái kéo. Lời nói có cay ngạt thì là gay gắt quá.

Cũng theo HTC 1896 (Tập 2 - tr.87):

Cay ngạt: Sâu thiểm, gay gắt.

Trong HTC 1896 lúc đó chưa thấy xuất hiện từ “cay nghiệt”, từ này chỉ xuất hiện đầu tiên ở bản Kiều Oánh Mậu 1902. Như vậy ta có thể kết luận chính từ Cay ngạt mới chính là từ của Nguyễn Du, của Kinh thành hồi cuối thế kỷ XVIII.

Những câu Kiều vừa trình bày ở trên được trích dẫn theo 5 bản Kiều Nôm cổ cuối thế kỷ XIX, tuy xuất hiện ở nhiều nhà tàng bản khác nhau, lại ở các vùng địa lý khác nhau như quê mẹ Nguyễn Du (bản Bắc Ninh), ở nơi sinh trưởng của Nguyễn Du (bản Liễu Văn Đường 1871...), ở quê cha của thi hào (bản chép tay Diễn Châu), nhưng nội dung lại rất thống nhất, nên ta có thể tin rằng những câu thơ đã trình bày ở trên là sát với nguyên tác Truyện Kiều và thực là tiếng nói của người dân Việt nói chung và Kinh thành Thăng Long nói riêng hồi thế kỷ XVIII.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 5 bản Kiều Nôm đã trích dẫn trong bài.

2. Các bản Kiều Nôm khắc in trong thế kỷ XX.

3. Các bản Kiều Quốc ngữ in trong thế kỷ XIX - XX.

4. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, 1974.

5. Các từ điển tiếng Việt của Alexandro De Rhodes 1651, Huỳnh Tịnh Của 1895 - 1896, Lê Văn Đức 1971, Hoàng Phê 1997.

6. Các sách của Bùi Văn Nguyên, Đặng Duy Phúc, Chu Trọng Huyến, Lê Thước viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều.

TB

BIA VĂN MIẾU HƯNG YÊN

NGUYỄN THUÝ NGA

Văn miếu Hưng Yên, còn gọi là Văn miếu Xích Đằng ở thôn Yên Tảo huyện Kim Động phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, nay thuộc thôn Xích Đằng xã Lam Sơn thị xã Hưng Yên. Đây là một trong 42 di tích nằm rải rác quanh thị xã, một quần thể kiến trúc tạo nên một phố Hiến xưa sầm uất và một thị xã thủ phủ mang đậm tính lịch sử của tỉnh Hưng Yên ngày nay.

Trong chuyến đi công tác cuối năm 1992, một số cán bộ của Phòng Văn bản học thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã về thăm và làm thác bản toàn bộ số văn bia hiện có tại Văn miếu. Hiện nay, số thác bản này đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, số đăng ký từ No 26937 đến No 26945.

Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về những tấm bia ở Văn miếu Xích Đằng và nêu một số nhận xét về thông tin “khoa lục” qua những tấm bia đó.

I. Bia Văn miếu:

Sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Hưng Yên ghi rằng: “Văn miếu Hưng Yên ở phía tây bắc tỉnh thành, thuộc địa phận xã Xích Đằng, dựng năm Minh Mệnh 20 (1839)”(1). Văn miếu được xây dựng trên một khu đất rộng lớn, chừng 4000 m2, có tường gạch bao quanh. Khu nội tự rộng khoảng 600m2, có một chuông lớn (cao 1m26, đường kính 87cm) đặt trong nhà chuông bên phải phía trong cổng. Một khánh đá rất lớn (dài 2m, rộng 1m, dày 20cm) đặt trong nhà bên trái phía trong cổng. 9 tấm bia cỡ lớn được đặt thành 2 hàng trong một nhà bia rộng.

Tất cả 9 tấm bia đều có nội dung ghi chép họ tên, quê quán, khoa đỗ và chức quan của những người đỗ đại khoa quê tỉnh Hưng Yên. Số thứ tự của chúng được xếp theo thời gian: đời Trần - Hồ, Lê sơ, Lê Trung hưng - Mạc. Chúng đều được khắc một mặt, có kích thước tương đối lớn và đồng đều: 140cm x 80cm. Phần trán bia khá lớn, chiếm khoảng 1/3 chiều cao, trang trí mặt trời, mây. Diềm bia hơi nhỏ, đa số trang trí dây leo và lá cách điệu.

Trừ một tấm bị vỡ mất dòng tên bia, 7 tấm, từ tấm thứ 2 đến tấm thứ 8 đều trình bày thống nhất theo cách: khắc dòng chữ tên bia theo chiều ngang trên trán bia, từ trái sang phải với tên là Hưng Yên Văn miếu đệ... bi 興 安 文 廟 第… 碑.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu sơ qua từng tấm:

1/ Tấm bia bị vỡ mất trán bia và hàng chữ ở sát trán bia, thác bản mang ký hiệu số No 26945. Đây là tấm bia ghi họ tên, khoa đỗ của 14 Tiến sĩ. Những chữ ghi họ bị vỡ mất, chúng ta dễ dàng khôi phục lại nhờ căn cứ vào các tài liệu đăng khoa lục(2). Đó là các chữ: "Tống" trong tên Tống Trân, "Nguyễn" trong tên Nguyễn Thành, "Trần" trong tên Trần Phong, "Nguyễn" trong tên Nguyễn Duy Tắc, "Đặng" trong tên Đặng Tuyên, "Nguyễn" trong tên Nguyễn Khắc Tân, "Nguyễn" trong tên Nguyễn Văn Chính. Căn cứ vào năm đỗ của các Tiến sĩ ghi trên bia, chúng ta biết được đây chính là tấm bia mang tên Hưng Yên Văn miếu đệ nhất bi 興 安 文 廟 第 一 碑 ghi họ tên các Tiến sĩ đỗ từ đời Trần, Hồ đến đời Lê sơ.

2/ Thác bản mang ký hiệu No 26937 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ nhị bi 興 安 文 廟 第 二 碑 ghi họ tên 14 Tiến sĩ đời Lê, từ Nguyễn Chương, người xã Thiên Đông huyện Tiên Lữ, Tiến sĩ khoa Bính Tuất đến Nguyễn Thù, người xã Bình Hồ huyện Đông Yên, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi.

3/. Thác bản mang ký hiệu No 26938 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ tam bi 興 安 文 廟 第 三 碑 ghi họ tên 14 Tiến sĩ đời Lê, từ Nguyễn Nho Tông, người xã Vực Đường huyện Ân Thi, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi đến Nguyễn Văn Kiệt, người xã Mỹ Xá huyện Hưng Nhân, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất.

4/ Thác bản mang ký hiệu No 26939 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ tứ bi 興 安 文 廟 第 四 碑 ghi họ tên 14 Tiến sĩ đời Lê, từ Nguyễn Thế Mỹ, quê xã Lương Trụ huyện Tiên Lữ, đỗ khoa Nhâm Tuất đến Đào Nghiễm, quê xã Thiện Phiến huyện Tiên Lữ, đỗ khoa Quý Mùi.

5/ Thác bản mang ký hiệu No 26940 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ ngũ bi 興 安 文 廟 第 五 碑, ghi họ tên 14 Tiến sĩ đỗ đời Lê và đời Mạc, từ Vũ Huyễn, quê xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, đỗ khoa Bính Tuất đời Lê đến Nguyễn Uyên, quê xã Nham Lang huyện Hưng Nhân, đỗ khoa Bính Thìn đời Mạc.

6/ Thác bản mang ký hiệu No 26941 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ lục bi 興 安 文 廟 第 六 碑 ghi họ tên 14 Tiến sĩ đời Mạc và đời Lê, từ Nguyễn Quang, quê xã Lôi Hạ huyện Tiên Lữ, đỗ khoa Bính Thìn đời Mạc đến Đặng Khanh, quê xã Phú Thị huyện Đông Yên, đỗ khoa Canh Dần đời Lê.

7/ Thác bản mang ký hiệu No 26942 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ thất bi 興 安 文 廟 第 七 碑 ghi họ tên 14 Tiến sĩ đời Lê, từ Hoàng Công Bảo, quê xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, đỗ khoa Canh Dần đến Nguyễn Tân, quê xã An Vĩ huyện Đông Yên, đỗ khoa Tân Sửu.

8/ Thác bản mang ký hiệu No 26943 có tên Hưng Yên Văn miếu đệ bát bi 興 安 文 廟 第 八 碑 gồm 2 phần:

- Phần trên ghi họ tên 6 Tiến sĩ, 2 đời Nguyễn và 4 đời Lê.

Hai Tiến sĩ đời Nguyễn:

1. Bùi Quỹ 裴 櫃, người xã Hải án huyện Tiên Lữ, Tiến sĩ khoa Minh Mệnh Kỷ Sửu, làm quan đến Tổng đốc.

2. Đào Danh Văn 陶 名 聞, người xã Tiên Phương huyện Tiên Lữ, Tiến sĩ khoa Thiệu Trị Nhâm Dần, làm quan đến Đốc học.

- Phần Bổ di ghi 4 Tiến sĩ đời Lê:

1. Cao Nguyễn Phán 高 阮 , người xã Phúc Hải huyện Hưng Nhân, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn đời Lê, làm quan Đông các.

2. Vũ Công Thắng 武 公 勝, người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu.

3. Vũ Trác Lạc 武 卓 , người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, Tiến sĩ khoa Bính Thân, làm quan đến Tham chính.

4. Hoàng Bình Chính 黃 平 政, người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, Tiến sĩ khoa ất Mùi, làm quan đến Đông các.

Nửa sau bia ghi năm dựng là Đồng Khánh 3 (1888) và người dựng là Tổng đốc Hoàng Cao Khải đỗ Cử nhân ân khoa năm Tự Đức Mậu Thìn (1868).

9. Tấm bia cuối cùng mang ký hiệu No 26944 không có dòng tên trên trán bia mà ghi ngang phía dưới trán bia, sát thân bia: Ân Thi phủ, Văn Lâm huyện, Mỹ Hào huyện, Yên Mỹ huyện 恩 施 縣 文 林 縣 美 豪 縣 (huyện Văn Lâm, huyện Mỹ Hào, huyện Yên Mỹ phủ Ân Thi).

Mở đầu là bài ký của Tiến sĩ Dương Thiệu Tường(3), nội dung ngắn gọn cho biết quá trình Hoàng Cao Khải cho dựng 8 tấm bia và lý do ông cho dựng tiếp tấm thứ 9. Bài ký có đoạn: "Xét thời Hoàng công dựng bia, những huyện ở phía đông như Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm thuộc phủ Ân Thi chưa lệ thuộc bản tỉnh, bia ghi tên các Tiến sĩ vì vậy mà thiếu. Khi về trị nhậm thành Đằng được 2 năm, tôi bèn trù liệu khởi công. Trước sửa nhà, tường; sau đem họ tên những người đỗ đại khoa thuộc các huyện mới lệ thuộc cung kính khắc vào bia đá". Sau bài ký là phần ghi họ tên bằng khổ chữ nhỏ, cả thảy có 57 vị.

Như vậy, chúng ta biết rõ 9 tấm bia ở Văn miếu Hưng Yên, ghi tên 161 vị thì 8 tấm do Hoàng Cao Khải cho dựng năm Đồng Khánh 3 (1888) khi ông làm Tổng đốc Hưng Yên và một tấm do Dương Thiệu Tường dựng năm 1943, cũng khi ông đến làm Tổng đốc tỉnh này.

Nội dung các tấm bia đều được ghi theo cách:

1/ Họ tên khắc chữ to, sau đó là dòng lưỡng cước ghi đời đỗ, năm đỗ, danh hiệu được ban, hoạn lộ và cuối cùng là quê quán huyện xã của người đỗ, giống như cách ghi của bia Văn miếu ở một số tỉnh khác, ví dụ: "Trần Cảnh Mô, Lê, Quý Dậu Tiến sĩ, Đông Yên Triền Thủy nhân" 陳 景 謨 黎 季 西 進 士 東 安 廛 水 人. Riêng tấm thứ 9, quê người đỗ chỉ ghi tên xã.

2/ Xếp người đỗ theo từng huyện xã, trong huyện xã lại xếp theo thứ tự khoa đỗ.

II. Một số nhận xét:

Tìm hiểu kỹ từng tấm bia, nói chung tên người được sắp xếp theo địa phương huyện xã, trong huyện xã lại sắp xếp theo thứ tự thời gian thi đỗ, tuy vậy chúng tôi thấy có một số trường hợp nghi vấn hoặc chưa chính xác. Dựa vào nguồn tài liệu đáng tin cậy như các sách đăng khoa lục (một số đã được khắc in) như Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Đăng khoa lục sao bản, Lịch đại đại khoa lục, Thiên Nam lịch triều Tiến sĩ đăng khoa bị khảo, Quốc triều khoa bảng lục, v.v. bia Văn miếu Hà Nội, Văn miếu Huế và gia phả, chúng tôi đã bổ khuyết và đính chính, xin nêu cụ thể như sau:

1/ Bia thứ nhất, ký hiệu No 26945 có ghi một người tên là Tống Trân , quê làng An Cầu huyện Phù Cừ, đỗ Trạng nguyên đời Trần.

Cho đến nay chúng ta đều mới chỉ biết đến một Trạng nguyên Tống Trân qua truyện Nôm khuyết danh Tống Trân Cúc Hoa và Tống Trân tân truyện (AB. 217). Không có một nguồn sử liệu nào nói đến nhân vật này với tư cách một nhà chính trị (đi sứ) hay nhà khoa bảng (đỗ đạt). Ngay cả sách Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn khoảng đời Tự Đức, Q. XV, Tỉnh Hưng Yên, ở mục Đền miếu, Đền Tống Trạng nguyên cũng chỉ ghi một cách dè dặt như sau: "Tương truyền thần họ Tống, tên là Trân, người xã này, không rõ về thời nào, là người thông tuệ lạ thường, lúc 5, 6 tuổi đã hiểu Thi, Thư và lục nghệ, 8 tuổi thi đỗ Trạng nguyên, phụng mệnh sang sứ Bắc quốc, bị giữ lại 10 năm mới được về"(4)

Chúng tôi cho rằng đây chỉ là một nhân vật được hư cấu trong văn học dân gian, không phải là con người có đi thi và có đỗ đạt thật. Vì vậy những thông tin về Tống Trân từ tấm bia này chỉ nên coi đó là tấm gương hiếu học và chung thủy được dân gian truyền tụng, ca ngợi mà thôi(5).

2/ Bia thứ 2, ký hiệu No 26937, ghi Lê Hiến Phủ 黎 獻 甫 đỗ Bảng nhãn đời Lê, các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ Bảng nhãn khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh đời Trần Duệ Tông (1374).

3/ Bia thứ 3, ký hiệu No 26938, ghi Nguyễn Văn Kiệt 阮 文 傑 đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Tuất đời Lê, các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ Nhị giáp, cần hiểu đây là cách ghi học vị chung.

4/ Bia thứ 8, ký hiệu No 26943, sau phần ghi họ tên 2 Tiến sĩ triều Nguyễn (Bùi Quỹ và Đào Danh Văn) có dòng chữ: "Bổ di dĩ hạ" và họ tên cùng quê quán của 4 Tiến sĩ. Dòng chữ này có ý nghĩa là ghi bổ sung những người đỗ từ đời Lê về trước nhưng còn thiếu tên trong 7 tấm bia trên. Đó là các vị:

1. Cao Nguyễn Phán 高 阮 , Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1724) đời Lê. Làm quan đến Đông các. Người xã Phúc Hải huyện Hưng Nhân.

2. Vũ Công Thắng 武 公 勝, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1637). Người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi.

3. Vũ Trác Lạc 武 卓 , Tiến sĩ khoa Bính Thân (1556). Làm quan đến Tham chính. Người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi.

4. Hoàng Bình Chính 黃 評 政 Tiến sĩ khoa ất Mùi (1775). Làm quan đến Đông các. Người xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi.

Riêng về Vũ Trác Lạc, chúng tôi thấy có vấn đề như sau:

Tất cả các tài liệu đăng khoa lục, bia Tiến sĩ ở Văn miếu Hà Nội và Huế(6) đều ghi chỉ có một người tên là Vũ Trác Lạc, người làng Mộ Trạch huyện Đường An, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức (1556) đời vua Lê Thần Tông mà không có người nào trùng cả họ tên với ông quê ở xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi. Như vậy Vũ Trác Lạc được khắc tên ở tấm bia này chỉ có thể là Tiến sĩ Vũ Trác Lạc quê ở làng Mộ Trạch mà thôi.

Như chúng ta đều biết, Vũ Trác Lạc là người thuộc dòng họ Vũ ở làng Mộ Trạch, thuộc tổng Thì Cử (sau đổi là Tuyển Cử) huyện Đường An phủ Thượng Hồng, đến đời Đồng Khánh thuộc phủ Bình Giang, đều thuộc trấn Hải Dương. Họ Vũ này là một dòng họ đại khoa danh nổi tiếng cả nước, có tới gần ba chục người đỗ Tiến sĩ, khởi đầu từ Vũ Nghiêu Tá đỗ đời Trần đến Vũ Huy Đĩnh đỗ cuối đời Lê, tổng cộng 28 vị mà Vũ Trác Lạc là người thứ 15 đỗ đạt của dòng họ này(7). Nhưng tại bia này lại ghi ông quê ở xã Thổ Hoàng huyện Ân Thi, không rõ do nhầm hay người soạn văn bia có cứ liệu nào khác?

5/ Bia thứ 9, ký hiệu No 26944 có một số thông tin cần đính chính. Chúng tôi chia thành 3 nhóm và xin nêu cụ thể như sau:

a/ Nhóm ghi đời đỗ chưa chính xác, gồm 8 trường hợp sau:

1. Lương Quỹ 梁 櫃 người xã Phù Vệ, đỗ Tam giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ Nhị giáp năm Đại Chính 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh.

2 Ngô Mậu Du 吳 茂 愉, người xã Phù Vệ, đỗ Tam giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Thuần Phúc 4 (1565) đời Mạc Mậu Hợp.

3. Đỗ Trác Dị 杜 卓 異 người xã Đỗ Xá, đỗ Tam giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Vĩnh Định 1 (1547) đời Mạc Phúc Nguyên.

4. Đỗ Cung 杜 珙 người xã Đỗ Xá, đỗ Nhất giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Diên Thành 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp.

5. Nguyễn Minh Dương 阮 明 楊, người xã Nghĩa Trai, đỗ Nhất giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Cảnh Lịch 3 (1550) đời Mạc Phúc Nguyên.

6. Dương Phúc Tư 楊 福 玆, người xã Lạc Đạo, đỗ Nhất giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Vĩnh Định 1(1547) đời Mạc Phúc Nguyên.

7. Ngô Khiêm 吳 謙, người xã Yên Nhân, đỗ Nhất giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ năm Quang Bảo 9 (1562) đời Mạc Phúc Nguyên.

8. Phan Trứ 范 著, người xã Phù ủng, đỗ Nhị giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục, bia Văn miếu Huế ký hiệu No5697 đều ghi ông đỗ năm Minh Mệnh 13 (1832) đời Nguyễn.

Những người được ghi trong bia do Dương Thiệu Tường dựng có một điều đáng chú ý là ông không phân biệt rõ người đỗ đời Lê hay đời Mạc. Mặc dù cùng một khoa thi, nhưng các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục và các sách đăng khoa lục đều ghi cụ thể các khoa thi do nhà Mạc hay nhà Lê tổ chức, mỗi khoa từng nhà lấy bao nhiêu người đỗ và họ tên từng người. Việc thi và ra làm quan với nhà nào là thể hiện xu hướng chính trị của mỗi người. Vì vậy, việc ghi chính xác thiết tưởng cũng là điều cần thiết.

b/ Nhóm ghi nhầm học vị được ban, gồm 3 trường hợp sau:

1. Lương Quỹ 梁 櫃, người xã Phù Vệ, đỗ Tam giáp đời Lê. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông đỗ Nhị giáp năm Đại Chính 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh.

2. Phạm Xuân 范 春, người xã Bạch Sam, đỗ Tiến sĩ đời Nguyễn. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông chỉ đỗ Phó bảng năm Tự Đức 28 (1875).

3. Phạm Văn Thụ 范 文 樹, người xã Bạch Sam, đỗ Tiến sĩ đời Nguyễn. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông chỉ đỗ Phó bảng năm Thành Thái 4 (1892).

Bia Văn miếu Huế, thác bản số No 16487 ghi họ tên những người đỗ 3 khoa: Tự Đức 24, Tự Đức 28 và Tự Đức 30 không có tên của Phạm Xuân. Còn thác bản số No 16491 ghi họ tên những người đỗ 2 khoa: Thành Thái 4 và Thành Thái 7 cũng không có tên của Phạm Văn Thụ. Tên của 2 vị này, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong sách Quốc triều khoa bảng lục do Cao Xuân Dục biên soạn mà thôi(8).

c/ Nhóm có dị biệt quê quán so với các tài liệu đăng khoa lục, gồm 4 trường hợp sau:

1. Phạm Hựu 范 祐, người xã Đỗ Xá, đỗ Tam giáp đời Mạc, các sách đăng khoa lục đều ghi ông quê xã Đào Xá huyện Đường An.

2. Ngô Khiêm 吳 謙, người xã Yên Nhân, đỗ Nhất giáp đời Mạc, các sách đăng khoa lục đều ghi ông quê xã Đường Hào huyện Đường Hào.

3. Chu Tông Văn 朱 宗 文, người xã Dị Chế, đỗ Nhị giáp đời Lê, các sách đăng khoa lục đều ghi ông quê xã Đa Sĩ huyện Đường Hào.

4. Vũ Châu 武 珠, người xã Dị Chế, đỗ Nhị giáp đời Lê, các sách đăng khoa lục đều ghi ông quê xã Dị Sử huyện Đường Hào.

Các trường hợp này đều không có bia ở Văn miếu Hà Nội và đều không có gia phả dòng họ, vì vậy căn cứ vào các tài liệu đăng khoa lục để ghi quê quán của họ là điều hợp lý, nhưng cũng nên xem nguồn thông tin này là tài liệu dùng để khảo dị.

*
**

Sau đây chúng tôi xin thống kê tất cả những trường hợp mà chúng tôi đã khôi phục và đính chính theo từng bia:

1/ Hưng Yên Văn miếu đệ nhất bi: No 26945:

1. [Nguyễn] Thành 阮 誠, người xã An Lạc huyện Thần Khê, Hoàng giáp khoa Canh Thìn đời Hồ, làm quan đến chức Tế tửu.

2.[Trần] Phong 陳 封, người huyện Tiên Lữ, đỗ khoa Hoành từ năm Tân Hợi đời Lê, làm quan đến chức Thái bảo.

3. [Nguyễn] Duy Tắc 阮 維 則, người xã Thiên Đông huyện Tiên Lữ, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất đời Lê, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

4. [Đặng] Tuyên 鄧 宣, người xã Vực Đường huyện Ân Thi, Hội nguyên, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn đời Lê, làm quan đến chức Thừa chỉ.

5. [Nguyễn] Khắc Tân 阮 克 津, người xã Bàn Thạch huyện Phù Cừ, Tiến sĩ khoa Quý Dậu đời Lê.

6. [Nguyễn] Văn Chính 阮 文 正, người xã Dương Trạch huyện Đông Yên, Tiến sĩ khoa Quý Mùi đời Lê.

2/ Hưng Yên Văn miếu đệ nhị bi: No 26937:

Lê Hiến Phủ 黎 獻 甫, người xã Triền Thủy huyện Đông Yên, Bảng nhãn khoa Giáp Dần đời Trần .

3/ Hưng Yên Văn miếu đệ tam bi: No 26938:

Nguyễn Văn Kiệt 阮 文 傑, người xã Mỹ Xá huyện Hưng Nhân, Hoàng giáp khoa Giáp Tuất đời Lê, làm quan Đô ngự sử.

4/ Hưng Yên Văn miếu đệ bát bi, No26943: bỏ tên Tiến sĩ Vũ Trác Lạc.

5/ Hưng Yên Văn miếu đệ cửu bi, No 26944:

1. Lương Quỹ 梁 櫃, người xã Phù Vệ, Hoàng giáp đời Mạc, làm quan đến chức Thị lang.

2. Ngô Mậu Du 吳 茂 愉, người xã Phù Vệ, Tam giáp đời Mạc, làm quan đến chức Ngự sử.

3. Phan Trứ 范 著, người xã Phù ủng, Nhị giáp đời Nguyễn.

4. Đỗ Trác Dị 杜 卓 異, người xã Đỗ Xá, Tam giáp đời Mạc, làm quan chức Thị lang.

5. Đỗ Cung 杜 珙, người xã Đỗ Xá, Nhất giáp đời Mạc.

6. Phạm Hựu 范 祐 người xã Đào Xá,Tam giáp đời Mạc, làm quan đến chức Tham chính.

7. Nguyễn Minh Dương 阮 明 楊, người xã Nghĩa Trai, Nhất giáp đời Mạc làm quan chức Hiến sát sứ.

8. Dương Phúc Tư 楊 福 玆, người xã Lạc Đạo, Nhất giáp đời Mạc, làm quan đến chức Tham chính.

9. Ngô Khiêm 吳 謙, người xã Đường Hào, Nhất giáp đời Mạc, làm quan đến chức Thị lang.

10. Chu Tông Văn 朱 宗 文, người xã Đa Sĩ, Nhị giáp đời Lê.

11. Vũ Châu 武 珠, người xã Dị Sử, Nhị giáp đời Lê, làm quan chức Hiệu lý.

12. Phạm Xuân 范 春, người xã Bạch Sam, Phó bảng đời Nguyễn, làm quan chức Ngự sử.

13. Phạm Văn Thụ 范 文 樹, người xã Bạch Sam, Phó bảng đời Nguyễn, làm quan đến chức Thượng thư, tước Nam.

*
**

Chín tấm bia ở Văn miếu Xích Đằng là một di sản văn hóa quý giá, nó cung cấp cho chúng ta tư liệu để tìm hiểu quá trình xây dựng Văn miếu, quá trình dựng bia và giúp chúng ta có được hệ thống họ tên, quê quán của những Tiến sĩ quê thuộc tỉnh Hưng Yên. Nhưng mặt khác, như chúng tôi đã trình bày, thông tin "khoa lục" ở đây không tránh khỏi những nhầm lẫn. Vì vậy chúng tôi cho rằng, khi cần sử dụng, chúng ta nên có sự đối chiếu, so sánh với các tài liệu đăng khoa lục liên quan để tránh những sai sót do quá trình khắc dựng bia gây ra.

CHÚ THÍCH

Chú thích:

(1) Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán biên soạn. Người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh. Nxb. Thuận Hóa tái bản năm 1992, T.3, tr.308.

Cũng xem: Văn miếu khảo, A. 2789.

(2) Xem các sách: Đại Việt đỉnh khiết lịch triều đăng khoa lục, Nguyễn Hoản... biên soạn năm Cảnh Hưng 40 (1779); Đăng khoa lục sao bản; Lịch đại đại khoa lục; Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo, Phan Huy Ôn biên soạn v.v.

(3) Dương Thiệu Tường: người xã Vân Đình huyện Sơn Lãng tỉnh Hà Đông, sinh năm 1895, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Khải Định 4 (1919), làm quan đến Tổng đốc Hưng Yên.

(4) Đại Nam nhất thống chí, sdd. T.3, tr.311.

(5) Xem thêm: Nguyễn Thúy Nga, Nghiên cứu văn bản học đăng khoa lục Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 1999, tr.103.

(6) Cũng xem: Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên v.v. Nxb. Văn học, H. 1993.

(7) Xem: Vũ tộc khoa hoạn phả ký, Tiến sĩ Vũ Bật Hài soạn, A. 622. Cũng xem: Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, A. 1940, tờ 11a.

(8) Xem: Quốc triều khoa bảng lục, Cao Xuân Dục biên soạn. Về Phó bảng Phạm Xuân, xem Q.III, tờ 5b; về Phó bảng Phạm Văn Thụ, xem Q. III, tờ 15b.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

I. Chữ Hán:

1. Đại Nam nhất thống chí, A. 69.

2. Đại Việt đỉnh khiết lịch triều đăng khoa lục, Nguyễn Hoản .... biên soạn, khắc in Cảnh Hưng 40 (nhiều bản).

3. Đăng khoa lục sao bản, 1785.

4. Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, A.963.

5. Lịch đại đại khoa lục, A.219.

6. Quốc triều khoa bảng lục, Cao Xuân Dục biên soạn (nhiều bản)

7. Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo, Phan Huy Ôn biên soạn, (nhiều bản).

8. Văn miếu khảo, A.2789.

9. Vũ tộc khoa hoạn phả ký, A.662.

10. Một số bia Tiến sĩ ở Văn miếu Hà Nội và Văn miếu Huế.

II. Tiếng Việt:

1. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993.

2. Nghiên cứu văn bản học đăng khoa lục Việt Nam, Nguyễn Thúy Nga, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 1999.

3. Văn miếu Xích Đằng, một di tích văn hóa quý. Lê Hồng Thiện, Văn hóa thể thao, Sở Văn hóa thông tin và thể thao Hải Hưng, số 92, 1992, tr. 26.

TB

VỀ TẤM BIA HỘP PHÁT HIỆN TẠI NÚI CỐC XÃ DĨNH TRÌ, HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

LÂM GIANG

Năm 1998, Đoàn sưu tầm tư liệu Hán Nôm chúng tôi về làm công tác sưu tầm tại xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã thấy tận mắt và in rập tấm bia hộp do nhân dân ở đây mới phát hiện được ở núi Cốc. Khi đến huyện Lạng Giang lại được ông Nguyễn Văn Kính Trưởng phòng Văn hóa huyện trao cho bản phô tô bài văn bia do các cụ ở Dĩnh Trì chép lại.

Loại hình bia hộp xuất hiện ở Việt Nam không nhiều, riêng ở bia này có những chi tiết giúp làm sáng tỏ đôi điều về dòng họ Giáp, về người cha, cũng như về bản thân Trạng nguyên Giáp Hải, người làng Dĩnh Kế, nay thuộc Thị xã Bắc Giang, điều này nói lên giá trị của tấm bia mới tìm thấy.

Trong tập kỷ yếu của Trường Đại học Ngoại ngữ Osaka, Nhật Bản, Số 21 năm 1999, tác giả YAO Takao đã thu thập, nghiên cứu về loại hình bia hộp tại Việt Nam, cho rằng: “Loại bia này có giá trị quý là vì có nhiều thông tin về mối quan hệ trong đẳng cấp chi phối”. ở đây tác giả đã tập hợp được 12 tấm bia hộp, và công bố nguyên văn 11 bia, tất cả đều là bia xuất hiện ở nửa cuối thế kỉ XV, đầu XVI, với những soạn giả có tên tuổi như Lương Thế Vinh, Nguyễn Xung Xác, Nguyễn Trực, Vũ Duệ. Về tấm bia hộp ở núi Cốc, Bắc Giang, tác giả đã biết đến, nhưng chưa có bản rập và chưa khảo sát được tại chỗ, nên chưa có trong bản thống kê này.

Gọi là “Bia hộp” (Box inscription) là vì nó có hình dạng giống như một cái hộp hình chữ nhật. Mỗi bia có hai phiến đá, một phiến là bia chính và một phiến dùng làm cái nắp úp lên bia chính. Nắp thường để ghi tên mộ chí, như: Phan Khê hầu mộ chí, Quận thượng chúa Lê Thị chi mộ chí, Tây Việt quốc Quốc Thái phu nhân Nguyễn Thị chi mộ v.v. Còn phần bia chính dùng để ghi tiểu sử của người được mai táng, như họ tên, ngày sinh, ngày mất, chức vụ trong triều đình (nếu có), cùng cha mẹ, anh em, con cái, …

Tấm bia hộp phát hiện tại núi Cốc Bắc Giang cũng nằm trong thông lệ đó. Nội dung của nó nói về thân thế sự nghiệp, gia sự, con cháu... của người cha của Giáp Hải, (Trạng nguyên khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính (1538), triều Mạc).

Nắp của bia gồm 111 chữ, được khắc vào dịp dời mộ tới núi Cốc vào ngày Nhâm Dần, tháng 8 năm Hoàng triều Diên Thành thứ 4 (1581). Phần bia chính gồm 553 chữ, bị mờ mất nét nhiều chữ, rất khó đọc, được viết ngay khi mai táng người cha Giáp Hải húy Đức Kỳ, hiệu Khánh Sơn tiên sinh, vào ngày 12 tháng 7, năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549). Như vậy, 32 năm sau khi Giáp Hải qua đời, mộ được chuyển lên núi Cốc.

Như trên đã nói, văn bia bị mờ nhiều chữ. Nếu không có sự bổ trợ của cuốn gia phả họ Giáp ở Bảo Lộc Sơn (nay thuộc huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang), trong đó đã chép lại toàn bộ nội dung bài văn mộ chí, thì việc khôi phục lại nguyên văn bài văn bia tất sẽ gặp nhiều khó khăn.

Nội dung bài văn bia giúp ta hiểu rõ một số vấn đề sau đây:

1. Khá nhiều sách vở đời sau chép về thân thế và sự nghiệp của Giáp Hải, (trong đó có những truyền thuyết và những huyền thoại khá li kì), đều cho rằng Giáp Hải là kết quả của mối tình giữa bà bán nước ở bến sông Bát Tràng, huyện Gia Lâm với người chăn vịt vô danh. Rằng, khi Giáp Hải độ 2,3 tuổi chơi ở sân, có một lái buôn người Dĩnh Kế rời thuyền lên bờ, vào hàng uống nước, thấy người mẹ đứa bé ra ngoài vắng, lại vì nhà hiếm con nên ôm trộm đứa bé đem về làm con nuôi !(1). Về vấn đề này văn bia nói khác: “Cụ Giáp Đức Kỳ, hiệu Khánh Sơn tiên sinh, mất ngày 12 tháng 7 năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549), thọ 68 tuổi, lúc đầu lấy bà họ Nguyễn, sinh được một trai là Giáp Hãng, sau lấy con gái ông họ Đỗ, sinh được hai trai là Giáp Trừng (Sau đổi Giáp Hải) và Giáp Thanh, cùng một người con gái đã gả chồng nhưng mất sớm”. Như thế, Giáp Hải là con bà hai; trước ông, cũng đã có người anh trai cả là Giáp Hãng. Chưa hẳn cụ Khánh Sơn hiếm con, cố ý bắt Giáp Hải về làm con nuôi như truyền thuyết đã kể.

Về chi tiết có liên quan đến Bát Tràng, Gia Lâm, thì trong gia phả nói rõ rằng, họ Giáp ở Dĩnh Kế vốn từ Gia Lâm di cư lên đã lâu đời. Rằng “Tiên thế là người Cổ Bi, vì đời quá xa không thể khảo cứu được...”

2. Trong các sách xưa còn kể rằng, có thầy địa lý khi xem xét phần mộ tổ tiên của Giáp Hải thấy không phải là mộ “được”, như vậy tại sao Giáp Hải lại đỗ đại khoa cao đến như thế ? Và khẳng định Giáp Hải ắt phải là con nuôi, có cha là người chăn vịt. Người cha ấy chết đột ngột trong đêm giao hoan với bà hàng nước, bà vội chôn người chăn vịt ngay sau quán nước, sáng hôm sau thấy mối đùn, mộ “được”, phát ngay. Sau đêm đó bà hàng nước có thai, rồi sinh ra Giáp Hải”(2). Về việc này, văn bia cho biết Giáp Hải đỗ Đệ nhất giáp đệ nhất danh khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính (1538), đến năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549), cụ Khánh Sơn mới qua đời, lúc này Giáp Hải đã làm quan cho triều nhà Mạc được 11 năm, được phong đến tước bá (Văn bia cho biết cụ Khánh Sơn khi mất, được ấm phong Thái bảo. Lệ ấm phong của nhà Mạc cũng vẫn theo như lệ ấm phong của nhà Lê sơ: Người được phong đến tước bá, thì cha và ông đều được phong Thái bảo, mẹ và bà đều được phong Liệt phu nhân, vợ được phong Tự phu nhân, con trưởng được phong Hiển cung đại phu, các con được phong Mậu lâm lang... Mẹ đẻ của Giáp Hải bà họ Nguyễn cũng được phong Liệt phu nhân). Vì có sự chuyển mộ cha lên núi Cốc của anh em Giáp Hãng, Giáp Hải mà người đời mới huyên truyền câu chuyện như đã nêu trên chăng ?

3. Khi chuyển mộ cụ Khánh Sơn lên núi Cốc, năm 1581, thì Giáp Hải đã được thăng lên đến tước Công, trải Thượng thư 5 bộ, cho nên ở nắp bia trước đây chưa khắc chữ nào, nay cho khắc thêm tước vị của Giáp Hải và ấm phong của cha: “Phụng phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái bảo, tặng thêm Tả thị lang, tước Diễn Văn hầu (vẫn theo lệ ấm phong, người được phong đến quốc công thì cha và ông được phong hầu v.v.)”

Bản rập của tấm bia hộp trên hiện đã được lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu No.34786-87. Do bia mờ, chất lượng bản rập lại chưa thật tốt, nên nhân có bản gia phả trong tay, cùng với bản chép trực tiếp tại bia của các cụ ở xã Dĩnh Trì do ông Nguyễn Văn Kính, Trưởng phòng Văn hóa huyện Lạng Giang tặng (dĩ nhiên bản chép trực tiếp tại bia này cũng không hơn bản rập là mấy), tôi xin xác lập nguyên bản bài văn của bia hộp này, những chỗ sai dị cũng nêu ra để so sánh, đối chiếu, sau đó, phiên âm và dịch nghĩa để những ai quan tâm đến vấn đề này có tài liệu tham khảo.

Nguyên văn phần nắp:

顯 考 太 保 慶 山 府 君, 以 子 澂 歷 吏 戶 禮 兵 刑 等 部 尚 書, 兼 東 閣 大 學 士, 知 經 筳 事 少 保, 倫 郡 公 封 廕 例. 莫 朝 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫, 太 保, 慶 山 先 生 甲 公 之 墓.

奉 封 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫, 太 保, 加 贈 左 侍 郎, 演 文 侯; 顯 妣 奉 封 演 文 正 夫 人.

皇 朝 延 成 四 年, 八 月 壬 寅 日, 謹 奉 移 葬 于 郢 池 社 谷 林 之 山.

Nguyên văn phần bia chính:

先 考 太 保 甲 府 君 墓 誌

先 府 君 諱 河, 字 譫 甫, 姓 甲, 鳳 山 郢 計 社 人.

曾 祖 諱 順 忠, 胡 末 明 亂, 家 昌 城 南, 不 從 明 人 役 使, 避 居 安 勇 縣 如 鐵 上 社, 遂 為 是 鄉 目 長, 及 卒, 因 葬 其 鄉.

祖 諱 保 福, 再 回 本 鄉 業 焉; 妣 皆 吳 氏.

考 贈 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫, 太 保, 諱 德 琪; 妣 贈 列 夫 人, 姓 黃, 前 作 後 述, 世 舉 其 仁 1.

府 君 於 洪 德 十 三 年 壬 寅 生, 天 性 孝 友, 資 稟 通 悟, 涉 臘 經 史, 明 燭 事 理, 家 以 耕 讀 為 業. 嘗 廣 田 宅 百 餘 所, 富 能 仁, 積 能 散, 兵 荒 時, 恒 以 家 粟 貧 人 艱 乏 2, 人 服 其 義.

光 紹 間, 舉 力 田, 服 其 身.

統 元 四 年, 郡 邑 舉 堪 老 悌, 府 君 聞 命, 辭 避 不 敢 自 當. 是 年 領 鄉 選 充 府 生.

永 定 初 以 澂 從 仕 恩 例 敕 封 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫, 太 保. 府 君 承 心 端 厚3 處 事 平 當, 不 忮 不 求, 教 忠 教 孝, 其 為 父 子 兄 弟 足 法; 鄉 人 有 不 平 事, 輒 質 之 平, 規 人 之 過, 恤 人 之 困, 勉 人 之 善, 鄉 人 甚 尊 敬 之. 至 於 為 善 取 樂 孝 教 子 登 科, 又 人 所 難 者.

景 歷 二 年 七 月 十 二 日 己 酉 卒, 年 六 十 有 八, 號 慶 山 先 生. 初 娶 阮 氏 生 男 沆, 今 見 任 謹 事 郎 粉 池 屯 田 所 使, 中 娶 杜 公 之 女, 贈 列 夫 人, 號 慈 行, 生 男 二, 一 即 澂 嘗 舉 大 正 戊 戌 科 進 士 第 一 名, 今 見 任 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫 東 閣 學 士, 穌 溪 伯, 柱 國. 季 公 清, 今 見 授 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫 崇 謹 子; 一 女 適 國 子 舍 生 陳 迪, 哲(3), 後 娶 兵 科 都 給 事 中 阮 公 之 女, 無 子. 其 孫, 男 廣 淵 廕 授 茂 林 郎4 治, 洪, 澧, 崇, 康 及 女 子 七 皆 幼.

本 年 十 二 月 二 十 六 日 己 酉 葬 于 午 山, 祖 塋 之 次 坐 癸 向 丁. 沆, 澂, 清 攀 號 悲 莫 重. 惟 先 君 以 勤 勞 起 家, 以 善 慶 遺 後5, 之 公 之 德, 不 可 名 言. 一 旦 奄 棄, 榮 養 不 汆. 子 沆, 澂, 清 未 般 清 報 萬 一, 取 敘 系 閱 梗 概, 刻 而 奄 諸 繼6 昊 天 罔 極. 嗚 呼 痛 哉!

景 歷 二 年 己 酉 十 二 月 二 十 六 日, 子 沆, 澂, 清 百 拜 稽 頭 謹 誌.

Khảo dị:

Gia phả chép 前 述 世 濟 其 仁.

Gia phả chép 貨 人 難 乏.

Gia phả chép 康 心 端 厚.

Gia phả chép thêm chữ 即.

Gia phả chép 以 福 慶 遺 子 孫.

Gia phả chép 言 一 旦 規 人 之 過, 恤 人 之 困, 勉 人 之 善, 鄉 人 甚 尊 敬 之, 敢 敘 系 閱 梗 概 刻 而 奄 諸 繼 昊 天 罔 極. 嗚 呼 痛 哉!

Phiên âm phần Nắp:

Hiển khảo Thái bảo Khánh Sơn phủ quân, dĩ Trừng lịch Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình đẳng bộ Thượng thư, kiêm Đông các đại học sĩ Tri kinh diên sự thiếu bảo, Luân quận công, phong ấm lệ. Mạc triều Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thái bảo Khánh Sơn tiên sinh Giáp công chi mộ.

Phụng phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái bảo, gia tặng Tả thị lang, Diễn Văn hầu; hiển tỉ phụng phong Diễn Văn Chánh phu nhân.

Hoàng triều Diên Thành tứ niên, bát nguyệt, Nhâm Dần nhật, cẩn phụng di táng vu Dĩnh Trì xã Cốc Lâm chi sơn.

Phiên âm phần Bia chính:

TIÊN KHẢO THÁI BẢO GIÁP PHỦ QUÂN MỘ CHÍ

Tiên phủ quân húy Hà, tự Thiêm Phủ, tính Giáp, Phượng Sơn Dĩnh Kế xã nhân.

Tằng tổ húy Thuận Trung, Hồ mạt Minh loạn, gia Xương thành nam, bất tòng Minh nhân dịch sử, tỵ cư Yên Dũng huyện, Như Thiết Thượng xã, toại vi thị hương Mục trưởng, cập tốt, nhân táng kì hương.

Tổ húy Bảo Phúc, tái hồi bản hương nghiệp yên, tỉ giai Ngô Thị.

Khảo tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái bảo, húy Đức Kỳ; tỉ tặng Liệt phu nhân, tính Hoàng, tiền tác hậu thuật, thế cử kỳ nhân.

Phủ quân ư Hồng Đức thập tam niên Nhâm Dần sinh, thiên tính hiếu hữu, tư bẩm thông ngộ, thiệp liệp kinh sử, minh chúc sự lý, gia dĩ canh độc vi nghiệp. Thường quảng điền trạch bách dư sở, phú năng nhân, tích năng tán, binh hoang thời, hằng dĩ gia túc…, bần nhân gian phạp, nhân phục kỳ nghĩa.

Quang Thiệu gian, cử lực điền phục kỳ thân.

Thống Nguyên tứ niên, quận ấp cử kham hiếu đễ, phủ quân văn mệnh, từ tị bất cảm tự đương. Thị niên, lĩnh Hương tuyển sung Phủ sinh.

Vĩnh Định sơ, dĩ Trừng tòng sĩ ân lệ sắc phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu chí Thái bảo. Phủ quân thừa tâm đoan hậu, xử sự bình đương, bất chí bất cầu, giáo trung giáo hiếu, kỳ vi phụ tử huynh đệ túc pháp; hương nhân hữu bất bình sự, triếp chất chi bình, quy nhân chi quá, tuất nhân chi khốn, miễn nhân chi thiện. Hương nhân thậm tôn kính chi. Chí ư vi thiện thủ lạc giáo tử đăng khoa, hựu nhân sở nan giả.

Cảnh Lịch nhị niên, thất nguyệt, nhị thập nhật Kỷ Dậu tốt, niên lục thập hữu bát, hiệu Khánh Sơn tiên sinh. Sơ thú Nguyễn Thị sinh nam Hãng, kim kiến nhậm Cẩn sự lang Phấn Trì đồn điền sở sứ, trung thú Đỗ Công chi nữ, tặng Liệt phu nhân, hiệu Từ Hạnh, sinh nam nhị, nhất tức Trừng thường cử Đại Chính Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đệ nhất danh, kim kiến nhậm Đặc Tiến kim tử vinh lộc đại phu Đông các học sĩ, Tô Khê bá, trụ quốc. Quý công Thanh, kim kiến thụ Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Sùng Cẩn tử; nữ nhất, thích Quốc tử Xá sinh Trần Địch, chiết, hậu thú Binh khoa đô cấp sự trung Nguyễn Công chi nữ, vô tử. Kỳ tôn, nam Quảng Uyên ấm thụ Mậu lâm lang, Trị, Hồng, Lễ, Sùng, Khang cập nữ tử thất, giai ấu.

Bản niên thập nhị nguyệt, nhị thập lục nhật, Kỷ Dậu táng vu Ngọ Sơn, tổ oánh chi thứ tọa quý hướng đinh. Hãng Trừng, Thanh phàn hào bi mạc trọng. Duy Tiên quân dĩ cần lao khởi gia, dĩ thiện khánh di hậu, chi công chi đức, bất khả danh ngôn. Nhất đán yêm khí, vinh dưỡng bất thổn. Tử Hãng, Trừng, Thanh vị ban thanh báo vạn nhất, cảm tự hệ duyệt ngạnh khái, khắc nhi yêm chư kế mân thiên võng cực. Ô hô thống tai !

Cảnh Lịch nhị niên Kỷ Dậu, thập nhị nguyệt, nhị thập lục nhật, tử Hãng, Trừng, Thanh bách bái khể đầu cẩn chí.

Dịch nghĩa phần Nắp:

Hiển khảo Thái bảo Khánh Sơn phủ quân, vì con là Trừng trải làm Thượng thư các bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, kiêm Đông các đại học sĩ, Tri kinh diên sự Thiếu bảo, tước Luân Quận công, được lệ phong ấm.

Mộ Khánh Sơn tiên sinh Giáp Công, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thái bảo triều Mạc.

Phụng phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thái bảo, tặng thêm Tả thị lang, tước Diễn Phái hầu; hiển tỉ được phong Diễn Văn Chánh phu nhân.

Ngày Nhâm Dần tháng 8 năm Hoàng triều Diên Thành thứ 4 (1581), kính di chuyển mộ táng tới núi Cốc Lâm xã Dĩnh Trì.

Dịch nghĩa phần bia chính:

MỘ CHÍ TIÊN KHẢO THÁI BẢO GIÁP PHỦ QUÂN

Phủ quân húy Hà, tự Thiêm Phủ, họ Giáp, người xã Dĩnh Kế, huyện Phượng Sơn.

Tằng tổ (cụ), húy Thuận Trung, cuối đời nhà Hồ, gặp loạn giặc Minh, nhà ở phía nam thành Xương Giang, vì không theo sai khiến phu dịch của người Minh, lánh cư ở xã Như Thiết Thượng, huyện Yên Dũng, rồi làm Mục trưởng hương ấy, khi mất, an táng tại đó.

Tổ (ông), húy Bảo Phúc, lại trở về quê cũ lập nghiệp; tỉ (bà), họ Ngô.

Khảo (bố), được tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thái bảo húy Đức Kỳ; tỉ (mẹ), được tặng Liệt phu nhân, họ Hoàng, miệng nói tay làm, người đời tôn là bậc nhân nghĩa. Phủ quân sinh năm Nhâm Dần niên hiệu Hồng Đức thứ 13 (1482), vốn sẵn tính trời, kính yêu cha mẹ, nhường nhịn anh em, tư chất thông minh, thiệp liệp kinh sử, giải quyết công việc sáng suốt, nhà sống bằng nghề nông và đọc sách. Vườn ruộng rộng hơn trăm thửa, giàu có mà hay làm điều nhân, tích được của mà hay tán phát. Khi binh hỏa tàn hoang, rộng lòng đem thóc của nhà ra cấp cho người nghèo, cứu vớt kẻ khó, khiến mọi người đều khâm phục nghĩa cử đó.

Khoảng năm Quang Thiệu (1516-1521), thi lực điền, Tiên quân đạt được.

Năm Thống Nguyên thứ tư (1525), quận ấp đề cử là người hiếu đễ, phủ quân nghe mệnh, từ chối, không dám tự nhận. Năm ấy, lĩnh chức Hương tuyển, sung Phủ sinh.

Năm Vĩnh Định thứ nhất (1547), vì Giáp Trừng làm quan, theo lệ được tập ấm, sắc phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thái bảo. Phủ quân là người ngay thẳng, nhân hậu, xử sự công bằng, không đố kỵ, cầu cạnh, giữ đạo trung hiếu, đủ phép tắc cha con, anh em. Người trong hương có chuyện bất bình, đều đến hỏi han, dàn xếp, uốn nắn kẻ có lỗi, thương người khốn khó, khuyên người cố gắng làm điều thiện. Người trong hương đều tôn kính. Đến như làm điều thiện, giữ lễ, dạy con đỗ đạt, lại đều là những việc khó làm.

Ngày 12 tháng 7 năm Kỷ Mão, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 2 (1549), Tiên quân qua đời, thọ 68 tuổi, lấy hiệu Khánh Sơn tiên sinh. Lúc đầu [Tiên quân] lấy bà họ Nguyễn, sinh được mình Giáp Hãng, hiện đương nhậm chức Cẩn sự lang Phấn Trì đồn điền sở sứ, sau, lấy con gái ông họ Đỗ, được tặng Liệt phu nhân, hiệu Từ Hạnh, sinh được 2 trai, một là Giáp Trừng đỗ Tiến sĩ đệ nhất danh, khoa Mậu Tuất (1538), nay đương giữ chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Đông các học sĩ, tước Tô Khê bá, trụ quốc. Ông út là Giáp Thanh, nay nhậm chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, tước Sùng Cẩn tử; con gái 1, gả cho Quốc tử giám Xá sinh Trần Địch, chết, lại lấy con gái ông Binh khoa đô cấp sự trung Nguyễn Công, không có con. Các cháu của Tiên quân, cháu trai đều có học lực sâu rộng, được ấm phong Mậu lâm lang, đó là Giáp Trị, Giáp Hồng, Giáp Lễ, Giáp Sùng, Giáp Khang, và các cháu gái 7 người đều còn thơ ấu. Ngày 26 tháng 12 năm nay là năm Kỷ Dậu táng ở Ngọ Sơn, mộ tọa quý hướng đinh. Hãng, Trừng, Thanh vin quan tài mà khóc, không gì đau buồn hơn. Tiên quân duy chỉ khởi nghiệp nhà bằng cần lao, để lại phúc đức cho cháu con đời sau. Công ấy, đức ấy, không thể chỉ nói một lời, một sớm [cha] thình lình ra đi, sự chăm nuôi không được chu toàn, con là Hãng, Trừng, Thanh chưa báo đáp được muôn một, dám xin thuật lược đôi lời, khắc ghi lưu lại dài lâu với lòng biết ơn cha mênh mông như trời bể. Than ôi đau đớn thay!

Ngày 26 tháng 12 năm Kỷ Dậu niên hiệu Cảnh Lịch thứ 2 (1549), con là Hãng, Trừng, Thanh cúi đầu trăm lạy, kính ghi.

CHÚ THÍCH

(1), (2). Xem Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập II, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1997, tr.1032-1033 (Trạng nguyên họ Giáp).

(3) Chữ “triết” 哲 nếu hiểu là tên người (阮 迪 哲) thì thượng hạ văn không xuôi cho lắm. Có lẽ trong văn bia khắc lầm chữ “chiết” 折 là chết non ra chữ “triết” 哲 là minh triết… ở đây chúng tôi tạm dùng theo nghĩa của chữ “chiết”, đợi tra cứu thêm sau.

TB

TẤM BIA ĐÁ THỜI TRẦN Ở CHÙA HANG TRÀM HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG

NGUYỄN VĂN PHONG

Chùa Hang Tràm có tên chữ là Nham Nguyệt tự, nằm ở chân núi Nham Biền, thuộc địa phận thôn Liễu Nham, xã Tân Liễu, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

Chùa vốn nằm ở một thung lũng sâu trong núi, dưới chân đỉnh Vua Bà (thuộc dãy Nham Biền), nơi ấy thời xưa người dân địa phương trồng nhiều cây tràm cho nên dân gian quen gọi di tích ấy là chùa Hang Tràm. Theo nhà sư trụ trì và nhân dân địa phương thì di tích này được xây dựng từ thời Trần. Người khởi công xây dựng chùa Hang Tràm trên nền thảo am cũ là bà Điểm Bích, một nhân vật nổi tiếng thời Trần, được vua Trần trao cho vàng ngọc để đi thử lòng Huyền Quang Lý Đạo Tái, Đệ tam tổ thiền phái Trúc Lâm... Chuyện kể rằng sau khi vu oan cho Huyền Quang, nàng đã ân hận lìa cung cấm về đây xây chùa rồi xuống tóc đi tu. Ban đầu không ai biết rõ tông tích, nhưng khi nàng mất, người ta tìm thấy trong người nàng số vàng ngọc mà vua Trần trao cho... và cũng từ đó, đỉnh núi nơi có ngôi chùa này xây dựng được gọi là núi Vua Bà.

Ngôi chùa Điểm Bích này tồn tại đến thời Lê - Mạc thì chuyển đến vị trí cánh đồng trước làng. Khi một số nghĩa sĩ của nghĩa quân Yên Thế về đây quyên góp lương thảo, mộ quân thì giặc Pháp đã tấn công đốt phá chùa. Giặc rút đi, nhân dân thu gom vật liệu, đồ tế khí rồi xây dựng lại ngôi chùa Hang Tràm ở vị trí hiện nay.

Mặc dù được tân tạo ở vị trí mới, nhưng chùa Hang Tràm vẫn còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý như: một số viên gạch, ngói đất nung thời Trần, hệ thống bia đá, hoành phi, câu đối, chuông đồng, tương pháp, đồ thờ... trong đó có một số không nhỏ mang niên đại thời Nguyễn.

Vào ngày 4-3-2000, trong khi cuốc đất làm đường ở khu vực chùa Hang Tràm, nhà chùa và nhân dân đã tình cờ phát hiện tấm bia cổ nằm sâu dưới lòng đất. Ngay sau khi phát hiện, nhà chùa đã lau rửa sạch sẽ tấm bia và báo cáo với chính quyền địa phương, nhờ cơ quan chuyên môn giám định nội dung tấm bia này.

Đây là loại bia dẹt, kích cỡ loại trung bình (0,85m x 0,50m x 0,07m). Trán bia hình bán nguyệt, chạm đôi rồng giun đối xứng chầu mặt nguyệt.

Bài văn được khắc trên cả hai mặt. Mặt sau các dòng chữ bị mòn gần hết, chỉ đọc được vài chữ ghi tên người, địa danh. Mặt trước là chính văn, tuy bị mờ mòn nhiều nhưng vẫn đủ để xác định bài văn được khắc với 23 dòng chữ kiểu chân phương, mỗi dòng 33 chữ, tổng số khoảng trên 600 chữ. Cuối bài văn là bài minh gồm 34 câu, câu 4 chữ, hiện chỉ đọc được 18 câu, 16 câu đã mờ mòn mất chữ. Đế bia là rùa có chất liệu đá xanh sẫm, trên lưng có ngãng để giữ bia. Điều đáng chú ý nhất là trong văn bia có chữ lý (里) trong câu “Thiên lý giai nghênh” viết thiếu nét (), theo kiểu kiêng húy triều Trần, điều này xác nhận tấm bia được khắc vào đời nhà Trần. Do bài văn có quá nhiều chữ bị mờ nên không thể phiên âm, dịch nghĩa trọn vẹn. Căn cứ vào những chữ còn lại, chúng tôi giới thiệu tóm tắt nội dung văn bia như sau:

Miền đất này từ lâu đã có nơi thờ Phật. Sau có người được tôn xưng là Hoàng Bà (sống vào khoảng thời vua Trần Anh Tông, 1293 - 1314) đến nay xây tháp, tạc tượng để thờ Phật trên nền thảo am của nhà sư họ Đỗ... Đến năm Tân Dậu niên hiệu Đại Khánh thứ 8 (1321) Hoàng Bà lại khởi công xây dựng các công trình như: Phật điện, gác chuông tăng phòng và hành lang hai bên tả hữu. Phía trước chùa nhìn ra sông lớn, có hàng tùng bách sum suê dẫn thẳng vào chùa. Chùa tọa trên thế đất dựa vào thế núi cao, thật xứng là nơi non xanh nước biếc gợi cảnh gợi tình. Khách thập phương đến du lãm cảnh Phật có núi non ôm ấp, cửa núi rộng mở mà thấy yên lòng... Việc tôn tạo hoàn tất thì Hoàng Bà cho người thỉnh mời Đại Không Hòa thượng về cư trụ và giảng pháp. Đại Không Hòa thượng khởi xướng việc quy tụ tăng đồ làm cho chùa trở thành nơi chấn hưng của Thiền phái Trúc Lâm đương thời. Khi Hoàng Bà tạ thế, Đại Không Hòa thượng lại thỉnh mời Thiện Nhãn sư về cư trụ. Thiền sư cho sửa sang tu chỉnh làm cho chốn Thiền lâm thêm xán lạn, xứng với công lao người trước đã tạo dựng và không hề thờ ơ, xao nhãng việc hương khói phụng Phật. Nhưng rồi vật đổi sao dời, qua mấy chục năm thiên tai địch họa, mưa gió phũ phàng hủy hoại làm cho cảnh chùa hoang tàn, mái đổ tường xiêu. Nơi tùng lâm ngày nào nay hoang phế trở thành chốn nghỉ chân cho trẻ mục đồng cùng đám tiều phu... Đến tháng Ba, mùa xuân năm Đinh Mão niên hiệu Xương Phù (1387), nhà sư trụ trì không nỡ để cảnh chùa ngày thêm tiêu điều, đã trùng tu tôn tạo và nhờ người soạn văn bia ghi lại sự việc đã qua...

Phần cuối là bài minh ca tụng đức Phật từ bi, cảnh trí của chốn tùng lâm và thiên nhiên mỹ lệ của miền đất này.

Như vậy, dù bị mất khá nhiều chữ, tấm bia này vẫn cung cấp cho hậu thế một số thông tin quý về một danh lam cổ tự được xây dựng từ thời Trần trên dãy Nham Biền cũng như họ tên các “danh tăng” đương thời từng tu hành tại đây, trong đó có thông tin về Thiền sư Đại Không Hòa thượng, người có công khởi xướng, quy tụ tăng đồ làm cho nơi đây (chùa Hang Tràm) trở thành trung tâm chấn hưng của Thiền phái Trúc Lâm. Sự kiện này có ý kiến rất lớn lao, bởi Thiền phái Trúc Lâm khi truyền đến sư tổ Huyền Quang thì có thể nói là bắt đầu suy vi. Một vị Thiền sư có thể coi là Quốc sư như Huyền Quang còn bị vua Trần ngờ vực thì Phật phái Trúc Lâm làm sao có thể hưng thịnh được. Cho nên, công lao chấn hưng Phật phái Trúc Lâm của Đại Không Hòa thượng có ý nghĩa đặc biệt và chi tiết này có thể thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam.

TB

TẤM BIA ĐẠO THẦY TRÒ
TRÊN ĐẤT NGHỆ AN

NGUYỄN PHƯƠNG THOAN

Đầu tháng 9 năm 2000, nhân chuyến điền dã lên vùng Thanh Chương (Nghệ An) để xác minh vài tư liệu địa chí, tình cờ chúng tôi được tiếp cận tấm bia đá đặt trong vườn nhà thầy giáo Nguyễn Thế Bình ở xóm Đức Nghĩa, Xã Thanh Tường, phía trên thị trấn Dùng khoảng 2 km. Bia có kích thước: 195 x 85 x 14,5cm, riêng đế hình hộp dày và cao 38,5cm. Về trang trí thì cả mặt trước và mặt sau đều giống nhau: Trán bia có hình hai con rồng chầu mặt trăng (Lưỡng Long triều nguyệt) và diềm hai bên là họa tiết hoa văn hình dây leo. Qua tìm hiểu, được biết đây là tấm bia do các môn sinh Hán học của nhà giáo Cử nhân Nguyễn Thế Cát (1855 - 1937) tạo dựng vào năm Mậu Dần (1938). Và đá làm bia phải mua tận Thanh Hóa rồi chở bằng thuyền theo đường Kênh nhà Lê vào đến Vinh, lại ngược sông Lam, cả thảy ngót tháng trời mới đưa về tận nơi. Nhà bia lúc đầu làm bằng gỗ, nhưng năm 1968 bị bom Mỹ làm hỏng nên sau đó con cháu làm lại xây gạch như hiện tại. Do gìn giữ và bảo quản chu đáo nên tấm bia vẫn nguyên vẹn như mới tạc, chỉ cần lau sạch bụi là đọc được từ đầu đến cuối. Mặt sau ghi phần “công đức” với tiêu đề: “Tử đệ khoa sắc tính danh tịnh cung ngân ký” gồm danh sách trên mấy chục người theo thứ tự khoa “có hai đại khoa” rồi đến sắc...

Văn bia (mặt trước) có tiêu đề: “Đồng Doanh Vĩnh Am Nguyễn tiên sinh bi” có nghĩa là: “Bài bia tiên sinh họ Nguyễn, tự là Vĩnh Am ở Đồng Doanh” (1). Toàn văn dịch nghĩa như sau:

“Thời cuộc biến đổi, bãi bể nương dâu; nhưng cái Đạo cao quí của ta thì vẫn như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu. Đạo cốt ở nhân tâm, tâm còn thì Đạo còn. Cỏ chi, hoa huệ dù héo tàn vẫn không phai lạt mùi thơm, huống chi người có Đạo lúc sống tiếng thơm lan tỏa khắp nơi thì lẽ nào sau khi chết lại không được ca ngợi ?

Sau ngày Vĩnh Am Nguyễn tiên sinh qua đời tròn năm (nguyên văn: cơ niên), các môn sinh muốn theo phong tục xưa cung kính tạc vào bia đá tấm lòng đối với thầy, nên có nhờ tôi soạn cho lời văn. Tôi lưỡng lự, vì tự thấy khả năng văn bút chưa hẳn đã bằng kẻ thuộc hạ là Phạm Hi Văn (?), nói chi so với Quách Hữu Đạo (?) vốn chuyên về văn bia! Nhưng xét ở điều nghĩa thì thật không nỡ chối từ, bởi: Với thân phụ tôi thì Tiên sinh là chỗ bạn đồng niên, với tôi thì học trò của ngài cũng đều là bằng hữu. Và hơn tất cả, đó là ý chí, sự nghiệp, cùng với phẩm hạnh cao đẹp của Tiên sinh từng được người đời truyền tụng lâu nay nên không thể không ghi chép lại...

Tiên sinh sinh năm ất Mão đời vua Tự Đức(1855), là con thầy đồ Nguyễn ở Đồng Doanh(2). Tính tình điềm đạm, ôn nhã, ham đọc sách, từ nhỏ đã có tiếng văn học. Năm Mậu Dần (1878) đỗ Cử nhân Ân khoa. Tiếp đến, trải hai lần thi Hội, đều trúng tam trường. Đến khi được triều đình cử đi công cán ở huyện Thanh Chương, rồi huyện Can Lộc, sau đó điều vào Kinh nhận chức mới. ít lâu sau lại theo lệnh ra làm việc tại phủ Thọ Xuân và tiếp đến là được cử đi chấm thi Hương ở một số tỉnh cũng như ở Kinh. Trải hơn mười năm làm quan, với đức hạnh và đạo nghĩa trong sáng, trước sau Tiên sinh vẫn giữ mình nghiêm cẩn bằng sự thanh đạm trong thú vui văn chương. Còn như những thứ lợi lộc, bạc tiền thì tuyệt nhiên không một mảy may tơ màng đến.

Thế rồi, tuy chưa đến tuổi, nhưng do gặp đại tang nên đã từ quan rồi trở về với chiếu văn và khuây khỏa tháng ngày cùng phong cảnh núi sông ở chốn quê nhà. Lại cũng không quên lấy việc đào tạo lớp hậu tiến làm sự nghiệp nên chẳng quản ngại tuổi tác cùng những ràng buộc khác về riêng tư. Học trò theo học ngày một đông, bất kể thân hay sơ đều được tiếp nhận và rèn dạy chu đáo. Bấy giờ chế độ học hành đã có những thay đổi, không còn được như trước. Một số kẻ xu thời nhân đó đã chạy đua theo vòng danh lợi, riêng Tiên sinh vẫn lấy đạo thánh hiền mà giảng dạy cho con cháu, không hề suy tính thiệt hơn và vẫn giữ nếp sống thanh đạm như vốn có. Lý Cố nói: “Nhân chi thanh giả vi hiền” tức sống thanh cao là người hiền, thì chính tiên sinh là người như thế...

Lúc bấy giờ, con trai và con rể đều đỗ Cử nhân (nguyên văn: Hiếu liêm), riêng học trò thì một người đỗ Đình nguyên, ba người đỗ Phó bảng(3) (nguyên văn: Phó mặc). Còn như bọn đỗ đầu, thứ hai, thứ ba... thi Hương thì nhiều lắm. Với những người không đỗ đạt thì phần lớn vẫn được hưởng lộc triều đình. Ngộ giả những kẻ ít may mắn hơn thì cũng không đến nỗi hèn kém mà làm mất danh giáo. Đó là nhờ công ơn dạy bảo của Tiên sinh mà có.

Năm Duy Tân thứ 6 (1912) do tiếng tăm của Tiên sinh vọng tới triều đình nên đã được chuẩn thăng “Phụng thành Đại phu Hàn lâm viện thị giảng”.

Năm ngoái, ở tuổi 83 xuân thọ, Tiên sinh đã qua đời tại nhà và an táng ngoài cánh đồng gần làng(nguyên văn: táng vu cận giao). Ngẩng trông xa xăm, tưởng nhớ Người đã hết lòng chăm lo cho con trẻ mà dựng đình, tiếc thương mà dâng rượu. Nỗi niềm này đâu chỉ là tấc lòng riêng của học trò đối với thầy mà thôi...

Trời đất còn thì đạo nghĩa còn. Điều này cứ ngẫm ở Tiên sinh là thấy rõ. Bậc hiền trí dù đã đi xa mà danh vọng, tên tuổi vẫn được tôn vinh như Tiên sinh quả là hiếm vậy. Xin được cầm bút làm bài minh cung Kính dâng Tiên sinh. Minh rằng:

Kính nhớ Tiên sinh
Người thầy đức độ
Châu ngọc sáng tỏ
Phượng hoàng uy nghi
Như Hán ấu An
Như Đường Sùng Chi
Một lòng vì đạo
“Dị thế đồngqui”
Núi Nhẫn cao thay
Sông Lam trong thay
Đá bền ghi tạc
Tiên hiền bia đây(3)

Triều vua Bảo Đại năm thứ 13, mùa đông Mậu Dần (1938), ngày tốt (cốc nhật) tháng 11.

Tham gia biên soạn:

- Cựu Thượng thư bộ Lễ(4), Phó bảng Mai Khê Nguyễn Thúc Dinh, tự Tử Nhai soạn thảo (nguyên văn: bái thư).

- Nhị giáp Tiến sĩ cựu tham tri(5) An Kim Đinh Văn Chấp tham gia hiệu đính (nguyên văn: tham đính)

- Bạn đồng niên ân giải Đại phu thị giảng hưu trí thọ quan Chu Đình Tùng Trai Lê Tâm hiệu khảo.

Tất cả môn đệ kính ghi (6).

Chú thích:

(1), (2) Đồng Doanh (gọi tắt) tức là làng Doanh (Dinh) Châu, xã Đại Đồng (tổng Đại Đồng, huyện Thanh Chương, Nghệ An) trước Cách mạng tháng 8/ 45. Tục thường gọi là làng Vịnh Giấy, nay thuộc xã Thanh Tường, Thanh Chương.

(3) Nguyên văn bài minh như sau (phiên âm): “Cung duy tiên sinh, Chi đức khả sư. Châu ngọc kỳ quang, Phượng hoàng kỳ nghi. Hán chi ấu An, Đường chi Sùng Chi. Trí đạo đốc hành, Dị thế đồng qui. Nhẫn Sơn chi dương, Lam Giang chi thanh. Trinh miên vĩnh tục, tư hiền chi bi”.

(4) Nguyên văn: “Lễ bộ Thượng thư trí sự”

(5) Nguyên văn: “Tham tri trí sự”. ở đây dựa theo ý mà dịch “trí sự” thành “cựu”.

(6) Nguyên văn: “Môn đệ đồng bái chí”.

TB

VĂN BIA LÀNG KIM CỔ

NGUYỄN THỊ TRANG

Kim Cổ là một làng cổ ở đất Hà Thành, nay thuộc địa phận phố Đường Thành và một phần phố Hàng Bông quận Hoàn Kiếm Thành phố Hà Nội. Ngày nay nhìn vào phố xá đông vui nhộn nhịp ít ai có thể tưởng tượng ra một làng Kim Cổ phồn vinh của tổng Thuần Mỹ huyện Thọ Xương thuở nọ. Chưa kể đến lịch sử dài hàng ngàn năm, chỉ kể đến khoảng trên dưới một trăm năm gần đây thôi Kim Cổ vẫn lừng danh. Nguyên là vào thời Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai năm 1882, Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu đã thắt cổ tự vẫn tại cành đa Võ Miếu trong thành, để tận trung với nước. Bấy giờ người Pháp tuy thắng trận, song cũng rất khiếp đảm, họ ngăn chặn không cho ai mang thi thể liệt sĩ Hoàng Diệu đi chôn cất, nhằm làm nhụt ý chí chiến đấu của người Việt. Dân cả thành xôn xao, nhiều người tỏ ý hoang mang lo ngại, thế mà ông Cử người làng Kim Cổ là Ngô Văn Dạng đã can đảm dẫn đội nghĩa dũng lao lên thành đưa thi hài Hoàng Diệu đi chôn cất. Nghĩa cử ấy được cả Hà Thành ca ngợi, đến nay nhiều người vẫn còn hào hứng kể lại, và vì thế mà danh tiếng làng Kim Cổ không chỉ nổi khắp Hà Thành mà còn vang xa cả nước. Làng Kim Cổ càng nổi tiếng với trường Kim Cổ do ông Cử Nguyễn Văn Dạng làm Hiệu trưởng, nơi đây đã đào tạo ra bao nhiêu nhân tài giúp nước.

Kim Cổ xưa nổi tiếng là vậy mà ngày nay rất ít người biết đến. May thay làng xưa vẫn còn lại một kỷ vật, đó là ngôi chùa ở số nhà 73 phố Đường Thành. Sư thầy mới về trụ trì ở chùa cho biết, trước đây chỉ là đền thờ bà Linh Nhân Hoàng thái hậu đời Lý. Đến đầu thế kỷ này chùa đã bị đổ nát, dân địa phương mới mua ngôi nhà cũ đưa về tu sửa lại, ngay cả bức đại tự thờ ở chùa cũng là mới đưa đến. Sau khi tu sửa, dân đổi lập thành chùa, rước tượng Phật về thờ. Do vậy mà ngày nay ở trước cửa có gắn tấm biển mới là chùa Kim Cổ, đồ thờ trong chùa đều mới cả, riêng có tấm bia đá viết bằng chữ Hán đặt áp vào tường chùa là cổ vật duy nhất ở chùa. Toàn văn chữ Hán, khổ 86 x 54cm, bia do Tiến sĩ Lê Duy Trung soạn năm Tự Đức 13 (1860) kể lại sự tích quan Thị lang Bộ Lại họ Bùi ở phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình đến ở tại quê mẹ là làng Thuần Mỹ đây và tu bổ đền thờ Thái hậu. Bia dựng tuy chưa lâu, song có thể do quá trình bảo quản, xây dựng chưa tốt nên nét chữ ở bia bị mờ nhiều chỗ, có đôi trường hợp không đọc hết chữ. Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo về làng Kim Cổ xưa, chúng tôi xin dịch nghĩa và giới thiệu bài văn bia này. Toàn văn như sau:

BI KÝ Ở THÔN KIM CỔ

Quán Đồng Thiên là một trong bốn ngôi quán(1) thờ thánh ở Thăng Long vậy. Sông Nhị Hà bao quanh mở ra như một cái gương sáng trước mặt; đỉnh Tam Sơn thu hết sắc xanh tạo thành phên bình phía sau. Có lẽ là khí thiêng đất Long Biên đã hun đúc ở nơi này vậy.

Kính nghĩ, quán này vốn do Linh Nhân hoàng thái hậu(2) triều Lý đã xây dựng để phụng thờ đức thánh Tam Thanh(3). Từ đời Lê Trung hưng về sau, quán bị phá hủy, sau mới trở thành nơi thờ Linh Nhân hoàng thái hậu. ở hai bên chái là nơi phối thờ lục cung. Các danh lam thắng tích của Kinh đô cũ mười phần nay chỉ còn được một. Năm Kỷ Dậu, dân dời vào đất thôn An Thái, lại đội ơn được triều đình ban tặng sắc phong, cho phép thờ phụng. Thánh triều ta rất coi trọng việc thờ cúng, ngày nay gặp buổi văn minh, triều đình càng coi trọng việc thờ cúng đế vương triều trước. Nghi thức cúng tế, cờ quạt tàn tán đã có chế định đầy đủ. Ngặt vì nhà tế đường ở quán này không được rộng rãi nên không xứng với tầm hoành tráng nơi thờ thánh. Hai bên hành lang có thể mở rộng, song le tiền tài thì thiếu thốn. May thay có quan Bố Chánh sứ tỉnh Tuyên Quang được thăng Thị lang Bộ Lại - Bùi Thượng Hàn, là quan lớn người làng thôn Kim Cổ ta, đã bỏ ra 100 quan tiền để lo mua sắm vật liệu, thuê mướn nhân công tu bổ. Đến ngày… cho khởi công xây dựng, tháng 12 năm nay thì hoàn thành. Ngôi đền mới huy hoàng tráng lệ, cung miếu thật thâm nghiêm uy đức. Gót tiên tha thướt ẩn ẩn hiện hiện, xe loan dập dìu lai vãng vùng Kim Cổ - An Thái vậy.

Sau khi khánh thành, người trong làng ca ngợi ông là người có đức, bèn bàn định báo đền. Tôi nói: “Báo đền là gốc gác của đức nhân vậy”. Thế rồi cho đặt hương án ở bên phải nhà bái đường, đối diện với hương án thờ Thổ thần. Tất cả đều là tỏ ý tôn kính vậy. Có người nói rằng: “Đền báo há chẳng phải cúng giỗ sao?”

Quan hầu họ Bùi vốn là người thôn Kim Bảng tổng Tri Lai huyện Vũ Tiên phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định(4), thân mẫu của ngài vốn là người thôn Thuần Mỹ và nơi đây chính là nền nhà cũ của ngài lúc sinh thời. Sau khi thi đỗ Tú tài, ngài được bổ đi làm việc, song việc không thành, ngài chuyển đến ở huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh. Bấy giờ có bọn giặc phỉ tên là Thận, trốn tránh ở vùng Đông Dư huyện Gia Lâm, ngài bắt được đem giải lên quan, đội ơn được thưởng 500 quan tiền, cho làm Tư vụ hàm thất phẩm ở Bộ. Về sau được bổ làm án sát Ninh Bình. ít lâu sau lại thăng làm án sát Tuyên Quang, rồi Bố chánh Tuyên Quang. Hiện nay ngài giữ chức Thị lang Bộ Lại. Ngoài việc siêng năng cần mẫn chu toàn công sự, ngài còn chăm lo việc tu sửa phần mộ, tỏ tình thân ái, dựng nhà tậu ruộng tỏ nghĩa đồng tông, cứu khốn giúp nghèo tỏ lòng độ lượng.

Than ôi ! Tạc tượng đúc chuông lo việc thờ phụng quỷ thần, có thể kể ra đây nhiều lắm, nào là xây nhà Văn chỉ Thuần Mỹ, nào là xây tế đường An Thái. Xưa kia từng được ăn lộc nước, nay lại thấy rõ tình người. Đó là vài nét về hành trạng của ngài, xin cho khắc vào bia đá để ở nhà thờ mới dựng .

Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất (1838) Thị giảng học sĩ, nguyên Đốc học Thanh Hóa Lê Duy Trung(5) người làng Thượng Phúc huyện Thượng Phúc soạn.

Dựng bia ngày tốt tháng 9 năm Canh Thân (1860) niên hiệu Tự Đức 13 (1860)

CHÚ THÍCH

1. Bốn quán: chỉ bốn ngôi quán thờ Đạo giáo nổi tiếng ở Thăng Long xưa là quán Trấn Vũ, quán Huyền Thiên, quán Đồng Thiên, và quán Bạch Mã.

2. Linh Nhân hoàng thái hậu: tức Thái hậu Ỷ Lan, vợ vua Lý Thánh Tông và là thân mẫu của Lý Nhân Tông.

3. Tam Thanh: ba vị thánh tối cao của Đạo giáo là Thái Thanh, Nhị Thanh và Thượng Thanh.

4. Tỉnh Nam Định: được thành lập năm 1831, bao gồm cả tỉnh Nam Định và phủ Kiến Xương của tỉnh Thái Bình. Đến cuối thế kỷ 19 mới tách Kiến Xương ra lập riêng thành tỉnh Thái Bình.

5. Lê Duy Trung: người làng Thượng Phúc huyện Thượng Phúc phủ Thường Tín, thi đỗ Tiến sĩ năm 1838, làm quan đến Đốc học Thanh Hóa.

TB

BÀI MINH VĂN
CHÙA THIÊN PHÚC ĐỜI LÝ

HOÀNG VĂN LÂU

Bài minh khắc trên chuông chùa Thiên Phúc (Thiên Phúc tự hồng chung minh văn) đời Lý (1109) được tìm thấy trong một sưu tập văn bia Kim văn loại tụ vào năm 1995 trong dịp Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Pháp hợp tác biên soạn bộ Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Năm 1998, khi xuất bản Tập 1 Từ Bắc thuộc đến thời Lý(1), chúng tôi đã công bố nguyên văn chữ Hán, có chú giải cũng bằng chữ Hán để phục vụ độc giả Hán văn trong và ngoài nước. Trong khuôn khổ Lời dẫn (viết bằng chữ Việt) ngắn gọn, chưa có dịp nói rõ quá trình đi tìm bài minh và phương pháp giám định văn bản. Lại nữa, bài minh viết bằng chữ Hán, khá xa lạ với nhiều độc giả tiếng Việt. Vì lẽ đó, chúng tôi viết bài này, bổ sung một số điểm về quá trình phát hiện và giám định văn bản, đồng thời giới thiệu nội dung chủ yếu bài minh chùa Thiên Phúc, tục gọi là chùa Thầy, xưa gọi là Viện Hương Hải, Am Bồ Đà, thuộc 2 xã Thiên Phúc và Thụy Khê, huyện Yên Sơn, huyện Quốc Oai, xứ Sơn Tây, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

Theo Đại Việt sử lược, chùa này do vua Lý Thánh Tông ra lệnh xây vào tháng 12 năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), trở thành một trung tâm Phật giáo thời Lý. Chùa từng là nơi trụ trì của vị Thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Từ Đạo Hạnh. Trải bao hưng phế của lịch sử, chùa luôn được các triều đại tôn trọng, trùng tu, là một danh thắng bậc nhất của nước ta.

Quả chuông chùa Thiên Phúc đúc từ thời Lý, đã được nhiều học giả các đời nhắc tới. Năm 1777, khi sưu tập di văn khắc trên bia, trên chuông (kim thạch di văn), Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã xếp nó ở vị trí số 1 trong số 17 bia chuông thời Lý - Trần mà ông đã sưu tập và nghiên cứu (Kiến văn tiểu lục, mục Thiên chương). Theo Lê Quý Đôn, Đạo Hạnh Thiền sư đúc chuông vào năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109), Đệ tử Huệ Hưng soạn bài minh, Trước tác lang Nghiêm Thường viết chữ. Lê Quý Đôn còn nói rõ: Trên chuông, sau này người ta khắc thêm Thánh chỉ của vua Trần Anh Tông, ghi năm Hưng Long thứ 12 (1304), cấp ruộng thờ cho chùa.

Quả chuông đúc vào thời Lý này nay không còn. Nhiều người muốn biết số phận quả chuông đó, hoặc một vài dấu tích có thể soi rọi lai lịch của một di sản văn hóa quý của một thời kỳ phát triển rực rỡ của dân tộc. Rất may là ở chùa hiện còn giữ được một quả chuông, có khắc bài minh do một đại danh bút nhà Tây Sơn soạn. Bài minh có tên là: Phật Tích sơn Thiên Phúc tự tân chung ký minh. Trong bài ký khắc trên chuông mới này, Phan Huy ích cho biết: Chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích do Từ Đạo Hạnh sáng lập. Đạo Hạnh sống vào thời Lý Nhân Tông (1072 - 1128), ông tu luyện trên núi, pháp lực vô biên, ông dựng am cạnh vách đá, mở ra trường đạo riêng. Vào mùa xuân năm Kỷ Sửu, niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109), ông cho đúc 1 quả chuông nặng hai nghìn cân, rộng khoảng 10 vòng. Mùa thu năm đó, lại đón đệ tử là Thích Huệ Hưng tới để viết bài ký dài vài nghìn câu, một bài minh theo lối 4 câu 2 vần, văn từ, điển chương rất đẹp. Người viết chữ là Nghiêm Thường... Chuông đúc được 7 năm thì Từ Đạo Hạnh mất. Trải qua các triều đại Lý, Trần, chùa vẫn được bảo vệ tốt. Riêng quả chuông thì sau cuộc xâm lược của quân Minh vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Mãi đến năm 1789 (năm Kỷ Dậu, niên hiệu Quang Trung năm thứ 2), do thiếu đồng để đúc tiền, nên quả chuông nhà Lý này mới bị phá hủy.

Những năm 70 của thế kỷ này, Viện Văn học đã sưu tầm di văn thời Lý Trần. Riêng về “di văn kim thạch”, thì phần Khảo luận văn bản (Thơ văn Lý Trần, tập 1, tr.125 ) cho biết, bài Phật Tích sơn Thiên Phúc tự chung minh do Huệ Hưng soạn (1109) đã mất.

Những năm gần đây, khi sưu tập di văn kim thạch các thời đại từ Bắc thuộc đến Lý Trần, chúng tôi ngoài việc chú trọng điều tra thực tế, tìm lại bia đá, chuông đồng còn giữ được, còn để tâm sưu tầm những bộ sưu tập kim thạch di văn do các nhà sưu tầm ghi chép lại từ các thế kỷ trước. Bài ký và bài minh khắc trên chuông chùa Thiên Phúc do Huệ Hưng soạn năm 1109 được chép trong một sưu tập văn bia Kim văn loại tụ (Sách hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), có tên là: Thiên Phúc tự hồng chung minh văn (Minh văn chuông chùa Thiên Phúc). Xét từ hình thức văn khắc (có bài ký hơn ngàn chữ, bài minh 4 câu 2 vần) đến nội dung của bài văn khắc trên chuông (như nói chuông nặng hơn hai ngàn cân, bài ký và bài minh do đệ tử Huệ Hưng soạn...) đều phù hợp với những thông tin do Lê Quý Đôn và Phan Huy ích (những học giả được nhìn thấy chuông, đọc bài minh trên chuông trước khi chuông bị phá) cung cấp.

Mở đầu bài ký, tác giả bàn về “diệu lý” và “vọng cảnh” của đạo Phật. “Diệu lý tuy một, nhưng vọng cảnh thực rất nhiều”, cùng mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Phần này cũng nêu bật ý nghĩa tượng trưng của chuông: “Chuông, bên ngoài biểu thị tròn đầy, bên trong tỏ ý chứa rỗng. “Tròn” có nghĩa là luôn luôn dùng mà không hay, “đầy” là lấy ý nghĩa khó hủy hoại; “chứa” nghĩa là chứa vào mà không trở ngại, “rỗng” có ý phát huy vô tận. Nếu không như vậy, cớ sao Phật vừa sai gõ chuông thì sấm trời im tiếng, sáo đất lặng âm, Tam giới lập tức tỉnh ngộ...”

Phần lớn bài minh chuông ca ngợi Phật pháp cao siêu và công đức vô lường của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, kể lại quá trình trùng tu chùa Phật và đúc quả chuông lớn.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nhân vật lịch sử quan trọng không những của Phật giáo mà của cả triều đại nhà Lý. Về ông, có rất nhiều truyền thuyết và giai thoại rất huyền diệu. Bài văn này do một người sống cùng thời và rất gần gũi với Từ Đạo Hạnh viết ra, nên có giá trị tư liệu đặc biệt. Bài văn cho biết: “Thiền sư Từ Đạo Hạnh, tuổi nhỏ thanh tú khác thường, lớn lên thiên tư kỳ vĩ. Khi tụng tập Liên kinh, tiếng ngọc vang sang sảng; Lúc xuất gia hành lễ, tâm Phật thấm từ bi. Dựng Bát chủng tháp mà khắp cõi hết mực uy nghiêm, Đọc Tam khíp thư mà kinh Phật thảy đều quán triệt. Gặp khi đại hạn, đốt một ngón tay mà mưa xuống tràn trề; Học cổ không ăn, ngồi đó nhiều năm mà mặt không sắc đói. Dân mắc dịch bệnh, bưng nước rảy mà dứt hết ốm đau; Việc chưa manh nha, dự đoán trước mà trúng như bùa phép...”.

Theo bài văn, khi Từ Đạo Hạnh đến núi Phật Tích thì trên núi đó đã có chùa: “Ngọn núi ấy sừng sững như Lăng Già bao bọc, vằng vặc một vầng trăng thu. Có bậc thang lạ, dẫn vào am Phật bằng đá. Mây ngũ sắc vần vụ, ngọc thất châu buông rèm; Lưới nhện đan xen, áo tơ rực rỡ… Ngày xưa bậc ẩn sĩ góp công đức dựng nên, đâu có khác thần linh tạo hóa...”. Ông ở đủ 6 năm, theo yêu cầu của các đệ tử, mới xây dựng một ngôi chùa “ở mảnh đất phía dưới, cũng là chốn thắng địa”. Hãy xem quang cảnh xây dựng chùa: “Thế là rừng cây lên tiếng, trong chốc lát, các thiện nam tín nữ kéo về; chẳng mấy hôm đã xuất hiện quang cảnh mới. Tìm xẻ gỗ quý, đắp lò ngói xanh. Dấu mực thước dọc ngang, tiếng búa rìu chan chát. Nguy nga viện mới, sừng sững lầu cao. Trồng thông gây bóng mát cho lối đi, làm vườn tỏa hương thơm nơi cảnh Phật...”

Khi chùa đã làm xong, Từ Đạo Hạnh đích thân đi quyên hóa, lấy đồng đúc chuông: “chân thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, tựa lân vờn thú nhảy, như phượng múa rồng bay... Chưa đầy 20 ngày, quyên được đồng đỏ chất thành gò đưa về chùa Hưng Phúc...” Không khí hưởng ứng Phật sôi nổi: “Ngựa xe đi mà nhà giàu góp hết của, già trẻ tới để thôn xóm vắng lặng không”... Người soạn cũng ghi được câu nói khiêm tốn giàu đức từ bi của Từ Đạo Hạnh:

“Nay chuông mới đúc xong, đó là do chúng sinh đều góp duyên. Ta không có công gì đáng ghi. Hãy lưu lại phương danh của các tín chủ, hãy ghi chép để truyền lại đời sau”.

Bài văn cũng cho biết quan hệ giữa Từ Đạo Hạnh với Vương triều nhà Lý và uy vọng của ông ở chốn triều đình. Khi Từ Đạo Hạnh tu ở trên núi Phật Tích thì: “Các Vương tử xe ngựa ồn ào, người khắp nước hương hoa dâng lễ. Ngự thư ban chiếu, vua dự tiệc chay; Ban bảo y ngang bậc thượng bằng, lên xe Phật sách cùng Tứ quả”. Khi đúc chuông, Thái hậu Linh Nhân sai Trung sứ tới tận chùa (để đóng góp). Chuông đúc xong thì tâm nguyện của Từ Đạo Hạnh là “Trên báo đáp đức Kim thượng được mãi mãi giáo hóa, ngự ngôi báu lâu dài. Nhờ vật báu quốc gia mà các đời phồn thịnh, dân ấm no và đất nước bình yên...”. Đây cũng là nét đặc sắc trong quan hệ giữa đạo Phật thời đó với nhân dân, với đất nước, với vương triều.

Khi giám định văn bản bài minh văn, chúng tôi thấy, dù chuông đã mất, nhưng bản sao chép lại rất thận trọng, hầu như không có lỗi nào về chữ viết, về hành văn. Tất cả câu chữ trong bài đều có thể lý giải.

Minh văn chuông chùa Thiên Phúc không những là tư liệu quý về Thiền sư Từ Đạo Hạnh, mà còn là sử liệu quý, giúp hiểu thêm về Phật giáo thời Lý, những nét sinh hoạt văn hóa Phật giáo thời Lý nói riêng và nền văn hóa thời phục hưng của nước Đại Việt nói chung.

CHÚ THÍCH

1. école franỗaise d’Extrême-Orient. Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Từ Bắc thuộc đến thời Lý. Paris - Hà Nội 1998.

TÀI LỈU THAM KH?O

1. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, Hà Nội 1993, tập 1.

2. Đại Việt sử lược. Bản biên hiệu của Trần Kinh Hòa. Xuất bản tại Tôkyô, Nhật Bản.1987.

3. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, mục Thiên chương.

4. Thơ văn Lý Trần, T1, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997, tr.125.

5. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Lịch sử ngoại giao triều Lý, Sông Nhị, Hà Nội.1950.

6. Thiền uyển tập anh, khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11.

7. Từ Đại thánh sự tích, sách chữ Hán, ký hiệu A.1152.

8. Phật Tích sơn Thiên Phúc tự tân chung ký minh 1794. Văn bia trên chùa Thầy, Hà Tây.

9. Thùy Vinh: Vài nét về hai quả chuông thời Tây Sơn tại Sài Sơn, Hà Sơn Bình, Tạp chí Hán Nôm số 1-1987.

TB

“TỪ” TRUNG HOA VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ Ở VIỆT NAM(1)

THẾ ANH

Ngoài các thể thơ ca truyền thống của Trung Quốc như chúng ta đã biết, trong thời đại Tùy Đường - Ngũ đại còn xuất hiện một loại thơ mới gọi là Từ.

Trước khi đi vào nội dung, chúng tôi xin lưu ý chữ Từ (詞) được đề cập đến trong bài này khác với Từ (辭) trong Sở từ - tức là thể “từ” của nước Sở thời Chiến quốc và Tần, Hán. Sở từ là những bài dài, câu đối nhau, có vần hoặc không, nó đã xuất hiện 3 - 4 thế kỷ trước Công nguyên. Còn Từ (詞), nói một cách nôm na chỉ là lời của các bài ca.

Từ khúc đời Đường bắt nguồn từ dân gian, lúc đầu chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu ca xướng theo nhạc khúc cổ đại, tức là dựa vào thanh âm mà điền từ, dần dà đến thời Trung Vãn Đường thì Từ mới trở thành một thể loại thơ vừa có thể hát được, vừa có giá trị về mặt nghệ thuật và được quy định một cách chặt chẽ về cách luật. Về mặt hình thức, căn cứ vào độ dài ngắn của bài, người ta phân chia ra loại “Tiểu từ”: bài ngắn nhất chỉ có 14 chữ, bài dài hơn khoảng trên 20 chữ: “Trung từ” gồm những bài có khoảng 50 - 60 chữ và “Mạn từ” gồm những bài trên 60 chữ, có bài dài đến 240 chữ như bài Oanh đề từ.

Từ khác với thể thơ Đường luật ở chỗ, Từ có câu dài, câu ngắn; câu dài có khi vượt quá 10 chữ, câu ngắn nhất chỉ có một chữ. Từ khác với Cổ phong ở chỗ có cách luật nghiêm ngặt và có số chữ cố định, còn thơ Cổ phong thì tự do hơn. Luật bằng trắc trong một bài Từ cũng được quy định một cách chặt chẽ, không có "bất luận" như trong thơ Đường luật. Một bài Từ có nhiều vần: có làn điệu chỉ dùng vần bằng, có làn điệu chỉ dùng vần trắc và cũng có khi bằng trắc xen kẽ. Cách gieo vần ở Từ cũng đa dạng, có thể dùng vần liền, vần cách hoặc vần ôm… Khi đọc Từ chúng ta thường gặp những tiêu đề giống nhau do nhiều người sáng tác, đại loại như Điệp luyến hoa, Mãn giang hồng, Niệm nô kiều, Đạp sa hành, Nhất tiễn mai. Lúc đầu những tiêu đề này đều có nghĩa cụ thể, nó đề cập đến nội dung của bài, như Đạp ca từ là mô tả cảnh ca vũ, Dương liễu chi là tả liễu, Lãng đào sa là vịnh cát…, về sau những tiêu đề này chỉ là tên gọi của điệu Từ. Từ có rất nhiều làn điệu với những biến thể rất đa dạng. Trong cuốn Khâm định từ phổ người ta đã thống kê được 826 điệu, 2306 thể. Mỗi chữ có thanh điệu nhất định, mỗi câu có số chữ nhất định và mỗi chữ có thanh điệu nhất định. Quả là một con số khổng lồ, nếu không phải là một “nghệ sĩ” chuyên nghiệp thì khó mà phân biệt được điệu này với điệu khác và trên thực tế thì cũng chỉ thông dụng một vài trăm điệu và một tác giả cũng chỉ sáng tác trong vòng mấy chục điệu mà thôi.

Về mặt nội dung, Từ phóng khoáng hơn thơ, ít khi đề cập đến những vấn đề “nghiêm túc” thuộc lĩnh vực chính trị, xã hội…, mà thường mô tả những vấn đề “ướt át, ủy mị, mềm mại…” của tâm hồn như tình yêu, tình bạn, cảnh ly, hợp, hoặc tuyết, nguyệt, phong, hoa… Vào thời Đường, những người đầu tiên sáng tác dựa vào hình thức biểu hiện của từ khúc dân gian là các nhà thơ Đới Thúc Luân, Vi ứng Vật, Vương Kiến, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, Trương Chí Hòa… Số lượng bài do họ sáng tác không nhiều, hình thức cũng ngắn gọn (thường chỉ dừng lại ở Tiểu lệnh), nội dung được phản ánh cũng chưa đa dạng, nhưng có điều họ chịu ảnh hưởng của từ khúc dân gian nên ngôn ngữ trong sáng, chân chất, giọng điệu cũng nhẹ nhàng, linh hoạt. Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ đầu đời Đường có những bài hay. Chẳng hạn bài Trường tương tư:

Biện thủy lưu
Tứ thủy lưu
Lưu đáo Qua Châu cổ độ đầu
Ngô sơn điểm điểm sầu
Tứ du du
Hận du du
Hận đáo qui thời phương thủy hưu
Nguyệt minh nhân ỷ lâu.

Dịch:

Biện chảy mau
Tứ chảy mau
Chảy tới Châu Qua cổ độ đầu
Non Ngô điểm điểm sầu
Tứ rầu rầu
Hận rầu rầu
Hết hận khi nào gặp lại nhau
Sáng trăng người tựa lầu.
(Nguyễn Chí Viễn)

Trong các bài Từ thời Sơ Đường cũng có một số bài miêu tả tình hình nơi biên cương, như bài Điều tiếu lệnh của Vi ứng Vật:

Hồ mã, Hồ mã
Viễn phóng Yên Chi sơn hạ
Bào sa bào tuyết độc tê
Đông vọng tây vong lộ mê
Mê lộ, mê lộ
Biên thảo vô cùng nhật mộ.

Dịch:

Ngựa Hồ, ngựa Hồ,
Thả rông chân núi Yên Chi.
Hí vang phi trên cát tuyết,
Nghiêng ngó đông tây lạc đường về.
Lạc đường về, lạc đường về
Hoàng hôn lau lách bốn mặt che.
(Theo bản dịch cũ)

Bài Từ ngắn, mô tả cảnh ngựa Hồ bị lạc dưới chân núi Yên Chi vào buổi chiều tà “bảng lảng bóng hoàng hôn”, có bãi cát tuyết mênh mông, bốn bề lau lách. Bài từ chịu ảnh hưởng của dân ca miền Bắc, gây cho người đọc những cảm giác thoải mái, tự nhiên và mở ra một quang cảnh thanh bình tráng lệ.

Đới Thúc Luân cũng có bài Điều tiếu lệnh rất hay: “Lau lách biên cương, người lính qua rồi tóc điểm sương”. Nội dung của đời sống xã hội ở đây đã được phản ánh rộng rãi hơn, nó có ý nghĩa nhất định trong việc mở rộng đề tài và phát triển phong cách nghệ thuật của Từ. Tuy nhiên, các thi nhân làm Từ thời kỳ này chỉ là “nghề tay trái”, thành tích chủ yếu của họ vẫn là thơ. Mặt khác một số bài chưa có ranh giới rõ ràng giữa Từ với thơ về mặt phong cách cũng như hình thức. Do đó trong các tập sách về thơ và Từ do người sau biên soạn thường không nhất trí về cách phân loại. Chúng tôi cho rằng đây cũng là hiện tượng bình thường trong quá trình hình thành một thể loại văn học mới.

Vào thời Vãn Đường, phong trào điển Từ ngày càng phổ biến, điệu Từ được sử dụng để sáng tác cũng tăng lên, nghệ thuật biểu hiện của Từ cũng thuần thục và điêu luyện, nhưng nội dung thì lại trở nên chật hẹp, thường là ngâm vịnh các đề tài “trăng, hoa, ly biệt”, thiếu vắng tính chất trong sáng, hồn nhiên và tình cảm mạnh mẽ trong thơ ca dân gian. Tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác đó là Ôn Đình Quân và những tác giả thuộc “Phái trong hoa” (Hoa gian phái). Phái này đã liệt Ôn Đình Quân vào hàng “thủy tổ Hoa gian”. Tương truyền ông có hai tập Từ Ốc lan Kim thuyên nay đã bị thất lạc. Hoa gian tập còn ghi 66 bài, người đời sau sưu tập được 76 bài của ông là tác phẩm Từ còn lại nhiều nhất của người làm Từ đời Đường. Hầu hết những bài Từ của Ôn Đình Quân đều viết về phụ nữ, về cuộc đời và tình cảm của ca kỹ, tư tưởng tình cảm uyển chuyển hàm súc. Bài Mỹ nhân từ sau đây của ông đã khắc họa tinh tế dáng vẻ yêu kiều uể oải của người đẹp một cách tài tình:

Tiểu sơn trùng điệp kim minh diệt.
Mấn vân dục độ hương tai tuyết
Lãn khởi họa nga mi
Lộng trang sơ tẩy thì
Chiếu hoa tiền hậu kính
Hoa diện giao tương ánh
Tân thiếp tú la nhu
Song song kim giá cô.

Dịch:

Sơn bình lồng ánh vàng loe tắt
Tóc mây xòa má da thơm mát
Biếng dậy vẽ lông mày
Hóa trang chải chuốt chầy
Rọi hoa sau trước kính
Hoa mặt cùng rọi ánh
Mới vẽ áo la nhu
Đôi đôi chim giá cô
(Nguyễn Chí Viễn)

Đến đời Tống, Từ đã phát triển đến thời kỳ cực thịnh và chia ra làm nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng khác nhau. Những người làm Từ (Từ nhân) nổi tiếng của đời Tống là Âu Dương Tu, Tô Đông Pha, Tần Quán, Chu Bang Ngạn, Lý Thanh Chiếu, Lục Du, Tân Khí Tật…

Từ của Âu Dương Tu sâu sắc, uyển chuyển, lời cạn mà ý sâu:

Ví dụ bài Đạp sa hành:

Hậu quán mai tàn
Khê kiều liễu tế
Thảo luân phong mãn dao chinh bí
Ly sầu tiệm viễn tiệm vô cùng
Thiều thiều bất đoạn như xuân thủy.
Thốn thốn nhu trường
Doanh doanh phấn lệ
Lâu cao mạc cận nguy lan ỷ
Bình vu tận xứ thị xuân sơn
Hành nhân cánh tại xuân sơn ngoại.

Dịch:

Quán khách mai tàn
Cầu khe liễu lá
Gió lùa cỏ ấm, dây cương thả
Ly sầu mỗi bước mỗi tơ vương
Cuồn cuộn giòng xuân tràn mọi ngả.
Đòi đoạn lòng tơ
Ròng ròng lệ nhỏ
Lầu cao chớ ra hiên đứng tựa
Núi xuân xa tít nẻo chân trời
Người đi tận bên ngoài núi đó.
(Hồ Lãng)

Âu Dương Tu còn dùng bút pháp thanh đạm để thể hiện vẻ đẹp của non sông đất nước trong một số bài. Có thể nói những người làm Từ trong giai đoạn này vẫn kế thừa phong cách của “Phái trong hoa”, và sau đó Tô Đông Pha là người đi tiên phong trong việc sửa đổi phong khí ủy mị của phái này, làm cho nội dung và hình thức của Từ có một bước phát triển mới, phong khoáng, không nô lệ vào âm luật và thổi một luống gió triết học vào Từ.

Sau Tô Đông Pha, có một thời gian Từ đi vào chủ nghĩa hình thức và xuất hiện phái “Từ uyển ước”.

Đến đầu đời Nam Tống xuất hiện một ngôi sao sáng là Lý Thanh Chiếu. Trong Từ, bà đã sáng tạo ra được những hình ảnh nghệ thuật tươi sáng và một thứ ngôn ngữ đẹp đẽ và sinh động và theo cách nói của nhà thơ Chế Lan Viên, bà là nữ hoàng về Từ tình yêu của thời Tống và của các thời. Nội dung những bài Từ của bà thường nói về nỗi vui, buồn, ly, hợp, biểu hiện một cách tập trung tình cảm mãnh liệt của bản thân. Ví dụ bài Từ theo điệu Điểm giáng thần sau đây mô tả hình ảnh người thiếu nữ ngây thơ và cũng có thể là hình ảnh của bản thân bà:

Súc bãi thu thiên
Khởi lai dung chỉnh tiêm tiêm thủ
Lộ nùng hoa sấu
Bạc hãn khinh y thấu
Kiến hữu nhân lai
Miệt sạn kim thoa lưu
Hòa tu tẩu
Ỷ môn hồi thủ
Khước bả thanh mai khứu.

Dịch:

Vừa nhàn du xong,
Đứng dậy nắn ngón tay nhỏ xíu.
Hoa gầy sương trĩu
Rơm rớm mồ hôi thấm áo
Thấy người lạ qua
Hoa vàng vội đem dấu
Thẹn lơ láo
Tựa cửa ngoái đầu
Cầm cành mai đi dạo.
(Hồ Lãng)

Sau Lý Thanh Chiếu xuất hiện một Từ nhân xuất chúng với những bài Từ giàu tính hiện thực, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn. Đó là Tân Khí Tật. Những bài Từ của ông không chỉ đề cập đến những mảng đề tài lớn mang nội dung chống Kim, khôi phục đất nước, mà còn ca ngợi phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống của những người nông dân, phản ánh nhiều mặt của xã hội đương thời.

Sau đời Tống, số người làm Từ cũng khá đông, nhưng phần lớn tác phẩm của họ không có gì đặc sắc và nặng về chủ nghĩa hình thức.

Đến thời Thanh thì Từ lại hưng thịnh và khởi sắc. Từ đời Thanh có ba đặc điểm nổi bật. Đó là: số lượng người làm Từ rất đông, trong cuốn Toàn Thanh từ sao do Diệp Cung Xước soạn đã chọn đưa vào 3196 nhà làm Từ, nhiều hơn hẳn các tác giả Từ của những thời trước và chất lượng cũng khá cao; đặc điểm thứ hai là lý luận sáng tác và phê bình Từ cũng phát triển mạnh và đặc điểm cuối cùng là công phu, tỉ mỉ, không hoàn toàn mô phỏng, có nhiều tìm tòi, đổi mới và sáng tạo. Lương Khải Siêu cho rằng thơ văn đời Thanh suy tàn dần, riêng Từ “vượt lên trên Nguyên Minh”.

Đến thời kỳ hiện đại thỉnh thoảng cũng có người làm Từ và đã đưa được những nội dung và cảm xúc mới đầy tinh thần lạc quan cách mạng vào thể loại văn học cổ truyền này. Điển hình là những bài Từ của lãnh tụ cách mạng Mao Trạch Đông. Bài Thập lục tự lệnh tam thủ của ông là một bài đặc sắc, Nhà thơ - Lãnh tụ đã mô tả con người Trung Hoa thật vĩ đại “… ra roi quất ngựa vọt lên, chưa kịp xuống, sực ngoảnh lại thấy cách trời chỉ có ba thước ba!”.

Từ đã du nhập vào Việt Nam rất sớm. Bài Từ có niên đại cổ nhất mà chúng ta còn giữ được đến hôm nay là bài Vương lang qui (có tài liệu chép là Ngọc lang qui) của Thiền sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu) tặng sứ giả của Tống Thái Tông là Lý Giác. Khuông Việt (933 - 1011) sinh trước Tô Đông Pha đời Tống trên một thế kỷ (104 năm).

Tuy nhiên, ở Việt Nam, Từ không có môi trường để phát triển như thơ, phú… Sở dĩ có tình hình đó, theo chúng tôi - có lẽ là do Từ không thuộc môn học bắt buộc trong chế độ thi cử ngày xưa, mặt khác vấn đề sáng tác Từ theo đúng nghĩa của nó cũng khó hơn làm thơ, vì loại hình này thường gắn liền với nhạc điệu, lời ca, nên ít nhiều cũng phải có sự cảm thụ tinh tế về nhạc mới có hứng thú sáng tác.

Trong nhiều cuốn tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam trước đây, các tác giả thường hay điểm xuyết thêm những vần thơ và đôi khi còn có cả những bài Từ làm cho tác phẩm của mình thêm phần hấp dẫn. Đó là những điệu Từ trong truyện Truyền kỳ tân phả, Hoa viên kỳ ngộ, Đào hoa mộng ký, Việt Nam kỳ phùng sự lục… Những khi cần thể hiện tâm tình và xúc cảm mãnh liệt của tâm hồn, các tác giả thường dùng Từ thay cho thơ, vì nó mang nhiều yếu tố vô hình và ngôn ngoại của tâm trạng. Tuy nhiên những bài Từ trong các cuốn tiểu thuyết chữ Hán cũng không có gì đặc biệt, bởi lẽ các tác giả ở đây chưa phải là những “Từ nhân” chuyên nghiệp. Xin trích một số bài, như Xuân quang hảo trong Truyền kỳ tân phả:

Xuân tự họa
Noãn khí vi
ái nhật trì
Đào hoa hàm tiếu, liễu thư mi
Điệp loạn phi
Tùng lý hoàng oanh hiển hoản
Lương đầu tử yến nam ni
Hạo đãng xuân khuê bất tự trì
Xuyết xuân từ

Dịch:

Mùa xuân cảnh như vẽ, bóng mặt trời sáng dịu.
Yêu ngày dài. Hoa đào ngậm cười, mày liễu
Đua tươi, bươm bướm bay hoài.
Chim yến hót líu lo trên xà nhà, con oanh vàng nói mỉa mai trong bụi cây.
Lai láng về tình xuân, người ở trong buồng khuê
không sao cầm lòng đặng viết ra bài từ mới này.
(Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp)

Hay như Dạ giang tiên điệu trong Hoa viên kỳ ngộ tập:

Nhất đổ kiều tư trường dục đoạn,
Mãn xoang tâm sự dữ thùy bi?
Thiên tư vạn tưởng ước giai kỳ.
Viên trung hoa như cẩm,
Nguyệt hạ khách như si
Ngã dục tương tâm thư vị tổ,
Đệ hoài nhất thủ tân thi,
Khách tình vô liêu bội thê kì.
Đãn nguyện hoa tiền nhất thoại,
Giãi ngã thốn tâm bi

Dịch:

Từ gặp kiều thơm toan đứt ruột,
Một bầu tâm sự ngỏ cùng ai ?
Ngàn tơ vạn tưởng ước duyên hài,
Trong vườn hoa như gấm,
Dưới nguyệt khách như ngây.
Những nỗi tâm thư chưa tỏ hết,
Gửi bài thơ mới tả tình hoài,
Khách tình vô liêu thật bi ai
Ước nguyện một lời hoa ấy,
Giải tỏ nỗi lòng này
(Phan Văn Các)

Trong cuốn Sơ kính tân trang – một bản tình ca hấp dẫn viết theo thể thơ sáu tám, Phạm Thái cũng sáng tác xen kẽ những bài Từ, nhằm giảm bớt sự đơn điệu của một thể thơ, làm cho nội dung truyền cảm của tác phẩm được nâng cao:

Oanh yến véo von gọi khách,
Gió xuân hớn hở mừng ai?
Gió xuân hây hẩy dục đưa người,
Dễ khiến lòng thơ bối rối !
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu,
Thung thăng phấn bướm dồi mai.
Vũ Lăng xa diễn biết bao vời,
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu tá !

Và sau đây là lời xướng họa mà Phạm Thái đã nhân danh đôi gái sắc trai tài để thể hiện (có lẽ đây cũng là bài Từ xướng họa duy nhất bằng Quốc âm trong tác phẩm văn học Việt Nam).

Bài xướng, theo điệu Tiễn mai:

Tuyết sương lác đác nguyệt mờ mờ,
Quế nhạt hương đưa,
Sen nhạt hương đưa.
Rải rác trên không nhạn lửng lơ.
Oanh cũng thờ ơ,
Bướm cũng thờ ơ.
Chồi ngô gió thổi lá bơ sờ.
Mai ủ hình thơ,
Trúc ủ hình thơ.
Khúc dạ thanh ca khéo hững hờ,
Cung Quảng xa xa,
Cầu Thước xa xa.

Bài họa:

Trăng soi vằng vặc vóc non mờ.
Lan thoảng hương đưa,
Cúc thoảng hương đưa
Trời in một sắc nước xanh lơ
Oanh nói u ơ,
Yến nói u ơ.
Cánh buồm chờ nguyệt gió lay sơ.
Lốm đốm sao thưa,
Phất phới song thưa.
Chánh nhân thổi địch lắng ơ hờ.
Thiều nhạc không xa
Hoan hội không xa.

Một số nhà thơ nổi tiếng trước đây như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Mai Am, Đào Tấn… đều có sáng tác Từ. Đặc biệt Tùng Thiện Vương có Thương Sơn từ tập (theo Trần Văn Giáp trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm), và gần đây GS. Phan Văn Các đã dịch và giới thiệu cuốn Cổ duệ từ gồm 14 bài của Miên Thẩm mới sưu tầm được.

Đào Tấn, một tác giả Tuồng kiệt xuất cũng làm nhiều bài Từ có nội dung phong phú và dồi dào cảm xúc. Nhà xuất bản văn học đã cho ấn hành cuốn Thơ và Từ của ông vào năm 1987, trong đó đã tuyển dịch được 24 bài Từ.

Vào những thập niên đầu thế kỷ XX cũng có vài ba người làm Từ, tiêu biểu là nhà thơ Tản Đà tài hoa đã lấy cảm hứng từ chùm thơ Thiên Thai của Tào Đường để viết nên một bài Từ tuyệt tác theo điệu Hoa phong lạc. Đó là bài Tống biệt. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét đây là “một bài toàn bích”, còn Vũ Quần Phương thì cho rằng “đây là bài thơ hàm súc bậc nhất của Tản Đà”. Nội dung bài Từ như sau:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi,
Nửa năm Tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt,
Nước chảy huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời,
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng giăng chơi.

Đọc xong bài Từ này, ta có cảm giác như lạc vào chốn Bồng Lai, Tiên cảnh, hư hư thực thực. Bài từ ngắn chỉ vẻn vẹn có 13 câu, trong đó quá nửa là những câu ngắn chỉ gồm 2 – 4 chữ, nhưng đã nói lên đầy đủ tâm trạng của người từ biệt cõi Tiên về nơi trần giới, mặc dù trong bài không thấy bóng dáng con người, mà chỉ toàn có cảnh: lá đào, cửa động, non, nước, đá, rêu… Bài Từ xứng đáng được xếp ngang hàng với những bài hay của Từ Tống.

Trong khuôn khổ một bài viết cho mục thường thức, chúng tôi không có điều kiện đi sâu vào các mặt của Từ, mà chỉ xin nêu lên những nét khái quát góp phần vào việc tìm hiểu một thể loại văn học phong phú và đa dạng không có cơ hội phát triển ở Việt Nam như thơ Đường luật.

Láng Thượng 2 - 9 - 2000

CHÚ THÍCH

(1). Để viết bài này chúng tôi đã tham khảo các tư liệu sau đây:

- Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc Nxb. Thế giới - 2000.

- Lịch sử văn học Trung Quốc T.II, Nxb. Giáo dục, 1993.

- Tuyển tập Từ Trung Hoa - Nhật Bản, Nxb. Văn hóa Thông tin 1996.

- Tống Từ, Nxb. Văn học, 1999.

- Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1997.

- Thơ Tùng Thiện Vương Vương Miên Thẩm, Nxb Thuận Hóa - Huế, 1994.

- Thơ và Từ Đào Tấn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1987.

- Khúc hát gõ mái chèo (cổ duệ từ), Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, 1999.

TB

HOẠT ĐỘNG THƯ PHÁP NGÀY XUÂN

1. Nhân dịp đón xuân chào mừng Thế kỷ XXI, chào mừng Thiên niên kỷ thứ III, Triển lãm Thư pháp Xuân Tân Tỵ 2001 tại Nhà Thái học Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội được tổ chức từ 22/1 (28 Tết) đến 2/2 (mồng 10 Tết năm Tân Tỵ), trình bày 52 tác phẩm của 28 tác giả từ TP Hồ Chí Minh trở ra. Các tác phẩm phần lớn viết trên giấy dó lồng khung kính và bồi trục, một số ít sơn son thếp vàng hoặc thể hiện trên đĩa men sứ. Nội dung ca ngợi mùa xuân và cuộc sống, phần nhiều do các tác giả tự sáng tác, có một số bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguyên tiêu, Vạn lý Trường thành) và thơ Đường (Tuyệt cú của Đỗ Phủ, Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều của Trương Kế, Đề nơi gặp trước của Thôi Hộ). Đặc biệt cuộc triển lãm đã giới thiệu 5 đôi câu đối và 5 bức hoành phi sơ tuyển qua nhiều lần hội thảo quốc gia để dùng cho nhà Thái học mới được xây dựng lại. Câu đối và hoành phi đều do một số nhà thư pháp nổi tiếng của Hà Nội và Huế thực hiện.

Đây là một cuộc triển lãm tập thể có tính chất toàn quốc lần thứ II sau cuộc Triển lãm Xuân Canh Thìn 2000 do CLB UNESCO Thư pháp Việt Nam cùng Trung tâm Nghiên cứu Văn miếu - Quốc tử giám và Quỹ Phát triển Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển tổ chức. Cuộc triển lãm lần này, số tác giả trẻ tham gia nhiều hơn lần trước, non nửa tác phẩm là của hội viên CLB Thư pháp trẻ hai trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Cuộc triển lãm tuy có không ít tác phẩm còn non nớt về bút pháp và cách thể hiện, nhưng đã đánh dấu một bước trong việc chấn hưng ngành nghệ thuật này ở Việt Nam và đã gây được tiếng vang nhất định trong lòng người Hà Nội, hình thành nét đẹp của một phong tục mới: xin chữ, cho chữ, tặng chữ ngày Xuân, thay dần cho thói quen hái lộc bẻ cây trong khi ta đang cần bảo vệ màu xanh của Thành phố.

2. Trong thời gian Triển lãm Thư pháp tại Văn Miếu, CLB UNESCO Thư pháp Việt Nam đón tiếp GS. Phan Khánh Trung, khách mời của Cố vấn Lê Xuân Hòa, Hội trưởng hội Thư pháp Đài Loan. Sau khi cùng khách đi xem triển lãm, Chủ nhiệm CLB Lại Cao Nguyện đã giới thiệu về CLB và quá trình phát triển của ngành Thư pháp Việt Nam trong những năm gần đây. Chủ khách trao đổi tặng phẩm cho nhau. Sau đó là giao lưu viết chữ giữa Cố vấn Lê Xuân Hòa và GS. Phan Khánh Trung. Câu “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ!” (Có bạn từ phương xa đến, chẳng cũng vui lắm thay!), “Cô tửu thuyền lai giang diệc túy, mại hoa nhân khứ lộ do hương” (Thuyền chở ruợu về, sông chếnh choáng; người bán hoa qua lộ ngạt ngào) của cụ Lê Xuân Hòa tặng khách và câu “Xuân phong hòa sướng” (gió xuân hòa dịu) của GS. Phan Khánh Trung tặng lại là những bức thư pháp mẫu mực với những nét bút tài hoa được mọi người tán thưởng.

Buổi chiều, ở một phòng họp lớn tại Văn miếu, GS. Phan Khánh Trung đã gặp gỡ, nói chuyện và giao lưu với các nhà Thư pháp Việt Nam cùng những người yêu thích thư pháp.

3. “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Sau Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đến Văn miếu Hưng Yên. Tại khu vực Phố Hiến, nhân dịp khánh thành việc trùng tu Văn miếu và Chùa Chuông Hưng Yên, Bảo tàng Hưng Yên phối hợp với CLB UNESCO Thư pháp Việt Nam tổ chức triển lãm ngay tại khu Văn miếu mới được trùng tu, từ ngày 12/2 đến ngày 18/2/2001. ở đây đã trình bày 57 tác phẩm của gần 30 tác giả từ TP Hồ Chí Minh, Huế, Thanh Hóa, Hà Nội đến Hải Dương. Nội dung cũng là ca ngợi mùa Xuân và cuộc sống. Đặc biệt có cuộc trao đổi giữa lãnh đạo CLB UNESCO Thư pháp Việt Nam, lãnh đạo bảo tàng Hưng Yên với các cụ lão nho địa phương. Trong đó có cụ đã từng viết phần lớn hoành phi câu đối cho Văn miếu Hưng Yên, cuộc mạn đàm nhằm tiến tới vận động thành lập CLB Thư pháp tại địa phương. Chỉ trong mấy ngày đã có hàng nghìn lượt người đến tham quan và “xin lộc”.

ở nhiều nơi trong cả nước, phong trào chơi chữ, xin chữ, cho chữ, tặng chữ và học thư pháp Hán - Nôm đang có chiều hướng gia tăng mạnh. ở Hà Nội có nhiều điểm viết chữ và “cho chữ” đã mọc lên. Các lớp học thư pháp được tổ chức ở nhiều nơi.

4. Ngày 18/2, được sự giúp đỡ của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, của nhà giáo Lại Cao Nguyện, CLB thư pháp Trẻ trường ĐHNN - ĐHQG Hà Nội tổ chức Lễ khai giảng khóa học thư pháp 2001 , gồm các lớp Thư pháp sơ cấp, Thư pháp nâng cao, Sơ cấp Hán - Nôm. Sau phần khai giảng là phần giao lưu viết chữ giữa một số nhà thư pháp ở Hà Nội với các hội viên trẻ và sinh viên trường ĐHNN - ĐHQG Hà Nội.

Cuộc gặp gỡ này sẽ là mở đầu cho những cuộc sinh hoạt văn hóa nghệ thuật về thư pháp sau này.

Vào mùa xuân Thiên niên kỷ mới, các hoạt động kể trên đã đánh dấu một bước đáng kể trong việc phục hưng nền thư pháp non trẻ của Việt Nam và hình thành một nét văn hóa mới: xin chữ, cho chữ, tặng chữ ngày xuân.

Nguyễn Vinh

TB

HỘI NGHỊ CỘNG TÁC VIÊN
TẠP CHÍ HÁN NÔM ĐẦU NĂM 2001

Vừa qua, vào ngày 16-1-2001, Tạp chí Hán Nôm (TCHN) đã tổ chức cuộc họp cộng tác viên đầu năm 2001.

Tới dự có đồng chí Tổng biên tập TCHN Trần Nghĩa, đồng chí Đinh Kim Lân - Ban Kế hoạch Tài chính Trung tâm KHXH & NVQG, đồng chí Nguyễn Ngọc Nhuận - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đồng chí Nguyễn Đức Tồn - Tổng biên tập Tạp chí Ngôn ngữ, đồng chí Hoàng Văn Lâu - Trưởng phòng TCHN, đồng chí Phạm Văn Khoái - Chủ nhiệm bộ môn Hán Nôm của Trường Đại học KHXH & NV, các đồng chí trong Ban biên tập, anh chị em trong Tòa soạn và đông đảo cộng tác viên của tạp chí.

Mở đầu cuộc họp, Tổng biên tập Trần Nghĩa phát biểu, tổng kết một số thành tựu mà TCHN đã đạt được trong năm qua như: Tạp chí vẫn ra đều 4 số, mỗi số 100 trang, với tất cả 80 bài viết lớn nhỏ, của 82 tác giả; về mặt nội dung, TCHN năm 2000 tiếp tục cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin bổ ích. Có thể kể ra một số bài được dư luận quan tâm như: Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển, Tập sách “Viễn hải qui hồng” của Nguyễn Thượng Hiền mới được phát hiện, Những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ, Quan hệ và tiếp nhận văn học Trung Quốc ở Việt Nam đầu thế kỉ XX…

Về mặt in ấn, TCHN đã cố gắng giảm thiểu lỗi chính tả, trình bày hợp lí hơn, chữ in rõ ràng hơn; những nơi cần thiết có in cả phần minh họa bằng chữ Hán, chữ Nôm… Chính vì không ngừng cải thiện cả về nội dung và hình thức nên TCHN trong năm qua đã thu hút được nhiều độc giả, bằng chứng là việc tiêu thụ nhanh hơn, đặc biệt số 2 (có giới thiệu một số tác phẩm về thư pháp) và số 3 (số đặc san Nguyễn Tư Giản) đã phát hành hết trong một thời gian ngắn.

Cuộc thảo luận diễn ra rất sôi nổi xoay quanh vấn đề làm thế nào để TCHN có nội dung thêm phong phú và theo sát tình hình thực tế. Ông Nguyễn Đức Tồn mong rằng “giữa TCHN Tạp chí Ngôn ngữ nên có sự hợp tác, để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm”, còn Ông Phạm Văn Khoái thì cho rằng “TCHN còn cao cấp quá, nên chú ý đến mảng trường học nhiều hơn nữa”; Ông Vũ Thế Khôi (Nhà xuất bản Đông Tây) tâm huyết “TCHN nên mạnh dạn hơn, xông thẳng vào các vấn đề học thuật nóng bỏng, kịp thời lên tiếng đối với việc sử dụng chữ nghĩa chưa được chuẩn xác trong các di tích văn hóa…”

Tổng biên tập Trần Nghĩa trong lời phát biểu tổng kết của mình đặc biệt nhấn mạnh: “TCHN trong năm qua đã có nhiều cố gắng đáng ghi nhận. Được như vậy trước hết là nhờ sự đóng góp tích cực về nhiều mặt của các cộng tác viên Tạp chí, sự nỗ lực của toàn thể anh chị em trong Ban biên tập và Tòa soạn, đặc biệt là sự chỉ đạo sít sao của Trung tâm KHXH & NVQG, sự hỗ trợ kinh phí của Bộ Văn hóa Thông tin, và sự giúp đỡ chí tình của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Song bên cạnh những kết quả mà TCHN đã đạt được, cũng cần khắc phục một số thiếu sót như trả lời thư bạn đọc chưa kịp thời, trong biên tập dù cố gắng nhưng vẫn để sơ suất…”

Năm 2001 TCHN vẫn tuân theo tôn chỉ mục đích của mình, khắc phục các sơ suất không đáng có. Dự định trong năm nay, TCHN sẽ xin cấp trên cho phép tổ chức kỉ niệm 15 năm khai trương TCHN (1986 - 2001), tăng kì phát hành từ 4 số/năm lên 6 số/năm, chấn chỉnh lại guồng máy Tòa soạn… Đồng thời TCHN cũng mong muốn rằng các tác giả khi gửi bài cho TCHN nên đánh máy hoặc viết rõ ràng, ghi rõ địa chỉ để tiện liên hệ, đặc biệt khi đã gửi bài cho TCHN không nên đồng thời gửi cho các Báo, Tạp chí khác.

P.V

TB

VỀ VẤN ĐỀ "HÁN HỌC" (*)

CAROLINE GYSS – VERMANDE

LTS: "Hán học" từ dùng để chỉ những nghiên cứu về Trung Quốc cổ điển (Hanxue) đã phát triển ở Trung Quốc từ thế kỷ XVII, những nghiên cứu tiếp theo ở phương Tây mới từ hơn một thế kỷ nay. Còn ở Việt Nam, người ta chưa xác định rõ Hán học có từ bao giờ nhưng chỉ biết rằng một số tôn giáo đến từ Trung Hoa cổ đại và chữ Hán đã vào Việt Nam từ ngàn năm trước, được dùng trong các văn bản chính thống của các triều đại phong kiến, những yếu tố ấy sớm gắn bó với đời sống văn hóa và tinh thần của người dân Việt Nam, và cũng thông qua chữ Hán, các triều đại phong kiến đã xây dựng nên một hệ thống giáo dục, khoa cử Việt Nam phỏng theo mô hình giáo dục Trung Hoa. Từ đó, ở Việt Nam đã xuất hiện không ít các tác phẩm, công trình viết bằng chữ Hán trên mọi lĩnh vực. Những công trình ấy thực sự là những sử liệu quý hiếm không chỉ của các công trình nghiên cứu cho ngành Việt Nam học mà còn cho cả Hán học. Hiện nay ở Việt Nam, chúng ta được làm quen với nhiều công trình nghiên cứu thuộc Hán học và Trung Quốc học trên các chuyên ngành sử học, ngữ văn, tôn giáo, khảo cổ học... thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc và một số các ngành có liên quan khác. Trong tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội Sciences de l'homme et de la société", số 58 - 4/2000 do Trung tâm nghiên khoa học Quốc gia Paris xuất bản có đăng bài của tác giả Caroline Gyss-Vermande, phụ trách Ban nghiên cứu Tôn giáo và Xã hội Trung Quốc nêu lên tình hình thực tế và nhận định tương lai của nền Hán học ở Pháp, châu Âu, châu á và ở ngay Trung Quốc. Dưới đây, Tạp chí Hán Nôm xin giới thiệu một phần bài viết của Caroline Gyss - Vermande qua bản dịch của Nguyễn Văn Trường, nhằm cung cấp một số thông tin cho những ai quan tâm về Hán học và Trung Quốc học trên thế giới.

Hán học ngày nay - Hán học là gì ?

Xuất phát từ giới phê bình, Hán học đã phát triển ở vị trí hàng đầu về âm vị học, cổ tự học, thư mục học và các công trình sử liệu, tạo nên một số môn học liên quan với nhau và mang tính khoa học. Vậy ta có thể nhận biết được cơ sở lý luận khoa học của một bộ môn có tên là "Hán học" không ? Câu trả lời là có, khi người ta xem xét tính đặc thù của lĩnh vực và của các nguồn được nghiên cứu, những đặc thù đó xác định tính đa dạng các bộ môn và một cách nhìn thấu suốt niên đại buộc phải có ở các nhà chuyên môn, sự khó khăn và thời gian rèn luyện kéo dài đã làm cho cần thiết phải tạo ra những công cụ làm việc thích hợp. Những đặc thù ấy ít nhiều cũng tách các nhà Hán học khỏi bộ môn phương pháp học, họ có thể được nghiên cứu về lịch sử, triết học, văn học, ngôn ngữ học đại cương, v.v. và họ nêu ra một ý tưởng nào đó cùng thuộc về một lĩnh vực. Tuy nhiên, tính chất dễ bị tổn thương của các nhà Hán học và thường xuyên không ổn định mà họ phải chịu trong công việc nghiên cứu khiến cho số chuyên gia này khẳng định được mình thuộc môn học nào và từ chối cách gọi là "nhà Hán học". Tuy nhiên, cũng cần nói rõ là ở trong nước, họ không phải là những người kém năng động trong các hiệp hội và các tổ chức chuyên nghiệp tạo nên mối giao lưu giữa các nhóm nghiên cứu đa ngành về Trung Quốc. Tóm lại, một người có thể là một nhà sử học xuất sắc về Trung Quốc được các nhà sử học Pháp công nhận : nếu người đó đã đạt học vị Thạc sĩ ; nhưng cũng có người có thể được công nhận vì đã góp phần vào sự phát triển nghiên cứu Trung Quốc. Trong bài viết này, chúng tôi không chỉ quan tâm đến công việc nghiên cứu của các nhà Hán học Pháp mà ngay cả các nhà nghiên cứu Hán học ở tại Trung Quốc.

Hán học trong tình trạng khủng hoảng

Từ khoảng mười lăm năm nay, việc nghiên cứu về Trung Quốc bị khủng hoảng có tác động đến các ngành khoa học xã hội nói chung. Cuộc khủng hoảng này là một hiện tượng toàn cầu mà toàn thể các nhóm nghiên cứu cổ điển phải đối mặt để đặt lại vấn đề lợi ích của họ trong các xã hội đương thời. Tại châu Âu, tại Mỹ và ngay cả tại châu á, sự thiếu hụt đáng kể đối với "Chương trình Cổ học" làm cho các chương trình cổ học đó yếu đi tổng thể : sự trợ giúp trong các cơ quan nghiên cứu và ngay trong trường đại học không được coi là đương nhiên nữa, cũng như việc đào tạo ngày càng giảm hấp dẫn đối với sinh viên, thật sự là một cái vòng lẩn quẩn dẫn đến hồi kết thúc các chương trình này vì không có người kế tục. Tại Trung Quốc, nơi mà các công trình nghiên cứu về lịch sử và khảo cổ học đã có một chỗ đứng rất được ưu đãi trong thời gian khá dài, thì hiện nay các công trình ấy hoàn toàn không có gì đáng được mong ước : mọi thứ đều được bán và được mua và người ta đòi hỏi các nhà bác học làm cho các hoạt động nghiên cứu của họ phải "sinh lợi".

Hán học Pháp : khái quát lịch sử

Pháp là nước phương Tây đầu tiên lập ra các ngành nghiên cứu về Trung Quốc thành một lĩnh vực khoa học toàn phần. Với danh nghĩa ấy, nước Pháp là một kiểu mẫu có uy thế. Edouard Chavannes (1865-1918) chắc chắn là người đại diện cho sự minh họa đầu tiên của kiểu mẫu này, được thành lập với sự chuẩn mực của các phương pháp lịch sử và ngữ văn học, tiếp theo là Henri Maspộro (1883-1945), Paul Pelliot (1878-1945), Paul Demiộville (1894-1979). Chavannes là bạn của Durkheim và Mauss, và là thầy dạy của nhà xã hội học Marcel Granet (1884-1940) mà các công trình nghiên cứu của ông lập nên ngành nhân loại học lịch sử của Trung Quốc và đã làm nổi bật nền khoa học Pháp, vượt hẳn lên trên các nhà chuyên môn của khu vực Viễn - Á : Claude Levi-Strauss, Georges Dumộzil thuộc trong số những học trò của ông trong Ban V, Trường Cao đẳng Thực hành (E.P.H.E).

Dựa trên những nhân vật nổi tiếng đã đào tạo nên nhiều nhà Hán học châu Âu, nền Hán học Pháp đã tự xây dựng được một vị trí ưu việt trong suốt nửa đầu của thế kỷ này. Những bác học đầu tiên ấy cũng là những người đi thực tế. Vì những lý do lịch sử, từ năm 1949 Trung Quốc đã trở nên một vùng đất khó thâm nhập, và những biến động lớn của Trung Quốc : "Bước đại nhảy vọt", "Cách mạng văn hóa", đã ngăn cản Trung Quốc - trừ những ngoại lệ đáng kể - phát triển nghiên cứu lịch sử của mình, không kể đến những hợp tác quốc tế. Phát triển những nghiên cứu về Trung Quốc tại Pháp đã được thực hiện trong tình trạng gần như tách biệt hoàn toàn với lục địa Trung Hoa, Trung tâm Pháp - Trung nghiên cứu về Hán học tại Bắc Kinh, được thành lập năm 1937 nhờ Paul Pelliot, chỉ tồn tại đến năm 1953. Sau đó, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) tiếp tục sự nghiệp tại Pháp, đã có những cố gắng đáng kể để phát triển nền Hán học, và sau năm 1968, Bộ Giáo dục Quốc gia cũng dành những khả năng tài chính lớn cho việc đào tạo cơ bản bằng cách đa dạng hóa việc giảng dạy các ngôn ngữ vùng Viễn Đông chỉ ở trong một Trường Ngôn ngữ phương Đông (trong thời gian này, trường không có cấp 3). Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ đó, không có hợp tác khoa học với Trung Quốc cũng cho thấy những thiệt thòi rõ rệt.

Từ những năm 1980 và nhất là năm 1990, Trung Quốc đã tìm lại được vị trí của mình và đứng hàng đầu về nghiên cứu Trung Quốc. Có rất nhiều công trình phải cất giấu trong những năm đen tối, cuối cùng cũng đã được công bố, ngành khảo cổ học có những bước tiến mới và phát triển rất tốt đã nêu lên được những nền văn hóa địa phương rất phong phú có liên quan đến dấu vết của "Lưu vực Hoàng Hà" cổ, các phông văn bản lưu trữ, văn khắc đã được giao cho các nhà nghiên cứu sử dụng, và có nhiều bước tiến bộ rất lớn trong việc giải mã các văn tự cổ của Trung Quốc. Điều này được thực hiện có thể nhờ sự mở rộng tự do chính trị, nhưng cũng nhờ có những tài trợ từ bên ngoài, đặc biệt là từ Đài Loan và các cộng đồng Hoa kiều. Từ những năm 1980, vai trò của Quỹ Chiang Ching-kuo - một tổ chức của Đài Loan - thành lập vì sự phát triển của Hán học không chỉ ngay ở Trung Quốc, mà còn trên toàn thế giới, đã trở nên rất quan trọng nhờ sự tài trợ các dự án khoa học và việc cấp học bổng Tiến sĩ và sau Tiến sĩ.

Từ nay không thể tự khép mình trong thế giới nghiên cứu Hán học của Pháp, và ngay cả của phương Tây nữa. Dần dần thôi, nhưng sẽ không thể cưỡng lại được, khi trung tâm nghiên cứu Trung Quốc chuyển chỗ về Trung Quốc: chỉ một thí dụ là việc tổ chức các hội thảo thường xuyên và ngày càng nhiều hơn, tuy chất lượng các cuộc hội thảo ấy còn chưa được cao nhưng không ngừng được cải thiện.

Tương lai của Hán học

Như vậy, tương lai trong hợp tác với những người đồng nhiệm Trung Quốc của chúng ta ngày càng chặt chẽ. May thay, các nhà bác học ấy rất muốn hợp tác về khoa học mà không phải những khoản tiền viện trợ làm cho người ta lo ngại. Quả vậy, trong một trăm năm nay, châu Âu đã giữ vai trò tiếp sức và là nơi bảo quản các truyền thống khoa học đã biến mất một thời gian dài tại Trung Quốc. Những nghiên cứu về các tôn giáo, điểm nổi bật hiển nhiên của nền Hán học Pháp đã không ngừng phát triển tại đây, trong khi những nghiên cứu này mất hết giá trị tại Trung Quốc trong gần năm mươi năm. Về phương diện đó, việc mở một "Khoa Tôn giáo" tháng 9 năm 1998 tại Đại học Bắc Kinh, và việc ký kết năm 1999 một thỏa ước trao đổi giữa Khoa này và Ban khoa học tôn giáo của Trường Cao đẳng Thực hành (E.P.H.E), là những dấu hiệu của một sự tiến triển đáng kể. Nền Hán học phương Tây gợi nên chú ý nhiều ở Trung Quốc, tại đây người ta không kể hết những bản dịch các tác phẩm và những cuốn sách mô tả loại hình nghiên cứu về Trung Quốc ở bên ngoài đất nước này.

Một bước tiến khác đó là bước tiến về tin học hóa, thực sự là một đột biến, được thể hiện ngay cả trên các báo cáo do các nhà Hán học viết. Các bộ sưu tập lớn như Tứ khố toàn thư (Siku quanshu), thư viện của Hoàng đế được sưu tập từ 1773 đến 1785, Minh sử lục (Ming Shilu), niên sử các buổi yết triều và các dụ của từng Hoàng đế trong suốt triều đại nhà Minh (1368-1644) đã được đưa vào tin học, và nhiều bộ sưu tập khác cũng sẽ được đưa vào tiếp theo. Nhiều bộ sưu tập vĩ đại tầm cỡ quốc gia được lưu trữ duy nhất trong một thư viện khi cần tra cứu nhưng dịch chuyển phức tạp, nay có thể tra cứu được trên mạng Internet, dẫu rằng nhiều bản hiện nay chưa hoàn thiện và chi phí rất tốn kém. Khó có thể tưởng tượng nổi một đột biến đã được triển khai cách đây mười năm đang và sẽ cho ra mắt với nhiều bộ sưu tập lớn chứa trong ấn phẩm điện tử CD-Rom, xếp gọn trong chiếc cặp đựng máy tính xách tay của nhà nghiên cứu.

Vậy các nhà Hán học phương Tây có thể có vai trò nào trong tình hình mới này ? Sẽ tự mình đánh lừa mình nếu khẳng định rằng phương Tây giỏi giang tất cả các mặt của Hán học : thiếu tiếp xúc với thực địa đã khiến cho phương Tây xa rời một số lĩnh vực trên thực tế. Hai trường nghiên cứu tuyệt vời của Pháp không ngừng nổi tiếng là ngôn ngữ học và nghiên cứu các tôn giáo. Đối với lĩnh vực sau, sự nhìn nhận của Pháp rất được coi trọng ở nước ngoài và ở Trung Quốc. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu về Phật học và Lão giáo của Pháp được thừa nhận là một điều may mắn cần phải giữ để phát triển trong hợp tác theo đường chính thống và tận dụng các tài liệu dễ tìm kiếm lại rẻ (tài liệu lưu trữ địa phương và quốc gia, tài liệu lưu trữ trong các đền chùa) càng ngày đến càng nhiều với chúng ta. Những tài liệu mới ấy, những người tiền nhiệm của chúng ta mơ cũng không thể thấy được nay cho phép chúng ta dựng lại lịch sử một xã hội Trung Quốc vượt ra ngoài thuật biên soạn lịch sử truyền thống như các bộ "Sử biên niên" và "Lịch triều", một lịch sử xét đến các tầng lớp dân chúng khác nhau, các đền, chùa, các phường, các mạng lưới của họ.

Để thực hiện dự án này, các hiệp định hợp tác nhiều năm được triển khai, ví như người Mỹ đã thực hiện, Mỹ đã tiến trước chúng ta nhiều trong lĩnh vực này. Quả nhiên nước Mỹ đang tài trợ nhiều mục với phương thức trao đổi dài hạn (1 năm/1 năm) với các Trường Đại học lớn của Trung Quốc, và cấp rất nhiều học bổng cho học vị Tiến sĩ. Vì các Trường Đại học của chúng ta không thích hợp như vậy, nên Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) có thể nhận vai trò này bằng cách phát triển những điểm đón tiếp các nhà nghiên cứu Trung Quốc và các Tiến sĩ được cấp học bổng. Để bù lại, sự thừa nhận các chương trình của chúng ta, thời hạn của các chương trình, và sự ủng hộ thực sự về phía Trung Quốc có thể được thể hiện, nhất là việc cấp những địa điểm làm việc trên thực địa hiện nay chưa có, nên buộc chúng ta chỉ thực hiện được những chuyến công tác ngắn ngày và đúng thời gian.

Người dịch: Nguyễn Văn Trường

CHÚ THÍCH

(*) Đầu đề do Tạp chí Hán Nôm đặt.