TB

HỘI NGHỊ CỘNG TÁC VIÊN
Tạp chí Hán Nôm ĐẦU NĂM 2003

TRỊNH KHẮC MẠNH

Ngày 16 tháng 1 năm 2003, Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức Hội nghị cộng tác viên tại trụ sở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Hội nghị đã thu hút gần 100 cộng tác viên, nhiều người vì điều kiện nào đấy mà không đến được, đã gửi thư chúc mừng và đóng góp ý kiến chân tình cho Hội nghị.

Tại Hội nghị, các Quí vị cộng tác viên đã góp nhiều ý kiến cho Tạp chí Hán Nôm trong năm qua và nêu lên hướng phát triển trong năm 2003. Đặc biệt, Hội nghị đã nhấn mạnh những đổi thay và những thành tích đáng khích lệ trong công tác Tạp chí năm 2002.

1. Về nội dung: Tạp chí Hán Nôm năm qua giữ tôn chỉ mục đích là tạp chí khoa học chuyên ngành và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu tri thức Hán Nôm của đời sống văn hóa xã hội. Tạp chí đã công bố nhiều bài viết có tính chất lý luận, góp phần xây dựng phương pháp luận cho ngành Hán Nôm học Việt Nam trong một số lĩnh vực khoa học chuyên ngành; giới thiệu nhiều tư liệu Hán Nôm mới phát hiện sưu tầm có giá trị lịch sử về thời gian và không gian, về hình thức và nội dung; đăng tải nhiều bài có tính chất trao đổi làm sáng tỏ một số vấn đề học thuật.

Đặc biệt là Tạp chí đã ra 3 số chuyên đề, như: Số 4(53)-2002, về Nguyễn Trãi, nhân kỷ niệm 560 năm mất; Số 5(54)-2002, về Hán Nôm trong nhà trường, nhân kỷ niệm 30 thành lập Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội); Số 6(55)-2002, về di sản Hán Nôm tỉnh Thái Bình.

Bằng hoạt động của mình, Tạp chí Hán Nôm thực sự là diễn đàn của ngành Hán Nôm học trong nước và quốc tế.

2. Về hình thức: Năm 2002, Tạp chí tăng kỳ xuất bản 6 số/ năm, với 78 bài viết của 62 tác giả; đây thực sự là một cố gắng của Tạp chí Hán Nôm và sự tham gia tích cực của các cộng tác viên, đã tạo nên một mốc mới trong sự phát triển của Tạp chí Hán Nôm. Trang bìa của Tạp chí có cải tiến chút ít, việc đổi thay này có người khen cũng có người chê, Tạp chí sẵn sàng đón nhận ý kiến góp ý của độc giả, để trang bìa của Tạp chí ngày càng phù hợp hơn. Trang bìa 3 được đăng tải thường xuyên “Qui định bài gửi cho Tạp chí Hán Nôm” và trang bìa 4 giành để công bố những sách đã xuất bản, đây cũng là những nét mới của Tạp chí Hán Nôm năm 2002.

3. Về tổ chức: Căn cứ vào “Qui chế về tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu Hán Nôm” được Giám đốc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phê duyệt, ban hành theo quyết định số 245 QĐ/KHXH ngày 20 tháng 3 năm 2002, tổ chức của Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm đã được hoàn thiện một bước: bổ nhiệm đ/c. Trưởng Phòng Tạp chí (TS. Đinh Khắc Thuân), bổ nhiệm đ/c Phó trưởng Phòng Tạp chí (BTV. Trần Thị Xuân Phương).

4. Về phương hướng năm 2003: Tạp chí Hán Nôm tiếp tục ra 6 số/ năm, về bố cục vẫn như nguyên như cũ, gồm các mục: Nghiên cứu, Đọc sách - Trao đổi ý kiến, Sưu tầm - Tư liệu tham khảo, Thường thức Hán Nôm và Tin tức.

Năm 2003, Tạp chí sẽ có 3 số thường kỳ và phấn đấu có 3 số chuyên đề. Dự kiến 3 số chuyên đề như sau: Số 1(56)-2003 về Phả học; Số 3(58)-2003 về Ngô Thì Nhậm nhân kỷ niệm 200 năm mất của ông; Số 5(60)-2003 giới thiệu di sản Hán Nôm tỉnh Bắc Ninh.

*
**

Phát huy thành tích của năm 2002, trong năm 2003 Tạp chí Hán Nôm sẽ có kế hoạch để thực hiện tốt phương hướng nhiệm vụ của mình. Chúng tôi tin tưởng rằng, Tạp chí Hán Nôm sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ tích cực của các nhà nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm, các cộng tác viên trong và ngoài nước, sự giúp đỡ nhiệt tình của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia và của Bộ Văn hóa - Thông tin.

Nhân dịp năm mới, năm Quý Mùi, thay mặt Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm, xin chúc các Quý vị cộng tác viên lời chúc sức khỏe, thành đạt và gia đình hạnh phúc, an khang, thịnh vượng.

TB

NHỮNG VẤN ĐỀ BỨC XÚC TRONG NGHIÊN CỨU CÁC LOẠI PHẢ HÁN NÔM

TRẦN LÊ SANG

Như nhiều người đã biết, hiện nay trong các thư viện và trong nhân dân còn lưu giữ được khá nhiều các loại phả chép bằng văn tự cổ, tức chép bằng chữ Hán, chữ Nôm; trong các bản chép bằng chữ Nôm, có chữ Nôm phổ thông, có chữ Nôm của các dân tộc ít người. Việc tìm hiểu các loại phả Hán Nôm xưa nay cũng đã có người lưu ý đến nhưng quả thực nói đến việc nghiên cứu thì làm chưa được mấy, chưa có sự nghiên cứu tổng hợp về các loại phả và cũng chưa có những đề tài nghiên cứu với tính chất là đề tài khoa học của phả học.

Dưới đường lối của Đảng về phương diện phát huy tinh hoa di sản văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu chung của xã hội, Trung tâm Phả học đã được Viện Nghiên cứu Hán Nôm thành lập. Đây là cơ sở nghiên cứu đầu tiên của chuyên ngành phả học nước ta; về thực tiễn và chương trình nghiên cứu của tổ chức chuyên ngành phả học trên cả hai phương diện là nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng đã khởi động tiến hành nhưng chắc chắn các đề tài nghiên cứu sẽ không phải là dễ dàng trong tiến trình thực hiện, nếu không có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành và của mọi người.

*
**

Trung tâm Phả học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các loại phả, trước hết là phả Hán Nôm. Theo chỗ chúng tôi biết, trong các loại phả chép bằng chữ Hán, chữ Nôm; có các loại phả chính như Thần phả 神 譜, Thần tích 神 蹟, Ngọc phả 玉 譜, Ngọc điệp 玉 牒, Bảo điệp 寶 牒, Hương phả 鄉 譜, Gia phả 家 譜; ngoài ra còn có Văn phả 文 譜, Phú phả 賦 譜, Thi phả 詩 譜, Đồ phả 圖 譜, Ca phả 歌 譜, Cầm phả 琴 譜, Cầm ca phả 琴 歌 譜, Kỳ phả 棋 譜, Cổ tiền phả 古 錢 譜... Chúng ta có thể khảo sát thêm một chút về các loại phả nói trên.

Thần phả

Thần phả có bản chép là thần tích hoặc ngọc phả, chúng ta có thể lấy vài bộ sách làm ví dụ. Về thần phả, có Nam Hải tứ vị Thánh nương phả lục 南 海 四 位 聖 娘 譜 錄 Nam quốc lịch đại thế thứ niên biểu thần phả 南 國 歷 代 世 次 年 表 神 譜; về Thần tích, có Ninh Bình tỉnh Gia Viễn phủ Lê Xá tổng Trà Đính xã thần tích 寧 平 省 嘉 遠 府 黎 舍 總 茶 頂 社 神蹟, Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Cát Xuyên tổng An Đạo xã thần tích 南 定 省 春 長 府 葛 川 總 安 道 社 神蹟; về ngọc phả có Hùng Vương sự tích Ngọc phả cổ truyền 雄 王 事 蹟 玉 譜 古 傳, Đinh Thánh Mẫu Ngọc phả 丁 聖 母 玉 譜 ...

Theo sưu tầm của sách Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã (1) thì trong gần hai mươi tỉnh từ Nghệ An trở ra, hiện biết được có 2821 bản thần phả Hán Nôm. Như vậy từ Hà Tĩnh trở vào thì sao? Ngay việc sưu tầm thần phả, chúng ta vẫn đang làm dở dang, còn việc nghiên cứu lại càng chưa sâu. Theo chúng tôi, thần phả mang đặc thù của dân tộc Việt, kể cả về cách gọi lẫn nội dung. Trong chữ Hán, chỉ có từ ngọc điệp chứ không có thần phả, thần tích. Ngọc điệp trong Hán văn cũng chỉ dùng để chỉ các thẻ tre làm bùa đem đốt tế trời, hoặc để chỉ phả hệ vua chúa, để chỉ các bản chú thích kinh điển Đạo giáo chứ không phải là các văn bản chép về sự tích các vị thần. Việc thờ các vị thần được chép trong thần tích, thần phả, ngọc điệp của người Việt cũng có nét riêng biệt, hai chữ Thành hoàng 城 隍 có trong lễ tế của người Hán, nhưng chỉ tế thần trong thành; còn người Việt thờ Thành hoàng ở đình, đình thờ có khắp các làng xã... Với các bộ thần phả mà chúng tôi đã được xem, phần lớn đều là sự tích của những vị có công với dân, với nước. Đến như bộ ngọc phả nhan đề Cao tăng Thiền sư Ngọc phả cổ truyện lại cho biết mười bảy xã ở huyện Yên Lạc, Thanh Hóa thờ Thành hoàng vốn là một vị Cao tăng có công giúp vua Hùng đánh giặc. Các vị Thủy thần, Sơn thần, Xà thần... được thờ và có thần phả cũng đều là những vị đầy công đức hộ quốc tí dân. Vấn đề thần quyền ở mảng thần phả, quả là vấn đề đang nóng lòng chờ đợi sự nghiên cứu sâu của các nhà Phả học. Về một số phương diện khác như Sử học, Tôn giáo, Dân tộc học, Địa lý.., Thần phả cũng là những tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu.

Riêng về văn bản, các bản thần phả đang được lưu giữ có một số vấn đề cũng cần được quan tâm hơn. Chúng ta thấy có không ít bản thần phả ghi Nguyễn Bính soạn, Nguyễn Hiền sao. Nguyễn Bính sinh mất năm nào? Sự nghiệp ra sao đều chưa rõ. Trong các bản thần phả đề ông soạn, có bản đề đời Hồng Đức (thế kỷ XV), có bản đề đời Hồng Phúc (cuối thế kỷ XVI). Nguyễn Hiền sinh mất năm nào cũng chưa rõ, nhưng trong các bản thần phả đề ông sao chép, thấy chua rõ là quan Lễ bộ Thượng thư, sao vào các năm đầu thời Vĩnh Hựu (đầu thế kỷ XVIII). Khi tra cứu cổ thư tịch, chúng ta không tìm thấy có vị nào là Nguyễn Hiền làm Lễ bộ Thượng thư ở thời Vĩnh Hựu. Nhưng nhà học giả Trần Văn Giáp khi khảo về tác giả bộ Việt điện u linh 越 甸 幽 靈 ở phần Bổ tục 補 續 ( Tục tập 續 集) lại cho biết, có một vị là “Nguyễn Văn Hiền làm quan ở bộ phận Bách thần, coi việc sao chép thần sắc, thần tích, ông sống vào khoảng thế kỷ XVIII, tên ông hay đi đôi với tên Nguyễn Bính. Bản Trưng Vương Công thần Tướng công Đại vương Ngọc phả lục có ghi rõ Nguyễn Bính soạn và Quản giám Bách thần Thiếu khanh Tri điện, Hùng Lĩnh Nguyễn Văn Hiền phụng sao”(2). Về Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền, cho đến nay, chúng ta mới chỉ biết được như vậy. Còn các bản thần phả đề tên hai ông soạn và sao chép liệu có đúng cả không hay vẫn có các bản giả cổ được làm vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ? Điều này cùng nhiều điều khác về văn bản thần phả, người nghiên cứu còn phải bỏ công thêm. Ở Đền Hùng hiện có bản thần phả chữ Hán, 53 trang. Trang bìa đề Hùng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền 雄 圖 十 八 葉 聖 王 玉 譜 古 傳. Mở đầu sách lại đề Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền 古 粵 雄 氏 一 十 八 世 聖 王 玉 譜 古 傳. Trang cuối ghi Hồng Đức nguyên niên Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán. Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn 洪 德 元 年 壬 辰 春 三 月 榖 旦, 翰 林 院 直 學 士 阮 固 奉 撰. Sau trang 2, đề giữa trang: Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính 皇 朝 弘 定 元 年 庚 子 冬 十 月 吉 日, 翰 林 侍 講 阮 仲 重 訂; bên trái đề Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao 禮 番 黎 廷 歡 承 抄; bên phải đề Sao bản lưu tại Quan Lang phụ đạo Hùng Vương tôn điệt phụ truyền tử kế Hưng Nghĩa Cương Xã trưởng Tạo lệ quan Trung Nghĩa hương giám thủ 抄 本 留 在 官 郎 輔 道 雄 王 孫 侄 父 傳 子 繼 興 義 崗 社 長 皂 隸 觀 忠 義 鄉 監 守. Qua các dòng ghi chú ấy, chúng ta thấy bộ Ngọc phả cổ truyền về 18 đời vua Hùng có ở Đền Hùng vốn do Nguyễn Cố làm chức Trực học sĩ Viện Hàn lâm soạn vào năm đầu đời Hồng Đức (1470), sau được Nguyễn Trọng làm chức Thị độc Viện Hàn lâm sửa sang lại vào năm đầu đời Hoằng Định (1601). Bản hiện nay là bản sao vốn được lưu giữ ở hương Trung Nghĩa, xã Nghĩa Cương (nay là xã Tiên Kiên). Nguyễn Cố, tác giả của bộ Ngọc phả quý này là ai, về quê quán, năm sinh năm mất, sự nghiệp của ông ra sao, chúng ta chưa rõ lắm. Về văn bản cũng có không ít chỗ phải khảo xét thêm. Đền Hùng là chốn thiêng liêng, là nơi trăm họ hướng về; mọi di vật phải được bảo quản cẩn thận, mọi hoạt động văn hóa mới ở nơi này phải được suy xét khoa học, nghiêm túc, mọi sơ sẩy đều là có tội. Qua hàng trăm năm nay, Đền Hùng vẫn được các đời trùng tu, thần phả được trùng đính. Mong muốn của mọi người là nơi này sẽ còn được sửa sang thêm, thần phả nên được trùng bổ cho xứng với chốn thiêng liêng này. Hiện nay, số thần phả chúng ta sưu tầm được tất nhiên đã phong phú hơn nhiều so với sự ghi chép trong bộ Đại Nam thần lục(3) nhưng cũng chỉ mới hạn chế ở một số tỉnh ở miền Bắc. Năm 2000, chúng tôi có vào Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh khác để tìm hiểu về các loại phả, riêng thần phả không thấy mấy, thần phả của các dân tộc ít người càng chưa được lưu ý sưu tầm. Vậy về việc này, chúng ta phải tính sao đây? Với nhiều lý do, số thần phả chúng ta đã sưu tầm được cũng có nhiều bản viết còn sơ lược, nhưng lượng thần phả này là một di sản quý. Qua thần phả, chúng ta hình dung được cuộc đấu tranh giành độc lập ở phương diện thần quyền của dân tộc, ngoài ra còn giúp chúng ta tìm hiểu ở nhiều lĩnh vực khác. Đặc biệt, qua các bản thần phả, chúng ta biết được ngày tháng của lễ hội ở các nơi, trong một số bản thần phả còn chép cả nguồn gốc, nghi lễ, vật tế... mang tính chất riêng của lễ hội ấy.

Nói chung, thần phả mang đậm nét văn hóa, giới Phả học tất phải nghiên cứu để biết, sau nữa để trùng bổ, phát huy phần tinh hoa. Với gia phả cũng vậy, đó là phần mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

Gia phả

Gia phả là tên gọi chung cho loại sách chép về sự hình thành và phát triển của một dòng họ, thường được xếp vào loại sách phả lục, phả ký. Trong thực tế, loại sách này có tên gọi khá phong phú. Có khi gọi là gia phả, như Hà môn gia phả(4), Đa Sĩ Lê tộc gia phả; có khi gọi là gia kê, như Đàm thị gia kê, Nghiêm tính gia kê; có khi gọi là tộc phả, như Đinh gia tộc phả, Lương gia tộc phả; có khi gọi là tông phả, như Phan gia tông phả, Thọ Xương Nguyễn Thị tông phả; có khi gọi là thế phả, như Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, Mộ Trạch thế phả; có khi gọi là phả ký, như Hồ gia hợp tộc phả ký, Đặng gia phả ký; v.v...

Trong số gần 300 bộ gia phả mà chúng tôi biết, có thể chia làm hai loại lớn. Đó là Quan phả và Tư phả. Quan phả là phả do cá nhân hoặc cơ quan chịu trách nhiệm trước nhà nước mà soạn; Tư phả là phả được soạn theo yêu cầu riêng. Ở nước ta, quan phả có tương đối sớm. Nhà học giả Phan Huy Chú (1782 - 1840) trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí, xếp phả điệp vào loại Hiến chương và ở ngay mục đầu của loại này đã chép về bộ Lý triều ngọc điệp, soạn thời Lý Thái Tổ năm thứ 17 (1026), chép Phả nhà Lý. Thời Trần Thánh Tông thứ 10 (1267), nhà vua lại cho soạn Hoàng tông ngọc điệp nhằm làm rõ quan hệ tông thất để phong ấm. Thời Trần Nghệ Tông (1320 - 1373), Hồ Tông Thốc soạn bộ Việt Nam thế phả chép thế phả 18 đời họ Hồng Bàng, chép thế phả họ Triệu. Bộ sách này nay không còn, nhưng còn bài tựa của người soạn. Mở đầu bài tựa có câu: “Sách chép về thế phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn...” (xem Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí). Bộ Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục do Hồ Sĩ Dương và Đặng Công Chất ở Sử quán soạn năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676), chép phả nhà Lê từ vua Lê Trang Tông đến vua Lê Hy Tông. Một số bộ phả khác, như Cố Lê danh thần phả (A.160), Đại Việt lịch đại Hoàng átriều Ngự chế Ngọc điệp thế hệ phả ký (A.273), Hoàng triều bảo điệp (A.1326), Trần triều ngọc phả (VHv.1064/1-3), Lê Hoàng ngọc phả (A.678), Lê triều ngọc phả (VNv.241), Trịnh Vương phả ký (A.676) v.v... đều thuộc loại quan phả. Ở nước ta, quan phả là những tư liệu rất gần với Quốc sử, song với thể loại phả, loại phả này được viết tương đối thoải mái, tư liệu phong phú, tỉ mỉ, có công năng đa dạng. Nhưng quan phả chủ yếu do quan chức viết theo yêu cầu của triều đình, bởi vậy mục đích cũng không ngoài việc phục vụ nhiều mặt cho quý tộc đương thời.

Tư phả là phả viết do yêu cầu tìm về cội nguồn của bản tông tộc. Tư phả ở nước ta ra đời muộn hơn Quan phả, nhưng nhanh chóng phát triển. Nay chúng ta nói đến gia phả, chủ yếu nói về tư phả. Trong sách Kiến văn tiểu lục, Thể lệ thượng, nhà học giả Lê Quý Đôn (1726 - 1784) cho biết, ông đã được xem bộ gia phả của Chiêu Huân Công ở đầu thế kỷ XV, đến thế kỷ XVI, XVII thì Tư phả đã rất phổ biến; sang thế kỷ XVIII, XIX đã có những bộ Tư phả lớn. Trong đó đáng lưu ý có bộ Văn Xá Lê tộc thế phả chép phả họ nhà y học nổi tiếng là Lãn Ông Lê Hữu Trác; bộ Phan tộc công phả chép phả họ Phan Huy có những nhân vật rất nổi tiếng như Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Chú, v.v... ; bộ Thanh Oai Ngô Gia thế phả chép phả họ Ngô có các danh nhân như Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm; v.v...; bộ Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả có các danh nhân như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du; bộ Thanh Trì Bùi Thị gia phả chép về danh nhân Bùi Huy Bích; v.v... Nếu xét với ý nghĩa rộng, những bộ viết về lịch đại truyền đăng ở Phật giáo, về lịch trình họ đạo Công giáo ở nước ta, cũng có thể xếp vào loại tư phả. Tư phả rõ ràng là một mảng di sản văn hóa Hán Nôm mà chúng ta cần nghiên cứu nghiêm túc. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, các bộ tư phả ra đời sớm thường viết đơn giản, chủ yếu là chép tộc hệ, ngày tháng năm sinh, mất; mồ mả, nhà thờ; ruộng tế; càng về sau, việc ghi chép càng đa dạng, phong phú. Đại thể một bộ phả nghiêm túc thường có mấy phần như sau: 1. Bài Tựa. 2. Bài Lệ. 3. Thế thứ dòng họ. 4. Từ đường. 5. Phụ lục. Tùy theo bộ phả viết theo bậc Đại tông, Trung tông hay Tiểu tông mà có nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhưng nói chung, bài Tựa thường do người soạn phả tự viết, các câu mở đầu thường là: "Nước có Quốc sử, nhà có Gia phả, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, con cháu phải nhớ cội nguồn, quang tiền dụ hậu, vậy nên...". Bài Lệ viết về quy cách viết của bộ phả, thường là nói đến việc "Phàm đời xa, đời sơ thì lược; đời gần, đời thân chép rõ" rồi liệt những điều cụ thể mà cuốn phả viết. Thế thứ của dòng họ lớn thì viết theo thứ tự Viễn tổ - Đồng bối. Ở các hệ, có viết các tỷ - mẫu, bá thúc, huynh đệ, tỷ muội...; với những người đỗ đạt làm quan thì chép rõ hơn, có khi chép cả sắc phong, câu đối, thơ ca, gia huấn, biệt tài...; đặc biệt, biên chép rõ giờ, ngày, tháng năm sinh - mất; mộ táng, địa điểm. Phần từ đường chép về các nhà thờ trong họ, việc dựng, và trùng tu, địa điểm, hoành phi, câu đối; một vài cuốn phả có kèm bản vẽ. Phần phụ lục thường kèm phả đồ. Có một vài bộ phả, cuối sách để mấy trang giấy trắng, ý là con cháu trong họ còn phát triển dài lâu, mấy trang đó giành để chép tiếp, gọi là Dư khánh lục. Nhà học giả Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), ở thiên Lệ chép gia phả trong sách Tùy bút lục cho biết, có nhiều cách chép gia phả. Thời cổ chép phả xuôi theo các đời như chính sử chép theo niên biểu. Sau lại có cách viết từ dưới viết ngược lên, hỗ trợ cho văn viết có bản đồ, cái đó gọi là Khánh hệ phả và Khánh hệ đồ. Có thể chép kĩ chi chính, chép lược chi thứ, nhưng cũng có thể chép kĩ cả chi thứ để dễ đối chiếu các đời. Từ Cao tổ trở lên không chép các đời, từ Cao tổ trở xuống thì chép số đời, bởi "tang phục đến đời chút thì thôi", vì vậy phải gọi tên theo số đời. Trong phả được chép tên húy, bởi theo Kinh Lễ, viết phả cho phép không kị húy. Nếu quên húy thì chép tên tự, quên tự thì chép tên thứ bậc, quên cả thứ bậc thì bỏ trống. Phả cần chép ngày sinh để biết trước sau, chép ngày mất để làm giỗ. Có khoa bảng, quan chức thì chép rõ, không có thì chép là Xử sĩ. Vợ các ông làm quan thì chép là phu nhân, các ông không làm quan thì chép vợ là phủ quân phu nhân. Vợ chính chép là nguyên phối, thời cổ còn chép là tiền thê. Bà kế chép là kế phối, không chép kế thất, bởi kế thất không được coi là vợ; con bà trước coi bà kế là mẹ, vì vậy phải chép mẹ kế là kế phối. Truyện từng nhà chép vào phần truyện kí, phả hệ thì chép vào gia phả.

Ngành nghiên cứu gia phả gọi là ngành Phả điệp học. Phả điệp học phải nghiên cứu chế độ tông tộc trong xã hội ta, phải nghiên cứu sự diễn biến của tông tộc theo lịch sử dân tộc, phải nghiên cứu tộc phả tức gia phả; trong đó có loại hình, thể cách; giá trị của tộc phả ở nhiều phương diện của dân tộc như giá trị đối với tông tộc sử và gia đình sử; giá trị đối với nhân khẩu sử; giá trị đối với dân tộc sử, biên cương sử, địa phương sử, tông giáo sử cùng nhiều phương diện khác. Đồng thời cũng phải biết đến các hạn chế của tộc phả cũ; có vậy mới có được hướng nghiên cứu đúng đắn. Bản thân tộc phả thể hiện tính văn hóa cao của dân tộc, mọi việc làm thiếu văn hóa đối với tộc phả đều là việc làm có tội với tông tộc, với dân tộc.

Nghiên cứu về gia phả, hiện nay chúng ta đương gặp một số khó khăn; trong đó khó khăn đầu tiên là số gia phả chúng ta có được còn hơi ít; số gia phả các tỉnh miền Trung, miền Nam lại càng ít; gia phả các dân tộc ít người càng chưa có; vậy làm sao có thể phát biểu được chính xác về gia phả nước ta! Trong ngành nghiên cứu Phả điệp học, có một chuyên ngành không thể thiếu được, đó là chuyên ngành Tính danh học, tức chuyên ngành nghiên cứu về họ và tên. Gia phả gắn với dòng họ và tên của các thành viên trong dòng họ ấy; không có dòng họ, không có tên thì cũng không có gia phả. Nhưng cho đến nay, việc sưu tầm các dòng họ ở nước ta còn rất hạn chế; theo các tư liệu chúng tôi biết được, có người nói nước ta cuối thế kỷ XX có khoảng 300 họ, có người nói 191 họ(5), có người lại nói có 964 họ(6), vậy biết tin ai? Chúng tôi nghĩ, việc thống kê các họ ở nước ta không phải là việc dễ, nhưng cũng không đến nỗi không làm được, vấn đề là ở chỗ ai làm, ai giúp, làm thế nào? Chúng tôi đã định làm nhưng chưa ai giúp. Cách làm tuy chưa khoa học lắm đối với chuyên ngành Tính danh học nhưng cũng là bước đầu trong việc thống kê các dòng họ là đến hỏi ủy ban dân số, sau đấy về hỏi các tỉnh; đồng thời, bổ sung qua sách báo, qua bưu điện, v.v..., các bước tiếp theo sẽ đi sâu hơn. Theo chỗ chúng tôi biết, tính đến năm 1996, ngành Trung Quốc Phả học thống kê được ở Trung Quốc có 8200 họ(7), 14.719 bộ gia phả(8). Tôi cũng đã được xem nhiều bộ phả của Nhật, viết bằng chữ Hán, ở thư viện FUKUOKA, tỉnh Chikygo và ở tỉnh Kurume, thấy họ viết cũng không khác mấy phả cổ của ta. Khi nói chuyện với một vị người Nhật sang tìm hiểu gia phả nước ta, anh cho biết ở Nhật có 36 dòng họ gốc Trung Quốc, chúng tôi nghĩ họ đã bước được những bước khá xa trong việc nghiên cứu gia phả, hướng nghiên cứu cũng đa dạng, sâu sắc. Vậy chúng ta phải làm sao đây? Không những vậy, ngành Việt Nam Phả học còn phải nghiên cứu cả các loại phả khác của nước ta, trong đó có các loại mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

Ngoài thần phả, gia phả, trong các loại phả Hán Nôm còn có ca phả, cầm phả, văn phả, phú phả, thi phả, đồ phả, kì phả, v.v...

Bộ Ca phả hiện nay chúng ta có, mở đầu có bài tựa đề là Ca phả, có nhiều chữ Nôm thuộc thuật ngữ ca hát đương thời. Bài Tựa không đề tên người viết, song văn chương khúc chiết, và đặc biệt rất thạo nghệ thuật hát ả đào. Tác giả cho biết, nam âm nữ nhạc có từ lâu, bộ khúc xưa nay không khác, nhưng thanh điệu thì khác. Tác giả cũng cho biết các bài ca trong tập Ca phả này được hát ở điện vua Lê, phủ chúa Trịnh; ít người biết hát, khác với các điệu hát miền Bắc; bởi vậy phải sưu tầm và dậy cách gõ phách, cầm chầu. Sách gồm 200 bài hát ả đào, chèo Kiều và nhiều thơ phú khác. Đây là một bộ phả quý đối với nghệ thuật cầm ca và các văn bản Nôm xưa.

Bộ Cầm phả không đề tên người chép và năm tháng chép. Sách chép các bản nhạc Lưu thủy, Phú khách, Nam ai, Tạo khúc, Long ngâm, Ngũ đối, Long ngâm vĩ, Bát bản cổ, Bát bản, Phú lục bản, Đốn bản, Cổ bản, Trường đát bản, Ngũ đối thượng bản (do 3 con 1 cái), Long đăng bản, Tiểu khúc bản, Bắc bản ca, Ngũ đối hạ ca (Mao dụng tốc), Long đăng ca (Mao dụng tốc), Long đăng bản ca, Long ngâm bản ca, Tiểu khúc bản ca, Bát bản lã bản ca, Bát bản nương ca, Đốn bản ca, Thượng sề lã bản ca, Sề thượng mao bản ca, Quả phụ tẩu mã bản, Bình bản khách, Lễ kinh bản, Nam xuân bản, Nam xuân bản (Non), Nam xuân bản (Năm), Khách bản, Bình bản, Nam ca, Tam thiên tụng. Có thể nói, bộ Cầm phả này là một hợp tập các bản nhạc cổ, được chép bằng các âm nốt nhạc cổ, ví như bản Lưu thủy, chép: Hồ sừ sang, sang hồ sừ sang, sế sang sừ sang, sang hồ sừ cống, cống sang cống sề...

Bộ Cầm ca diệu phả là bản in của Liễu Đường tàng bản, in năm Duy Tân KÛ Dậu (1909), ngoài có vẽ cây nguyệt cầm và các phím có chua rõ nốt cho hai giây. Trang đầu có bài Tựa Cầm ca diệu phả bằng chữ Hán, ý nói người ta đánh đàn ngâm thơ có thể giải được trầm uất, giữ được thành trì hoặc vui với bạn, vui với cảnh, ... Tiếp đến là bài thơ về Cầm ca diệu phả bằng chữ Nôm, có chua chữ Quốc ngữ, thơ nguyên được phiên âm như sau:

Khoan khoan mấy tiếng tính tình tang
Vận hiệp cung thương khéo khéo ngoan
Phiếm lựa dịp ba hồ cống líu
Tay so cung bẩy sế sừ sang
Nhỏ to một khúc hình châu ngọc
Văn vũ hai giây lẫn sắt vàng
Lại nhớ ngày xưa đàn đế tử
Khúc song vuẫn thấy bóng thanh san.

Tiếp đến là các bản nhạc Lưu thủy ngâm, Tứ đại cảnh khúc, Kim tiên khúc, Cổ bản khúc (nhất danh Cửu chiết bản khúc, phàm lục thập bát phách), Ai Giang Nam khúc, Nam bình khúc, Tư Mã cầu phượng khúc, Chiêu Quân xuất tái khúc. Tiếp đến có Phụ lục Cầm ca chương tạp kí, gồm Hồ Quảng khúc, Xuân phong khúc, Chiêu nam khúc, Tẩu mã khúc, Long ngâm khúc, Gia Cát ngọa đầu sơn khúc, Chính long ngâm khúc, Chỉnh nam thương khúc. Cuối bộ Cầm ca diệu phả là bài Tiên chúa tứ quý đàn. Toàn bộ sách này là các bản nhạc và bài ca cổ, các bản nhạc có chữ âm; các bài ca đều có chữ Nôm và chú chữ Quốc ngữ. Theo chúng tôi, bộ phả này có giá trị không nhỏ đối với giới nghiên cứu, học tập nhạc cổ truyền; đồng thời với văn bản Hán Nôm, Quốc ngữ cổ này, có lẽ cũng giúp ích được thêm cho giới văn học, ngôn ngữ học...

Kì phả: Nhân dân ta biết chơi cờ tướng từ rất sớm, song việc chép kì phả thì lại lẻ tẻ, nay chỉ thấy nhắc đến các bộ Việt Nam tượng kì phả, Tượng kì huyền bí cục. Ván cờ cổ của Trạng cờ Vũ Huyên thắng Sứ nhà Minh tại Thăng Long thời vua Lê Cảnh Thống (1498 - 1504) và ván cờ của Văn minh điện Đại học sĩ Trương Đăng Quế thắng Sứ nhà Thanh tại Kinh đô Huế năm 1842 thấy được chép trong Những ván cờ chọn lọc (1905 - 1945)(9). Về kì phả, tượng kì, phải nói là giới Hán Nôm sẽ còn có duyên nợ dài dài với giới cờ tướng, chúng tôi mong sau này sẽ phát huy tốt hơn trong việc hợp tác nghiên cứu kì phả. Với một số bộ sách khác như Dương Đình phú phả của Tiến sĩ Ngô Thế Vinh, Độc sử Thi phả của Trạng nguyên Dương Phúc Tư, Đan Phượng huyện Văn phả, Khoa hoạn phả của huyện Đan Phượng (Hà Tây), Khoa phả trường biên của Học bộ Thượng thư Cao Xuân Dục, Hoàng Hoa đồ phả của Thị trung Đại học sĩ Ngô Thì Nhậm, v.v... chúng tôi xin không nói kĩ, nhưng sau này khi tiến hành chương trình nghiên cứu về Việt Nam Phả học thì các bộ phả loại này đều phải được tìm hiểu nghiêm túc.

*
**

Trung tâm Phả học Hán Nôm mới được thành lập, chương trình nghiên cứu khoa học thì nhiều, nhưng nhân lực, tài lực lại rất có hạn. Vậy phải làm sao đây? Nếu thấy khó mà không làm thì việc chẳng bao giờ xong, vì vậy chúng tôi muốn làm một cái gì đó để đóng góp cho nền Phả học nước nhà. Chương trình dài lâu tất phải đặt vào việc sưu tầm tư liệu, trên cơ sở ấy mới có thể nghĩ đến việc thực hiện các đề tài khoa học. ở thế kỷ khoa học hiện đại này, việc nghiên cứu di sản cũng phải hiện đại, phải có phương pháp mới, nhưng với Phả học, nếu thiếu sự giúp đỡ của các cấp, các ngành và của mọi người, công việc sẽ khó làm tốt. Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Hội thảo khoa học và xin nói thêm cũng là buổi ra mắt của Trung tâm Phả học hôm nay, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiều mặt và nhiệt tình của cơ quan chủ quản và của mọi người; nhiều Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ và các nhà khoa học đã gửi bài Tham luận, tình cảm đó đã động viên chúng tôi rất nhiều, chúng tôi mong sau này còn có sự hợp tác dài lâu.

T.L.S

CHÚ THÍCH

(1) Phòng Bảo quản, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã. Nxb. KHXH, H. 1996.

(2) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.182.

(3) Đại Nam thần lục. Kí hiệu: A.1213, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(4) Các bộ Phả dẫn ở đây đều có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(5) Phan Văn Các: Nghiên cứu các dòng họ - Cơ sở khoa học và phương hướng giải quyết các vấn đề đặt ra. Tạp chí Hán Nôm, số 3 (28)-1996.

(6) Đài truyền hình Việt Nam, VTV3, buổi 17h30 ngày 16 - 5 - 1999.

(7) Viên Ngọc Lưu: Trung Quốc tính danh học. Quang Minh nhật báo xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994.

(8) Quốc gia Đương án cục Nhị sở, ..., Trung Quốc gia phả tổng hợp mục lục. Trung Hoa thư cục Xuất bản xã, Bắc Kinh, 1997.

(9) Lê Hồng Long: Những ván cờ chọn lọc (1905 - 1945). Nxb. Thể dục thể thao, H. 1975.

TB

THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC VỚI VIỆC XÂY DỰNG HOÀNG THÀNH, HOÀNG CUNG

HOÀNG GIÁP

Sử thư của Trung Quốc nói: “Vũ tác cung thất” (Vua Hạ Vũ xây dựng cung thất). Như vậy Trung Quốc đã xây cung điện từ thời Hạ. Nhưng việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung thì bắt đầu từ Tần Thuỷ Hoàng xây thành và cung Hàm Dương. Tiếp theo nhà Hán xây cung Trường An, Nguỵ Tấn xây cung Lạc Dương, nhà Đường xây cung Trường An, nhà Tống xây cung Khai Phong, nhà Nguyên, Minh, Thanh xây Hoàng thành, Hoàng cung, Cố Cung ở Bắc Kinh.

Hoàng cung bao giờ cũng gắn liền với thành và nằm ở giữa 3 vòng thành là Thành Ngoại, Thành Nội và Cung Thành. (Tam Viên) Cung Thành còn gọi là Thành Trung hay Tử Cấm Thành. Trong hoàng cung lại xây dựng rất nhiều cung điện như Càn Nguyên điện sau là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện, Đông Cung, Thái Miếu, Giảng Võ điện... Tìm hiểu về hoàng thành, hoàng cung là vấn đề không dễ dàng. Do vậy bài này chỉ xin đề cập đến việc vận dụng một phần kiến thức thiên văn học và thần học để xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc và ở Việt Nam.

1. Đôi nét về thiên văn học cổ đại Trung Quốc

Người Trung Quốc từ rất sớm đã có máy “Toàn cơ ngọc hành” để quan trắc thất chính (mặt trời, mặt trăng, sao kim, sao mộc, sao thủy, sao hỏa, sao thổ) và nhị thập bát tú hay còn gọi là Tứ tượng (bốn cụm sao Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ) đồng thời còn xem xét hai khí âm dương, chu kỳ phát triển của vạn vật trong một năm.

Thời Chu người Trung Quốc đã chế tạo được kính viễn vọng quan sát tinh tượng, phát hiện ra sao Thái Tuế (Mộc tinh) di động trên không trung theo chiều từ Đông sang Tây chu kỳ một vòng quanh mặt trời là 12 năm. Mười hai năm được biểu thị bằng 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, nhờ thế mà đặt ra lịch pháp. Đồng thời thiên văn học cũng chia khoảng không gian giữa “Tứ tượng” thành ba bộ phận gọi là “Tam viên” (ba vòng tường không gian) gọi là Tử Vi Viên, Thái Cực Viên, Thiên Thị Viên. Sở dĩ gọi là “viên” vì nó được bao bọc bởi các tinh tượng giống như tường vây vậy. Thái Vi Viên là Thượng Viên, Tử Vi Viên là Trung Viên, Thiên Thị Viên là Hạ Viên. Tử Vi Viên là trung tâm của trời là nơi Thiên Đế ngự trị. Thiên Đế cư trú trong Tử Cung hay Tử Vi Cung thuộc Tử Vi Viên.

Sử ký, Thiên Quan thư của Tư Mã Thiên viết: “Bấy giờ thiên văn đem chia tinh tượng thành 5 khu gọi là ngũ cung: Đông Cung, Tây Cung, Nam Cung, Bắc Cung và Trung Cung. Trung Cung (nằm ở Trung Viên) thuộc vùng sao Bắc Đẩu. Thiên Đế ngự ở Tử Cung hay ở Tử Vi Cung. Trong cung có ngôi sao sáng nhất gọi là sao Bắc Cực tượng trưng cho Thái Nhất (Thiên Đế)”.

Bằng tư tưởng thiên nhân hợp nhất Tần Thủy Hoàng cho rằng Thiên Đế ở Tử Vi Cung thì Hoàng Đế nhân gian cũng ở Tử Vi Cung. Khi xây dựng thành Hàm Dương và cung Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng đã phỏng theo Tử Vi Cung của sao Bắc Đẩu mà xây dựng. Các cung điện ở bốn mặt cũng phỏng theo vị trí các tinh tượng mà xây dựng.

2. Quy tắc cơ bản của việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc

Bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng xây cung Hàm Dương đã tận dụng kiến thức thiên văn như Tam viên, Tứ tượng, Âm dương, Ngũ hành để xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Tiếp theo các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã tuân theo nguyên tắc đó và hoàn thiện hơn trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Hoàng cung bao giờ cũng xây ở Cung Thành (Hoàng Thành, Tử Cấm Thành), bảo vệ bên ngoài có Thành Nội và Thành Ngoại gọi là Tam viên.

Bất kỳ hoàng cung nào cũng xây theo nguyên tắc Nam tiền triều, Bắc hậu tẩm. Tiền triều là dương nên to lớn uy nghi lẫm liệt. Tiền triều là dương động nên mọi việc thiết triều, bẩm báo, tấu lệnh, xuất quân chinh phạt... đều diễn ra ở tiền triều. Trung tâm của Tiền triều là Tử Vi Cung hay Thái Cực điện, thời Tống gọi là Sùng Nguyên điện, Càn Nguyên điện, Triều Thiên điện; thời Minh, Thanh gọi là Thái Hòa điện. Đấy là nơi vua ngự để thiết triều. Hậu tẩm ở phía sau Thái Cực điện. Hậu tẩm là âm nên nhỏ và ấm cúng. Hậu tẩm là âm nên tĩnh, là nơi ăn uống nghỉ ngơi.

Theo thuyết Ngũ hành thì Đông phương tòng Mộc tượng mùa xuân chủ sinh bởi vậy ở phía Đông của hoàng cung bao giờ cũng xây các công trình thuộc lĩnh vực văn trị, văn hóa như Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa... Cũng vì vậy cung Thái tử được xây ở phía Đông tượng trưng cho sự non trẻ, sinh sôi phát triển. Ở phía Đông còn xây Tổ Miếu, “Tả Tổ Miếu hữu Xã Đàn”. Con người đều nhờ vào tổ tông mà phồn diễn sinh hóa nên Tổ Miếu phải xây ở phía Đông.

Tây phương tòng kim tượng mùa thu, không phát triển chủ sát. Bởi vậy ở phía Tây của hoàng cung bao giờ cũng xây dựng các công trình thuộc lĩnh vực binh hình võ bị như Trung Thư khoa, Hình khoa, Binh khoa... Việc duyệt binh, diễn võ, xử án, tù tội đều ở phía tây.

Sinh đông tử tây, văn đông võ tây, khi thiết triều cũng tuân theo quy luật này. Mỗi khi thiết triều thì cứ an bài văn đông võ tây, quan văn chầu bên tả phía Đông, quan võ chầu bên hữu phía Tây. Quan văn đi theo cửa Đông Văn Lâu (cửa Sùng Văn) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Quan võ đi theo cửa Tây Vũ Lâu (cửa Tuyên Vũ) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Khi xuất chinh quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy.

Theo thuyết Ngũ Hành thì Đông thuộc Mộc mầu xanh, Tây thuộc Kim mầu trắng, Nam thuộc Hỏa mầu đỏ, Bắc thuộc Thuỷ mầu đen, Trung ương thuộc Thổ mầu vàng. Mầu sắc của hoàng cung cũng không ngoại lệ. Cung điện ở Trung ương như Tử Vi Cung, Thái Cực điện, Càn Nguyên điện sau gọi là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện... xây tường mầu hồng ngói mầu vàng. Cung thất ở phía Đông lợp ngói mầu lục mầu xanh nên còn gọi là Thanh Cung. Cung thất ở phía Bắc như Văn Uyên Các, thư phòng, nhà ăn... lợp bằng ngói mầu xám, đen. Mầu đen xám tượng Thủy, Thủy khắc Hỏa nên tránh được hỏa tai.

Ban đầu hoàng thành chỉ xây 4 cửa, sau này mới mở thêm các cửa phụ. Bốn cửa ấy tượng trưng cho Tứ tượng do bốn vị phương thần cai quản. Phía đông là Thanh Long, phía Tây là Bạch Hổ, phía Nam là Chu Tước, phía Bắc là Huyền Vũ. Thời Hán người ta đã dùng những viên ngói họa hình tứ phương thần để lợp các cung điện ở bốn phương, mong các thần bảo hộ cho hoàng cung. Thời Đường còn gọi cửa Nam của Hoàng Thành là cửa Chu Tước, cửa Bắc của Hoàng thành là cửa Huyền Vũ.

Thời Minh, Thanh khi xây dựng và cải tạo Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh người ta gọi Nam Môn là Ngọ Môn lại gọi là Ngũ Phong Lâu. Phong chính là tên gọi khác của thần Chu Tước. Cửa Bắc vẫn gọi là Huyền Vũ Môn, sau do kiêng huý vua Khang Hy nên gọi là Thần Vũ Môn. Ngoài ra tại Ngự hoa viên còn cho xây đền thờ tứ phương thần Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.

3. Việc xây dựng hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam

Về lịch sử hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam tương truyền vua Hùng xây cung điện ở Bạch Hạc (Phú Thọ). An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở Đông Anh, Đinh Bộ Lĩnh xây thành Hoa Lư, Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, Gia Long xây thành Phú Xuân nay là Cố đô Huế. Nói là xây dựng hoàng thành nhưng bao giờ cũng gắn với xây dựng hoàng cung. Những công trình hàng ngàn năm về trước nay đã bị hủy hoại rất nhiều. Loa thành và thành Hoa Lư chỉ còn dấu vết. Hoàng cung chỉ là đền thờ. Cố đô Huế còn nguyên vẹn, quy mô kiến trúc gần giống Cố Cung ở Bắc Kinh. Hoàng thành và hoàng cung các triều Lý - Trần - Lê ở Thăng Long là điều đáng quan tâm nhất. Khi dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, Lý Thái Tổ đã triệt để lợi dụng địa thế Đại La cao, có đê ngăn nước có núi có sông, “nội khí tràn đầy, ngoại thế mở rộng” để xây thành Thăng Long. Hoàng cung nhà Lý xây trong Tử Cấm Thành, tiền án có núi Long Đọi, hậu chẩm có núi Tam Đảo, Thanh Long có núi Yên Tử, Bạch Hổ có núi Tản Viên. Trong Thành có núi Nùng và Tam Sơn.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Lý Thái Tổ xây dựng cung điện ở trong Cung thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Vũ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính hướng nam là điện Cao Minh, đều gọi là thềm rồng; bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh bốn mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi; bên tả làm điện Nhật Quang, bên hữu làm điện Nguyệt Minh, đằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành đào hào, bốn mặt thành mở bốn cửa: phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi là cửa Điệu Đức. Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và lầu Ngũ Phượng Tinh, ở ngoài thành làm chùa Thắng Nghiêm ở phía Nam”.

Sách Thăng Long cổ tích khảo chép: “Núi Nùng ở chính giữa kinh thành có tên gọi nữa là Long Đỗ. Núi hình tròn đỉnh núi bằng phẳng cây cối um tùm gần với Tây Hồ. Phía sau có Tam Sơn làm gối, sơn thủy hữu tình là thắng cảnh của đô thành. Lý Thái Tổ định đô đã xây chính điện trên núi này. Thường có đôi hạc bay đến nhảy múa ở nơi vua ngự. Cơ đồ nhà Lý xuy vi không thấy đôi hạc đâu nữa”.

Như vậy Càn Nguyên điện của triều Lý mà triều Lê gọi là Kính Thiên điện, Vạn Thọ điện được xây trên núi Nùng. Từ núi Nùng về phía Nam là tiền triều, từ núi Nùng về phía Bắc là hậu tẩm. Trước Kính Thiên điện là Đoan Môn hay Ngọ Môn. Phía trái cạnh Đoan Môn là cửa Văn Lâu, phía phải cạnh Đoan Môn là cửa Vũ Lâu. Quan văn theo cửa Văn Lâu mà vào, quan võ theo cửa Vũ Lâu mà vào. Khi đi chinh phạt thì quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy. Phía Đông của Kính Thiên điện là Đông Cung và Thái Miếu. Phía Tây Kính Thiên điện là Chí Kính điện, Giảng Võ điện. Tất cả đều tuân theo quy tắc văn đông võ tây, sinh đông tử tây, tả (Đông) Tổ Miếu (Thái Miếu) hữu (Tây) Xã Đàn.

Thời Lý chưa thấy tài liệu nào nói bốn phía của kinh thành Thăng Long lập đền thờ tứ phương thần là Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ. Nhưng nay vẫn thấy đền thờ Chu Tước ở trại Văn Hương (nay là ngõ Văn Hương) làng Văn Chương (quận Đống Đa - Hà Nội). Còn Trấn Vũ Quán thờ Huyền Vũ thì đã được khẳng định xây từ thời Lý. Quán xưa ở phía Đông bắc kinh thành Thăng Long nay nằm trên đường Thanh Niên quận Ba Đình, Hà Nội.

Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép: “Trước tiết lập xuân 1 ngày, Bộ Công cho rước một con trâu bằng đất nung mang đến đàn ở phường Đông Hà (khu vực đền Bạch Mã Cửa Đông - Hà Nội). Đúng tiết lập xuân Phủ doãn phủ Phụng Thiên và quan huyện Thọ Xương, Quảng Đức lấy cành dâu đánh vào con trâu đất rước vào điện vua làm lễ. Lễ cầu thời tiết thuận hòa mùa màng bội thu, người và vật đều khỏe mạnh”.

Lễ này thể hiện việc cầu sinh sôi phát triển tại phía Đông vào mùa xuân. Còn mùa thu, mùa không phát triển chủ sát người ta đã đưa tử tù ra trại Kim Mã phía Tây kinh thành Thăng Long để hành quyết. Nơi đây vẫn còn nghĩa địa chôn cất tử tù. Tương truyền chùa Kim Sơn lập nên để tế độ cho các vong hồn tử tù.

Giảng Võ điện được xây ở gần núi Khám Sơn phía Tây kinh thành Thăng Long. Có thuyết cho Giảng Võ điện được xây trên núi Khán Sơn. Dù xây ở đâu thì Giảng Võ điện cũng là nơi vua ngự để xem đấu võ tập bắn.

Long Biên bách nhị vịnh chép: “Núi Khán Sơn ở phía Tây điện Nùng Sơn trong nội thành. Sử ký chép khoảng năm Thuận Thiên (1428 - 1433) vua Lê Thái Tổ xây điện Giảng Võ trên núi Khán Sơn. Vua thường ra để xem tập bắn”.

Nhận xét

Vấn đề xây dựng hoàng thành, hoàng cung là công việc lớn lao bậc nhất của một nhà nước phong kiến. Để xây dựng hoàng thành, hoàng cung các triều đại đã phải bỏ ra không biết bao tiền của và công sức. Đặc biệt phải biết vận dụng rất nhiều kiến thức khoa học như địa chất, địa lý, thủy văn, phong thủy, toán học, thần học, kiến trúc, hội họa... Trong bài viết này chỉ mong đề cập đến một vài khía cạnh của thiên văn học kết hợp với thần học trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung, bởi đây là những vấn đề rất cần quan tâm tìm hiểu.

H. G

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách Hán Nôm

1. Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư. Ký hiệu A.3/1-4.

2. Thăng Long cổ tích khảo. Ký hiệu VHv.2471.

3. Long Biên bách nhị vịnh. Ký hiệu A.1310.

Sách Trung Quốc

1. Lưu Quốc Quân Thần mật đích tinh tượng, Quảng Tây nhân dân xuất bản xã, Nam Ninh, 1992.

2. Lưu Quốc Quân Hoàng cung quy chế, Hoa Trung lý công đại học xuất bản xã, Hồ Bắc, 1994.

TB

NGHIÊN CỨU VÀ KHAI THÁC GIÁ TRỊ CỦA
GIA PHẢ, KINH NGHIỆM PHẢ ĐIỆP HỌC
TRUNG QUỐC

PHAN VĂN CÁC

Gia phả là hình thái thư tịch đặc biệt dùng hình thức biểu phả để ghi chép sự phồn diễn thế hệ và sự tích các nhân vật quan trọng của một gia tộc lấy quan hệ huyết thống làm sợi dây xuyên suốt. Gia phả có giá trị nhiều mặt cần được nghiên cứu khai thác. Trung Quốc là nước sớm có gia phả, số lượng gia phả hiện có nhiều nhất và có truyền thống Phả điệp học phát triển, hơn nữa bởi lẽ các gia phả Việt Nam trước đây đều viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, về phương diện văn hóa và nhất là văn tự có rất nhiều điểm giống với gia phả Trung Quốc, việc học hỏi tham khảo kinh nghiệm gia phả học Trung Quốc là rất bổ ích. Dưới đây xin giới thiệu một số kinh nghiệm Phả điệp học Trung Quốc trên phương diện nghiên cứu và khai thác các giá trị của gia phả.

Về thời điểm cụ thể ra đời gia phả ở Trung Quốc, từ xưa đến nay có nhiều thuyết khác nhau, nhưng quy nạp lại trong giới học thuật Trung Hoa từng có 4 quan điểm chính:

- Quan điểm cho rằng sự khởi đầu từ thời Tống;

- Quan điểm khởi đầu từ thời Chiến Quốc - Tần Hán;

- Quan điểm khởi đầu từ thời Chu;

- Quan điểm khởi đầu từ thời Ân Thương.

Đến nay được biết, mảnh giáp cốt kí hiệu Khố (庫) 1506, được định niên đại thời Vũ Đinh (武 丁), ông vua thứ 23 thuộc thế hệ thứ 10 của nhà Thương, cách nay khoảng trên 3200 năm, trong đó ghi chép được 13 tên người, 11 người có quan hệ cha con và 2 người có quan hệ anh em, nghĩa là chép thế hệ 11 đời, nếu tính bình quân mỗi đời 30 năm thì lịch sử gia tộc này có thể đẩy sớm thêm 3 thế kỉ nữa. Đây là tư liệu gia phả sớm nhất của Trung Quốc và cũng là của thế giới.

Từ khi ra đời đến nay, gia phả ở Trung Quốc đã có các tên gọi khác nhau như: phả, lục, kí, chí, bạ, thặng, điệp, sử, hệ, tập, khảo, biên, truyện...; kết hợp với các chữ chỉ dòng họ như gia, tộc, tông, thế, thế hệ, thế gia, tính, chi, bản chi, thị tộc, thống tông, tông thế... (giới phả lục Trung Quốc đã thống kê có trên 80 loại). Riêng từ gia phả thì sớm nhất thấy Vương thị gia phả (王 氏 家 譜) dẫn trong Thế thuyết tân ngữ chú (世 說 新 語 註) của Lưu Hiếu Tiêu (劉 孝 標) thời Lục Triều, còn trong Văn tuyển chú (文 選 註) của Lí Thiện (李 善) đầu đời Đường thì ngoài Vương thị gia phả còn dẫn Nhan thị gia phả; ngoài ra Tùy thư Kinh tịch chí (隨 書 經 籍 誌) có chép Dương thị gia phả trạng cập mộ kí (楊 氏 家 譜 狀 及 墓 記); các bộ gia phả này đều do người thời Nam Bắc triều soạn, như vậy từ gia phả đã ra đời trước thời Nam Bắc triều là điều chắc chắn.

Khi đặt tên cho gia phả, thì trước hai chữ gia phả, soạn giả thường ghi tính thị (tên họ), địa danh, quân vọng (nơi phát tích dòng họ), đường hiệu (tên từ đường, để phân biệt các gia tộc hoặc các chi phái) và kỉ tu (biên soạn hoặc sửa chữa lần thứ mấy), thí dụ: Phần Hồ Liễu thị đệ tam thứ toản tu gia phả (汾 湖 柳 氏 第 三 次 纂 修 家 譜), Hoàng Sơn Vương thị Phụ đức đường chi phả (黃 山 王 氏 輔 德 堂 支 譜).

Riêng gia phả nhà vua thì thường gọi là Ngọc điệp (玉 牒). Gia phả các hoàng thất thì có từ xưa bởi vì xã hội cổ đại Trung Hoa xây dựng trên nền tảng chế độ tông pháp phong kiến quân chủ thế tập, các triều đại thường đặt hẳn cơ quan chuyên môn ghi chép biên soạn, hình thành nên hệ thống gia phả hoàng thất đời này sang đời khác, ngày nay gọi là hệ thống ngọc điệp. Nhưng từ ngọc điệp được bắt đầu sử dụng từ bao giờ thì ngày nay không thể khảo chứng được, chỉ biết là không muộn hơn năm thứ 2 Đại Hòa (大 和) thời Đường Văn Tông (828).

Tất cả ngọc điệp từ đời Đường về trước đều đã mất, đến nay chỉ còn phả điệp hoàng tộc từ đời Tống.

Trừ phả điệp hoàng tộc ra, thì trong dân gian, gia phả họ Khổng là có dung lượng lớn nhất, ghi chép thế hệ gia tộc dài lâu nhất, đáng tin cậy nhất và ảnh hưởng rộng nhất, mang tên Khổng Tử thế gia phả (孔 子 世 家 譜). Khổng Phủ biên soạn sửa chữa, gia phả đã in ra nhiều lần, song nay chỉ còn 4 loại: bản in niên hiệu Thiên Khải (天 啟) đời Minh, bản in niên hiệu Khang Hi, Càn Long đời Thanh, và bản in thời Dân quốc. Bản thời Dân quốc gồm 4 tập, 108 quyển và một quyển thủ là 109, hơn 9.900 trang, đóng thành 154 sách.

Con số gia phả hiện lưu giữ ở Trung Quốc chưa ai thống kê được. Các nhà Phả học ở Trung Quốc chỉ đưa ra được một con số ước lượng khoảng 30.000, hiện đang biên soạn Trung Quốc gia phả tổng mục (中 國 家 譜 總 目), sách này biên soạn xong sẽ cho một con số chuẩn xác tin cậy. Đài Loan khu tộc phả mục lục cho biết ở Đài Loan có hơn 106.000. Ngoài ra, các thư viện ở Mĩ lưu giữ khoảng 20.000 loại tư liệu gia phả Trung Quốc, Nhật Bản khoảng hơn 1.500 bộ.

*
**

Trong lịch sử Trung Quốc, trải qua các thời kì, giá trị của gia phả có sự thay đổi trên các mặt xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa. Từ đời Thương - Chu đến đời Hán, tác dụng chủ yếu của gia phả là thờ cúng tổ tiên, chứng minh huyết thống, phân biệt thế hệ, đồng thời cũng là chỗ dựa để kế thừa quyền lực và tài sản. Sau xã hội môn phiệt Ngụy Tấn - Nam Bắc triều, tầm quan trọng của gia phả về chính trị - xã hội tăng lên rõ rệt: tác dụng chủ yếu của gia phả là chứng minh môn đệ, làm quan cũng như dựng vợ gả chồng và giao tiếp xã hội đều dựa vào gia phả, gia phả trở thành một công cụ chính trị. Đời Tùy - Đường, chọn kẻ sĩ bằng khoa cử, nên tác dụng chính trị của gia phả trong việc tuyển quan lại giảm đi, còn tác dụng về phương diện hôn nhân thì tăng lên. Từ đời Tống về sau, tuyển sĩ và hôn giá đều không coi trọng môn đệ nữa, viết gia phả trở thành việc riêng nội bộ của gia tộc, cốt để ghi chép lịch sử gia tộc, giữ cho huyết thống được thuần khiết, tôn tổ, kính tông, đoàn kết hòa mục trong các thành viên gia tộc, giáo dục con cháu, đề cao địa vị và danh tiếng của gia tộc mình trong xã hội; chức năng giáo dục của gia phả tăng cường rõ rệt, trong gia phả xuất hiện nhiều các thiện cử ân vinh của tổ tiên, các lời gia huấn, gia châm ít nhiều có tác dụng truyền bá luân lí phong kiến, ổn định trật tự xã hội. Vì thế việc biên soạn gia phả từ đời Đường về trước cũng như từ đời Tống về sau đều được nhà nước phong kiến ủng hộ và khuyến khích. Ngoài ra thời Minh - Thanh, chế độ khoa cử đều quy định chỉ tiêu số lượng lấy đỗ cho các địa phương, nhiều học trò đi thi đã mạo đổi quê quán, chuyển đến những vùng văn hóa kém phát triển để dự thi, mong dễ đỗ hơn, tựa như nay ta thi vào đại học học sinh chuyển vùng trong hồ sơ để được điểm ưu tiên, vì thế thường xảy ra tố tụng. Khi đó gia phả có tác dụng chứng minh. Đời Thanh, kì nhân tập tước hay ra làm quan đều phải xuất trình gia phả làm bằng cứ, đó có lẽ là tác dụng chính trị cuối cùng của gia phả.

Ngày nay, với tư cách là một loại tư liệu lịch sử, gia phả có tác dụng quan trọng giúp chúng ta hiểu biết quá khứ. Giá trị của gia phả đại thể biểu hiện trên các mặt sau:

1. Gia phả có giá trị tư liệu quyền uy đối với việc nghiên cứu các nhân vật cổ đại. Tra cứu khảo sát các nhân vật thời xưa, chủ yếu là thông qua truyện kí trong chính sử, các văn tập, bút kí và phương chí cổ. Với một số nhân vật không nổi tiếng lắm, thì các loại tư liệu trên ít khi đề cập, thảng hoặc có nhắc đến thì cũng chỉ đôi nét đơn sơ, ngay cả một số nhân vật nổi tiếng, có khi cũng rơi vào tình trạng tương tự. Nhưng gia phả thì khác, đặc điểm của gia phả là ghi chép các nhân vật của gia tộc, trong các bản thế hệ lục, dưới mỗi tên người đều ghi rõ thuộc chi nào, nhánh nào, danh, tự, hiệu, hàng đệ (con thứ mấy), ngày giờ tháng năm sinh - mất, hưởng thọ, vợ cả vợ lẽ, con trai con gái, mộ táng ở đâu, đặc biệt là về công danh, quan tước, ghi chép khá tỉ mỉ, về văn chương còn thu thập cả hành trạng hữu quan, truyện ký, mộ chí v.v..., các nhân vật trọng yếu của gia tộc còn chép cả tiểu sử và tác phẩm, có khi cả thơ văn đối trướng mừng thi đỗ, mừng bổ dụng và nhất là phúng viếng tang ma. Những tư liệu này dĩ nhiên có thể có phần khoa trương, đề cao, nhưng đại đa số là có thể tin cậy được. Qua gia phả, chúng ta chẳng những có thể biết về bản thân nhân vật mình đang nghiên cứu mà còn có thể biết cả thế thứ của họ, cả tổ tiên và con cháu họ. Dùng tư liệu gia phả có thể đính chính được nhiều điểm sai sót nghi vấn trong tiểu sử nhân vật. Nhờ nghiên cứu Ngũ khánh đường trùng tu Liêu Đông Tào thị tông phả (五 慶 堂 重 修 遼 東 曹 氏 宗 譜), người ta khảo chứng được quê tổ của Tào Tuyết Cần tác giả Hồng lâu mộng là Liêu Dương, sau dời đến ở Thẩm Dương, không phải như trước kia thường nói là ở Phong Nhuận, Hà Bắc; tổ tiên của Tào Tuyết Cần vốn là võ quan triều Minh, trong chiến tranh đã đầu hàng người Mãn, ban đầu lệ thuộc vào Hán quân kì, sau mới đổi về Mãn Châu chính bạch kì (滿 洲 正 白 旗). Sử dụng tư liệu gia phả đã giải quyết được một nghi vấn lớn trong Hồng học là vấn đề quê tổ và kì tịch (旗 籍)(1) của Tào Tuyết Cần. Hay như qua Lâm Lí tông phả (林 李 宗 譜) ở Tuyền Châu (泉 州), người ta khảo chứng được rằng nhà tư tưởng Lí Chí (李 贄) đời Minh, vốn họ Lâm, tên là Tải Chí (載 贄), bố và ông nội đều theo đạo Ixlam, bản thân ông cũng có huyết thống Ả-rập hoặc Ba Tư. Giáp sơn Bắc loan Tôn thị tông phả (甲 山 北 灣 孫 氏 宗 譜) mới phát hiện gần đây ở Tô Châu có giá trị tham khảo quan trọng làm rõ thêm thân thế, tính danh của Tôn Tử và quan hệ của ông với Tôn Tẫn. Giới nghiên cứu trước đây thường cho rằng Tôn Tử tên là Vũ, tự là Trường Khanh (長 卿), là cháu 8 đời của Điền Hoàn (田 完). Nhưng phả chép Tôn Tử tên là Khai (開), tự là Tử Cương (子 疆), là cháu 6 đời của Điền Hoàn, phả còn chép Tôn Tẫn là chắt chứ không phải cháu của Tôn Tử như giới sử học trước đây vẫn nói, và ghi rõ Khai (Tôn Tử) sinh ra Minh (明), Minh sinh ra Khiên (岍), Khiên sinh ra Tẫn (臏). Mặc dù thời đại hoạt động của Tôn Tử với Tôn Tẫn cách nhau hơn 140 năm, trước đây có học giả đã ngờ rằng nếu chỉ cách 3 đời thì dường như chưa đủ, nhưng khổ nỗi không có chứng cứ, nay phát hiện được bản phả này, vấn đề hoàn toàn được giải quyết. Những năm gần đây, nhiều gia phả lần lượt được phát hiện như Hồng thị tông phả (洪 氏 宗 譜), Tân thị tông phả (辛 氏 宗 譜), Tử Dương Chu thị Kiến An phả (紫 陽 朱 氏 建 安 譜), Nhạc thị tông phả (岳 氏 宗 譜), Dương gia tông phả (楊 家 宗 譜), Tống thị tông phả (宋 氏 宗 譜), Phú Điền Văn thị tộc phả (富 田 文 氏 族 譜), Triệu thị gia phả (趙 氏 家 譜), Nhuận Châu Bao thị gia phả (潤 州 包 氏 家 譜)... đã cung cấp cho giới nghiên cứu nhiều tư liệu quý báu cho phép hiểu thêm tuổi thanh thiếu niên của Hồng Tú Toàn, Tân Khí Tật, Nhạc Phi, Dương Gia Tướng, Tống Ưng Tinh, Văn Thiên Tường, Triệu Khuông Dậu, Bao Chửng... cùng với sự tích của hậu duệ các nhân vật lịch sử ấy.

2. Gia phả cũng là sử liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử dân số. Thế thứ trong gia phả là bộ phận cơ bản nhất của gia phả, trong đó ghi tỉ mỉ việc sinh tử của người họ, chi tiết và tin cậy hơn tài liệu quan phương. Qua gia phả, có thể tìm hiểu số lượng nhân khẩu, kết cấu nhân khẩu, tốc độ và nguyên nhân tăng giảm dân số, cấu thành xã hội nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, trình độ văn hóa, tuổi thọ v.v.. của nhân khẩu trong gia tộc qua các thời kì.

3. Gia phả cung cấp tư liệu cơ bản nhất để nghiên cứu chế độ tông tộc thời phong kiến. Chế độ tông tộc là bộ phận tổ thành quan trọng của quan hệ tông pháp phong kiến. Gia phả giới thiệu và thể hiện chế độ tông tộc phong kiến rất toàn diện. Gia phả ghi chép về sự cấu thành tông tộc, về tổ chức, quy mô, kết cấu, chức năng, phạm vi quản lí của từ đường và quan hệ của từ đường với quan phủ..., về loại hình, số lượng, sự hình thành, phương thức kinh doanh và cách sử dụng thu nhập của các tài sản thờ tự, về quy mô, phạm vi thu nhận học sinh, nguồn vốn, phương thức duy trì và nội dung khen thưởng của trường học gia tộc v.v... Các điều tộc ước, tông quy, gia huấn, gia châm ghi trong gia phả là dùng đạo đức luân lí phong kiến để ràng buộc quan niệm tư tưởng của người trong gia tộc. Quy chế của từ đường cùng gia lễ đã quy định các chuẩn mực hành vi cùng lễ nghi tế tự, tang hôn, kể cả việc không cho làm một số nghề nào đó, cho đến trình tự lập tự, thừa tự và những biện pháp trừng phạt khi vi phạm... Thần quyền, tộc quyền và phu quyền phong kiến đều thể hiện rõ trong gia phả, thể hiện tập trung hơn ở các loại hình tư liệu khác rất nhiều.

4. Gia phả cũng cung cấp những tư liệu “bàn nhất” cho việc nghiên cứu vấn đề di dân. Trong lịch sử Trung Quốc, luôn luôn diễn ra sự lưu động dân số ở các triều đại. Bất kì một cuốn gia phả nào cũng ghi chép nguồn gốc và tình hình di chuyển của dòng họ, cụ tổ của gia tộc mình từ đâu chuyển đến, nguyên nhân dời chỗ ở, đi qua những đâu rồi đến định cư ở đất này v.v. đều có trình bày rõ. Ngoài ra, sau khi gia tộc định cư ở đây, lại có chi nhánh nào dời đi, do nguyên nhân gì, số lượng người đi, dời chỗ ở đến đâu, đời sống của di dân, quan hệ giữa di dân với người bản địa... đều có ghi chép. Nếu tiến hành phân tích tư liệu di dân trong hàng loạt gia phả, thì kết luận rút ra đại thể sẽ khớp với kết luận của một số nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu lịch sử phân bố tính thị Trung Quốc qua các triều đại, từ góc độ di truyền học. Ngoài ra qua việc khảo sát tình hình phát triển của một số dân tộc ở những thời đại khác nhau và địa vực khác nhau, cũng có thể thấy được những vấn đề này. Thí dụ như qua khảo sát gia phả dân tộc Xa (畬) ở Chiết Giang, có thể hiểu được rằng dân tộc Dao ngày nay cư trú ở Chiết Giang đều mới thiên di đến từ Minh sơ về sau, trước Minh sơ ở Chiết Giang không có dân tộc Xa. Hay như nghiên cứu tư liệu di dân trong gia phả ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, người ta phát hiện được tầm quan trọng của huyện Hồng Động tỉnh Sơn Tây trong cuộc di dân đại quy mô những năm đầu triều Minh.

5. Gia phả trở thành nhân tố quan trọng liên hệ đoàn kết người Hoa hải ngoại, tăng cường sức ngưng tụ dân tộc. Từ thập kỉ 60 thế kỉ XX đến nay, trên thế giới đã có cả một cao trào “tìm về cội nguồn”. Từ giữa và cuối thập kỉ 70, người da đen quốc tịch Mĩ A.likx Ha-li qua việc tham quan thực địa và tìm đọc gia phả, viết nên tác phẩm Cội nguồn nổi tiếng thế giới, thì cơn sốt tìm về cội nguồn càng dâng cao. Dân tộc Trung Hoa từ xưa vốn có truyền thống văn hóa tôn tổ kính tông, nhớ về nguồn cội. Hoa kiều ở trên thế giới hiện có trên 55 triệu, phân bố ở hơn 100 quốc gia và khu vực khắp năm châu, mặc dù phần lớn đã nhập quốc tịch nước sở tại, song vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa dân tộc. Trong ngót một vạn xã đoàn người Hoa trên thế giới, thì các tổ chức có tính chất huyết thống mà tiêu biểu là hội dòng họ, Hội đồng hương, chiếm tỉ lệ rất cao và gia phả đang phát huy tác dụng tích cực.

6. Gia phả trở thành công cụ đắc lực xúc tiến công cuộc hòa bình thống nhất hai bờ, chống lại chủ trương đòi tách Đài Loan độc lập, phục vụ tích cực cho chính sách “một nước Trung Quốc” của Đảng và Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Ngoài ra, gia phả còn cung cấp nhiều tư liệu tin cậy cho việc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử địa phương, kết cấu và chức năng của gia đình, cơ cấu xã hội, địa vị của phụ nữ, ưu sinh học, dân tục học, kinh tế sử, lịch sử khoa học kĩ thuật, lịch sử tôn giáo, quan hệ với nước ngoài v.v.

Trên thực tế, người xưa cũng đã sớm nhận thức được giá trị của gia phả và đã đánh giá rất cao. Bùi Tùng Chi (裴 松 之) thời Nam Bắc triều chú Tam quốc chí (三 國 志), Lưu Hiếu Tiêu chú Thế thuyết tân ngữ, Ngụy Thu (魏 收) viết Ngụy thư (魏 書), Âu Dương Tu đời Tống soạn Tân Đường thư (新 唐 書) đều đã từng sử dụng nhiều tư liệu gia phả. Trịnh Tiều (鄭 樵) đời Tống, Chương Học Thành (章 學 誠) đời Thanh, Dịch Hi Ngô (易 熙 吳) thời cận đại... đều đã giới thiệu và bình giá về giá trị của gia phả.

Tuy nhiên, do chỗ gia phả đều do tư nhân biên soạn, nên có những điều ghi chép không thực, nói quá sự thật, nhất là trên các phương diện công danh, thành tích trị nhậm... của tiền nhân, thậm chí có cả những điều giả thác, cố tình bịa đặt tô vẽ, mà khi sử dụng, ta không thể nhắm mắt nghe theo, trái lại phải có sự giám định, sàng lọc cẩn thận.

Tình trạng bịa đặt ngụy tạo trong gia phả vốn có nguồn gốc từ xưa và đã kéo dài trong lịch sử. Là một tư liệu gia tộc, gia phả tất nhiên có ý thức tự ngã rất mạnh. Đồng thời, gia phả còn có tác dụng tự khoe, đề cao lòng tự hào gia tộc, nhằm thúc đẩy đoàn kết nội bộ gia tộc và đề cao vai trò địa vị của gia tộc trong xã hội. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, văn hóa Nho gia là dòng chính trong ý thức xã hội, nhiều gia tộc trong khi biên soạn gia phả đã có ý thức hoặc không có ý thức nhào nặn hình tượng tổ tiên theo lễ giáo Nho gia, nên đã “ẩn ác dương thiện”, đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lại. Mặc dù rất nhiều gia phả ở lời nói đầu thường có khẩu hiệu thật hay ho, những là “chép theo sự thực”, “tín dĩ truyền tín, nghi dĩ truyền nghi”, những là “bất hư thực, bất ẩn ác” v.v.; nhưng rất ít gia phả làm đúng được như vậy mà ở đại đa số gia phả vẫn tồn tại các căn bệnh như nhận nhằng tổ tiên, mạo nhận danh tộc, “thấy người sang bắt quàng làm họ”, bịa đặt thế hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị sử liệu của gia phả.

Tình trạng bịa đặt ngụy tạo trong gia phả Trung Quốc đã diễn ra từ thời Tề, Lương Nam triều, nổi bật là việc Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành (簫 道 成) được ghi rõ là cháu 24 đời của Tiêu Hà (簫 何) khai quốc công thần đời Tây Hán, chép trong Nam Tề thư, Cao Đế kỉ (南 齊 書 高, 帝 紀), và Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (簫 衍) là cháu họ Tiêu Đạo Thành tức là cháu 25 đời của Tiêu Hà ghi trong Lương thư, Vũ Đế kỉ (梁 書, 武 帝 紀).

Khảo sát tình trạng bịa đặt ngụy tạo trong gia phả qua các triều đại, giới phả học Trung Quốc đã quy nạp thành 6 dạng biểu hiện dưới đây:

1. Nhận nhằng tổ tiên: Khi truy tìm nguồn gốc dòng họ, thường có tình trạng “thấy người sang bắt quàng làm họ”, vin rồng dựa phượng lấy đế vương khanh tướng, quý trụ danh thần thời Thượng cổ hoặc thời Hán Đường làm thủy tổ hoặc viễn tổ của họ mình. Tình trạng đó có từ xa xưa, trở thành căn bệnh phổ biến trong gia phả, đời Tống đời Nguyên về sau lại càng rõ rệt, đến thời Minh Thanh đạt tới đỉnh cao, ngay cả các vị phả học đại sư như Âu Dương Tu (歐 陽 修), Tô Tuân (蘇 詢) cũng không thoát khỏi. Trong gia phả của mình Âu Dương Tu đẩy viễn tổ lên đến Hạ Vũ (夏 武), ở giữa kinh qua Việt Vương Câu Tiễn; Tô Tuân thì lấy Chuyên Húc (顓 頊) làm thủy tổ, và Chúc Dung (祝 融) cũng là tiên nhân trong họ. Đến thời Minh Thanh, lại càng phổ biến, thông thường hễ là gia phả họ Lâm, thì ắt đẩy lên đến Tỉ Can (比 干), họ Trần thì phải đến Trần Vũ Đế Trần Bá Tiên (陳 霸 先) thời Nam triều, họ Lí thì phải đến Lí Nhĩ (李 耳) và Lí Thế Dân (李 世 民), họ Hồng đến Cung Công (共 工), họ Trương đến Trương Lương (張 良), họ Viên đến Viên Thiệu (袁 紹), đến Hậu Tắc (后 稷 ), họ Ngô đến Thái Bá (太 伯), họ Khương đến Khương Thượng (姜 尚), họ Tiền (錢) đến tận Thiếu Điển (少 典), Hoàng Đế (皇 帝)... Có gia tộc còn lôi cả nhân vật thần thoại vào làm thủy tổ của mình.

2. Nêu địa vọng lung tung, nhằm đề cao địa vị của gia tộc. Tệ này trong gia phả xem ra còn bừa bãi hơn cả tệ nhận nhằng tổ tiên. Phàm gia phả họ Vương thì ắt xuất xứ từ Lang Nha (琅 玡), họ Lí ắt từ Lũng Tây (隴 西) đến, họ Trương ắt từ Thanh Hà (清 河), họ Lưu ắt từ Bành Thành (彭 城), họ Châu (周) từ Nhữ Nam (汝 南), họ Cố từ Vũ Lăng, họ Chu (朱) từ Bái Quốc (沛 國), họ Chung (鍾) từ Dĩnh Xuyên (潁 川)... thành một thông lệ.

3. Liệt kê rất dài các thế hệ, song không đáng tin cậy. Các gia phả từ Minh - Thanh lại đây, thường chép viễn tổ hoặc thủy tổ đến tận thời viễn cổ, rồi ghi các thế hệ hết sức rõ ràng, mấy mươi đời, thậm chí đến trăm đời, đâu ra đấy rất rành rọt. Nhưng thực tế thì sao? Thật ra nếu là gia phả viết lần đầu thì trong phạm vi mười đời còn có thể tin được chứ mười đời trở lên thì phải tồn nghi; nếu là gia phả viết tiếp, thời gian gián cách không dài, thì phần liên tục có thể tin, còn gián cách dài thì hãy tồn nghi. Khi viết gia phả mới, tư liệu phần nhiều là do hồi ức, hoặc chép ở “sử” ở “chí” ra, thì ở những chỗ ghép nối dễ có sự gán ghép, ít độ tin cậy. Ngay cả Khổng Tử thế gia phả vẫn được coi là chép các thế hệ rành rọt đáng tin cậy nhất Trung Quốc thì ở một số đời vẫn còn có chỗ phải bàn.

4. Trong gia phả một số dòng họ di cư đến nơi mới về sau phát đạt lên, thì phần nhiều người ta “sáng tác” rất nhiều ở vị tổ di cư này.

5. Vẽ vời, bịa đặt công danh, quan tước cho tiền nhân. Khốn nỗi tác giả của những gia phả này sống ở đời sau, lại thiếu kiến thức lịch sử nên công danh, quan tước bịa ra không khớp với triều đại ấy.

6. Viết cái đẹp tốt, không viết cái xấu xa. Hầu như tất cả các gia phả đều có khoản “bất thư” (不 書) tức là những tiêu chuẩn không cho phép “nhập phả”, phần nhiều là quy định những trường hợp “bất đạo, loạn luân, loạn tông, tuyệt nghĩa, nhục tiên” (不 道, 亂 倫, 亂 宗, 絕 義, 辱 先) thì không được vào gia phả. Thế là trong các gia phả đều chỉ có người tốt, chính nhân quân tử, hầu như không có người xấu. Có nghĩa là hễ người xấu, thì dù đích thực là tổ tiên mình, cũng không thừa nhận. Thí dụ như họ Dương (楊) ở Việt Châu (越 州) vốn là hậu duệ của Tùy Dạng Đế (隨 煬 帝), nhưng vì ông này ô danh quá nên gia phả không thừa nhận. Nên mới có tình trạng là những nhân vật đại gian đại ác trong lịch sử như Lí Lâm Phủ (李 林 甫), Tần Cối (秦 檜) thì trong gia phả không tìm thấy, dường như họ chẳng có tổ tiên cha mẹ, cũng không có con cháu gì, chẳng biết ở đâu mọc ra.

7. Để đạt mục đích lòe đời, người ta nhờ đến những nhân sĩ tiếng tăm cùng họ hoặc khác họ làm sang cho gia phả của mình. Chẳng hạn như đưa vào gia phả những lời vua ban như thánh chỉ, sắc thư, thượng dụ, tứ phi (thơ vua ban) và những văn thơ nhà nước như cáo thị, công văn; rồi mời các danh thần thạc nho đề tựa viết bạt cho gia phả, mời các nhân vật nổi tiếng trong họ đề tựa, viết tán từ, tụng phi... Nhưng những người viết phả dân gian phần nhiều không phải học giả, thiếu tri thức chuyên môn và thường thức lịch sử, nên trong những điều bịa đặt lộ ra những sai sót sơ đẳng về kiến thức niên đại, quan chức, địa danh diên cách..., xem biết ngay là bịa đặt, gắn ghép.

Bởi thế, gia phả tuy là một nguồn sử liệu quý giá không gì thay thế được, nhưng cũng chứa đựng không ít thông tin giả, người sử dụng phải hết sức thận trọng, phải biết đối chiếu với các nguồn tư liệu khác để sàng lọc, lựa chọn.

P.V.C

CHÚ THÍCH

(1) Kì tịch: Tổ chức quân đội và biên chế hộ khẩu của tộc Mãn đời Thanh, gọi theo hiệu cờ có 8 kì. Về sau đặt thêm Mông Cổ bát kì và Hán quân bát kì.

TB

VIỆC SỬ DỤNG CHỮ NÔM TRONG
LOẠI HÌNH PHẢ KÝ

HOÀNG THỊ NGỌ

Mặc dù chữ Hán là văn tự chính thức của nhà nước phong kiến nhưng chữ Nôm văn tự cổ của dân tộc đã phát triển, hoàn thiện và trở thành một bộ phận đáng kể trong nền văn hóa dân tộc. Chữ Nôm với tính cách là một văn tự đã được sử dụng trong hầu hết các loại hình văn bản. Trong loại hình phả ký, chữ Nôm hỗ trợ đắc lực cho chữ Hán và ngày càng khẳng định vai trò, khả năng ghi phả của mình. Bởi vậy, các văn bản phả ký chính là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, phong phú cho các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và ngành Hán Nôm học nói riêng.

Theo quan niệm của chúng tôi trong bài này thì phả ký bao gồm các loại phả, như: ghi về các họ tộc với các tên gọi như: ngọc điệp, ngọc phả, gia phả, thế phả, tộc phả, thị phả, phả hệ, chi phả...; ghi về lịch sử các cá nhân có công đức, có tài nổi tiếng lúc đương thời, được truyền tụng mãi mãi có tên gọi như thần phả, ngọc phả, phả lục, niên phả...

Qua thực tế tiếp xúc với các bản phả trong các làng xã khi đi làm công việc sưu tầm và sơ bộ khảo sát các bản phả có trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi thấy rằng trong loại hình phả ký, chữ Nôm được sử dụng như sau:

1. Ghi địa danh, tên người:

Có lẽ ở giai đoạn đầu trước thế kỷ XVIII, tuyệt đại đa số các bản phả đều được ghi bằng chữ Hán. Chữ Nôm chỉ mới được sử dụng hỗ trợ cho chữ Hán để ghi tên người, tên làng xã, xứ đồng theo cách gọi riêng của người Việt tức là ghi những từ không tìm thấy ký hiệu trong hệ thống văn tự Hán. Sau này, khi tiếng Việt ngày càng phong phú hơn, chữ Nôm đã phát triển hoàn thiện hơn, nhu cầu ghi chép phả, đọc phả ngày càng đòi hỏi nhiều hơn thì việc ghi địa danh như tên làng xã, tên xứ đồng và tên người ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Trong mỗi loại phả lại có những cách viết khác nhau. Bởi vậy mà chúng ta thấy có quyển viết rất kĩ về các thế hệ, sự tích, công đức, hành trạng... của từng người dưới dạng truyện ký lịch sử, đọc rất hấp dẫn, ví dụ như các bản Đặng gia phả kí, Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả, tập phả kí của chi họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu (Nghệ An)... Có loại viết rất ngắn có thể coi như là những bản lược phả chỉ ghi tên húy, tự, hiệu và ngày giỗ, vị trí phần mộ. Loại này thường thấy các tên người, tên xứ đồng ghi bằng Nôm, ví dụ: bản Nguyễn Hoằng tộc gia phả (thôn Thượng Giáp, xã Xuân Hồ, tổng Xuân Liễu, huyện Nam Đàn) ghi xen Nôm theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt:

Nhật kỵ dĩ hạ

Thập nguyệt sơ bát nhật ông cố Kim

Lục nguyệt nhị thập bà cố Kim

Chính nguyệt nhị thập ngũ nhật thân mẫu ông Thoại

Ngũ nguyệt thập bát nhật chú Thạch

...

Dĩ thượng cửu kỵ

Trong các bản phả loại này, tên nười, tên xứ, đồng bằng Nôm thường được ghi xen vào phần chữ Hán theo kiểu:

Nguyễn Thị Sáu ( ) hiệu Thục Mãn ngũ nguyệt nhị thập nhị nhật mộ táng tại Nội xứ.

Nguyễn Thị Rỗ ( ) hiệu Thanh Tĩnh bát nguyệt tam thập nhật mộ tại Đồng Bê Lũng Bệ tự điền.

Nguyễn Thị Ba ( ) hiệu Thục Tố cửu nguyệt sơ ngũ nhật mộ tại ( ) xứ...

(Gia phả chi Giáp của họ Nguyễn xã Yên Bệ).

Hiện nay, hầu hết các bản phả mà chúng ta được biết đều là bản chép tay và được chép lại vào đời Nguyễn nhưng theo sử sách thì việc ghi phả ở nước ta có thể có rất sớm. Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì từ đời Lý Thái Tổ năm 17 (1026) đã có bộ Lý triều ngọc điệp, ghi chép về phả nhà Lý; đời Trần Thánh Tông năm thứ 10 (1267) đã cho soạn bộ Hoàng tông ngọc điệp ghi chép phả nhà Trần. Những bộ phả này đến thời Phan Huy Chú đã bị thất lạc nhưng ông còn được đọc 2 quyển trong bộ Hoàng Lê ngọc phả. Như vậy, có thể thấy tình hình văn bản của các dạng phả ký cũng bị rơi vào tình trạng chung là các văn bản cổ không còn. Nay dù qua các bản sao chép lại hoặc may mắn tìm được bản nào còn lại từ dân gian thì những dấu vết tên người, tên địa danh bằng Nôm sẽ cho những cứ liệu rất quý để tìm hiểu nghiên cứu về ngữ âm lịch sử và địa danh cổ.

2. Diễn dịch các bản phả từ chữ Hán ra chữ Nôm

Đại đa số các bản phả đều được ghi bằng chữ Hán, thứ văn tự ngoại lai này được sử dụng một cách chính thống trong bộ máy hành chính nhà nước và trong việc học hành thi cử, nhưng số người biết chữ Hán trong xã hội lại rất ít và có nghe đọc chữ Hán theo âm Hán Việt thì cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu. Trong khi đó thì một trong những mục đích của việc ghi phả là lưu truyền, giáo dục cho con cháu đời sau hiễu rõ cội nguồn mà tự hào, mà noi gương và có trách nhiệm tu dưỡng, phấn đấu làm rạng rỡ thêm cho họ tộc. Chữ Nôm đã không ngừng phát triển đi tới hoàn thiện đã đến lúc có thể đáp ứng được nhu cầu xã hội và được sử dụng ở nhiều loại hình văn bản khác nhau. Với phả ký, chữ Nôm được dùng để ghi các bản phả được dịch ra tiếng Việt. Như vậy, bên cạnh bản phả ghi bằng chữ Hán, có bản phả bằng thứ văn tự riêng của dân tộc dễ đọc, dễ hiểu, dễ đi sâu vào lòng người hơn nhiều. Ngày nay chúng ta dịch các bản phả và ghi bằng chữ Quốc ngữ thì trước chúng ta, người xưa dịch phả ghi bằng chữ Nôm. Các bản phả được dịch ra văn xuôi Nôm hoặc diễn Nôm cũng nằm trong trào lưu dịch thuật chung, đáp ứng nhu cầu xã hội như diễn dịch kinh Phật, diễn dịch các tác phẩm văn học, từ điển...

- Dịch ra văn xuôi: ví dụ thần phả làng Hiển Lễ xã Quang Minh, huyện Mê Linh, nguyên bản bằng chữ Hán, đến cuối thế kỷ XIX có người đã dịch ra chữ Nôm.

- Diễn Nôm ra văn vần: nhân dân ta có truyền thống yêu thích thơ ca. Hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát thường được sử dụng nhiều nhất. Như bản gia phả Sơn Đồng Nguyễn tộc thế phả (ký hiệu VHv.1408, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nguyên bản bằng chữ Hán phía cuối có bản tóm lược nội dung bằng chữ Nôm theo thể lục bát gồm 122 câu; bản ngọc phả của xã Đàm Xá (nay là xã Gia Tiến, huyện Gia Viễn, Ninh Bình) ở phần cuối bản phả là bản diễn Nôm về sự tích 2 vị thánh Tô Hiến Thành và Nguyễn Minh Không. Hiện tượng diễn Nôm các bản phả vốn bằng chữ Hán như vậy có thể thấy nhiều trong kho sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các bản phả trong dân gian mà chúng tôi đã được tiếp xúc.

3. Viết phả bằng chữ Nôm

Việc ghi phả bằng chữ Nôm chỉ xảy ra khi chữ Nôm đã phát triển hoàn thiện, thực hiện được mọi chức năng của một văn tự. Việc ghi phả bằng Nôm là một nhu cầu hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển, đến lúc có thể ghi phả một cách độc lập. Bởi vậy những bản phả viết bằng Nôm đã xuất hiện và chắc chắn xuất hiện ngày càng nhiều, chỉ có điều một phần có ảnh hưởng của quan niệm xã hội và nhiều lý do khác nó còn nằm lại trong dân gian hoặc bị thất lạc. Nay nếu đi thực tế các địa phương chúng ta sẽ có cơ may gặp được các văn bản loại này, ví dụ như gia phả họ Nguyễn làng Bát Tràng được viết bằng văn xuôi Nôm; gia phả họ Nguyễn xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái cũng được ghi bằng văn xuôi Nôm...

Nguồn tư liệu bằng chữ Nôm trong các văn bản phả là rất đáng quý. Nó cung cấp những tên đất, tên người đáng tin cậy để tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử, lịch sử phát triển văn tự, lịch sử... Đó cũng là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để tìm hiểu về các tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (thân thế, sự nghiệp của các tác gia, những sáng tác thơ, văn phú, tế,...) tìm hiểu về thân thế và hành trạng của các danh nhân lịch sử. Qua thơ, văn, đối đáp, xướng vịnh, tặng, câu đối Nôm... giữa người trong họ tộc và người ngoài còn có thể bổ sung thêm các tư liệu để tìm hiểu các tác gia khác. Nhiều sáng tác bằng Nôm tưởng như thất truyền nhưng lại được ghi lại trong các bản phả, ví dụ như nhờ có tư liệu trong cuốn gia phả Kinh Bắc Như Quỳnh Trương thị quý thích thế phả (ký hiệu A.959, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) mà ta biết được một bản diễn ca Nôm hơn 600 câu lục bát về cuộc đời và hành trạng của Nguyên Phi Ỷ Lan mà tác giả là Trương Thị Ngọc Trong, người của dòng họ Trương xã Như Quỳnh.

Trong dân gian còn rất nhiều bản phả mà ta chưa có điều kiện sao chụp bổ sung cho kho sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ví dụ: việc lưu truyền các bản thần phả có cỡ rất nhỏ 12x9cm, cỡ chữ 1mm trong dân gian vẫn còn lưu giữ. Đoàn công tác của phòng Văn Tự đến khoảng 800 thôn tìm thấy 4 bản thuộc loại này. Trong khi đó Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có khoảng 600 bản và Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội có khoảng 3000 bản không có bản nào thuộc loại này. Hơn nữa, các bản phả có trong Thư viện phần nhiều là của các tộc họ lớn và vừa, có tầm cỡ, danh vọng, công đức lớn trong xã hội. Còn nhiều bản phả của các chi, phái, ngành, phả của các dòng họ nhỏ vẫn nằm trong dân gian, chỉ khi nào có đoàn công tác tin cậy họ mới cho xem qua với mục đích “nhờ đọc hộ”... Bởi vậy để làm cơ sở cho việc nghiên cứu ngành phả học nói chung và bổ sung một nguồn tư liệu phong phú, đáng tin cậy thì việc sưu tầm khai thác là công việc đầu tiên và cực kỳ cần thiết.

Kết luận: Chữ Nôm không thể thiếu trong loại hình phả ký để ghi các từ thuần Việt và ngày càng được sử dụng phổ biến trong các văn bản thuộc loại này. Thông qua việc sử dụng chữ Nôm để ghi phả, ngày nay chúng ta có một nguồn tư liệu vô cùng quý giá và đáng tin cậy để tìm hiểu nghiên cứu về lĩnh vực ngữ âm lịch sử tiếng Việt, lịch sử phát triển văn tự Nôm... đặc biệt là nguồn tư liệu phong phú về các tác gia và tác phẩm văn học thời trung đại, nhiều tác phẩm Nôm chỉ còn thấy ghi lại trong các bản phả.

H.T.N

TB

GIA PHẢ VÀ TƯ LIỆU GIA PHẢ Ở
THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

TRẦN THỊ KIM ANH

1/ Gia phả được hình thành trên cơ sở tồn tại của các gia tộc. Gia tộc, theo quan điểm của Nho giáo, là sự liên kết quan hệ huyết thống theo phụ hệ. Từ một ông tổ truyền xuống đến bốn đời được gọi là một tông tộc, một gia tộc.

Xã hội người Việt từ khi phát triển theo chế độ phụ hệ, đã dần hình thành các tông tộc. Nhưng tông tộc chỉ thực sự được xem xét khi chế độ tông pháp ra đời. Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Hán, người Việt do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, cũng nhìn nhận tông tộc trên cơ sở chế độ tông pháp. Chế độ tông pháp lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, tôn sùng tổ tiên, dựa vào quan hệ huyết thống để phân biệt tôn ti, thân sơ, qui định quyền lợi và nghĩa vụ cho các cá nhân trong một tông tộc. Càng về sau, khi Nho giáo đã thâm nhập và có địa vị vững chắc trong xã hội người Việt, chế độ tông pháp càng được nhìn nhận một cách nghiêm ngặt hơn, đặc biệt đối với hoàng tộc và các dòng họ lớn. Do có vấn đề truyền ngôi kế vị, thừa kế... cho nên sự phân biệt dòng đích, dòng thứ, đại tông, tiểu tông, trực hệ, bàng hệ là hết sức cần thiết. Đối với xã hội đa thê, điều này lại càng thực sự quan trọng. Hơn nữa, chế độ tông pháp còn có quan hệ hết sức mật thiết với chế độ tang phục, nó là nền tảng để định ra chế độ tang phục, mà chế độ tang phục lại là một trong những cơ sở để các bộ luật phong kiến chế định trách nhiệm và quyền lợi của các cá nhân trước pháp luật. Hai bộ hình luật phong kiến nổi tiếng là Bộ luật Hồng Đức đời Lê và Bộ luật Gia Long đời Nguyễn, trong nhiều điều luật, đã căn cứ vào chế độ tang phục, tức sự phân biệt giữa người thân, hàng phải chịu tang với hàng không phải chịu tang, và giữa những người thân với nhau trong hàng phải chịu tang(1), để định ra mức phạt cùng quyền lợi của phạm nhân và nạn nhân. Chính vì vậy, để tránh nhầm lẫn, rối loạn về quan hệ thân sơ, nhu cầu chép lại thế thứ tông tộc xuất hiện, mà gia phả là hình thức để thể hiện.

Tuy nhiên ban đầu, việc chép phả có lẽ chỉ hạn chế chủ yếu trong hoàng tộc và chỉ chú trọng vào thế thứ. Sau này, kể cho đến giai đoạn Lý - Trần - Lê sơ, nhiều dòng họ phiệt duyệt xuất hiện, bao gồm gia tộc của các công thần võ tướng, các danh sĩ khoa hoạn được tước phong công hầu, ban phong thực ấp, thuộc hàng cao môn vọng tộc, đời nào cũng có người làm quan, đỗ đạt. Còn ở các làng quê, với điều kiện kinh tế mang tính tự nhiên, các dòng họ thường phải tụ cư để sinh sống, có những dòng họ tồn tại đến hàng chục đời, với số nhân đinh lớn, có lực lượng làm kinh tế lớn, giữ vai trò chính trị trong làng, nên đã phát triển thành những dòng họ phú hào, có thế lực và ảnh hưởng lớn trong làng xã. Đối với các dòng họ nói trên, việc chép phả để tôn sùng tổ tiên, khuếch trương dòng họ là vấn đề cần thiết, cho nên rất có thể ở giai đoạn này, nhiều gia phả của các dòng họ lớn đã ra đời. Tiếc rằng hiện nay chúng ta không có được chút gì về tư liệu gia phả của thời đó ngoài những đoạn truy nguyên về gốc tích dòng họ mình nằm trong phần Tự văn của một số bộ phả ở thời kỳ cuối Lê và thời Nguyễn, như họ Đinh cho rằng họ mình thuộc dòng dõi Đinh Tiên Hoàng, họ Phùng cho rằng mình thuộc dòng họ Phùng Hưng... song tuy là chép vậy nhưng không đủ căn cứ.

Sau khi nhà Lê Trung hưng, đặc biệt vào nửa cuối thế kỉ XVIII và thời Nguyễn, qua tư liệu về phả còn lại, có thể thấy ở giai đoạn này, việc chép phả rất được coi trọng và trở nên khá phổ biến. Không chỉ các tộc họ lớn mới có phả, mà có thể nói gần như họ nào cũng có phả. Nhiều họ lớn còn chia thành chi phả, phái phả. Phả thời kỳ này không chỉ đơn thuần ghi về thế thứ mà đã trở nên khá hoàn bị. Nhìn trên đại thể, một cuốn phả đầy đủ được cấu thành bởi các phần sau: Tự văn, Phả lệ, Tộc qui, Tộc mộ, Từ đường, Tộc điền, Phả hệ, đôi khi có thêm lời Bạt . Nhiều gia phả còn có các bản vẽ mộ tổ, từ đường, tộc điền, sơ đồ dinh thự; chép các khế ước, chúc thư, bằng sắc, thơ văn... khiến có bộ lớn tới dăm bảy trăm trang, thậm chí đến hơn ngàn trang.

Phần Tự văn có thể được viết nhiều lần, có phả có đến hai ba bài tự văn, thường thì do các thành viên có danh vọng trong tộc viết, có nhà mời các bậc thức giả có tiếng soạn giúp. Tự văn chủ yếu trình bày ý nghĩa của việc làm phả, nguồn gốc của dòng tộc, những sự kiện chính diễn ra trong lịch sử dòng tộc. Phần Phả lệ nói về thể lệ chép phả, có phả ghi qui định về tư cách người được ghi tên trong phả. Phần Tộc qui ghi các qui định của dòng họ về thể lệ cúng tế, trông coi từ đường, cày cấy tộc điền… Tộc mộ, Từ đường, Tộc điền được ghi cụ thể, rõ ràng diện tích và vị trí, phần nhiều có bản vẽ. Phần Phả hệ là bộ phận quan trọng nhất trong gia phả. Phần này liệt kê tính danh húy tự của tổ tông, tình hình công danh, khoa hoạn (nếu có), hôn nhân, con cái, tuổi thọ, ngày giỗ, nơi táng. Con gái cũng được ghi vào phả nhưng ít khi ghi húy tự, đôi khi cho biết gả vào họ nào. Nhiều phả có ghi tỉ mỉ hành trạng của những người đem lại vinh hiển cho dòng họ, là các bậc danh tướng, danh khoa, danh sĩ, trung thần, hiếu tử, liệt phụ... cùng bằng sắc thơ văn của họ. Tuy nhiên không phải cuốn phả nào cũng có đầy đủ các phần như vậy, nhiều phả chỉ có phần thế thứ các đời, ngày giỗ và phần mộ, thông thường đây là phả của các dòng họ nhỏ.

Tóm lại, có thể nói người Việt từ lâu đời, do ảnh hưởng của Nho giáo, đã sử dụng gia phả để chỉ rõ thống hệ, nhằm mục đích “đôn hiếu đễ, trọng nhân luân, mục tông tộc, hậu phong tục.” Việc viết gia phả từ xưa cho đến tận ngày nay đối với nhiều dòng họ luôn là việc quan trọng. Việc này thường do người trưởng họ hoặc một người có danh vọng trong dòng họ chủ trì. Về nguyên tắc, phả phải luôn được viết tiếp, nếu bỏ qua sẽ bị coi là bất hiếu. Sau khi làm xong, phả được sao thành nhiều bản giao cho các chi cất giữ cẩn thận để tránh bị mất và để lưu truyền lâu dài từ đời này sang đời khác. Nhiều dòng họ dùng bia đá để ghi lại tông phả của họ mình.

2/ Tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện nay còn lưu giữ được gần 250 gia phả của 28 họ, bao gồm các họ: Trần, Nguyễn, Vũ, Đinh, Bùi, Đỗ, Lê, Doãn, Dương, Hoàng, Đặng, Đàm, Đoàn, Ngô, Phạm, Lương, Phan, Hà, Nhữ, Hồ, Trương, Lưu, Mạc, Nghiêm, Thẩm, Trịnh, Tường, Vương. Nếu so với con số các họ ở nước ta mới được công bố gần đây là 964 họ thì quá ít ỏi, nhưng có lẽ đây vẫn là nơi có số gia phả tập trung lớn nhất trên toàn quốc.

Về địa vực phân bố thì trừ hai cuốn phả của họ Mạc ở Hà Tiên và họ Lê ở Thừa Thiên, còn đều là phả của các dòng họ thuộc 16 tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra. Nếu sử dụng cách phân chia Nam Bắc thời Lê Trịnh thì đây hầu hết là phả Đàng ngoài. Cụ thể phân bố như sau (theo địa danh hiện tại):

1. Bắc Ninh, có các họ: Trần, Nguyễn, Đàm, Nghiêm, Trịnh.

2. Hà Nội: Trần, Nguyễn, Vũ, Bùi, Đỗ, Lê, Dương, Đặng, Ngô, Phạm, Phan, Lưu, Thẩm, Vương.

3. Hà Tây: Trần, Nguyễn, Vũ, Đinh, Đỗ, Lê, Doãn, Hoàng, Đặng, Đàm, Đoàn, Ngô, Lương, Phan, Trịnh.

4. Hà Tiên: Mạc.

5. Hà Tĩnh: Nguyễn, Hoàng, Ngô, Lương, Phan.

6. Hải Dương: Nguyễn, Vũ, Đinh, Bùi, Đỗ, Lê, Ngô, Phạm, Nhữ.

7. Hưng Yên: Nguyễn, Vũ, Đỗ, Trương, Tường.

8. Nam Định: Trần, Bùi, Lê.

9. Nam Hà: Nguyễn.

10. Nghệ An: Nguyễn, Đinh, Hồ.

11. Ninh Bình: Nguyễn.

12. Phú Thọ: Nguyễn.

13. Thái Bình: Nguyễn, Lê, Phạm.

14. Thanh Hóa: Trần, Nguyễn, Vũ, Lê, Hoàng, Ngô, Hà, Trịnh.

15. Thừa Thiên: Lê.

16. Vĩnh Phú: Nguyễn, Vũ.

Về niên đại, phả có niên đại sớm nhất được biên soạn vào thời Cảnh Hưng (1740 - 1786), cũng có một số phả mang niên đại biên soạn sớm hơn, vào các thời Vĩnh Tộ (1619 – 1628), Chính Hòa (1680 - 1705), Vĩnh Thịnh (1705 - 1719), nhưng đều là các bản sao. Còn hầu hết đều được soạn, biên tập, sao chép vào các thời Gia Long (1802 - 1820), Minh Mệnh (1820 - 1840), Tự Đức (1848 - 1883)... cho đến niên đại muộn nhất là Bảo Đại 1936. Có bộ thậm chí chỉ mới được sao vào năm 1962. Trừ một bản là Chương Dương Đỗ phả của dòng họ Đỗ ở Hà Tây được khắc in ở đền Lễ Môn vào năm Tự Đức Canh Thìn (1880), còn lại hầu như toàn bộ đều là các văn bản chép tay. Gia phả có số trang ít nhất là 8 trang, gia phả có số trang lớn nhất là 1200 trang, còn lại đều khoảng từ vài chục đến vài trăm trang. Dòng họ chép được thế thứ dài nhất là 17 đời. Nhiều bộ phả do các Cử nhân, Tiến sĩ hoặc các nhân vật nổi tiếng soạn, biên tập hoặc viết tự văn, như Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quýnh biên tập bộ Bối Khê Trạng nguyên gia phả; Cử nhân Bùi Xuân Nghi soạn Bùi thị gia phả; Cao Xuân Dục viết tự văn cho Đài Phong Đặng thị gia phả; Bùi Huy Bích viết tự văn cho Đinh gia tộc phả; Nguyễn Nghiễm soạn Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả; Thám hoa Vũ Công Tể soạn và viết tự văn Hải Bối Vũ công tộc gia phả; Hồ Tam Kiểm viết tự văn cho Hồ gia thế phả ; Lê Hữu Mưu soạn Văn Xá Lê tộc thế phả; Lê Quý Kiệt biên tập và viết lời bạt cho Kinh Bắc Như Quỳnh Trương thị quí thích thế phả; Ngô Thì Nhậm biên soạn Lương Xá Đặng thị gia phả; Lưu Đĩnh viết tự văn cho Lưu thị phả kí Phạm Đình Hổ soạn Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả...

Phần lớn số phả này là phả của các dòng họ có những nhân vật nổi tiếng, nhiều người đỗ đạt, làm quan như: phả của dòng họ Trạng nguyên Nguyễn Trực ở Bối Khê; Tiến sĩ Trần Mô ở Di ái; dòng họ Nguyễn Huy ở Phú Thị; họ Dương ở Lạc Đạo; họ Nguyễn ở Bát Tràng; họ Nguyễn - Đa Ngưu; họ Dương (Bá Cung) - Nhị Khê; họ Nguyễn - Đại Mỗ; dòng họ của Tiến sĩ Đàm Thận Huy ở Ông Mặc; họ Đinh ở Nghệ An; họ Đinh - Hàn Giang; họ Ngô - Đông Anh; họ Lương - Nhị Khê; họ Nguyễn (Du) - Tiên Điền; họ Nguyễn (Công Trứ), họ Nguyễn (Thiếp), họ Phan (Đình Phùng) - Hà Tĩnh; họ Hồ - Quỳnh Lưu; họ Nguyễn ở Nông Cống; họ Lưu - Nguyệt áng; họ Vũ - Mộ Trạch; họ Nhữ - Hoạch Trạch; họ Ngô Thì - Tả Thanh Oai; họ Phan Huy - Sài Sơn; họ Phạm, họ Phan - Đông Ngạc; họ Bùi - Thanh Trì; họ Lê (Hữu Trác) - Liêu Xá; dòng họ của Thượng thư Lê Anh Tuấn; dòng họ của danh sĩ Phạm Đình Hổ... Chính vì vậy xét về số trang cũng như nội dung, đây là khối tư liệu khá đồ sộ và phong phú.

Ngoài việc nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của các dòng họ và giúp tìm hiểu, bổ sung tư liệu cho tiểu sử các danh nhân, ở đây người ta còn có thể khai thác được nhiều loại tư liệu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều gia phả cho tư liệu về đăng khoa; có những gia phả cung cấp tư liệu về ngành nghề thủ công truyền thống như phả của họ Nguyễn ở Bình Vọng cho biết về nghề sơn thiếp, làm dù, làm lọng; phả của họ Phạm ở Đan Loan cho biết về nghề nhuộm và sự phát triển của nghề này ở Thăng Long... Mảng tư liệu về phong tục, nghi thức cúng tế tổ tiên cũng là mảng tư liệu quí; tư liệu về phong thủy - sự phát đạt của các dòng họ dựa trên phong thủy là những tư liệu rất hữu ích giúp cho việc nghiên cứu về địa lí nhân văn; nhiều tư liệu lịch sử không có trong chính sử nhưng gia phả lại có; tư liệu về đời sống xã hội thời kì cuối Lê và Nguyễn cũng là mảng tư liệu hết sức phong phú; đối với việc nghiên cứu xã hội học lịch sử như nghiên cứu về hôn nhân, dân số..., người ta cũng có thể lấy được tư liệu từ đây. Đó là còn chưa kể đến số lượng lớn bằng, sắc phong tặng, thơ, văn, phú, tế, hoành phi, câu đối, văn bia bắt gặp trong hầu hết các bộ phả, là nguồn tư liệu quí giá có thể làm giàu có thêm cho kho tàng văn học cổ nếu được khai thác.

Tuy nhiên khi sử dụng các tư liệu này cũng nên hết sức thận trọng, bởi phả là loại hình văn học chức năng mang tính chủ quan cao, khi viết về dòng họ mình, do tự tôn, người ta luôn có ý thức thêm vào những điều tốt đẹp, bớt đi những sự không hay. Chẳng hạn, chân dung của Đinh Tích Nhưỡng trong gia phả họ Đinh và hình ảnh ông ta dưới ngòi bút các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí Vũ trung tùy bút gần như trái ngược nhau. Trường hợp Nguyễn Hoãn - một sủng thần đời Cảnh Hưng cũng vậy... hoặc như ở mảng văn chương, sự nhầm lẫn giữa tác phẩm của người nọ với người kia là rất nhiều... Đối với các tư liệu liên quan đến lịch sử cũng phải rất dè dặt.

Nhưng dù sao đây vẫn là một phông tư liệu quan trọng cần được bổ sung và có kế hoạch nghiên cứu khai thác. Gần đây, Trung tâm Phả học thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm được thành lập, chúng tôi thực sự vui mừng trước sự kiện này. Hy vọng rằng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Viện và được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, Trung tâm sẽ đề ra được những biện pháp hữu hiệu nhằm nghiên cứu khai thác số gia phả nói trên và về lâu dài sẽ tiến hành sưu tầm bổ sung thêm bằng những gia phả hiện còn nằm ở các dòng họ trên toàn quốc, trở thành Trung tâm bảo tồn, quản lí và nghiên cứu gia phả mang tầm cỡ quốc gia.

Hà Nội, tháng 10 năm 2002
T.T.K.A

CHÚ THÍCH:

(1) Hàng phải chịu tang (Hữu phục) là những người thân trong hàng Ngũ phục, bao gồm năm mức để tang người thân là: Trảm thôi - để tang 3 năm, Cơ thân - 1 năm, Đại công - 9 tháng, Tiểu công - 6 tháng, Ty ma - 3 tháng. Hàng không phải chịu tang (Vô phục) là những người họ xa trong tộc họ hoặc họ ngoại, không nằm trong hàng Ngũ phục.

TB

GIA PHẢ VỚI DÂN TỘC HỌC VÀ
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC

NGUYỄN ANH NGỌC

Dân tộc học là một môn khoa học lịch sử, để nghiên cứu sinh hoạt và phong tục tập quán, sự phân bố, quan hệ văn hóa và lịch sử của các dân tộc(1). Hay nói một cách gọn lại: Dân tộc học là khoa học nghiên cứu về các dân tộc. Một cộng đồng được gọi là một tộc người được biểu hiện ở nhiều tiêu chí về lãnh thổ, ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa, kinh tế v.v. và ý thức tự giác tộc người; trong đó ngôn ngữ, văn hóa và đặc biệt là ý thức tự giác dân tộc là những tiêu chí rất quan trọng. Vậy thì Dân tộc học phải nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của một tộc người mà như trên đã nói văn hóa là một chuẩn mực cơ bản và quan trọng. Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là sự thích ứng của tộc người với tự nhiên để làm nên cuộc sống của họ. Vì vậy, nó bao gồm văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần v.v. Dân tộc học nghiên cứu tất cả các mảng văn hóa này dưới giác độ lịch sử và tộc người trong mối quan hệ tương hỗ với khoa học lịch sử và các ngành khoa học gần gũi khác như Ngôn ngữ học, Địa lý học, Văn học dân gian v.v. Trong các mảng văn hóa mà Dân tộc học quan tâm thì mảng văn hóa xã hội mà dòng họ, hôn nhân và gia đình là trọng tâm lại là mảng vấn đề mà rất ít các khoa học khác có điều kiện nghiên cứu một cách sâu sắc. Vì vậy, nó là mảng vấn đề có thể nói là rất Dân tộc học, hay nói rộng ra là rất xã hội; bởi gia đình là tế bào của xã hội. Dường như dân tộc nào cũng có dòng họ và gia đình ở các trình độ phát triển khác nhau trong đó chứa đựng nhiều truyền thống, tập quán chung và riêng của dòng họ, địa phương và tộc người. Nên hiển nhiên có sự tồn tại của văn hóa dòng họ và văn hóa dòng họ góp phần tạo nên văn hóa dân tộc. Điều đó thật là thú vị bởi đối với các xã hội có giai cấp sớm và tiền giai cấp thì các phong tục truyền thống cổ hầu như bao hàm trọn vẹn văn hóa(2). Dân tộc học thường xuyên chú ý cái cổ truyền, điều này được lưu ý nhất là khi nghiên cứu về các dân tộc phát triển (hiện đại). Ngoài nghiên cứu cái cổ truyền thì văn hóa tinh thần đối với các dân tộc này là đặc biệt quan trọng, mà phong tục, tập quán, lễ nghi v.v. của dòng họ cũng là mảng cuộc sống tâm linh vào loại nhạy cảm nhất của mỗi dân tộc. Dòng họ, hôn nhân và gia đình mà cái cốt nhất - cái hồn nhất được gia phả ghi chép lại. Đó chính là một mảng tài liệu quan trọng của Dân tộc học, Sử học, Văn hóa học, Bảo tàng học v.v. Nó là hiện vật đặc biệt quan trọng đối với Bảo tàng Dân tộc học khi giới thiệu về mảng dòng họ hôn nhân và gia đình hay nói rộng ra khi giới thiệu về văn hóa dòng họ.

Vậy hiểu cho chính xác thì gia phả là gì ?

Theo Từ điển Tiếng Việt thì gia phả là: sách ghi chép lai lịch, thân thế và sự nghiệp từng người trong gia tộc, theo thứ tự các đời(3). Theo PGS. Phạm Hồng thì đó là sổ ghi chép việc nhà. Sau phát triển thành tộc phả ghi chép việc họ, tông phả ghi chép tông tích nhà mình, thế phả ghi chép thế hệ thứ bậc từng người, hay tông thế phả đề cập đến cả gốc tích và thứ bậc trong họ. Ghi chép cả hành trạng gọi là phả ký. Rồi muốn nhấn mạnh tính chân thật của sự ghi chép đó gọi là thực lục. Phả của vua chúa gọi là ngọc điệp, của thần thánh gọi là thần phả, thần tích v.v.(4). Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn lại bàn về gia phả - vị trí và ý nghĩa của nó đối với Dân tộc học và Bảo tàng Dân tộc học.

Với nội dung là ghi chép việc nhà nên gia phả chỉ thường lưu hành nội bộ trong họ. Vì vậy, nó được ghi chép khá chân thực về các việc trong dòng họ. Gia phả đề cập đến nhiều vấn đề về nguồn gốc dòng họ, sự di cư phân bố của dòng họ đó, thứ bậc các thế hệ của dòng họ; tiểu sử, sự nghiệp của các nhân vật nổi tiếng trong họ; những điều khuyên răn con cháu; ngày sinh, ngày mất của các bậc tổ tiên v.v. Vì vậy, nó là nguồn tài liệu rất đáng tin cậy cho những người làm Sử học, làm Dân tộc học và nói rộng ra là nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu văn hóa. Nó lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn ở những quốc gia, dân tộc đã có truyền thống viết gia phả như nước ta.

Lê Trung Hoa dẫn theo tài liệu của P. Gourou thì năm 1932 ở Việt Nam có 94 họ người Kinh và 109 họ của đồng bào các dân tộc thiểu số(5). GS. Phan Văn Các đưa ra các tài liệu trích dẫn thì Trung Quốc có 926 họ, Hàn Quốc có 274 họ, Anh có 16.000 họ, Nhật Bản có 100.000 họ v.v.(6). Việt Nam nhiều tài liệu đưa ra có 200 - 300 họ, chắc chắn là còn thiếu. Bởi ngay như ở người Việt (Kinh) đã có tới hàng trăm họ; các dân tộc có dân số ít hoặc cực ít theo thống kê chưa đầy đủ thì đã thấy ở người Dao có 12 dòng họ(7), người Pà Thẻn có 8 dòng họ(8), người Mảng có 5 dòng họ(9) v.v.

- Tên các dòng họ của không ít những tộc người có dân số ít được đặt theo dòng họ của những dân tộc có dân số lớn hơn trong vùng. Như tên các dòng họ của người Sán Chay giống như tên các dòng họ của người Tày, người Nùng; tên các dòng họ của người Lự, Người Lào, người Xinh Mun v.v. giống như tên các dòng họ của người Thái v.v.

- Nhưng cũng có hiện tượng rất lạ là một vài dân tộc có dân số rất ít, hoặc cực ít nhưng lại có số lượng dòng họ khá đông, tỉ như người Thủy (có thể coi là một nhóm địa phương của người Tày ở Tuyên Quang) còn có 8 gia đình nhưng thuộc tới 3 dòng họ(10). Đặc biệt người Lô Lô có dân số ít thôi, nhưng có tới mấy chục dòng họ khác nhau(11) v.v. Phải chăng có một thời kỳ nào đó trong lịch sử những dân tộc và nhóm địa phương này đã từng có số dân đông đúc hơn hiện nay rất nhiều.

- Một số dòng họ thấy có mặt ở nhiều dân tộc. Ví dụ, họ Hoàng thấy có cả ở người Hán, người Việt, người Tày, người Nùng v.v. và thậm chí có cả ở người H’mông v.v.

- Những vùng nhiều dân tộc sống xen cài nhau lâu đời có nhiều dòng họ pha trộn nhau. Ví dụ, vùng cao miền Bắc nhiều dòng họ thấy có cả ở người H’mông, người Dao và các dân tộc nói ngôn ngữ Tạng Miến. Vùng thấp Tây Bắc nhiều dòng họ của các dân tộc có dân số ít giống tên các dòng họ của người Thái. Vùng Việt Bắc nhiều dòng họ pha trộn nhau trong người Tày, người Nùng, người Sán Chay v.v. Ở Nam Bộ có nhiều dòng họ thấy có cả ở người Kinh, người Hoa và người Khơ-me, như họ Thạch chẳng hạn. Ở vùng này nhiều ấp người Việt có tới mấy chục dòng họ khác nhau. Họ đến lập nghiệp từ nhiều địa phương và vào nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó chứng tỏ làng Việt ở Nam Bộ mang tính chất mở chứ không phải khép kín - độc lập như làng Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Người Chăm ở Ninh Thuận cách đây không lâu, con cái tính theo dòng họ mẹ (mẫu hệ), nhưng gần đây không ít làng Chăm ở vùng này con cái bắt đầu tính theo họ cha, mặc dù vẫn duy trì chế độ cư trú bên nhà vợ và con gái chủ động hỏi và cưới chồng.

- Người Bru-Vân Kiều thì lại mới manh nha hình thành các họ. Trong một làng của người Bru-Vân Kiều thường bao gồm nhiều Mu (còn gọi là Dạ hay Mui); người cùng Mu rất gắn bó với nhau có may cùng vui, có họa cùng chịu. Có thể coi mỗi Mu là một đơn vị dòng họ(12).

Dòng họ của các dân tộc Việt Nam thật phong phú về số lượng, khác nhau về trình độ phát triển và độc đáo về tính chất địa phương và tộc người. Vì vậy, câu Trăm họ cũng là để chỉ toàn dân, quốc dân - nơi đó sản sinh và lưu giữ vườn hoa văn hóa dân tộc nhiều màu sắc: thống nhất - đa dạng và độc đáo.

Ở nhiều dân tộc ít người do không có chữ viết nên chẳng họ nào ghi lại gia phả, nhưng những người cùng họ, nhất là những người cùng chi nhận ra nhau qua truyền miệng, qua tập tục thờ cúng tổ tiên, qua kiêng kỵ vật tổ v.v. Điều này được gặp ở rất nhiều dân tộc. Ví dụ, người H’mông thì người cùng một họ có thể đẻ và chết ở nhà nhau, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, cách thức làm ma giống nhau. Những người cùng họ người Khơ-mú lại cùng kiêng, thờ một con vật, một loài cây v.v. Đặc biệt, người Hà Nhì có tục đọc Chự Cư (coi như đọc gia phả các đời của dòng họ) kể lại các đời của dòng họ mình vào tối 30 tết và vào dịp tang lễ cho con cháu nghe(13).

Ở người Việt, người Hoa, người Tày, người Nùng v.v. đặc biệt là ở người Việt và người Hoa việc viết gia phả lưu lại mãi mãi cho con cháu là truyền thống dân tộc có từ lâu đời. Gia phả là tài liệu thành văn của dòng họ để ghi chép lại việc họ - việc nhà, ghi chép những điều chung và cốt yếu của họ mình. Một vấn đề rất lớn mà các gia phả, tộc phả đề cập tới là dòng dõi, thế thứ của từng thế hệ và sự phân bố của dòng họ. Chính nội dung này là nguồn sử liệu quý bổ sung vào các nguồn sử liệu đã có để hoàn thiện việc nghiên cứu lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương hay lịch sử các danh nhân. Có thể nói rộng ra là bổ sung cho chính sử. Rồi đến lượt nó, chính sử lại soi đường đính chính cho các tài liệu gia phả được chính xác hơn.

Một nội dung rất quan trọng mà gia phả, tộc phả nào cũng đề cập là ghi lại họ tên cụ thể của tổ tiên, ngày sinh, ngày mất, phần mộ, nhà thờ, húy kỵ v.v. của tổ tiên. Đó chính là nguồn tài liệu Dân tộc học quý giúp cho việc nghiên cứu về tập quán hôn nhân gia đình (đa thê, nội tộc hôn, ngoại tộc hôn...), tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tập quán về việc ma chay chôn cất (kiểu chôn cất, kiêng kỵ trong chôn cất, chọn đất phần mộ...) của dòng họ, địa phương và dân tộc. Tài liệu gia phả kết hợp với các tài liệu Khảo cổ học, Dân tộc học, Văn học dân gian và các nguồn thư tịch khác cùng làm rõ thêm vấn đề này.

Các gia phả đều đề cập một cách tóm lược thân thế sự nghiệp của các nhân vật nổi tiếng của dòng họ. Đó chẳng những là nguồn sử liệu, tài liệu Dân tộc học và Văn hóa học quý mà còn góp phần to lớn vào việc giáo dục truyền thống của dòng họ. Như truyền thống hiếu học, đề cao nhân tài, đề cao đạo đức, đề cao lòng yêu nước thương nòi v.v. Về mặt này gia phả và nói rộng ra là gia đình - dòng họ thực sự có đóng góp to lớn vào việc giáo dục thế hệ trẻ đạo đức uống nước nhớ nguồn, noi theo cha ông trở thành người có cống hiến lớn lao cho họ hàng, địa phương và xã hội. Một số dòng họ còn có ruộng khuyến học, quỹ khuyến học để hỗ trợ và động viên con em trong họ chăm học để trở thành nhân tài làm rạng danh dòng họ, địa phương và dân tộc.

Gia phả chẳng những là bảo vật của mỗi dòng họ, là tài liệu quý đối với các nhà Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học v.v. mà nó còn là hiện vật quý hiếm đối với Bảo tàng Dân tộc học khi giới thiệu về mảng đề tài dòng họ. Những quyển gia phả cổ của những thế kỷ trước bằng chữ Hán Nôm viết trên nền giấy dó đã ố vàng - nhuộm màu thời gian, bìa cậy đã sờn nát in dấu bao bàn tay tổ tiên đã nâng niu tra cứu. Điều đó thực sự gây xúc động cho những người làm bảo tàng và khách tham quan. Chất liệu phong phú của gia phả: bằng giấy dó, gỗ, đá, vải, đồng v.v. làm nên bộ sưu tập về gia phả thật phong phú hấp dẫn. Nói lên tính sáng tạo của ông cha ta lưu trữ truyền thống văn hóa dòng tộc, dân tộc.

Gia phả là tài liệu đặc biệt quý giá của mỗi dòng họ. Vì vậy, nó được các dòng họ bảo vệ rất công phu nhằm giữ gìn được gia phả lâu dài, truyền được hết đời này đến đời khác. Tiếp xúc với các dòng họ để nghiên cứu gia phả cho thấy: gia phả được giao cho trưởng họ hoặc người có uy tín trong dòng họ gìn giữ. Người giữ bản gốc gia phả ở nhiều dòng họ còn được giữ bí mật để tránh bị mất cắp. Các dòng họ thường bảo quản gia phả giấy trong hộp gỗ, ống gỗ, ống tre được làm chắc chắn gác trên nóc bếp khô ráo; vừa chống được ẩm mốc, chống chuột gián, mối mọt phá hủy vừa tránh được ánh sáng làm hoen mờ gia phả. Đó là các gia phả có chất liệu bằng giấy. Còn gia phả viết trên nền vải thấy các cụ bảo quản chủ yếu nhằm chống gián chuột gặm nhấm, chống ánh sáng làm cho vải và chữ bị mất màu. Gia phả bằng gỗ thường được để trên bàn thờ khô ráo tránh ẩm mốc mối mọt, tránh nhiệt độ cao làm cho cong vênh, nứt vỡ v.v. Với cách bảo vệ cổ truyền trên ta thấy các cuốn gia phả bằng giấy dó tồn tại qua vài ba thế kỷ thấy vẫn còn tốt; các bản gia phả gỗ, vải đã tồn tại được hàng trăm năm nay vẫn còn giá trị. Với cách bảo quản hiện đại của Bảo tàng học: phân loại hiện vật bảo quản theo giá trị hiện vật (hiện vật gốc và tài liệu khoa học phụ trợ v.v.) và theo chất liệu hiện vật. Bảo quản trong những điều kiện ở nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng cho phép với từng loại hiện vật; tuyệt đối chống trộm cắp, chống mối, mốc sâu mọt phá hủy.

Dòng họ là một hiện tượng lịch sử, xã hội và văn hóa mang tính phổ quát của toàn nhân loại mà gia phả là tài liệu trung thực và cô đọng nhất của mỗi dòng họ. Vì vậy, gia phả là bảo vật của mỗi dòng họ, là nguồn tài liệu quý của những người nghiên cứu Lịch sử, Dân tộc học và Văn hóa học v.v. Các dòng họ như những dòng sông chuyển tải văn hóa dòng họ, địa phương để hợp lưu lại thành văn hóa mỗi dân tộc, mỗi quốc gia; góp phần hòa vào biển cả của văn hóa nhân loại.

N.A.N

CHÚ THÍCH

(1) M. G. Lê-Vin: Trong cuốn Dân tộc học là gì ? (Tập tài liệu dịch). Nxb. Sử học, H.1960, tr.3.

(2) Dân tộc học đại cương. Nxb. Giáo dục, H. 1995, tr.11.

(3) Từ điển Tiếng Việt. Nxb. KHXH, H. 1998.

(4) Phạm Hồng: Gia phả - một cách trình bầy hợp lý, cách viết và lập mới. Câu lạc bộ Thăng Long, H. 2001, tr.10.

(5) Lê Trung Hoa: Họ và tên người Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1992, tr.9.

(6) Phan Văn Các: Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An trong bài: Nghiên cứu các dòng họ cơ sở khoa học và phương hướng giải quyết các vấn đề đặt ra, Nxb. Nghệ An, 1997, tr.64.

(7), (8), (9), (10), (11), (12), (13) Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc). Nxb. KHXH, H. 1978, tr.131; 141; 283; 325; 339; 347; 378.

TB

HÁN VĂN LÝ-TRẦN VÀ HÁN VĂN THỜI NGUYỄN TRONG CÁI NHÌN VẬN ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI

PHẠM VĂN KHOÁI
TẠ DOÃN QUYẾT

1. Hán văn Lý - Trần là một giai đoạn dài cơ hồ gần 5 thế kỷ của Hán văn Việt Nam (từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV), gồm 6 triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ trong đó Lý, Trần là hai triều tiêu biểu nhất. Đó là một giai đoạn Hán văn đóng vai trò nền tảng góp phần quan trọng để nước Việt thành nước có văn hiến theo dòng văn hóa Thi Thư.

Hán văn thời Nguyễn cũng chỉ là cách gọi theo triều đại một giai đoạn hơn một thế kỷ của tiến trình sử dụng chữ Hán ở Việt Nam (từ đầu thế kỷ XIX đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XX). Đó là nền Hán văn từ chỗ đứng ở đỉnh cao vận động theo chiều hướng loại bỏ dần chữ Hán trong hai chức năng quan trọng nhất: chức năng là ngôn ngữ viết dùng trong hành chính và trong giáo dục.

Bởi thế, tìm hiểu hai giai đoạn theo triều đại này của Hán văn Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta hiểu được quá trình xác lập và khẳng định cũng như quá trình ra đi của nhân tố chữ Hán trong đời sống văn hóa Việt Nam. Qua đó, góp phần nhận thức rõ hơn về tiến trình mười thế kỷ dùng chữ Hán ở Việt Nam thời phong kiến nói chung, đồng thời cũng để giảng dạy môn Hán văn Việt Nam tốt hơn.

2. Bộ sưu tập sớm nhất về thơ chữ Hán từ đời Trần đến đời Lê cho đến nay còn giữ lại được là Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên khởi thảo (thế kỷ XV), Chu Xa (thế kỷ XV) bổ sung thêm. Sau đó, nhiều bộ sưu tập về thơ văn Lý - Trần ra đời như Trích diễm thi tập (do Hoàng Đức Lương sưu tập và viết lời tựa vào mùa xuân, niên hiệu Hồng Đức 28 (1497), Toàn Việt thi lục (do Lê Quý Đôn sưu tập và viết lời tựa)... Các bộ sưu tập này đều xem từ thời Lý - Trần, nước ta đã là nước có văn hiến, rằng thi học Lý - Trần là nền tảng cho nền thi học Đại Việt thời phong kiến tự chủ. Qua những phát biểu sớm nhất về thi học Lý - Trần đó, chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của nhân tố chữ Hán thời Lý - Trần trong cấu trúc văn hóa Việt Nam.

3. Chữ Hán (Hán văn, văn ngôn chữ Hán) là ngôn ngữ viết có dùng trong các lĩnh vực nghi thức quan phương Nhà nước như (hành chính, giáo dục), đồng thời cũng là ngôn ngữ viết của các hoạt động tôn giáo, trước thuật, sáng tác thơ văn... Những chức năng ấy đồng thời cũng là chức năng của chữ Hán trong mười thế kỷ thời phong kiến tự chủ. Bởi vậy, khi đề cập đến các chức năng xã hội này, nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài thường cố gắng đưa ra thời điểm chữ Hán được coi là văn tự Nhà nước [De Franỗis John, 1977]. Người ta thường nói chữ Hán ở thời Lý được chính thức thừa nhận như một văn tự Nhà nước.

Song, bên cạnh những kiếm tìm các văn kiện cụ thể, chúng ta cần phải xem những biểu hiện hay việc làm cụ thể từ phía Nhà nước, mà chúng được xem như những mốc giới khẳng định vai trò của chữ Hán với tư cách là ngôn ngữ viết chính thức cho đời sống văn hóa đất nước. Các quyết định có tính mốc giới mang tính chất Nhà nước, theo chúng tôi là: lập Văn Miếu năm 1070; mở khoa thi Nho học tam trường 1075 và mở Quốc tử giám năm 1076...

4. Ngôn ngữ viết chữ Hán ở Việt Nam giai đoạn này có nhiều đặc điểm khác hẳn với các giai đoạn sau đó. Đây là giai đoạn tiếp nối có quan hệ trực tiếp với giai đoạn sử dụng tiếng Hán, chữ Hán ở thời Bắc thuộc. Dấu ấn cho bước quá độ đó là sự hiện diện những văn bản viết theo khẩu ngữ tiếng Hán - nhóm văn bản ngữ lục Thiền tông. Nhóm văn bản này - với các đại diện tiêu biểu như: Thiền uyển tập anh, Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, Khóa hư lục ... là nhóm văn bản viết theo khẩu ngữ tiếng Hán đương thời (được sử dụng trong phạm vi nhà chùa) được xem như một trong những đặc trưng chuyên biệt của Hán văn Lý - Trần. Những biểu hiện cụ thể cho lối văn bạch thoại thể hiện ở một số điểm như: danh từ được dạng thức hóa bằng tiếp tố - tử (床 子 - sàng tử). Hệ thống đại từ trong các văn bản ngữ lục thiền tông khác hẳn với hệ thống đại từ trong văn ngôn như: các đại từ nghi vấn 甚 麼 - thậm ma?; 恁 麼 nhậm ma?; ná; 阿 誰 - a thùy? hay hệ thống đại từ chỉ thị như 這 giá, 那 - ...

Hệ thống đại từ nhân xưng cũng có nhiều sự khác biệt với văn ngôn, như khi ở ngữ lục dùng 某 甲 - mỗ giáp để chỉ ngôi thứ nhất. Đại từ nhân xưng này có thể làm chủ ngữ, định ngữ, hay tân ngữ.

Ở phạm trù động từ cũng có nhiều hiện tượng tiêu biểu cho ngôn ngữ bạch thoại sớm như: có bổ ngữ chỉ xu hướng 來 - lai; có trợ từ kết cấu 底 (đê); có tiêu chí biểu thị thể thời 了 - liễu, quá, trước; có tiêu chí biểu thị dạng bị động 遭 tao, mông; 遇 - ngộ. ấy là ta chưa nói đến vốn từ, cú pháp... Danh sách rất hạn chế các hiện tượng ngôn ngữ trên đây đủ cho phép ta nhìn ra sự vận động theo chiều hướng có sự kế tiếp hay tính quá độ của ngôn ngữ viết chữ Hán ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc như một sinh ngữ sang một hình thái Hán văn đặc thù - chỉ có ngôn ngữ viết khi chúng ta đã giành độc lập.

Các nhà thi học sau này thường đề cao lối viết của thơ chữ Hán thời Trần chính là ở chỗ: đây là một thời kỳ ưa dùng của ngôn ngữ phác thực, giản dị, không cầu kỳ điển cố. "Nước ta thơ đời Lý già dặn, súc tích, thơ đời Trần tinh vi, trong trẻo, đều có sở trường tột bậc cũng như thơ đời Hán, đời Đường bên Trung Hoa" (Phạm Đình Hổ, Vũ bút tùy bút, Bd. tr.144). Đó là một bước quá độ trong sự vận động của ngôn ngữ và văn hóa.

Thơ đời Lý chủ yếu là các bài kệ của các Thiền sư. Thơ của các vua Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông...) chủ yếu đề cập đến chủ đề Thiền với ngôn ngữ phác thực giản dị mang biểu tượng Thiền. Có thể xem thơ của họ là bước chuyển tiếp từ thơ có nhiều yếu tố của ngữ lục thời Lý sang thơ có nhiều yếu tố của ngôn ngữ sách vở hơn của nho sĩ thời Trần mà thơ của Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh... được xem là những đại diện tiêu biểu nhất. Nhận xét của các bậc thức giả trong ngữ văn truyền thống về sự vận động của thể thơ, văn giai đoạn này đã cho ta thấy rõ điều đó.

Như vậy, song tồn hai hình thái ngôn ngữ viết trong ngôn ngữ viết chữ Hán văn ngôn và bạch thoại sớm (bạch thoại trung đại) là một trong những đặc điểm nổi bật của Hán văn Lý - Trần. Đồng thời, xu hướng vận động viết theo văn ngôn, giảm dần các yếu tố ngôn ngữ nói của tiếng Hán trung đại xu hướng văn ngôn hóa cũng là một trong những đặc điểm dễ nhận ra nhất của việc dùng ngôn ngữ văn tự Hán giai đoạn này. Càng về các thế kỷ sau của giai đoạn Lý Trần, xu hướng này càng nổi trội.

4. Trong các công trình về văn hóa Việt Nam giai đoạn Lý - Trần, người ta thường mô tả đó như là một giai đoạn điều hòa, khoan dung tôn giáo... Thế kỷ X - XIV, văn hóa Đại Việt hình thành và phát triển, phục hưng, tích hợp và cân bằng văn hóa (Nguyễn Thừa Hỷ, Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 1999). Những nhận xét đó có thể tìm thấy ví dụ minh họa qua chính những nhân tố văn hóa chữ Hán, Hán văn. Trong các bộ sử do các sử gia phong kiến viết theo quan điểm Nho gia như Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên), có nhiều hiện tượng văn hóa ghi bằng chữ Hán đã bị họ xem như là không đúng theo chuẩn. Đó là các việc như: vua Đinh Tiên Hoàng lập sáu Hoàng hậu; đặt thuỵ hiệu thời Tiền Lê (Lê Đại Hành); Lê Ngọa Triều lập 4 Hoàng hậu; việc dâng tôn hiệu cho Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông; Lý Thái Tổ bị chê là chưa làm sáng chính học, chỉ học kinh sử qua loa; Lý Thái Tông xuống chiếu bắt quần thần gọi mình là Triều đình; Lý Thánh Tông tự xưng là Vạn thặng... đã bị các nhà nho cho là không hợp, hay bị chê là sai trái và bị lên án. Song có thể xem đó như là những biểu hiện bước quá độ từ phạm trù văn hóa mang nặng tính bản địa sang phạm trù văn hóa Đông á theo tiêu chuẩn của văn hóa chữ Hán nho học. Và đó cũng là một trong những nét khác biệt của văn hóa chữ Hán giai đoạn này so với các giai đoạn trước và sau đó.

5. Trong mối quan hệ với văn hóa, Hán văn giai đoạn Lý - Trần còn một đặc trưng nữa là số người biết chữ Hán trong toàn xã hội ngày càng mở rộng hơn. Giai đoạn này, Nhà nước đã mở trường dạy chữ Hán chứ không chỉ còn có việc học chữ Hán tự phát trong dân hay trong các nhà chùa (nhà Trần, 1226 - 1400). Biết chữ Hán, Hán văn đã trở thành tiêu chuẩn để chọn người vào bộ máy quan lại. [Tất nhiên, vẫn còn có trường hợp đến thời Trần, Thái giám tuyên chiếu mà không biết chữ Hán]. Mức độ biết chữ Hán của toàn xã hội đã được Trần Nguyên Đán diễn tả trong câu thơ:

Đấu tướng tụng thần giai thức tự
Lại viên tượng thị diệc năng thi.

(Tướng võ, tôi hầu đều biết chữ
Lại viên, thuyền thợ cũng hay thơ).

Đó là sự tổng kết bằng thơ về phong trào và mức độ phổ biến của chữ Hán trong toàn xã hội. Một nền giáo dục đào luyện nhân tài đáp ứng những đòi hỏi của xã hội như thế đã làm cho sĩ quân tử thời Trần có một bộ mặt riêng - tựa như sĩ quân tử của thời Tây Hán, không phải loại người tầm thường có thể sánh được. Tinh thần đó thể hiện ngay trong Hán văn của họ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho sau này, người ta hay chú ý vào lối viết của Hán văn Lý - Trần. Điều đó là cơ sở để xem Hán văn Lý - Trần là Hán văn của thời lập quốc, là giai đoạn cổ điển của mười thế kỷ dùng chữ Hán thời phong kiến.

6. Hán văn thời Nguyễn được dùng và vận động trong bối cảnh sự tái lập nhà nước phong kiến quan liêu và khôi phục lại tư tưởng Nho giáo chính thống. Nhiều vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã quá tôn sùng Nho giáo "sùng chính đạo, tuân kinh sử, pháp điển mô". Hán văn giai đoạn này cũng vận động một cách tương ứng với những vận động của đời sống xã hội, song lại theo xu hướng đi đến loại bỏ chính mình với tư cách là hệ thống ngôn ngữ văn tự viết trong 2 chức năng xã hội quan trọng nhất: là ngôn ngữ viết của hành chính (vào năm 1910) và là ngôn ngữ viết của giáo dục (vào năm 1919).

Xét về cấu trúc, Hán văn Việt Nam giai đoạn này có 2 lối viết: văn ngôn truyền thống và tân văn thể. Lối viết văn ngôn truyền thống vừa tiếp tục lối viết của văn ngôn nói chung, vừa chịu ảnh hưởng của tư tưởng quá nệ cổ của các vua và cũng như các thiết chế tổ chức nhà nước của thời Nguyễn. Lối viết Hán văn theo tân văn thể (đầu thế kỷ XX) chịu ảnh hưởng của các tư tưởng mới, tri thức mới - tư tưởng dân chủ tư sản mà đại diện của nó là các chí sĩ yêu nước và cách mạng.

7. Chữ Hán - Hán văn thời Nguyễn giai đoạn đầu chủ yếu được viết theo văn ngôn. Song văn ngôn giai đoạn này khác với văn ngôn các giai đoạn Lý - Trần cả về tinh thần viết lẫn lối viết. Nếu ở giai đoạn Lý - Trần, lối học chữ Hán được diễn ra trong tinh thần lập quốc, đào tạo nhân tài, thì lối học thời Nguyễn lại nhằm vào tạo ra những người trung hiếu với triều đình và nệ cổ. Số lượng văn bản Hán văn Việt Nam viết theo phong cách nệ cổ (dẫn nhiều chữ cổ, điển cố phức tạp của Thi Thư cũng như Bắc sử...) mang tính thù phụng ở thời Nguyễn khá nhiều. Học kinh sử, viết theo tinh thần viết của kinh sử khác với lối viết mô phỏng, chạy theo, tôn sùng kinh sử. Kinh sử là ngôn ngữ cũ, học nó là học lấy tinh thần chứ học để rồi làm như kinh sử, viết theo kinh sử... thì lại dẫn đến hiện tượng nệ cổ, không hợp với tinh thần thời đại.

Hán văn thời Nguyễn là lối viết mang tính phân tích tính, nếu so với giai đoạn Lý - Trần. Tính chất phân tích tính này trước hết thể hiện ở vốn từ. Do thu gọn trong mình mấy ngàn năm của lịch sử tiếng Hán, chữ Hán đã tích hợp trong mình cả vốn từ của tiếng Hán cổ đại, tiếng Hán trung đại và tiếng Hán cận đại. Cách viết mỗi thời khác nhau cũng chính là do từ trong tiếng Hán mỗi giai đoạn này khác nhau. Vốn từ trong Kinh Thi mang tính phân tích cao nhất (vốn từ đơn tiết nhiều, có sự chi ly về sắc thái... tiêu biểu cho văn hóa thời đó). Vốn từ trong ngôn ngữ thơ Đường lại khác - tính tổng hợp cao hơn, tính chi tiết hóa giảm đi. Một trong những nguyên nhân làm nên cái hay của thơ Đường là ở chỗ ở đây chuộng vốn từ cơ bản, tự nhiên, loại bỏ vốn từ cổ, lối diễn đạt cổ phù hợp với tư duy của người đương thời. Song trong thơ văn Hán văn thời Nguyễn ta lại thấy xu hướng khác. Những bài thơ ở điện Thái Hòa là nơi thể hiện vốn từ, cách nói của các Thi, Thư. Ngay trong Thi thì cũng nghiêng nhiều về phần Nhã, Tụng... Cứ xem vốn chữ Hán mà Tự Đức chuẩn bị cho thần dân của ông trong "Tự học giải nghĩa ca" thì đủ biết. Đó là vốn từ chủ yếu lấy từ các tự điển cổ, tính thông dụng không cao. Vốn chữ ở đây thậm chí lại còn khác nhiều với vốn chữ Hán được sưu tập và giải thích trong các tự điển song ngữ Hán Nôm khác... và cũng khác với bảng chữ Hán thông dụng.

Lối viết cổ hóa ấy chỉ có ích trong các cuộc thi tài nhớ nhiều chữ nghĩa nhưng ít tác dụng đối với xu hướng vận động đi lên của đời sống văn hóa đất nước. Xu hướng văn hóa đi lên này yêu cầu phải có số người biết chữ đông đảo hơn. Bởi thế ngay trong thế kỷ XIX đã vang lên những kiến nghị dùng quốc âm thay văn ngôn chữ Hán.

8. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng, ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đòi hỏi thay thế văn ngôn chữ Hán bằng một ngôn ngữ viết mềm dẻo hơn đã trở thành một làn sóng dâng cao khắp các nước có dùng văn ngôn chữ Hán lúc đó. Tất nhiên, phong trào này diễn ra theo từng cách khác nhau ở từng nước. Ngay ở Trung Quốc, quê hương của văn ngôn chữ Hán cũng đã diễn ra phong trào đòi cải cách ngôn ngữ viết, đòi hỏi ngôn ngữ viết phải trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ nói đương thời. Khoa cử từ chương bị bỏ đi năm 1902 kéo theo sự suy giảm về địa vị của văn ngôn. Quá độ từ văn ngôn truyền thống sang bạch thoại - bạch thoại hiện đại - bạch thoại Ngũ tứ là giai đoạn tân văn thể. Tân văn thể là ngôn ngữ của lối văn giác thế (Giác thế chi văn), rung động lòng người do lối viết của phong trào cải cách văn thể thời cận đại tạo ra mà Lương Khải Siêu là người chủ xướng.

Lối văn giác thế chủ yếu yêu cầu thông lời, đạt ý, câu văn cần mạch lạc, lời văn cần sắc bén, chẳng cần cầu kỳ bí hiểm làm gì. Lối văn này được mọi người đua chạy theo học như uống phải suối mê, nó phổ biến trong các ấn phẩm những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tân văn thể là lối văn chương chính luận lay động lòng người. Điều này xảy ra ở Việt Nam có muộn hơn, song sự hiện diện của bộ phận Hán văn của các chí sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX về căn bản được viết theo ngôn ngữ của tân văn thể đã là một trong những đặc trưng nổi bật của Hán văn giai đoạn này. Đó là một lối viết mới, có vốn từ thể hiện sự phát triển của văn hóa đương thời, cú pháp giản đơn... Ngôn ngữ chữ Hán của nhiều nhà Nho đến đây đã chuyển sang một giai đoạn khác, chịu ảnh hưởng của tân văn thể. Các văn bản Hán văn của Phan Bội Châu có thể được xem là một trong những ví dụ điển hình nhất, tiêu biểu cho sự vận động của lối viết ở giai đoạn này. Những văn bản Phan Bội Châu viết vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX (từ 1882) chủ yếu là những bài thi theo kiểu văn ngôn nhà trường, nhưng từ "Lưu Cầu huyết lệ tân thư" trở đi đã viết với một phong cách khác hẳn. Đó là lối viết của loại văn giác thế đầy cảm xúc, lay động lòng người để giác ngộ đồng bào, cứu lấy nòi giống...

Như vậy, Hán văn thời Nguyễn được bắt đầu bằng lối viết từ chương, kinh điển của lối văn ngôn truyền thống, sau đó lại chuyển sang tân văn thể và để rồi cũng kết thúc bằng tân văn thể. Chính những người yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã thực hiện bước chuyển từ dùng chữ Hán sang dùng chữ quốc ngữ qua quá độ tân văn thể.

9. Hai giai đoạn sử dụng chữ Hán ở Việt Nam: Lý - Trần và Nguyễn là giai đoạn bắt đầu và kết thúc của tiến trình mười thế kỷ dùng chữ Hán thời phong kiến tự chủ. Ở giai đoạn Lý - Trần, ta thấy có sự song tồn hai ngôn ngữ viết của chữ Hán: văn ngôn và bạch thoại sớm (mà ngữ lục Thiền tông là minh chứng cụ thể cho lối viết bạch thoại sớm). Bạch thoại chủ yếu chỉ ở thời Lý và giới hạn ở phạm vi văn bản nhà chùa. ở đây, có sự vận động theo xu hướng văn ngôn hóa.

Trong Hán văn thời Nguyễn chúng ta cũng thấy có hiện tượng song tồn 2 hình thái ngôn ngữ viết: văn ngôn truyền thống và tân văn thể. Văn ngôn truyền thống chi phối suốt trong thế kỷ XIX. Tân văn thể chủ yếu ở đầu thế kỷ XX và là ngôn ngữ của các nhà Nho yêu nước và cách mạng. Song sự tiến hóa ở đây lại diễn ra theo con đường đi đến loại bỏ vai trò của ngôn ngữ văn tự chữ Hán trong 2 chức năng xã hội quan trọng nhất: là ngôn ngữ viết của hoạt động hành chính và giáo dục. Sự giống và khác nhau đó của Hán văn 2 giai đoạn này xét về ngôn ngữ trong mối liên hệ với văn hóa, một mặt, đã thể hiện xu hướng vận động để khẳng định Hán văn, mặt khác, lại thể hiện xu hướng và vận động để đi đến loại bỏ nó - đã góp phần quan trọng cho việc nhận thức văn hóa Việt Nam thời trung đại.

Xem xét Hán văn Lý - Trần và Hán văn thời Nguyễn tức là xem xét giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của tiến trình dùng chữ Hán ở thời phong kiến đã cho ta cái nhìn về sự vận động trong lối viết chữ Hán Việt Nam. Một cách nhìn như thế, đối với Hán văn sẽ giúp chúng ta thiết kế chương trình môn Hán văn Việt Nam trong mối liên hệ trực tiếp với các vấn đề liên quan đến chức năng và cấu trúc, cũng như sự vận động của ngôn ngữ viết chữ Hán nói chung trong mối quan hệ trực tiếp với sự vận động của văn hóa Việt Nam thời trung đại.

P.V.K - T.D.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. De Françis John: Colonialism and Language Policy in Vietnam. The Hague - Paris - New York, 1977.

2. Phạm Văn Khoái: Giáo trình Hán văn Lý - Trần. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.

3. Phạm Văn Khoái.: Một số vấn đề chữ Hán thế kỷ XX. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

4. Woodside A.B. Vietnam and the Chinese model, Harvard University Press, 1971.

TB

CỤ CỬ PHẠM XUÂN HÒA VÀ
NHỮNG VẦN THƠ ĐỂ LẠI(1)

PHẠM KỲ NAM

Ông Phạm Xuân Hòa sinh ngày mồng 8 tháng 10 năm 1863 (tức ngày Tân Tỵ, tháng Quý Hợi, năm Quý Hợi) mất ngày 25 tháng 3 năm 1920 (tức ngày Tân Mùi, tháng Canh Thìn, năm Canh Thân).

Thời đó để động viên khuyến khích con em trong xã học hành, làng Vũ Lăng có treo một giải thưởng ba mẫu ruộng công điền, dành để tặng cho người nào thi đậu Cử nhân Hán học đầu tiên của làng. Giải thưởng lớn cả về mặt tinh thần và vật chất, chứng tỏ các cụ ta xưa nay coi trọng việc học hành đến chừng nào, và cũng phải đánh giá theo thời điểm đó mới thấy thực hiện việc này khó khăn chừng nào.

Sinh trưởng trong một gia đình nghèo có học, cha là Khóa sinh, bác ruột thi đỗ nhị trường, không khí học hành đó có ảnh hưởng tốt đến tuổi thơ của cậu bé Phạm Xuân Hòa. Hồi nhỏ Phạm Xuân Hòa theo học cụ khóa sinh Lê Niên - người cùng làng, đã có một thời gian cụ Niên cho cậu cùng đi Kiến An, nơi cụ dạy học. Năm cậu 13 tuổi thì cụ Khóa Niên mất, trở về làng theo học bác ruột là cụ Phạm Mạnh Địch. Năm 14 tuổi cha là cụ Phạm Trọng Khởi mất, lúc lâm chung cụ nắm tay con mà dặn rằng: “Hãy giữ lấy nghiệp học của bác mày con ạ”. Để ghi nhớ lời cha dạy, cậu đã dán lên cột nhà đôi câu đối:

Nhất quyết cao đường di hối ngữ,
Bách niên cô tử vị minh tâm

Trước lúc mất cụ Phạm Mạnh Địch dặn các học trò của mình rằng: “Cái Cử nhân khai khoa ở làng này ta không làm nổi, các con cố mà giật lấy. Nếu các con làm được thì ở dưới suối vàng ta cũng mát lòng”. Sau ông Cử Hòa là cháu ruột của cụ đỗ Cử nhân khai khoa, ông Lê Duy Thanh học trò của cụ đỗ khoa tiếp theo.

Sau khi thi đậu Khóa sinh ông xin vào văn hội làng, theo lệ phải qua một cuộc sát hạch. Trong buổi sát hạch này ông có làm một bài thơ nói lên tâm sự của mình trong đó có hai câu:

Sự nghiệp chưa vui lòng tôn giả,
Thành danh vẫn hẹn thiếu niên thân.

Bây giờ đã đến lúc phải đi học xa, cụ Khởi bà đã hết lòng vì con mà tạo điều kiện cho con mình thành đạt. Thời gian này ông xin nhập trường cụ Nguyễn Bá Trụ xã Trừng Hoài, huyện Thanh Quan, nguyên Tri huyện cáo quan về dạy học. Khi rời nhà đi học ông có bài thơ nói lên quyết tâm thành đạt của mình:

LẠN TƯƠNG NHƯ ĐỀ CẦU
Gươm đàn nửa gánh đến thành đô,
Hẹn với cầu này đã vạch thơ.
Lớp lớp mây lành dâng trước mặt,
Lâng lâng ý đẹp viết nên tờ.
Những mong rạng rỡ làng quê cũ,
Há chịu lần hồi ngõ hẹp xưa.
Phấp phới cờ bay ngày trở lại,
Cầu xưa nét chữ vẫn chưa mờ.

Khoa thi Hương năm Bính Tuất niên hiệu Đồng Khánh thứ nhất (1886), ông thi đậu nhất trường.

Chuyện kể rằng: Một ngày đầu năm đi lễ Tết nhà vợ, vì quá chén ông đã thất lễ với mọi người. Khi tỉnh rượu ông làm một bài thơ tạ lỗi với mọi người rồi mới ra về, nay còn nhớ lại bốn câu:

Mượn rượu đắm mình trong khát vọng,
Ung dung, nghiêng ngả vẻ ngoài thôi.
Cung thiềm bẻ quế đang say mộng,
Hoài bão còn đầy, dạ chẳng vơi.

Khoa thi năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ ba (1888), ông không đậu. Theo lời khuyên của Thầy, ông xin dự tập văn bài ở trường cụ Đặng Ngọc Toản, nguyên Giáo thụ phủ Kiến Xương, cáo quan về dạy học.

Khoa thi năm Tân Mão niên hiệu Thành Thái năm thứ ba (1891), ông đậu Cử nhân trường Hà Nam (trường Hà Nội và Nam Định hợp nhất tổ chức thi tại Nam Định, vì trước đó đã xảy ra vụ biểu tình của các thí sinh trường Hà Nội.) Khoa thi này các thí sinh Bắc Hà lấy đậu 65 người và 14 người được chuyển từ Tú tài lên, cộng 79 người, thủ khoa là Đặng Trần Vỹ người Hà Nội.

Vậy là ông đậu Cử nhân khai khoa làng Vũ Lăng năm 28 tuổi, thực hiện được di nguyện của cha, lời trăng chối của bác ruột và lời giao ước với người bạn đời là “vinh quy cùng với vu quy một ngày”.

Khoa thi Hội năm sau, năm Nhâm Thìn, bạn bè đến rủ đi học ở Quốc tử giám, nhưng cụ bà thân sinh ra ông không cho đi và bảo rằng: “Mẹ chỉ có một rổ chè, nuôi con đậu đến Cử nhân lộc hưởng thế là đủ, hãy để phúc cho con cháu”. Ông vâng lời mẹ không đi dự thi Hội nữa.

Khi cụ bà mất, ông Cử Phan Cảnh Tung (người xã Tống Văn bạn học và bạn đỗ đồng khoa với ông) có câu đối viếng:

Thăng đẩu lắm mùi ngon, giữ vạt áo lòng con đi chẳng nỡ
Văn chương đều vết bụi, trao thuốc cay lời Mẹ dạy đâu còn.

Sau khi ông đậu Cử nhân, ông Lương Tự Bình, Tổng đốc Thái Bình tiến cử ông đi làm Huấn đạo huyện Phụ Dực, nhưng ông từ chối. Tầng lớp nho sĩ thời xưa học hành với mục đích “tiến vi quan, thoái vi sư”, nhưng lúc này tiến không dễ làm quan, vì làm quan với ai và vì ai đây. Các vị thầy học của ông đã chẳng cáo quan về hưu đó sao. Còn thoái không thể làm thầy vì Hán học đang dần dần nhường chỗ cho Tây học. Những kẻ sĩ còn coi trọng danh dự cố giữ lấy tiết tháo của nhà nho đành phải lui về ẩn cư, nhưng cũng không tránh khỏi phiền lụy của cuộc sống đời thường. Ông có bài thơ tâm sự:

Đường đời bao quản lắm gieo neo,
Chèo chống khi nay đã đủ điều.
Mặt trắng không ưa phường lại lắm,
áo xanh còn tiếc khách chưa nhiều.
Nội đồng gai góc sớm hay biết,
Rừng núi thơ đàn đã quảy theo.

Năm Đinh Dậu xảy ra vụ vỡ đê, Thượng hộ, Tri phủ bị cách chức, các chức dịch trong làng cũng bị giam giữ. Ông vì không tham dự đến việc thu chi nên được miễn nghị án. Nhưng có kẻ báo với sứ rằng làng ông có tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục, mà ông là một văn thân ắt cũng có tham gia, nên bắt giữ ông ở nhà lao Nam Định, đến 11 tháng mới tha, vì chúng không có chứng cứ.

Cùng bị giam với ông ở nhà lao Nam Định có ông Giám Thố một văn thân tham gia bạo động chống Pháp. Ông Giám được ra tù trước, ông bèn có bài thơ tiễn bạn ra tù:

Hai ta tôi bác bậc thân hào,
Mưa gió trần ai thử một tao.
Tôi gắng lãng quên trong sách vở,
Bác đừng nhắc nhở chuyện cung đao.
Vườn con đành vậy vun dăm luống,
Nghĩa lớn khôn mong góp chút nào.
Đất nước chưa thay đầu chửa bạc,
Non sông thề hẹn bạn tâm giao.

Về nhà được ít lâu thì ông có Tuần phủ Nguyễn Tự Cường mời ông ra làm việc ở dinh Tuần phủ, nhưng ông từ chối. Ông Trần Thiện Khiêm Tri phủ Kiến Xương lại cử ông làm Phó Hội trưởng hội Tụ ích, một tổ chức công khai của Hội Đông Kinh Nghĩa Thục, ông có bài thơ cáo lỗi:

Đã hẹn mừng xuân dám trễ giờ,
Gối chăn đạm bạc vẫn đang chờ.
Dăm gian nhà lá ba pho sách,
Một mẹ già nua một trẻ thơ.
Nghĩa lớn khôn mong chung gánh vác,
Tình riêng khó tránh chuyện làm ngơ.
Âu đành vâng chịu lời chênh lệch,
Luống hẹn mày râu đứng hững hờ.

Bài thơ phản ánh tâm sự của các nhà nho đương thời trước tình hình đất nước, triều đình thì đầu hàng thỏa hiệp, các phong trào yêu nước thì chưa có tác dụng động viên sức mạnh dân tộc, trí thức thời đại thiếu niềm tin vào cách mạng, mất phương hướng.

Năm Đinh Mùi (1907) ông 47 tuổi, đang được dân cử ra làm Tiên chỉ thì viên Công sứ Thái Bình có Tri huyện Kiến Xương tháp tùng về kiểm tra xã nhà. Ông bàn với các vị chức dịch trong làng tổ chức lễ đón tiếp chu đáo nhưng giản dị. Viên Công sứ này nói được tiếng Việt và giỏi chữ Hán, trong buổi gặp dân đã hỏi ông: Ông Cử ! Trong Truyện Kiều Việt Nam có câu: “Lễ nghi bày trước, bác đồng bày sau”. Câu này có nghĩa thế nào?

Ông biết nó ám chỉ làng Vũ Lăng có hội Đông Kinh Nghĩa Thục, nên ông trả lời rằng: Câu đó ở trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, nhưng dân tôi không có ý ấy nên tôi không dám giảng. Viên Công sứ bèn bảo ông rằng:

Khen cho thực cũng nên rằng,
Khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời.

Sau đó ông xin từ chức Tiên chỉ. Tháng Giêng năm sau làng mở hội cờ, cho mọi người đến mượn ông bàn cờ. Ông làm một bài thơ viết vào mỗi ô cờ một chữ. Bài thơ phần nào nói lên bản lĩnh ứng xử của ông.

ĐÁNH CỜ
Tướng quân xếp đặt việc quân cơ,
Bốn mặt ung dung chính hiệp kỳ.
Tướng sĩ dốc lòng nơi chiến trận,
Ngựa xe rong ruổi chốn biên thùy.
Đôi bờ hiểm yếu chia Lưu Hạng
Sáu nước lưu hành nhẹ Diễn, Nghi.
Thắng bại trong tay trù liệu sẵn,
Sá chi câu chuyện giải trùng vi.

Một lần ông Bát Song người xã Nam Huân, nhà có vườn hoa đẹp, đang lúc hoa nở. Ông Song cho người đi mời Ông và Tri phủ Kiến Xương là ông Phạm Hoàng Lãm về thưởng hoa. Trong bữa tiệc hôm đó ông Lãm tặng chủ nhân một câu đối có ý khen là cảnh đẹp người xinh.

Đất ở đây cây dày, trúc đẹp
Người chốn này nước trắng, sen hồng

Viết xong ông Lãm đưa ông xem và mời ông làm một bài. Ông bèn viết bài Thưởng hoa để tặng chủ nhà.

THƯỞNG HOA
Rực rỡ vườn hoa, hoa điểm xuyết,
Thần hoa đua nhau khoe vẻ đẹp.
Hồng khoe bốn mùa hồng như huyết,
Trắng khoe năm tháng trắng như tuyết.
Tẩy hồng thành trắng, hồng đâu hết,
Nhuộm trắng sang hồng, trắng khó diệt.
Hồng hơn, trắng hơn, thật khó quyết.
Ông khách chơi hoa, bậc sành tuyệt,
Hoa nào đây đáng mặt hào kiệt.

Ông là người cầu thị, không bảo thủ. Khi nhà nước mở trường Quy thức để đào tạo lớp người Hán học một số kiến thức Âu học, ông cũng cho các con tham dự, nhưng do chưa nhận thức được sự cần thiết của Tây học, nên các con ông đều không chịu theo tân học.

Những năm cuối đời ông càng ý thức được hai chữ thiên mệnh của Nho giáo, và nhận ra ý nghĩa hư vô của cuộc đời theo học thuyết của Phật, Lão. Bài thơ dưới đây ít nhiều hợp với tâm trạng của ông:

Bầu trời không, trái đất không,
Con người lơ lửng ở trong vô cùng.
Trời không
33, không cả vầng trăng,
Đông lên, tây xuống nhọc lòng vì ai.
Con không, vợ cũng không rồi,
Suối vàng nào có ai người gặp nhau.
Xe để đâu, ngựa để đâu !
Trăm năm một nấm cỏ khâu xanh rì ?
Ngọc làm gì, lụa làm gì ?
Chết đi hồ dễ mang đi theo người.
Xem ra sự thực trên đời,
Điều hay việc tốt, làm người nên chăm.

Từ năm Mậu Ngọ (1918) trở đi, bệnh cũ tái phát, tuổi đời đã 58, sức khỏe suy giảm nhiều, con cháu tỏ ý lo lắng thương xót, ông thường nói đến nhân sinh quan của Trang Chu để giải thích mà cũng để an ủi người thân:

Đời người ngẫm cũng buồn,
Như hoa nở rồi tàn.
Ngó đến thấy thương thương.
Can chi mà lệ vương.
Người đời cười tớ cạn bi thương,
Tớ cũng cười ai uổng đoạn trường.
Lệ có hồi sinh hãy nhỏ lệ,
Tớ sẵn ngàn hàng đến vạn hàng.

Chạy chữa đã nhiều mà bệnh không thuyên giảm, bài thơ Nôm tự sự và cũng là bài thơ Nôm duy nhất của ông mà con cháu trong nhà còn giữ được, coi như là lời từ biệt của ông:

Bệnh người khốn khổ lắm ai ơi,
Dằn vặt người sao mãi chẳng thôi.
Hồn muốn lên trời mây đón lại,
Phách toan về đất, nước không trôi.
Anh hùng khắc khoải vòng cương tỏa,
Tiên nữ băn khoăn đợi đứng ngồi,
Những muốn vén mây lên tuyệt đỉnh,
Ai thư một quyển viết chưa rồi.

Thân thế và sự nghiệp của một người không thể tách rời hoàn cảnh thời đại. Khước từ danh lợi chốn quan trường, lại rơi vào vòng phiền lụy ở hương thôn, ông đã phải trả giá cho việc giữ lấy khí tiết của kẻ sĩ trong thời kỳ mất nước.

Ông là người Vũ Lăng đầu tiên thi đậu Cử nhân, kết quả có tác dụng khích lệ học nghiệp ở quê hương. Lão tử có nói: “Chớ là người làm một việc tốt đầu tiên, kẻ làm đầu tiên hay gặp hoạn nạn”. Những gì đã đến với ông phải chăng đó là Lý, phải chăng đó là Đạo.

P.K.N

CHÚ THÍCH

(1) Sau khi Thái Bình tách khỏi Nam Định và Hưng Yên thành một tỉnh độc lập, thì các vị Cử nhân người Thái Bình đậu khoa Thành Thái năm Tân Mão 1891 ở trường thi Hà Nam là những Cử nhân đầu tiên của tỉnh gồm có: Phạm Duy Du - xã Cần Phán; Lê Văn Tảo - xã Thượng Tầm; Phạm Xuân Hòa - xã Vũ Lăng; Phạm Huy Giác - xã Mỹ Lộc; Phan Đắc Tuấn (tức Phan Cảnh Tung) - xã Tống Văn; Phạm Xuân Khanh - xã Nam Huân; Nguyễn Nhạ - xã Nam Huân; Trần Văn Túc - xã Hổ Đội; Vũ Tiến Cơ - xã Trực Nội. Tỷ lệ đỗ 9/79.

TB

VẤN ĐỀ ĐỌC TÊN TÁC GIẢ
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

NGUYỄN QUANG HỒNG

Bài Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự của Nguyễn Nam trên Tạp chí Hán Nôm, số 2(51)-2002, cho thấy tác giả đã băn khoăn một cách chính đáng trước sự không thống nhất đối với cách đọc tên tác giả bộ sách Truyền kỳ mạn lục (TKML) bất hủ trong kho tàng văn học chữ Hán ở nước ta. Cần phải gọi tên ông thế nào cho đúng: Nguyễn Dư, Nguyễn Dữ, Nguyễn Dự hay Nguyễn Tự ? Nguyễn Nam đã cung cấp cho người đọc những thông tin cần thiết về lịch sử của vấn đề này, và cùng với một vài học giả đi trước, anh đã có sự lựa chọn của mình cho câu hỏi đã đặt ra. Tuy nhiên, bình tĩnh mà nghĩ ngợi, thì thấy sự thể cũng không phải là đơn giản như anh đã hình dung. Trong bài này tôi xin được luận bàn thêm về một vài chứng cứ và lý lẽ để thấy rằng chưa hẳn đã là thực sự thỏa đáng nếu như kết luận rằng tên tác giả TKML dứt khoát phải đọc là Nguyễn Tự mới được(1).

Trước hết cần xác định tên của tác giả TKML đã được viết như thế nào trong các văn bản Hán Nôm. Cho tới nay, người ta mới tìm thấy có hai chữ Hán được dùng đến để ghi tên tác giả. Đó là: (A) 嶼 - và (B) 璵. Chữ (A) gồm bộ 山 + âm 與 thực sự có mặt trong bài Tựa của Hà Thiện Hán (được giải nghĩa là 海 中 洲 上 石 山 也 "núi trên bãi giữa biển") in trong hầu hết các truyền bản TKML (Tân biên và cả Cựu biên). Còn có thể thấy chữ này ghi tên tác giả trong hai đoạn "Lời bình" của các bản Tân biên TKML giải âm(2). Các học giả ngày nay (Nguyễn Khắc Kham, Xuyên Bản Bang Vệ, Trần ích Nguyên, v.v. ) cũng đã thấy chữ này có mặt trong nhiều thư tịch Hán Nôm quan trọng ngày xưa như Kiến văn tiểu lục (ở chương Tài phẩm) của Lê Quý Đôn (1726 - 1784), Lịch triều hiến chương loại chí (ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú (1755 - 1786) và cả trong Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (1697 - ?)(3). Còn chữ (B) gồm bộ 玉 + âm 與 (có nghĩa là "ngọc đẹp"), cũng theo các học giả kể trên, đã xuất hiện trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí (cũng ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú. Lại theo mục "Lưu ý bạn đọc" trong sách Truyền kỳ mạn lục do Nxb. Văn nghệ và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988 [Bđd của Nguyễn Nam, tr.49, chú 2] thì chữ này cũng có thể xuất hiện trong bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, in năm 1763. Tuy nhiên, chữ thứ hai này rất ít khi được dùng đến(4). Khó có thể phát hiện thêm trong kho văn tịch Hán Nôm một chữ nào khác đã được dùng để ghi tên tác giả TKML, nhất là chữ nào đích thị là chữ do chính tác giả ghi tên mình. Trong điều kiện như vậy, chúng ta có thể tạm "làm việc" với hai chữ 嶼 (bộ Sơn) và 璵 (bộ Ngọc) trên đây như các học giả đã ghi nhận và cố gắng xác định một cách đọc thỏa đáng cho tên của tác giả TKML.

Những người chủ trương nên đọc tên tác giả là (chứ không là Dữ) căn cứ vào chữ 璵 (bộ Ngọc) được dùng trong một vài trường hợp lẻ tẻ và không được ổn định nói trên. Chữ 璵 này theo các phiên thiết mà Khang Hy tự điển (1716) cung cấp như: 以 諸 切 Dĩ Chư thiết ("Đường vận", thế kỷ VIII), 羊 諸 切 Dương Chư thiết ("Tập vận", 1067) đều phải đọc là Dư. Duy có phiên thiết 雲 俱 切 Vân Cụ thiết (Chính vận", thế kỷ XIV) thì dường như phải đọc là Vu(5). Tuy nhiên Khang Hy tự điển cũng cho biết là tất cả đều đọc như chữ 余 dư. Cả hai chữ này, 璵 và 余 trong tiếng Hán phổ thông hiện nay cũng là đồng âm, đều đọc là yú. Như vậy, tên của tác giả TKML sẽ đọc là Dư, nếu chúng ta tin rằng tên ông nhất thiết phải là "ngọc đẹp" và phải viết là 璵 mới được. Giá như ngoài tên thật ra, tác giả TKML còn để lại cho đời sau một tên tự hoặc tên hiệu mà nghĩa chữ có liên quan với "ngọc" hoặc "núi" thì sự lựa chọn giữa hai chữ 嶼 (bộ Sơn) và 璵 (bộ Ngọc) cho tên ông sẽ đơn giản hơn nhiều. Thế nhưng, văn tịch Hán Nôm không cung cấp thông tin gì hơn ngoài những dẫn liệu ít ỏi đã nêu ở trên.

Phần lớn các học giả không thấy có chữ Dư 璵 ("ngọc đẹp") dùng cho tên tác giả TKML trong các truyền bản hiện còn của sách này. Ông Xuyên Bản Bang Vệ (Nhật Bản) là học giả tiếp xúc khá nhiều và khá kỹ các truyền bản tác phẩm TKML cũng không hề phát hiện ra chữ này hay một chữ nào khác, mặc dù ông biết rất rõ có một số học giả (như E. Gaspardone, 1935) đã dùng chữ 璵 (bộ "ngọc") cho tên tác giả TKML. Chỉ riêng thực tế này thôi cũng đã khiến hầu hết chúng ta ngày nay dễ dàng nghiêng về phía "chọn" chữ 嶼 (bộ "sơn") cho tên ông. Thế nhưng, chọn chữ 嶼 là một chuyện, mà đọc chữ này như thế nào, lại là một chuyện khác. Chính trong "chuyện khác" này mới thực sự nổi lên vấn đề bất đồng về tên gọi tác giả TKML giữa các học giả ngày nay, khi buộc phải phiên âm chữ 嶼 theo âm Hán Việt sang chữ Quốc ngữ La-tinh hiện hành.

Không có gì phải nghi ngờ rằng trong thành phần chữ đang xét thì 與 là bộ phận biểu âm. Điều này ngay từ Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thời Đông Hán đã khẳng định. Đúng như GS. Nguyễn Khắc Kham đã chỉ rõ, nếu chỉ căn cứ vào phần biểu âm là 與 thì chữ 嶼 có thể có 3 cách đọc dựa theo chữ 與 là "1. dữ = a) và, với, cùng với, so với; b) cho, góp với. 2. dự = tham gia vào. 3. dư = giống như chữ 歟 (từ nghi vấn)". Trong 3 cách đọc này, Cụ có xu hướng muốn chọn cách thứ ba là cho tên gọi tác giả TKML (mặc dù Cụ cũng nhắc đến cả cách đọc là Tự nữa theo phiên thiết, sẽ nói đến sau). Để hậu thuẫn cho cách đọc là (mà không là Tự) Cụ có dẫn cách đọc mới của chữ 嶼 trong Tân Hoa tự điển (Bắc Kinh, 1972) là yu "tiểu đảo - đảo nhỏ", cũng giống như cách đọc của chữ 璵 "ngọc đẹp", và cho rằng Tự chỉ là lối đọc cũ của chữ 嶼 mà thôi. Cụ Nguyễn Khắc Kham đã hoàn toàn đúng khi cho rằng tự là cách đọc cũ của chữ 嶼, song Cụ đã nhầm khi đồng nhất cách đọc mới của hai chữ 嶼 (bộ Sơn) và 璵 (bộ Ngọc). Thực ra, trong cách đọc hiện nay của tiếng Hán phổ thông, hai chữ này vẫn khác nhau ở thanh điệu: thanh thượng cho 嶼 yu (tương ứng với âm Hán Việt là dữ) và thanh dương bình cho 璵 (tương ứng với âm Hán Việt là ). Ngoài ra, cũng còn một lý do "tế nhị" nữa để cụ Nguyễn Khắc Kham không muốn gọi tên tác giả TKML Dữ. Cụ viết: "Thật khó nghĩ được rằng cụ thân sinh tôn quý [Nguyễn Tường Phiêu], một vị đại nho và trọng thần trong triều lại đặt cho con mình cái tên chẳng lành là Dữ !". Hoàn toàn có thể nhất trí với nhau rằng không ai lại muốn mình (hoặc con cháu mình) mang một cái tên xấu xí hoặc chẳng lành, nhất lại là con cháu nhà khoa cử. Trong các gia đình nho học, thậm chí người ta tuyệt nhiên không dùng tiếng Nôm đặt tên cho người nhà. Bởi vậy khi đọc đến tên các danh nhân Việt Nam như Cao Bá Quát, Nguyễn Tông Quai, Vũ Phạm Hàm, v.v. không mấy ai lại nghĩ ngay đến âm Nôm nghĩa Nôm của mấy chữ Quát, Quai, Hàm, v.v. mặc dù cũng ít người có thể thực sự hiểu rõ nghĩa của mấy chữ Hán ấy là gì. Đối với chữ 嶼 Dữ cũng vậy thôi, đó là một chữ Hán được đọc với âm Hán Việt, không liên can gì với âm Nôm nghĩa Nôm cả (như trong dữ dằn, dữ ác, …). Dĩ nhiên, nếu cố tình xuyên tạc để chơi chữ đồng âm, thì đó lại là chuyện khác. Vậy là không có một căn cứ hoặc lý do xác thực nào để ủng hộ cho cách đọc chữ 嶼 là (thanh bằng) cả.

Cách đọc tên tác giả TKML Tự được đề xướng (Nguyễn Khắc Kham, Bùi Xuân Trang, Nguyễn Nam, …) chủ yếu là dựa vào các phiên thiết dùng cho chữ 嶼 ghi trong các vận thư, mà Khang Hy tự điển đã cung cấp khá đầy đủ: 嶼 "Đường vận": 徐 呂 切 Từ Lữ thiết; "Tập vận", "Vận hội", "Chính vận": 象 呂 切 Tượng Lữ thiết. Căn cứ vào hai thiết ngữ (phiên thiết) này để đọc chữ đang xét, ta có âm Tự là chính xác. Tuy nhiên cũng cần giải thích một đôi điều. Một là, theo cách đọc Hán Việt, thì "chữ phiên dưới" có hai âm đọc là hoặc Lữ. Người Việt hiện nay mang họ viết theo chữ Hán này có thể tùy theo truyền thống gia tộc mình mà gọi là Lữ hoặc Lã. Thực ra, theo hệ thống vần tiếng Hán trung đại, thì chữ này thuộc vần Ngữ (tức bộ vần Ngư thanh thượng). Cùng thuộc vần Ngữ 語 trong sách Vận kính (thế kỷ XII) chúng tôi đếm được tất cả 27 chữ, trong đó theo âm Hán Việt có 2 chữ có thể đọc với vần a [ a] là Dã 野 và Lã 呂. Một vài chữ khác đọc theo vần ơ [?] như Sở 楚, Trở 阻 hoặc ưa [ứa] như Hứa 許, … còn lại đều đọc với vần ư [ứ] như: Dữ 與, Nhữ 汝, Trữ 貯, 佇, Ngữ 語, Nữ 女, và cả Lữ 呂, Thử 署, Cử 舉, Khứ 去 , Cự 巨, Tự 敘,… Như vậy, phần lớn các chữ thuộc vần Ngữ đều được đọc theo vần Hán Việt ư, và điều không kém phần quan trọng là ở đây không có một chữ nào đọc theo âm Tã cả, mà có một chữ đọc theo âm Tự. Hai là, tại sao "Tượng Lữ thiết" không đọc là Tữ (thanh ngã) mà lại đọc thành Tự (thanh nặng) ? Không riêng gì chữ này, mà hầu như không một chữ Hán nào khác được chúng ta đọc là Tữ cả. Điều này có lý do của nó. Hệ thống âm vận tiếng Hán phát triển đến cuối Đường đầu Tống thì có hiện tượng những chữ vốn có thanh Thượng với âm đầu toàn trọc ("thuần đục") đã dần dần chuyển sang thanh Khứ. Tình trạng này đến thời nhà Nguyên thì trở nên phổ biến, thành quy luật "Trọc Thượng biến Khứ" (濁 上 變 去) mà Chu Đức Thanh đã tổng kết trong sách Trung Nguyên âm vận (1324). Theo nghiên cứu của GS. Nguyễn Tài Cẩn thì trong số 174 chữ Hán thường dùng vốn thuộc loại "Toàn trọc Thượng thanh" (mang thanh Thượng với âm đầu "thuần đục") thì tỉ lệ Ngã / Nặng đọc theo âm Hán Việt là 56/118(6). Các chữ Từ 徐 và Tượng 象 làm "chữ phiên trên" cho chữ 嶼 đều thuộc thanh mẫu Tà 邪 vốn là một phụ âm "toàn trọc", vậy nên chữ này theo đó cũng đọc thanh Nặng là phải.

Vậy thì không có gì đáng phải băn khoăn khi đọc tên tác giả TKML là Tự, nếu chúng ta chỉ cần dựa vào phiên thiết đã cho trong các vận thư của Trung Hoa ngày xưa. Những phiên thiết này chắc chắn đã có nhiều người biết đến. Chỉ không rõ một điều là bản thân tác giả TKML và các tác gia Hán Nôm thời xưa, như Lê Quý Đôn chẳng hạn, phải chăng vẫn đọc chữ 嶼 là Tự, hay cũng đã đọc là Dữ như phần lớn chúng ta ngày nay. Điều này khó lòng có thể kiểm chứng được, song không phải là không có khả năng như vậy. Bởi vì, cũng có chữ, phiên thiết một đằng, mà các cụ nhà nho lại đọc một đằng khác. Như chữ 幻 lẽ ra theo phiên thiết phải đọc là hoạn ("Tập vận": Hồ Quán thiết 胡 貫 切) hoặc huyễn / huyện ("Đường vận", "Tập vận": Hồ Biện thiết 胡 辨 切). Thế nhưng, không một ai trong chúng ta ngày nay lại đọc như thế, mà đã nghiêm chỉnh tiếp thu cách đọc quen thuộc là ảo từ tiền bối để lại: hư ảo, ảo tưởng, ảo giác, ảo ảnh, mộng ảo (虛 幻, 幻 想, 幻 覺, 幻 影, 夢 幻)… trừ một vài ngoại lệ: huyễn hoặc (幻 惑) và cả huyễn tưởng (幻 想)(7). Có lẽ vì chữ 幻 này trông hao hao giống chữ 幼 ấu, nên người ta đã thấy tự tin khi đọc nó với một âm na ná như vậy là ảo, lâu rồi thành quen. Biết đâu chữ 嶼 cũng là một trường hợp như vậy. Cái bộ phận biểu âm của chữ này mách bảo người đọc yên tâm đọc là dữ, mà khỏi phải bận tâm tra cứu "điển tịch" làm gì (để rồi tìm thấy cách đọc "lạ hoắc" theo phiên thiết là tự !). Nhưng nếu theo bộ phận biểu âm thì chữ 嶼 cũng có thể đọc là Dự lắm chứ, bởi vì chữ 與 còn có thể đọc là dự, như trong các từ ngữ khá quen thuộc: tham dự, dự tiệc, dự họp, dự lễ … Có thể đây lại là một khía cạnh "tế nhị" như đã nói đến ở trên. Chữ 與 với âm và nghĩa như thế đã đi vào tiếng Việt quá sâu, đã Nôm hóa quá đậm rồi, nên rất ít có khả năng được gắn với tên của danh nhân. Còn dữ có nghĩa "cùng với, cấp cho" cũng như dữ với nghĩa là "đảo nhỏ" hay "núi đá trên bãi giữa biển" trong tên gọi tác giả TKML dù có ngẫu nhiên trùng âm với một tiếng Nôm (trong dữ dằn, dữ dội, …) nhưng thực chất chỉ là những ngữ tố thuần túy Hán văn đọc theo âm Hán Việt mà thôi.

Với một tình trạng như vừa trình bày thì việc phát hiện thêm một phiên thiết được đọc là Tư Lữ thiết (嶼, 私 呂 切) trong bài Tựa của Hà Thiện Hán ở bản Cựu biên TKML (1712) cũng chẳng tăng thêm được chút sức mạnh nào cho giải pháp chọn âm Tự để đọc tên tác giả TKML. Ngược lại là đằng khác. Vì sao vậy? Xin được thảo luận tiếp như sau đây.

Chúng ta ngày nay không rõ là bản thân Hà Thiện Hán khi viết bài Tựa (vào năm Vĩnh Định sơ niên - 1547) có chú phiên thiết cho cách đọc tên tác giả TKML không. Hay có nhiều khả năng đó là do sau này Nguyễn Lập Phu ghi thêm vào khi "biên chép lại". Chỉ biết rằng trong những truyền bản thuộc hệ Tân biên TKML thì không thấy có ghi chú phiên thiết này. Có thể nhận thấy rằng phiên thiết được ghi ở đây thiếu sự minh xác về mặt chữ, và cả về căn cứ. Về mặt chữ, rất khó xác định "chữ phiên trên" là Tư hay là Di (xem ảnh). Đọc là Tư, trước Nguyễn Nam đã có Xuyên Bản Bang Vệ. Đọc là Di, trước Nguyễn Quang Hồng đã có Trần Nghĩa(8). Về căn cứ, nếu muốn khẳng định tên tác giả TKML phải đọc là Tự , thì sao người ta không dựa vào phiên thiết đã có trong các vận thư như Từ Lữ thiết, Tượng Lữ thiết (徐 呂 切, 象 呂 切) đã nêu ở trên, mà lại tùy tiện đặt ra một phiên thiêt mới cho chữ này. Mà nếu đọc "chữ phiên trên" là Tư 私 thì theo phép phiên thiết áp dụng cho âm Hán Việt, ta phải đọc tên tác giả TKML Tử (thanh hỏi) chứ không phải là Tữ (thanh ngã) hay Tự (thanh nặng). Xin nhớ cho là Từ, Tượng 徐, 象 cùng thuộc thanh mẫu "toàn trọc" 邪 [z], mới có thể làm "chữ phiên trên" cho Tự 嶼cũng thuộc thanh mẫu này được. Còn Tư 私 thuộc thanh mẫu "toàn thanh" Tâm 心 [s], không thể đem chúng thay thế nhau lộn xộn như vậy được. Hai thanh mẫu này dù trong âm Hán Việt hay trong tiếng Hán phổ thông sau này có nhập lại làm một, thì thanh điệu của các âm tiết vẫn phản ánh sự khu biệt "đục, trong" này của thanh mẫu cũ thể hiện qua hai bậc âm vực thanh điệu là "phù" (cho thanh mẫu vốn là "trong", như tư, tử, tứ) và "trầm" (cho thanh mẫu vốn là "đục", như từ, tữ, tự). Để đọc âm Tự mà tạo ra một phiên thiết mới như vậy là vừa thừa (vì đã có sẵn phiên thiết trong "điển tịch" rồi), vừa không chính xác (vì không cho ta đúng âm cần chú là Tự). Cho nên, khó có thể coi phiên thiết này là một cứ liệu quan trọng ủng hộ cho cách đọc tên tác giả TKML là Tự được.

Nhưng nếu đọc phiên thiết đã ghi trong bài Tựa của Hà Thiện Hán là Di Lữ thiết (嶼, 移 呂 切), thì lại hoàn toàn có lý do chính đáng. Phiên thiết này cho âm đọc tên tác giả TKML là Dữ, một âm đọc có thể đã được người đời chấp nhận trên thực tế, nhưng lại không được phản ảnh trong các vận thư mà các cụ có trong tay thời bấy giờ (đại loại như sau này đã không đọc 幻 là huyễn / huyện / hoạn mà nghiêng hẳn về cách đọc khác hẳn là ảo). Có lẽ chính vì muốn chấp nhận thực tế này mà Nguyễn Lập Phu (?) khi biên chép lại bài Tựa của Hà Thiện Hán đã chua thêm phiên thiết mới đó để phân biệt với những phiên thiết cũ đã có trong các tự điển và vận thư. Cái thực tế này có thể là liên quan, cũng có thể không nhất thiết phải liên quan với cách đọc mới của chữ 嶼 ở Trung Hoa. Chúng tôi không có đủ cứ liệu để biết chắc rằng từ thời nào thì người Trung Hoa đã đọc chữ này theo âm mới, chứ không theo phiên thiết cũ nữa. Từ sau bộ Khang Hy tự điển (1716) cho đến cuối thế kỷ XIX ở Trung Hoa không thấy xuất hiện một bộ đại tự điển nào. Đến đầu thế kỷ XX có bộ Trung Hoa đại tự điển (1915), chưa rõ trong đó đã ghi nhận cách đọc mới cho chữ 嶼 chưa. Chỉ biết rằng trong hai bộ từ điển lớn sau đó là Từ nguyên (1915) và Từ Hải (1937) thì vẫn dùng các phiên thiết để chú âm cho chữ này theo cách đọc cũ từ trước. Tuy nhiên, chưa được tự điển ghi nhận và phản ánh là một chuyện, mà thực tế đã và đang tồn tại lại là một chuyện khác. Phải là một thực tế tương đối phổ biến và "đủ mạnh" mới có thể "đi vào" tự điển được, huống hồ đây lại là âm đọc của một chữ không được thông dụng cho lắm. Dẫu sao thì thực tế đó cuối cùng đã được ghi nhận. Trong hầu hết các tự điển chữ Hán xuất bản sau này, chúng ta đều thấy có mặt chữ 嶼 với ghi chú cả hai cách đọc: yu (tương ứng với âm Hán Việt dữ) và xù (âm đọc cũ - tương ứng với âm Hán Việt tự). Trong phương ngữ Quảng Đông cũng có hai cách đọc cũ [dzœy] và mới [ju] đối với chữ này(9). Dù âm Hán Việt dữ của chữ 嶼 có chịu ảnh hưởng cách đọc mới ở quê hương của nó hay không, thì có một thực tế là thống nhất cho cả hai bên: người Trung Hoa cũng như người Việt Nam đều đã không cố chấp hoặc không biết đến cách đọc vốn đã có (theo phiên thiết) song xa lạ với bộ phận biểu âm của chữ này, mà sẵn sàng tuân theo sự mách bảo của bộ phận biểu âm đó để đọc khác đi cho "thuận mắt thuận tai" như ta đã biết.

Từ tất cả những gì đã trình bày trên đây, có thể đi tới một vài kết luận như sau:

(a) Trong các truyền bản tác phẩm TKML và trong một số văn bản thư tịch Hán Nôm, người xưa đã dùng hai chữ có tự dạng gần giống nhau là 嶼 hoặc 璵 để ghi tên tác giả TKML. Giữa hai chữ này thì chữ 嶼 có nhiều ưu thế hơn chữ 璵 vì chữ thứ nhất được dùng phổ biến hơn trong bài Tựa, trong một vài đoạn "Lời bình" của các truyền bản Tân biên TKML giải âm, và cả trong trước tác của các tác gia Hán Nôm ghi chép về tác giả và tác phẩm TKML.

(b) Chữ 嶼 có thể đọc theo hai cách: Tự hoặc Dữ. Cả hai cách đọc này đều có những căn cứ và lý do xác đáng. Tự là cách đọc cổ, trung thành với âm đọc của nó được quy định theo phiên thiết trong các vận thư, và có thể gần với thời đại của tác giả TKML hơn. Dữ là âm đọc có thể là mới hơn, được hình thành qua thực tế nhận diện mặt chữ, do áp lực của bộ phận biểu âm 與 trong chữ này là một ngữ tố Hán văn được đọc với âm Hán Việt là dữ, và do đó nó dễ được chấp nhận rộng rãi hơn.

(c) Như vậy, một mực phủ định cũng như một mực khẳng định cách đọc này hay cách đọc kia đối với chữ 嶼 đều là không thoả đáng, không bao quát được mọi khía cạnh của hiện tượng thực tế. Tuy nhiên, không nên vì thế mà để mặc tình trạng lộn xộn khi gọi tên tác giả TKML. Một cách xử lý khoa học nghiêm túc mà cũng phù hợp với thực tế đã có, tốt hơn hết là nên tiếp tục gọi tên ông, tác giả bộ TKML của văn học nước nhà, là Nguyễn Dữ. Khi cần thiết, cũng có thể mở ngoặc chua thêm: (còn đọc là Nguyễn Tự).

Người viết bài này không dám chắc mọi điều trình bày trên đây đều có thể làm vừa lòng các bậc thức giả ngày nay, song thầm mong rằng tác giả TKML là Nguyễn Dữ (Nguyễn Tự) nếu có sống lại thì cũng không thấy có gì đáng phải phàn nàn. Một điều đáng nói thêm là mặc dù Nguyễn Nam trong bài viết và công trình đã dẫn có xu hướng khẳng định dứt khoát một cách đọc tên tác giả TKML là Nguyễn Tự, song anh đã có thái độ thận trọng đối với cách xử lý của các học giả đi trước, không tự tiện thay đổi cách gọi tên tác giả TKML trong khi trích dẫn họ. Đó là một cách ứng xử nghiêm túc và rất dễ được đồng tình.

N.Q.H

CHÚ THÍCH:

(1) Nguyễn Nam: Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự. Tạp chí Hán Nôm, Số 2(51)-2002 (tr.47-50). Có một lỗi in sai ở dòng đầu cột 2 tr.48: "lối đọc cũ của 璵", lẽ ra phải là "lối đọc cũ của 嶼". Cũng xem: Nguyễn Nam: Phiên dịch học lịch sử - văn hóa Trường hợp Truyền kỳ mạn lục. Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002 (tr.55-60).

(2) Chúng tôi nhận thấy trong đoạn "Lời bình" ở Khoái Châu nghĩa phụ truyện (Quyển Một) và Xương Giang yêu quái lục (Quyển Ba), một chữ 曰 "viết" trong nguyên tác Hán văn đã được dịch Nôm là 阮 嶼 浪 "Nguyễn Dữ rằng".

(3) Trần Ích Nguyên: Tiễn Đăng Tân Thoại dữ Truyền Kỳ Mạn Lục chi tỷ giảo nghiên cứu (陳 益 源. 剪 燈 新 話 與 傳 奇 漫 錄 之 比 轇 研 究) Đài Loan Học sinh Thư cục ấn hành. Đài Bắc, 1990. Trong sách này (tr.45, chú 109) ông Trần còn chỉ ra rằng trong một số ấn phẩm ở Trung Quốc và Hàn Quốc có vài trường hợp tên tác giả TKML được viết bằng mấy chữ Hán khác như 裕, 與 do lầm lẫn khi chuyển dịch.

Nguyễn Khắc Kham: Questions About a Sixteenth Century Vietnamese Collection of Tales in Clasical Chinese. "Vietnam Forum", Yale Center for International and Are Studies", N.9/1987. Những cứ liệu và ý kiến của GS Nguyễn Khắc Kham được chúng tôi đề cập đến ở đây đều dẫn theo bài viết và cuốn sách nêu trên của Nguyễn Nam.

Xuyên Bản Bang Vệ (Kawamoto Kuniye). Truyền kỳ mạn lục san bản khảo (川 本 邦 衛. 傳 奇 漫 錄 刊 本 攷). Khánh Hưng Nghĩa thục Đại học Ngữ ngôn Văn hóa Nghiên cứu sở. Đông Kinh, 1998. (tr.7-8). Chúng tôi đã xác nhận được những thông tin này trên các đầu sách mang ký hiệu A.32 (Kiến văn tiểu lục. Quyển 5, thiên Tài phẩm, tr.6b-7a), A.1551 ( Lịch triều hiến chương loại chí. Quyển 45, Văn tịch chí, Tập I, tr.21b và Tập II, tr. 10b. Xem thêm chú (4) ở dưới), VHv.1324 (Công dư tiệp ký. Quyển 2, tr.72a) tại kho thư tịch cổ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

(4) Ông Trần Ích Nguyên có ghi chú rằng tác giả TKML là 阮 嶼, 經 常 又 作 阮 璵 ("Nguyễn Dữ, lại thường viết là Nguyễn Dư"), như trong sách Lịch triều hiến chương loại chí nói trên của Phan Huy Chú (Sđd, tr.45, chú 109). Kiểm tra lại, chúng tôi thấy trong bản sách này chương Văn tịch chí được chép lại hai lần (vừa có ở Tập I, vừa có ở Tập II), với nét chữ khác nhau. Trong cả hai văn bản này, đoạn văn có liên quan đến TKML đã nhắc đến tên tác giả của nó trong hai câu, câu trên viết tên tác giả với bộ Ngọc, câu dưới lại viết với bộ Sơn. Mấy chữ này đều được viết theo kiểu giản thể. Nguyên văn hai câu này theo văn bản ở Tập II, tr.10 như sau 傳 奇 漫 錄 夷 四 卷, 逸 士 阮 璵 撰 […] 嶼 嘉 福 社 杜 松 人. TKML bốn quyển, dật sĩ Nguyễn Dư soạn. […] Dữngười làng Đỗ Tùng xã Gia Phúc".

Chúng tôi cũng đã kiểm tra lại các truyền bản Tân biên TKML với niên đại 1763 hiện lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội (ký hiệu bản A: R.109; ký hiệu bản B: R.1451-54). Bản B không còn bài Tựa, còn bản A tuy còn bài Tựa, nhưng mấy dòng cuối liên quan với tên tác giả TKML thì mòn mờ không còn đọc được nữa. Chúng tôi lại tra "Lời bình" hai truyện đã nhắc ở trên (xem chú 2) trong quyển Một (bản A) và quyển Ba (bản B) thì thấy tên tác giả đều viết với bộ Sơn trong câu "Nguyễn Dữ rằng". Như vậy, cách viết tên tác giả TKML với bộ Ngọc là hiện tượng bất chợt, không phổ biến và thiếu ổn định. Cách viết với bộ Sơn rõ ràng có ưu thế và đáng tin cậy hơn nhiều.

(5) Dương 羊 và Vân 雲 vốn dĩ thuộc hai thanh mẫu khác nhau mà âm Hán Việt đã phần nào còn phán ánh được. Song từ giữa thế kỷ X hoặc muộn hơn thì hai thanh mẫu này không còn phân biệt trong tiếng Hán nữa, mà nhập lại thành một thanh mẫu Dụ 愈 (Có thể tham khảo: Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2000 (Tái bản), tr.145-146). Bởi vậy sách Chính vận thời Hồng Vũ (thế kỷ XIV) đã không ngần ngại dùng Vân thay cho Dương trong phiên thiết này.

(6) Về phép phiên thiết và quy luật biến điệu lịch sử trong Hán ngữ liên hệ với âm Hán Việt, có thể tham khảo: Nguyễn Quang Hồng: Âm tiết và loại hình ngôn ngữ. Nxb. Đại học Quốc gia H. 2002 (Tái bản), tr.134-150, 189-192. Nguyễn Tài Cẩn. Sách đã dẫn, tr.305-314.

(7) Theo phép phiên thiết áp dụng cho âm Hán Việt thì Hồ Quán thiết không đọc là Hoán (sắc) mà phải đọc là Hoạn (nặng), vì thanh mẫu Hạp 匣 của "chữ phiên trên" Hồ 胡 là "đục", quyết định phải đọc thanh "khứ trầm" (nặng) cho chữ được phiên 幻. Còn Hồ Biện thiết đọc là Huyễn Huyện đều được, vì chữ Biện 辨 với thanh mẫu "đục" này sách Vận kính (thế kỷ XII) vừa xếp vào thanh "thượng" (ngã) , vừa xếp vào thanh "khứ" (nặng). Xem: Vận kính (韻 鏡) Cổ Tịch xuất bản xã. Thượng Hải, 1955.

Không rõ cách đọc chữ 幻 là ảo trên thực tế đã được phổ biến từ bao giờ. Chỉ biết là trong các từ điển cổ từ thế kỷ XIX về trước, cách đọc này chưa được chính thức ghi nhận. Trong các tự điển như Từ điển Việt - Bồ - La (1651) của A. de Rhodes, Dictionnarium Annamitico - Latinum của P. de Béhaine (1772), Dictionarium Annamitico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự vị) của A.J. Taberd (1838), Đại Nam Quốc âm Tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) đều không có mục chữ cho âm ảo, nhưng chữ 幻 thì có mặt ở mục chữ đọc là huyễn với huyễn hoặc, nói huyễn, biến huyễn,… Tuy nhiên, trong các văn bản chữ Nôm thì cách đọc chữ này là ảo chắc chắn đã được chấp nhận từ khá lâu, ít ra là từ cuối thế kỷ XIX. Chứng cứ là trong Kim Vân Kiều truyện (bản Liễu Văn Đường) khắc năm Tự Đức 24 (1871) chữ ao trong câu Những là rày ước mai ao được viết với bộ "khẩu" 口 (biểu ý) + "ảo" 幻 (âm). Còn trong Đoạn trường tân thanh (bản Kiều Oánh Mậu) khắc năm Thành Thái 14 (1902) mấy chữ ào ào trong câu Ào ào trút lộc rung cây hoặc Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi cũng đều được viết với bộ "khẩu" 口 (biểu ý) + "ảo" 幻 (biểu âm). Đương nhiên là trong các từ điển tiếng Việt hiện đại, hàng loạt các từ với âm ảo đã được ghi nhận. Chẳng hạn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, bản 2000) có ảo ảnh, ảo đăng, ảo giác, ảo hóa, ảo mộng, ảo thuật, ảo tưởng, ảo tượng, ảo vọng (và cả huyễn diệu, huyễn hoặc, huyễn tưởng).

(8) Xuyên Bản Bang Vệ. Sđd., tr.4. Nguyễn Nam. Bài và sách đã dẫn. Trần Nghĩa: Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy. Tập san Nghiên cứu Hán Nôm số 2/1985, tr.92. Nguyễn Quang Hồng: Truyền kỳ mạn lục giải âm (phiên âm & chú giải). Nxb. KHXH, H. 2001, tr.9.

Bức ảnh trang đầu bài Tựa in kèm dưới đây là mượn lại từ sách đã dẫn của Xuyên bản bang vệ (ảnh 1) và của Nguyễn Nam (ảnh 2).

(9) Chẳng hạn: Hiện đại Hán ngữ từ điển (Tu đính bản) (現 代 漢 語 詞 典. 修 訂 本) Trung Quốc Xã hội Khoa học viện Ngữ ngôn Nghiên cứu sở Từ điển Biên tập thất biên. Thương Vụ ấn thư quán. Bắc Kinh, 1999, tr.1537. Hán ngữ đại tự điển (漢 語 大 字 典. 縮 印 本). Hồ Bắc Từ thư xuất bản xã, Tứ Xuyên Từ thư xuất bản xã. Vũ Hán, 1995, tr.337. Lý thị Trung văn tự điển (李 氏 中 文 字 典). Lý Trác Mẫn biên soạn. Học Lâm xuất bản xã. Thượng Hải, 1981, tr.21.

TB

VỀ CUỐN
VĂN HÓA KHOA BẢNG LÀNG ĐÔNG NGẠC (1)

ĐÔNG HÀ

Làng Đông Ngạc nay thuộc xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) nổi tiếng về khoa bảng, xưa cũng như nay. Từ truyền thống khoa bảng đã làm nên một làng Vẽ - Đông Ngạc có những đặc điểm, cốt cách riêng trên nhiều phương diện, xứng đáng là điểm nghiên cứu lý thú về Hán Nôm học, Sử học, Dân tộc học và Văn hóa học. Chính vì thế, từ trước đến nay, đã có một số sách, luận văn tốt nghiệp Đại học, luận văn Thạc sĩ, bài viết trên các báo, chương trình truyền hình đề cập về làng, đến truyền thống khoa bảng của Đông Ngạc, trong đó, đáng kể nhất là cuốn Đông Ngạc tập biên của cụ Dĩ Thủy Phạm Văn Thuyết (1898 - 1986), người làng Đông Ngạc, xuất bản ở Sài Gòn năm 1963, được viết dưới dạng địa chí, đề cập tương đối toàn diện các mặt của làng, trong đó phần về khoa bảng được viết khá kỹ. Vì thế, tôi chăm chú đọc cuốn Văn hóa khoa bảng làng Đông Ngạc (VHKBLĐN) của nhóm tác giả Vũ Văn Luân, Phạm Quang Tảo, Nguyễn Văn Yên.

Sau Lời giới thiệu Lời nói đầu, sách gồm 3 phần: Văn hóa làng Đông Ngạc (từ trang 19-60), Khoa bảng làng Đông Ngạc (tr.61-148), Giai thoại, thư tịch, sách báo viết về Đông Ngạc (tr.149-171). Cuối cùng là phần Phụ lục.

Tuy nhiên, càng đọc tôi càng thấy thất vọng, không chỉ vì sách không đưa ra được thêm mấy tư liệu mới mà còn vì có quá nhiều sai sót. Dưới đây, tôi xin hệ thống lại những sai sót đó.

1- Sai sót về số lượng Tiến sĩ

Ngay ở Lời nói đầu của sách, các tác giả đã khẳng định làng Đông Ngạc có 31 Tiến sĩ Nho học và 7 Tiến sĩ “Tây học”. Trong nội dung, ở Phần thứ hai, các tác giả đã chia các nhà khoa bảng của Đông Ngạc theo các tiêu chí: là danh nhân (1 Tiến sĩ và 1 Phó bảng Nho học, 1 Tiến sĩ Tây học), có sáng tác Văn học (gồm 11 Tiến sĩ Nho học) và các vị đại khoa (gồm 18 Tiến sĩ Nho học và 7 Tiến sĩ “Tây học”), tổng cộng là 31 Tiến sĩ Nho học và 8 Tiến sĩ Tây học. Chưa bàn việc phân chia như vậy hợp lý hay không hợp lý, nhưng ở đây tôi thấy các tác giả có sự thiếu nhất quán về con số khi ở trang 138, lại khẳng định, “làng có 32 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 25 vị Tiến sĩ Hán học, 7 vị Tiến sĩ Tây học” (?).

Vậy sự thật, làng Đông Ngạc có bao nhiêu Tiến sĩ Nho học?

Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075- 1919) do Ngô Đức Thọ chủ biên (Nxb. Văn học, 1993) - cuốn sách được coi là một tổng kết tương đối đầy đủ về số lượng Tiến sĩ Nho học thời phong kiến thì làng Đông Ngạc có 20 Tiến sĩ(2). Nếu kể cả thêm 2 người có môi trường chính để thành đạt là làng Đông Ngạc và 1 Tiến sĩ võ(3) thì cũng chỉ có đến 23 Tiến sĩ mà thôi. Số Tiến sĩ Nho học của làng Vẽ bị các tác giả sách VHKBLĐN khai nhiều lên là do những nguyên nhân sau:

- Do không hiểu hết các nguyên tắc thi cử, các hạng học vị của khoa cử Nho học nên các tác giả đã đưa vào danh sách cả những người mới chỉ là Hương cống, chưa đỗ Tiến sĩ, như: Phạm Gia Khoản, Đỗ Thế Giai, Phạm Công Vận, Phan Chính Lễ; hoặc mới đỗ Sĩ vọng, như: Phạm Thế ánh, Phạm Công Liêu. Những người này được các tác giả gọi là “Tiến sĩ tiến triều” hoặc “Tiến sĩ ứng vụ”!

- Các tác giả còn coi cả Tiến sĩ Phan Đình Dương - người làng Trang Liệt huyện Đông Ngàn, nay là thôn Trang Liệt xã Đồng Quang (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh) là người Đông Ngạc (bia văn chỉ làng Trang Liệt ghi tên vị Tiến sĩ này, nay vẫn còn). Thêm nữa, vị Tiến sĩ này còn được các tác giả sách “cho sống thêm” 1 năm (ông mất năm1865, các tác giả viết năm 1866). Chức quan của ông cũng bị ghi sai.

- Đối với Tiến sĩ Nguyễn Quang Bị (các tác giả viết là Bí), theo lưu truyền dân gian và gia phả họ Nguyễn ở Xuân Tảo (xã Xuân Đỉnh) thì là cháu 4 đời của Phan Phu Tiên (cụ Phan có một người vợ khác ở Xuân Đỉnh, sinh ra ông nội Nguyễn Quang Bị, trở thành một nhánh họ Phan ở đây nhưng lấy tên họ Nguyễn), vậy nên không thể coi Nguyễn Quang Bị là vị Tiến sĩ của làng Vẽ.

Riêng các Tiến sĩ Tây học (đỗ trước tháng 8/1945), con số của các tác giả cũng thiếu nhất quán: trang 9 (Lời nói đầu) viết có 7 vị, nhưng ở tr.25 lại viết có 6 vị, trong khi đó, đếm lại theo danh sách của các tác giả ở các tr. 94-96 lại có đến 8 vị (!?). Đáng lưu ý có cả một vị tên là Phé dríc Phạm. Theo gia phả họ Phạm (mới dịch và bổ sung năm 1996) mà tôi có trong tay, ông sinh năm 1938, đến tháng 8 - 1945 mới 7 tuổi không biết đã đi học chưa mà đã đỗ Tiến sĩ ? Phạm Quang Bách là Tiến sĩ Luật ở Pháp (theo gia phả họ Phạm) lại được các tác giả ghi là Tiến sĩ Dược khoa (tr.25), song ở trang 140 lại được cho “chuyển ngành” là Tiến sĩ Vật lý học ! Lạ lùng hơn, Giáo sư Hoàng Tích Trý chuyên nghiên cứu về vi trùng học, huyết thanh học lại được xếp vào mục “Các nhà khoa bảng có sáng tác văn học”! Số người đỗ đại học hiện nay cũng mâu thuẫn giữa trang 26 (hơn 1000 người) và trang 43 (ngót 2000 người).

2- Sai sót về mức đỗ và năm đỗ của một số Tiến sĩ:

- Phạm Quang Trạch (1653 - 1716) đỗ Bảng nhãn khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa – 1683, là người có học vị cao nhất làng Vẽ lại bị các tác giả “hạ” xuống Tiến sĩ đồng thời với việc “nâng” cho ông thêm 1 tuổi: sinh năm 1652). Hoàng giáp Hoàng Tế Mỹ cũng “chịu số phận” tương tự. Cũng vậy, Tạo sĩ Đỗ Thế Dận (các tác giả ghi là Đỗ Thế Dân) lại bị xem là “một trong số ít người đỗ Cử nhân mà được sử dụng như Tiến sĩ” (tr.112). Trong khi đó, Tiến sĩ Phạm Quang Hoàn lại được “đôn” thành Bảng nhãn !

- Phan Phu Tiên đỗ khoa Bính Tý đời Trần Thuận Tông (1396) lại được các tác giả viết là có 2 năm đỗ: 1393 (tr.61) và 1383 (tr.138); Tiến sĩ Nguyễn Quang Bị (đã nêu trên) đỗ khoa Mậu Tuất đời Mạc Đăng Doanh (1538) lại được các tác giả đưa xuống trước đó 1 “hội” (khoa Mậu Tuất đời Lê Thánh Tông -1478) !

3- Sai sót trong việc xác định họ của các Tiến sĩ:

- 4 Tiến sĩ (Nguyễn Đình Thạc, Nguyễn Dự, Nguyễn Văn Tùng, Nguyễn Hữu Tạo) và Phó bảng Nguyễn Văn Hội được các tác giả gộp chung trong một họ. Qua xác minh từ gia phả các dòng họ tôi thấy, các vị này chỉ trùng tên họ chứ không phải là người cùng một họ; hậu duệ của các vị Tiến sĩ này nay đều sống ở Đông Ngạc. Nguyễn Văn Tùng là họ Nguyễn gốc Đông Nguyễn tức dòng họ sống lâu đời ở Đông Ngạc, hiện còn nhà thờ ở xóm 2 Đông Ngạc. Họ của Nguyễn Văn Hội (họ Nguyễn Đào) theo Nguyễn tộc thế phả thực lục, lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1434 thì gốc ở làng Nguyệt áng (Thanh Trì - Hà Nội), nhà thờ họ Nguyễn này hiện vẫn ở xóm 2 làng Đông Ngạc. Họ của Nguyễn Dự vốn là một nhánh của dòng họ Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc (đỗ năm 1631) ở Mai Dịch chuyển cư ra, hiện còn nhà thờ ở xóm 4 Đông Ngạc.

- Tiến sĩ Phạm Thọ Chỉ lại được các tác giả “đổi” thành họ Phan (lúc đầu tôi tưởng là nhầm do đánh máy, nhưng ở trang 142 các tác giả ghi Phan Thọ Chỉ trong danh sách 5 Tiến sĩ họ Phan thì sự tưởng của tôi đã bị loại bỏ).

4- Lẫn lộn thế thứ của các vị khoa bảng, xin nêu một số ví dụ điển hình:

- Bảng nhãn Phạm Quang Trạch là chú ruột các Tiến sĩ Phạm Quang Hoàn, Phạm Quang Dung nhưng lại được các tác giả cho rằng là “ông nội Tiến sĩ Phạm Quang Dung (tr.73) và Phạm Quang Dung là “con Tiến sĩ Phạm Quang Hoàn” (tr.74) (?).

- Tiến sĩ Nguyễn Quang Bị theo gia phả thì là cháu 4 đời của Phan Phu Tiên, nhưng lại được các tác giả “chuyển” luôn thành con của cụ Phan. Trong khi đó, Phan Văn Trường là cháu 4 đời của Tiến sĩ Phan Lê Phiên lại được đẩy xa đến “cháu 6 đời”.

5- Sai sót quá nhiều về họ, tên của các vị khoa bảng ngoài các trường hợp vừa nêu trên còn có: Tiến sĩ Hoàng Nguyễn Thự chép thành Tiến sĩ Hoàng Nguyễn Thu, các trường hợp tương tự là Hoàng giáp Hoàng Phạm Thạnh / Hoàng Phạm Thạch, Tiến sĩ Phạm Quang Mãn / Phạm Quang Mẫn, Tiến sĩ Hoàng Tướng Hiệp / Hoàng Tường Hiệp, Tạo sĩ Đỗ Thế Dận / Đỗ Thế Dân, Giáo sư Tiến sĩ Phạm Tỉnh Quát / Phạm Tinh Quát; các Cử nhân: Hoàng Huân Trung, Phan Tiệm Quỳ, Nguyễn Châu Đỉnh, Phạm Ngộ Hòa, Phạm Quang Sán,… cũng chịu chúng số phận bị đổi tên hoặc tên đệm là: Hoàng Tuấn Trung, Phan Tiệm Quý, Nguyễn Châu Đính, Phạm Ngô Hòe, Phạm Quang Sản, v.v… và v.v… Đi kèm với việc sai sót về tên, họ còn là sai sót về năm sinh - mất, khoa thi, chức tước của các vị khoa bảng mà ở đây tôi không thể kể hết được, trong đó đáng lưu ý nhất là sai sót ở trang 33 về năm sinh, mất của Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã bị các tác giả ghi là (1778 - 1784), thành ra ông chỉ sống được 6 tuổi (!?). Nếu chỉ 1 - 2 trường hợp sai như thế thì còn có thể ngờ rằng do lỗi đánh máy, nhưng có đến khoảng hơn 50 trường hợp (cả họ tên, chức quan, năm sinh, mất…) thì những người hiểu biết ở Đông Ngạc có quyền khẳng định rằng, các tác giả chẳng hiểu gì về lịch sử và về làng quê khoa bảng này.

6- Khá nhiều sai sót về các dữ kiện lịch sử - văn hóa của làng Đông Ngạc cũng như của cả nước mà tôi cũng chỉ nêu ra một số:

- Việc làng Đông Ngạc được “đất tốt” mà có nhiều người đỗ đạt - theo giải thích của dân gian khởi kỳ thủy là ở hai họ Phạm và Nguyễn, chứ không phải họ Phan và họ Phạm (gia phả họ Phạm ghi khá rõ tình tiết này).

- Trang 45: người hiến đất để dựng đình Đông Ngạc là Phạm Thọ Lý (dân làng Đông Ngạc thường gọi là Cụ Đường) chứ không phải Tiến sĩ Phạm Thọ Chỉ. Cũng trang này, lần sửa đình Đông Ngạc đầu tiên là từ tháng 10 năm Đinh Dậu (1717), đến tháng 8 năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh (1718) thì hoàn thành chứ không phải là 61 năm sau đó (1779). Lần sửa thứ 2 vào hai năm (1780 - 1781) chứ không phải năm Nhâm Dần - 1782, ngoài ra còn có một lần tu bổ lớn nữa vào 2 năm (1835 - 1836). Sách Đông Ngạc xã chí (các mục 5, 6, 7) ghi rất rõ về việc này.

- Trang 154, 155 về việc “thi chọn thành hoàng làng Đông Ngạc” (giữa thần Độc Cước và quan Thự Phủ sự Đỗ Thế Giai - theo lưu truyền dân gian ở đây) nếu có thì diễn ra khá muộn, không thể diễn ra vào ngay sau năm sửa xong đình làng lần đầu (1719) vì khi đó Đỗ Thế Giai mới lên 10 tuổi, đã có công trạng gì mà dân làng Đông Ngạc phải đắn đo trong việc chọn ông hay thần Độc Cước làm thành hoàng ?

- Trang 38: các tác giả viết lệ tục làng Đông Ngạc không nặng nề là không hiểu được đặc điểm của làng có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Xin hãy đọc lại Đông Ngạc xã chí sẽ thấy rõ lệ tục làng Vẽ nặng nề biết nhường nào, nhất là với các bậc “triều quan”, với dân ngụ cư.

- Trang 63: Khoa thi Nho học cuối cùng vào năm 1919, nhưng đã được các tác giả cho kết thúc sớm 1 năm (1918).

- Trang 43-45: Tiến sĩ Phạm Gia Khiêm mãi đến giữa năm 1997 mới được bầu làm Phó Thủ tướng Chính phủ, vậy mà các tác giả lại cho rằng ông thuộc số cán bộ “được đảm đương những nhiệm vụ trọng đại của Quốc gia” trong hai cuộc kháng chiến.

- Trang 49: Hoàng Minh Giám sinh năm 1904 nhưng đến năm 1907 đã tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục (!?) v.v…

Những sai sót về kiến thức lịch sử và địa lý hành chính cũng khá nhiều. Xin nêu vài dẫn chứng:

- Trang 62: Phan Phu Tiên viết Đại Việt sử ký toàn thư, tr.76: Tôn Sĩ Nghị bị Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại năm 1788 v.v…

- Trang 89: Đỗ Thế Giai (1709 - 1766) làm Huấn đạo tỉnh Trà Vinh (?); huyện Yên Lạc (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) lại được tác giả chuyển về tỉnh Hưng Yên (tr.113) v.v…

Có lẽ không cần bình luận gì thêm những dòng viết này của tác giả.

7- Nhiều nhận định thiếu khách quan và thiếu cơ sở khoa học, điển hình là ở trang 69 các tác giả viết: “Cụ (Phan Lê Phiên) là người có công lớn trong việc dẹp giặc Hoàng Văn Chất (Hoàng Công Chất) lúc chúng chiếm 10 châu và quấy rối tỉnh Hưng Hóa”. Cho đến nay, giới sử học nước ta chưa có ai gọi Hoàng Công Chất là “giặc”, là “chúng” cả, vẫn coi ông là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân nửa sau thế kỷ XVIII. Không hiểu các tác giả đứng trên lập trường và quan điểm nào mà lại viết như vậy ? Điều lạ lùng là ở trang 149 - 150, một loạt sự kiện có thực trong lịch sử văn hóa và lịch sử cách mạng Đông Ngạc, cả việc làng nuôi giấu các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng thời bí mật lại được các tác giả đặt trong một mục lớn “Những giai thoại” (?).

Còn có thể kể ra rất nhiều sai sót khác của sách. Có lẽ, những người đọc có trình độ bình thường thôi khi đọc xong cuốn sách này đều có thể thấy các tác giả đã tỏ ra vội vã, cẩu thả, thiếu suy xét khi viết sách, không tra cứu cẩn thận các nguồn tư liệu, đặc biệt là không chú trọng đúng mức nguồn tư liệu gốc. Ngay cả phần Tài liệu tham khảo cũng cho thấy điều đó: trong 17 tài liệu thì có đến 7 tài liệu bị sai tên sách, tên tác giả, năm xuất bản, cơ quan xuất bản. Nhiều tài liệu quan trọng có thể giúp ích cho việc biên soạn cuốn sách này, như cuốn Đông Ngạc xã chí (đã được dịch và lưu hành ở Đông Ngạc) hay cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam đã bị các tác giả bỏ qua.

Ai cũng biết, việc biên soạn địa chí và lịch sử một làng không thể là việc dễ dàng, thêm nữa, có phần phức tạp, vì nó không chỉ động đến những sự kiện, những con người cụ thể ở làng đó, ai đã từng sống ở đó cũng biết hoặc từng nghe, từng đọc; mà còn liên quan đến quan hệ, tình cảm họ hàng, làng xóm, chỉ sơ suất nhỏ cũng có thể dẫn đến những mâu thuẫn, phức tạp trong quan hệ cộng đồng. Riêng tôi, sau khi gấp cuốn sách lại, tôi cảm thấy quá buồn vì sách không chỉ không đưa ra được thêm tư liệu gì mới mà còn quá nhiều sai sót về sự kiện, nhân vật. Tôi (và có lẽ sẽ có nhiều người đồng cảm với tôi) lo rằng: cứ viết sách theo kiểu này thì không chỉ các thế hệ người Đông Ngạc về sau sẽ hiểu bề dày truyền thống lịch sử văn hóa của làng một cách sai lệch mà cả các nhà sử học, dân tộc học, Hán Nôm học và văn hóa học cũng phải đau đầu vì các sự kiện và nhân vật được nêu.

Đ.H

CHÚ THÍCH

(1) Vũ Văn Luân, Phạm Quang Tảo, Nguyễn Văn Yên, Văn hóa khoa bảng làng Đông Ngạc. Nxb. Thanh Niên, H. 2001.

(2) 20 Tiến sĩ (xếp theo thời gian đỗ) là: Phan Phu Tiên (1396, 1429), Phạm Lân Đính (1514), Phạm Thọ Chỉ (1577), Phạm Hiển Danh (1646), Phạm Quang Trạch (1683), Phan Vinh Phúc (1685), Phạm Quang Hoàn (1694), Phạm Quang Dung (1706), Phạm Nguyên Ninh ( 1731), Phan Lê Phiên (1757), Nguyễn Đình Thạc (1779), Hoàng Tế Mỹ (1826), Phạm Gia Chuyên (1832), Nguyễn Văn Tùng (1838), Nguyễn Hữu Tạo (1844), Phạm Quang Mãn (1849), Nguyễn Văn Hội (1849), Hoàng Tướng Hiệp (1865), Nguyễn Dự (1879) và Hoàng Tăng Bí (1910).

(3) Hai người đó là Lê Đức Mao sinh ra và lớn lên ở Đông Ngạc nhưng vì hay đả kích bọn cường hào trong làng nên bị chúng thù ghét, phải chuyển cư lên làng Dưỡng Hối (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) rồi thi đỗ Tiến sĩ năm 1505 và Hoàng Nguyễn Thự, quê ở làng Đông Bình (Bắc Ninh), nhưng gần như cả cuộc đời đi học gắn với đất Đông Ngạc. Ông học Hương cống Phạm Gia Huệ, được thầy gả con gái cho, sau đỗ Tiến sĩ ( năm 1787), đến đời con là Hoàng giáp Hoàng Tế Mỹ lệ tịch vào làng. Hoàng Nguyễn Thự là tổ họ Hoàng Đông Ngạc. Người đỗ Tiến sĩ võ (Tạo sĩ) là Đỗ Thế Dận (1763).

TB

NHÂN ĐỌC BẢN DỊCH CUỐN
ĐƯỜNG THI TAM BÁCH THỦ

THẾ ANH

Sau cuốn Thơ Đường ở Việt Nam (1966) và Thiên gia thi toàn tập (1998), trong quý I năm 2001 nhà thơ Ngô Văn Phú lại vừa cho ra mắt bạn đọc bản dịch toàn bộ cuốn Đường thi tam bách thủ do Hoành Đường Thoái Sĩ 蘅 堂 退 士 tuyển chọn và Trần Uyển Tuấn 陳 婉 俊 bổ chú. Ba công trình này đều do Nxb. Hội Nhà văn ấn hành. Đây là một món quà của người dịch tặng những người yêu thích thơ Đường.

Như chúng ta đã biết, ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều người dịch thơ Đường; những bài thơ nổi tiếng được phổ biến rộng rãi như Hoàng Hạc lâu, Tì bà hành, Trường hận ca, Lương Châu từ và rất nhiều thi phẩm đặc sắc khác đã có hàng chục bản dịch khác nhau. Trên thị trường sách báo hiện nay, các bản dịch thơ Đường vẫn đứng hàng số một, nhưng theo chỗ chúng tôi biết thì chưa có nhà thơ nào dịch trọn vẹn cả hai tác phẩm Thiên gia thi Đường thi tam bách thủ như Ngô Văn Phú đã thực hiện. Phải là người yêu thích thơ Đường đến độ đam mê thì mới đủ “dũng cảm” dịch toàn bộ trên 300 bài thơ gồm đủ thể loại với những nội dung phong phú và đa dạng. Đối với những tập thơ tuyển dịch, người dịch có thuận lợi là tự chọn cho mình những chủ đề thích hợp, nên dễ thành công hơn là những cuốn sách dịch toàn bộ, bởi lẽ khi dịch trọn vẹn một tác phẩm, người dịch không có quyền “dễ làm, khó bỏ”, thậm chí gặp những bài “xương xẩu” cũng không thể bỏ qua. Chúng tôi không có điều kiện đối chiếu hơn 300 bài thơ dịch để tìm ra những ý hay lời đẹp, nhưng nhìn chung trong cuốn Đường thi tam bách thủ người dịch đã cố gắng bám sát nguyên bản và đã có những bài, những câu dịch sáng tạo và có chất thơ. Một điều thú vị là người dịch đã không ngần ngại đưa vào cuốn sách những bài dịch của những người đi trước, giúp cho đọc giả có điều kiện so sánh và đánh giá một cách khách quan. Đó là ưu điểm của cuốn sách cần được ghi nhận.

Tuy vậy về mặt chữ nghĩa, cũng còn nhiều chỗ sai sót. Chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những trường hợp sau đây:

Trước hết là về chính tả, tuy không phải là vấn đề chủ yếu, nhưng đối với việc phiên âm chữ Hán thì lại là quan trọng, vì viết sai sẽ dẫn đến hiểu sai nghĩa và làm cho người đọc mất hứng thú. Trong cuốn sách không có sự phân biệt giữa S và X: Xạ/ sạ: xử/ sử; xỉ/ sỉ…, Tr và Ch: tri/ chi; triêm/ chiêm; trí/ chí; trước/ chước…

Về chữ Hán: Trong nhiều bài thơ có những chữ viết sai hoặc không đúng trật tự từ. Chúng tôi xin nêu một số trường hợp tiêu biểu làm dẫn chứng.

Chữ hoàn 環 trong cụm từ tuần hoàn 循 環 (tr.32) chép sai thành 還, vị cập 未 及 chép thành nãi vị 乃 未 (tr.44), nhi nữ 兒 女 chép thành khu nhi 驅 兒 (tr.44), phát 髮 chép thành mấn 鬢 (tr.49); chép sai trật tự từ: tương kiến ngữ 相 見 語 chứ không phải tương ngữ kiến 相 語 見 (tr.66); phó chi 傅 脂 chép thành truyền hương 傳 香 (tr.69); di duyệt 怡 悅 chép thành tương duyệt 相 悅 (tr.72); giao 郊 chép thành quách 郭 (tr.106); phượng ca 鳳 歌 chép thành cuồng ca 狂 歌 (tr.153); vân nghê 雲 霓 chép thành vân hà 雲 霞; kỵ chiến 騎 戰 chép thành chiến kỵ 戰 騎 (tr.181); đại 代 chép thành phạt 伐 (tr.193); khuynh động 傾 洞 chép thành hồng động 鴻 洞 (tr.202); đại huyền 玳 弦 chép thành đại diên 玳 筳 (tr.202); lặc 勒 chép thành cần 勤 (tr.221); văn 聞 chép thành vấn 問 (tr.233); bài không 排 空 chép thành bài 排 雲 (tr.235), nhân hoàn 人 寰 chép thành trần hoàn 塵 寰 (tr.236); vu 于 chép thành ư 於 (tr.269); ngọc lặc 玉 勒 chép thành ngũ lặc 五 勒 (tr.285); bạc mộ 薄 暮 chép thành mộ mộ 暮 暮 (tr.295); bãi quy 罷 歸 chép thành bãi quan 罷 官 (tr.429); quân gia hà xá trú 君 家 何 處 住 chép thành quân gia tại hà xứ 君 家 何 在 處 (tr.628); thu vũ 秋 雨 chép thành phong vũ 風 雨 (tr.688)…

Về mặt phiên âm cũng có những sai sót sau:

Tr.90, bài 22: Tòng tây lai 從 西 來 phiên âm thành đông tây lai;

Tr.125 bài 37: Trường Can 長 干 phiên âm thành Trường An (Đồng cư Trường An lý);

Tr.158 bài 48: Tứ vạn 四 萬 phiên âm thành nhất vạn;

Tr.159 bài 48: Nhi 而 phiên âm thành như;

Tr.187 bài 55: Quýnh 迥 phiên âm thành huýnh;

Tr.201 bài 58: Đầu đề phiên âm sót hai chữ đệ tử 弟 子;

Tr.208 bài 60: Sơn thạch 山 石 phiên âm thành sơn nham;

Tr.211 bài 61: Xá thư 赦 書 phiên âm thành sắc thư;

Tr.232 bài 65: Trọng sắc 重 色 phiên âm thành vị sắc;

Tr.278 bài 68: Biên phong phiêu phiêu na khả độ 邊 風 飄 飄 那 可 渡 phiên âm thành Biên đình phiêu dao na khả độ (người dịch chép theo Đường thi tam bách thủ nhưng lại phiên âm theo một bản khác).

Tr.285 bài 70: đầu đề bài đúng ra là Lạc Dương nữ nhi hành 洛 陽 女 兒 行 người dịch chép sót chữ hành và lại phiên âm là “Lạc Dương nhi nữ”.

Trong vấn đề dịch cũng có nhiều chỗ sai, chưa chính xác hoặc nhầm lẫn:

Ở phần chú thích từ Quan Trung 關 中 của bài số 8 (giai nhân) tr.52 có viết “Quan Trung… là đất quý của nhà Chu”. Nguyên bản là “Chu Vương kỳ địa 周 王 畿 地 tức là kinh đô của nhà Chu chứ không phải là đất quý.

Bài 10 tr.59 câu “Kinh Lạc phùng xuân y” 京 洛 縫 春 衣 mà dịch là “ngang dọc trời đất khoác áo xuân”. Không đúng. Kinh Lạc không phải là ngang dọc mà là địa danh Đông Kinh và Lạc Dương nói tắt.

Trong phần tiểu sử của Đỗ Phủ ở tr.42 có câu “để lại 16 quyển thơ”, thực ra là 60 chứ không phải là 16 (hữu tập lục thập quyển 有 集 六 十 卷 - Đường thi tam bách ).

Câu “Quân sủng ích kiêu thái” 君 寵 益 嬌 態 của bài số 14 tr.70 dịch là “vua yêu càng kiêu sa”. Kiêu thái không phải là kiêu sa mà là nhõng nhẽo hợm mình.

Ở tr.134 trong mục tiểu sử Trần Tử Ngang có đoạn hiểu và dịch sai “ông bỏ quan về làng. Quan lại địa phương tham bạo, nghe bọn nhà giàu muốn bức hại, bắt vào ngục, phẫn mà chết”. Nguyên văn câu này như sau: “Huyện lệnh Đoàn Giản tham bạo, văn kỳ phú, dục hại chi…” 縣 令 段 簡 貪 暴 聞 其 富 欲 害 之, có nghĩa là “tên huyện lệnh Đoàn Giản tham bạo, nghe tin ông (tức Trần Tử Ngang giàu, muốn bức hại ông…”.

Trong phần chú thích số 4 của bài 61 ở tr.215 phiên âm sai chữ xá thư 赦 書 thành sắc thư rồi dịch là ban sắc - không đúng - xá thư là ra lệnh ân xá cho những người có tội đang ở tù.

Cụm từ Bồ đào mỹ tửu 葡 萄 美 酒 và túy ngọa sa trường 醉 臥 沙 場 trong bài Lương Châu từ ở tr.646 dịch là “Bồ đào rượu chát” và “say nằm ở bãi cát” nghe không ổn, mỹ tửu sao lại dịch là rượu chát, nên chăng cứ dịch là “rượu ngọt” và “sa trường”. Luôn tiện chúng tôi cũng xin nói thêm về câu thứ ba trong bài thơ này “Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” 欲 飲 琵 琶 馬 上 摧 được dịch là: “Muốn uống, tiếng tỳ bà giục giã lên ngựa” (dịch nghĩa) và “Lên ngựa, tỳ bà giục giã đi !” (dịch thơ). Không riêng Ngô Văn Phú mà cả các bản dịch từ trước đến nay đều chưa nắm được ý “… tỳ bà mã thượng thôi”:

Toan uống, lên yên giục tiếng tỳ (Khương Hữu Dụng);

Toan uống thì tiếng tỳ bà đã giục lên ngựa (dịch nghĩa của Trần Trọng San);

Toan nhắp, đàn vang giục ngựa đi (Nguyễn Hà);

Tỳ bà giục giã ngựa đang đợi người (Lê Hữu Giáp);

Toan uống, tỳ bà giục ngựa đi (Lê Nguyên Lưu)

Trong nhiều cuốn thơ Đường của Trung Quốc ít chú ý đến chi tiết này và không giải thích, nên người dịch thường hiểu lầm là gảy đàn tỳ bà để thúc giục ngựa lên đường. Thực ra không phải như vậy, ngày xưa ở Tây Vực người ta ngồi trên ngựa để đánh đàn tỳ bà theo tập tục của vùng này(1). Bài thơ tả cảnh sinh hoạt của quân đội nơi biên tái - một tiệc rượu “liên hoan” thịnh soạn, khi mọi người sắp nâng cốc thì tiếng tỳ bà trên lưng ngựa vang lên giúp cho bữa tiệc thêm vui, khuyến khích mọi người cứ uống nữa đi, vì “xưa nay chinh chiến mấy ai về”, chứ chưa uống mà đã phải lên ngựa hành quân thì làm sao mà “túy ngọa sa trường” được.

Còn một chi tiết nhỏ đã được các nhà nghiên cứu xác minh và khẳng định người dịch bài Tỳ Bà hành nổi tiếng là Phan Huy Thực (Thân sinh Phan Huy Vịnh) chứ không phải là Phan Huy Vịnh như Ngô Văn Phú đã ghi trong cuốn Đường thi tam bách thủ.

Cuối cùng chúng tôi xin cảm ơn nhà thơ Ngô Văn Phú đã cung cấp cho bạn đọc và những yêu thích thơ Đường một bản dịch Đường thi tam bách thủ trọn vẹn mà từ trước đến nay chưa có ai thực hiện. Những điều nhận xét trên đây của chúng tôi cũng chỉ là việc nhặt những hạt sạn để bản dịch được hoàn bị hơn và nó không hề làm giảm giá trị nhiều bài dịch thành công của nhà thơ.

Chúng tôi hy vọng những sai sót trên đây sẽ được khắc phục trong lần tái bản sắp tới để phục vụ độc giả tốt hơn.

T.A

CHÚ THÍCH:

(1) Xin tham khảo thêm các tài liệu sau đây:

- Đường thi giám thưởng từ điển - Thượng Hải từ thư xuất bản xã 1989, tr.376.

- Sơ trung cổ thi văn từ điển - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã 1999, tr.153.

- Cổ thi tinh tuyển nhật nhật độc (quyển thượng) - Trắc hội xuất bản xã 1990, tr.171.

- Đường thi tam bách thủ - Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 2000, tr.278.

- Đường thi tam bách thủ - Thượng Hải từ thư xuất bản xã 1999, tr.258.

- Tuyệt cú tam bách thủ - Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 1980, tr.8.

TB

ẤN CHƯƠNG TRONG NGHỆ THUẬT
THƯ HOẠ TRUNG QUỐC

LÊ TIẾN ĐẠT

Ấn chương là một nét văn hóa độc đáo của người Trung Quốc. Trong nghệ thuật thư (viết chữ) và họa (tranh thủy mặc), ấn chương đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nếu ví một bức thư họa như một cành mai gân guốc trước gió đông thì ấn chương chính là cánh mai hồng điểm xuyết cho cành mai ấy. Ấn chương là một phần trong cái hồn của bức thư họa, bức thư họa chưa có ấn chương sẽ gây cho người ta cảm giác chống chếnh, chưa hoàn thành. Đặt đúng vị trí, ấn chương sẽ làm tăng giá trị cho bức thư họa, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Ấn chương kết hợp với thư, họa, bổ sung hỗ trợ cho nhau trở thành một chỉnh thể gọi là: “Kim thạch thư họa cộng nhất thể”.

Sở dĩ nói như vậy là vì ấn chương thường được làm bằng kim loại (trong đó chủ yếu là vàng, bạc, đồng) hoặc đá quý, ngoài ra còn có thể làm ấn bằng ngà, gỗ quý…Vật liệu làm ấn qua quá trình lịch sử cũng có những thay đổi nhất định. Dưới thời Tống, nhiều họa gia, thư pháp gia kiêm làm nghề kim hoàn nên ấn được đúc bằng vàng bạc, đá quý là chính. Đến thời Minh, Thanh thì ấn cũng hầu hết được làm bằng ngọc hoặc đá quý mà ít đúc bằng kim loại… Các trang trí trên ấn cũng được chạm khắc hết sức cầu kỳ, đa dạng, trong khuôn khổ bài viết này, khó có thể nói hết được, người viết chỉ xin đi sâu vào phần mặt ấn, là phần lưu dấu lại trên các tác phẩm thư họa mà thôi.

Xét về hình dạng, mặt ấn có rất nhiều hình dạng khác nhau, trong đó phần lớn là hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn. Ngoài ra mặt ấn chương còn có hình bầu dục, hình bán nguyệt, hình quạt hoặc đa giác… Một số ấn chương giữ nguyên theo hình dạng của viên đá được gọi là tùy hình chương. Đặc biệt một số ấn chương có hình bầu dục hoặc chữ nhật, được chia làm hai phần, nửa trên hoặc khắc họ, nửa dưới khắc tên của tác giả; thường là một nửa âm văn, nửa kia dương văn thì được gọi là liên châu ấn. Nội dung ấn văn khắc trên mặt ấn có thể được khắc chìm hoặc khắc nổi. Khắc chìm, ấn chương khi in ra có nét chữ trắng trên nền đỏ, được gọi là bạch văn hay âm văn. Khắc nổi, ấn chương khi in ra sẽ có nét chữ đỏ trên nền trắng, gọi là chu văn hay dương văn.

Căn cứ vào nội dung ấn văn, người ta phân ấn chương ra làm hai loại lớn là: bằng tín chương (còn gọi là danh chương) và nhàn chương.

- Bằng tín chương (danh chương) là loại ấn khắc tên, tự, hiệu của tác giả hoặc tên tác giả đặt cho các trai, đường, quán, các của mình. Những ấn này là bằng cứ để xác định tác phẩm thư họa đó là của tác giả nào, ngoài ra cũng có thể thêm các ý nghĩa khác. Nói chung ấn ghi tên chỉ có một, nhưng ấn ghi biệt hiệu có thể có rất nhiều bởi vì các tác gia thư họa thường có rất nhiều biệt hiệu khác nhau trong những thời gian khác nhau. Ấn ghi tên của trai, đường, quán, các, có thể hai, ba cái nhưng cũng không thể nhiều như ấn biệt hiệu. Trong các họa gia cổ đại Trung Quốc thì Bát Đại Sơn Nhân và Thạch Đào có nhiều biệt hiệu nhất, mỗi người có tới mấy chục ấn biệt hiệu khiến các nhà giám định thư họa tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu và phân biệt.

- Khác với danh chương, nhàn chương là loại ấn khắc các nội dung rất đa dạng, có thể là lời của tác giả gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình; có thể là những câu cách ngôn về lý tưởng, sự nghiệp mà tác giả tâm đắc, có thể là quan điểm của tác giả về nghệ thuật, thế giới quan, nhân sinh quan của mình, và cũng có thể chỉ là ghi lai lịch, quê quán, ngày giờ sinh của tác giả…

Ấn biệt hiệu và ấn trai, đường, quán, các, được xếp vào loại bằng tín chương; vì nó có tác dụng như ấn ghi tên tác giả làm bằng chứng cho tác phẩm, nhưng chúng cũng có những điểm giống như nhàn chương cả về ý nghĩa cũng như cách sử dụng trong tác phẩm thư họa. Bởi vì các nhà thư họa thường cũng là các văn nhân, những biệt hiệu và tên đặt cho trai , đường, quán, các, của họ không hề đơn giản một chút nào mà trong đó thường ẩn chứa nhiều ý nghĩa hoặc những biến cố đặc biệt trong cuộc đời…

Ví như họa gia nổi tiếng đời Thanh - Cao Phượng Hàn, một trong “Dương Châu bát quái” có biệt hiệu là “Đinh Tỵ Tàn Nhân” (丁 巳 殘 人) đó là do năm Đinh Tỵ niên hiệu Càn Long thứ 2 (1737) tay phải của ông mắc bệnh, bị tàn phế, nên ông tự xưng là “Đinh Tỵ Tàn Nhân” rồi khắc ấn. Sau đó, ông lại ra sức rèn luyện vẽ bằng tay trái khiến phong cách vẽ tranh có một thay đổi lớn: từ thanh tân, tú nhã chuyển sang cổ quái hoang sơ, trong đó có nhân tố quyết định là tập vẽ bằng tay trái, do vậy ông lại lấy một biệt hiệu nữa là “Thượng Tả Sinh” (尚 左 生) nghĩa là vẫn còn tay trái dùng được.

Còn về ấn trai, đường, quán, các, như họa gia nổi tiếng Tề Bạch Thạch có ấn “Hối Ô Đường” (悔 烏 堂). Liên quan đến việc Tề Bạch Thạch đặt tên này cho phòng họa của mình có một câu chuyện rất cảm động. Nguyên nhà họ Tề vốn là một gia đình nông dân nghèo khó, mấy người con trong nhà đều trông cậy vào một tay người mẹ vất vả nuôi dạy lớn khôn. Tề Bạch Thạch lúc nhỏ phải đi chăn trâu, lớn lên một chút thì học nghề thợ mộc để nuôi thân, nhưng ông vẫn không quản khó khăn, phấn đấu rèn luyện học văn hóa, học thư họa và khắc triện. Đến lúc có được thành công, nhờ vào việc viết vẽ, khắc triện gia đình dần được sung túc thì mẹ ông đã qua đời. Tề Bạch Thạch rất đau lòng, thương mẹ vất vả cả đời đến lúc mình có thể báo hiếu thì lại không còn nữa nên ông đã đặt tên cho phòng vẽ của mình là “Hối Ô Đường” (Ô tức là con quạ. Theo truyền thuyết, quạ là loài vật có hiếu, khi quạ con lớn thường kiếm mồi mớm nuôi quạ mẹ)

Nhưng nội dung nhàn chương vẫn là phong phú nhất. Tề Bạch Thạch có một nhàn chương với ấn văn: “Trung Quốc Trường Sa Tương Đàm Nhân dã” (中 國 長 沙 湘 潭 人 也). Qua ấn này có thể biết quê quán của ông ở Tương Đàm - Trường Sa tỉnh Hồ Nam - Trung Quốc. Tề Bạch Thạch đã đi qua khắp các miền Trung Quốc, cuối đời mới định cư ở Bắc Kinh, ông dùng nhàn chương này thể hiện nỗi nhớ quê hương của mình. Một nhàn chương khác của ông là: “Ngô ấu quải thư ngưu giác” (吾 幼 挂 書 牛 角) nghĩa là: thuở nhỏ ta thường treo sách trên sừng trâu, thể hiện nỗi hoài niệm về thời thơ ấu vì nghèo khó phải đi chăn trâu, nhưng vẫn phấn đấu học tập, vừa chăn trâu, vừa đọc sách. Chính nhờ tinh thần ham học này, Tề Bạch Thạch mới trở thành một nhà thư họa triện khắc nổi tiếng Trung Quốc và thế giới. Ông còn có các nhàn chương khác như: “Ngã tự tác ngã gia họa” (我 自 作 我 家 畫); “Lưu tục chi sở khinh dã” (流 俗 之 所 輕 也) thể hiện chí tiến thủ trong nghệ thuật, tạo phong cách riêng của mình, coi nhẹ việc vẽ những tác phẩm theo trào lưu thông thường của mọi người: “Bất tri hữu Hán” (不 知 有 漢) - Không biết có nhà Hán, lấy từ câu: “Bất tri hữu Hán, hà luận Ngụy Tấn” (不 知 有 漢, 何 論 魏 晉) - Không biết có nhà Hán, nói gì đến nhà Ngụy, nhà Tấn) trong Đào Hoa nguyên ký (桃 花 源 記) của Đào Uyên Minh thể hiện quyết tâm đi tìm con đường riêng, tránh theo thói thường của mình.

Phó Bão Thạch - họa gia cận đại của Trung Quốc có ấn nhàn chương: “Đại sơn xuyên nhi ngôn dã” (代 山 川 而 言 也) -

Nói thay lời của núi sông. Câu này lấy trong Thạch Đào họa ngữ lục (石 淘 畫 語 錄) của Thạch Đào - một họa sĩ nổi tiếng đời Thanh, thể hiện tình yêu của Phó Bão Thạch với thiên nhiên, non sông tổ quốc. Ông đã chuyên tâm vào vẽ tranh sơn thủy và để lại nhiều kiệt tác. Một ấn khác của ông là: “Vãng vãng túy hậu” (往 往 醉 後) - “(Tôi) thường thường (vẽ) sau khi say”, thể hiện thói quen hay vẽ tranh sau khi uống rượu lấy hứng của ông.

Phan Thiên Thọ trong các tác phẩm của mình thường dùng nhàn chương “Cường kỳ cốt” (強 其 骨) - Gân cốt mạnh mẽ, thể hiện quan điểm nghệ thuật, thẩm mỹ của ông. Cách dùng bút của ông bao giờ cũng mạnh trầm, cương kiện, khỏe khoắn. Một ấn thường dùng khác của ông là: “Bất điêu” (不 雕) - Không tô vẽ, cũng thể hiện quan điểm thẩm mỹ và chủ trương sáng tác của ông. Ông thường vẽ một cách tự nhiên, chân thực không tô vẽ khoa trương.

Có thể nói nội dung của nhàn chương vô cùng phong phú, nó có thể biểu hiện tư tưởng tình cảm, quan điểm, lý tưởng nghệ thuật của tác giả, cũng có thể là một biến cố hay sự kiện nào đó trong cuộc đời của tác giả…

Ngoài những nội dung bằng chữ, trong nhiều ấn chương còn có các hình vẽ kèm theo như ấn: “Long Ngâm” (龍 吟) của tác giả Dư Uý Tổ dưới đây. Phần lớn các hình vẽ là những con giáp thể hiện tuổi của tác giả (thường đi cùng tên) hoặc thể hiện năm sáng tác tác phẩm…

Cách dùng ấn trong thư họa, trước hết phải quan sát kỹ toàn bộ tác phẩm để xác định vị trí đóng triện thích hợp. Đồng thời cũng phải xem xét đến việc ấn chương có nội dung gì, lớn nhỏ ra sao, là ấn chu văn hay bạch văn, là ấn vuông, hay chữ nhật, hay tròn…

Nói chung cách dùng ấn trong thư họa có thể chia thành hai trường hợp lớn: Một là, kết hợp với lạc khoản, đề thức để làm bằng cứ cho tác giả; Hai là, dùng để điều tiết bố cục tác phẩm, điều tiết sự cân đối màu sắc…

Trong trường hợp I, chủ yếu là dùng các ấn tên họ, tư liệu hay ấn trai, đường, quán, các, nói chung là bằng tín chương. Gián hoặc có trường hợp dùng nhàn chương. Vị trí đóng dấu triện đại thể có ba cách:

- Đóng ấn triện ngay trên dòng chữ lạc khoản.

- Đóng ấn triện bên trái dòng lạc khoản (thường người ta không đóng triện bên phải dòng lạc khoản).

- Đóng ấn triện cuối dòng lạc khoản - đây là cách dùng phổ biến nhất.

Dấu đóng tại lạc khoản có thể dùng một hoặc hai ấn, nhưng nếu dùng hai ấn thì nên dùng một ấn âm văn và một ấn dương văn .

Trong trường hợp II, chủ yếu là dùng các nhàn chương (cũng có lúc dùng ấn trai đường hoặc biệt hiệu). Trong họa (tranh thủy mặc) đóng nhàn chương để điều tiết màu sắc, bố cục, tính cân đối của bức tranh. Trong thư pháp, nhàn chương được dùng trong một số trường hợp như: nhàn chương đóng ở đầu bức thư pháp gọi là khởi thủ chương; nhàn chương đóng ở ngang bức thư pháp (trong trường hợp bức thư pháp quá dài, đóng ở ngang bức thư pháp để tăng thêm sự vững chắc) gọi là yêu chương; một số trường hợp khác, tùy vào tình hình cụ thể, tác giả có thể đóng nhàn chương để bổ khuyết cho các chữ viết chưa hợp lý để bức thư pháp cân đối hoàn thiện hơn về chương pháp…

Ở trên là giới thiệu sơ lược về ấn chương trong nghệ thuật thư họa Trung Quốc. Ở Việt Nam, các ấn triện cá nhân hiện còn chưa được nghiên cứu kỹ, một phần do các ấn triện, các tác phẩm thư họa cổ không lưu lại nhiều, phần nữa do người Việt Nam ít có tập quán dùng ấn cá nhân. Tuy vậy, trên một số hoành phi, câu đối cổ ở các di tích đôi khi cũng có những ấn triện được khắc cùng tên người đề chữ, cung tiến như ấn triện trên một số câu đối tại đền Bạch Mã- Hà Nội, đình La Khê - Hà Tây v.v… Điều đó đòi hỏi chúng ta đặt ra vấn đề cần phải có sự quan tâm hơn nữa đến việc nghiên cứu các ấn triện cá nhân tại Việt Nam.

Sau đây, xin giới thiệu một số nội dung ấn nhàn chương thường được các tác giả sử dụng trong nghệ thuật thư họa Trung Quốc theo các chủ đề khác nhau:

1/ Các câu thể hiện kiến giải và lý tưởng nghệ thuật của tác giả:

- Thiên ý mỗi tùy nhân (天 意 每 隨 人): ý vị thiên nhiên tùy theo cảm nhận của từng người.

- Hoài chân (懷 真): Mong (thể hiện được cái đẹp) chân thực.

- Du mục sính hoài (游 目 聘 懷): Phóng tầm mắt, thả tâm hồn (theo thiên nhiên).

- Ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh (仰 觀 宇 宙 之 大, 俯 察 品 類 之 盛): Ngửa trông sự lớn lao của vũ trụ, cúi xem sự phồn thịnh của muôn vật (Câu này lấy từ thiếp Lan Đình Tự của Vương Hi Chi).

- Vô họa tài nhi hữu họa ý (無 畫 才 而 有 畫 意): Không có tài vẽ tranh nhưng có lòng muốn vẽ.

- Mặc hí (默 戲): Chơi đùa với mực.

- Hình hiện thần tàng (形 現 神 藏): Hình ảnh hiện lên thì có cái thần ẩn chứa bên trong.

- Dụng bút tại tâm (用 筆 在 心): Dùng bút cốt là ở tấm lòng.

- ý đáo bút tùy (意 到 筆 隨): Bút viết, vẽ theo ý nghĩ chợt đến.

- Sư tạo hóa (師 造 化) : Tạo hóa (thiên nhiên) chính là người thầy.

- Hội tâm xứ (會 心 處): Nơi tụ hội tâm hồn.

- Tá cổ dĩ khai kim (借 古 以 開 今): Mượn cái xưa để mở ra cái nay.

- Bất cầu tự (不 求 似): Không mong giống.

- Đắc giang sơn trợ (得 江 山 助): Được sự giúp sức của núi sông.

- Pháp cổ (法 古): Theo cách xưa.

- Đắc cổ pháp xuất tân ý (得 古 法 出 新 意): Được cách xưa để tạo ra ý mới.

- Đại phác bất điêu (大 樸 不 雕): Chân thực không tô vẽ.

2/ Các câu thể hiện tâm tư tình cảm của tác giả:

- Ngô thảo mộc chúng nhân dã (吾 草 木 眾 人 也): Ta chỉ là người bình thường sống giữa cỏ cây như mọi người.

- Ngô thiếu thanh bình (吾 少 清 平): Tuổi thơ ta thật thanh bình.

- Ngẫu ngâm (偶 吟): Ngẫu nhiên ngâm ngợi.

- Tri kỷ hữu ân (知 己 有 恩): Biết mình là có ơn với mình.

- Phong tiền nguyệt hạ thanh ngâm (風 前 月 下 清 吟): Khúc ngâm thanh nhã trước gió, dưới trăng.

- Tiêu dao du (逍 遙 游): Tiêu dao thảnh thơi (Đây là tên một thiên trong sách Trang Tử).

- Nhất liêm thu nguyệt (一 簾 秋 月): Một rèm trăng thu.

- Biệt thời dung dị, kiến thời nan (別 時 容 易, 見 時 難): Chia tay thì dễ, gặp gỡ nhau thì khó.

- Mai hoa đồng tố tâm (梅 花 同 素 心):

Tấm lòng trong trắng như hoa mai.

- Tâm nguyệt đồng quang (心 月 同 光): Tấm lòng sáng như ánh trăng.

- Hư tâm cao tiết (虛 心 高 節): Khiêm tốn là phẩm chất cao thượng.

3/ Các câu cách ngôn mang tính triết lý:

- Tuy hữu như vô (雖 有 如 無): tuy có mà như không.

- Thảo mộc vị tất vô tình (草 木 未 必 無 情): Cỏ cây không hẳn vô tình.

- Khiên ngưu bất ẩm tẩy nhĩ thủy (牽 牛 不 飲 洗 耳 水): Dắt trâu không uống nước rửa tai. (Câu này nhắc đến điển cố Sào Thủ - Hứa Do).

- Lâm uyên tiện ngư bất như thoái nhi kết võng (臨 淵 羨 魚 不 如 退 而 結 网): Đến khe suối thích cá chẳng bằng quay về mà đan lưới.

- Tiệm nhập giai cảnh (漸 入 佳 景): Dần vào nơi cảnh đẹp.

- Hoa hương bất tại đa (花 香 不 在 多): Hương hoa thơm không cần nhiều.

- Vô khả vô bất khả (無 可 無 不 可): Không cái gì là có thể, không cái gì là không thể.

- Hóa phũ hủ vi thần kỳ (化 腐 朽 為 神 奇): Biến cái mục nát (vô dụng) thành cái thần kỳ.

4/ Các câu cách ngôn mang tính lập chí, tự răn mình:

- Tự cường bất tức (自 強 不 息): Luôn tự cường không ngừng.

- Đan thanh bất tri lão tương chí (丹 青 不 知 老 相 至): Vẽ vời không cần biết cái già đang đến .

- Diện bích cửu niên (面 壁 九 年): Quay mặt vào tường chín năm (Nhắc chuyện Thích Hoài Tố luyện tập thư pháp chín năm không ra ngoài).

- Vinh nhục bất kinh (榮 辱 不 驚): Không sợ vinh nhục.

- Cần năng bổ chuyết (勤 能 補 拙): Cần cù bù thông minh.

- Lưu chân tích dữ nhân gian thùy thiên cổ (留 真 跡 與 人 間 垂 千 古): Lưu lại bút tích với thế gian đến ngàn đời.

5/ Các câu cầu chúc cát tường may mắn:

- Cát tường (吉 祥): May mắn .

- Nhân trường thọ (人 長 壽): Người thọ mãi.

- Mỹ ý diên niên (美 意 延 年): Tốt đẹp dài lâu.

- Như ý (如 意): Mọi điều đều được như ý.

- Thọ đồng kim thạch (壽 同 金 石): Thọ cùng vàng đá.

- Trường niên đại lợi (長 年 大 利): Đại lợi dài lâu.

- Hoa hảo, nguyệt viên, nhân thọ (花 好 月 圓 人 壽): Hoa đẹp, trăng tròn, người thọ.

- Trường lạc Vị Ương (長 樂 未 央): Được mãi vui vẻ trong cung Vị Ương (cung điện nước Tần).

- Đãn nguyện vô sự thường tương kiến (但 願 無 事 常 相 見): Chỉ mong vô sự thường được gặp nhau.

L.T.Đ

TB

BẾ GIẢNG LỚP VĂN TỰ TÀY–NÙNG KHÓA 2000 – 2002

Nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, khai thác, phát huy các giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc trong đó có mảng di sản văn hóa thành văn của các dân tộc ít người theo định hướng xây dựng một nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc như nghị quyết 5 (khóa 8) của BCH TƯ Đảng đã đề ra, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức một lớp học chữ Tày - Nùng (2000 - 2002).

Số học viên theo học lớp này đều đã tốt nghiệp Đại học, như khoa Hán Nôm trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn và khoa Trung văn trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Trong những ngày học tập, lớp học đã được các thầy TS. Cung Khắc Lược, NCV. Lưu Đình Tăng, PGS. TS. Hoàng Văn Ma, PGS. TS. Vương Toàn, PGS. TS. Trần Trí Dõi, TS. Lương Văn Kế trực tiếp hướng dẫn. Chương trình của lớp học bao gồm:

- Học chữ, nghĩa trên văn bản Nôm Tày - Nùng.

- Khái quát về văn hóa Tày - Nùng

- Văn học so sánh

- Đi thực tế địa phương.

Mục đích của lớp học chủ yếu là học chữ, nghĩa. Cho nên việc truyền đạt kiến thức đều thực hiện trên lớp. Có học viên đã tự học bằng cách chép lại toàn bộ văn bản viết bằng chữ Tày - Nùng với mục đích để học chữ, để nhớ. Kết quả kiểm tra cuối học kỳ, các học viên đều đạt điểm khá trở lên.

Trong quá trình học tập, Viện đã tạo mọi điều kiện cho các học viên đi thực tế tại tỉnh Cao Bằng. Đoàn đã được cán bộ của Sở văn hóa đưa đi thực tế ở các bản, nhiều học viên lần đầu tiên đi thực tế được tiếp xúc, tham dự phiên chợ của đồng bào dân tộc ở Cao Bằng. Các học viên đã trực tiếp nghe đồng bào nói, tự mình nói chuyện bằng tiếng Tày với đồng bào. Có thể nói kết quả của đợt đi thực tế chính là tạo dựng cho học viên một lòng tự tin, chủ động vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Một kết quả cũng đáng khích lệ là nhiều học viên với sự hướng dẫn của thầy, đã từng bước xác định cho mình những vấn đề để thực hiện viết tiểu luận. Các tiểu luận ấy đều được trình bày trên lớp. Có tiểu luận đã được sửa chữa được đăng trong Thông báo Hán Nôm học và Tạp chí Hán Nôm. Hiện nay, nhiều học viên đang tiếp tục gửi bài viết về mảng di văn Tày - Nùng cho các hội nghị khoa học của Viện.

Thay mặt lớp học, chúng tôi xin cảm ơn các thầy đã hết mình với học viên. Chúng tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức cán bộ - Đào tạo thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các phòng chức năng của Viện trong thời gian qua đã tạo mọi điều kiện cho lớp học đạt kết quả.

Phạm Văn Thắm

TB

HỘI NGHỊ THÔNG BÁO HÁN NÔM HỌC NĂM 2002

Ngày 16 tháng 1 năm 2003, tại trụ sở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2002. Ban tổ chức Hội nghị nhận được 126 bài tham luận của 130 tác giả. Nội dung các bài viết rất phong phú, đa dạng và có nhiều thông tin khoa học, tạo cho giới Hán Nôm học Việt Nam một ấn tượng sâu sắc về chất lượng và hiệu quả của Hội nghị Thông báo Hán Nôm học do Viện Nghiên cứu Hán Nôm đăng cai tổ chức hàng năm.

+/ Các báo cáo đã tập trung vào các vấn đề sau đây:

- Giới thiệu các tư liệu Hán Nôm mới phát hiện sưu tầm, có giá trị về thời gian và không gian, về hình thức và nội dung.

- Giới thiệu các tác gia Hán Nôm và các nhân vật lịch sử với nhiều thông tin mới.

- Nêu lên giá trị của tư liệu Hán Nôm, khi nghiên cứu lịch sử, văn học, tôn giáo, pháp luật, v.v..

- Khảo cứu về văn bản học và thư tịch học.

- Khảo cứu về ngôn ngữ văn tự.

- Trao đổi học thuật.

+/ Hội nghị thực sự là diễn đàn khoa học, nhằm trao đổi học thuật và cung cấp những thông tin có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa thực tiễn; góp phần tạo nên sự phát triển của ngành Hán Nôm Việt Nam trong đời sống văn hóa xã hội nước ta hiện nay. Chúng ta tin tưởng rằng, sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc nói chung và di sản Hán Nôm nói riêng, ngày càng thu được những kết quả tốt đẹp.

P.V