TB

30 NĂM NGÀNH HÁN NÔM TRONG KHOA VĂN HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

HÀ VĂN ĐỨC

Hán Nôm là một trong những ngành đào tạo của Khoa Ngữ văn (Đại học Tổng hợp Hà Nội trước kia và Khoa Văn học Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay). Chính thời điểm ra đời (vào năm 1970-1971) và được tuyển sinh đại học từ năm học 1972 - 1973, chứng tỏ đây tuy là ngành đào tạo những người làm công tác nghiên cứu các vấn đề rất cổ, nhưng lại là một ngành học còn rất trẻ.

Ngành Hán Nôm đào tạo đội ngũ những người làm các công tác có liên quan đến di sản văn hóa Hán Nôm như: sưu tầm, biên dịch, nghiên cứu, giảng dạy, khai thác các giá trị trong di sản Hán Nôm nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự ra đời của ngành Hán Nôm vừa đánh dấu yêu cầu của đất nước trong việc nghiên cứu văn hóa truyền thống, đảm bảo sự liên tục về văn hóa khi chữ Hán, chữ Nôm không còn được dùng; đồng thời cũng ghi nhận công lao của biết bao nhà khoa học, nhà giáo, nhà quản lý đã có công đề xuất, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho ngành cũng như triển khai chương trình Hán Nôm.

Ngành Hán Nôm được đặt trong Khoa Ngữ văn trước kia đã nói đến tính chất ngữ văn của nó. Xuất phát từ cách nhìn ngữ văn học, chương trình giảng dạy của ngành Hán Nôm đã được các khóa Hội đồng Khoa học của Khoa Ngữ văn trước kia, Khoa Văn học hiện nay xây dựng trong mối quan hệ trực tiếp với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Sở dĩ chương trình Hán Nôm được bố trí như vậy chính do đặc điểm của học thuật và văn hóa trung đại qui định. Văn hóa Hán Nôm là một bộ phận của văn hóa trung đại mà bản chất của văn hóa trung đại là tính thượng đẳng và tính không phân ngành. Người ta thường nói đến tính "văn - sử - triết bất phân" trong Hán Nôm chính là do tính không phân ngành theo tiêu chuẩn hiện đại của các tri thức văn hóa chứa đựng trong các văn bản Hán Nôm qui định. Nhờ sự thiết kế trên, những người học tập Hán Nôm ở đây vừa có vốn tri thức văn hóa nền (triết học, văn học, sử học, văn hóa học, xã hội học...) vừa có tri thức Hán Nôm, mà trong các tri thức Hán Nôm, việc đọc chữ Hán, nắm mạch văn chữ Hán cũng như đọc văn bản Hán Nôm có ý nghĩa quyết định nhất.

Trong 30 năm tồn tại, xây dựng và trưởng thành của ngành Hán Nôm, sinh viên các khóa của ngành đã được đội ngũ đông đảo các thầy cô giáo trong khoa cũng như một số khoa khác của trường giảng dạy, hướng dẫn luận văn tốt nghiệp. Những khóa đầu tiên, anh chị em sinh viên còn được nhiều nhà Hán học lão thành như cố GS. Cao Xuân Huy, Đỗ Ngọc Toại... dạy dỗ. Những lời giảng sang sảng phát ra từ lồng ngực của cố GS. Cao Xuân Huy về Kinh Thư ngày ấy có lẽ là một trong những ví dụ sinh động nhất về sự nhiệt tình cùng sự uyên thâm về kiến thức mà nhiều thế hệ sinh viên Hán Nôm đã nhận được từ bài giảng của các bậc thầy đáng kính.

Ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh, Bộ môn Hán Nôm hồi ấy chỉ có 4 cán bộ: GS. Đinh Gia Khánh, GS. Lê Văn Quán, NGƯT. Nguyễn Đình Thảng, thầy Trần Thuyết. Cùng với những biến đổi của đời sống đất nước, đội ngũ cán bộ Bộ môn Hán Nôm cũng có những thay đổi. Biên chế của Bộ môn có lúc tới chục người. Giờ đây, Bộ môn có 8 cán bộ trong đó có 1 Phó Giáo sư, 2 Tiến sĩ, 1 Thạc sĩ, 1 Giảng viên chính, 1 Nghiên cứu sinh, 2 Giảng viên... Tất nhiên, nếu xét về khối lượng công việc mà Bộ môn phải đảm nhận, số lượng trên đây thật ít ỏi vì Hán Nôm vừa phải đảm nhận một ngành đào tạo với 2 cấp học Đại học và Sau đại học. Ngay trong cấp Đại học cũng mang trong mình nhiều hệ khác nhau: chính quy, văn bằng hai, Hán Nôm dạy chuyên ngành, Hán Nôm cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác...

Thực hiện các chương trình lớn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, trong đó có chương trình xây dựng bài giảng, giáo trình, một loạt bài giảng và giáo trình Hán Nôm mới đã được biên soạn và lần lượt được in. Một số chuyên luận đã được công bố góp phần khắc phục tình trạng học chay thiếu giáo trình.

Nghiên cứu khoa học cũng là một trong những hướng mà ngành Hán Nôm của Khoa Văn học đặc biệt quan tâm. Các nghiên cứu đều nhằm giải quyết những vấn đề có liên quan đến công tác nâng cao trình độ đào tạo Hán Nôm như: các đặc điểm của Hán văn Việt Nam, lịch sử kinh học và chú giải các văn bản cổ... các vấn đề về ngôn ngữ, văn tự cũng như các vấn đề có liên quan đến về giáo dục, văn hóa truyền thống. Cán bộ của Bộ môn đã đảm nhận chủ trì nhiều đề tài cấp Đại học Quốc gia và cấp Nhà nước, như đề tài "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Hán Nôm Huế" đang được triển khai.

Để góp phần giới thiệu Hán Nôm với xã hội, một số cán bộ của Bộ môn đã tích cực tham gia các hoạt động thư pháp, dạy chữ Hán cho số đông quần chúng.

Nhìn lại chặng đường 30 năm đã qua, ngành Hán Nôm của Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã lập được nhiều thành tích trên nhiều phương diện: Xây dựng và phát triển đội ngũ, thiết kế các bài giảng, giáo trình, thực thi giảng dạy đào tạo trên cơ sở các giáo trình, bài giảng, mở rộng quan hệ hợp tác, góp phần tích cực vào công cuộc xã hội hóa Hán Nôm. Có được các thành tích đó là do các thế hệ cán bộ của Bộ môn Hán Nôm dưới sự chỉ đạo kịp thời của Đảng ủy, Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, của Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã thực sự đoàn kết, được sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác của các thầy cô giáo, các nhà khoa học của các chuyên ngành kế cận... Song điều ấy không có nghĩa là chúng ta đã hoàn toàn bằng lòng với những gì đã đạt được. Chính trên cái nền của một loạt điều đã đạt được đó, chúng ta vẫn thấy một loạt vấn đề đang đặt ra cho ngành Hán Nôm nói riêng, cho cả Khoa Văn học nói chung. Các vấn đề đang được đặt ra đó là: tăng cường lực lượng cho đội ngũ Hán Nôm, tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản, tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng, tăng cường khả năng khai thác các giá trị văn hóa quí giá còn đang lưu giữ trong các di sản Hán Nôm, hiện đại hóa công tác nghiên cứu Hán Nôm, cập nhật các tri thức có liên quan đến nghiên cứu Đông phương học và khu vực học, tăng cường các công tác xã hội hóa Hán Nôm, chú ý hơn đến mảng Hán Nôm và nhà trường, đổi mới phương pháp giảng dạy, hoàn chỉnh hệ thống giáo trình... Các vấn đề trên chỉ có thể giải quyết được một khi Hán Nôm được đặt đúng vào hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn và được giải quyết bằng cách tiếp cận liên ngành hiện đại. Trước mắt, ngành Hán Nôm của Khoa Văn học còn nhiều việc phải làm và nhất định phải làm để nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng đào tạo chất lượng cao của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng như của toàn Đại học Quốc gia Hà Nội.

H.V.Đ

TB

MỘT THẾ HỆ - MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TIẾP CẬN DI SẢN HÁN NÔM

TRỊNH KHẮC MẠNH

Vào đầu thập kỷ 70, giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt, lúc đế quốc Mỹ đang leo thang bắn phá dữ dội miền Bắc xã hội chủ nghĩa lần thứ hai; dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ Cử nhân Hán Nôm chính qui đầu tiên trong hệ thống giáo dục nước nhà được thiết lập thuộc Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Bộ môn Hán Nôm thời ấy chỉ có 4 giảng viên là các thầy: thầy Đinh Gia Khánh, thầy Lê Văn Quán, thầy Nguyễn Đình Thảng và thầy Trần Thuyết. Các thầy trong Bộ môn không thể đảm đương hết được chương trình giảng dạy, hơn nữa để tranh thủ kiến thức của các giáo sư đầu ngành về Hán Nôm học, Sử học, Ngôn ngữ học; nên Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn đã mời các giảng viên ở nơi khác tham gia giảng dạy, như: thầy Cao Xuân Huy, thầy Đỗ Ngọc Toại, thầy Nguyễn Tài Cẩn, thầy Hà Văn Tấn, thầy Phan Huy Lê, thầy Trần Quốc Vượng và thầy Trương Đình Nguyên.

Khóa sinh viên Hán Nôm đầu tiên được tuyển vào là năm 1972, khóa tiếp theo tuyển vào năm 1973. Về sau cứ cách một năm mới tuyển một khóa, mỗi khóa chỉ tuyển được hơn chục người. Những năm gần đây, việc tuyển sinh viên ngành Hán Nôm đã thường xuyên hơn và số lượng học sinh mỗi khóa cũng có vẻ đông hơn.

Sinh viên Hán Nôm những khóa đầu, ngoài các chương trình học chung với sinh viên ngành Văn học, Ngôn ngữ học (tuy nhiên cũng có giảm một vài môn); còn phải học một chương trình Hán Nôm khá nặng và phong phú. Gồm các sách cơ sở, như: Tam tự kinh, ấu học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Luận ngữ chính văn tiểu đối, Minh tâm bảo giám, Minh đạo giáo huấn, Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung), Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Tả truyện), Chiến quốc sách, Tác gia và tác phẩm Hán Nôm Việt Nam tiêu biểu ở các thời kỳ lịch sử (Lý, Trần, Lê, Tây Sơn và Nguyễn); các chuyên đề cơ bản, như: Nguồn gốc và cấu tạo chữ Nôm, Văn bản học, Ngữ âm học lịch sử, Thư tịch học, v.v. Giáo trình giảng dạy hồi ấy thường là các bản viết tay, sau được in rônêô; hoặc các giáo án do các thầy soạn giảng và học sinh muốn ghi thế nào thì ghi.

Cuối khóa mỗi sinh viên bắt buộc phải làm luận văn tốt nghiệp dưới sự hướng dẫn của các thầy. Có thể coi đây là bài tập đầu tiên đem đến những kinh nghiệm cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học sau này, đó là các khâu: từ việc sưu tầm tư liệu, đến đọc hiểu các tư liệu, rồi phân loại sắp xếp và xử lý hệ thống tư liệu, sau là tập viết theo kết cấu của một luận văn tốt nghiệp và văn phong khoa học chuyên ngành Hán Nôm.

Sau khi tốt nghiệp, những người may mắn có duyên phận với ngành Hán Nôm, thì được làm việc theo đúng ngành nghề đã đào tạo, còn nhiều người phải theo các nghề khác. Người đi dạy văn học cổ ở các trường đại học và trường văn hóa quân đội, người về dạy văn ở các trường phổ thông trung học, người đi làm cán bộ tuyên truyền văn hóa, thậm chí nhiều người đi làm những công việc trái với ngành nghề đã học. Chuyện học một nghề, khi ra trường có thể làm nhiều nghề, thể hiện sự thiếu qui hoạch của việc đào tạo bậc Đại học đã tồn tại từ lâu trong hệ thống giáo dục nước nhà.

Năm nay nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ngành Hán Nôm của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội); tôi mạn phép viết đôi lời về những người may mắn được Bộ môn Hán Nôm đào tạo, khi nhận công tác lại có duyên phận gắn với ngành mình đã chọn và đã học.

Những sinh viên Hán Nôm ra trường, sau khi nhận công tác và tiếp xúc với di sản Hán Nôm phong phú và đồ sộ mà ông cha để lại, có cảm giác choáng ngợp như đứng trước biển cả mênh mông. Thế rồi với chút kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, có người đã dũng cảm nhảy ra bơi, có người rụt rè rồi cũng xuống bơi, có người phải chờ được dìu dắt và bây giờ cũng đã biết bơi trong cái biển kiến thức mênh mông ấy.

Trước hết, tôi nhắc tới anh Cao Tự Thanh, sau khi tốt nghiệp anh vào công tác tại phân Ban Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, sau lại chuyển sang làm công tác văn hóa, bởi có một dạo, anh đã phụ trách Bảo tàng tỉnh Long An. Cứ nghĩ anh sẽ dùng tri thức Hán Nôm làm phương tiện cho hoạt động văn hóa, nhưng anh lại khá thành công trong cả hai lĩnh vực, đặc biệt là nghiên cứu Hán Nôm. Cùng lứa bạn học, anh là người đầu tiên cung cấp cho bạn đọc những công trình về văn hóa và di sản Hán Nôm ở Nam bộ, có thể kể như: Nguyễn Đình Chiểu với văn hóa Việt Nam (viết chung), 1983; Tác phẩm Nguyễn Thông (dịch chung), 1984; Nguyễn Hữu Huân, nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất (viết chung), 1986; Văn học Hán Nôm ở Gia Định, 1988; Quốc triều hương khoa lục (dịch chung với Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Thị Lâm), 1993; Thơ Trần Thiện Chánh, 1995; Giai thoại thơ Đường, 1995; Đại Nam liệt truyện tiền biên (dịch và giới thiệu), 1995; Nho giáo ở Gia Định, 1996; Nghiên bút mười năm, 1999; và nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí, báo khác...

Một số người về công tác ở Cục lưu trữ Nhà nước, đảm nhiệm việc thống kê phân loại, nghiên cứu và giới thiệu phông tư liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó đáng lưu ý là Châu bản triều Nguyễn. Họ đã phấn đấu, học hỏi và làm việc hết mình, có người đã trở thành chuyên gia nghiên cứu về Châu bản triều Nguyễn ở Việt Nam. Tuy công tác ở ngành lưu trữ, nhưng vẫn không quên ngành học được đào tạo, họ đã vận dụng tri thức Hán Nôm của mình và kết hợp cùng các chuyên gia nghiên cứu để khai thác mảng tư liệu Hán Nôm hiện đang lưu giữ tại các kho. Những công trình nghiên cứu và giới thiệu tư liệu Hán Nôm thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước lần lượt được công bố, có thể kể như: Thơ văn Đông Kinh nghĩa thục, Mục lục Châu bản triều Nguyễn (Võ Văn Sạch tham gia), Danh mục làng xã tỉnh Hà Nội cuối thế kỷ XIX (Trần Văn Viết), Cách thức lập Châu bản triều Nguyễn, Địa danh trong Châu bản triều Nguyễn (Nguyễn Văn Đường); v.v. cùng nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.

Kể tất cả các khóa có tới gần ba chục Cử nhân Hán Nôm về công tác ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Có người đã trải qua 25 năm trong ngành, có người mới được một vài năm; nhưng họ cùng có chung một nhiệm vụ là nghiên cứu, khai thác và giới thiệu di sản Hán Nôm. Các Cử nhân Hán Nôm về Viện Nghiên cứu Hán Nôm, được phân công về các phòng chuyên môn; với sự giúp đỡ của các bậc đàn anh, họ đã xác định cho mình phương hướng nghiên cứu chuyên sâu, để hướng tới trở thành những chuyên gia trong từng lĩnh vực nghiên cứu. Trải theo năm tháng, nhiều người đã cố gắng làm việc và có được những thành công:

Về nghiên cứu chữ Nôm, có một số người tham gia, họ đã say mê nghiên cứu các văn bản Nôm, nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt trong từng văn bản. Đến nay, họ thực sự trưởng thành trong lĩnh vực này và có những đóng góp nhất định, có thể nêu một số công trình, như: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (Hoàng Thị Ngọ), Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản “Thiên Nam ngữ lục” (Nguyễn Thị Lâm), Nghiên cứu mối tương ứng giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc chữ Nôm (Trương Đức Quả), Tân biên truyền kỳ mạn lục - Tác phẩm Nôm thế kỷ XVI (Hoàng Hồng Cẩm), v.v. cùng nhiều bài viết nghiên cứu, giới thiệu về chữ Nôm trên Tạp chí Hán Nôm cùng các tạp chí khác.

Về khảo cứu và giới thiệu công bố các tác phẩm và tác gia Hán Nôm, có khá nhiều người tham gia, và nhiều người đã biết cách khai thác theo những lĩnh vực mà mình chuyên sâu, nên có được những thành tựu nhất định. Có thể kể như: Nghiên cứu văn bản đăng khoa lục Việt Nam (Nguyễn Thuý Nga), Thơ văn Phạm Đình Hổ (Trần Kim Anh), Nghiên cứu về ấn triện Việt Nam (Nguyễn Công Việt), Nghiên cứu gia phả (Nguyễn Hữu Tưởng), Phương pháp làm sử của Lê Quý Đôn (Đinh Công Vỹ), Nghiên cứu văn bia Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh), Nghiên cứu văn bia xứ Kinh Bắc (Phạm Thị Vinh), Nghiên cứu văn bản thần tích (Nguyễn Hữu Mùi), Nghiên cứu ca trù (Nguyễn Xuân Diện), Thơ văn Phạm Hy Lượng (Cao Việt Anh), Việt điện u linh tập (Đào Phương Chi), Nghề khắc ván in ở Việt Nam (Nguyễn Thị Dương), Gia huấn (Lê Thu Hương), v.v.

Bên cạnh đó, nhiều người còn tham gia biên soạn các sách công cụ phục vụ việc tra cứu của chuyên ngành Hán Nôm nói riêng và khoa học xã hội chung, có thể kể như: Từ điển chữ Nôm (Hoàng Thị Ngọ, Trần Kim Anh, Trương Đức Quả và Nguyễn Thị Lâm tham gia), Các nhà khoa bảng Việt Nam (Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Hữu Mùi tham gia), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh), Đối chiếu chữ Hán thể triện thảo khải (Trịnh Khắc Mạnh đồng biên soạn), Bảng tra thần tích (Nguyễn Hữu Mùi tham gia), Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam (Cao Việt Anh tham gia), Lịch sử văn hóa Trung Quốc (Đào Phương Chi tham gia dịch), v.v.

Ngoài ra, nhiều người còn tham gia vào việc biên dịch những công trình Hán Nôm khác, ví dụ như: Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Hội Tao đàn, Thư tịch Hán Nôm về nghề nông cổ truyền, Gương mặt phụ nữ Việt Nam qua thư tịch Hán Nôm, Di văn chùa Dâu, Ô châu cận lục, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tổng tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Thư mục văn bia Việt Nam, Bia Văn Miếu Hà Nội, Văn bia Lạng Sơn, Tục lệ Lạng Sơn, Văn bia Hà Tây, Văn học Hán Nôm Hà Tây, Ngữ văn Hán Nôm, Tổng tập văn học Việt Nam, Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Một thế kỷ sưu tầm văn hóa dân gian v.v. và hàng trăm bài nghiên cứu đăng tải trong các Kỷ yếu hội thảo khoa học và trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, như: Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Văn học, Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, v.v.

Để có được những thành tựu nêu trên, nhiều người đã gắng sức để làm việc và với một phương châm vừa làm vừa học; học thầy, học các bậc đàn anh và học bè bạn. Trong quá trình học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nhiều người đã biết kết hợp để thành đạt nơi trường qui bậc Sau đại học. Đến nay có 9 người nhận học vị Tiến sĩ, 6 Thạc sĩ và nhiều người đang theo học hệ NCS và Cao học trong số gần ba chục sinh viên Hán Nôm hiện đang công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Ba mươi năm đã trôi qua, Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội) đã đào tạo nên một thế hệ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều vui mừng nhất là, bên cạnh các bậc nghiên cứu Hán Nôm lão thành; nay có đội ngũ cán bộ kế cận với nhiều độ tuổi khác nhau, đầy nhiệt tình say mê với nghề, mong muốn được góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Với phương châm phải học nhiều để nghiên cứu sâu, và với sự giúp đỡ của những người đồng nghiệp, tin tưởng rằng trong tương lai họ sẽ là những chuyên gia góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XXI.

T.K.M

TB

TỪ MỘT SỐ NHẬN XÉT CỦA CÁC NHÀ
NGỮ VĂN TRUYỀN THỐNG VỀ VĂN THỂ ĐẾN CHƯƠNG TRÌNH MÔN HÁN VĂN VIỆT NAM

PHẠM VĂN KHOÁI

1. Hán văn Việt Nam là thuật ngữ chỉ toàn bộ các văn bản chữ Hán mà người Việt Nam tạo tác trong suốt tiến trình chữ Hán được sử dụng ở Việt Nam dài đến 20 thế kỷ, trong đó, 10 thế kỷ thời phong kiến tự chủ (thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX) là quan trọng nhất.

Hán văn Việt Nam trở thành một trong những môn học chủ yếu của các chương trình nghiên cứu và đào tạo Hán Nôm. Trong các chương trình Cử nhân và Sau đại học của ngành Hán Nôm, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hán văn Việt Nam được dành một thời lượng tương đối lớn. Nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy Hán văn Việt Nam đã mang đến cho chúng tôi nhiều nhận thức mang tính căn bản cho sự tiếp cận Hán văn Việt Nam. Chúng vừa được rút ra từ thực tế văn bản Hán văn Việt Nam đồng thời lại được rút ra từ chính những ý kiến của nhà ngữ văn truyền thống. Các nhà ngữ văn truyền thống vừa là người đã sống trong phạm trù văn hóa trung đại, đồng thời chính lại là những người tạo tác văn bản chữ Hán. ý kiến của họ về Hán văn Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng cho quá trình nhận thức cũng như quá trình tiếp cận xây dựng chương trình Hán văn Việt Nam của chúng tôi.

2. Có thể kể ra ở đây rất nhiều tên tuổi cũng như các quan niệm và nhận xét của ngữ văn truyền thống về Hán văn Việt Nam. Cứ theo danh mục tác giả truyền thống có nhận xét về văn học văn thể được sưu tập trong bộ Từ trong di sản - Nxb. Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, H. 1981, con số tác giả có ý kiến đến vài chục. Điều quan trọng ở đây còn là ở chỗ: họ đều là những tác giả lớn của Hán văn truyền thống, từng viết nhiều văn phẩm chữ Hán. Có thể kể ra ở đây một số đại diện: Nguyễn Công Bật, Nguyễn Thường, Lý Tế Xuyên, Hồ Tông Thốc, Phan Phu Tiên, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi, Hoàng Đức Lương, Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Nguyễn Cư Trinh, Mạc Thiên Tích, Ngô Thế Lân, Trần Thế Xương, Lê Hữu Kiều, Vũ Phương Đề, Vũ Khâm Lân, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Hoàng, Phan Huy ích, Lê Quí Đôn, Trần Danh Lâm, Nguyễn Thiếp, Lê Hữu Trác, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Văn Siêu, Lý Văn Phức, Nhữ Bá Sĩ, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Hành, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Vịnh, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Miên Thẩm, Miên Trinh, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Đức Đạt, Cao Xuân Dục, Trần Doãn Giác, Nguyễn Mại, Phạm Đình Toái, Nguyễn Trường Tộ và các tác giả trong Đông Kinh nghĩa thục. Tất nhiên, ý kiến của các nhà được nêu tên trên đây nghiêng về phía văn học, các soạn giả khi sưu tập các ý kiến của họ cũng đứng từ góc nhìn văn học để sưu tập. Gần đây, các soạn giả của bộ Ngữ văn Hán Nôm, tập I cũng đã biên tuyển một số ý kiến của người xưa về Tứ thư, Ngũ kinh (từ trang 759 đến trang 822). Những ý kiến của những học giả truyền thống về Tứ thư, Ngũ kinh được sưu tập ở đây thực chất có liên quan trực tiếp đến nhận thức của họ về cách viết của Hán văn Việt Nam. Tứ thư, Ngũ kinh được xem như nguồn mạch cho người viết văn chữ Hán dựa vào cả về tư tưởng cũng như về phong cách.

Trong quá trình giảng dạy Hán văn Việt Nam ở các cấp học, chúng tôi lại đi sâu vào tìm hiểu nhận xét của người Việt Nam về lối viết chữ Hán ở Việt Nam trong mối quan hệ với Hán văn Trung Quốc. Nói đến mối quan hệ với Hán văn Trung Quốc ta phải đề cập đến lịch sử vận động của thực thể Hán văn từ cội nguồn qua lịch đại. Tất nhiên đây là những vấn đề rất phức tạp đòi hỏi phải có sự hiểu nhiều, biết rộng. Những hiểu biết của chúng tôi về lĩnh vực này còn rất ít ỏi và hạn chế. Rất may cho chúng tôi, sự nhận thức về Hán văn Việt Nam trong quan hệ với Hán văn Trung Quốc lại được nhiều học giả của nền ngữ văn truyền thống nhắc đến.

3. Cách nhìn Hán văn Việt Nam trong mối liên hệ với Hán văn Trung Quốc cả trong cội nguồn lẫn trong lịch đại cho ta thấy, cha ông chúng ta rất chú ý đến một số mô hình, cách viết. Tựu trung lại, có hai lối viết: một là văn thể của Tiên Tần, Lưỡng Hán, hai là lối viết Hán văn lịch đại. Trong lối viết lịch đại, Hán văn Đường - Tống được nhắc đến nhiều nhất.

4. Tinh thần viết theo văn thể của Tiên Tần, Lưỡng Hán của Hán văn Việt Nam cần phải được nghiên cứu sâu. Nhìn một cách đại lược, văn thể Tiên Tần, Lưỡng Hán là văn của Thi, Thư, Tả truyện, Chiến quốc sách, Trang tử, Mạnh tử... Đó là những văn bản tiêu biểu cho văn hiến Trung Hoa truyền thống. Văn thể Lưỡng Hán là cách viết của Hán thư, Sử ký. Hán thư, Sử ký và nhất là Sử ký sở dĩ hay vì đó là lối văn nuôi dưỡng khí chất, tích luỹ tinh thần. Khi viết Sử ký, thuật lại người xưa, việc xưa, Tư Mã Thiên không viết theo ngôn ngữ của người thái cổ mà viết lại bằng ngôn ngữ đương thời giản dị. Các thiên Bản kỷ của Sử ký đều được viết như thế. Để viết về người xưa theo ngôn ngữ cách nói đương thời, Tư Mã Thiên đã đi khắp Trung Quốc, đến thăm từng di tích. Ông đi về Nam, ngắm sông Trường Giang, vượt sông Hoài, sông Tứ, thăm mộ mẹ Hàn Tín, lên núi Cối Kê xem nơi vua Hạ Vũ triệu tập chư hầu, vào hang Vũ Động tìm dấu chân vua Vũ. Nghe chuyện về Việt Vương Câu Tiễn ở Cối Kê, lên đỉnh Cô Tô tìm di tích Ngũ Tử Tư, đi thuyền trên Thái Hồ sưu tầm truyền thuyết về Tây Thi... Ông lên miền Bắc, vượt sông Vấn, sông Tứ đến nước Tề, nước Lỗ, bồi hồi ngắm nhìn lăng miếu Khổng Tử, say sưa nghe kể chuyện Trần Thiệp, đến đất Tiết hỏi thăm di tích của Mạnh Thường Quân, lên Bành Thành quê Lưu Bang để tìm hiểu thời niên thiếu của những người đã dựng nên nhà Hán. Một chuyến đi dài đến ba năm, thả tầm nhìn vút theo vũ trụ... Tồn tâm, dưỡng tính, vun trồng khí chất... là những từ dành cho phong cách viết của Tư Mã Thiên.

Nhắc đến văn thể Tiên Tần, Lưỡng Hán tức là nhắc đến những giá trị cổ điển cần mô phỏng viết theo. Hướng vào các giá trị cổ điển mà cụ thể ở đây là giá trị văn hiến của văn thể Tiên Tần, Lưỡng Hán. Điều này đã được Phạm Sư Mạnh nói rõ trong bài Ngày xuân họa thơ vua - (Xuân nhật ứng chế).

Thần tâm Nhị đế Tam vương cổ
Văn thể Tiên Tần Lưỡng Hán kì.

(Tấm lòng của vua như Nhị đế, Tam vương xưa
Văn thể của người kì diệu như văn thể thời Tiên Tần, Lưỡng Hán).

Định hướng đạo trị nước vào thời Nhị đế, Tam vương (Nhị đế: Đế Nghiêu, Đế Thuấn; Tam vương: Hạ, Thương, Chu) là hướng vào các giá trị cổ điển của văn hóa Trung Quốc và cũng là hướng vào nguồn gốc của đạo Nho. Đạo Nho là đạo của thánh nhân, đạo do Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Hạ Vũ, Hạ Vũ truyền cho Thang, Thang truyền cho Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công, Khổng Tử, Khổng Tử truyền cho Mạnh Kha... Đạo Nho ấy tập trung cả trong Lục kinh, bởi vậy cần phải học kỹ Lục kinh. Nhắc đến điều này, Lê Quý Đôn viết: "Lâu nay, nói về ký truyện thì coi trọng Sử ký, Hán thư; nói về biên niên thì coi trọng Thông giám cương mục nhưng nội dung và ý nghĩa các sách đó không ra ngoài Lục kinh" (Dẫn theo - Từ trong di sản, tr.97).

5. Bên cạnh tinh thần hướng theo các giá trị cổ điển, các nhà ngữ văn truyền thống còn nhấn mạnh đến xu hướng hướng theo Hán văn lịch đại trong Hán văn Việt Nam.

Lối viết thời Đường - Tống là một loại mô hình viết thứ hai mà Hán văn truyền thống hướng vào. Có thể xem đây là điểm tỳ vững chắc cho Hán văn Việt Nam. Nói đến Hán văn Đường Tống tức là nói đến một thời kỳ mang tính chất, phong vị cổ điển trong lịch sử Hán văn Trung Quốc. Thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca lịch đại Trung Hoa. Tản văn Đường - Tống, trong đó tám nhà văn lớn là đại biểu đã trở thành khuôn mẫu bắt chước cho nhiều thế kỷ sau. Giai đoạn Đường - Tống, ngôn ngữ, phong cách viết đã được đổi mới, mang tinh thần của thời đại. Phong trào đổi mới văn thể ở thời Đường do Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên làm chủ soái đã gạt bỏ lối viết hoa lệ kéo dài đã mấy trăm năm. Nhận xét về điều này, Tô Thức trong Hàn Văn công miếu bi (Văn bia miếu thờ Hàn Văn công) có viết: "Từ Đông Hán trở đi, đạo táng, văn tệ, dị đoan đua nổi. Dẫu gặp thời thịnh trị như triều Khai Nguyên, Trinh Quán cùng với sự giúp rập, nâng đỡ của Phòng, Đỗ, Diêu, Tống nhưng không cứu nổi nạn văn tệ, đạo suy. Chỉ có Hàn Văn công, một người áo vải, cười nói vẫy tay, thiên hạ nườm nượp theo về, công cuộc cải tà qui chính đến nay đã được 300 năm. Về văn, ông đã vực phong khí suy đồi ngự trị trong 8 đời; về đạo, ông đã vớt cả thiên hạ khỏi cảnh chết chìm trong thế giới dị đoan".

Được Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên dẫn đường, văn thời Tống lại bước tiếp những bước huy hoàng, chói lọi. Âu Dương Tu có lối viết kí sự giống với lối văn Sử ký, thơ ông giống phong cách Lý Bạch. Tăng Củng có lối viết gần với Lục kinh có châm chước phong cách của Tư Mã Thiên, Hàn Dũ. Văn của Tô Thức lại lâm ly, mang phong vị của Trang tử. Văn Tô Triệt lại mang phong thái của lối văn nuôi dưỡng khí chất. Ông muốn học theo cách viết của Tư Mã Thiên khi xưa bằng cách đi khắp nơi, ngắm núi cao, thoả tầm nhìn, thấy hết hùng vĩ của non sông đất nước rồi mới viết...

Tỳ vào hai giai đoạn chính của Hán văn thời Tiên Tần, Lưỡng Hán và thời Đường Tống là tỳ vào hai giai đoạn phát triển nhất không có giai đoạn nào sánh nổi. Có thể xem việc tỳ đó là tỳ vào hai giai đoạn cổ điển trong lịch sử Hán văn Trung Quốc.

Lối viết, phong khí của Hán văn Đường Tống đã in đậm trong lối viết Hán văn Lý Trần - Hán, văn thời kỳ đầu của tiến trình sử dụng chữ Hán 10 thế kỷ thời phong kiến tự chủ. Lê Quý Đôn có nhận xét về điểm tỳ này như sau: "Nước Nam ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy, tinh hoa nhân tài, cốt cách văn chương không khác gì Trung Hoa... Tôi thu nhặt được những bài văn còn giữ được ở đồ đồng và bia đá được mấy chục bài. Thấy văn đời Lý biền ngẫu, bóng bẩy, đẹp đẽ giống như thể văn thời Đường; Văn đời Trần lưu loát, chỉnh tề giống kiểu văn đời Tống" (dẫn theo Từ trong di sản, tr. 96).

6. Bên cạnh việc nêu ra xu hướng hướng vào 2 mô hình cổ điển trên đây, các nhà ngữ văn truyền thống còn đề cập đến mối quan hệ của Hán văn Việt Nam với Hán văn Trung Quốc các thời Nguyên, Minh, Thanh sau này. Phạm Đình Hổ là một trong những học giả truyền thống nói đến mối quan hệ của Hán văn Việt Nam với Hán văn sau thời Đường Tống. Ông viết: "Ta thường xét về văn hiến nước ta, văn đời Lý thì già dặn, súc tích, phảng phất như văn đời Hán. Xem như bài Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, bài Hịch của Lý Thái Tông kể tội Vương An Thạch và bài Di chiếu của Lý Nhân Tông thì đủ biết. Đến văn đời Trần lại rườm rà, hơi kém đời Lý nhưng cũng còn có phép tắc, nhã nhặn và trau chuốt; nghị luận phô bày đều có sở trường cả, so với những văn các danh gia đời Hán, Đường không đến nỗi kém lắm. Gián hoặc có đôi ba bài để lẫn vào trong tập văn Hán, Đường cũng không khác gì, chưa dễ mấy người đã phân biệt được" (Vũ trung tùy bút, bản dịch, tr.136).

Nếu văn Lý Trần như thế thì thể tứ lục lại ảnh hưởng các đời sau: "Thể văn tứ lục nước ta thì theo thể văn đời Nguyên, đời Minh. Khoảng năm Hồng Đức (1470 - 1497), những bài văn tứ lục chép trong An Bang thi lục đã từng được người Trung Hoa khen ngợi" (Vũ trung tùy bút, bản dịch, tr. 141).

Về thơ, Phạm Đình Hổ viết: "Nước ta thơ đời Lý già dặn, súc tích, thơ đời Trần tinh vi, trong trẻo, đều có sở trường tột bực, cũng như thơ đời Hán, đời Đường bên Trung Hoa" (Vũ trung tùy bút, tr.143, 144).

Về văn sách, Phạm Đình Hổ viết: "Nước ta đời Lý, đời Trần, những bài văn sách thi học trò ta chưa được trông thấy. Đời Tiền Lê học quy, thi pháp chép đủ cả ở trong Thực lục mới chuyên lấy văn sách làm quy thức thi Hương, thi Hội, thi Đình. Đó cũng là theo phép nhà Minh mà châm chước lại" (Vũ trung tùy bút, tr.147).

Sự trích dẫn không đầy đủ trên đây những ý kiến của một số học giả truyền thống về tính định hướng của Hán văn Việt Nam vào các giá trị, khuôn mẫu của văn ngôn qua các giai đoạn, các thời kỳ [Và sau này, cả đến giai đoạn cận đại cũng thế. Đó là ảnh hưởng của tân văn thể] đã giúp cho chúng ta - những người hiện đại hiểu sâu sắc hơn về Hán văn Việt Nam. Qua đó, cho phép chúng ta nghĩ, nếu như người tạo văn bản Hán văn khi xưa đã hướng vào các giá trị của văn ngôn thì chúng ta giờ đây, khi tìm hiểu Hán văn Việt Nam cũng phải trở lại những bước đường như thế. Không có sự hiểu biết đầy đủ về văn ngôn cả từ cội nguồn lẫn lịch đại, chúng ta không thể hiểu thấu đáo Hán văn Việt Nam.

7. Không chỉ nói đến mối liên hệ đối ứng giữa Hán văn Việt Nam với văn ngôn nói chung, các học giả của ngữ văn Việt Nam truyền thống còn đề cập đến sự vận động về văn thể của Hán văn Việt Nam. Nhận xét về tình hình này, Phạm Đình Hổ viết: "Đời Tiền Lê, từ năm Thuận Thiên (1428 - 1433) trở về sau, các bài văn còn truyền lại cũng nhiều. Duy có văn ông Nguyễn Trãi như bài Vĩnh Lăng thần đạo bi, bài chế Hạ giá Vệ quốc trưởng công chúa và văn ông Võ Vĩnh Trinh như bài chế Tiến phong Sung viên phụng sự lăng đời vua Thái tông, tuy công phu khí lực chưa hoàn toàn nhưng thể tài khí phách cũng còn theo gót được người xưa. Còn như bài Bình Ngô đại cáo đời Thuận Thiên, những bài sớ của các quan đài gián đời Thiệu Bình (1434 - 1439), bài chiếu Nam chinh Chiêm Thành đời Hồng Đức, đều là những tay bút già dặn lúc bấy giờ thảo ra cả. Nhưng khí lực các bài văn đó không được hậu, thể văn lại chuộng mới, cũng còn từng câu, từng chữ chưa được ổn thỏa, hoặc trước sau đầu đuôi chỗ vụng chỗ khéo, không được chải chuốt đều nhau, so với văn đời Lý, đời Trần hình như đương ở trên núi mà xô xuống bờ thấp" (Vũ trung tùy bút, bản dịch, tr.136). Tất nhiên, càng về các đời sau, lối văn bị kém dần. Đến đời Lê Trung hưng "Những kẻ chuộng công danh lúc bấy giờ chỉ theo đòi bóng gió, nhặt lấy những chữ bã mía của tiến nho, tập làm cái lối văn chương hoa hòe chứ không có cái căn bản gì cả. Cái ý dựng nền giáo dục đào tạo nhân tài của đời Lý, đời Trần khi xưa vì thế mà biến đổi hết sạch..." (Vũ trung tùy bút, bản dịch, tr.138). Lối văn bát cổ cũng không được ông đánh giá cao. Lối văn tứ lục thì từ đời Đoan Khánh (1505 - 1509) trở đi đã thiên về lối văn phù phiếm, tản mạn. Đến đời Lê trung hưng lại càng tệ... (tr.142).

Về thể thơ cũng có diễn tiến. Từ thơ đời Lý, đời Trần già dặn, súc tích như thơ đời Hán, đời Đường nhưng "Từ đời họ Hồ trở xuống, đời Đại Bảo trở lên (1440 - 1442), cũng còn giữ được cái truyền thống của đời Trần nhưng thể tài khí phách ngày càng kém. Từ đời Quang Thuận (1460 - 1469) cho đến đời Diên Thành (1566 - 1577) thì lại học theo lối thơ đời Tống; lối thơ đời Lý, đời Trần đến đó là một bước chuyển biến. Thơ đời Lê Trung hưng thì chỉ câu nệ về khuôn pháp, xu thế thấp kém không kể làm gì..." (tr.144).

8. Như vậy, qua một số nhận xét của người xưa về lối viết chữ Hán của người Việt Nam kể cả ở phương diện tản văn đến thơ, chúng ta thấy có một số điểm mà các nhà ngữ văn truyền thống hướng vào, như các mô hình để mô phỏng xây dựng văn bản, quá trình vận động biến đổi của lối viết văn Hán, thơ Hán ở Việt Nam trong mối quan hệ với Hán văn Trung Quốc. Đó là những ý kiến của người trong cuộc. Họ viết chữ Hán, cảm nhận về chữ Hán trong tinh thần truyền tải đạo thánh hiền.

Những ý kiến của họ về Hán văn Việt Nam (từ tản văn đến thơ và các thể văn khác) đã giúp cho chúng ta nhận ra các mô hình ngôn ngữ khi làm văn, làm thơ chữ Hán mà người Việt Nam đã hướng vào. Sự chú ý ấy hướng vào hai nguồn chính: các mô hình ngôn ngữ, văn thể của các văn bản cổ - trong đó lấy Lục kinh làm cơ sở và văn thể lịch đại nữa. Qua đó, chúng ta thấy, Hán văn Việt Nam vừa chịu ảnh hưởng văn thể các văn bản Hán văn cổ, vừa chịu ảnh hưởng những biến đổi về văn thể lịch đại. Có hiểu như thế, chúng ta khi giảng về Bình Ngô đại cáo không nên chỉ giới hạn giải thích chữ Cáo trong mối liên hệ với Thượng Thư mà còn phải hiểu đây là cách viết ảnh hưởng lối viết của đời Minh. Tất cả các chính lệnh của Chu Nguyên Chương - vua nhà Minh đều được gọi là đại cáo. Chính vì thế, khi nhận xét về Bình Ngô đại cáo, Phạm Đình Hổ mới khắt khe như vậy. Điều mà Phạm Đình Hổ khắt khe là ở chỗ, Bình Ngô đại cáo đã dùng thể đại cáo - lối văn chính lệnh của vua Minh, nên bị xem là "thể văn chuộng mới". Qua đó chúng ta thấy, ảnh hưởng của Hán văn Trung Quốc với Hán văn Việt Nam ở phương diện lịch đại là rất rõ...

Những ý kiến của các nhà ngữ văn truyền thống về Hán văn Việt Nam có giá trị lịch sử trong công việc tìm hiểu Hán văn Việt Nam nói chung và trong công việc nghiên cứu và giảng dạy ở các trung tâm đào tạo Hán Nôm nói riêng. Chương trình Hán văn Việt Nam của ngành Hán Nôm ở Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (cho hệ Cử nhân cũng như Sau đại học) đã được thiết kế và giảng dạy theo tinh thần coi trọng ý kiến của chính những người đã tạo ra các văn bản này, rồi sau đó, dùng các phương pháp, thao tác của ngữ văn học hiện đại nói chung, ngữ văn tiếng Hán, Hán văn nói riêng, để phân tích, đối chiếu liên hệ giữa Hán văn Việt Nam và Hán văn Trung Quốc cho người học hiểu sâu về Hán văn Việt Nam - một ngôn ngữ viết mang tính ngoại lai về bản chất. Cách làm như thế sẽ giúp cho công tác đào tạo Hán Nôm của chúng ta tiến lên, đáp ứng các yêu cầu của một khoa nghiên cứu thực sự.

P.V.K

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1. Phạm Đình Hổ - Vũ trung tùy bút, Nxb. Trẻ, 1989.

2. Từ trong di sản (những ý kiến về văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX ở nước ta). Nxb. Tác phẩm mới, H. 1981.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU
TƯ DUY TƯỢNG SỐ TRONG CHU DỊCH

LÊ VĂN QUÁN

1. Hình thức tư duy của Chu Dịch

Hình thức tư duy của Chu Dịch là dung hợp cả ba loại hình thức tư duy: trực quan, hình tượng và lô - gích.

Tư duy trực quan của Chu Dịch là căn cứ vào lời hào, quẻ ở Dịch kinh đã ghi chép lại kinh nghiệm sinh hoạt của người xưa, đề xuất thể nghiệm cá nhân mà không phải là lý lẽ và nguyên tắc chung. Thể nghiệm này đã trở thành khuôn mẫu cho người đời sau phán định sự vật và suy đoán tương lai. Ưu điểm quan trọng của tư duy trực quan của Chu Dịch là rất coi trọng kinh nghiệm mà không rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, “hình nhi hạ” và “hình nhi thượng” trực tiếp hợp làm một. Chu Dịch là một hệ thống nhận thức suy đoán xấu, tốt, do năng lực nhận thức của con người lúc bấy giờ có giới hạn, cho nên mang tính thần bí. Do đó, biểu hiện thành một loại tư duy trực giác, được ý quên tượng, siêu lý tính, có tính ngẫu nhiên phi lô - gích, tính đốn ngộ được ý ngoài tượng, tính linh cảm sâu sắc của trực giác.

Tư duy hình tượng của Chu Dịch là lấy tượng quẻ, tượng hào làm tư duy môi giới. Tượng quẻ là nguồn phóng xạ tư duy của Chu Dịch và nói chung tư duy hình tượng thì lấy tượng vật làm nguồn phóng xạ của tư duy. Người xưa sáng tác Chu Dịch thông qua tượng quẻ để dự đoán, phán định sự vật, điều này là mầm mống của tư duy hình tượng. Dịch truyện tổng hợp và phát triển rộng ý nghĩa tượng trưng của tượng bát quái (tám quẻ), đề xuất ý nghĩa tượng trưng về quan hệ lẫn nhau của bát quái, và lấy ý nghĩa tượng trưng đó giải thích 64 quẻ, cho nên ở tượng hào thường chứa đựng những ý nghĩa tiềm ẩn. Tư duy hình tượng Chu Dịch thông qua hệ thống phù hiệu hào quẻ để miêu tả thế giới và nhận thức thế giới.

Tư duy lô - gích của Chu Dịch là tuân theo nguyên tắc lô- gích phân loại, và suy ra tư duy hình thức hóa. Nó khác với tư duy lô - gích hình thức phương Tây. Nó dùng khái niệm phù hiệu tượng quẻ và văn tự lời hào, quẻ để suy lý phán đoán tổng hợp đối tượng, lấy “tốt, xấu, hối hận, đáng tiếc, mất hết”… của khách, chủ, đan xen nhau làm hình thức phán đoán cơ bản.

Tượng quẻ là mô hình tiên nghiệm của lô - gích Chu Dịch. Tượng của tượng quẻ lại khác với tượng trừu tượng, cái sau đã mất phạm trù khái niệm tượng cụ thể, và cái trước là nguồn gốc tượng của muôn vật, muôn việc, lại chứa đựng tượng vật, tượng việc, đã trải qua chỉnh đốn sắp xếp. Về hình thức tư duy đặc biệt này có thể gọi là “Tư duy tượng số”.

2. Tư duy tượng số lấy tượng số làm mô hình tư duy

Mô hình tượng số có thể phân làm ba cấp: cấp thứ nhất, là mô hình quẻ hào; cấp thứ hai, là mô hình Hà đồ Lạc thư (bao gồm ngũ hành); cấp thứ ba, là mô hình Thái cực đồ (hình Thái cực). Ba cấp mô hình có quan hệ cùng chất nhưng khác nhau về kết cấu, có thể chuyển đổi cho nhau, thông thương với nhau. Mô hình Hà Lạc và mô hình Thái cực đồ có thể được coi là giải thích tường tận và phát huy mô hình quẻ hào. Mô hình quẻ hào là mô hình đầu tiên của tư duy tượng số.

Phù hiệu căn bản nhất của mô hình quẻ hào là hào âm (– –), và hào dương ( – ), tổ hợp ba lần của hào âm và hào dương cấu tạo thành bát quái (23 = 8). Tổ hợp sáu lần hào âm và hào dương sẽ cấu tạo thành 64 quẻ (26 = 64). Sáu mươi tư quẻ cũng có thể được coi là cấu tạo thành bởi lũy thừa 2 của bát quái (82 = 64). Sáu mươi tư quẻ là mô hình cơ sở của Chu Dịch (trong sách Chu Dịch chứa phù hiệu bát quái). Mô hình này chẳng những bao hàm phù hiệu tượng quẻ của 64 quẻ, mà còn bao hàm thứ tự sắp xếp của nó. Lời hào, lời quẻ, và Dịch truyện có thể coi là văn tự giải thích hoặc phát triển tỉ mỉ nội hàm của mô hình này.

Hai quẻ đầu của 64 quẻ là Kiền và Khôn, là nguyên thủy của trời, đất, vũ trụ sinh mệnh, nó là cha mẹ của bầy quẻ, không chỉ có tác dụng quyết định trong vũ trụ muôn vật, mà còn là nguyên nhân tính căn bản của muôn vật vận động biến đổi.

Kiền, Khôn - âm dương đã có ý nghĩa sinh thành luận, cũng có ý nghĩa kết cấu luận, là điểm cơ bản của tư duy tượng số. Ngoài ra, có thể coi 62 quẻ là giao hợp và triển khai của hai quẻ Kiền, Khôn. Nói một cách khác, tức là cứ hai quẻ đơn làm thành một quẻ kép, quẻ sau đối lập với quẻ trước, phản ánh tư tưởng của sự vật chuyển hóa theo mặt phản diện của nó, cũng phản ánh quan hệ nhân quả liên tục trong 64 quẻ. Sáu mươi tư quẻ phân ra kinh thượng, kinh hạ: kinh thượng có 30 quẻ, kinh hạ có 34 quẻ. Kinh thượng nặng về hiện tượng tự nhiên, kinh hạ nặng về hiện tượng thiên văn. Hai kinh thượng hạ lại có thể phân ra nhiều giai đoạn tượng trưng quá trình âm dương tiêu trưởng, thứ tự sự vật biến đổi.

Hai quẻ cuối cùng của 64 quẻ là Ký Tế và Vị Tế, biểu thị rõ muôn vật muôn việc kết thúc của một kỳ và bắt đầu của một chu kỳ. Tuy nhiên đối với thứ tự 64 quẻ có phân đoạn khác nhau và nhận thức khác nhau, nhưng nên coi là một chỉnh thể. Sáu mươi tư quẻ là một hệ thống phù hiệu hoàn chỉnh của qui luật vũ trụ sinh mệnh biến đổi, cũng là mô hình phù hiệu lý tưởng.

3. Phương pháp tư duy tượng số

Phương pháp tư duy tượng số có thể phân chia thành ba loại: phép lập tượng, phép vận số, phép mô hình.

3.1. Phép lập tượng

Phép lập tượng là chỉ phương pháp tư duy trong quá trình tư duy lấy tượng làm công cụ, hiểu và bắt chước khách thể, có người gọi là phương pháp “duy tượng” hoặc phương pháp “ý tượng”. Phương pháp lập tượng là phương pháp quan trọng nhất của Chu Dịch, thậm chí ở Dịch truyện, Hệ từ hạ nói: “Dịch giả tượng dã, tượng dã giả tượng dã” - (Dịch là hình tượng, hình tượng là phỏng theo).

Tượng mà phép lập tượng dựa vào là phù hiệu tượng quẻ, tượng quẻ có thể tượng trưng, mô phỏng vũ trụ muôn vật, muôn việc. Nếu như phân chia về mặt tổng thể, thì tượng mà tượng quẻ đã lấy có thể chia thành hai loại: tượng thực và tượng hư. Tượng thật là chỉ thực tại tượng vật có hình. Tượng hư là chỉ nghĩa tượng, lý tượng không có thực thể, trừu tượng. Lời hào, lời quẻ, tên quẻ của Dịch kinh có thể là lần thứ nhất gợi ý lý giải về phép lập tượng của tượng quẻ. Cái điều Dịch truyện gọi là “quan tượng chế khí” - (xem tượng chế tác đồ dùng) và “quan kỳ tượng nhi ngoạn kỳ từ, động tắc quan kỳ biến nhi ngoạn kỳ chiêm”- (xem tượng mà ngẫm nghĩ đến lời văn, khi hoạt động thì xem sự biến hóa của việc mà ngẫm nghĩ đến lời đoán). Điều này nói rõ lấy tượng không chỉ có thể gợi ý mọi người phát minh sáng tạo, mà còn có thể suy đoán sự vật và phát triển xu hướng, mở rộng nguyên tắc xử sự làm người. Dịch truyện cho rằng tượng quẻ thể hiện rõ hình thái, vị trí, tính chất, công năng, văn lý của trời đất tự nhiên, thông qua phép lập tượng có thể hiểu, nhận thức những đặc trưng này của trời đất tự nhiên.

Chu Dịch - Thuyết quái tổng kết và mở rộng ý nghĩa tượng của bát quái. Như quẻ Kiền tượng trưng trời, cha, vua, vàng, ngọc, kiện (vững mạnh), hàn…. Quẻ Khôn tượng trưng đất, mẹ, cái búa, vải, bò, thuận, quân (= đều)… Trong đó kiện, hàn của Kiền, thuận, quân của Khôn là tượng nghĩa lý, là tượng thuộc tính của Kiền, Khôn, là tượng hư; ngoài ra đều là tượng thực.

Phương pháp Dịch học mô phỏng tượng là lấy tượng hào, tượng quẻ và Dịch đồ làm nguồn phóng xạ, lấy ấn tượng muôn vật ở trong trí não con người làm môi giới trung gian, đối chiếu tượng hào với ấn tượng, thông qua ấn tượng khiến cho tượng hào, tượng quẻ cùng liên hệ với tượng của vũ trụ muôn vật. Loại lập tượng này chẳng những chỉ là mô tả cụ thể tượng thực, chẳng những chỉ là so sánh kết cấu hình tượng bên ngoài, mà còn là điều quan trọng, xuất phát từ công năng, thuộc tính. Phàm là công năng, thuộc tính giống nhau, mặc dù kết cấu, hình thái tượng vật khác nhau, nhưng cũng có thể quy thuộc vào cùng loại, nạp vào cùng một tượng quẻ.

3.2. Phép vận số

Phương pháp tư duy vận số của Chu Dịch là chỉ phương pháp lấy số làm môi giới, nhận thức, suy đoán hoặc dự đoán sự vật và phát triển biến đổi. Số của Dịch học chủ yếu gồm có:

a/ Số trời đất: trời 1, đất 2; trời 3, đất 4; trời 5, đất 6; trời 7, đất 8; trời 9, đất 10. Số trời có 5, số đất có 5. Số trời tổng hòa là 25, số đất tổng hòa là 30, số trời đất tổng cộng là 55.

b/ Số đại diễn: số đại diễn là 50, rút ra “một” là thái cực, chia hai tượng trời đất hai nghi; treo một tượng người (hợp với trời đất gọi là tam tài), kẹp bốn để tượng bốn mùa, dành số lẻ để tượng nhuận. Số thẻ của Kiền là 216, số thẻ của Khôn là 144, cộng là 360, đó là số ngày của một năm. Trải qua bốn lần tráo trộn mà thành biến đổi, mười tám lần biến đổi mà thành quẻ.

c/ Số hào: sau khi kẹp cỏ thi, bốn lần tráo trộn, ba lần biến đổi sẽ được con số là: 6, 7, 8, 9; 6 là thái âm, 8 là thiếu âm, 7 là thiếu dương, 9 là thái dương. Lấy 9, 6 đại biểu hào dương và hào âm. Lấy sơ, nhị, tam, tứ, ngũ, thượng lần lượt đại biểu vị trí sáu hào. Một quẻ có sáu hào ghi là: sơ lục (hào thứ 1, âm), lục nhị (hào thứ 2, âm), lục tam (hào thứ 3, âm), lục tứ (hào thứ 4, âm), lục ngũ (hào thứ 5, âm), thượng lục (hào thứ 6, âm); sơ cửu (hào thứ 1, dương), cửu nhị (hào thứ 2, dương), cửu tam (hào thứ 3, dương), cửu tứ (hào thứ 4, dương), cửu ngũ (hào thứ 5, dương), thượng cửu (hào thứ 6, dương).

d/ Số quẻ: chia số thứ tự của 64 quẻ và số thứ tự của bát quái, theo cách chia thông dụng thì Kiền là số 1, đến quẻ Vị Tế là số 64; số thứ tự của bát quái không có trong Chu Dịch. Đời Bắc Tống, Thiệu Ung xây dựng số của Tiên thiên bát quái: Kiền số 1, Đoài số 2, Ly số 3, Chấn số 4, Tốn số 5, Khảm số 6, Cấn số 7, Khôn số 8. Số của Hậu thiên bát quái: Ly số 9, Khảm số 1, Chấn số 3, Đoài số 7, Khôn số 2, Tốn số 4, Kiền số 6, Cấn số 8, số 5 ở giữa; còn có số của Tiên thiên lục thập tứ quái.

e/ Số Hà Lạc: theo quan điểm của Chu Hy, … Lạc Thư cấu tạo bởi 9 số: đầu đội 9, chân đạp 1; bên trái 3, bên phải 7; 2, 4 là vai; 6, 8 là chân; số 5 ở giữa. Hà đồ cấu tạo bởi 10 số: 1, 6 ở phía Bắc; 2, 7 ở phía Nam; 8, 3 ở phía Đông; 4, 9 ở phía Tây; 5, 10 ở giữa.

Chu Dịch, tượng và số gắn chặt với nhau không thể chia tách. Có người cho rằng “tượng” thiên về định tính, “số” thiên về định tinh (sao), nhưng xét về bản chất, số trong phép vận số của Chu Dịch quyết không phải thuần túy biểu thị số lượng, mà mang rất nhiều đặc trưng của tượng, tức là càng thiên về định tính.

Như số lẻ là số trời, là dương; số chẵn là số đất, là âm. ở trong số đại diễn, số 1 là thái cực, số 2 là lưỡng nghi, số 4 là bốn mùa, số 9, 6 là thái dương, thái âm. Số hào biểu thị vị trí và tính chất của hào. Số quẻ không chỉ đại biểu thứ tự của quẻ, mà còn đại biểu vị trí, thuộc tính của quẻ. Số Hà Lạc càng có nhiều tính chất và công năng của ngũ hành.

Sự thống nhất tượng và số, là đặc điểm tư duy của tượng số. Số giống như tượng, có thể phân ra số hư và số thực, lần lượt đại biểu ý nghĩa trừu tượng (cùng loại với tượng) và ý nghĩa chỉ thực.

3.3. Phép mô hình

Phép mô hình là chỉ phương hướng lấy tượng số làm mô hình để tiến hành tư duy, và mô phỏng, nhận thức thế giới khách thể. Phương pháp mô hình có quan hệ mật thiết với phép lập tượng, phép vận số, mô hình là dựa vào lý luận của lập tượng, vận số. Lập tượng, vận số là sự vận dụng đối với mô hình, vì vậy, không nên xếp phép mô hình ngang hàng với phép lập tượng, phép vận số. Phép mô hình tượng số với phép vận số, lập tượng trọng điểm nặng nhẹ cũng có chỗ khác nhau, nếu nói cái trước nặng về phân loại và hình thức hóa tượng số, thì cái sau thiên về loại suy và lắp vào một cách gượng ép.

Đặc biệt ở Chu Dịch nhấn mạnh phương pháp phân loại, theo đặc điểm tính chất khác nhau phân chia muôn vật, muôn việc thành “loại” khác nhau. Chu Dịch dùng phương pháp phân loại “phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (Hệ từ thượng) – (Các loại tụ lại thành phương, các vật chia ra từng bầy), vũ trụ muôn vật vô cùng vô tận được phân chia thành nhiều loại có giới hạn, “loại” đã trở thành cái dây nối thông thương những sự vật liên quan với nhau. Chỉ cần sự vật có tính chất, tính năng, công dụng, hình tượng, kết cấu tương đồng, gần nhau hoặc gần giống nhau đều có thể quy thành cùng loại.

Chu Dịch phân loại tượng số chủ yếu có mấy loại dưới đây:

a) Lưỡng nghi - phân loại âm dương. Trong phân loại tượng số, điều này rất quan trọng, cũng là điều rất cơ bản, Thiệu Ung, Chu Hy, gọi nó là phép “một biến thành hai”, “một phân thành hai”. Hào âm và hào dương bắt nguồn ở tượng quẻ, là cơ sở của 64 quẻ; hai nghi âm dương là cơ sở của vũ trụ muôn vật. Không chỉ muôn vật muôn việc có thể phân thành hai loại âm dương, mà sự vật đồng nhất cũng có thể phân thành hai mặt âm dương.

b) Phân loại bát quái

Vũ trụ muôn vật chia thành tám loại: Kiền (trời), Khôn (đất), Khảm (nước), Ly (lửa), Chấn (sấm), Tốn (gió), Cấn (núi), Đoài (đầm). Theo cách nói của Thuyết quái truyện, thì thuộc tính của tám loại này lần lượt sẽ là: kiện, thuận, hãm, lệ, động, nhập, chỉ, duyệt, cũng tức là nói, nếu như một thuộc tính nào có đủ ở trong đó, thì có thể qui vào một loại quẻ đối ứng.

c) Phân loại 64 quẻ

Đó là cách phân loại hệ thống của Chu Dịch. Chu Dịch, tuy có thể coi 64 quẻ là mở rộng của bát quái, nhưng công dụng của bát quái và 64 quẻ nặng nhẹ có khác nhau: bát quái nặng về phân loại trạng thái tĩnh của sự vật. 64 quẻ nặng về phân loại trạng thái động của sự vật, vận động biến đổi và mối liên hệ hữu cơ giữa loại và loại của 64 quẻ.

d) Phân loại ngũ hành

Nói một cách nghiêm túc, Chu Dịch không nói đến ngũ hành, sách nói sớm nhất đến ngũ hành là “Thượng Thư, thiên Hồng phạm”, nhưng bắt đầu từ Tây Hán, phái tượng số đã kết hợp bái quái với ngũ hành, học thuyết Hà Lạc trong Dịch học đời sau, tức là phân loại ngũ hành, như trong Hà đồ, 1, 6 là thủy; 2, 7 là hỏa; 3, 8 là mộc; 4, 9 là kim; 5, 10 là thổ; 1, 2, 3, 4, 5 là số sinh của ngũ hành; 6, 7, 8, 9, 10 là số thành của ngũ hành. Phân loại ngũ hành đều không mâu thuẫn với phân loại của lưỡng nghi. Ngũ hành có thể coi là cặp âm dương đối lập (nước và lửa, mộc và kim), thổ ở trong đó chỉ có tác dụng điều chế, nó không chiếm giữ bốn phương, không chiếm giữ bốn mùa, trái lại thống lĩnh bốn phương, thống lĩnh bốn mùa. Việc phân loại ngũ hành đã thúc đẩy mối liên hệ giữa âm dương bát quái với nhau, khiến cho âm dương bát quái hình thành một hệ thống hữu cơ sinh khắc chế hóa.

Phân loại là sự bắt đầu của phương pháp tư duy mô hình của Chu Dịch, các mô hình Dịch học, tượng số xây dựng lên trên cơ sở phân loại. ở trên đã trình bầy khái quát mô hình phân loại đầu tiên (nguyên thủy) của tư duy tượng số, ngoài cái đó ra còn có mô hình ngũ hành, mô hình can chi, mô hình Hà Lạc, mô hình Thái cực. Chúng là công thức hoặc phép tắc tương đối ổn định từng bước hình thành trong quá trình tư duy. Công thức, phép tắc này phổ biến thích hợp với bất cứ sự vật nào, và không phải chỉ vẻn vẹn giới hạn ở một nội dung, sự vật cụ thể nào.

Đặc trưng tư duy tượng số có thể khái quát như sau:

1/ Quan niệm tuần hoàn biến dịch.

Hai chữ “Chu” “Dịch” có thể giải thích là “vòng tròn tuần hoàn” và “biến hóa, vận động”, có thể coi Chu Dịch là trước tác chuyên bàn luận về qui luật vũ trụ muôn vật tuần hoàn biến dịch. Trong hệ thống đầu tiên của hào, quẻ, tượng số, phù hiệu bậc 1 của hào dương và hào âm (21 = 2) là tuần hoàn chuyển đổi lẫn nhau, hào dương “cửu” chuyển hóa thành hào âm “lục”, chuyển đổi ngược lại cũng như vậy. Phù hiệu bậc 2 của tứ tượng (22 = 4) là thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm cũng chuyển đổi cho nhau. Bát quái phù hiệu bậc 3 (23 = 8) và mỗi một quẻ trong 64 quẻ thì phù hiệu bậc cao nhất (26 = 64) đều là vận động tuần hoàn, bất cứ một quẻ nào đều có thể biến thành một quẻ khác: ở trong một nhóm hai quẻ, hai quẻ trước sau (trên dưới) đều có thể biến đổi cho nhau thông qua hai phương thức “phục” (= trở lại) và “biến”. Bất cứ một quẻ nào đều có thể thông qua phương thức hào biến sẽ biến thành 63 quẻ khác. Từ đó hình thành chỉnh thể đại tuần hoàn của 64 quẻ. Xét từ Tự quái (thứ tự quẻ) của 64 quẻ ở Chu Dịch, đầu tiên là hai quẻ Kiền, Khôn, cuối cùng là hai quẻ Ký Tế, Vị Tế; tức là chứa đựng vũ trụ biến dịch, một chu kỳ bắt đầu từ Kiền Khôn âm dương đến Ký Tế, Vị Tế kết thúc. “Ký Tế” là kết thúc một chu kỳ trên; Vị Tế là bắt đầu một chu kỳ dưới. Như vậy, hết một vòng lại bắt đầu trở lại (phục), tuần hoàn không ngừng. Hệ thống văn tự Chu Dịch giải thích phù hiệu quẻ, hào rõ ràng là đã đề cập đến quan điểm vòng tròn biến dịch, như lời hào 3, dương, quẻ Thái viết: “Vô bình bất bí, vô vãng bất phục” - (Không có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại”. Lời quẻ Phục nói: “Phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục”- (Trở đi trở lại cái đạo của mình, bảy ngày trở lại). Dịch truyện nhấn mạnh phản phục (trở đi trở lại): “nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi thông” (Hệ từ thượng)- (Một lần đóng một lần mở gọi là biến, đi lại chẳng cùng gọi là thông), “Nguyên thủy phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết” (Hệ từ thượng) – (Suy nguyên từ trước, trở lại về sau, cho nên biết cái thuyết sống chết.) Trước tiên, tượng quẻ, hào, lời quẻ, lời hào đề xuất quan niệm tuần hoàn biến dịch, sau đó, Đạo gia, Nho gia đều tuân theo quan niệm tư duy đó, và trở thành quan niệm chung. Nói về quan niệm tuần hoàn biến dịch đối với cả thế giới quan niệm vũ trụ bao la rộng lớn cơ bản là hợp lý. Cả vũ trụ tồn tại vĩnh hằng đại tuần hoàn, và các vật thể cũng tồn tại tạm thời tiểu tuần hoàn. Tuần hoàn này cơ sở là đối lập chuyển hóa của âm dương, tượng số đang bao hàm tư tưởng tiến bộ biến đổi không ngừng. Nhưng Chu Dịch quá nhấn mạnh tuần hoàn, coi thường phát triển sáng tạo, coi tuần hoàn thành hình thức duy nhất của vận động và không thấy hình thức khác (như hình thức trực tuyến, hình thức phi thăng giáng…), thiếu quan điểm lịch sử phát triển tiến hóa. ở mức độ nào đó làm chỗ dựa cho giai cấp thống trị duy trì trật tự xã hội phong kiến (như tính vĩnh hằng của tam cương, ngũ thường; trọng nam khinh nữ v.v...)

2/ Quan niệm chỉnh thể hài hòa

Chu Dịch, quẻ, hào, là một chỉnh thể; bát quái, 64 quẻ là hệ thống thông tin. Bát quái là tổ hợp chỉ có ba hào âm dương, 64 quẻ là tổ hợp có sáu hào của âm và dương. Vị trí sáu hào của quẻ, hai hào trên là đạo trời, hai hào giữa là đạo người, hai hào dưới là đạo đất. Đạo tam tài trời, đất, người dung hòa thành một khối. Mô hình phù hiệu quẻ, hào là sự vật thể hiện mô thức vận động, mô hình chữ số của phép bói là sự vật tiềm ẩn ở mô thức vận động. Đối với sự suy diễn trời đất, phát triển thời gian, qui luật vũ trụ âm dương biến đổi là bắt chước chỉnh thể. Đối với sự vận động biến hóa, phân loại, sinh thành của muôn vật, muôn việc là miêu tả hệ thống. Mô thức 64 quẻ lấy quan hệ “sáu hào” “sáu ngôi” làm cơ sở, lấy thời, vị, trung, tỷ, ứng, thừa, v.v… làm nguyên tắc và tiêu chuẩn, cung cấp cho mọi người một phương pháp tư duy từ thời gian, không gian, điều kiện, quan hệ phương vị… đến nhận thức sự vật.

Đạo Dịch: “nhất âm nhất dương” – (một âm một dương) đã nói rõ con người và tự nhiên có tính đối lập, cũng nói rõ có tính hài hòa, tính thống nhất. “Cương nhu tương thôi, nhi sinh biến hóa” – (cứng mềm đun đẩy nhau mà sinh biến đổi) biểu thị chuyển đổi lẫn nhau, dựa vào nhau cùng tồn tại của mặt đối lập. Đối lập và hài hòa lẫn nhau, cảm ứng và giao lưu của con người và tự nhiên, chủ thể và khách thể được Chu Dịch thống nhất hữu cơ lại, trở thành tư duy cơ bản của Chu Dịch, mở ra đặc trưng tư duy chỉnh thể của văn hóa Trung Hoa “Thiên nhân hợp nhất” - (trời người hợp làm một).

Chu Dịch, Thái cực là khái niệm cao nhất của âm dương chỉnh thể đối lập, hài hòa cũng là chắt lọc lý tính của tư duy tượng số.

3/ Quan niệm động thái công năng

Mô hình tượng số Dịch học là mô hình động thái, công năng, bất cứ là phương pháp lập tượng hay là phương pháp vận số đều là lấy tính nhất trí của công năng, động thái làm điều kiện. Chỉ cần công năng tương đồng, thuộc tính tương đồng, mặc dù kết cấu khác nhau, hình thái khác nhau cũng có thể qui thành cùng loại. Tư duy tượng số trọng động thái, trọng công năng, tất nhiên là dẫn đến nhẹ kết cấu, nhẹ trạng thái tĩnh.

4/ Quan niệm ý tượng trực giác

Tượng quẻ của Chu Dịch là một loại ý tượng, có chứa đựng sự tưởng tượng chủ quan và ý niệm chủ quan, là kết hợp tri giác hình tượng và ý thức chủ quan. Đã có ý nghĩa thông báo tượng thực của hình tượng, lại chứa đựng nội hàm tượng hư trừu tượng. Tượng quẻ có hai tác dụng: một là mô phỏng, một nữa là tượng trưng. Về sự mô phỏng muôn việc muôn vật chỉ là một thủ đoạn, mục đích là cần dùng phù hiệu tượng quẻ để tượng trưng triết lý, phép tắc trừu tượng.

Tư duy ý tượng là phương pháp cơ bản của Trung Quốc cổ đại nhận thức vũ trụ. Thời kỳ Tiên Tần Chiến Quốc, thiên văn, lịch pháp, khí tượng thường thường gán ghép vào với tình hình chính trị, nhân sự tốt, xấu, lâu lâu lại trở thành thuật số học lưu hành rộng rãi trong dân gian. Cho đến “Tiên thiên bát quái đồ”, “Hậu thiên bát quái đồ”, “Hà đồ Lạc thư”, “Thái cực đồ” v.v… là mô hình đại biểu vũ trụ luận, bản thể luận, kết cấu luận của Trung Quốc.

Tư duy trực giác của Chu Dịch là xây dựng trên cơ sở loại suy từng cặp tượng quẻ. Do quá nhấn mạnh tư duy trực giác, chỉ chú ý cảm giác chỉnh thể, từ đó lướt qua thực chứng và phân tích, khiến cho trình độ khoa học truyền thống Trung Quốc không cao, nhận thức về sự vật thường là mơ hồ, sơ sài và lòng thòng. Nhưng xét từ chính diện, nó đã rèn luyện năng lực tư biện và năng lực nhận thức của người Trung Quốc, có đủ trí tuệ nắm vững vũ trụ sinh mệnh. Về mặt chỉnh thể động thái, luôn luôn giàu sức tưởng tượng và sức sáng tạo, tạo thành tính cảm nhận, tính huyền tưởng, tính nhảy vọt trong tính cách dân tộc. Tư duy tượng số Dịch học ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa phương Đông nói chung, và văn hóa Trung Hoa nói riêng, nó vô cùng phức tạp, sau này còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. ở đây, mới chỉ là bước đầu giới thiệu để chúng ta cùng suy ngẫm.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ngành Hán Nôm, khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi viết bài này, hy vọng ngành Hán Nôm phát triển, không thể theo con đường quen thuộc lâu nay chúng ta đã học và giảng dạy Hán Nôm. Đến lúc, học và dạy Hán Nôm không chỉ dừng lại ở dịch các văn bản Hán và phiên âm, chú thích các văn bản Nôm. Chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa, gắn liền Hán Nôm với ngữ văn Hán Nôm. Vì ngành Hán Nôm phát triển, chính là khiến cho người nước ngoài thấy được sự đóng góp riêng của Việt Nam vào văn hóa thế giới. Thế giới muốn biết về văn hóa Việt Nam không thể không thông qua ngữ văn Hán Nôm. Thế giới đã bước vào khoa học, ta nên theo xu hướng nghiên cứu Hán học của thế giới. Một người dù giỏi chữ Hán, chữ Nôm đến đâu mà không hiểu khoa học thế giới, nhất là bước đi của Hán học thế giới thì khó lòng đổi mới văn hóa theo hướng chung của thế giới. Như học Chu Dịch mà chỉ biết dịch nghĩa, dịch văn bản thì chưa đủ, mà còn phải hiểu văn hóa Trung Hoa. Vì Chu Dịch là đầu nguồn của văn hóa Trung Hoa, Nho gia tôn là quyển đầu của sáu kinh, Đạo gia nói là một trong Tam huyền. Chu Dịch và Dịch học thể hiện bộ mặt văn hóa Trung Hoa. Nó khai sáng phương thức tư duy có khác với phương Tây. Phương thức tư duy và tập quán tư duy có tác dụng lâu dài, phổ biến trong hành vi văn hóa dân tộc, là định thế tư duy của xã hội bầy người nhất định hình thành trong quá trình tiếp thu phản ánh, gia công thông tin ngoài giới. Mỗi một dân tộc đều có thiên hướng tư duy trọn vẹn của bản thân mình, từ đó hình thành loại hình tư duy dân tộc đặc biệt. Sự khác nhau của phương thức tư duy có thể dùng để nói rõ sự khác biệt của văn hóa dân tộc và sự khác nhau của xã hội dân tộc. Phương thức tư duy là bản chất lắng sâu của hiện tượng văn hóa loài người, có tác dụng chi phối hành vi văn hóa loài người, và đại biểu đặc trưng tố chất tâm lý văn hóa của một dân tộc.

Phương thức tư duy tượng số của Chu Dịch là điều đầu tiên và đại biểu phương thức tư duy Trung Hoa, đã quyết định quan niệm giá trị, phương thức hành vi, ý thức thẩm mỹ, phong tục tập quán đặc biệt của dân tộc Trung Hoa. Nó không chỉ thẩm thấu vào tố chất tâm lý dân tộc, mà còn thẩm thấu đến thao tác bề mặt thực dụng của tính bề ngoài. Nó không chỉ ảnh hưởng đến triết học mà cả đến khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên v.v…

Vì thế, chúng ta tìm hiểu tư duy tượng số của Chu Dịch, chính là bổ sung, nâng cao trình độ Hán Nôm của chúng ta càng thêm vững chắc, đồng thời hội nhập với trào lưu nghiên cứu Dịch học trên thế giới.

L.V.Q

TB

SÁCH SONG NGỮ HÁN NÔM - LOẠI HÌNH ĐẶC THÙ CỦA DI SẢN HÁN NÔM

LÊ ANH TUẤN

1. Sách song ngữ Hán Nôm, ngoài những tính chất chung của loại hình sách song ngữ, còn có những đặc trưng riêng. Trong bài này chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu diện mạo, nội hàm và những đặc tính của nó.

Nói đến sách song ngữ Hán Nôm người ta thường nói, đó là sách mà trong đó có cả chữ Hán và chữ Nôm. Song không phải tất cả các sách có chữ Hán và chữ Nôm đều được xem là sách song ngữ. Các sách có chứa chữ Hán, chữ Nôm dưới đây sẽ không được coi là sách song ngữ.

2. Trước hết, từ các tác phẩm chữ Hán có lẫn chữ Nôm ghi nhân danh, địa danh (thực chất là phiên âm tiếng Việt qua chữ Hán), trong trường hợp không có âm Hán Việt tương ứng. Điểm qua một số văn bản Hán văn trước thế kỷ X, rải rác đây đó trong các văn bản, đã ghi dấu hiện tượng này, dù rằng số lượng chữ Nôm xuất hiện ít ỏi.

Căn cứ vào phương thức thể hiện, trên thực tế có thể chia ra làm năm loại văn bản có liên quan đến chữ Hán và chữ Nôm mà không thuộc loại hình sách song ngữ Hán Nôm.

2.1. Loại thứ nhất: Sách vở bao gồm phần chính văn viết bằng chữ Hán thuộc các thể loại như sách kinh điển, các thể phả, truyền kỳ, truyện văn xuôi... Sau mỗi đoạn, câu, dòng hoặc từ thường được dùng chữ Nôm để chú giải khi cần. Phần chú giải dài hay ngắn tùy thuộc vào ý định minh giải của người viết. Hình thức chú giải này không thấy ở các tác phẩm thơ chữ Hán hoặc phú chữ Hán.

Chẳng hạn: trong Tứ thư đại toàn tiết yếu(1) viết: "Cô thiên chi sinh vật", dưới chua chữ Nôm "Vậy biết trời sinh vật" hay "Bố tại phương sách", dưới chua chữ Nôm "Còn bày chữ trong văn thẻ" v.v... Dạng chú giải này chỉ ở một số trường hợp đặc biệt.

2.2. Loại thứ hai: Một số văn bản thơ, truyện Nôm, ngoài phần chính văn, sau mỗi chương, hồi thường kèm theo bài thơ chữ Hán. Chẳng hạn tác phẩm Nôm Thiên nam ngữ lục(2) được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có niên đại thế kỷ XVII, ghi lại lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến họ Trịnh gồm 8136 câu thơ chữ Nôm và 31 bài thơ chữ Hán. Thơ chữ Hán sau mỗi hồi được viết theo lối thất ngôn hoặc sấm ngữ. Truyện Sự tích ông Trạng Lợn viết thể văn xuôi chữ Nôm, tiếp sau mỗi hồi đều có thơ chữ Hán mang ý nghĩa triết lý, bao biếm, tổng kết sâu sắc.

2.3. Loại thứ ba: Loại hình văn bản sách chữ Nôm thuộc các thể loại khác nhau, sau mỗi câu, mỗi điển cố, điển tích, tên đất, tên người thường được chú giải bằng văn xuôi chữ Hán. Xét về mặt hình thức biểu hiện, chúng ngược lại với loại hình văn bản chữ Hán được chú giải bằng chữ Nôm (2.1). Dù cả hai loại hình văn bản mang tính đối lập hình thức, song đều có đặc điểm chung là được chú giải bằng một văn tự khác (Hán hoặc Nôm). Xem xét các tác phẩm thuộc loại này, phần chú giải được viết, in khắc chữ (Nôm hoặc Hán) có kích cỡ chữ nhỏ hơn phần chính văn, tạo cho người đọc dễ nhận biết, tách biệt rõ giữa phần chính và phần phụ. Ví dụ trong Thánh tổ thực lục diễn âm(3) gồm 572 câu thơ Nôm, trong đó có 112 điểm chú giải bằng chữ Hán. Cuối tác phẩm là một số bài tán và ghi chép danh sách các xã, huyện được ba triều Lý - Trần - Lê ban thưởng ruộng đất, để kế tự, phụng thờ các thánh tổ. Qua khảo sát, dù tác phẩm này phần chú giải chữ Hán chiếm tỷ lệ lớn, về cơ bản vẫn là loại hình tác phẩm chữ Nôm.

2.4. Loại thứ tư: Trong tác phẩm loại này chuyển tải phần chủ yếu và phần xen kẽ. Phần chủ yếu có thể là chữ Hán, hoặc là chữ Nôm. Tỷ lệ số trang thuộc mỗi loại văn tự có thể 1/10, 1/5, 1/3..., nghĩa là chữ Hán chiếm phần cơ bản, hoặc ngược lại. Loại hình văn bản này cho thấy tính chất không thuần nhất trong cách thức thể hiện của người viết. Sự xê dịch phần của mỗi loại văn tự chữ Nôm hay chữ Hán, tùy thuộc ý đồ của từng tác giả. Trong loại hình văn bản dạng này, phần chủ yếu (chữ Hán hay chữ Nôm), có thể là văn xuôi, văn vần và phần xen kẽ hay kết thúc bằng văn tự ngược lại, có cùng thể loại hoặc khác thể loại. Đây là dạng tổng hợp cả hai hình thức văn tự Hán lẫn Nôm, đan xen các thể loại trong cùng văn bản. Về mặt nội dung, đa phần các văn bản đó đảm bảo tính nhất quán, song cũng có những tác phẩm đưa vào nhiều nội dung khác nhau gọi là tạp ký, giữa các phần nội dung không đồng nhất chẳng hạn...

2.5. Loại thứ năm: Loại hình văn bản lấy tiêu đề câu chữ Hán và diễn âm Nôm. Đây là những tác phẩm Nôm thường viết bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát. Mỗi thiên trong tác phẩm được đưa ra lời dẫn thay cho tiêu đề của thiên đó bằng câu chữ Hán. Loại văn bản này ít thấy xuất hiện, tỷ lệ không nhiều so với các loại hình văn bản khác. Điểm dễ nhận thấy trong loại hình văn bản sáng tác theo mô típ này, thể hiện ở chỗ đọc qua tiêu dẫn chữ Hán, có thể hình dung ra nội dung của thiên đó mục đích nói gì. Tính khái quát cao làm cho người đọc thẩm thức nhanh ý đồ tác giả. Về mặt bố cục, dạng sách Nôm lấy tiêu đề chữ Hán cho mỗi thiên, khá rõ ràng, mạch lạc, phù hợp với tính chất gia huấn, diễn ca, mỗi thiên là một bài ca độc lập. Chẳng hạn cuốn Bút Hương Trai Khuê huấn ca(4) chia làm 5 thiên: Thiên thứ nhất - Khuyến sự phụ mẫu cập công cô. Thuyết hiếu nhi dĩ thiên địa chi cương, thị chi (Khuyên phụng thờ cha mẹ mình và cha mẹ chồng. Nói về đạo hiếu thì đem giềng mối của trời đất ra mà dạy con). Lời tiêu dẫn trên lại được cụ thể hóa bằng 30 câu thơ lục bát chữ Nôm. Thiên thứ hai lại chuyển sang nội dung khác.

3. Loại hình văn bản song ngữ Hán Nôm theo đúng nghĩa của nó không thuộc phạm trù danh mục như đã nêu trên. Theo chúng tôi, có thể quy loại sách song ngữ Hán Nôm theo các tiêu chí sau:

Một là, sách song ngữ Hán Nôm là loại văn bản mà trong đó cùng một lúc, nội dung được diễn đạt bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.

Hai là, hai hình thức văn tự chữ Hán và chữ Nôm, phải tương ứng với nhau theo mấy cách thể hiện trong từng văn bản, cụ thể:

- Thơ chữ Hán diễn âm bằng thơ chữ Nôm.

- Câu văn xuôi Nôm giải nghĩa câu thơ chữ Hán hoặc câu văn chữ Hán.

- Đoạn, thiên, chương văn, thơ chữ Hán (hay chữ Nôm) được biểu đạt ý nghĩa tương ứng với văn tự ngược lại, là chữ Nôm (hay chữ Hán).

Ba là, văn bản có hình thức tương ứng âm tiết (Hán Việt - thuần Việt) nghĩa là một, hai ký tự Hán bằng một, hai ký tự Nôm.

Bốn là, văn bản có phần chủ yếu đối xứng bằng hai hình thức văn tự chữ Hán và chữ Nôm.

Năm là, văn bản có mục từ chữ Hán được chú âm, giải thích bằng tiếng Việt, viết bằng chữ Nôm. Tính cân đối về lượng chữ Hán và chữ Nôm ở đây không đặt ra một cách nghiêm ngặt như các dạng khác.

4. Từ năm tiêu chí trên, có thể phân sách song ngữ Hán Nôm ra những loại sau:

4.1. Sách chữ Hán phiên âm tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm, cùng tương ứng về thể loại: Thơ (chữ Hán) - thơ (chữ Nôm), phú (chữ Hán) - phú (chữ Nôm) v.v... Đây là dạng văn bản thể hiện rõ nét những đặc điểm của loại hình sách song ngữ, cả nội dung lẫn hình thức. Tính chất đối xứng từ ngữ, thi pháp ở đây chặt chẽ và thực sự rõ nét. Nhờ đó, người đọc dễ nhận biết và đối chiếu, so sánh, thuận tiện cho việc học tập và nâng cao khả năng tiếp thu cả hai loại văn tự. Chẳng hạn, một tác phẩm điển hình thuộc loại sách song ngữ Hán Nôm dạng này là văn bản Tam giáo nhất nguyên giải âm(5). Đây là tác phẩm văn xuôi của Trịnh Tuệ viết bằng chữ Hán. Nội dung tác phẩm giải thích Tam giáo thù đồ đồng quy nhất nguyên. Hòa thượng Phúc Điền diễn Nôm với 2522 mã chữ Nôm, trên 2438 chữ Hán. Bản khắc in cỡ chữ Hán to đậm, tiếp sau là chữ Nôm in nhỏ, nét mảnh.

Loại sách song ngữ này chiếm tỷ lệ không nhiều. Có thể nói, đây là dạng điển hình, tiêu biểu cho sách song ngữ Hán Nôm về mọi phương diện.

4.2. Sách hàm chứa tổng hợp nhiều thể loại như: thơ ca, văn xuôi, phú, minh, châm... lại có sự đối xứng hai phần chữ Hán và chữ Nôm. Loại hình sách song ngữ đa hợp thể loại này chiếm khối lượng lớn trong hệ thống văn bản Hán Nôm. Cách thể hiện cũng rất phong phú. Ngoài những đặc điểm như dạng văn bản thuần nhất một thể loại ra, còn phải kể đến sự đa dạng về nội dung. Loại sách này tạo nên bức tranh nhiều màu, nhiều vẻ, có không gian rộng và chiều sâu. Thử tìm hiểu một số văn bản song ngữ thuộc dạng này:

Tác phẩm Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm(6) của Nguyễn Thế Nghi, dịch Nôm từ cuốn Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, viết thể văn xuôi, thêm vào còn có văn phú, văn tế, kèm theo lời bình. Lời dịch trong tác phẩm này không phân đoạn; số câu không cố định mà theo mạch ý từng cụm từ, câu, đoạn văn. Về hình thức, bản dịch của Nguyễn Thế Nghi tựa như lối văn xuôi Hán được chú giải bằng chữ Nôm (không phải là dịch Nôm).

Bản dịch Nôm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh(7) vốn dịch từ cuốn Phụ mẫu ân trọng kinh bằng chữ Hán. Bản dịch tác phẩm này khá cân xứng từng trang. Mỗi trang, chữ Hán chép lời kinh, kệ, tán (kích thước chữ to) và dịch Nôm (kích thước chữ nhỏ)(8). Chỗ khác trong cuốn sách này, phần chữ Nôm ghi phía phải chữ Hán (theo cột dọc). Những chữ Nôm đọc đúng âm Hán Việt chữ Hán, không khắc lại, thay vì dùng ký hiệu (x) hoặc (x).

Cuốn Tam quang Phạm đại nhân gia huấn(9) là loại sách song ngữ gồm chín bài thơ thất ngôn, bát cú chữ Hán, diễn thơ Nôm, có dùng thể loại; tiếp theo (phần một có chín bài thơ), phần hai có tên Hán văn công tác Đổng Sinh hạnh và phần ba có tên Tiểu học tân thư. Hai phần sau văn bản đều được diễn Nôm thể lục bát, xen song thất lục bát.

4.3. Cũng cần đề cập đến loại hình bán song ngữ, nghĩa là trong văn bản có già một nửa (một phần hai, một phần ba chép chữ Hán) gắn liền với diễn âm Nôm. Phần còn lại chỉ viết bằng hình thức văn tự là chữ Hán hay chữ Nôm. Chẳng hạn: Văn bản Công án tra nghiệm bí pháp(10). Lời tựa được viết và trình bày bằng cả hai hình thức văn tự Hán và Nôm. Phần chính gồm mười một phép xét tội danh, viết theo thể văn xuôi Nôm trước, Hán sau. Phần cuối cùng cuốn sách viết thuần chữ Hán nêu các tội danh và các điều lệ.

Cuốn Tam nguyên Yên Đổ thi ca(11), trong đó, mở đầu là bài tựa chữ Nôm. Nội dung chính tập hợp các bài thơ, câu đối của Nguyễn Khuyến. Trong văn bản này đáng chú ý có ba bài văn, một bài ca chữ Hán đã được diễn Nôm. Tính chất song ngữ được thể hiện trong những bài đó.

4.4. Loại sách song ngữ Hán Nôm dạng từ điển.

So với ba loại hình sách song ngữ trên, loại sách dạng từ điển có những đặc điểm khác biệt. Đây là loại hình có phương thức biên soạn riêng. Nếu như, ba loại trên thể hiện bằng diễn âm Nôm thì sách dạng từ điển đóng vai trò là sách giải thích nghĩa chữ Hán bằng quốc âm qua văn tự Nôm. Sách song ngữ dạng từ điển Hán Nôm, không chỉ là để tra cứu mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành. Phương thức thể hiện được cụ thể hóa bằng các dạng sau:

a. Dạng từ điển giải thích nghĩa chữ Hán trực tiếp qua từ ngữ Nôm. Lối biên soạn dạng từ điển này có chiều sâu, trình bày kỹ càng. Một từ Hán Việt (đơn âm tiết hoặc đa âm tiết) được giải thích nghĩa của nó ở mọi cách dùng, mọi văn cảnh; cách thức trình bày như Từ hải, Khang Hy tự điển.

b. Dạng từ điển giải thích lấy lối văn vần thơ lục bát diễn âm Nôm. Thể thơ lục bát gần gũi với tư duy người Việt, tạo cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Hình thức giải thích theo kiểu diễn âm từ Hán sang Nôm được phân bố gọn trong một hoặc hai câu thơ, có thể chia ra làm hai cách thể hiện mang ý nghĩa khác nhau.

b1. Dạng từ điển dùng từ biểu(12) (mục từ) Hán đặt ở đầu câu, giữa câu và cuối câu, và giải thích nghĩa qua chữ Nôm. Như vậy, khi đọc một câu lục (6) hay câu bát (8), người ta hiểu ngay được ý nghĩa của từ Hán đặt ở đầu câu đó qua lời giải thích tiếp sau, ví dụ:

Lỗ tửu rượu lạt vô phần
Thanh chước rượu lọc để dành trong veo.
(Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa)

Cũng có trường hợp từ Hán đặt ở giữa câu hoặc cuối câu.

Cua đực có hiệu khởi lang cồng kềnh
Cái dạm hiệu ốc kỳ bành.
(Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa)

Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa được coi là cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm cổ nhất (khoảng thế kỷ XVI - XVII) còn lại đến bây giờ. Về cơ bản, trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, từ biểu Hán được đặt ở đầu câu thơ, số ít đặt ở giữa hoặc cuối câu. Về nội dung cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa được giải thích kỹ, chi tiết; đặc biệt ngoài ý nghĩa tra cứu, cuốn sách còn là đối tượng nghiên cứu về ngôn ngữ, văn học, sinh vật học...

b2. Dạng từ điển cũng được biên soạn theo thể thơ lục bát, song lấy tiêu chí giải thích đối tự là chủ yếu. Nói cách khác, đó là từ biểu (mục từ) chữ Hán được giải nghĩa bằng âm Nôm tương đương, ví dụ:

Vũ mưa, thử nắng, vân mây
Sương sương, tuyết tuyết, trú ngày, dạ đêm.
(Ngũ thiên tự)(13)

Cũng trong Ngũ thiên tự, đôi khi do ảnh hưởng vần thơ lục bát, nên cũng không tránh khỏi lối giải thích vượt ra ngoài khuôn mẫu định trước. Chẳng hạn từ biểu hạn giải thích âm Nôm không tương đương, hay chỉ đưa ra từ biểu Hán mà không giải thích:

Lũy nắm cơm, uẩn rau dong
Huệ, đậu, tuệ, đề, phù, dung, phiền, cần.

Riêng dạng từ điển lấy tiêu chí đối tự này, tùy thuộc từng tác giả, có thể sử dụng thêm một hoặc hai hình thức văn tự nữa, như chữ quốc ngữ, chữ Pháp v.v... cuốn Ngũ Thiên tự (5000 chữ) của Nguyễn Ngọc Xuân(14) được trình bày bốn hình thức văn tự: Hán, Nôm, Pháp và Quốc ngữ.

Phần nhiều sách song ngữ Hán Nôm, các bài tự, bài bạt thường viết bằng văn tự Hán. Phải chăng các tác giả muốn đề cao vai trò tối thượng của chữ Hán. Ngay cả những tác phẩm chữ Nôm thuần tuý cũng không ngoài đặc điểm trên.

5. Như vậy, sách Hán Nôm truyền thống thường thấy có gắn liền mật thiết hai hình thức văn tự là chữ Hán và chữ Nôm. Chúng luôn bổ trợ cho nhau một cách hữu ích và hiện diện ở mọi loại hình văn bản, mọi thể loại và mọi lĩnh vực sáng tác.

Trong bài viết, chúng tôi mới trình bày những nhận xét bước đầu, mang tính khái quá về loại hình sách song ngữ Hán Nôm. Sự xuất hiện, đan xen giữa hai hình thức văn tự chữ Hán và chữ Nôm trong các tác phẩm, thư tịch có tác dụng rất lớn trong việc học tập và giảng dạy Hán Nôm của chúng tôi.

Vấn đề đặt ra bao giờ cũng kỳ vọng theo hướng tiếp cận đúng. Đó chính là mục tiêu của bài viết đặt ra, từ những nhận xét nêu trên nhằm minh họa cho mục tiêu đó.

L.A.T

CHÚ THÍCH:

(1) Tứ thư đại toàn tiết yếu, Trung dung, đệ tam chương.

(2) Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.478.

(3) Bản do Bùi Tử Căn phụng sao tại chùa Viên Quang, xã Nghĩa Xá, Phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

(4) Tự Đức, Tân Dậu (1861), Tràng An, Bút Hương Trai Nguyễn Hòa Hương trứ.

(5) Bản in tại chùa Thiên Phúc, ký hiệu AB.513, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(6) Bản dịch Nôm thế kỷ XVII, Thư Viện á - Châu Paris, ký hiệu HM 2236.

(7) Xin xem phần nguyên bản trong cuốn: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm "Phật Thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh", của Hoàng Thị Ngọ, Nxb. KHXH, H. 1999.

(8) Các bản song ngữ Hán Nôm, đa phần chữ Hán khổ chữ to, chữ Nôm nhỏ; số ít có khổ chữ tương đương.

(9) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNv. 263.

(10) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1760.

(11) Tam Nguyên Yên Đổ thi ca, Phúc Văn Đường tàng bản.

(12) Thuật ngữ chúng tôi dùng. Từ biểu là từ Hán nêu lên để giải thích (mục từ).

(13) Xem Vũ Văn Kính - Khổng Đức: Ngũ thiên tự, Nxb. Văn hóa Thông tin, 1997.

(14) Bản in tại Long Quang, 83 phố Hàng Bông, Hà Nội, 1929.

TB

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC GIẢNG DẠY
KINH ĐIỂN NHO GIA CHO NGÀNH HÁN NÔM BẬC ĐẠI HỌC

ĐINH THANH HIẾU

Hiện nay, trong chương trình đào tạo của ngành Hán Nôm tại Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, thuộc về phần kiến thức cơ bản của ngành có ba bộ phận:

1. Hán văn Trung Quốc.

2. Hán văn Việt Nam.

3. Chữ Nôm.

Trong đó, phần các văn bản kinh điển Nho gia là cốt lõi của bộ phận Hán văn Trung Quốc. Bài viết này đề cập đến một số vấn đề nhỏ xung quanh việc giảng dạy nhóm văn bản này.

Các kinh điển Nho gia, trước hết là những điển tịch tối cổ, là những tư liệu văn hiến gốc, kết tinh của văn hóa truyền thống Trung Hoa, nội dung vô cùng phong phú, bao quát nhiều mặt của văn hóa xã hội Trung Hoa thời thượng cổ. Đến khoảng đầu đời Hán, Nho thuật được độc tôn, những điển tịch hạt nhân của Nho gia này mới được tôn sùng, thần thánh hóa lên hàng kinh điển, với ý nghĩa là đạo lý vĩnh hằng, bất biến (cho dù trước đó, trong một số thư tịch Tiên Tần như Trang tử, Tuân tử, Mặc tử đã có cái tên “kinh”, nhưng chưa có ý nghĩa như thế). Cũng từ đó, trải hơn 2000 năm ở Trung Hoa, các kinh điển trở thành đối tượng học chính yếu, cũng là nấc thang để bước lên danh vọng của sĩ nhân. ảnh hưởng của nó dần dà lan rộng ra các vùng xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…, hình thành một khu vực đồng văn. Cái học lấy những kinh điển đó làm đối tượng gọi là Kinh học trở thành môn học thuật vào loại tôn quý bậc nhất trong học thuật Trung Hoa hàng ngàn năm.

Toàn bộ kinh điển Nho gia, từ Lục kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) ban đầu; rồi mất Kinh Nhạc còn Ngũ kinh, rồi tăng dần Thất kinh, Cửu kinh, Thập nhị kinh, cho đến thời Tống là Thập tam kinh, cả thảy có mười ba bộ, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Xuân Thu Tả thị truyện, Xuân Thu Công Dương truyện, Xuân Thu Cốc Lương truyện, Luận ngữ, Hiếu kinh, Nhĩ nhã, Mạnh tử. Nhưng nói đến kinh điển Nho gia, người ta quen thuộc với  Tứ thư Ngũ kinh hơn.

Tứ thư bao gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử, được xác lập vào đời Tống, mà người đầu tiên đặt tên là đại nho Chu Tử (Chu Hy). Chu Tử đã rút hai thiên Đại học Trung dung trong Lễ ký ra hợp với Luận ngữ, Mạnh Tử rồi tiến hành chú giải, đặt tên cho tác phẩm của mình là Tứ thư chương cú tập chú. Cái tên Tứ thư ra đời từ đó.

Ngũ kinh vốn có từ đời Hán bao gồm Thi, Thư, Lễ (Nghi lễ), Dịch, Xuân Thu (chủ yếu là Công Dương truyện). (Hán Vũ Đế đã đặt Ngũ kinh Bác sĩ chuyên trị các kinh điển này). Nhưng Ngũ kinh phổ dụng hiện nay là được định hình vào đời Đường. Để thống nhất học thuật, Đường Thái Tông đã tiến hành chuẩn hóa kinh điển, giao cho Nhan Sư Cổ cố định về mặt văn bản gồm năm bộ, gọi là Ngũ kinh định bản, sau đó giao cho nhóm Khổng Dĩnh Đạt tiến hành sớ giải làm tiêu chuẩn về mặt nội dung, gọi là Ngũ kinh chính nghĩa, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Lễ ký, Xuân Thu (Tả thị truyện). Suốt mấy trăm năm đời Đường, Ngũ kinh chính nghĩa là tài liệu quan phương chính thống cho giáo dục và khoa cử. Tứ thư được chính thức đưa vào khoa cử từ đời Nguyên (lấy Tập chú của Chu Tử làm tiêu chuẩn), qua Minh, Thanh kiện toàn thêm một bước, vị trí của Tứ thư được đề cao, có phần vượt cả Ngũ kinh. Người học phải học thông Tứ thư trước rồi mới học đến Ngũ kinh. Từ đó, đề thi về kinh điển chỉ ra trong Tứ thư Ngũ kinh mà thôi. Trong khoa cử, kinh nghĩa luôn ở vị trí trường thứ nhất, là ngưỡng cửa tiến vào khoa cử. Nếu không vượt qua được cửa này, sĩ tử sẽ không vào được kỳ tiếp theo, có nghĩa là bị loại khỏi khoa cử. Nó được xem như thước đo học thức và tâm thuật của người học. Do vậy, trong “thập niên đăng hỏa”, đại bộ phận thời gian, tâm huyết dành cho “nấu sử sôi kinh”.

Ở Việt Nam, từ thời Lý, Nho học được xác lập với việc dựng Văn miếu, mở Quốc tử giám và bắt đầu mở các khoa thi Nho học. Khoa thi đầu tiên là Minh kinh bác sĩ, rồi thi Nho học ba trường, chọn những người thông Kinh Thi, Kinh Thư vào hầu ngự diên…Đến cuối Trần tiếp thu quy chế khoa cử đời Nguyên với bốn trường, về cơ bản đã định chế cho khoa cử sau này.Thời Lê sơ kiện toàn chế độ khoa cử theo mẫu mực triều Minh (định chế này tồn tại cho đến khi chấm dứt khoa cử). Trong nội dung thi, Tứ thư, Ngũ kinh là trung tâm, trường kinh nghĩa luôn luôn ở vị trí số một. Sĩ nhân Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo chung - kinh điển là đối tượng học trung tâm của họ. Những quy chế về khoa cử mặc nhiên sẽ quy định đường hướng cho việc giáo dục, học tập của toàn xã hội.

Nói như vậy để thấy rằng việc đưa phần văn bản kinh điển vào chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học hiện nay là rất đúng đắn vì nó hết sức cần thiết.

Cho dù trải thời gian, qua binh hỏa đã bị tán thất khá nhiều, chúng ta vẫn được thừa hưởng một số lượng thư tịch Hán Nôm khá lớn và rất phong phú của ông cha. Đó là kết tinh trí tuệ và tâm huyết của tiền nhân mà chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ và khai thác. Đó là nhiệm vụ mà nhà nước giao cho ngành Hán Nôm nói chung, cũng là mục tiêu đào tạo của ngành Hán Nôm ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

Để có thể khai thác, tức là nghiên cứu những giá trị tiềm ẩn trong kho thư tịch Hán Nôm đồ sộ đó phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay, công việc trước tiên, và bắt buộc của người làm Hán Nôm là phải hiểu được văn bản, giải mã được văn bản, hay nói nôm na là phải “đọc thông mặt chữ”. Việc dịch và công bố ngày một nhiều các thư tịch trong di sản Hán Nôm cũng là một công việc trọng tâm của chuyên ngành. Có giải quyết tốt được công việc này mới có thể tiến hành những bước nghiên cứu tiếp theo. Không thể có kết quả nghiên cứu tốt nếu như văn bản chưa được hiểu một cách chính xác. Đây là công việc không hề đơn giản, không phải chỉ biết nhiều chữ, nắm được văn pháp cơ bản là có thể đọc được, hiểu được tất cả các văn bản, nhiều khi đọc thông từ đầu đến cuối mà không thể dịch nổi một văn bản cổ. Nó đòi hỏi nhiều kiến thức khác mà người làm Hán Nôm cần trang bị. Đây là công việc lâu dài, thường xuyên liên tục, việc của cả một đời người chứ không phải chỉ trong mấy năm ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng, trong thời gian học ở trường, người học được trang bị một vốn kiến thức cơ bản nhất. Sau này tùy theo công việc mà người cán bộ phải trang bị thêm những kiến thức chuyên môn phục vụ cho công việc cụ thể của mình. Kinh điển chính là một trong những phần kiến thức cơ bản mà người làm Hán Nôm không thể không trang bị, dù ít dù nhiều - mà học ở trường là thời gian thuận lợi để làm việc đó.

Có thể nói rằng, đại bộ phận tác giả của các văn bản Hán Nôm là các nhà nho. Dù đỗ đạt hay không thì cái mà họ được hun đúc, đào tạo từ ban đầu là nho học, là kinh điển. Họ sống trong môi trường nho giáo, trước tác theo tinh thần nho học. “Văn hiến thiên niên quốc” mà chúng ta tự hào chính là từ ở đó. Những nội dung đạo lý cũng như chữ nghĩa của kinh điển đối với họ đã quá nhuần nhuyễn, đến mức dường như đã trở thành cái gì đó máu thịt trong họ. Khi viết, nó sẽ tuôn trào ra đầu ngọn bút một cách tự nhiên. Hơn nữa, quan niệm của người xưa là dùng văn chương để mà chở đạo, học theo thánh hiền, viết theo cổ nhân, “dĩ thánh hiền lập ngôn”. Khi cần viết về một vấn đề gì đó, họ sẽ tìm ra trong điển tịch xưa những điểm tương đồng, rồi dùng những từ ngữ, thậm chí từng đoạn trong kinh điển, trong tử, sử, cổ thư để viết ra, có như vậy mới là uyên thâm, điển nhã. Dẫn dụng được nhiều chữ nghĩa trong kinh điển, trong sách cổ, dùng được nhiều điển cố chính là thể hiện mức độ uyên bác, hay chữ, văn tài của tác giả. Điều này sẽ càng đậm đặc hơn nếu tác giả của các văn bản ấy là bậc đại khoa, danh sĩ, hay ở trong các văn bản quan phương chính thống như văn hành chính, nghi thức nhà nước và văn chương khoa cử. Tùy theo nội dung mà cách viết, trưng dẫn khác nhau, như văn hành chính sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của Kinh Thư... Do vậy, để hiểu được, để dịch được chính xác văn bản thì trong một chừng mực nào đó, người làm Hán Nôm phải đằm mình vào văn hóa cổ, ít nhiều phải được học những cái mà cổ nhân ngày xưa đã học. Khó có thể hiểu được một cách đúng đắn và sâu sắc những câu dù chỉ vài chữ như “Trung hòa vị dục” ở trước điện Thái Hòa trong Đại nội Huế, như “Thể vật bất di”, “Thận chung truy viễn” trong một ngôi miếu, một ngôi từ đường ở một thôn quê… nếu như chỉ dựa đơn thuần trên mặt chữ mà chưa từng đọc những sách Trung dung, Luận ngữ… Không ít trường hợp đã dịch sai, hiểu sai vì chỉ dựa trên từ ngữ thông thường mà không biết nó vốn nằm trong kinh điển mang những nghĩa đặc thù …

Vậy là ở ngành Hán Nôm, học kinh điển không có nghĩa là phục hồi Nho học, mà học để phục vụ cho công việc chuyên môn mà người học sẽ phải đảm nhiệm khi ra công tác sau này. Việc dạy kinh điển cũng phải khác, bằng phương pháp mới, với cách tiếp cận mới trong điều kiện hiện đại, phần nào có chọn lọc tiếp thu nhưng không phải rập khuôn cách thức truyền dạy của cổ nhân.

Theo tôi, học kinh điển ở ngành Hán Nôm bậc Đại học trước hết nhằm hai mục đích:

Thứ nhất, qua việc học kinh điển, người học được tăng cường về mặt chữ nghĩa, được bổ sung vốn từ, văn pháp, các mẫu câu, danh cú…Kinh điển Nho gia là một trong những chuẩn mực của văn ngôn, thứ ngôn ngữ viết mà đại bộ phận các tác gia lịch đại dùng để viết. Nó có tác dụng trực tiếp cho việc giải mã các văn bản.

Thứ hai, qua việc học, người học dần thâm nhập vào nho học từ gốc rễ với một loạt những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất. Đây là một lợi thế làm cơ sở để người học tiếp tục được hệ thống hóa, mở rộng và phát triển qua các chuyên đề về nho giáo, về giáo dục khoa cử… sẽ học ở thời gian tiếp theo, bổ sung kiến thức văn hóa nền cho người làm Hán Nôm.

Từ đó đặt ra một loạt vấn đề cho việc dạy, như sẽ phải chọn lựa như thế nào? giảng vào phần nào? với cách thức ra sao ?

Các kinh điển Nho gia có dung lượng khá lớn, nội dung bao quát nhiều vấn đề, chữ nghĩa cổ áo. Các trước tác liên quan đến kinh điển ở Trung Quốc vô cùng lớn (riêng nó tạo thành một bộ phận - bộ phận đứng đầu trong bốn bộ phận của thư mục cổ Trung Hoa: kinh, sử, tử, tập). Thời lượng dạy toàn bộ Tứ thư, Ngũ kinh trong chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học của ngành Hán Nôm là 25 đơn vị học trình (tương đương với 375 tiết), cũng là đáng kể so với chương trình đào tạo của chuyên ngành chỉ có 5 học kỳ nhưng để dạy kinh điển thì lại là thời lượng rất khiêm tốn. Do vậy, một số sách có dung lượng nhỏ như Đại học, Trung dung có thể dạy toàn bộ, còn lại đều phải trích giảng. Như vậy phải chọn lựa đưa phần nào vào chương trình, cần phải có tiêu chí cụ thể. Mỗi kinh chỉ có thể trích giảng một số thiên quan trọng nhất, có giá trị cao về mặt nội dung, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến trước tác của các tác gia. Ví dụ Kinh Dịch không thể không học quẻ Càn, quẻ Khôn… Kinh Thư không thể không học Nghiêu điển, Thuấn điển, Đại Vũ mô, Hồng phạm… Kinh Lễ không thể bỏ qua Lễ vận, Nhạc ký… Có khi trong một thiên dài chỉ trích tuyển phần cơ bản nhất.

Về nội dung, đọc kinh điển nhất định phải sử dụng các bản chú giải- nhưng từ xưa đến nay, những loại tác phẩm chú dịch kinh điển như giải hỗ, chương cú, truyện, chú, sớ, tiên, thích, chính nghĩa, tập chú, tập truyện, tập thuyết, dịch chú, kim chú kim dịch, toàn dịch… nhiều không kể xiết, ý kiến của các nhà lại rất khác nhau, thậm chí chống nhau. Vậy nên chọn lựa thế nào, lấy bản nào làm nền ? Tiếp thu thêm ở đâu ?

Xuất phát từ mục tiêu sinh viên Hán Nôm học kinh điển là để phục vụ cho công việc chuyên môn là dịch, nghiên cứu di sản Hán Nôm chứ không phải học kinh điển để làm kinh học hay để chuyên nghiên cứu kinh điển (có thể có một bộ phận rất nhỏ sẽ đi theo hướng này, nhưng chắc chắn không nhiều). Vì vậy cần phải chọn lựa cái gì là cần thiết nhất, thích hợp với đối tượng học. Việc này cần có sự cân nhắc rất kỹ. Trước hết cần phải ưu tiên hệ thống sách kinh điển chính thống quan phương mà người xưa dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử. ảnh hưởng của kinh điển trong thư tịch Hán Nôm chính là theo tiêu chuẩn này, cách hiểu này.

Như mọi người đều biết, ở nước ta, Nho giáo đến thời Lê Thánh Tông đã lên đến vị trí độc tôn, chế độ khoa cử cũng được kiện toàn đạt đến chuẩn mực nhất ở thời này, đời sau về cơ bản là không có thay đổi gì lớn. Hệ thống kinh điển dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử là hệ thống sách Đại toàn của nhà Minh được ban hành vào niên hiệu Vĩnh Lạc thời Minh Thành Tổ. Tứ thư đại toàn Ngũ kinh đại toàn của nhà Minh thực chất không có thành tựu gì lớn về mặt kinh học mà về cơ bản chỉ là tiếp nhận và phát huy cái học nghĩa lý của kinh học thời Tống. Cụ thể như sau:

- Tứ thư lấy Tập chú của Chu Hy làm chủ.

- Kinh Dịch lấy Dịch truyện của Trình Di và Bản nghĩa của Chu Hy làm chủ.

- Kinh Thư lấy Tập truyện của Sái Thẩm (học trò của Chu Hy) làm chủ.

- Kinh Thi lấy Tập truyện của Chu Hy làm chủ.

- Kinh Lễ lấy Tập thuyết của Trần Hạo (đời Nguyên) làm chủ.

- Kinh Xuân Thu lấy Truyện của Hồ An Quốc (đời Tống) làm chủ.

Hệ thống sách Đại toàn này được dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và thi cử suốt các đời Minh, Thanh của Trung Quốc và Lê, Nguyễn của Việt Nam.

Do vậy, nó là tài liệu giáo khoa bắt buộc của sĩ nhân, có tính chính thống, ảnh hưởng cực sâu rộng. Nhà Nho học theo sách ấy, với cách hiểu ấy, thi theo nội dung ấy và chấm thi lấy đỗ theo tiêu chuẩn ấy. Lẽ dĩ nhiên, ảnh hưởng của kinh điển trong các trước tác của họ cũng theo nội dung ấy. Ví dụ câu “Công hồ dị đoan, tư hại giã dĩ” trong Luận ngữ xưa nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng cách giải thích “công hồ dị đoan” nghĩa là “chuyên chủ vào dị đoan” trong Tập chú của Chu Tử được xem là phổ biến nhất trong các thư tịch.

Vì vậy chương trình dạy kinh điển cho ngành Hán Nôm ở bậc Đại học ưu tiên chọn văn bản trong hệ thống này làm nền để giảng dạy. Cũng cần phải nói thêm rằng, các bản chú kinh theo tinh thần Tống học được đánh giá là giản minh, tinh xác, chú trọng cả về mặt huấn hỗ và mặt nghĩa lý, trong khi chú theo Hán học thì thiên về danh vật huấn hỗ, theo Thanh học thì thiên về khảo chứng, rất nặng nề, không phù hợp trong điều kiện dạy thời gian ngắn (chỉ cần so sánh Thư tập truyện của Sái Thẩm đời Tống với Thượng thư chính nghĩa của nhóm Khổng Dĩnh Đạt đời Đường và Thượng Thư kim cổ văn chú sớ của Tôn Tinh Diễn đời Thanh thì thấy ngay). Tất nhiên trong quá trình giảng dạy cần phải cung cấp cho người học những thông tin mới, những cách giải thích khác để đối chiếu, phân tích, đặc biệt là ý kiến của các học giả lớn thời cận hiện đại với những luận cứ khoa học có giá trị. Nhiều khi có thể dùng cách thức “ tập chú” để cho người học suy nghĩ và có kiến giải riêng. Nhưng có một điều khó là trong chương trình, Tứ thư được bố trí dạy ngay từ học kỳ đầu khi sinh viên bước vào chuyên ngành,vốn chữ Hán còn rất hạn chế, sinh viên khó có thể tiếp thu được những gì quá khó, quá sâu, vì họ chưa được chuẩn bị. Vì thế, dạy kinh điển ở bậc Đại học trước hết cần ưu tiên chú trọng vào những nội dung đã tương đối phổ biến và ổn định. Còn những vấn đề chuyên sâu và khó, những quan điểm mới nhất, những hướng nghiên cứu hiện đại, những vấn đề “kinh nghi” hóc búa…thì nên dành cho các chuyên đề ở bậc Cao học. Chương trình Cao học Hán Nôm cũng có các chuyên đề về Tứ thư Ngũ kinh. Ví dụ dạy Tứ thư ở bậc Đại học về cơ bản nên lấy Tập chú của Chu Tử làm nền, còn lên bậc Cao học, cũng là Tứ thư nhưng sẽ dạy theo cách thức khác, sâu hơn, rộng hơn, hệ thống hơn…

Thông qua các văn bản kinh điển để dạy trước hết là về chữ, về các kết cấu ngữ pháp… Nhưng dạy kinh điển không thể chỉ dừng lại ở bề mặt chữ nghĩa, dịch xuôi một cách hời hợt mà phải phát huy, cho người học lĩnh hội được những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong đó. Có thế mới thấy được giá trị của các thư tịch được tôn lên hàng kinh điển, người học mới hiểu được sâu sắc và mới có thể sử dụng hữu hiệu vào các công việc chuyên môn cụ thể sau này được. Ví dụ chỉ một câu “Tự thành minh vị chi tính, tự minh thành vị chi giáo, thành tắc minh hỹ, minh tắc thành hỹ” trong Trung dung, nếu chỉ dịch ra thôi thì không có gì khó khăn nhưng sẽ rất mơ hồ, cần phải làm rõ thế nào là Thành ? Thế nào là Minh ? Thế nào là Tự thành minh ? Thế nào là Tự minh thành ? Tại sao lại gọi là Tính, gọi là Giáo ?... Hay câu “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn” trong Luận ngữ nếu chỉ dịch theo mặt chữ là “người trí thích nước, người nhân thích núi” thì không có gì là sâu sắc cả, cần phải làm sáng tỏ những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong những câu chữ đơn giản như vậy. Đó là cái khó của việc dạy kinh điển.

Sinh viên Hán Nôm học kinh điển là những người hiện đại tiếp cận với một dạng văn bản bằng phương pháp khoa học. Do vậy cần phải trình bày với phương pháp khoa học. Dù là sơ đẳng, từng kinh điển cũng phải khái quát về các mặt văn bản, tác giả, quá trình truyền thụ, những giá trị, những mặt hạn chế… với cái nhìn khoa học, lịch sử. Như với Tứ thư không thể không biết đến quá trình hình thành văn bản, thời điểm xác lập Tứ thư… Với Kinh Thư không thể không biết đến vấn đề chân ngụy của văn bản, vấn đề Kim văn, Cổ văn… Với Kinh Lễ không thể bỏ qua những vấn đề cơ bản của Tam Lễ, sự thay đổi vị trí kinh điển từ Nghi lễ sang Lễ ký… Với Xuân Thu không thể không đề cập tới Tam truyện, sự khác nhau cơ bản giữa Tả truyện với Công Dương truyện Cốc Lương truyện, về bút pháp Xuân Thu… Tiến tới nên có một chuyên đề về lịch sử kinh học nho gia hệ thống hóa các vấn đề đó.

Cũng rất cần thiết phải giới thiệu các tác phẩm kinh học hay có tính chất kinh học của Việt Nam. Số này tuy không nhiều nhưng cũng có những tác phẩm giá trị, đánh dấu thành tựu về kinh học của học giả Việt Nam như Thư kinh diễn nghĩa của Lê Quý Đôn, Xuân Thu quản kiến của Ngô Thì Nhậm, Luận ngữ ngu án của Phạm Nguyễn Du…

Nói chung là yêu cầu đặt ra cho công việc rất nhiều. Trước mắt, ngành cần hoàn thiện hệ thống bài giảng, xúc tiến xây dựng hệ thống giáo trình chuẩn về Tứ thư, Ngũ kinh cho bậc Đại học theo yêu cầu của ngành. Nhưng giáo trình cũng không phải là nhất thành bất biến, cần luôn được bổ sung, cập nhật. Nếu cần thiết phải rà soát lại chương trình, bố trí thời lượng cũng như tiến độ cho phù hợp.

Cuối cùng là vấn đề tư liệu. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Không thể học tốt nếu chỉ học chay, hay chỉ có một vài văn bản, bản dịch sơ lược. Cần có một hệ thống tư liệu phong phú, đặc biệt là các tư liệu gốc của Trung Quốc (cổ đại và hiện đại). Tình trạng chung của cả người dạy và người học là thiếu nguồn tư liệu, nhất là khó có điều kiện được tiếp xúc với các tư liệu mới nhất. Hiện nay, từ nhiều nguồn, kho tư liệu của Bộ môn bắt đầu được trang bị nhưng còn rất hạn chế, cần phải bổ sung nhiều. Muốn vậy cần có sự giúp đỡ của các cấp, các đơn vị.

Với một thời lượng có hạn mà nội dung cần dạy và học rất nhiều, rất khó, rất phức tạp, đây là một thách thức lớn. Mặc dù từng người đều hết sức mình vì công việc chung nhưng trong điều kiện còn nhiều hạn chế, những việc làm được kết quả có thể còn rất khiêm tốn, nhất là trong trình độ phát triển của khoa học hiện đại. Điều này ai cũng nhận thức được nhưng để khắc phục không phải chỉ trong một sớm một chiều, mà cần có sự chuẩn bị, cải thiện nhiều mặt.

Dạy kinh điển chỉ là một phần trong chương trình đào tạo ngành Hán Nôm bậc Đại học mà đã đặt ra biết bao vấn đề. Bài viết này chỉ nhằm bày tỏ những công việc mà ngành Hán Nôm - Khoa Văn học đã và đang làm cùng một vài ý kiến thiển cận của người viết - chỉ là “quản khuy lãi trắc”. Còn rất nhiều vấn đề sẽ được đặt ra và cần phải làm trong tương lai.

Đ.T.H

TB

CHỮ NÔM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP VỚI KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI

NGUYỄN QUANG HỒNG

1. Trong khoảng mươi năm cuối cùng của thế kỉ XX trở lại đây, chữ Hán và những hệ thống chữ viết biểu ý tương tự ở các nước Á Đông đã trở thành đối tượng thu hút sự chú ý của các chuyên gia quan tâm tới công nghệ thông tin trên thế giới. Quả thật, sau các hệ thống chữ viết phiên âm bắt nguồn từ hệ chữ cái La-tinh, Hi Lạp, A-rập, mà những vấn đề tin học hóa cho chúng về cơ bản đã được giải quyết; thì khối văn tự đồ sộ và đầy rẫy những nét đặc thù, lại có số người sử dụng khá lớn trên thế giới, là chữ Hán và các lối chữ vuông theo kiểu Hán tự, sẽ là mục tiêu của tin học và công nghệ thông tin hiện đại.

Mối quan tâm đó của các chuyên gia tin học và công nghệ thông tin đối với các hệ thống văn tự ô vuông biểu ý thể hiện trước hết ở các cuộc thảo luận của nhóm CJK (gồm đại diện của China, Japan và Korea, tức là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), nằm trong tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO (International Standard Organization). Từ tháng 10 - 1993, nhóm này chuyển thành nhóm IRG (Ideographic Rappoteur Group), với chương trình làm việc dày dặn hơn và thường xuyên hơn, mỗi năm nhóm họp chính thức 2 kỳ. Ngoài 3 nước kể trên, nhóm IRG có thêm sự tham gia của đại diện các nhà chuyên môn về văn tự và tin học từ Việt Nam, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hong Kong, sau này có cả Singapore (từ 1998), rồi Bắc Triều Tiên (từ 2000), và gần đây là Macao (từ 2001).

Trong kết quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà chuyên môn trong nước (ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Công nghệ Thông tin và Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) với các chuyên gia người Việt ở nước ngoài (chủ yếu là ở Hoa Kì và Nhật Bản), Việt Nam ta đã tham gia vào chương trình hoạt động của nhóm IRG từ năm 1993 và năm sau thì đứng ra tổ chức cuộc họp lần thứ 2 của nhóm này ở Hà Nội. Tại cuộc họp IRG#2 (1994) này, chữ Nôm của Việt Nam được chính thức đưa vào chương trình nghị sự của IRG trong tổ chức ISO quốc tế.

2. Mục tiêu trực tiếp nhất mà nhóm IRG muốn đạt tới là cùng nhau xác lập một kho chữ vuông biểu ý được tiêu chuẩn hóa và được thống nhất công nhận từ phía các thành viên có chủ quyền trong nhóm IRG đối với loại văn tự này. Kho chữ này phải làm sao bao gồm được hầu hết các đơn vị chữ và cả những biến thể của chúng, đã và đang được sử dụng phổ biến ở từng quốc gia vốn là chủ nhân của các thứ văn tự loại này. Dựa trên kết quả làm việc của nhóm IRG, Tổ chức ISO quốc tế sẽ cấp kí mã cho từng chữ một, sau khi đã giao cho các nhóm công tác chuyên trách rà xét cẩn thận.

Trên cơ sở một kho chữ vuông biểu ý được chuẩn hóa và được thống nhất cấp mã quốc tế như vậy, các nhà công nghệ trong lĩnh vực in ấn và thông tin có thể sẽ sáng chế ra những thiết bị và những chương trình thích hợp để sử dụng rộng rãi chúng trong mọi lĩnh vực tạo lập, lưu trữ và trao đổi thông tin.

3. Để thực hiện các mục tiêu trên đây, chương trình nghị sự của nhóm IRG bao gồm một loạt các nội dung công việc sau đây mà mỗi thành viên trong nhóm đều phải góp phần thực hiện:

3.1. Xác định đối tượng chữ được đưa vào kho chữ chung. Cần phải phân biệt mấy khía cạnh khác nhau về đối tượng "nhập kho":

a. Chữ và biến thể của chữ. Các đơn vị chữ vuông riêng biệt đại diện cho các ngữ tố khác nhau đương nhiên sẽ là đối tượng hàng đầu của việc nhập kho chữ chung. Tuy nhiên, để đáp ứng những nhu cầu khác nhau, đôi khi là rất tế nhị trong thông tin trên mặt chữ, người ta không ngần ngại thu nạp vào kho chữ chung này cả những dị thể hay biến thể của một đơn vị văn tự, và sẵn sàng cấp cho chúng những kí mã khác nhau. Bởi vậy mà ở đây không có sự "phân biệt đối xử" chữ phồn thể với chữ giản thể, mặc dầu các chữ Hán giản thể không xếp chen lẫn với chữ Hán phồn thể, mà đều xếp nối vào sau toàn bộ các chữ phồn thể của cùng một bộ thủ.

b. Bộ thủ và bộ kiện của chữ. Mới đầu, các thành viên nhóm IRG chỉ quan tâm đưa các chữ vuông nguyên vẹn vào kho chữ chung. Về sau, người ta thấy cần thiết phải lập một danh sách riêng cho 214 bộ thủ truyền thống (theo Khang Hi tự điển). Bên cạnh đó còn xác lập một danh sách gồm 116 các biển thể hay dị thể của các bộ thủ, gọi là "bộ kiện" (CJK Radical Supplement). Các bộ thủ và bộ kiện này đều được cấp mã quốc tế như những kí tự riêng biệt.

Các biến dạng của chữ và bộ thủ tùy theo thể loại thư pháp (Triện, Lệ, Hành, Thảo v.v.) dĩ nhiên sẽ không làm thành đối tượng nhập kho để mã hóa, bởi vì đó đều là những gì mà phần mềm của máy tính điện tử có thể xử lí được trên cơ sở một dạng chữ minh xác và chuẩn mực đã được cấp mã.

3.2. Phân chia lớp hạng ưu tiên để nhập chữ vuông biểu ý vào kho. Trên đại thể, nhóm IRG đã phân biệt các lớp hạng sau đây:

a. Cần ưu tiên đưa vào kho và cấp mã đối với những chữ hiện đang còn được sử dụng phổ biến ở các nước trong khu vực đồng văn Hán tự. Đó là những chữ thuộc lớp A.

b. Thứ đến là những chữ đang được các nước trong khu vực sử dụng nhưng không thường xuyên và ít phổ biến. Đây là những chữ thuộc lớp B, sẽ được chuẩn hóa và đưa vào kho để lập mã sau khi đã lập mã xong cho các chữ thuộc lớp A nói trên. Những chữ Nôm do người Việt tự tạo trên đại thể là thuộc vào lớp hạng B này.

c. Những chữ cổ hoặc thuần túy địa phương, chỉ đôi khi xuất hiện trong những văn bản hạn hẹp, được xếp vào lớp hạng C. Những chữ thuộc lớp hạng này sẽ được chiếu cố xem xét đến để nhập kho cấp mã, sau khi đã lập mã xong cho các lớp chữ A và B, mà vẫn còn chỗ cho chúng trong bảng mã chữ vuông chung.

3.3. Xác định nguồn chữ để đưa vào kho chữ chung. Các nước thành viên của IRG đã nhất trí như sau:

a. Đối với chữ Hán nguyên gốc, lấy Tự điển Khang Hi (in lần thứ 7 tại Bắc Kinh) làm nguồn chính. Và tự điển này cũng là căn cứ để tham chiếu các tự điển và tư liệu làm nguồn khác của tất cả các nước thành viên IRG.

b. Đối với chữ Hán được sử dụng ở các quốc gia, thì dựa theo sự lựa chọn và đề nghị của các nước thành viên hữu quan, nhưng phải được rà xét và thông qua tại các hội nghị của nhóm IRG. Hầu hết những chữ Hán có mặt trong trong các bộ tự điển sau đây đã được IRG thừa nhận cho vào kho chữ chung và được cấp mã theo lớp hạng A:

- Hanyu Dazidian của Trung Quốc (in lần thứ nhất).

- Daikanwa Jiten của Nhật Bản (in lần thứ 9).

- Daejaweon của Hàn Quốc (in lần thứ nhất).

- Tự điển chữ Nôm (Sài Gòn, 1971) và Bảng tra chữ Nôm (Hà Hội, 1976) của Việt Nam.

c. Đối với những chữ vuông được các quốc gia tự tạo ra để dùng cho tiếng bản ngữ, thì ngoài những tự điển ở (b), còn có thể sử dụng thêm các nguồn tư liệu khác nhau. Việc bổ sung này được đặt ra từ đầu năm 1998, khi kho chữ được mở rộng sang lớp hạng B và C. Danh sách các tư liệu này do từng nước đề nghị và được nhóm IRG thống nhất chấp nhận vào tháng 5-1998, gồm 107 tên tư liệu, trong đó có 40 tác phẩm bằng chữ Nôm do Việt Nam đề nghị.

3.4. Xác lập quy tắc mã hóa và thể thức lập bảng chữ vuông chung.

a. Quy tắc mã hóa. Mỗi nước thành viên IRG, sau khi thu thập các chữ vuông cần lập bảng chữ đề nghị nhập kho, trong đó mỗi chữ phải được mã hóa theo hệ mã nội bộ và sắp xếp theo một thứ tự nhất định. Ví dụ: với chữ Nôm ba chúng ta cấp mã nội bộ (V-code) là V0-354F, được xác định là thuộc bộ "nhất" (vì chữ "tam" thuộc bộ "nhất"), với 6 nét (không tính bộ thủ), như vậy chiếu vào Khang Hi tự điển thì chữ Nôm này sẽ được định vị là 0078.131 (nghĩa là nó được xếp tiếp theo sau chữ thứ 13 ở trang 78 của tự điển này). Theo đó, chữ Nôm này sẽ được đề nghị cấp mã trong bảng mở rộng Extension B là 2-0027 và đồng thời là mã quốc tế (Unicode) trong ISO/IEC-10646.

b. Thể thức lập bảng. Tất cả những chữ do các nước thành viên đề nghị, sau khi đã được IRG chấp thuận, thì được sắp xếp vào một bảng chữ chung, mà thực chất đó là một cuốn tự điển thu nạp toàn bộ các chữ vuông đã qua chuẩn hóa và được cấp mã quốc tế. Tập chữ này được gọi là SuperCJK, được bắt đầu soạn thảo từ đầu năm 1998, qua hàng chục lần điều chỉnh và bổ sung, đến cuối năm 2000 với bảng SuperCJK 11.1, tổng số chữ vuông được thu nạp và cấp mã quốc tế là 70.205 chữ (trong đó có 9.299 chữ do Việt Nam cung cấp). Trong tập SuperCJK này, các chữ được xếp thứ tự theo bộ thủ và theo mã số Khang Hi đã được định vị, và mỗi chữ đều được ghi rõ mã nội bộ, mã quốc tế như trên đã trình bày.

4. Chữ Hán vốn đã phức tạp và đa dạng, mà chữ vuông theo kiểu Hán tự được sử dụng ở các nước trong khu vực lại càng đa dạng và phức tạp hơn. Làm việc với một khối lượng chữ đồ sộ mà lại phức tạp và đa dạng như thế, quả thực là vô cùng lí thú và cũng vô cùng... vất vả. Công việc này không những đòi hỏi khả năng chuyên môn cao trong lĩnh vực văn tự học và tin học, mà cũng cần đến một tinh thần nghiêm túc, chu đáo và nhẫn nại trên từng nét chữ, từng con số từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc công việc đặt ra theo mục tiêu đã định. Trên từng khâu công việc cụ thể, có sự khác biệt trong cách xử lí giữa các thành viên, và cũng không tránh khỏi những thiếu sót và sơ suất khi soạn thảo, thẩm định và in ấn các hình chữ và mã chữ. Do đó trong các phiên họp chính thức cũng như thông qua thư từ điện tử, giữa các thành viên IRG luôn luôn có sự trao đổi, thảo luận, bổ sung, điều chỉnh. Và nhiều khi cũng phải có sự nhân nhượng lẫn nhau để có thể đạt tới một giải pháp chung được đa số chấp nhận. Điều này thường xảy ra khi gộp hay tách các hình chữ, khi quy bộ thủ hoặc tính đếm số nét cho từng trường hợp cụ thể. Riêng đối với chữ Nôm của Việt Nam, thì đây là lần đầu tiên được đem ra đối chiếu từng chữ một với chữ vuông biểu ý của các nước trong khu vực đồng văn Hán tự. Trong khi đó thì việc nghiên cứu cơ bản về chữ Nôm còn chưa thật sâu sắc, cũng như bản thân chữ Nôm hầu như chưa được thực sự chuẩn hóa trong lịch sử phát triển của mình. Bởi vậy mà đã có không ít vấn đề phải xem xét và xử lí một cách kịp thời để không cản trở tiến độ chung của công việc.

Hoạt động của nhóm IRG trong tổ chức ISO quốc tế diễn ra đều đặn và khẩn trương từ đầu thập niên cuối cùng của thế kỉ XX đến nay, đã trải qua 19 phiên họp chính thức và một số kì họp dành riêng cho nhóm biên tập các bảng chữ. Trong đó, thành viên Việt Nam đã tham gia gần đủ các phiên họp chính thức, chỉ trừ phiên họp thứ 5 (IRG#5) họp tại Hàn Quốc (tháng 11/1995) là không có mặt đại diện của Việt Nam. Điều đáng tiếc là chính trong kì họp này, đề nghị đổi tên gọi bảng chữ tổng hợp "SuperCJK" thành "SuperCJKV" do Việt Nam nêu ra từ trước đó đã bị bỏ qua (vì không có thành viên Việt Nam tại kì họp để bảo vệ đề nghị hợp lí này). Tuy nhiên, đây cũng chỉ là chuyện tên gọi, còn thực chất thì trong các bảng tổng hợp kho chữ của IRG vẫn dành riêng cho chữ Nôm một cột V bên cạnh các cột của K (Korea) J (Japan), G (guobiao - Trung Quốc), T (Taiwan), H (Hong Kong), và từ năm 2000 có cả cột KP cho (Bắc) Triều Tiên. Nếu cần rút gọn, bảng chữ có thể không chia cột, nhưng các kí hiệu C, J, K, V v.v. cũng vẫn được ghi rõ ở ô chữ được mã hóa.

5. Trong suốt quá trình tham gia chương trình hoạt động cùng nhóm IRG, các chuyên gia Việt Nam đã lần lượt soạn thảo 6 bảng chữ Nôm chuẩn để cung cấp cho IRG với ý thức tranh thủ đưa chữ Nôm vào kho chữ chung ISO/IEC-10646 càng nhiều càng tốt (mà cái ý thức này thì các thành viên khác trong nhóm IRG cũng không thua kém, vì quyền lợi lâu dài của đất nước và dân tộc mình). Các bảng chữ Nôm chuẩn của Việt Nam lần lượt được đánh số là V0, V1, V2, V3, V4 và V5.

V0: Đây là bộ mã chuẩn chữ Nôm do Ban Kĩ thuật Công nghệ Thông tin tổ chức soạn thảo, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng xét duyệt và được Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường công bố năm 1993 (TCVN 5773:1993). Với bộ mã chuẩn chữ Nôm này, Việt Nam đã đăng kí tham gia chương trình nghị sự của nhóm IRG vào dịp nhóm này họp thường kì lần thứ 2 tại Hà Nội đầu năm 1994. Bảng chữ Nôm chuẩn này gồm 2357 chữ, trong đó có hơn 70% là chữ Nôm không trùng hình với chữ Hán.

V1: Cũng là bộ mã chuẩn chữ Nôm do Ban Kĩ thuật Công nghệ thông tin tổ chức biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng xét duyệt và Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường công bố năm 1995 (TCVN 6056:1995). Bộ chữ này thu thập tất cả 3361 chữ Nôm hoàn toàn trùng hình với chữ Hán (có mặt trong Khang Hi tự điển).

Trong suốt các phiên họp và các cuộc tiếp xúc với đồng nghiệp các nước trong nhóm IRG từ năm 1995 đến 1997 các chuyên gia Việt Nam đã cố gắng cộng tác để đưa các chữ Nôm trong 2 tập chữ trên đây vào kho chữ vuông chung ISO/IEC-10646. Sau khi rà xét đối chiếu lại giữa V0 và V1, thấy có 38 chữ trùng lặp phải loại bỏ. Số còn lại của cả hai bảng chữ, có 3897 chữ được chính thức đưa vào ISO/IEC-10646 từ giữa năm 1997. Sau đó còn có thêm 128 chữ Nôm cũng được cấp mã trong bảng chữ mở rộng Extension A của IRG. Như vậy là từ cuối năm 1997, có 4025 chữ Nôm (trùng hình với chữ Hán) được đề nghị cấp mã ISO/IEC-10646. Kết quả này được khẳng định tại cuộc họp thường kì IRG#10 tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/1997. Đến đây, nhóm IRG cũng kết thúc giai đoạn I của chương trình, chủ yếu dành cho việc xem xét cấp mã cho các chữ vuông thuộc lớp hạng A.

Từ năm 1998, nhóm IRG chuyển sang giai đoạn II là giai đoạn xem xét và cấp mã cho các chữ thuộc lớp hạng B và C. Đây là dịp chữ Nôm thuần Việt có nhiều khả năng được chấp nhận hàng loạt vào kho chữ chung, vì những chữ trùng hình với chữ Hán về cơ bản đã được thu nạp rồi. Vả lại không gian mã hóa mới dành cho giai đoạn II là rất lớn (đến 64565 vị trí mã), cho nên hầu như không phải tranh chấp ưu tiên cấp mã nữa. Việc soạn thảo và phê duyệt các tập chữ vuông chuẩn ở từng nước thành viên trong giai đoạn này cũng được đơn giản hơn về mặt thủ tục. Nguồn chữ không nhất thiết phải là các tự điển, mà có thể là nhiều ấn phẩm khác nhau. Việc soạn thảo và xét duyệt các bảng chữ chuẩn cũng không nhất thiết phải thông qua Uỷ ban Tiêu chuẩn Nhà nước mà có thể do một cơ quan chuyên môn ở Trung ương chủ trì.Theo đó, các chuyên gia ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Công nghệ Thông tin đã khẩn trương soạn thảo thêm 2 tập mã chữ Nôm chuẩn để làm việc với nhóm IRG trong giai đoạn mới (từ năm 1998 đến năm 2000).

V2: Cũng như hai tập chữ V0 và V1, nguồn chữ mà V2 thu thập vẫn là hai bộ tự điển chữ Nôm đã nói ở trên (Sài Gòn, 1971 và Hà Nội, 1976). Tập chữ Nôm này gồm 3371 chữ, trong đó có 844 chữ là bổ sung vào những vị trí tương ứng trong Extension A (trùng với chữ Hán và chữ các nước khác, đã được cấp mã), còn lại 2527 chữ (hầu hết là chữ thuần Nôm) là đăng kí cấp mã trong bảng Extension B.

V3: Gồm tất cả 849 chữ hầu hết là thuần Nôm được thu thập vào tập chuẩn này là trực tiếp thu thập từ 40 tác phẩm chữ Nôm tiêu biểu (như Quốc âm thi tập, Truyền kì mạn lục giải âm, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, v.v.) và các tự điển khác nhau.

Sau 2 năm làm việc tiếp theo (đầu năm 1998 đến cuối năm 2000), có thêm 5274 chữ Nôm nữa (chủ yếu từ V2, V3 và một phần còn lại của V0 và V1) được thu nạp vào Extension A và Extension B của IRG để cấp mã ISO/IEC-10646. Tổng cộng lại, như trên đã nói, đến cuối năm 2000 trong bảng tổng hợp CuperCJK-11.1 (in ngày 21/11/2000) có mặt tất cả 9299 chữ mang tên Việt Nam (với kí hiệu V0, V1, V2, V3). Trong đó có 4232 chữ là những chữ Nôm không trùng hình với chữ Hán. Những con số này cho đến nay vẫn được bảo lưu.

Tuy nhiên, nhóm IRG không muốn dừng tại đây, mà tiếp tục khuyến khích các nước thành viên cung cấp thêm các tập chữ thuộc lớp hạng C, và cả những chữ còn bỏ sót từ trong tất cả các nguồn chữ kể trên, để lập thêm Extension C. Tất cả các nước thành viên đều hưởng ứng khuyến nghị này và bắt đầu từ cuộc họp nhóm IRG#17 (6/2001 tại Hong Kong) đã đăng kí thêm chữ của họ. Hai cuộc họp sau đó của nhóm IRG (IRG#18, 11/2001 tại Nhật Bản và IRG#19, 6/2002 tại Macao) đều dành để rà duyệt các kết quả đã có và thảo luận chi tiết về việc chuẩn hóa và thu nạp các chữ mới thuộc lớp hạng C vào kho chữ chung CJK. Trong thời gian này, các chuyên gia Việt Nam đã khẩn trương xác lập thêm 2 tập chuẩn chữ Nôm nữa để cung cấp cho nhóm IRG. Đó là tập chuẩn V4 và tập chuẩn V5.

V4: Bao gồm 1299 chữ thuần Nôm, trong đó có khoảng 300 chữ Nôm Tày (không trùng với chữ Hán và chữ Nôm Việt, thu thập từ công trình nghiên cứu văn hóa Tày của GS. Nguyễn Văn Huyên và Từ điển chữ Nôm Tày do Hoàng Triều Ân chủ biên).

V5: Tập hợp 858 chữ Nôm mới sưu tầm thêm (trong đó có hơn 70 chữ Nôm Tày). Những chữ này là thuần Nôm, nhưng ngẫu nhiên trùng hình với chữ của các nước khác đã được cấp mã trong SuperCJK rồi. Như vậy tập chuẩn chữ Nôm này lập ra là để kiến nghị nhóm IRG công nhận những chữ này cũng là của Việt Nam, cần có vị trí của mình (mang kí hiệu V5) trong bảng tổng hợp chung.

Công việc rà xét và cấp mã cho các chữ Nôm trong hai tập V4 và V5 sẽ được nhóm IRG thực hiện trong thời gian sắp tới, bắt đầu từ cuộc họp lần thứ 20 (IRG#20) được tổ chức tại Hà Nội, từ 18 đến 22-11-2002. Nếu mọi việc tiến triển thuận lợi thì dự kiến đến cuối năm 2003, tổng số chữ Nôm của Việt Nam hội nhập vào kho chữ vuông biểu ý của khu vực và quốc tế với mã của ISO/IEC-10646 sẽ lên tới con số hơn 12 000 chữ (hơn 50% là chữ thuần Nôm, không trùng hình với chữ Hán).

6. Với số lượng hơn 12 000 chữ Nôm được chuẩn hóa và cấp mã quốc tế như vậy, hoàn toàn có thể xúc tiến việc chế tạo ra các phông chữ Nôm để ứng dụng cho các phần mềm máy vi tính, từ đó có thể thực hiện được việc phiên chuyển, tái tạo hoặc tạo lập các văn bản chữ Nôm, truyền đạt và truy cập các thông tin dưới dạng chữ Nôm qua máy tính điện tử.

Trong khi các tổ chức, các công ty tin học và công nghệ thông tin lớn ở nước ta chưa thực sự lưu tâm đến những vấn đề như thế, thì từ nhiều năm nay, một số tổ chức và công ty nước ngoài đã quan tâm đến những triển vọng như vậy đối với chữ Nôm, song song với quá trình hội nhập chữ Nôm vào kho chữ vuông biểu ý của khu vực và quốc tế. Thông qua những mối quan hệ chuyên môn đạt được giữa các chuyên gia Việt Nam là thành viên của nhóm IRG (GS. Nguyễn Quang Hồng và Kĩ sư Ngô Trung Việt) với một số đồng nghiệp nước ngoài, đến cuối năm 2000 đã có hai cơ sở nước ngoài tự nguyện thực hiện bước đầu vẽ phông cho chữ Nôm. Đó là Hội Văn Tự Kính ở Tokyo (Nhật Bản) và Công ti DynaLab của Đài Loan (đóng tại Thượng Hải). Toàn bộ 9299 chữ Nôm có mặt trong SuperCJK đã được cả hai cơ sở này vẽ phông đầy đủ theo các chuẩn mực đặt ra cho chữ vuông biểu ý nói chung. Với điều kiện kĩ thuật và kinh nghiệm vẽ chữ còn rất hạn chế ở nước ta hiện nay, khó lòng có thể thực hiện được tốt một công việc đồ sộ và phức tạp như vậy. Tuy nhiên, với cả 2 bộ phông chữ Nôm này, vẫn cần được rà soát một cách cẩn thận và tiếp tục gia công, chỉnh lí cho hoàn thiện hơn nữa. Gần đây, từ đầu năm 2002, một tổ chức mang tên Hội Bảo tồn di sản Chữ Nôm (ở Hoa Kì) với sự tham gia của nhiều chuyên gia người Việt, đang tích cực bắt tay vào việc chế tạo một bộ phông chữ Nôm, phỏng theo các nét bút thực tế thể hiện qua một số văn bản khắc in tiêu biểu của Việt Nam.

Sau khi đã có được những bộ phông chữ Nôm hoàn chỉnh rồi, thì một công việc phức tạp đặt ra cho các chuyên gia chữ Nôm và chuyên gia tin học là làm sao tạo ra được các chương trình ứng dụng chúng, chuyển các phông chữ Nôm đó thành các đĩa mềm có thể cài đặt vào máy vi tính để sử dụng chữ Nôm như hiện nay người ta đã sử dụng được đối với chữ Hán. Một hướng xử lí thích hợp đối với chữ Nôm trong công việc này là sử dụng âm đọc của chữ Nôm theo chữ Quốc ngữ hiện hành để làm "chìa khóa" mở gọi một chữ nào đó khi cần thiết. Tính phức tạp của cách xử lí này là mỗi chữ Nôm thường có nhiều âm đọc khác nhau, và ngược lại, một âm đọc có thể tương ứng với nhiều chữ Nôm khác nhau. Xác lập cho đầy đủ và chính xác mối tương ứng giữa âm và hình của từng chữ Nôm là câu chuyện không đơn giản chút nào, mặc dù không phải là không thực hiện được (tương tự như người ta đã làm việc này đối với chữ Hán). Dĩ nhiên cũng có thể tìm kiếm những cách xử lí khác nữa để lập "chìa khoá" tra tìm chữ Nôm, như căn cứ vào bộ thủ hoặc theo các mô hình cấu tạo của chữ Nôm chẳng hạn, đành rằng cách này cũng có thể không kém phần rối ren. Cũng cần nói thêm rằng, mặc dù hầu như toàn bộ số chữ Nôm đã và đang đi vào kho chữ vuông quốc tế là được thu thập từ các nguồn tư liệu chữ Nôm tiếng Việt, song có khá nhiều chữ Nôm Tày là trùng hình với chữ Nôm Việt (và cả với chữ Hán). Bởi vậy, nếu đối với những chữ trùng hình như thế cũng tiến hành xác lập các âm đọc tương ứng trong tiếng Tày, thì cùng với những chữ thuần Nôm Tày trong V4 và V5 đang được đăng kí cấp mã, ở một mức độ đáng kể cũng có thể lợi dụng vốn chữ Nôm Việt đã có cho tiếng Tày. Trong tất cả các công việc nêu trên có thể thu hút sự quan tâm và đóng góp không chỉ của các nhà chuyên môn Hán Nôm và tin học trong nước, mà cả các chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài.

Như có thể thấy, chữ Nôm của Việt Nam đã có được những bước đi vững chắc trên đường hội nhập với khu vực và thế giới. Con đường tin học hóa chữ Nôm bước đầu đã được khai thông, Và từ đây, từ đầu thế kỉ mới chúng ta có thể nghĩ tới và nhanh chóng thực hiện những bước tiếp theo để hệ thống văn tự cổ truyền này chẳng những sẽ được bảo tồn vững chắc, mà còn có khả năng đi vào cuộc sống mới, thực sự làm một chiếc cầu nối quá khứ với hiện tại và tương lai của các dân tộc Việt Nam.

N.Q.H

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:

1. Các tài liệu chính thức của Nhóm IRG từ 1994 đến giữa 2002.

2. Các tập mã chữ Nôm của Việt Nam cung cấp cho Nhóm IRG từ 1994 đến giữa 2002.

3. Các bản báo cáo của thành viên Việt Nam về các cuộc họp chính thức của Nhóm IRG từ 1994 đến giữa năm 2002.

4. Nguyễn Quang Hồng, Ngô Thanh Nhàn, Đỗ Bá Phước, Ngô Trung Việt. Chữ Nôm: văn hóa cổ truyền và thông tin hiện đại. Tạp chí Ngôn ngữ, H. 1999, N.4.

TB

VĂN BIA THỜI LÊ XỨ KINH BẮC VÀ SỰ PHẢN ÁNH SINH HOẠT LÀNG XÃ

PHẠM THỊ THÙY VINH

Kinh Bắc thời Lê là một vùng rộng lớn kề cận kinh thành Thăng Long, nay gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn thành phố Hà Nội; huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, một phần huyện Mỹ Văn tỉnh Hưng Yên. Với một diện tích lớn như vậy, có thể coi Kinh Bắc là đại diện cho nhiều miền vùng của đất nước. Cùng với bề dày lịch sử văn hóa của Kinh Bắc thì tư liệu văn bia khắc chữ Hán Nôm được tạo dựng và lưu giữ tại đây cũng chiếm số lượng lớn(1) trong đó chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến sinh hoạt làng xã. Văn bia Kinh Bắc thời Lê đã phản ánh sinh động tình hình vận động và phát triển của làng xã Việt Nam thời trung đại từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII.

Toàn bộ kết quả nghiên cứu của chúng tôi dựa trên cơ sở khảo cứu 1159 đơn vị văn bia có tại 347 xã của 18 huyện trong 4 phủ thuộc xứ Kinh Bắc (địa danh được tính theo địa danh ghi trong văn bia).

I. Sự phân bố văn bia Kinh Bắc

- Sự phân bố về không gian:

Thừa tuyên Kinh Bắc chính thức được đặt tên từ năm 1469 sau khi Vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ. Kinh Bắc được chia làm 4 phủ và 20 huyện. Trong suốt thời Hậu Lê hơn 300 năm các huyện xã của Kinh Bắc đã nhiều lần thay đổi nhưng tên 4 phủ thì vẫn giữ nguyên, đó là các phủ Từ Sơn, Thuận An, Bắc Hà và Lạng Giang. Theo Hồng Đức bản đồ thì Kinh Bắc có 1136 xã 20 huyện 4 phủ, theo Dư địa chí Kinh Bắc có 1147 xã 21 huyện 4 phủ, còn theo Lịch triều hiến chương loại chí Kinh Bắc có 1214 xã thôn 2 sở 1 trang 1 trại. Sách Địa lý hành chính Kinh Bắc của Nguyễn Văn Huyên kê được khá cụ thể tên gọi của 1191 xã 21 huyện và 4 phủ. Nêu những con số trên đây để thấy có sự biến động thay đổi của làng xã Kinh Bắc trong các thời kỳ và chúng tôi muốn so sánh với số xã, thực có văn bia.

Theo thống kê phân loại của chúng tôi (tính đến thời điểm tháng 5/2002), toàn Kinh Bắc có 1159 đơn vị văn bia(2) thời Lê, đặt tại 18 huyện thuộc 4 phủ, như vậy là chỉ có 2 huyện của Kinh Bắc không có bia trong sưu tập của chúng tôi. Cụ thể là:

Phủ Từ Sơn: 533 bia, trong đó huyện Đông Ngàn 166 bia, Yên Phong 124 bia, Tiên Du 75 bia, Quế Dương 104 bia và Vũ Giang 64 bia.

Phủ Thuận An: 285 bia, trong đó huyện Gia Lâm 75 bia, Gia Định 103 bia, Siêu Loại 54 bia, Lang Tài 34 bia, và Văn Giang 19 bia.

Phủ Bắc Hà: 228 bia, trong đó huyện Hiệp Hòa 125 bia, Kim Hoa 51 bia và Việt Yên 52 bia.

Phủ Lạng Giang: 113 bia, trong đó huyện Yên Dũng 66 bia, Phượng Nhãn 27 bia, Bảo Lộc 11 bia, Yên Thế 10 bia và Hữu Lũng 1 bia.

Số bia này được phân bố tại 347 xã, trong đó: phủ Từ Sơn có 138 xã, phủ Thuận An có 96 xã, phủ Bắc Hà có 62 xã, phủ Lạng Giang có 50 xã. Sự phân bố này cho thấy chỉ có khoảng 1/3 số xã của Kinh Bắc là có bia đá, và trên bia được khắc các văn bản, gọi là văn bia. Kết quả thống kê phân loại trên cho thấy, văn bia tập trung nhiều nhất ở phủ Từ Sơn, tiếp đến là hai phủ Thuận An và Bắc Hà, cuối cùng là phủ Lạng Giang. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tình hình kinh tế văn hóa xã hội của từng phủ. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, khi so sánh tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội trong 4 phủ của Kinh Bắc thì phủ Từ Sơn được xếp đứng đầu, tiếp đến là phủ Thuận An, phủ Bắc Hà, cuối cùng là phủ Lạng Giang. Sự phân loại của Phan Huy Chú cũng thật tương đồng với kết quả phân loại văn bia của chúng tôi. Nếu đem so sánh số bia cụ thể ở từng xã thì xã Phù Ninh huyện Đông Ngàn có 28 bia, xã Xuân Hy huyện Kim Hoa 24 bia, xã Phú Thị huyện Gia Lâm 18 bia... còn đa phần chỉ có từ 1 đến 3 bia.

- Sự phân bố về thời gian:

Trong số văn bia thời Lê của Kinh Bắc, bia có niên đại sớm nhất là Hồng Đức 10 (1479) muộn nhất là Chiêu Thống 2 (1789). Nếu tính cả văn bản khắc trên lưng pho tượng Phật thì văn bản sớm nhất là niên đại Đại Hòa 7 (1449). Văn bia tập trung nhất ở niên đại Chính Hòa (1680 - 1704) và Cảnh Hưng (1740 - 1786). Thế kỷ XV toàn Kinh Bắc có 5 bia; thế kỷ XVI, Kinh Bắc có 1 bia niên hiệu Quang Hưng nhà Lê và 13 bia niên hiệu nhà Mạc. Số bia còn lại tập trung ở hai thế kỷ XVII, XVIII. Sau đây là bảng phân loại niên đại bia theo từng phủ:

Niên đại Từ Sơn
慈 山 府
Thuận An
順 安 府
Bắc Hà
北 河 府
Lạng Giang
諒 江 府
Toàn xứ
全 處 京 北
Đại Hòa* 1 0 0 0 1
Hồng Đức 1 3 0 0 4
Quang Hưng 1 0 0 0 1
Hoằng Định 13 6 0 0 19
Vĩnh Tộ 10 6 0 0 16
Đức Long  1 9 0 1 11
Dương Hòa 10 11 2 1 24
Phúc Thái 9 12 1 0 22
Khánh Đức 5 7 0 2 14
Thịnh Đức 7 3 3 1 14
Vĩnh Thọ  5 8 1 1 15
Vạn Khánh  0 2 0 0 2
Cảnh Trị 12 11 3 3 29
Dương Đức 5 1 2 0 8
Đức Nguyên 5 4 2 1 12
Vĩnh Trị 23 10 7 0 40
Chính Hòa 113 52 47 26 238
Vĩnh Thịnh 61 26 50 12 138
Bảo Thái 34 7 16 13 71
Vĩnh Khánh 10 5 8 9 32
Long Đức 14 6 3 8 31
Vĩnh Hựu 27 22 11 5 66
Cảnh Hưng 150 70 78 30 328
Chiêu Thống 5 2 1 1 9
Chỉ ghi Lê triều 5 1 2 3 10
Tổng cộng 533 285 228 113 1159

* Các văn bản khác thường đọc là Thái Hòa (Tòa soạn TCHN)

Qua bảng trên cho thấy phủ Từ Sơn vẫn là phủ có nhiều bia ở tất cả các thời kỳ khác nhau, từ niên đại sớm nhất đến niên đại muộn nhất, tiếp đến là phủ Thuận An, hai phủ Bắc Hà và Lạng Giang chỉ có bia từ giữa thế kỷ XVII.

- Sự phân bố về loại hình di tích:

Văn bia Kinh Bắc được tạo dựng và đặt tại các loại hình di tích sau: đình, chùa, đền miếu, văn chỉ, từ đường, từ chỉ, sinh từ, lăng mộ, am, điếm. Ngoài ra cầu và chợ cũng là nơi để tạo dựng bia. Kinh Bắc không có bia ma nhai, là loại bia khắc trên vách núi đá, bởi vì Kinh Bắc không có núi đá vôi.

Theo loại hình di tích thì chùa có 604 bia, đình 332 bia, đền miếu 56 bia, văn chỉ 42 bia, từ đường 31 bia, lăng mộ 24 bia, sinh từ 7 bia, từ chỉ 19 bia, điếm 6 bia, am 1 bia, cầu 16 bia và chợ 15 bia.

Phân loại trên cho thấy chùa là loại hình di tích có nhiều bia nhất, chiếm hơn một nửa tổng số bia, tiếp đến là đình. Chỉ với 2 loại hình di tích này đã chiếm tới hơn 80% số bia của Kinh Bắc. Sự phân loại này cho thấy Phật giáo đã có sức thu hút số đông dân chúng, Phật giáo đã ngấm sâu vào đời sống tình cảm cũng như tín ngưỡng của người dân Kinh Bắc và khẳng định được vị trí cao hơn hẳn so với các tôn giáo khác. Chùa cũng là loại hình di tích có văn bản khắc sớm nhất. So với chùa thì đình chiếm vị trí thứ hai trong toàn bộ văn bia Kinh Bắc. Văn bia sớm nhất đặt tại đình là niên đại Đức Long (1629 - 1634). Thế kỷ XV, Kinh Bắc không có bia dựng tại đình; thế kỷ XVI, Kinh Bắc có 1 bia dựng ở đình nhưng lại là bia Mạc niên đại Diên Thành 8 (1585). Các loại hình di tích khác như đền miếu, văn chỉ, từ đường, lăng mộ v.v... đều có rất ít bia. Chúng tôi sẽ phân tích nguyên nhân ở sau.

II. Một số vấn đề về sinh hoạt làng xã được phản ánh qua văn bia

Trong nội dung này sinh hoạt làng xã được tập trung phản ánh ở các vấn đề sau:

1. Xây dựng những công trình phục vụ cho tín ngưỡng của nhân dân.

- Xây dựng và tu sửa chùa:

Một trong những nội dung được phản ánh nhiều nhất trong văn bia Kinh Bắc là trùng tu và xây dựng các ngôi chùa làng để dân có chỗ thờ Phật, sau đó là thờ những người được dân bầu là hậu Phật. Đó cũng là nguyên nhân vì sao số bia dựng ở chùa lại tăng lên gấp nhiều lần so với các loại hình di tích khác. Công việc trùng tu xây dựng chùa ở Kinh Bắc được tiến hành liên tục từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII. Thế kỷ XV có 5 văn bia thì đã có tới 4 văn bản đề cập đến ngôi chùa làng, trong đó chủ yếu là đề cập đến công việc tu sửa chùa, tạo tượng Phật. Thế kỷ XVI, Kinh Bắc tuy chỉ có một văn bia niên đại nhà Lê, nhưng đây cũng là văn bản ghi lại việc trùng tu chùa. Trong số 604 bia đặt tại chùa, có 350 bia đề cập đến việc xây dựng trùng tu lại các ngôi chùa làng cũng như công việc tạo tượng, đúc chuông, xây tam quan. Qua văn bia có thể thấy là thế kỷ XVII, XVIII là thời kỳ phục hưng của Phật giáo ở Việt Nam, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XVII đến hai thập kỷ đầu của thế kỷ XVIII. Hầu như làng nào cũng có chùa và được tu bổ thường xuyên. Công việc này thu hút sự đóng góp của mọi thành phần trong xã hội, trong đó nổi lên mấy nhóm sau:

Nhóm quí tộc trong triều đình Lê Trịnh như: Vua Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ), chúa Trịnh Tạc, Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, trưởng công chúa Lê Thị Ngọc Duyên... cùng hàng loạt các Quận công, cung phi, cung tần trong cung Vua phủ Chúa. Trong nhóm này, Chúa Trịnh Tráng là người đã bỏ nhiều tiền của nhất để xây dựng tu tạo nhiều ngôi chùa nổi tiếng của Kinh Bắc. Tiếp theo là sự đóng góp của các Hoàng hậu, cung phi, cung tần, quận Chúa, có 30 bia ghi lại.

Nhóm quan chức các cấp từ triều đình đến địa phương, có 100 bia ghi lại về vấn đề này.

Nhóm do những người dân đóng góp, có 200 bia, trong nhóm này phần lớn là tập thể số đông dân chúng từ những thành phần xã hội bình dân.

Nhóm do các nhà sư đứng ra cùng với dân để tu bổ, có 20 bia.

- Xây dựng và tu sửa đình làng:

Có 120 văn bia ghi lại vấn đề này, nhưng chỉ có bia từ đầu thế kỷ XVII đến gần cuối thế kỷ XVIII. Thế kỷ XV, XVI ở Kinh Bắc không có bia niên đại nhà Lê ghi lại công việc này, ngoại trừ một văn bia niên đại Diên Thành 8 (1585) nhà Mạc. Tuy văn bia Mạc đã ghi lại việc xây đình vào cuối thế kỷ XVI, nhưng qui mô và ý nghĩa của ngôi đình thế kỷ XVI rất khác so với ngôi đình thế kỷ XVII hoặc đình thế kỷ XVIII. Ngôi đình được phản ánh trong bia Mạc tại Kinh Bắc cũng như tại Thái Bình (là một trong hai địa điểm có bia Mạc phản ánh việc xây đình vào những thập kỷ cuối thế kỷ XVI) đều cho biết qui mô đình rất nhỏ, chỉ xây trong khoảng thời gian ngắn. Trái lại, ngôi đình thế kỷ XVII trở đi thường phải xây dựng trong nhiều năm, tốn kém rất nhiều tiền của. Đình được xây với ít nhất là ba gian hai hồi, nhiều nhất là chín gian hai hồi. Trong sự đóng góp tiền của để xây đình, đáng lưu ý là đội ngũ các quan Thái giám. Có 100 bia về các Thái giám, trong đó đã có một nửa số bia đề cập đến việc họ bỏ ra rất nhiều tiền của để xây dựng và tu bổ các ngôi đình làng. Một vị Thái giám đồng thời có thể bỏ tiền ra xây hai ba ngôi đình cho hai ba làng khác nhau(3). Thử so sánh sự đóng góp của dân với sự đóng góp của các vị Thái giám để xây dựng các ngôi đình mới thấy các Thái giám lúc bấy giờ thật giầu có. Xã Thổ Hà, huyện Yên Việt vào năm 1692 đã họp dân cắt cử việc đóng góp để xây đình, theo đó mỗi người dân từ 4 tuổi trở lên phải nộp 4 quan để xây đình (lưu ý lúc đó xã này đang là xã giàu có, trên bến dưới thuyền với nghề gốm khá phát triển). Thế mà phải hơn bốn năm sau ngôi đình mới được hoàn tất, và cho đến hiện nay nó đang là một trong vài ba ngôi đình cổ kính nhất của Kinh Bắc.

Việc xây đình tuy cũng có nhiều lớp người tham gia đóng góp và hưng công xây dựng, nhưng so với việc xây chùa thì phạm vi hạn hẹp hơn. Không thấy có sự xuất hiện của Vua, Chúa cùng giới quí tộc trong việc đóng góp xây dựng hoặc trùng tu các ngôi đình làng. Chỉ có mấy đối tượng chủ yếu, đó là các Thái giám, một số quan chức các cấp và những người dân sở tại. Có lẽ ngôi đình là của làng, là nơi để thực thi việc làng, là nơi thờ Thành hoàng làng và cũng là công sở hội họp của cả làng để làng tạo những tục lệ, điều lệ riêng mang tính tự trị của mình nên tầng lớp quí tộc không tham dự. Nhà nước cũng không thấy xuất hiện trong hoạt động này của các làng xã. Các làng xã tự xoay sở kinh phí để trang trải cho công việc này, chúng tôi chưa thấy một sắc dụ hoặc sự đóng góp nào của Chúa Trịnh liên quan đến việc xây dựng đình làng. Sau này các làng xã tranh thủ tìm kiếm nguồn tài trợ cho việc xây đình cũng như các công việc khác của làng bằng cách tổ chức ra hình thức bầu hậu Thần, hậu Phật để ai có nhu cầu được làng thờ cúng sau khi mất đi phải đóng góp cho làng một khoản tiền nhất định.

- Xây văn chỉ thờ các bậc Tiên hiền:

Mặc dù Kinh Bắc là nơi có nền Nho học khá phát triển với đội ngũ các nhà khoa bảng đông nhất trong suốt thời kỳ phong kiến, nhưng việc xây văn chỉ lại chỉ được tiến hành từ thế kỷ XVII. Do đó Kinh Bắc chỉ có 42 văn bia thời Lê ghi về xây dựng văn chỉ để thờ các bậc tiên hiền. Điều đó có nghĩa là không phải làng nào cũng có văn chỉ. Nếu đình chùa xuất hiện ở hầu khắp các làng quê Việt thì văn chỉ lại chỉ có ở những làng có truyền thống khoa bảng, có một đội ngũ các nhà nho đủ để thành lập nên Hội Tư văn và họ xây văn chỉ để thờ những người thành đạt trên các chặng đường thi cử. Ngoài mục đích này việc xây văn chỉ còn là để con em trong làng xã nhìn vào đó mà noi theo trở thành những người có học hành tử tế. Tuy bia văn chỉ của Kinh Bắc không nhiều, nhưng lại có những nét đặc sắc. Đó là văn bia giáp Văn thuộc xã Thổ Hà, huyện Yên Việt, văn bia giáp Bản Hội xã Trung Màu, huyện Tiên Du cho biết, vào thế kỷ XVII ở một số xã của Kinh Bắc đã có văn chỉ hàng giáp bên cạnh văn chỉ hàng xã hoặc văn chỉ của hàng tổng. Văn bia sớm nhất ghi lại việc xây dựng văn chỉ ở Kinh Bắc được tạo năm Dương Hòa 1 (1635) đặt tại văn chỉ xã Trà Lâm huyện Siêu Loại. Văn bia cho biết: bản xã vốn có truyền thống nho học, có nhiều người đỗ đạt nhưng chưa có miếu thờ các bậc tiên hiền. Nay Hội Tư văn đóng góp để xây dựng văn miếu. Như vậy rõ ràng tuy xã Trà Lâm trước đó là xã có truyền thống khoa bảng nhưng xây miếu văn để thờ các bậc tiên hiền lại chỉ bắt đầu vào đầu thế kỷ XVII. Nếu đình, chùa do mọi thành phần trong xã hội tham gia đóng góp xây dựng thì văn chỉ chỉ do một nhóm người có học hành tham gia đóng góp xây dựng. Về sau do tính chất của Hội Tư văn có sự thay đổi khi một số người không cần thi cử mà vẫn có bằng cấp do bỏ tiền ra mua mà người đời vẫn gọi là “sinh đồ ba quan” và dĩ nhiên những người này cũng sẽ trở thành thành viên của Hội Tư văn thì cũng là lúc có thêm một vài thành phần khác không phải trong Hội Tư văn cũng tham gia đóng góp tiền của để tu bổ hoặc xây dựng văn chỉ. Mục đích của họ là được Hội Tư văn bầu là hậu hiền 後 賢 tức là được phối thờ sau những người hiền tài của làng.

- Xây từ đường thờ cúng tổ tiên:

Người Việt có truyền thống thờ cúng tổ tiên từ rất lâu đời nhưng việc xây từ đường để thờ cúng tổ tiên thì không rõ cụ thể từ bao giờ. Qua tư liệu văn bia Kinh Bắc thì từ đường chỉ được xây dựng từ đầu thế kỷ XVII với văn bia sớm nhất tạo năm Thịnh Đức 4 (1656). Toàn bộ văn bia Mạc thế kỷ XVI ở Việt Nam cũng không có văn bia nào gắn với từ đường dòng họ. Điều này chỉ có thể tạm giải thích theo hai cách:

Thứ nhất: Từ thế kỷ XVI ngược trở lên, ở Việt Nam việc xây dựng từ đường dòng họ chưa phổ biến nên không có văn bia ghi lại.

Thứ hai: Có thể là trước thế kỷ XVII ở Việt Nam đã từng có việc xây dựng từ đường dòng họ để thờ cúng tổ tiên nhưng người ta không dựng bia để ghi về điều đó. Điều này có phần mâu thuẫn khi một số dòng họ nổi tiếng về khoa bảng như họ Nguyễn ở Kim Đôi, họ Ngô ở Tam Sơn, họ Ngô ở Như Nguyệt từng được nhiều thư tịch cổ đề cập đến về truyền thống khoa bảng ngay từ thế kỷ XV nhưng chính những dòng họ này cũng không có văn bia ghi việc có từ đường để thờ cúng nội tộc vào chính giai đoạn đó.

Việc xây từ đường để thờ cúng tổ tiên do con cháu trong dòng họ đứng ra đảm nhiệm, không có sự can thiệp của người ngoài.

2. Xây dựng các công trình công cộng phục vụ cho đời sống kinh tế của cộng đồng như xây cầu, làm đường, mở chợ...

Việc mở chợ, làm quán chợ, xây cầu, làm đường trong các làng quê Kinh Bắc xuất hiện trong văn bia so với việc xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống tín ngưỡng thật là khiêm tốn. Mặc dù những công việc này đều là chăm lo cho cuộc sống chung của cả cộng đồng. Điều này phải chăng nói lên vai trò của tôn giáo và tín ngưỡng trong sinh hoạt làng xã của người dân Kinh Bắc thời trung đại được họ quan tâm lưu ý hơn các mặt khác của đời sống ? Trong việc tạo dựng các cơ sở hạ tầng tại các làng quê Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII đáng lưu ý là việc xây cầu dựng chợ. Cây cầu cũ được phản ánh qua văn bia là cầu gỗ có mái ngói che theo kiểu thượng gia hạ kiều 上 家 下 橋. Cầu không chỉ là nơi để dân đi qua hai bên bờ sông mà còn là chỗ trú mưa nắng cho người dân mỗi khi qua lại.

Tiếp sau việc xây cầu là việc mở chợ, lập quán chợ. Bia chợ tập trung phần lớn ở thế kỷ XVII, trong đó chủ yếu phản ánh về chợ Tam bảo với qui mô chợ đơn giản : chợ họp trên bãi đất rộng của nhà chùa hoặc gần chùa. Chợ Tam bảo khác với chợ bình thường ở chỗ nó không phải chịu nộp thuế chợ cho các chức dịch địa phương, được tự do buôn bán những sản vật. Tại Kinh Bắc chợ Tam bảo được đặt ở cả huyện miền núi như Kim Hoa, Phượng Nhãn, Yên Dũng và ở các huyện miền xuôi như Đông Ngàn, Gia Định. Điều này nói lên hình thức chợ Tam bảo khá phổ biến ở tất cả mọi nơi. Để được công nhận là chợ Tam bảo, cần có sự can thiệp của phủ Chúa Trịnh, như bia Phúc Nghiêm tự Tam bảo thị tạo năm Thịnh Đức 4 (1656) (chùa Phúc Nghiêm xã Ngọc Lâm huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang) cho biết:

“Khu chợ Phúc Nghiêm thuộc đất Tam bảo của chùa Phúc Nghiêm là chợ của ba xã Mỹ Cầu, Ngọc Lâm và Phụng Công cùng 4 phường khác. Chợ thường bị bọn cai quản, nha môn, ức hiếp thu thuế nặng. Nhờ có quan ở Nội phủ giám là Đô Thái giám Chưởng giám Đô đốc Ninh Quận công Thân tướng công đã tâu xin với Chúa Thanh Vương Trịnh Tráng ban lệnh chỉ cho phép chuẩn làm chợ Tam bảo, được lưu truyền mãi mãi. Cấm các phủ lỵ, quản cơ, nha môn không được thu thuế, không được chiếm đoạt hoặc gây phiền nhiễu để thu thuế chia nhau”.

Ngoài việc tạo chợ Tam bảo, ở Kinh Bắc còn có cả bến đò Tam bảo. Như vậy chúng ta có thể hình dung chợ Tam bảo cũng như bến đò Tam bảo là những địa điểm được tạo dựng trên đất chùa hoặc gần chùa để không phải nộp thuế cho Nhà nước. Sang đến thế kỷ XVIII, nhất là nửa đầu của thế kỷ này thì qui mô chợ đã mở rộng hơn, có quán để thuận tiện cho việc ngồi bán. Bia Dương Quan xã thị bi tạo năm Long Đức 2 (1733) đặt tại xã Dương Quan huyện Bảo Lộc ghi tên người đóng góp tiền của làm 5 gian quán đá ở chợ xã Dương Quan.

3. Hoạt động cộng đồng khác.

- Sự tranh giành ruộng đất và những điều lệ khoán ước của làng xã:

Đây là một nội dung rất hay gặp trong văn bia Việt Nam nói chung, văn bia Kinh Bắc nói riêng. Khi nhu cầu về ruộng đất ngày càng cao thì sự tranh giành càng quyết liệt. Từ đầu thế kỷ XVII đến những năm 70 của thế kỷ XVIII ở Kinh Bắc thường xuyên xảy ra những vụ tranh chấp ruộng đất. Sự tranh chấp này không lớn, thường chỉ nằm trong phạm vi một thôn hoặc một xã. Nhưng về thời gian có khi kéo dài đến vài chục năm mà sự tranh chấp vẫn chưa kết thúc. Văn bia tạo năm Chính Hòa 2 (1681) ở xã Bát Tràng huyện Gia Lâm là một tập hợp các văn bản về việc tranh kiện đất bãi giữa hai xã Đông Cao và Bát Tràng từ năm Thịnh Đức 3 (1655) đến năm Chính Hòa 2 (1681) gồm đơn kiện của xã Bát Tràng, xét xử của quan huyện và phán xét của Chúa Trịnh... Việc xét xử của quan lại các cấp phần nhiều không dựa trên lẽ phải mà dựa vào sức mạnh của đồng tiền, bên nào nhiều tiền hơn thì bên ấy thắng kiện. Vì thế theo kiện là một việc rất tốn kém. Chúng tôi đã thống kê tình hình tranh giành ruộng đất tại Kinh Bắc trong hai thế kỷ XVII, XVIII, kết quả cho thấy: chỉ xảy ra tranh chấp ruộng đất ở những huyện đồng bằng đông dân như huyện Yên Phong, Tiên Du, Quế Dương, Vũ Giang, Gia Lâm.

- Những khó khăn thường xuyên của làng xã về sưu thuế, công dịch:

Tình trạng làng thiếu tiền để nộp sưu thế, quan dịch và những việc chung khác của làng như mất mùa, hạn hán, đói kém, binh dịch... thường xuyên được phản ánh trong văn bia, chủ yếu là văn bia từ thế kỷ XVII, XVIII, và thế kỷ XIX. Hầu như làng nào cũng có văn bia phản ánh về vấn đề này. Điều đó cho thấy người dân trong làng xã phải chịu nhiều nỗi cực khổ, họ luôn phải chịu đựng những diễn biến bất thường trong đời sống làng xã. Để giúp các làng xã trang trải các khoản đóng góp này là các cá nhân có tiền của đã tự nguyện đứng ra góp cho làng một khoản kinh phí có thể là tiền hoặc ruộng, cũng có khi gồm cả tiền và ruộng.Trên thực tế đóng góp do văn bia ghi lại thì chúng tôi thấy sự đóng góp bằng ruộng đất là phổ biến nhất. Tham gia tháo gỡ giúp làng xã các khoản kinh phí là các đối tượng sau: nhiều nhất vẫn là những người dân có chút ít của cải, họ là người địa phương, tuy sinh sống tại bản quán hay ở chỗ khác nhưng khi làng có yêu cầu, họ là lớp người đáp ứng ngay. Sự đóng góp của lớp người này tuy không nhiều bằng các thành phần có chức quyền khác nhưng họ thường xuyên xuất hiện trong các thời kỳ khó khăn của làng xã. Bên cạnh lớp người này là tầng lớp quan chức các cấp và các vị Thái giám. ở một số xã lại có sự can thiệp giúp đỡ từ các cung tần người làng hoặc có quan hệ mật thiết với làng. Họ có thể giúp làng trực tiếp bằng kinh phí nhưng quan trọng hơn cả là họ đã can thiệp tâu xin với Chúa Trịnh ban ra những lệnh chỉ miễn giảm sưu thuế, công dịch cho làng. Và như vậy hiệu lực họ đóng góp cho làng xã cao hơn rất nhiều lần, vì khi có lệnh chỉ của Chúa ban ra thì làng được miễn giảm không phải là một năm mà là kéo dài đến vài chục năm.

Chẳng hạn cung tần Nguyễn Thị Tấu là người xã Nguyễn Xá, huyện Yên Phong, thấy dân xã bị điêu tàn khổ cực vì giặc dã, bà đã lấy lộc dân mà tha thuế cho họ. Dân phải đi binh dịch thì bà để cho họ làm đội theo hầu, giảm bớt vệ binh và chiếu theo số dân trong xã mà loại bỏ bớt 47 suất đinh cho xã... (Bia Kỷ đức bi, năm Cảnh Hưng 39 (1778), xã Nguyễn Xá, huyện Yên Phong).

Những dẫn chứng trên cho thấy vai trò của những người làng có quan hệ mật thiết với Chúa Trịnh đã giúp làng tháo gỡ được rất nhiều khó khăn, và dân làng đã biết tận dụng những quan hệ đó để phục vụ cho lợi ích của cả làng. Như vậy một người làm quan không những cả họ được nhờ mà cả làng cũng được nhờ.

- Vai trò của người phụ nữ trong các hoạt động làng xã:

Trong số 1159 văn bia thời Lê có tại Kinh Bắc thì đã có xấp xỉ một nửa chỉ ghi về những người phụ nữ đã có những đóng góp nhất định cho các làng xã Kinh Bắc trong hơn ba thế kỷ từ giữa thế kỷ XV đến gần cuối thế kỷ XVIII. Tất cả họ dù xuất thân từ tầng lớp thượng lưu trong xã hội bấy giờ như Hoàng hậu, quận Chúa, cung tần, cung phi, vợ con các quan chức đến lớp người là phụ nữ bình dân nhưng đều có chung một việc làm là đã đứng ra giúp làng một số kinh phí gồm ruộng và tiền để các làng giải quyết những khó khăn, như thiếu tiền chi quan dịch, tô thuế, xây đình, sửa chùa, làm các việc công ích v.v. Họ được bình đẳng cùng nam giới trong việc được các quan viên, chức sắc trong làng cùng dân làng cho phép được thờ cúng họ sau vị thần được thờ ở đình hoặc thờ sau Phật tại chùa. Chúng tôi cho rằng đây là một điểm đáng lưu ý trong sinh hoạt làng xã Việt Nam. Bởi vì đình làng được xây dựng để thờ Thành hoàng làng, đình được coi là nơi thâm nghiêm nhất của làng, phụ nữ và trẻ em không được bước chân vào. Thế mà cũng chính tại ngôi đình làng đã có những tấm bia đá ghi nhận sự đóng góp của một hoặc nhiều phụ nữ, họ được cả làng tôn bầu là hậu thần, làng phải thờ cúng họ mãi mãi sau đấng thần linh cao nhất của cả làng. Khi khảo cứu số người được bầu hậu tại đình và chùa thì chúng tôi thấy số người được bầu là hậu Phật chiếm tỷ lệ gấp ba lần số người được bầu là hậu thần. Điều này có thể lý giải, so với chùa thì ngôi đình có tính chất quan phương hơn, thường là không phù hợp với đối tượng phụ nữ thôn quê. Họ thích đến với chùa làng vì cánh cửa chùa rộng mở với tất cả chúng sinh, không phân biệt lớp lang trong xã hội. Đến với chùa họ tìm thấy được sự chia sẻ, an ủi trước những bất trắc của cuộc đời, có thể vì thế mà số phụ nữ được bầu hậu ở chùa nhiều hơn so với ở đình.

Tóm lại, chúng tôi đã trình bày một số vấn đề về văn bia Kinh Bắc thời Lê và những nội dung liên quan đến sinh hoạt làng xã mà văn bia phản ánh. Vì thế khi nghiên cứu về làng xã Việt Nam truyền thống không thể bỏ qua nguồn tư liệu văn bia, bởi đó là những trang sử của các làng được viết và bổ sung từ thế hệ này sang thế hệ khác.

P.T.T.V

CHÚ THÍCH

(1) Hiện trong kho thác bản văn khắc của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ 10363 đơn vị văn khắc (trong đó chủ yếu là văn bia) do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội cho đi in rập từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Ngoài ra còn một số khác mới đi sưu tập trong vài chục năm gần đây. Trong số đó có 5.633 đơn vị văn khắc niên đại nhà Lê (1428 - 1788), thế mà chỉ tính riêng xứ Kinh Bắc đã có 1159 đơn vị văn bia. Tất nhiên đây cũng chưa phải là con số cuối cùng, bởi lẽ trong quá trình tập hợp phân loại văn bia Kinh Bắc, có thể chúng tôi còn chưa bao quát hết địa danh cũ đã thay đổi theo địa danh mới.

(2) Đơn vị văn bia được tính theo một bài văn bia hoàn chỉnh, có từ một đến nhiều mặt, mỗi mặt có 1 ký hiệu thư viện.

(3) Xem Phạm Thị Vinh: Bia các Thái giám triều Lê tại Kinh Bắc, Tạp chí Hán Nôm. Số 1/1996.

TB

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ CẤP HUYỆN Ở NƯỚC TA

NGUYỄN HỮU MÙI

Trong số các di tích của Nho giáo ở nước ta, văn từ(1) cấp huyện được xem như sự phát triển tiếp nối của văn miếu cấp phủ, mà trên nữa là cấp trung ương. Tại các di tích này, trong quá trình tạo dựng và tu sửa, thường có văn bia ghi lại, nhưng giá trị nhất, phải kể đến những tấm văn bia khắc họ tên, quê quán, chức tước của những người địa phương đỗ đạt qua các kỳ thi Hội do các vương triều phong kiến Việt Nam tổ chức, nhằm biểu dương học vấn, khuyến khích nhân tài. Trước đây đã có một số tác giả giới thiệu sơ qua về một số văn bia(2), chưa ai tiến hành điều tra nghiên cứu trên diện rộng để rút ra những giá trị tư liệu do nó cung cấp. Bài viết sau đây, chúng tôi xin đề cập đến vấn đề đó.

1. Số lượng và phân bố

Tính đến nay, theo kết quả điều tra của chúng tôi, hiện trong kho thư tịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) có 19 văn bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện, của các huyện sau đây:

STT Huyện Ký hiệu thác bản
1 An Dương 11251
2 Bảo Lộc 20629
3 Chí Linh 12364
4 Chương Mỹ 31633
5 Điện Bàn 20387
6 Đông Yên 4115
7 Đường An 19780
8 Hoài An 31809
9 Kim Anh 16185
10 Lập Thạch 15503
11 Lương Tài 6388
12 Nghi Dương 41959
13 Phụ Dực 44807
14 Phượng Nhãn 20629
15 Thạch Thất 17954
16 Thanh Hà 11588
17 Thiên Thi 4703
18 Thượng Phúc 8196-8199
19 Yên Lạc 14894
20 Yên Phong 17232

Trong bảng trên, có 1 tấm bia ghi chung tên người đỗ cho 2 huyện (Phượng Nhãn và Bảo Lộc), 18 tấm còn lại ghi riêng cho từng huyện. Trong số 19 tấm, có 16 tấm do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội in dập vào những năm đầu của thế kỷ XX; 3 tấm do VNCHN sưu tầm được trong những năm gần đây. Trừ các huyện Đường An, Hoài An, Phụ Dực và Thượng Phúc đã thay đổi, các huyện khác, về cơ bản vẫn tương đương với những huyện theo địa danh hành chính hiện nay. Căn cứ vào số bia hiện có, thấy những văn bia này tập trung chủ yếu tại các tỉnh thành phía Bắc, thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, vốn là nơi có truyền thống hiếu học và khoa bảng, như tỉnh Hà Tây (4 bia), Hải Dương (3 bia), Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc (mỗi tỉnh 2 bia), Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Nam, Thái Bình (mỗi tỉnh 1 bia). Nét chú ý trong sưu tập lần này ở chỗ: tỉnh có nhiều người đỗ đại khoa nhất như Bắc Ninh(3), nhưng không phải là địa bàn có nhiều văn bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện; và sự xuất hiện của một tấm bia đề danh Tiến sĩ của huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam), vốn là nơi có muộn về truyền thống dựng bia ở nước ta.

2. Hình thức văn bản

Văn từ hàng huyện do các chức sắc trong huyện và mọi người trong Hội Tư văn hàng huyện góp tiền của xây dựng. Nhờ nguồn kinh phí tương đối dồi dào nên việc mua đá khắc bia cũng thuận lợi. Bia đá ở đây có đặc điểm nhỉnh hơn so với văn bia đồng loại ở cấp xã. Bước đầu chúng tôi phân thành 2 loại: loại 1, gồm văn bia của các huyện Yên Phong, Bảo Lộc, Lập Thạch và Thượng Phúc. Loại này có kích cỡ nhỏ, khổ trung bình 0,60 x 0,40m; loại 2, gồm các huyện còn lại), loại này có kích cỡ vượt trội, khổ trung bình 1,20 x 0,70m. Hầu hết các bia có trang trí hoa văn: trán bia chạm hình đôi rồng chầu mặt nguyệt, diềm thân bia và đế bia viền hoa lá. Tiêu đề của bia khắc đậm, đại loại bằng các tên, như Bản huyện tiên hiền bi ký 本 縣 先 賢 碑 記 (Bia ghi tên tiên hiền trong huyện), Đại khoa tiên hiền bi ký 大 科 先 賢 碑 記 (Bia ghi tên tiên hiền đỗ đại khoa) hoặc Thượng Phúc huyện khoa danh bi ký 上 福 縣 科 名 碑 記 (Bia ghi tên các vị khoa danh huyện Thượng Phúc)… Lòng bia khắc toàn bằng chữ Hán, chữ chân phương, dễ đọc. Bản dập qua 2 lần sưu tầm đều có chất lượng tốt.

3. Niên đại lập bia

Văn bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện có niên đại vào loại sớm, xuất hiện từ giữa thế kỷ XVII, thuộc các triều đại Lê - Trịnh và Nguyễn, gắn với sự phát triển chung của văn bia Việt Nam ở giai đoạn này. Đây cũng là giai đoạn mà xã hội Việt Nam có sự ổn định tương đối, chế độ giáo dục khoa cử đang thịnh hành trên phạm vi cả nước. Trong tổng số 19 tấm bia, có 16 tấm ghi niên đại rõ ràng, với triều vua và năm can chi; 3 tấm không ghi niên đại (là bia các huyện Đông Yên, Chí Linh và Phượng Nhãn), tuy nhiên, căn cứ vào chữ Hoa, chữ Hồng viết kiêng húy (4) (5), cũng như phong cách trang trí hoa văn trên bia, có thể biết 3 tấm bia này được khắc vào khoảng giữa thế kỷ 19, hoặc muộn hơn đôi chút. Tạm thời quy niên đại của chúng vào từng nhóm sau đây: 1 tấm dựng vào niên hiệu Thịnh Đức (1653 - 1675); 3 tấm dựng vào niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705); 1 tấm dựng vào niên hiệu Long Đức (1732 - 1735); 1 tấm dựng vào niện hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786); 1 tấm dựng vào niên hiệu Gia Long (1802 - 1819); 3 tấm dựng vào niên hiệu Minh Mệnh (1820 - 1840); 2 tấm dựng vào niên hiệu Thiệu Trị (1841 - 1847); 6 tấm dựng vào niên hiệu Tự Đức (1848 - 1886); 1 tấm dựng vào niên hiệu Thành Thái (1889 - 1907).

4. Tác giả và nguồn tài liệu dùng vào biên soạn

Qua khảo sát dòng lạc khoản, thấy một nửa trong tổng số bia hiện có (tức 9 bia) không ghi tên người soạn. Nhưng xét trong phần bài ký, thì biết tác giả của những tấm bia này là một tập thể, gồm những người trong Hội Tư văn của huyện đứng ra biên soạn. Còn 10 bia, do các vị Tri huyện hoặc Đốc học chấp bút, trong đó có 6 người là Tiến sĩ, 4 người là Cử nhân.

Tài liệu mà các tác giả dùng để biên soạn, vẫn dựa chủ yếu vào sách Đăng khoa lục, sau đó mới bổ sung bằng các nguồn tài liệu khác, đặc biệt là gia phả của các dòng họ có trong huyện. Văn bia của huyện Thượng Phúc do Tiến sĩ Dương Công Độ soạn vào năm Chính Hòa 16 (1695), nói rõ có tham khảo thêm cả văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Quốc tử giám Thăng Long (No8196).

Phương pháp biên soạn của tất cả 19 tấm bia đều theo lịch đại, tức giống phương pháp biên soạn trong sách Đăng khoa lục, với các yếu tố triều vua, năm can chi, thứ bậc đỗ đạt, tên xã, tên người, chức quan… văn bia của huyện Yên Lạc và huyện Đông Yên đặt thêm mục "Bổ di" nhằm không bỏ sót tên người đỗ đạt của địa phương mình.

Từ nguồn tài liệu và phương pháp biên soạn ấy, số người đỗ đại khoa của các huyện ghi trên bia như sau:

STT Huyện Số người đỗ
1 An Dương 7
2 Bảo Lộc 2
3 Chí Linh 51
4 Chương Mỹ 15
5 Điện Bàn 5
6 Đông Yên 36
7 Đường An 108
8 Hoài An 5
9 Kim Anh 17
10 Lập Thạch 23
11 Lương Tài 60
12 Nghi Dương 13
13 Phụ Dực 27
14 Phượng Nhãn 6
15 Thạch Thất 23
16 Thanh Hà 16
17 Thiên Thi 23
18 Thượng Phúc 73
19 Yên Lạc 20
20 Yên Phong 40
Cộng 570

5. Giá trị tư liệu

Qua khâu giám định văn bản, thấy đây là những văn bia có đủ sự tin cậy, chúng tôi tiến hành lập phiếu cho toàn bộ 570 vị đại khoa khắc trên 19 tấm bia, đối chiếu từng vị với những ghi chép trong bộ Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 鼎 契 大 越 歷 朝 登 科 錄 (LTĐKL), mang ký hiệu VHv. 2140/1-3,

lưu trữ tại VNCHN, nhận thấy nó chứa đựng một nguồn tư liệu quí về nhiều mặt. Để tiện theo dõi, chúng tôi sẽ bóc tách thành từng lớp nội dung sau đây:

a. Bổ sung địa danh tên xã cho 7 nhà khoa bảng mà sách LTĐKL còn để trống.

STT Khoa thi LTĐKL Bia đề danh Tiến sĩ
cấp huyện
1 Thái Hòa 6 (1448) Nguyễn Vĩnh Tích: người huyện Thượng Phúc (VHv.2140/1, 6b) Người xã Phương Quế
(No8196)
2 Hồng Đức 6 (1475) Đỗ Chính Lạc: người huyện Đường An (VHv.2140/1, 22a) Người xã Đình Tổ
(No19780)
3 Hồng Đức 12 (1481) Vũ Nguyên Trinh: người huyện Đường An (VHv.2140/1, 27b) Người xã Mộ Trạch
+
4 Hồng Đức 21
(1490)
Bùi Đức Thiệu: người huyện Nghi Dương (VHv.2140/1, 38a) Người xã Du Lễ
(No41959)
5 Hồng Đức 24
(1493)
Đỗ Bảo Chân: người huyện An Dương (VHv.2140/1, 43b) Người xã Minh Kha
(No11251)
6 Cảnh Thống
2 (1499)
Vũ Thận Trinh: người huyện Đường An (VHv.2140/1, 47a) Người xã Mộ Trạch
(No-19780)
7 Hồng Thuận
6 (1514)
Đoàn Quảng Phu: người huyện Đường An (VHv.2140/2, 12b) Người xã Trâu Khê
+

b. Đính chính 3 trường hợp sai sót trong LTĐKL (1 trường hợp khắc lộn tên đệm, 1 trường hợp khắc lộn tên xã, 1 trường hợp khắc nhầm tên người).

TT Khoa thi LTĐKL Bia đề danh Tiến sĩ
cấp huyện
1 Cảnh Thống 2
(1499)
Đỗ An Vĩnh 杜 安 永
(VHv.2140/1,49b)
Đỗ Vĩnh An 杜 永 安
(No17232)
2 Vĩnh Định 1
(1547)
Khuất Nhữ Lộc: người xã Lôi Trạch 雷 澤, huyện Thạch Thất
(VHv.2140/2,35b)
Xã Trạch Lôi 澤 雷
(No 17954)
3 Diên Thành 6
(1580)
Bùi Lượng Cảo 裴 亮 杲
(VHv.2140/2,58b)
Bùi Lượng Thái
裴 亮 釆 (No4937)

c. Đính chính 2 trường hợp khắc nhầm trên bia đề danh Tiến sĩ cấp quốc gia.

82 tấm văn bia đề danh Tiến sĩ dựng tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội là những di vật vô giá, thể hiện cho chính sách trọng dụng nhân tài, khuyến khích việc học của cha ông ta. Gần đây, TS. Nguyễn Thúy Nga cho biết: có 12 tấm bia Tiến sĩ ở Văn miếu Hà Nội được khắc lại vào năm 1863(6). Việc khắc lại này đặt ra vấn đề về văn bản học, trong đó có việc đính chính những sai sót do lần khắc đó tạo ra (chúng tôi mới phát hiện được 2 trường hợp do tự dạng giống nhau nên khắc nhầm).

TT Khoa thi Bia đề danh Tiến sĩ cấp quốc gia (được khắc lại) Bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện Tài liệu hỗ chiếu
1 Hồng Đức 27 (1496) Triệu Nghị Phù 趙 誼 符 (No1310) Triệu Tuyên Phù 趙 宣 符 (No15505) LTĐKL (VHv.2140/1, 45a) và Gia phả dòng họ ở xã Đồng ích huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc đều ghi: Triệu Tuyên Phù
2 Hồng Thuận 3 (1511) Nguyễn Mậu Thuật 阮 茂 述 (No1369) Nguyễn Mậu Đạt 阮 茂 達 (No12364) LTĐKL (VHv.2140/2,11b) Nguyễn Mậu Đạt

d. Cung cấp thông tin về 6 nhà khoa bảng ngoài Đăng khoa lục (3 vị đời Lý, 2 vị đời Trần, 1 vị đời Lê sơ).

TT Họ tên Quê quán Năm đỗ
1 Mạc Kiến Quan
莫 建 官
Người xã Lũng Động, huyện Chí Linh Đỗ đầu khoa thi văn học năm Kỷ Tỵ niên hiệu Quảng Hựu đời Lý (1089) (No12364)
2 Trần Đăng Nguyên
陳 登 元
Người xã Lý Dương, huyện Chí Linh Đỗ đầu khoa thi Thái học sinh niên hiệu Bảo ứng [Chính Long Bảo ứng] đời Lý (1162 - 1173). (No12364)
3 Phạm Đình Lương
范 廷 良
Người xã An Ninh, huyện Chí Linh Đỗ đầu khoa thi ở triều Lý (1010 - 1225) (No1364)
4 Trần Nhữ Thính
陳 汝 聽
Người xã Lý Dương, huyện Chí Linh Đỗ Hoàng giáp niên hiệu Kiến Trung triều Trần (1225 - 1231) (No12364)
5 Nguyễn Tự
阮 緒
Người xã Đông Mật, huyện Hoài An Đỗ Thái học sinh triều Trần (1225 - 1400). (No4703)
6 Trần Khứ
陳 去
Người xã Chi Nê, huyện Chương Mỹ Đỗ đệ nhất danh Chế khoa năm Giáp Thân niên hiệu Quang Thuận thứ 5 (1464). (No31633)

e. Cung cấp thông tin về sự thay đổi địa danh cấp xã cho 48 nhà khoa bảng (tức qui đổi địa danh cũ sang địa danh mới, tính vào thời điểm lập bia).

STT Khoa thi TLĐKL Bia đề danh Tiến sĩ
cấp huyện
1 Đại Bảo 3
(1442)
Khúc Hữu Thành: người xã Thiện Tài, huyện Thiện Tài (VHv.2140/1,5a) Xã Lương Tài (huyện Lương Tài) (No6388)
2 + Trần Đương: người xã Triền Thủy, huyện Đông Yên (VHv.2140/1,5a) Xã Lạc Thủy (No4115)
3 Thái Hòa 6
(1448)
Vũ Đức Lâm: người xã Mộ Trạch, huyện Đường An (VHv.2140/1,8a) Xã Hà Xá (No19780)
4 + Đặng Tuyên: người xã Bình Lăng, huyện Thiên Thi (VHv.2140/1, 7a) Xã Vực Đường (No4703)
5 Thái Hòa 11
(1453)
Trần Cảnh Mô: người xã Triền Thủy, huyện Đông Yên (VHv.2140/1,9b) Xã Lạc Thủy (No4115)
6 Quang Thuận 4
(1463)
Chu Lộc: người xã Phù Vân, huyện Đường An (VHv.2140/1,12a) Xã Lôi Khê (No19780)
7 Quang Thuận 7
(1466)
Đỗ Nhuận: người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa (VHv.2140/1,14b) Xã Kim Anh (No16185)
8 + Hà Nghiễm: người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa (VHv.2140/1,14b) Xã Kim Anh (No16185)
9 + Nguyễn Văn Thông: người xã Xuân Hy, huyện Kim Hoa (VHv.2140/1, 14b) Xã Xuân Phương (No16185)
10 + Nguyễn Truân: người xã Trung Hành, huyện An Dương (VHv2140/1, 15a) Xã Lực Hành (No11251)
11 Hồng Đức 12
(1481)
Nguyễn Tôn Miệt: người xã Xuân Hy huyện Kim Hoa (VHv.2140/1, 27b) Xã Xuân Phương (No16185)
12 Hồng Đức 15
(1484)
Phan Tông Liễn: người xã Lôi Xá huyện Đông Yên (VHv2140/1, 31a) Xã Hương Nguyên (No4115)
13 Hồng Đức 18
(1487)
Đỗ Đạt: người xã Nguyễn Xá huyện Thạch Thất (VHv2140/1, 43b) Thôn Chàng, xã Thạch Xá (No17954)
14 + Đỗ Thuần Tông: người xã Tử Kiều huyện Đông Yên (VHv.2140/1, 36a) Xã Sài Quất (No4115)
15 Hồng Đức 21
(1490)
Bùi Hoàn Khánh: người xã Tuy Lai huyện Đường An (VHv.2140/1, 40b) Xã Bùi Khê (No19780)
16 + Ngô Đạt Nho: người xã Xuân Hy huyện Kim Hoa (VHv.2140/1, 37b) Xã Xuân Phương (No16185)
17 Hồng Đức 24
(1493)
Ngô Kính Thần: người xã Xuân Hy huyện Kim Hoa (VHv.2140/1, 42b) +
18 Cảnh Thống 2
(1499)
Phùng Đốc: người xã Nguyễn Xá huyện Thạch Thất (VHv.2140/1, 48b) Thôn Triền xã Thạch Xá (No17954)
19 Cảnh Thống 5
(1502)
Nguyễn Xuân Lan: người xã Thời Mại huyện Bảo Lộc (VHv.2140/1, 54a) Xã Đức Mại (No20629)
20 Đoan Khánh 4
(1508)
Lê Vĩnh tuy: người xã Yên Ninh huyện Chí Linh (VHv.2140/2, 6a) Xã Yên Đinh (No12364)
21 + Hứa Tam Tỉnh: người xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong (VHv.2140/2, 5a) Xã Như Nguyệt (No17232)
22 Hồng Thuận 3
(1511)
Phạm Nguyên: người xã Triền Đông huyện Đường An (VHv.2140/2, 11a) Xã Lý Đông (No17980)
23 + Nguyễn Mậu Đạt: người xã Yên Ninh huyện Chí Linh (VHv.2140/2, 11b) Xã Yên Đinh (No12364)
24 + Nguyễn Thì Khắc: người xã Lũng Tuyền huyện Lập Thạch (VHv.2140/2, 10b) Xã Lũng Đông (No15503)
25 Thống Nguyên 2
(1523)
Vương Hy Tăng: người xã Bích Khê huyện Đông Yên (VHv.2140/2, 19b) Xã Cốc Đăng (No4115)
26 Minh Đức 3
(1529)
Nguyễn Quang Tán: người xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong (VHv..2140/2, 23b) Xã Như Nguyệt (No17223)
27 Vĩnh Định 1
(1547)
Nguyễn Nhân Kiền: người xã Ông La huyện Phượng Nhãn (VHv.2140/2, 36b) Xã Đức La (No20629)
28 Cảnh Lịch 3
(1550)
Tạ Trọng Mô: người xã Mân Xá huyện Yên Phong ((VHv.2140/2, 38a) Xã Đào Xá (No17232)
29 Quang Bảo 5
(1559)
Đồng Hãng: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv.2140/2, 43b) Xã Lý Dương (No12364)
30 + Nguyễn Văn Đĩnh: người xã Phùng Xá huyện Thạch Thất (VHv2140/2, 44a) Thôn Vĩnh Lộc xã Phùng Xá
(No17954)
31 Thuần Phúc 4
(1565)
Đặng Cơ: người xã Triền Kiều huyện Đông Yên ((VHv.2140/2, 47b) Xã Bình Cầu (No4115)
32 Sùng Khang 3
(1568)
Đồng Đắc: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv.2140/2, 49b) Xã Lý Dương (No12364)
33 Sùng Khang 9
(1574)
Nguyễn Tự Cường: người xã Lan Mạc huyện Yên Lạc (VHv.2140/2, 51b) Xã Yên Mạc (No14894)
34 Sùng Khang 12
(1577)
Đồng Văn Giáo: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv.2140/2, 54a) Xã Lý Dương (No12364)
35 Quang Hưng 3
(1580)
Phùng Khắc Khoan: người xã Phùng Xá huyện Thạch Thất (VHv.2140/2, 55a) Thôn Phùng xã Thạch Xá
(No17954)
36 Hồng Ninh 2
(1592)
Nguyễn Tảo: người xã Thì Mại huyện Bảo Lộc (VHv.2140/2, 62a) Xã Đức Mại (No20629)
37 Quang Hưng 21
(1598)
Nguyễn Khắc Khoan: người xã Yên Khang huyện Yên Phong (VHv.2140/3, 2a) Xã Yên Phụ (No17232)
38 Hoằng Định 6
(1604)
Cấn Văn Nhạ: người xã Lương Xá huyện Yên Sơn (VHv.2140/3, 3b) Xã Trung Hòa (No31633)
39 Hoằng Định 11
(1610)
Nguyễn Tiến Dụng: người xã Nguyễn Xá huyện Yên Phong (VHv.2140/3, 4b) Xã Phong Xá (No17232)
40 Phúc Thái 4
(1646)
Đồng Tồn Trạch: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv.2140/3, 27a) Xã Lý Dương (No12364)
41 Dương Đức 2
(1673)
Bùi Quang Vận: người xã Tiểu Lan huyện Đông Yên (VHv2140/3, 27a) Xã Tiểu Quan (No4115)
42 Vĩnh Trị 5
(1680)
Nguyễn Côn: người xã Nguyễn Xá huyện Thạch Thất (VHv2140/3, 30a) Thôn Chàng xã Thạch Xá
(No17954)
43 Chính Hòa 4
(1683)
Trần Tiến Gián: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv2140/3, 32a) Xã Lý Dương (No12364)
44 Chính Hòa 12
(1691)
Nguyễn Mại: người xã Ninh Xá
huyện Chí Linh (VHv2140/3, 35a)
Xã Ngô Đồng (No12364)
45 + Đồng Đỉnh Do: người xã Triền Dương huyện Chí Linh (VHv2140/3, 35b) Xã Lý Dương (No12364)
46 Vĩnh Thịnh 11
(1715)
Nguyễn Nham: người xã Phùng Xá
huyện Thạch Thất (VHv2140/3, 44a)
Thôn Vĩnh Lộc xã Phùng Xá
(No17954)
47 Vĩnh Khánh 3
(1731)
Nguyễn Thì Lượng: người xã Phùng Xá huyện Thạch Thất (VHv2140/3, 52a) +
48 Long Đức 2
(1733)
Đỗ Thành Doãn: người xã Lan Xuyên huyện Đông Yên (VHv2140/3, 54a) Xã Quan Xuyên (No4115)

5. Một số nhận xét

Khác với văn bia đề danh Tiến sĩ cấp phủ và cấp tỉnh, văn bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện ở nước ta được tạo dựng từ khá sớm, có từ thế kỷ 17, phát triển dần trong các thế kỷ tiếp theo, kết thúc vào những năm đầu của thế kỷ XX, là nét đặc trưng trong hệ thống văn từ cấp huyện ở các tỉnh thành phía Bắc. Việc khắc tên tuổi, quê quán, hành trạng những người địa phương đỗ Tiến sĩ vào bia dựng tại văn từ cấp huyện mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, không chỉ phản ánh tinh thần hiếu học của từng địa phương, mà còn gắn chặt với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài chung cho cả nước. Bước đầu, tuy mới thu thập được 19 tấm văn bia đề danh Tiến sĩ cấp huyện nhưng giá trị tư liệu của nó giúp vào việc nghiên cứu chế độ giáo dục khoa cử đã được khẳng định. Thiết nghĩ đi sâu nghiên cứu vào mảng đề tài này, chắc chắn sẽ còn thu được những kết quả khả quan.

N.H.M

CHÚ THÍCH

(1) Văn từ: Cũng có tên gọi khác là văn chỉ, văn miếu, từ chỉ… đều là nơi thờ Khổng Tử, tứ phối các tiên hiền của Nho giáo. ở đây chúng tôi gọi theo tên thông dụng là văn từ.

(2) Hiện có các bài viết sau đây: Về một bài văn bia của Tiến sĩ Vũ Tông Phan mới được phát hiện của Vũ Băng Tú, in trong Thông báo Hán Nôm học năm 1996. Nxb. KHXH, H. 1997, tr.455 - 461. Bài viết này sau đó đăng lại trên Tạp chí Hán Nôm, số 4.1997, tr.74 - 82. Và bài Góp thêm tư liệu tìm hiểu các nhà khoa bảng Việt Nam qua văn bia đình Đông Linh của Hoàng Nhung in trong Thông báo Hán Nôm học năm 2000. VNCHN xuất bản, H.2001, tr.353-355.

(3) Theo điều tra của chúng tôi trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ chủ biên, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi. Nxb. Văn học, H. 1993) thì tỉnh Bắc Ninh theo địa danh hành chính hiện nay, gồm 8 huyện thị (Gia Bình, Lương Tài, Yên Phong, Tiên Du, Tiên Sơn, Thuận Thành, Quế Võ và thị xã Bắc Ninh) có 402 người đỗ đại khoa, tính từ Lê Văn Thịnh đỗ khoa Minh kinh bác học năm ất Mão (1075) đến Nguyễn Thiện Kế, đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1898).

(4) Chữ Hoa: theo PGS.TS. Ngô Đức Thọ, chữ này kiêng húy bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua Thiệu Trị (1841-1848), được ban hành vào tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 1 (1841). Xem Nghiên cứu chữ húy qua các triều đại. Nxb. Văn hóa H. 1997, tr.141-143.

(5) Chữ Hồng: Cũng theo PGS.TS. Ngô Đức Thọ, chữ này là tên lúc nhỏ của vua Tự Đức (1848-1883), được ban hành vào tháng 10 năm Triệu Trị thứ 7 (1847). Sđd, tr.151-152.

(6) Xem bài: Việc khắc lại 12 bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Hà Nội đăng trong Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 2002, tr.28- 25.

TB

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO: VẤN ĐỀ DỊCH GIẢ VÀ DỊCH BẢN

NGUYỄN ĐĂNG NA

Trong bài Bình Ngô đại cáo (BNĐC): một số vấn đề về văn bản(1) chúng tôi đã trình bày và chứng minh hai luận điểm quan trọng:

1. Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỷ thực lục sách Đại Việt sử ký toàn thư là văn bản có độ tin cậy cao nhất. Tại văn bản này không có câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân” [代 天 行 化 皇 上 若 雲] thậm chí hai chữ “cái văn” [蓋 聞] cũng chẳng hề có. Ngô Sĩ Liên chỉ viết: “Đế đã dẹp yên giặc Ngô, Đại cáo với thiên hạ. Bài văn ấy như sau: Việc nhân nghĩa...”(2)

2. Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” [代 天 行 化] là hiệu của Lê Lợi do các tướng tôn xưng ngài sau chiến thắng Tân Bình, Thuận Hóa năm 1425. Tôn hiệu này tồn tại cho tới khi quân Minh hoàn toàn bại trận năm 1427. Sau đấy Lê Lợi lên ngôi, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Trên cơ sở hai luận điểm trên, trong bài này, chúng tôi giải quyết tiếp vấn đề quan trọng khác: dịch bản và dịch giả BNĐC.

Nếu thống kê đầy đủ có lẽ số bản dịch BNĐC đến nay phải lên tới hàng trăm. Đặc biệt, sau lễ kỉ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, các nhà dù biết chữ Hán uyên thâm hay chỉ biết võ vẽ đều đua nhau “dịch lại” BNĐC. Rồi nào là Tuyển tập, nào là Tổng Tập, nào là các sách Nguyễn Trãi - Thăng Long - Hà Nội, Nguyễn Trãi toàn tập..., mỗi dịch giả đều cố gắng góp thêm trí tuệ của mình với mong muốn làm sao có được bản “thiên cổ hùng văn” hoàn thiện nhất. Song một vấn đề ít được quan tâm là, bản dịch nào ra đời sớm nhất, do ai dịch và bản dịch của ai đang chi phối đông đảo thế hệ bạn đọc ? Tổng kết hai vấn đề đó quả là cần thiết, không chỉ giúp các nhà đang biên soạn sách giáo khoa có chỗ dựa, mà còn chống lại tệ nạn “đạo văn” dưới mọi hình thức hoặc xào xáo các bản dịch của tiền nhân, rồi đề tên mình vào, khi bị bắt quả tang thì vội chối ngay rằng, tôi không biết có bản dịch này, hoặc bản dịch kia không ghi ký hiệu sách, còn bản dịch của tôi có ký hiệu sách hẳn hoi... Đấy cũng là mục đích của bài viết này. Xin bắt đầu bằng vấn đề thứ nhất:

1- Ai là người đầu tiên dịch BNĐC ra chữ quốc ngữ đương đại ?

Theo tư liệu chúng tôi sưu tầm được thì, người đầu tiên dịch BNĐC ra chữ quốc ngữ hiện đại là Trần Trọng Kim. Ông công bố bản dịch này trong sách Sơ học An Nam sử lược do phổ thông giáo khoa thư xã xuất bản năm 1916 tại Sài Gòn. Có lẽ, đây là quyển sách giáo khoa đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ có dạy bài BNĐC. Với tính chất dùng cho cấp “sơ học”, Trần Trọng Kim chủ yếu chỉ lược dịch và ông cũng nói rõ điều đó: “Bình Định vương dẹp xong giặc Minh rồi, bèn làm tờ cáo cho thiên hạ biết. Tờ bá cáo ấy đại lược nói rằng: ...”(3). Tuy dịch theo lối “đại lược”, nhưng bản này đáng được lưu ý vì trước hết, đó là bản dịch đầu tiên và được dùng làm cơ sở cho bản chính thức giảng dạy trong các trường Việt Nam sau này. Hơn nữa, bản lược dịch này, còn là một gợi ý cho các nhà làm sách giáo khoa về cách lựa chọn những đoạn văn quan trọng nhất để dạy cho học sinh nếu như trong chương trình quy định chỉ học trích đoạn BNĐC. Bởi vậy, chúng tôi thấy cần giới thiệu bản dịch này. Dưới đây là toàn văn bản lược dịch:

Việc “nhân nghĩa” cốt ở yên dân, quân “điếu phạt” không gì bằng trừ bạo.

“Nước Đại Việt ta, thật là một nước văn hiến; kể từ Triệu, Đinh, Lý, Trần mấy đời gây dựng ra nước; so với Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi đàng làm đế một phương.

“Mới rồi, chỉ vì họ Hồ cơ cầu; đến nỗi lòng người ta oán nhà Minh nhân dịp hở, thừa thế hại dân; lũ ác rắp mưu gian, đem lòng bán nước. Kiếm cách lừa dối thiên hạ kể nghìn muôn lối gớm ghê; gẫm từ gây việc binh đao đã hai mươi năm tai vạ. Nhân nghĩa vứt đi hết, thế giới đến thế thì thôi ! Thuế má vét cho nhiều, núi sông chẳng còn gì cả ! Thần nhân đều lấy làm giận, trời đất cũng không thể dung !

“Ta đây, phát tích từ núi Lam-sơn, ẩn thân ở chỗ hoang dã. Đau lòng nát ruột, chốc đà mười mấy năm trời, ngậm đắng nuốt cay, nào phải một ngày nay đó ! Đương khi cờ nghĩa mới nổi, chính lúc thế giặc vẫn hăng. Lương chứa Linh - sơn, mấy tuần đã cạn, quân tan Côi - huyện một đứa chẳng còn. Tụ tập mấy lũ lưu dân vác cần câu mà đánh giặc, gắn bó một lòng phụ tử, rót rượu ngọt để khao quân.

“Thành ra: Vì đại nghĩa mà thắng được hung tàn, lấy chí nhân mà thay cho cường bạo, kẻ kia bó tay mà ngồi chịu chết; quân ta không đánh mà giặc phải tan. Bọn tướng giặc đã bị bắt rồi, van lạy xin thương làm phúc; bụng hiếu sinh ta cũng mở rộng, thần vũ chẳng giết làm gì. Kìa Tham tướng Phương Chính, kìa Nội quân Mã Kỳ, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, lúc qua sông mà hãy còn mất vía; nọ Tổng binh Vương Thông, nọ Tham chính Mã ánh, cấp cho mấy nghìn con ngựa, khi về nước mà vẫn còn giật mình. Họ đã sợ chết tham sống mà xin cùng ta giảng hòa: ta lấy toàn quân là hơn mà muốn cùng dân yên nghỉ.

“Cho hay:

“Ba quân đã đến ngày đại định, kỷ niệm công vô địch về sau.

“Bốn bể gây nên cuộc thái bình bá cáo lời duy tân từ đó !”(4)

Với tính chất minh họa cho quyển “sử luợc” dùng để dạy đối tượng “sơ học”, dịch như vậy là đủ.

Xin sang vấn đề thứ hai:

2- Ai là dịch giả bài BNĐC đang được lưu hành trong nhà trường hiện nay ? Vấn đề tuy nhạy cảm và tế nhị nhưng không thể không bàn.

Từ bản dịch đầu tiên của Trần Trọng Kim năm 1916 đến nay, BNĐC có tới hàng trăm bản dịch khác nhau nhưng chung quy có thể chia chúng làm ba loại:

a) Loại thứ nhất do từng tác giả tự dịch và ghi rõ tên tuổi của mình. Loại này chiếm số lượng rất lớn, chẳng hạn các bản Cao Huy Giu trong Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) tập 3 (KHXH, H. 1968, tr.51-55); Văn Tân trong Nguyễn Trãi toàn tập (KHXH, H. in lần 2, 1976, tr.77-82); Lê Văn Uông trong Lam Sơn thực lục (Ty Văn hóa, Thanh Hóa, 1976, tr.256-259): Bùi Hạnh Cẩn trong Nguyễn Trãi Thăng Long Hà Nội (Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 1980, tr.208-214); Hoàng Văn Lâu trong ĐVSNTT bản Chính Hòa 18 (KHXH, H. 1985, tr.284-289); Ngô Linh Ngọc - Mai Quốc Liên trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên tập 2 (Văn học và Trung tâm Quốc học, H. 2001, tr.37-42) v.v và v.v...

b) Loại thứ hai bản mà lâu nay ta vẫn gọi là do Bùi Kỷ dịch hoặc do người đời sau dựa vào bản gọi là của Bùi Kỷ để dịch và hiệu đính lại, như các bản trong Việt Nam Văn học sử yếu (Nha Học chính Đông - Pháp xb. H. 1943, tr.259-262), Văn học10 tập 1 (Nxb. Giáo dục, H. 2002, tr.118-126 ), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (Nxb. Văn hóa, H. 1962, tr.253-260; In lại lần 2, Nxb. Văn học, H. 1976, tr.363-372); Ức trai di tập (KHXH và Mũi Cà Mau xb. 1994, tr.136-145); Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 4 (Nxb. KHXH, H.1995, tr.65-73)...

c) Loại thứ ba, tổng hợp các bản dịch từ trước tới nay và đối chiếu với nguyên văn chữ Hán để sửa chữa, thay đổi, hiệu chỉnh... Số lượng loại này không nhiều, chẳng hạn bài trong Văn học 9 tập 1 (Nxb. Giáo dục, H. 2002, tái bản lần thứ 12, tr.14-23); Trùng san Lam Sơn thực lục (Nxb. KHXH, H. 1992, tr.56-62)...

Tuy chia làm ba loại, nhưng các bản dịch tựu trung bản có hai đặc điểm:

- Thứ nhất, các bản gọi là “tự dịch”, trừ một số rất ít, còn nhìn chung đều chịu ảnh hưởng khá nặng nề của văn bản mà lâu nay ta thường cho là Bùi Kỷ dịch. Xin đưa ra hai ví dụ.

+ Bản Lê Văn Uông dịch:

... “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không đời nào thiếu”...(5)

+ Bản Bùi Hạnh Cẩn dịch:

... “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Đem chí nhân thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh lừng lẫy... ”(6)

- Thứ hai, hệ thống văn bản gọi là của Bùi Kỷ hoặc dựa vào bản gọi là của Bùi Kỷ để dịch và hiệu đính lại..., đã được đưa vào sách giáo khoa chính thức giảng dạy trong nhà trường từ trước đến nay. Bởi vậy, rất nhiều thế hệ thầy cô giáo và học trò thuộc lòng. Vả chăng, loại văn bản này do âm vang hùng tráng, lại đúng với lối văn tứ lục, nên chỉ cần qua một lượt là đã thuộc lòng ngay. Mà các dịch giả sau này đều qua sự đào tạo của nhà trường thì dù muốn hay không khi dịch lại BNĐC, âm hưởng của bản dịch kia từ trong tiềm thức xa xôi thuở cắp sách tới trường trỗi dậy, len lỏi một cách vô thức vào bản dịch mới. Hai đoạn trích trên kia là những minh chứng. Từ đó, ta thấy vị trí của bản dịch mà lâu nay ta vẫn cho là do Bùi Kỷ dịch có vị trí vô cùng quan trọng. Nhưng rồi một câu hỏi được đặt ra: Liệu bài dịch này có phải là của Bùi Kỷ không ? Câu hỏi nghe ra có vẻ giật gân và bất kính. Nhưng khoa học là khoa học. Hơn nữa, sự nhầm lẫn trong khoa học là chuyện không có gì lạ và cũng thường hay xẩy ra. Chỉ có điều, nếu chưa biết thì thôi, còn nếu biết rồi thì không thể không đính chính. Do đó, ta hãy kiểm tra lại hệ thống tư liệu.

Năm 1916, Trần Trọng Kim đã lược dịch BNĐC. Ba năm sau - năm 1919, ông dịch toàn văn và công bố trong Việt Nam sử lược. Năm 1928, Việt Nam sử lược được tái bản. Trong tập 1, từ trang 204 đến trang 213, tác giả dành riêng cho BNĐC với lời giới thiệu: “Bình Định vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết. Tờ BNĐC này bằng Hán văn, là một bản văn chương có có giá trị trong thời Lê”(7). Từ trang 205 đến hết trang 209 là nguyên văn chữ Hán bài BNĐC và tiếp theo là bài dịch (từ trang 210 đến trang 213). Để bạn đọc có tư liệu đối chứng chúng tôi xin in lại toàn văn bài dịch BNĐC của Trần Trọng Kim kể cả các chú thích của ông theo đúng lối viết chính tả thời đó:

“Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nên độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Oa nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa - Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích đủ có minh trưng(8).

Vừa rồi:

Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa tứ ngược(9), bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khoa liễm(10) vét không sơn trạch: Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu. Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim chả. Tàn hại côn trùng thảo mộc, nheo hóc thay ! quan quả điên liên(11). Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà mai đắp đất, chưn tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội, dơ bẩn thay ! nước bể khôn rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Từ đây:

Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang giã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa, nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đòi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông(12), mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả(13). Thế mà trông người người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương(14), thế mà tự ta ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch(15) Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Kinh-sơn lương hết mấy tuần, khi Khôi-huyện quân không một đội. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ - Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan, Phương Chính, Quí An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây - kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông, bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao, ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui, ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người, tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Đến một đứa trẻ ranh như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi, lại sai đồ dút dát như Thành, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm Đinh Mùi tháng chín Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiến sang, Mộc Thãnh từ Vân-nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân, ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong, hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vi thành, hẹn đến rằm tháng mười duyệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm đã mài, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ, Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước. Ghê gớm thay ! sắc phong vân cũng đổi, thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật, quân Mộc Thãnh tan chưng Thăng-trạm chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-cân nước sóng rền rĩ, thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy, các thành cùng khấu, cổi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội, thể lòng trời bất sát, ta mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho giăm trăm chiếc thuyền, ra bến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục, ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chắc chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tôn khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.”

Xin hãy đối chiếu bài này với bài mà lâu nay ta vẫn gọi là bản Bùi Kỷ xem chúng có gì khác nhau ? Rõ ràng, hai bài giống hệt nhau từng dấu chấm dấu phẩy. Thế thì tại sao đang từ Trần Trọng Kim lại bị biến thành Bùi Kỷ ?

Vốn là, năm 1943 khi biên soạn Việt Nam văn học sử yếu Dương Quảng Hàm đã sử dụng lại bản dịch BNĐC từ sách Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ. Nhưng cái chính là, ở cuối bản dịch, Dương Quảng Hàm lại ghi: “Bùi Kỷ dịch. Quốc văn cụ thể (Tân Việt Nam thư xã Hà Nội)”(16). Vì sao Dương Quảng Hàm viết như vậy ? Có lẽ bởi ông hiểu nhầm câu giới thiệu về BNĐC của Bùi Kỷ. Trong Quốc văn cụ thể, Bùi Kỷ dùng bài dịch BNĐC của Trần Trọng Kim với mục đích minh họa cho lý thuyết về văn tứ lục và mở đầu bài dịch, giới thiệu: “Bài này dịch theo bài chữ Nho, ở trong bộ Hoàng Việt văn tuyển”(17). Thực ra, lời giới thiệu ấy là ông Bùi Kỷ nhắc lại ý của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược; bởi trước khi dịch BNĐC, ông Trần Trọng Kim cho in toàn văn bản chữ Hán và giải thích: “tờ BNĐC này làm bằng chữ Hán (...). Nay theo nguyên văn ở trong bộ Hoàng Việt văn tuyển mà chép ra như sau này”(18). Khi nhắc lại ý của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ chẳng ngờ bị người đời sau đó hiểu lầm cho rằng, ông bảo chính ông dịch BNĐC từ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích. Sự hiểu lầm trên kéo dài đã 60 năm ! Nếu không đính chính thì sách giáo khoa còn ghi mãi câu “Bùi Văn Nguyên dịch dựa theo bản dịch của Bùi Kỷ”.

Chúng tôi biết rằng, dù có bớt đi một bài dịch của Bùi Kỷ hoặc có thêm một bài dịch cho Trần Trọng Kim thì cũng chẳng hề làm tăng hoặc giảm uy tín khoa học của hai ông. Râu ai thì trả về cằm người nấy. Tuy nhiên bài viết này dựa trên tư liệu chúng tôi hiện có. Nếu như quý vị độc giả nào, tìm được tư liệu ngược lại thì xin phủ chính cho, chúng tôi vô cùng biết ơn và thành thực xin lỗi bạn đọc.

Trên đây là vấn đề về dịch giả dịch bản. Những vấn đề chữ nghĩa của bài BNĐC chúng tôi sẽ trình bày tiếp trong một bài viết khác.

N.Đ.N

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Đăng Na: Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về văn bản, Tạp chí Hán Nôm, số 4 (53) - 2002, tr.40-44.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập V, KHXH, H. 1993. Nguyên văn đoạn này như sau: “Đế ký bình Ngô, Đại cáo thiên hạ, kì văn viết: Nhân nghĩa chi cử...”.

(3) Trần Trọng Kim: Sơ học An Nam sử lược, Phổ thông giáo khoa thư xã, SG., in lần đầu năm 1916, quyển 2, tr.173.

(4) Trần Trọng Kim: Sđd., tr.173-174.

(5) Lam Sơn thực lục, Ty Văn hóa Thanh Hóa, Sđd., tr.256.

(6) Nguyễn Trãi Thăng Long Hà Nội, Sở Văn hóa - Thông tin, H., Sđd., tr.211.

(7) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Nhà in Vĩnh Thành, 1928.

(8) Minh trưng: chứng cớ rõ ràng.

(9) Tứ ngược: hết sức làm tàn ngược.

(10) Khoa liễm: thuế má.

(11) Quan: người góa vợ; quả: người góa chồng; điên liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.

(12) Dục đông: ý nói muốn về lấy Đông Đô.

(13) Hư tả: cỗ xe để không bên tay trái để đợi người hiền.

(14) Vọng dương: trông ra biển không thấy gì.

(15) Chửng nịch: vớt người chết đuối.

(16) Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Nha Học chính đông - Pháp xb, H., in lần đầu năm 1943, tr.262.

(17) Bùi Kỷ: Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, H., in lần đầu 1932, tr.96.

(18) Trần Trọng kim: Việt Nam sử lược, Sđd., tr.204

TB

ĐỌC SÁCH:
PHẠM THẬN DUẬT TOÀN TẬP (*)

ĐINH XUÂN LÂM

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 115 ngày mất (29-11-1885) của văn thân yêu nước: nhà văn hóa, nhà sử học Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập đã được biên tập xong và kịp thời ra mắt bạn đọc. Có thể khẳng định đây là công trình tập đại thành mọi cố gắng cần cù và kiên nhẫn của con cháu họ Phạm ở Yên Mô (Ninh Bình) hiện sinh sống và làm ăn ở Hà Nội được sự phối hợp cộng tác có kết quả của các giới nghiên cứu sử học, văn học, dân tộc học, ngôn ngữ học, địa lý, kinh tế… suốt trong thời gian nhiều năm qua.

Đầu tiên là cuốn Phạm Thận Duật - Cuộc đời và tác phẩm của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Huyền ra mắt bạn đọc năm 1989 bước đầu giới thiệu tương đối toàn diện nhân vật lịch sử Phạm Thận Duật về các mặt sự nghiệp chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục với tư cách là một văn thân yêu nước chống Pháp, đồng thời là một nhà văn hóa lỗi lạc hồi cuối thế kỷ XIX. Tiếp theo đó là nhiều cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức, nhiều kỷ yếu hội nghị đã được xuất bản, qua đó đã bổ sung nhiều nguồn tư liệu mới, thống nhất ý kiến trong cách nhận định, đánh giá nhân vật lịch sử Phạm Thận Duật.

Phạm Thận Duật toàn tập là một công trình khá đồ sộ, dày 840 trang khổ lớn (16x24cm), ngoài phần Lời giới thiệu và Lời nói đầu về việc biên tập, sách gồm 3 phần lớn.

Phần thứ nhất (Thân thế và sự nghiệp Phạm Thận Duật) gồm hai bài: Bước đầu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Phạm Thận Duật và Niên biểu Phạm Thận Duật (của Phạm Đình Nhân).

Phần thứ hai (các tác phẩm của Phậm Thận Duật) là phần quan trọng nhất của sách đã tập hợp gần như đầy đủ các tác phẩm chính của Phạm Thận Duật:

1. Hưng Hóa ký lược (ký hiệu A.1429 và A.91 ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) lần đầu tiên được dịch trọn bộ tất cả 12 chương, kể cả hai chương XI và XII nói về thổ tự và thổ ngữ (chữ Thái và tiếng Thái), trước kia do điều kiện kỹ thuật ấn loát và dịch thuật nên chưa giới thiệu hết được, nay được đưa vào sách cả phần sao chụp nguyên bản gốc chữ Hán. Bản dịch của Ngô Thế Long.

2. Hà đê tấu tập là một tập hợp các bản tấu của Phạm Thận Duật về công tác đê điều nằm trong 4 sách: Hà đê tấu tập (ký hiệu A.616); Hà đê tấu tử tập (ký hiệu A.619); Hà đê bộ văn tập (ký hiệu A.617) và Điều trần đê chính sự nghi tập (ký hiệu VHv.169/1-2). Bản dịch của Phạm Văn Thắm, Hoàng Lê, Nguyễn Hữu Tưởng.

Riêng bản tấu về vấn đề đắp đê hay bỏ đê do Phạm Thận Duật viết khi đang làm Tuần phủ Bắc Ninh nằm trong Quan Thành văn tập thì vẫn được để nguyên trong Quan Thành văn tập.

3. Vãng sứ Thiên Tân nhật ký có hai bản khác nhau: Bản mang ký hiệu A.1471 với tiêu đề: Vãng sứ Thân Tân nhật ký; và bản mang tên: Kiến Phúc nguyên niên như Thanh nhật trình mang ký hiệu A.929. ở đây là bản dịch của Phạm Văn Thắm căn cứ theo bản mang ký hiệu A.1471 có đối chiếu với bản trên.

4. Quan Thành văn tập (ký hiệu: A.1095) dày 256 trang, tập hợp được 72 câu đối, 16 bài thơ, 42 bài văn. Tất cả những bài văn thơ trên, câu đối trong Quan Thành văn tập đều được đưa vào toàn tập, ngoài ra có bổ sung hai bài thơ văn của Phạm Thận Duật nằm trong Vọng Sơn niên phả và Thơ văn Phạm Thận Nghị.

Tất cả các tác phẩm giới thiệu trên bằng chữ Hán đều được sao quét chụp lại đúng nguyên bản gốc chữ Hán và đặt vào cuối sách giúp bạn đọc và các nhà nghiên cứu tiện đối chiếu với bản dịch. Riêng bộ Quan Thành văn tập vì có xen kẽ một số ít thơ văn của các người khác nên trong khi sao chụp bản gốc đã không tách ra, trong Lời nói đầu soạn giả cũng đã lưu ý bạn đọc về điểm đó.

Đối với mỗi tác phẩm của Phạm Thận Duật, ngoài bản dịch văn bản, trước hay sau mỗi tác phẩm đều có một bài dẫn về văn bản của người dịch, và trừ cuốn Vãng sứ Thiên Tân nhật ký, các bản khác đều kèm theo một bài nghiên cứu đánh giá của một nhà khoa học. Điều đó giúp bạn đọc nắm bắt thuận lợi giá trị của các tác phẩm. Qua các tác phẩm của Phạm Thận Duật, người đọc ngày nay thấy rõ cách làm việc của ông, bằng việc ghi chép cần mẫn và tỉ mỉ đã lưu lại ngày nay bao tri thức quý giá về địa chí, công tác trị thủy, công tác ngoại giao, và ngôn ngữ… Điều đáng làm cho chúng ta ngày nay khâm phục ở ông, đó là một tư duy khoa học sắc sảo, vượt ra ngoài khuôn khổ đào tạo kiểu từ chương khoa cử thời đại tác giả sống, và vì vậy những điều ông ghi chép đánh giá đúng đắn là rất có giá trị cho việc nghiên cứu khoa học hiện tại(1).

Điều cuối cùng cần khẳng định khi đánh giá các tác phẩm của Phạm Thận Duật, đó là từ một tài liệu địa chí như Hưng Hóa ký lược, một tập các bản tấu về công tác đê điều (Hà đê tấu tập), đến một nhật ký chuyến đi công tác nước ngoài (Vãng sứ Thiên Tân nhật ký), hay một tập thơ văn (Quan Thành văn tập), người đọc đều thấy biểu lộ một lòng yêu nước mạnh mẽ, một tình cảm gắn bó với nhân dân, với đồng bào, một tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ được giao, và chính đó là động lực bên trong thúc đẩy Phạm Thận Duật có thể khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành các công trình có giá trị lâu dài. Đó là một bài học lớn đối với chúng ta ngày nay.

Đ. X. L

CHÚ THÍCH:

(*) Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và Văn hóa Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội, 2000.

(1) Chỉ xin nêu một dẫn chứng: một nhà ngôn ngữ học người Pháp Michel Feruis - chuyên nghiên cứu về các dân tộc ít người nước ta đã vô cùng sung sướng khi bắt gặp các bảng giới thiệu chữ Thái miền Tây Bắc nước ta với những chỉ dẫn chi tiết cách đọc và viết, với những nhận xét, so sánh với những chữ Hán Trung Quốc, với cả chữ người Tây dương (Pháp).

TB

CHIẾT TỰ - MỘT PHƯƠNG PHÁP HỌC, NHỚ CHỮ HÁN ĐỘC ĐÁO
CỦA NGƯỜI VIỆT

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

Có lẽ, khi đi học chữ Hán, mấy người không nhắc cho nhau câu:

Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

(Chiết tự chữ đức 德)

Đó là một trong những mẹo nhớ chữ Hán của người xưa thường được gọi là chiết tự.

Chiết tự nảy sinh trên cơ sở nhận thức về hình thể của chữ Hán, cách ghép các bộ, cách bố trí các bộ, các phần của chữ. Trên phương diện nào đó, chiết tự chính là sự vận dụng phân tích chữ Hán một cách linh hoạt sáng tạo. Hơn thế nữa, nó không chỉ dừng lại ở hình thức phân tích chữ Hán thuần túy mà còn chuyển sang địa hạt văn chương và các trò chơi thử tài trí tuệ đầy thú vị và hấp dẫn.

Như chúng ta đã biết, ở chữ Hán luôn có sự kết hợp nổi bật của ba mặt: hình - âm - nghĩa. Và chiết tự trong những chữ Hán đã phát huy đặc điểm cấu trúc ba mặt này để tạo nên nét riêng độc đáo so với chiết tự ở những hệ thống văn tự khác. Chiết tự trong chữ Hán không chỉ chiết về mặt hình thể chữ mà còn liên hệ với cả phương diện âm và nghĩa. Về mặt hình thể, chiết tự dựa trên nguyên tắc phân chữ Hán ra các bộ phận cấu thành của chữ. Về mặt âm, chiết tự sử dụng các tri thức mang tính ngữ âm học như nói lái và phiên thiết. Về mặt nghĩa, chiết tự dựa vào bản chất biểu ý của chữ Hán. Một chữ Hán bất kỳ cũng gồm nhiều nét hay các phần tạo nên. Với chữ độc thể là các nét. Với chữ hợp thể là các bộ phận hợp thành phức tạp hơn về cấu trúc.

Chính nhờ nét riêng độc đáo này, chiết tự trong chữ Hán trở nên đa dạng về hình thức và kiểu loại, phong phú về nghệ thuật ngôn từ. Để dễ nhớ, chiết tự thường được thể hiện dưới dạng thơ hoặc văn vần qua hàng loạt các bài thơ, câu đố chiết tự, rất cuốn hút đối với người học chữ. Những câuchiết tự kiểu như:

Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô.

(Chữ an 安)

đã trở nên quen thuộc với biết bao thế hệ học chữ Hán (đặc biệt là với trẻ nhỏ). Người ta còn dùng câu đố chiết tự để thử tài chữ nghĩa, thử tài suy đoán của nhau. Nhờ đó, chiết tự có điều kiện đi sâu vào trong đời sống Hán học, dần dần trở thành thói quen khi học chữ.

Chiết tự xảy ra với cả ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ Hán, nhưng chủ yếu là ở hai mặt hình nghĩa. Chẳng hạn:

- Đấm một đấm, hai tay ôm quàng
Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ?

- Lại đây anh nói nhỏ em nì
Ấy là chữ mật một khi rõ ràng.

Đấm một đấm hai tay ôm quàng là dáng dấp của bộ miên thuyền chèo là dáng dấp của chữ tất 必, thuyền chèo trên núi, trên chữ sơn 山 có chữ tất 必. Ghép lại chúng ta được chữ mật 密 (bí mật, rậm rạp) (Chiết tự dựa vào hình thể).

Hay như:

Hai người đứng giữa cội cây,
Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao.

Đó là hình chữ lai 來. Chữ lai 來 có hình hai chữ nhân 人 ở hai bên, chữ mộc 木 ở giữa. Thực ra hai chữ nhân 人 này vốn là tượng hình hai cái gai. Lai 來 là tên một loại lúa có gai, sau được dùng với nghĩa là đến. (Chiết tự về mặt hình thể).

Ba xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm.

Đó là chữ oanh 轟. Chữ oanh được viết với ba chữ xa 車 và có nghĩa là "tiếng động của nhiều xe cùng chạy". (Chiết tự về mặt ý nghĩa).

Tây quốc hữu nhân danh viết Phật,
Đông môn vô thảo bất thành "lan".

Câu trên có thể dịch là: "Nước phương Tây có người tên là Phật". Phật Thích Ca là người Tây Trúc (ấn Độ) so với nước ta thì ở phương Tây, chữ Phật được viết với chữ nhân 亻đứng cạnh chữ tây 西 trên chữ quốc 國. Chữ này không thấy có trong các từ điển, tự điển của Trung Quốc (như Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải...) nhưng có mặt trong một số câu đối tại các chùa Việt Nam.

Câu dưới có nghĩa: "Cửa phía Đông không có cỏ không thành lan”. Chữ lan 蘭 (hoa lan) được viết: thảo đầu 艸 (cỏ), ở dưới là chữ lan 闌 (lan can) gồm chữ môn 門 (cánh cửa), bên trong có chữ đông 東 (phương Đông). Trong cách viết chính quy phải thay đông 東 bằng giản 柬 (Chiết tự về mặt ý nghĩa).

Chiết tự về mặt âm đọc trong chữ Hán tiêu biểu nhất là lối phiên thiết phục vụ cho việc chú âm trong các sách học, các tự điển. Nó cũng xuất hiện rải rác trong các câu đố chữ Hán. Ví dụ như:

Con gái mà đứng éo le,
Chồng con chưa có kè kè mang thai.

Đây là câu đố chiết tự chữ thủy 始. Chữ thủy 始 vốn là một chữ hình thanh, có chữ thai 台 chỉ âm, chữ nữ 女 (con gái) nói nghĩa.

Những trường hợp này xuất hiện rất ít và thường thì không chỉ thuần nhất chiết tự về âm đọc mà còn kèm theo cả phần hình thể hoặc ý nghĩa.

Qua những ví dụ chúng tôi vừa dẫn ra trên đây, có thể thấy các câu đố chiết tự này có ý nghĩa không nhỏ đối với việc học nhớ chữ Hán. Dựa vào việc phân tích và mô tả cụ thể, sinh động hình thể chữ Hán, các câu đố chữ Hán đã giúp cho người giải đố có khả năng tái hiện lại những chữ đã học không mấy khó khăn. Đồng thời, nó cũng giống như một bài kiểm tra định kỳ cho người mới học mà việc thuộc lòng đề bài và lời giaỉ là rất dễ dàng (do tính ấn tượng của nó). Chẳng hạn những câu như:

Anh kia tay ngón xuyên tâm.
(Chữ tất 必)

Mặt trời đã xế về chùa.
(Chữ thời 時)

Việc vận dụng các liên tưởng hình ảnh vào hình thể, âm đọc hay ý nghĩa của chữ đã làm cho chiết tự nói chung và chiết tự trong câu đố chữ Hán nói riêng có tính sáng tạo cao. Nhờ đó mà các bộ phận cấu thành chữ Hán trở nên sống động, có hồn.

Trong số 70 câu đố chữ Hán trong kho tàng câu đố Việt Nam mà chúng tôi sưu tập được. có đặc điểm chiết tự khá thú vị. Chẳng hạn:

Dưới đây là một số ví dụ:

- Có tú mà chẳng có tài,
Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngoài đít dê.
(Chữ hy 羲)

- Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập. (Chữ chương 章)

- Đất thì là đất bùn ao,
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay.
Con ai mà đứng ở đây,
Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào.
(Chữ hiếu 孝)

- Một vại mà kê hai chân,
Con dao cái cuốc để gần một bên.
(Chữ tắc 則)

- Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu,
Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu.
(Chữ tỉnh 井)

- Đóng cọc liễn leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo. (Chữ tùy 隨)

- Đêm tàn nguyệt xế về Tây,
Chó sủa canh chầy, trống lại điểm tư.
(Chữ nhiên 然)

- Con dê ăn cỏ đầu non,
Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi.
(Chữ mỹ 美)

- Thương em, anh muốn nên duyên,
Sợ e em có chữ thiên trồi đầu
(Chữ phu 夫)

- Khen cho thằng nhỏ có tài,
Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm.
(Chữ dũng 勇)

- Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề.
(Chữ hảo 好)

- Ruộng kia ai cất lên cao,
Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa trời.
(Chữ tư 思)

- Đất cứng mà cắm sào sâu,
Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào.
(Chữ giáo 教)

- Em là con gái đồng trinh
Chờ người tuổi Tuất gá mình vô em.
(Chữ uy 威)

- Ông thổ vác cây tre, đè bà nhật. (Chữ giả 者)

- Đất sao khéo ở trong cung,
Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ.
(Chữ cương 疆)

- Muốn cho nhị mộc thành lâm
Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày.
(Chữ tự 字)

- Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê,
Thập trên nhất dưới bẻ què lê.
(Chữ pháp 法)

Nhìn chung, các câu đố liên quan đến chiết tự chữ Hán đều dựa vào ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ Hán để "chiết" và "đố" chữ. Chúng tôi đã thống kê được 44 chữ chiết tự về mặt hình thể, 28 chữ chiết tự về mặt ý nghĩa, và chỉ có một trường hợp được chiết tự về mặt âm đọc (chữ thủy 始) trên tổng số 73 chữ được sưu tập. Như thế, chiết tự về hình thể chiếm số lượng nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là việc nhận biết và nhớ hình thể chữ Hán luôn là yêu cầu đầu tiên đối với người học chữ Hán. Hai bảng thống kê 72 chữ chiết tự về mặt hình thể và ý nghĩa sẽ được chúng tôi để ở phần Phụ lục.

Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt hình thể chiếm khá cao, 60% (44 chữ trong tổng số 73 chữ được chiết tự). Trong khi đó, tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt ý nghĩa là 38% (28 chữ trên tổng số 73 chữ được chiết tự). Chỉ có 2% còn lại là số chữ được chiết tự về mặt âm đọc. Điều này chứng tỏ khi đem các chữ Hán ra chiết tự, người ta thường chú trọng đến hình thể chữ. Bằng cách chú ý đến hình thể, chiết tự sẽ giúp cho người mới học dễ dàng tưởng tượng và hình dung ra các chữ Hán cồng kềnh, nhiều nét mà họ đã học. Tất nhiên, không ít trường hợp chiết tự đã áp dụng vào tục tự, biệt tự.

Phép phân tích chữ Hán được áp dụng chủ yếu trên cơ sở phân tích các thiên bàng tổ hợp nên hợp thể tự. Các thiên bàng này cũng là những độc thể tự. Tuy nhiên, ở nhiều trường hợp chiết tự, phép phân tích này còn được tiến hành trên cả độc thể tự qua phương thức mô tả từng bộ phận của chữ. Điều đó rất phù hợp với điều kiện truyền thống, khi chiết tự được thực hiện trên cơ sở phân tích hình thể chữ Hán.

Tỉ lệ chữ độc thể hợp thể được đưa ra chiết tự trong các câu đó cũng không giống nhau. Trong đó, chữ độc thể được đưa ra chiết tự chiếm tỉ lệ thấp, chỉ khoảng 29% (21 chữ trên tổng số 73 chữ được chiết tự). Trong 70% còn lại là chữ hợp thể thì chữ hội ý chiếm đa số.

So sánh hai bảng thống kê, chúng tôi còn thu được những kết quả rất khác nhau về tỉ lệ chữ độc thể. Tỉ lệ chữ độc thể ở bảng 1 cao gấp 2 lần tỉ lệ chữ độc thể ở bảng 2 (36% so với 18%). Kết quả ấy chứng tỏ khi chiết tự, những chữ độc thể chủ yếu áp dụng phương thức tả chữ.

Cũng qua hai bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy các chữ Hán được chiết tự đều là những chữ thông dụng, thường dùng trong đời sống hàng ngày qua hệ thống tiếng Hán - Việt của chúng ta. Ví dụ như các chữ thánh 聖, vương 王, thủy 始, tử 子, an 安, điền 田, pháp 法... Vì vậy, tìm hiểu chiết tự còn rất tiện ích cho việc phổ cập tri thức về chữ Hán trong trường phổ thông, giúp người Việt thông hiểu hơn tiếng nói của mình.

Như vậy, từ những ưu điểm đã phân tích ở trên của chiết tự, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa: chiết tự là một phương pháp học, nhớ chữ Hán độc đáo của người Việt. Đồng thời qua những câu đố chiết tự này có thể tạo sự hứng thú cho việc học, nhớ chữ Hán.

PHỤ LỤC:

Bảng 1: Các chữ được chiết tự về mặt hình thể

STT Âm đọc Chữ Hán Nghĩa
1 An Yên ổn
2 Bát Tám
3 Bất Không
4 Chấn Nhấc lên
5 Chủ Vua chúa
6 Chương Văn chương
7 Dũng Mạnh
8 Ta
9 Điền Ruộng
10 Đoan Đầu mối
11 Đức Đạo đức
12 Giả Trợ từ
13 Giáo Dạy
14 Hán Sông Hán
15 Hầu Chờ chực
16 Hiếu Hiếu thảo
17 Hiểu Buổi sớm
18 Hương Hơi thơm
19 Hy Hơi, khí mây
20 Kỳ Đại từ
21 Lai Đến, lúa lai
22 Mật Rậm, bí mật
23 Nghĩa Nghĩa
24 Niên Năm
25 Pháp Phép
26 Phi Chẳng
27 Phối Phối, sánh
28 Phu Chồng
29 Phú Giàu có
30 Quy Con rùa
31 Sắc Sắc lệnh
32 Tâm Tấm lòng
33 Tất ắt
34 Tắc Thì (liên từ)
35 Thập Mười
36 Thất Mất
37 Thỉnh Xin, hỏi
38 Thụ Nhận
39 Thuỷ Nước
40 Tỉnh Giếng
41 Triêu Buổi sớm
42 Tuỳ Theo, nhà Tùy
43 Nghĩ
44 Tự Chữ

Bảng 2: Các chữ được chiết tự về mặt ý nghĩa

STT Âm đọc Chữ Hán Nghĩa
1 ám U tối
2 Bảo Giữ gìn
3 Cương Ranh giới
4 Hảo Tốt đẹp
5 Hoặc Hoặc giả
6 Khâm Kính
7 Lan Lan can
8 Lan Hoa lan
9 Luật Luật phép
10 Luỹ Bờ lũy
11 Mỹ Đẹp
12 Nhất Một
13 Nhiên Đốt cháy
14 Như Bằng, ví như
15 Oanh ầm ĩ
16 Phật Phật
17 Phụng Vâng, dâng
18 Thánh Tột bậc
19 Thiên Trời
20 Thời Lúc, khi
21 Thủy Bắt đầu
22 Tứ Bốn
23 Tình Tình
24 Tốt Quân lính
25 Tử Con
26 Uy Oai
27 Vương Vua
28 Xuân Mùa xuân

N.T H

TB

CÁC THUẬT NGỮ “CHƯỞNG”, “TRI”, “KIÊM”, “THỰ”, “HÀNH”, “QUYỀN" TRONG CHỨC QUAN THỜI XƯA

Chưởng 掌: chỉ người có chức quan cao quý nắm nha môn thấp như Trung quân Đô đốc phủ chưởng phủ sự Thái bảo Lân Quốc công, hoặc Binh bộ Thượng thư chưởng bộ sự, Thái bảo Kiến Dương bá…

Tri 知: lấy quan chức của cùng nha môn đảm nhậm thêm việc của nha môn sở thuộc, tức là quan bản nha coi việc thuộc quyền mình gọi là tri, chẳng hạn Hộ bộ Tả thị lang tri Độ chi Thanh lại ty (Thanh Lại ty thuộc bộ Hộ); hoặc Quân khí doanh tạo sở sứ tri Đan tác tượng,…

Kiêm 兼: lấy chức này kiêm nhiệm chức khác bất kể cao thấp, một lúc đảm nhận hai việc, như Binh bộ Tả thị lang kiêm Quốc tử giám Tế tửu (chức quan cao kiêm nhiệm thêm chức thấp), hoặc Tả Xuân phường Tả thứ tử kiêm Hộ bộ Thượng thư (chức quan thấp kiêm nhiệm chức quan cao).

Thự 署: chỉ vị quan có phẩm hàm thấp mà tạm đảm nhận việc bản nha, gọi là thự, như Hàn lâm viện Thị độc thự Hàn lâm viện sự; hoặc chức quan thấp tạm thời đảm nhận chức vị cao như Ngự dụng giám thự Giám sự.

Hành 行 : người có chức vụ cao đảm nhận công việc của phẩm hàm thấp, như Hàn lâm viện Thừa chỉ Vũ Vĩnh Trinh hành Hải Tây đạo Tuyên chánh sứ ty Tham tri, năm 1464 (Đại Việt sử kí toàn thư, Bản Chính Hòa, Bản dịch, 1998, tập 3, tr.196); hoặc trên là hàm tản quan dưới lại là chức quan như Anh liệt tướng quân, Tổng tri của một vệ…

Quyền 權 : phẩm trật thấp nhưng quyền (có quyền hạn) chức vị cao, như Hàn lâm viện Thừa chỉ quyền Hộ bộ Hữu thị lang Nguyễn Tư Đạo năm 1464 (Đại Việt sử kí toàn thư, tập 3, tr.197); hoặc trên chỉ có chức quan, dưới mang hàm tản quan, như Kinh Bắc đạo Giám sát Ngự sử (chức quan) Tiến công thứ lang (tản quan), Kiến Huân vệ Tráng phong trung sở quản lãnh (chức quan) Phấn lực tướng quân (tản quan).

(Theo Quan chế điển lệ 官 制 典 例 , A.56/1, tờ 5a)
Đinh Khắc Thuân sưu tầm, chú giải.