 |

VIỆT NAM TIỂU THUYẾT TÙNG SAN VÀ VẤN ĐỀ VĂN HIẾN HỌC LIÊN QUAN
VƯƠNG TIỂU THUẪN
Thế kỷ XX là thế kỷ học thuật của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển ấy trước hết là do phát hiện những tư liệu mới về giáp cốt Ân Khư và di thư Đôn Hoàng, sau đó phải kể đến một lý do nữa, là phương pháp so sánh được nảy sinh dưới ảnh hưởng của học thuật phương Tây. Lấy tư liệu mới làm điểm tựa của học thuật, lấy so sánh làm phương pháp cơ bản để nghiên cứu, đã trở thành nhận thức chung của rất nhiều học giả Việt Nam. Chính vì vậy, ở lĩnh vực nghiên cứu văn học cổ đại cũng như lịch sử cổ đại Trung Quốc đã xuất hiện phương pháp tiếp cận mới đối với “văn hóa Hán ở khu vực ngoài Trung Quốc” (Hán ngoại vực văn hóa).
Với phương pháp tiếp cận này, Việt Nam là khu vực đặc biệt quan trọng. Mặc dầu quần đảo Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên và một số khu vực khác cũng từng chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, nhưng trường hợp có mức độ Hán hóa như Việt Nam thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhật Bản vào năm 759 sau công nguyên, trước khi Vạn diệp tập xuất hiện, lối chữ giả danh đã được sáng tạo và sử dụng. Văn tự Triều Tiên ra đời trước sau năm 1445. Còn chữ La Tinh thì Việt Nam mới sử dụng từ giữa thế kỷ thứ XVII và mãi đến thế kỷ XX mới trở thành văn tự có tính chất pháp định. Điều này nói lên văn hóa Hán ở khu vực ngoài Trung Quốc thẩm thấu sâu nhất là ở Việt Nam.
Nhưng có một tình hình không tương xứng là công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam lại chậm trễ so với các quốc gia có nền kinh tế khá phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản. Tư liệu ở Nhật Bản, Hàn Quốc đã được thu thập và chỉnh lý rất tốt, người nước ngoài có thể có được những tư liệu đó bằng cách đặt mua. Ở Việt Nam có khác, khá nhiều cổ tịch Hán văn còn tản mát trong dân, khá nhiều cổ tịch đã thu thập chưa được chỉnh lý. Đối với giới học thuật Trung Quốc, nghiên cứu văn hóa Hán ở Việt Nam là mảnh đất còn chờ khai phá.
Nhìn lại việc này, những năm gần đây, không ít nhà Hán học trên thế giới đã đặc biệt quan tâm đến sách vở chữ Hán của Việt Nam, trong đó, người có thành tích học thuật khá rõ là Trần Khánh Hạo. Ông Hạo dựa vào Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp, tổ chức được một nhóm nghiên cứu Hán Nôm, thực thi kế hoạch nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam, và hợp tác với Đại học Văn hóa Trung Quốc (Đài Loan), Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (Việt Nam), biên tập và xuất bản được 2 tập sách (séries) gồm 12 quyển Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san. Đây là bộ sưu tập đại thành về tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam và cũng là một trong những công trình chỉnh lý cổ tịch Việt Nam một cách có hệ thống. Bộ sách đã chứng tỏ viễn cảnh rộng lớn của việc nghiên cứu văn hóa Hán ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra hàng loạt vấn đề cần đi sâu suy ngẫm, như vấn đề phân loại cổ tịch Việt Nam chẳng hạn.
I. Việt Nam Hán văn tiểu tuyết tùng san với khái niệm “tiểu thuyết”.
Tập 1 Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san xuất bản năm 1987, tập 2 xuất bản năm 1992, đều do Học sinh thư cục Đài Bắc ấn hành. Tập 1 do hai Giáo sư Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên, với quy mô 7 quyển đã dung nạp 18 tác phẩm, trong đó có Truyền kỳ mạn lục. Tập 2 do ba Giáo sư Trần Khánh Hạo, Trịnh A Tài, Trần Nghĩa chủ biên, gồm 5 quyển, dung nạp 17 tác phẩm, trong đó có Lĩnh Nam chích quái liệt truyện. Để biên soạn hai tập Tùng san này, Sở nghiên cứu Trung văn thuộc Đại học Văn hóa Trung Quốc (Đài Loan) thành lập nhóm hiệu khám tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam. Giáo sư Trần Nghĩa ở Viện nghiên cứu Hán Nôm phụ trách nhóm cán bộ nghiên cứu của Viện gồm 6 người tham gia công việc biên soạn tập 2. Học giả của ba nước Pháp, Trung Quốc, Việt Nam đã chung sức hợp tác, làm cho Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san trở thành tác phẩm đạt chuẩn mực về mặt khảo đính và hiệu khám; hay nói cách khác, hai tập Tùng san giàu giá trị sử liệu và giá trị văn học này là kết tinh trí tuệ của các học giả ba nước.
Xét từ góc độ văn hiến học, đặc điểm quan trọng nhất của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san là có một thể thức chỉnh lý tỉ mỉ. Ngoài việc hiệu khám và chấm câu theo kiểu mới, Tùng san còn có ảnh sách và giải đề tác phẩm kỹ lưỡng. Những giải đề đó với danh nghĩa là “thuyết minh khi xuất bản” đã giới thiệu tác giả, quá trình lưu truyền, văn bản hiện còn, rồi dẫn dụng những tư liệu liên quan để khảo đính những vấn đề vừa nêu của từng quyển sách. Chẳng hạn, trong lời thuyết minh xuất bản đối với Truyền kỳ mạn lục, người biên tập trước tiên dựa vào Đăng khoa bị khảo, Công dư tiệp ký, Kiến văn tiểu lục v.v. để khảo đính cuộc đời và con đường làm quan của Nguyễn Dữ. Thứ đến là dựa vào nội dung của sách và các bài tựa, bạt để khảo đính niên đại thành sách và các quá trình đó. Kế đến là dựa vào các thư tịch của Trung Quốc như Thù vực chu tư lục, thư tịch của Triều Tiên như Kim ngao tân thoại, thư tịch của Nhật Bản như Kỳ dị tạp đàm tập, Ca tỳ tử, Vũ nguyệt vật ngữ v.v. để khảo đính quá trình lưu truyền Tiễn đăng tân thoại đến các quốc gia và ảnh hưởng của nó đối với quá trình hình thành Truyền kỳ mạn lục, rồi sau dựa vào các tác phẩm truyện truyền kỳ như Truyền kỳ tân phả, Truyền văn tân lục, Tân truyền kỳ lục để luận chứng cho truyền thống của tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam; và cuối cùng đã thuyết minh một cách rành mạch những văn bản hiện còn, tàng bản và những ứng dụng của chúng trong công tác hiệu khám. Nhìn một mảng lông vằn có thể biết cả con báo, những lệ chứng này chứng tỏ Tùng san đã tiếp thu phần lớn thành quả nghiên cứu về tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam, phản ánh thành tựu mới về chỉnh lý cổ tịch Việt Nam.
Một ý nghĩa khác nữa của Tùng san là ở chỗ, nó không những cung cấp một loạt tư liệu nghiên cứu tiểu thuyết, mà còn đưa ra cách lý giải về tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Khi Tùng san chỉ ra rằng tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam hiện còn khoảng 30 bộ, chừng trên dưới 3 triệu chữ, còn xác định trên đại thể phạm vi của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (đương nhiên con số thống kê trên còn phải bàn). Ngoài ra, Tùng san chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam ra tiểu thuyết truyền kỳ, diễn nghĩa lịch sử, tiểu thuyết bút ký, thần thoại truyền thuyết v.v. Ở mỗi thiên tiểu thuyết còn trình bày rõ cơ sở và nguồn gốc của việc phân loại. Theo bài tựa chung ở đầu sách Việt Nam Hán văn tiểu thuyết Tùng san của Trần Khánh Hạo và mục lục toàn sách thì, nội dung cơ bản của việc phân loại này là:
+ Loại tiểu thuyết truyền kỳ: loại tiểu thuyết này là truyện ngắn viết bằng văn ngôn, đại loại như tiểu thuyết đời Đường. Những tác phẩm đã biên tập hiệu khám có Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục, Thánh Tông di thảo, Kiến văn lục, Việt Nam kỳ phùng sự lục v.v.
+ Loại diễn nghĩa lịch sử: diễn dịch lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Những tác phẩm sơ kỳ rõ ràng chịu ảnh hưởng loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa của Trung Quốc, tính tự sự khá nồng đậm. Những tác phẩm hậu kỳ thì bằng thái độ của sử gia, dùng hình thức tiểu thuyết chương hồi để chép sử, không phải là văn học thông tục dễ hiểu. Những tác phẩm đã biên tập, hiệu khám có: Hoàng Việt xuân thu, Việt Nam khai quốc chí truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí, Hoan Châu ký, Hậu Trần dật sử, Trùng Quang tâm sử v.v.
+ Loại tiểu thuyết bút ký: loại này lấy sự tích nhân vật làm trung tâm. Tác phẩm sớm nhất là Nam Ông mộng lục, ngoài ra có Công dư tiệp ký, Nam thiên trân dị, Thính văn dị lục, Sơn cư tạp thuật, Vân nang tiểu sử, Đại Nam hiển ứng truyện, Tang thương ngẫu lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc vĩ nhân truyện, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Khoa bảng tiêu kỳ, Nhân vật chí v.v.
+ Loại thần thoại truyền thuyết: loại này là thần thoại và truyền thuyết về quốc gia dân tộc Việt Nam và nguồn gốc sự vật, bao gồm truyện ký thần kỳ, như Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái, Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, Thiên Nam văn lục, Nam quốc dị nhân sự tích lục v.v.
Như vậy có nghĩa là, đứng về người biên tập, khái niệm của tiểu thuyết Việt Nam tương đương với tiểu thuyết Trung Quốc, với đặc điểm là: thứ nhất, thường có nguồn gốc từ tiểu thuyết Trung Quốc (Đường nhân tiểu thuyết, Lịch sử diễn nghĩa v.v.); thứ hai, lấy sự tích nhân vật hoặc truyện ký làm bộ phận chính.
Điều khó có thể có được là, Tùng san đặc biệt nhấn mạnh khái niệm “nghiên cứu tổng thể” cho rằng tiểu thuyết là một chi nhánh của văn hóa Hán ở Việt Nam. Khi khảo sát tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, phải chú ý nghiên cứu mối quan hệ giữa nhánh với giòng chính và “nghiên cứu so sánh” giữa các nhánh với nhau. Mục đích của nghiên cứu là lột tả được “đặc thù của các vùng văn hóa Hán ở bên ngoài Trung Quốc” làm cho việc nghiên cứu Hán học “hình thành một ngành nghiên cứu tổng hợp về vùng văn hóa vượt ra ngoài biên giới quốc gia”. Sự thực thì, Trần Khánh Hạo xuất phát từ mục đích nói ở trên để chọn lựa đề tài nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam. Ông nói: Trong văn học chữ Hán khu vực ngoài Trung Quốc, thì tiểu thuyết có “khả năng nhất trong việc biểu đạt đặc thù của dân tộc bản địa”, có thể “biểu hiện sâu sắc tinh thần dân tộc đó”, chứ không phải mô phỏng văn học Hán một cách giản đơn, đồng thời lại “rất ít người biết tới và cũng rất ít lấy làm đối tượng nghiên cứu”. “Vì vậy, trong nghiên cứu văn học, chúng tôi chọn nghiên cứu tiểu thuyết làm điểm xuất phát”. Quan niệm “chỉnh thể” này, không thể nghi ngờ gì nữa, là điều kiện để công tác chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam đạt đến chuẩn mực lý luận cao.
Tóm lại, Tùng san là một công việc mang tính sáng tạo, nhưng khó khăn. ý nghĩa học thuật của nó ở chỗ, không những cung cấp cho người nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán một loạt tư liệu nghiên cứu chỉnh trang, phong phú, mà còn cung cấp cho công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam thể lệ, phương thức phân loại và lý luận cơ bản có ý nghĩa quy phạm. Đó là sự thực đầu tiên cần phải xác định rõ trước khi bước vào thảo luận các vấn đề dưới đây.
II. Một vài vấn đề tồn đọng của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san.
Nhằm thúc đẩy công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam, chúng ta không thể né tránh, không quan tâm đến sự bất cập của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san. Sự bất cập đó chủ yếu biểu hiện ở khía cạnh mâu thuẫn nội tại của lý luận phân loại. Chẳng hạn, trong công việc biên soạn thực tế, tập 2 Tùng san có trình bày thêm “Bút ký truyền kỳ tiểu thuyết loại” và xếp vào đó Hội chân biên, Tân truyền kỳ lục - Nếu nói Tân truyền kỳ lục là phỏng tác Truyền kỳ mạn lục, thế thì, chia chúng ra làm hai loại (“Bút ký truyền kỳ loại” và “Truyền kỳ loại”) còn chưa thỏa đáng lắm, huống chi “Bút ký truyền kỳ” là một loại khác, với nội dung hỗn tạp, vị tất có thể đứng riêng ra.
Ngoài ra còn hai điểm hơi phi lý là: Nam quốc dị nhân sự tích lục chép 5 thiên truyện ký thần kỳ, An Nam cổ tích liệt truyện chép 12 thiên truyện ký thần kỳ, những thiên truyện chép ở hai sách này đều lấy từ các sách Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, hiển nhiên chúng có quan hệ gốc gác về thể tài, nhưng Tùng san lại phân chia chúng ra làm hai loại: “Bút ký tiểu thuyết” và “Thần thoại truyền thuyết”. Lại nữa, Thính văn dị lục trong đó lời tựa có bàn đến nguồn gốc của thể tài, rằng: “các bậc tiền bối có Lĩnh Nam chích quái, có Việt điện u linh, có Truyền kỳ mạn lục, có Thiên Nam truyện ký, đều ghi chép chuyện thần dị của nước ta”, nhân tự cho mình là “hiệu tần” những bộ sách ấy; thế mà Tùng san lại xếp những phần sách liên quan vào ba loại Bút ký tiểu thuyết, Thần thoại truyền thuyết, Truyền kỳ. Nên giải thích mâu thuẫn này ra sao ? Đó là vấn đề mà Tùng san chưa thực sự bàn tới.
Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân nảy sinh mẫu thuẫn nói trên, đại thể là, khi phân loại đã đưa ra quá nhiều tiêu chuẩn. Chẳng hạn, loại Thần thoại tiểu thuyết thì dựa vào tiêu chuẩn nội dung để xác lập, loại Truyền kỳ tiểu thuyết thì theo tiêu chuẩn hình thức (văn ngôn đoản thiên, tương tự Đường nhân tiểu thuyết) để xác lập, loại Lịch sử diễn nghĩa thì lại căn cứ vào tiêu chuẩn nội dung (lịch sử) và hình thức (diễn nghĩa) để xác lập. Như vậy thế tất gây ra sự hỗn loạn về thể lệ phân loại, giữa các loại với nhau trùng lặp hoặc không nối tiếp nhau. Làm thế nào để loại bỏ sự hỗn loạn ở đây? Biện pháp nhanh gọn nhất là thống nhất dựa vào tiêu chuẩn hình thức để phân loại. Bởi vì, cái gọi là “thể tài” vốn chỉ hình thức. Nếu vậy thì, Lịch sử diễn nghĩa với tư cách là loại tiểu thuyết nên gọi là Tiểu thuyết chương hồi. Trong bài Lịch sử diễn nghĩa và đặc sắc của nó trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam(1) Trịnh A Tài đã sử dụng cách gọi “Trường thiên chương hồi tiểu thuyết” để chỉ những mẫu mực của Lịch sử diễn nghĩa kiểu như Tam Quốc diễn nghĩa, điều này phản ánh tình hình “chương hồi”, “diễn nghĩa” khớp nhau, và cũng có nghĩa là đặc điểm của Lịch sử diễn nghĩa chính là ở chỗ chia đoạn bằng chương hồi. Nghiệm thấy điều đó trong thực tế là: hình thức mà Hoàng Việt xuân thu, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí đã sử dụng chính là thể chương hồi; Việt Nam khai quốc chí truyện tuy chưa phân định mục chương hồi một cách rõ ràng, nhưng phần đầu quyển có bài thơ mở đầu, lời văn có những công thức như “trở lại nói”, “lại nói”, “vả nói” v.v, cuối quyển thường thấy một loại gợi ý liên quan đến chương hồi như “Chưa biết thực hư ra sao, hãy nghe hồi sau phân giải”, hay “ Chưa biết việc sau thế nào, hãy nghe hồi sau phân giải”. Điều này nói lên rằng, “Lịch sử diễn nghĩa” của Việt Nam có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc.
Theo tiêu chuẩn này, trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam nên đưa thêm vào đó các tác phẩm Đào hoa mộng ký, Nam Thành du dật toàn truyện. Đào hoa mộng ký còn có các tên khác như Lan Nương tiểu thuyện, Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh, là tiểu thuyết tình yêu bằng chữ Hán gồm 20 hồi, nay còn 2 hồi. Nam Thành du dật toàn truyện cũng là tiểu thuyết chương hồi tình yêu bằng chữ Hán, nay chỉ còn 4 hồi. Sự tồn tại của hai tiểu thuyết “tình duyên” này chứng minh thêm Lịch sử diễn nghĩa là một tên gọi tiểu thuyết rất hẹp, chỉ có gọi nó là Tiểu thuyết chương hồi mới có thể tránh được bỏ sót những tác phẩm tiểu thuyết kể trên.
Ngoài việc tiêu chuẩn phân loại không thống nhất, Tùng san còn một vấn đề nữa là chưa giữ vững được tiêu chuẩn hợp lý. Chẳng hạn, Truyền kỳ tiểu thuyết, theo định nghĩa của Trần Khánh Hạo và Trịnh A Tài thì đó là “Văn ngôn đoản thiên”, cũng tức là “Văn ngôn tiểu thuyết” chịu ảnh hưởng của truyện chí quái thời Lục Triều và truyện truyền kỳ đời Đường Trung Quốc(2). Nếu không câu nệ hai chữ “văn ngôn” thì định nghĩa này về cơ bản có thể ổn. Qua các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích, thấy rằng, “truyền kỳ” là tên gọi của một thể văn, được các tác gia Việt Nam thừa nhận. Đặc điểm của nó là thường ghi chép những việc kỳ dị, nhiều thành phần hư cấu, thường chép nhiều thiên truyện thành tập, khuôn khổ mỗi thiên không dài nhưng kết cấu hoàn chỉnh, miêu tả uyển chuyển gẫy gọn. Song tiểu thuyết Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn này lại còn xa mới là những thiên chương mà Tùng san góp nhặt. Chẳng hạn, trong cổ tịch chữ Hán Việt Nam có Dị nhân lược chí là tập truyện truyền kỳ về nhân vật Việt Nam, có Dị nhân tạp lục là tập truyện truyền kỳ về nhân vật Trung Quốc, có Truyện ký trích lục chép 13 câu chuyện truyền kỳ, có Việt Tuấn giai đàm tiền biên chép 44 câu chuyện Việt Nam cổ xưa, có Lan Trì kiến văn lục chép 45 câu chuyện kỳ dị. Những tác phẩm này chưa thấy chép trong Tùng san, nhưng chúng lại cần được quy vào phạm trù “Truyền kỳ tiểu thuyết” một cách hợp lý.
Có giữ vững được tiêu chuẩn hợp lý hay không, vấn đề then chốt là ở chỗ từ bản chất, tức là từ nguồn gốc lịch sử để nhận thức lý do chúng phải có chỗ đứng. Điểm này ở những người biên soạn Tùng san chưa thật rõ ràng. Chẳng hạn, trong Tùng san có loại Bút ký tiểu thuyết, giới hạn được định ra hiện nay là lấy sự tích nhân vật làm cốt truyện, giới hạn này vị tất phù hợp với Tiểu thuyết bút ký trong lịch sử. Lịch sử tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc chứng tỏ rằng, sự phân biệt giữa Truyền kỳ với Tiểu thuyết bút ký là Truyền kỳ chú trọng văn vẻ, nhiều hư cấu; còn Tiểu thuyết bút ký thì mực thước, ngắn gọn, chép chân thực. Do đó, Kiến văn lục “phàm chuyện lạ thì chép”(3), tập truyện truyền thuyết dân gian Đại Nam hiển ứng truyện “không hoàn toàn khớp với sự thực lịch sử nhưng rất thú vị(4) đều nên xếp vào tác phẩm truyền kỳ chứ không phải là tác phẩm bút ký. Tùng san đã quy chúng vào “Bút ký tiểu thuyết loại”, rất khó nói là hợp lý.
Ngoài ra, Tùng san dung nạp “Thần thoại tiểu thuyết loại”, loại tác phẩm này, về mặt thể tài cũng nên xếp vào truyền kỳ. Bởi vì, nhìn nhận từ các tên sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, những tác phẩm này đều được biên chép theo tôn chỉ truyền kỳ ký dị như thế; xét về nội dung thì cũng nhiều hư cấu và nhiều thiên truyện góp phần thành tập kiểu như thế. Thần linh được chép trong đó, như “Lịch đại đế vương”, “Lịch đại nhân thần” v.v. chẳng khác gì Thành hoàng, Thổ địa, Quan thánh đế quân, Kim Sơn đại vương của Trung Quốc, thuộc về thần dân tục, chứ không phải là vị thần mà thần thoại học gọi đó là một phương thức tư duy hay coi đó là một cách giải thích nguồn gốc thế giới. Phán đoán này của chúng tôi có cơ sở vững chắc. Vũ Quỳnh coi tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của mình là “sử trong truyện”, và cho rằng trong đó Hồng Bàng thị truyện “là giải thích rõ nguyên do nước Việt mở nền”, Dạ soa vương truyện “tóm lược sự manh nha của Chiêm Thành”, Bạch trĩ truyện “chép về họ Việt Thường”, Kim Quy truyện “viết về An Dương Vương; tóm lại “hệt như Lưu thần ký đời Tấn, U quái lục đời Đường” (5). Điều này nói lên rằng, Lĩnh Nam chích quái đã kế thừa truyền thống tiểu thuyết chí quái và truyền kỳ Trung Quốc. Trên đây bàn đến mối quan hệ giữa các sách Tân truyền kỳ lục, Truyền kỳ mạn lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục, Việt điện u linh tập, Thính văn dị lục, Thiên Nam truyện ký, sở dĩ chúng có quan hệ với nhau bởi chúng cùng thuộc loại Truyền kỳ. Tóm lại, chúng ta không có lý do để nói rằng trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam tồn tại một loại riêng là “Thần thoại truyền thuyết”. Những tập truyện thần linh mà Tùng san không thu nạp, như Thần quái hiển linh lục (chép 42 truyện thần dị), Trần triều hiển thánh linh tích (gồm những câu chuyện thần dị), Hưng Yên tỉnh danh tích lược biên (biên chép 14 thiên truyện thần dị, Đông Hải đại vương, Phạm đại vương, Đế Thích, Chử Đồng Tử v.v.) nên quy về truyền kỳ.
Trên đây đã nói, đại để là vấn đề tiêu chuẩn thu nạp của Tùng san. Ngoài ra, trong quá trình thao tác thực tế Tùng san còn một vấn đề nữa là, có thực hiện được phương châm “nghiên cứu chỉnh thể” hay không.
Chẳng hạn, trước khi biên chép Việt Nam Hán văn tiểu thuyết, đã thẩm định một cách toàn diện cổ tịch chữ Hán Việt Nam hiện còn hay chưa? Nếu thực hiện được phương châm nghiên cứu chỉnh thể này, thì e rằng có thể tránh bỏ sót mấy điểm dưới đây, nhưng tình hình thực tế dường như lại trái ngược.
Thứ nhất, trong cổ tịch Việt Nam có hàng loạt câu chuyện thần linh mà tính chất của chúng gần như Việt điện u linh tập, lại vắng bóng trong Tùng san. Ở trên đã đưa một bộ phận những chuyện thần linh quy về “truyền kỳ” nhưng đáng chú ý là, các văn bản nguồn mà những câu chuyện này dựa vào, không chỉ có “truyền kỳ” với tư cách là thể tài văn học, mà còn có cả “thần tích” với tư cách là thể tài sử học nữa. Theo lời tựa của tác giả Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập vốn được biên chép để ca ngợi các vị thần được thờ trong các đền miếu, tính chất của nó là hội biên truyền kỳ về các vị thần. Điều đó có nghĩa là, hàng trăm sách ngọc phả, thần tích, số lớn trong đó phải xếp vào tiểu thuyết, vì chúng cũng vậy, là những truyện thần được biên chép để ca ngợi những vị thần được thờ nơi đền miếu.
Thứ hai, trong cổ tịch Việt Nam lại có một loại tác phẩm thể truyện ký mà tính chất của chúng gần với Khoa bảng tiêu kỳ nhưng chưa có mặt ở Tùng san. Số tác phẩm này với truyền kỳ có chỗ giống nhau là khuôn khổ thiên truyện ngắn gọn, chúng khác nhau ở chỗ truyền kỳ là truyện ký nhiều thành phần hư cấu, song chúng đều là truyện ký tả thực. Nếu theo phương thức xử lý của Tùng san đối với Khoa bảng tiêu kỳ, thì những tác phẩm này có lý do góp vào “bút ký tiểu thuyết”. Quyển 1 của Khoa bảng tiêu kỳ là Đăng khoa viên số khảo, quyển 2 là Quốc triều Trạng nguyên khảo... tính chất thể tài hiển nhiên là gần với Liệt huyện đăng khoa khảo của cùng một tác giả Phan Huy Ôn. Dựa vào đó loại suy, cổ tịch chữ Hán Việt Nam Lịch đại đăng khoa lục, Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục, Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa lục, Sơn Tây đăng khoa khảo, Lịch triều đăng khoa bị khảo, Tam khôi bị lục, Đại Việt đỉnh nguyên Phật lục (tiểu truyện và truyền thuyết 46 Trạng nguyên Việt Nam) v.v. cũng có thể xem xét xếp vào tiểu thuyết.
Thứ ba, trong cổ tịch Việt Nam còn có khá nhiều thư tịch mà tính chất thể tài gần giống với Thiên Nam trung nghĩa thực lục, Lê triều tiết nghĩa lục, Nam quốc vĩ nhân truyện, Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện cũng chưa có ở Tùng san. Những thư tịch này chép tiểu truyện hoặc lý lịch giản lược của nhân vật, chúng có nguồn gốc từ truyện ký trong những sách thuộc Sử bộ của Trung Quốc. Trong đó có Thiền uyển tập chép “sự tích các tông phái Thiền học” các đời, Danh thần lục chép “sự trạng các bậc danh thần các đời”, Nam Minh thần lục chép “sự tích thiền tăng các đời của nước ta khá rõ”(6). Chuyết thập tạp ký chép 30 thiên truyện ký về các nhà thơ thời xưa v.v., tính chất thể tài của chúng khá rõ, có thể xếp vào Tiểu thuyết bút ký. Ngoài ra còn có Thoái thực ký văn (còn gọi là Công hạ ký văn), Dã sử (còn gọi là Liệt truyện), Hồng Lạc lưu anh lục (còn gọi là Danh thần truyện), Quốc triều Trung Hưng hiển trung chư thần (còn gọi là Lê mạt tuẫn tiết truyện), Danh hiền lục, Danh thần danh Nho truyện ký, Hậu Lê dã lục, Lão song thô lục, Lịch đại danh thần thực lục, Lê mạt tuẫn tiết chư thần tính danh sự trạng, Lê triều công thần liệt truyệt, Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện, Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện, Nguyễn triều liệt truyện, Trần Lê ngoại truyện v.v. Cứ như tên sách thì đó cũng là những trước tác truyện ký “lấy sự tích nhân vật làm cốt truyện”. Trong khi kê cứu tư liệu tiểu thuyết bút ký, cần phải cân nhắc những tác phẩm này, vì chúng chí ít đã cấu thành bối cảnh phát triển tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.
Thứ tư, trong cổ tịch Việt Nam có nhiều tác phẩm thuộc loại truyện kể mà tính chất của nó gần với Việt Nam kỳ phùng sự lục cũng chưa thấy ở Tùng san. Những tác phẩm này thường lấy một nhân vật, một thời đại làm đơn nguyên tự thuật, từng thiên truyện dài hơn Truyền kỳ và Tiểu thuyết bút ký, loại này ở Việt Nam gọi là “truyện”. Việt Nam kỳ phùng sự lục ở tập 1 Tùng san và Thúy Kiều lục, Thục An Dương Vương sự tích, Thục An Dương Vương triều công thần nhất vị Đại vương phả lục, Trạch Hải Đại vương sự tích, Trương tôn thần sự tích, Vân Cát nữ thần cổ lục, Vân Cát nữ thần truyện v.v. Ở tập 3 Tùng san đều thuộc loại này. Nhưng phần lớn những tác phẩm này chưa đưa vào Tùng san, trong đó bao gồm cả Thần tích, Ngọc phả như trên đã nói, mà còn bao hàm cả các thư tịch sau đây: Trùng Tương tân lục kể chuyện Trùng Tương đầu thai thành Tư Mã ý, Sài Sơn thực lục kể chuyện nhà sư Từ Đạo Hạnh sáng lập chùa Sài Sơn, Vũ dù thị tiên sư di sự khảo kể về cuộc đời ly kỳ của Bùi Quốc Khái - người sáng lập làng nghề làm ô dù, Tứ vị thánh bà sự tích văn kể quá trình bốn người phụ nữ Trung Quốc gặp nạn ngoài biển được người Việt Nam cứu giúp, Điểu thám kỳ án kể về một người biết tiếng chim đã sai khiến loài chim ăn đêm như thế nào để giúp phá án, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai tân truyện kể Lưu Thần Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào cõi tiên và trải qua cuộc bể dâu ở trần gian, Từ Thức tân truyện kể Từ Thức gặp tiên nữ rồi yêu nhau lấy nhau, Nguyễn Đạt Nguyễn Linh tân truyện kể hai anh em sinh đôi họ Nguyễn phẫn chí học hành, Nữ Tú tài tân truyện kể người con gái đời Tống giả trai để được học hành thi đỗ Tiến sĩ, Cổ quái bốc sư truyện kể chuyện người thầy bói kỳ cục xem bói cho viên quan cuối đời Lê Đỗ Thế Giai, La Tổ truyện kể La Tổ đi tu vì vợ đi lấy chồng khác. Xét từ đặc điểm thể tài, những tác phẩm này hiển nhiên phải thuộc về tiểu thuyết.
Thứ năm, trong cổ tịch Việt Nam còn có nhiều tác phẩm thể bút ký mà tính chất gần với Công dư tiệp ký, nhưng vẫn chưa thấy ở Tùng san. Chẳng hạn, Thượng hữu lược ký của Vũ Trừng Phủ với 66 trang sách đã chép 252 câu chuyện từ đời Hán đến đời Tống.
Năm mặt bỏ sót kể trên nói lên rằng Tùng san trước khi biên soạn chưa điều tra tư liệu một cách toàn diện. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng quan niệm chỉnh thể sẽ là một việc khó có thể đạt được một cách thực sự.
III. Về các loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam và nguồn gốc của nó.
Khảo sát, phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam là vấn đề nghiên cứu văn học, nói cho đúng hơn là vấn đề văn hiến học. Bởi vì, giới học thuật chưa có khái niệm tiểu thuyết xác định. Xét từ góc độ này, dù Tùng san biên góp thế nào đi nữa đều có thể đứng vững được. Có điều, nếu cân nhắc với một tiêu chuẩn cao, thì công tác văn hiến học phải có chức năng “biện bác học thuật, khảo rõ nguồn gốc”. Như vậy có nghĩa là bất cứ một loại Tùng san tư liệu nào cũng phải lấy truyền thống học thuật làm điểm xuất phát.
Cách nhìn nhận tiểu thuyết của giới nghiên cứu văn học Trung Quốc ngày nay, thường xuất phát từ hai truyền thống khác nhau. Một là, xuất phát từ sử học hoặc mục lục học cổ đại Trung Quốc, cho rằng tiểu thuyết là những “lời góp nhặt” bổ sung cho trước tác lịch sử quan phương, phạm vi của “tiểu thuyết” vì thế bao gồm “kể chuyện tạp nham”, “ghi chép sự lạ”, “góp nhặt lời vụn vặt”(7); hai là, xuất phát từ lý luận văn học châu Âu, ý nói văn học tự sự thể tản văn, cho rằng đặc trưng cơ bản của nó là “thông qua những tình tiết câu chuyện nhất định, miêu tả nghệ thuật cụ thể đối với quan hệ, số phận, tính cách, hành vi, tư tưởng, tình cảm trạng thái tâm lý và hoàn cảnh hoạt động của nhân vật(8). Cho dù tiêu chuẩn châu Âu phù hợp với sự phân ngành khoa học hiện đại, nhưng trong thực tiễn nghiên cứu, nó lại chưa thể hoàn toàn thay thế được tiêu chuẩn cổ điển của Trung Quốc. Bởi lẽ, một khi định ra giới hạn tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc thì sẽ cắt đứt nguồn gốc lịch sử của tiểu thuyết nghĩa hiệp (tiểu thuyết với tư cách là văn học tự sự thể tản văn), và khiến hàng loạt bút ký tiểu thuyết không có chỗ dựa về học thuật. Đó là sự thực cần phải xác định rõ khi nghiên cứu, chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Sự thực này có nghĩa là tiểu thuyết mà chúng ta phải đối mặt vừa có tiểu thuyết phù hợp với tiêu chuẩn châu Âu hoặc tiêu chuẩn hiện đại, lại vừa có tiểu thuyết phù hợp với quan niệm cổ đại Trung Quốc, còn có cả tiểu thuyết truyền thống tự sự gắn bó với bản địa Việt Nam. Chúng ta phải đứng chân trong tình hình thực tế cổ tịch chữ Hán Việt Nam để hoạch định phạm vi của tiểu thuyết.
Tham khảo khái niệm tiểu thuyết của Tùng san thường có nguồn gốc từ tiểu thuyết của Trung Quốc, lấy sự tích hoặc truyện ký nhân vật làm phần quan trọng để khảo sát, chúng tôi cho rằng tiểu thuyết cổ điển Việt Nam đại thể bao gồm các loại sau đây:
1. Tiểu thuyết chương hồi: theo cách nhìn hiện đại, đó là loại tiểu thuyết điển hình nhất trong cổ tịch chữ Hán. Đặc điểm của nó là thể tản văn bạch thoại, quy mô thiên truyện khá lớn, phân chia đoạn bằng chương hồi, chủ yếu miêu tả những sự kiện lịch sử điển hình. Với tư cách là lịch sử diễn nghĩa, Hoàng Việt xuân thu, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí là hình thức điển hình của loại này. Có điều đề tài của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam lại không chỉ giới hạn bởi lịch sử. Đào hoa mộng ký, Nam Thành du dật toàn truyện v.v. là tiểu thuyết tình yêu mà Tùng san không thu nạp, đại biểu cho một loại hình khác của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.
Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Giữa chúng có sự phân biệt ở chỗ, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc là thể tài do nghệ nhân “thuyết thư” (kể chuyện theo sách) chuyên nghiệp sáng tạo ra. Đến Việt Nam thì có sự phân hóa: một bộ phận tiếp tục giữ truyền thống thuyết xướng, bộ phận khác trở thành công cụ sáng tác của người trí thức. Sự phân hóa này tạo nên sự thay đổi về văn thể: Thứ nhất, tiểu thuyết chương hồi do người trí thức sáng tác thường viết cho người đọc (chứ không phải cho người nghe), cho nên ở Hoàng Lê nhất thống chí hồi 2, hồi 8 đoạn cuối, lẽ thường thì “hãy nghe hồi sau phân giải” được thay thế bởi “hãy xem hồi sau phân giải” v.v. Thứ hai, loại tiểu thuyết chương hồi này có tính chất ghi thực mạnh mẽ, bản thân tác giả thường là người trong cuộc, chẳng hạn ba tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đều từng tham dự sự kiện lịch sử có ghi trong sách. Học giả người Nga Ríp-tin cho rằng, tác giả tiểu thuyết Việt Nam không những dựa vào truyền thống Trung Quốc mà còn dựa vào truyền thống tản văn lịch sử bản địa (chẳng hạn: Lam Sơn thực lục mang tính chất văn hiến lịch sử)(9). Thứ ba, ngoài tiểu thuyết chương hồi chữ Hán bác học, thích hợp với việc xem, đọc, ở Việt Nam còn có hàng loạt tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Nôm, dùng vào việc thuyết giảng. Trong đó bao gồm diễn âm diễn nghĩa lịch sử bằng chữ Hán như Việt Nam khai quốc chí diễn âm và Đường chinh tây diễn truyện, cả tiểu thuyết trường thiên bằng chữ Nôm, như Sự tích ông trạng Lợn 19 hồi, Sự tích ông trạng Quỳnh 23 hồi. Ngoài ra, trong tiểu thuyết cổ Việt Nam còn có nhiều truyện thơ bằng chữ Nôm, chẳng hạn như Bích Câu kỳ ngộ 30 hồi, Phú bần truyện diễn ca 12 hồi, Đổng Thiên Vương tân truyện 12 hồi. Những truyện thơ này phần nhiều là thể lục bát, đậm màu sắc thuyết xướng, chúng hợp thành loại tiểu thuyết nội dung rất phong phú thuộc tiểu thuyết chương hồi.
2. Tiểu thuyết truyền kỳ: so với tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam có nguồn gốc sớm hơn, gốc gác từ chuyện chí quái, tiểu thuyết truyền kỳ thời kỳ trung cổ của Trung Quốc. Các tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích v.v. đều phản ánh sự thừa nhận của các tác gia Việt Nam về nguồn gốc Trung Quốc ấy. Đặc điểm chủ yếu của chúng là nhiều thành phần hư cấu, quy mô từng thiên truyện không dài (thường góp nhiều thiên thành tập). Bao gồm những tập truyện kể dân gian mà Tùng san chưa thu nạp như Dị nhân lược chí, Dị nhân tạp lục, Truyện ký trích lục, Việt Tuấn giai đàm tiền biên, Lan Trì kiến văn lục v.v; và cả những tác phẩm mà Tùng san xếp vào bút ký tiểu thuyết, như Kiến văn lục, Thính văn dị lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Đại Nam hiển ứng truyện, kể cả những tác phẩm mà Tùng san xếp vào thần thoại truyền thuyết, như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Thiên Nam vân lục. Ngoài ra, một số tập truyện kể về thần linh mà Tùng san chưa thu nạp, chẳng hạn Thần quái hiển linh lục (chép 42 câu chuyện thần dị), Trần triều hiển thánh linh tích (tập truyện kể thần dị), Hưng Yên tỉnh danh tích lược biên (chép 14 câu chuyện thần dị về Đông Hải đại vương, Phạm đại vương, Đế Thích, Chử Đồng Tử v.v) cũng có thể quy về truyền kỳ.
Nhưng xét về góc độ hình thức thể tài, đại bộ phận truyện kể về thần linh Việt Nam lại không thuộc truyền kỳ, mà thuộc sự tích truyện dưới đây sẽ bàn đến. Sự phân biệt chủ yếu là ở kết cấu của chúng: truyện sự tích thường chép rõ đầu đuôi cốt chuyện, quy mô thiên truyện khá dài, cứ mỗi thiên thành một đoạn, chứ không như truyền kỳ thông thường chỉ viết trong một thiên ngắn. Chẳng hạn, Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca chính là diễn dịch Quan Âm chân kinh diễn nghĩa để ca ngợi Phật Quan Âm trong chùa, thể lục bát chữ Nôm, chia ra 29 đoạn;Trang Vương cầu tự, Bồ Tát tiền thân, Bồ Tát giáng sinh, Công chúa mộ Phật v.v., danh mục từng đoạn y hệt như Quan Âm chân kinh diễn nghĩa, nhưng văn thể khác nhau. Điều này nói lên rằng truyện sự tích có nguồn gốc văn hóa khác với truyền kỳ, cái mà nó dựa vào là truyền thống tự thuật (thần tích) một nghi thức bản địa Việt Nam.
3. Tiểu thuyết bút ký: đó là chính thống của tiểu thuyết trong con mắt của nhà mục học cổ đại Trung Quốc, lấy chép thực và ngắn gọn làm đặc trưng. Loại thể văn này hoặc ghi chép dị văn hoặc tự thuật dã sử, hoặc tạp khảo danh vật, chủng loại rất đa dạng; trong đó có nhân vật, có thiên chương tình tiết, được các nhà nghiên cứu ngày nay liệt vào phạm vi tiểu thuyết. Chịu ảnh hưởng của thư tịch Trung Quốc, trong cổ tịch chữ Hán Việt Nam cũng có thể loại này. Chẳng hạn, Thượng hữu lược ký của Vũ Trừng Phủ, Vân nang tiểu sử của Phạm Đình Dục, Mẫn Hiên thuyết loại của Cao Bá Quát, Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Nam Thiên trân dị tập của tác giả khuyết danh, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, đều có thể xếp vào tiểu thuyết bút ký. Tiểu thuyết bút ký này là một loại thể văn bác học.
Việc xác định tác phẩm tiểu thuyết bút ký liên quan đến một vấn đề khác là đối với truyện ký thì thế nào? Nếu nói truyện ký đoản thiên nhiều thành phần hư cấu thuộc truyền kỳ thì một bộ phận tương ứng trong bút ký tiểu thuyết là truyện ký đoản thiên tả thực. Việc xác định tiểu thuyết bút ký vì vậy cần phân biệt với loại truyện ký thuộc bộ Sử. Trong cổ tịch Việt Nam còn một loạt tác phẩm mà tính chất truyện ký của chúng tương đồng với Khoa bảng tiêu kỳ, Thiên Nam trung nghĩa thực lục, Nam quốc vĩ nhân truyện. Chỉ có từng bước so sánh nghiên cứu chúng mới có thể đưa ra được một thư mục tiểu thuyết hợp lý.
4. Truyện sự tích: truyện là thể văn thể tự sự có truyền thống bản địa Việt Nam. Nó thường lấy một nhân vật, một thời đại làm đơn nguyên tự thuật, nên cũng gọi là sự tích. So với tiểu thuyết truyền kỳ và bút ký, nó có quy mô dài hơn, miêu tả với ngôn ngữ thông tục hơn, giàu tính văn học hơn. Cho nên nó giống như truyện của Triều Tiên, vị trí của nó trong lịch sử phát triển tiểu thuyết tương đương với “thoại bản” hoặc thị nhân tiểu thuyết của Trung Quốc và cao hơn truyền kỳ10). Xét về số lượng, đây là thể tài quan trọng nhất trong tiểu thuyết cổ đại Việt Nam, bao gồm Việt Nam kỳ phùng sự lục, Thúy Kiều lục và nhiều tác phẩm đề là thần tích, thần phả.
Trên đây đã bàn đến một truyền thống văn hóa truyện kể thần linh trong tiểu thuyết loại truyền kỳ Việt Nam, nêu ra những tác phẩm chữ Hán thể truyện sự tích. Dẫu rằng số lượng tác phẩm lên đến hàng chục, nhưng thực ra không có nghĩa nội dung chủ yếu của thể truyện sự tích là truyện kể thần linh. Trái lại, trong thể tài này, chúng ta thấy nhiều truyện kể thế tục, chẳng hạn như ở trên đã nhắc đến Trùng Tương tân lục, Sài Sơn thực lục, Điểu thám kỳ án, Từ Thức tân truyện, La Tổ truyện v.v. Những tác phẩm này chứng tỏ một cách đầy đủ tính chất đặc trưng thị dân hóa của truyện sự tích.
Từ những đặc điểm đã nói ở trên của truyện sự tích, có thể biết được thể loại này dựa vào truyền thống sử truyện, có cả truyền thống văn học truyền miệng Việt Nam; chứ không như ba loại tiểu thuyết chương hồi, truyền kỳ, bút ký, chủ yếu di thực từ thư tịch chữ Hán. Vài lệ chứng sau đây sẽ giúp nói rõ vấn đề này. Thứ nhất, có một tác phẩm tiểu thuyết thể lục ngôn, kể câu chuyện Lưu Kinh vì lười biếng bị đày xuống địa ngục, sau được vợ tiên nhờ Phật cứu giúp, với nhan đề là Lưu Kinh truyện thoại bản. Đặc điểm của nó là dùng cái tên “thoại bản” để ngầm chỉ tác phẩm có nguồn gốc từ văn học truyền miệng. Thứ hai, thể thức chủ yếu của truyện sự tích Việt Nam thật ra không phải là tản văn mà là văn vần, rất phù hợp với nhu cầu dễ nhớ dễ đọc. Tiểu thuyết chữ Hán loại này có Hoài Nam ký (truyện thơ thể lục bát về tổ nhà Nguyễn) Đường Cao Đô hộ Bột Hải quận vương thi truyện (truyện thơ về Cao Biền đời Đường), Lý Công tân truyện (truyện thơ thể lục bát về Lý Công thời Tống), Thạch Sanh tân truyện (truyện Thạch Sanh thể lục bát), Tống Trân tân truyện (truyện Tống Trân, thể lục bát) v.v. Những tác phẩm này thường dùng thể thuyết xướng lục bát, niên đại muộn hơn truyện thơ chữ Nôm (trong đó tác phẩm ra đời khá sớm là Hoài Nam ký, do Hoàng Quang soạn năm 1777), hiển nhiên có nguồn gốc từ nghệ thuật thuyết xướng. Thứ ba, ngoài số truyện sự tích bằng chữ Hán, trong tiểu thuyết Việt Nam còn rất nhiều truyện sự tích viết bằng chữ Nôm, như Tiên phả dịch lục, Truyện ông đồ Ba Vẫy, Hán Sở tranh hùng truyện, Tiên hoa lục v.v. thường dịch Nôm hoặc diễn nghĩa tiểu thuyết chữ Hán (Hoa tiên lục dịch từ tiểu thuyết Hoa tiên truyện của Trung Quốc). Dịch Nôm có thể thỏa mãn được nhu cầu thuyết xướng, những tác phẩm Nôm này nói lên đặc điểm thế tục hóa của truyện sự tích song hành với đặc điểm khẩu ngữ hóa của chính nó. Thứ tư, điều quan trọng nhất, hình thức chủ yếu của truyện sự tích là hình thức truyện thơ Nôm giàu phong cách dân gian.
Gọi là “truyện thơ Nôm”, cũng chính là truyện sự tích dùng hình thức thể thơ Nôm, ở Việt Nam quen gọi “thơ quốc âm”. Loại này chủ yếu là thể lục bát, đề tài chính là tình duyên trai gái, hình thức lưu truyền thường là bản in, mỗi truyện trên dưới 100 trang. Những chuyện thơ Nôm phù hợp với những điều kiện này, có Bướm hoa tân truyện, Hoàng Tú tân truyện, Hữu Ké truyện, Hoa tiên nhuận chính, Phương Hoa tân truyện, Chúa Thao cổ truyện, Tuyển phu ngộ phối tân truyện, Ngọc Hoa cổ tích truyện, Bạch viên tân truyện v.v. Chúng phản ánh đặc điểm tiểu thuyết dân gian Việt Nam kể chuyện tình yêu bằng phương thức thuyết xướng. Số tác phẩm này chiếm tỷ lệ cao về ấn loát, chứng minh rằng truyện thơ Nôm là loại tiểu thuyết được quần chúng hoan nghênh. Một số truyện thơ Nôm khác, như Quả báo tân truyện, Lưu nữ tướng truyện, Chàng Chuối tân truyện, Trê cóc tân truyện, Trinh thử truyện, Lưu Bình Dương Lễ tân truyện, Đồng tiền truyện v.v., tuy không phải là đề tài tình yêu nữa, nhưng cũng dùng thể lục bát, cũng kể những chuyện thường ngày, cũng lưu truyền bằng hình thức bản in. Tính rộng rãi của việc lưu truyền nói lên trong tiểu thuyết Việt Nam có hai truyền thống văn hóa, truyện thơ Nôm đại biểu cho truyền thống dân gian đối lập với đề tài lớn của lịch sử diễn nghĩa, thần quái truyền kỳ.
Nhưng, xét từ một khía cạnh khác, truyện thơ Nôm vẫn là chung nhịp thở với tiểu thuyết Trung Quốc. Trong đó phần nhiều là các tác phẩm “diễn âm” hoặc “diễn truyện” tiểu thuyết Trung Quốc. Chẳng hạn Bình Sơn Lãnh Yến diễn âm, Hảo cầu tân truyện diễn âm. Lưu Nguyên Phổ truyện, Ngọc Kiều Lê tân truyện, Nhị Độ Mai diễn ca, Nhị Độ Mai truyện, Nhị Độ Mai tinh tuyển, Nhuận chính trung hiếu tiết nghĩa Nhị Độ Mai truyện, Phan Trần truyện, Phan Trần truyện trùng duyệt, Tái sinh duyên truyện, Chiêu Quân cống Hồ truyện, Tống chí truyện quyển bát, Tây du truyện, Phù dung tân truyện, Tỳ bà quốc âm truyện, Tỳ bà quốc âm tân truyện. Ngoài ra, còn có khá nhiều truyện thơ Nôm in tại Trung Quốc, chẳng hạn Bạch Viên thi tập, Lý Công tân truyện có bản in Quảng Đông. Điều này rất thú vị, chúng phản ánh lối đi và cung cách cơ bản của việc Việt Nam hóa văn học Trung Quốc (hoặc là văn học Việt Nam dung hợp văn học Trung Quốc) và cũng chứng tỏ tiểu thuyết của hai nước Trung - Việt có bối cảnh thể thơ chung. Chúng tôi chú ý đến truyện diễn âm đã nói ở phần trên chủ yếu diễn dịch những câu chuyện đời Tống; về cơ bản, chúng là những tác phẩm bác học có tên tác giả hẳn hoi, khác hẳn những truyện thơ Nôm không phải là diễn âm, truyện thơ Nôm không phải là diễn âm thường thường không ghi tên tác giả. Điều này chứng tỏ người trí thức cổ đại của Việt Nam đã dựa vào sự hiểu biết của mình về thoại bản đời Tống, chủ yếu bằng phương thức phiên dịch, đã tham dự vào công việc sáng tác truyện thơ Nôm. Nói cách khác, truyện thơ Nôm là sản phẩm kết hợp giữa hai truyền thống: một là thuyết xướng dân gian Việt Nam, hai là thoại bản Trung Quốc và tiểu thuyết đàn xướng bắt đầu thịnh hành từ đời Tống, truyền vào Việt Nam chủ yếu thông qua các tác gia Việt Nam. Khi nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, đối với loại tiểu thuyết bằng thơ này, dù là truyện thơ Hán hay truyện thơ Nôm, đương nhiên đều không nên xem nhẹ.
IV. Lời kết
Đứng về học thuật Trung Quốc thế kỷ XXI mà nói, cổ tịch chữ Hán Việt Nam tiêu biểu cho một ước vọng lớn lao. Nó giống như văn hiến Đôn Hoàng đầu thế kỷ XX, sẽ thở thành điểm tựa mới của nhiều ngành khoa học lịch sử cổ đại, văn học cổ đại, ngôn ngữ cổ đại, nghệ thuật cổ đại, lịch sử dân tộc Trung Quốc v.v. Trong bối cảnh đó, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết Tùng san đi đầu trong công việc khai phá đất hoang, đã cung cấp hàng loạt tư liệu cho nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán, và cũng đã đưa ra thể lệ làm việc có ý nghĩa làm mẫu. Cống hiến của nó đối với học thuật dù có đánh giá thế nào cũng không quá mức.
Dẫu sao, một công việc của giai đoạn khai sáng, bộ Tùng san cũng có chỗ chưa đạt tới hoàn thiện. ý tưởng “nghiên cứu chỉnh thể” của người biên soạn chưa được quán triệt trong thực tiễn. Trong sách, quy định giới hạn và phân loại đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam còn chưa rõ ràng, chuẩn xác. Nó thức tỉnh chúng ta rằng, chỉ có xây dựng được lý luận tiểu thuyết chính xác, điều tra tư liệu một cách toàn diện, đi sâu truy tìm nguồn gốc văn hóa các loại tiểu thuyết Việt Nam, mới có thể có được một thể lệ phân loại rõ ràng, hợp lý. Nói cách khác, chỉ có kết hợp công tác nghiên cứu chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam với công tác nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch chữ Hán Việt Nam, Tùng san mới có thể trở thành bộ trước tác có đầy đủ tính tư liệu và tính khoa học.
Để đạt được mục đích nói trên, cần phải tập trung trí tuệ của nhiều người, thu nhận rộng rãi những ý kiến tốt. Cho nên, bài viết này trên cơ sở khảo sát những tư liệu liên quan, nêu ra kiến nghị chia bốn loại tiểu thuyết cổ đại Việt Nam, là tiểu thuyết bút ký, tiểu thuyết truyền kỳ, truyện sự tích, tiểu thuyết chương hồi, và ngược tìm nguồn gốc lịch sử văn hóa của những thể văn đó. Bài viết này cho rằng, bốn loại tiểu thuyết trên đây phải chăng ra đời theo thứ bậc, vị trí của chúng trong chặng đường lịch sử phát triển của tiểu thuyết, đại thể tương ứng với tiểu thuyết bút ký Trung Quốc từ Hán trở về sau, tiểu thuyết truyền kỳ từ Lục Triều trở về sau, tiểu thuyết thị dân từ Tống trở về sau, tiểu thuyết chương hồi thời Minh Thanh. Nói về bản chất, các tác phẩm tiểu thuyết đều là sự ghi chép chuyện kể truyền miệng; bởi vậy, bốn loại tiểu thuyết đó đều thể hiện khuynh hướng lưỡng phân, hoặc là sách vở hóa, hoặc là khẩu ngữ hóa. Trong đó rõ nhất là truyện sự tích và tiểu thuyết chương hồi. Trong truyện sự tích có một nhánh, quy mô rất lớn đó là “truyện thơ Nôm”; trong tiểu thuyết chương hồi xuất hiện sự tồn tại song song của hai truyền thống: đề tài lịch sử và đề tài sinh hoạt hàng ngày, chữ Hán và chữ Nôm là chính, tác phẩm của người trí thức có ghi tên tác giả và tác phẩm dân gian khuyết danh. Qua đó có thể thấy rằng nhị phân văn ngôn và bạch thoại trong tiểu thuyết Trung Quốc, ở Việt Nam nhường chỗ cho nhị phân chữ Hán và chữ Nôm. Điều này cũng có nghĩa là, dẫu rằng tiểu thuyết chữ Hán là đối tượng chỉnh lý nghiên cứu, chúng ta cũng không thể coi nhẹ sự tồn tại của tiểu thuyết chữ Nôm.
Nhưng những nhận thức kể trên của bài viết này vẫn là bước đầu. Bởi vì chúng tôi chủ yếu dựa vào Thư mục cổ tịch chữ Hán Việt Nam hiện còn(11), chưa được tận mắt đọc từng quyển sách cổ liên quan. Hơn nữa, ngoài bộ Thư mục này, chúng tôi chưa đặt vấn đề tìm hiểu các tư liệu khác.
Năm 1998, tôi từng đến Việt Nam khảo sát một thời gian ngắn. Ngoài vệc đọc những cổ tịch trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một vài nơi khác, tôi cũng chú ý sưu tập thêm được một số thư tịch chữ Hán còn tản mát ở dân gian. Trong những bản sao chép tay của tôi, có mấy tác phẩm tự sự nhiều thành phần hư cấu (...)(12).
Những văn hiến trên đây chứng tỏ điều gì ? Chứng tỏ, hãy còn nhiều sách vở chép tay lưu truyền trong dân gian Việt Nam, đòi hỏi người nghiên cứu chú ý sưu tập. Chứng tỏ, do ảnh hưởng của văn học thuyết xướng, các tác phẩm văn học chữ Hán Việt Nam thường giàu tính văn học, tất yếu phải dung nạp chúng vào tầm nhìn của người nghiên cứu văn học. Chứng tỏ, trong số sách đó còn một lượng khá nhiều thần tích, ngọc phả, chúng được dùng vào lễ nghi tế tự ở các làng xã, nguyên đó là những câu chuyện thần bí truyền miệng, muốn nhận thức được chúng thì phải vượt qua khái niệm văn bản chung. Chứng tỏ, những tác phẩm này trong quá trình thần hóa lịch sử làng xã, thường dùng yếu tố hư cấu để khoa trương sự thực đã xa xưa, bạch thoại xen văn ngôn, tạo nên một số phong cách và quy phạm khác với tiểu thuyết Trung Quốc. Đồng thời nó cũng chứng tỏ, những tác phẩm này có cách thức sáng tác riêng, tính chất thần dị của nhân vật trong truyện thường được thể hiện ngay từ lúc nhân vật ra đời. Cách thức này cũng có cả ở trong các tác phẩm thuộc loại truyện ký khác của Việt Nam. Do đó, nghiên cứu tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam phải là nghiên cứu so sánh siêu thể văn.
Ngoài ra, số văn hiến này còn chứng tỏ rằng, người nghiên cứu phải tích luỹ vốn tri thức tốt. Chỉ khi nào có một kiến thức nhất định về tiếng Việt, mới có thể phân biệt chữ Hán với chữ Nôm, một cách chuẩn xác, ngắt câu chia đoạn đúng; chỉ có một tầm hiểu biết nào đó về sử học, mới có thể nhận ra tên người, tên đất, niên hiệu, trong tiểu thuyết Việt Nam, chỉ khi nào nắm vững được các tư liệu của mình nghiên cứu, mới có thể bắt đầu công việc trên một cơ sở chắc chắn. Hiện nay, các học giả Việt Nam đã có những lý giải khá hoàn chỉnh về công tác chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán của nước mình. Năm 1997, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã biên tập, xuất bản bộ Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập (Nhà xuất bản Thế giới), đã khảo đính văn hiến học một cách kỹ lưỡng được hàng chục thư tịch tiểu thuyết chữ Hán. Tiếp theo sau 3 tập Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, gần đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm lại biên soạn xong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, tập 4, cũng tức là tập “bổ di”, trong đó có khoảng 540 bản thần tích. Những thành quả này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu, chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán, đồng thời lại đặt ra yêu cầu cao với công việc. Trong tình hình như vậy, các nhà Việt Nam học của Trung Quốc cần có sự hiểu biết càng sâu càng tốt về văn hóa bản địa của Việt Nam. Điều đó có nghĩa là, chỉ có tôn trọng một cách đầy đủ phong cách đặc thù, thể tài đặc thù, chức năng đặc thù của văn học tự sự Việt Nam, chú ý sát sao tình hình và hoàn cảnh tồn tại của tác phẩm, công tác nghiên cứu chỉnh lý tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam mới thành công.
V.T.T
Người dịch: Đinh Văn Minh
CHÚ THÍCH
(1) Trung hoa văn hóa dữ thế giới Hán văn học luận văn tập: Văn học ti lộ - Đài Bắc, Thế giới Hoa văn hiệp hội, 1998, tr.167.
(2) Sđd. Ở chú thích (1), tr.164.
(3) Xem lời tựa của Ngô Huyền Trai trong Kiến văn lục.
(4) Xem Đại Nam hiển ứng truyện - Xuất bản thuyết minh - trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san.
(5) Xem Đới Khả Lai, Dương bảo Quân hiệu điểm: Lĩnh Nam chích quái đẳng sử liệu tam chủng. Lĩnh Nam chích quái tự. Trung Châu Cổ Tịch xuất bản xã - năm 1991.
(6) Đoạn văn này dẫn ở Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí - Truyện ký (Giải đề trong bản sao chép tay hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Trung tâm KHXH và NVQG Việt Nam).
(7) Tứ khố toàn thư tổng mục - Tử bộ - Tiểu thuyết gia loại tự.
(8) Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - Trung Quốc văn học quyển - Tiểu thuyết - Trung Quốc đại bách khoa toàn thư xuất bản xã - 1986.
(9) Ríp tin: Hoàng Lê nhất thống chí dữ Viễn Đông chương hồi tiểu thuyết truyền thống - Bản dịch: Hán văn cổ tiểu thuyết luận cảo - Nxb. Cổ Tịch Giang Tô, 1992. tr.324.
(10) Ríp tin: Viễn Đông cổ điển tiểu thuyết - Bản dịch Hán văn cổ tiểu thuyết luận hành, Sđd. tr.172.
(11) Xem Trần Nghĩa chủ biên: Di ản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu in bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp, Hà Nội, 1993.
(12) Do khuôn khổ tạp chí có hạn, chúng tôi lược bớt đoạn giới thiệu về mấy tư liệu mới tác giả bài viết mới sưu tầm được - Tòa soạn TCHN.
|