|
NHỮNG VẤN ĐỀ BỨC XÚC TRONG NGHIÊN CỨU CÁC LOẠI PHẢ HÁN NÔM
TRẦN LÊ SANG
Như nhiều người đã biết, hiện nay trong các thư viện và trong nhân dân còn lưu giữ được khá nhiều các loại phả chép bằng văn tự cổ, tức chép bằng chữ Hán, chữ Nôm; trong các bản chép bằng chữ Nôm, có chữ Nôm phổ thông, có chữ Nôm của các dân tộc ít người. Việc tìm hiểu các loại phả Hán Nôm xưa nay cũng đã có người lưu ý đến nhưng quả thực nói đến việc nghiên cứu thì làm chưa được mấy, chưa có sự nghiên cứu tổng hợp về các loại phả và cũng chưa có những đề tài nghiên cứu với tính chất là đề tài khoa học của phả học.
Dưới đường lối của Đảng về phương diện phát huy tinh hoa di sản văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu chung của xã hội, Trung tâm Phả học đã được Viện Nghiên cứu Hán Nôm thành lập. Đây là cơ sở nghiên cứu đầu tiên của chuyên ngành phả học nước ta; về thực tiễn và chương trình nghiên cứu của tổ chức chuyên ngành phả học trên cả hai phương diện là nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng đã khởi động tiến hành nhưng chắc chắn các đề tài nghiên cứu sẽ không phải là dễ dàng trong tiến trình thực hiện, nếu không có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành và của mọi người.
*
**
Trung tâm Phả học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các loại phả, trước hết là phả Hán Nôm. Theo chỗ chúng tôi biết, trong các loại phả chép bằng chữ Hán, chữ Nôm; có các loại phả chính như Thần phả 神 譜, Thần tích 神 蹟, Ngọc phả 玉 譜, Ngọc điệp 玉 牒, Bảo điệp 寶 牒, Hương phả 鄉 譜, Gia phả 家 譜; ngoài ra còn có Văn phả 文 譜, Phú phả 賦 譜, Thi phả 詩 譜, Đồ phả 圖 譜, Ca phả 歌 譜, Cầm phả 琴 譜, Cầm ca phả 琴 歌 譜, Kỳ phả 棋 譜, Cổ tiền phả 古 錢 譜... Chúng ta có thể khảo sát thêm một chút về các loại phả nói trên.
Thần phả
Thần phả có bản chép là thần tích hoặc ngọc phả, chúng ta có thể lấy vài bộ sách làm ví dụ. Về thần phả, có Nam Hải tứ vị Thánh nương phả lục 南 海 四 位 聖 娘 譜 錄 Nam quốc lịch đại thế thứ niên biểu thần phả 南 國 歷 代 世 次 年 表 神 譜; về Thần tích, có Ninh Bình tỉnh Gia Viễn phủ Lê Xá tổng Trà Đính xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 府 黎 舍 總 茶 頂 社 神蹟, Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Cát Xuyên tổng An Đạo xã thần tích 南 定 省 春 長 府 葛 川 總 安 道 社 神蹟; về ngọc phả có Hùng Vương sự tích Ngọc phả cổ truyền 雄 王 事 蹟 玉 譜 古 傳, Đinh Thánh Mẫu Ngọc phả 丁 聖 母 玉 譜 ...
Theo sưu tầm của sách Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã (1) thì trong gần hai mươi tỉnh từ Nghệ An trở ra, hiện biết được có 2821 bản thần phả Hán Nôm. Như vậy từ Hà Tĩnh trở vào thì sao? Ngay việc sưu tầm thần phả, chúng ta vẫn đang làm dở dang, còn việc nghiên cứu lại càng chưa sâu. Theo chúng tôi, thần phả mang đặc thù của dân tộc Việt, kể cả về cách gọi lẫn nội dung. Trong chữ Hán, chỉ có từ ngọc điệp chứ không có thần phả, thần tích. Ngọc điệp trong Hán văn cũng chỉ dùng để chỉ các thẻ tre làm bùa đem đốt tế trời, hoặc để chỉ phả hệ vua chúa, để chỉ các bản chú thích kinh điển Đạo giáo chứ không phải là các văn bản chép về sự tích các vị thần. Việc thờ các vị thần được chép trong thần tích, thần phả, ngọc điệp của người Việt cũng có nét riêng biệt, hai chữ Thành hoàng 城 隍 có trong lễ tế của người Hán, nhưng chỉ tế thần trong thành; còn người Việt thờ Thành hoàng ở đình, đình thờ có khắp các làng xã... Với các bộ thần phả mà chúng tôi đã được xem, phần lớn đều là sự tích của những vị có công với dân, với nước. Đến như bộ ngọc phả nhan đề Cao tăng Thiền sư Ngọc phả cổ truyện lại cho biết mười bảy xã ở huyện Yên Lạc, Thanh Hóa thờ Thành hoàng vốn là một vị Cao tăng có công giúp vua Hùng đánh giặc. Các vị Thủy thần, Sơn thần, Xà thần... được thờ và có thần phả cũng đều là những vị đầy công đức hộ quốc tí dân. Vấn đề thần quyền ở mảng thần phả, quả là vấn đề đang nóng lòng chờ đợi sự nghiên cứu sâu của các nhà Phả học. Về một số phương diện khác như Sử học, Tôn giáo, Dân tộc học, Địa lý.., Thần phả cũng là những tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu.
Riêng về văn bản, các bản thần phả đang được lưu giữ có một số vấn đề cũng cần được quan tâm hơn. Chúng ta thấy có không ít bản thần phả ghi Nguyễn Bính soạn, Nguyễn Hiền sao. Nguyễn Bính sinh mất năm nào? Sự nghiệp ra sao đều chưa rõ. Trong các bản thần phả đề ông soạn, có bản đề đời Hồng Đức (thế kỷ XV), có bản đề đời Hồng Phúc (cuối thế kỷ XVI). Nguyễn Hiền sinh mất năm nào cũng chưa rõ, nhưng trong các bản thần phả đề ông sao chép, thấy chua rõ là quan Lễ bộ Thượng thư, sao vào các năm đầu thời Vĩnh Hựu (đầu thế kỷ XVIII). Khi tra cứu cổ thư tịch, chúng ta không tìm thấy có vị nào là Nguyễn Hiền làm Lễ bộ Thượng thư ở thời Vĩnh Hựu. Nhưng nhà học giả Trần Văn Giáp khi khảo về tác giả bộ Việt điện u linh 越 甸 幽 靈 ở phần Bổ tục 補 續 ( Tục tập 續 集) lại cho biết, có một vị là “Nguyễn Văn Hiền làm quan ở bộ phận Bách thần, coi việc sao chép thần sắc, thần tích, ông sống vào khoảng thế kỷ XVIII, tên ông hay đi đôi với tên Nguyễn Bính. Bản Trưng Vương Công thần Tướng công Đại vương Ngọc phả lục có ghi rõ Nguyễn Bính soạn và Quản giám Bách thần Thiếu khanh Tri điện, Hùng Lĩnh Nguyễn Văn Hiền phụng sao”(2). Về Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền, cho đến nay, chúng ta mới chỉ biết được như vậy. Còn các bản thần phả đề tên hai ông soạn và sao chép liệu có đúng cả không hay vẫn có các bản giả cổ được làm vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ? Điều này cùng nhiều điều khác về văn bản thần phả, người nghiên cứu còn phải bỏ công thêm. Ở Đền Hùng hiện có bản thần phả chữ Hán, 53 trang. Trang bìa đề Hùng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền 雄 圖 十 八 葉 聖 王 玉 譜 古 傳. Mở đầu sách lại đề Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền 古 粵 雄 氏 一 十 八 世 聖 王 玉 譜 古 傳. Trang cuối ghi Hồng Đức nguyên niên Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán. Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn 洪 德 元 年 壬 辰 春 三 月 榖 旦, 翰 林 院 直 學 士 阮 固 奉 撰. Sau trang 2, đề giữa trang: Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính 皇 朝 弘 定 元 年 庚 子 冬 十 月 吉 日, 翰 林 侍 講 阮 仲 重 訂; bên trái đề Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao 禮 番 黎 廷 歡 承 抄; bên phải đề Sao bản lưu tại Quan Lang phụ đạo Hùng Vương tôn điệt phụ truyền tử kế Hưng Nghĩa Cương Xã trưởng Tạo lệ quan Trung Nghĩa hương giám thủ 抄 本 留 在 官 郎 輔 道 雄 王 孫 侄 父 傳 子 繼 興 義 崗 社 長 皂 隸 觀 忠 義 鄉 監 守. Qua các dòng ghi chú ấy, chúng ta thấy bộ Ngọc phả cổ truyền về 18 đời vua Hùng có ở Đền Hùng vốn do Nguyễn Cố làm chức Trực học sĩ Viện Hàn lâm soạn vào năm đầu đời Hồng Đức (1470), sau được Nguyễn Trọng làm chức Thị độc Viện Hàn lâm sửa sang lại vào năm đầu đời Hoằng Định (1601). Bản hiện nay là bản sao vốn được lưu giữ ở hương Trung Nghĩa, xã Nghĩa Cương (nay là xã Tiên Kiên). Nguyễn Cố, tác giả của bộ Ngọc phả quý này là ai, về quê quán, năm sinh năm mất, sự nghiệp của ông ra sao, chúng ta chưa rõ lắm. Về văn bản cũng có không ít chỗ phải khảo xét thêm. Đền Hùng là chốn thiêng liêng, là nơi trăm họ hướng về; mọi di vật phải được bảo quản cẩn thận, mọi hoạt động văn hóa mới ở nơi này phải được suy xét khoa học, nghiêm túc, mọi sơ sẩy đều là có tội. Qua hàng trăm năm nay, Đền Hùng vẫn được các đời trùng tu, thần phả được trùng đính. Mong muốn của mọi người là nơi này sẽ còn được sửa sang thêm, thần phả nên được trùng bổ cho xứng với chốn thiêng liêng này. Hiện nay, số thần phả chúng ta sưu tầm được tất nhiên đã phong phú hơn nhiều so với sự ghi chép trong bộ Đại Nam thần lục(3) nhưng cũng chỉ mới hạn chế ở một số tỉnh ở miền Bắc. Năm 2000, chúng tôi có vào Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh khác để tìm hiểu về các loại phả, riêng thần phả không thấy mấy, thần phả của các dân tộc ít người càng chưa được lưu ý sưu tầm. Vậy về việc này, chúng ta phải tính sao đây? Với nhiều lý do, số thần phả chúng ta đã sưu tầm được cũng có nhiều bản viết còn sơ lược, nhưng lượng thần phả này là một di sản quý. Qua thần phả, chúng ta hình dung được cuộc đấu tranh giành độc lập ở phương diện thần quyền của dân tộc, ngoài ra còn giúp chúng ta tìm hiểu ở nhiều lĩnh vực khác. Đặc biệt, qua các bản thần phả, chúng ta biết được ngày tháng của lễ hội ở các nơi, trong một số bản thần phả còn chép cả nguồn gốc, nghi lễ, vật tế... mang tính chất riêng của lễ hội ấy.
Nói chung, thần phả mang đậm nét văn hóa, giới Phả học tất phải nghiên cứu để biết, sau nữa để trùng bổ, phát huy phần tinh hoa. Với gia phả cũng vậy, đó là phần mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Gia phả
Gia phả là tên gọi chung cho loại sách chép về sự hình thành và phát triển của một dòng họ, thường được xếp vào loại sách phả lục, phả ký. Trong thực tế, loại sách này có tên gọi khá phong phú. Có khi gọi là gia phả, như Hà môn gia phả(4), Đa Sĩ Lê tộc gia phả; có khi gọi là gia kê, như Đàm thị gia kê, Nghiêm tính gia kê; có khi gọi là tộc phả, như Đinh gia tộc phả, Lương gia tộc phả; có khi gọi là tông phả, như Phan gia tông phả, Thọ Xương Nguyễn Thị tông phả; có khi gọi là thế phả, như Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, Mộ Trạch thế phả; có khi gọi là phả ký, như Hồ gia hợp tộc phả ký, Đặng gia phả ký; v.v...
Trong số gần 300 bộ gia phả mà chúng tôi biết, có thể chia làm hai loại lớn. Đó là Quan phả và Tư phả. Quan phả là phả do cá nhân hoặc cơ quan chịu trách nhiệm trước nhà nước mà soạn; Tư phả là phả được soạn theo yêu cầu riêng. Ở nước ta, quan phả có tương đối sớm. Nhà học giả Phan Huy Chú (1782 - 1840) trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí, xếp phả điệp vào loại Hiến chương và ở ngay mục đầu của loại này đã chép về bộ Lý triều ngọc điệp, soạn thời Lý Thái Tổ năm thứ 17 (1026), chép Phả nhà Lý. Thời Trần Thánh Tông thứ 10 (1267), nhà vua lại cho soạn Hoàng tông ngọc điệp nhằm làm rõ quan hệ tông thất để phong ấm. Thời Trần Nghệ Tông (1320 - 1373), Hồ Tông Thốc soạn bộ Việt Nam thế phả chép thế phả 18 đời họ Hồng Bàng, chép thế phả họ Triệu. Bộ sách này nay không còn, nhưng còn bài tựa của người soạn. Mở đầu bài tựa có câu: “Sách chép về thế phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn...” (xem Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí). Bộ Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục do Hồ Sĩ Dương và Đặng Công Chất ở Sử quán soạn năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676), chép phả nhà Lê từ vua Lê Trang Tông đến vua Lê Hy Tông. Một số bộ phả khác, như Cố Lê danh thần phả (A.160), Đại Việt lịch đại Hoàng átriều Ngự chế Ngọc điệp thế hệ phả ký (A.273), Hoàng triều bảo điệp (A.1326), Trần triều ngọc phả (VHv.1064/1-3), Lê Hoàng ngọc phả (A.678), Lê triều ngọc phả (VNv.241), Trịnh Vương phả ký (A.676) v.v... đều thuộc loại quan phả. Ở nước ta, quan phả là những tư liệu rất gần với Quốc sử, song với thể loại phả, loại phả này được viết tương đối thoải mái, tư liệu phong phú, tỉ mỉ, có công năng đa dạng. Nhưng quan phả chủ yếu do quan chức viết theo yêu cầu của triều đình, bởi vậy mục đích cũng không ngoài việc phục vụ nhiều mặt cho quý tộc đương thời.
Tư phả là phả viết do yêu cầu tìm về cội nguồn của bản tông tộc. Tư phả ở nước ta ra đời muộn hơn Quan phả, nhưng nhanh chóng phát triển. Nay chúng ta nói đến gia phả, chủ yếu nói về tư phả. Trong sách Kiến văn tiểu lục, Thể lệ thượng, nhà học giả Lê Quý Đôn (1726 - 1784) cho biết, ông đã được xem bộ gia phả của Chiêu Huân Công ở đầu thế kỷ XV, đến thế kỷ XVI, XVII thì Tư phả đã rất phổ biến; sang thế kỷ XVIII, XIX đã có những bộ Tư phả lớn. Trong đó đáng lưu ý có bộ Văn Xá Lê tộc thế phả chép phả họ nhà y học nổi tiếng là Lãn Ông Lê Hữu Trác; bộ Phan tộc công phả chép phả họ Phan Huy có những nhân vật rất nổi tiếng như Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Chú, v.v... ; bộ Thanh Oai Ngô Gia thế phả chép phả họ Ngô có các danh nhân như Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm; v.v...; bộ Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả có các danh nhân như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du; bộ Thanh Trì Bùi Thị gia phả chép về danh nhân Bùi Huy Bích; v.v... Nếu xét với ý nghĩa rộng, những bộ viết về lịch đại truyền đăng ở Phật giáo, về lịch trình họ đạo Công giáo ở nước ta, cũng có thể xếp vào loại tư phả. Tư phả rõ ràng là một mảng di sản văn hóa Hán Nôm mà chúng ta cần nghiên cứu nghiêm túc. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, các bộ tư phả ra đời sớm thường viết đơn giản, chủ yếu là chép tộc hệ, ngày tháng năm sinh, mất; mồ mả, nhà thờ; ruộng tế; càng về sau, việc ghi chép càng đa dạng, phong phú. Đại thể một bộ phả nghiêm túc thường có mấy phần như sau: 1. Bài Tựa. 2. Bài Lệ. 3. Thế thứ dòng họ. 4. Từ đường. 5. Phụ lục. Tùy theo bộ phả viết theo bậc Đại tông, Trung tông hay Tiểu tông mà có nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhưng nói chung, bài Tựa thường do người soạn phả tự viết, các câu mở đầu thường là: "Nước có Quốc sử, nhà có Gia phả, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, con cháu phải nhớ cội nguồn, quang tiền dụ hậu, vậy nên...". Bài Lệ viết về quy cách viết của bộ phả, thường là nói đến việc "Phàm đời xa, đời sơ thì lược; đời gần, đời thân chép rõ" rồi liệt những điều cụ thể mà cuốn phả viết. Thế thứ của dòng họ lớn thì viết theo thứ tự Viễn tổ - Đồng bối. Ở các hệ, có viết các tỷ - mẫu, bá thúc, huynh đệ, tỷ muội...; với những người đỗ đạt làm quan thì chép rõ hơn, có khi chép cả sắc phong, câu đối, thơ ca, gia huấn, biệt tài...; đặc biệt, biên chép rõ giờ, ngày, tháng năm sinh - mất; mộ táng, địa điểm. Phần từ đường chép về các nhà thờ trong họ, việc dựng, và trùng tu, địa điểm, hoành phi, câu đối; một vài cuốn phả có kèm bản vẽ. Phần phụ lục thường kèm phả đồ. Có một vài bộ phả, cuối sách để mấy trang giấy trắng, ý là con cháu trong họ còn phát triển dài lâu, mấy trang đó giành để chép tiếp, gọi là Dư khánh lục. Nhà học giả Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), ở thiên Lệ chép gia phả trong sách Tùy bút lục cho biết, có nhiều cách chép gia phả. Thời cổ chép phả xuôi theo các đời như chính sử chép theo niên biểu. Sau lại có cách viết từ dưới viết ngược lên, hỗ trợ cho văn viết có bản đồ, cái đó gọi là Khánh hệ phả và Khánh hệ đồ. Có thể chép kĩ chi chính, chép lược chi thứ, nhưng cũng có thể chép kĩ cả chi thứ để dễ đối chiếu các đời. Từ Cao tổ trở lên không chép các đời, từ Cao tổ trở xuống thì chép số đời, bởi "tang phục đến đời chút thì thôi", vì vậy phải gọi tên theo số đời. Trong phả được chép tên húy, bởi theo Kinh Lễ, viết phả cho phép không kị húy. Nếu quên húy thì chép tên tự, quên tự thì chép tên thứ bậc, quên cả thứ bậc thì bỏ trống. Phả cần chép ngày sinh để biết trước sau, chép ngày mất để làm giỗ. Có khoa bảng, quan chức thì chép rõ, không có thì chép là Xử sĩ. Vợ các ông làm quan thì chép là phu nhân, các ông không làm quan thì chép vợ là phủ quân phu nhân. Vợ chính chép là nguyên phối, thời cổ còn chép là tiền thê. Bà kế chép là kế phối, không chép kế thất, bởi kế thất không được coi là vợ; con bà trước coi bà kế là mẹ, vì vậy phải chép mẹ kế là kế phối. Truyện từng nhà chép vào phần truyện kí, phả hệ thì chép vào gia phả.
Ngành nghiên cứu gia phả gọi là ngành Phả điệp học. Phả điệp học phải nghiên cứu chế độ tông tộc trong xã hội ta, phải nghiên cứu sự diễn biến của tông tộc theo lịch sử dân tộc, phải nghiên cứu tộc phả tức gia phả; trong đó có loại hình, thể cách; giá trị của tộc phả ở nhiều phương diện của dân tộc như giá trị đối với tông tộc sử và gia đình sử; giá trị đối với nhân khẩu sử; giá trị đối với dân tộc sử, biên cương sử, địa phương sử, tông giáo sử cùng nhiều phương diện khác. Đồng thời cũng phải biết đến các hạn chế của tộc phả cũ; có vậy mới có được hướng nghiên cứu đúng đắn. Bản thân tộc phả thể hiện tính văn hóa cao của dân tộc, mọi việc làm thiếu văn hóa đối với tộc phả đều là việc làm có tội với tông tộc, với dân tộc.
Nghiên cứu về gia phả, hiện nay chúng ta đương gặp một số khó khăn; trong đó khó khăn đầu tiên là số gia phả chúng ta có được còn hơi ít; số gia phả các tỉnh miền Trung, miền Nam lại càng ít; gia phả các dân tộc ít người càng chưa có; vậy làm sao có thể phát biểu được chính xác về gia phả nước ta! Trong ngành nghiên cứu Phả điệp học, có một chuyên ngành không thể thiếu được, đó là chuyên ngành Tính danh học, tức chuyên ngành nghiên cứu về họ và tên. Gia phả gắn với dòng họ và tên của các thành viên trong dòng họ ấy; không có dòng họ, không có tên thì cũng không có gia phả. Nhưng cho đến nay, việc sưu tầm các dòng họ ở nước ta còn rất hạn chế; theo các tư liệu chúng tôi biết được, có người nói nước ta cuối thế kỷ XX có khoảng 300 họ, có người nói 191 họ(5), có người lại nói có 964 họ(6), vậy biết tin ai? Chúng tôi nghĩ, việc thống kê các họ ở nước ta không phải là việc dễ, nhưng cũng không đến nỗi không làm được, vấn đề là ở chỗ ai làm, ai giúp, làm thế nào? Chúng tôi đã định làm nhưng chưa ai giúp. Cách làm tuy chưa khoa học lắm đối với chuyên ngành Tính danh học nhưng cũng là bước đầu trong việc thống kê các dòng họ là đến hỏi ủy ban dân số, sau đấy về hỏi các tỉnh; đồng thời, bổ sung qua sách báo, qua bưu điện, v.v..., các bước tiếp theo sẽ đi sâu hơn. Theo chỗ chúng tôi biết, tính đến năm 1996, ngành Trung Quốc Phả học thống kê được ở Trung Quốc có 8200 họ(7), 14.719 bộ gia phả(8). Tôi cũng đã được xem nhiều bộ phả của Nhật, viết bằng chữ Hán, ở thư viện FUKUOKA, tỉnh Chikygo và ở tỉnh Kurume, thấy họ viết cũng không khác mấy phả cổ của ta. Khi nói chuyện với một vị người Nhật sang tìm hiểu gia phả nước ta, anh cho biết ở Nhật có 36 dòng họ gốc Trung Quốc, chúng tôi nghĩ họ đã bước được những bước khá xa trong việc nghiên cứu gia phả, hướng nghiên cứu cũng đa dạng, sâu sắc. Vậy chúng ta phải làm sao đây? Không những vậy, ngành Việt Nam Phả học còn phải nghiên cứu cả các loại phả khác của nước ta, trong đó có các loại mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Ngoài thần phả, gia phả, trong các loại phả Hán Nôm còn có ca phả, cầm phả, văn phả, phú phả, thi phả, đồ phả, kì phả, v.v...
Bộ Ca phả hiện nay chúng ta có, mở đầu có bài tựa đề là Ca phả, có nhiều chữ Nôm thuộc thuật ngữ ca hát đương thời. Bài Tựa không đề tên người viết, song văn chương khúc chiết, và đặc biệt rất thạo nghệ thuật hát ả đào. Tác giả cho biết, nam âm nữ nhạc có từ lâu, bộ khúc xưa nay không khác, nhưng thanh điệu thì khác. Tác giả cũng cho biết các bài ca trong tập Ca phả này được hát ở điện vua Lê, phủ chúa Trịnh; ít người biết hát, khác với các điệu hát miền Bắc; bởi vậy phải sưu tầm và dậy cách gõ phách, cầm chầu. Sách gồm 200 bài hát ả đào, chèo Kiều và nhiều thơ phú khác. Đây là một bộ phả quý đối với nghệ thuật cầm ca và các văn bản Nôm xưa.
Bộ Cầm phả không đề tên người chép và năm tháng chép. Sách chép các bản nhạc Lưu thủy, Phú khách, Nam ai, Tạo khúc, Long ngâm, Ngũ đối, Long ngâm vĩ, Bát bản cổ, Bát bản, Phú lục bản, Đốn bản, Cổ bản, Trường đát bản, Ngũ đối thượng bản (do 3 con 1 cái), Long đăng bản, Tiểu khúc bản, Bắc bản ca, Ngũ đối hạ ca (Mao dụng tốc), Long đăng ca (Mao dụng tốc), Long đăng bản ca, Long ngâm bản ca, Tiểu khúc bản ca, Bát bản lã bản ca, Bát bản nương ca, Đốn bản ca, Thượng sề lã bản ca, Sề thượng mao bản ca, Quả phụ tẩu mã bản, Bình bản khách, Lễ kinh bản, Nam xuân bản, Nam xuân bản (Non), Nam xuân bản (Năm), Khách bản, Bình bản, Nam ca, Tam thiên tụng. Có thể nói, bộ Cầm phả này là một hợp tập các bản nhạc cổ, được chép bằng các âm nốt nhạc cổ, ví như bản Lưu thủy, chép: Hồ sừ sang, sang hồ sừ sang, sế sang sừ sang, sang hồ sừ cống, cống sang cống sề...
Bộ Cầm ca diệu phả là bản in của Liễu Đường tàng bản, in năm Duy Tân KÛ Dậu (1909), ngoài có vẽ cây nguyệt cầm và các phím có chua rõ nốt cho hai giây. Trang đầu có bài Tựa Cầm ca diệu phả bằng chữ Hán, ý nói người ta đánh đàn ngâm thơ có thể giải được trầm uất, giữ được thành trì hoặc vui với bạn, vui với cảnh, ... Tiếp đến là bài thơ về Cầm ca diệu phả bằng chữ Nôm, có chua chữ Quốc ngữ, thơ nguyên được phiên âm như sau:
Khoan khoan mấy tiếng tính tình tang
Vận hiệp cung thương khéo khéo ngoan
Phiếm lựa dịp ba hồ cống líu
Tay so cung bẩy sế sừ sang
Nhỏ to một khúc hình châu ngọc
Văn vũ hai giây lẫn sắt vàng
Lại nhớ ngày xưa đàn đế tử
Khúc song vuẫn thấy bóng thanh san.
Tiếp đến là các bản nhạc Lưu thủy ngâm, Tứ đại cảnh khúc, Kim tiên khúc, Cổ bản khúc (nhất danh Cửu chiết bản khúc, phàm lục thập bát phách), Ai Giang Nam khúc, Nam bình khúc, Tư Mã cầu phượng khúc, Chiêu Quân xuất tái khúc. Tiếp đến có Phụ lục Cầm ca chương tạp kí, gồm Hồ Quảng khúc, Xuân phong khúc, Chiêu nam khúc, Tẩu mã khúc, Long ngâm khúc, Gia Cát ngọa đầu sơn khúc, Chính long ngâm khúc, Chỉnh nam thương khúc. Cuối bộ Cầm ca diệu phả là bài Tiên chúa tứ quý đàn. Toàn bộ sách này là các bản nhạc và bài ca cổ, các bản nhạc có chữ âm; các bài ca đều có chữ Nôm và chú chữ Quốc ngữ. Theo chúng tôi, bộ phả này có giá trị không nhỏ đối với giới nghiên cứu, học tập nhạc cổ truyền; đồng thời với văn bản Hán Nôm, Quốc ngữ cổ này, có lẽ cũng giúp ích được thêm cho giới văn học, ngôn ngữ học...
Kì phả: Nhân dân ta biết chơi cờ tướng từ rất sớm, song việc chép kì phả thì lại lẻ tẻ, nay chỉ thấy nhắc đến các bộ Việt Nam tượng kì phả, Tượng kì huyền bí cục. Ván cờ cổ của Trạng cờ Vũ Huyên thắng Sứ nhà Minh tại Thăng Long thời vua Lê Cảnh Thống (1498 - 1504) và ván cờ của Văn minh điện Đại học sĩ Trương Đăng Quế thắng Sứ nhà Thanh tại Kinh đô Huế năm 1842 thấy được chép trong Những ván cờ chọn lọc (1905 - 1945)(9). Về kì phả, tượng kì, phải nói là giới Hán Nôm sẽ còn có duyên nợ dài dài với giới cờ tướng, chúng tôi mong sau này sẽ phát huy tốt hơn trong việc hợp tác nghiên cứu kì phả. Với một số bộ sách khác như Dương Đình phú phả của Tiến sĩ Ngô Thế Vinh, Độc sử Thi phả của Trạng nguyên Dương Phúc Tư, Đan Phượng huyện Văn phả, Khoa hoạn phả của huyện Đan Phượng (Hà Tây), Khoa phả trường biên của Học bộ Thượng thư Cao Xuân Dục, Hoàng Hoa đồ phả của Thị trung Đại học sĩ Ngô Thì Nhậm, v.v... chúng tôi xin không nói kĩ, nhưng sau này khi tiến hành chương trình nghiên cứu về Việt Nam Phả học thì các bộ phả loại này đều phải được tìm hiểu nghiêm túc.
*
**
Trung tâm Phả học Hán Nôm mới được thành lập, chương trình nghiên cứu khoa học thì nhiều, nhưng nhân lực, tài lực lại rất có hạn. Vậy phải làm sao đây? Nếu thấy khó mà không làm thì việc chẳng bao giờ xong, vì vậy chúng tôi muốn làm một cái gì đó để đóng góp cho nền Phả học nước nhà. Chương trình dài lâu tất phải đặt vào việc sưu tầm tư liệu, trên cơ sở ấy mới có thể nghĩ đến việc thực hiện các đề tài khoa học. ở thế kỷ khoa học hiện đại này, việc nghiên cứu di sản cũng phải hiện đại, phải có phương pháp mới, nhưng với Phả học, nếu thiếu sự giúp đỡ của các cấp, các ngành và của mọi người, công việc sẽ khó làm tốt. Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Hội thảo khoa học và xin nói thêm cũng là buổi ra mắt của Trung tâm Phả học hôm nay, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiều mặt và nhiệt tình của cơ quan chủ quản và của mọi người; nhiều Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ và các nhà khoa học đã gửi bài Tham luận, tình cảm đó đã động viên chúng tôi rất nhiều, chúng tôi mong sau này còn có sự hợp tác dài lâu.
T.L.S
CHÚ THÍCH
(1) Phòng Bảo quản, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã. Nxb. KHXH, H. 1996.
(2) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.182.
(3) Đại Nam thần lục. Kí hiệu: A.1213, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(4) Các bộ Phả dẫn ở đây đều có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(5) Phan Văn Các: Nghiên cứu các dòng họ - Cơ sở khoa học và phương hướng giải quyết các vấn đề đặt ra. Tạp chí Hán Nôm, số 3 (28)-1996.
(6) Đài truyền hình Việt Nam, VTV3, buổi 17h30 ngày 16 - 5 - 1999.
(7) Viên Ngọc Lưu: Trung Quốc tính danh học. Quang Minh nhật báo xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994.
(8) Quốc gia Đương án cục Nhị sở, ..., Trung Quốc gia phả tổng hợp mục lục. Trung Hoa thư cục Xuất bản xã, Bắc Kinh, 1997.
(9) Lê Hồng Long: Những ván cờ chọn lọc (1905 - 1945). Nxb. Thể dục thể thao, H. 1975.
|