TB

CHỮ NHO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

NGUYỄN CẢNH TOÀN

LTS. Bài viết này đăng trên báo Văn nghệ số 16 (2257) thứ 7 ngày 19/4/2003, nhưng xét thấy nội dung bài viết có ý nghĩa với ngành Hán Nôm học. Tạp chí Hán Nôm xin phép tác giả đăng lại.

I. Một khoảng trống đáng sợ

Những người Việt Nam tuổi dưới 60 tuyệt đại bộ phận đều mù chữ Nho vì đã lâu lắm rồi, trường phổ thông không còn dạy chữ Nho cho học sinh nữa. Điều đó đương để lại một khoảng trống đáng sợ. Một dân tộc càng tiến lên thì ngôn ngữ của dân tộc đó càng phát triển, nhất là ở thời đại ngày nay khi mà tốc độ đi lên của cả nền văn minh vật chất và tinh thần thường được kèm theo tính từ “chóng mặt”. Ngày xưa, tiếng Việt phát triển một cách tự phát, còn từ thập kỉ 40 của thế kỉ XX, đã có yếu tố tự giác, bắt đầu từ quyển Danh từ khoa học của ông Hoàng Xuân Hãn. Ông Hãn dùng ba cách đặt ra các từ mới để gọi những cái đã xuất hiện trong cuộc sống nhưng người Việt Nam chưa có từ để gọi. Cách thứ nhất là dùng những từ đã có sẵn để tạo nên từ mới như ghép “tủ” với “lạnh” để gọi cái mà người Pháp gọi là “frigidaire”, hoặc dùng “hình nêm” để chỉ hình mà người Pháp gọi là “conoide” vì hình đó giống cái nêm. Cách thứ hai (mà ông Hãn gọi là phương sách gốc Nho) là dùng từ Hán Việt tức là từ Hán nhưng đọc theo cách Việt, viết bằng chữ cái La tinh và đặt vào trong câu theo văn phạm Việt Nam. Cách thứ ba là phiên âm từ tiếng Pháp như vôn (volt), ămpe (ampère). Nhờ có cuốn Danh từ khoa học của ông Hãn rồi sau đó, một vài cuốn danh từ sinh học, y học, nông nghiệp mà khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ta đã có thể dạy bằng tiếng Việt ở tất cả các cấp bậc học, điều mà nhiều nước thuộc địa mới giành được độc lập không làm nổi. Nhưng những cuốn danh từ đó nhanh chóng bị vượt qua do sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học ở nước ta. Vì vậy từ năm 1960, Ủy ban Khoa học Nhà nước lập ra nhiều nhóm biên soạn các cuốn Danh từ khoa học Nga - Việ t rồi Anh - Việt thuộc nhiều chuyên ngành khoa học và kỹ thuật. Hồi đó, tôi được phân công chủ biên cuốn Danh từ Toán học Nga - Việt (xuất bản năm 1962). Chúng tôi chấp nhận ba cách đặt từ mới của ông Hoàng Xuân Hãn với thứ tự ưu tiên là dùng cách thứ nhất trước, bí lắm mới dùng cách thứ hai, nếu vẫn bí, thì mới dùng cách thứ ba (chỉ khác với ông Hãn là chúng tôi phiên âm từ tiếng Anh). Tuy được ưu tiên như vậy nhưng cách thứ nhất gặt hái nghèo nàn, cách thứ ba vấp phải khó khăn ở chỗ tiếng Anh là đa âm còn tiếng Việt là đơn âm nên nếu lạm dụng việc phiên âm thì đọc một câu có từ phiên âm nghe rất lai căng. Rốt cuộc, dù xếp ưu tiên hai, cách “gốc Nho” đưa lại hiệu quả nhiều nhất vì mấy lẽ sau đây:

Cha ông ta, qua hai nghìn năm lịch sử dùng tiếng Hán đã Việt hóa tiếng Hán đến tận xương tủy, nhất là trong cách đọc, đạt được âm hưởng Việt Nam trăm phần trăm; tiếng Hán lại rất thuận tiện cho việc đặt các từ dẫn xuất khi đã có một từ gốc nào đó. Ví dụ, chỉ cần thêm vào một chữ “kế ” là có từ để chỉ dụng cụ đo: nhiệt kế, lực kế, vôn kế, ămpe kế,...; chỉ cần thêm vào một chữ “hóa” là có ngay từ để chỉ sự biến đổi trạng thái, ví dụ “tiên đề” (axiom) thì có ngay “tiên đề hóa” (axiomatize); đôi khi trong tiếng Việt đã có từ rồi, nhưng vẫn phải dùng cách “gốc Nho” để đặt một từ khác vì còn phải xét đến việc đặt từ vào trong câu hoặc lập ra các từ dẫn xuất sao cho thuận tiện, hoặc vì từ có sẵn bị coi là “tục”, người có văn hóa phải tránh dùng, nếu phải dùng thì có một từ khác được coi là “thanh” chẳng hạn như các từ liên quan đến sự bài tiết, sinh sản của con người. Cho nên trong thực tế, cách “gốc Nho” trở thành một cách rất quan trọng để phát triển tiếng Việt. Đó cũng là lí do tại sao trong tiếng Việt các từ Hán Việt lại chiếm tỉ lệ cao như vậy. Và chúng ta phải rất cảm ơn cha ông ta đã để lại cho chúng ta cái di sản quí báu là “chữ Nho”. Nhiều người vẫn thấy vướng với việc chữ Nho là ngoại lai. Trong sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, việc vay mượn là lẽ thường; điều đáng quan tâm nhất là cái đi vay mượn đó về có dùng được tốt không, nhuyễn không, tinh tế không. Các từ Hán Việt đạt được các yêu cầu đó và là công lao của ông cha ta. Nhưng, muốn dùng được cách “gốc Nho” thì phải biết chữ Nho, chí ít thì cũng phải biết một trình độ chữ Nho phổ thông như cả nhóm chúng tôi hồi 1960, khi soạn quyển Danh từ toán học Nga – Việt; ít ra mỗi người trong nhóm chúng tôi đều đã học chữ Nho khi còn là học sinh tiểu học và cao đẳng tiểu học (tương đương trung học cơ sở ngày nay); hồi đó thi tốt nghiệp cao đẳng tiểu học (diplôme) có một bài thi chữ Nho. Hồi còn đi học phổ thông tôi những tưởng học chữ Nho rồi cũng chả có ích gì, giống như cụ Tú Xương đã than:

Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co...

Nay thì có thể thưa với cụ rằng, chữ Nho vẫn rất cần để phát triển tiếng Việt, để hiểu sâu, để thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn hóa Việt Nam. Nhìn các cháu hiện nay học tiếng Việt (mà không được học chữ Nho) thì thấy các cháu học vất vả quá mà hiệu quả lại thấp. Con tôi rồi đến cháu tôi thuộc thế hệ mù chữ Nho. Thỉnh thoảng có cháu lại hỏi tôi nghĩa của một từ Hán Việt mà ngày xưa, khi học phổ thông, nhờ có chữ Nho mà tôi hiểu sâu, thưởng thức được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của nền văn hóa dân tộc ẩn trong đó. Ngày nay, có giải nghĩa cho con, cho cháu thì cũng phải tự hạn chế vì biết rằng chúng mù chữ Nho nên cũng chẳng đi sâu vào cấu tạo của từ, càng không đi sâu vào chiết tự để làm nổi lên cái hay, cái đẹp, cái tinh tế. Nghĩ đến những áng văn như Truyện Kiều, tuy là văn Nôm nhưng từ Hán Việt trong đó còn nhiều lắm, tôi tự nghĩ những người mù chữ Nho, đọc chắc vất vả lắm và sự thưởng thức cái hay, cái đẹp chắc cũng bị hạn chế nhiều. Qua việc học của con cháu trong nhà, tôi đã cảm thấy sự mất mát lớn của tiếng Việt khi mà ở trường phổ thông không còn dạy chữ Nho cho học sinh. Tóm lại càng cảm thấy đó là một khoảng trống lớn khi việc không dạy chữ Nho đã kéo dài suốt ngót sáu chục năm và cảm thấy cái khoảng trống đó càng lớn khi mở các sách ngày nay về tin học bằng tiếng Việt: đó là những quyển sách lổn nhổn tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Ngay trong một bài của báo Sinh viên số ra ngày 24-2-2003, ở trang 7, cột 3, ta tìm thấy một câu như sau: “Một thành viên đăng kí với tên Nickvn hacker, liên tục post những lời cảnh báo lên fortum của hackervn lời lẽ thách thức phỉ báng hacker chỉ là thứ trình độ “còm”, chẳng biết làm gì ngoài việc đánh cắp vài ba cái account Internet...”. Điều có thể thông cảm là tin học đương phát triển mạnh mà ta cần sớm có sách bằng tiếng Việt phục vụ cho dạy và học tin học, nên không thể chờ đặt được các từ tiếng Việt tương ứng rồi mới soạn sách, nên cứ tạm bê nguyên tiếng Anh vào cái đã rồi hạ hồi phân giải. Nhưng hạ hồi là bao giờ và ai sẽ phân giải khi tuyệt đại đa số chuyên gia về tin học hiện nay thuộc thế hệ mù chữ Nho? Chẳng nhẽ bây giờ lại chấp nhận cách đặt từ mới thứ tư là “bê nguyên xi tiếng Anh vào”. Nếu thế tiến thêm một bước thì sẽ đi đến đâu ? - Đến chỗ thừa nhận rằng tiếng Việt là bất lực không diễn tả nổi các khoa học hiện đại nhất và trong các lĩnh vực đó nên dùng tiếng Anh làm chuyển ngữ. Thế thì sẽ còn gì là sự trong sáng của tiếng Việt, sự tự hào về mặt tiếng Việt có khả năng diễn đạt những điều tinh tế nhất và từ đó sẽ còn đâu là một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, còn đâu là sự hòa nhập, mà không hòa tan. Khi mà cái vỏ của văn hóa là ngôn ngữ đã tỏ ra bất lực phải viện ngoại đến mức như vậy ?

II. Đối sách để lấp khoảng trống

Vậy thì vấn đề không dạy chữ Nho ở trường phổ thông không phải là chuyện nhỏ mà là chuyện to cần phải giải quyết. Hiện nay, nhiều người chưa cảm thấy hết cái khoảng trống do sự mù chữ Nho để lại, vì số người trên 60 tuổi không mù chữ Nho còn khá nhiều trên cõi đời này. Nhưng độ ba mươi năm nữa thì số này sẽ hết nếu ta không kịp có đối sách. Bây giờ mới có đối sách thì đã hơi muộn nhưng muộn còn hơn không. Mà phải bắt tay ngay vì đối sách cũng không đơn giản, phải vượt qua nhiều khó khăn và phải kiên trì trong mười lăm năm thì mới có hiệu quả.

Những khó khăn phải vượt trước hết là những khó khăn về nhận thức, vì nếu nhận thức không nhất trí thì sẽ khó có sự đồng tâm để có sức mà làm.

Nhận thức đầu tiên là nhận thức rằng việc bỏ dạy chữ Nho ở nhà trường phổ thông trong một thời gian dài đã để ra một khoảng trống lớn trong việc các thế hệ tiếp nhau phát triển tiếng Việt kịp với sự phát triển của văn hóa và khoa học ở thời đại hiện nay.

Nhận thức thứ hai là nhận thức rằng, tuy có nhiều khó khăn, nhưng ta phải khôi phục được việc dạy chữ Nho ở nhà trường phổ thông. Một khó khăn cần khắc phục là bây giờ ai cũng kêu chương trình học phổ thông quá tải, trẻ con phải học quá nhiều, chả còn thời giờ mà vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao. Nếu lại thêm chữ Nho thì sẽ còn nhồi nhét đến đâu. Xin thưa rằng, hiện nay học quá tải chủ yếu không phải do khách quan mà do những khuyết điểm chủ quan sau đây:

- Một là “tham kiến thức”. Chẳng hạn chương trình toán Trung học phổ thông bình thường hiện nay (nghĩa là không phải “chuyên” cũng không phải phân ban, ban A) nặng hơn chương trình tú tài toán ngày xưa; ví dụ tú tài toán chỉ mới học nguyên hàm chưa học tích phân, chưa học số e, thì nay lớp 12 đã học nhiều kiến thức trước đây là của Đại học.

- Hai là “chưa tận dụng được ngoại khóa”. Chẳng hạn, nếu vì muốn gắn nhà trường với đời sống mà đưa thêm một số chi tiết về xác suất và thống kê vào chương trình toán thì chỉ làm nặng thêm chương trình, chi bằng đưa học sinh vào hành động ngoại khóa qua đó học phân, cân, đong, đo, đếm để có số liệu rồi dạy rất thiết thực cho họ cách xử lý các số liệu đó thì hay hơn nhiều, vừa không làm nặng chương trình vừa gắn với đời sống thực sự.

- Ba là hay nhân danh “giáo dục toàn diện” mà rồi cái gì cũng muốn nhét vào chương trình, vào nội khóa. Cần phải thấy rằng “toàn diện” là trên cơ sở “cơ bản”, nghĩa là cái gì là “cơ bản” mới có trong chương trình, còn phạm vi ứng dụng cụ thể của những điều cơ bản thì quá rộng làm sao ôm hết được trong mọi khóa, nhiều điều phải để cho cuộc sống dạy. Hiện nay có khuynh hướng là những gì chưa tốt trong quản lí xã hội đều muốn đưa vào dạy ở trường phổ thông với hy vọng trẻ em được học như vậy sẽ cải thiện được tình hình quản lý xã hội. Đành rằng trẻ em được giáo dục tốt có thể tác động trở lại người lớn nhưng tác dụng của những người lớn gương mẫu mới có ý nghĩa quyết định đối với cuộc sống và khi đó người lớn giáo dục trẻ em mới có hiệu quả. Thực tế đã chứng tỏ điều đó. Bao nhiêu năm đưa luật lệ giao thông vào dạy trong nhà trường chẳng hề thay đổi được mảy may tình hình lộn xộn trong giao thông; nhưng từ tết Quý Mùi, việc quản lý giao thông ở thành phố Hà Nội có chuyển biến nhờ khắc phục được “hữu khuynh” và “tiêu cực”. Nếu duy trì được lâu dài thì sẽ gây ra một nếp tốt cho người đi đường. Khi đó, chả cần đưa luật đi đường vào dạy trong nhà trường, trẻ em cũng sẽ biết tôn trọng luật nhờ noi gương người lớn và nhờ luật pháp nghiêm minh, em nào không tuân sẽ bị phạt, nghĩa là cuộc sống sẽ dạy các em.

Sự quá tải còn do phương pháp dạy và học quá lạc hậu. Bác Hồ đã nói: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt” nhưng cách dạy, cách học, cách quản lý hiện nay trong nhà trường lại rất coi thường tự học. Đi học về, đáng lẽ phải để thì giờ nghiền ngẫm những gì đã nghe giảng trên lớp, tức là tự học bài cho có chiều sâu, thì lại phí thời giờ đến nghe thụ động ở các lớp dạy thêm thì hiệu suất học tập làm gì chả thấp, thì giờ tốn nhiều mà tiến bộ chẳng được bao nhiêu. Cho nên “quá tải” hiện nay là có thật, nhưng đó là tình hình bệnh hoạn có thể sửa được chứ không phải là một tất yếu khách quan. Nếu chưa được thì hoàn toàn có điều kiện để khôi phục lại việc dạy chữ Nho ở trường phổ thông để nay mai, mọi người dân đều có một trình độ phổ thông về chữ Nho, coi như một bộ phận hữu cơ của trình độ tiếng Việt. Với cái trình độ Phổ thông về chữ Nho đó, bất cứ ai là chuyên gia trong một ngành chuyên môn, đều có thể dùng cách “gốc Nho” để tham gia đặt từ mới trong lĩnh vực chuyên môn của mình, đồng thời đối với tiếng Việt nói chung, họ sẽ hiểu sâu hơn tiếng mẹ đẻ của mình, biết thưởng thức cái hay, cái đẹp của nó và thông qua nó mà thấm nền văn hóa dân tộc.

Mấy năm gần đây “thi pháp” đã phục hồi, các câu lạc bộ thư pháp mọc lên ở rất nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ rằng chữ Nho với những chữ Việt “phượng múa, rồng bay” đã đi vào tâm khảm của người Việt Nam. Điều đó cũng giải thích tại sao bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên và bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ lại được nhiều người đánh giá cao. Là vì “câu đối đỏ” với các chữ Nho “phượng múa, rồng bay”, đã ăn sâu vào tâm khảm người Việt Nam mỗi lần Tết đến, xuân về. Vũ Đình Liên sẽ không phải than thở: “hồn ở đâu bây giờ?” vì hồn đó đã nhập vào các vị thư pháp vừa mới hồi sinh. Họ sẽ tiếp nối các “thầy khóa gò lưng trên cánh phản”. Nay mai nếu xóa được nạn “mù chữ Nho” thì người Việt Nam còn gắn bó nhiều hơn với các câu đối, hoành phi không chỉ vào dịp tết mà quanh năm vì, ngoài cái mỹ cảm “phượng múa, rồng bay”, họ còn có thêm khả năng hiểu được nội dung. Tuy có những thuận lợi như trên nhưng việc khôi phục “dạy chữ Nho” cũng vẫn rất khó khăn vì người ta đua nhau đi học tiếng Anh, vi tính, còn quá hiếm người tìm học chữ Nho, nhất là thanh thiếu niên nếu như nhà trường phổ thông không dạy. Để càng chậm càng khó. Chắc là phải bắt đầu tập hợp những chuyên gia về lĩnh vực này để nghiên cứu chương trình, viết sách giáo khoa, nghiên cứu cách dạy, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, dạy thử trong phạm vi hẹp rồi mở rộng dần, tiến đến việc gắn hữu cơ việc học chữ Nho với việc học tiếng Việt. Việc nghiên cứu chương trình phổ thông hiện nay vẫn cứ để tách riêng vì việc nghiên cứu khôi phục dạy chữ Nho chắc còn phải kéo dài đến mươi lăm năm. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu đổi mới chương trình hiện nay thì rất nên chú ý đến việc tinh giảm theo bốn phương hướng đã nêu trên thì sau mới có thể đưa thêm chữ Nho vào được.

Việc đào tạo chuyên gia Hán Nôm lâu nay đã có Viện Nghiên cứu Hán Nôm chăm lo nhưng, nếu nhìn vấn đề như trên thì phải có thêm một số trường Đại học như Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Xã hội chia sẻ gánh nặng trong sự gắn kết đào tạo giáo viên, nghiên cứu viên với nghiên cứu khoa học. Cũng không nên nghĩ rằng, ở các trường Đại học đó chỉ có Khoa Ngữ văn mới cần đến chữ Nho, vì lẽ ở bất cứ bộ môn nào cũng đầy những từ Hán Việt và sẽ cần đến chữ Nho để phát triển tiếng Việt trong phạm vi bộ môn. Mà “bộ môn” bao gồm cả triết lý bộ môn và lịch sử bộ môn, dù là trong giảng dạy hay trong nghiên cứu khoa học. Lấy ví dụ, hiện nay, về lịch sử toán học cổ của Việt Nam, ta chỉ biết có hai người là Vũ Hữu và Lương Thế Vinh. Sự phát hiện ra hai vị này cũng là nhờ các nhà nghiên cứu lịch sử. Nhưng chả lẽ cả lịch sử mấy nghìn năm, về toán học ta chỉ có thế thôi ư ? Một lần, trao đổi với một Giáo sư Nga (công tác tại Viện nghiên cứu lịch sử các khoa học tự nhiên của Liên Xô), khi ông ta hỏi thăm về lịch sử xa xưa của toán học Việt Nam và nghe tôi trả lời, thì ông ta cũng lấy làm lạ về sự nghèo nàn đó. Ông ta cho biết ngay Campuchia cũng đã có những tài liệu về toán học xa xưa của họ để trao đổi với Viện của ông ta. Có lẽ vì chúng ta chưa có chủ trương nghiên cứu về lịch sử toán học xa xưa của Việt Nam. Cuối cùng, khi chia tay, vị Giáo sư đó vẫn tha thiết mong rằng, nếu trong tương lai, Việt Nam có những tài liệu như vậy thì xin trao đổi với Viện ông ta. Tôi có nói: “Nếu có tài liệu như vậy thì chắc là tài liệu chữ Nho”. Ông ta bảo: “Chữ gì cũng được, Viện chúng tôi cũng có cách đọc được”. Tầm nhìn của người ta là như vậy.

Tóm lại, chữ Nho có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của dân tộc ta và đó là một di sản quý báu do ông cha ta để lại nhờ biết Việt hóa chữ Hán. Chữ Nho phải trở thành một bộ phận hữu cơ của tiếng Việt. Ta càng tiến lên hiện đại càng cần đến nó trong việc phát triển tiếng Việt.

N.C.T

TB

VỀ MẤY BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

TRẦN BÁ CHI

Sử gia Lê Tung trong sách Việt giám thông khảo tổng luận có bàn rằng: “Có trời đất rồi mới có muôn vật, có muôn vật rồi mới có đạo vợ chồng, có đạo vợ chồng rồi sau mới có đạo cha con, có đạo cha con rồi sau mới có đạo vua tôi. Cho nên đạo cương thường của con người cũng từ đó mà ra và từ chỗ có đạo cương thường của con người mới dựng đặt ra đạo vua tôi để dựng xây đất nước vậy”.

Nước Việt ta từ Lạc Long Quân nối đời Hồng Bàng lấy con gái họ Âu Lạc mà có điềm lành sinh trăm con trai, tổ người Bách Việt được bắt đầu từ đấy. Đất nước ta có Hùng Vương nối nghiệp Lạc Long, ban phát ơn huệ để vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng chăn tằm, chẳng có can qua chinh chiến. Con cháu nối dòng có đến 18 đời Hùng Vương, yên vị được hơn 2.000 năm mà vẫn thắt nút giây ghi chính sự, phong tục chất phác, dân không gian dối.

An Dương Vương nối nghiệp Hùng Vương, dời đô về Loa Thành, giữ nước Âu Lạc gần 50 năm thì mất nước cho thế lực Triệu Đà. Rồi tiếp đó, nạn Bắc thuộc kéo dài gần 1.000 năm, trăm họ lầm than, dân không sống nổi.

Bà Trưng Trắc là dòng dõi Hùng Vương, căm giận vì chính lệnh hà khắc của Thái thú Tô Định mà chị em quyết phất cờ khởi nghĩa. Dân trong 65 thành ở cõi Lĩnh Ngoại hăm hở lập công theo Bà để cứu nguy cho đất nước. Nhưng do quân Đông Hán đã kéo sang quá mạnh, đàn áp, tàn sát rất dã man, đất nước lại phải chịu khổ đau.

Bà Triệu Ẩu là người phụ nữ ngoan cường ở Cửu Chân, Bà tung quân đánh phá các thành ấp. Tuy chưa chiếm lĩnh được Lĩnh Biểu như Hai Bà Trưng, nhưng đã tỏ rõ được bậc hùng tài trong nữ giới.

Lý Nam Đế rất thông minh, đủ tài văn võ, có quy hoạch của một đế vương. Nhưng gặp lúc quân Bắc đang hăng, giặc Bá Tiên đang mạnh, rút cục đều thất bại. Sau đó, Hậu Nam đế lại bội nghĩa mà diệt Triệu, nghe gió mà hàng Tùy, đến nỗi bị nhục đưa về Bắc triều, cũng bởi tại mình gây ra cả.

Mai Hắc Đế nổi lên từ châu Hoan, căm giận ngược chính của Quang Sở Khách, cất quân đi đánh. Phía Nam giữ đất Hải Lĩnh, phía Bắc chống lại nhà Đường. Tuy cơ nghiệp đã dựng được vài ba năm, cuối cùng vẫn không chế ngự được Dương Tư Húc. Sử sách đều chép ông là bậc anh hùng vậy.

Phùng Bố Cái từ đất Đường Lâm đã cứu dân dẹp loạn, chiếm đất phục hưng cơ nghiệp. Tiếc vì con là Phùng An yếu đuối bất lực, cuối cùng chịu đầu hàng họ Triệu, khiến cơ nghiệp bại vong.

Khúc Thừa Dụ biết thừa cơ khi nhà Đường sắp mất, nêu quyền tự chủ, được dân trong ngoài ủng hộ. Nhưng thế nước còn yếu, chỉ dám tự xưng theo danh hiệu của nhà Đường mà thôi. Đến Khúc Thừa Hạo có mạnh mẽ hơn, biết định hộ tịch nêu chức quản giáp. Nhưng đến cuối đời Hậu chúa Khúc Thừa Mỹ lại bị dân oán, nước Nam Hán lăm le tiêu diệt.

Dương Đình Nghệ quyết diệt Nam Hán thu lại bản đồ đất đai. Song vì quá tin vào Kiều Công Tiễn để nó giết oan, làm tan cơ nghiệp.

Ngô Vương Quyền giết được gian trong là Kiều Công Tiễn, phá được giặc mạnh bên ngoài là Hoằng Thao, rực rỡ chiến công của vị Tiên chúa. Nhưng vì Dương Tam Kha lật lọng chiếm ngôi, gây nên mâu thuẫn, cung đình rối loạn, nạn xưng hùng xưng bá nổi dậy khắp nơi.

Đinh Bộ Lĩnh có công lớn thống nhất quốc gia, quy non sông về một mối. Mong nước thống nhất như thời Văn Lang, Âu Lạc. Nhưng than ôi ! Đinh Bộ Lĩnh không ngờ rằng: chính tên nội gián là Đỗ Thích đã giết hại cả bố lẫn con họ Đinh, cùng với tên Ngô Nhật Khánh thừa dịp nổi lên, cấu kết với giặc ngoại xâm là Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến quân xâm lăng nước Việt. Cơ sự nghiêng đổ.

I. Thắng Tống năm 980-981 vua Lê Đại Hành đọc tuyên ngôn độc lập

Theo định nghĩa thông thường thì:

- Tuyên ngôn độc lập thường chỉ xảy ra sau quá trình giành được độc lập từ một nước khác đến nắm quyền thống trị nước mình.

- Tuyên ngôn độc lập thường chỉ xảy ra khi nước nắm quyền thống trị không đủ khả năng thống trị nữa, phải trả lại cho tộc người vốn là chủ nhân của đất nước đã bị tước quyền độc lập.

Như vậy, thì nước Việt Nam ta chỉ có mấy thời kỳ mất nước cụ thể như sau: thời Bắc thuộc mất nước gần 1.000 năm; thời thuộc Minh bị mất nước hơn 10 năm; thời Pháp bị mất nước hơn 80 năm. Ngoài ba thời kỳ đó, nước Việt Nam ta luôn luôn là nước độc lập tự chủ. Riêng đời Lý Nhân Tông tuy bị giặc Tống xâm lăng, nhưng nhờ nước mạnh dân giàu, nên quân Tống đã bị Lý Thường Kiệt đánh đuổi, không xảy một ngày mất quyền độc lập. Vả lại, khoa học lịch sử đã chứng minh bài thơ Thần mà Lý Thường Kiệt đọc vốn là bài thơ có từ thời Lê Đại Hành, chỉ sửa lại vài ba chữ mà thôi.

Đại Cồ Việt vào mùa thu năm Canh Thìn (980), nhà Tống chuẩn bị xuất quân 2 đợt, chọn nhiều tướng tài như Tôn Toàn Hưng, Hầu Nhân Bảo, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn, Trần Khâm Tộ, Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, Hứa Xương Duệ do tướng Hứa Trọng Tuyên đại diện Tống triều tham dự điều quân.

Cuối năm Canh Thìn (980) đêm 30 tháng Chạp, Lê Hoàn mở trận lớn ở sông Đồ Lỗ (Lục Đầu giang), nhằm tiêu diệt đại quân Tống. Nửa đêm nghe tiếng Thần ngâm thơ:

“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc lỗ lai xâm lược ?
Bạch nhẫn phiên thành phá trúc dư!”
(1)

南 國 山 河 南 帝 居 ,
皇 天 已 定 在 天 書 。
如 何 北 虜 來 侵 略 ?
白 刃 番 城 破 竹 歟 !

Tạm dịch nghĩa:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Sách trời đã định cho quyền này.
Cớ sao giặc Bắc sang xâm lược ?
Vung gươm ta giết như chẻ tre !

Thần đây là tướng Trương Hống, Trương Hát được vua Lê lập đền thờ ở hai bên bờ sông Lục Đầu. Trận Đồ Lỗ là trận thắng ban đầu, đuổi quân Hầu Nhân Bảo ra sông Lục Giang, rồi ra sông Bạch Đằng để mở tiếp trận thứ hai, tiêu diệt đạo quân Hầu Nhân Bảo, kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống.

Bài thơ trên tưởng có sức mạnh như Thần, khiến quân Tống dẫm đạp lên nhau mà chạy. Nó có ý nghĩa như một bài Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước thời thắng ngoại xâm, kết thúc nghìn năm Bắc thuộc!

Về chiến tích trên sông Bạch Đằng, Thần tích ở trang Thường Sơn huyện Thủy Đường (nay thuộc huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng) có đoạn chép: “Thời nhà Đinh ở trang Thường Sơn có gia đình ông Phạm Hoằng và bà Nguyễn Thị Bích vì cảnh nghèo mà dựng một quán bán nước. Chỗ ông dựng quán dần dần trở thành khu chợ, gọi là Chợ Phướn vì giữa chợ thường treo lá phướn thờ Phật.

Ông Hoằng bà Bích sinh được ba trai một gái đều tài giỏi:

- Con trai đầu gọi là Phạm Quang;

- Trai thứ hai gọi là Phạm Nghiêm;

- Trai thứ ba gọi là Phạm Huấn;

- Gái út (thứ tư) gọi là Phạm Cúc Nương.

Đến năm triều Đinh suy, khắp nước đều nổi giặc, hai vua Đinh bị giết, quân Tống phối hợp với quân Chiêm ào ạt kéo sang, chiếm đóng Bạch Đằng - Hoa Bộ và nhiều nơi quan trọng. Vận nước đang suy khác nào “ngàn cân treo sợi tóc”.

Cũng may mấy tháng sau có Lê Hoàn kế vị. Ông bố trí lực lượng khắp nơi để cứu dân cứu nước. Chiến sự kéo dài, quân ta càng đánh càng thắng.

Về chiến sự ở sông Bạch Đằng, sách Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất có ghi lại mấy nét: “Bấy giờ Lê Hoàn đã nắm chắc thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ông tập trung chỉ đạo trận Bạch Đằng để tiêu diệt tên tướng khát máu của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo”(2).

Sách trên lược thuật rằng: Lê Hoàn dẫn các đạo hùng binh đóng trên các gò đất cao cạnh chợ Phướn, đặt các đồn ngự thành một hệ thống quân doanh tạm thời. Một đêm vua chiêm bao thấy Thần về bảo rằng: “Ta là thần quản xứ này, thấy đức vua vất vả vì nạn nước, ta xin giúp vua một số gạo để nuôi quân”. Vua tỉnh dậy thì thấy mấy gian kho đầy ắp gạo. (Nơi đó, về sau dân gọi là Đống Cơm). Vua Lê lập đàn tạ thần, rồi chuẩn bị chiến đấu.

Từ đó, Thường Sơn trở thành Hổ Trướng (Quân doanh) của Lê Hoàn. Và từ trận này, tướng Hầu Nhân Bảo đã phải bỏ mình trên sông Bạch Đằng, các cánh quân khác đều bị đánh tan, lủi thủi kéo về đất Tống.

Đối với cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi của vua tôi nhà Lý, Lý Thường Kiệt với kế phá tan khu dự trữ lương thực, khí giới của nhà Tống ở Ung châu đã được lịch sử đánh giá cao. Khi quân Tống tiến đánh vùng sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã phát huy mọi mưu cao mẹo giỏi để chiến thắng địch, nên quân địch phải rút lui, vua Lý Nhân Tông không một ngày phải rời bỏ ngai vàng ở kinh đô Đại Việt.

Như vậy, theo chúng tôi thì một số học giả trước đây đã lý giải có phần sai, khi đưa bài thơ Thần nói là của Lý Thường Kiệt vào chương trình sách giáo khoa để dạy cho học sinh phổ thông. Không biết đến bao giờ kết thúc được sai lầm này, để cho các em hiểu được lịch sử nước ta suốt thời Lý không một ngày bị mất quyền độc lập, và là những triều đại hùng cường của đất nước, dựng nên kinh đô Thăng Long, lập lên Quốc tử giám, nhà Thái học và biết bao danh lam thắng tích.

II. Bình ngô đại cáo: Bản tuyên ngôn độc lập kết thúc kháng chiến chống Minh (1418-1428)

Sau cuộc kháng chiến chống Minh của nhà Hồ thất bại, dân ta lại phải làm nô lệ cho nhà Minh gần 20 năm, cuộc sống biết bao tủi nhục! Họ chia đất ta làm quận huyện, bắt dân ta làm thê thiếp, thuế nhiều mà nặng, phàm người hào kiệt trong nước, ban đầu chúng giả trao chức quan, rồi đem về an trí ở phương Bắc !

Lê Lợi nhìn đời tuôn trào nước mắt, bảo mọi người rằng: “Ta sở dĩ nếm mật nằm gai, mưu toan đánh giặc không phải vì tham phú quý, mà chỉ muốn cho người ngàn năm về sau biết ta không chịu làm tôi tớ cho giặc mà thôi!”

Phép dụng binh của Lê Lợi là biết lấy nhu để chế cương, lấy yếu để chế mạnh, cho nên đánh trận hay thắng. Các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, Đông Đô đều sai văn thần Nguyễn Trãi làm thư dụ, bảo rõ điều họa phúc, cho nên thường không đánh mà họ đến xin hàng. Vua chưa từng giết bậy một người, bắt được 10 vạn binh nhà Minh đều tha hết cả.

Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh sai Hạ Thanh và Tiến sĩ Hạ Thì sang ta, lấy hết các sách vở và sự tích xưa nay. Rồi nhóm họp người mò ngọc trai, kiếm hương thơm, bắt chồn trắng, hươu trắng, voi trắng, rùa chín đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má, các loài trăn để dâng nộp.

Đến năm Giáp Thìn (1424), nhà Minh lại khai mỏ vàng mỏ bạc. Cuối năm ấy, nhà Minh lại sai Mã Kỳ đem quân lấy nhiều vàng bạc châu báu và hương liệu của ta.

Năm Bính Ngọ (1426), ngày 20 tháng 9 giặc cậy mạnh, đem quân đến đánh quân ta. Bọn Triện và Bị đặt phục binh, đánh mạnh ở Ninh Kiều, phá đuổi giặc đến thôn Nhân Mục. Trên khoảng mấy chục dặm đường, xác giặc nằm gối lên nhau. Từ đấy giặc không dám kéo ra nữa. Giặc tự liệu thế ngày càng cùng quẫn, viện binh thì mãi không đến !

Ngày 26 tháng 9 bọn Phương Chính bỏ thành Nghệ An lánh về Đông Đô, chỉ để Thái Phúc cố chết giữ thành. Bọn Phương Chính, Lý An lúng túng không thể lên bộ, liền cưỡi thuyền nhân đêm bỏ trốn.

Vua lường thế giặc, thấy chúng ngày một yếu, quân ta ngày một mạnh, cơ hội có rồi chẳng nên bỏ lỡ. Liền sai bọn Lê Lễ, Lê Văn An, Lê Thận, Lê Ngân, Lê Sát, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng ở lại vây thành Nghệ An, còn vua thân đem đại binh thủy bộ đuổi theo bọn An, Chính đến thành Tây Đô, vây đóng doanh trại, úy lạo tướng sĩ, thưởng cho các phụ lão và thanh niên trong các làng.

Tháng 10 năm ấy, nước Minh sai bọn Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham chính Mã Anh đem 5 vạn quân, 5.000 ngựa, chia đường sang cứu viện cho thành Đông Đô; còn 10.000 giặc ở Vân Nam thì đã đến trước, chúng thẳng xuống Tam Giang để phối hợp. Tháng 11 năm ấy, vua Lê thân đem đại binh cùng bọn Lê Lễ vây sát thành Đông Đô. Hai mặt thủy bộ giáp công, đang đêm vua phá được trại ngoài của giặc. Từ đó giặc cố chết giữ thành đợi viện.

Sang năm Đinh Mùi (1427) ngày 10 tháng 6, tướng giặc là Trấn Viễn hầu Liễu Thăng đem 5 vạn quân và 1.000 ngựa từ Quảng Tây sang cứu viện các thành. Sang đến nơi thì Liễu Thăng kiêu ngạo phải sớm bỏ mình trong ải Chi Lăng. Rồi Lý Khánh cũng bỏ mình, hơn vạn đầu giặc bị ta chém, 5.000 ngựa bị bắt. Các cánh quân giặc đều phủ phục xin hàng, ta cho về nước.

Từ đấy, dứt mối can qua, các tướng giặc đem quân về Bắc trả lại đất An Nam, ta khôi phục bờ cõi, trong nước yên ổn, nhân dân yên nghiệp làm ăn như cũ. Việc triều cống lại theo lễ thời Hồng Vũ, hai bên vui vẻ thông sứ qua lại.

Cuối năm ấy, vua Lê sai Dương Thái Nhất đưa thợ chữa lại đền Trần Hưng Đạo vì thần là bậc Quân sư lỗi lạc. Vua lại gọi người huyện Đường An đóng các chiến xa và thuyền chiến đón các tướng về.

Cuối năm Đinh Mùi (1427), cuộc Hội thề ở Đông Quan kết thúc, mười vạn quân Minh được tha về nước. Vương Thông phủ phục trước vua, tuôn trào nước mắt, một lúc lâu mới lên ngựa đem quân bộ ra về.

Vua đọc bài Đại cáo bình Ngô do văn thần Nguyễn Trãi soạn như sau:

“Thay Trời để giáo hóa, Hoàng đế chiếu rằng:
Việc nhân nghĩa cốt để yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nghĩ như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn minh.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên làm chủ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
...
Vừa đây họ Hồ chính sự phiền hà,
Để đến nỗi gây nhân tâm oán phản.
Giặc Minh thừa dịp làm hại dân ta,
Đảng ngụy gian ác, mưu mô bán nước.
Tát hết nước biển Đông, không rửa hết vết nhơ,
Chặt hết trúc rừng Nam, chẳng ghi hết tội ác.
Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha,
Ta phát tích Lam Sơn, nương thân nơi hoang dã.
Nghĩ thế thù khôn đội trời chung,
Thề giặc nước khó cùng chung sống.
Đau lòng nhức óc kể đã mười năm,
Nếm mật nằm gai phải đâu một buổi.
...
Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần,
Lúc Khôi huyện quân không đủ lữ.
Bởi trời muốn thử ta, mà trao trách nhiệm,
Nên ta càng cố chí, để vượt gian nan.
Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp,
Hòa rượu cùng uống, binh sĩ một dạ cha con.
Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ,
Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục.
Lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Giặc cùng đường kiệt sức, chờ chết bó tay,
Ta mưu đánh vào lòng, không chiến mà thắng.
...
Ngày mười tám Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng đổ sụp,
Ngày hai mươi Liễu Thăng đại bại, Mã Yên phơi thây.
Ngày hai lăm, Lương Minh bị hãm trận bỏ mình,
Ngày hai tám, Lý Khánh kế cùng phải thắt cổ.
Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối chịu tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói mình nộp thân.
Lạng Sơn, Lạng Giang, xác chết đầy đường,
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
Tướng giặc bị bắt, nó vẫy đuôi cầu sống,
Thần vũ không giết, ta tỏ lòng hiếu sinh.
Chúng sợ chết tham sống, thực muốn cầu hòa,
Ta cốt giữ toàn quân, để cho dân nghỉ.
Chẳng những mưu kế cực kỳ sâu xa,
Cũng tưởng xưa nay chưa từng được thấy.
Xã tắc do đó mà yên,
Non sông nhờ đó đổi mới.
Càn khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt mờ rồi lại trong.
Để mở nền thái bình muôn thuở,
Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu.
Một gươm đại định, tạo thành công nghiệp vô song.
Bốn biển lặng trong, rộng nghe Tuyên ngôn đổi mới”.

III. Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lễ đài Hà Nội đọc bản Tuyên ngôn độc lập như sau:

Hỡi đồng bào cả nước !

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn độc lập và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều.

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn....

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa...

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống Phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập.

Vì những lẽ trên chúng tôi, Chính Phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Từ bài thơ Thần, rồi Bình Ngô đại cáo và đến Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 là một chặng đường dài giữ nước hào hùng của dân tộc ta; theo chúng tôi, về tinh thần chung mà nói, đây là ba bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện ba thời kỳ, thể hiện hùng khí và sự lớn mạnh không ngừng của dân tộc ta.

T.B.C

CHÚ THÍCH:

(1) Vũ Quỳnh Kiều Phú: Lĩnh Nam chính quái. Bản dịch; Đinh Gia Khánh. Nxb. Văn hóa 1960, trang 75-77.

(2) Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Nxb. Quân đội nhân dân, H. 1992.

TB

ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN BIA LÍ - TRẦN VÀ VẤN ĐỀ NIÊN ĐẠI CỦA BIA A NẬU TỰ TAM BẢO ĐIỀN BI

ĐINH KHẮC THUÂN

Văn bia thời Lí - Trần hiện nay đã được phát hiện khá nhiều mà hầu hết vừa được sưu tập trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, công trình hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm với Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp và Trường Đại học Trung Chính Đài Loan(1). Tổng số hiện biết là 65 văn bản, trong đó có 55 văn bia (18 văn bản thời Lí và 37 văn bản thời Trần). Trong số văn bản bia này, một số bia đã không còn mà chỉ biết đến qua bản chép trong sách. Một số khác được khắc lại, do chữ trên bia mờ được khắc sâu thêm, rõ nét hơn, thậm chí dựng hẳn bia mới để khắc lại văn bia cũ, hoặc sự kiện cũ. Thực tế này đã tạo ra không ít những nghi ngờ về niên đại ra đời của văn bản, nên cũng đã ảnh hưởng không nhỏ trong một số nghiên cứu về văn bia và văn bản Hán Nôm thời Lí - Trần.

Do vậy trong bài viết này chúng tôi muốn giới thiệu những nét đặc trưng nhất về trang trí và văn bản bia thời Lí - Trần, trên cơ sở khảo sát những văn bia có niên đại đích thực, đồng thời qua đó đoán định lại niên đại còn tồn nghi về bia A Nậu tự Tam bảo điền bi.

1. Đặc trưng văn bản bia Lí - Trần

Văn bản văn bia Lí - Trần thể hiện ở nhiều mặt, song ở đây chúng tôi đề cập đến một vài khía cạnh liên quan đến đặc trưng trang trí và đặc trưng bố cục văn bản, mà qua đó cho phép nhận diện văn bản bia Lí - Trần đích thực.

Trong số 55 văn bia thời Lí - Trần hiện biết, có một số khắc trên vách đá, bệ tượng, số khác được khắc lại về sau. Do vậy, chúng tôi chỉ chọn những văn bản khắc trên bia đá, mà ở đó còn giữ được nguyên dạng ban đầu hoa văn trang trí hoặc văn bản khắc. Cụ thể là có 10 bia thời Lí và 10 bia thời Trần sẽ được khảo sát để rút ra nét đặc trưng trang trí và văn bản trên bia Lí - Trần.

a. Đặc trưng trang trí bia Lí - Trần

20 bia thời Lí – Trần này còn giữ nguyên hoa văn và bố cục trang trí ban đầu được thể hiện trên trán bia, diềm bia và chân bia qua bảng kê sau: Đề tài trang trí trên bia thời Lí - Trần.

STT Bia / năm Trang trí trên trán bia Trên diềm bên chân bia
Mặt trước Mặt sau Mặt trước Mặt sau Mặt trước Mặt sau
1 An Hoạch, 1100 ô chữ + rồng dây leo sóng nước
2 Bảo Ninh, 1107 + cúc dây +
3 Hoằng Hóa, 1090 + lá đề + rồng + cúc dây + sóng nước
4 Sùng Nghiêm, 1118 + + +
5 Sùng Thiện, 1121 + lá đề + rồng rồng rồng + +
6 Cổ Việt, 1159 ô chữ + phượng ô chữ + rồng cúc dây cúc dây + +
7 Đại Chu Ma, 1116 bông sen
8 Báo Ân, 1210 ô chữ + phượng +
9 Chúc Thánh, 1214 + + +
10 Chân Giáo? ô chữ + rồng + +
11 Thiệu Long, 1226 ô chữ + phượng ô chữ + phượng + + + +
12 Hưng Phúc, 1324 ô chữ + rồng ô chữ + rồng dây leo dây leo + +
13 Đại Bi, 1327 + +
14 Diên Phúc, 1328 + cúc dây +
15 Sùng Thiên, 1338 + hoa sen cúc dây rồng
16 Ngô Thị, 1335 + + +
17 Sơn Am, 1350 + + +
18 Thanh Mai, 1362 + dây leo +
19 Sùng Khánh, 1367 Phật + rồng + +
20 Sùng Nghiêm, 1372 ô chữ + rồng + +

Từ bảng trên, cho phép có một số nhận xét về trang trí trên bia thời Lí và thời Trần như sau:

Trang trí trên trán bia chủ yếu là đề tài Ô chữ + rồng (thời Lí là 6/10, thời Trần là 8/10), ngoài ra là đề tài Ô chữ + phượng (thời Lí có 3/10, nhưng thời Trần chỉ có 1/10). Đề tài Lá đề + rồng xuất hiện trên bia thời Lí 2/10, đề tài chữ Phật + rồng và đề tài bông sen cũng được trang trí trên trán bia thời Lí, Trần. Trang trí trên diềm bia, chủ yếu là đề tài hoa cúc (thời Lí 7/9, thời Trần 5/10), số khác là hoa văn dây leo (thời Lí 1/10, thời Trần là 5/10). Đôi khi cũng được trang trí bằng các hình rồng xoắn xít với nhau thường được gọi là "rồng ổ". Đề tài trang trí dưới chân bia chủ yếu là hình sóng nước (8/8, chiếm 100% cho cả bia Lí và bia Trần).

Có thể nói đề tài trang trí trên trán bia thời Lí và thời Trần chủ yếu là tên bia khắc ở giữa trán bia tạo thành ô chữ mà chữ triện là phổ biến, số ít khác là chữ chân. Ô chữ ở giữa đôi khi thay bằng một chữ Phật, thậm chí bằng bức chạm tượng Phật như trên trán bia chùa Sùng Khánh (Hà Giang) khắc năm 1368. Hai bên là hai chim phượng hoặc hình rồng. Đề tài phượng xuất hiện nhiều ở cuối thời Lí, tiếp tục được duy trì ở giai đoạn đầu nhà Trần. Trong đó tiêu biểu là bia chùa Thiệu Long (Hà Tây) dựng năm Kiến Trung thứ nhất (1226), năm đầu tiên của nhà Trần, với phong cách hoàn toàn như bia chùa Diên Phúc năm 1158 hoặc bia chùa Chúc Thánh Báo Ân dựng vào cuối thế kỉ XII thời Lí. Song xu hướng hoa văn trang trí trên bia chùa Thiệu Long có phần giản lược hơn.

Bên cạnh đề tài phượng là đề tài rồng, vốn đã xuất hiện nhiều từ giai đoạn đầu thời Lí, sau trở nên phổ biến từ thời Trần. Tuy nhiên đề tài Rồng chầu mặt nguyệt (Lưỡng long triều nguyệt) xuất hiện phổ biến trên bia từ thời Lê - Mạc, lại chưa gặp trong số đề tài trang trí trên trán bia thời Lí - Trần. Thực tế đề tài này ở thời Lí - Trần là dạng Rồng chầu lá đề, loại đề tài trang trí không chỉ gặp trên bia mà còn gặp nhiều trên trang trí bệ tháp, bệ tượng như bệ tháp Long Đọi (Hà Nam), Chương Sơn (Hải Phòng), bệ tượng Phật Tích (Bắc Ninh) thời Lí... Chính các Lá đề này về sau được thay bằng hạt ngọc hoặc vầng lửa, để trở thành đề tài "rồng tranh châu", hoặc "rồng chầu mặt nguyệt", đề tài phổ biến trên bia từ thế kỉ XV trở đi.

Đề tài Lá đề, cánh sen, hay chữ Phật, các biểu trưng cho Phật giáo, cũng thường được sử dụng trang trí trên bia thời Lí - Trần, loại đề tài này được tái dùng trên trang trí bia thời Mạc thế kỉ XVI, khi Phật giáo được hưng thịnh lại.

Đề tài trang trí trên diềm bia thời Lí - Trần phổ biến là hoa cúc, một biểu trưng của Phật Pháp, thường được chạm nổi nhẹ, nghĩa là nét chạm không quá sâu, nhưng cũng không quá nông. Các cánh hoa cúc uốn lượn đối xứng hai bên tạo thành thể uốn lượn hình sin. Loại hoa văn này dần dần được thay thế bởi hoa văn hoa dây, gồm một dây leo uốn lượn hình sin, hai bên trổ ra những cánh hoa hoặc lá. Cũng hoa dây uốn lượn này trên bia thế kỉ XVII, XVIII có thêm nhiều họa tiết trang trí khác khá phong phú như hoa lá, chim, thú... là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian, gắn liền với sự hưng thịnh của kiến trúc đình làng.

Trong số 20 văn bia Lí - Trần trong bảng trên, có bia ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa vừa mới được phát hiện. Niên đại trên bia ghi là năm Canh Ngọ, niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090). Bia hai mặt, trên trán bia mặt trước khắc ô chữ triện ở giữa, mặt sau chạm hai rồng chầu ở giữa có hình lá đề, xung quanh có đường diềm hoa cúc và diềm chân bia là hoa văn sóng nước. Hai rồng trên bia này hơi lạ, bởi thân rồng không uốn lượn nhiều khúc như mọi hình rồng thời Lí khác mà to mập như hình thú; phần đuôi lại uốn nhiều khúc, giống hình rồng trên bia Đại Bi Diên Phúc tự khắc năm Khai Thái 4 (1327) thời Trần. Bia này còn giữ được các mô típ trang trí như ở các bia thời Lí khác, song phong cách thể hiện thì lại tương tự bia cuối thời Trần. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.

b. Bố cục văn bia Lí - Trần

Trong bố cục văn bia Lí - Trần, nổi bật nhất là tên bia và bố cục bài văn bia.

+ Trước hết về tên bia

Hầu hết tên bia thời Lí - Trần đều được viết ở giữa trán bia trong khuôn khổ một ô vuông hoặc hình chữ nhật mà hai bên là rồng hoặc phượng chầu như vừa trình bày ở trên. Giữa trán bia và thân bia hầu như không có ô ngăn cách như thường gặp trên bia từ thời Lê thế kỉ XV trở đi. Hãn hữu có một hai trường hợp có ô ngăn cách, song nếu ở bia từ thời Lê trở đi thì ô ngăn cách này thường được khắc tên bia nằm ngang từ phải qua trái, còn ở đây được trang trí hoa văn như ở diềm bên. Chẳng hạn trên bia Sùng Thiện Diên Linh năm 1121 chạm một băng hoa văn rồng tương tự trên diềm bên của chính bia này; còn trên bia Cổ Việt năm 1167 và bia Thiệu Long năm 1226 thì đều được chạm một băng hoa cúc như hoa cúc trên diềm các bia đó.

Tên bia thường được viết chữ triện theo cột dọc từ phải qua trái, song có trường hợp lại lấy cột giữa trung tâm làm chính, nghĩa là đọc từ cột dọc ở giữa trước rồi qua cột bên phải và cuối cùng là cột bên trái. Đó là trường hợp tên bia chùa Sùng Nghiêm năm 1118 có 9 chữ đại tự được chia làm 3 cột: cột giữa khắc Vân Lỗi sơn, cột bên phải khắc Sùng Nghiêm tự và cột bên trái khắc Đại Bi nham. Trường hợp tên bia chùa Sùng Thiên thời Trần có 4 chữ Sùng Thiên tự bi thì được khắc thành một cột từ trên xuống dưới ở giữa trán bia, vì thế các chữ này bị ép lại, nên chiều cao chữ bị thu hẹp, trong khi đó bề ngang chữ mở rộng thêm ra hai bên. Những tên bia được khắc thành một hàng ngang từ phải qua trái ở giữa trán bia, hoặc những bia có tên bia khắc trên ô ngăn cách giữa trán bia và thân bia đều là bia làm lại về sau, đã làm khác bố cục ban đầu của văn bia thời Lí - Trần. Chẳng hạn như bia Khai Nghiêm bi kí, Vĩnh Báo tự bi,... đều bị bào nhẵn bia cũ đi mà khắc một hàng chữ nhỏ, lối chữ chân, nằm ngang từ phải qua trái ở giữa trán bia. Đây rõ ràng không phải là bố cục tên bia nguyên gốc thời Lí - Trần mà do đời sau đã làm khác đi hoàn toàn.

+ Bố cục bài văn bia

Văn bia thời Lí - Trần có bố cục mang nét riêng biệt so với bia từ thời Lê thế kỉ XV trở đi. Khảo sát 10 văn bia thời Lí và đối chiếu với các văn bia thời Trần, cho thấy bố cục thường thấy thể hiện trên bia Lí theo trình tự như sau:

Người dựng bia - lời tựa - bài minh - người soạn, người viết chữ triện, chữ chân - niên đại.

Người dựng bia được ghi rất trang trọng ở phần đầu bài văn bia. Những người dựng bia này hầu hết là người có thế lực như người dựng bia chùa Bảo Ninh (Tuyên Quang) là vị Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự tri Vị Long châu sự, một vị quan đầu triều được giao trọng trách trấn trị cả khu biên cương này cho dựng bia; người dựng bia Cổ Việt và bia Thái úy Lí công là Đỗ Anh Vũ, tước Việt Quốc công, và người dựng bia chùa Ngưỡng Sơn là Thái úy Lí Thường Kiệt quan đầu triều nhà Lí... Thực tế cho thấy những bia này rất hoành tráng, được chạm khắc công phu, ghi về sự kiện trọng đại như dựng chùa lớn, về nhân vật danh tiếng trong triều, lại đòi hỏi chi phí lớn, nên thường là người có tiền của và vị thế đứng ra dựng bia. Trái lại, người dựng bia thường rất ít gặp trên bia từ thời Lê trở về sau, nếu có thì ghi ở cuối văn bia.

Bài minh trên văn bia thời Lí thường rất dài, nhiều bài có tới 64 câu, số câu này giảm dần ở các bài minh trên văn bia thời Trần. Người soạn văn bia thời Lí thường là các nhà sư có tiếng, trong khi đó người soạn văn bia thời Trần chủ yếu các vị Nho học giữ chức văn quan trong triều. Đặc biệt là người soạn văn bia thời Lí đôi khi được để ở ngay đầu bài văn bia. Người viết chữ triện cũng rất được chú trọng, bởi hầu hết bia nào cũng có đại tự bằng chữ triện mà phần lớn được người tài danh đề tặng, thậm chí được vua đích thân ngự ban. Do đó đôi khi người viết chữ triện cũng được ghi ở đầu bài văn bia. Niên đại trên bia thời Lí không hoàn toàn lúc nào cũng được ghi, nên có không ít văn bia thời Lí không có niên đại. Đặc điểm này cũng gặp trên một số văn bia thời Trần ở giai đoạn đầu như trên bia Thiệu Long năm 1226.

Bố cục trên bia Lý cũng gặp tương tự trên bia thời Trần. Song lẽ người dựng bia đã ít được chú trọng và khắc lên bia, tác giả soạn văn bia cũng ít khi để ở đầu văn bia mà để chung trong lạc khoản cuối bia, gồm: niên đại dựng bia, người soạn và người viết, người khắc nếu có. Bố cục chính của văn bia thời Trần giản lược hơn, nhưng khá định hình, gồm:

Bài tựa - bài minh - niên đại - người soạn văn bia.

Niên đại bia và người soạn văn bia được ghi đầy đủ hơn và hoàn toàn để cùng phía sau bài văn bia.

Những đặc trưng về hoa văn trang trí, tên bia và bố cục văn bản nêu trên, góp phần nhìn nhận lại thực trạng niên đại và văn bản một số văn bia thời Lí - Trần hiện còn tồn nghi về niên đại và văn bản.

2. Niên đại bia A Nậu tự Tam bảo điền bi

Xem xét các văn bia công bố trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, thời Lí - Trần, tập 1 và tập 2, cùng một số văn bia mới phát hiện, thấy không ít văn bản cần được phân tích xem xét lại niên đại và văn bản(2) mà trước hết trong phạm vi bài viết này chúng tôi muốn nói đến bia A Nậu tự Tam bảo điền bi, để chứng minh cho các điều phân tích kỹ ở trên.

Bia A Nậu tự Tam bảo điền bi (bia số 3 trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 2a, tr.39) được giới thiệu với nội dung chính sau đây:

"... Tấm bia ruộng Tam bảo chùa A Nậu này có trong nội tự. Bia được tạo vào năm Thiệu Long Mậu Ngọ(3) (1258) đời vua Trần Thái Tông... Nội dung: Nguyên xã Đới Nhân, huyện Gia Viễn, phủ Trường An có ngôi danh lam cổ tích là "A Nậu tự" do vua Thái Tông (1225-1258) triều Trần khai sáng và lưu cấp ruộng để phụng thờ Phật Pháp Tăng. Bia còn kê rõ diện tích và vị trí số ruộng này".

Thực tế bia này có đúng là bia thời Trần và được dựng vào năm 1258 như giới thiệu của sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam hay không?

Xem xét các tiêu chí về trang trí trên trán bia, diềm bia, chân bia và bố cục bài văn bia này, rõ ràng là chúng hoàn toàn không có các đặc trưng của bia thời Trần như đã phân tích ở trên.

Bia A Nậu tự Tam bảo điền bi có trán bia chạm mặt trời ở giữa và hai rồng chầu hai bên, loại đề tài chưa có trên trán bia thời Lí - Trần mà chỉ được sử dụng phổ biến trên bia từ thời Lê thế kỉ XV trở đi. Rồng thân dài, uốn lượn nhiều khúc, nhưng không có dạng "thắt túi" kiểu thân rồng thời Lý và cũng không mập như thân rồng Trần, trái lại thân rồng có nhiều đặc trưng thời Mạc thế kỉ XVI: thân dài, mềm mại gần dạng "yên ngựa". Diềm xung quanh chạm hoa văn dây leo dạng tay mướp và diềm chân bia được trang trí các cánh sen - loại hoa văn phổ biến trên bia thời Mạc thế kỉ XVI. Tên bia được khắc chìm theo hàng ngang từ phải qua trái trên dải băng giữa trán bia và thân bia. Bố cục và trang trí như vậy hoàn toàn không phải là mô típ của bia thời Trần mà có nhiều nét phù hợp với đặc trưng bia thời Mạc.

Trong văn bản có dòng địa danh là "Trường Yên phủ Gia Viễn huyện Đái Nhân xã", hoàn toàn không phải là đơn vị hành chính thời Trần mà mới có từ thời Lê thế kỉ XV trở đi. Hơn nữa, trong bia viết: "Trần triều Thái Tông hoàng đế", cho thấy bia phải dựng sau khi Trần Thái Tông mất. Thái Tông nhường ngôi năm 1258, đến năm 1277 mới mất. Toàn thư chép: "Mùa đông tháng 10 ngày mồng 4, táng Thượng hoàng ở Chiêu Lăng, miếu hiệu là Thái Tông".

Dòng niên đại của bia được ghi ở cột dọc cuối văn bản, nguyên văn như sau: Mậu Ngọ niên Hưng Long Tam bảo nhị nguyệt sơ bát nhật 戊 午 年 興 隆 三 寶 二 月 初 八 日 。

Chữ "nguyệt" ở đây không khắc theo lối chữ húy như thường gặp các trên bia thời Trần. Hơn nữa, cách ghi niên đại này hầu như chưa gặp trên các văn bia khác. Bởi nếu có năm can chi thì thường được ghi ở sau niên hiệu vua như "Hưng Long tam niên tuế thứ Mậu Ngọ niên...", chứ không phải ghi ở phía trước niên hiệu vua như ở bia này. Mặt khác, ở đây ghi rõ là "Hưng Long tam bảo" chứ không phải là "Hưng Long tam niên", nên Hưng Long không phải là tên niên hiệu vua mà có thể là tên chùa. Chùa này đã có tên là A Nậu, nhưng chùa ở chân núi, núi có động Hưng Long, nên tên động cũng có thể được gọi cho tên chùa. Do vậy không phải do lẫm lẫn từ Hưng Long thành Thiệu Long như Văn khắc Hán Nôm Việt Nam thời Trần đã suy luận. Dòng chữ này phải được hiểu "Hưng Long Tam bảo" là "Tam bảo chùa Hưng Long". Còn dòng niên đại của văn bia này chỉ còn lại những chữ sau "Mậu Ngọ niên nhị nguyệt bát nhật" (Ngày 8 tháng 2 năm Mậu Ngọ).

Trong khoảng niên hiệu Hưng Long (1293-1314) đời Trần Anh Tông không có năm Mậu Ngọ, nhưng có phải là năm 1258 thuộc niên hiệu Thiệu Long (1258-1272) như Văn khắc Hán Nôm thời Trần đã xác định? Có lẽ vì trong văn bia có dòng chữ ghi về chùa A Nậu này do Trần triều Thái Tông Hoàng đế ngự chế khai sáng và lưu ruộng Tam bảo, nên đã suy luận năm Mậu Ngọ thuộc về niên hiệu Thiệu Long đời Trần Thái Tông. Thực tế niên hiệu Thiệu Long (1258-1272) không phải niên hiệu của vua Trần Thái Tông (1225-1258) mà của Trần Thánh Tông (1258-1278). Nhưng Trần Thánh Tông lại không liên quan gì đến ngôi chùa này.

Vì thế năm Mậu Ngọ ở đây là năm dựng bia này không thuộc vào thời Trần mà có thể thuộc vào thời Mạc, năm 1558. Do đó bia này không thể xếp vào bia thời Trần được, mà thực tế chỉ là bia thời sau (có thể là thời Mạc) ghi lại sự kiện vua Trần khai sáng ngôi chùa và cấp ruộng Tam bảo.

Tóm lại sưu tập văn bia thời Lí - Trần là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá và phong phú về thời Lí - Trần. Đây là sự cố gắng lớn của nhiều thế hệ để đến nay có được một sưu tập khá đầy đủ như vậy. Tuy nhiên vấn đề niên đại và văn bản cần được lưu tâm khi sử dụng. Bài viết này đặt ra một vài gợi ý bước đầu, hy vọng sẽ được tiếp tục đi sâu, nhất là từng văn bản cụ thể để rút ra những nét đặc trưng của văn bia thời Lí - Trần, cũng như thông tin đích thực về lịch sử, văn hóa tín ngưỡng ở giai đoạn này.

Đ.K.T

CHÚ THÍCH :

(1) Văn khắc Hán Nôm Việt Nam: Tập 1 - Từ Bắc thuộc đến thời Lí, Ecole FranVaise d'Extrême-Orient & Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris - Hà Nội 1998, giới thiệu 27 văn bản. Tập 2, thời Trần do Đại học Trung Chính (Đài Loan) và Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, năm 2002 gồm 2 quyển Thượng, Hạ, giới thiệu 44 văn bản thời Trần.

(2) Chúng tôi sẽ trình bày vấn đề này trong một dịp khác.

(3) Chỗ này trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam có chú thích như sau: "Niên đại tạo bia ghi năm Mậu Ngọ Hưng Long là nhầm lẫn. Vì đời vua Thái Tông (1225-1258) chỉ có năm Mậu Ngọ Thiệu Long này. Có lẽ do vì ở địa phương đây có động Hưng Long, nên dẫn tới sự viết lầm Thiệu Long thành Hưng Long".

TÀI LIỆU DẪN

1. Hoàng Xuân Hãn, Lí Thường Kiệt, Lịch sử ngoại giao triều Lí, Sông Nhị, tái bản, H. 1996.

2. Mục lục văn khắc Hán Nôm, KHXH, H. 1992.

3. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Sđd...

4. Trần Huy Bá: Một tấm bia cổ gần 900 năm mới phát hiện, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử , 8/1969, tr.41-46.

5. Nguyễn Du Chi: Nghệ thuật trang trí trên các bia Tiến sĩ thời Lê ở Văn miếu Hà Nội, Tạp chí Khảo cổ học, 5-6/1970, tr.120-131.

6. Lê Đình Phụng: Tìm hiểu nghệ thuật trang trí bia đá thế kỉ XVIII, Tạp chí Khảo cổ học , 2/1987, tr.45-51.

7. Tống Trung Tín: Đặc điểm trang trí bia thời Lí - Trần, Tạp chí Hán Nôm, 1/1990, tr.58-61.

8. Lê Thị Liên, Tống Trung Tín: Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh, một tấm bia thời Lí mới dược phát hiện, Tạp chí Khảo cổ học, 1/1991, tr.7-20.

9. Đinh Khắc Thuân, Tống Trung Tín: Về tấm bia đá thời Trần ở chùa Thiệu Long, Tạp chí Khảo cổ học, 2/1991, tr. 64-77.

10. Hà Văn Tấn: In scriptions from the 14th centuries recently discovered in Vietnam, Essays in Vietnamese Past, ed. by K.W.Taylor and J.K.Whitmore, Ithaca, Cornell, 1995, tr.53-54.

Bia A Nậu tự tam bảo điền bi

TB

PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
NGỮ PHÁP CỦA THIỀN UYỂN TẬP ANH

PHẠM VĂN KHOÁI

1. “Thiền uyển tập anh” là tác phẩm Hán văn thuộc bộ phận văn học ngữ lục Phật giáo. Các nhà nghiên cứu thường nhắc đến ghi chép về Thiền uyển tập anh của Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử: “Thiền uyển tập anh, một quyển, người đời Trần soạn, ghi tông phái Thiền học và sự tích các nhà sư nổi tiếng ở nước ta từ đời Đường, Tống, trải đến các đời Đinh, Lê, Lý, Trần” như là một trong những cơ sở cho việc xác định niên đại ra đời của nó. Trong bài viết này, chúng tôi phân tích một số đặc trưng ngữ pháp của Thiền uyển tập anh, qua đó có thể đi đến kết luận ngôn ngữ viết trong Thiền uyển tập anh rất giống với ngôn ngữ viết của ngữ lục thời Đường - Tống, làm rõ thêm nhận định của nhà sử học Lê Quý Đôn.

2. Đặc trưng ngôn ngữ ngữ lục Đường - Tống là ở chỗ: đó là ngôn ngữ viết của tiếng Hán trực tiếp dựa trên khẩu ngữ tiếng Hán đương thời. Nói đến đặc trưng ngữ pháp của ngữ lục Đường – Tống (ngữ lục bạch thoại sớm) người ta hay nhắc đến một số điểm sau:

* Với danh từ: có tiền tố 阿 (a), hậu tố 子 (tử), hậu tố 頭 (đầu), tiền tố 老 (lão), hậu tố 儿 (nhi) làm nhiệm vụ dạng thức ngữ pháp, và nhiều hiện tượng khác.

* Với động từ: có tiết tố biểu thị thể thời: 著 (trước) [biểu thị ý nghĩa hành động đang tiếp diễn]; 了 (liễu) [biểu thị ý nghĩa hoàn thành]; 卻 ( khước) [biểu thị ý nghĩa hoàn thành]; 過 (quá) [biểu thị quá khứ]...

* Với hình dung từ: xuất hiện hiện tượng song tiết hóa các hình dung từ.

* Với đại từ nhân xưng: bên cạnh việc dùng phổ biến 2 đại từ 我 (ngã) và 吾 (ngô) thông dụng, lại xuất hiện một số đại từ nhân xưng cũng như tiếp tố chỉ số nhiều riêng cho giai đoạn này như: 某 甲 (mỗ giáp), (cừ), (y), (ta).. .

* Với đại từ nghi vấn: xuất hiện một số đại từ nghi vấn mới như: 那 (ná) [hay dùng với 得 (đắc) làm trạng ngữ]; 底 (để) [dùng như nghi vấn từ 何 (hà) ], và một số từ dùng để hỏi khác.

* Với số từ: xuất hiện và phổ biến cách dùng: số từ - lượng từ - danh từ.

* Với lượng từ: xuất hiện cách dùng của động lượng từ. Đây là một hiện tượng mới trong ngữ pháp tiếng Hán giai đoạn này.

* Với các dạng ngữ pháp như dạng bị động: xuất hiện nhiều kết cấu ngữ pháp mới biểu thị các dạng thức bị động như: 蒙 (mông) , 遇 ( ngộ), (tao), (bị)... [(Vương Truyện Đức, Hán ngữ sử, 1996), I.T.Zograph, 1979]

...

3. Xét vào Thiền uyển tập anh, ta thấy:

3.1. Đại từ nhân xưng

Bên cạnh những đại từ như: 吾 (ngô); (ngã); (nhữ); (kỳ); (chi), trong Thiền uyển tập anh còn có những đại từ nhân xưng không có trong văn ngôn. Đó là đại từ 某 甲 (mỗ giáp); (cừ)

3.1.1. 某 甲 - Mỗ giáp, là lời tự xưng của học trò trước thầy. Nó có thể làm chủ ngữ, tân ngữ.

3.1.1.1. 某 甲 làm chủ ngữ

- “今 大 德 每 謂 即 心 即 佛 , 某 甲 未 明”. (Tiểu truyện Thiền sư Thiện Hội). Kim Đại đức mỗi vị: tức tâm tức Phật, mỗ giáp vị minh. - Nay Đại đức cứ hay nói: “Tâm tức Phật, Phật tức tâm”, đệ tử chưa rõ.”

- “師 於 言 下 應 云: 某 甲 會 也” 。

(Thiền sư Thiện Hội). Sư ư ngôn hạ ứng vân: Mỗ giáp hội dã. Sư nghe thấy thế đáp rằng: “Đệ tử hiểu rồi”.”

- “師 云: 某 甲 領 也” 。(Thiền sư Thiện Hội). Sư vân: Mỗ giáp lĩnh dã. - Sư đáp: “Đệ tử lĩnh hội rồi”.”

- “師 忽 然 惶 悟 , 更 禮 拜 云: 某 甲 錯 會 了”. (Thiền sư Thần Nghi). Sư hốt nhiên hoảng ngộ, cánh lễ bái vân: Mỗ giáp thố hội liễu. - Sư bỗng nhiên ngộ ra, lại sụp lạy xuống nói: “Trò hiểu sai rồi”.”

- “某 甲 事 和 尚 有 年 矣 , 不 知 首 傳 此 道 者 誰 歟”. (Thiền sư Thần Nghi). Mỗ giáp sự hòa thượng hữu niên hĩ, bất tri thủ truyền thử đạo giả thùy dư! - Trò thờ hòa thượng đã lâu năm, không biết ai là người đầu tiên truyền đạo này !”

- “師 云: 是 是 , 某 甲 自 昧 也”。

(Thiền sư Thanh Biện). Sư vân: Thị thị, mỗ giáp tự muội dã. - Sư nói: “Vâng, vâng, con mê muội đấy”.”

- 師 豁 然 省 悟 , 禮 拜 會 云: 汝 見 甚 麼 道 理?

- 師 云: 某 甲 領 也 會 云: 汝 作 麼 生. (Thiền sư Vân Phong). Sư khoát nhiên tỉnh ngộ, lễ bái. Hội vân: Nhữ kiến thậm ma đạo lý? Sư vân: Mỗ giáp linh dã. Hội vân: Nhữ tác ma sinh? - Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, lạy tạ. Hội nói: “Ngươi thấy đạo lý gì ?” Sư nói: “Con đã hiểu rồi!”. Hội hỏi: “Người hiểu thế nào?”.

3.1.1.2 某 甲 làm tân ngữ

- 和 尚 莫 尃 弄 某 甲 , 豈 無 佛 說 耶? (Quảng Nghiêm thiền sư). Hòa thượng mạc chuyên lộng mỗ giáp, khởi vô Phật thuyết da ? - (Xin) hòa thượng đừng nhạo đệ tử nữa, há không có lời Phật hay sao?”

- “師 云 某 正 恁 麼 時 , 不 見 有 這 物 , 亦 不 見 有 某 甲 身 , 亦 不 知 有 剎 生 報 , 故 如 是 作 也”. (Thiền sư Tức Lự). Sư vân: Mỗ chính nhậm ma thời, bất kiến hữu giá vật, diệc bất kiến hữu mỗ giáp thân, diệc bất tri hữu sát sinh báo, cố như thị tác dã. - Sư nói: “Con lúc ấy không thấy vật, cũng không thấy thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sinh cho nên con mới làm như thế”.

3.1.2. 渠 ( cừ - đại từ nhân xưng ngôi thứ ba - ) tuy xuất hiện chỉ có một lần nhưng sự có mặt của nó cũng biểu hiện sự đa dạng trong hệ thống đại từ nhân xưng ở ngữ lục Thiền tông nói chung. Trường hợp dùng 渠 đó là ở tiểu truyện Thiền sư Chân Không (1046-1100).

- “又 問: 雖 然 無 辨 的 , 處 處 得 逢 渠. 那 個 是 渠? Hựu vấn: Tuy nhiên vô biện đích, xứ xứ đắc phùng cừ. Ná cá thị cừ ? - Lại nói: Dẫu không phân biệt đúng, nơi nơi vẫn gặp nó. Cái gì là nó?”

Qua sự trình bày ở trên ta thấy, ngôi thứ nhất, ngoài hệ thống đại từ nhân xưng vốn dùng chung với văn ngôn như 吾, 我, ở đây lại còn dùng những đại từ nhân xưng như 某 (mỗ); 某 甲 (mỗ giáp); ngôi thứ ba còn có 渠 (cừ). Điều này đã nói lên sự khác biệt của ngôn ngữ ngữ lục Thiền tông so với văn ngôn. Theo Cao Danh Khải, A. Maspero, I.T.Zograph..., ở ngữ lục Đường - Tống phổ biến dùng các đại từ nhân xưng sau: 我, 吾, 某 甲, 某 家. Hiện tượng dùng 某, 某 甲 biểu hiện sự gần gũi của Thiền uyển tập anh với ngữ lục Đường - Tống.

3.2. Hệ thống những từ được dùng để hỏi (nghi vấn từ) trong Thiền uyển tập anh

Khi xem xét hệ thống từ nghi vấn, người ta hay chia ra các từ nghi vấn dùng để hỏi về người, hỏi về vật, hỏi về hành động... Dưới đây, chúng ta sẽ đi vào cụ thể.

3.2.1. Từ hỏi về vật

Từ dùng để hỏi rất phong phú như: 麼 ( ma - gì? nào?); 恁 麼 (nhiệm ma?); 甚 麼 (thậm ma - như thế nào?); 什 麼 (thập ma - cái gì?); 那 ( - gì)... Chúng có thể làm các chức năng ngữ pháp như chủ ngữ, tân ngữ... Hiện tượng này xuất hiện khá nhiều trong Thiền uyển tập anh. Ta biết rằng vốn xuất hiện ở thời Đường; 恁 (nhiệm), 恁 地, 恁 的 xuất hiện ở thời Tống được dùng như những đại từ chỉ thị mang tính của vị từ. 什 麼 vốn là đại từ nghi vấn xuất hiện ở thời Đường và có thể được viết là 甚 麼? 甚 末? 甚? Vậy đây là bằng chứng cho sự gắn bó của ngữ lục trong Thiền uyển tập anh với bạch thoại sớm.

3.2.1.1. Làm chủ ngữ: (từ để hỏi)

- “恁 麼 即 空 來 何 益? Nhậm ma tức không lai hà ích? - Thế nào là “uổng công đến mà chẳng có ích gì? ”

- “為 什 麼 如 此? Vi thập ma như thử? - Sao lại như thế? ”

- “恁 麼 即 勞 而 無 功? Nhậm ma tức lao nhi vô công? - Thế nào là “vất vả mà chẳng có công? ”

- “恁 麼 即 隨 流 始 獲 妙 理? Nhậm ma tức tùy lưu thủy hoạch diệu lý? - Thế nào là “theo dòng mới được diệu lý? ”

3.2.1.2. Làm tân ngữ

- “汝 作 麼 生? (Thiền sư Vân Phong). Nhữ tác ma sinh? - Ngươi hiểu thế nào?”

- “師 云: 如 是 則 此 心 是 那 個 , 不 是 佛 者 為 麼? (Thiền sư Thiện Hội). Sư vân: Như thị tắc thử tâm thị cá, bất thị Phật giả vi ma? - Sư nói: Như thế thì tâm này là cái gì, không phải là tâm Phật thì là cái gì?”

- “汝 薿 那 個 不 是 佛 指 出 看! (Thiền sư Thiện Hội). Nhữ nghi cá bất thị Phật chỉ xuất khán ! - Ngươi nghi cái ấy không phải là Phật thì chỉ cho xem!”

3.2.1.3. Làm định ngữ

- “此 心 是 那 個 佛 (Thiền sư Thiện Hội). Thử tâm thị cá Phật? - Tâm này là Phật nào?”

- “即 心 即 佛 , 那 個 是 佛? (Thiền sư Thiện Hội). Tức tâm tức Phật, cá thị Phật? - Tức tâm tức Phật, cái gì (nào) là Phật?”

- “寂 子 , 那 邊 有 甚 麼? (Thiền sư Thiện Hội). Tịch tử, biên hữu thậm ma ? - Tịch con, bên kia có cái gì ?”

3.3. Một số tiêu chí cho phạm trù động từ

Phạm trù động từ cũng thuộc vào những vấn đề làm cho ngôn ngữ của văn bản Thiền uyển tập anh gần gũi với bạch thoại thời Đường - Tống. Những tiêu chí cho sự gần gũi đó tập trung ở một số điểm sau:

+ Hiện tượng có bổ ngữ chỉ xu hướng 來 (lai).

+ Hiện tượng có trợ từ kết cấu 底 (để) và 的 (đích).

+ Hiện tượng có động từ 了 (liễu) trên đường hư hóa để trở thành một tiếp tố biểu thị thể hoàn thành.

Dưới đây, chúng ta lần lượt đi vào các vấn đề đó.

3.3.1. Hiện tượng có bổ ngữ chỉ xu hướng 來 (lai), một hiện tượng giống ngữ pháp tiếng Hán hiện đại.

- “覺 來 山 竹 映 柴 屝 (Thiền sư Vân Phong). Giác lai sơn trúc ánh sài phi . - Tỉnh ra, trúc núi ánh cửa sài.”

- “生 死 到 來 , 如 何 迴 避? (Thiền sư Vân Phong). Sinh tử đáo lai, như hà hồi tịch? - Sống chết đến rồi, làm sao tránh được?”

- “喜 君 來 自 達 (Thiền sư Vân Phong). Hỉ quân lai tự đạt . - Mừng ông tự thấu đạt tới.”

(lai) với tư cách là bổ ngữ chỉ xu hướng, nhưng ý nghĩa thực từ 來 (lại) vẫn còn.

(lai) vừa là bổ ngữ chỉ xu hướng đơn, vừa là bổ ngữ chỉ xu hướng kép.

(lai) với tư cách là bổ ngữ chỉ xu hướng đơn:

- “寂 子 , 為 我 將 床 子 來 (Thiền sư Vô Ngôn Thông). Tịch tử, vị ngã tương sàng tử lai! - Tịch con, đem chiếc giường lại cho ta!”

- “仰 將 床 子 到 (Thiền sư Vô Ngôn Thông). Ngưỡng tương sàng tử đáo. - Ngưỡng đem chiếc giường đến.”

- “一 切 眾 生 , 從 何 而 來 , 百 年 之 後 , 從 何 而 去? (Thiền sư Viên Chiếu). Nhất thiết chúng sinh, tòng hà nhi lai, bách niên chi hậu, tòng hà nhi khứ? - Hết thảy chúng sinh, từ đâu mà lại? Sau cuộc trăm năm, từ đâu mà mất?”

- “客 云: 持 來 多 妙 時? (Thiền sư Thanh Biện). Khách vân: Trì lai đa thiểu thời? - Khách nói: “Trụ trì đã lâu chưa?”

來 trong câu dưới đây vẫn còn nguyên ý nghĩa thực từ và là động từ ở trong câu:

- “角 響 隨 風 穿 竹 到 ,
山 岩 帶 月 過 墻 來 。

(Thiền sư Viên Chiếu). Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo. Sơn nham đái nguyệt quá tường lai. - Tiếng tù theo gió xuyên qua trúc đến. Núi cao, trăng sáng vượt đường sang.”

Đôi chỗ, 到 và 來 còn kết hợp với nhau thành bổ ngữ chỉ xu hướng kép như:

- “生 死 到 來 , 如 何 迴 避? (Thiền sư Vân Phong). Sinh tử đáo lai, như hà hồi tịch? - Sống chết đến rồi, làm sao tránh được?”

- “事 逐 眼 前 過 ,
老 從 頭 上 來 。

(Thiền sư Mãn Giác). Sự trục nhãn tiền quá. Lão tòng đầu thượng lai. - Việc đuổi qua trước mắt. Già từ đầu tới rồi.”

- “某 自 到 來 未 蒙 指 示 要 (Thiền sư Không Lộ). Mỗ tự đáo lai vị mông chỉ thị tâm yếu. - Trò từ khi đến chưa được thầy chỉ cho biết tâm yếu.”

3.3.2. 了 (liễu) cũng là một hiện tượng đáng chú ý. Có khi 了 (liễu) là thực từ với ý nghĩa là “hiểu”, “hiểu rõ” như:

- “了 達 事 概 (Vô Ngôn Thông thiền sư). Liễu đạt sự khái. - Hiểu được cái căn bản.”

- “汝 了 也 未? (Định Hương). Nhữ liễu dã vị? - Ngươi đã hiểu hay chưa?”

- “弟 子 了 時 還 同 不 了. (Định Hương). Đệ tử liễu, thời hoàn đồng bất liễu. - Đệ tử hiểu, có lúc lại cũng như chẳng hiểu.”

- “如 何 是 一 句 , 了 然 超 百 億? Như hà thị nhất cú, liễu nhiên siêu bách ức? - Thế nào là một câu rõ hơn hết muôn câu.”

- “惟 有 佛 教 不 計 有 無, 可 了 生 死 Duy hữu Phật giáo bất kế hữu vô khả liễu sinh tử. - Duy có Phật giáo không kể có không, có thể hiểu sinh tử rồi.”

(liễu) được dùng nhiều đến nỗi chỗ nào cũng gặp:

- 如 何 覺 了 佛 法,
佛 法 不 可 覺 了 。 (Thường Chiếu)

- 願 乘 指 的 開 方 便,
了 見 如 又 辛 苦 尋 。(Đạo Hạnh)

Nhưng có khi 了 (liễu) lại là tiêu chí chỉ thể hoàn thành. Ví dụ: liễu dưới đây:

- “師 云: 作 無 生 了. 禪 云: 即 自 了. (Quảng Nghiêm). Sư vân: Tác vô sinh liễu(1). Thiền vân: Tức tự liễu. - Sư nói: Thế là đã vô sinh rồi. Thiền đáp: Tức cũng tự mình hiểu lấy.”

3.3.3. Hiện tượng 著 (trước)

(trước) cũng là hiện tượng đáng chú ý. ở văn bản này, 著 được dùng như một động từ có ý nghĩa thực từ với ý nghĩa là “hiểu rõ, nắm được”. Ví dụ:

- “弟 子 向 來 也 是 不 著 便. (Truyện Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi). Đệ tử hướng lai dã thị bất trước tiện. - Đệ tử từ trước đến giờ cũng là chưa rõ vậy.”

- “有 空 如 水 月, 勿 著 有 空 空. (Thiền sư Đạo Hạnh). Hữu không như thủy nguyệt. Vật trước hữu không không. - “Hữu, không” trăng đáy nước. Chớ chấp vào có “không không”.”

Nhưng có khi, 著 (trước) dùng như tiếp tố biểu thị sự tiếp diễn của động từ, với ý nghĩa “mãi mãi”, “vẫn cứ”.

- “未 報 門 人 休 戀 著. (Thiền sư Đạo Hạnh). Vị báo môn nhân hưu luyến trước. - Vì (ta) báo cho học trò chớ có quyến luyến đau thương mãi.”

Cách dùng nước đôi này của 著 (trước) chỉ có thể giải thích bằng thực tế vận động của tiếng Hán, 著 vốn là thực từ, sau đó được dùng như một tiếp tố biểu thị thời hiện tại tiếp diễn của động từ. Trong Thiền uyển tập anh, tính chất này lại thể hiện càng rõ.

3.4. Tiêu chí biểu thị bị động

Các tiêu chí chỉ ý nghĩa bị động là 得 (đắc); 被 (bị); 蒙 (mông); (tao)

3.4.1. Tiêu chí 蒙 (mông)

- “盜 莫 敢 犯 (Thiền sư Trí Nhân). Đạo mạc cảm phạm, kỳ mông sư đạo, dụ nhi quy thiện giả bất khả thắng số. - Trộm chẳng dám động, người được sư dẫn dụ mà về đường lành thật nhiều không kể hết.”

- “某 自 到 來 未 蒙 指 示 心 要 (Không Lộ thiền sư). Mỗ tự đáo lai vị mông chỉ thị tâm yếu. - Trò từ khi đến chưa được thầy chỉ cho biết tâm yếu.”

3.4.2. Tiêu chí 遭 (tao)

- “祇 待 中 秋 月 , 卻 遭 雲 雨 侵. (Thiền sư Viên Chiếu). Chi đãi trung thu nguyệt. Khước tao vân vũ xâm. - Những đợi trăng tháng tám. Lại bị mây mưa trùm.”

- “忽 遭 鼠 出 寂 無 窮 - Hốt tao thử xuất tịch vô cùng.”

3.4.3. Tiêu chí 得 (đắc)

- “妙 本 虛 無 日 日 誇
和 風 吹 起 遍 沙 婆
人 人 盡 識 無 窮 樂
若 得 無 窮 始 示 家.

(Vương Hải Thiềm). Diệu bản hư vô nhật nhật khoa. Hòa phong xuy khởi biến xa bà. Nhân nhân tận thức vô vi lạc. Nhược đắc vô vi thủy thị gia. - Gốc diệu hư vô ngày ngày khoe. Gió hòa thổi đến khắp cõi bờ. Người người biết hết vô vi sướng. Nếu được “vô vi” mới là nhà.”

3.4.4. Tiêu chí 被 (bị)

- “李 仁 宗 時 常 與 通 玄 真 人 被 召 入 (Truyện Thiền sư Giác Hải). Lý Nhân Tông thời, thường dữ Thông Huyền chân nhân bị triệu nhập.”

3.4.5. Tiêu chí bị động 為 ... 所

- “師 以 照 所 授 圖 本 囑 弟 子 隱 空: 慎 勿 為 兵 火 所 壞, 則 祖 風 不 墜 矣. (Thần Nghi). Sư dĩ chiếu sở thụ đồ bản chúc đệ tử ẩn Không: thận vật vi binh hỏa sở hại, tắc tổ phong bất trụy hĩ. - Sư đem bản vẽ nhận được dặn đệ tử ẩn Không rằng: “Cẩn thận chớ để cho binh lửa phá mất, thì tổ phong không mất được”.”

- “師 後 與 人 辨 論 心 要 必 為 所 挫. (Hiện Quang). Sư hậu dữ nhân biện luận tâm yếu tất vi sở tòa. - Sư về sau với người biện luận về tâm yếu luôn bị bắt bẻ.”

Ở đây ta thấy các chữ như 遇 (ngộ); (tao) đều có ý nghĩa là “gặp”, song 遇 (ngộ) ở đây khác 遭 (tao) vì ý nghĩa của tao ngầm có ý nghĩa bị động mặc dù nó có ý nghĩa gốc là “gặp”.

* Kết cấu bị động

“佛 法 所 來, 江 東 未 被, 而 嬴 樓 又 重 創, 興 寶 剎 二 十 餘 所, 度 僧 五 百 餘 人, 譯 經 一 千 五 卷, 以 其 先 之 故 也. (Sư Thông Biện). Phật pháp sở lai, Giang Đông vị bị, nhi Luy Lâu hựu trùng sáng, hưng bảo sái nhị thập dư sở, độ tăng ngũ bách dư nhân, dịch kinh nhất thập ngũ quyển, dĩ kỳ tiên chi cố dã. - Phật giáo mới đến, Giang Đông chưa phủ, mà Luy Lâu đã mở mang, dựng tháp báu đến hơn 20 chỗ, tăng độ hơn 500 người, kinh dịch được 15 quyển, vì thế mới cho rằng đạo Phật ở đấy mở mang trước Trung Quốc là như vậy.”

3.5. Hậu tố cho danh từ

Vấn đề hậu tố cho danh từ là vấn đề chỉ có từ tiếng Hán trung cổ (Đường Tống). Trong văn bản Thiền uyển tập anh lại có một số loại từ như: 子 tử (con, chiếc), 頭 đầu.

Dưới đây là một số ví dụ cụ thể:

- “師 常 喚 云: 寂 子 為 我 將 床 子 來! (Thiền sư Vô Ngôn Thông). Sư thường hoán vân: Tịch tử vị ngã tương sàng tử lai! - Sư thường gọi bảo: “Tịch con, vì ta đem cái giường lại!”

- “祇 這 話 頭 汝 還 會 麼? (Thiền sư Thiện Hội). Chi giá thoại đầu nhữ hoàn hội ma? - Câu thoại đầu ấy ngươi đã hiểu chưa?”

Lượng từ trong Thiền uyển tập anh cũng mang đến cho nó tính bạch thoại. Lượng từ là các từ như 個 (cá - cái).

Ví dụ:

- “祇 這 個 是 甚 麼? Chi giá cá thị thậm ma? - Cái này là cái gì?”

Điều đó chứng tỏ đây là ngôn ngữ bạch thoại sớm.

4. Từ sự phân tích sơ bộ, có trọng điểm trên đây, ta có thể rút ra một số kết luận:

4.1. Thiền uyển tập anh có cơ cấu ngữ pháp gần với ngôn ngữ nói tiếng Hán được thể hiện trong ngữ lục thời Đường - Tống. Cơ cấu ngữ pháp này chỉ có thể giải thích được khi đặt nó vào tiến trình phát triển của lịch sử tiếng Hán.

4.2. Thiền uyển tập anh là tác phẩm văn học chứa đựng nhiều yếu tố của ngôn ngữ văn học bạch thoại sớm. Những yếu tố ngôn ngữ của bạch thoại sớm - bạch thoại Đường - Tống có trong tác phẩm cũng là một trong những cơ sở cho phép ta củng cố thêm kết luận về niên đại của Thiền uyển tập anh đã được Lê Quý Đôn ghi trong Lê triều thông sử.

P.V.K

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Quý Đôn - Lê triều thông sử, bản dịch. Nxb. KHXH, H. 1987.

2. Thiền uyển tập anh, bản chữ Hán. A.3144. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

3. Thiền uyển tập anh, bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga. Nxb. Văn học, H. 1990.

4. Lê Mạnh Thát - Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh. Nxb. Tp. HCM. 1999.

5. I. T. Zograph - Tiếng Hán trung đại - sự hình thành và các xu hướng phát triển. Nxb. Khoa học, M. 1979 (tiếng Nga).

6. Vương Truyện Đức, Thượng Khánh Thuyên, Hán ngữ sử, Tế Nam xuất bản xã, 1996 (tiếng Trung Quốc).

TB

TÁC GIẢ NGUYỄN HUY QUÝNH VÀ MƯỜI
BÀI THƠ HỌA THẬP CẢNH QUAN LAN SÀO

LẠI VĂN HÙNG

Nguyễn Huy Quýnh, còn có tên là Trị, hiệu Phùng Hiên và Duy Nham, biệt hiệu Dần Phong, sinh năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734), mất năm Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785). Về tác giả này, chúng tôi đã có dịp giới thiệu khá kỹ trong một tập sách khảo sát về văn nghiệp dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu(1). Dưới đây, chỉ xin nhắc lại một số nét chính.

Theo Nguyễn thị gia tàng (dòng họ Nguyễn Huy tàng bản) và Phượng Dương Nguyễn tông thế phả (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1354), Nguyễn Huy Quýnh sinh ra trong một gia tộc có truyền thống khoa hoạn. Cụ tổ là Nguyễn Uyên Hậu đỗ Ngũ kinh bác sĩ thời Hồng Đức (1470-1497). Người cha là Nguyễn Huy Tựu (1690-1750), đỗ Hương giải, làm quan đến Thượng thư. Người anh là Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), đỗ Đình nguyên Thám hoa năm Mậu Thìn (1748), cũng làm quan đến Thượng thư, đồng thời là một trong những tác gia thơ văn tiêu biểu của thế kỷ XVIII(2). Bản thân Nguyễn Huy Quýnh cũng đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772) và liên tục được bổ vào các chức vụ như: Giám sát ngự sử Sơn Nam (1773), Kiêm lý lương hướng phương Nam (1774), Đốc đồng Sơn Nam (1778), Giám khảo trường thi Thanh Hoa (1779), Trực giảng ở Quốc tử giám (1781), Hàn lâm viện đãi chế, Đốc thị đạo Quảng Thuận (1784). Nhưng nếu chỉ đỗ Tiến sĩ, làm mấy chức quan thì cũng không có gì đáng nói cho lắm. Vấn đề ở chỗ Nguyễn Huy Quýnh còn là tác giả văn học, tiếp nối được truyền thống thi thư của cha anh. Vẫn theo bản Gia tàng, Nguyễn Huy Quýnh là tác giả của: Dần Phong thi sao (4 quyển), Dần Phong văn sao (3 quyển), Quảng Thuận đạo sử tập Tây Hưng đạo sử tập. Với 7 quyển thơ văn và hai quyển sử tập như thế, trứ tác của Nguyễn Huy Quýnh có thể nói là khá nhiều. Rất tiếc, 7 quyển thơ văn hiện không còn quyển nào, quyển Tây Hưng... cũng không thấy, và chỉ còn duy nhất cuốn Quảng Thuận đạo sử tập (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1375). Như vậy, Nguyễn Huy Quýnh cũng chịu chung số phận với nhiều tác giả văn học cổ khác - về tình trạng văn bản tác phẩm. Có điều, ông còn không may hơn, ở chỗ mấy tác phẩm thơ văn then chốt, quan trọng, nơi có thể dựa vào để đánh giá tư cách tác giả của ông lại đều không còn. Xem kỹ quyển sách còn sót Quảng Thuận đạo sử tập trên đây, thấy thực ra đây là cuốn sách địa chí, có giá trị sử liệu khá tốt(3), nhưng nay nó lại không đủ căn cứ để ta nói Nguyễn Huy Quýnh là một tác gia văn học. Chính vì thế, tên ông không thấy xuất hiện trong các bộ Từ điển văn học, rồi Từ điển văn học Việt Nam... Nhưng, suốt gần một thế kỷ qua, theo quan sát của chúng tôi thì giới nghiên cứu vẫn không ngừng tìm tòi về tác giả "văn kỳ thanh" này. Đầu tiên, vào những năm 20 của thế kỷ trước, các cụ Lê Thước, Phan Sĩ Bàng khi viết Truyện cụ Nguyễn Du(4) đã công bố bản Thác lời gái phường vải, phiên âm Nôm, gồm 20 câu lục bát và coi Nguyễn Huy Quýnh là tác giả. Bài này được xem như lời đối đáp với Nguyễn Du, khi tác giả Đoạn trường tân thanh, lúc còn trẻ từng đến đất Trường Lưu làm "Du hiệp khách"(5) và sáng tác Thác lời trai phường nón. Thế là, một tác phẩm văn học của Nguyễn Huy Quýnh lần đầu tiên được công bố. Khoảng 20 năm sau, tức những năm 40, các học giả Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn khi khảo sát về "Hồng Sơn văn phái" trong mối quan hệ giữa Đoạn trường tân thanh với Hoa tiên Mai Đình mộng ký và mối quan hệ qua lại giữa hai họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Trường Lưu(6), cũng có nhắc đến Nguyễn Huy Quýnh, nhưng tác phẩm văn học thì cũng không có gì hơn ngoài bài Thác lời gái phường vải. Lại khoảng 20 năm nữa, đầu những năm 60, bài ấy được in lại ở phần cuối Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh). Đầu những năm 70, khi soạn Lược truyện các tác gia Việt Nam(7) thậm chí không thấy Trần Văn Giáp nhắc gì đến Nguyễn Huy Quýnh cả. Đến những năm 90, có hai tài liệu lại nói đến Nguyễn Huy Quýnh: Một là cuốn Phan Kính con người và sự nghiệp (Vũ Ngọc Khánh - Chương Thâu biên soạn)(8) và hai là tuyển tập Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ (Thái Kim Đỉnh sưu tập)(9). ở cuốn thứ nhất, có hai bài thơ cho là của Phan Kính: Dữ Đồng khảo Nguyễn Quýnh (Cùng quan Đồng khảo Nguyễn Quýnh) và Họa Đồng khảo Nguyễn Huy Quýnh, châu thứ thuật hoài (Họa bài thơ cảm hoài làm trong lúc đi thuyền của quan Đồng khảo là Nguyễn Huy Quýnh)(10). Chúng tôi đã ngờ đây là hai người khác nhau, một người là Nguyễn Quýnh, một người là Nguyễn Huy Quýnh. Nhưng ngay dưới bài Dữ Đồng khảo Nguyễn Quýnh có dòng ký chú: "Nguyễn Huy Quýnh, em Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, cũng người làng Lai Thạch, đỗ Tiến sĩ năm 1727"(11). Thế thì đúng là Nguyễn Huy Quýnh rồi, chỉ có điều ông đỗ Tiến sĩ năm 1772 chứ không phải 1727, và phần nguyên văn chữ Hán cuối sách(12) không thấy chép ký chú này. Không hiểu người dịch lấy ở đâu ra ký chú đó hay người chép chữ Hán đã bỏ sót ? Lại nữa, Nguyễn Huy Quýnh sinh 1734, đỗ Tiến sĩ 1772 rồi đi làm Giám khảo ở Thanh Hoa năm 1779 như đã nói, thế thì hai bài thơ trên chắc không phải là của Phan Kính, bởi Phan Kính đã mất từ "ngày 8 tháng 6 âm lịch năm Tân Tị (7-7-1761) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22"(13), tức là mất trước khi Nguyễn Huy Quýnh đi làm Giám khảo đến 18 năm, không lẽ ông lại còn Dữ... Họa... nữa? Nhưng điều ấy cũng không quan trọng gì lắm, điều chúng tôi quan tâm ở đây là rõ ràng có một tác giả nào đó đã họa thơ Nguyễn Huy Quýnh và như thế ít nhất Nguyễn Huy Quýnh cũng là tác giả của bài đề; mà rồi cũng lại thật tiếc, cuốn sách về Phan Kính không thấy chép bài đề này.

Ở cuốn thứ hai, Thái Kim Đỉnh vẫn chỉ cho in lại 20 câu lục bát của Nguyễn Huy Quýnh và lấy tiêu đề: Thác lời người con gái phường vải Tràng Lưu gửi người con trai phường nón Tiên Điền(14), nhưng nhà biên soạn cũng cho biết thêm Nguyễn Huy Quýnh còn có một "bài tựa tập thơ của Ninh Tốn" bằng chữ Hán.

Khi tìm hiểu về dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, ngoài vốn tài liệu ít ỏi như thế, chúng tôi cũng chỉ khai thác thêm được một vài trích đoạn mấy bản trần của Nguyễn Huy Quýnh còn chép rải rác trong hành trạng của ông ở Nguyễn thị gia tàng(15). Tóm lại, văn nghiệp của Nguyễn Huy Quýnh chỉ còn một bài lục bát 20 câu, một bài tựa và một số đoạn điều trần. Và một câu hỏi cứ làm chúng tôi băn khoăn là chẳng lẽ một tác giả như thế mà sự nghiệp thơ văn lại chỉ còn như thế ?

Rồi nhân duyên cũng đến. Khi tôi cố gắng tìm xem liệu ngoài khái niệm "văn phái" của dòng họ Ngô Thì quãng thế kỷ XVIII - đầu XIX, thì trước Tự lực văn đoàn trong lịch sử văn học nước ta còn có một "tuyên ngôn" nghệ thuật nào nữa không, thì nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh cho biết là có một bản kiểu như "Điều lệ văn chương" của Ngô Thì Sĩ ở tập thơ Quan Lan sào. Và thật đáng mừng, ở chính tập thơ này, tôi đã phát hiện thấy 10 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Huy Quýnh.

Tập sách của Ngô Thì Sĩ có tựa là Cố Lê Tả Thanh Oai Tiến sĩ Ngô Thời Sĩ công thi sao(16 và phần Quan Lan thi tập (tên đầy đủ là Ngô Thời Sĩ công Quan Lan thi tập) được chép từ tờ 21a đến tờ 68a. Dễ nhận thấy đây là tập sách được sao chép dưới triều Nguyễn, đệm Thì của tác giả được đổi thành Thời (vì kiêng húy) và mấy chữ "Ngô Thời Sĩ công” được đặt lên đầu tên gốc của tập thơ(17).

Ngô Thì Sĩ sinh năm 1726, đỗ Tiến sĩ năm 1766, năm sau (1767) được cử đi làm Hiến sát sứ Thanh Hoa. Chính ở thời gian này, ở địa điểm này, với bản tính của người “nghiện thơ” (tựa Anh ngôn thi tập) và "nghiện ngập cảnh sắc non nước" (tựa Quan Lan thi tập), ông đã cho dựng Quan Lan sào (Tổ xem sóng) trên núi Bàn A và đặt ra thập cảnh (mười cảnh đẹp) để thù tạc, ngâm vịnh(18). Mười cảnh gồm: Khánh Bằng liệt chướng (Núi Bằng Trình ở Đại Khánh dăng hàng), Lương Mã song phàm (Đôi cột buồm trên sông Lương, sông Mã), Thạch tượng dục hà (Voi đá tắm sông), Lĩnh quy xuất thủy (Rùa núi rẽ nước), Cổ Độ kỳ đình (Đình cờ Cổ Độ), Viễn sầm yên thụ (Cây khói non xa), Cô thôn mao xá (Lều tranh thôn vắng), Cách ngạn thiền lâm (Chùa cách bên sông), a Sơn hạ ngư ky (Làng chài dưới núi) và Giang trung mục phố (Bãi tắm trâu trong sông)(19). Mỗi cảnh Ngô Thì Sĩ lấy làm đầu đề làm thành 10 bài thơ luật Đường thất ngôn bát cú và mời các văn nhân, thi hữu họa vần. Sau đây, chúng tôi xin được giới thiệu lần lượt mười bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh(20).

1. Khánh Bằng liệt chướng

Thần châu mạch phát thế lăng không,
Danh thắng yên hà hiện uất thông.
Quần điệp lâm giang khai họa trục,
Nhị điều đối ngạn thụ bình phong.
Luân đề phồn trí khâu tuyền báng,
Sơn thủy kỳ quan tọa lạc trung.
Thiên địa an bài nhân trí cục,
Phùng nghênh thú vận đại anh hùng.

Dịch nghĩa:

Núi Bằng Trình(21) ở Đại Khánh dăng hàng
Mạch phát tự Thần châu(22) thế núi chắn ngang trời,
Nơi danh thắng ráng khói nổi trên cây cối um tùm.
Núi điệp trùng như soi xuống sông mở ra bức họa,
Hai dải non kề đôi bờ dựng tấm bình phong.
Chi chít dấu xe ngựa bên gò suối,
Lạ kỳ cảnh non nước như rơi từ chốn nào xuống.
Trời đất đã an bài cảnh nước trí non nhân(23),
Như đón mời vận hứng của bậc đại anh hùng.

Dịch thơ:

Mạch tự Thần châu thế chắn trời,
Ngàn xanh ráng khói nhuốm nơi nơi.
Kề bờ đôi dải bình phong dựng,
Nghiêng bóng điệp trùng bức họa rơi.
Gò suối ngựa xe in chằng chịt,
Kỳ quan non nước đứng chơi vơi.
Non nhân nước trí an bài sẵn,
Bậc đại hùng tâm vận hứng mời.

2. Lương mã song phàm

Thiên không giang hoát cộng phi vi,
Tự tại sinh nhai lãng diện y.
Tả hữu thừa mao viên chỉ biệt,
Cao đê phù diệp ích thân phi.
Bão phong khách hướng vân biên khứ,
Doanh nguyệt nhân tòng tuyết lý quy.
Dục vấn tương yêu hà xứ thị,
Bằng Trình độ thứ điếu ngư ky.

Dịch nghĩa:

Đôi cột buồm trên sông Lương, sông Mã(24)
Lòng sông trải rộng in bầu trời xanh cùng mây bay thấp thoáng,
Kế sinh nhai an nhàn dựa trên mặt sóng.
Ngón tay vượn tách biệt hai bên, như cưỡi chiếc lông đi,
Thân chim ích(25) lúc thấp lúc cao như buông chiếc lá nổi.
Gió căng, khách nhằm theo hướng chân mây lướt thuyền đi,
Trăng đầy, người từ trong tuyết trở về.
Muốn hỏi đâu là nơi mời đón nhau,
Phải chăng là mỏm đá ngồi câu ở bến Bằng Trình(26).

Dịch thơ:

Trời cao sông rộng thoảng làn mây,
Dựa đủ sinh nhai mặt sóng đây.
Đôi ngả cưỡi lông vượn rẽ ngón,
Thấp cao nổi lá ích chao bay.
Gió căng khách hướng chân mây tới,
Trăng dãi người theo tuyết trắng quay.
Muốn hỏi đâu là nơi rước đón,
Bằng Trình bến ấy đá câu này.

3. Thạch tượng dục hà

Xuất quần giáng cước cận quần san,
Bất thí tiên khu hãn thủy quan.
Động khẩu tuyền thôn bôn phóng sở,
Phong tu trào khiết nộ hào gian.
Khởi trung bán phục hồi cao trướng,
Trầm xứ toàn phù vị đảo lan.
Vấn thập nhị thời(27) tằng kỷ dục,
Thảo mao đài giáp tự lan ban
.

Dịch nghĩa:

Voi đá tắm sông
Lìa đàn, dời gót xuống gần dãy núi,
Chẳng khác nào bị roi xua xuống giữ cửa sông.
Vòi phun nước là nơi suối nuốt miệng hang,
Tiếng gầm gào chính lúc thủy triều liếm vào tóc núi.
Lúc như nửa nhổm lên, nửa rạp xuống, sóng nước xoáy trào,
Lúc đương chìm lại nổi phềnh, dòng như dựng ngược.
Hỏi rằng suốt đêm ngày, từng bao lần tắm ?
Lông cỏ, áo rêu, tự lốm đốm mốc meo.

Dịch thơ:

Lìa đàn, dời gót sát non trùng,
Chẳng khác roi xua giữ cửa sông.
Suối nuốt miệng hang vòi nước tóe,
Triều nhai tóc núi tiếng gầm rung.
Nhổm lên, rạp xuống dòng trào xoáy,
Đương nổi, bỗng chìm sóng vọt tung.
Hỏi suốt ngày đêm bao lúc tắm,
Mốc meo lông cỏ, áo rêu lồng.

4. Lĩnh quy xuất thủy

Vạn hác thiên nham độc bãi khai,
Ngưu giang hoành tiệt thủy vân lôi.
Chân đương âu nhạn du môn kiến,
Bất vị thu chiên khích lãng hồi.
Liên ổ hạc nhàn xung loát đẩu,
Thi tùng ngư lãn túy truyền bôi.
Khung lung bối thượng tu bi ký,
Kế tuế linh tòng hỗn độn lai.

Dịch nghĩa:

Rùa núi rẽ nước
Muôn núi nghìn khe, một mình vùng vẫy,
Chắn ngang sông Ngưu, sấm động mây nước.
Gặp lúc cùng đàn âu, lũ nhạn nhởn chơi bên cửa,
Chẳng phải vì lũ cá chiên, cá thu mà khuấy lên sóng xoáy.
Như hạc nhàn nhã bên đám sen giơ vuốt cầm vò,
Như ông chài lười trong đám cỏ thi say sưa truyền chén.
Trên cái lưng cong vồng lên, nên đặt tấm bia ký,
Tính tuổi, thì tuổi có từ khi đất trời còn hỗn mang.

Dịch thơ:

Riêng mình vùng vẫy núi khe này,
Ngang chặn dòng Ngưu động nước mây.
Thật đáng nhạn, âu chơi cửa ấy,
Chẳng vì lũ cá khuấy nơi đây.
Bên sen hạc đợi nâng vò đón,
Trong cỏ chài lười nối chén say.
Lưng vống, tấm bia nên dựng đặt,
Tuổi cùng trời đất tính vừa hay.

5. Cổ Độ kỳ đình

Nhất thương tẩm lục bích liên thanh,
Thủy nhiễu sơn nguyên thự tác đinh.
Giang lục hà niên danh lợi độ,
Tinh can thử xứ đoản trường đình.
Lữ du khế chước đồng yêu nguyệt,
Tao hứng khan ngâm vị ái tinh.
Tân điếm thùy lưu hồng trảo khách,
Trào thanh điểu vận hữu tâm thinh.

Dịch nghĩa:

Đình cờ Cổ Độ
Màu lam tẩm lẫn màu lục, màu biếc liền tiếp màu xanh,
Nước lượn quanh ruộng đồng bên núi, dinh thự làm trên bãi bồi.
Bờ sông năm nào thành bến đò bán mua danh lợi,
Cán cờ cắm nơi ấy là đoản đình, trường đình(28).
Khách du dừng nghỉ rót rượu mời trăng,
Hứng thơ dù ít vẫn ngâm nga vì yêu cả trời sao.
Điếm canh bên bến ai lưu được người khách in móng chim hồng(29),
Vẫn sẵn lòng nghe tiếng thủy triều và giọng chim ca.

Dịch thơ:

Lam lục tẩm màu, biếc tiếp xanh,
Ruộng nương, nhà bãi, suối khe quanh.
Cán cờ nơi ấy đường dài, ngắn,
Bờ bến năm nào chốn lợi, danh.
Trăng sáng khách dừng nâng chén đợi,
Sao sa người mến gắng ngâm thành.
Vết hồng đò trạm ai lưu được,
Lời sóng, điệu chim ý vẫn dành.

6. Viễn sầm yên thụ

Liên thiên nhãn khoát diếu Tây thiên,
Sơn thượng quan sơn tứ tiễu nhiên.
Ẩn hiện thị vân hoàn thị đảo,
Phiêu nhiên như thủy hựu như thiên.
Ly phi hữu thái yên trung thụ,
Khứ trú vô tình thụ thượng yên.
Cánh hảo tỉ cung lai quản lĩnh,
Nhất hồ nguyên bất phóng thùy chuyên.

Dịch nghĩa:

Cây khói non xa
Phóng hết tầm mắt về phía Tây tận sát bờ viền,
Trên núi xem núi, hứng nổi phiêu diêu.
ẩn, hiện kia là mây hay là đảo,
Lâng lâng kia như nước lại như trời.
Thấy lác đác có dáng cây lẫn trong khói,
Tụ rồi lại tán vô tình, khói ở trên cây.
Tốt hơn là chống gậy, xỏ giày đến mà quản lĩnh,
Một bầu cảnh sắc còn nguyên, không cho ai được chiếm riêng.

Dịch thơ:

Bờ Tây phóng mắt thẳm xa vời,
Lên núi nhìn non cao hứng chơi.
ẩn hiện dáng mây hay dáng đảo,
Lâng lâng như nước lại như trời.
Cây hòa trong khói lơ thơ bóng,
Khói lẫn trên cây tụ tán hơi.
Chống gậy xỏ giày ra quản lĩnh,
Một bầu cảnh sắc vẫn tinh khôi.

7. Cô thôn mao xá

Cận chiếm loan cao ba chử viên,
Sinh sài tri diệp, thái tri căn.
Viên lang tích thúy Đông Tây xá,
Ngạn trúc liên thanh giáp ất môn.
Hoa nhị đương chuyên hoành lộ kính,
Thạch đài tiếu ngõa sấn tường phiên.
Canh tàm tự thị vương phong hóa,
Khuyến trưởng nhân vô hội đáo thôn.

Dịch nghĩa:

Lều tranh thôn vắng
Sóng rào trên bãi đến gần sát những bụi gai trên khuỷu núi,
Xem cành tươi biết lá, xem rau biết gốc.
Cau vườn chứa sắc biếc nhà phía Đông, phía Tây,
Trúc bờ liền màu xanh cửa giáp, cửa ất.
Những chùm hoa đương nhụy chắn ngang xòa che đường gạch,
Rêu đá lấn ngói, phủ trùm tường giậu.
Làm ruộng, chăn tằm đó là phong hóa của bậc vương giả,
Khuyến khích cho khá lên, người ta không ai biết đến thôn (này).

Dịch thơ:

Bụi gai bãi núi sóng tràn sâu,
Xem cỗi cành tươi biết lá, rau.
Giáp, ất cửa liền xanh đỗi trúc,
Đông, Tây nhà cạnh biếc vườn cau.
Gạch đường xòa bóng hoa đương nhụy,
Ngói mái tường rêu đá ngả màu.
Tằm, ruộng đế vương phong hóa đó,
Thôn này ai đến, khá lên mau.

8. Cách ngạn thiền lâm

Dĩ tá nham khê liễu tục khâm,
Thử gian nguy nghiệp huống tùng lâm.
Địa liên trì thượng chung phi viễn,
Vân mật sơn trung điểu tiện thâm.
Thế tục nhập thiền hà tự thủy,
Thích lưu đắc cảnh phỉ tư kim (câm).
Năng nhàn dã giác tăng do náo,
Thiên cổ thùy nhân hội thử tâm.

Dịch nghĩa:

Chùa cách bên sông
Đã mượn cảnh núi khe để dứt vạt áo tục,
Chốn này cao chót, huống nữa lại thêm cảnh chùa.
Đất liền trên ao, chuông vẳng không xa,
Mây dày trong núi, chim chóc khuất sâu.
Thế tục vào cõi thiền bắt đầu từ đâu?
Họ nhà Thích(30) được cảnh này chẳng phải mới từ nay.
Cốt phải thanh nhàn mới giác ngộ mà nhà sư còn ồn ã,
Ngàn xưa ai là kẻ hiểu được chữ tâm này.

Dịch thơ:

Mượn núi khe buông áo tục ngay,
Giữa nơi chót vót, cảnh chùa bày.
Chuông gần vẳng tiếng ao liền đất,
Chim khuất che hình núi khuất mây.
Cõi tục vào Thiền, ai trước nhỉ ?
Thích già được cảnh, hẳn lâu nay.
Thanh nhàn mới ngộ sư còn động,
Vạn thuở ai hay ý tứ này.

9. Sơn hạ ngư ky

Sinh thành ỷ động bạc loan cư,
Chiếm đoạn nhàn ky bất cấm ngư.
Tản võng cao mang đăng cước bạc,
Thùy can thoa tĩnh tích đầu hư.
Ngõa âu đắc túy cô ngư hậu,
Đồng đẩu tần ca quải thỏ sơ.
Đào Động, Thiên Thai vô kỷ viễn,
Chu sà tư vị dã thường dư.

Dịch nghĩa:

Làng chài dưới núi
Sinh thành dựa vào hang động, nơi buộc thuyền ở,
Chiếm hẳn một bến, chẳng cấm chài câu.
Con sào rối rít quăng lưới mỏng dưới chân núi,
áo tơi tĩnh lặng buông cần không nơi đầu ghềnh.
Âu sành được say sau khi bán cá,
Chén đồng ca vang lúc mới treo thỏ(31).
Đào Động, Thiên Thai(32) không xa là mấy,
Cái phong vị thuyền bè sông nước đã từng quen nếm trải.

Dịch thơ:

Buộc thuyền sinh sống dựa bên hang,
Chẳng cấm chài câu chiếm một làng.
Chân núi rộn sào, quăng lưới mỏng,
Đầu ghềnh lặng áo thả cần ngang.
Cá vừa bán, âu sành say thỏa,
Trăng mới treo, chén đồng hát vang.
Đào Động, Thiên Thai xa mấy nả,
Hải hồ phong vị đã thừa sang.

10. Giang trung mục phố

Như hiệp Đào Lâm đặc địa phù,
Đương vu nhất đới quải ngân câu.
Thôn tiền đa sự Đông phong mã,
Chử bạn tùy duyên Dĩnh thủy ngưu.
Tình húc giác ca khinh mại kiếm,
Vãn trào bối địch thắng thừa chu.
Phạn đồng tước lộc tâm nguyên tĩnh,
Hướng Mẫu Đơn châu đắc ý du.

Dịch nghĩa:

Bãi tắm trâu trong sông
Như bứng bãi Đào Lâm(33) tới, đất nổi hẳn lên,
Một dải màu mỡ, như treo vòng đai bạc.
Trước thôn lắm chuyện, làm ngựa gió Đông(34),
Bên bãi tùy duyên, làm trâu sông Dĩnh(35).
Trong nắng mai gõ sừng hát, coi nhẹ việc bán kiếm(36),
Khi thủy triều muộn, thổi sáo lưng trâu, khoái hơn cả cưỡi thuyền.
Mục đồng đủ cơm, đối với tước lộc lòng vốn dửng dưng,
Chỉ hướng vào bãi Mẫu Đơn(37) mà đắc ý chơi đùa.

Dịch thơ:

Như cảnh Đào Lâm đất nổi vồng,
Mỡ màu dải bạc uốn đai vòng.
Rửa tai dưới bến, trâu sông Dĩnh,
Gác chuyện trong thôn, ngựa gió Đông.
Nắng sớm gõ sừng khinh kiếm bán,
Triều cường nâng sáo quá thuyền giong.
Mục đồng đủ bữa quên danh lợi,
Bãi Mẫu Đơn chơi được thỏa lòng.

Mười bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh có mặt ở Quan Lan thi tập cho phép chúng ta xác định rằng:

Thứ nhất, về thời điểm sáng tác, rất có thể chùm thơ này được Nguyễn Huy Quýnh làm trong khoảng 1769-1779. Vẫn theo PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh, sinh thời lúc làm Hiến sát Thanh Hoa Ngô Thì Sĩ đã tập hợp xong Quan Lan thi tập, rồi: "Năm 1769 về kinh ông đem khoe cùng Nguyễn Huy Oánh, ông Oánh đã viết lời tựa; 1770 vào Nghệ An, ông lại đưa cho các bạn đồng chức, nhiều người tiếp lời họa thơ; 1771 ông lại đưa cho Trần Huệ Hiên xem, ông Huệ Hiên cũng rất khen và thêm lời tựa; 1778 lên trấn Lạng Sơn ông cũng đem theo, lại đưa cho cấp dưới cùng đọc, Đốc đồng trấn Trương Hỗ cũng "khôn xiết ca ngợi", viết thêm "mấy lời tán dương ở đầu sách"(38). Đến 1779, khi Ngô Thì Sĩ đã ở Lạng Sơn thì Nguyễn Huy Quýnh lại vào Thanh Hoa làm Giám khảo và chắc là có lên núi Bàn A, sào Quan Lan, sáng tác thơ họa; nhưng tập thơ của họ Ngô đã được cụ Oánh viết tựa từ 10 năm trước thì nhiều phần chắc là cụ Quýnh cũng đã có xem, có thuộc.

Thứ hai, việc "lưu hành" của Quan Lan thi tậ được lược kể như trên, cho thấy nó đã khá quen thuộc trong giới văn nhân và cũng cho thấy cách tiếp nhận, cách "đọc nhau" của "công chúng độc giả" thời bấy giờ. Có thể nói đây là một tập thơ có tiếng và Ngô Thì Sĩ đã tập hợp được xung quanh ông một thi xã có tiếng. Việc Nguyễn Huy Quýnh xuất hiện trong thi tập ấy, trong thi xã ấy cũng phần nào cho thấy vị trí và tài năng thơ văn của tác giả này, ít nhất là ở đương - thời nửa cuối thế kỷ XVIII.

Như vậy, Nguyễn Huy Quýnh có tác phẩm văn học "đối đáp" với đại thi hào Nguyễn Du và có thơ họa vần với một trong những tác gia lớn của thế kỷ XVIII là Ngô Thì Sĩ. Tuy tác phẩm tìm lại được chưa nhiều, nhưng phải nói cái "duyên" văn chương như thế cũng ít người có được và cũng phải nói diện mạo của một tác giả văn học đang dần hiện rõ. Giới thiệu 10 bài thơ trên của Nguyễn Huy Quýnh, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm nữa của giới nghiên cứu và bạn đọc về tác giả này.

L.V.H

CHÚ THÍCH:

(1) Xin xem: Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb. KHXH, H. 2000, tr.67-77.

(2) Xem Nguyễn Huy Oánh - một tác gia tiêu biểu của thế kỷ XVIII, Tạp chí Văn học, số 4 - 1994.

(3) Chúng tôi đã có dịp giới thiệu về tập sách này, xem Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Sđd.

(4) Dẫn theo hai soạn giả Lê Thước, Trương Chính trong Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh), Nxb. Văn học, H. 1965, tr.47.

(5) Trong bài Nghĩ cổ "Trường tương tư" trình Tố Như công ở Chung Sơn di thảo, Nguyễn Huy Vinh có viết về Nguyễn Du:

Tích thị Trường Lưu du hiệp khách,
Kim vi Tràng An phú quý thân.

(Xưa chàng là Trường Lưu du hiệp khách,
Nay thành người sang trọng đất Tràng An.)

(6) Xem: - Đào Duy Anh: Hoa tiên truyện, Tri tân, Số 86, 87, 88 - 1943; và Nguồn gốc Hoa tiên ký, Tri tân, số 91, 92, 93 - 1943.

- Hoàng Xuân Hãn: Nguồn gốc văn Kiều (văn phái Hồng Sơn), Thanh Nghị, Số 30, 31, 32 - 1943.

(7) Nxb. KHXH, H. 1971.

(8) Nxb. KHXH, H. 1994.

(9) Nxb. Nghệ An. 1995.

(10) Phan Kính con người và sự nghiệp, Sđd; tr.68-70.

(11) Sđd; tr.69.

(12) Sđd; tr.201.

(13) Sđd; tr.25 và 186.

(14) Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ, Sđd; tr.163.

(15) Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Sđd; tr.67-69.

(16) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.21.

(17), (18) Về hành trạng Ngô Thì Sĩ, văn bản Quan Lan thi tập và các chi tiết có liên quan đến tác giả, tác phẩm này, xin tham khảo Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn (Trần Thị Băng Thanh), KHXH, H. 1992.

(19) Các bài thơ đề thập cảnh của Ngô Thì Sĩ được chép trong Quan Lan thi tập từ tờ 34b - 37b.

(20) Các bài thơ họa của Nguyễn Huy Quýnh được chép trong Quan Lan thi tập từ tờ 58b - 61b. Khoảng 1975, cụ Trần Duy Vôn cũng đã có bản dịch nghĩa đánh máy nhan đề Ngô Thì Sĩ Quan Lan thi tập, lưu tại Thư viện Viện Văn học, ký hiệu DH577, nhưng bản này đánh máy sai nhiều. Dẫu thế, chúng tôi vẫn coi đó là một tài liệu tham khảo quý.

(21) Bằng Trình: Tên núi, theo Đại Nam nhất thống chí (bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập II, Nxb. KHXH, H. 1970) thì núi này còn có tên là Thái Bình ở xã Đan Nê, một bên dựa vào núi Bàn A, trông ra sông Mã, núi nhỏ mà đẹp, trên núi có ngôi chùa, cũng gọi là chùa Thái Bình.

(22) Thần châu: Gọi tôn xưng nơi phát tích đế vương, cũng để chỉ kinh đô.

(23) Nước trí non nhân: Trích lời Khổng Tử trong thiên Ung dã sách Luận ngữ: "Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn" (Kẻ trí thích xem nước, kẻ nhân thích chơi núi).

(24) Sông Lương, sông Mã: Hai sông lớn chảy qua địa phận tỉnh Thanh Hóa, đến núi Bằng Trình thì hợp lưu chảy ra biển.

(25) Chim ích: Loài chim thường được vẽ ở đầu thuyền gỗ, ý muốn thuyền đi đúng hướng, lướt nhanh như chim ích bay.

(26) Bằng Trình: Xem chú thích (21) ở trên.

(27) Thời: viết kiêng húy.

(28) Đoản đình, trường đình: Xưa, đường trạm chia ra đoạn ngắn, đoạn dài, mỗi trạm có nơi chờ nghỉ.

(29) Móng chim hồng: ý từ câu "tuyết nê hồng trảo" (dấu móng chim hồng in trên bùn tuyết), chỉ việc đã qua được lặp lại.

(30) Họ nhà Thích: Chỉ các tăng ni tu Phật.

(31) Treo thỏ: Mặt trăng mới lên.

(32) Đào Động, Thiên Thai: Chỉ nơi tiên ở. Đây có lẽ nói về núi Thần Đầu (Thần Phù) ở Nga Sơn, Thanh Hóa, có động Bích Đào, nơi tương truyền là Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương.

(33) Đào Lâm: Thiên Vũ thành, Kinh Thư chép việc Chu Vũ Vương dẹp loạn xong, thả trâu ở bãi Đào Lâm, ý nói không dùng việc binh nữa.

(34) Ngựa gió Đông: Xuất phát từ câu: "Đông phong xuy mã nhĩ" (Gió Đông thổi tai ngựa), ý nói bỏ ngoài tai mọi sự.

(35) Trâu sông Dĩnh: Hứa Do, Sào Phủ là hai cao sĩ thời cổ. Hứa Do rửa tai ở bến sông Dĩnh Thủy để từ chối lời mời truyền ngôi và phong quan chức của vua Nghiêu. Sào Phủ nghe chuyện bèn không cho trâu uống nước ở sông ấy, sợ trâu bẩn miệng.

(36) Theo Hán thư, quận Bột Hải mất mùa, trộm cướp nổi nhiều. Tuyên Đế sai Cung Toại đến làm Thái thú. Toại chỉ khuyên bảo làm ăn, lệnh không bắt trộm cướp. Bọn chúng mừng đeo kiếm đao ra đón Toại, Toại bảo nên bán đao mua nghé, bán kiếm mua trâu.

(37) Bãi Mẫu Đơn: chưa rõ.

(38) Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn , Sđd; tr.141.

TB

VÀI NÉT VỀ TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN,
QUÂN ĐỘI VÀ TÊN CHỨC QUAN THỜI TÂY SƠN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu ấn triện và bút tích các nhân vật lịch sử thời Tây Sơn, chúng tôi đã tìm được một số tài liệu gốc thời Tây Sơn. Trong đó cho biết không ít sự kiện và nhân vật lịch sử, cùng tên chức quan giai đoạn này. Từ những tư liệu này và một số sách tạp ký, tài liệu ghi chép về thời Tây Sơn khác đã và chưa công bố, chúng tôi bước đầu phác thảo vài nét về tổ chức chính quyền, quân đội và tên chức quan văn võ của vương triều Tây Sơn mà chủ yếu dưới đời vua Quang Trung.

1. Chính quyền Trung ương

Năm 1778, 5 năm sau ngày dựng cờ khởi nghĩa thành công, Nguyễn Nhạc xưng là Minh Đức Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, đổi thành Đồ Bàn thành Hoàng đế, phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng quan và đặt các chức Tổng đốc, Tư khấu, Hộ giá... Chính thức từ đây lịch sử phong kiến Việt Nam có thêm một triều đại mới. Nhưng phải đến năm 1786 sau khi Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân rồi Bắc tiến thành công tiêu diệt quân Trịnh làm chủ phía Bắc thì tổ chức chính quyền Tây Sơn mới hình thành. Nguyễn Huệ lúc đầu xưmg là An Nam Đại Nguyên súy, đến năm 1787 xưng là Đại Nguyên súy Tổng quốc Chính Bình vương; Ông đặt các chức quan Đại Tư Mã cho Ngô Văn Sở, Quan Nội hầu cho Nguyễn Văn Lân... Cho đến mùa thu năm 1788 Nguyễn Huệ đã thu phục được nhiều văn quan và sĩ phu Bắc hà. Duy trì cơ cấu tổ chức chính quyền thời Lê Trung hưng, trong hai năm 1787 và 1788, họ Nguyễn Tây Sơn cho lập lại hệ thống Lục Bộ, phong Hồ Công Thuyên làm Thượng thư bộ Hình tước Thuyên Quang hầu; Lê Tài làm Thị lang bộ Binh tước Giác lý hầu... Hệ thống Giám sát được phục hồi, Phan Huy ích và Nguyễn Gia Phan được phong làm Thị trung Ngự sử(1)... Viện Hàn lâm hoạt động trở lại trong đó nhiều văn quan nhà Lê cũ được sung vào Hàn lâm viện Trực học sĩ như Ngô Vi Quỹ, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch... (đến đời Quang Trung 5 (1792) Nguyễn Huệ lại lấy Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch sung Hàn lâm viện Trực học sĩ). Anh em Nguyễn Huệ còn chú trọng duy trì hoạt động của Phiên. Phiên cũng như Bộ nhưng ở vương phủ đều do các văn quan đảm nhiệm. Ví dụ chức vụ ở Phiên lúc đó là Binh phiên phó Tri phiên được giao cho Cẩn Tín hầu Lê Quang Đại.

Điều đặc biệt trong tổ chức chính quyền Tây Sơn là Nguyễn Huệ đã mô phỏng theo chế độ Tam sảnh(2), mà chủ yếu là Trung thư sảnh thời Trần và Lê sơ để đặt Trung thư phủ với chức Trung thư lệnh đứng đầu. Cơ quan và chức vụ này đã bị bãi bỏ cuối thời Lê sơ, nó không có trong quan chế thời Lê Trung hưng, thời Mạc và thời Nguyễn sau này. Năm 1789 Nguyễn Huệ lập Trung thư phủ, thăng Trần Văn Kỷ từ chức Từ Lệnh lên giữ chức Trung thư lệnh, với chức năng là Bí thư bên cạnh Hoàng đế(3).

Năm Quang Trung 3 (1790) Nguyễn Huệ củng cố hệ thống Lục bộ, thăng cấp cho người có tài có công như Ngô Thì Nhậm được thăng làm Thượng thư bộ Binh, Vũ Duy Tấn làm Đãi chiếu Thượng thư bộ Công, Nguyễn Thế Lịch làm Thượng thư bộ Lại, Ninh Tốn làm Hữu Thị lang bộ Binh... Tháng 4 năm 1790 Tây Sơn lập đoàn sứ bộ sang Trung Quốc do Phan Huy ích cùng một số văn quan khác làm sứ thần. Trong năm này các tổ chức Viện, Ty được xây dựng và hoàn thiện như việc thành lập Viện Sùng chính mà La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp được phong làm Viện trưởng. Đây là điểm mới trong tổ chức Trung ương của triều Quang Trung có liên quan đến văn hóa giáo dục đương thời.

Tổ chức Trung ương lớn thời Quang Trung được đặt ra khác hẳn các vơơng triều trước là Tổ chức Triều đường. Triều đường tức là Triều đình mà đại diện là một số đại thần văn quan, võ tướng số một của triều Quang Trung, chủ yếu là những văn quan tài giỏi. Họ được quyền thay mặt vua giải quyết những vấn đề quan trọng, ra một số văn bản chỉ định và được dùng dấu ấn lớn “Triều đường chi ấn”. Mô hình này không phải là một tổ chức, một cơ quan Trung ương riêng biệt nào ở triều Quang Trung, nó giống như mô hình Đình thần thời Nguyễn Gia Long và Công đồng từ thời Nguyễn Minh Mệnh trở về sau vậy.

2. Chính quyền địa phương

Song song với việc xây dựng chính quyền Trung ương, nhà Tây Sơn tiến hành xây dựng và củng cố chính quyền địa phương, ở phía Bắc Nguyễn Huệ đổi thành Thăng Long làm Bắc Thành và quản lý theo chế độ quân quản. Các trấn vẫn được duy trì như cũ, riêng trấn Sơn Nam được chia làm Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ. Mỗi trấn đặt chức Trấn thủ đứng đầu, hoặc có trường họp gọi là Lưu thủ quản một Trấn ở giai đoạn đầu Tây Sơn; mỗi trấn có một Hiệp trấn hay Tham hiệp làm phó trấn. Những trấn quan trọng như Nghệ An, Thanh Hoa nhà Tây Sơn đều để các tướng tài tâm phúc kiêm nhiệm trấn giữ. Như trấn Nghệ An năm 1787 được giao cho Lưu thủ Danh Phương hầu Nguyễn Văn Phương trấn nhiệm; Năm 1789 lại giao cho Thận Trực hầu Nguyễn Văn Thận làm Nghệ An trấn thủ quan. Nguyễn Văn Thận vừa là quan khâm sai của triều đình vừa là quan Trấn thủ đứng đầu trấn Nghệ An. Chức phó trấn Nghệ An được giao cho Nguyễn Triêm giữ chức Hiệp trấn Hữu Đồng nghị(4). Chức phó trấn nữa là Tham hiệp; cũng trấn Nghệ An đến đời Cảnh Thịnh, Quang Toản giao cho Đô đốc Tư Trung hầu giữ chức Tham hiệp trấn này. Xây dựng và củng cố chính quyền cấp huyện năm 1788 Nguyễn Huệ mới đặt chức quan ở cấp huyện với hai chức là Tả Quản lý và Hữu Quản lý. Tả Quản lý thì coi việc hình luật kiện tụng, Hữu Quản lý thì coi về quân đội binh lính, và mỗi huyện còn đặt chức Huyện trưởng để đốc suất chung(5).

Cấp cơ sở thấp nhất của chính quyền địa phương là tổng, xã vẫn được nhà Tây Sơn duy trì theo nhà Hậu Lê ở Đàng ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng trong. Tổng có Cai tổng và Phó tổng đứng đầu, xã có Xã trưởng hay Lý trưởng quản lý.

Về mặt kinh tế ngay từ khi thu phục được Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã có ý định xây dựng nền kinh tế độc lập. Chiếu khuyến nông chứng tỏ Quang Trung thấy được vai trò quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp. Việc lập sổ đinh, sổ điền chia ra các hạng, đẳng, ngạch để cân đối với việc thu tô thuế thời Quang Trung là tương đối mạch lạc. Tham khảo luật kinh tế các đời trước, nhà Tây Sơn còn thiết lập mô hình Bản Đường quan với chức năng thu tô thuế, dân đinh, kiểm tra mọi lĩnh vực ở các địa phương. Các chức danh Ký phủ, Ký lục, Cai phủ, Đề lĩnh trong hệ thống Bản Đường quan càng làm phong phú thêm cho tên chức quan thời Tây Sơn.

3. Tổ chức quân đội

Quân đội Tây Sơn bắt đầu hình thành từ tổ chức 5 Đồn: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu từ năm 1773. Ngày một lớn mạnh từ một đội quân để trở thành một lực lượng quân đội có quy mô và tổ chức cao. Biên chế quân đội theo nguyên tắc Ngũ chế (Năm quân), gồm có Trung quân, Tiền quân, Tả quân, Hữu quân và Hậu quân. Các quân này đều do các tướng tài đảm nhiệm, như năm 1786 Nguyễn Nhạc đánh Phú Xuân, phong Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Quân Đô đốc, Võ Văn Nhậm làm Tả Quân Đô đốc...

Quân đội Tây Sơn còn chia các Đạo với tên gọi riêng là Càn Thanh, Thiên Can, Thiên Trường, Thiên Sách, Thiên Hùng, Hổ Bí, Hổ Hầu, Thị Thân, Thị Loan v.v... Người chỉ huy các đạo quân này là những viên Đô đốc, như năm Thái Đức 10 (1787) Nguyễn Nhạc phong Đặng Tiến Đông chức Đô đốc Đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu, sau đó ông thống lĩnh đạo quân Vũ Thắng, Thiên Hùng ở chi Giáp nhất(6). Theo đó thì biên chế quân đội Tây Sơn còn có cấp Chi đặt theo số thứ tự đi liền với hệ thống Thập Can là Giáp Ất...

Dưới các Đạo là đơn vị cấp Cơ, mỗi Cơ lại có nhiều Đội. Điều khác biệt với biên chế quân đội là trước đó và Nguyễn sau này là quân Tây Sơn còn đặt cấp Suất với chức Phân Suất. Sách Lê quý dật sử ghi lại vào tháng 12 năm Kỷ Dậu niên hiệu Quang Trung 2 (1789): “Tây Sơn định lại việc đặt quan chức, hàng quan văn có Phân Tri, hàng quan võ có Phân Suất... Quân sự thì Đạo thống lĩnh Cơ, Cơ thống do lĩnh Đội, đều có viên Phân Suất cai quản huấn luyện”(7). Như vậy cấp Suất đã được đưa vào biên chế quân đội Tây Sơn một cách rộng rãi và thường có tên gọi kèm theo như Suất Trung Lương, Suất Hùng Cự v.v... Suất có khi đứng độc lập, có khi do chức khác kiêm quản. Ví dụ như trong quả ấn “Suất Trung Lương nhị vệ tam hiệu Trung Lang tướng”. Viên Trung Lang tướng ở hiệu quân thứ ba, Vệ thứ hai Suất Trung Lương; hay ở một quả ấn khác là “Suất Hùng Cự khai vệ ngũ hiệu đô ty” Viên tướng Đô ty ở Hiệu quân thứ năm, Vệ Tiên phong Suất Hùng Cự(8).

Ở đây ta thấy rõ dưới cấp Suất còn có cấp Vệ. Cấp Vệ cũng được đặt theo số thứ tự Nhị vệ, Khai vệ như ví dụ trên; hoặc Nhất vệ như quả ấn có tên gọi “Tây kỳ phủ Trung tín Nhất vệ Hộ quốc sứ Vinh Hoa hầu”. Viên tướng Vinh Hoa hầu chức Hộ quân sứ thuộc vệ thứ nhất Suất Trung Tín phủ Tây Kỳ(9).

Hai ấn đồng trên cũng đã cho thấy cấp Hiệu trực thuộc dưới cấp Vệ. Mỗi Vệ có nhiều Hiệu, và cấp Hiệu cũng được đặt theo số thứ tự như Tam Hiệu, Ngũ Hiệu...

Đơn vị quân đội nhỏ nhất thời Tây Sơn là cấp Đội đối với lực lượng bộ binh và tương đương cấp Đội là Thuyền nằm trong lực lượng Hải quân. Đây là những đơn vị cơ sở của quân chính quy.

Cũng như chức quan văn, chức vụ cấp bậc của các tướng lĩnh từ cao cấp trở xuống thời Tây Sơn được ghi, khắc tản mạn. Văn bản chữ Hán chứng tích về Trần Quang Diệu mà chúng tôi chưa công bố ghi rõ chức vụ của ông được giao ở triều Quang Trung là “Đặc sai phụ quốc Đại Tổng quản Thượng tướng quân”: sau này ông được gia phong chức Thiếu phó mà sử thời Nguyễn thường gọi ông cũng như gọi các quan tướng thời Tây Sơn theo chức vụ có kèm thêm chữ “Ngụy”. Một chức vụ cực lớn mà năm 1789 Nguyễn Huệ phong cho con trai Khang công Nguyễn Quang Thùy là “Tiết chế Thủy bộ chư doanh kiêm Tổng binh dân thứ vụ” cho quản lĩnh Bắc Hà cũng đã được giới thiệu trên Thông báo Hán Nôm(10). Chức Đại Tư mã được nhà Tây Sơn giao cho các tướng tài. Đó là Ngô Văn Sở thời Quang Trung và đời Cảnh Thịnh, Quang Toản phong Nguyễn Văn Tứ làm Đại Tư mã giúp Quang Thùy coi Bắc Hà. Đại Tư mã Nguyễn Văn Tứ cuối thời Cảnh Thịnh được phong Tứ Quận công cho kiêm chức Trấn thủ Thanh Hoa.

Chức Đại Đô đốc và Đô đốc gần như là chức võ quan điển hình thời Tây Sơn mà ít thấy ở các triều đại khác. Riêng chức Đô đốc được phong cho rất nhiều tướng lĩnh như Đô đốc Bùi Thị Xuân, Đô đốc Bảo, Đô đốc Long, Đô đốc Bưu, Đô đốc Tuấn, Đô đốc Đạt, Đô đốc Giám v.v... Chữ Đô đốc còn đi liền với tên chức khác như Đô đốc Đồng tri mà Đặng Tiến Đông được Nguyễn Nhạc phong năm Thái Đức 10 (1787); hoặc trường hợp của Hữu quân Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh và Tả quân Đô đốc Võ Văn Nhậm đã nêu trên(11).

Ngoài chức Đại Tổng quản còn có chức Tổng quản như Tổng quản Siêu, chức Tư lệ như Tư lệ Đinh Công Tuyết. Hai viên tướng này đã cùng Bùi Thị Xuân theo Quang Thùy, Quang Toản với 30.000 quân đánh chiếm lại Phú Xuân đầu năm 1802 nhưng bị thất bại.

Chức vụ quân đội Tây Sơn, tản mạn một số sách tư liệu còn ghi như chức Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ úy... những chức Trung lang tướng và Vệ quân sứ trong những quả ấn nêu trên đã bổ sung thêm cho danh mục võ chức trong quân đội Tây Sơn.

4. Một vài nhận xét

Quan chế thời Tây Sơn cả văn quan và võ quan không có bộ chính sử nào ghi trọn vẹn, chỉ thấy rải rác trong các sách dã sử và tạp ký. Chỉ có một đoạn ghi trong Liệt truyện Tây Sơn Đại Nam chính biên liệt truyện là còn có tính chất thống kê tên chức quan Tây Sơn: “... Tam công, Tam thiếu, Đại Trung tể, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư hội, Đại Tư lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Tổng lý, Đại Đô hộ, Đại Đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Kiểm điểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị trung Đại học sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Thị trung Ngự sử, Lục bộ Thượng thư, Tả Hữu Đồng Nghị, Tả hữu Phụng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm,... các chức danh khác còn nhiều không thể kể hết ra được”(12). Tuy nhiên, ở đây ghi “Trung thư sảnh” vào là chưa hợp lý, vì Trung thư sảnh là tên cơ quan, còn Trung Thư lệnh mới là tên chức quan đứng đầu Trung thư sảnh.

Không thể kể hết ra được tên chức quan thời Tây Sơn, như những tài liệu gốc mà chúng tôi sưu tầm được ở Nam Trung bộ là chức Thống soái (có cả hình dấu) được ghi năm Cảnh Thịnh 8 (1800) của Thiếu Truyền công phong cho Nguyễn Đăng chức Đô ty tước Phú Lộc hầu, hay chức Thị nội Cai bạ Tri Tào vụ () của Lưu Thế Trinh trong văn bản ghi năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) có dấu của Triều đường... Phải nói rằng ghi chép về thời Tây Sơn tuy tản mạn, trên nhiều dạng tư liệu khác nhau nhưng cũng cho ta thấy được tổ chức chính quyền quân đội giai đoạn này khá hoàn chỉnh.

Phác thảo vài nét về tổ chức chính quyền, quân đội và tên chức quan thời Tây Sơn, chúng tôi hy vọng cung cấp thêm chút ít tư liệu cho công tác nghiên cứu lịch sử về một vương triều tuy ngắn ngủi nhưng lại rất hào hùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

N.C.V

CHÚ THÍCH:

(1) Sang đời Cảnh Thịnh có thay đổi bổ sung Đô sát viện. Quang Toản phong Hy Quang hầu Hoàng Thạc Phụ làm Đô sát thự Đô Ngự sử,...

(2) Tam sảnh gồm có Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh và Thượng thư sảnh có nguồn gốc từ thời Tùy Đường trong thể chế phong kiến Trung Quốc. Trung thư sảnh đóng vai trò quyết sách, Môn hạ sảnh giữ vai trò thẩm nghị, Thượng thư sảnh có trách nhiệm chấp hành. Nhà Trần và Lê sơ mô phỏng theo quan chế Trung Quốc.

(3) Xem Nguyễn Công Việt: Giới thiệu bút tích và dấu ấn của Trần Văn Kỷ trên văn bản Hán Nôm thời Tây Sơn trong Thông báo Hán Nôm học năm 2000.

(4) Thời Tây Sơn đặt Tả Đồng nghị và Hữu Đồng nghị, còn được gọi là Tả Đường và Hữu Đường.

(5) Xem Nguyễn Công Việt: Về một quả ấn đồng cấp huyện thời Quang Trung trong Thông báo Khảo cổ học năm 2000.

(6) Xem “Sắc phong Đô đốc Đặng Tiến Đông” trong Đặng gia phả ký. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 2000.

(7) Lê Quý dật sử. Nxb. KHXH, H. 1978, tr.95.

(8) Xem Nguyễn Công Việt: Góp thêm một số tài liệu về ấn triện thời Tây Sơn. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1989.

(9) Tây Kỳ phủ tên địa danh cũ thuộc đất Bình Định, nơi phát tích phong trào Tây Sơn, sang thời Nguyễn Gia Long bị xóa bỏ đổi tên.

(10 Xem Nguyễn Công Việt: Vài nét về Khang Công Nguyễn Quang Thùy qua hình dấu ấn trên một văn bản chữ Hán thời Tây Sơn trong Thông báo Hán Nôm học 1999.

(11) Chức Đô đốc đi liền với tên chức khác chúng tôi còn thấy trong ấn dấu của Trần Quang Diệu. Xin được công bố vào dịp khác.

(12) Đại Nam chính biên liệt truyện - Liệt truyện Tây Sơn - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu D.995.

TB

HÒA TỰ CỦA NHẬT BẢN - ĐÔI ĐIỀU
SO SÁNH VỚI CHỮ NÔM VIỆT NAM

LÃ MINH HẰNG

Với tư cách là một trung tâm văn hóa thời cổ đại, Trung Quốc đã có giao lưu với nhiều nước ở châu á và đã tỏa ảnh hưởng lớn đến các nước trong khu vực này. Chữ Hán và văn hóa Hán từ lưu vực sông Hoàng Hà tiến lên phía Bắc gây ảnh hưởng đến các dân tộc Mãn Châu. Từ đây nó tiếp tục tiến xa hơn nữa, đến tận bán đảo Triều Tiên (làm nảy sinh dạng Lidoku - dạng dùng chữ Hán để ghi tiếng Triều Tiên, đồng thời lại đặt ra những chữ Hán của riêng người Triều Tiên) và rồi tiếp tục tiến đến tận quần đảo Nhật Bản. Nếu chỉ xét riêng về mặt văn tự(1), tiếng Nhật khi tiếp xúc với chữ Hán đã đưa đến kết quả là làm nảy sinh dạng Hiragana, Katakana và Waji (waji được đọc theo âm Hán Việt là Hòa tự hay còn gọi là kokuji - Quốc tự ). Hòa tự được tạo thành bằng cách dùng các thành tố của chữ Hán ghép lại với nhau (mà chủ yếu là ghép theo kiểu kết hợp ý nghĩa của các thành tố đó) để biểu thị các từ mang đặc trưng văn hóa Nhật Bản.

Mặt khác, chữ Hán và văn hóa Hán từ lưu vực sông Hoàng Hà lại tiến về phía Nam vượt qua lưu vực sông Dương Tử, lại tiếp tục đi xa hơn nữa về phía Nam để rồi xâm nhập vào Việt Nam. Quá trình tiếp xúc với chữ Hán đã làm nảy sinh ở tiếng Việt âm đọc Hán Việt và chữ Nôm. Đứng ở khía cạnh văn tự mà xem xét thì kết quả của quá trình tiếp xúc giữa chữ Hán với tiếng Việt và với tiếng Nhật cũng không hoàn toàn như nhau. Một bên chỉ đưa đến kết quả duy nhất là hình thành nên chữ Nôm, còn bên kia thì bên cạnh dạng văn tự như chữ Nôm còn có cả dạng dùng 48 chữ Hán giản lược đi để ghi âm. Hơn nữa, nếu quan sát cách cấu tạo của chữ Nôm Việt và Hòa tự của Nhật Bản cũng có thể thấy rõ những nét “đại đồng tiểu dị” khá lí thú. Đó là tất cả những gì mà bài viết này muốn đề cập đến.

1. Xoay quanh tên gọi Hòa tự

ở Việt Nam, để chỉ những chữ khối vuông tạo thành do mượn các thành tố Hán và mô phỏng cách cấu tạo chữ Hán thì người Việt chỉ dùng một tên gọi duy nhất là chữ Nôm. Thế nhưng ở Nhật Bản, tên gọi cho dạng văn tự tương tự như chữ Nôm Việt (Hòa tự) lại không hoàn toàn nhất trí giữa các nhà nghiên cứu. Hòa tự được gọi với các tên khác nhau:

1. 倭 字 waji

2. 和 字 waji

3. 和 製 漢 字 waseikanji

4. 和 俗 字 wazokuji

5. 本 邦 製 作 字 honpoo seisakuji

6. 日 本 製 文 字 ni honseimoji

7. 和 俗 製 作 文 字 wazoku seisaku no moji

Trong các tên gọi trên, có tên gọi nói rõ được xuất xứ của dạng văn tự này: là dạng văn tự do Nhật Bản tạo ra (như tên gọi số 6 và số 7), là chữ Hán do Nhật Bản tạo ra (như tên gọi số 3). Cũng có ý kiến lại gọi là Hòa tục tự (như tên gọi số 4). Hòa tục tự có nghĩa là chữ tục thể của Nhật Bản. Thực ra khái niệm chữ tục thể được gọi trong thế đối lập với chữ chính thể, đó là những hình thể chữ viết tay trong dân gian không hợp với cách viết trong các tự thư, tự điển(2). Tuy nhiên, “tục tự” cũng có thể hiểu là “chữ nôm na”, như cách gọi “chữ Nôm” ở Việt Nam.

Cũng có tên gọi (như tên gọi số 5) không nêu rõ được xuất xứ của dạng văn tự này: Bản bang chế tác tự. Chữ bản Hán nghĩa là “vốn, gốc”. Người Trung Quốc có thể tự xưng nước mình là “bản bang, bản quốc”. Cũng vậy các nước sử dụng chữ Hán như Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam đều có thể dùng “bản bang chế tác tự”để chỉ thứ văn tự do chính dân tộc mình tạo ra. Bởi vậy, khi xem xét dạng văn tự khối vuông được tạo ra ở các nước nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán ta không nên dùng một khái niệm thiếu tính khu biệt như vậy.

Estuko Obata Raiman trong chuyên khảo của mình(3) đã đề cập đến tên gọi Quốc tự để chỉ dạng văn tự này. Theo ông, Quốc tự trong tiếng Nhật hiện đại được hiểu dùng để chỉ (1) Dạng Hiragana, Katakana và chữ Hán dùng để ghi âm tiếng Nhật (2) Dạng Hiragana, Katakana. (3) Dạng văn tự khối vuông giống như chữ Hán được tạo ra ở Nhật Bản. Thế nhưng, để đối lập với Hán tự là văn tự của người Hán nên các nghiên cứu trước đây đã dùng khái niệm Quốc tự. Nhưng vì người Triều Tiên cũng đã tạo ra văn tự riêng cho dân tộc mình (và cả người Việt cũng tạo ra chữ Nôm) nên khái niệm Quốc tự sẽ không rõ là văn tự của nước nào tạo ra bởi vậy ông đã đề xuất dùng khái niệm “Quốc tự của Nhật Bản”.

Thực ra tên gọi Quốc tự được đề cập đến đầu tiên bởi ông Arai Hakuseki (1657-1725). Theo ông thì Quốc tự được hiểu là (1) văn tự do Nhật Bản tạo ra và (2) đương nhiên nó không xuất hiện trong các từ thư của Trung Quốc, hơn nữa (3) nó chỉ được đọc theo âm Kun (đọc theo nghĩa) mà không được đọc theo âm On (đọc theo âm Hán Nhật).

Quả thật là chỉ riêng tên gọi cho loại văn tự này cũng chẳng đơn giản chút nào. Có lẽ tên gọi hợp lí hơn cả cho loại văn tự khối vuông do người Nhật Bản mượn các thành tố Hán tạo thành là Hòa tự.

2. Nhận diện chữ Hòa tự - đôi điều so sánh với chữ Nôm Việt Nam

Hòa tự là loại văn tự do người Nhật Bản tạo ra. Như ta đã biết, quá trình tiếp xúc giữa chữ Hán với tiếng Nhật đã để lại trong tiếng Nhật hiện đại 3 dạng văn tự: Hiragana, Katakana và dạng văn tự khối vuông giống chữ Hán. Vậy thì 3 dạng văn tự này đều được coi là Hòa tự hay không? Đây là vấn đề cần làm sáng tỏ hơn nữa.

Vào khoảng thế kỷ 5 - 6 của quá trình tiếp xúc với chữ Hán(4), để ghi tên người Nhật Bản, trong các bi văn và minh văn thấy xuất hiện hiện tượng mượn âm chữ Hán để ghi âm Nhật tương ứng (phương pháp tự âm - 字 音). Ví dụ để ghi âm Sakurai đã phải dùng đến 4 chữ Hán 佐 久 羅 韋. Cách ghi này tỏ ra khá cồng kềnh. Để thực hiện phương án tiết kiệm văn tự, trong các tư liệu cuối thế kỷ 6 - thế kỷ 7 đã thấy chuyển sang cách ghi ý (phương pháp tự huấn - 字 訓), cách ghi này cho phép chọn ra những chữ Hán với nghĩa tương ứng. Ví dụ để ghi từ Hironiha thay vì phải dùng 4 chữ Hán như ở cách ghi âm (tự âm) thì chỉ cần có hai chữ Hán thôi:

Hironiha: 比 里 爾 波 (tự âm) ¨ 廣 庭 (tự huấn).

Cấu tạo âm tiết của tiếng Nhật khá đơn giản (là ngôn ngữ đa âm tiết, các âm tiết đều có cấu trúc mở và chỉ gồm có 48 âm tiết) cho nên mặc dù cách ghi ý có ưu điểm riêng của nó nhưng cũng không thể thay thế hoàn toàn cách ghi âm. Người Nhật Bản đã nghĩ ra phương án dùng 48 chữ Hán có âm tương ứng để ghi âm tiếng Nhật. Dần dần 48 chữ Hán này được cố định và lược nét để tạo thành hệ thống Hiragana và Katakana chuẩn mực như ngày nay.

Như vậy xét về mặt chức năng thì Hiragana và Katakana xứng đáng được công nhận là văn tự. Thế nhưng nó có thật sự được xếp vào Hòa tự hay không? Cũng có ý kiến coi Hiragana và Katakana như một tiểu loại nhỏ nằm trong hệ thống Hòa tự(5). Theo truyền thống khi nói đến Hòa tự người Nhật Bản thường nghĩ đến dạng văn tự khối vuông do người Nhật Bản mượn các thành tố Hán để tạo ra để biểu thị những từ mang đặc trưng văn hóa Nhật Bản.

Vậy Hòa tự là những chữ như thế nào? làm thế nào để phân biệt chúng với Hán tự, Hàn tự hay Nôm tự? Ông Arai Hakuseki đã đưa ra 3 tiêu chí để xem xét một chữ có thật sự là Hòa tự hay không. Thế nhưng, thực tế ứng dụng chữ Hán đã tạo ra những chữ đồng hình trong ngôn ngữ của các nước sử dụng chữ Hán. Ví dụ như chữ , chữ Nôm là đèn nhưng Hòa tự lại đọc là Hatake với nghĩa “ruộng nương”. Liệu một chữ Hán nào đó có phải do người Nhật Bản tạo ra hay lại là do họ mượn chữ có sẵn của ngôn ngữ các nước khác trong khu vực sử dụng chữ Hán với mục đích ghi âm hay ghi ý. Hơn nữa có những Hòa tự không thấy xuất hiện trong các bộ từ thư lớn của Trung Quốc nhưng lại hiển nhiên xuất hiện trong các tiếng địa phương và chưa biết chừng nó lại có trong các bộ từ thư, các sách đã thất truyền ở Trung Quốc... Thật là để xác định được chính xác đâu là Hòa tự trong một số trường hợp không phải là việc làm một sớm một chiều. Bởi vậy, ở bài viết này chúng tôi chỉ muốn đề cập đến những Hòa tự đã được các nhà nghiên cứu lâu nay thừa nhận và đã được đưa vào các bộ từ điển chính thức của Nhật Bản.

Xin được trở lại với chữ Nôm. Chữ Nôm là văn tự khối vuông do người Việt mượn các thành tố Hán tạo ra. Vậy nhưng trong chữ Nôm lại thấy có rất nhiều chữ mượn nguyên hình chữ Hán. Người Việt giải thích rằng những chữ Hán đó được dùng trong văn bản Nôm và tuân thủ theo ngữ pháp tiếng Việt nên vẫn được coi là chữ Nôm - chữ Nôm mượn nguyên. Hệ thống chữ Nôm chia làm hai loại lớn: loại mượn nguyên và loại tự tạo. (Xem sơ đồ cấu trúc chữ Nôm ở cuối bài):

Thử so sánh với chữ Hòa tự thì thấy có sự khác nhau khá lớn khi nhận diện chữ Nôm và Hòa tự. Chữ Nôm thu nhận cả những chữ vốn là chữ Hán nhưng quá trình vay mượn chỉ diễn ra ở một mặt: hoặc là âm hoặc là nghĩa của nó. Điều này không thấy trong Hòa tự.

Quá trình tiếp xúc giữa chữ Hán với tiếng Nhật đã để lại trong tiếng Nhật các dạng văn tự khối vuông sau đây (nếu không tính Hiragana và Katakana là ký hiệu thuần túy ghi âm):

A. Chữ Hán

A.1. Chữ Hán đọc theo âm Hán (xuất hiện nhiều trong Manyogana). Chữ Hán truyền vào Nhật Bản từ rất sớm, theo thời gian âm đọc các chữ Hán đó có sự thay đổi và đều lưu lại dấu tích ở tiếng Nhật(7):

A.1.1. Chữ Hán đọc theo âm thượng cổ

Đây là những âm cổ nhất ngay từ buổi đầu khi chữ Hán bắt đầu truyền vào Nhật Bản. Những âm này ngày nay hầu như không còn nữa. Ví dụ: chữ 奇 được đọc là ka, chữ 明 được đọc là ma, chữ 支 được đọc là ki, chữ 里 được đọc là ro và chữ 己 đọc là ko.

A.1.2. Chữ Hán đọc theo Goon

Đây là cách đọc chữ Hán khoảng thế kỷ V - VI ở vùng miền Nam Trung Quốc. Cách đọc này được dùng nhiều trong các tác phẩm như Cổ sự ký (古 事 記), Vạn diệp tập (万 葉 集) và Phong thổ ký (風 土 記). Ví dụ: chữ 口 được đọc là ku, chữ 氣 được đọc là ke, chữ 爾 được đọc là ni, chữ 二 đọc là ni và chữ 美 đọc là mi.

A.1.3. Chữ Hán đọc theo Kanon

Đây là cách đọc thời nhà Đường ở vùng Trường An Trung Quốc (tương đương với thời Nara của Nhật Bản), cách ghi này được dùng nhiều trong tác phẩm Nhật Bản thư kỷ (日 本 書 紀). Ví dụ: chữ 己 được đọc là ki, chữ 氣 đọc là ki, chữ 爾 được đọc là ji, chữ 二 được đọc là ji và chữ 魔 đọc là ba.

A.2. Chữ Hán mô phỏng âm

ở Nhật Bản, hiện tượng mô phỏng âm Hán để ghi âm Nhật tương ứng (đọc lệch âm Hán, giống như hiện tượng đọc lệch âm Hán Việt trong chữ Nôm) thường xảy ra ở thế kỷ V - VI theo phương pháp tự âm như đã đề cập đến ở trên. Trái lại hiện tượng đọc đúng âm chữ Hán (như đọc đúng âm Hán Việt ở chữ Nôm) thì lại vắng bóng. Điều đó có thể giải thích là do cấu tạo âm tiết của tiếng Hán và tiếng Nhật có sự chênh nhau khá lớn nên người Nhật đã không thể dùng chữ Hán để ghi đúng âm Nhật được.

A.3. Chữ Hán đọc theo nghĩa (còn gọi là Kunyomi)

Đây là các chữ mà người Nhật mượn hình và nghĩa nhưng không mượn âm các chữ Hán, những chữ này được đọc theo cách đọc của Nhật. Ví dụ 山 đọc là yama với nghĩa là núi, chữ 人 đọc là hito với nghĩa là người.

B. Hòa tự

Người Nhật Bản tách bạch khá rõ đâu là chữ Hán và đâu là Hòa tự. Hòa tự chỉ là những chữ do người Nhật tự sáng tạo ra (ứng với chữ Nôm tự tạo của Việt Nam). Có thể chia Hòa tự thành các tiểu loại sau(8):

B.1. Chữ lược nét. Chữ Hán đã được người Nhật tiếp nhận và sử dụng nhưng vì lý do này khác mà họ đã giảm bớt số nét của các chữ đó đi. Chữ lược nét có thể tách làm:

B.1.1. Chữ Hán lược nét

Như chữ 川 (kun) vốn là do chữ Hán 訓 (huấn) vứt bỏ bớt bộ ngôn, chữ (sai) lại là do chữ Hán 齊 (tề) lược bớt nét mà thành.

B.1.2. Hiragana và Katakana (được gọi chung là Kana).

Khác với trường hợp B.1.1 chỉ xuất hiện ở một vài chữ lẻ tẻ không thành hệ thống, Hiragana và Katakana là kết quả của sự nỗ lực của giới tăng ni (Katakana) và giới nữ lưu quý tộc thời Heian (Hiragana). Phương pháp này tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu ghi âm một cách nhanh chóng đối với một ngôn ngữ đa âm tiết như tiếng Nhật(9).

B.2. Kết hợp các chữ lược nét

B.2.1. Kết hợp chữ Hán lược nét

Ở dạng này hai chữ Hán cấu thành đã được lược đi khá nhiều nét trước khi chúng kết hợp với nhau. Ví dụ ( ) là do hai chữ Hán 佛 và 頂 viết giảm bớt hai bộ thủ (bộ nhân đứng và bộ hiệt) mà thành. Hoặc như chữ ( ) là do hai chữ Hán và 迦 lược bớt hai bộ thủ (bộ hòa và bộ xước) mà ra.

B.2.2. Kết hợp hai chữ Kana.

Hệ thống Kana như đã trình bày ở B.1.2. gồm 48 chữ Hán viết lược nét để ghi âm tiếng Nhật. ở tiểu loại này lại thấy dùng 2 chữ Kana để tạo thành một Hòa tự mới. Ví dụ: Chữ (toki) là kết hợp của hai chữ to 卜 và ki, chữ (tomo) là kết hợp của hai chữ to 卜 và mo mà thành. Đôi khi lại thấy kết hợp của ba chữ Kana như chữ (katana) là kết hợp của ba chữ 力 , 田 và 十 mà ra.

B.3. Kết hợp các chữ Hán.

B.3.1. Kết hợp ý nghĩa của hai chữ Hán(10).

Dạng này cũng giống như chữ Nôm có cấu tạo ý + ý. Đây là loại chữ mượn ý nghĩa của hai chữ Hán để tạo thành nghĩa mới cho Hòa tự. Ví dụ: Chữ kuruma nghĩa “xe người kéo”. Chữ shikimi nghĩa “loài cây dùng để cúng Phật, gỗ của nó có hương thơm”. Chữ nagi nghĩa “lặng gió”.

B.3.2. Kết hợp âm thanh.

Đây là loại mà âm đọc của nó có thể biết được ngay khi ta đã biết âm đọc của hai chữ Hán cấu tạo nên chúng. Có thể tham khảo hai chữ sau đây: chữ âm đọc là maro, là do đọc liền âm của hai chữ ma ro. Cũng vậy với chữ âm đọc kyoudai.

Qua sơ bộ khảo sát có thể thấy sự khác nhau khá rõ giữa chữ Nôm Việt và Hòa tự của Nhật Bản. Trong tiếng Nhật có sự tách bạch giữa chữ Hán và Hòa tự. Tương ứng với nó là sự đối lập giữa chữ mượn nguyên và chữ tự tạo trong hệ thống chữ Nôm.

Âm đọc chữ Hán ảnh hưởng tới tiếng Nhật và để lại ở đó 3 lớp âm: âm thượng cổ, Goon và Kanon (âm thời Đường). Các đợt tiếp xúc sau đó nếu có cũng không thấy lưu lại kết quả trong tiếng Nhật. Thế nhưng ở Việt Nam, sau thời Đường, âm đọc chữ Hán vẫn tiếp tục ảnh hưởng vào tiếng Việt để cuối cùng tạo nên một lớp âm mà các nhà nghiên cứu vẫn gọi là âm hậu Hán Việt.

Chữ lược nét và dạng kết hợp chữ lược nét ở Hòa tự là khá phổ biến trong khi hiện tượng này chỉ lẻ tẻ xuất hiện trong các văn bản Nôm. Thay vào đó trong chữ Nôm còn có dạng thêm ký hiệu phụ (như xa, ma, cá, cự, nháy và thậm chí cả bộ khẩu nữa) như một dấu hiệu chỉnh báo về âm đọc, loại này lại không thấy trong Hòa tự.

Đặc biệt là do đặc điểm về loại hình ngôn ngữ gần gũi giữa tiếng Hán và tiếng Việt, nên ở chữ Nôm đã có thể áp dụng phép hình thanh trong Hán ngữ để tạo nên những chữ Nôm có cấu trúc âm + ý. Nhờ có phép cấu tạo này mà một lượng lớn chữ Nôm tự tạo được hình thành mà người Nhật Bản dẫu muốn cũng không thể làm được.

Có thể xem bảng sau đây để thấy rõ sự khác nhau giữa chữ Nôm Việt và Hòa tự.

Bảng 1: Bảng so sánh Chữ Nôm và Hòa tự

* Ở bảng này, phần in nghiêng dành cho những loại chữ chỉ xuất hiện đơn lẻ ở một phía, không có đối tượng để so sánh. Ví dụ: như loại chữ thêm nét (chữ Hán + ký hiệu phụ) chỉ có trong chữ Nôm tự tạo mà không xảy ra ở Hòa tự.

3. Chữ Nôm ghi tổ hợp phụ âm đầu và hiện tượng tương tự trong Hòa tự

Để giải thích âm đọc của một chữ Hán mới, người Trung Quốc thường dùng các phương thức chú âm sau:

Độc nhược là phương thức đã được Hứa Thận dùng trong cuốn Thuyết văn giải tự. Theo phương thức này, một chữ Hán mới được chú âm đọc bằng một chữ Hán khác có âm gần giống. Tương tự như vậy có phương thức còn gọi là trực âm. Đây là phương thức mượn một chữ Hán đồng âm để chú âm cho một chữ Hán mới. Ví dụ dùng 但 để giải thích âm đọc cho 誕. Điều có thể dễ dàng nhận thấy là cả hai phương thức này đều dựa vào hiện tượng đồng âm trong chữ viết và ngôn ngữ. Nhưng hai phương thức này sẽ mất hiệu lực khi gặp phải chữ Hán cần chua âm đọc mà bản thân nó không tìm thấy cho mình một chữ đồng âm nào khác. Để khắc phục điểm hạn chế đó, vào khoảng thế kỷ thứ II phép phiên thiết được tạo ra để chú âm đọc cho chữ Hán. Khác với 2 phương thức trên - từng âm tiết được thể hiện bằng những chữ Hán khác nhau nhưng vẫn không hề bị chia cắt; ở phép phiên thiết để chú âm đọc cho một chữ Hán nào đó cần phải dùng đến hai chữ Hán khác mà âm đọc của chúng có một phần tương đồng với chữ đã cho (có thể là thanh mẫu hoặc có thể là vận mẫu). Quá trình diễn ra như sau: Để phiên một chữ Hán X thì phải cần đến 2 chữ Hán A và B, chữ A có thanh mẫu tương đồng với thanh mẫu của X, vận mẫu của chữ Hán B tương đồng với vận mẫu của X; tách đôi âm tiết A và B. Sau đó lấy phần tương đồng của A và B với X ta sẽ có âm đọc cho X. Ví dụ chữ điền được chú âm: điền đồ niên thiết. Quá trình phiên thiết được hệ thống hóa như sau(11).

Bảng 2: Cách chú âm trong phiên thiết

Việc phát minh ra phép phiên thiết và sử dụng nó để chú âm cho các chữ vuông Hán cho thấy các nhà ngữ văn học Trung Hoa đã biết dựa trên đặc thù ngôn ngữ và chữ viết của họ để tìm tòi và sáng tạo những thủ pháp phân tích ngôn ngữ học đối với các âm tiết Hán. Phép phiên thiết ra đời cho phép chú âm được nhiều hơn và chính xác hơn các chữ Hán. Vậy trước làn sóng ảnh hưởng ồ ạt của chữ Hán và văn hóa Hán tới các nước trong khu vực thì liệu phép phiên thiết có ảnh hưởng tới tiếng Việt và tiếng Nhật hay không? Các nhà ngữ văn học Việt Nam và Nhật Bản đã tiếp nhận và kế thừa nó như thế nào?

Nếu để ý đến tình hình ở Việt Nam thì phải chăng đó cũng là một dạng cải biến của phép phiên thiết. Trong các văn bản Nôm trước thế kỷ XVII, để ghi tổ hợp phụ âm đầu cũng đã diễn ra quá trình cắt nhập âm tiết, quá trình này lại tiến xa hơn một bước - đó là vứt bỏ vận mẫu của chữ phiên thứ nhất, nhập thanh mẫu của chữ phiên thứ nhất và thứ hai vào để làm thanh mẫu cho chữ cần chú (thanh mẫu kép - tổ hợp phụ âm). Ví dụ: ba + lại Õ blai.

Như vậy quá trình tách âm chỉ xảy ra ở chữ phiên thứ nhất còn chữ phiên thứ hai thì hoàn toàn “bình yên vô sự”.

Tiếng Việt và tiếng Hán có điểm tương đồng về loại hình ngôn ngữ nên việc ứng dụng và cải biến phép phiên thiết để rồi cắt nhập âm tiết như trên là hoàn toàn có thể xảy ra. Thế nhưng với tiếng Nhật thì ra sao? Liệu người Nhật có thể ứng dụng được phép phiên thiết một cách linh hoạt như người Việt hay không?

Với đặc trưng âm tiết hoàn toàn trùng với âm vị, hệ thống âm tiết tiếng Nhật chỉ có các âm tiết nguyên vẹn bao giờ cũng xuất hiện như là một đơn vị ngữ âm nhỏ nhất không thể chia cắt được nữa cho nên dù rất muốn nhưng người Nhật cũng không thể ứng dụng phép phiên thiết một cách có hiệu quả. Ta hãy thử xem người Nhật ghép âm hai chữ Hán để tạo thành một Hòa tự mới ra sao: Ma + ro " Ma ro, Ku + me " Kume. Có thể khái quát quá trình trên như sau:

Bảng 3: So sánh cách chú âm trong tiếng Hán, Việt và Nhật

Ở chữ Nôm đó là sự cắt, nhập âm tiết để ghi tổ hợp phụ âm đầu trong các văn bản Nôm cổ; còn ở Hòa tự chỉ đơn thuần là sự lắp ráp âm đọc của hai chữ Hán để cho âm đọc của Hòa tự mà thôi. Bởi vậy nếu biết âm đọc của hai chữ Hán là ta có thể biết ngay âm đọc của Hòa tự bằng cách đọc liền hai chữ Hán đó. Tuy nhiên để đọc đúng đôi khi cần có sự quan sát tổng thể chữ bởi lẽ không phải lúc nào các chữ Hán đó cũng được đọc theo tuần tự như khi viết (trên " dưới, trái " phải) mà lại là ngược lại.

Trên đây là những nhận thức ban đầu của chúng tôi khi tìm hiểu về Hòa tự của Nhật Bản. Dù cho có những điểm khác nhau giữa chữ Nôm và Hòa tự cũng không thể phủ nhận một thực tế là có sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Nhật với tiếng Việt, giữa tiếng Nhật và tiếng Việt với tiếng Hán. Dù cho cách ghi âm trong Hòa tự bằng cách ghép âm hai chữ Hán ngẫu nhiên được tạo ra thì cũng không thể loại trừ khả năng tổ tiên người Nhật xưa kia đã có những tham chiếu ít nhiều với hiện tượng phiên thiết trong Hán ngữ cổ đại cũng như việc vận dụng nó để ghi âm trong chữ Nôm cổ để ghi âm Nhật.

L.M.H

CHÚ THÍCH:

(1) Tiếng Nhật khi tiếp xúc với chữ Hán đã đưa đến kết quả là hình thành âm đọc Goon, Kanon, Kunyomi, dạng Kanji Kana majiribun, Waji... Cụ thể xem: Tiếng Nhật và tiếng Việt trong khu vực văn hóa Hán của Lã Minh Hằng, Tạp chí Hán Nôm số 6 (55)/ 2002.

(2) Về chữ tục thể trong sự so sánh với chữ chính thể, xin xem: Phác Can: Chữ tục thể, Tạp chí Hán Nôm số 2/ 1997.

(3) Etsuko Obata Raiman trong chuyên luận về chữ Quốc tự “日 本 人 漢 字” 南 雲 堂, 1990.

(4) 漢 字 文 化 圈 , 藤 堂 明 保 著 , 東 京 1988.

(5) 國 字 字 典,東 京 堂 出 版 , 2001.

Âm đọc chữ Hán ở Việt Nam gồm âm tiền Hán Việt (âm đọc chữ Hán trước thời nhà Đường), âm Hán Việt và âm hậu Hán Việt (âm đọc chữ Hán sau thời Đường). Cũng có nhà nghiên cứu lại dùng âm cổ Hán Việt, âm Hán Việt và âm Hán Việt Việt hóa. Xem Nguyễn Quang Hồng: Hiện tượng âm dương đối chuyển trong Hán ngữ và đôi điều liên hệ với Việt ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1994.

(7) Các ví dụ trên được lấy từ “漢 字 化 圈”Sđd, tr. 148

(8) Cách phân loại Hòa tự ở bài viết này tuân theo nguyên tắc phân loại đã được quy định ở 國 字 字 典, Sđd.

(9) Hiragana và Katakana được gọi chung là Kana, Đây là hệ thống mà người Nhật Bản mượn 48 chữ Hán giản lược đi để ghi âm. Có thể tham khảo một số chữ Kana này trong Tiếng Nhật và tiếng Việt trong khu vực văn hóa Hán, Sđd.

(10) Về dạng chữ này xin xem Lã Minh Hằng: Tiếng Nhật và việc dùng các thành tố Hán để biểu thị ý nghĩa trong hệ thống Waji hội ý trong Nhật Bản - Việt Nam những vấn đề văn hóa, Nxb. Văn hóa, H. 1994.

(11) Nguyễn Quang Hồng: Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb. KHXH, H. 1994.

(12) Ishii Kosei: Chữ Nôm tiếng Việt và chữ Hán dùng để mô phỏng âm trong tiếng Phạn, Bản dịch của Lã Minh Hằng đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 6 (55) - 2002. Nhân đây dịch giả xin có lời cảm ơn tới ông Onishi Kazuhiko đã đọc duyệt bản dịch trước khi in.

Sơ đồ cấu trúc chữ Nôm

TB

TỪ PHÚ TRUNG QUỐC
ĐẾN PHÚ VIỆT NAM

NGUYỄN ĐÌNH PHÚC

Phú là một thể tài văn học xuất hiện tương đối sớm ở Trung Quốc. Ngay từ những thế kỷ trước công nguyên, nó đã trở thành một phương tiện biểu đạt quan trọng không thể thiếu trong đời sống tình cảm của người Trung Quốc. Từ cái nôi văn hóa này, phú đã ảnh hưởng sâu sắc đến các nền văn học khác, trong đó đặc biệt phải kể đến Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. ở bài viết này, chúng tôi chủ yếu bàn về sự ảnh hưởng của phú học Trung Quốc đến phú học Việt Nam.

I. Phú Trung Quốc

Xét từ góc độ Từ nguyên, “phú” được dùng trong văn học cổ bao hàm ba nghĩa:

Thứ nhất, “phú” được dùng với tư cách một động từ, chỉ thói quen “phú thi ngôn chí” của các nhà ngoại giao thời Xuân Thu.

Thứ hai, “phú” được hiểu với tư cách một thể tài văn học.

Thứ ba, “phú” được hiểu với tư cách một thủ pháp nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mao Thi tự chép: “Thi hữu lục nghĩa yên: nhất viết phong, nhị viết phú, tam viết tỷ, tứ viết hứng, ngũ viết nhã, lục viết tụng”, chính hiểu theo nghĩa này sáng tác thơ có sáu cách: thứ nhất là phong, thứ hai là phú, thứ ba là tỷ, thứ tư là hứng, thứ năm là nhã, thứ sáu là tụng.

Với ba nghĩa phong, phú, tỷ của phú, rõ ràng cần có sự phân biệt mỗi khi đề cập. Mặt khác giữa chúng lại có mối liên hệ khăng khít, nói đúng hơn là chuyển hóa trong một quá trình phát triển từ thấp tới cao. Từ một động từ, “phú” đã phát triển thành một thể tài và sau đó là một thủ pháp nghệ thuật.

“Phú” với tư cách một thể tài văn học được bắt đầu với Phú Thiên của Tuân Khanh. Trong sự phân biệt rạch ròi với Sở Từ, Tuân Khanh được coi là người đầu tiên viết phú, lấy “phú”mệnh thiên, và là ông tổ của phú học Trung Quốc. “Phú” với tư cách một thể tài bao hàm hai nghĩa: thứ nhất là một thể tài dùng để phúng tụng (ngâm, đọc diễn cảm); thứ hai là thể tài mang đặc trưng phô trần. Văn chương cổ xưa chia làm hai loại: nhập nhạc và không nhập nhạc. Loại không nhập nhạc lại chia thành đồ ca và phúng tụng. Lưu Hướng nói: “Bất ca nhi tụng vị chi phú” (Không ca mà tụng bảo là phú). ở đây “bất ca” đã phản ánh tính chất không nhập nhạc của phú. Với hai chữ “phúng tụng”, Trịnh Huyền trong Chu Lễ chú giải thích: “Bối văn viết phúng, dĩ thanh tiết chi viết tụng”, (Đọc mà không nhìn văn bản gọi là phúng, điều tiết giọng đọc cao thấp bổng trầm là tụng). Rõ ràng “phú” là thể tài chỉ dùng để đọc chứ không dùng để ca. ở nét nghĩa thứ hai, “phú” có âm cận nghĩa đồng với các chữ “phu”, “bố”, “phô”. Thời cổ, những chữ này thường dùng thông nhau, thế nên, đã lấy phú mệnh danh, thể tài này cũng đồng thời mang “phô trần chi nghĩa”. Trịnh Huyền trong Chu Lễ chú nói: “Phú” chi ngôn “phu”, trực phô trần chính giáo thiện ác (“Phú” giải thích là “phu”, chính vì nó trực tiếp phô bày những tốt xấu của nền chính giáo dục vậy). Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng nói: “Phú giả, phô giả, phô thái văn, thể vật tả chí dã” (“Phú” chính là phô bày vẻ đẹp để thành văn, lấy sự vật để sả chí).

Với tên gọi “phú”, thể tài này đã thể hiện phần nào đặc trưng của mình về âm tiết, cũng như những yếu tố tu từ khác, những đặc trưng này tuy đôi lúc cũng bắt gặp ở một số thể tài khác, nhưng chỉ ở phú chúng ta mới được thể hiện thật tập trung.

Trước hết, về mặt âm tiết, “bất ca nhi tụng” đã thể hiện rõ “phú” là thứ vận văn không nhập nhạc, nhưng lại mang tiết tấu có thể ngâm tụng. Đặc trưng này đối với việc tác phẩm văn học thoát ly ảnh hưởng của âm nhạc, thiết lập cái đẹp về mặt tiết tấu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là bước tiến rất lớn trong văn học Trung Quốc cổ đại.

Về mặt thể chế, phú là tổng hợp của vận, biền và tản văn, thế nên, phú vận được dùng nhiều ít không nhất định, cú pháp cũng không câu thúc giữa biền và tản văn. Điều này có lẽ bởi đời Hán, sự phân biệt giữa biền và tản văn chưa thật rõ. Sau này, cùng với sự biến thiên của thời đại và cách hành văn, cú pháp cũng theo đó mà thay đổi. Ví như từ đời Lục triều đến đời Đường, cú pháp thiên về phức bút, hình thành nên hai loại thể biền luật phú; ngược lại, từ Tống về sau, cú pháp thiên về đơn bút, hình thành nên thể văn phú.

Về mặt phong cách, lời văn của phú đặc biệt khoa trương. Như đã nói ở trên, phô trần là bản nghĩa của phú, và khi lời văn đạt đến quá mức độ phô trần, ấy là khoa trương. Từ đời Hán, khi luận phú, Dương Hùng đã chú ý đến đặc trưng này, hậu nhân đa số phụ họa theo. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long nói: “Cực thanh mạo dĩ cùng văn” (Cực lực miêu tả thanh âm hình mạo để thể hiện rõ vẻ đẹp của văn chương) có thể coi là tổng quát của đặc trưng này.

Về mặt tổ chức bài phú, có thể nói, không chỉ Hán phú, mà cả biền, luật và văn phú đều có chung một đặc điểm là dùng lối vấn đáp giữa chủ khách để cấu thành phú thiên. Dùng hình thức này có lợi thế đặc biệt cho việc phô trần, nhất là có thể đem vấn đề mổ xẻ ở nhiều góc cạnh, hết sức cụ thể và tinh tế. Đặc trưng này có lẽ bắt nguồn từ phong khí du thuyết hết sức thịnh hành vào thời Chiến Quốc.

Một đặc trưng nữa của phú là, phú có thể dùng phúng tụng, nói đúng hơn là phúng gián. Đặc trưng này bắt nguồn từ Kinh Thi, tác dụng của nó thiên về khuyên răn. Như đã biết, phú là sản phẩm của Nho gia, được hình thành sau khi tư tưởng này đã phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Nho gia đặc biệt coi trọng tính giáo dục của văn chương, phú với tư cách là bộ phận của văn chương, bởi vậy không thể không kế thừa đặc trưng này. Chỉ có điều ý nghĩa tích cực là phúng gián không địch lại được ý nghĩa tiêu cực là khoa trương. Bởi thế, Dương Hùng cũng phải than rằng: “Khuyến bách phúng nhất”. Đây cũng là mâu thuẫn lớn trong bản thân thể phú.

II. Phú Trung Quốc truyền vào Việt Nam

Phú Trung Quốc bắt đầu truyền vào Việt Nam từ khi nào, hiện khó có đáp án chính xác. Cứ theo phú là sản phẩm của Nho gia, có thể đoán rằng nó đã đồng bước với Nho giáo truyền vào Việt Nam. Sau khi Nam Việt thuộc Hán, Nho học ồ ạt tràn vào nước ta, kết quả là việc hình thành của lớp trí thức Hán học đầu tiên ở Việt Nam. Trong số những người này, một bộ phận không ít đã nhập sĩ Trung Nguyên, mà điển hình nhất là Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm... Đương nhiên khi ấy điều kiện nhập sĩ không phải thông qua thi phú, nhưng trong một xã hội nổi cộm với phong khí viết và hiến phú, ai dám chắc những vị này chưa từng tác và hiến phú ! Nhưng dẫu sao những kiến giải trên đây cũng chỉ là suy đoán, thiếu bằng chứng xác thực. Trong tình trạng cho phép hiện nay, những chứng cứ xác thực cho việc phú Trung Quốc truyền vào Việt Nam chỉ có thể truy ngược đến đời Đường.

Thời Đường là thời đại hoàng kim của văn học và văn hóa Trung Quốc. Đối với văn hóa Việt Nam, văn hóa Đường có ảnh hưởng đặc biệt sâu rộng. Điều này lâu nay nhiều học giả đã đề cập đến, ở đây chỉ dừng lại với khoa Tiến sĩ trong khoa cử đời Đường.

Khoa cử bắt đầu từ đời Tùy. Khi Tùy Dạng Đế thiết lập khoa cử, trong đó đã có khoa Tiến sĩ. Đầu đời Đường, khoa cử bao gồm các khoa như Tú tài, Minh kinh, Tuấn sĩ, Tiến sĩ v.v... Năm Vĩnh Hưng thứ hai đời Đường Cao Tông, đình chỉ khoa Tú tài, từ đó sĩ tử tập trung vào hai khoa Tiến sĩ và Minh kinh, nhưng khoa Tiến sĩ được coi trọng hơn, thế nên đương thời có câu: “Tam thập lão Minh kinh, tứ thập thiếu Tiến sĩ” (Ba mươi tuổi đậu Minh kinh đã là già, bốn mươi đậu Tiến sĩ vẫn là trẻ). Khoa Tiến sĩ ban đầu chỉ thi sách vấn, sau mới thêm kinh sử và tạp văn. Nhưng thi tạp văn từ bao giờ, trong tạp văn phải chăng trước sau đều nhất quán thi phú. Liên quan đến vấn đề này, sách sử ký cũ chép cũng không nhất quán. Chương Tuyển cử chí trong Tân Đường thư và chương Tuyển cử trong Thông chí đều chép thi tạp văn vào năm Vĩnh Long thứ 2 (681), sách Đường Chích ngôn chép năm Điều Lộ thứ 2 (680). Điều Lộ thứ 2 tức năm Vĩnh Long thứ nhất, hai mốc cách nhau 1 năm. Cựu Đường thư, quyển 9, phần Huyền Tông bản kỷ hạ chép: “Tháng 5 mùa hạ [năm Thiên Bảo thứ 13 (754)], vua ngự thí tại điện Cần Chánh, thí sinh dự thi ngoài sách vấn ra còn phải làm thêm mỗi người một bài thơ và một bài phú. Khoa cử lấy thi, phú làm nội dung thi bắt đầu từ đây”. Nhưng sách Đường Chích ngôn lại chép: “Đến năm Thần Long thứ nhất (705) mới thực hành chế độ thi tam trường, bởi vậy liền xếp thi, phú vào nội dung thi”. Như vậy, thời điểm tuy không nhất định, nhưng có thể nói, lấy phú cử sĩ chỉ bắt đầu với khoa Tiến sĩ đời Đường. Ngoài ra, đương thời còn có chế độ chế cử, tức do Hoàng đế hạ chế tuyển chọn nhân tài chuyên về một lĩnh vực nào đó. Chế độ này có từ đời Hán, nhưng nội dung thi chủ yếu là sách vấn. Đời Đường tuy từng thay vào đó là thi, phú; nhưng chế cử thường không đều, Hoàng đế chỉ hạ chỉ khi cần thiết, thế nên cũng không ảnh hưởng nhiều đến điều chúng ta đang xét. Điều đáng nói ở đây là khoa Tiến sĩ đời Đường dùng thi, phú cử sĩ không những ảnh hưởng lớn đến thành tựu thi, phú đời Đường, mà còn ảnh hưởng đến cả thi và phú Việt Nam.

Đời Đường, Giao châu bị đổi thành An Nam độ hộ phủ. Khác các triều đại khác, với mục đích quảng nạp nhân tài, các vua Đường đã tối đa sử dụng phương tiện khoa cử. Ngoài thí sinh Hán tộc, Đường chế cho phép con em dân tộc thiểu số, thậm chí cả những thí sinh thuộc những quốc gia khác, nhưng đang bị đặt dưới sự quản lý của Đường triều cũng được dự thi. Sách Đường hội yếu, quyển 75, mục Nam tuyển chép: “Ngày 7 tháng 8 năm Thượng Nguyên thứ 3 (676), Cao Tông hạ chỉ: “Gần đây các châu Quế, Quảng, Giao, Kiềm,... việc bổ nhiệm quan chức chưa được thích đáng. Từ nay về sau, phải theo lệ cũ, cứ 4 năm một lần, chọn những quan thanh liêm ngũ phẩm trở lên, sung vào việc tuyển bổ...”. Tháng 7 năm Thiên Bảo thứ 13, Huyền Tông hạ chỉ: “Trẫm nghe chốn Lĩnh Nam gần đây Nho học phát triển rất mạnh. Từ nay về sau, cho phép những kẻ áo vải văn tài trong chốn ấy được dự thí, kẻ nào đậu thì tâu rõ cho Trẫm biết. Những kẻ ấy, kẻ nào muốn tới Trường An thi tiếp cũng cho. Theo quy chế chọn nhân tài ở đó trước đây, những kẻ có thực tài đều cho phép tham gia các kỳ thi cao hơn, đồng thời ban cho chức quan ngay cả ở phương Bắc”. Sự thông thoáng trong khoa cử đời Đường đã là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo nói chung, phú học nói riêng tại Việt Nam. Điều này cho phép chúng ta suy đoán rằng, khi ấy có cả một phong trào tập nho, tập tác thi, phú tại Việt Nam. Thời Đường số lượng kẻ sĩ Giao Châu vào Trung Nguyên không ngừng gia tăng, trong đó không ít người đỗ Tiến sĩ và từng giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy thống trị trung ương. Với tư cách Tiến sĩ cập đệ, họ không thể không thông qua khảo phú, chỉ tiếc những bài mà họ viết không còn lưu lại đến nay. Trong tình trạng thiếu thốn về cứ liệu như hiện nay, Bạch Vân chiếu xuân hải phú, một thiên phú duy nhất còn lại của Trương Công Phụ(1), chép trong Văn uyển anh hoa đời Bắc Tống có thể coi là nút mở cho mọi sự thắc mắc. Bạch Vân chiếu xuân hải phú viết theo lối luật phú, một thể chuyên dùng trong khoa cử, lời lẽ tao nhã, vượt khỏi sự sáo mòn nói chung của thể phú, nó được người Trung Quốc đánh giá là “thiên cổ chi tuyệt xướng”, là tác phẩm đánh dấu sự mở màn của phú Việt Nam.

Vào thế kỷ thứ X, giai đoạn đầu, ngay sau khi nước ta được độc lập, nảy sinh ý thức dân tộc muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào phong kiến Trung Quốc mà Nho giáo có phần đi xuống. Những gì đã được gây dựng trong suốt mấy thế kỷ thuộc Đường phần nhiều bị thui chột, phú đương nhiên không nằm ngoài tình trạng này. Nhà nước lấy Phật giáo làm tư tưởng chỉ đạo ắt không phải là miếng đất màu mỡ cho phú phát triển. Nhưng thời ấy không phải không có người tác phú, ngược lại phú luôn luôn gắn liền, không hề đứt đoạn trong suốt quá trình tồn tại của nhà nước phong kiến Việt Nam.

Bàn luận về phú đời Lý, nhiều học giả có quan điểm “Lý triều vô phú” (triều Lý không có phú), điều này theo chúng tôi không hẳn như thế. Những tư liệu cổ xưa mách bảo chúng ta rằng, phú vẫn được coi trọng ở đời Lý, nhất là từ đời vua Thái Tông trở về sau. Việt sử lược, quyển 2, phần Thái Tông kỷ chép: “Năm Quý Mùi, niên hiệu Minh Đạo thứ 2 (1043),... mùa hạ, tháng 4 vua đi thăm chùa Tùng Sơn thuộc châu Vũ Ninh, thấy ở trong ngôi điện đã đổ nát của chùa có cây cột đá bị nghiêng, vua động lòng mới có ý trùng tu, cột đá bỗng đứng ngay trở lại. Nhân đó bèn sai bậc nho thần làm bài phú để ghi điều lạ ấy”.

Quyển 3, Cao Tông kỷ chép: “Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Trinh Phù thứ 4 (1179),... Mạnh đông, vua ngự Sùng Chương điện coi thi khoa tam giáo, thí sinh thi các môn thơ cổ, phú, kinh nghĩa. Vua cho hạng cập đệ và xuất thân có sự khác biệt nhau.”

Như vậy với cách “dĩ phú cử sĩ” triều Lý đã có, hoàn toàn không phải đợi đến đời Trần. Việc sáng tác phú khi ấy ắt không chỉ dừng lại ở mục đích khoa cử, mà còn mở rộng đến các lĩnh vực khác, không chỉ thu hẹp trong đội ngũ nho sĩ, mà còn khuếch trương đến cả đội ngũ tu sĩ, thiền sư. Thiền uyển tập anh, quyển hạ, Viên Thông quốc sư truyện chép: “Quốc sư Viên Thông (1080-1151), người làng Cổ Hiền, họ Nguyễn, húy Nguyên ức... Sư thường phụng chiếu soạn các sách thỉnh Phật tích duyên sự trên hơn 30 quyển; Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục, hơn 50 quyển; thi, phú hơn một ngàn bài, tất cả còn lưu hành đến nay”. Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ văn học sử và Vũ Khắc Tiệp trong Phú Nôm đều cho rằng, đời Lý đã có nhiều người viết phú, chỉ tiếc là không còn truyền lại.

Sang đầu thế kỷ XIII, ngay sau khi nhà Trần thay nhà Lý, với mục đích thu hút nhân tài, nhanh chóng xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh mà Nho giáo cũng như văn hóa Nho giáo có điều kiện bộc phát. Sự phát triển của khoa cử cộng thêm sự hình thành và đi vào cố định 7 năm 1 lần của Tiến sĩ khoa dưới đời Trần là yếu tố tiên quyết thúc đẩy sự phát triển của thể loại phú. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5, Trần Thái Tông kỷ chép: “Năm Thiên ứng Chính Bình thứ 15 (1246)... mùa thu, tháng 7 định lệ thi Tiến sĩ, cứ bảy năm một khoa... Năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng La Ma đỗ Thám hoa lang... Trước đây hai khoa Nhâm Thìn (1232) và Kỷ Hợi (1239) chỉ xếp theo thứ tự, chưa chọn tam khôi, đến khoa này mới đặt tam khôi”.

Triều Trần cũng coi phú là một trong những nội dung thi quan trọng của khoa Tiến sĩ . Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 6, Trần Anh Tông kỷ chép: “Năm Hưng Long thứ 12 (1304), tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước,... Về phép thi: trước hết thi ám tả để loại bớt; rồi đến thi kinh nghi (hỏi những điều nghi ngờ trong kinh), kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thơ ngũ ngôn trường thiên, lấy bốn chữ “tài, nan, xạ, trĩ” làm vận, phú dùng 8 vận “đế đức hiếu sinh, hợp vu dân tâm”. Trường thứ 3 thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ 4 thi văn sách. Quyển 7, Dụ Tông Hoàng đế kỷ cũng chép: “Năm Thiệu Phong thứ 5 (1345), mùa xuân, tháng 3, thi thái học sinh (tức Tiến sĩ). Phép thi dùng ám tả, cổ văn, kinh nghĩa và thi phú”. Năm Quang Thái thứ 9 (1396), Thuận Tông xuống chiếu quy định cách thức thi chọn nhân tài, bắt đầu áp dụng chế độ tứ trường, đồng thời bãi bỏ môn ám tả và cổ văn. Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 26, thiên Khoa mục chí chép: “... Đến đây theo phép thi của nhà Nguyên, dùng chế độ tứ trường, loại bỏ ám tả và cổ văn. Trường thứ nhất thi một bài kinh nghĩa,...; trường thứ nhì thi một bài thơ dùng Đường luật, một bài phú dùng cổ thể, hoặc thể tao, hoặc dùng thể văn tuyển, cũng hạn 500 chữ trở lên; trường thứ ba thi một bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ một bài, dùng thể tứ lục đời Đường; trường thứ tư thi văn sách một bài, ra đề về kinh sử hoặc thời vụ”. Ngô Sĩ Liên nói: “Phép thi đời Trần đến đây mới đủ 4 trường, phép này đến nay còn theo, không thay đổi được”.

Như vậy tính từ khoa Tiến sĩ đời Trần chính thức lấy phú vào nội dung thi, chế độ này được mãi về sau.

Từ những tiền đề đây, hoàn toàn không quá khi kết luận triều Trần là thời kỳ nở rộ của thể loại phú. Đó là bước thử nghiệm thành công đầu tiên, tạo tiền đề cho phú học Việt Nam phát triển đến đỉnh điểm vào thời Lê sơ.

III. Về loại thể, phú Việt Nam

Về loại thể, phú Việt Nam theo Phạm Đình Hổ là “sự pha tạp giữa phú thể đời Nguyên và đời Minh” [Ngã quốc tứ lục, tắc nhân Nguyên, Minh chi thể nhi tạp tựu chi giả (Vũ Trung tùy bút, quyển hạ, mục tứ lục văn thể)]. Theo chúng tôi, quan điểm này chỉ thích hợp cho phú Việt Nam từ Lê sơ về sau, hoàn toàn không thể áp dụng cho Lý và Trần. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, quyển 4, Thiên Chương nói: “Nước ta thời Lý, thời Trần đối chiếu chính vào khoảng thời Tống, thời Nguyên bên Trung Hoa. Hiềm một nỗi, sách vở ghi chép về văn hóa bấy giờ sơ sót không tường. Tôi may cóp nhặt trong tập Kim thạch di văn được vài chục thiên, thì thấy văn đời Lý phần nhiều dùng lối biền ngẫu, lời văn văn hoa tươi đẹp, còn giống như thể văn đời Đường. Đến đời Trần thì văn chỉnh tề lưu loát, đã giống khí phẩm người đời Tống”.

Như trên đã nói, sau khi độc lập, Việt Nam có xu thế độc tôn Phật giáo tảy chay Nho học. Tình trạng này kéo dài mãi đến triều Lý Thái Tông mới phần nào khắc phục. Thế nên, Nho học đời Lý thực chất là tàn dư của Nho học đời Đường được truyền vào Việt Nam. Triều Lý ở giai đoạn giữa và cuối, tuy đã có ý thức trở lại tiếp thu văn hóa Trung Quốc, nhưng tư tưởng này vẫn chưa thật rõ. Hơn nữa, thể văn phú tuy đã có mầm mống từ trung Đường, nhưng đến Bắc Tống và mãi về sau vẫn chưa giành được vị trí chủ đạo, nói đúng hơn vẫn chưa thay được luật phú trong vị trí quan trọng là khoa cử. Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ, quyển 3, phần Văn nghệ chép: “Nhà Đường lấy từ phú chọn kẻ sĩ. áp vận không câu nệ thứ tự bằng trắc. Đầu đời Tống noi theo đấy. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), Vua mới hạ chiếu thi Tiến sĩ bằng luật phú, dùng vận theo thứ tự bằng trắc, khi các quan chủ khảo ra đề vận đều dùng tứ bằng trắc. Từ đó cách điệu mới chỉnh tề, mới thật khả quan, khả thính.” Chế độ này được dùng trong khoa cử cho mãi đến cuối đời Nguyên mới chuyển qua dùng cổ thể. Như vậy, khi mà triều Lý đã có nhu cầu học tập, thì từ một đối tượng tương đương với mình, tức luật phú, ắt cũng không học tập được gì nhiều. Về mặt khoa cử, hai triều Lý - Trần đều giống nhà Tống, dùng luật phú. Chứng cứ là năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), đề phú dùng 8 vận: “đế, đức, hiếu, sinh, hợp, vu, dân, tâm”. Quy định này đến mãi khoa Giáp Tý (1384) và chính thức là khoa Quý Dậu (1393) mới chính thức chuyển sang dùng cổ thể. Điều này đúng như họ Phạm nói, đó là sự chuyển đổi theo phép thi nhà Nguyễn mà thôi.

Điều cần xét tiếp theo là phú đời Trần nên xếp vào loại nào ? luật phú hay văn phú ? Tại sao lại xếp như thế ? Cứ theo quan điểm của Phạm Đình Hổ thì phải xếp phú thời Trần vào cổ phú. Nhưng Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, quyển 4, Thiên Chương lại nói: “Văn phú triều Trần rất kỳ dị hùng vĩ, lại lưu loát tươi đẹp, hơi giống vận điệu văn Tống”. ở đây chúng tôi đồng quan điểm với họ Lê, giải thích là, tuy triều Trần dùng luật phú cử sĩ, nhưng đương thời trong xã hội lại thịnh hành thể văn phú; điều này có phần tương tự với đời Tống ở Trung Quốc, tức tuy Tống chế dùng luật phú trong khoa cử, nhưng tiêu biểu cho Tống phú lại là văn phú, chứ không phải luật phú. Thực ra, phú đời Trần khi xếp vào văn phú cũng chỉ có nghĩa tương đối, bởi rằng trong phú đời Trần vẫn lưu lại không ít những yếu tố của luật phú. Thêm một điểm nữa là, những gì mà chúng ta đã xét, chỉ đúng với phú chữ Hán, chứ hoàn toàn không thích hợp với phú chữ Nôm. Lý do là phú chữ Nôm có rất nhiều đặc điểm khác xa với hai thể vừa xét. Về mặt thể chế, phú Nôm có thể sánh với Hán đại phú về trường độ và mức độ hoa mỹ. Điều này có nguyên nhân từ việc sử dụng tiếng Việt để sáng tác. Nếu như các phú gia Việt Nam bị hạn chế nhiều mặt trong việc dùng chữ Hán để sáng tác, thì việc dùng tiếng Việt có thể giải quyết được nhiều điều. Phú Nôm thường là trường thiên, lời lẽ hoa mỹ, văn cú ly kỳ, những đặc điểm này chỉ gặp trong Hán đại phú. Nhưng phú Nôm cũng không hoàn toàn là Hán phú, do hoàn cảnh ra đời tương đối chậm về sau, nó cũng chú ý hấp thu nhiều đặc điểm của các thể phú khác. Ví như chú ý đến vận luật, tính trôi chảy của câu văn từ luật và văn phú.

IV. Phú Việt Nam trong tổng quan so sánh với phú Trung Quốc

Phú Việt Nam với tư cách là một thể tài tiếp thu từ phú Trung Quốc, thế nên về mặt đặc trưng, 2 loại này cơ bản không khác nhau. Ngoài sự khác biệt không nhiều về mặt không gian, điểm sáng tạo lớn nhất của phú Việt Nam là về mặt chất liệu, tức từ một chất liệu đơn nhất là Hán tự, người Việt Nam đã vận dụng chính lời ăn tiếng nói của mình để viết phú, tạo nên một thể đặc sắc với chất liệu đặc biệt - phú Nôm. Tiếng Việt với tư cách một loại hình ngôn ngữ đơn lập với một lượng từ Hán Việt chiếm khoảng 70% tổng lượng từ vựng, cả hai đều hết sức thuận lợi cho việc phát triển của phú Nôm. Ngoài những điểm đã nêu, chúng ta khó tìm được những minh chứng ở cho sự khác biệt giữa chúng.

Thời cổ, các loại văn thể tùy theo công năng xã hội mà có địa vị cao thấp khác nhau. Cổ nhân khi sáng tác văn chương đặc biệt chú trọng đến việc lựa chọn văn thể. Trong vô vàn văn thể, phú thường được đặt ở vị trí tối cao. Điều này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thứ nhất, người sáng tác phú cần có thực tài, và cũng chỉ có phú mới biểu hiện được thực tài của phú gia. Ngụy Thâu chuyện trong Bắc Tề thư chép: “(Thâu) cùng Tế Âm Ôn Tử Thăng và Hà Gian Hình Tử Tài nổi tiếng đương thời, người đời gọi họ là tam tài... Thâu thấy Tử Thăng không làm phú, còn Hình chỉ có vài bài, thật không phải là người có tài về phú, nên thường nói: “Chỉ trong sáng tác phú mới có thể thành đại tài. Trong các thể văn, ngoài phú ra, chỉ có chương, biểu, bi, chí còn tạm tạm; ngoài ra tất cả chỉ là trò trẻ con, hoàn toàn không đáng đề cập”. Quan điểm của Ngụy Thâu được đưa ra trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của người xưa và người đương thời lúc đó, hậu nhân không một ai dị nghị về điều này. Như thế có thể thấy rằng, thời cổ văn nhân phần lớn quan niệm phú là loại văn thích hợp nhất để biểu hiện thực tài, và chỉ người có khả năng viết phú mới được coi là đại tài.

Thứ hai, trong sách vở cổ xưa, bất kể tổng hợp hay biệt tập, vị trí của phú đều đặt ở vị trí đầu sách. Quan điểm “phú tiên ư thi” không chỉ thấy ở hầu hết các sách vở Trung Quốc mà cũng đúng với điển tịch Việt Nam. Điều này một lần nữa chứng tỏ vị trí của phú trong lòng người xưa là rất cao.

Thứ ba, vào thời cổ người sáng tác phú có thể được phong quan tiến chức. ở đây có thể lấy việc Đỗ Phủ hiến Tam đại lễ phú làm đại biểu. Đỗ phủ nhập kinh cầu sĩ, nhiều lần ứng thí nhưng không đậu, lại thiếu người có quyền thế tiến cử, cùng đường chỉ còn biết chầu trực ở Thái Thanh cung, thái miếu và đàn tế nam giao để tiến phú; may được Huyền Tông thưởng thức, liền phong chức Đài chế Tập hiền Viện, từ đó mới bước chân vào đường hoạn lộ. Ngày xưa văn nhân hiến phú, may mắn được vua khen, đó là một việc hết sức vinh hạnh, nhưng cũng không ít người chịu sự lạnh lùng từ phía vua chúa. Ví như Tiền Khởi trong Tặng Khuyết hạ Bùi Xá nhân có câu:

“Hiến phú thập niên do bất ngộ,
Tu tương bạch phát đối hoa trâm.

(Hiến phú mười năm còn bất ngộ,
Thẹn đem bạch phát đối hoa trâm).”

Những điều nêu trên đây, trong sử sách Việt Nam, Trung Quốc ghi lại không ít, tưởng rằng không cần phải liệt kê thêm. Vấn đề cần chú ý là, tại sao cổ nhân lại đem phú đặt lên vị trí hàng đầu trong tất cả các văn thể? Từ bản thân phú phải có đặc điểm gì mới làm cho cổ nhân trọng thị đến thế? Quách Thiệu Ngu khi đánh giá vị trí của phú trong văn sử học Trung Quốc nói: “Trong văn học Trung Quốc có một loại văn thể đặc biệt chính là “phú”. Văn học Trung Quốc về một loại thể trước nay đều nhất quán chia thành 2 loại thi và văn, nhưng phú lại là trung gian giữa 2 loại này, đã không thuộc về văn cũng không thể quy về thi. Thế nhưng, đồng thời lại có một hiện tượng tương phản khác, phú vừa có thể gọi là văn vừa có thể gọi là thi, trở thành một loại thể lưỡng thê trong văn học. ở đây có nghĩa phú là loại văn thể tổng hợp của vận và tản văn. Phú gia muốn tác phú vừa có cái tài của nhà văn và nhà thơ, điều này thời xưa rất được coi trọng. Trong sự so sánh với các văn thể khác, phú gia trong quá trình trầm tư cấu tứ hay vận từ cần đầu tư nhiều hơn, với một đại phú hoàn mỹ. Thời cổ, một thiên đại phú có thể tốn 10 đến vài chục năm thời gian, bởi vậy một thiên đại phú cũng giống như bộ từ điển chuyên đề hết sức đầy đủ và rõ ràng. ở Việt Nam, Lê Thánh Tông để viết xong Lam Sơn Lương thủy phú, thiên phú dài nhất còn lưu lại của Việt Nam cũng cần gần 30 năm (1461 - 1478).

Nhưng cổ nhân sở dĩ trọng phú còn có một nguyên nhân quan trọng khác, đó là phú là sự tổng hợp cao độ của văn học và học thuật. Như chúng ta đã biết học thuật cổ đại đặc biệt coi trọng tính bác học, bình phẩm một con người cũng nhìn nhiều ở góc độ học thuật đa năng. Các nhà nho xưa quan niệm: “nhất vận bất tri, nho giả chi sỉ” (một vận không biết rõ, đó là nỗi nhục của nhà nho). Hậu nhân phần nhiều tiếp thu quan điểm này, cho rằng “nho giả” phải là người không gì không biết, không gì không thể. Trong tiểu thuyết chương hồi, khi hình dung một nhân vật có tài, thường tán thán bằng câu: “trên thông thiên văn, hạ đạt địa lý, tam giáo cửu lưu, chư tử bách gia, không gì không thông, không gì không hiểu”. Đối với những người chuyên tinh nhất nghệ thì thường bị xem thường, dè bỉu, hoặc bị chê là “điêu trùng tiểu kỹ” hoặc “chỉ biết một mà không biết hai”...

Phú tuy được nhiều người xem trọng, nhưng vẫn không ít ý kiến bỉ thị, ví như cho rằng địa vị phú gia không khác tên hề góp vui, tác dụng của phú “khuyến bách phùng nhất”, hoặc phú là văn thể phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị... Chúng tôi cho rằng, bất kể quan niệm nào đều có nguyên nhân sâu xa của nó, muốn hiểu, bắt buộc phải đi sâu vào tìm tòi khám phá.

N.Đ.P

CHÚ THÍCH:

(1) Khương Công Phụ (780-805) có tổ phụ là Khương Thần Dực, thân phụ là Khương Đình, quê quán ở huyện Nhật Nam thuộc ái Châu, mộ để tại xã Phượng Dực, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngày nay. Thân mẫu người xã Sơn Ôi cùng huyện.

TB

MỘT TRƯỜNG HỢP “LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN” TRONG NGHIÊN CỨU SỬ

TRƯƠNG MINH ĐẠT

Trong sáng tác tiểu thuyết, hư cấu là một đặc trưng bộc lộ sức sáng tạo hoa mỹ của văn nhân, được mọi người chấp nhận, thưởng thức. Nhưng trên bình diện lịch sử - hoặc văn học sử - ta phải rạch ròi, trắng ra trắng, đen ra đen. Vì tác phẩm và tác giả là 2 đối tượng cụ thể. Con người thật trong lịch sử không thể lẫn lộn với nhân vật hư cấu trong văn học. Chúng tôi xin phép Nữ sĩ Mộng Tuyết và bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền có đôi điều góp ý về mục Phù Cừ trong cuốn: Nữ sĩ Việt Nam(1) (NSVN), do Nữ sĩ Mộng Tuyết viết Lời tựa.

Bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền giới thiệu nhân vật Phù Cừ là một nữ sĩ Việt Nam thuộc thế kỷ XVIII, với bản tóm lược lý lịch như sau:

I. Tên thật: Nguyễn Thị Xuân

II. Danh hiệu: Phù Cừ.

III. Ngôi vị: Ái Cơ, Bà Chúa Phù Dung, Bà Dì.

IV + V: Năm, nơi sinh: Tiền bán thế kỷ XVIII tại Thanh Hoa.

Quê gốc: Thanh Hoa (Thanh Hóa), cư ngụ Hà Tiên.

VI. Tác Phẩm: Ngoài số thi phú Hán Nôm truyền khẩu, nữ sĩ còn có bài thơ Nôm đặc sắc với chủ đề “Nguyên dạ qua đăng, Chiêu Anh thắng hội”. (Sđd. tr.186).

Chúng tôi đặt thêm số thứ tự mỗi mục (số La mã từ I đến VI), trên bản tóm lược lý lịch, để làm số mục, thứ lớp các vấn đề cần thảo luận. Trước hết xin thưa ngay với những ai chưa đọc tiểu thuyết Nàng Ái Cơ trong chậu úp của Nữ Sĩ Mộng Tuyết, hoặc truyện Phù Cừ của bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, quý vị có thể yên chí một điều:

Truyện Phù Cừ đã thoát thai từ Tiểu thuyết Nàng Ái Cơ trong chậu úp (NACTCU) 100%, không hơn không kém. Bản thân cuốn NACTCU, là một chuyện do Nữ Sĩ Mộng Tuyết hư cấu. Thế mà bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền đem tóm tắt và đại ngôn là chuyện có thật.

I. Tên Nguyễn Thị Xuân: Do đâu mà nảy ra tên Nguyễn Thị Xuân ? Trước kia nhiều người nói Bà Dì Tự tên là Xuân Tự. Chẳng hạn, ông Kiên Giang Hà Huy Hà, tác giả kịch bản Áo cưới trước cổng chùa. Có thể vì thế, người ta ghép với họ Nguyễn của bà. Thế rồi tôi tìm được quyển Hà Tiên địa phương chí in Ronéô, Ngày 2-5-1962, thấy tại trang 42 có bản Liệt kê những mộ bia của họ Mạc và tướng lĩnh còn tại Núi Lăng (Bình San). Ngôi mộ số 46 ghi: “Việt cố – Hiển khảo Nguyễn Công húy Đình Tú cư sĩ chi mộ. Nhâm Dần, Hiếu Nam Đính, Hiếu Nữ Xuân(2). Bản sơ đồ Núi Lăng trong sách này về địa điểm Chùa Phù Dung ngay đầu Bắc núi, và các vị trí mộ. Ngôi mộ Bà Dì Tự bên phải chùa (số 30), Sĩ Nguyễn Đình” ở bên trái chùa, (mộ số 46) có lạc khoản ghi người lập bia: “Hiếu Nam Đính, Nữ Xuân đồng lập thạch”. Bên dưới, ông Trần Thiêm Trung giải minh bằng chữ Việt khá rõ: “Cư sĩ Nguyễn Đình, thân phụ của tướng Nguyễn Đính và Bà Dì Tự”. Chúng tôi nhanh chóng so với sách Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo(3) của Trần Kinh Hòa. Thì ra ngôi mộ này mới được ông Trần Thiêm Trung tìm ra và ghi thêm. Như vậy, cái tên Nguyễn Thị Xuân là tên xuất hiện về sau. Bây giờ khảo sát về lý lịch của Bà Dì Tự, ta lại thấy khác xa những điều tương truyền. Cha bà tên Đình chứ không phải tên Nghi. Bà còn có người anh trai tên là Đính chứ không phải con gái duy nhất của Nguyễn Nghi, theo như Mộng Tuyết hư cấu trong NACTCU. Thế mà bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền đã tin rằng: tên thật của Phù Cừ là Nguyễn Thị Xuân. ở đây, chúng ta tạm xét lý lịch của Bà Dì Tự. Theo bia mộ Nguyễn Đình Tú thì hoàn toàn tách biệt với nhân vật Phù Cừ, vì người ta chưa chứng minh được rằng Nguyễn Đình là Nguyễn Nghi. Mà việc cha Bà Dì Tự là Nguyễn Nghi cũng là do Mộng Tuyết hư cấu. Cái tên Phù Cừ cũng là hư cấu.

II. Tên Phù Cừ: Nữ sĩ Mộng Tuyết, tác giả tiểu thuyết (NACTCU), chọn chữ Phù Cừ đặt tên cho nhân vật nữ, phát xuất từ đoạn văn ghi chép lúng túng khập khiễng của sách Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt (ĐNNTC – LTNV).

“Chùa Phù Cừ ở chân núi Phù Cừ, xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu (huyện lỵ tỉnh Hà Tiên). Chùa này do Mạc Thiên Tích lập ra khi trước. Trước sân đào ao, theo núi dựng chùa. án tuệ nghiêm trang, cửa thiền tịch mịch, là một nơi danh thắng”(4).

Cố Đông Hồ rất tâm đắc với tư liệu này, vì năm 1959, Nha Văn hóa Sài Gòn cho dịch và xuất bản sách ĐNNTC - LTNV lần đầu. Vào thời kỳ thiếu thốn sách địa lý xưa, đối với người yêu quê hương tha thiết, có được quyển sách nói chi tiết về xứ sở mình, thì đoạn tư liệu kể trên thật sự quý vô ngần. Thời ấy ở miền Nam chưa dịch nhiều sách địa lý khác.

Sách Đại Nam thực lục chính biên (kỷ III, B/d tập 23, tr.117-122) in rõ lệ kiêng húy. Do vậy chúng ta biết một cách chắc chắn rằng: Vì kiêng húy tên vua Thiệu Trị, các địa danh có chữ “Dung”, như “Phù Dung” phải đổi, gọi là “Phù Cừ” (như ở Hưng Yên có huyện Phù Dung, Hà Tiên có núi Phù Dung và chùa Phù Dung. Tất cả phải đổi chữ, gọi tên Phù Cừ)(5). Như vậy, tên “Phù Cừ” chỉ đến đời Thiệu Trị mới có.

Không còn nghi ngờ gì nữa: tên chùa Phù Dung xưa tại núi Phù Dung, tức ngôi chùa ở hướng Tây Nam, triền phía tây núi này. (Chỗ ngôi tháp của cố Hòa Thượng ấn Đàm, đời thứ 36 dòng Lâm Tế, đến nay vẫn còn di tích). Ngôi chùa này bị hư hoại vào khoảng 1833-1834. Nhưng ở quyển Nam kỳ địa dư chí của Duy Minh Thị (Trần Quang Quang) (năm 1872) vẫn còn ghi nhận, vì chưa cập nhật tình hình: “Núi Phù Dung(6) cách hướng Tây Bắc tỉnh lỵ một dặm. Bờ hang xanh cũ, “có chùa Phù Dung ở về hướng tây chơn núi”. Chỉ từ sách Hoàn vũ kỷ văn - Thiên Nam dư địa khảo (HVKV - TNDĐK) của Tỉnh Sơn Nguyễn Du đời Thiệu Trị, chùa và núi tại vị trí này mới đổi tên “Phù Cừ”, về sau núi đổi là Bát Giác Sơn rồi Đề Liêm. Sách này ghi nhận tình hình đến năm Thiệu Trị 6 (1846). (HVKV - TNDĐK - Tập IV: “Hiến Tổ Chương Hoàng đế - lục niên(7)”. Thời này, theo HVKV - TNDĐK thì ở đầu Bắc núi Bình San chưa có ngôi chùa, cả đền thờ “Mạc công tam vị từ” (nay là “Mạc công miếu”), cũng chưa được dời về chỗ mới(8). (“Đền thờ Mạc Thiên Tứ, tại huyện Hà Châu, xã Mỹ Đức... Mạc Hầu Hi, Mạc Hầu Diệu lại cấu kết bọn xấu lập ra phe nhóm quấy rối, kịp có vụ biến ở thành Phiên An, bọn này hùa theo bè lũ Lê Văn Khôi để tạo phản, đến nỗi mắc phải họa tru di. Vì thế đền thờ của họ Mạc bị bỏ phế, đáng ngẫm thay!”) (HVKV- TNDĐK - Tập IV - Tờ 12 a+b).

Chúng tôi phải dẫn chứng dài dòng, vì trong năm 1846, theo quyển ĐNNTC – LTNV đời Tự Đức, có 2 công trình xây dựng mới tại Hà Tiên, do quan Tỉnh tâu xin là “Mạc công tam vị từ” và ngôi chùa “Phù Anh”. Chúng ta thấy quá rõ: tên Phù Cừ không phải do ông Mạc Thiên Tích đặt. Còn tên Phù Dung, từ ngôi chùa xưa được đưa về đây, vì nhân dân vẫn hoài niệm tên chùa có thời trước 1820 (xem Gia Định thành thông chí – GĐTTC). Chúng ta cần nhận thức, chỉ do hiểu nhầm và cả tin điều bất cập của ĐNNTC - LTNV, nên Đông Hồ và Nữ sĩ Mộng Tuyết đã sáng tác chuyện NACTCU, dựa theo một giai thoại nhàn đàm, mà ông Sơn Nam xác nhận với tôi: “Sư trụ trì chùa Phù Dung kể, năm 1958”. ấy là Sư ông Kiểu Ngọc, Thượng Phước Hạ Quang, trụ trì ở đây từ 1951 đến 1964. Khi còn sinh tiền, ông Trần Thiêm Trung cũng nói đã nghe vị sư này kể. Các vị sư vốn giỏi chữ Hán. Câu chuyện sư ông kể, ai nghe ngỡ là có sách, nhưng rõ ra chỉ do sự suy diễn từ hình dạng mộ Bà Dì Tự, gần sau chùa, có núm xây hình tròn như chậu úp. Sư kể: “Khi sống Bà bị nhốt, đến chết mộ xây vậy”(9). Sư suy diễn rồi triển khai thành câu chuyện khá thương tâm; chuyện kể trở thành giai thoại. Mộ Bà không phải bảo đồng như của người tu hành. Không có lý cớ để nói rằng Bà Dì Tự đã tu ở chùa này. Duyên do đặt tên Phù Cừ cho Bà Dì Tự chỉ xảy ra vào năm 1959, khi Nữ sĩ Mộng Tuyết đọc được quyển ĐNNTC - LTNV mới dịch và phổ biến năm này.

Vì thế, tên Phù Cừ chỉ do tư duy sáng tác văn học của Nữ sĩ Mộng Tuyết, nàng Phù Cừ chỉ là hư cấu. Làm gì có Phù Cừ Nữ sĩ sống thế kỷ XVIII ?

III. Ngôi vị: Ái Cơ, Bà Chúa Phù Dung, Bà Dì

Xin nói thu gọn về 2 ngôi vị “Ái Cơ” và “Bà Dì”.

“Ái Cơ” là cách tôn xưng do Nữ sĩ Mộng Tuyết sáng tạo trong tiểu thuyết NACTCU, cũng như Đông Hồ tôn xưng bà là “Thứ Cơ”(10). Trước khi NACTCU ra đời, không người dân Hà Tiên nào tôn xưng bà bằng ngôi vị “Ái Cơ”. Gọi “Bà Dì Tự” là hiểu ngay vai vế của bà là “vợ thứ”. Ngoài ra trên bia Bà còn ghi rõ tên con trai của Bà, nét chữ chân phương “Nam Chú lập thạch” (Con trai tên Chú lập bia). Chỉ điều này chứng minh: câu chuyện “Nàng Ái Cơ” của Mộng Tuyết, “Nàng Xuân Tự” của Kiên Giang Hà Duy Hà + Mặc Tuyền, hoặc “Nàng Phù Cừ” của Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, đều là bịa đặt. Vì trong các câu chuyện, tác giả đều cho người phụ nữ có ngôi vị “Ái Cơ” đẹp mà phải đi tu, thậm chí bị triệt sản, không con. Vì bị lầm lạc, các tiểu thuyết và tuồng không thuật theo sự thật, chỉ thêu dệt điều hư dối. Theo sách Hà tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh, tờ 4a chép: “Kỳ hậu thiếp dắng chư phòng các sanh nam nữ thậm phồn đa, phảng phất Chu Văn cửu thập chi số”(11). (Về sau, các bà thê thiếp sanh trai gái thật đông đảo, tựa hồ Chu Văn, số đến chín chục). Thực tế, ông Mạc Thiên Tích có rất nhiều vợ. Nay tìm thấy 7 ngôi mộ, vợ chánh và thứ thiếp, chưa kể những cung phi tỳ nữ thời ấy. Trên bia mộ các bà thứ thiếp của ông Mạc Thiên Tích đều có những mỹ tự, nêu rõ ngôi vị các bà:

1. Mộ số 30: Từ Thành thục nhân... Nguyễn Thị, con trai tên Chú.

2. Mộ số 23: Từ Thục cung nhân... Hoàng Thị, con trai: Dự, Hiển, Hạng, Pha.

3. Mộ số 29: Từ Hòa cung nhân... Nguyễn Thị, con trai tên Quang.

4. Mộ số 44: Từ Tín cung nhân... Ngô Thị, không con.

5. Mộ số 40: Từ Thiện an nhân... Trần Thị, không con.

6. Mộ số 41: Từ Thuận nghi nhân... Nguyễn Thị, không con.

Chỉ duy bà Chánh thất được Chúa Nguyễn phong tặng Phu nhân (khi bà mất được truy tặng Thái Phu nhân), thứ đến là các bà thiếp: Thục nhân, Cung nhân, An nhân và Nghi nhân... tùy theo phẩm vị. Nhiều bà có con, trên bia chỉ ghi tên con trai, mà ta nhận biết rất dễ dàng; nhờ có bộ Thủy ở bên trái. (Ông Thiên Tích mang bộ Kim, con trai mang bộ Thủy, cháu nội mang bộ Mộc... theo hệ Ngũ hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ).

Trên bia mộ Bà Dì Tự có tên người con trai, tên là “Chú”. Chữ “Chú” mang bộ Thủy. Người ta còn thấy gần mộ Bà có ngôi mộ đất, bia khắc: “Mạc phủ, Chú gia chi mộ”. Chữ “Chú” giống như trên mộ bia Bà. Trong sách NSVN của bà Như Hiên, trang 194, in hình mộ bia Bà Dì Tự, mà lời dịch câu lạc khoản trái có vấn đề. Tác giả phiên âm là: “Nam chu chi thạch” và dịch: “Người chịu ơn lập bia”. Phải chăng tác giả muốn lái độc giả sang cái hướng lệch lạc là bà này không có con ? Câu lạc khoản trái trên mộ bia còn đó, mộ ông Mạc (Tử) Chú còn đây, mong rằng chuyện bẻ cong câu văn trên đá sẽ được người thức giả tự động giải nghi.

Lời giải thích bức ảnh bia mộ bà Dì Tự có cụm từ phản ánh điều bất cập: “Lăng mộ sư nữ Phù Dung (tức nữ sĩ Phù Cừ)...”. ở chỗ khác (trang 190, Sđd NSVN) thì gọi “Bà chúa Phù Dung” như câu: “Nữ tài danh Phù Cừ còn gọi là Chúa Phù Dung... Phù Dung cổ tự thờ bà Chúa Phù Dung”.

Nơi đoạn II trên, chúng tôi đã vạch rõ: Năm 1846 mới xây dựng ngôi chùa ở gần mộ Bà Dì Tự. Mộ bia đề năm lập mộ là Tân Tỵ (1761), tính đến 1846 là 85 năm, chỗ này chẳng có chùa. Bằng cớ hùng hồn là các sách GĐTTC hoặc HVKV - TNDĐK đều không hề nói đến ngôi chùa tại đầu Bắc núi Bình san. Chỉ khi cất lại ngôi chùa cổ đã bị đổ nát ở hướng Tây Nam núi Phù Dung (GĐTTC) hay núi Phù Cừ (HVKV - TNDĐK), người ta thay đổi địa điểm, đưa chùa về cất trên nền nhà Thụ Đức Hiên, Chiêu Anh Các. Về sau, sách ĐNNTC - LTNV mới ghi nhận ngôi chùa này. Suốt 85 năm, Bà Dì Tự nằm yên trong lòng đất, không hề là sư nữ Phù Dung; vì năm 1820, “Chùa Phù Dung còn ở phía Tây Nam núi, tiếng chuông lẫn tiếng mõ kinh, tiếng kệ xen vào tiếng chợ búa...” (GĐTTC) mãi cho đến 1841, năm này núi Phù Dung bị đổi tên là núi Phù Cừ, ngôi chùa ở đầu bắc núi Bình San vẫn chưa được xây dựng. Cho đến thời điểm này Bà Dì Tự vẫn không có biệt danh Phù Cừ. Biệt danh hư cấu này trên 1 thế kỷ sau mới được Nữ sĩ Mộng Tuyết đặt cho (1959). Vậy, không thể có “nữ thiền sư Phù Cừ”, đừng nói là có “Bà Chúa Phù Dung”. Đối với danh xưng “Phù Dung”, Cố Đông Hồ giảng nghĩa theo mặt chữ: “Phù Cừ hay Phù Dung cũng đều là tên đẹp của giống hoa sen cả”(12). Ông Trần Thiêm Trung tác giả Hà Tiên địa phương chí cũng hiểu là tên loài hoa, nhưng là giống cây trên cạn: “Gọi là Phù Dung tự, có lẽ vì nơi đây có trồng hoa Phù Dung, loại hoa sớm nở tối tàn(13)... Cùng một ý này, ông Sơn Nam nói: “Gọi là Phù Dung tự, ngụ ý rằng phận gái như đóa hoa Phù Dung bạc mệnh, chóng tàn”(14). Kiên Giang (Hà Huy Hà) và Mặc Tuyền cùng chuyển kịch bản thành tiểu thuyết Áo cưới trước cổng chùa, đã nói: “Tên chùa là Phù Dung nên trong chùa cũng trồng nhiều hoa phù dung. Phù Dung sớm nở tối tàn, cũng giống như người con gái(15)...”.

Các tác giả vừa kể đều bị tác động bởi câu chuyện của sư ông Kiểu Ngọc Phước Quang, mọi người hiểu danh xưng Phù Dung là một giống hoa, diễn dịch từ tinh thần câu chuyện này. Vì thế lịch sử của ngôi chùa bị người đời sau, lúc gần đây kể sai lệch. Chúng ta không thể chấp nhận những điều sai nhầm có tính thêu dệt giả dối như vậy. (Sở Văn hóa Thông tin Kiên Giang cần xem lại lịch sử thật ngôi chùa này). Thực chất, chính danh Phù Dung là tên xưa của quả núi, có tọa độ bản đồ UTM: 48 PVS 437485, núi bị thay đổi danh xưng nhiều lần, như là: núi “Phù Cừ” từ năm 1841, núi “Bát Giác Sơn” từ sách ĐNNTC - LTNV (1865 -1882), sau cùng là tên núi Đề Liêm. Về ngôi Phù Dung cổ tự đúng nghĩa là ngôi chùa ở hướng Tây Nam núi Phù Dung xưa - người ta đã lấy tên núi làm tên chùa - chỗ có cái tháp của lão Hòa thượng ấn Đàm. Chùa ấy không còn tồn tại khi sách HVKV - TNDĐK đổi tên nó là chùa Phù Cừ, do phụ thuộc vào duyên cớ đổi tên núi Phù Dung thành núi Phù Cừ. Trên thực tế, khoảng các năm 1833-1846, chùa ấy đã hư hoại rồi. Muốn trùng tu lại ngôi chùa đó vào năm 1846, người ta đã di dời về đầu bắc núi Bình San, tức là ngôi chùa ngày nay.

Tên núi Phù Dung đã thành danh trước khi có sách GĐTTC (1820) ngôi chùa Phù Dung cổ tự cũng có trước sách này. Trong quyển Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích, khắc in năm 1737, có đến 4 tác giả nói đến tên núi Phù Dung, như là Đan Bỉnh Ngự (Sđd. tờ 11a), Vương Sưởng (Sđd. tờ 14a), Lộ Phùng Cát (Sđd. tờ 20a) và Châu Cảnh Dương (Sđd tờ 62a). Như thế, cần minh danh cho ngôi chùa Phù Dung là:

Chùa ăn theo tên núi (Phù Dung) chứ không phải vì một giống hoa nào, hoặc bởi thương cảm cho một người đàn bà nào, hoặc cô gái đáng thương nào cả. Trước đây, trong bài Đề tự quyển NACTCU của Mộng Tuyết, Cố Đông Hồ đã đặt và giải quyết vấn đề danh xưng của ngôi chùa Phù Dung có vẻ trái ngược: “Sách chép là chùa Phù Cừ mà hiện nay, ai cũng đều gọi là chùa Phù Dung là vì cớ làm sao?”. Chẳng qua Cố Đông Hồ chẳng nắm được sự chuyển dịch của ngôi chùa từ núi Phù Dung qua núi Bình San, và vụ đổi tên Phù Dung ra tên Phù Cừ của quả núi trước mặt...

IV. Năm, nơi sinh: nửa trước thế kỷ XVIII tại Thanh Hoa.

Chuyện NACTCU của Mộng Tuyết đã gán ép cho Bà Dì Tự làm con ông Nguyễn Nghi, chỉ vì bà họ Nguyễn; và theo Lê Quý Đôn có 6 người Việt Nam tham gia Tao đàn Chiêu Anh Các, họa thơ trong tập Hà Tiên thập vịnh, chỉ duy Nguyễn Nghi họ Nguyễn. Tác giả NACTCU cố tình gán ép như thế cho thành chuyện, cho nhân vật mang tính văn nhân. Thực sự không ai biết Bà Dì Tự con ai, sinh đẻ nơi đâu, lúc nào. Bởi vì các nhân vật thế kỷ XVIII còn mộ ở núi Bình San họ Nguyễn rất nhiều. Chỉ nhìn danh sách 7 bà vợ ông Thiên Tích, có đến 4 bà họ Nguyễn. Thậm chí ngôi mộ Nguyễn Đình đã nói phía trên, chúng tôi vẫn không tin đó là mộ cha Bà Dì Tự. Lý do: năm lập bia hoặc năm từ trần ông Nguyễn Đình là Nhâm Dần. Có hai năm Nhâm Dần liên hệ: 1722 và 1782. Ta xét năm 1722 ông Nguyễn Đình qua đời, người có tên Xuân trên bia đã khôn lớn, hiểu đạo hiếu mới hợp lý được đề tên “đồng lập thạch”. Mặt khác sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả chép: Khi ông Mạc Cửu mất (1735) ông Mạc Thiên Tích đúng 18 tuổi. (Ất Mão ngũ ngoạt nhị thập thất nhật Thái công bệnh khảo... Tích Công danh Thiên Tích tự thập bát tuế. “(Sđd. tờ 3a dòng 7+8) và sách GĐTTC cũng nói ông này sinh năm 1718 (Mậu Tuất, ngày 17-3) (Xem mục Lũng kỳ Giang). So với năm 1722, ông này chỉ mới 4 tuổi ! Như vậy người tên Nguyễn Thị Xuân này ắt không phải Bà Dì Tự vậy. Về niên đại 1782 không cần xét. Vì Bà Dì Tự mất năm Tân Tỵ (1761), không còn có thể lập thạch năm 1782 được.

Trong NACTCU cũng như sách NSVN đều nói Thanh Hoa (hoặc Thanh Hóa) là quê quán của Nguyễn Nghi. Có lẽ tác giả NACTCU không ngờ rằng chính GĐTTC lại ghi chép sai lầm chỗ này. GĐTTC chép quê quán của Nguyễn Nghi trùng hợp với Phan Thiên Quảng (GĐTTC ghi sai là Phan Đại Quảng), Trần Trinh (ghi sai là Trần Ngoan) và Đặng Minh Bản, cả 4 người gốc Triệu Phong. Nhưng trong hai quyển sách An Nam Hà Tiên thập vịnh (kí hiệu A.441 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội) và cuốn Nam Hải dân tộc anh hùng truyện của Thôi Tiêu Nhiên và Lý Văn Hùng đều chép giống nhau: Nguyễn Nghi hiệu Long Tựu, Trần Trinh hiệu Thiên Tể, Đặng Minh Bản hiệu Thiên Cơ và Mạc Triệu Đán tự Thành Bật đều là người Giao Châu. Chỉ một mình Phan Thiên Quảng là gốc Triệu Phong. Như vậy sách NACTCU nói quê quán của Nguyễn Nghi và Phù Cừ (ý nói Bà Dì Tự) ở Thanh Hoa (Thanh Hóa) là không đúng vậy.

Đến đây chúng tôi xin phép không nói đến mục V: Quê gốc: Thanh Hoa... vì chúng tôi vừa đã thưa qua. Xin bước qua mục VI.

VI. Tác phẩm

Sách NSVN của bà Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền chép lại những câu đối Hán văn, những bài thơ chữ Hán hoặc thơ Nôm trong NACTCU (của Mộng Tuyết hoặc của ai khác) mà nói thơ văn của Phù Cừ. Xin đơn cử câu đối chữ Hán: Bằng thành khải kích anh hùng lược, Văn hiến huyền ca sĩ giả phong. (NACTCU – Nxb. Bốn Phương, 1961, tr.67-68; Nxb. Văn Hóa, 1996, tr.43; NSVN, tr.188). Những khách tham quan nào biết chữ Hán đều thấy câu đối trên được vẽ hai bên cổng vào, phía tay phải, đền Mạc Công Miếu hiện nay. Hãy xét câu này có tự bao giờ. Cứ theo “Mộ kiến bản từ tiểu dẫn” của ông Nguyễn Thần Hiến viết tháng 5, Đinh Dậu (tháng 6-1897): “Năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), quan đứng đầu hàng tỉnh Hà Tiên tấu xin di chuyển ngôi đền ra hướng Tây thành, cách chẳng bao lăm bước”. Như vậy đền này mới xây, cổng Tam quan xây sau năm 1846. Trước kia đền thờ 3 vị Mạc Công (do ông Mạc Công Du làm) ở phía trái chùa Tam Bảo, chỉ lợp lá, đã có thời bị hoang phế, như đã dẫn ở đoạn II trên. Thời trước, không chắc có câu đối trên ở trước cổng ngôi đền cũ, vì sách ĐNNTC - LTNV chép: “Đền thờ 3 vị Mạc Công... nguyên trước cháu nhà họ Mạc là Mạc Công Du làm đền thờ, qua năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) mới lợp ngói”(16). Trong đền bây giờ còn bài văn tế “Mạc Lệnh Công Thánh đãn tế văn”, sao lục bài văn năm Đinh Tị (1847) đời Thiệu Trị, có câu: Trúc Bằng khai Văn hiến chi bang. Có thể đây chính là câu văn gốc, từ đó gợi ra câu đối Bằng Thành khải kích anh hùng lược, Văn hiến huyền ca sĩ giả phong. Theo thiển kiến, câu đối ở phía tay phải cổng vào đền đã được cụ Nguyễn Túc, đã đỗ Hoàng giáp, thăng thụ Tri phủ (An Biên phủ), người sáng tác bài Văn tế nói trên. Như vậy, tác giả NACTCU đem câu này đặt vào miệng nàng “Phù Cừ” (giả) là cách hư cấu của tiểu thuyết, mượn ý để tải văn, chứ không phải nàng Phù Cừ (giả) làm ra câu đối này. Nữ sĩ Mộng Tuyết là người Nữ sĩ đa tài, khá chữ Hán và giỏi thơ tiếng Việt. Trong Núi Mộng Gương Hồ bộ Hồi ký của Bà, Tập I, tr.169, bà nói: “Tôi thì đã học thêm chữ Hán để làm nghề dịch tin tức từ báo Tàu. “Hơn nữa, Nữ sĩ đã xác nhận với ký giả PHANXIPAN trên báo Thế giới mới số 481, ngày thứ hai 8-4-2002 về bài “sấm truyền có một ý nghĩa xa xôi huyền bí” “Khả thủy sơn nhơn”, mà trong NACTCU (Chương mười: Tiểu thư Mạc Mi Cô) bà đã sáng tạo.

Bà nói: “Chuyện cũ, có chuyện tôi nhớ, có chuyện tôi quên. Nhưng cái bài Khả thủy sơn nhơn... thì tôi nhớ kỹ. Hồi viết NACTCU, chính tôi sáng tác ra bài đó, hỏi sao không nhớ?” (TGM, số 481 tr.34, cột 2). Cũng vậy, Nữ sĩ Mộng Tuyết đã sáng tác những bài thơ chữ Hán, như bài Vịnh Liên Hoa, ( NACTCU - BP- tr.170); Nxb. VH. tr.119; NSVN - Nxb. VN TP.HCM, tr.190) hoặc bài Mãn chiểu Phù Dung phát... (NACTCU - BP, tr.103, Nxb. VH, tr.70; NSVN, VN TP.HCM, tr.191). Ngoài ra những thơ dịch bài này ra chữ Việt, hoặc bài thơ: Nguyên dạ qua đăng, chiêu anh thắng hội và bài liên ngâm giữa Phù Cừ và Mạc Hầu... đều là sáng tác phẩm của Mộng Tuyết cả. Chúng ta hãy trả về cho đúng tác giả, để mọi người chiêm ngưỡng thưởng thức chân giá trị tài hoa của người.

Đem chuyện “lấy giả làm thật” này trình trước công luận, chúng tôi mong sao Nữ sĩ Mộng Tuyết thể tất cho chúng tôi, mặc dù chúng tôi hiểu rõ “lời thật mất lòng”. Nhưng, làm văn học theo cách của tác giả NSVN quả là có tội với văn học và lịch sử.

T.M.Đ

CHÚ THÍCH:

(1) Nxb. Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr.186-195.

(2) Nếu bia mộ đề như thế này, thì không thể dịch như Trần Thiêm Trung là: “Cư sĩ Nguyễn Đình, thân phụ của tướng Nguyễn Đính và Bà Dì Tự” được. Mà nếu hiểu tên húy là Đình Tú (?) cũng ngờ (BT).

(3) Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo - Trần Kinh Hòa (Chen Ching ho) Hoa Cương Học Báo - Đệ Ngũ kỳ - Trừu ấn bản. Sách chỉ khảo tả 45 ngôi mộ ở núi Bình San, Hà Tiên. Ngôi mộ cuối cùng số 45, là “Phụng Nghị đại phu Mạc tiên sinh chi mộ”. Bản kê 45 ngôi mộ này cũng do ông Trần Thiêm Trung lập thành, gửi cho ông Trương Bửu Lâm Viện trưởng Viện Khảo cổ Sài Gòn, năm 1961 - 1963. Ông Trương Bửu Lâm đã nhờ ông Trần Kinh Hòa điều chỉnh, nhưng ông này chưa kịp về Hà Tiên rà soát lại thì xảy ra biến cố năm 1963 ở Sài Gòn, Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, Trần Kinh Hòa phải đi Đài Loan và Hồng Kông. Vì thế Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo có nhiều sai sót.

(4) Chép đúng đoạn văn Đông Hồ đã dẫn tại trang 17, Bài đề tự sách Nàng ái Cơ trong chậu úp. Thực ra trong sách Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việ t còn có câu văn quan hệ mới nói rõ niên đại xây dựng ngôi chùa này, mà Đông Hồ đã cắt bỏ, không chép: “... năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) nhân dân tỉnh hạt xây sửa lợp ngói, trước sân đào giếng, theo núi dựng nhà...”

(5) Đinh Xuân Vịnh: Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb. Lao động, 1996, tr.409, cột 2: “Phù Cừ huyện thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, về đời Trần là huyện Phù Dung. Nhà Mạc đổi là Phù Cừ vì kị húy tên Mạc Đăng Dung, Lê Trung hưng đổi lại là Phù Dung. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đổi là Phù Cừ vì kị húy”.

Sách Đại Nam nhất thống chí - tỉnh Hưng Yên, VHTT số 31, Nha Văn hóa Bộ Văn hóa Giáo dục Sài Gòn 1967 - Phần chữ Hán (in bản khắc mộc bản) ĐNNTC quyển chi tam thập nhất, trang 5 dòng thứ 11, chép tên Phù Dung (vào đời Trần) giống hệt chữ Phù Dung tên núi và chùa (Phù Dung) ở Hà Tiên (Phù = Thượng Thảo hạ Phu; chữ Dung viết: Thảo thượng, Miên trung, Cốc hạ).

(6) Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí của Duy Minh Thị do Thượng Tân Thị dịch, Đại Việt tạp chí số 50-51-52, ngày 1 và 16-11 + 1-12-1944, bị lỗi kỹ thuật thành núi Phù Duy (trang 93). Đúng trong bản chữ Hán, tập Nam Kỳ địa dư chí tịnh đồ (số hiệu VHC 01683) sách khắc mộc bản, bài Tựa đề “Gia Định thành phụng dầu lý, Cư sĩ Duy Minh Thị cẩn tự”, phần về Hà Tiên tỉnh, trang số 3, dòng số 6 in rõ: “Phù Dung sơn cự tỉnh tây bắc nhất lý, nhai cốc thương cổ hữu Phù Dung tự tại lộc tây”.

(7) Hoàn vũ kỷ văn - Cửu Chân - Tỉnh Sơn - Nguyễn Du - Mã số A.585 – Thư viện VĐBC - tờ số 95a, quyển IV - An Giang và Hà Tiên; Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, lục niên Bính Ngọ... tờ 102b và 103a.

(8) Ngôi đền xưa do Mạc Công Du lập khoảng các năm 1816-1818, khi ông giữ chức Hiệp trấn (1816) và Trấn thủ Hà Tiên (1818). Vị trí đền ấy theo GĐTTC ghi nhận năm 1820 là tại: “Tam Bảo tự, tự tả Mạc Công từ...” (... “Chùa Tam Bảo, bên tả chùa có đền Mạc Công”...) (GĐTTC, Nxb. GD -1998 - tr.533 phần chữ Hán và tr.201 phần dịch Việt ngữ).

(9) Sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính - do Phong trào Văn hóa - Sài Gòn - 1975 - phát hành; tr.52 có đoạn nói về phép cải táng của người Việt Nam: “Trước, khi hung táng - (tức khi mới chết, đem chôn gọi là hung táng) thì (mộ) đắp hình vuông, đến lúc cải táng thì đắp hình tròn. Nhà phú quý thì xây lăng, nhà thường thì dựng mộ chí”. Phải chăng ngôi mộ Bà Dì Tự đắp hình tròn vì đã được cải táng ?

(10), (12) Xem “Bài Đề tự” sách NACTCU, tr.15, 16 + 18, (Nxb. BP - 1961). Riêng NACTCU (Nxb. Văn hóa - Tp. HCM – 1996) bài Đề tự của Đông Hồ in ở tr.7 đến tr.11; những chữ “Thứ Cơ” thấy nhiều ở tr.8. Câu văn “Phù Cừ hay Phù Dung cũng đều là tên đẹp...” tại tr.9.

(12) Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Doanh (Dinh), Bản A.39, Thư viện Viễn đông Bác cổ, tờ 4a, dòng thứ 4+5.

(13) Hà Tiên địa phương chí - Trần Thiêm Trung - Ngày 2-5-1962, tr.55. Sách in Ronéo, xếp đặt số trang còn lộn xộn: ngoài các trang bìa, trang in lời “Tựa” của tác giả ngày 2-5-1962 và bản Mục lục, trang 1 đầu sách khởi từ chương nhất liên tục đến trang 42 thì sách không còn đánh số trang (gián đoạn 39 tờ) gồm bản đồ núi Bình San và 38 tờ kẻ văn bia 50 ngôi mộ. Sau đó các trang sách được đánh số tiếp từ trang 43 đến trang 90 và chấm dứt. Nội dung văn bản giống cuốn HT/ĐPC soạn từ ngày 5-3-1957, kể cả câu chuyện Bà Dì Tự ông Trung kể sơ lược chỉ khoảng mươi dòng.

(14) Tạp chí Nhân loại, Bộ mới số 7, ngày 1-12-1958, bài Hà Tiên đất phương thành của Sơn Nam, tr.43-50. Tại tr. 47, 48 người ta thấy tác giả kể câu chuyện “Bà Dì Tự bị nhốt trong chậu” tương tự chuyện NACTCU. Nhưng ông Sơn Nam không tin là chuyện thật có xảy ra: trong Gia Định thành thông chí cụ Trịnh Hoài Đức có nhắc tới chùa Phù Dung nhưng không có ghi chuyện này. Chuyện của Sơn Nam đã gợi ý cho Mộng Tuyết viết NACTCU, năm 1959. Chuyện của Sơn Nam không có tên Phù Cừ.

(15) Áo Cưới trước cổng chùa của Kiên Giang Hà Huy Hà, nguyên là kịch bản, tuồng cải lương rất được ăn khách, vào các năm thập niên 60 thế kỷ 20. Năm 1989 tác giả Kiên Giang kết hợp với Mặc Tuyền chuyển thành tiểu thuyết, Nxb. Long An. Câu văn dẫn chứng tại tr.113 sách này.

(16) ĐNNTC - LTNV - Tập Hạ, như chú thích số (10) trên. Tr.72: Đền thờ ba vị Mạc công.

TB

THÊM MỘT VĂN BẢN PHÓNG TÁC TRUYỆN TỲ BÀ VỪA PHÁT HIỆN

NGUYỄN XUÂN DIỆN

Trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1993, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài viết Truyện Tỳ bà, từ Trung Quốc vào Việt Nam(1). Bài viết nêu trường hợp một tác phẩm của Trung Quốc đã được nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam dựa vào để phóng tác thành các tác phẩm của mình. Đó là tác phẩm T ỳ bà ký 琵 琶 記. Theo nhà thư tịch học Trần Văn Giáp cho biết, nguyên truyện là Tỳ bà ký 琵 琶 記, tác giả là Cao Minh, tự Tắc Thành, người đất Vĩnh Gia; khoảng năm Chí Chính (1341-1368) đời Nguyên, có làm quan ở Phúc Kiến, sau bỏ quan về Minh Châu. Cao Minh vốn thích từ khúc. Việc ông làm truyện Tỳ bà ký, tương truyền là nhằm khuyên răn một người bạn là Vương Tứ. Ông này vốn học giỏi, sau khi đỗ đạt thì sinh chuyện bỏ vợ cũ lấy vợ mới là con gái quan Thái sư. Cao Minh bèn làm truyện này để răn bảo Vương Tứ. Trong tên truyện, hai chữ Tỳ 琵 và 琶 gộp lại có bốn chữ Vương, tức là Vương Tứ. Cốt truyện, trong cấu tứ của Cao Minh, dường như cũng dựa một phần vào chuyện của chính người bạn này. Cụ Trần Văn Giáp lược thuật như sau: “Thái Ung học giỏi, thi đậu Trạng nguyên, bị bắt buộc vào làm rể quan Tể tướng họ Ngưu, bỏ vợ cũ và bố mẹ phải lưu lạc tha phương. Vì thế chàng hối lỗi buồn tủi. Sau vì lòng hiếu thảo của vợ cũ làm cảm động lòng người, cả nhà lại xum họp như xưa, một nhà đầy đủ bố mẹ, vợ cả họ Triệu, vợ mới là họ Ngưu”(2)

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho biết, tác phẩm của Cao Minh không rõ được biết đến ở Việt Nam từ lúc nào, chỉ biết là vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, ít nhất đã có một tác giả người Việt Nam là Kiều Oánh Mậu (1854-1911)(3) đem diễn Nôm tác phẩm này.

Tỳ bà ký đã được một số tác giả Việt Nam phóng tác, cụ thể như sau:

1. Kiều Oánh Mậu phóng tác thành Tỳ bà Quốc âm tân truyện 琵 琶 國 音 新 傳 và hoàn thành bản thảo năm 1891. Sách được khắc in sau khi ông mất năm một năm (Nhâm Tý - 1912). Năm 1930, con trai Kiều Oánh Mậu là Kiều Tường đã đem phiên âm bản Nôm của cha mình ra chữ Quốc ngữ, cháu nội là Kiều Từ Nhân chú thích cho toàn truyện rồi xuất bản(4).

2. Đoàn Tư Thuật dịch thuật, Tản Đà san nhuận, xuất bản năm 1923 tại nhà in của Tản Đà và lấy tên sách là Truyện Tỳ bà.

3. Nguyễn Bính viết Tỳ bà truyện trong thời gian 1939 - 1944.

Bài viết của Lại Nguyên Ân đã phân tích tỷ mỉ sự khác nhau về nội dung các tác phẩm trên của Kiều Oánh Mậu, Đoàn Tư Thuật, Tản Đà, Nguyễn Bính. Bài viết này của chúng tôi không nhằm bàn về những nội dung trên. Chúng tôi chỉ thông báo đã tìm thêm một phóng tác từ Tỳ bà ký.

Vừa qua, nhân có dịp đọc sách tại Đông Dương văn khố Nhật Bản, chúng tôi được biết thêm một phóng tác khác. Bản sách này có tên Triệu Ngũ Nương tân thư 趙 五 娘 新 書. Sách có ký hiệu X-4-26. Khổ sách 21,2x17,7cm.

Triệu Ngũ Nương tân thư là một truyện thơ Nôm(5) viết bằng thể thơ lục bát, được trình bày theo lối thông thường: thượng lục hạ bát, mỗi trang có 8 dòng, mỗi dòng 14 chữ. Trang đầu của sách có ghi: Đinh Hợi niên tân [...](6) Phượng Du Lý Minh Chương hiệu đính chính, Quảng Thịnh Nam phát thụ 丁 丑 年 新 [...] 鳳 油 里 明 章 號 訂 正 廣 盛 南 發 售. Chúng tôi được biết, trước đây, khi nghiên cứu và giới thiệu các văn bản Lục Vân Tiên truyện, PGS. Trần Nghĩa đã bắt gặp và tìm hiểu về các thuật ngữ này. Theo đó thì Phượng Du Lý là tên gọi khác của một người là Duy Minh Thị, tên thật là Trần Quang Quang. PGS. Trần Nghĩa cho biết Ông (Duy Minh Thị Trần Quang Quang - N.X.D chú) thật có công trong việc sáng tác hoặc sưu tầm, chính lý, giới thiệu, đưa in nhiều truyện Nôm như Dương Ngọc cổ tích, Đại Nam quốc sử diễn ca, Kim Vân Kiều tân truyện (1872), Lý Công tân thư (1876), Tây Du diễn ca (1878), Hứa Sử tân thư (1879) v.v...”(7). Quảng Thịnh Nam (người miền Nam đọc là Quảng Thạnh Nam) là nhà in và phát hành sách ở Chợ Lớn, Sài Gòn.

Đây là một bản in trên giấy thường. Sách chỉ còn 31 tờ (62 trang, với khoảng 1000 câu thơ lục bát) và đã bị mất phần sau nên chúng ta không thể biết gồm bao nhiêu trang. Và do vậy nội dung tác phẩm mà chúng ta còn thấy được cũng không trọn vẹn. Sách cũng không có bài tựa, bạt và thông tin cho biết về tác giả của truyện diễn Nôm này.

Dưới đây là một đoạn của Triệu Ngũ Nương tân thư 趙 五 娘 新 書, so sánh với Tỳ bà Quốc âm tân truyện 琵 琶 國 音 新 傳 của Kiều Oánh Mậu:

- Triệu Ngũ Nương tân thư:

Nghìn năm một hội thái bình
Lòng trời rạng mở trổ sinh hiền tài
Đương khi Lưu Hán trị đời
Có dòng họ Thái ở ngoài Đông Xuyên.
Vợ chồng sách đã tri thiên,
Một cành đan quế tên truyền Thái Ung.
Xuân xanh kết với má hồng,
Ngũ Nương họ Triệu cũng dòng trâm anh,
Gia nhân tài tử sẵn giành,
So bề tài hạnh đã đành họa hai.
Vun lo cúc dục tình hoài,
Chuộng câu định tỉnh, khinh bài công danh.

- Tỳ bà Quốc âm tân truyện:

... (8)
Đời Viêm Hán có Sái Ung,
Bá Giai tên chữ, vốn dòng thư nhang.
Tiếng kinh chàng Đổng trong màn,
Tiếng cầm trên tiệc Chu lang giật mình.
Mười năm đèn tuyết lửa huỳnh,
Tài cao học rộng nức danh trong đời !
Phúc nhà vận nước còn dài.
Còn nghề bút trận, còn tài chiếm khôi.
Quyết khoa mình chắc mình rồi
Chào mai hỏi quế đợi hồi sang xuân,
Trên thềm còn có song thân,
Xuân thu kể đã tám tuần cả đôi,
Đạo con dưới gối là vui,
Tam công dễ đổi lòng nuôi một ngày,
Sớm khuya ai đỡ đần thay,
Ngũ Nương họ Triệu, người này chủ trương.

Một vài nhận xét nhân việc thêm một bản phóng tác Tỳ bà ký:

1. Việc phát hiện thêm một bản phóng tác từ Tỳ bà ký không những cho thấy hứng thú của nhà văn Việt Nam đối với tác phẩm của Cao Minh (Trung Quốc) mà còn cho chúng ta thêm nhiều cứ liệu trong việc nghiên cứu văn học so sánh.

2. Trường hợp của Tỳ bà ký chúng ta có thể nghĩ đến việc lưu truyền và diễn Nôm các tác phẩm khác của văn học Trung Quốc, do nhiều người ở Việt Nam thực hiện, và theo nhiều thể loại khác nhau (lục bát, song thất lục bát).

3. Từ việc phát hiện văn bản Triệu Ngũ nương tân thư gợi mở cho chúng ta đặt ra vấn đề lên danh mục và nghiên cứu về các nhà in khắc ván và các sách Hán Nôm được in tại các tỉnh phía Nam.

N.X.D

CHÚ THÍCH:

(1) Có thể xem chùm bài của Lại Nguyên Ân về vấn đề dịch văn học: Diễn Nôm - Thượng nguồn của văn học dịch. Tạp chí Văn học, số 1 năm 1995; Nhu cầu diễn Nôm - diễn ca và khả năng của thể lục bát. Tạp chí Văn học, số 6 năm 1995.

(2) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. tập II. H. 1990, tr.166-167.

(3) Về Kiều Oánh Mậu xin xem Nguyễn Xuân Diện: Bước đầu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Kiều Oánh Mậu. Tạp chí Hán Nôm, số 1 năm 1992; Kiều Oánh Mậu - nhà khoa bảng yêu nước, một học giả lừng danh đầu thế kỷ XX. Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 9 năm 1995.

(4) Tại gia đình Kiều Oánh Mậu còn một bản chép tay Truyện Tỳ bà, bằng chữ Quốc ngữ, mà ở đó có những chữ, những đoạn khác hẳn các bản chữ Nôm (in, viết tay) và bản Quốc ngữ in năm 1930.

(5) Truyện thơ Nôm này không có tên trong danh mục 106 truyện Nôm hiện còn, trong sách Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại của Kiều Thu Hoạch, Nxb. KHXH, H. 1992, tr.257-262. Và cũng không có trong danh mục truyện thơ Nôm trong sách Thế giới Truyện Nôm (L’ univers des Truyện Nôm) của M. Durand, Nxb. Văn hóa, H. 1998.

(6) Trong bản chữ Hán, sau chữ “tân” 新 bị mất, chúng tôi thay bằng ngoặc vuông. Chúng tôi cho rằng chữ này là chữ thuyên 鐫, với nghĩa là khắc. Và năm Đinh Hợi ở đây là năm 1887.

(7) Lục Vân Tiên truyện (Bản Nôm mang niên đại cổ nhất mới sưu tầm ở Paris). Lời giới thiệu của PGS. Trần Nghĩa. Nxb. KHXH, H. 1994, tr.23.

(8) Bản truyện có 14 câu lục bát dạo đầu trước khi vào nội dung truyện.