TB

VIỆT NAM TIỂU THUYẾT TÙNG SAN VÀ VẤN ĐỀ VĂN HIẾN HỌC LIÊN QUAN

VƯƠNG TIỂU THUẪN

Thế kỷ XX là thế kỷ học thuật của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển ấy trước hết là do phát hiện những tư liệu mới về giáp cốt Ân Khư và di thư Đôn Hoàng, sau đó phải kể đến một lý do nữa, là phương pháp so sánh được nảy sinh dưới ảnh hưởng của học thuật phương Tây. Lấy tư liệu mới làm điểm tựa của học thuật, lấy so sánh làm phương pháp cơ bản để nghiên cứu, đã trở thành nhận thức chung của rất nhiều học giả Việt Nam. Chính vì vậy, ở lĩnh vực nghiên cứu văn học cổ đại cũng như lịch sử cổ đại Trung Quốc đã xuất hiện phương pháp tiếp cận mới đối với “văn hóa Hán ở khu vực ngoài Trung Quốc” (Hán ngoại vực văn hóa).

Với phương pháp tiếp cận này, Việt Nam là khu vực đặc biệt quan trọng. Mặc dầu quần đảo Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên và một số khu vực khác cũng từng chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, nhưng trường hợp có mức độ Hán hóa như Việt Nam thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhật Bản vào năm 759 sau công nguyên, trước khi Vạn diệp tập xuất hiện, lối chữ giả danh đã được sáng tạo và sử dụng. Văn tự Triều Tiên ra đời trước sau năm 1445. Còn chữ La Tinh thì Việt Nam mới sử dụng từ giữa thế kỷ thứ XVII và mãi đến thế kỷ XX mới trở thành văn tự có tính chất pháp định. Điều này nói lên văn hóa Hán ở khu vực ngoài Trung Quốc thẩm thấu sâu nhất là ở Việt Nam.

Nhưng có một tình hình không tương xứng là công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam lại chậm trễ so với các quốc gia có nền kinh tế khá phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản. Tư liệu ở Nhật Bản, Hàn Quốc đã được thu thập và chỉnh lý rất tốt, người nước ngoài có thể có được những tư liệu đó bằng cách đặt mua. Ở Việt Nam có khác, khá nhiều cổ tịch Hán văn còn tản mát trong dân, khá nhiều cổ tịch đã thu thập chưa được chỉnh lý. Đối với giới học thuật Trung Quốc, nghiên cứu văn hóa Hán ở Việt Nam là mảnh đất còn chờ khai phá.

Nhìn lại việc này, những năm gần đây, không ít nhà Hán học trên thế giới đã đặc biệt quan tâm đến sách vở chữ Hán của Việt Nam, trong đó, người có thành tích học thuật khá rõ là Trần Khánh Hạo. Ông Hạo dựa vào Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp, tổ chức được một nhóm nghiên cứu Hán Nôm, thực thi kế hoạch nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam, và hợp tác với Đại học Văn hóa Trung Quốc (Đài Loan), Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (Việt Nam), biên tập và xuất bản được 2 tập sách (séries) gồm 12 quyển Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san. Đây là bộ sưu tập đại thành về tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam và cũng là một trong những công trình chỉnh lý cổ tịch Việt Nam một cách có hệ thống. Bộ sách đã chứng tỏ viễn cảnh rộng lớn của việc nghiên cứu văn hóa Hán ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra hàng loạt vấn đề cần đi sâu suy ngẫm, như vấn đề phân loại cổ tịch Việt Nam chẳng hạn.

I. Việt Nam Hán văn tiểu tuyết tùng san với khái niệm “tiểu thuyết”.

Tập 1 Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san xuất bản năm 1987, tập 2 xuất bản năm 1992, đều do Học sinh thư cục Đài Bắc ấn hành. Tập 1 do hai Giáo sư Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên, với quy mô 7 quyển đã dung nạp 18 tác phẩm, trong đó có Truyền kỳ mạn lục. Tập 2 do ba Giáo sư Trần Khánh Hạo, Trịnh A Tài, Trần Nghĩa chủ biên, gồm 5 quyển, dung nạp 17 tác phẩm, trong đó có Lĩnh Nam chích quái liệt truyện. Để biên soạn hai tập Tùng san này, Sở nghiên cứu Trung văn thuộc Đại học Văn hóa Trung Quốc (Đài Loan) thành lập nhóm hiệu khám tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam. Giáo sư Trần Nghĩa ở Viện nghiên cứu Hán Nôm phụ trách nhóm cán bộ nghiên cứu của Viện gồm 6 người tham gia công việc biên soạn tập 2. Học giả của ba nước Pháp, Trung Quốc, Việt Nam đã chung sức hợp tác, làm cho Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san trở thành tác phẩm đạt chuẩn mực về mặt khảo đính và hiệu khám; hay nói cách khác, hai tập Tùng san giàu giá trị sử liệu và giá trị văn học này là kết tinh trí tuệ của các học giả ba nước.

Xét từ góc độ văn hiến học, đặc điểm quan trọng nhất của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san là có một thể thức chỉnh lý tỉ mỉ. Ngoài việc hiệu khám và chấm câu theo kiểu mới, Tùng san còn có ảnh sách và giải đề tác phẩm kỹ lưỡng. Những giải đề đó với danh nghĩa là “thuyết minh khi xuất bản” đã giới thiệu tác giả, quá trình lưu truyền, văn bản hiện còn, rồi dẫn dụng những tư liệu liên quan để khảo đính những vấn đề vừa nêu của từng quyển sách. Chẳng hạn, trong lời thuyết minh xuất bản đối với Truyền kỳ mạn lục, người biên tập trước tiên dựa vào Đăng khoa bị khảo, Công dư tiệp ký, Kiến văn tiểu lục v.v. để khảo đính cuộc đời và con đường làm quan của Nguyễn Dữ. Thứ đến là dựa vào nội dung của sách và các bài tựa, bạt để khảo đính niên đại thành sách và các quá trình đó. Kế đến là dựa vào các thư tịch của Trung Quốc như Thù vực chu tư lục, thư tịch của Triều Tiên như Kim ngao tân thoại, thư tịch của Nhật Bản như Kỳ dị tạp đàm tập, Ca tỳ tử, Vũ nguyệt vật ngữ v.v. để khảo đính quá trình lưu truyền Tiễn đăng tân thoại đến các quốc gia và ảnh hưởng của nó đối với quá trình hình thành Truyền kỳ mạn lục, rồi sau dựa vào các tác phẩm truyện truyền kỳ như Truyền kỳ tân phả, Truyền văn tân lục, Tân truyền kỳ lục để luận chứng cho truyền thống của tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam; và cuối cùng đã thuyết minh một cách rành mạch những văn bản hiện còn, tàng bản và những ứng dụng của chúng trong công tác hiệu khám. Nhìn một mảng lông vằn có thể biết cả con báo, những lệ chứng này chứng tỏ Tùng san đã tiếp thu phần lớn thành quả nghiên cứu về tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam, phản ánh thành tựu mới về chỉnh lý cổ tịch Việt Nam.

Một ý nghĩa khác nữa của Tùng san là ở chỗ, nó không những cung cấp một loạt tư liệu nghiên cứu tiểu thuyết, mà còn đưa ra cách lý giải về tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Khi Tùng san chỉ ra rằng tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam hiện còn khoảng 30 bộ, chừng trên dưới 3 triệu chữ, còn xác định trên đại thể phạm vi của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (đương nhiên con số thống kê trên còn phải bàn). Ngoài ra, Tùng san chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam ra tiểu thuyết truyền kỳ, diễn nghĩa lịch sử, tiểu thuyết bút ký, thần thoại truyền thuyết v.v. Ở mỗi thiên tiểu thuyết còn trình bày rõ cơ sở và nguồn gốc của việc phân loại. Theo bài tựa chung ở đầu sách Việt Nam Hán văn tiểu thuyết Tùng san của Trần Khánh Hạo và mục lục toàn sách thì, nội dung cơ bản của việc phân loại này là:

+ Loại tiểu thuyết truyền kỳ: loại tiểu thuyết này là truyện ngắn viết bằng văn ngôn, đại loại như tiểu thuyết đời Đường. Những tác phẩm đã biên tập hiệu khám có Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục, Thánh Tông di thảo, Kiến văn lục, Việt Nam kỳ phùng sự lục v.v.

+ Loại diễn nghĩa lịch sử: diễn dịch lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Những tác phẩm sơ kỳ rõ ràng chịu ảnh hưởng loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa của Trung Quốc, tính tự sự khá nồng đậm. Những tác phẩm hậu kỳ thì bằng thái độ của sử gia, dùng hình thức tiểu thuyết chương hồi để chép sử, không phải là văn học thông tục dễ hiểu. Những tác phẩm đã biên tập, hiệu khám có: Hoàng Việt xuân thu, Việt Nam khai quốc chí truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí, Hoan Châu ký, Hậu Trần dật sử, Trùng Quang tâm sử v.v.

+ Loại tiểu thuyết bút ký: loại này lấy sự tích nhân vật làm trung tâm. Tác phẩm sớm nhất là Nam Ông mộng lục, ngoài ra có Công dư tiệp ký, Nam thiên trân dị, Thính văn dị lục, Sơn cư tạp thuật, Vân nang tiểu sử, Đại Nam hiển ứng truyện, Tang thương ngẫu lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc vĩ nhân truyện, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Khoa bảng tiêu kỳ, Nhân vật chí v.v.

+ Loại thần thoại truyền thuyết: loại này là thần thoại và truyền thuyết về quốc gia dân tộc Việt Nam và nguồn gốc sự vật, bao gồm truyện ký thần kỳ, như Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái, Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, Thiên Nam văn lục, Nam quốc dị nhân sự tích lục v.v.

Như vậy có nghĩa là, đứng về người biên tập, khái niệm của tiểu thuyết Việt Nam tương đương với tiểu thuyết Trung Quốc, với đặc điểm là: thứ nhất, thường có nguồn gốc từ tiểu thuyết Trung Quốc (Đường nhân tiểu thuyết, Lịch sử diễn nghĩa v.v.); thứ hai, lấy sự tích nhân vật hoặc truyện ký làm bộ phận chính.

Điều khó có thể có được là, Tùng san đặc biệt nhấn mạnh khái niệm “nghiên cứu tổng thể” cho rằng tiểu thuyết là một chi nhánh của văn hóa Hán ở Việt Nam. Khi khảo sát tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, phải chú ý nghiên cứu mối quan hệ giữa nhánh với giòng chính và “nghiên cứu so sánh” giữa các nhánh với nhau. Mục đích của nghiên cứu là lột tả được “đặc thù của các vùng văn hóa Hán ở bên ngoài Trung Quốc” làm cho việc nghiên cứu Hán học “hình thành một ngành nghiên cứu tổng hợp về vùng văn hóa vượt ra ngoài biên giới quốc gia”. Sự thực thì, Trần Khánh Hạo xuất phát từ mục đích nói ở trên để chọn lựa đề tài nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam. Ông nói: Trong văn học chữ Hán khu vực ngoài Trung Quốc, thì tiểu thuyết có “khả năng nhất trong việc biểu đạt đặc thù của dân tộc bản địa”, có thể “biểu hiện sâu sắc tinh thần dân tộc đó”, chứ không phải mô phỏng văn học Hán một cách giản đơn, đồng thời lại “rất ít người biết tới và cũng rất ít lấy làm đối tượng nghiên cứu”. “Vì vậy, trong nghiên cứu văn học, chúng tôi chọn nghiên cứu tiểu thuyết làm điểm xuất phát”. Quan niệm “chỉnh thể” này, không thể nghi ngờ gì nữa, là điều kiện để công tác chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam đạt đến chuẩn mực lý luận cao.

Tóm lại, Tùng san là một công việc mang tính sáng tạo, nhưng khó khăn. ý nghĩa học thuật của nó ở chỗ, không những cung cấp cho người nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán một loạt tư liệu nghiên cứu chỉnh trang, phong phú, mà còn cung cấp cho công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam thể lệ, phương thức phân loại và lý luận cơ bản có ý nghĩa quy phạm. Đó là sự thực đầu tiên cần phải xác định rõ trước khi bước vào thảo luận các vấn đề dưới đây.

II. Một vài vấn đề tồn đọng của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san.

Nhằm thúc đẩy công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam, chúng ta không thể né tránh, không quan tâm đến sự bất cập của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san. Sự bất cập đó chủ yếu biểu hiện ở khía cạnh mâu thuẫn nội tại của lý luận phân loại. Chẳng hạn, trong công việc biên soạn thực tế, tập 2 Tùng san có trình bày thêm “Bút ký truyền kỳ tiểu thuyết loại” và xếp vào đó Hội chân biên, Tân truyền kỳ lục - Nếu nói Tân truyền kỳ lục là phỏng tác Truyền kỳ mạn lục, thế thì, chia chúng ra làm hai loại (“Bút ký truyền kỳ loại” và “Truyền kỳ loại”) còn chưa thỏa đáng lắm, huống chi “Bút ký truyền kỳ” là một loại khác, với nội dung hỗn tạp, vị tất có thể đứng riêng ra.

Ngoài ra còn hai điểm hơi phi lý là: Nam quốc dị nhân sự tích lục chép 5 thiên truyện ký thần kỳ, An Nam cổ tích liệt truyện chép 12 thiên truyện ký thần kỳ, những thiên truyện chép ở hai sách này đều lấy từ các sách Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, hiển nhiên chúng có quan hệ gốc gác về thể tài, nhưng Tùng san lại phân chia chúng ra làm hai loại: “Bút ký tiểu thuyết” và “Thần thoại truyền thuyết”. Lại nữa, Thính văn dị lục trong đó lời tựa có bàn đến nguồn gốc của thể tài, rằng: “các bậc tiền bối có Lĩnh Nam chích quái, có Việt điện u linh, có Truyền kỳ mạn lục, có Thiên Nam truyện ký, đều ghi chép chuyện thần dị của nước ta”, nhân tự cho mình là “hiệu tần” những bộ sách ấy; thế mà Tùng san lại xếp những phần sách liên quan vào ba loại Bút ký tiểu thuyết, Thần thoại truyền thuyết, Truyền kỳ. Nên giải thích mâu thuẫn này ra sao ? Đó là vấn đề mà Tùng san chưa thực sự bàn tới.

Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân nảy sinh mẫu thuẫn nói trên, đại thể là, khi phân loại đã đưa ra quá nhiều tiêu chuẩn. Chẳng hạn, loại Thần thoại tiểu thuyết thì dựa vào tiêu chuẩn nội dung để xác lập, loại Truyền kỳ tiểu thuyết thì theo tiêu chuẩn hình thức (văn ngôn đoản thiên, tương tự Đường nhân tiểu thuyết) để xác lập, loại Lịch sử diễn nghĩa thì lại căn cứ vào tiêu chuẩn nội dung (lịch sử) và hình thức (diễn nghĩa) để xác lập. Như vậy thế tất gây ra sự hỗn loạn về thể lệ phân loại, giữa các loại với nhau trùng lặp hoặc không nối tiếp nhau. Làm thế nào để loại bỏ sự hỗn loạn ở đây? Biện pháp nhanh gọn nhất là thống nhất dựa vào tiêu chuẩn hình thức để phân loại. Bởi vì, cái gọi là “thể tài” vốn chỉ hình thức. Nếu vậy thì, Lịch sử diễn nghĩa với tư cách là loại tiểu thuyết nên gọi là Tiểu thuyết chương hồi. Trong bài Lịch sử diễn nghĩa và đặc sắc của nó trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam(1) Trịnh A Tài đã sử dụng cách gọi “Trường thiên chương hồi tiểu thuyết” để chỉ những mẫu mực của Lịch sử diễn nghĩa kiểu như Tam Quốc diễn nghĩa, điều này phản ánh tình hình “chương hồi”, “diễn nghĩa” khớp nhau, và cũng có nghĩa là đặc điểm của Lịch sử diễn nghĩa chính là ở chỗ chia đoạn bằng chương hồi. Nghiệm thấy điều đó trong thực tế là: hình thức mà Hoàng Việt xuân thu, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí đã sử dụng chính là thể chương hồi; Việt Nam khai quốc chí truyện tuy chưa phân định mục chương hồi một cách rõ ràng, nhưng phần đầu quyển có bài thơ mở đầu, lời văn có những công thức như “trở lại nói”, “lại nói”, “vả nói” v.v, cuối quyển thường thấy một loại gợi ý liên quan đến chương hồi như “Chưa biết thực hư ra sao, hãy nghe hồi sau phân giải”, hay “ Chưa biết việc sau thế nào, hãy nghe hồi sau phân giải”. Điều này nói lên rằng, “Lịch sử diễn nghĩa” của Việt Nam có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc.

Theo tiêu chuẩn này, trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam nên đưa thêm vào đó các tác phẩm Đào hoa mộng ký, Nam Thành du dật toàn truyện. Đào hoa mộng ký còn có các tên khác như Lan Nương tiểu thuyện, Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh, là tiểu thuyết tình yêu bằng chữ Hán gồm 20 hồi, nay còn 2 hồi. Nam Thành du dật toàn truyện cũng là tiểu thuyết chương hồi tình yêu bằng chữ Hán, nay chỉ còn 4 hồi. Sự tồn tại của hai tiểu thuyết “tình duyên” này chứng minh thêm Lịch sử diễn nghĩa là một tên gọi tiểu thuyết rất hẹp, chỉ có gọi nó là Tiểu thuyết chương hồi mới có thể tránh được bỏ sót những tác phẩm tiểu thuyết kể trên.

Ngoài việc tiêu chuẩn phân loại không thống nhất, Tùng san còn một vấn đề nữa là chưa giữ vững được tiêu chuẩn hợp lý. Chẳng hạn, Truyền kỳ tiểu thuyết, theo định nghĩa của Trần Khánh Hạo và Trịnh A Tài thì đó là “Văn ngôn đoản thiên”, cũng tức là “Văn ngôn tiểu thuyết” chịu ảnh hưởng của truyện chí quái thời Lục Triều và truyện truyền kỳ đời Đường Trung Quốc(2). Nếu không câu nệ hai chữ “văn ngôn” thì định nghĩa này về cơ bản có thể ổn. Qua các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích, thấy rằng, “truyền kỳ” là tên gọi của một thể văn, được các tác gia Việt Nam thừa nhận. Đặc điểm của nó là thường ghi chép những việc kỳ dị, nhiều thành phần hư cấu, thường chép nhiều thiên truyện thành tập, khuôn khổ mỗi thiên không dài nhưng kết cấu hoàn chỉnh, miêu tả uyển chuyển gẫy gọn. Song tiểu thuyết Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn này lại còn xa mới là những thiên chương mà Tùng san góp nhặt. Chẳng hạn, trong cổ tịch chữ Hán Việt Nam có Dị nhân lược chí là tập truyện truyền kỳ về nhân vật Việt Nam, có Dị nhân tạp lục là tập truyện truyền kỳ về nhân vật Trung Quốc, có Truyện ký trích lục chép 13 câu chuyện truyền kỳ, có Việt Tuấn giai đàm tiền biên chép 44 câu chuyện Việt Nam cổ xưa, có Lan Trì kiến văn lục chép 45 câu chuyện kỳ dị. Những tác phẩm này chưa thấy chép trong Tùng san, nhưng chúng lại cần được quy vào phạm trù “Truyền kỳ tiểu thuyết” một cách hợp lý.

Có giữ vững được tiêu chuẩn hợp lý hay không, vấn đề then chốt là ở chỗ từ bản chất, tức là từ nguồn gốc lịch sử để nhận thức lý do chúng phải có chỗ đứng. Điểm này ở những người biên soạn Tùng san chưa thật rõ ràng. Chẳng hạn, trong Tùng san có loại Bút ký tiểu thuyết, giới hạn được định ra hiện nay là lấy sự tích nhân vật làm cốt truyện, giới hạn này vị tất phù hợp với Tiểu thuyết bút ký trong lịch sử. Lịch sử tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc chứng tỏ rằng, sự phân biệt giữa Truyền kỳ với Tiểu thuyết bút ký là Truyền kỳ chú trọng văn vẻ, nhiều hư cấu; còn Tiểu thuyết bút ký thì mực thước, ngắn gọn, chép chân thực. Do đó, Kiến văn lục “phàm chuyện lạ thì chép”(3), tập truyện truyền thuyết dân gian Đại Nam hiển ứng truyện “không hoàn toàn khớp với sự thực lịch sử nhưng rất thú vị(4) đều nên xếp vào tác phẩm truyền kỳ chứ không phải là tác phẩm bút ký. Tùng san đã quy chúng vào “Bút ký tiểu thuyết loại”, rất khó nói là hợp lý.

Ngoài ra, Tùng san dung nạp “Thần thoại tiểu thuyết loại”, loại tác phẩm này, về mặt thể tài cũng nên xếp vào truyền kỳ. Bởi vì, nhìn nhận từ các tên sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, những tác phẩm này đều được biên chép theo tôn chỉ truyền kỳ ký dị như thế; xét về nội dung thì cũng nhiều hư cấu và nhiều thiên truyện góp phần thành tập kiểu như thế. Thần linh được chép trong đó, như “Lịch đại đế vương”, “Lịch đại nhân thần” v.v. chẳng khác gì Thành hoàng, Thổ địa, Quan thánh đế quân, Kim Sơn đại vương của Trung Quốc, thuộc về thần dân tục, chứ không phải là vị thần mà thần thoại học gọi đó là một phương thức tư duy hay coi đó là một cách giải thích nguồn gốc thế giới. Phán đoán này của chúng tôi có cơ sở vững chắc. Vũ Quỳnh coi tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của mình là “sử trong truyện”, và cho rằng trong đó Hồng Bàng thị truyện “là giải thích rõ nguyên do nước Việt mở nền”, Dạ soa vương truyện “tóm lược sự manh nha của Chiêm Thành”, Bạch trĩ truyện “chép về họ Việt Thường”, Kim Quy truyện “viết về An Dương Vương; tóm lại “hệt như Lưu thần ký đời Tấn, U quái lục đời Đường” (5). Điều này nói lên rằng, Lĩnh Nam chích quái đã kế thừa truyền thống tiểu thuyết chí quái và truyền kỳ Trung Quốc. Trên đây bàn đến mối quan hệ giữa các sách Tân truyền kỳ lục, Truyền kỳ mạn lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, Thính văn dị lục, Thiên Nam truyện ký, sở dĩ chúng có quan hệ với nhau bởi chúng cùng thuộc loại Truyền kỳ. Tóm lại, chúng ta không có lý do để nói rằng trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam tồn tại một loại riêng là “Thần thoại truyền thuyết”. Những tập truyện thần linh mà Tùng san không thu nạp, như Thần quái hiển linh lục (chép 42 truyện thần dị), Trần triều hiển thánh linh tích (gồm những câu chuyện thần dị), Hưng Yên tỉnh danh tích lược biên (biên chép 14 thiên truyện thần dị, Đông Hải đại vương, Phạm đại vương, Đế Thích, Chử Đồng Tử v.v.) nên quy về truyền kỳ.

Trên đây đã nói, đại để là vấn đề tiêu chuẩn thu nạp của Tùng san. Ngoài ra, trong quá trình thao tác thực tế Tùng san còn một vấn đề nữa là, có thực hiện được phương châm “nghiên cứu chỉnh thể” hay không.

Chẳng hạn, trước khi biên chép Việt Nam Hán văn tiểu thuyết, đã thẩm định một cách toàn diện cổ tịch chữ Hán Việt Nam hiện còn hay chưa? Nếu thực hiện được phương châm nghiên cứu chỉnh thể này, thì e rằng có thể tránh bỏ sót mấy điểm dưới đây, nhưng tình hình thực tế dường như lại trái ngược.

Thứ nhất, trong cổ tịch Việt Nam có hàng loạt câu chuyện thần linh mà tính chất của chúng gần như Việt điện u linh tập, lại vắng bóng trong Tùng san. Ở trên đã đưa một bộ phận những chuyện thần linh quy về “truyền kỳ” nhưng đáng chú ý là, các văn bản nguồn mà những câu chuyện này dựa vào, không chỉ có “truyền kỳ” với tư cách là thể tài văn học, mà còn có cả “thần tích” với tư cách là thể tài sử học nữa. Theo lời tựa của tác giả Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập vốn được biên chép để ca ngợi các vị thần được thờ trong các đền miếu, tính chất của nó là hội biên truyền kỳ về các vị thần. Điều đó có nghĩa là, hàng trăm sách ngọc phả, thần tích, số lớn trong đó phải xếp vào tiểu thuyết, vì chúng cũng vậy, là những truyện thần được biên chép để ca ngợi những vị thần được thờ nơi đền miếu.

Thứ hai, trong cổ tịch Việt Nam lại có một loại tác phẩm thể truyện ký mà tính chất của chúng gần với Khoa bảng tiêu kỳ nhưng chưa có mặt ở Tùng san. Số tác phẩm này với truyền kỳ có chỗ giống nhau là khuôn khổ thiên truyện ngắn gọn, chúng khác nhau ở chỗ truyền kỳ là truyện ký nhiều thành phần hư cấu, song chúng đều là truyện ký tả thực. Nếu theo phương thức xử lý của Tùng san đối với Khoa bảng tiêu kỳ, thì những tác phẩm này có lý do góp vào “bút ký tiểu thuyết”. Quyển 1 của Khoa bảng tiêu kỳĐăng khoa viên số khảo, quyển 2 là Quốc triều Trạng nguyên khảo... tính chất thể tài hiển nhiên là gần với Liệt huyện đăng khoa khảo của cùng một tác giả Phan Huy Ôn. Dựa vào đó loại suy, cổ tịch chữ Hán Việt Nam Lịch đại đăng khoa lục, Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục, Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa lục, Sơn Tây đăng khoa khảo, Lịch triều đăng khoa bị khảo, Tam khôi bị lục, Đại Việt đỉnh nguyên Phật lục (tiểu truyện và truyền thuyết 46 Trạng nguyên Việt Nam) v.v. cũng có thể xem xét xếp vào tiểu thuyết.

Thứ ba, trong cổ tịch Việt Nam còn có khá nhiều thư tịch mà tính chất thể tài gần giống với Thiên Nam trung nghĩa thực lục, Lê triều tiết nghĩa lục, Nam quốc vĩ nhân truyện, Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện cũng chưa có ở Tùng san. Những thư tịch này chép tiểu truyện hoặc lý lịch giản lược của nhân vật, chúng có nguồn gốc từ truyện ký trong những sách thuộc Sử bộ của Trung Quốc. Trong đó có Thiền uyển tập chép “sự tích các tông phái Thiền học” các đời, Danh thần lục chép “sự trạng các bậc danh thần các đời”, Nam Minh thần lục chép “sự tích thiền tăng các đời của nước ta khá rõ”(6). Chuyết thập tạp ký chép 30 thiên truyện ký về các nhà thơ thời xưa v.v., tính chất thể tài của chúng khá rõ, có thể xếp vào Tiểu thuyết bút ký. Ngoài ra còn có Thoái thực ký văn (còn gọi là Công hạ ký văn), Dã sử (còn gọi là Liệt truyện), Hồng Lạc lưu anh lục (còn gọi là Danh thần truyện), Quốc triều Trung Hưng hiển trung chư thần (còn gọi là Lê mạt tuẫn tiết truyện), Danh hiền lục, Danh thần danh Nho truyện ký, Hậu Lê dã lục, Lão song thô lục, Lịch đại danh thần thực lục, Lê mạt tuẫn tiết chư thần tính danh sự trạng, Lê triều công thần liệt truyệt, Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện, Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện, Nguyễn triều liệt truyện, Trần Lê ngoại truyện v.v. Cứ như tên sách thì đó cũng là những trước tác truyện ký “lấy sự tích nhân vật làm cốt truyện”. Trong khi kê cứu tư liệu tiểu thuyết bút ký, cần phải cân nhắc những tác phẩm này, vì chúng chí ít đã cấu thành bối cảnh phát triển tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

Thứ tư, trong cổ tịch Việt Nam có nhiều tác phẩm thuộc loại truyện kể mà tính chất của nó gần với Việt Nam kỳ phùng sự lục cũng chưa thấy ở Tùng san. Những tác phẩm này thường lấy một nhân vật, một thời đại làm đơn nguyên tự thuật, từng thiên truyện dài hơn Truyền kỳ và Tiểu thuyết bút ký, loại này ở Việt Nam gọi là “truyện”. Việt Nam kỳ phùng sự lục ở tập 1 Tùng san và Thúy Kiều lục, Thục An Dương Vương sự tích, Thục An Dương Vương triều công thần nhất vị Đại vương phả lục, Trạch Hải Đại vương sự tích, Trương tôn thần sự tích, Vân Cát nữ thần cổ lục, Vân Cát nữ thần truyện v.v. Ở tập 3 Tùng san đều thuộc loại này. Nhưng phần lớn những tác phẩm này chưa đưa vào Tùng san, trong đó bao gồm cả Thần tích, Ngọc phả như trên đã nói, mà còn bao hàm cả các thư tịch sau đây: Trùng Tương tân lục kể chuyện Trùng Tương đầu thai thành Tư Mã ý, Sài Sơn thực lục kể chuyện nhà sư Từ Đạo Hạnh sáng lập chùa Sài Sơn, Vũ dù thị tiên sư di sự khảo kể về cuộc đời ly kỳ của Bùi Quốc Khái - người sáng lập làng nghề làm ô dù, Tứ vị thánh bà sự tích văn kể quá trình bốn người phụ nữ Trung Quốc gặp nạn ngoài biển được người Việt Nam cứu giúp, Điểu thám kỳ án kể về một người biết tiếng chim đã sai khiến loài chim ăn đêm như thế nào để giúp phá án, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai tân truyện kể Lưu Thần Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào cõi tiên và trải qua cuộc bể dâu ở trần gian, Từ Thức tân truyện kể Từ Thức gặp tiên nữ rồi yêu nhau lấy nhau, Nguyễn Đạt Nguyễn Linh tân truyện kể hai anh em sinh đôi họ Nguyễn phẫn chí học hành, Nữ Tú tài tân truyện kể người con gái đời Tống giả trai để được học hành thi đỗ Tiến sĩ, Cổ quái bốc sư truyện kể chuyện người thầy bói kỳ cục xem bói cho viên quan cuối đời Lê Đỗ Thế Giai, La Tổ truyện kể La Tổ đi tu vì vợ đi lấy chồng khác. Xét từ đặc điểm thể tài, những tác phẩm này hiển nhiên phải thuộc về tiểu thuyết.

Thứ năm, trong cổ tịch Việt Nam còn có nhiều tác phẩm thể bút ký mà tính chất gần với Công dư tiệp ký, nhưng vẫn chưa thấy ở Tùng san. Chẳng hạn, Thượng hữu lược ký của Vũ Trừng Phủ với 66 trang sách đã chép 252 câu chuyện từ đời Hán đến đời Tống.

Năm mặt bỏ sót kể trên nói lên rằng Tùng san trước khi biên soạn chưa điều tra tư liệu một cách toàn diện. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng quan niệm chỉnh thể sẽ là một việc khó có thể đạt được một cách thực sự.

III. Về các loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam và nguồn gốc của nó.

Khảo sát, phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam là vấn đề nghiên cứu văn học, nói cho đúng hơn là vấn đề văn hiến học. Bởi vì, giới học thuật chưa có khái niệm tiểu thuyết xác định. Xét từ góc độ này, dù Tùng san biên góp thế nào đi nữa đều có thể đứng vững được. Có điều, nếu cân nhắc với một tiêu chuẩn cao, thì công tác văn hiến học phải có chức năng “biện bác học thuật, khảo rõ nguồn gốc”. Như vậy có nghĩa là bất cứ một loại Tùng san tư liệu nào cũng phải lấy truyền thống học thuật làm điểm xuất phát.

Cách nhìn nhận tiểu thuyết của giới nghiên cứu văn học Trung Quốc ngày nay, thường xuất phát từ hai truyền thống khác nhau. Một là, xuất phát từ sử học hoặc mục lục học cổ đại Trung Quốc, cho rằng tiểu thuyết là những “lời góp nhặt” bổ sung cho trước tác lịch sử quan phương, phạm vi của “tiểu thuyết” vì thế bao gồm “kể chuyện tạp nham”, “ghi chép sự lạ”, “góp nhặt lời vụn vặt”(7); hai là, xuất phát từ lý luận văn học châu Âu, ý nói văn học tự sự thể tản văn, cho rằng đặc trưng cơ bản của nó là “thông qua những tình tiết câu chuyện nhất định, miêu tả nghệ thuật cụ thể đối với quan hệ, số phận, tính cách, hành vi, tư tưởng, tình cảm trạng thái tâm lý và hoàn cảnh hoạt động của nhân vật(8). Cho dù tiêu chuẩn châu Âu phù hợp với sự phân ngành khoa học hiện đại, nhưng trong thực tiễn nghiên cứu, nó lại chưa thể hoàn toàn thay thế được tiêu chuẩn cổ điển của Trung Quốc. Bởi lẽ, một khi định ra giới hạn tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc thì sẽ cắt đứt nguồn gốc lịch sử của tiểu thuyết nghĩa hiệp (tiểu thuyết với tư cách là văn học tự sự thể tản văn), và khiến hàng loạt bút ký tiểu thuyết không có chỗ dựa về học thuật. Đó là sự thực cần phải xác định rõ khi nghiên cứu, chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Sự thực này có nghĩa là tiểu thuyết mà chúng ta phải đối mặt vừa có tiểu thuyết phù hợp với tiêu chuẩn châu Âu hoặc tiêu chuẩn hiện đại, lại vừa có tiểu thuyết phù hợp với quan niệm cổ đại Trung Quốc, còn có cả tiểu thuyết truyền thống tự sự gắn bó với bản địa Việt Nam. Chúng ta phải đứng chân trong tình hình thực tế cổ tịch chữ Hán Việt Nam để hoạch định phạm vi của tiểu thuyết.

Tham khảo khái niệm tiểu thuyết của Tùng san thường có nguồn gốc từ tiểu thuyết của Trung Quốc, lấy sự tích hoặc truyện ký nhân vật làm phần quan trọng để khảo sát, chúng tôi cho rằng tiểu thuyết cổ điển Việt Nam đại thể bao gồm các loại sau đây:

1. Tiểu thuyết chương hồi: theo cách nhìn hiện đại, đó là loại tiểu thuyết điển hình nhất trong cổ tịch chữ Hán. Đặc điểm của nó là thể tản văn bạch thoại, quy mô thiên truyện khá lớn, phân chia đoạn bằng chương hồi, chủ yếu miêu tả những sự kiện lịch sử điển hình. Với tư cách là lịch sử diễn nghĩa, Hoàng Việt xuân thu, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí là hình thức điển hình của loại này. Có điều đề tài của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam lại không chỉ giới hạn bởi lịch sử. Đào hoa mộng ký, Nam Thành du dật toàn truyện v.v. là tiểu thuyết tình yêu mà Tùng san không thu nạp, đại biểu cho một loại hình khác của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.

Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Giữa chúng có sự phân biệt ở chỗ, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc là thể tài do nghệ nhân “thuyết thư” (kể chuyện theo sách) chuyên nghiệp sáng tạo ra. Đến Việt Nam thì có sự phân hóa: một bộ phận tiếp tục giữ truyền thống thuyết xướng, bộ phận khác trở thành công cụ sáng tác của người trí thức. Sự phân hóa này tạo nên sự thay đổi về văn thể: Thứ nhất, tiểu thuyết chương hồi do người trí thức sáng tác thường viết cho người đọc (chứ không phải cho người nghe), cho nên ở Hoàng Lê nhất thống chí hồi 2, hồi 8 đoạn cuối, lẽ thường thì “hãy nghe hồi sau phân giải” được thay thế bởi “hãy xem hồi sau phân giải” v.v. Thứ hai, loại tiểu thuyết chương hồi này có tính chất ghi thực mạnh mẽ, bản thân tác giả thường là người trong cuộc, chẳng hạn ba tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đều từng tham dự sự kiện lịch sử có ghi trong sách. Học giả người Nga Ríp-tin cho rằng, tác giả tiểu thuyết Việt Nam không những dựa vào truyền thống Trung Quốc mà còn dựa vào truyền thống tản văn lịch sử bản địa (chẳng hạn: Lam Sơn thực lục mang tính chất văn hiến lịch sử)(9). Thứ ba, ngoài tiểu thuyết chương hồi chữ Hán bác học, thích hợp với việc xem, đọc, ở Việt Nam còn có hàng loạt tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Nôm, dùng vào việc thuyết giảng. Trong đó bao gồm diễn âm diễn nghĩa lịch sử bằng chữ Hán như Việt Nam khai quốc chí diễn âm và Đường chinh tây diễn truyện, cả tiểu thuyết trường thiên bằng chữ Nôm, như Sự tích ông trạng Lợn 19 hồi, Sự tích ông trạng Quỳnh 23 hồi. Ngoài ra, trong tiểu thuyết cổ Việt Nam còn có nhiều truyện thơ bằng chữ Nôm, chẳng hạn như Bích Câu kỳ ngộ 30 hồi, Phú bần truyện diễn ca 12 hồi, Đổng Thiên Vương tân truyện 12 hồi. Những truyện thơ này phần nhiều là thể lục bát, đậm màu sắc thuyết xướng, chúng hợp thành loại tiểu thuyết nội dung rất phong phú thuộc tiểu thuyết chương hồi.

2. Tiểu thuyết truyền kỳ: so với tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam có nguồn gốc sớm hơn, gốc gác từ chuyện chí quái, tiểu thuyết truyền kỳ thời kỳ trung cổ của Trung Quốc. Các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích v.v. đều phản ánh sự thừa nhận của các tác gia Việt Nam về nguồn gốc Trung Quốc ấy. Đặc điểm chủ yếu của chúng là nhiều thành phần hư cấu, quy mô từng thiên truyện không dài (thường góp nhiều thiên thành tập). Bao gồm những tập truyện kể dân gian mà Tùng san chưa thu nạp như Dị nhân lược chí, Dị nhân tạp lục, Truyện ký trích lục, Việt Tuấn giai đàm tiền biên, Lan Trì kiến văn lục v.v; và cả những tác phẩm mà Tùng san xếp vào bút ký tiểu thuyết, như Kiến văn lục, Thính văn dị lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Đại Nam hiển ứng truyện, kể cả những tác phẩm mà Tùng san xếp vào thần thoại truyền thuyết, như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Thiên Nam vân lục. Ngoài ra, một số tập truyện kể về thần linh mà Tùng san chưa thu nạp, chẳng hạn Thần quái hiển linh lục (chép 42 câu chuyện thần dị), Trần triều hiển thánh linh tích (tập truyện kể thần dị), Hưng Yên tỉnh danh tích lược biên (chép 14 câu chuyện thần dị về Đông Hải đại vương, Phạm đại vương, Đế Thích, Chử Đồng Tử v.v) cũng có thể quy về truyền kỳ.

Nhưng xét về góc độ hình thức thể tài, đại bộ phận truyện kể về thần linh Việt Nam lại không thuộc truyền kỳ, mà thuộc sự tích truyện dưới đây sẽ bàn đến. Sự phân biệt chủ yếu là ở kết cấu của chúng: truyện sự tích thường chép rõ đầu đuôi cốt chuyện, quy mô thiên truyện khá dài, cứ mỗi thiên thành một đoạn, chứ không như truyền kỳ thông thường chỉ viết trong một thiên ngắn. Chẳng hạn, Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca chính là diễn dịch Quan Âm chân kinh diễn nghĩa để ca ngợi Phật Quan Âm trong chùa, thể lục bát chữ Nôm, chia ra 29 đoạn;Trang Vương cầu tự, Bồ Tát tiền thân, Bồ Tát giáng sinh, Công chúa mộ Phật v.v., danh mục từng đoạn y hệt như Quan Âm chân kinh diễn nghĩa, nhưng văn thể khác nhau. Điều này nói lên rằng truyện sự tích có nguồn gốc văn hóa khác với truyền kỳ, cái mà nó dựa vào là truyền thống tự thuật (thần tích) một nghi thức bản địa Việt Nam.

3. Tiểu thuyết bút ký: đó là chính thống của tiểu thuyết trong con mắt của nhà mục học cổ đại Trung Quốc, lấy chép thực và ngắn gọn làm đặc trưng. Loại thể văn này hoặc ghi chép dị văn hoặc tự thuật dã sử, hoặc tạp khảo danh vật, chủng loại rất đa dạng; trong đó có nhân vật, có thiên chương tình tiết, được các nhà nghiên cứu ngày nay liệt vào phạm vi tiểu thuyết. Chịu ảnh hưởng của thư tịch Trung Quốc, trong cổ tịch chữ Hán Việt Nam cũng có thể loại này. Chẳng hạn, Thượng hữu lược ký của Vũ Trừng Phủ, Vân nang tiểu sử của Phạm Đình Dục, Mẫn Hiên thuyết loại của Cao Bá Quát, Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Nam Thiên trân dị tập của tác giả khuyết danh, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, đều có thể xếp vào tiểu thuyết bút ký. Tiểu thuyết bút ký này là một loại thể văn bác học.

Việc xác định tác phẩm tiểu thuyết bút ký liên quan đến một vấn đề khác là đối với truyện ký thì thế nào? Nếu nói truyện ký đoản thiên nhiều thành phần hư cấu thuộc truyền kỳ thì một bộ phận tương ứng trong bút ký tiểu thuyết là truyện ký đoản thiên tả thực. Việc xác định tiểu thuyết bút ký vì vậy cần phân biệt với loại truyện ký thuộc bộ Sử. Trong cổ tịch Việt Nam còn một loạt tác phẩm mà tính chất truyện ký của chúng tương đồng với Khoa bảng tiêu kỳ, Thiên Nam trung nghĩa thực lục, Nam quốc vĩ nhân truyện. Chỉ có từng bước so sánh nghiên cứu chúng mới có thể đưa ra được một thư mục tiểu thuyết hợp lý.

4. Truyện sự tích: truyện là thể văn thể tự sự có truyền thống bản địa Việt Nam. Nó thường lấy một nhân vật, một thời đại làm đơn nguyên tự thuật, nên cũng gọi là sự tích. So với tiểu thuyết truyền kỳ và bút ký, nó có quy mô dài hơn, miêu tả với ngôn ngữ thông tục hơn, giàu tính văn học hơn. Cho nên nó giống như truyện của Triều Tiên, vị trí của nó trong lịch sử phát triển tiểu thuyết tương đương với “thoại bản” hoặc thị nhân tiểu thuyết của Trung Quốc và cao hơn truyền kỳ10). Xét về số lượng, đây là thể tài quan trọng nhất trong tiểu thuyết cổ đại Việt Nam, bao gồm Việt Nam kỳ phùng sự lục, Thúy Kiều lục và nhiều tác phẩm đề là thần tích, thần phả.

Trên đây đã bàn đến một truyền thống văn hóa truyện kể thần linh trong tiểu thuyết loại truyền kỳ Việt Nam, nêu ra những tác phẩm chữ Hán thể truyện sự tích. Dẫu rằng số lượng tác phẩm lên đến hàng chục, nhưng thực ra không có nghĩa nội dung chủ yếu của thể truyện sự tích là truyện kể thần linh. Trái lại, trong thể tài này, chúng ta thấy nhiều truyện kể thế tục, chẳng hạn như ở trên đã nhắc đến Trùng Tương tân lục, Sài Sơn thực lục, Điểu thám kỳ án, Từ Thức tân truyện, La Tổ truyện v.v. Những tác phẩm này chứng tỏ một cách đầy đủ tính chất đặc trưng thị dân hóa của truyện sự tích.

Từ những đặc điểm đã nói ở trên của truyện sự tích, có thể biết được thể loại này dựa vào truyền thống sử truyện, có cả truyền thống văn học truyền miệng Việt Nam; chứ không như ba loại tiểu thuyết chương hồi, truyền kỳ, bút ký, chủ yếu di thực từ thư tịch chữ Hán. Vài lệ chứng sau đây sẽ giúp nói rõ vấn đề này. Thứ nhất, có một tác phẩm tiểu thuyết thể lục ngôn, kể câu chuyện Lưu Kinh vì lười biếng bị đày xuống địa ngục, sau được vợ tiên nhờ Phật cứu giúp, với nhan đề là Lưu Kinh truyện thoại bản. Đặc điểm của nó là dùng cái tên “thoại bản” để ngầm chỉ tác phẩm có nguồn gốc từ văn học truyền miệng. Thứ hai, thể thức chủ yếu của truyện sự tích Việt Nam thật ra không phải là tản văn mà là văn vần, rất phù hợp với nhu cầu dễ nhớ dễ đọc. Tiểu thuyết chữ Hán loại này có Hoài Nam ký (truyện thơ thể lục bát về tổ nhà Nguyễn) Đường Cao Đô hộ Bột Hải quận vương thi truyện (truyện thơ về Cao Biền đời Đường), Lý Công tân truyện (truyện thơ thể lục bát về Lý Công thời Tống), Thạch Sanh tân truyện (truyện Thạch Sanh thể lục bát), Tống Trân tân truyện (truyện Tống Trân, thể lục bát) v.v. Những tác phẩm này thường dùng thể thuyết xướng lục bát, niên đại muộn hơn truyện thơ chữ Nôm (trong đó tác phẩm ra đời khá sớm là Hoài Nam ký, do Hoàng Quang soạn năm 1777), hiển nhiên có nguồn gốc từ nghệ thuật thuyết xướng. Thứ ba, ngoài số truyện sự tích bằng chữ Hán, trong tiểu thuyết Việt Nam còn rất nhiều truyện sự tích viết bằng chữ Nôm, như Tiên phả dịch lục, Truyện ông đồ Ba Vẫy, Hán Sở tranh hùng truyện, Tiên hoa lục v.v. thường dịch Nôm hoặc diễn nghĩa tiểu thuyết chữ Hán (Hoa tiên lục dịch từ tiểu thuyết Hoa tiên truyện của Trung Quốc). Dịch Nôm có thể thỏa mãn được nhu cầu thuyết xướng, những tác phẩm Nôm này nói lên đặc điểm thế tục hóa của truyện sự tích song hành với đặc điểm khẩu ngữ hóa của chính nó. Thứ tư, điều quan trọng nhất, hình thức chủ yếu của truyện sự tích là hình thức truyện thơ Nôm giàu phong cách dân gian.

Gọi là “truyện thơ Nôm”, cũng chính là truyện sự tích dùng hình thức thể thơ Nôm, ở Việt Nam quen gọi “thơ quốc âm”. Loại này chủ yếu là thể lục bát, đề tài chính là tình duyên trai gái, hình thức lưu truyền thường là bản in, mỗi truyện trên dưới 100 trang. Những chuyện thơ Nôm phù hợp với những điều kiện này, có Bướm hoa tân truyện, Hoàng Tú tân truyện, Hữu Ké truyện, Hoa tiên nhuận chính, Phương Hoa tân truyện, Chúa Thao cổ truyện, Tuyển phu ngộ phối tân truyện, Ngọc Hoa cổ tích truyện, Bạch viên tân truyện v.v. Chúng phản ánh đặc điểm tiểu thuyết dân gian Việt Nam kể chuyện tình yêu bằng phương thức thuyết xướng. Số tác phẩm này chiếm tỷ lệ cao về ấn loát, chứng minh rằng truyện thơ Nôm là loại tiểu thuyết được quần chúng hoan nghênh. Một số truyện thơ Nôm khác, như Quả báo tân truyện, Lưu nữ tướng truyện, Chàng Chuối tân truyện, Trê cóc tân truyện, Trinh thử truyện, Lưu Bình Dương Lễ tân truyện, Đồng tiền truyện v.v., tuy không phải là đề tài tình yêu nữa, nhưng cũng dùng thể lục bát, cũng kể những chuyện thường ngày, cũng lưu truyền bằng hình thức bản in. Tính rộng rãi của việc lưu truyền nói lên trong tiểu thuyết Việt Nam có hai truyền thống văn hóa, truyện thơ Nôm đại biểu cho truyền thống dân gian đối lập với đề tài lớn của lịch sử diễn nghĩa, thần quái truyền kỳ.

Nhưng, xét từ một khía cạnh khác, truyện thơ Nôm vẫn là chung nhịp thở với tiểu thuyết Trung Quốc. Trong đó phần nhiều là các tác phẩm “diễn âm” hoặc “diễn truyện” tiểu thuyết Trung Quốc. Chẳng hạn Bình Sơn Lãnh Yến diễn âm, Hảo cầu tân truyện diễn âm. Lưu Nguyên Phổ truyện, Ngọc Kiều Lê tân truyện, Nhị Độ Mai diễn ca, Nhị Độ Mai truyện, Nhị Độ Mai tinh tuyển, Nhuận chính trung hiếu tiết nghĩa Nhị Độ Mai truyện, Phan Trần truyện, Phan Trần truyện trùng duyệt, Tái sinh duyên truyện, Chiêu Quân cống Hồ truyện, Tống chí truyện quyển bát, Tây du truyện, Phù dung tân truyện, Tỳ bà quốc âm truyện, Tỳ bà quốc âm tân truyện. Ngoài ra, còn có khá nhiều truyện thơ Nôm in tại Trung Quốc, chẳng hạn Bạch Viên thi tập, Lý Công tân truyện có bản in Quảng Đông. Điều này rất thú vị, chúng phản ánh lối đi và cung cách cơ bản của việc Việt Nam hóa văn học Trung Quốc (hoặc là văn học Việt Nam dung hợp văn học Trung Quốc) và cũng chứng tỏ tiểu thuyết của hai nước Trung - Việt có bối cảnh thể thơ chung. Chúng tôi chú ý đến truyện diễn âm đã nói ở phần trên chủ yếu diễn dịch những câu chuyện đời Tống; về cơ bản, chúng là những tác phẩm bác học có tên tác giả hẳn hoi, khác hẳn những truyện thơ Nôm không phải là diễn âm, truyện thơ Nôm không phải là diễn âm thường thường không ghi tên tác giả. Điều này chứng tỏ người trí thức cổ đại của Việt Nam đã dựa vào sự hiểu biết của mình về thoại bản đời Tống, chủ yếu bằng phương thức phiên dịch, đã tham dự vào công việc sáng tác truyện thơ Nôm. Nói cách khác, truyện thơ Nôm là sản phẩm kết hợp giữa hai truyền thống: một là thuyết xướng dân gian Việt Nam, hai là thoại bản Trung Quốc và tiểu thuyết đàn xướng bắt đầu thịnh hành từ đời Tống, truyền vào Việt Nam chủ yếu thông qua các tác gia Việt Nam. Khi nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, đối với loại tiểu thuyết bằng thơ này, dù là truyện thơ Hán hay truyện thơ Nôm, đương nhiên đều không nên xem nhẹ.

IV. Lời kết

Đứng về học thuật Trung Quốc thế kỷ XXI mà nói, cổ tịch chữ Hán Việt Nam tiêu biểu cho một ước vọng lớn lao. Nó giống như văn hiến Đôn Hoàng đầu thế kỷ XX, sẽ thở thành điểm tựa mới của nhiều ngành khoa học lịch sử cổ đại, văn học cổ đại, ngôn ngữ cổ đại, nghệ thuật cổ đại, lịch sử dân tộc Trung Quốc v.v. Trong bối cảnh đó, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết Tùng san đi đầu trong công việc khai phá đất hoang, đã cung cấp hàng loạt tư liệu cho nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán, và cũng đã đưa ra thể lệ làm việc có ý nghĩa làm mẫu. Cống hiến của nó đối với học thuật dù có đánh giá thế nào cũng không quá mức.

Dẫu sao, một công việc của giai đoạn khai sáng, bộ Tùng san cũng có chỗ chưa đạt tới hoàn thiện. ý tưởng “nghiên cứu chỉnh thể” của người biên soạn chưa được quán triệt trong thực tiễn. Trong sách, quy định giới hạn và phân loại đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam còn chưa rõ ràng, chuẩn xác. Nó thức tỉnh chúng ta rằng, chỉ có xây dựng được lý luận tiểu thuyết chính xác, điều tra tư liệu một cách toàn diện, đi sâu truy tìm nguồn gốc văn hóa các loại tiểu thuyết Việt Nam, mới có thể có được một thể lệ phân loại rõ ràng, hợp lý. Nói cách khác, chỉ có kết hợp công tác nghiên cứu chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam với công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam, Tùng san mới có thể trở thành bộ trước tác có đầy đủ tính tư liệu và tính khoa học.

Để đạt được mục đích nói trên, cần phải tập trung trí tuệ của nhiều người, thu nhận rộng rãi những ý kiến tốt. Cho nên, bài viết này trên cơ sở khảo sát những tư liệu liên quan, nêu ra kiến nghị chia bốn loại tiểu thuyết cổ đại Việt Nam, là tiểu thuyết bút ký, tiểu thuyết truyền kỳ, truyện sự tích, tiểu thuyết chương hồi, và ngược tìm nguồn gốc lịch sử văn hóa của những thể văn đó. Bài viết này cho rằng, bốn loại tiểu thuyết trên đây phải chăng ra đời theo thứ bậc, vị trí của chúng trong chặng đường lịch sử phát triển của tiểu thuyết, đại thể tương ứng với tiểu thuyết bút ký Trung Quốc từ Hán trở về sau, tiểu thuyết truyền kỳ từ Lục Triều trở về sau, tiểu thuyết thị dân từ Tống trở về sau, tiểu thuyết chương hồi thời Minh Thanh. Nói về bản chất, các tác phẩm tiểu thuyết đều là sự ghi chép chuyện kể truyền miệng; bởi vậy, bốn loại tiểu thuyết đó đều thể hiện khuynh hướng lưỡng phân, hoặc là sách vở hóa, hoặc là khẩu ngữ hóa. Trong đó rõ nhất là truyện sự tích và tiểu thuyết chương hồi. Trong truyện sự tích có một nhánh, quy mô rất lớn đó là “truyện thơ Nôm”; trong tiểu thuyết chương hồi xuất hiện sự tồn tại song song của hai truyền thống: đề tài lịch sử và đề tài sinh hoạt hàng ngày, chữ Hán và chữ Nôm là chính, tác phẩm của người trí thức có ghi tên tác giả và tác phẩm dân gian khuyết danh. Qua đó có thể thấy rằng nhị phân văn ngôn và bạch thoại trong tiểu thuyết Trung Quốc, ở Việt Nam nhường chỗ cho nhị phân chữ Hán và chữ Nôm. Điều này cũng có nghĩa là, dẫu rằng tiểu thuyết chữ Hán là đối tượng chỉnh lý nghiên cứu, chúng ta cũng không thể coi nhẹ sự tồn tại của tiểu thuyết chữ Nôm.

Nhưng những nhận thức kể trên của bài viết này vẫn là bước đầu. Bởi vì chúng tôi chủ yếu dựa vào Thư mục cổ tịch chữ Hán Việt Nam hiện còn(11), chưa được tận mắt đọc từng quyển sách cổ liên quan. Hơn nữa, ngoài bộ Thư mục này, chúng tôi chưa đặt vấn đề tìm hiểu các tư liệu khác.

Năm 1998, tôi từng đến Việt Nam khảo sát một thời gian ngắn. Ngoài vệc đọc những cổ tịch trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một vài nơi khác, tôi cũng chú ý sưu tập thêm được một số thư tịch chữ Hán còn tản mát ở dân gian. Trong những bản sao chép tay của tôi, có mấy tác phẩm tự sự nhiều thành phần hư cấu (...)(12).

Những văn hiến trên đây chứng tỏ điều gì ? Chứng tỏ, hãy còn nhiều sách vở chép tay lưu truyền trong dân gian Việt Nam, đòi hỏi người nghiên cứu chú ý sưu tập. Chứng tỏ, do ảnh hưởng của văn học thuyết xướng, các tác phẩm văn học chữ Hán Việt Nam thường giàu tính văn học, tất yếu phải dung nạp chúng vào tầm nhìn của người nghiên cứu văn học. Chứng tỏ, trong số sách đó còn một lượng khá nhiều thần tích, ngọc phả, chúng được dùng vào lễ nghi tế tự ở các làng xã, nguyên đó là những câu chuyện thần bí truyền miệng, muốn nhận thức được chúng thì phải vượt qua khái niệm văn bản chung. Chứng tỏ, những tác phẩm này trong quá trình thần hóa lịch sử làng xã, thường dùng yếu tố hư cấu để khoa trương sự thực đã xa xưa, bạch thoại xen văn ngôn, tạo nên một số phong cách và quy phạm khác với tiểu thuyết Trung Quốc. Đồng thời nó cũng chứng tỏ, những tác phẩm này có cách thức sáng tác riêng, tính chất thần dị của nhân vật trong truyện thường được thể hiện ngay từ lúc nhân vật ra đời. Cách thức này cũng có cả ở trong các tác phẩm thuộc loại truyện ký khác của Việt Nam. Do đó, nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam phải là nghiên cứu so sánh siêu thể văn.

Ngoài ra, số văn hiến này còn chứng tỏ rằng, người nghiên cứu phải tích luỹ vốn tri thức tốt. Chỉ khi nào có một kiến thức nhất định về tiếng Việt, mới có thể phân biệt chữ Hán với chữ Nôm, một cách chuẩn xác, ngắt câu chia đoạn đúng; chỉ có một tầm hiểu biết nào đó về sử học, mới có thể nhận ra tên người, tên đất, niên hiệu, trong tiểu thuyết Việt Nam, chỉ khi nào nắm vững được các tư liệu của mình nghiên cứu, mới có thể bắt đầu công việc trên một cơ sở chắc chắn. Hiện nay, các học giả Việt Nam đã có những lý giải khá hoàn chỉnh về công tác chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán của nước mình. Năm 1997, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã biên tập, xuất bản bộ Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập (Nhà xuất bản Thế giới), đã khảo đính văn hiến học một cách kỹ lưỡng được hàng chục thư tịch tiểu thuyết chữ Hán. Tiếp theo sau 3 tập Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, gần đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm lại biên soạn xong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, tập 4, cũng tức là tập “bổ di”, trong đó có khoảng 540 bản thần tích. Những thành quả này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu, chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán, đồng thời lại đặt ra yêu cầu cao với công việc. Trong tình hình như vậy, các nhà Việt Nam học của Trung Quốc cần có sự hiểu biết càng sâu càng tốt về văn hóa bản địa của Việt Nam. Điều đó có nghĩa là, chỉ có tôn trọng một cách đầy đủ phong cách đặc thù, thể tài đặc thù, chức năng đặc thù của văn học tự sự Việt Nam, chú ý sát sao tình hình và hoàn cảnh tồn tại của tác phẩm, công tác nghiên cứu chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam mới thành công.

V.T.T
Người dịch: Đinh Văn Minh

CHÚ THÍCH

(1) Trung hoa văn hóa dữ thế giới Hán văn học luận văn tập: Văn học ti lộ - Đài Bắc, Thế giới Hoa văn hiệp hội, 1998, tr.167.

(2) Sđd. Ở chú thích (1), tr.164.

(3) Xem lời tựa của Ngô Huyền Trai trong Kiến văn lục.

(4) Xem Đại Nam hiển ứng truyện - Xuất bản thuyết minh - trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san.

(5) Xem Đới Khả Lai, Dương bảo Quân hiệu điểm: Lĩnh Nam chích quái đẳng sử liệu tam chủng. Lĩnh Nam chích quái tự. Trung Châu Cổ Tịch xuất bản xã - năm 1991.

(6) Đoạn văn này dẫn ở Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí - Truyện ký (Giải đề trong bản sao chép tay hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Trung tâm KHXH và NVQG Việt Nam).

(7) Tứ khố toàn thư tổng mục - Tử bộ - Tiểu thuyết gia loại tự.

(8) Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - Trung Quốc văn học quyển - Tiểu thuyết - Trung Quốc đại bách khoa toàn thư xuất bản xã - 1986.

(9) Ríp tin: Hoàng Lê nhất thống chí dữ Viễn Đông chương hồi tiểu thuyết truyền thống - Bản dịch: Hán văn cổ tiểu thuyết luận cảo - Nxb. Cổ Tịch Giang Tô, 1992. tr.324.

(10) Ríp tin: Viễn Đông cổ điển tiểu thuyết - Bản dịch Hán văn cổ tiểu thuyết luận hành, Sđd. tr.172.

(11) Xem Trần Nghĩa chủ biên: Di ản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu in bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp, Hà Nội, 1993.

(12) Do khuôn khổ tạp chí có hạn, chúng tôi lược bớt đoạn giới thiệu về mấy tư liệu mới tác giả bài viết mới sưu tầm được - Tòa soạn TCHN.

TB

ĐỒNG KHÁNH ĐỊA DƯ CHÍ
QUÁ TRÌNH BIÊN SOẠN – LƯU TRUYỀN VÀ
GIÁ TRỊ HỌC THUẬT

NGÔ ĐỨC THỌ

· Thư tịch cổ cuối cùng về địa lý học của Việt Nam

Đồng Khánh địa dư chí (ĐKĐDC) là một hồ sơ quan trọng của triều Nguyễn, ngày nay đã trở thành một tác phẩm ở vào vị trí cuối cùng của di sản thư tịch cổ Việt Nam về địa lý học.

Sớm từ đời Lý nước ta đã có sách Nam Bắc phiên giới địa đồ ghi “hình thế núi sông phong vật” đời Lý Anh Tông, tiếc là từ lâu đã thất truyền. Vị trí mở đầu các tác phẩm địa lý học Việt Nam thực sự thuộc Dư địa chí của Nguyễn Trãi.

Đời Lê Thánh Tông có hai đợt lớn phân định địa giới, sửa đổi địa danh: năm Quang Thuận 10 (1469) chia cả nước làm 12 thừa tuyên, năm Hồng Đức 21 (1490) đổi chia làm 13 xứ thừa tuyên. Vua lệnh cho chánh sứ các thừa tuyên điều tra tại chỗ trong địa hạt, phàm các chỗ núi sông hiểm trở, sự tích xưa nay, vẽ thành bản đồ có ghi chú rõ, gửi lên bộ Hộ để làm địa đồ(2), tức là tập Thiên hạ bản đồ, bộ bản đồ đời Lê quan trọng nhất của nước ta. Dưới triều Mạc và triều Lê Trung hưng, tập bản đồ này là một trong hai bộ sách được quy định ở công đường từ cấp huyện trở lên bắt buộc phải có(3). Trong bộ Thiên nam dư hạ tập cũng có mục Thiên hạ bản đồ ghi địa danh đến tên các phủ huyện.

Đời Mạc, tuy không có loại sách dư địa chí toàn quốc, nhưng đặc biệt có cuốn Ô Châu cận lục của Dương Văn An cho ta một hệ thống địa danh đến tận cấp thôn xã đời Mạc của miền đất nay thuộc ba tỉnh Bình - Trị - Thiên và phủ Điện Bàn tức là tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Triều Lê Trung hưng, từ tháng 5-1593 quân Lê Trịnh thu phục Kinh đô Thăng Long, “những tên đất ở trong bản đồ chỗ nào đã bị họ Mạc thay đi đều đổi lại như cũ”(4). Nhưng phải đến năm 1677 nhà Mạc mới mất hẳn, vì vậy khá nhiều nơi sau đó vẫn còn theo khu vực hành chính và địa danh do nhà Mạc chia đặt. Vì lý do đó, đầu năm Bảo Thái 4 (1723) thời Lê Dụ Tông, nhân khi làm sổ hộ tịch đã thực hiện một đợt tổng điều chỉnh. Cương mục chép: lần điều chỉnh ấy: “Tùy theo hình thế từng địa phương đổi lại cho lệ thuộc vào 13 thừa tuyên theo như chế độ cũ đời Hồng Đức”(5). Như vậy hệ thống địa danh đời Lê Trung hưng từ 1723 về sau, trừ một ít ngoại lệ, nói chung đều lấy lại tên cũ đời Hồng Đức, chỉ những địa danh trùng với chữ hoặc âm tên húy của các vua Lê chúa Trịnh mới phải đổi. Phan Huy Chú cũng nói đến đợt sửa định địa danh năm này và ghi một tên sách là Tân định bản đồ(6), nhưng hiện nay không thấy tập bản đồ nào mang tên ấy mà chỉ còn truyền bản của tập Hồng Đức bản đồ(7) có nội dung như trên. Một số sách bản đồ khác cũng lấy bản đồ soạn định năm Hồng Đức 21 (1490) làm cơ sở để ghi thêm các địa danh thời Lê Trịnh, riêng về hai thừa tuyên Thuận Hóa, Quảng Nam có các địa danh đã thay đổi sau khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Sưu tập nói trên cũng chép một bản Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (tr.63-159) ghi núi sông và những địa danh quan trọng trên đường bộ từ Kinh đô Thăng Long đi các trấn ở Đàng Ngoài vào đến giáp Chiêm Thành, ở khoảng biển giữa cửa Chu ổ 朱 塢 海 門 và cửa Sa Kỳ 沙 淇 海 門 (thuộc phủ Quảng Ngãi) có vẽ những núi đảo nhô lên trên biển đề “Bãi Cát Vàng ” (chữ Nôm), tức là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Một tập sách riêng biệt khác: Thiên Nam lộ đồ, phần đầu là An Nam sơn xuyên hình thắng chi đồ ghi vẽ bản đồ các trấn (với các địa danh có thay đổi như đã nói trên) do Dương Nhữ Ngọc biên vẽ năm Cảnh Hưng 31 (1770), từ tờ 43 đến cuối là một bản Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ, cũng do Nho sinh họ Dương biên vẽ, hoàn thành sau đó một năm (1771): “ở vùng biển giữa hai cửa nói trên vẫn có vẽ các “núi” đảo nhô lên trên biển, tuy không đề chữ ngay cạnh, nhưng tầng giấy trắng bên trên có một đoạn nói khá kỹ về quần đảo này. Ở giữa biển có dãy cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài ước 400 dặm, rộng khoảng 20 dặm nhô cao giữa biển từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh, mỗi khi có gió Tây mà thuyền buôn các nước đi vào phía trong thì trôi dạt đến đây, gặp gió đông bắc mà đi ra phía ngoài cũng bị trôi dạt đến đây...”. Cuốn An Nam sơn xuyên hình thắng tổng lãm chi đồ, còn gọi là An Nam hình thắng đồ, cũng thuộc hệ bản đồ cuối Lê, đặc điểm chung đại thể như Thiên Nam tứ chí lộ đồ nhưng so sánh thấy có nhiều tư liệu rất có giá trị. Như về vùng lãnh hải đã nói trên thì bản đồ trong sách này ở ngoài khơi cửa Sa Kỳ, phía bên trái Cù lao Ré (Du Trường sơn) có ghi “Bãi Cát Vàng” v.v... Cuối Lê Trung hưng còn có cuốn An Nam vũ cống hay còn gọi là Lê triều cống pháp. Phương pháp của sách này là bắt đầu tái kê Dư địa chí của Nguyễn Trãi sau đó là phần chú giải và bổ sung (của Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Tông Khuê v.v...) Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là một bộ địa phương chí của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam có địa danh đến cấp xã thôn ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn. Cũng Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục còn chép khá kỹ về phong vực các xứ Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang. Các tác giả khác như Ngô Thì Nhậm có Hải Đông chí lược, Hoàng Bình Chính có Hưng Hóa xứ phong thổ lục v.v...

Đầu triều Nguyễn, Thượng thư Bộ Binh Lê Quang Định theo chỉ dụ của vua soạn xong bộ Hoàng Việt nhất thống địa dư chí năm Gia Long 5 (1806). Sau hơn 350 năm đất nước bị chia cắt, đây là bộ địa dư chí đầu tiên được biên soạn công phu và có nhiều đặc sắc về phương pháp: Phần Dịch lộ ghi các dịch trạm từ Kinh đô Huế vào Nam và từ Huế ra Thăng Long, qua mỗi trạm đều ghi núi sông, đặc điểm dân cư, phong tục, sản vật, cổ tích danh thắng v.v. Phần Thực lục cũng theo phương pháp như trên, nhưng ghi theo trục đường từ trấn lỵ tỏa đi các nơi.

Một số tác giả cuối Lê đầu Nguyễn như Phạm Đình Hổ có Kiền khôn nhất lãm, Đàm Nghĩa Am có Thiên tải nhàn đàm (1810) sưu tập nhiều bản đồ và tư liệu địa dư chí. Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Các trấn tổng xã danh bị lãm chép xã thôn của các trấn phía bắc Đèo Ngang đều biên soạn trong khoảng cuối đời Gia Long.

Đời Minh Mệnh có Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú là bộ sách địa lý đầu tiên được khắc in (1833). Bắc Thành địa dư chí lục có ghi tên thôn xã của 12 trấn thành, do Lê Chất soạn khi giữ chức Tổng trấn Bắc Thành, nhưng đến đầu đời Thiệu Trị bản thảo do Đông Khê Nguyễn Văn Lý bổ sung chỉnh lý mới hoàn thành (1845).

Dự định biên soạn một bộ địa dư chí quy mô lớn đã được nêu lên từ cuối đời Thiệu Trị, nhưng năm Tự Đức thứ 2 (1849) Sử quán Tổng tài Bùi Quỹ mới xin lấy tên sách là Đại Nam nhất thống chí(8) (ĐNNTC), và cũng phải hơn 10 năm sau mới xong một tập Đại Nam nhất thống dư đồ(9) gồm 76 bản đồ của 31 tỉnh và 45 phủ, phần nhiều còn rất sơ lược. Bài biểu dâng sách như sau:

“Ngày 20 tháng 10 năm Tự Đức thứ 14 (1861), bề tôi là Tổng tài và các Toản tu ở Sử quán phúc trình về việc kính vâng châu phê “giao cho Sử quán tra cứu xem Quảng Bình, Nghệ An và các địa phương khác tên xưa thế nào, phải cấp tốc làm tờ liệt kê trình lên để xem. Kính tuân: “Bọn thần vâng mệnh tra tìm trong sử cũ và các ghi chép trong dân (dã lục) [thấy nói] nước ta từ đời Hùng vương chia làm 15 bộ, sử sách khuyết lược, phần nhiều không đủ tin. Nhà Tần đặt Tượng quận, nhà Hán đặt ba quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ. Từ Quảng Bình về phía nam đến Bình Định là đất quận Nhật Nam, Nghệ An, Thanh Hóa là đất quận Cửu Chân, các tỉnh Bắc Kỳ là đất quận Giao Chỉ. Từ đó về sau Nam Bắc gộp chia diên cách ghi chép sơ sài thiếu sót không thống nhất, phần nhiều chỉ có tên mà không rõ là đất ở đâu. Nay xin đem những điều có thể khảo cứu được kính cẩn vâng làm tờ liệt kê như sau”.

Các tập Đại Nam toàn đồ(10), Bắc kỳ các tỉnh toàn đồ(11), Nam Bắc kỳ hội đồ(12) v.v... mà EFEO có bản sao chép đều có xuất xứ từ bộ lưu trữ bản đồ của Quốc sử quán đời Tự Đức (Đầu tập Bắc kỳ các tỉnh toàn đồ cũng có chép bài biểu dẫn trên của Sử Quán). Trong những tập này có những tư liệu địa danh, địa lý rất quý giá, như bản đồ toàn quốc trong Đại Nam toàn đồ đã hơi có hình cong chữ S, ở hải phận ngoài khơi từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Kỳ có vẽ quần đảo đề rõ “ Hoàng Sa  ” v.v... Thời gian dài nói trên có lẽ chỉ mới làm công việc chuẩn bị, trong đó có việc soạn thảo biên vẽ các bản đồ vừa kể. Đến năm thứ 18 (1865) Tự Đức mới chính thức sắc dụ cho Sử quán biên soạn ĐNNTC theo thể thức Nhất thống chí của nhà Thanh. Công trình khảo cứu địa danh lịch sử Đại Việt địa dư toàn biên 5 quyển của Nguyễn Văn Siêu soạn xong vào khoảng 1882. Cùng trong năm đó (Tự Đức 35) Sử Quán cũng soạn xong bản sơ thảo ĐNNTC. Nhưng Tự Đức xem xong tỏ ý chưa hài lòng, chưa cho khắc in. Đại Nam thực lục (ĐNTL) chép: “Bản thảo Đại Nam nhất thống chí soạn xong, quan Quốc sử quán tâu xin khắc in. Vua nói: “Cần làm thật kỹ rồi hãy khắc in để khỏi bị chê cười như sử cũ”. Lại thấy bản thảo này chép việc từ năm thứ 18 về trước, những địa phương chia đặt thay đổi từ đó về sau (như Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh từ năm thứ 18 về trước là đạo, sau đặt lại làm tỉnh, lại như các tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh các phủ huyện khi chia khi hợp) cùng là các trung thần nghĩa sĩ chưa kịp chép vào, vua bèn sai làm bổ biên, lấy năm thứ 34 làm hạn định (Bản bổ biên chưa kịp tiến trình thì xẩy ra sự việc năm Hàm Nghi thứ nhất, bản thảo nhân sự việc lộn xộn mà bị thất lạc)(13). Như vậy cho đến 1885 bản thảo ĐNNTC ghi các sự kiện đến năm Tự Đức 34 (1881) như lời phê của Tự Đức chưa chắc đã hoàn thành mà bản thảo cũng bị thất lạc, còn lại ở Sử quán chỉ là bản thảo năm 1865 mà thôi. Về sau Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) tại Hà Nội đã sao chép được bản này(14), tức là bản đã làm nguyên bản cho bản dịch của Viện Sử học xuất bản tại Hà Nội(15). Đó là bộ địa dư chí toàn quốc đầy đủ các tỉnh từ Cao Bằng đến Hà Tiên, trước khi Nam kỳ lục tỉnh bị thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa.

· Đồng Khánh địa dư chí: Bản chính và bản sao

Nguyên bản sách này sau khi hoàn thành dưới thời Đồng Khánh (1886-1887) vẫn được lưu giữ tại Nội các của triều đình Huế. Khoảng những năm đầu thế kỷ XX, EFEO tại Hà Nội được phép mượn bản đó để sao chép ra một bản đưa vào sưu tập thư tịch Hán Nôm của Viện này.

Khoảng năm 1933 các học giả Nhật Bản đã sớm biết đến bộ sách này qua bài của Matsumoto: Thư mục sách An Nam ở Viện Viễn đông Bác cổ đăng trên Tạp chí Sử học của Đại học Keio. Người phụ trách Toyo Bunko (Đông Dương văn khố) sau đó đã nhờ E.Gaspardone liên hệ xin EFEO giúp tổ chức sao chép cho một bản. Đến khoảng năm Chiêu Hòa 13 (1940) họ đã có một bản chép tay khá tốt(16), sao lại từ bản A.537 của EFEO, chỉ có phần các bản đồ hơi mờ mà sau đó Toyo Bunko lại phải cho người sang Hà Nội xin chụp thu nhỏ bằng phim ảnh. Tháng 7-1945, chỉ hơn một tháng trước khi chiến tranh kết thúc, bộ sách bản đồ Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí đồ (gồm 2 tập Thượng, Hạ) đã kịp xuất bản ở Tokyo(17).

Học giả Việt Nam chú ý sớm nhất và đầu tiên dùng tư liệu của ĐKĐDC có lẽ là Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên: Trong Địa lý hành chính Kinh Bắc(18), tác giả đã căn cứ theo ĐKĐDC để trình bày một lớp địa danh làng xã cuối triều Nguyễn của tỉnh Bắc Ninh, so sánh rất hiệu quả với danh sách làng xã trong Các trấn tổng xã danh bị lãm thuộc lớp địa danh đầu triều Nguyễn. Sau 1954, Hà Văn Tấn cũng dẫn dụng tư liệu ĐKĐDC trong khi chú thích Ức Trai dư địa chí. Tác giả đã giới thiệu bản dịch ĐNNTC(19) và các học giả Trần Văn Giáp(20), Trần Nghĩa(21) khi nói về thư tịch địa lý Việt Nam đều có nhắc đến ĐKĐDC, riêng về số quyển tập cả ba tác giả này đều ghi gồm 27 quyển, đó có thể do một sự tình cờ nào đó mà bị nhầm, vì thực sự thì cả bộ sách gồm 25 tập(22) vẫn có đầy đủ từ trước đến nay như đã được ghi đúng trong Thư mục Hán Nôm bản in Rônêô năm 1972.

Sau 1945 nguyên bản ĐKĐDC vẫn còn trong văn khố của triều Nguyễn được bảo tồn tại Huế, từ 1961 đã được chuyển vào Đà Lạt do Nha văn khố chính quyền Sài Gòn quản lý. Trong số học giả nước ngoài đến đây đọc sách, Tiến sĩ R.B Smith (người Anh) đã viết bài giới thiệu nguồn tư liệu Hán Nôm triều Nguyễn mà ông đã đọc tại Đà Lạt (1969), trong đó cho biết sách này phần chính văn chữ Hán để riêng và phần các bản đồ để riêng(23). Qua điều mô tả khá rõ ràng đó có thể xác định bộ sách tại Đà Lạt mà R.B. Smith đã đọc chính là nguyên bản ĐKĐDC của Nội các Huế đã được chuyển vào đây. Tiếc là từ đó về sau chúng tôi không có thông tin nào khác về bản nguyên cảo này.

Bản sao của EFEO (tức là bản vẫn mang ký hiệu A.537 ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay) là một bộ sách chữ Hán chép tay khá đồ sộ: tất cả gồm 25 tập (mỗi tập riêng một tỉnh), gồm 1.416 tờ, chép giấy lệnh hội loại tốt, mỗi tờ 2 trang, tổng cộng 2.832 trang (39 x 27cm), mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng khoảng 18-20 chữ, cùng một thứ chữ chân chép khá đẹp và cẩn thận. Đầu mỗi tập đều có 1 trang trình bày theo mẫu thống nhất:

“奏 冊... 省 蒞 臣 等 欽 遵 批 示 編 繪 圖 本 進 呈 Tấu sách. [...] tỉnh lị thần đẳng khâm tuân phê thị, biên hội đồ bản tiến trình” Nghĩa là: “Tỉnh thần [...] kính tuân lời phê biên vẽ bản đồ tiến trình”.

Tiếp sau là nội dung tập tâu, tức nội dung sách, có các mục như:

Tỉnh thành 省 城 (hoặc phủ, huyện thành 府 城, 縣 城) giới thiệu chung địa điểm đặt lỵ sở (tỉnh, phủ, huyện), vị trí của tỉnh (hoặc phủ, huyện), giáp giới những tỉnh huyện nào, khoảng cách đông tây, nam bắc cách nhau bao nhiêu dặm v.v... Danh sách các cấp hành chính trực thuộc (tỉnh: kê đến phủ, huyện; phủ: kê đến huyện, tổng; huyện: kê đến tổng, xã, thôn phường, giáp, trại, ấp, lý v.v...). Thành trì: địa điểm, cách xây dựng thành lũy, cổng thành, tường thành, các ụ súng, đài quan sát v.v... Binh 兵: số lính tuyển (giản binh 揀 兵), lính mộ (mộ binh 募 兵), lính tuần thành 巡 城 v.v... Dân 民: số dân đinh 民 丁. Điền 田: số ruộng đất. Thuế 稅: thuế cả năm nộp bằng tiền, thuế cả năm nộp bằng thóc, thuế biệt nạp: nộp bằng sản phẩm. Đền miếu (từ miếu 祠 廟). Phong tục 風 俗. Sản vật 產 物. Khí hậu 氣 候. Sông núi (sơn thủy 山 水). Danh thắng 名 勝. Đường đi (lộ trình 路 程). Đồn lũy 屯 壘 v.v...

Đại thể các mục như trên, nhưng cách trình bày trong từng tập cũng có ít nhiều chênh lệch, chẳng hạn thành tỉnh có tập đưa sang mục thành trì, số liệu về ruộng đất có tỉnh chỉ để chung tổng số cả ruộng và đất, có tỉnh tách riêng thành nhiều khoản: ruộng đất, ruộng muối v.v...

Mỗi tập, sau phần ghi chung toàn tỉnh có kèm theo bản đồ toàn tỉnh, sau phần ghi về từng phủ, huyện đều có bản đồ của phủ huyện ấy. Tất cả có 314 bản đồ (75 x 29cm) , vẽ trên lụa trắng, có lớp giấy bản dai dày đặt lót ở phía sau. Ngoài màu mực đen, màu lụa trắng, các bản đồ đều có dùng thêm các 5 màu: màu đỏ để vẽ đường đi, màu xanh nước biển để vẽ biển, màu xanh nhạt để vẽ sông ngòi, màu xanh lá cây để tô các dãy núi, màu nâu nhạt để vẽ các bức thành và màu cỏ úa để phân biệt các vùng đất ngoài địa hạt. Tất cả bản đồ đều ghi bằng chữ Hán (hoặc chữ Nôm theo nguyên văn). Việc sao chép bản đồ được biết do một chuyên viên của Nha địa chính Đông Dương (Service Géographique de l' Indochine) dùng phương pháp thấu tả để thực hiện(24).

Như đã thể hiện trên bản sao, các tập đều giữ nguyên ở dạng một tập “tâu” để vua ngự lãm, không có phần gắn kết cả bộ sách thường thấy như các chỉ dụ, biểu dâng sách, tựa, dẫn, phàm lệ v.v... Chỉ riêng trường hợp bản Mục lục đầu mỗi tập có ghi số tờ để dễ dùng cho người đọc là phần làm thêm khi sao chép, dưới có ghi “Nguyên bản vô hữu / ở nguyên bản không có”. Về tên sách thì nguyên các tập tâu đều không đề, sau khi sao chép xong người sao chép dùng son đỏ viết chữ to đề thêm tên sách: Đồng Khánh sắc chế ngự lãm 同 慶 敕 製 御 覽. Có 21 tập đề với 6 chữ như vậy, 2 tập đề Đồng Khánh ngự lãm sắc chế (Nghệ An, Quảng Bình) và 2 tập đề Đồng Khánh ngự lãm (Thanh Hóa, Thừa Thiên).

Tuy tên sách đề như vậy, nhưng vấn đề trở nên phức tạp vì ĐNTL đã ghi đến các sự việc về triều Đồng Khánh, không thấy chỗ nào trực tiếp nói về việc này. Nhưng hiển nhiên trước mắt chúng ta là cả một công trình dư địa chí đồ sộ mà cả về nội dung và phương pháp biên soạn đều khác hẳn so với ĐNNTC (1862) mà chúng ta đã biết.

Để tìm hiểu sự ra đời của ĐKĐDC chúng tôi phải nghĩ đến bối cảnh đương thời thật là lúc tai ách quốc phá gia vong. Bản thân Đồng Khánh (Nguyễn Phúc Ưng Xụy) được làm vua là do sự chọn lựa của người Pháp và Nguyễn Hữu Độ. Khi Đồng Khánh lên ngôi, không những Nam kỳ lục tỉnh đã mất hẳn về tay Pháp mà gần như ngay sau khi Tự Đức chết, Hiệp ước Harmand (25-8-1883) thực chất đã áp đặt sự thống trị của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tuy về danh nghĩa thì chỉ Nam kỳ làm thuộc địa của Pháp, còn Trung kỳ và Bắc kỳ theo chế độ bảo hộ, vẫn thuộc Nam triều. Nhưng Nam kỳ trong hiệp ước này được quy định không chỉ là Nam kỳ lục tỉnh như hồi trước mà gồm cả đến Bình Thuận, còn Trung kỳ thì chỉ tính từ Khánh Hòa đến Đèo Ngang mà thôi. Hiệp ước Patenôtre (6-6-1884) quy định triều đình Huế phải trao toàn bộ quyền ngoại giao cho Pháp, đổi lại Pháp trả lại Bình Thuận và ba tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh về Trung kỳ. Như vậy ở giai đoạn này "vương thổ" của triều Nguyễn chỉ còn lại từ Bình Thuận trở ra Bắc.

Một bộ sách địa lý Việt Nam do triều đình biên soạn hoàn thành vào thời điểm này tất chỉ có thể có 25 tỉnh từ Cao Bằng đến Bình Thuận như hiệp ước 1884 quy định. Tên bộ sách ấy phải gọi thế nào để phân biệt với bộ địa dư chí của nước Đại Nam ?

Khác với đời Tự Đức lãnh thổ của nước Đại Nam có đủ 31 tỉnh từ Cao Bằng đến Hà Tiên, một bộ địa dư chí soạn ra khi chủ quyền của triều Đồng Khánh chỉ còn 25 tỉnh thì không thể không nói rõ, và như ta đã thấy: niên hiệu Đồng Khánh đặt ở ngay đầu tên sách có thể coi là cần thiết để nói rõ nội dung sách.

Về hai chữ “sắc chế” (sai làm): ĐNTL kỷ Đồng Khánh chỉ ghi một sự kiện liên quan đến biên soạn sách vở như sau:

大 南 疆 界 書 成 (凡 七 卷 並 圖 一 幅). 准 董 理 黃 有 稱 實 受 吏 部 侍 郎 銜 署 左 參 知 (原 光 祿 寺 卿 領), 隋 派 人 等 各 加 賞 (陞 秩 紀 錄 錢 文) 有 差. 尋 准 有 稱 充 國 史 館 纂 修.

Đại Nam cương giới thư thành (phàm thất quyển tịnh đồ nhất bức). Chuẩn Đổng lý Hoàng Hữu Xứng thực thụ Lại bộ Thị lang hàm, thự Tham tri (nguyên Quang lộc tự khanh lĩnh), tùy phái nhân đẳng các gia thưởng (thăng trật kỷ lục tiền văn) hữu sai. Tầm chuẩn Hữu Xứng sung Quốc sử quán toản tu.

Dịch: Sách Đại Nam cương giới soạn xong (gồm 7 quyển và 1 bức địa đồ). Chuẩn cho Đổng lý Hoàng Hữu Xứng được thực thụ hàm Lại bộ Thị lang, chính thức giữ chức Tả tham tri, những người giúp làm đều được ban thưởng (thăng trật, ghi công và thưởng tiền) có khác nhau. Sau chuẩn cho Hữu Xứng sung chức Toản tu ở Quốc sử quán.(25)

Qua đoạn ghi này chúng ta biết năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), Hoàng Hữu Xứng soạn xong bộ sách Đại Nam cương giới (ĐNCG) (tên đầy đủ là Đại Nam cương giới vựng biên). Vua Đồng Khánh biết việc ấy và đã khen thưởng Hoàng Hữu Xứng và những người cộng tác như đã ghi trên. Sau đó Hoàng Hữu Xứng được sung chức Toản tu Quốc sử quán. ĐNCG là một tập khảo cứu địa lý học và tác giả của nó là Hoàng Hữu Xứng được sung chức Toản tu ở Sử quán có thể hiểu là để làm việc cho bản thảo địa dư chí, nhưng trực tiếp thì điều ấy không chép trong đoạn trích trên đây.

Việc một vị hoàng đế ra lệnh cho triều thần soạn sách địa dư chí chẳng những không lạ mà còn rất thích hợp với ngôi báu của mình, như chúng ta đã biết vua Tự Đức mấy lần xuống dụ về việc này. Nhưng chúng tôi đã phải nghĩ rằng liệu một bộ địa dư chí đồ sộ như ĐKĐDC có thể bắt đầu làm và chỉ sau một hai năm đã soạn xong dể dâng vua ngự lãm hay không ?

Xét về nội dung, nếu so sánh ĐNNTC với ĐKĐDC chúng ta thấy có những đặc điểm chính sau dây:

1- ĐNNTC là một bộ địa dư chí lấy cấp tỉnh làm cơ sở: Các mục nhỏ như địa giới, hình thế, khí hậu, thành trì, trường học, số hộ khẩu, thuế ruộng đất, sông núi thổ sản, khí hậu v.v... đều viết chung về cả tỉnh. Các phủ huyện chỉ được ghi trong mục kiến trí diên cách, cho biết từng tỉnh có bao nhiêu phủ, huyện, thay đổi địa lý của các phủ huyện ấy qua các đời.

Trong khi đó, ĐKĐDC là bộ địa dư chí lấy đến cấp huyện làm cơ sở biên soạn. Mỗi phủ, huyện đều là tiêu đề của một chương mục riêng. Bộ sách do đó phải trình bày tỉ mỉ về các phủ huyện: địa giới, hình thế, thành trì, binh, dân, thuế, đền miếu, phong tục, sản vật, khí hậu, sông núi, đường đi v.v... Điều này rất quan trọng, quyết định tính chất và phương pháp biên soạn của bộ sách.

2. ĐNNTC tuy có một ít tư liệu điều tra, thống kê (số làng xã trong từng huyện, số hộ khẩu, ruộng đất v.v...), nhưng chủ yếu và sở trường là thiên về nội dung khảo cứu lịch sử, các mục như địa danh diên cách của các phủ huyện, tiểu sử các nhân vật lịch sử, đền miếu chùa quán v.v...

Trong khi đó, hầu như không đi vào kê cứu lịch sử (mục đền miếu phần nhiều chỉ ghi tên, rất ít kèm theo sự tích, không có mục nhân vật, v.v...), ĐKĐDC lấy đương đại làm nội dung chính: vị trí, hình thế miêu tả kỹ hơn, thành tỉnh, phủ, huyện miêu tả có thể nói là tỉ mỉ; các mục nhân đinh, điền thổ có các số liệu chi tiết (có nơi ghi được trong từng huyện đinh số thuộc tráng hạng bao nhiêu, các hạng được miễn sai dịch bao nhiêu). Mục phong tục tập quán ở các tỉnh đồng bằng nhiều vùng có những nét tương đồng, nhưng các xã gần biển, gần núi đều thấy có những ghi chép riêng biệt, nhất là ở các địa phương miền núi có cả người kinh và các dân tộc thiểu số thì sự miêu tả phong tục tập quán khá cụ thể, chi tiết, thể hiện tính chất điều tra của các bản khai và tư liệu điều tra. Và nổi bật nhất trong các giá trị điều tra hiện tại là hệ thống địa danh xã thôn phường giáp trại đến cấp huyện thì đó là đặc điểm riêng biệt của ĐKĐDCĐNNTC không có.

Trở lại với điều ghi ở ĐNTL đã dẫn, chúng ta thấy Tự Đức yêu cầu làm bổ biên theo sát các sự kiện đến năm 1881, tức là đòi hỏi phải tăng tính đương đại của công trình. Vì không có tư liệu “nội bộ” nào có thể cho biết Sử quán đã thực hiện việc bổ biên như thế nào, chúng tôi chỉ thể nêu lên suy đoán như sau:

Để bộ sách đáp ứng được yêu cầu nói trên, Quốc sử quán đã phải vận dụng phương pháp điều tra, soạn ra một mẫu kê khai thực địa thống nhất, gửi cho quan chức đứng đầu các tỉnh. Các quan tỉnh lại tiếp chuyển các mẫu kê khai gửi cho các phủ huyện thực hiện và tập hợp tu chỉnh lại thành tập tâu gửi lên triều đình. Đó là phương pháp tập hợp điều tra thích hợp để thực hiện một bản thảo cần có sự tham gia của nhiều người như ĐKĐDC. Các quan đầu tỉnh, phủ, huyện dù không quen thạo việc khảo cứu cũng có thể dễ dàng kê rõ địa giới của tỉnh, phủ, huyện mình giáp giới những địa phương nào, tên các phủ huyện xã thôn trong địa phương v.v... Các tập tâu như vậy của các tỉnh lần lượt được gửi về Kinh, vào khoảng những năm cuối đời Tự Đức, Quốc sử quán đã có thể làm việc với những bản thảo đó. Tuy vậy từ khi gửi đi các bản mẫu và hướng dẫn, các huyện kê khai, phủ, tỉnh tổng hợp, đến khi có các bản tâu gửi về triều, trong tình hình giao thông liên lạc ngày xưa đòi hỏi phải có thời gian. Thời Đồng Khánh chỉ chưa đầy 2 năm rưỡi, nếu hiểu “Đồng Khánh sắc chế ngự lãm” nghĩa là sách ấy đã được vua Đồng Khánh sai làm và ngự lãm, thì trong 29 tháng ấy (nếu tính từ khi Hoàng Hữu Xứng được điều về Sử quán thì chỉ có hơn 8 tháng) không thể nào đủ thời gian để gửi đi gửi về và hoàn thành bản khai của các địa phương trong toàn quốc. Hơn nữa chúng ta biết rằng thời gian này phong trào Cần Vương rộ lên khắp nơi, Nam triều chỉ liên hệ được với rất ít địa phương. Vì những lý do đó, chúng tôi cho rằng tất cả các tập tâu này đều đã thực hiện trong những năm cuối đời Tự Đức, có thể tính từ năm 1882 khi Sử quán bắt đầu thực hiện lời phê làm bổ biên của Tự Đức. Quốc sử quán đời Đồng Khánh chỉ đủ thời gian để sửa chữa bổ sung những sai sót, thống nhất văn phong của 25 tập tâu, chỉnh lý sao chép bản đồ với những thay đổi dịa danh v.v... để dâng vua ngự lãm. Cần bổ sung một điểm nhỏ: bộ sách nói chung có thể coi là hoàn thành dưới thời Đồng Khánh, nhưng một số tập sau đó vẫn có một ít chỉnh lý nhỏ. Tập Hà Nội có tên thôn Hội Vũ 會 舞 (tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương): thôn này từ đời Đồng Khánh về trước là thôn Chiêu Hội 昭 會; năm đầu đời Thành Thái (1889) kiêng chữ Chiêu 昭 (tên húy vua Thành Thái Nguyễn Phúc Chiêu), đổi là Hội Vũ 會 舞. Tập Nghệ An có tên xã (và thôn) Quang Chiêm 光 瞻 (tổng Văn Lâm huyện La Sơn): từ đời Đồng Khánh về trước là xã (và thôn) Quang Chiêu 光 昭, đầu đời Thành Thái kiêng chữ Chiêu, đổi là thôn Quang Chiêm 光 瞻. Tập Hải Dương: đền Huệ Vũ vương đời Trần (xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh), Huệ Vũ vương tên là Quốc Chẩn 國 瑱, vì chữ Chẩn 瑱 có thiên bàng chữ Chân 真 là tên tiểu tự của vua Dục Đức (Ưng Chân 膺 真, cha vua Thành Thái) nên bản sao ĐKĐDC chép bớt nét phần trên chữ Chẩn瑱thành ra một chữ giống chữ Kỳ 琪, cho thấy nguyên bản tập Hải Dương đến đầu đời Thành Thái mới chép xong; tổng Chân Lại 真 賴 huyện Tứ Kỳ, phủ Ninh Giang do chữ Chân 真 đồng âm và là thiên bàng của chữ Chân 禛 nên phải viết bớt một nét ở góc chữ Chân:真 ®

Việc biên vẽ 314 bản đồ khổ lớn (so với đương thời) có thể củng cố thêm nhận xét: hơn hai năm dưới triều Đồng Khánh không thể vẽ được cả hệ thống bản đồ các tỉnh, phủ, huyện toàn quốc như ĐKĐDC đã có. Suy nghĩ đến những khó khăn phức tạp của việc vẽ bản đồ đến cấp huyện của cả 25 tỉnh, chúng tôi thiên về nhận xét cho rằng đó là thành quả đã tích luỹ từ lâu. Quá trình đó có thể từ 1861 khi làm xong Đại Nam nhất thống dư đồ, Quốc sử quán đã có 76 bản đồ đến cấp phủ, tuy rất thô sơ nhưng liên tục biên vẽ nâng cao, có đủ đến cấp huyện và tu chỉnh “cập nhật hóa” các địa danh vào cuối đời Tự Đức để cùng phần chính văn trình lên vua Đồng Khánh. Trong tình hình không chỉ riêng ĐKĐDC mà cả bộ bản đồ gốc của Quốc sử quán không còn thì cũng chưa đủ điều kiện để có những tìm hiểu chi tiết hơn.

Về tên người biên soạn, lẽ ra ở mỗi tập đều có thể mang tên của quan chức đầu tỉnh, nhưng vì trên nguyên bản tờ tâu chỉ đề “Tỉnh thần...”, không ghi rõ họ tên, mà các viên tổng đốc, tuần phủ các tỉnh khoảng thời gian này thường thay đổi luôn, có khi đến nhậm chức mới được vài tháng đã thuyên chuyển đi nơi khác. Hơn nữa từng tập không đề rõ ngày tháng làm xong nên cũng không có cơ sở để xác định tên soạn giả các tập tâu.

Còn về Hoàng Hữu Xứng, có thể là nhân vật chính đảm trách biên soạn ĐKĐDC, nhưng dù sao việc ấy cũng không chính thức được ghi trên văn bản, cho nên hợp lý vẫn là nên giữ như cách trình bày của văn bản, mà vai trò chính là tác giả tập thể Quốc sử quán triều Nguyễn (cuối đời Tự Đức và đời Đồng Khánh).

· Giá trị học thuật của ĐKĐDC

Mặc dầu trong Hán văn cổ, danh từ địa lý đã có rất sớm trong Chu Dịch (Ngưỡng dĩ quan vu thiên văn, phủ dĩ sát vu địa lý / Ngước lên xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý - Hệ từ )(26), nhưng phải đến đời Hán mới được Ban Cố dùng đặt tên cho thiên Địa lý chí trong Hán thư. Từ đó về sau sử các triều như Tấn thư, Đường thư, Tống sử v.v. đều có thiên địa lý chí. Từ đời Nguyên, Minh về sau các địa lý chí toàn quốc thường soạn thành sách riêng lấy tên là Nhất thống chí (Nguyên nhất thống chí, Minh nhất thống chí v.v).

Ở ta chưa rõ từ đời nào, môn “kham dư” 堪 輿 tức là thuật phong thủy (xem mạch đất tốt xấu để làm nhà, đặt mồ mả v.v.) cũng được gọi là địa lý. Có thể vì để phân biệt cho nên từ Dư địa chí của Nguyễn Trãi về sau các tác phẩm địa lý học nước ta hầu hết đều dùng từ dư địa chí (Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Bắc thành dư địa chí). Từ Phan Huy Chú (Hoàng Việt địa dư chí) về sau đổi gọi là địa dư chí với nội dung các từ dư địa, địa dư, địa lý dùng thông với nhau không khác biệt. Địa lý chí (dư địa chí, địa dư chí) về đại thể có thể coi là những tác phẩm địa lý học có tính tổng hợp bao gồm cả địa lý nhân văn và địa lý tự nhiên. Triều Nguyễn thường theo thể chế nhà Thanh, Tự Đức cho đặt tên sách là Đại Nam nhất thống chí và yêu cầu phải theo thể thức Nhất thống chí của nhà Thanh như trong dụ 1865 đã nói rõ. Thanh nhất thống chí do Hòa Khôn làm Tổng tài, vâng sắc soạn xong năm Càn Long 29 (1764), đầu tiên là Kinh sư, tiếp sau là các tỉnh, dưới mỗi tỉnh lại chia ra các mục phủ, huyện. Bộ ĐNNTC hoàn thành đầu đời Tự Đức cũng có cơ cấu như thế, nhưng mức độ biên soạn chỉ dừng ở cấp tỉnh, còn các phủ huyện thì không có mục riêng. Trong lần bổ sung chỉnh lý về sau, bộ sách do Quốc sử quán đời Đồng Khánh hoàn thành đã làm được việc đó: dưới cấp tỉnh, các phủ, huyện (châu) đều có các mục riêng với các tiểu mục tương ứng như ở phần chung toàn tỉnh. Đó là một bước tiến đáng kể trong phương pháp biên soạn của ĐKĐDC so với các sách địa dư chí từ ĐNTC trở về trước.

Sự đổi mới về phương pháp biên soạn đó, như ở trên đã dề cập, đòi hỏi phải có cả một “mạng lưới” người tham gia biên soạn ở các tỉnh, phủ, huyện, khiến cho tính chất tại chỗ của bộ sách tăng lên rõ rõ rệt. Chẳng hạn Thành tỉnh Hà Nội:

ĐNNTC chỉ ghi: “Chu vi 432 trượng linh, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, hào rộng trên dưới 4 trượng, mở 5 cửa” (A.69/2, tr.30). ĐKĐDC ghi chi tiết hơn nhiều với những số liệu khác hẳn: “Thành tỉnh ở địa phận huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức. Thân thành bốn mặt xây gạch, chiều dài tổng cộng 1.285 trượng 6 thước 6 tấc, cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng. Mở 5 cửa: chính Đông, chính Tây, chính Bắc, Đông Nam và Tây Nam. Mỗi cửa đều cao 1 trượng 3 thước, rộng 1 trượng; bên ngoài đều có thành dê ngựa(27): Thành dê ngựa ở cửa Đông Nam dài 60 trượng. Thành dê ngựa ở cửa Tây Nam dài 60 trượng. Thành dê ngựa ở cửa chính Đông dài 57 trượng 3 thước. Thành dê ngựa ở cửa chính Tây dài 60 trượng 3 thước. Thành dê ngựa ở cửa chính Bắc dài 65 trượng 5 thước. Những thành này đều cao 7 thước 5 tấc, rộng 2 trượng 7 thước. Mỗi thành mở 1 cửa hai lớp, rộng 1 trượng. Ngoài cửa có hào rộng 1 trượng. Ngoài cửa hào rộng hơn 8 trượng, hào bao quanh thành rộng 5 trượng, sâu 6 trượng”.

ĐKĐDC cho thấy thành Hà Nội đã mở rộng nhiều (chiều dài từ 432 trượng lên 1.285 trượng) và có nhiều cấu trúc phòng thủ (đắp thêm 5 thành dê ngựa ở 5 cửa thành, hào cũ rộng 4 trượng được đào rộng thêm 1 trượng v.v.). Tư liệu thành trì của ĐKĐDC là cụ thể và nhiều hơn các tài liệu khác cùng loại hẳn là cần thiết cho một công trình nghiên cứu về thành luỹ cổ của Việt Nam. Các số liệu khác về nhân số, binh lính, ruộng đất, thuế hàng năm (nộp bằng tiền, thóc, bạc hoặc bằng sản vật) v.v... đều được ghi chi tiết hơn và đều có thể dùng so sánh với ĐNNTC để thấy diễn biến từ đầu đời Tự Đức đến Đồng Khánh, trong đó có một số mục ở ĐNNTC lại có số liệu đầu đời Gia Long. Đối với những chuyên khảo liên quan, những số liệu ở cả ba giai đoạn như thế có khả năng cung cấp một thống kê tổng hợp về tình hình kinh tế xã hội của nước ta dưới triều Nguyễn. Mục sản vật, tuy phần nhiều cũng là những thổ sản quen thuộc, nhưng rải rác có ghi những nghề thủ công riêng ở một số làng xã, có thể cần thiết cho những nghiên cứu về các nghề thủ công truyền thống còn duy trì được đến thời này. Mục phong tục nói về người Kinh ở các địa phương vùng đồng bằng không hẳn mới, nhưng cũng giúp cho thấy các soạn giả cuối thế kỷ XIX đã nói các phong tục tập quán đương thời như thế nào. Nói chung thì những đức tính cần cù, giản dị, hiếu học được đề cao; mê tín, lười biếng, xa hoa bị phê phán. Có điều là có những chỗ viết dân vùng này thì “keo kiệt”, người vùng nọ hay “sinh sự điêu toa” v.v... thì có lẽ không thỏa đáng. Những cách nói như thế trong dân gian (thậm chí cả ngày nay) cũng thường có, nhưng xét về quan điểm nhận xét thì không thể coi là đúng đắn. Ở vùng có các dân tộc thiểu số, mục phong tục nhiều chỗ có bóng dáng của sự mô tả dân tộc học, không những trong ĐNNTC ít có mà cũng rất hiếm thấy trong các thư tịch cổ nước ta. Chẳng hạn mục phong tục Cao Bằng cho biết tại sao lại gọi là người Mán Sừng: “Người Mán Đại bản (tục gọi là Mán Sừng) con trai cạo đầu nhưng để lại chỏm tóc ở bốn phía, chít khăn vải đen lệch về bên phải, bỏ múi khăn buông xuống trông giống như cái sừng, mặc áo ngắn màu đen. Con gái mặc áo hai thân, khâu chằng thân trước với thân sau bằng hình hoa sợi đỏ, bên trên khâu thêm vòng cổ áo tròn ngắn, bốn phía đính các sợi tua có xuyên hột kim cương(28)”. Về hai ngành Mán Đại bản và Mán Tiểu bản, có tên gọi ấy là lấy đặc điểm trang phục của con gái Mán đội đầu bằng cái khuôn gỗ (bản 板) hình vuông rồi lấy mảnh khăn vải trắng trùm lên, có thể hiểu ngành đội khăn bằng khuôn gỗ nhỏ là Tiểu bản (小 板), phân biệt với ngành đội khăn bằng khuôn gỗ lớn là Đại bản (大 板): “Người Mán Tiểu bản (tục gọi là Mán Tiền), con trai chít khăn vải chàm, mặc áo không có cổ, bốn phía thêu hoa văn bằng sợi màu. Con gái đầu đội khuôn gỗ hình vuông rồi lấy mảnh khăn vải trắng trùm lên, gấu áo thì thêu hình sóng nước, sau lưng áo ai nấy đều đeo tiền làm dấu”.

Những ghi chép điều tra thực địa như vậy là đặc sắc của ĐKĐDC, và do đặc sắc đó mà tác phẩm có giá trị tham khảo cho học thuật. Nhưng nổi bật nhất vẫn là bảng kê địa danh hành chính thời Đồng Khánh mà sách này đã cung cấp. Nguồn thư tịch Hán Nôm về địa lý toàn quốc (hoặc vùng, miền) có tư liệu cùng loại, như đã điểm đến ở trên, có thể nói là quá ít: một cuốn đời Mạc, một cuốn đầu Nguyễn đời Gia Long, một cuốn đời Minh Mệnh và cuối Nguyễn là ĐKĐDC. Một sự ngẫu nhiên là cả mấy sách này đều không bộ nào có đủ địa danh của toàn quốc. Riêng ĐKĐDC thì có đủ 25 tỉnh, nhưng đó là lãnh thổ của một triều Nguyễn đã bị thực dân Pháp thống trị, chỉ chừa cho danh nghĩa từ Bình Thuận trở ra ! Nhưng việc đó đã thuộc về lịch sử. Nếu là một bộ dư địa chí trọn vẹn của cả nước thì có thể có nhiều điều đáng nói hơn. ĐKĐDC không may đã ra đời trong thời buổi ấy tất nhiên không tránh khỏi những hạn chế, nhưng giá trị học thuật của nó thì vẫn cần thiết để giới nghiên cứu tham khảo, khai thác.

Với lớp địa danh cuối thế kỷ XIX được chép trong ĐKĐDC, người nghiên cứu có thể lập được một đầu cầu để trở ngược thời gian trong việc nghiên cứu địa danh lịch sử (như đã thấy ở Nguyễn Văn Huyên). Từ cuối thế kỷ XIX về sau, qua thời gian Pháp thuộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến nay, địa danh làng xã nước ta nhiều lần thay đổi, và với những tên mới đó nói chung thường khó liên hệ cách nào để tìm được những tên gọi đã thay đổi qua các thời kỳ. Nhưng ở thời Đồng Khánh hệ thống địa danh còn giữ được nhiều nhất các tên gọi đã có từ lâu đời. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy sự thay đổi chủ yếu là do lệ kiêng húy của các triều. Ví dụ một tỉnh Hải Dương, qua so sánh Các trấn tổng xã danh bị lãm và Bắc Thành dư địa chí với ĐKĐDC chúng tôi đã lên thống kê có 115 tên xã thôn phủ huyện đổi tên, trong đó 88 trường hợp là do lệnh kiêng húy. Căn cứ vào thể lệ kiêng húy đã nghiên cứu(29), có thể xác định được địa danh từ đầu Nguyễn trở về trước, như một số trường hợp sau đây:

Bằng Đê (xã) h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là Bình Đê 平 堤 đời Tây Sơn kiêng âm Bình, đổi là Bằng Đê 憑 堤.

Bằng Cách (xã) h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là Bình Cách 平 格 đời Tây Sơn kiêng âm Bình, đổi là Bằng Cách 憑 格.

Bằng Dã (tổng và xã), h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là Bình Dã 平 野, đời Tây Sơn kiêng âm Bình, đổi là Bằng Dã 憑 野.

Bằng Trai (thôn), h. Đường An: tên thôn đời Lê là Bình Tề 平 齊 đời Tây Sơn kiêng âm Bình 平 (tên húy vua Quang Trung) đổi là Bằng Trai 憑 齋.

Lương Đường (xã) h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là xã Hoa Đường 華 堂 đầu đời Thiệu Trị (1841) kiêng húy chữ Hoa, đổi là Lương Đường 良 堂.

Lý Đông (xã) h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là xã Triền Đông 廛 東. Từ năm 1843 kiêng chữ Triền (cận âm với Tuyền , tên húy vua Thiệu Trị), đổi gọi là Lý Đông 里 東.

Lý Đổ (tổng và xã), h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là Triền Đổ 廛 堵, từ 1843 kiêng chữ Triền (cận âm với Tuyền, tên húy vua Thiệu Trị), đổi gọi là Lý Đổ 里 堵.

Thị Tranh (tổng và xã) h. Đường An: đầu Nguyễn về trước là Tông Tranh , từ năm 1841 kiêng húy thiên bàng chữ Tông 宗 (tiểu tự của Thiệu Trị), đổi là Thị Tranh

Tuyển Cử (tổng và thôn): đầu Nguyễn về trước là tổng và thôn Thì Cử時 舉, từ 1848 kiêng chữ Thì 時 (tên húy vua Tự Đức), đổi là Tuyển Cử 選 舉.

Sự khôi phục đó sẽ không thể tiến hành được nếu chúng ta chỉ xuất phát từ những địa danh đã thay đổi trong đời Thành Thái và về sau trong thế kỷ XX mà không có một căn cứ chuyển tiếp từ lớp địa danh thời Đồng Khánh. Không riêng sự tra cứu tham khảo của các nhà nghiên cứu địa lý học và các môn khoa học nhân văn, cả việc biên soạn một cuốn Từ điển địa danh Việt Nam mà chúng ta đang chờ đợi có lẽ cũng rất cần có những nguồn tư liệu như ĐKĐDC.

N.Đ.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí đồ 同 慶 御 覽 地 輿 志 圖, 2 sách (Thượng, Hạ) 上 下 2 冊. Tựa của Toyo Bunko. Sơn Bản Đạt Lang (Yamamoto) giới thiệu, Tokyo, Chiêu Hòa thứ 18 (1945).

Ngô Đức Thọ: Đồng Khánh địa dư và việc bóc tách các lớp địa danh triều Nguyễn. Thông báo Hán Nôm học 1998. H., Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 1999.

Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại. Traduit par Emmanuel Poisson: Les caractères interdits au Vietnam à travers l’ Histoire. Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Centre de l’EFEO, 1997.

Nguyễn Văn Huyên: Địa lý hành chính Kinh Bắc (Tableau de géographie administrative d’un ancienne province Vietnamienne: Le Bacninh ou Kinh Bắc). Pubcations du Centre l’EFEO au Vietnam. Hanoi, 1996.

Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí. Bản dịch Viện Sử học. H., Nxb. Sử học, 1960.

Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỷ, q.38.

Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, Nhị tập, q.29.

Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí. Bản dịch Viện Sử học. H., Nxb. KHXH, 1969.

Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch Ban Văn Sử Địa, CB20, CB36.

R.B. Smith: Sino - Vietnamese sources for the Nguyễn period: an introduction. Bulletin of the School of Oriental and African studies, University of London. Vol.XXX.Part III, 1967, p.600-621.

Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Thư viện Quốc gia xuất bản, H.1970. T.1, tr.345.

CHÚ THÍCH:

(1) An Nam chí lược của Lê Trắc đời Trần, 19 quyển chủ yếu thuộc thể tài sử chí, nhưng có q.1 và q.19 (Đồ chí ca) thuộc địa dư chí, đương thời đã được đưa vào tùng thư Kinh thế đại điển. Sách đã mất, đến đời Thanh, Chu Di Tôn mới tìm được một bản An Nam chí lược, sau được Tiền Đại Hân, Hoàng Phi Liệt khảo đính, nhưng cũng phải đến năm Minh Trị 17 mới được Ngạn Ngâm Hương người Nhật xuất bản ở Tokyo (Lạc Thiện Đường, 1884), người nghiên cứu nước ta khoảng đầu thế kỷ XX mới biết có An Nam chí lược qua bản in này.

(2) Cương mục, CB 20, tờ 25

(3) Hai bộ hai sách cần có là Quốc triều hình luật (2 bản) và Thiên hạ bản đồ (1 bản), x. Sĩ hoạn châm quy., Ước Đình tàng bản, Cảnh Hưng 38 (1777), tờ 3a.

(4) Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí. Bản dịch Viện Sử học. H., Nxb. Sử học, 1960. T.1, tr.37.

(5) Cương mục, CB36-8.

(6) Phan Huy Chú. Sđd. Văn tịch chí.

(7) Ký hiệu: A.2499

(8) Xem truyện Bùi Quỹ trong Đại Nam chính biên liệt truyện, Nhị tập, Q.29.

(9) Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản sao của EFEO, ký hiệu: A.3142.

(10) Ký hiệu: A.2959

(11) Ký hiệu: A.590

(12) Ký hiệu: A.95

(13) Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỷ, q.68

(14) Ký hiệu: A.69.

(15) Còn bản in khắc gỗ năm Duy Tân 3 (1909) là bản đã qua chỉnh lý của Sử Quán triều Duy Tân và nội dung chỉ bao gồm các tỉnh Trung kỳ.

(16) Toyo Bunko (Đông Dương văn khố), Tokyo. Ký hiệu: X - 79.

(17) Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí đồ 同 慶 御 覽 地 輿 志 圖, 2 sách (Thượng, Hạ) 上 下 2 冊. Tựa của Toyo Bunko. Sơn Bản Đạt Lang (Yamamoto) giới thiệu. Tokyo, 7 - Chiêu Hòa thứ 18 (1945).

(18) Xem: Nguyễn Văn Huyên: Địa lý hành chính Kinh Bắc (Tableau de géographie administrative d’un ancienne province Vietnamienne: Le Bac Ninh ou Kinh Bắc). Pubcations du Centre l’EFEO au Vietnam. Hanoi, 1996.

(19) Đại Nam nhất thống chí. Bản dịch Viện Sử học. Lời giới thiệu. H., Nxb. KHXH., 1969. T1. tr.7.

(20) Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Thư viện Quốc gia xuất bản, H., 1970. T.1, tr.345.

(21) Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu. Trần Nghĩa và F. Gros chủ biên. KHXH., 1993. T. 1, tr.647.

(22) Cả bộ sách để từng tập, chỉ riêng tập Hải Dương chia làm 2 quyển (Thượng, Hạ), hiện vẫn có đủ cả hai quyển đó, trước nay vẫn đóng chung một tập.

(23) R.B. Smith. Sino-Vietnamese sources for the Nguyễn period: an introduction. Bulletin of the School of Oriental and African studies, University of London. Vol.XXX.Part III, 1967, p.600-621.

(24) Theo Yamamoto, bài dã dẫn.

(25) Đại Nam thực lục Chính biên. Đệ lục kỷ. Q6.

(26) Nhà kinh học đời Đường, Khổng Dĩnh Đạt chú: “Đất có núi sông nơi cao nơi thấp, đều có thứ lớp, cho nên gọi là địa lý”.

(27) Thành Dê Ngựa (Dương Mã thành 羊 馬 城): tường thấp đắp thêm ngoài thành, có các lỗ hở để đặt súng bắn ra. Thời cổ, khi quân địch đánh đến, cho dân chúng vào trong tường thành lánh tạm, có thể lùa theo cả dê ngựa, nên gọi là “thành dê ngựa”.

(28) Kim cương lạp 金 剛 粒 : tức hạt cây Cốt ngạnh 骨 硬, các nhà sư thường lấy xâu thành chuỗi tràng hạt, gọi là hột Kim cương: "Lạ thay Cốt ngạnh nguyên quân, là Kim cương tử hột lần khưu ni" (CNNÂ, Quả loại)

(29) Xem: Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, H., 1997.

TB

TRUYỀN THUYẾT Ả LÃ NÀNG ĐÊ
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGỮ ÂM LỊCH SỬ

NGUYỄN TÁ NHÍ

Ả Lã Nàng Đê là tôn hiệu của một vị nữ thần được thờ làm Thành hoàng ở một số làng thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Sách Thư mục thần tích thần sắc do Viện Thông tin khoa học xã hội biên soạn xuất bản năm 1996 thống kê ở 11 tỉnh thành trong cả nước có 56 làng thờ Ả Lã Nàng Đê. Tình hình cụ thể phân bố như sau:

Tỉnh Vĩnh Phúc có : 18 làng thờ

TP. Hà Nội có 15 làng thờ

Tỉnh Hà Tây có 14 làng thờ

Tỉnh Bắc Ninh có 2 làng thờ.

Các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình và TP. Hải Phòng, mỗi nơi có 1 làng thờ.

Sự tích nữ thần Ả Lã Nàng Đê tồn tại từ lâu đời dưới dạng truyền khẩu, chỉ mới cố định thành văn bản thần tích trong khoảng mấy trăm năm gần đây. Do tính phổ biến của truyền thuyết và trải qua thời gian lâu dài hàng mấy ngàn năm như vậy, nên đã tạo ra sự khác biệt về tên gọi, về thành phần xuất thân, về thời đại... Để nhận diện đầy đủ hơn về truyền thuyết lịch sử hào hùng này, chúng tôi xin được đi sâu nghiên cứu về một số điểm khác biệt đó.

I / VỀ THỜI ĐẠI:

Theo thần tích ở các làng cho thấy nữ thần Ả Lã Nàng Đê sống ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trải dài từ thời Hùng Vương đến thời nước ta nội thuộc nhà Đường.

1. Thời Hùng Vương.

Các bản thần tích nói việc nữ thần Ả Lã Nàng Đê xuất hiện thời Hùng Vương đều là dưới dạng âm phù, có nghĩa là Thần đã hoạt động trong thời gian trước đó, đến đây mới hiển linh để trợ giúp quốc gia.

- Thần tích làng Ngọc Trục, huyện Từ Liêm cho biết Lạc Long Quân đi tuần thú phương Nam đến trang Ngọc Trục lễ Thần thấy được ứng nghiệm, liền ban sắc phong duệ hiệu là Chị Ả Lã nương công chúa.

Khi đến làng Trung Văn cũng của huyện Từ Liêm, Lạc Long Quân lại ban sắc cho thần là Bản cảnh Thành hoàng Ả Lã nương chi thần.

- Thần tích làng Tây Xá huyện Yên Lãng (nay thuộc xã Thạch Kim, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) thì ghi việc tướng quân Cao Sơn thời Hùng Duệ Vương theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đem quân đi đánh giặc. Khi đến Tây Xá ông liền đóng quân nghỉ lại, rồi vào lễ thần ở địa phương. Cao Sơn đã được ba vị thần nhân trong miếu phù trợ đánh thắng được giặc. Sau ông về triều tâu với vua Hùng ban sắc phong cho ba vị là:

Đệ nhất Lã Nương

Đệ nhị Ả Nương

Đệ tam Mỵ Nương

2. Thời Hai Bà Trưng (40-43 CN)

Phần lớn các bản thần tích về nữ thần Ả Lã Nàng Đê hiện còn đều ghi nhận Thần là danh tướng tài ba thời Hai Bà Trưng, song thành phần xuất thân công danh sự nghiệp thì có khác nhau.

- Thần tích làng Nghĩa Lộ và Yên Lộ huyện Từ Liêm (nay thuộc xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) cho biết bà là con gái ông Nguyễn Viên quê ở huyện Hoằng Hóa Ái Châu. Nguyễn Viên đưa vợ đến cư trú và dạy học ở vùng Nghĩa Lộ, Yên Lộ, sau sinh ra người con gái đặt tên là Đê Nương. Khi lớn lên Đê Nương theo giúp Hai Bà Trưng, được Trưng Vương phong là Ả Lã công chúa.

- Thần tích làng Sa Khúc, huyện Yên Lãng (nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) và thần tích làng Nại Sa, huyện Đan Phượng (nay thuộc xã Thọ Lão, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) ghi chép Thần là con người họ Lã quê ở huyện Tống Sơn (Thanh Hóa). Khi sinh được con gái, ông bà họ Lã đặt tên con là Nàng Đê, sau lớn lên lấy hiệu là Ả Lã. Bà từng là danh tướng của nghĩa quân Hai Bà Trưng, lập được nhiều chiến công.

- Thần tích làng Đông Cao, huyện Yên Lãng (nay thuộc xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) cho biết con thứ 48 của Lạc Long Quân được cử làm vua ở Thiên Sớ (Thái Nguyên), sau đổi ra họ Hồ. Đến đời Hồ An thì sinh được người con gái đặt tên là Đê Nương. Khi gặp Bà Trưng, hai bên nhận họ hàng, rồi Đê Nương đổi gọi là Ả Lã.

3. Thời Triệu Việt Vương (346 -570).

- Thần tích làng Trung Hậu, huyện Yên Lãng (nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) chép: ông Lã Hòa ở Châu Hoan, sinh được con gái đặt tên là Nàng Ngu, hiệu là Ả Lự. Sau ông Lã đem Ả Lự gả cho Triệu Quang Phục. Đến khi Quang Phục bị Lý Phật Tử đánh bại, phu nhân Ả Lự liền bay về trời.

- Thần tích ở thôn Điệp, huyện Yên Lãng (nay thuộc xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) chép: Triệu Việt Vương lấy bà Lê Thị Hinh sinh ra Ả Lã Nàng Đê. Khi Lý Phật Tử định cầu hôn Cảo Nương cho con trai là Lý Nhã Lang thì Ả Lã Nàng Đê hết sức can ngăn. Thế nhưng Việt Vương không nghe theo, đến khi thất trận Ả Lã Nàng Đê chạy về thôn Điệp rồi mất tại đó, triều đình phong tặng là Quốc Vương Thiên Tử Ả Lã Nàng Đê.

4. Thời Cao Vương (864 - 874)

Thần tích ghi việc nữ thần Ả Lã Nàng Đê sống thời Cao Biền làm Đô hộ sứ ở Giao Châu, tồn tại khá phổ biến. Trong số các làng thờ Ả Lã làm Thành hoàng, thì loại thần tích này chiếm số lượng nhiều thứ hai. Ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc có 6 làng là Huy Ngọc, Phù Chính, Phú Cốc, Phú Lộc, Quảng Cư, Tuân Lộ. Ở huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định có làng Mỹ Trọng. Ở huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội có làng Cổ Bi. Ở huyện Đông Anh, có làng Lý Nhân. Ở thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây có làng Vạn Phúc. Đặc điểm chung của các thần tích này là nữ thần Ả Lã Nàng Đê được thờ chung với Cao Vương (tức Cao Biền).

Thần tích làng Vạn Phúc cho biết, ông Hùng Thụy ở châu Tụ Long tỉnh Tuyên Quang sinh một con gái đặt tên là Ả Lã, hiệu là Đê Nương. Lớn lên, Ả Lã Nàng Đê lấy Cao Biền, rồi về ở làng Vạn Phúc. Đến khi mất được dân làng thờ làm Thành hoàng, lại được triều đình sắc phong là Đương cảnh Thành hoàng Quốc Vương Thiên tử Ả Lã Nàng Đê chi thần.

II. VỀ TÊN GỌI:

1. Chữ viết

(a Lã, a Lữ)

(Ả Lã, Ả Lữ)

(Ả Lự)

(Nàng Đê)

2. Âm đọc.

Với các chữ viết như trên, do cách nhận mặt chữ ghi âm đọc khác nhau, đặc biệt là nhầm lẫn âm đầu l và n, nên âm đọc không thống nhất.

- Do nhầm ln:

Ả Lự , Ả Nự

Nàng Đê, Lang Đê, Lương Đê

- Do nhận âm đọc chữ khác nhau:

Nàng Đê, Nàng Chi, Nàng Thị.

Tuy có một số bản thần tích đọc khác biệt đó, nhưng phần lớn đều đọc là Ả Lã Nàng Đê.

Riêng âm đọc Ả Lã thì thấy xuất tương phổ biến và thống thất.

III. VỀ ÂM ĐỌC Ả LÃ NÀNG ĐÊ

1. Âm Ả

Ả là từ Việt được dùng khá phổ biến. Hiện nay ở vùng khu 4 còn dừng để chỉ người chị cả trong nhà hoặc người đàn bà lớn tuổi có đức hạnh. Từ điển tiếng Việt của Văn Tân xuất bản năm 1977 giải thích rất rõ:

“Ả : 1. Người con gái (nghĩa cũ).
2. Chị (tiếng địa phương)”.

Từ Ả trong văn học cổ còn được sử dụng tương đối rộng rãi:

- Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu bán hết hay còn ?
(Giai thoại Nguyễn Trãi)

- Ả Ngụy nàng Diêu khoe đẹp đẽ
Người thơ khách rượu rộn mời khuyên
(Hồng Đức Quốc âm thi tập)

- Một hai rằng chẳng lệ chi
Gái Ả giữ vì cho được lâu ru ?
(Thiên Nam ngữ lục)

- Khác gì Ả Chức chị Hằng
Bến sông sùi sụt cung trăng chốc mòng.
(Chinh phụ ngâm)

- Đầu lòng hai ảẢTố Nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
(Truyện Kiều)

- Lại nghe trong thuở Lạc Hùng,
Mỵ Châu có Ả tư phong khác thường.
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)

2. Ả Lã (Lữ)

Trong các văn bản thần tích, âm Lữ được giải thích bằng hai lý do:

- Tên hiệu của danh tướng Nàng Đê do cha mẹ đặt cho từ bé, hoặc do Trưng Vương tặng cho khi đã lập chiến công.

- Gọi theo họ của thân phụ Thần. Chẳng hạn thần phả ở Sa Khúc, Vân Sa thì ghi tên gọi của thân phụ Thần là Lã Hòa, nên bà được gọi là Ả Lã.

3. Âm Nàng

Từ Nàng trong tiếng Việt hiện đại còn dùng, nghĩa gần giống như từ ả.

4. Âm Đê

Trong các văn bản thần tích, âm Đê được ghi bằng chữ . Trong Tự điển Khang Hy giải thích âm đọc là Đê, là từ địa phương ở vùng đất Sở, dùng để chỉ bà mẹ.

Từ những phân tích cụ thể như ở phần trên, chúng ta có thể đi đến mấy nhận xét:

- Ả Lã Nàng Đê là tôn hiệu của một vị nữ thần của Việt Nam được thờ làm Thành hoàng ở nhiều nơi thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

- Hai từ Nàng là từ tiếng Việt cổ thường dùng, để chỉ vào người phụ nữ. Còn hai từ Đê là chỉ vào người đàn bà tôn quý đáng được ngưỡng vọng. Cặp từ Ả LãNàng Đê là từ đồng nghĩa. Trong thần tích ở các làng, có bản ghi Thần có tên húy là Ả Lã tên hiệu là Nàng Đê, có bản ghi tên hiệu là Ả Lã, tên húy là Nàng Đê.

- Khi ảnh hưởng của văn hóa Hán, các truyền thuyết dân gian tôn thờ nữ thần Ả Lã Nàng Đê được bổ sung thêm các nhân tố mới. Các bậc danh sĩ túc nho ở các làng ấy đã thêm vào nhiều tình tiết mới như thành phần xuất thân, quê quán, dòng họ, thời đại... nhằm mục đích tôn vinh nữ Thần. Do vậy tìm trong các văn bản thần tích của các làng ấy, chúng ta thấy Thần có nhiều thân phận khác nhau:

- Thần linh âm phù trợ giúp Lạc Long Quân.

- Thần linh âm phù trợ giúp tướng quân Cao Sơn thời Hùng Duệ Vương.

- Danh tướng thời Hai Bà Trưng, từng lập nhiều công tích trong sự nghiệp đánh đuổi quân xâm lược Đông Hán, khôi phục non sông họ Hùng. Trong số họ, hoặc là con người họ Hùng, hoặc là con người họ Lã, hoặc là con người họ Nguyễn.

+ Phi nhân của Việt Vương – Triệu Quang Phục.

+ Công chúa con gái Việt Vương – Triệu Quang Phục.

+ Phi nhân của Cao Vương (Biền).

Các nhân vật lịch sử huyền thoại Cao Biền, Triệu Quang Phục, Trưng Nữ Vương, Cao Sơn, Lạc Long Quân đã làm nền tảng để tôn vinh uy đức của nữ thần Ả Lã Nàng Đê.

- Tập tục thờ Mẫu của ta có tự lâu đời, ngay cả truyền thuyết Âu Cơ cũng là biểu hiện của tập tục này. Âu Cơ là từ Hán Việt. Cơ là chỉ người đàn bà quyền quý xinh đẹp, còn Âu chính là từ ghi âm, rất có thể cũng có liên quan đến từ trong tiếng việt thời bấy giờ.

- Ả Lã Nàng Đê được thờ làm Thành hoàng ở 56 làng thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ chỉ là một tên hiệu chung, biểu thị nét đặc trưng của tập tục thờ Mẫu ở Việt Nam. Đến giai đoạn sau, đặc biệt là từ thời Lê (1427 - 1786) về sau, đặc trưng ấy lại biểu hiện ở tập tục thờ cúng Mẫu Liễu.

N.T.N

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thư mục thần tích thần sắc, Viện Thông tin KHXH., Nxb. KHXH, 1996.

2. Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb. KHXH., 1996.

3. Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH., 1977.

4. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH., 1972.

5. Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm – Bùi Văn Nguyên phiêm âm chú giải, Nxb. Văn Hóa, 1962.

6. Thiên Nam ngữ lục, Nguyễn Lương Ngọc - Đinh Gia Khánh phiên âm chú giải, Nxb. Văn Hóa, 1958.

7. Chinh phụ ngâm diễn ca, Nguyễn Thạch Giang khảo chú, Nxb. Văn học, 1987.

8. Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985.

9. Một số văn bản thần tích bằng chữ Hán lưu giữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

TB

NGUYỄN DU SINH NĂM NÀO?

NGUYỄN VĂN HOÀN

Đó là câu hỏi mà nhà báo Đặng Minh Phương nêu trên Văn nghệ số 33, ngày 18-8-2001. Ông đã dẫn ra bốn cuốn sách quan trọng có đề cập đến Nguyễn Du: cuốn thì chép Nguyễn Du sinh năm 1765, cuốn thì chép năm 1766. Chúng ta còn có thể dẫn thêm nữa, nhưng không cần thiết, vì sự sai khác chỉ là 1765 hay 1766. Đặng Minh Phương viết: “Thiết tưởng năm sinh của một đại thi hào lẫy lừng trong lịch sử như Nguyễn Du, cách đây chưa xa, cần được sách báo viết chính xác và nhất quán”.

Được như thế thì hay quá, nhưng đối với Nguyền Du thì một chi tiết về nhân thân của ông có khi cũng tốn không ít giấy mực! Nguyễn Du không có cái may mắn như người anh ruột cùng cha cùng mẹ với ông là Nguyễn Nễ. Ông này được gia phả chép rất rõ ràng: “Sinh ngày 13 tháng 2 năm Tân Tỵ, thời Cảnh Hưng (9-3-1761) tại phường Bích Câu, Thăng Long; mất ngày 11 tháng 7 năm ất Sửu (3-9-1805), an táng tại cạnh vườn cũ ở thôn Văn Trường”. Còn về Nguyễn Du thì gia phả ghi không đầy đủ lắm: “Sinh năm ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng (1765), mất ở Kinh, ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, niên hiệu Minh Mệnh (16-9-1820)”. Như vậy là không ghi rõ ngày sinh, tháng sinh, nơi sinh. Chính vì vậy mà những nhà nghiên cứu sớm quan tâm đến tiểu sử Nguyễn Du như Lê Thước, Phan Sĩ Bàng(1), Nguyễn Đức Tánh(2) chỉ chép Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765) và nhân dân ta đã tổ chức kỷ niệm 200 năm năm sinh của Nguyễn Du vào năm 1965.

Trước hết xin trình bày đôi điều về cuốn gia phả này. Năm 1922, trong thời gian làm Giáo sư trường Cao đẳng tiểu học Vinh, cụ Lê Thước đã liên hệ với họ Nguyễn ở Tiên Điền và đã mượn được cuốn gia phả của dòng họ này, nhan sách là Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả. Ở trang đầu có ghi: Duệ tôn Hi Tư biên toản (cháu đời sau là Hi Tư chép). Hi Tư là tên chữ của Nguyễn Nghiễm, thân phụ Nguyễn Du. Tất nhiên Nguyễn Nghiễm cũng chỉ chép đến hàng tổ phụ của ông mà thôi. Người chép tiếp đã gọi Nguyễn Nghiễm là cha (hiển khảo), gọi Nguyễn Khản là anh cả (trưởng huynh), gọi Nguyễn Điều là anh thứ (thứ huynh). Người chép tiếp hàng con của Nguyễn Nghiễm, trong đó có Nguyễn Du, lại tự xưng: Tiên khảo Tốn Trai công (cha tôi là cụ Tốn Trai). Tốn Trai là Nguyễn Nhưng, con thứ 11 của Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Nhưng có 3 con trai, đều đậu Tú tài. Theo Lê Thước thì người chép tiếp phần cuối này là con trưởng của Nguyễn Nhưng, tức Nguyễn Y, đậu Tú tài năm 1828.

Lê Thước đã chuyển cuốn gia phả này cho Trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội để sao lại một bản (đánh số ký hiệu A.3075). Đây là nguồn tư liệu quan trọng nhất về tiểu sử Nguyễn Du(3).

Nhưng đến năm 1965, kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, lại xuất hiện một tài liệu mới. Tôi còn nhớ rõ, đó là vào khoảng 12 giờ trưa ngày 24 tháng 11 năm 1965, tại Văn Miếu, Hà Nội, nhóm chúng tôi gồm 3 người, nhà thơ Huy Cận, lúc đó là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, cụ Lê Thước, chuyên viên Vụ Bảo tồn bảo tàng (Bộ Văn hóa) và tôi được Ban tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du giao nhiệm vụ soát lại một lần cuối nội dung triển lãm về Nguyễn Du, để chuẩn bị cho cuộc khai mạc vào sáng hôm sau. Bỗng cụ Lê Thước giơ cao một cuốn sách chữ Hán và nói to; “Cuốn gia phả này có chép ngày sinh của Nguyễn Du”, chúng tôi liền xúm lại xem và đề nghị với cụ Lê Thước nên có thêm thì giờ khảo sát cuốn sách kỹ hơn rồi hẵng công bố.

Sau lễ kỷ niệm Nguyễn Du, cụ Lê Thước đã đăng bài Tìm thấy ngày sinh của thi hào Nguyễn Du, trên báo Thời mới (Hà Nội), số ra ngày 17-9-1966, khẳng định ngày sinh của Nguyễn Du là ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 dương lịch.

Báo Văn nghệ số 178, ngày 23-9-1966 liền đưa tin đó: “Gần đây cụ Lê Thước đã tìm thấy quyển thế phả trong đó có ghi rõ ngày, tháng, năm sinh của Nguyễn Du. Ông sinh năm Ất Dậu, tháng 11 ngày 23, đối chiếu với dương lịch thì ngày đó tức là ngày 3 tháng 1 năm 1766.

Năm 1970, trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm, tập I, Trần Văn Giáp đã giới thiệu cuốn gia phả này như sau: “Trong ba bốn bản sách gia phả nhà họ Nguyễn Tiên Điền mà ta có hiện nay, chỉ có bản này có chua ngày sinh Nguyễn Du”.

Năm 1978, trong cuốn giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, Tập II (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp) Nguyễn Lộc đã viết: “Trong một bản gia phả của họ Nguyễn làng Tiên Điền, phát hiện năm 1966, có ghi chú ngày sinh của Nguyễn Du là 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra là ngày 3 tháng 1 năm 1766”.

Thế là cái năm 1766 được “trình làng”, như một tài liệu quý, mới được phát hiện. Vấn đề đặt ra là cần khảo sát và đánh giá lại tài liệu này một cách khách quan.

Cuốn gia phả này do Vụ Bảo tồn bảo tàng (Bộ Văn hóa) sưu tầm được hồi cuối năm 1956, sau đó khoảng tháng 8 năm 1958 thì chuyển sang Thư viện Khoa học Trung ương bảo quản. Thư viện đã vào sổ và đánh ký hiệu VHV. 369 và ngày 10-2-1964 đã đem chụp vi phim và đánh số 1747. Trong bản Mục lục tài liệu và hiện vật về Nguyễn Du triển lãm ở Văn Miếu, Hà Nội, tháng 11 - 1965, cuốn gia phả này được ghi số thứ tự 391. Đó là một quyển sách mỏng chép tay, gồm 36 tờ giấy bản, loại thường, khổ nhỏ. Tờ đầu, nguyên trước để trắng, đã được một cán bộ Vụ Bảo tồn bảo tàng ghi bốn chữ Hán: Nguyễn tộc gia phả, ở dưới chua thêm: Hà Tĩnh tỉnh, Nghi Xuân huyện, Tiên Điền xã. Ở đầu tờ sau ghi Nghệ An Nghi Xuân Nguyễn gia thế phả. Cuốn gia phả này chép rất sơ lược. Rất có thể là đã dựa theo cuốn Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả để lược chép lại. Phần tiểu truyện của Nguyễn Du lại càng vắn tắt, chỉ có năm, sáu dòng, nhưng có một chi tiết quan trọng đã thành vấn đề với chúng ta là ở bên phải dòng cuối, cạnh bốn chữ Ất Dậu niên sinh có một người nào đó đã viết thêm một dòng chữ nhỏ - cũng bằng bút lông - gồm chín chữ: thập nhất nguyệt, nhị thập tam nguyệt, Dần thì (tháng 11, ngày 23, giờ Dần). Đối chiếu sang dương thì ngày này không còn thuộc năm 1765 mà đã lân sang năm 1766 ba ngày !

Khi giới thiệu cuốn gia phả cùng mấy chữ viết thêm này, cụ Lê Thước cũng đã viết “có chua dòng chữ nhỏ”, cụ Trần Văn Giáp thì viết “dòng chữ này chua bên cạnh”, nhưng do xu hướng là muốn khẳng định tài liệu mới này nên hai cụ chỉ nói lướt qua mà không gợi cho người đọc cả hướng suy nghĩ ngược lại, đó là những nghi vấn, dè dặt có thể có. Điều dễ nhận thấy là mấy chữ viết thêm này màu mực nhạt hơn, dáng chữ khác, rõ ràng là do một người nào đó mới viết thêm vào sau. Trong bản chụp in kèm theo đây, bạn đọc có thể khó nhận ra điều đó, nhưng nếu xem bản gốc - hiện lưu trữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm - thì điều đó dễ nhận thấy hơn. Cũng cần nói thêm rằng, người chua thêm mấy chữ đó là một người có trình độ, với lối viết “kỵ húy” chữ thì trong Dần thì (tên vua Tự Đức, ở ngôi 1848 - 1883), kết hợp với cái tên sách Nghệ An Nghi Xuân Nguyễn gia thế phả, người viết thêm mấy chữ đó rõ ràng có dụng ý muốn dẫn dắt người đọc tin rằng: cuốn gia phả này, kể cả mấy chữ chua thêm, đã xuất hiện dưới thời vua Tự Đức, khi Hà Tĩnh còn là một đơn vị hành chính ở hàng dưới cấp tỉnh và trực thuộc tỉnh Nghệ An. Chúng ta biết rằng ở sinh thời Nguyễn Du, Hà Tĩnh chỉ là một đạo, thuộc tỉnh Nghệ An, sau khi Nguyễn Du mất, đến năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), Hà Tĩnh mới được nâng lên thành tỉnh, nhưng rồi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) lại hạ xuống làm đạo, cuối cùng đến năm Tự Đức thứ 29 (1876) lại được nâng lên làm tỉnh. Như vậy phải chăng cuốn gia phả này đã được chép trước năm 1876 ? Còn mấy chữ chua thêm về ngày, tháng sinh của Nguyễn Du thì xuất hiện từ bao giờ ? Điều này thật khó trả lời dứt khoát. Kể ra, nếu quả đúng ngày sinh của Nguyễn Du lân sang năm 1766 ba ngày thì điều đó cũng không gây đảo lộn gì về nhận định lịch sử văn học, có điều là tài liệu mới chưa hoàn toàn đáng tin cậy, trong lúc đó thì nước Việt Nam cách mạng và nhân dân một số nước trên thế giới - theo đề nghị của Hội đồng Hòa bình thế giới - lần đầu tiên đã kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965, điều này vô hình chung cũng đã trở thành một sự kiện có ý nghĩa trong lịch sử vấn đề Nguyễn Du, vậy thì phải chăng vẫn là hợp tình, hợp lý nếu cứ để năm sinh của Nguyễn Du là 1765. Trên báo Văn nghệ số 23, ngày 10/6/1995, Nguyễn Thạch Giang cũng đã đề cập đến vấn đề này và viết: “Căn cứ vào tình hình văn bản của thư tịch Hán Nôm, nếu chỉ bằng vào số chữ chua thêm của người sau, thì chúng ta phải bàn lại nhiều chuyện không đâu”.

N.V.H

CHÚ THÍCH

(1) Lê Thước và Phan Sĩ Bàng: Truyện cụ Nguyễn Du, trước giả truyện Thúy Kiều. Nxb. Mạc Đình Tư, Hà Nội, 1924.

(2) Nguyễn Đức Tánh: Lịch sử và gia thế cụ Nguyễn Du. Nam Phong tạp chí số 134, tháng - 1928.

Nguyễn Đức Tánh là Giám thị trường Quốc học Vinh, viết bài này nhân dịp dẫn học sinh đi viếng mộ và thăm đền thờ Nguyễn Du ở Tiên Điền.

(3) Lê Thước: Vài mẩu hồi ức về việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tạp chí Văn học Hà Nội, số tháng 11 - 1965.

TB

PHÂN GIẢI ĐIỀU NGỘ NHẬN ĐÁNG TIẾC VỀ NGÀY SINH CỦA MẠC THIÊN TÍCH

TRƯƠNG MINH ĐẠT

Tìm hiểu về giai đoạn lịch sử hình thành đất Hà Tiên, người ta cần biết rõ về ông Mạc Thiên Tích. Tự nhiên, vấn đề niên đại chào đời của ông Tổng binh Đại đô đốc quốc lão quận công cũng cần được ghi cho đúng. Vậy mà lâu nay người ta đã ghi sai, nhất là năm tuổi chính xác của ông !(1)

A- NGUYÊN NHÂN TẠO SỰ NGỘ NHẬN

1. Điều ngộ nhận nảy sinh từ quyển Z Mạc thị gia phả: chính Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh ghi sai lệch năm sinh của Mạc Thiên Tích trước tiên. Tại trang 3 (dòng 3 + 4) sách chép: “... ngã công gia phủ đản Canh Tuất niên”(2) (Ông tôi chào đời năm Canh Tuất). Nhưng tác giả họ Vũ biết rõ điểm yếu của mình, nên sau sách, ở phần phụ ngoại bản, ông có thú nhận: “Đây đều là những việc xưa nay mắt thấy tai nghe, nhưng không nhớ rõ ngày tháng năm nào... Nếu các bậc quân tử có điều nhớ đích đáng hơn, thì xin đính chính cho, điều nào đáng để, điều nào đáng bỏ, thì tôi lấy làm may lắm...”(3)

2. Điều ngộ nhận nảy sinh từ sách Hà Tiên Mạc thị sử: cố thi sĩ Đông Hồ căn cứ vào Mạc thị gia phả của họ Vũ để viết lịch sử họ Mạc. Tác giả viết: “Sách Mạc thị gia phả chép: ông Mạc Tứ (Tích) sinh năm Canh Tuất; nay tra đối với Tây lịch: Canh Tuất một lần nhằm năm 1670, thì trước năm Xiêm sang đánh Cao Miên; một lần nhằm năm 1730, thì sau năm ông Mạc Cửu quy phục Nam triều, đều sai cả. Vậy trong hai chữ Canh Tuất ấy, có lộn một chữ: hoặc Bính Tuất (1706) hoặc Canh Dần (1710), là hai năm gần với năm 1714 (sic), là năm ông Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn. Lại sau này, năm 1780 là năm ông Mạc Tứ mất, chép rằng “thọ hơn bảy mươi tuổi”, thì nếu lấy năm 1706 sinh ông, thì ông 75 tuổi; còn lấy năm 1710 sinh ông, thì ông 71 tuổi, cũng vừa đúng. Duy có sách, khi ông Mạc Cửu mất (1735), thì ông Mạc Tứ mới 13 tuổi, hay có chỗ 18 tuổi, thì sai cả.”(4) ý kiến trên được lược ghi trong chính văn để cầu chất chính (xem Nam Phong số 143, trang 327 tháng 10-1929): “Ông đặt tên là Mạc Tông, sau đổi là Mạc Tứ, nhằm năm Bính Tuất (1706), hay là năm Canh Dần (1710)”.

Về sau tác giả quyết năm 1706 (xem Tiểu truyện Mạc Thiên Tích - Chứng chỉ văn chương quốc âm, Đại học Văn khoa Sài Gòn, năm 1965 - 1966, khi thi sĩ được mời thỉnh giảng, từ 1965 đến 1969). Tác giả Hà Tiên Mạc thị sử yên chí đưa vào khóa giảng cái kết quả suy tưởng chủ quan. Từ 1970 về sau, ý kiến của ông trở thành tư liệu phổ biến khi sách Văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên ra đời: Mạc Thiên Tích sanh đêm mồng bảy tháng ba năm Bính Tuất (1706) ở Trũng Kè (Réam)”(5). Ta chú ý cụm từ ngày tháng “mồng 7 tháng ba” là chép trong sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (Quyển II, Danh mục Lũng Kỳ Giang)(6), còn “năm Bính Tuất (1706)” do Đông Hồ Lâm Tấn Phác đoán định. Năm này, không phải do Gia Định thành thông chí nêu lên. Đây là vấn đề cần mổ xẻ ở phần sau.

3. Điều ngộ nhận nảy sinh từ sách Hà Tiên địa phương chí (1962) của Trần Thiêm Trung. Năm 1962, sau khi đọc Hà Tiên Mạc thị sử của Đông Hồ, ông Trung chọn năm 1710 (Canh Dần), thay vì năm 1706 (Bính Tuất). Ông viết: “Bà Mạc Cửu họ Nguyễn, gốc gác tại Biên Hòa, hạ sanh Mạc Thiên Tứ vào năm Canh Dần (1710)”(7). Sau khi phổ biến Hà Tiên địa phương chí, ông Trung cho gắn tại mộ của Mạc Thiên Tích một cái bia xi-măng, khắc năm sinh và năm mất của ông “1710 - 1780”. Cái bia “chỉ dẫn mộ” này tồn tại đến năm 2000 mới được thay”(8).

Đến đây, vấn đề “năm sinh” có nhiều khuynh hướng: Một, tin theo Đông Hồ, khuynh hướng này có thể tác động tạo sai lệch ở sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả; Hai, tin theo Trần Thiêm Trung. Ngoài ra còn một ý kiến thứ 3 của ông Trần Kinh Hòa (Chen Ching - Ho), ông nói: “Ông Thiên Tích sanh 1700”(9), nhưng không có mấy người biết và cũng không gây ảnh hưởng trong giới học giả nước ta. Nhưng ý kiến ông Hòa cũng thuộc dạng suy tưởng chủ quan, thiếu tính chân thực, xin thông qua.

B- VỀ MỘT CHỮ "BÍNH" GHI THÊM TRONG VĂN BẢN A.30 CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

1. Gần đây xảy ra một hiện tượng lạ gây phiền nhiễu cho giới nghiên cứu ở Kiên Giang khi sao chụp một bản văn Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh (Bản A.39, 35 tờ, 70 trang. Mỗi trang có 9 dòng, mỗi dòng dài nhất 21 chữ. Từ trang thứ 68, tức là trang có ghi “Tam thập nhị hiệt tiền tứ hàng dĩ hạ / Phụ ngoại bản” trở đi, mỗi trang có 10 dòng, mỗi dòng 23 chữ). Bản văn này mang dấu “Bibliothèque-École Française D’ Extrême Orient”, được sao chụp năm 1986. Tại trang 3, (tức tờ 2a), dòng 4, khởi đầu bằng câu: “Công gia phủ đản (Canh Tuất niên)” cạnh chữ Canh ở phía bên phải, có ai đã ghi thêm chữ Bính nhỏ hơn. Chữ Bính này mới được ghi thêm vào trong văn bản gốc đem phổ biến thời gian gần đây. Chữ này không có trong chánh bản văn xưa. Tôi dám cả tin như vậy, vì căn cứ vào những chứng cớ mà tôi đang có:

a. Bản Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả chú thích của Trần Kinh Hòa(10). Ông Hòa phân chia tác phẩm của họ Vũ thành từng đoạn, từng ý, để chú giải. Ở trang 86 và 87 sách đã dẫn, tác giả chép lại đoạn văn liên hệ đến năm ông Thiên Tích ra đời: “Nhi ngã công gia phủ đản (Canh Tuất niên) dị tường triệu kỳ thuộc địa hữu thanh đàm...” Đoạn văn này thuộc chú thích số 6. Trong chú thích 6 (trọn trang 87 Sđd), không chỗ nào có nhắc đến chữ Bính cạnh chữ Canh. Như thế, trong bản văn số A.39 mà ông Trần Kinh Hòa sử dụng, rõ ràng không có chữ Bính ghi cạnh chữ Canh. Ông Hòa nói rõ: ông sử dụng bản văn A.39, tại “Lời đầu sách”, trang 79 Sđd, như sau: “Bản văn mà tôi giới thiệu là quyển “Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, nguyên của danh nho nước Pháp Henri Maspero sưu tầm bản chép xưa... khi ông đáo nhậm tại “Pháp quốc Viễn đông học viện” (École Française D’ Extrême Orient). Bản gia phả được kể đây, hiện lưu giữ tại thư xá của Viện, chỉ 1 bản, mang mã số Fonds Annamite 39 (A.39) (HTT/HTMTGP/CT- Tiền Ngôn -tr.79). “Năm 1935, ông É. Gaspardone cũng có kể đến quyển này trong sách An Nam thư mục. Cho đến năm 1952, khi thuật tả đời Mạc Cửu, ông ấy cũng sử dụng một phần (trong “Un Chinois des Mers du Sud le fondateur de Hatien”)(11). Chúng ta hãy tìm xem câu văn liên hệ năm sanh của Mạc Thiên Tích, trong sách.

b. Sách của Émile Gaspardone trích từ Journal Asiatique, năm 1952, tại Paris, trang 378-380 có in một đoạn văn chữ Hán, trích từ Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của họ Vũ, từ câu đầu: (Hà Tiên chấn giả nãi chân lạp cao miên quốc thuộc địa...) đến (... Ban hồng sắc mãng bào cập ấn thụ) (tức là từ trang đầu đến trang 6, sách HTT/HTMTGP). Câu văn liên hệ, ta đang tìm, nằm giữa trang 379, dòng thứ 16, từ trên đếm xuống, đọc theo hàng ngang, từ bên trái sang: “Nhi ngã công gia phủ đản (Canh Tuất niên)”. Ông É.Gaspardone đã dịch câu này ra Pháp văn: “... òu notre maitre vint au monde (l’année Keng Siu)”. Suốt đoạn văn dịch, ông không hề nói đến chữ Bính Tuất, vì bản văn hồi ấy không có chữ Bính nằm bên chữ Canh Tuất:

Ông É. Gaspardone cũng phủ nhận ý kiến của ông Đông Hồ, nơi phụ chú 5, trang 384, Sđd: “... Sanh năm 1718, Mạc Thiên Tứ (Tích) chỉ có 62 tuổi thôi. Có lẽ phải sửa lại là “Niên lục thập dư”. Sự chấp nhận 70 tuổi, và sự sửa đổi can chi thành Bính Tuất hoặc Canh Dần đã gieo sự phân vân giữa 1706 và 1710, và cuối cùng phải chọn 1710, của một tác giả Việt Nam ký tên Đông Hồ (tức Lâm Tấn Phác ở Hà Tiên), trong bài viết nhan đề Hà Tiên Mạc thị sử... Nhưng trong trường hợp này, người ta mất chỗ tựa thực tiễn là thời kỳ cư ngụ (của Mạc Cửu - TMĐ) ở Réam, sau cuộc xâm lược năm 1715” (Chúng tôi sẽ trở lại ý “Mạc Thiên Tích sinh năm 1718” sau).

Ông Gaspardone cũng có nói về quyển Mạc thị gia phả mà ông ấy sử dụng: “Về tác phẩm này, tôi chỉ biết những bản chép tay, nhất là ở Trường Viễn đông Bác cổ (Fonds Annamite 39) mà tôi hiện cứ đây” (Sđd. tr.378, chú thích 4).

c. Hai trang hình chụp quyển Mạc thị gia phả A.39 không có chữ Bính - Năm 1961, Nha Văn hóa thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục Sài Gòn, ấn hành Văn hóa nguyệt san số 61 và 62 có loạt bài: Lịch sử người Hoa kiều tại Việt Nam, Chương III: Họ Mạc tại Hà Tiên, in nguyên bản dịch Việt ngữ tập gia phả của Vũ Thế Dinh, có kèm phụ bản 2 trang ảnh, chụp 3 trang sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, (giữa trang 554 và 555). Trang đầu mang rõ tựa sách ở dòng bìa phải, nếu tính cả là 9 dòng. Các trang sau cũng đều có 9 dòng, mỗi dòng nhiều nhất 20 hoặc 21 chữ. Trang đầu có 3 khoảng trống (dòng 3 sau chữ Ngã, dòng 6 sau chữ ủy và chữ Hà), trang 2 có 4 khoản, sau các chữ Hứa, chữ Thị, chữ Kiên và chữ Quốc. Chữ Phương của địa danh Phương Thành không có bộ Thảo. Ta chú ý nhất là trong trang đầu, câu văn nói về thời điểm ông Mạc Cửu chào đời: “Ư minh Vĩnh Lịch cửu niên, ất vị ngũ ngoạt sơ bát nhật sanh” được viết theo lối gạch dòng (phụ), hai chữ cuối câu “nhật sanh” phải sang dòng 3, cũng được tách đôi, chép gạch dòng. Điều mọi người thấy rõ, đây là hình rút từ vi phim, chụp quyển sách HTT/HTMTGP A.39, chứ không phải quyển nào khác. Cái điều quan hệ đáng chú ý trong ảnh, trang thứ 3, dòng thứ 4, câu “Công gia phủ đoản Canh Tuất niên” bên chữ Canh không có chữ Bính. Như thế, vi phim sách Mạc thị gia phả được đưa vào Sài Gòn trước năm 1961, tập sách A.39 vào thời đó không có chữ Bính ghi cạnh chữ Canh.

d. Quyển Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả bằng chữ Hán do bà Mộng Tuyết lưu giữ, ông Vũ Văn Kính mô tả trong tập Thư mục và văn bản Chiêu Anh Các như sau: “... bản chép tay bằng bút lông, giấy bản đã ngả màu, còn tốt, khổ 14 x 20cm, 53 tờ đôi (106 trang)(12). Bà Mộng Tuyết đã cho phép chúng tôi sao chụp nguyên bản văn.

Chúng ta hãy xem quyển này. Tại trang 4, dòng 3+4, câu “Nhi ngã công gia phủ đản dị tường tiên triệu kỳ thuộc địa...” không có các chữ “Canh Tuất niên” sau chữ “Phủ đản”. Nhưng chúng ta thấy, người chép còn cẩn thận ghi riêng ở khoản trống dưới dòng thứ 3, giữa chỗ ngắt dòng (“Nhi Ngã...”) 3 chữ “Canh Tuất niên”. Ở bên cạnh không có chữ Bính, mặc dù quyển sách này đã được thi sĩ Đông Hồ bảo quản, sử dụng khi viết Hà Tiên Mạc thị sử. Ông ấy là người suy luận và chọn lựa giữa Bính Tuất Canh Dần.

Nếu chữ Bính đã xuất hiện trong sách HTT/HT MTGP thì Đông Hồ đâu mất công trước chọn Canh Dần (1710) sau đổi Bính Tuất (1706)?

Chúng tôi có thể nói được rằng: Trong chánh gốc bản văn xưa của Vũ Thế Dinh không hề có chữ Bính nằm kề chữ Canh Tuất, tại câu văn “Nhi ngã công gia phủ đản Canh Tuất niên”. Gần đây có một luồng dư luận cho rằng chính văn bản Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của họ Vũ ghi chép năm sanh của Mạc Thiên Tích là Bính Tuất (1706). Người ta viện dẫn chữ Bính nằm kề chữ Canh, trong bản sao chụp năm 1986 mà tôi có nói phía trên. Tôi nghĩ rằng: Một nhân vật nào đọc thấy “tư liệu” của Đông Hồ, tin vào đó, không kiểm chứng kỹ, đã vội ghi thêm chữ Bính vào. Việc này không thể xảy ra trước năm 1986. Xin hãy xóa bỏ chữ Bính tệ hại này.

C - VỀ XUẤT XỨ CÂU" "MẠC THIÊN TÍCH SANH ĐÊM MỒNG BẢY THÁNG BA"

Ý này được hai quyển sách ghi chép: Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1820) và Đại Nam nhất thống chí (1865 - 1882). Điều rõ ràng là 2 quyển sách chép đoạn tư liệu của đề mục Sông Lũng Kỳ: “Hà Tiên không phòng bị, giặc Xiêm chợt đến, đánh một trận không địch nổi, Mạc Tông binh chạy về Lũng Kỳ, vợ là Bùi Thị Lẫm (người xã Đồng Môn, Trấn Biên Hoà) đương có thai, đêm mồng 7 tháng ba sinh Mạc Tông; chỗ ở trong sông có ánh sáng rực rỡ, xem ra có người vàng 7 thước chiếu sáng tự đáy nước...”(13)

Trước đoạn văn này đôi dòng, sách có viết: “mùa xuân tháng 2, Nặc Ông Thâm nước Cao Miên mượn quân nước Xiêm về đánh. Thủy sư đến ăn cướp Hà Tiên... Mạc Cửu chống không nổi, chạy về giữ Lũng Kỳ”. Cũng sau đoạn văn ấy đôi mươi dòng, thuộc đề mục Sông Lũng Kỳ, tác giả chép một đoạn “Biên niên sử Cao Miên” (Xét quốc sử Cao Miên...) “Tháng hai mùa xuân năm Mậu Tuất (1718), Cù Sa đem 5000 thuỷ binh cùng Nặc Ông Thâm tiến về Hà Tiên, nhân thế mà cướp bóc. Mạc Tông binh không địch nổi, chạy về Lũng Kỳ...”(14)

Như cách ghi chép của ông Trịnh Hoài Đức, ta rút ra một điều duy nhất: Xiêm đánh phá Hà Tiên chỉ một trận, thời gian là “mùa xuân tháng 2”, kết quả “Mạc Cửu thua chạy về Lũng Kỳ”, và “Bà vợ ông Mạc Cửu sinh ông Mạc Tông, đêm mồng bảy tháng ba”. Năm ấy, sử Cao Miên nêu rõ là năm Mậu Tuất (1718)(15).

Về ngày tháng năm sanh của ông Mạc Thiên Tích, như vậy là quá rõ ràng. Sách Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh thì nói ông ấy sinh năm Tuất - nhưng lầm Can, thay vì Mậu Tuất, cố họ Vũ ghi lầm Canh Tuất - sách này cũng ghi rõ “Ông (Mạc Cửu) mất năm ất Mão (1735)... Con ông là Mạc Thiên Tích đã 18 tuổi, phàm việc tang tế hết lòng hiếu kính”. (ất Mão ngũ ngoạt nhị thập thất nhật Thái Công bệnh khảo... Tích công danh Thiên Tích tự thập bát tuế thời, phàm tang tế chi sự kiện hiếu kính chi thành”(16). Tính theo dương lịch (1735-17=1718):

Vấn đề làm cho chúng ta hoang mang là niên đại xảy ra cuộc chiến tại Hà Tiên. Sách sử Việt Nam đều ghi nhận năm 1715. Nhưng Ông émile Gaspardone đã khảo chứng và giải quyết hộ cho chúng ta vấn đề này: “1715 (?). Giặc Nặc Thâm mặc dầu chưa làm một vấn đề nghiên cứu, đã được chứng nhận; và ở đây tôi đành dẫn khảo đến Doudart de Lagrée - Francis Garnier: “Chronique royale du Cambodge” (Biên niên sử Hoàng gia Cao Miên) - (JA. 1871, II, trang 380) xác nhận, cũng như Lịch sử Xiêm La (W . A. R. Wood: “A History of Siam”) (Bangkok, 1933, trang 227) năm 1717 do Hamilton đưa ra(17).

Chúng ta nhận thức rằng tình hình lịch sử giai đoạn này liên quan đến nước Campuchia và Xiêm La. Sử sách của 2 nước này rõ ràng có sự tương hợp hơn của ta. Ta cũng tin được đoạn sử Cao Miên do ông Trịnh Hoài Đức trích dẫn: “Tháng 2 mùa Xuân năm Mậu Tuất (1718), Phi Nhã Cù Sa đem 5000 thủy binh, cùng Nặc Ông Thâm tiến về Hà Tiên, nhân thế mà cướp bóc. Mạc Tông binh không địch nổi, chạy về Lũng Kỳ”.

Cuộc tấn công của Xiêm xảy ra vào tháng 2 (Mậu Tuất), bà Mạc Cửu hạ sanh Mạc Tông vào tháng 3, vì khi chạy giặc bà đang có thai. (Xem phần trên).

Như vậy chúng ta thấy rõ thực chất cái ý “MạcThiên Tích sanh đêm mồng 7 tháng Ba” đã được ông Trịnh Hoài Đức nói ra là “năm Mậu Tuất”. Còn việc nêu lên niên đại 1715, như chúng tôi đã có lần giải trình(18): ấy chẳng qua tác giả Trịnh Hoài Đức nói tới giai đoạn “Nặc Ông Thâm nước Cao Miên mượn nước Xiêm La về đánh...” Việc này tiến triển như sau:

- Mùa xuân năm 1715 Nặc Thâm cầu viện với vua Xiêm.

- Mùa đông 1715, 1500 quân Xiêm đưa Nặc Thâm về xin giảng hòa, bất thành; quân Xiêm quay về (xuân 1716). Chiến cuộc diễn tiến trên bộ.

- Mùa đông 1717, quân Xiêm đem 10000 bộ binh đồn trú ở Tầm Bôn (Battambăng), do Phi Nhã Chất Tri chỉ huy.

- Mùa xuân 1718 (Mậu Tuất), Phi Nhã Cù Sa kéo 5000 thủy binh và Nặc Thâm hiệp đồng đánh Hà Tiên.

Năm 1715 không xảy ra trận chiến tại Hà Tiên. Càng không thể có trận Xiêm đánh Hà Tiên năm 1705 (như có người nói Mạc Cửu chạy giặc Xiêm năm 1705, sanh Mạc Tông năm 1706).

D- CÓ CHĂNG TRẬN XIÊM CƯỚP PHÁ HÀ TIÊN NĂM 1705 ?

Xét toàn bộ sử sách triều Nguyễn, chỉ duy sách Đại Nam liệt truyện tiền biên (Quyển 4 truyện Nguyễn Cửu Vân và Quyển 5 truyện Mai Công Hương) nói tới cuộc tấn công của Xiêm năm 1705 (Hiến Tông thứ 14 năm ất Dậu). Các sách sử khác không nơi nào nói rõ. Chúng ta hãy đọc kỹ hai đoạn tư liệu để tìm hiểu thực chất của tình hình.

a- “Hiến Tông Hoàng đế năm thứ 14, là năm ất Dậu (1705), mùa thu, gặp nước Chân Lạp có nội biến, anh em Nặc Yên, Nặc Thâm dấy quân đánh nhau. Nặc Thâm cầu Xiêm cứu viện. Nặc Yêm sợ chạy sang Gia Định, xin mệnh lệnh triều đình ta. Chúa sai Vân thống lĩnh quân thủy, quân bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm. Vân đem quân đến Sầm Giang, gặp viện binh của Xiêm, Vân đánh tan vỡ. Nặc Thâm chạy sang Xiêm, Vân đem quân đưa Nặc Yêm lại về thành La Bích (Lovek).... Bấy giờ (năm 1711) (?) Nặc Thâm từ Xiêm về, mưu hại Nặc Yêm. Nặc Yêm sai người phi báo, xin quân đến cứu. Vân cùng tướng giữ đồn là Trần Thượng Xuyên đem việc tâu lên. Chúa cho viết thư bảo lũ Vân nên tùy nghi phủ dụ, cho yên tình hình ngoài biên”(19).

b- “Hiển Tông hoàng đế năm thứ 14 là năm ất Dậu (1705), mùa thu ở nước Chân Lạp Nặc Thâm và Nặc Yêm dấy quân đánh nhau. Thâm lại cầu cứu nước Xiêm giúp mình. Yêm sợ, chạy sang Gia Định cầu cứu với triều đình. Chúa sai chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân đem quân Gia Định đi đánh, (Mai Công) Hương làm việc vận lương cho quân đi sau...”(19)

Chúng tôi ngờ rằng hai đoạn sử liệu này của Việt Nam ghi nhận sai niên đại. Nếu so với “Lịch sử Cao Miên”, năm 1705 là giai đoạn trị vì của Nặc Thu (Ang Saur) là cha của Nặc Thâm ở ngôi lần thứ 4 (từ 1702 đến 1706). Mãi đến 1706 “Hoàng tử (Nặc Thâm) được 16 tuổi, Quốc vương thoái vị hẳn, nhường ngôi cho con”(20). Ông này lên ngôi với vương hiệu Thommo Réachéa I, trị vì từ năm 1706 đến 1710. Chính giai đoạn này mới xảy ra cuộc xung đột giữa Nặc Thâm và Nặc Yêm: “Năm 1708, nhóm kiều dân Lào ở tỉnh Bati nổi loạn chống chánh quyền địa phương. Chính Hoàng thân Ang Em (Nặc Yêm) sau khi bị bắt buộc phải thoái vị năm 1710, đã rời triều đình đi cầm đầu cuộc tạo phản này. (Nặc Yêm) kêu gọi người Samrè và người Kouy ở miền Bắc tỉnh Angkor và Kompongthom, đồng thời được một lực lượng Việt Nam ở miền Nam ủng hộ. Ông chỉ huy người Lào, Samrè và Kouy tiến xuống thủ đô Oudong; toán quân Việt Nam chiếm các tỉnh miền Đông. Quốc vương Thommo Réachéa I bị vây ở giữa, suốt ba tháng mới thoát được giữa đêm với người em tên là Ang Tong (Nặc Tôn), chạy qua Xiêm”(20). Sau đó Lịch sử Cao Miên lại viết tiếp: “Năm 1710, sau khi Quốc vương Thommo Réachéa bỏ thủ đô, Ang Em (Nặc Yêm) lên ngôi... Trong 3 năm 1711, 1716 và 1722 ông đẩy lui được ba lần tấn công của Thommo Réachéa, nhờ quân Xiêm trợ giúp(21).

Theo đoạn sử liệu vừa dẫn, cuộc xung đột giữa Nặc Thâm và Nặc Yêm bùng nổ từ năm 1708. Nặc Thâm bị vây, rồi bỏ thủ đô trốn đi Xiêm năm 1710. Nặc Yêm lên ngôi (lần 2) trong năm này, ông trị vì đến năm 1722. Tôi cho rằng đoạn sử liệu sau đây, trong truyện Trần Thượng Xuyên (Đại Nam liệt truyện tiền biên - Tập 1 - tr.185 - Nxb. Thuận Hóa - 1993) chép chính xác hơn: “Tân Mão năm thứ 20 (1711), mùa đông, Nặc Thâm từ Xiêm về mưu hại Nặc Yêm. Nặc Yêm sai người phi báo Trấn Biên và Phiêp Trấn, xin quân đến cứu. Thượng Xuyên cùng phó tướng Nguyễn Cửu Vân đem việc tâu lên...”(19). Sự việc Nguyễn Cửu Vân chống trả Nặc Thâm (giúp Nặc Yêm) phải chăng xảy ra trong năm này? Vì lần này Nặc Thâm từ Xiêm về, với sự hỗ trợ của quân Xiêm. Có lẽ đoạn “Nặc Thâm cầu Xiêm cứu viện, Nặc Yêm sợ chạy sang Gia Định, xin mệnh lệnh triều đình ta. Chúa sai Vân thống lĩnh quân thủy, quân bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm...” (Truyện Nguyễn Cửu Vân, Sđd trang 117) phải được đặt đúng vị trí và thời điểm sau năm 1708: “Bấy giờ (năm 1711) Nặc Thâm từ Xiêm về, mưu hại Nặc Yêm...” (Sđd, trang 118).

Xin gút gọn lại: không có cuộc xung đột giữa Nặc Thâm và Nặc Yêm vào thời điểm 1705 vì việc này chỉ xảy ra năm 1708. Người Việt Nam hỗ trợ cho Nặc Yêm lên ngôi năm 1710... Nặc Thâm lưu vong sang Xiêm và kéo quân Xiêm về đánh Nặc Yêm, chỉ kể từ 1711. Sử ghi rõ như thế, không thể nào có việc Mạc Cửu chạy giặc Xiêm năm 1705 hay là việc bà Mạc Cửu sinh ông Mạc Thiên Tích năm 1706 (Bính Tuất) ở Lũng Kỳ. Đó hoàn toàn là do tưởng tượng. Một phần do sử liệu của Liệt Truyện căn cứ theo Gia Định thành thông chí (Trấn Phiên An: Sông Châu Phê + Sông Xá Hương) lời lẽ mơ hồ để viết ra hai mẩu chuyện Nguyễn Cửu Vân và Mai Công Hương. Đọc Gia Định thành thông chí ta không rõ thời điểm 1705 thuộc giai đoạn nào của hai anh em Nặc Yêm và Nặc Thâm. Chỗ khác, chi tiết về cuộc xung đột này, sách ghi cũng không nhất quán. Thí dụ như việc: “Nặc Thâm bị vây 3 tháng ở Oudong, rồi phải nổi lửa đốt thành mà chạy”, sách Đại Nam thực lục chép “mùa xuân 1715”(22); đồng thời lại nói “Năm Ất Mùi (1715) mùa xuân Nặc Thâm đem quân Xiêm đến đánh Hà Tiên” (?)(23). Điều chắc hơn, theo sử liệu Cao Miên, vào “Mùa Xuân 1715” Nặc Yêm đã an vị trên ngôi ở Oudong, từ năm 1710. Việc “Nặc Thâm bị vây 3 tháng rồi đốt thành mà chạy qua Xiêm” phải là tiền đề để cho Nặc Yêm trở lại làm vua (1710). Sự kiện lịch sử này không thể lẫn lộn vào đâu được.

KẾT LUẬN

Năm sanh của Mạc Thiên Tích, theo các ông Đông Hồ, Trần Thiêm Trung, Trần Kinh Hòa, đều do suy luận và phóng tưởng, không đủ cơ sở xác tín. Các niên đại 1700, 1706, 1710 không có chứng văn cụ thể, không đáng tin. Ông émile Gaspardone phối kiểm, đối chứng các sách: Lịch sử Cao Miên, Xiêm, tư liệu của Hamilton và Trịnh Hoài Đức, kết hợp lời văn giấy trắng mực đen của Vũ Thế Dinh (HTT/HT MTGP), nói theo chứng cứ cụ thể: “Sanh năm 1718, Mạc Thiên Tích chỉ có 62 tuổi thôi. Có lẽ phải sửa lại là lục thập dư... “Ông cho ta tư liệu về năm Xiêm cướp Hà Tiên gần thực hơn cả. Luận văn của chúng tôi chỉ minh họa thêm cho lời nói của nhà học giả khả kính của chúng ta. Nhưng thực chất của chân lý là chùm tin thuộc đề mục Sông Lũng Kỳ (xem sách Gia Định thành thông chí - Sđd - C/ t 6). Chúng ta thấy: Chính tác giả Hà Tiên Mạc thị sử Văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên loay hoay với những niên đại phóng tưởng, rồi phải dựa vào Trịnh Hoài Đức trong câu “Mạc Thiên Tích sanh đêm mồng bảy tháng ba... Ở Trũng Kè (Réam)”. Những năm này, nhà thi sĩ kiêm học giả của ta không tin lắm vào đoạn sử liệu do Trịnh Hoài Đức trích dẫn, mặc dù có nghi vấn về tên mẹ ông Thiên Tích là Bùi thị - vì tên bà trên bia mộ là Nguyễn thị - ông vẫn thấy cơ sở đáng tin trong sách Gia Định thành thông chí thuộc về: ngày tháng, nơi chốn, hoàn cảnh ra đời, tín hiệu điềm báo, lai lịch ngôi chùa Lũng Kỳ, là có thật. Bấy nhiêu chi tiết liên hệ đến sự ra đời của một nhân vật lịch sử tên tuổi, đủ để chúng ta ngày nay làm một “Bản lý lịch trích ngang” theo nhu cầu hiện đại, ta há không nhận thấy dụng ý sâu xa của tác giả Trịnh Hoài Đức khi nhắc đi nhắc lại một sự kiện đến 3 lần, trong một đoạn văn “Sông Lũng Kỳ”? Sở dĩ phải nhắc đoạn “Quốc sử Cao Miên” vì sách này nói đúng năm tháng trận đánh Hà Tiên hơn sử liệu của ta.

T.M.Đ

CHÚ THÍCH

1. Vì sách Mạc thị gia phả ghi không chính xác năm sinh của ông Mạc Thiên Tích nên trước đây mỗi người suy diễn theo cách riêng:

- Ông Đông Hồ lưỡng lự giữa 1706 và 1710 (ý kiến năm 1929), kế ông chấp nhận 1710 (từ 1952 đến 1958), sau rốt lại chọn 1706 (ý kiến cuối cùng được đưa ra năm 1959).

- Ông Trần Thiêm Trung do ảnh hưởng theo Đông Hồ từ năm 1952, nên chọn năm 1710 (Canh Dần). Khi ông Đông Hồ đổi ý, ông Trung vẫn giữ.

- Ông Trần Kinh Hòa cho rằng ông Mạc Thiên Tích ra đời năm 1700.

- Ông Vũ Văn Kính ghi nhận năm 1712 (Nhâm Thìn).

2. Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh, Bản A.39, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, sao chụp năm 2001.

3. Văn hóa Nguyệt san số 62 năm 1961, trang 721/35; bài Người Hoa Kiều tại Việt Nam bản dịch Việt ngữ sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, phần Phụ ngoại bản.

4. Tạp chí Nam Phong số 143 tháng 10 năm 1929, trang 327, bài Hà Tiên Mạc thị sử chú số 3.

5. Đông Hồ - Văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên – Nxb. Quỳnh Lâm 1970 - Sài Gòn; trang 149; Tiểu truyện Mạc Thiên Tích.

6. Trịnh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí - Nxb Giáo dục 1998; trang 184-185 phần Hán văn - (trang 70; phần Việt ngữ); mục: Sông Lũng Kỳ.

7. Trần Thiêm Trung - Hà Tiên địa phương chí, 1962. in Ronéo, tr.12.

8. Nhận thấy cái bia hướng dẫn di tích lăng mộ ông Thiên Tích do ông Trung cho dựng, ghi sai năm sinh của người xưa. Ban bảo vệ di tích đã cho thay thế. Bài viết này sẽ trình rõ ngày tháng năm đúng.

9. Ông Trần Kinh Hòa suy luận theo cách làm của Đông Hồ, chọn năm Canh Thìn (1700). Ông viết trong chú thích số 6 quyển Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả Chú thích: “Theo sách Phủ biên tạp lục, vào năm 1775, ông Thiên Tứ ngoài bảy mươi... tức năm sinh của ông ước khoảng từ 1697 đến 1705. Nay xem bản can chi, có thể thấy năm 1700 là năm Canh Thìn, mà Canh Thìn và Canh Tuất trong Gia phả phần Can tương đồng với nhau; thế nên Canh Thìn là năm sanh của Thiên Tứ”. HTTHT / MTGP / CT - Chen Ching Ho - Đài Loan tháng 4/1956, tr.87.

10, 11. Notes on the Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả - Chen Ching Ho - Bulletin of the College of Arts- National Taiwan University No.7, April 1956, (HTT / HTMGTP / chú thích) - Tiền ngôn: 1935 niên E.Gaspardone Giáo thụ ư kỳ trứ Annam thư mục, trung diệc hữu thuật cập - toàn ư 1952 niên, soạn tả Mạc Cửu phó ký thời phục tương kỳ nhất bộ phận, dư dĩ dẫn dụng (chú 10: Gasp. Un Chinois des mers du sud, le fondateur de Hà Tiên” Journal Asiatique, L’année 1952, p.363-385) (Sđd. tr.79).

12. Vũ Văn Kính Thư mục và văn bản - Thi văn Chiêu anh các. Sách còn dạng bản thảo - đánh máy; có 60 trang. Ở phần đầu (Phần Thư mục) trang 14-15, mục 16: Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả.

13+14. Trịnh Hoài Đức Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục, 1998; tr.70+71; Đề mục Sông Lũng Kỳ.

15+18. Xem thêm bài Về một vài niên đại bất đồng trong cuốn Lịch sử Đông Nam á, sách Nhận thức mới về đất Hà Tiên; TMĐ, Nxb. Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay –2001, tr.72-96; hoặc Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (299), tháng 7+ 8, năm 1998, tr.80-90.

16. Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả Bản A.39 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm tr.5 (3a) dòng thứ 6+7.

17. E.Gaspardone - Un Chinois des mers du sud - Le Fondateur de Ha Tien - Journal Asiatique 1952 - Paris - Imprimerie Nationale - Librairie Orientaliste - Paul Geuthner - trang377 - Chú số 8, Hamilton nói Xiêm đánh phá Hà Tiên năm 1717 trong đoạn tư liệu ở tr.371.

19 + 22 + 23. Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam liệt truyện tiền biên, Tập I - Nxb Thuận Hóa - Huế 1993 – tr.117-118 truyện Nguyễn Cửu Vân; Tr.163 truyện Mai Công Hương; tr.186 truyện Trần Thượng Xuyên; tr.174 truyện Mạc Cửu.

20 + 21. Lê Hương - Sử Cao Miên Nhà sách Khai Trí Sài Gòn - 1970; tr.167-168.

TB

VỀ THỜI ĐIỂM RA ĐỜI CỦA BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ

NGUYỄN THỊ OANH

Từ trước Cách mạng Tháng Tám cho tới nay, không ít học giả nổi tiếng trong công trình khoa học của mình vẫn khẳng định: bài thơ Nam quốc sơn hà là của Lý Thường Kiệt. Có thể kể ra đây một vài công trình tiêu biểu như: Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim(1), Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn(2), Việt Nam cổ văn học sử(3) của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu(4) của Dương Quảng Hàm, Tổng tập văn học Việt Nam(5) của Văn Tân, Lịch sử văn học Việt Nam(6) của Đinh Gia Khánh... và một số bộ tổng tập lớn của thời đại như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(7), Thơ văn Lý - Trần(8), Tổng tập văn học Việt Nam(9) v.v...

Gần đây, đã có thêm những ý kiến mới về tác giả cũng như thời điểm ra đời của bài thơ. Có lẽ người đầu tiên đặt lại vấn đề tác giả của bài thơ này là Hà Văn Tấn. Ông cho rằng: “Không có một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là “đoán” thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt”(10). Bùi Duy Tân trong bài: Truyền thuyết về một bài thơ “Nam quốc sơn hà” là vô danh không phải của Lý Thường Kiệt(11), cũng đã đưa ra nhiều luận cứ khoa học để khẳng định bài thơ Nam quốc sơn hà là khuyết danh, không phải của Lý Thường Kiệt như chủ thuyết trước đây, mặt khác dựa vào truyền thuyết và huyền tích còn lại, ông cũng nêu lên những dự đoán về thời điểm ra đời của bài thơ, cho rằng "truyền thuyết trong có bài thơ không thể xuất hiện muộn hơn năm ra đời sách Việt điện u linh (VĐUL) của Lý Tế Xuyên: 1329". Và phỏng đoán "Truyền thuyết có thể xuất hiện từ thời Ngô và sau đó là thời Đinh Lê, tức đầu thời tự chủ"(12).

Như chúng ta đã biết, bài thơ Nam quốc sơn hà nằm trong truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát(13), loại truyền thuyết anh hùng thường thấy trong lịch sử dân tộc. Truyền thuyết này được văn bản hóa sớm nhất ở sách VĐUL (1329). Ngoài ra, truyền thuyết còn được ghi lại trong các bộ sử lớn như Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) và các sách sử khác như Việt sử tiêu án (VSTA), Việt sử tiệp kính (VSTK), trong các bộ sách khác như Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC), Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC)... Mặt khác, truyền thuyết này cũng sớm được lấy lại trong Lĩnh Nam chích quái (LNCQ) (tương truyền của Trần Thế Pháp, biên soạn ở thời Trần) và các sưu tập truyện cổ dân gian khác Thiên Nam vân lục liệt truyện (TNVLLT), Mã lân dật sử (MLDS), các sách sử như Việt sử diễn âm (VSDA),Việt sử quốc âm (VSQA), Thiên Nam ngữ lục (TNNL) và các bộ sách khác như ĐNNTC và các bản thần tích sưu tầm trước đây và hiện nay. Với một khối lượng văn bản khá phong phú, có thể thấy truyền thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ nhiều thế hệ độc giả. Ở các văn bản, truyền thuyết luôn được trình bày với tư cách là truyền thuyết dân gian thành văn. Tuy mang mầu sắc thần quái nhưng lại được hư cấu dựa trên các chi tiết lịch sử có thật nên truyền thuyết mang tính chất của loại hình tự sự dân gian sơ khai. Do được trình bày với tư cách là truyền thuyết dân gian thành văn nên ngay cả khi đã được định hình, nghĩa là đã bị đóng khung trong một nội dung cố định thì tính linh động do bản chất là truyền khẩu dân gian vẫn làm cho truyền thuyết không ngừng vận động và phát triển, vì vậy tính đa dị là phổ biến. Để có thể tìm hiểu thời điểm ra đời của bài thơ, tìm về "bản lai diện mục" của nó, việc thống kê, phân loại và xác định nguồn tư liệu gốc (đối tượng khảo sát của chúng tôi là tư liệu thành văn) là rất cần thiết. Nếu không giải quyết tốt vấn đề trên thì mọi sự phân tích, đánh giá đều khó tiếp cận sự thật.

Theo thống kê ban đầu, có khoảng 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích(14) về truyền thuyết trong có bài thơ được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm hiện còn lưu trữ tại các thư viện ở Hà Nội. Dựa vào sự thay đổi về nội dung truyền thuyết và thời điểm ra đời của bài thơ, chúng tôi chia nguồn tư liệu trên thành hai nhóm. Hai nhóm này gắn với hai giả thiết về thời điểm ra đời của bài thơ(15). Giả thiết thứ nhất (nhóm Một): Bài thơ ra đời gắn với truyền thuyết thần đọc thơ ngầm giúp Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt vào năm Bính Thìn, niên hiệu Thái Ninh thứ 5 (1076) trên sông Như Nguyệt. Giả thiết thứ hai (nhóm Hai): Bài thơ ra đời gắn với truyền thuyết thần đọc thơ ngầm giúp Lê Đại Hành trong công cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất của dân tộc, năm Tân Tị, niên hiệu Thiên Phúc thứ 2 (981).

Để có thể tìm về bản xưa nhất ghi chép truyền thuyết qua hai nhóm tư liệu trên, việc xác định bản gốc, bản có đủ độ tin cậy về mặt văn bản là thao tác không thể thiếu trước khi đi vào nghiên cứu tư liệu.

Trong nguồn tư liệu thuộc nhóm Một, chúng tôi chọn bản VĐUL, ký hiệu A.751 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) làm bản nền. Xem lại truyền thuyết trong có bài thơ ở các dị bản của sách VĐUL, chúng tôi thấy không có sự khác nhau giữa chúng. Do truyền thuyết được chép tương đối thống nhất nên việc tìm ra bản nào là bản cổ nhất của sách này là hết sức khó khăn. Sở dĩ chúng tôi chọn bản trên bởi bản này chép truyền thuyết tương đối thống nhất (tỉ lệ tương đồng có xê xích) với sách ĐVSKTT, bản Chính Hòa 18 (1697). Ngoài ra, trong nhóm Hai, chúng tôi cũng chọn bản LNCQ A.2914 (VNCHN)(16) làm bản gốc. Bản này được sao lại từ bản có niên đại khá sớm (1554), do Đoàn Vĩnh Phúc sưu tầm từ bản hiệu chỉnh của Vũ Quỳnh và là bản không có gì thay đổi nhiều so với cuốn Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp. Đây cũng là bản được Phan Huy Chú mô tả trong LTHCLC(17), và là bản được Quốc sử quán triều Nguyễn sử dụng khi biên soạn ĐNNTC(18) và Ngô Thì Sĩ giới thiệu trong ĐVSTTB (19). Với hai bản VĐUL và bản LNCQ trên, (trong khi chưa tìm được tư liệu đáng tin cậy hơn) có thể coi đây là tư liệu ghi chép xưa nhất về truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát trong có bài thơ Nam quốc sơn hà.

Theo sách VĐUL , kí hiệu A.751, truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát ra đời gắn với nhân vật lịch sử Ngô Nam Tấn. Truyền thuyết tóm tắt như sau: Theo Sử ký của Đỗ Thiện, Ngô Nam Tấn đánh giặc Lý Huy ở Long Châu đóng quân ở cửa sông Phù Lan nằm mộng thấy thần nhân. Thần nhân đến trước vua bái lạy và thưa rằng họ là hai anh em, anh là Trương Hống, em là Trương Hát là tướng của Triệu Việt Vương. Sau Triệu Việt Vương bị Lý Nam đế cướp ngôi, Nam đế cho vời ra làm quan, hai anh em không theo, ẩn vào núi Phù Long. Nam đế thuê người lùng bắt, hai anh em uống thuốc độc chết. Thượng đế cho hai người làm thủy thần, xin được giúp vua phá giặc. Sau đó quả nhiên giặc tan. Sau khi Long Châu được dẹp yên, vua Nam Tấn cho lập đền thờ và phong thưởng cho hai thần. Một là Đại đương giang đô hộ quốc thần vương, đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt. Một là Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương, đền thờ ở cửa sông Nam Bình.

Thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) quân Tống sang xâm lấn. Vua sai Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm thần hiển hiện đọc bài thơ Nam quốc sơn hà:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Sông núi nước Nam đã có vua nước Nam ở,
Tại sổ trời đã ghi địa phận rõ ràng,
Sao bọn giặc kia lại xâm phạm,
Chúng bay sẽ thấy bị thua to).

Quả nhiên quân Tống bị thua, phải rút về nước"(20).

Theo LNCQ, bản A.2914, truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát (với tiêu đề truyện là Long Nhãn Như Nguyệt nhị thần truyện. Truyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt) và bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời gắn với vua Lê Đại Hành và cuộc kháng chiến chống quân Tống của quân dân nước ta vào cuối thế kỷ X [năm Tân Tị, niên hiệu Thiên Phúc (981)].

Truyền thuyết tóm tắt như sau: "Năm Tân Tị niên hiệu Thiên Phúc, triều Lê, Tống Thái Tông sai tướng quân Nhân Bảo, Tôn Toàn đem binh xâm lược phương Nam đến cửa biển Đại Than. Vua Đại Hành cùng tướng quân Phạm Cự Lượng dựng lũy, cầm cự với giặc ở sông Đồ Lỗ. Lê Đại Hành đêm canh ba nằm mộng thấy thần nhân tới bái lạy trên sông. Thưa rằng: "Hai anh em thần, một người là Trương Hống(21), một người là Trương Hát, trước theo vua Ngô dẹp nghịch tặc bình định được thiên hạ, đến đời hậu chúa Nam Tấn thì mất nước. Họ Đinh nghe tiếng anh em thần bèn triệu về, bọn thần vì nghĩa không theo bèn uống rượu độc mà chết. Thượng đế thương tình ban tên cho là Thần bộ quan, thống lĩnh tướng các âm binh. Nay giặc Tống sang xâm phạm bờ cõi, xin được cùng hoàng đế đánh giặc Bắc Tống để cứu sinh dân". Vua tỉnh dậy, lập tức thắp hương khấn vái xin được thần nhân trợ giúp, sau đó giết súc vật, đốt vàng mã làm lễ cúng tế. Đêm ấy, Đại Hành lại mộng thấy thần nhân thống lĩnh âm binh tiến đánh giặc. Canh ba, đêm tháng mười, trời đất tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng, quân Tống kinh hoàng, tháo chạy tán loạn, thần nhân ẩn mình trên không trung lớn tiếng ngâm thơ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư,
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm,
Hội kiến thịnh trần tận tảo trừ.

(Núi sông nước Nam vua Nam ở,
Trời xanh đã định trong sách trời,
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm,
Sẽ gặp cuồng phong đánh tơi bời).

Quân Tống nghe bài thơ đó đánh giết lẫn nhau rồi mạnh ai người nấy chạy tháo thân về nước. Vua phong thưởng tướng sĩ rồi truy phong công lao hai thần. Một là Khước Địch đại vương, lập đền ở ngã ba sông Long Nhãn. Một là Uy Linh đại vương, lập đền ở ven sông Như Nguyệt".

Thử so sánh truyền thuyết này trong LNCQ với truyền thuyết trong VĐUL thì thấy giữa chúng có chung một môtip nội dung, bao gồm các yếu tố:

- Thần báo mộng: gắn với nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử.

- Hành trạng của thần: đều là bậc trung thần, có công trong việc giúp nước giúp dân, lại là bậc trung trinh, tuẫn tiết vì điều nghĩa.

- Công tích của thần: sau khi mất, hiển ứng giúp vua chống giặc nội phản và giặc ngoại xâm.

- Sự phong thưởng của triều đình phong kiến: sau khi phù giúp, được vua bao phong, lập đền thờ cúng.

Bên cạnh cái chung, sự khác nhau trong các tình tiết cụ thể cũng là điều dễ nhận thấy. Nếu truyền thuyết trong LNCQ gắn với nhân vật lịch sử Lê Đại Hành thì truyền thuyết trong VĐUL gắn với nhân vật lịch sử Ngô Nam Tấn. Nếu bài thơ trong LNCQ là thành phần hữu cơ của truyền thuyết thì bài thơ trong VĐUL là sự chép tiếp nối sau khi truyền thuyết kết thúc. Ngoài ra, việc phong thưởng của nhà nước phong kiến không có trong sự kiện thần phù giúp Lý Thường Kiệt.

Như vậy, truyền thuyết có trước hay bài thơ có trước ? Bài thơ gắn với truyền thuyết về Lê Đại Hành hay Lý Thường Kiệt ?

Theo bản LNCQ A.2914 (VNCHN), bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời gắn với chiến công hiển hách đánh tan quân Tống xâm lược lần thứ nhất của vua Lê Đại Hành. Bài thơ được sáng tác để cổ vũ tinh thần của binh sĩ ta đồng thời khẳng định sự độc lập hoàn toàn của quốc gia và chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng không thể xâm phạm của dân tộc. Nội dung của bài thơ hoàn toàn phù hợp với không khí sục sôi chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta thời bấy giờ. Xem lại các dị bản của bài thơ, [chúng tôi lấy bài thơ trong LNCQ A.2914 và VĐUL A.751 (VNCHN) đã nêu phía trên để đối chiếu](22) câu thơ thứ nhất "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" không thay đổi trong tất cả các dị bản. Câu thứ hai: Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư, câu này thay đổi ở các từ : "Hoàng thiên" (Trời xanh) thành "tiệt nhiên" (rõ ràng); "dĩ định" (đã định) thành "phận định" (địa phận đã định). Nếu đọc lướt qua thì có lẽ giữa hai dị bản của câu thơ này không khác nhau về ý nghĩa, nhưng thực ra chúng khác nhau về sắc thái tu từ. Dùng "Tiệt nhiên" có lẽ "dứt khoát, rành mạch, đúng với đạo lý hơn" và cũng mới thấy cái ngang ngược, bất chấp đạo lý của bọn giặc xâm lược. Nếu so với câu: Tiệt nhiên phận định tại thiên thư (Tại sổ trời đã ghi địa phận rõ ràng) thì câu: Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư (Trời xanh đã định trong sách trời) thì có thể thấy rõ tư tưởng "thiên mệnh" bao trùm tâm thức của người dân thời bấy giờ. Câu tiếp theo: Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm, trong câu này từ "Bắc lỗ" (giặc Bắc) được thay bằng "nghịch tặc" (bọn giặc). Từ "nghịch tặc" là chỉ chung bọn giặc, chẳng kể giặc Bắc, giặc Chiêm Thành và những bọn giặc ngoại xâm khác. Còn "Bắc Lỗ" thì chỉ có một ý nghĩa là "giặc Bắc" "giặc Tống" mà thôi. Vì vậy bài thơ có từ "Bắc Lỗ" là bài thơ nói về cuộc kháng chiến chống giặc Bắc (ở đây là giặc Tống) mà không phải chiến trận nào khác. Câu cuối cùng: Hội kiến thịnh trần tận tảo trừ (Sẽ bị cuồng phong đánh tơi bời), câu này được thay hết bằng: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bay sẽ thấy bị thua to). Câu thơ: Hội kiến thịnh trần tận tảo trừ so với câu thứ hai khác ở chỗ nó được gắn với khung cảnh thiên nhiên cụ thể, trong một chiến trận cụ thể. Còn Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư gắn kết có tính biện chứng với câu trước nó Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, (Sao bọn giặc kia lại dám xâm phạm, chúng bay sẽ thấy bị thua to), ý nghĩa của hai câu thơ đã được mở rộng không chỉ trong khung cảnh một trận đánh, với một đối tượng là giặc Bắc mà chỉ chung cho mọi nơi, mọi lúc, với mọi đối tượng là giặc ngoại xâm(23).

Phải chăng từ bài thơ có tính cụ thể đã được thay đổi bằng bài thơ mang tính khái quát. Bài thơ đã được thay đổi từ bao giờ ?

Trở lại sách VĐUL, tập sách sớm nhất ghi chép về truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát, bài thơ xuất hiện gắn với công cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lý Thường Kiệt vào thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127).

Cứ theo thời điểm ghi trong truyền thuyết thì bài thơ gắn với truyền thuyết chống quân Tống của vua Lê Đại Hành phải có trước (năm 981) còn bài thơ gắn với Lý Thường Kiệt phải có sau (năm 1076). Thực ra hai sự kiện lịch sử này cách nhau không xa, khoảng 95 năm, nhưng vì sao trong các sách chính thống của nhà nước phong kiến như VĐUL, các sách sử như ĐVSKTT lại không chép bài thơ đó gắn với vua Lê Đại Hành ? Phan Huy Lê khi khảo cứu tác phẩm ĐVSKTT đã cho rằng: "Các tác giả Đại Việt sử kí toàn thư đã đứng trên quan điểm chính thống, đạo trung quân cùng với những nguyên tắc của tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức để viết sử, để khen chê, để đánh giá và bình luận các nhân vật lịch sử"(24). Vì vậy khi đánh giá về Lê Hoàn (Lê Đại Hành), người sáng lập ra nhà Tiền Lê (980-1009), một vị anh hùng dân tộc có công lớn trong việc tổ chức và lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất, người đã được nhà viết sử Lê Văn Hưu hết lòng ca ngợi "Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, trói Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là các vua Hán, Đường cũng không hơn được" thì ngòi bút của Ngô Sĩ Liên lại phê phán gay gắt Lê Đại Hành về "tội" không hết lòng phò tá con vua Đinh, lập Dương Thị làm Hoàng hậu. Ông viết: "Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, mối của vương hóa... Đại Hành thông dâm với vợ vua rồi nghiễm nhiên lập làm Hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn vậy". Nếu đã đánh giá Lê Đại Hành như vậy thì dễ gì lại đem bài thơ như một bản "Tuyên ngôn độc lập" đó của dân tộc gắn cho Lê Hoàn được. Vì vậy có lẽ đến thời điểm biên soạn bộ ĐVSKTT, các tác giả đã gắn bài thơ đó cho Lý Thường Kiệt. Cũng có thể đến thời Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt đã mượn danh thần, cho người nấp vào đền ngâm bài thơ để cổ vũ quân sĩ, làm tiêu tan ý chí và tinh thần của kẻ địch. Việc mượn uy thần trong chiến trận cũng là một điều dễ hiểu, nhưng việc thần không được triều đình phong kiến nhà Lý phong thưởng sau khi thắng trận lại không theo lệ thường. Không lẽ vua Lý Nhân Tông "quên" không phong thưởng cho thần hay VĐUL "bỏ sót" không chép ?

Có một điều đáng lưu ý, việc lấy mĩ hiệu của thần làm tiêu đề cho các thiên truyện của VĐUL là khá nhất quán, ví dụ truyện về Phạm Cự Lượng có tiêu đề là Hồng thánh trung vũ tá trị đại vương, “Hồng thánh” là tên hiệu thần do vua Lý Thái Tông (1028 - 1053) phong cho, tiếp theo đến đời Trần, năm Trùng Hưng 1 (1285) , phong hai chữ “Khuông quốc”, năm thứ 4 (1288) gia phong hai chữ “Trung vũ”. Đến năm Hưng Long 21 (1311) thêm hai chữ “ Tá trị”. Hoặc truyện thần sông Tô Lịch với tiêu đề là Bảo quốc trấn linh định bang quốc đô thành hoàng đại vương. “Quốc đô thành hoàng đại vương” là do vua Lý Thái Tổ (1010) phong cho thần, tiếp đến đời Trần năm Trùng Hưng 1 (1285) được phong thêm hai chữ Bảo quốc, năm thứ 4 (1288) phong thêm hai chữ Hiển linh, năm Hưng Long 21 (1311) phong hai chữ Định bang. Nhưng ở truyện thần Trương Hống, Trương Hát dường như có sự thay đổi. Đại đương giang đô hộ quốc thần vương Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương là tên hiệu thần do vua Ngô Nam Tấn phong cho vì có công ngầm giúp vua chiến thắng giặc ở Long Châu. Theo cách đặt tên truyện của VĐUL thì tên hiệu thần là Đại đương giang đô hộ quốc thần vương Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương phải có mặt trong tiêu đề truyện Trương Hống, Trương Hát, nhưng tên truyện lại đặt là Khước địch thiên hựu, trợ thuận đại vương, Uy địch dũng cảm, hiển thắng đại vương. Khước địch Uy địch mới phong sau ở thời Trần, không biết Lý Tế Xuyên quên không đưa vào tên truyện ? Hay truyền thuyết Ngô Nam Tấn là sự "thêm vào sau khi thay đổi truyền thuyết" của người đời sau ?

Chúng ta đã biết, LNCQ là sưu tập những câu chuyện dã sử có tính chất dân gian được sưu tầm ở cõi Lĩnh Nam (tức nước ta) thời cổ. Trong số các truyện của LNCQ, chí ít cũng có 4 truyện được lấy từ VĐUL, trong đó có truyện Trương Hống, Trương Hát(25). Theo chúng tôi, có thể ban đầu VĐUL đã chép truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát gắn với vua Lê Đại Hành và công cuộc chống giặc Tống xâm lược theo đúng hào khí lịch sử thời bấy giờ, nhưng về sau do quan điểm Nho giáo, coi trọng chính thống như đã phân tích trên, người biên soạn có thể đã thay đổi nội dung của truyền thuyết. Khi đã thay đổi nội dung của truyền thuyết, thì bài thơ vốn có trong truyền thuyết sẽ gắn cho nhân vật lịch sử nào ? Không phải vua Ngô Nam Tấn bởi vua Nam Tấn không đánh giặc ngoại xâm. Lý Thường Kiệt, vị anh hùng dân tộc đã đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt có lẽ là người xứng đáng nhất để thần hiển hiện đọc bài thơ cổ vũ binh sĩ. Như trên đã phân tích, nếu được thần ngầm giúp thì sau khi chiến thắng vua Lý Nhân Tông phải phong thưởng, ban thêm mĩ tự cho thần, nhưng không thấy VĐUL ghi chép gì về điều này. Ngay trong tự điển các thần, tức các bản thần tích, thần phả được lưu giữ nhiều đời ở các đền họ Trương và trong hồ sơ gia phong tước hiệu các thần ở triều đình cũng không thấy ghi chép gì việc vua Lý Nhân Tông phong tước hiệu cho thần sau cuộc kháng chiến chống quân Tống thắng lợi. Việc phong thưởng phải chờ đến 200 năm sau, tức năm Trùng Hưng 1 (1285) hai thần mới được phong là Như nguyệt khước địch Uy địch đại vương. Việc không được triều đình phong kiến phong thưởng chẳng phải nói lên sự kiện "Lý Thường Kiệt" chỉ là sự "tái tạo" truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát về sau này của các sử gia phong kiến sao ?

Có lẽ truyền thuyết ban đầu của VĐUL đã bị các sử gia phong kiến sau này sửa chữa cho phù hợp với nhãn quan Nho giáo, và như vậy, truyền thuyết trong có bài thơ của LNCQ cổ nói trên phải chăng là dạng ban đầu, xưa nhất của sách VĐUL mà nay chúng ta mới tìm thấy ?

Một điều đáng chú ý khác, trong các dị bản bài thơ sưu tầm ở đền họ Trương các vùng ven sông Cầu, bài thơ Nam quốc sơn hà đều được chép đúng ý nghĩa như bài thơ trong bản LNCQ A.2914, chỉ có thay đổi một vài từ ở câu cuối cùng, nhưng vẫn có nghĩa là mây mưa gió bão, gắn với khung cảnh thiên nhiên bài thơ ra đời(26). Mặc dù bài thơ gắn với Lý Thường Kiệt đã được các sử gia phong kiến chính thức chép vào quốc sử (ĐVSKTT), nhưng ở những nơi thờ hai vị thần họ Trương có công ngầm giúp Lê Đại Hành trong cuộc chiến với quân Tống, nhân dân vẫn giữ lại truyền thuyết trong có bài thơ trên, giống như người dân Hoa Lư vẫn lập đền thờ, tô tượng hai vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương Hậu cùng ngồi như ĐVSKTT đã ghi lại(27). Thái độ của nhân dân ta thật rõ ràng, công minh, tôn kính những người có công với nước với dân, cho dù các sử gia phong kiến có lên án, buộc tội oan uổng.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, bài Nam quốc sơn hà ra đời gắn với Lê Đại Hành và công cuộc kháng chiến vĩ đại lần thứ nhất của dân tộc ta sau khi giành được quyền độc lập tự chủ từ tay đế chế phương Bắc. Bài thơ đã phản ánh đúng hào khí của thời đại, tâm thức và nguyện ước của nhân dân. Tác giả của bài thơ là hàng ngũ trí thức, những người đã tận mắt chứng kiến hoặc cùng tham gia chiến đấu trong khí thế sục sôi chống giặc xâm lược của cả dân tộc thời bấy giờ. Theo năm tháng, bài thơ từ chỗ gắn liền với một thời đại, một nhân vật lịch sử đã trở thành bài thơ cho mọi thời đại, "có tính chất quốc thi, quốc thiều, có giá trị như Tuyên ngôn độc lập". Chúng tôi cho rằng, dù bài thơ đã được thay đổi cho phù hợp với xu thế của lịch sử và thời đại nhưng thời điểm ra đời của bài thơ gắn liền với nhân vật lịch sử Lê Đại Hành và cuộc kháng chiến chống giặc Tống năm 981 là điều nên khẳng định.(28) (**)

N.T.O

CHÚ THÍCH

1. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, tái bản. Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999, tr.112.

2. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, tái bản. Sông Nhị, H., tr.303.

3. Nguyễn Đổng Chi: Việt Nam cổ văn học sử. Hà Thuyên xuất bản cụ. H., 1942, tr.143.

4. Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, in lần thứ mười, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1968, tr.231-232.

5. Văn Tân: Tổng tập văn học Việt Nam, Tập I. Nxb. KHXH., Hà Nội, 1980, tr.231.

6. Đinh Gia Khánh: Lịch sử văn học Việt Nam, Tập I. Nxb. KHXH., H., 1980, tr.192.

7. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam-Thế kỉ X - thế kỉ XVII. Đinh Gia Khánh - Bùi Văn Nguyên - Nguyễn Ngọc San. Tái bản. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1976, tr.56-68.

8. Thơ văn Lý - Trần, Tập I, Khảo luận văn bản: Nguyễn Huệ Chi. Nxb. KHXH., Hà Nội, 1977, tr.318-322.

9. Tổng tập văn học Việt Nam, Tập I. Chủ tịch Hội đồng biên tập: Đinh Gia Khánh. Nxb. KHXH., Hà Nội, 1980, tr.114.

[Các chú thích từ 1đến 9, chúng tôi dẫn lại từ bài: Truyền thuyết về một bài thơ: “Nam quốc sơn hà” là vô danh không phải của Lý Thường Kiệt của Bùi Duy Tân, Tạp chí Văn hóa dân gian số 4 (72) năm 2000, tr.40-41.]

10. Hà Văn Tấn: Lịch sử, sự thật và sử học. Báo Tổ quốc, số 401, tháng 1-1988; In trong Giáo sư Sử học, Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, tr.85-94.

11. Bùi Duy Tân: Truyền thuyết về một bài thơ "Nam quốc sơn hà" là vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt. Bđd., tr.32-42.

12. Bùi Duy Tân: Truyền thuyết về một bài thơ "Nam quốc sơn hà" là vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt. Bđd, tr.36-37.

13. Cách gọi tên thần ở nhiều dị bản khác nhau, chúng tôi theo cách gọi của sách VĐUL. (Xem VĐUL. Trịnh Đình Rư dịch theo bản A,751, Thư viện Khoa học. Nxb. Văn hóa, 1960).

14. Về số lượng các dị bản của bài thơ, theo Trần Nghĩa, ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Sử học hiện lưu trữ 26 dị bản. (Xem Trần Nghĩa: Thử xác lập văn bản bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1986, tr.24-32). Theo Bùi Duy Tân, ngoài 26 dị bản nói trên còn tìm thêm được 4 dị bản nữa, cộng là 30 dị bản. (Xem xuất xứ ở chú thích 10). Chu Thanh Nga trong Khóa luận “Bước đầu khảo sát Trương Tôn thần sự tích” tr.18 cũng tìm ra 13 dị bản truyền thuyết hiện lưu trữ tại VNCHN.

15. Căn cứ vào sự thay đổi về nội dung truyền thuyết và thời điểm ra đời của bài thơ chúng tôi tạm chia làm 2 nhóm sau.

1/ Nhóm Một: gồm các bản:

- Việt điện u linh (VĐUL): A.47, A.1919, A.2879, VHv.1285/1-2, VHv.1503, A.751, A.335 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm - VNCHN).

- Lĩnh Nam chích quái (LNCQ): A.2107, A.750 (Bản thành Ba - lê) (VNCHN), R.6 (Thư viện Quốc gia - TVQG).

- Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT): A.3 (VNCHN).

- Việt sử tiêu án (VSTA): A.11 (VNCHN)

- Việt sử tiệp kính (VSTK): A.1493 (VNCHN).

- Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC): A.1551 (VNCHN).

- Bằng trình thản bộ (BTTB): A.802 (VNCHN).

- Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) A.69 (VNCHN).

- Trương Tôn thần sự tích, VHv.1286 (VNCHN).

- Thần tích xã Vịnh Kiều, tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. AE a7/8 (VNCHN).

- Thần tích xã Thống Hạ, tổng Khắc Niệm, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. AE a 7/30 (VNCHN).

- Thần tích xã Cẩm Hoàng, tổng Cẩm Bào, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. AE a14/1 (VNCHN).

2/ Nhóm Hai: gồm các bản:

- LNCQ: A.2914 (VNCHN), R.1607 (TVQG)

- ĐNNTC: A.69 (VNCHN)

- Mã lân dật sử (MLDS) A.1516 (VNCHN)

- Thiên Nam vân lục liệt truyện (TNVLLT) A.1442 (VNCHN)

- Việt sử diễn âm (VSDA) AB.110 (VNCHN)

- Lĩnh Nam chích quái: HV.486 (VSH), VHv.1473, A.1300, A.750 (Bản Nguyễn Hữu Kỉnh), VHv.1266, A.33, VHv.1200, A.1752 (VNCHN).

- Việt sử quốc âm (VSQA): AB.308 (VNCHN).

- Thiên Nam ngữ lục (TNNL): AB.478.

- Trương Tôn thần sự tích. VHv.1286 (VNCHN).

- Bản Thần phả ở thôn Quả Cảm, xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc của Dương Thái Minh, (VNCHN).

- Thần tích thôn Đỗ thị, xã Phù Lưu, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. AE a.7/6 (VNCHN).

- Thần tích xã Đào Thục, tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. AE a11/4 (VNCHN).

- Thần tích xã Phượng Nhãn, tổng Trí An, huyện Phượng Nhãn, tỉnh Bắc Giang. AE a.14/16 (VNCHN)

- Thần tích xã Xuân Nộn, tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. AE.a11/4 (VNCHN).

[Trong 13 bản thần tích hiện lưu trữ ở VNCHN, chỉ có 8 bản chép truyền thuyết trong có bài thơ. Có bản còn gộp cả hai giả thiết vào một bản như Trương Tôn thần sự tích, kí hiệu VHv.1286. Các bản thần tích đều có niên đại khá muộn, chúng tôi chỉ tham khảo khi thấy cần thiết]

16. Xem thêm: Nguyễn Thị Oanh: Về quá trình lưu truyền văn bản Lĩnh Nam chích quái. Tạp chí Hán Nôm, số 3 (48), 2001, tr.34-45. Nguyễn Thị Oanh: Một số vấn đề liên quan đến văn bản Lĩnh Nam chích quái. Hội nghị Thông báo Hán Nôm năm 2001.

17. Lịch triều hiến chương loại chí, bản chữ Hán, kí hiệu A.1551/1-6 (VNCHN), phần Dư địa chí, tỉnh Bắc Ninh.

18. Đại Nam nhất thống chí, tập IV. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phạm Trọng Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Nxb. KHXH., Hà Nội, 1971, tr.104.

19. Đại Việt sử ký tiền biên. Lê Văn Bẩy, Nguyễn Thị Thảo, Dương Thị the, Phạm Thị Thoa (dịch, chú thích), Lê Duy Chưởng (hiệu đính). Nxb. KHXH., Hà Nội, 1997, tr.247.

20. Chúng tôi dựa vào bản dịch VĐUL do Trịnh Đình Rư dịch theo bản A.751 của Thư viện Khoa học, Sđd, để tóm tắt.

21. Nguyên văn là Trương Bạn. Xem thêm chú 13.

22. Bài thơ có rất nhiều dị bản, ở đây chúng tôi chỉ lấy 2 dị bản đại diện cho hai sách ghi chép xưa nhất về truyền thuyết trong có bài thơ để so sánh. Sở dĩ chúng tôi chọn bản VĐUL A.751 bởi đây là bản có cách ghi chép thống nhất với ĐVSKTT, bản Chính Hòa 18 (1697). Tuy nhiên ở câu thơ thứ hai "Tiệt nhiên phân (phận) định tại thiên thư", chữ Hán "phân" có hai cách đọc nên dịch giả của ĐVSKTT dịch là "Rõ ràng phân định tại sách trời". Để thống nhất với bản VĐUL đã chọn làm bản đối chiếu, chúng tôi lấy lại đúng bản dịch của ông Trịnh Đình Rư.

23. Bài thơ Nam quốc sơn hà, trong bản LNCQ A.2914, (VNCHN) còn có dị bản của hai câu thơ cuối như sau: "Như kim nghịch tặc lai công kích, Nhữ đẳng hồi ? khan tặc chúng hư". Tạm dịch: Như nay nghịch tặc tới công kích, Quân sĩ lại có thể thấy quân giặc sẽ bị thua to).

24. Đại Việt sử kí toàn thư. Bản in Nội các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Lời giới thiệu: Gs. Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác giả, văn bản, tác phẩm: Gs. Phan Huy Lê. Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính: Gs. Hà Văn Tấn. Nxb. KHXH., Hà Nội, 1993, tr.73.

25. Bốn truyện được lấy từ VĐUL là: Lý Ông Trọng, Tản Viên, Tô Lịch và Long Nhãn Như Nguyệt (tức hai vị thần Trương Hống, Trương Hát).

26. Trong bài: Thử xác lập văn bản bài thơ "Nam quốc sơn hà", Trần Nghĩa đã dùng phương pháp định lượng để chọn cho bài thơ những chữ có tần số xuất hiện lớn nhất, kết quả là văn bản khả dĩ do ông xác lập cũng có nội dung gần với bài thơ được chép xưa nhất trong LNCQ. Xem Trần Nghĩa: Thử xác lập văn bản bài thơ "Nam quốc sơn hà". Bđd, tr.24-32.

27. Phan Huy Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.73.

28. Sách ĐVSKTT , Kỷ nhà Lê, Đại Hành Hoàng đế, chép: "Năm Tân Tị, [Thiên Phúc] năm thứ 2 [Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 6]. Mùa xuân, tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông. Quân Tống lui, lại đến sông Chi Lăng. Vua sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, nhân đó bắt được Nhân Bảo đem chém. Bọn Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên" (ĐVSKTT, Sđd, tr.330-221).

Từ cách ghi chép trên của ĐVSKTT cũng có nhà nghiên cứu cho rằng "Lê Hoàn (Lê Đại Hành) có đánh nhau với quân Tống năm 981, dụ bắt được tướng Tống là Hầu Nhân Bảo, nhưng sự việc này xảy ra ở sông Chi Lăng (Lạng Sơn) chứ không phải ở sông Cầu (Hà Bắc), nơi có đền thờ Trương Hống được gán cho là tác giả của bài thơ Nam quốc sơn Hà (Trần Nghĩa: Thử xác lập văn bản bài thơ "Nam quốc sơn hà". Bđd, tr.32). Theo bản A.2914, Lê Đại Hành dựng lũy chống cự với địch ở sông Đồ Lỗ. Hiện nay chúng tôi chưa tìm được tư liệu nào nói về con sông này, dựa vào sự thay đổi tên sông này thành địa danh Phù Lỗ trong truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát ở sách VSDA: "Đến thành Phù Lỗ đóng vây, quân ta quân nó đôi bên ngất trời" chúng tôi cho rằng sông Phù Lỗ (bắt giặc) có thể lúc nào đó đã được gọi là sông Đồ Lỗ (giết giặc) chăng. Có lẽ còn phải tra cứu thêm, nhưng theo ĐNNTT, sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu) có một nhánh "bắt nguồn từ sông Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây, chia ra chảy qua địa phận các huyện Yên Lãng và Yên Lạc (xem Sơn Tây tỉnh chí) vào địa phận huyện Kim Anh, rồi chảy về phía đông 43 dặm làm sông Phù Lai, sông Hương Da, sông Phù Lỗ, lại chảy 53 dặm, đến sông Lương Phúc, huyện Thiên Phúc, hợp với sông Hương La, đấy là ngã ba, lại chảy qua địa phận các huyện Hiệp Hòa, Yên Phong, Việt Yên và Võ Giàng, gồm 112 dặm, đến sông Phả Lại huyện Quế Dương, vào sông Đại Than, huyện Gia Bình, hợp với sông Thiên Đức suốt đến sông Phao tỉnh Hải Dương, đấy là một nhánh của sông Lục Đầu" (ĐNNTC. Sđd., tr.78). Như vậy từ sông Phù Lỗ có thể ra đến cửa biển Đại Than, là địa điểm có trong truyền thuyết khi quân Tống đặt chân sang nước ta.

Dựa vào nguồn sử liệu thời Tống như Tống sử bản kỉ, Tục tư trị thông giám trường biên, Tống sử, Tống sử liệt truyện... cũng như nguồn sử liệu nước ta như VSL, ĐNNTC gần đây các nhà nghiên cứu sử học Việt Nam đã đi đến kết luận: "Hầu Nhân Bảo bị bắt và giết trên sông Bạch Đằng, không phải ở sông Chi Lăng như Toàn thư ghi chép" (Nguyễn Minh Tường: Trận Bạch Đằng năm 981. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa nay, số 86/2001; Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1992, tr.37). Và năm 981, cũng có một trận Đồ Lỗ "là nơi gần gũi với sông Cầu và sông Cà Lồ, vì Bình Giang chính là sông Cầu, còn Như Nguyệt là chỗ sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu) (Nguyễn Vinh Phúc: Có một trận Bình Lỗ năm 981. Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa nay , số 86/2001). Còn địa điểm Đại Than là "bãi giữa sông Thiên Đức (sông Đuống) với ở xã Đại Than, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay là Xã Cao Đức, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, gần chỗ tiếp giáp với sông Lục Đầu (là khúc sông giáp giới hai tỉnh Hà Bắc và Hải Dương, nơi tập trung của ba con sông: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu (Nguyệt Đức) và sông Thương (Nhật Đức). Đây là địa điểm mà tất cả các bản LNCQ nhóm Hai đã ghi chép khi quân Tống sang xâm lược nước ta. Cũng theo các nhà nghiên cứu sử học thì đại bản doanh của Lê Đại Hành có thể ở vùng Chí Linh, Hải Dương . Nếu đúng như nhận định trên thì có thể từ sông Đồ Lỗ (tức từ đoạn sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu) cho đến sông Đại Than là phòng tuyến chống giặc Tống của quân ta thời đó.

Như vậy, thời gian, địa điểm xảy ra chiến trận trong truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát trong bản LNCQ A.2914 xưa nhất đều phù hợp sự thật lịch sử và đã được các nhà nghiên cứu lịch sử xác nhận.

(**) Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Trần Nghĩa đã góp nhiều ý kiến quý báu cho bài viết này.

TB

ĐẾN HÀN SAN TỰ ĐỂ TÌM HIỂU BÀI THƠ PHONG KIỀU DẠ BẠC CỦA TRƯƠNG KẾ

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Trong chuyến đi Trung Quốc vừa qua, chúng tôi đã có dịp tới thăm quan thành phố Tô Châu, nơi có ngôi chùa Hàn San nổi tiếng.

Ngôi chùa này được xây dựng từ thời Nam triều (đầu thế kỷ VI) và đã được đặt tên là Diệu Lợi. Về sau chùa được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu Phong Kiều. Đến đời nhà Đường vì có hai Thiền sư là Hàn San và Thập Đắc đến trụ trì ở đó nên chùa được đổi tên là Hàn San tự. Sang đời nhà Tống, chùa có xây thêm tháp bảy tầng, được vua Tống Nhân Tông ban cho tên gọi là Phổ Minh thiền viện. Chùa từ thời đó đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu nên không còn giữ được kiến trúc ban đầu nữa. Gần đây, năm 1996, chùa cho xây lại ngọn tháp năm tầng thay cho ngọn tháp bảy tầng đã bị hư hỏng.

Chùa Hàn San so với các ngôi chùa khác ở Tô Châu hoặc ở Trung Quốc thì không có gì đáng kể về mặt kiến trúc, nhưng lại rất nổi tiếng nhờ có bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế(1).

Nguyên văn bài thơ ấy được truyền tụng như sau:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

và đã được khắc vào bia để ở trong chùa.

Bài thơ chỉ có bốn câu gồm 28 chữ nhưng đã gây ra khá nhiều vấn đề tranh luận(2).

Câu 1: Có người cho rằng “Ô Đề” là tên núi hoặc tên một thôn, nên câu này phải đọc như sau:

Nguyệt / lạc Ô Đề sương mãn thiên và phải hiểu là: “Trăng lặn ở núi Ô Đề (hoặc thôn Ô Đề), trời đầy sương”.

“Ô Đề” như vậy không còn là tiếng quạ kêu mà đã trở thành một tên núi, một tên đất vì người ta cho rằng ban đêm không làm gì có tiếng quạ kêu.

Nhưng cách hiểu này đã không được các nhà nghiên cứu Đường thi nghe theo, vì các con quạ vẫn có thể bất thường kêu về ban đêm.

Trong văn thơ Trung Quốc, Lý Bạch đã có bài Ô dạ đề và Kim Thị trong bài Tự thuật cũng đã có câu:

Không phòng dạ dạ văn đề ô.

(Đêm đêm nghe thấy quạ kêu ở ngoài phòng vắng)

Trong thơ văn Việt Nam, Quách Tấn cũng có bài Đêm thu nghe quạ kêu và ông đã kể rõ trong hoàn cảnh nào ông đã thai nghén ra bài thơ ấy.

“Đó là vào một buổi tối cuối thu Đinh Mão (1927), trăng mờ mờ, từ bến đò An Thái, ven bờ sông Côn trở về nhà, qua một khúc đường vắng, tôi đã nghe thấy một bầy quạ thình lình kêu vừa rùng rợn, vừa lạnh lùng...”

Do tiếng kêu ấy mà ông đã liên tưởng đến bến Phong Kiều trong bài thơ của Trương Kế và đã viết:

Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng.

Như vậy nếu quạ kêu (ô đề) về ban đêm thì cũng là chuyện có thể xảy ra, tuy bất thường(3).

Nhưng nếu nói trăng lặn ở núi Ô Đề hay ở thôn Ô Đề thì núi ấy hay thôn ấy phải ở tận phía chân trời, rất xa chỗ thuyền đậu, chứ không thể ở gần ngay bến Phong Kiều được.

Do đó cách đọc Nguyệt / lạc Ô Đề sương mãn thiên rõ ràng là không hợp lý nên các quyển Đường thi Thiên gia thi chú giải không có bản nào đã giảng theo như vậy cả.

Câu 2: Câu thứ 2 cũng bị đặt thành vấn đề.

Nguyên do vào đời Thanh có Mao Tiên Thư cho rằng:

“Ở Tô Châu, đối diện với chùa Hàn San có núi Sầu Miên, nên câu Giang phong ngư hỏa đối sầu miên không thể hiểu là cây phong bên bờ sông và ánh đèn thuyền chài lấp lánh trước mặt khách (tác giả) đã làm cho khách xa nhà nhớ quê không sao ngủ được”.

Ý kiến này đã bị Trương Duy Minh, tác giả quyển Hàn San tự(4), bác bỏ vì cho rằng bài thơ có bốn câu, ba câu đã tả cảnh rồi thì câu thứ 2 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên phải là câu tả tình mới đúng.

Điều này cũng hợp lý. Chính vì lẽ ấy mà tất cả các quyển Đường thi chú giải Thiên gia thi chú giải đều giảng “ sầu miên ưu sầu bất khả thành miên”.

Chỉ có quyển Hội đồ Thiên gia thi của Chung Bá Kính chú giải(5) đã giảng “sầu miên” là tên núi như Mao Tiên Thư.

Chúng tôi xin phiên âm nguyên văn lời chú thích như sau:

Giang Phong thị danh, Sầu Miên sơn danh, ngư hỏa thuyền thượng hỏa. Cô Tô thành tức Tô Châu thành, Hàn San tự hữu Phật danh Hàn San, nguyệt lạc ô đề dạ thâm chi thời dã. Tư thời sương lạc mãn thiên. Giang Phong thị chi ngư hỏa điểm điểm dữ, Sầu Miên sơn tương đối như thành ngoại tự chung dạ bán thanh văn vu khách thuyền thi thượng giang trung; dạ cảnh cái như thử” và xin dịch là:

Giang Phong tên phố chợ, Sầu Miên tên núi, ngư hỏa là ánh đèn trên thuyền chài, Cô Tô thành tức là thành Tô Châu, Hàn San tự có tượng Phật tên là Hàn San, nguyệt lạc ô đề chỉ đêm đã khuya rồi. Lúc ấy sương xuống đầy trời, các ánh đèn chài trước phố chợ Giang Phong lấp lánh đối diện với ngọn núi Sầu Miên mà trong khi ấy ở ngoài thành Tô Châu tiếng chuông chùa Hàn San ngân vọng tới tận thuyền khách đậu bên bến Phong Kiều. Cảnh đêm là như vậy”.

Chúng tôi cho rằng Chung Bá Kính cũng chưa có dịp về tới chùa Hàn San nên mới chú thích sai như vậy. Sự thực thì ở bên chùa Hàn San chỉ có con đường phố chợ tên là “Phong Kiều” (nay là đại lộ Phong Kiều) và trong chùa chỉ có điện thờ hai vị sư tên là Hàn San và Thập Đắc (Hàn Thập điện. “Hàn San”(6) không phải là tên một vị Phật và “Sầu Miên” cũng không phải là tên một ngọn núi.

Khi chúng tôi về tận chùa Hàn San, đứng ở bến Phong Kiều bên Đại Vận hà nhìn quanh bốn phía thì đều không thấy ngọn núi nào, chỉ thấy “nói” ở tận xa, “xa không nhìn thấy được”, có núi Linh Nham sơn, Thiên Bình sơn, Thiên Địa sơn, Sư Tử sơn, Hoành sơn, Hà sơn...

Thế thì Trương Kế, nằm trong khoang thuyền mà có nhìn lên ra ngoài cũng chỉ thấy có những cây phong và những ngọn đèn chài, làm sao có thể đối mặt được với ngọn núi Sầu Miên, một ngọn núi không có thực ở bên bờ sông.

Có thể vì tên chùa là Hàn San, có chữ “san” là núi nên người ta cứ nghĩ đến ngôi chùa phải ở bên núi và các họa sĩ người Trung Quốc khi minh họa bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng cứ vẽ có ngọn núi như vậy.

Để minh chứng điều sai lầm ấy, chúng ta có thể xem bức ảnh chụp bến Phong Kiều có mấy chiếc thuyền đậu, chiếc cầu dẫn vào cửa Thiết Linh quan và ngọn tháp Phổ Minh ở sau chùa Hàn San.

Sự thực đã rõ ràng. Chính vì lẽ ấy mà các quyển Đường thi tam bách thủ Thiên gia thi đều vẫn giảng câu Giang phong ngư hỏa đối sầu miên là: “Giang biên đích phong thụ hòa ngư thuyền thượng đích đăng quang, chính đối trước ngã giá cá ưu sầu bất đắc thành miên đích nhân” (Cây phong ở trên bến và ánh sáng ngọn đèn trên thuyền đối thẳng vào mặt tôi làm cho tôi ưu sầu không sao ngủ được).

Câu 3 và 4:

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Hai câu này cũng gây thắc mắc cho người đọc vì vào lúc nửa đêm làm gì có tiếng chuông chùa.

Để giải thích điểm thắc mắc này, ở Việt Nam đã có một giai thoại như sau:

“Trương Kế một đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều thấy cảnh đẹp đã xúc cảm ngâm:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.

Ngâm xong Trương Kế không tìm được tứ nữa nên cứ trằn trọc mãi không ngủ được.

Cũng buổi tối hôm đó, ở ngoài thành Cô Tô, sư cụ chùa Hàn San cũng xúc cảm trăng đẹp đã ngâm rằng:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tự ngân câu, bán tự cung.

(Đêm nay đầu tháng trăng mờ,
Nửa như móc bạc, nửa ngờ vành cung)

Nhưng rồi sư cụ cũng hết tứ và cũng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Chú tiểu hầu bên thấy vậy mới hỏi sư cụ sao đêm nay còn chưa ngủ được. Sư cụ bèn kể lại nỗi khổ tâm của mình thì chú tiểu xin được nối tiếp để hoàn thành bài thơ:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thủy để, bán phù không
.

(Hồ xanh ai xẻ đôi vừng,
Nửa chìm đáy nước, nửa lồng chân mây)

Sư cụ nghe xong khen hay và bảo chú tiểu lên chánh điện thắp hương và đánh chuông tạ ơn Phật.

Cùng lúc ấy, trong thuyền ở bến Phong Kiều, tiếng chuông cũng vọng đến. Trương Kế có được tứ liền kết thúc bài thơ của mình.

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Đấy là “giai thoại” ở các sách báo Việt Nam để giải thích cho việc đánh chuông vào lúc nửa đêm.

Ở sách báo Trung Quốc chúng tôi không thấy có giai thoại nào như thế, chỉ thấy có các ý kiến đáng chú ý như sau:

Âu Dương Tu cho rằng: “Thi nhân tham cầu hảo cú nhi lý hữu bất thông giả, diệc ngữ bệnh dã” (Nhà thờ vì muốn đặt câu cho hay nên lý không được thông, đó là một ngữ bệnh vậy).

Sô Nghiêu trong quyển Đường thi tam bách thủ độc bản thì cho rằng: “Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương cấu bệnh, vị miễn xung mao cầu tì” (Người đời sau lấy cớ nửa đêm không có tiếng chuông và cho là một ngữ bệnh, như thế thì chưa tránh khỏi cái thói bới lông tìm vết).

Diệp Thiếu Uyển trong Thanh lâm thi thoại lại cho rằng “Cái công vị thường chí Ngô Trung, kim Ngô Trung tự thực bán dạ đả chung” (Vì ông không thường tới Ngô Trung chứ hiện nay chùa ở Ngô Trung [Tô Châu] vào lúc nửa đêm có đánh chuông thực).

Chúng tôi cho rằng vào lúc nửa đêm ở các chùa thường không có đánh chuông, nhưng cũng có những trường hợp cúng lễ bất thường nên việc “dạ bán chung thanh” cũng không phải là vô lý.

Chính vì lẽ đó mà các nhà thơ từ đời Tống trở về sau mỗi lần qua bến Phong Kiều đều nhớ đến Trương Kế với cảnh “nguyệt lạc”, “ô đề” và “dạ bán chung thanh”.

Nhà thơ Lục Du đời Tống trong bài Túc Phong Kiều đã viết:

Thất niên bất đáo Phong Kiều tự,
Khách chẩm y nhiên bán dạ chung.

(Bảy năm không tới thăm chùa Phong Kiều
Nằm gối đầu ngủ lại ở đất khách nghe tiếng chuông chùa đánh lúc nửa đêm thấy vẫn y như cũ).

Nhà thơ Tôn Địch cũng đời Tống trong bài Phong Kiều đã viết:

Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự,
Ỷ chẩm do văn bán dạ chung.

(Quạ kêu, trăng lặn, cầu ở bên chùa,
Nằm gối đầu ngủ còn nghe thấy tiếng chuông nửa đêm)

Nhà thơ Cố Trọng Anh đời Nguyên trong bài Bạc Xương môn đã viết:

Tây phong chỉ tại Hàn San tự,
Trường tống chung thanh giảo khách miên.

(Chỉ tại chùa Hàn San mà gió tây
Đưa xa tiếng chuông tới quấy động giấc ngủ của khách)

Nhà thơ Cao Khải đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:

Kỷ độ kinh qua ức Trương Kế,
Ô đề, nguyệt lạc hựu chung thanh.

(Mấy lần qua Phong Kiều đều nhớ Trương Kế,
Quạ kêu, trăng lặn với tiếng chuông nửa đêm)

Nhà thơ Văn Trưng Minh đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:

Thủy minh nhân tĩnh giang thành cô,
Y nhiên lạc nguyệt đề sương ô.

(Nước trong, lòng người tĩnh, giang thành vắng,
Trăng lặn, quạ kêu trong sương vẫn y như cũ).

Qua các câu thơ ấy, chúng ta thấy các nhà thơ xưa ở Trung Quốc cũng đều nhắc lại cảnh “quạ kêu, trăng lặn” và “tiếng chuông nửa đêm” như là những sự việc rất bình thường, không có gì đáng thắc mắc cả.

Nguyễn Hàm Ninh xưa, ở nước ta, cũng đã hiểu như vậy nên đã dịch bài thơ của Trương Kế sang thể lục bát như sau:

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Bài thơ dịch này, trước đây người ta đã nhầm là của Tản Đà(7), được kể là hay, chỉ tiếc là ông đã bỏ mất chữ “giang phong” và đã nhầm “bến Phong Kiều” là “bến Cô Tô” và cũng chưa diễn đạt được vai trò “chủ thể” của tiếng chuông chùa Hàn San, nhưng nó vẫn được kể là bài dịch hay nhất từ trước đến nay.

Vậy để kết luận cho bài viết này, chúng tôi thấy cần phải đến tận nơi để tìm hiểu cho được chính xác bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, nếu không, sẽ có những nhầm lẫn đáng tiếc trong việc chú thích và minh họa như đã nói ở trên.

Chúng tôi lại xin xác minh thêm rằng ở gần bến Phong Kiều và chùa Hàn San không có núi Sầu Miên và núi Ô Đề nên nếu đem đổi mấy chữ tả tình “sầu miên” sầu vương giấc hồ) bằng mấy “địa danh” thì bài thơ sẽ không còn thi vị gì nữa.

N.Q.T

CHÚ THÍCH

(1) Trương Kế: Thi nhân đời Đường, sống vào khoảng trước sau năm 756, người Tương Châu, tỉnh Hồ Bắc, đậu Tiến sĩ, nổi tiếng với bài Phong Kiều dạ bạc.

(2) Xem Trần Đắc Thọ: Tư liệu mới về một bài thơ Đường nổi tiếng. Tạp chí Hán Nôm, số 3-1997, tr.66-69.

(3) Ông Trần Nghĩa có cho tôi biết là vào mùa thu năm 1998, ông sang công tác ba tháng tại Tokyo (Nhật Bản), đấy là một Thủ đô có quá nhiều quạ, đêm nào ông cũng nghe tiếng quạ kêu...

(4) Hàn San tự: Sách do Trương Duy Minh biên soạn, khổ 11x16,5 dày 158 trang. Cổ Ngô Hiên xuất bản xã in năm 1993 ở Tô Châu.

(5) Hội đồ Thiên gia thi do Thượng Dương Nhật Tân thư trang thạch ấn. Khai thiết Thượng Dương Bắc Kinh lộ Tử Dương lý. Không đề năm in nhưng sách đã cũ, có thể đã được in từ cuối thế kỷ thứ XIX hoặc đầu thế kỷ XX.

(6) Hàn San: Thi tăng đời Đường ở gần núi Thiên Thai với sư Thập Đắc, Truyền thuyết nói rằng Hàn San là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát và Thập Đắc là hóa thân của Phổ Hiền Bồ Tát. Tác phẩm của Hàn San sau được sưu tập trong Hàn San tử thi tập.

(7) Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề khi biên soạn quyển Trong 99 chóp núi đã mượn được một số di cảo thơ văn của Đinh Nhật Thận trong tủ sách của Nguyễn Hàm Ninh để lại. Ông đã tìm được bài dịch Phong Kiều dạ bạc của Nguyễn Hàm Ninh diễn Nôm và đã in trong quyển Trong 99 chóp núi. Tân Việt, Hà Nội, 1942.

TB

VĂN BIA TỈNH QUẢNG NAM, NGUỒN TƯ LIỆU GIÚP HIỂU LỊCH SỬ VĂN HÓA QUÁ KHỨ

LÂM GIANG

Trước Cách mạng Tháng Tám, Trường Viễn Đông bác cổ sưu tầm, in rập tại tỉnh Quảng Nam trên một trăm thác bản văn bia. Vào những năm cuối cùng của thế kỉ XX, những cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng sưu tầm in rập thêm gần một chục thác bản văn bia, chuông nữa, nâng số thác bản của tỉnh hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm lên trên 150 thác bản (trong đó có một số bia có tới 2 hoặc 3 thác bản). Bài viết này giới thiệu thác bản văn bia hiện lưu giữ tại Thư viện Viên Nghiên cứu Hán Nôm. Số lượng 150 thác bản này so với các tỉnh miền Bắc có phần nhỏ nhoi, nhưng so với các tỉnh miền Trung và miền Nam, phải nói là nhiều, và có ý nghĩa nhất định giúp tìm hiểu lịch sử văn hóa quá khứ miền Trung nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

Nhìn chung, bia tỉnh Quảng Nam trải đều các huyện trong toàn tỉnh: huyện Diên Phúc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang, Hội An, Lệ Dương, Ngọc Sơn, Quế Sơn, Tân Phúc, Thăng Hoa v.v… (theo địa danh ghi trong bia). Nhưng tập trung nhất, với số lượng nhiều hơn cả là các huyện: Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An…

Về hình thức:

Khuôn khổ từng tấm bia thường có khổ nhỏ và vừa, khoảng 40 x 100cm.

Số mặt của từng tấm bia, phần lớn là 1 mặt, đến 2 mặt, chỉ có 1 bia 4 mặt tại Hội An. Đó là Hội An phố bi (kí hiệu Thư viện: N08351- 8354).

Hoa văn trang trí, bia ít được trang trí hoa văn cầu kì, trán bia chạm long, li, quy, phượng hoặc rồng chầu mặt trời, ít thấy. Nếu có trang trí thì cũng rất đơn giản, như bia Linh Sơn tự bi (No20938), để tại chùa Linh Sơn, xã Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, có niên đại dựng bia khá sớm (1643), nhưng trang trí cũng chỉ là đường viền chữ chi nối lại với nhau chạy xung quanh bia…

Số chữ khắc trên bia, trung bình từ 100 đến 300 chữ. Có rất ít bia có số chữ 1.000, hoặc trên 1.000, như Phổ Đà sơn linh trung Phật (No12623), để tại chùa Phổ Đà, xã Du Xuyên, huyện Ngọc Sơn, phủ

Tĩnh Gia trên 1.000 chữ, hay bia Truyền Lâm tế chánh tông (NoM.176a) tại chùa Phước Lâm, Thị xã Hội An chưa đầy 1.000 chữ…

Chữ khắc trên bia, thường đậm nét, độ sâu vừa phải, nên các thác bản được in rập thường khá rõ, có ít bia bị mờ, mất chữ… Tuyệt đại đa số dùng chữ Hán, có một số bia xen chữ Nôm, hoặc kèm chữ Anh (như Mộ chí bi No8349, xã Sơn Phố, Hội An), hoặc đề bia là chữ Hán (do người in rập đặt, nhưng nội dung là chữ dân tộc ít người (như An Thanh lâm cấm sở bi No20416, tại xã An Thanh, huyện Duy Xuyên)…

Về nội dung:

Bia tỉnh Quảng Nam có nội dung khá đa dạng, và có những đặc điểm riêng: Nếu như ở các tỉnh miền Bắc, bia được dựng ở đình, chùa, phần lớn là bia hậu thần, hậu Phật do những người về già không có con trai, lo sau khi qua đời, không có người hương khói, phải gửi giỗ hoặc xin bầu hậu để được hâm hưởng sau thần (ở đình), sau Phật (ở chùa) mỗi khi cúng tế, giỗ chạp, thì ở Quảng Nam phần lớn là bia công đức ghi lại việc xây cất, hoặc trùng tu đình, chùa, hoặc lai lịch một vị thiền sư, một sự kiện lập ấp. Về bia hậu, hiện thấy 1 tấm có lẽ là duy nhất: Hậu thần bi kí (No20367, 20370), tạo năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), để tại huyện Đại Lộc và 1 bia gửi giỗ: Kí kị bi kí No20400, tại huyện Duy Xuyên…

Sau đây xin chia thành những cụm bia khác nhau, tiện việc theo dõi: Cụm bia dựng ở chùa. Cụm bia dựng ở đình, đền, miếu, lăng mộ. Cụm bia dựng ở nhà thờ họ…

I. CỤM BIA CHÙA:

Như trên đã nói, bia dựng ở chùa tại Quảng Nam đều là những bia hoặc là nói việc tu sửa chùa, hoặc là bia ghi tên những người làm công đức, hoặc ghi hành trạng một vị thiền sư… Và cũng là cụm bia có những bia có niên đại sớm so với những cụm bia khác tại Quảng Nam, như:

Linh Sơn tự bi No20938, bia chùa Linh Sơn, xã Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, tạo tháng 5, năm Dương Hòa thứ 9 (1643), (từ tháng 10 trở đi là Chân Tông Hoàng Đế, lấy niên hiệu Phúc Thái năm thứ 1), Thiền tăng Phạm Công Triều, tự Tuệ Lâm xứ Quảng Nam, nước Đại Việt thấy chùa cổ Linh Sơn là một cổ tích danh lam, bèn cùng bàn với bà Nguyễn Thị Thiên và các sãi vãi khác xuất tiền riêng ra trùng tu ngôi chùa cổ. Công việc hoàn tất, tậu ruộng cúng vào tam bảo…

Thủ Long tự lập thạch bi (No12709, No19257, No14248), tạo năm Thịnh Đức thứ 5 (1657), để tại xã Nại Hiên, huyện Tân Phúc (sau là huyện Điện Bàn), ông Trần Hữu Lễ cúng vườn và ruộng vào chùa, nhân đó các vị thiện nam, tín nữ khác cũng đóng góp tiền cho tam bảo để sửa chùa.

Phổ Khánh tự (No20377, No20919), tạo năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678), để tại xã ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, ghi tên hai vị hậu cúng ruộng vào chùa Phổ Khánh.

Hải Tạng tự chung (NoM.185), chuông chùa Hải Tạng, Cù lao Chàm, thị xã Hội An, tạo năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678), ghi tên những người cúng tiền đúc chuông.

Phúc Hòa xã bi (No20924), tạo năm Chính Hòa 18 (1697), tại xã Phúc Hòa, phủ Tam Kỳ, kê số ruộng hương hỏa của nô tì Nguyễn Đức Hoa dùng để cúng giỗ.

Ngoài ra, có tấm bia tuy niên đại dựng bia muộn, nhưng cho biết ngôi chùa đó xuất hiện ở Quảng Nam từ rất sớm, thế kỉ XV, như:

Bia chùa Chúc Thánh (không đề) để ở thị xã Hội An (N0M.178), tạo năm 1915, tóm tắt các lần trùng tu ngôi chùa từ năm Cảnh Thái nhà Minh (1450-1456) đến lần trùng tu năm 1911.

Số còn lại có niên đại dựng bia muộn, nhưng cũng có những thông tin bổ ích:

- Bia công đức (kê tên các vị tín thí), như: Long Thủy tự bi (No20417), chùa Long Thủy, xã An Phúc, huyện Duy Xuyên; Lưu Linh tự bi (No20383), tạo năm Bảo Thái thứ 3 (1722), chùa Lưu Ly, xã Đông Phan, huyện Điện Bàn; Công đức bi kí (No8357), chùa Quảng An, xã Minh Hương, Hội An; Phụng cúng điền bi (No19350), tạo năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), chùa Phổ Quang, xã Thanh Nam, huyện Điện Bàn... Đều kê họ tên những người có công trong việc cúng tiền và ruộng vào nhà chùa.

- Bia trùng tu, xây cất chùa mới, như: Tân tạo Vu Lan tự (No19269), chùa Vu Lan, xã Bình Thuận, huyện Hòa Vang, tạo năm Thành Thái 15 (1903); Triều âm phả bi văn (No19337), chùa Chúc Thánh, xã Cẩm Phô, huyện Diên Phúc, tạo năm 1920; Chúc Thánh tự bi (No19339), chùa Chúc Thánh, xã Cẩm Phô, huyện Diên Phúc, tạo khoảng năm Duy Tân (1907-1915); Phổ Đà sơn linh trung Phật (No12623), chùa Phổ Đà, xã Du Xuyên, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia; Biển gỗ chùa Trúc Lâm (No20374), xã Phú Lương, huyện Điện Bàn, tạo năm 1899; Mỹ Phúc tự bi kí (No19264), không ghi năm tạo, để tại chùa Mỹ Phúc, xã Mỹ Phúc, huyện Hòa Vang; Trùng hưng Viên Giác tự bi (No19335-36), tạo năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), chùa xã Cẩm Phô, huyện Diên Phúc v.v...

- Kể lai lịch nhà sư, như: Minh Giác hòa thượng bi (No19329), chùa Phước Lâm, Hội An, tạo năm Tự Đức thứ 22 (1869); Truyền lâm tế chánh tông (NoM.176a), chùa Phước Lâm, Hội An, tạo năm Khải Định 2 (1917); Khai Sơn hòa thượng thuật (NoM.176b), chùa Phước Lâm, Hội An, không có năm tạo...

- Hoặc ca ngợi cảnh chùa, như Phước Lâm tự (NoM.177), chuông chùa Phước Lâm, Hội An, không có năm tạo, khắc 2 bài kệ, ca ngợi cảnh chùa.

- Hoặc là bia trùng tu: Trùng tu Thánh tự bi (No19275), cho biết chùa Thánh xã Lỗ Giản, huyện Hòa Vang có 5 vị tổ của 5 dòng họ đến đây lập làng từ năm 1470, lại lập ra hương ước...

Chi tiết trên đây có thể góp một tiếng nói, chứng minh thêm rằng, vùng đất Quảng Nam đã được hình thành, và xác lập cách nay 530 năm, như các nhà sử học đã từng nhận định: “Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, Lê Thánh Tông lập thêm thừa tuyên thứ 13 với địa danh Quảng Nam”(1).

II. CỤM BIA: ĐÌNH, ĐỀN, MIẾU, LĂNG MỘ, VĂN CHỈ...

Cụm bia này có niên đại muộn hơn cụm bia chùa, phần lớn thuộc từ thời Thiệu Trị trở về sau, thường ghi việc xây cất, hoặc tu sửa, hoặc mở rộng… các đình đền, miếu mạo. Kinh phí làm việc đó là nhờ vào sự đóng góp của cá nhân, hoặc của một tập thể…, như: Tập thiện hội bi (No19258-19259), tạo năm Tự Đức thứ 14 (1861), xã Hải Châu; Trùng tu thần miếu (No19260), tạo năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), xã Thạc Giản, huyện Sóng Thần, (trước là huyện Hòa Vang); Tu tạo thổ thần miếu bi kí (No19342), tạo năm Khải Định thứ 2 (1917), ấp Châu Trung, xã Cẩm Phô, huyện Diên Phúc; Bia miếu thần (không đề) xã Thạch Giản, huyện Hòa Vang (No19260), tạo năm 1880 v.v... Đều kê tên những người đóng góp tiền của để tu sửa miếu.

Hoặc: Trùng tu công đình bi kí (No20419), tạo năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754), xã An Lâm, huyện Duy Xuyên; Cấu tạo đình vũ bi trí (No19351), tạo năm Thành Thái thứ 2 (1890), đình xã Sơn Phô, huyện Điện Bàn; Đại Nam (No19265), không rõ năm tạo, xã An Hải, huyện Diên Phúc; Sáng tạo đình bi (No19276), tạo năm Bính Thân (?), xã Cẩm Lệ, huyện Điện Bàn; Trùng tu thần từ bi (No19349) Thiệu Trị thứ 6 (1846), đền xã Thanh Châu, huyện Hòa Vang; Tu tuyển đình bi (No19344), tạo năm Khải Định thứ 9 (1924), đình phường Điện Hội, huyện Điện Bàn... Đều nói về việc trùng tu, hoặc xây cất đình mới bằng nguồn đóng góp của các tín thí.

Ngoài ra, còn có bia, người con nhân việc mua hậu cho cha mà kể lai lịch của cha mình: Hậu thần bi kí (No20367, 20370), tạo năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), để tại huyện Đại Lộc. Hay ghi lại những quy định sinh hoạt bên bờ giếng công: An Lễ xã đình sở bi (No20414-15), tạo năm Cảnh Hưng thứ 34 (1773), tại xã An Lễ, huyện Duy Xuyên...

Riêng xã Minh Hương, Hội An, có một loạt bia đền nói về lai lịch của xã và việc trùng tu miếu thờ Quan Thánh Đế, như:

Bia đền Tụy Tiên Đường (không đề), (No19322), tạo năm Duy Tân thứ 2 (1908), cho biết, xã Minh Hương do những người phương Bắc cuối đời nhà Minh, không chịu sự cai trị của triều đình Mãn Thanh, chạy sang sinh sống, lập nên những làng Minh Hương ở khắp các tỉnh miền Trung, miền Nam nước ta, mà làng Minh Hương tại đây mở ra đầu tiên.

Trùng tu miếu tự bi (No19316), tạo năm Quí Dậu (?), dân xã góp tiền sửa miếu thờ Quan Thánh và chùa thờ phật Quan Âm.

Trùng tu Quan Thánh miếu bi (No19317), tạo năm Thành Thái thứ 6 (1894), sửa miếu Quan Thánh sau 300 năm xây cất.

Quan Thánh đế miếu bi (No19318), tạo năm Quý Mão (?), vì chiến tranh, miếu bị phá hủy, dân xã góp tiền sửa lại.

Quan Thánh tượng bi (No19319), tạo năm Tự Đức 17 (1864), tu sửa lại tượng Thánh.

Trùng tu Quan Thiên Tử miếu (No19320), tạo năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), Minh Mệnh cho 300 lạng bạc, dân góp thêm tiền sửa miếu v.v...

Ở Quảng Nam, số bia mộ khá nhiều, có đặc điểm riêng: Nếu bia mộ ở các địa phương khác thường thường với dòng ghi duệ hiệu, ngày sinh, ngày mất, như là một thần chủ, và một số chi tiết nhỏ khác, thì bia mộ ở Quảng Nam lại có nội dung tương đối phong phú, như:

Chiêu Hòa tam niên (NoM.184), bia mộ người Nhật tại Hội An, tạo năm Bảo Đại thứ 3 (1928), ghi về việc trông coi ngôi mộ của 1 người Nhật.

Bia mộ họ Trương Đức (không đề) (No19314), tại xã Lang Châu, huyện Điện Bàn, tạo năm 1916, ghi về việc một người phương Bắc sang lập nghiệp, lập nên thôn Nam Cương, sau đổi xã Lang Châu, đến nay đã có 13 dòng họ tụ tập tại đây, riêng dòng họ Trương truyền được 13 đời.

Bia mộ họ Hứa (không đề) (No20398), (No20387), tại xã Triều Châu, huyện Duy Xuyên, ghi về việc bà họ Trần bỏ tiền mua tước cho chồng là họ Hứa…

Bia mộ giáo sĩ Tây Ban Nha (không đề), (No8364), tại xã Sơn Phú, Hội An, tạo năm Bảo Thái thứ 7 (1726), ghi về việc một vị giáo sĩ đến truyền giáo mất tại đây.

Bia mộ ông họ Phạm: Việt cố (No20920), tạo năm Mậu Dần (?) để tại xứ Húc Khê, ấp Kì Tân, xã Mông Nghệ, huyện Quế Sơn, ghi về việc ông họ Phạm, chức Cai bạ Quảng Nam, tước Trụ Quốc công, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Chính tự thượng khanh…

Bia mộ ông họ Trương: Nam cố phúc thần (No20925-20926), tại xứ Hàm Lương, ấp Long Châu, xã Trà Kiểu, phủ Thăng Hoa. Ông được phong Vệ quốc Vũ huân tướng quân Đô đốc…

Mộ chí bi (No8349), tạo năm Bảo Thái thứ 7 (1726), mộ người giáo trưởng để tại xã Sơn Phố, Hội An, ghi tóm tắt tiểu sử người giáo sĩ Tây Ban Nha.

Hội An phố bi (No8355-8356), tạo năm Giáp Dần (?) phố Hội An, mộ một người Nhật Bản (?)

Nhật Bản mộ bi (No8358), tạo năm Đinh Hợi (?) Mộ một người Nhật tại xứ đồng Trường Lệ, xã Tân An, huyện Điện Bàn...

Bia văn chỉ tại Quảng Nam số lượng không có bao nhiêu và có niên đại tạo bia muộn, hiện chỉ thấy tập trung tại xã Đông Phan, huyện Điện Bàn với những bia trùng tu, sửa sang văn chỉ hàng huyện (huyện Điện Bàn) và văn chỉ xã Đông Phan, với sự đóng góp tiền của các thân hào, hoặc các vị đỗ đạt người địa phương, như: Bia văn chỉ hàng huyện (không đề) (No20384), tại xã Đông Phan, huyện Điện Bàn, tạo năm 1877; Tu bổ văn chỉ từ bi (No20387), văn chỉ hàng huyện tại xã Đông Phan, huyện Điện Bàn, do Phạm Tuấn, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898) soạn. Lê Đĩnh, Binh bộ Thượng thư nhuận sắc, tạo năm Thành Thái thứ 13 (1901), ghi về việc các vị thân hào trong huyện góp tiền tu bổ văn chỉ. Có ghi họ tên các vị khoa mục trong huyện…

Và các bia văn chỉ hàng xã, có: Kiến học từ bi (No20386), văn chỉ xã Đông Phan, huyện Điện Bàn, tạo năm Tự Đức thứ 26 (1873), về việc các vị Tiến sĩ, Cử nhân, các Hội chủ hưng công khác đóng góp tiền của tu sửa, mở rộng từ chỉ; Bia (không đề) (No20385), tạo năm Duy Tân thứ 9 (1915), xã Đông Phan, huyện Điện Bàn, ghi việc tu sửa văn chỉ của xã.

Ngoài ra, tại xã Minh Hương, Hội An không lập văn chỉ, có Văn Thánh từ (No19321), tạo năm Tự Đức 24 (1871), vì xã nhiều người đỗ, nhưng không có nơi thờ các bậc tiên thánh, nên nay lập Thánh từ.

Như vậy, cụm bia này cho thấy ngôi đình làng tại Quảng Nam đã xuất hiện từ thời Lê Trung hưng, đền miếu lập nên khá phổ biến, việc thờ thành hoàng, cũng như các bậc tiên hiền là những tiếp nối văn hóa phía Bắc truyền vào, tuy có muộn hơn. Những bia về lăng mộ cho thấy xứ Quảng là trung tâm giao lưu với người nước ngoài vào buôn bán, truyền giáo.

III. CỤM BIA NHÀ THỜ HỌ

Cụm bia này có số lượng không phải là nhỏ, ở đây tuy bia có niên đại sớm không có, nhưng với những gì được kể lại trong từng tấm bia ở các từ đường thì những thông tin đem lại cũng rất bổ ích, có thể là những tư liệu giúp tìm hiểu “Vai trò của những tộc họ đầu tiên vào khai khẩn, mở nghiệp trên đất Quảng Nam”(2), như:

Bia họ Trần (không đề) (No19340), không ghi năm tạo, để tại nhà thờ họ Trần, xã Cẩm Phô, cho biết: Họ Trần quần tụ ở xứ Cồn Giữa, xã Cẩm Phô, tổng Phú Chiêm Hạ, huyện Diên Phúc, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, do cụ thủy tổ tiền triều (triều Lê), làm phó Đề đốc, Thiêm Lộc hầu, phát tích từ Thanh Hoa thiên di vào. Đời Lê Cảnh Hưng, cùng với hai họ Lê, Nguyễn khai khẩn đất này… Cho đến ngày nay trải trên vài trăm năm, truyền được 14 đời.

Bia họ Vũ Văn (không đề) (No19326), không ghi niên đại tạo bia, ở xã Thanh Hà, cho biết: Họ Vũ Văn xã Thanh Hà, tổng Phú Chiêm, huyện Diên Phúc, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tiên tổ từ Bắc vào đến nay đã được 16 đời, dòng họ ngày thêm thịnh vượng…

Liên quan đến vấn đề trên, bia Trùng tu thánh tự bi (No19275), (không phải bia của dòng họ), cho biết, xã Lỗ Giản, huyện Hòa Vang, có 5 dòng họ Dương, Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm, đều theo nhà vua đi lên phương Bắc mà tới đây lập nghiệp… Như thế, các dòng họ di cư đến Quảng Nam không chỉ từ phía Bắc tới.

Trở lại bia dòng họ, Bia họ Phạm: Thành Thái bát niên bát nguyệt cốc đán cung thuyên (No19332), năm tạo như đề bia: Thành Thái thứ 8 (1896), tại xã La Qua, huyện Điện Bàn, nói việc xây cất từ vũ họ Phạm tại xứ Lâm Thâm, do Tú tài khoa Đinh Mão là Phạm Duy Trinh, Chánh tộc chủ Suất đội Phạm Doãn Nhược, Phó tộc chủ nguyên Lý trưởng Phạm Văn Kinh, nguyên Lý trưởng Phạm Văn Lập, lạc quyên được thưởng thụ Tòng cửu phẩm bá hộ Phạm Doãn Thăng và nhiều vị chức sắc khác của họ Phạm đứng ra xây cất từ đường.

Cấu tạo từ đường (No19326), không ghi năm tạo, để tại từ đường họ Vũ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phúc, cho biết: Cụ tổ họ Vũ về đây khai sáng cơ nghiệp đến nay đã 16 đời, nay con cháu nhớ ơn tổ tiên góp tiền xây từ đường, phụng thờ.

Bia họ Vũ Văn (không đề) (No19326), tại xã Thanh Hà, huyện Diên Phúc, tạo năm Kỷ Tỵ (?) cho biết họ Vũ Văn từ miền Bắc vào mở mang đã 16 đời…

Nguyễn Viết đại tộc thế miếu thạch văn (No19331), tại nhà thờ họ Nguyễn xã Thanh Hà, huyện Diên Phúc, tạo năm Duy Tân thứ 4 (1910), nói quá trình xây cất thế miếu (từ đường) của họ Nguyễn, một họ lớn tại đây.

Hương Quế xã Phạm từ phả kí (No20425), tạo năm Tự Đức thứ 25 (1872), để tại nhà thờ họ Phạm, xã Hương Quế, huyện Quế Sơn, ghi gia phả họ Phạm ở Thanh Hóa di cư vào lập nghiệp. Kê tên những người trong họ hiển đạt, được ban chức tước.

Phạm Phú Thứ thần đạo bi (No20381), tạo năm Tự Đức thứ 35 (1882), do Nguyễn Tư Giản, Hoàng giáp khoa Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844) soạn. Kể hành trạng Phạm Phú Thứ.

Hội Nguyên kiều bi kí (No20382), tạo năm Tự Đức thứ 27 (1874). Cầu Hội Nguyên, xã Đông Phan xây từ năm Tự Đức thứ 15 (1862) và do ông Phạm Phú Thứ giúp tiền của xây nên. Dân đặt tên cầu Hội Nguyên vì ông đỗ đầu thi Hội.

Bia họ Lê ( không đề), (No20398), không có niên đại, để tại xã Lang Châu, huyện Điện Bàn, khắc bài thơ nói việc họ Lê từ miền Bắc vào lập nghiệp, được họ Trương giúp đỡ…

Phạm tộc từ đường bi (No20388), không có năm tạo, tại nhà thờ họ Phạm, xã An Lựu, huyện Điện Bàn, kể tiểu sử Phạm Dã Trai làm nghề dạy võ, có nhiều công với làng…

Lâm An xã Ngô tộc bi No0395, không có năm tạo, tại xã Lâm An, huyện Duy Xuyên, kể tâm sự của một người con ngồi trước nấm mồ cha trong một đêm xuân.

Những tình tiết trong các bia ở các từ đường dòng họ, như mấy ví dụ nêu ở trên, chắc hẳn khá bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu về các dòng họ, cũng như truyền thống văn hóa, về lịch sử khai khẩn mở mang đất Quảng Nam.

Ngoài những bia chia theo cụm trên, còn có những bia nói việc dựng cầu, như: Hội Nguyên kiều bi (No20382), bia cầu Hội Nguyên, như đã nói ở trên. Và Trùng tu Lai Viễn kiều ký (No259), bia cầu Lai Viễn tại Hội An, tạo năm Gia Long thứ 16 (1817). Cho biết phố Minh Hương ở Hội An tiếp giáp với xã Cẩm Phô bằng một con sông. Trên sông có cầu đẹp, tương truyền là chiếc cầu do người Nhật làm dâng vua ta, vua ban tên là cầu Lai Viễn (từ phương xa tới). Đây là một thắng cảnh, trên cầu có nhà, dưới lát gỗ vững vàng, người qua cầu có cảm giác thoải mái như đi trên đất liền. Đây cũng là nơi hóng mát của mọi người.

Nêu ra một số chi tiết trong những văn bia trên đây, để chứng minh rằng, đây là nguồn tư liệu khá bổ ích cho việc nghiên cứu truyền thống văn hóa quá khứ, góp phần vào việc tìm hiểu 530 năm hình thành Thừa tuyên Quảng Nam.

Ngoài ra cũng xin nói thêm:

- Tại xã An Thanh, huyện Duy Xuyên có tấm bia khắc thứ chữ, đoán là chữ dân tộc ít người, không thuộc chữ khối vuông, chữ khắc ngoằn nghèo có chỗ như giun bò, có chỗ giống như chữ Lào, Thái (?), không có chỗ nào giống chữ Chàm... Đại thể thuộc loại chữ ghi âm. Đây cũng là loại bia hiếm thấy trên đất nước ta ? Trước Cách mạng Tháng Tám, người sưu tầm in rập thác bản thấy bia được dựng tại bìa rừng, nên đoán là bia nói về việc cấm phá rừng mà ghi vào dòng chữ Hán “An Thanh lâm cấm sở bi”  (No20416) ở mép bia, và nó nghiễm nhiên trở thành tên bia !

- Tại Thánh địa Mĩ Sơn còn có một số bia chữ Chàm, khắc trên một loại đá pha cát (hiện nay người ta chưa tìm thấy loại đá này), đá mềm, dễ tạo tác thân bia, dễ khắc chữ, nhưng không bị bào mòn bởi mưa nắng và thời gian. Hiện những tấm bia đó vẫn sừng sững với hình giáng ban đầu và chữ khắc vẫn y nguyên, lộ thiên ở ngoài trời hơn ngàn năm nay. Hiện ta chưa có chuyên gia đọc được loại chữ này, nhưng việc cho in rập để lưu trữ nghĩ cũng là việc nên làm. Mặc dù tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có một số thác bản bia Chàm, nhưng không rõ có phải thác bản thuộc bia Mỹ Sơn hay không ?

L.G

CHÚ THÍCH:

1. Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Nxb. Giáo dục, năm 2000, tr.320.

2. Tiêu đề do Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Nam đặt Viện Nghiên cứu Hán Nôm viết cho cuộc Tọa đàm khoa học về “Nhân xưng Quảng Nam tháng 9 năm 2001.

TB

TRUYỆN ĐỒNG TIỀN

HOÀNG THỊ MAI HƯƠNG

Đồng Tiền truyện hiện đang lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang kí hiệu VNb.71, là một bài thơ lục bát bằng chữ Nôm khắc in dài 188 câu được trình bày trong cuốn sách nhỏ 12 trang giấy bản cũ khổ 20 x 13cm. Ngoài bìa đề Phúc An hiệu - tên hiệu sách đã tổ chức khắc in tác phẩm này vào mùa thu năm Khải Định thứ 3 (1918), không thấy có tên tác giả. Song khi khảo cứu cuốn “Tam tự giải âm - Nguyễn Trung Tín trước” (Tam tự giải âm - Nguyễn Trung Tín sáng tác) mang kí hiệu AB.474, trình bày bằng chữ Nôm viết tay, 34 trang, khổ 26 x 16cm, thì chúng tôi thấy sau phần Bắc sử vựng biên, từ trang 12 đến hết cuốn sách lại chính là Đồng Tiền truyện của ông.

Đem so sánh từng âm, từng chữ của 2 văn bản này, chúng tôi nhận thấy những điều giống và khác nhau giữa chúng như sau:

1. Giống nhau:

Số lượng câu: đều là 188 câu

Nội dung: ý tứ toàn bài về cơ bản không có gì sai khác.

2. Khác nhau:

Về bố cục: Bản khắc in VNb.71 (A) trình bày liền 1 mạch.

Bản chép tay AB.474 (B) chia thành từng phần, từng ý: Từ câu đầu đến câu 46 “Đố ai tránh khỏi tiền thần thôi mê”, nói về 3 thứ bậc người trong xã hội. Từ câu 47 “Số kia dầu cả trăm bề” đến câu 62 “ép nghề bôi bác, giở bài sai ngoa” nói về tứ dân (sĩ, nông, công, thương). Từ câu 63 “Tứ dân trên nói đã qua” đến câu 74 “Vì tiền keo cắn ra tình lở long”, nói về ngũ luân (cha con, vua tôi, anh em, vợ chồng và bè bạn). Từ câu 75 “Ngũ luân đây đã nói xong” đến câu 122 “Hỏi tiền sao khéo trêu ngươi hỡi tiền”, nói về thế tục. Từ câu 123 “Giờ xem dân sự các miền” đến hết: nói về dân thôn, cổ lệ.

+ Về cách dùng từ ngữ: 2 bản dùng khác nhau tới trên 48 trường hợp.

Trong một vài trường hợp, bản B dùng từ chọn lọc hơn, vì thế mà đắt giá hơn và có sức biểu cảm mạnh mẽ hơn.

Bản A Bản B
- Tây đen lắm chị đem lòng thương yêu
- Gặp dân vạch ngực, gặp quan cúc đầu
- Vì tiền nên nỗi ai cho là thường
- Tây đen Mường Mán cũng bằng lòng yêu
- Gặp dân bịch ngực, gặp quan gãi gãi đầu
- Vì tiền bấm bụng coi cho là thường

Một số từ ở bản B dễ luận nghĩa hơn.

Ví dụ:

Từ Bản A Bản B
vết
nén
giữ




Từ sự đối sánh trên có thể rút ra kết luận bước đầu.

1. Hai văn bản đều của cùng một tác giả là Nguyễn Trung Tín.

2. Văn bản B – bản chép tay ra đời sau bản A – bản khắc in.

3. Sở dĩ có hiện tượng dị bản như vậy là do tính lưu truyền rộng rãi cũng như sự tâm đắc của tác phẩm trong dân gian. Vì vậy nó được nhiều người ngâm nga và trở thành đồng tác giả với Nguyễn Trung Tín.

Từ ngữ tác giả dùng rất đại chúng, dễ hiểu, chỉ có đôi ba từ phải chú thích. Ngoài ra ta bắt gặp vô số những thành ngữ, quán ngữ gần gũi với mọi người như:

- “chữ chôn đặc ruột”.

- “ruộng cả ao dài”

- “buôn đảo bán lường”

- “đồng tiền liền ruột”

- “rẻ khinh như bèo”...

Có cả những cụm từ phảng phất của Truyện Kiều:

-“làm ma không chồng”

- “trăm nghìn đổ một trận cười như không”

- “nôm na chắp nhặt vài lời”...

4. Về thời gian ra đời bài thơ này:

Tác phẩm ra đời khoảng những năm đầu thế kỷ XX, sau cuộc khai thác bóc lột Việt Nam quy mô lớn đầu tiên của thực dân Pháp. Một lớp người hăng hái đứng ra hoạt động công thương, kêu gọi mở hiệu buôn bán hoặc xưởng thợ, chuyên sản xuất các mặt hàng cạnh tranh với Pháp. Những tư tưởng dân chủ tư sản của châu Âu nhập vào nước ta.

Xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Đồng tiền, linh hồn của chủ nghĩa tư bản, thể hiện rõ vai trò của nó. Truyện Đồng Tiền đã phân tích khá toàn diện tính chất hai mặt của đồng tiền với tác dụng tích cực và tiêu cực. Ai cũng biết đồng tiền quan trọng đến mức:

“Nước hủ lậu, nước văn minh
Không tiền hồ dễ cạnh tranh phú cường
... Không nhan không sắc mà tiên dưới trần...”

Song phải biết dùng nó thế nào cho ích nước lợi dân:

“Bao nhiêu công việc giúp đời
Dùng tiền như thế là người văn minh”

Ngược lại, đồng tiền cũng sẽ biến thành ma quỷ nếu ta lạm dụng nó không đúng chỗ, hoặc dùng nó vào những việc bất lương. Bài thơ nêu cụ thể 4 tầng lớp chính trong xã hội lúc đó (sĩ, công, nông, thương), nhiều người trong họ đã bị tha hóa, biến chất đến mức táng tận lương tâm. Bậc “cầm cân nảy mực” vì đồng tiền mà đổi trắng thay đen, hãm hại dân lành:

“Bút son điểm mạn dân đen khóc thầm”.

Cảnh mua quan bán tước đã tạo ra một loạt những quan lại ngu dốt:

“Chữ chôn đặc ruột, đỗ cầm trong tay”
... Thả tiền thi đỗ, để chê vạn đời”.

Đồng tiền còn làm mưa làm gió, đảo điên cả luân thường đạo lí trong xã hội làm cho vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn mất hết đạo trung hiếu, nghĩa tình nồng. Vì tiền mà ngay bản thân con người cũng đánh mất cả danh dự của mình:

“Được tiền làm ngựa, làm trâu cũng ừ...
Vì tiền nên phải rẻ khinh như bèo”

Biết bao tệ nạn xã hội như cờ bạc, mãi dâm cũng sinh sôi cùng đồng tiền:

“Nào người cháu dõi con dòng
Tây đen lắm chị đem lòng thân yêu
Chỉ yêu vì nỗi tiền nhiều
Thấy đồng bạc trắng quyết liều môi son”

Rồi mê tín dị đoan, rồi thầy tu, thầy lang, thầy thuốc cũng bị đồng tiền mê hoặc:

“Cả gan đến nỗi bán buôn Bụt Trời
... Cốt đồng chỉ tán con ma lấy tiền
... Kẻ nghèo nhỡ lúc nắng mưa
Bệnh tuy cấp cứu, thày chưa sẵn hoàn”.

Cũng bởi đồng tiền mà người ta nhắm mắt sung vào hàng ngũ tù tội:

“Há không biết luật quốc gia
Vì tiền váng mắt bước qua không hề”

Sau khi đã cảnh tỉnh mọi người. Nguyễn Trung Tín - hẳn là người tâm huyết, nhiều hiểu biết, sắc sảo – kêu gọi mọi người :

“Ngẫm người lại thẹn cho mình
Có tiền chỉ chực chôn quanh trong nhà”
và hãy để nó quay vòng:
“Chữ lương tài hóa lưu thông
Vòng quanh như thể nước sông chuyển vần”

Đầu tư tiền vào những việc để phát triển sản xuất, mở mang dân trí, buôn bán, mở hiệu in xuất khẩu, mở xưởng, mở trường làm đồng tiền “bội lên ngạch thường”.

Kết thúc bài thơ, tác giả chốt lại: mình phải biết chủ động sai khiến đồng tiền chứ đừng để phụ thuộc vào nó và phải luôn nhớ rằng: đồng tiền trong tay mình là “tiền nhân tiền nghĩa” chứ không thể là đồng tiền bẩn thỉu, bất chính. Đồng tiền có quí thật nhưng “Chữ rằng: đức trọng tài khinh” không thể mua được phẩm cách của con người.

Đương thời, Truyện Đồng tiền được nhiều người ngâm nga, thưởng thức. Ngày nay, tuy bài thơ cách xa chúng ta gần một thế kỷ nhưng thiết nghĩ không hề mất đi tính thời sự của nó.

Chúng tôi chọn bản A là chính, bản B coi như dị bản. Xin giới thiệu toàn văn bản A và phần khảo dị bản B để người đọc tiện tham khảo.

TRUYỆN ĐỒNG TIỀN

1.Đêm thu tựa chốn gác vàng
Trông vừng trăng bạc mà than chuyện đời.
ấy hay sự cũng nực cười
Đồng tiền cũng một mà người dại khôn
Cầm tiền nghĩ đến nguồn cơn
Như xui trăm giận nghìn hờn cho ai.
Hỏi tiền: nào buổi ra đời
Chất nguyên ở mỏ, mượn người đúc nên.
Giáng sinh năm kể mấy nghìn
10. Không nhan không sắc mà tiên dưới trần
Khắp trong thế giới cựu, tân
Sĩ, nông, công, cổ(1), bàn dân mọi người
Thấy tiền ai cũng luyến(2) hơi
Trọng bằng anh ruột, kính bằng(3) thần minh.
Nước hủ lậu(4), nước văn minh
Không tiền hồ dễ cạnh(5) tranh phú cường.
Hỏa xa, điện báo, học trường
Chạy đường thông tín, cải lương hàng ngày.
ích dân còn lắm việc hay
20. Tầu ngầm đáy bể, tàu bay trên trời.
Đào sông, xẻ núi, khơi ngòi
Đây nơi in báo, nọ nơi dạy nghề.
Khắp vùng thành thị làng(6) quê
ánh đèn sáng tối vết xe chặt đường.
Bắc cầu, xây cống, mở đường
Đồn binh giữ nước, nhà thương chữa người.
Bao nhiêu(7) công việc giúp đời
Dùng tiền như thế là người văn minh.
Ngẫm người lại thẹn cho mình(8)
30. Có tiền lại chực chôn quanh trong(9) nhà
Trách ai suy(10) tính không ra
Bấy lâu luống để người ta chê cười.
Ngán thay một nén vàng mười
Làm cho đến nỗi vụng người hóa điên
Thượng lưu là bực người trên
Bút son điểm mạn(11), dân đen khóc thầm.
Trung lưu là bực sĩ lâm
Chữ chôn đặc ruột, đỗ cầm trong tay.
Hạ lưu dân tốt thương thay
40. Tính hay kiện cáo, nết hay bạc cờ.
Kẻ pha phí, kẻ lọc lừa(12)
Hơi đồng sao khéo dụ lừa(13) người ta.
Giờ đương(14) vui vẻ bút hoa
Chuyện đời xin kể tách ra từng phần.
Gọi là tai mắt ở trần
Đố ai tránh khỏi tiền thần thôi mê.
Sĩ kia dầu(15) cả trăm nghề
Thả(16) tiền thi đỗ để chê vạn đời.
Mặc ai chữ tốt văn tài
50. Không tiền xin hẳn(17) nhường người thang mây.
Nông kia ruộng cả, ao dài
Cậy giàu toan những chiếm hoài ruộng nương
Người không có ruộng tấc gang
Cầy thuê cuốc mướn chỉ tham vì tiền
Thương kia buôn ván bán thuyền
Trèo non vượt biển không phiền dặm khơi.
Buôn trao(18) bán chác lừa đời
Chẳng qua chỉ vị tiền lời mà thôi.
Công kia tranh khéo đua tài
60. Không tiền hồ(19) chịu làm tôi mọi người.
Thoắt khi hàng bán chạy rồi
ép(20) nghề bôi bác, giở bài sai ngoa.
Tứ dân trên đã nói qua
Ngũ luân xin kể tỏ ra từng lời.
Cha con ân ái tính trời
Vì tiền có lẽ hợp rời như không.
Vua tôi vốn sẵn lòng trung
Vì tiền đến nỗi chôn lòng mất tin.
Anh em vốn ở hòa hiền
70. Vì tiền đến nỗi ruột liền nên xa.
Vợ chồng hòa hợp thất gia(21)
Vì tiền đến nỗi hóa ra mất tình.
Bè bạn là nghĩa tử sinh
Vì tiền keo cấn(22) ra tình lở long.
Ngũ luân đây đã nói xong
Tục đời xin kể hết trong bài này.
Biết bao(23) những sự(24) đắng cay
Đồng tiền liền ruột, lời này chẳng ngoa.
Nào người xướng kĩ trăng hoa
80. Hoài thân bồ liễu làm ma không chồng.
Nào người cháu dõi con dòng
Tây đen lắm chị đem lòng thân yêu(25).
Chỉ yêu vì nỗi tiền nhiều
Thấy đồng bạc trắng quyết liều môi son.
Thầy tu tựa bóng thiền môn
Cả gan đến nỗi bán buôn Bụt Trời.
Lên đàn phát ngục giới(26) đời
Bòn tiền vãi trẻ mà nuôi sư già.
Xem đi bốc thẻ cũng là
90. Cốt đồng chỉ tán con ma lấy tiền.
Đến như thày thuốc gia truyền
Thuốc viên để sẵn đợi tiền mới đưa.
Kẻ nghèo nhỡ lúc nắng mưa
Bệnh tuy cấp cứu thày chưa sẵn hoàn.
Mấy anh tuần lệ nha môn
Gặp dân bịch ngực, gặp quan cúc đầu(27)
Nghề gì nghề ấy hay sao(28)
Được tiền làm ngựa làm trâu cũng ừ.
Mấy người đầy tớ nhà tư
100.Đêm hôm thức nhập, sáng trưa bẩm trình.
Ấy ai ấy bó buộc(29) mình
Vì tiền nên phải rẻ khinh như bèo.
Kìa như trò giới(30) phường chèo
Mặt người vẽ ngựa vẽ hươu đủ trò.
Há không biết sự thẹn thò
Vì tiền nên nỗi ai cho làm thường(31).
Kìa như đạo tặc bất lương
Ban đêm cậy cửa, giữa đường giật hoa.
Há không biết luật quốc gia
110. Vì tiền váng mắt bước qua không hề
Buôn người kẻ ấy thực(32) ghê
Đem thân chí quý làm nghề bất lương(33).
Nào là buôn đảo(34) bán lường
Nào tuồng đố chữ, nào phường bài Tây.
Sống lâu làm lắm nghề hay
Phí thay gan não(35), tiếc thay thân đời.
Mấy chàng công tử ăn chơi
Trăm nghìn đổ một trận cười như không .
Mấy người hành khất cơ cùng
120. Chắt chiu luống những tay không suốt đời.
Người pha phí(36), kẻ xin nài
Hỏi tiền sao khéo trêu ngươi hỡi tiền ?
Giờ xem dân sự các miền
Biết bao cổ tục lưu truyền đến nay.
Gặp tuần khánh hạ(37) ma chay
Mượn câu nợ miệng mà vay mượn cào(38).
Đua danh đua tiếng đua hào
Nhất là cố ruộng, cầm ao mặc lòng.
Vui thay pháo mãn địa hồng
130. Vàng thiêu(39) tàn đống, hương lồng khói đôi.
Tiệc tan tiền đã đi đời
Mua vui một hốc để nuôi anh Tàu.
Tượng(40) nan, ngựa giấy đảo cầu
Lập đàn bố thí(41) đua nhau vào mùa.
Âm ti ma đói được no
Dương gian người đói, ai cho đồng nào.
Dùng tiền như thế ngu sao(42)
Trách gì các nước cho vào dã man.
Cho hay tiền của muôn vàn
140. Khéo dùng thì khỏi thế gian chê cười.
Vắt tay nằm nghĩ(43) sự đời
Muốn đem lửa điện, điểm người óc đen.
Của trong(44) thiên hạ là tiền
Ai nghèo ba họ, ai sang ba đời.
Nào ai đội đá ở đời
Trăm năm rồi cũng là người tay không .
Chữ lương tái hóa lưu thông
Vòng quanh như thể nước sông chuyển vần.
Nghĩ sao dùng được việc cần
150. Nghĩ sao ích nước lợi dân mới là.
Hoặc đem mở cuộc thương gia
Hoặc đem chung vốn mở nhà hiệu in
Hoặc đem lập ấp khẩn điền
Cho hàng xuất khẩu bội lên ngạch thường.
Hoặc đem mở xưởng, mở trường.
Cho dân trí mở cho thường nghề tinh.
Cớ sao hóa trọng thân khinh
Coi tiền như mệnh, nào mình ích chi.
Cớ sao chôn của làm gì
160. Vào săng có thể(45) đem đi được nào.
Cớ sao khoe phú thị hào
Coi tiền như nước phí phao của trời.
Cớ sao hám của hại người
Tiếng đồn là sử, miệng cười là bia.
Hay gì hoa sói hoa hòe
Mượn màu lá mặt mà khoe với đời.
Hay gì tức khí tranh hơi
Đem thân cho hổ(46) no say cho đành.
Cho hay tiền ở bụng mình
170. Bể sâu báu hợp rừng xanh của đầy.
Đạo trời thực khéo vần xoay
Người ngu của tán, người hay của về.
Hợp tan là lẽ thường lề
Của chung xã hội chắc gì của ai.
Đồng tiền là của sống dai
Mà ta đứng ở trên đời là bao.
Ta nên hỏi(47) tính làm sao
Ta là thầy nó, nó nào thầy ta.
Nghĩ sao sai khiến nó mà
180. Nỡ đâu để nó sai ta cho(48) đành.
Chữ rằng: đức trọng, tài khinh
Tiền nhân, tiền nghĩa, tiền danh giá nhiều
Nhược bằng tiền lận tiền kiêu
Tiền tham, tiền lậu, tiền nhiều cũng hư
Phòng văn gặp lúc ngày thư
Thấy tiền không nhẫn đón đua sự đời.
Nôm na chắp nhặt vài lời
188. Dám xin quý khách trên đời biết cho.

H.T.M.H

CHÚ THÍCH:

(1) Chỉ người đi buôn

(2) Bản B là: trào

(3) Bản B là: Vời

(4) Bản B là: hủ bại

(5) Bản B là: đua tranh

(6) Bản B là: nhà quê

(7) Bản B là: biết bao

(8) Bản B là: còn như hủ lậu dân mình

(9) Bản B là: sân nhà

(10) Bản B là: Vụng

(11) Nghĩa là: bừa bãi

(12) Bản B là: người thu vét, kẻ chia đưa

(13) Bản B là: khéo dỗ

(14) Bản B là: giờ nhân

(15) Bản B là: giầu

(16) Bản B là: bút

(17) Bản B là: hãi

(18) Bản B là: điêu

(19) Bản B là: dễ

(20) Bản B là: giở

(21) Bản B là: trong nhà

(22) Bản B là: keo bẩn

(23) Bản B là: xiết bao

(24) Bản B là: việc

(25) Bản B là: Tây đen Mường Mán cũng bằng lòng yêu.

(26) Bản B là: dối đời

(27) Bản B là: Gặp quan bịch ngực, gặp quan gãi đầu.

(28) Bản B là: tự đâu

(29) Bản B là: trói buộc

(30) Bản B là: lạc lối

(31) Bản B là: Vì tiền bấm bụng coi cho là thường

(32) Bản B là: tởm ghê

(33) Bản B là: vô lương

(34) Bản B là: lật

(35) Bản B là: gan óc

(36) Bản B là: vung phí

(37) Bản B là: khao cưới

(38) Bản B là: vay chịu ào

(39) Bản B là: tiêu

(40) Bản B là: voi

(41) Bản B là: phá ngục

(42) Bản B là: dại

(43) Bản B là: ngẫm nghĩ

(44) Bản B là: của chung

(45) Bản B là: có nhẽ

(46) Bản B là: cọp

(47) Bản B là: phải

(48) Bản B là: Sao

TB

HỘI NGHỊ CỘNG TÁC VIÊN
TẠP CHÍ HÁN NÔM NĂM 2002

TRỊNH KHẮC MẠNH

Ngày 1 tháng 3 năm 2002, Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức Hội nghị cộng tác viên tại trụ sở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Hội nghị đã thu hút gần 100 cộng tác viên ở khắp mọi miền của Tổ quốc, từ Cao Bằng, Lạng Sơn và trải dài qua Nghệ An, Nha Trang rồi đến tận Tp. Hồ Chí Minh, Cà Mau. Nhiều người vì điều kiện nào đấy mà không đến được, đã gửi thư chúc mừng và đóng góp ý kiến chân tình cho Hội nghị.

Tại Hội nghị, các Quí vị cộng tác viên đã có nhiều ý kiến đánh giá về Tạp chí Hán Nôm trong những năm qua và nêu lên đường hướng phát triển Tạp chí trong thời gian tới. Lời khen có và lời chê cũng nhiều, đây là những ý kiến hết sức tâm huyết, chân thành của những người đồng nghiệp, nhằm khích lệ động viên và đặt ra những nhiệm vụ cho Tạp chí Hán Nôm trong sự nghiệp gìn giữ và phát huy di sản văn hóa Hán Nôm của ông cha trong thời đại ngày nay.

Trước hết về ưu điểm, ý kiến của các Quí vị cộng tác viên đều khẳng định: Tạp chí Hán Nôm là tạp chí khoa học duy nhất của chuyên ngành Hán Nôm, trong những năm qua Tạp chí đã góp phần tạo nên diện mạo của Hán Nôm học Việt Nam. Các chuyên mục trong Tạp chí, như: Nghiên cứu, Đọc sách - Trao đổi ý kiến, Sưu tầm, Tư liệu tham khảo, Thường thức Hán Nôm, Tin tức; nhìn chung là có chất lượng, có giá trị khoa học và ý nghĩa thức tiễn với đời sống văn hóa xã hội, đảm bảo uy tín của một tạp chí khoa học chuyên ngành. Trong nhiều năm qua, Tạp chí Hán Nôm thực sự là diễn đàn, là người bạn tri kỷ của giới nghiên cứu Hán Nôm trong nước và quốc tế.

Bên cạnh đó, ý kiến của Quí vị các cộng tác viên còn chỉ ra những bất cập mà Tạp chí Hán Nôm cần phấn đấu trong thời gian tới để hoàn thành trọng trách mà chuyên ngành Hán Nôm ủy thác, ví dụ như:

- Chuyên mục Nghiên cứu cần tăng số lượng bài nhiều hơn nữa, với những nội dung góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận của ngành Ngữ văn Hán Nôm và chuyên ngành Hán Nôm.

- Chuyên mục Đọc sách - Trao đổi ý kiến cần có nhiều những bài trao đổi về kinh nghiệm dịch từ Hán sang Việt, về kinh nghiệm phiên âm chữ Nôm; có như thế mới tạo nên một không khí học thuật và góp phần thúc đẩy việc giải mã chữ Hán, chữ Nôm ngày một tốt hơn.

- Chưa có chuyên mục Hán Nôm trong nhà trường, trong khi đó nhu cầu về giảng giải chữ nghĩa Hán Nôm trong các sách giáo khoa của nhà trường là rất cần thiết và có ý nghĩa giáo dục thiết thực.

- Chuyên mục Thường thức Hán Nôm được rất nhiều người ưa thích, nhưng đáng tiếc là số lượng bài quá ít, chưa đáp ứng được sự mong mỏi của độc giả.

- Nên quan tâm đặt bài nghiên cứu và giới thiệu các mảng thư tịch khác, như: về sách Đông y, về sách Nôm Tày - Nùng, về tư liệu Hán Nôm ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, về thư pháp Hán Nôm, v.v..

- Để cập nhật thông tin của chuyên ngành, Tạp chí Hán Nôm nên có hướng tăng thêm số.

Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm, xin chân thành cảm ơn các Quí vị cộng tác viên. Theo chúng tôi, Hội nghị cộng tác viên hàng năm là một trong những động lực thúc đẩy đối với sự phát triển của Tạp chí Hán Nôm nói riêng và chuyên ngành Hán Nôm nói chung. Những ý kiến góp ý xây dựng của các Quí vị cộng tác viên, Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm sẽ tiếp thu và triển khai thực hiện trong phương hướng phát triển Tạp chí. Trước mắt, năm 2002 Tạp chí Hán Nôm sẽ ra 06 số (hai tháng một kỳ). Ngoài 04 số ra như thường lệ, Tạp chí sẽ ra 02 số chuyên san: một số chuyên về Nguyễn Trãi nhân kỷ niệm 560 năm ngày mất của ông và một số chuyên về di sản Hán Nôm ở địa phương tỉnh Thái Bình. Rất mong các Quí vị cộng tác viên tiếp tục viết bài và đóng góp nhiều ý kiến xây dựng nhằm làm cho Tạp chí Hán Nôm ngày càng phát triển nhiều về số lượng và đảm bảo về chất lượng học thuật, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, như Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra.

Hẹn gặp lại các Quí vị tại Hội nghị cộng tác viên Tạp chí Hán Nôm năm 2003.

TB

TRIỂN LÃM THƯ PHÁP HÁN NÔM
TẠI PHÁP

ĐINH KHẮC THUÂN

Từ ngày 19 đến ngày 31 tháng 1 năm 2002, tại phòng triển lãm của bà Dominique de Miscault, số 68 đại lộ Italie, quận 13, Paris, Pháp, đã diễn ra triển lãm thư pháp Hán Nôm Việt Nam.

Bà D. de Miscault, một họa sĩ Pháp rất yêu thích văn hóa truyền thống Việt Nam, từng tổ chức nhiều cuộc triển lãm tranh và hoạt động văn hóa về Việt Nam, đã mở phòng triển lãm thư pháp Hán Nôm, do Thượng tọa Thích Phước Thành, trụ trì chùa Châu Lâm (Huế), sáng tác trong dịp Thượng tọa viếng thăm Pháp.

Phòng triển lãm khá khiêm tốn, chỉ khoảng 80 m2, song vừa đủ trang trí trên 100 bức thư họa lớn nhỏ, theo chủ đề "Bút khí", với lời giải là: Bút mặc thông kim cổ, Khí chất hạo thiên thu (Văn chương thông muôn thuở, khí chất rạng nghìn đời).

Các bức họa là những bài thơ thiền, thơ trữ tình, những câu chữ, bút lục của các thiền sư và thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam và Trung Quốc. Chẳng hạn những chữ thiền, tâm, trúc, vô ngôn,... hoặc những câu thơ của Mãn Giác, Lý Bạch, Đỗ Phủ, và cả đoạn thơ trữ tình quốc ngữ được diễn Nôm, thật đa dạng. Bút pháp như được dùng khí sắc của bút mực để chuyển tải văn chương thông kim cổ.

Người đến xem triển lãm, không chỉ là người Việt, người Pháp, mà còn là du khách nước ngoài như ý, Bỉ, Trung Quốc, Nhật Bản,... Có một cụ họ Hà người Pháp gốc Việt, quê gốc tỉnh Hà Đông cũ, đứng giữa phòng tranh mà dưng dưng lệ, bởi như sống lại những kí ức xa xưa, nơi quê hương đất nước không bao giờ nhạt phai, dù đã biệt xa gần năm chục năm trời. Một người bạn của cố nhà thơ Hàn Mặc Tử phải xin được ưu tiên để mua một bức họa bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử được họa lại bằng chữ Nôm. Chỉ ngay sau buổi khai mạc, đã có tới trên một phần ba số bức thư họa được đăng kí mua với giá tự nguyện. Toàn bộ số tiền thu được sẽ gửi giúp trẻ em tàn tật ở Thừa Thiên - Huế.

Quả là thư pháp Hán Nôm vẫn "thông kim cổ", lại đăng quang trong thời hiện đại, ngay giữa trung tâm văn minh phương Tây.