Le64

TRỞ LẠI HÀNH TRÌNH CỦA NGUYÊN TÁC NGỤC TRUNG NHẬT KÝ

PHONG LÊ

Tạp chí Văn học số 8-2003 đăng bài Hành trình của nguyên tác “Ngục trung nhật ký” và bản dịch “Nhật ký trong tù” của tôi. Bài được viết sau nhiều chục năm nghiên cứu và nói chuyện về Nhật ký trong tù (NKTT) mà vẫn còn một khoảng trống để ngỏ, đó là hai hành trình: hành trình của nguyên tác và hành trình của bản dịch. Luận án Tiến sĩ của chị Vũ Thị Kim Yến: Khảo sát văn bản “Ngục trung nhật ký” bảo vệ vào tháng 4-2003 ở Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp tôi giải quyết được một phần những băn khoăn của mình. Tiếp đó, bài của Hồng Khanh: Niềm vui của Bác Hồ khi nhận lại bản thảo “Nhật ký trong tù” đăng trên báo Nhân dân, số 17-5-2003, cho biết cụ thể hơn một thời điểm quan trọng trên hành trình của nguyên tác, đó là ngày (?) - một ngày nào đó vào giữa năm 1955, Văn phòng Phủ Chủ tịch do đồng chí Tạ Quang Chiến phụ trách nhận được một bì thư dày hơn bình thường, trong có một cuốn sổ tay mang tên Ngục trung nhật ký của Bác, không có địa chỉ người gửi.

Đến đầu 2004, báo Lao động đăng bài “Nhật ký trong tù”, số phận và lịch sử, trên hai kỳ báo, số 65 (5-3-2004) và 66 (6-3-2004); và tiếp đó, bài thứ hai: Trở lại số phận “Nhật ký trong tù” trên số 92 (1-4-2004) của tác giả Hoàng Quảng Uyên. Hai bài kể lại hành trình của ông đi tìm cho được những người có khả năng lưu giữ cuốn sổ tay của Bác, trên hành trình từ 1943 đến 1955, là năm cuốn sổ về được địa chỉ Văn phòng Phủ Chủ tịch; và từ sau 1955 cho đến 1960, khi bản dịch NKTT được Viện văn học ấn hành.

Tôi rất trân trọng sự khổ công, vất vả, đôi khi như “đáy bể mò kim” của ông Hoàng Quảng Uyên, như được kể qua hai bài trên. Những địa chỉ ông tìm đến soi sáng được nhiều điều giúp người đọc có thêm những giả thuyết về con đường đi (hoặc “số phận” của nguyên tác Ngục trung nhật ký (NTNK). Một trong các địa chỉ mà ông tin cậy tìm đến, đó là ông Hoàng Đức Triều (1900 - 1985), tham gia cách mạng từ năm 1928, vào Đảng năm 1932, Chủ nhiệm Việt Minh xã Lam Sơn, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng hồi Tiền khởi nghĩa. Theo như hồi ký Bác lại về Lam Sơn của ông (in trong sách Những kỷ niệm về Bác; Nxb Việt Bắc, 1973) - tài liệu chính mà ông Hoàng Quảng Uyên sử dụng để viết phần II bài thứ nhất của mình - thì ông Hoàng Đức Triều đã có thời gian ở cùng Bác, và được Bác xem như “một bạn thơ tri kỷ, tri âm”. Bởi ông có biết chữ Hán và thích làm thơ. Ông Hoàng Đức Triều có cái lán trên hang Pạc Tẻng, để gia đình sơ tán khi có biến, nơi Bác có ghé ở vài ngày.

Trong bài của Hồng Khanh có chi tiết ghi theo hồi nhớ của ông Tạ Quang Chiến: Bác đã dắt quyển sổ “lên mái tranh của một nhà đồng bào”. Mái tranh đó, theo suy nghĩ của ông Uyên là mái tranh nơi cái lán sơ tán của ông Triều, bởi theo ông, hồi này Bác không ở nhà dân. Ông Triều đã tìm thấy cuốn sổ sau khi Bác rời Lam Sơn, về Tân Trào; và giữ cuốn sổ này cho đến năm 1950, thì mới nhờ người con trai thứ ba là nhà thơ Hoàng Triều Ân (sinh năm 1931) lúc này đang công tác ở 372 (tức Văn phòng tỉnh ủy Cao Bằng) chuyển cho Bí thư tỉnh ủy Cao Bằng là ông Dương Công Hoạt, để nhờ ông Hoạt chuyển cho Bác. Và nếu sự kiện đó là đúng thì ông Hoạt đã giữ cuốn sổ của Bác cho đến giữa năm 1955, mới chuyển cho Văn phòng Phủ Chủ tịch, theo đường Bưu điện, mà không đề tên người gửi.

Ông Hoạt, theo như bài báo của ông Uyên, sau hòa bình là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Trung ương, từ khi nghỉ hưu, lúc ở Hà Nội, lúc ở Cao Bằng.

Câu chuyện hành trình của cuốn sổ tay qua các địa chỉ như trên, có thể là hợp lý, theo suy nghĩ của ông Uyên. Nhưng phần tôi, tôi thấy còn nhiều câu hỏi, và chỉ nên xem là một trong các giả thuyết, chứ không nên khẳng định, bởi các băn khoăn như sau:

- Sao một cuốn sổ tay quý như thế, là một kỷ vật giá trị như thế, với Bác; và chỉ là một cuốn sổ nhỏ 9,5x12,5cm, 82 tờ, không có gì cồng kềnh, nặng nề… mà Bác lại không thể mang theo bên mình ? Hoặc nếu không thể mang theo thì sao không gửi lại cho một ai tin cậy mà phải dắt lên mái nhà tranh? Vậy tình huống gì đặc biệt đã xảy ra với Bác? Mái tranh, qua nắng mưa thì có gì an toàn ? Mà lại là mái tranh ở một cái lán sơ tán khuất nẻo, thỉnh thoảng mới có người đến ở, thì khả năng bị bỏ quên càng nhiều.

- Thời gian ông Triều giữ cuốn sổ từ 1944 đến 1950 là 6 năm; rồi chuyển sang ông Hoạt từ năm 1950 đến 1955 là 5 năm. Trong thời gian này cả hai vị đều là người lãnh đạo ở địa bàn Cao - Bắc -Lạng. Riêng ông Hoạt sau năm 1954 có rất nhiều điều kiện để về Hà Nội, không kể thời gian ông làm Phó Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc Trung ương. Vậy sao ông không thể có cách chuyển cuốn sổ tay đến tay Bác một cách trực tiếp và sớm hơn, mà phải chờ đến giữa năm 1955, qua Bưu điện, và không đề địa chỉ người gửi ?

- Cả hai ông đều mất sau Bác khá lâu. Ông Triều - năm 1985. Ông Hoạt - gần đây. Hai ông đều là người có chữ Hán, thích làm thơ, và là cán bộ cao. Vậy mà sao từ sau 1960, khi NKTT đã được dịch và đi in lại nhiều lần, mỗi lần hàng vạn bản, cả hai ông lại không một lần liên hệ với Bác (trực tiếp hoặc gián tiếp), để cho Bác biết rằng chính đó là cuốn sổ các ông từng giữ, thậm chí giữ trong một thời gian lâu ? Kể cả nhà thơ Hoàng Triều Ân - sự kiện một cuốn sổ tay của Bác mang tên Ngục trung nhật ký, được thấy từ năm 1950, ở tuổi 20, chắc không thể là một sự kiện dễ quên! Một tác phẩm quan trọng như thế, có giá trị lớn như thế, vừa là giá trị lịch sử, vừa là giá trị văn học, không chỉ quý giá đối với Bác mà còn là vô giá đối với dân tộc, mà ai đó giữ được, để không thất lạc, thì người có công giữ nó, hoặc đã có lần nhìn thấy nó, quả là một may mắn lớn, rất đáng tự hào, rất nên “báo công”chứ sao !

Thế mà tất cả vẫn chìm trong yên lặng, cho đến khi các ông qua đời; rồi đến năm 2003, khi có lời kể của ông Tạ Quang Chiến !

Trong bài của ông Uyên có kể lại chuyện ông Triều xướng hoạ thơ với Bác trong một đêm trăng, chứng kiến những giây phút Bác “thăng hoa cùng thơ’, và rất tâm đắc với bài Khán thiên gia thi hữu cảm “chép trong cuốn sổ tay giấy mềm”, ông được Bác trao cho đọc… Ông Triều in bài hồi ký của mình năm 1973, 4 năm sau ngày Bác qua đời, và 13 năm sau ngày NKTT ra đời. Một câu chuyện thú vị và nên thơ như vậy, nếu thật là có, thì sao lại không thể xuất hiện sớm hơn trong không khí nhân dân cả nước đón đọc NKTT ?

Và cả nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Triều Ân. Tôi tin là ông Triều Ân, nếu đã một lần cầm trên tay NKTT, chắc ông không thể không chia sẻ những kỷ niệm quý giá và niềm vinh dự của người cha. Và sau này, khi sự kiện NKTT được công bố, chắc càng không thể ra ngoài mối quan tâm của ông, là người đã có cái duyên biết nó, từ 1950. Vậy sao phải chờ đến 2003, khi có bài trên báo Nhân dân, ông mới nhớ đến chuyện này?

Bây giờ sang chặng đường thứ hai, từ khi cuốn sổ tay đã ở Văn phòng Phủ Chủ tịch giữa 1955, cho đến khi được Viện Văn học tổ chức dịch và ấn hành vào năm 1960.

Theo ông Uyên và một số tài liệu khác, ta được biết cuốn sổ đã được trưng bày tại triển lãm Cải cách ruộng đất ở phố Bích Câu, từ tháng 9 đến tháng 11 – 1955; sau đó được trả về cho Phòng lưu trữ của Trung ương Đảng.

Trong Lời nói đầu bản in NKTT năm 1960 của Viện Văn học có đoạn viết: “Trong Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam tại Phòng Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế và Mặt trận Việt minh, có một cuốn sổ tay, bìa xanh đã bạc màu. Trang đầu cuốn sổ ghi bốn chữ Ngục trung nhật ký, kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích…” Như vậy là Viện Văn học muốn cho bạn đọc hiểu là Viện đã thực hiện việc dịch trên văn bản Ngục trung nhật ký có ở Viện Bảo tàng Cách mạng.

Trong bài của ông Hoàng Quảng Uyên thì không có địa chỉ Viện Bảo tàng Cách mạng mà chỉ có địa chỉ Phòng lưu trữ của Trung ương Đảng. Và con đường từ nguyên tác NTNK đến bản dịch NKTT có gì đó như là ngẫu nhiên. Ông dựa vào bài của cụ Trần Đắc Thọ in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (46) - 2001, để cho biết: Cuốn sổ được để trong “một góc buồng tối” lẫn lộn nơi “một đống sách chữ Hán” của Phòng lưu trữ. Và người phát hiện ra nó là ông Phạm Văn Bình, Trưởng Ban giáo vụ Trường Nguyễn Ái Quốc, do có nhiệm vụ giảng dạy phần lịch sử cách mạng từ 1939 – 1945, nên phải vào kho lưu trữ tìm tài liệu, “tình cờ”, “sau một lúc lục lọi” mà moi ra được. Từ đó việc dịch được tiến hành rất chủ động (chứ không phải do ai đó phân công) bởi hai ông: Ông Phạm Văn Bình (với bút danh Văn Trực) và ông Văn Phụng, là cán bộ phiên dịch chữ Hán của Trường. Rồi qua ông Trường Chinh, ông Tố Hữu mà ông Bình gặp được Viện Văn học… Viện Văn học nhận nhiệm vụ từ ông Tố Hữu rồi tổ chức việc dịch, mà người phụ trách chính và có công dịch nhiều nhất, gần như hầu hết, là nhà thơ Nam Trân, để có bản in NKTT năm 1960, gần 114 bài (trên tổng số 135 bài), không đánh số và tất cả đều không đề tên người dịch.

Bản dịch 133 bài của Văn Trực - Văn Phụng (chứ không phải 113 bài như ông Uyên viết - điều này tác giả và báo Lao động cần phải đính chính sớm) hiện còn lưu ở Viện Văn học. Bản này đến Viện bằng con đường nào, đến nay cũng chưa rõ, vì tất cả những người phụ trách Viện Văn học, và tham gia việc dịch, in NKTT lúc ấy, đều chưa một lần nói đến, và cho đến nay tất cả đều đã qua đời.

Điều tôi muốn nói ở đây là, tôi không tin có sự vô ý và vô tâm của các cơ quan lưu trữ đối với cuốn sổ tay này, khi nó đã được chính Bác tặng và cho phép trưng bày trong một cuộc triển lãm lớn, và đã được sách, báo nhắc đến khá nhiều; sớm nhất là bài trên báo Đồng minh, 6-6-1946 của Lê Tùng Sơn, rồi tiếp đó trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (1949)… và bài muộn nhất là bài Quyển “Ngục trung nhật ký” của Bác Hồ, của Nguyễn Tâm đăng trên báo Nhân dân ngày 19-5-1957. Tôi cũng không tin là nó được phát hiện một cách tình cờ. Trái lại, tôi tin là nó đã được cất giữ cẩn thận, và chờ dịp để có thể ra mắt công chúng. Dịp đó là dịp kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Hồ Chủ tịch. Và nơi có thể tin cậy cho việc công bố, cũng phải chờ đến dịp này, đó là Viện Bảo tàng Cách mạng và Viện Văn học, hai cơ quan cùng được thành lập vào đầu 1959.

Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi sau khi đọc hai bài của ông Hoàng Quảng Uyên. Tất nhiên cũng vẫn chỉ là giả thuyết. Và việc tìm kiếm vẫn cứ nên tiếp tục, dẫu có thể cuối cùng không tìm ra được địa chỉ xác thực, với những giả thuyết không còn gây hồ nghi, của người giữ và người gửi. Và nếu vậy thì xin trả địa chỉ ấy về cho nhân dân, cho một người dân nào đó đã trở nên vô danh trong đồng bào các dân tộc miền núi Việt Bắc thân yêu của Bác, và của tất cả chúng ta.

Còn hành trình của bản dịch NKTT, để đi tới một bản dịch trọn vẹn gồm đủ 133 bài (không kể bài đặt ở đầu, không đánh số, và một bài ở ngoài tập thơ), từ 1960, qua các mốc 1983, 1990, và sau đó, tôi đã nói kỹ trong bài báo đã đăng, và thấy không muốn nói gì thêm.

P.L.

Cuong64

ĐI TÌM LÂM NOẠ PHU

(NGƯỜI SAN CẢI NÊN BẢN KIỀU NÔM 1870)

NGUYỄN TUẤN CƯƠNG

I. Giữa năm 2003, soạn giả Nguyễn Quảng Tuân cho ra mắt cuốn Truyện Kiều - Bản kinh đời Tự Đức - 1870 (1). Đây vừa là một khích lệ đối với những người quan tâm đến Truyện Kiều nói chung và vấn đề văn bản học Truyện Kiều nói riêng, vừa mang đến hi vọng còn có thể tìm được những bản Kiều Nôm khác có niên đại sớm hơn nữa, không chỉ dừng lại ở các niên đại 1872 (bản Duy Minh Thị) hay 1871 (bản Liễu Văn đường).

Điều đầu tiên khiến chúng tôi quan tâm là người “san cải” (chữ dùng trong lời tựa) nên bản Kiều Nôm 1870 này. Mọi việc tưởng như không có gì đáng phải đặt nghi vấn, nhưng khi được xem những thông tin về người “san cải” (vẫn được gọi với cái tên “Lâm Nọa Phu”) thì chúng tôi cảm thấy có chút ngờ ngợ.

Thông tin về “Lâm Nọa Phu” được biết qua hai đoạn chép(2) (xin xem bản chụp ở cuối bài viết này):

Đoạn thứ nhất ở hàng ngoài cùng bên trái trang bìa cuốn truyện, được soạn giả Nguyễn Quảng Tuân phiên âm là: “Hoan Châu tiểu tô Lâm Nọa Phu thư” (sđd, các trang 19, 35).

Đoạn thứ hai là hai hàng ngoài cùng bên trái tờ số V (theo cách đánh số tờ của soạn giả) phần bài tựa, soạn giả phiên âm là: “Hoan Châu, Tiểu Tô Lâm Nọa Phu lập thư ư Công bộ(3) chi Tây hiên” (sđd, tr.43), rồi dịch nghĩa: “Hoan Châu - Tiểu Tô Lâm Nọa Phu viết ở Tây hiên bộ Công” (sđd, tr.46).

Từ hai đoạn thông tin trên, soạn giả đã khẳng định về người “san cải” nên bản Kiều 1870 đó như sau: “Ông họ Lâm lấy hiệu là Nọa Phu là có ý khiêm nhường tuy cũng là người có khí tiết” (sđd, tr.34, chú thích số 6). Và trong toàn cuốn sách (cũng như ở một số bài nghiên cứu khác được viết trước và sau khi cuốn sách xuất bản, kể cả trong lời giới thiệu cuốn sách), người “san cải” được mặc nhiên công nhận là một người họ Lâm, hiệu là Nọa Phu, gọi là Lâm Nọa Phu, từng làm quan ở Bộ Công dưới triều Tự Đức… mà không có một mảy may ngờ vực !

Nhưng đó có phải hoàn toàn là sự thật ?

II. Nghi ngờ của chúng tôi xuất phát từ đoạn thông tin thứ hai. Nếu chỉ nhìn vào những dòng phiên âm và dịch nghĩa bằng chữ Quốc ngữ thì không có gì đặc biệt, nhưng khi nhìn kĩ hàng thứ nhất trong đoạn thông tin này, chúng tôi thấy chữ “Lập” (立) được viết lệch hẳn về bên phải của hàng, và nhỏ hơn những chữ khác cùng hàng. Đây là lối viết khiêm xưng thường thấy trong nhiều văn bản Hán Nôm. Chữ bị viết nhỏ hơn và lệch đi thường là từ chỉ vai vế trong xưng hô của cấp dưới đối với cấp trên (ví dụ như chữ “thần” (臣để biểu thị người viết là một viên quan trong mối liên quan về xưng hô với vua, và văn bản đó sẽ được hoàng đế ngự lãm); hoặc có thể là tên của người viết, trong trường hợp này sẽ là chữ cuối cùng trong họ tên đầy đủ của người viết; hoặc là một vài trường hợp khác nữa…

Suy nghĩ theo hướng thứ hai, chúng tôi tìm những người có tên là Lập, làm quan trong khoảng đời Tự Đức. Và dường như chúng tôi đã đi đúng hướng: Nguyễn Hữu Lập, người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Giải nguyên tại trường thi Nghệ An, khoa thi Tự Đức Canh Tuất (1850), đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa Nhâm Tuất (1862)(4). Thông tin từ Quốc triều hương khoa lục này trùng hợp ở hai điểm với những thông tin đã biết về người sao chép bản Kiều 1870; thứ nhất là người có chữ cuối cùng trong tên là chữ Lập như chúng tôi đã nghi ngờ; thứ hai, người đó cũng quê ở Hoan Châu (tức vùng Nghệ An, Hà Tĩnh).

Đến đây, chúng tôi bước đầu xác định được một vài giả thiết về người “san cải” nên bản Kiều Nôm 1870: tên là Lập, quê ở Nghệ An (Hoan Châu), từng làm quan ở Bộ Công vào khoảng trung thu năm 1870. Vậy còn các chữ Tiểu - Tô - Lâm - Nọa - Phu cho ta những thông tin gì ?

Chúng tôi tiếp tục tìm kiếm thông tin về Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập. May mắn thay, trong Đại Nam chính biên liệt truyện (5) (bản dịch, viết tắt là ĐNCBLT), quyển 38, đoạn truyện về Nguyễn Văn Giao có phụ chép tiểu truyện về Nguyễn Hữu Lập và thân phụ Nguyễn Hữu Lập là Nguyễn Nhữ Hiên (hay Nguyễn Trọng Dực, theo Quốc triều hương khoa lục (6)).

ĐNCBLT chép rằng: “Nhữ Hiên có làm ra các tập Tô Lâm(7) thi thảo …” (bản dịch, sđd, tr.330). Đọc đến đây, chúng tôi buộc phải tự hỏi: phải chăng tên hiệu (hoặc tên tự) của Nguyễn Nhữ Hiên là “Tô Lâm”, nên mới có tập “Tô Lâm (lâm) thi thảo”? Đã có không ít trường hợp tương tự: Tùng Đường thi thảo của Tùng Đường Đỗ Đăng Đệ, Mộng Mai thi thảo của Mộng Mai Trương Hảo Hợp, Quán Sơn thi thảo của Quán Sơn Cư Sĩ Trần Huy Tích, Chí Hiên thi thảo của Chí Hiên Nguyễn Văn Lí, Quất Lâm thi thảo của Quất Lâm Nguyễn Văn Giao(8) (em ruột Nguyễn Nhữ Hiên)… Vậy lẽ nào Tô Lâm thi thảo không phải là tác phẩm của một Tô Lâm Nguyễn Nhữ Hiên (hay Nguyễn Trọng Dực)!

Như vậy là mọi việc đã dần sáng tỏ: Tiểu Tô Lâm (Tô Lâm bé, tức là con; còn Tô Lâm lớn, là cha) cũng là một tên hiệu (hoặc tên tự) khác của Nguyễn Hữu Lập. Cụ thể hơn thì Tiểu Tô Lâm là tên hiệu của ông, điều này chúng ta có loại suy từ công thức ghép “X + thi thảo”, mà trong đại đa số các trường hợp đều cho thấy vị trí của X là một tên hiệu của tác gia (Tùng Đường, Mộng Mai, Quán Sơn, Chí Hiên, Quất Lâm đều là tên hiệu).

ĐNCBLT còn cung cấp hai thông tin quan trọng nữa để góp phần đi đến khẳng định về người “san cải” nên bản Kiều 1870:

Thứ nhất: “Hữu Lập, tự là Nhụ(9) Phu…” (ĐNCBLT, bản dịch, sđd, tr.330). Chữ có thể phiên là “Nọa” hoặc “Nhụ”, nhưng như soạn giả Nguyễn Quảng Tuân đã viết: “Khi dùng với chữ phu (夫) thì phải đọc là nọa phu) (sđd, tr.34, chú thích số 6).

Thứ hai: “Năm thứ 19 (1866) bổ án sát sứ Sơn Tây nhậm chức ấy 3 năm rồi vào Thự thị lang Bộ Công quan Hàn lâm viện […]. Sau sung chánh sứ đi Yên Kinh (Bắc Kinh). Khi trở về bổ Hộ bộ Tham tri sung Tàng thư lâu đổng lí…” (ĐNCBLT, bản dịch, sđd, tr.330).

Qua đó ta xác định thêm được hai thông tin quan trọng nữa, Nguyễn Hữu Lập tên tự là Nọa Phu (hoặc Nhụ Phu, theo cách phiên âm trong bản dịch ĐNCBLT), từng làm quan ở Bộ Công trong khoảng năm 1868 đến 1870, trước khi làm Chánh sứ sang Yên Kinh mùa đông năm 1870(10). Điều này hoàn toàn phù hợp với dòng thông tin về niên đại “Tự Đức Canh Ngọ Trung thu hậu tứ nhật” (năm Canh Ngọ đời Tự Đức, sau Trung thu 4 ngày) ở cuối bài tựa bản Kiều 1870, có nghĩa là sau khi việc “san cải” (chữ dùng trong bài tựa) bản Kiều 1870 hoàn thành (có thể “sau Trung thu 4 ngày” hoặc ít lâu sau đó) thì vừa vặn sắp đến mùa đông để Chánh sứ Nguyễn Hữu Lập dẫn sứ đoàn sang Yên Kinh (tức Bắc Kinh).

Trong ĐNCBLT còn có một bằng chứng nữa góp phần khẳng định về người “san cải” nên bản Kiều 1870: “Hữu Lập làm quan, khi làm việc về, tay không lúc nào rời quyển sách, vì văn học mà được vua biết đến. Văn chương làm ra (có tính chất) một nhà văn học riêng. Khi sang sứ, những sĩ phu ở triều đình Trung Quốc cũng ca tụng” (ĐNCBLT, bản dịch, sđd, tr.330). Đối với một người đỗ đến Đình nguyên Hoàng giáp (năm 1862), lại “văn chương hoa quốc” đến mức “vì văn học mà được vua [tức Tự Đức, một ông vua nổi tiếng hay chữ - NTC] biết đến” thì việc có hứng thú với Truyện Kiều, ra công sao chép và “san cải” Truyện Kiều cũng là điều hợp với lẽ thường.

III. Đến đây, chúng ta có thể lí giải hai đoạn thông tin về người “san cải” nên bản Kiều Nôm 1870 như sau:

Đoạn một: 歡 洲 小 蘇 林 懦 夫 書
Phiên âm: “Hoan châu // Tiểu Tô Lâm // Nọa Phu // thư”

Nghĩa là “[Người tự là] Nọa Phu, [hiệu là] Tiểu Tô Lâm [tức “Tô Lâm bé”, con trai của “Tô Lâm lớn” Nguyễn Nhữ Hiên], quê ở Hoan Châu viết”

Đoạn hai: 歡 洲 小 蘇 林 懦 夫 立 書 於 工 部 署 之 西 軒
Phiên âm: “Hoan châu // Tiểu Tô Lâm // Nọa Phu // Lập // thư ư Công bộ thự chi tây hiên”

Nghĩa là: “[Nguyễn Hữu] Lập, tự là Nọa Phu, hiệu là Tiểu Tô Lâm, quê ở Hoan Châu, viết tại hiên phía tây tòa Công bộ”.

IV. Qua những cứ liệu vừa trình bày, chúng tôi tạm đi tới một số kết luận sau:

1. Người “san cải” nên bản Kiều 1870 là Nguyễn Hữu Lập (1824 - 1874(?))(11), tự là Nọa Phu, hiệu là Tiểu Tô Lâm (nghĩa là Tô Lâm bé, do tên hiệu của cha là Tô Lâm), quê ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An (thuộc vùng Hoan Châu cũ). Ông đỗ Giải nguyên năm 1850, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp năm 1962, nổi tiếng về văn học, từng làm nhiều chức quan to ở các bộ, viện. Ông đã sao chép và “san cải” Truyện Kiều lúc còn làm quan ở Bộ Công, trước khi khởi hành đi sứ sang Trung Quốc vào mùa đông năm 1870. Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Hữu Lập còn lưu được đến ngày nay không nhiều, hiện mới biết được một số bài thơ, văn chép lẫn trong các sách Bi kí tạp biên, Danh công biểu tuyển, Sài Phong Thượng thư công trí sự khánh tập (12).

2. Lâm Nọa Phu là một cái tên không có thực, đó là kết quả của một vài sơ suất nhỏ trong khâu ngắt câu và hiểu nghĩa chữ Hán. Cho nên, bản Kiều Nôm chép tay năm 1870 không thể gọi là bản Lâm Nọa Phu như cách vẫn gọi, mà nên gọi là Bản Nọa Phu (không có chữ Lâm) hoặc Bản Nguyễn Hữu Lập.

Với việc phát hiện và công bố bản Kiều Nôm chép tay năm 1870, chúng ta không chỉ bảo tồn được một bản Kiều quý, mà còn là lưu giữ được bút tích của một danh sĩ - văn nhân - đại thần đời Tự Đức. Việc xác định Nguyễn Hữu Lập là người “san cải” nên bản Kiều 1870 sẽ cung cấp thêm cho giới Kiều học một vài thông tin mới để đánh giá đúng mức giá trị của bản Kiều 1870 trong hệ thống Truyện Kiều còn lại đến ngày nay.

N.T.C

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, Truyện Kiều - Bản Kinh đời Tự Đức - 1870, Nxb. Văn học & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2003.

(2) Thực ra, chúng tôi cũng muốn đặt vấn đề nghi ngờ trang bìa bản Kiều 1870 vốn không phải là của bản gốc, bởi hai lí do: thứ nhất, các chữ trên trang bìa dường như được viết bằng bút mực chứ không phải bút lông, nét chữ có phần hơi khác với đường nét hoa mĩ trong các phần còn lại của văn bản; thứ hai, trang bìa ghi là “Hoan Châu Tiểu Tô Lâm Nọa Phu thư”, so với lời tựa ghi “Hoan Châu tiểu tô Lâm Nọa Phu lập thư…” thì thiếu mất chữ Lập. Chúng tôi ngờ rằng trang bìa gốc đã bị mất, trang bìa hiện còn là do người sau căn cứ theo thông tin trong lời tựa để chép lại, người chép lại có thể không hiểu (hoặc hiểu nhưng thấy không cần thiết) giá trị của chữ Lập nên đã bỏ chữ ấy đi. Nếu có cơ hội khảo sát trực tiếp bản gốc thì có lẽ sẽ sáng tỏ đôi điều. ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên nghi vấn đó để chờ ý kiến của các nhà nghiên cứu. Tạm thời chúng tôi vẫn xem hai đoạn thông tin (trong trang bìa và trong bài tựa) là có giá trị độc lập với nhau, và rõ ràng là những thông tin trong phần cuối bài tựa là đầy đủ hơn và có nhiều giá trị hơn.

(3) Sau chữ Bộ phiên âm thiếu một chữ Thự, có thể là do lỗi in ấn.

(4) Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nguyễn Thúy Nga & Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu, Nxb. Tp. HCM, 1993, tr.300.

(5) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (nhị tập), bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997, tập 4, các trang 329, 330.

(6) Quốc triều hương khoa lục, sđd, trang 140 và 300 lại ghi tên thân phụ Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập là Nguyễn Trọng Dực, đỗ thi Hương năm Minh Mạng ất Dậu (1825) tại trường thi Nghệ An. Chúng tôi cho rằng có thể Nguyễn Trọng Dực là tên chính, còn Nhữ Hiên là tên tự hoặc tên hiệu.

(7) Đối chiếu với nguyên bản chữ Hán ĐNCBLT thì hai chữ “Tô Lâm” được viết là 蘇 林, đúng như trong bản Kiều 1870 (Xin xem Đại Nam chính biên liệt truyện (nhị tập), quyển 38, kí hiệu sách ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm VHv.1569/10, tờ 16a ghi: 所 著 有 蘇 林 詩 草 (Sở trước hữu Tô Lâm thi thảo…).

(8) Năm trường hợp tác giả và tác phẩm đã dẫn ở đây, chúng tôi theo Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2002.

(9) Nguyên bản Đại Nam chính biên liệt truyện (nhị tập), sđd, tờ 15b ghi: 有 立 字 懦 夫 (Hữu Lập tự Nọa Phu), đúng như chữ “Nọa Phu” trong bản Kiều 1870.

(10) Sứ đoàn gồm Chánh sứ Nguyễn Hữu Lập, hai Phó sứ là Phạm Hy Lượng và Trần Văn Chuẩn, khởi hành vào mùa đông năm Canh Ngọ, niên hiệu Tự Đức thứ 23, tức năm 1870, về nước năm 1872 (Xin xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học (tập 32), Nxb. KHXH, H. 1975, tr.56).

(11) Năm sinh và năm mất của Nguyễn Hữu Lập còn chưa được xác định rõ. Học giả Trần Văn Giáp cho rằng ông “sinh năm 1817, mất năm nào chưa rõ”, GS Chương Thâu cho rằng ông sinh năm 1724, chưa rõ năm mất (Xin xem Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.446; Chương Thâu: Cuộc đời Phạm Hy Lượng, in trong Phạm Hy Lượng, cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1997, tr.16, chú thích số 1). Bởi Nguyễn Hữu Lập đi sứ đến năm 1872 mới về nước, sau đó lại làm thêm vài chức quan nữa, nên sớm nhất là ông phải mất vào năm 1872; mà ĐNCBLT cho biết ông thọ 51 tuổi, vậy ông sinh sớm nhất là vào năm 1822, có nghĩa là con số 1817 chưa chính xác. ở đây, chúng tôi tạm ghi năm sinh của ông là 1824 theo GS. Chương Thâu, đồng thời bổ sung thông tin về năm mất của ông là 1874, và thận trọng để tồn nghi, chờ ý kiến thẩm định của các nhà nghiên cứu.

(12) Theo Trần Nghĩa & F. Gros chủ biên, Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Nxb. KHXH, H. 1993, các mục sách số 220, 653 và 2945.

Lam64

VỀ CÁC VĂN BẢN CỦA TÁC PHẨM
HẢI DƯƠNG PHONG VẬT CHÍ

NGUYỄN THỊ LÂM

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

Hải Dương phong vật chí (HDPVC) là tập sách địa chí trấn Hải Dương do Trần Huy Phác, hiệu Đạm Trai biên soạn, Hải Thượng Đường Phong Bùi Dã Sĩ(1) đề bạt, Ân Quang hầu Trần Công Hiến(2) trông coi việc khắc in.

Trần Huy Phác (1754 - 1834), người làng Bình Vọng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Đương thời, họ Trần làng này có nhiều người đỗ đạt, văn thơ lưu truyền ở đời như Trần Thực, Trần Định, Trần ý, Trần Lâm(3)... Trần Huy Phác từ nhỏ nổi tiếng hiếu học, hay văn. Ông đỗ Hương cống (Cử nhân) năm Lê Cảnh Hưng 38 (1777), năm Giáp Tý (1804) được vua Gia Long triệu ra làm Trợ giáo xứ Hải Dương, An Quảng. Năm 1809 (Gia Long 8) được thực thụ chức ấy. Năm 1812 (Gia Long 11) được thăng Đốc học Thanh Hoa, tước Phác Ngọc Bá. HDPVC ra đời trong thời kỳ ông lưu tại Hải Dương. Nội dung sách bao gồm các mục: núi sông, nhân vật (đế vương, mẫu hậu, quốc mẫu, văn thần, võ tướng, quan lại, nhà sư, danh y, du sĩ, trí mẫu, tài nữ, hiền mẫu, trinh tiết phụ, phú gia phụ), phong tục, thổ nghi, tứ dân kỹ nghệ. Riêng mục “nhân vật” ghi chép gần bảy mươi người, tất cả đều được trình bày một cách ngắn gọn, súc tích. Trong đó tác giả đặc biệt biểu dương những anh hùng cứu nước, những nhà khoa bảng, những tài năng kiệt xuất, những tấm gương đạo đức làm rạng rỡ non sông xứ sở. Phần cuối tác phẩm có hai bài thơ Nôm song thất lục bát: Hải Dương phong vật khúc dài 604 câu tóm lược các nội dung đã nêu và bài Hải Dương thủy trình lược ký dài 188 câu ghi chép về các đường biển, đường sông của xứ này. Bên cạnh việc mô tả cương vực, hình thế núi sông như ở một số sách địa chí khu vực thường gặp: Bắc Ninh tỉnh địa dư, Sơn Tây tỉnh chí, Nam Định tỉnh địa dư chí, Thanh Hóa tỉnh chí... HDPVC còn ghi chép được khá nhiều thơ ca, câu đối Hán Nôm của các danh nhân địa phương như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sư Mạnh, Lê Nại, Lê Quang Bí, Vũ Dương, Ngô Hoán, Nguyễn Doãn Khâm... Qua bài tựa tác giả cũng gửi gắm lòng mong muốn: “Để cho người đọc sách này thấy điều thiện có thể khuyên mình, điều ác có thể răn mình. Người hâm mộ các bậc văn thân võ tướng thì trau dồi đức hạnh, mong sánh tốt đẹp với người xưa. Ai cảm mến nơi xóm ngãi làng nhân thì bỏ thói đen bạc để quay về nơi chính đạo. Sau nữa, đối với quốc gia, việc nhất đạo đức, đồng phong tục có bổ ích cho phong hóa trong một phần muôn”... Có thể nói đây là cuốn sách có giá trị tham khảo về nhiều mặt: địa lý, văn học, sử học, dân tộc học, ngôn ngữ, văn tự... Ngoài ra, Trần Huy Phác còn biên tập các bộ: Danh thi hợp tuyển, Việt sử tập yếu(4) và là tác giả các bài Tuyên Quang tỉnh phú, Cao Bằng tỉnh phú(5)...

II. Các văn bản hiện còn

Hiện nay, tại các thư viện ở Hà Nội còn lưu giữ được cả thảy 7 dị bản của HDPVC. Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua từng văn bản:

1. Bản A.882 (tạm gọi là bản A): Sách in ván gỗ, 112 tờ, mỗi tờ in hai mặt, khổ 26x15cm, chất giấy đã sờn cũ, nhiều chữ bị mòn mờ khó đọc. Đầu sách có bạt, tựa, những đoạn cước chú in nhỏ hơn chính văn. Sau bài bạt ghi: “Ngày thượng cán(6), tháng quý hạ năm Nhâm Thân (1812). Hải Thượng Đường Phong Bùi Dã Sĩ cẩn bạt. Trung quân chính thống hậu đồn kiêm Lý ngũ đồn tham quân sự Khâm sai Chưởng cơ hành Hải Dương trấn Trấn thủ Ân Quang hầu Trần Công Hiến”. Cùng trang có con dấu khắc: “Trần thị gia tàng”. Cuối bài tựa ghi dòng chữ: “Ngày thượng cán, tháng trọng thu năm Tân Mùi, Hoàng triều năm Gia Long thứ 10 (1811). Trợ giáo Trần Đạm Trai thừa biên tập”. Trang sau ghi các tác phẩm được trích dẫn: Đại Việt sử ký, Lịch triều đăng lục, Danh gia phả, Công dư tiệp ký, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Sang phần nội dung ghi rõ: “Hải Dương trấn phong vật chí” rồi lần lượt đi vào các mục đã nêu. Phía sát mép trái mỗi tờ có ghi: “HDPVC, Hải học đường”. Theo bài tựa, HDPVC hoàn thành vào năm Tân Mùi (1811) và bài bạt đề năm Nhâm Thân (1812). Trong văn bản lại có những chữ kiêng húy đời Lê như: chữ “Tân” trong địa danh huyện Tân Minh vì tránh tên húy Lê Kính Tông nên đổi làm huyện Tiên Minh (tờ 13b); chữ “Tùng” trong địa danh xã Đoàn Tùng vì tránh tên húy chúa Trịnh phải đổi làm Đoàn Lâm (tờ 38a và 40a) và một chữ kiêng húy đời Nguyễn, đó là chữ “Lan” (tờ 21b) với cước chú: “Chữ “Lan” nguyên có thảo đầu, ngoài là chữ “môn” trong chữ “đông”, vì tránh quốc húy nên phải đổi tự dạng”. Đây có lẽ là tên húy của bà Huy Gia Từ Phi, vợ cả Nguyễn Phúc Cốn, mẹ đích của vua Gia Long. Theo điều lệnh kiêng húy vào tháng 3 năm Gia Long 2 (1803), chữ “Lan” là một trong sáu chữ: “Chủng, Noãn, ánh, Cốn, Hoàn, Lan” phải đọc tránh âm, khi viết đổi dùng chữ khác(7). Như vậy, từ những thông tin nêu trên có thể thấy bản HDPVC này được khắc in vào khoảng nửa đầu niên hiệu Gia Long.

Có một số điểm cần lưu ý như sau: tuy số tờ được xếp từ phải sang trái theo thông lệ của nhiều sách Hán Nôm nhưng ở quyển này có nhiều chỗ không theo đúng trật tự nên người đọc cảm thấy các phần mục trên dưới không ăn nhập gì với nhau. Chẳng hạn tờ 2 xếp lên trước tờ 1, tờ 10 tiếp đến tờ 13, tờ 11, 12 lại để mãi cuối sách. Đến tờ 101 thì xen vào bài Hải Dương thủy trình lược ký gồm sáu tờ xếp theo thứ tự ngược lại rồi đến các tờ 106, 105, 104, 103. Đây là lỗi do khâu đóng quyển. Trong văn bản còn thấy có trường hợp khắc sai, như ở đoạn nói về Lê Nại ghi là: “Năm 27 tuổi đỗ Tỉnh nguyên” (tờ 29b), đáng lẽ là Trạng nguyên. Các tài liệu đăng khoa như Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Đại Việt lịch đại đăng khoa lục, Liệt huyện đăng khoa bị khảo, Tam khôi lục đều ghi: “27 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Ất Sửu niên hiệu Đoan Khánh thứ nhất (1505) đời Lê Uy Mục”(8). Bài Hải Dương phong vật khúc do có 2 tờ 99 nhưng lại không có tờ 96 nên đã thiếu đi một đoạn dài 32 câu có thể thấy ở bản B (tờ 99-100):

Cơn gió thuận hồng vừa thẳng cánh,
Thuở sao tàn rồng lại ôm châu.
Tới lui nhẹ ruổi vó câu,
Ngựa xe chẳng đổi một bầu tàng xuân...

Trường hợp này có thể do người khắc ván in hoặc do khâu in ấn. Trong văn bản tuy còn lưu lại những dấu khuyên và dấu chấm câu bằng mực đỏ nhưng hầu như không có dấu vết gia công nhuận sắc của người sau. So với các bản khác thì đây là bản còn phản ánh được khá đầy đủ nội dung của HDPVC.

2. Bản AB.88 , Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Bản B): Sách chép tay, không đề rõ năm tháng và tên người sao chép, dày 124 tờ, mỗi tờ chép hai mặt, khổ 31x22cm, có bạt tựa, bìa màu hồng, chữ viết rõ ràng cẩn thận. Đầu sách có dòng: “Hải Dương phong vật mục lục”: Nước nhà có bao nhiêu doanh trấn; Phong vật chí (nói về các loại đường sá, cầu cống, hình thế núi sông trong đó có thơ ca); Nhân vật (đế vương, mẫu hậu, quốc hậu, văn thần, võ tướng, quan lại , nhà sư, danh y, du sĩ, trí mẫu, tài nữ, hiền mẫu, trinh tiết phụ, phú gia phụ); Phong tục; Thổ nghi; Kỹ nghệ; Phong vật khúc (dùng quốc âm tóm lược các điều kể trên). So với bản A, bản này chép thiếu bài Hải Dương thủy trình lược ký. Sau lời bạt, tựa có dòng: “Hải Dương trấn phong vật chí”. Nội dung về cơ bản được ghi chép giống như bản A. Có những trường hợp chép sai như địa danh Kiệt Đặc chép là Kiệt Thời (tờ 58b). Ở mục Nhân vật: Lương Như Hộc chép là Lê Như Hồng(9) (tờ 37b), Nguyễn Đức Trinh chép là Trần Văn Trinh(10) (tờ 48a), Trần Vĩnh Tuy chép là Lê Vĩnh Tuy(11) (tờ 53a)... Những lỗi này có thể do lơ đãng trong khi sao chép nên mắc phải. Trường hợp đền Lưu Quang chép thành Vịnh Quang (tờ 87b) trong bài Hải Dương phong vật khúc cũng vậy. Có những chữ bị người sau chữa bằng bút thường ở ngay bên cạnh, như trong câu: “ Cam đường quải ngàn hàng nô lệ”(12) (tờ 100a), “nô lệ” bị chữa thành “không kể”. Trường hợp này chữa sai do không hiểu điển cố. Đáng chú ý là ở mục ghi chép về núi sông có địa danh phủ Thượng Hồng được ghi chú: “Nay là phủ Bình Giang” (tờ 6a). Theo ta được biết, phủ Thượng Hồng được đổi làm phủ Bình Giang năm 1882 gồm ba huyện: Đường An, Đường Hào và Cẩm Giàng. Vậy bản B này chỉ có thể ra đời từ 1882 (thời Minh Mệnh) trở đi. Riêng mục Phong vật tiểu dẫn và Nhân vật ở cuối sách có phần lạc lõng và trùng lặp, đoạn về Khương Thế Hiền (tờ 108b) có ghi: “Đỗ Tỉnh nguyên, rồi năm Kiến Nguyên đỗ Thám hoa”. Thực ra không có chức danh Tỉnh nguyên và cũng không có niên hiệu Kiến Nguyên. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi Khương Thế Hiền người xã Bình Lãng, 43 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) khoa Canh Dần niên hiệu Khánh Đức 2 (1650) đời Lê Chân Tông(13). Từ đây có thể nghĩ rằng bản B bắt nguồn từ một văn bản khác với bản A, hoặc có thể nó được sao chép từ chính bản ấy nhưng có thêm bớt sửa chữa. Các đoạn “Mục lục” ở đầu sách, “Phong vật tiểu dẫn” và “Nhân vật” ở cuối sách có lẽ là của người sao chép đời sau thêm vào, không phải của HDPVC. Trước đây, ở miền Nam có bản phiên chuyển HDPVC ra quốc ngữ (xuất bản năm 1968) là dựa trên bản này.

3. Bản VHv.168 , Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Bản C): Sách chép tay, 81 tờ, mỗi tờ chép 2 mặt. Bìa giấy bao xi măng quét sơn ta, khổ 25x13cm, có bạt, tựa. Tờ đầu bị rách, sát mép trái còn dòng chữ: “Tả thư Vũ Văn Chiêm bút”, tờ thứ hai có bài “Kim lâu kỵ thi”. Tờ tiếp theo liệt kê các doanh trấn ở Việt Nam bao gồm: Phía nam sông 4 doanh 11 trấn: doanh Trực Lệ Quảng Bình, doanh Trực Lệ Quảng Trị, doanh Trực Lệ Thứ Đức, doanh Trực Lệ Quảng Nam, trấn Quảng Ngãi, trấn Bình Định, trấn Phú Yên, trấn Bình Hòa, trấn Bình Thuận, trấn Phiên An, trấn Định Viễn, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Phiên, trấn Long Hồ, trấn Hà Tiên. Phía bắc sông 1 phủ 13 trấn: trấn Thanh Hoa, trấn Thanh Bình, trấn Sơn Nam Thượng, trấn Sơn Nam hạ, phủ Hoài Đức, trấn Hải Dương, trấn Kinh Bắc, trấn Hưng Hóa, trấn Tuyên Quang, trấn Thái Nguyên, trấn Lạng Sơn, trấn An Quảng... Bản kê khai này có lẽ do người sao chép đời sau thêm vào, không phù hợp với nội dung HDPVC. Sau bài Bạt, tựa có dòng: “Hải Dương trấn phong vật chí” nhưng chỉ chép đến mục “Kỹ nghệ”, không có các bài Hải Dương phong vật khúc Hải Dương thuỷ trình lược ký. Tác giả bản sao chép là Vũ Văn Chiêm nhưng hiện chưa biết rõ tiểu sử nên cũng khó xác định thời điểm sao chép. Tuy nhiên, đem so sánh có thể thấy phần nội dung được chép trong sách này tương tự như bản A, có thể nó được sao chép từ bản A nhưng không đầy đủ.

4. Bản A.2878 , Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Bản D): Sách chép tay, không đề năm tháng hoặc tên người sao chép, gồm 80 tờ, mỗi tờ chép 2 mặt, khổ 25x13cm, bìa màu hồng. Phần đầu bị rách 3 tờ, không có bài bạt. Sau lời tựa chuyển sang nội dung có dòng chữ: “Tân san Hải Dương phong vật chí toàn tập”, cước chú: “Đông khổn công dư giám định, Trợ giáo Trần Đạm Trai tiên sinh thừa biên tập”. Có thể thấy đây là cái tên do người sao chép đặt ra, còn tên tác phẩm (HDPVC) đã được nhắc đến trong bài tựa do chính tác giả viết. So với bản A, bản này chỉ chép đến mục “Du sĩ” (Trạng cờ Vũ Huyên) rồi ghi: “Phong vật chí chung”, không có các bài Hải Dương phong vật khúc Hải Dương thủy trình lược ký. Tác giả cũng bỏ không chép các bài thơ phụng họa của các thành viên Hội Tao đàn với lý do “đã thấy ở các tập khác” (tờ 49b). Ngoài địa danh Bình Giang như đã chép ở bản B (tờ 3a), bản này còn ghi: “Phủ Hạ Hồng, nay đổi làm Ninh Giang” (tờ 3b). Phủ Ninh Giang cũng là tên mới đổi năm 1822 gồm các huyện Vĩnh Lại, Gia Lộc, Thanh Miện và Tứ Kỳ. Đáng chú ý là trong văn bản các chữ “thì” đều được viết kiêng húy thành chữ “thìn” (thì 時 > thìn 辰) như ở các tờ 1a và 23b... Như ta được biết, “thì” là tên chính thức của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì)(14), như vậy thì bản D này phải được sao chép từ thời Tự Đức trở đi.

5. Bản VHv.1367 , Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (bản E): Sách chép tay, bìa giấy xi măng quét sơn ta, không ghi năm tháng hoặc tên người sao chép. Tất cả có 64 tờ, mỗi tờ chép hai mặt, khổ 27x16cm. Trong văn bản thỉnh thoảng lại có một đoạn chép bổ sung bằng bút sắt dán kèm vào, như Mục lục (Sơn xuyên, nhân vật, phong tục, thổ nghi, tứ dân kỹ nghệ) và bài bạt... Sang phần nội dung ghi: “Hải Dương phong vật chí” nhưng so với bản A, bản này chỉ chép đến “Tứ dân kỹ nghệ”, không có Hải Dương phong vật khúc Hải Dương thủy trình lược ký. Người sao chép lại đem Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão và Phạm Đình Trọng gồm làm mục “văn võ toàn tài” mà các bản khác không có. Ngoài các địa danh Bình Giang, Ninh Giang như đã chú ở các bản B, D (tờ 6b và tờ 7a) cũng như viết kiêng húy các chữ “thì” thành “thìn” (tờ 5a, 20b, 38a...) bản này còn ghi: “Huyện Đường An, nay là Năng An” (tờ 7a). Huyện Năng An là tên mới đổi năm 1886 thời Đồng Khánh. Vậy bản này chỉ có thể ra đời từ 1886 trở đi. Xét về mặt nội dung, có thể các bản D, E đều được chép từ bản B ra nhưng không đầy đủ và có cước chú thêm các địa danh đã thay đổi. Đoạn mục lục và dòng chữ “Trần Công Hiến cẩn soạn” sau lời tựa ở bản này cũng là do người sao chép thêm vào, không phải của HDPVC.

6. Bản Hv.51nn, , Thư viện Viện Sử học (bản G): Sách chép tay, khổ 25x14cm, bìa giấy bao xi măng, 61 tờ, mỗi tờ chép hai mặt, không đánh số trang, không ghi ngày tháng và tên người sao chép. Phần đầu gồm có:

- Long Vân thi tập của Đoàn Chí Tuân.
- Châu Phong thi tập của Ngụy Khắc Tuần.
- Ngạn Sơn thi tập của Ngô Đức Bình.
- Phong Đình thi tập của Trương Quốc Dụng.

Phần sau là HDPVC (31 tờ). Tờ đầu tiên ghi dòng chữ: “Hải Dương phong vật chí” với cước chú: “Đông khổn trấn doanh Ân Quang hầu Trần Công Hiến. Trợ giáo Trần Đạm Trai biên tập”. Cuối bài bạt ghi: “Ngày thượng cán, tháng quý hạ, Hoàng triều Gia Long 17 (1818). Hải Thượng Đường Phong Bùi Dã Sĩ cẩn bạt. Trung quân chính thống hậu đồn kiêm Lý ngũ đồn tham quân sự Khâm sai Chưởng cơ hành Hải Dương trấn Trấn thủ Ân Quang hầu Trần Công Hiến”. Sau đó chép một số bài thơ của Trần Đạo Tái (có sách ghi là Lý Đạo Tái, tức tổ sư Huyền Quang), Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Chu Văn An, Đặng Minh Khiêm. Ngoài ra còn chép sơ lược hành trạng một số nhân vật (văn thần, võ tướng) như: Vũ Hữu, Vũ Phong, Vũ Dự, Vũ Quỳnh, Vũ Cán, Lê Nại, Nguyễn Kim An, Phạm Trấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ phụng họa của Ngô Hoán, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Cuối sách có dòng chữ: “Hải Dương phong vật chí thi ca lục tất”. Không thấy có các mục khác như: núi sông, phong tục, thổ nghi, tứ dân kỹ nghệ, cũng không có các bài Hải Dương phong vật khúc Hải Dương thủy trình lược ký. Căn cứ sách có chép những tên riêng như Ngụy Khắc Tuần, Trương Quốc Dụng là những tác gia sống vào thời Thiệu Trị, Tự Đức, trong văn bản lại viết kiêng huý các chữ “thì” (thì > thìn) ở các đoạn về Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vũ Hữu, chứng tỏ sách được sao chép từ thời Tự Đức trở đi.

7. Bản R.42 , Thư viện Quốc gia (Bản H): sách chép tay, bìa giấy bao xi măng, khổ 28x14cm. Tất cả gồm 41 tờ, mỗi tờ chép hai mặt, không đánh số trang, không ghi ngày tháng hoặc tên người sao chép. Đầu sách có bạt, tựa. Phần nội dung ghi: “Hải Dương phong vật chí” rồi chép sơ lược về các mục: núi sông, nhân vật, thổ nghi, tứ dân kỹ nghệ. Các nhân vật như Vũ Hữu, Vũ Phong, Vũ Dự, Vũ Quỳnh, Vũ Cán, Lê Nại, Lê Cảnh Tuân, Thúc Dĩnh, Thúc Hiển, Vũ Duy Đoán, Nguyễn Kim An, Trần Vĩ chỉ kê họ tên, không có quê quán, hành trạng. Phạm Trấn, Đỗ Uông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Vũ Duy Chí và ở một số mục như: tài nữ, hiền mẫu, tiết phụ, phú gia phụ cũng chỉ ghi họ tên với lý do: “Sự tích tường Công dư tiệp ký” (Sự tích chép rõ ở sách Công dư tiệp ký). Không thấy chép các bài Hải Dương phong vật khúc và Hải Dương thủy trình lược ký. Cuối sách có dòng: “Hoàng triều Gia Long thập niên Tân Mùi trọng thu thượng cán. Trợ giáo Trần Đạm Trai thừa biên tập” (Ngày thượng cán, tháng trọng thu Hoàng triều năm Tân Mùi Gia Long 10 (1811). Trợ giáo Trần Đạm Trai biên tập”. Ngoài các địa danh Bình Giang, Ninh Giang (ở mục Tứ dân kỹ nghệ) có cước chú như ở các bản B, D, E, trong văn bản cũng viết kiêng huý các chữ “thì” (thì > thìn). Điều này cho thấy đây là bản ra đời vào thời Tự Đức. Về nội dung, cũng có thể cả hai bản G, H này được sao chép từ bản B nhưng do vô tình hoặc hữu ý đã bỏ sót rất nhiều và thỉnh thoảng có thêm vào một đoạn cước chú.

Ngoài ra, tại Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội cũng có các bản Hải Dương phong vật chí số 1083 và 2100 được sao chụp từ các bản có ký hiệu A.88 và VHv.168 đã trình bày.

Tóm lại, trong các bản HDPVC nêu trên thì bản A có niên đại sớm nhất và cũng là bản có nội dung đầy đủ hơn cả, thứ đến là bản B. Còn các bản khác đều xuất hiện về sau và chỉ sao chép được một phần của HDPVC mà thôi. Đây là bản được công bố ngay khi tác giả còn sống, có thể coi là bản gốc, bản tiếp cận với nguyên tác nhất. Theo cụ Trần Văn Giáp, Ân Quang hầu Trần Công Hiến và Trần Huy Phác “đều là những người có học vấn, có tài văn học đương thời”(15). Điều này làm cho bản in còn lại đến nay càng đáng được tin cậy. Xét về các mặt địa danh, nhân vật, quan chức trong văn bản cũng đều có từ thời Hậu Lê trở về trước. Ngoài ra, văn bản này còn lưu giữ được những mã chữ Nôm cổ, nhiều chữ được ghi một cách thống nhất theo kiểu chữ Nôm đời Lê. Ví dụ:

- Chữ “một” được ghi bằng 蔑 (miệt):
Núi Song Đồng lan can một dải (89a, d2).

- Chữ “sang” ghi bằng (cự + lang):
Qua Trường Tân tuôn sang cửa Thái (87a, d5).

- Chữ “trước” ghi bằng (cư + lược), "sau" ghi bằng (cư + lâu):
Trước sau ngôi báu thung dung trị đời (89b, d7)...

Những chữ Nôm mang các kết hợp phụ âm đầu KR, KL này gắn liền với hệ thống ngữ âm tiếng Việt từ thế kỷ XVII trở về trước, từ thế kỷ XVIII về sau thỉnh thoảng chúng còn được thể hiện trên văn bản là do tính kế thừa của một nền văn tự. Bản B do xuất hiện muộn hơn nên những yếu tố khó hiểu đã bị lược bỏ, thay vào đó là những yếu tố mới cho phù hợp với cách phát âm đã thay đổi. Ví dụ: chữ “sang” ghi bằng “lang”, “trước” ghi bằng (tiên + lược)... Các dẫn chứng này đều chứng tỏ tính chất “cổ” hơn của bản A. Đây còn là cứ liệu để nghiên cứu chữ Nôm ở giai đoạn chuyển tiếp, thời cuối Lê đầu Nguyễn. Tuy nhiên, ở bản này cũng còn có chỗ chưa được hoàn hảo như chúng tôi đã nêu nên khi sử dụng không thể bỏ qua khâu nghiên cứu, chỉnh lý. Các bản khác tuy sao chép không được đầy đủ và ít nhiều có mang dấu ấn của người sau nhưng cũng là những tài liệu có giá trị tham khảo.

Mong rằng những nhận xét trên đây có thể sẽ giúp ích cho những ai quan tâm đến tập sách này.

N.T.L

CHÚ THÍCH

(1) Hải Thượng Đường Phong Bùi Dã Sĩ: chưa rõ là ai.

(2) Trần Công Hiến: (?-1816): người thời Gia Long, quê làng Trương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, được phong Trung quân chính thống hậu đồn kiêm Lý ngũ đồn, Khâm sai Chưởng cơ, làm Trấn thủ Hải Dương, tước Ân Quang hầu. Tuy là võ tướng nhưng ông lại yêu thích văn học. Trong thời gian ở Hải Dương, ông có mở Hải Học đường để xuất bản sách và biên tập Hải học danh thi tuyển in tại đây.

(3) Văn học Hán Nôm Hà Tây 10 thế kỷ. Nguyễn Tá Nhí - Phượng Vũ chủ biên. Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây 1997.

(4) Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu. Trần Nghĩa - Prof. Franỗois Gros chủ biên. Nxb. KHXH, H. tr.404 và 612.

(5) Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Sđd, tr.17 và tr.209.

(6) Thượng cán: thượng tuần, đầu tháng.

(7) Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ huý Việt Nam qua các triều đại. Nxb. Văn hóa, H. 1997, tr 124.

(8) Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học. H. 1993, tr.278.

(9), (10), (11) Các nhà khoa bảng Việt Nam, Sđd, tr.80, 106 và 421.

(12) Tương Đương ký: Lý Xung trồng một ngàn cây quýt, rồi bảo với con trai rằng: “Ta đã có một ngàn cây quýt kia làm đầy tớ, con không phải lo cơm áo cho ta sau này nữa”. Từ đó người ta thường dùng cam quýt để chỉ những kẻ tôi tớ (thằng Cam, thằng Quýt).

(13) Các nhà khoa bảng Việt Nam, sđd, tr.562.

(14) Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ huý Việt Nam qua các triều đại, sđd (phần bảng tra).

(15) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, T2, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.85.

Nam64

TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

K. I. GOLƯGINA

Thư viện Viện Khoa học Xã hội hiện đang lưu giữ 2 tập sách độc nhất vô nhị các truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XVI . Truyền kỳ mạn lục (Những ghi chép tản mạn các câu chuyện kỳ lạ) được thể hiện qua ngòi bút của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Dữ (cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI). “Những chuyện lạ kỳ”, hay “Truyền thuật những điều kỳ lạ” là những truyện phổ biến trong vùng Viễn đông, thuộc thể loại chuanqi (hay truyền kỳ trong tiếng Việt), cũng được lưu hành rộng rãi tại Việt Nam. “Ghi chép tản mạn các chuyện lạ” của Nguyễn Dữ đã đánh dấu sự xuất hiện của loại truyện ngắn kết thúc có nghệ thuật ở Việt Nam. Trong điều kiện ngôn ngữ văn chương mang tính toàn khu vực, việc hướng đến văn chương của nước láng giềng là điều tự nhiên; vì thế, trong một chừng mực đáng kể, tập truyện của ông là sự cải tác có tính dân tộc, dựa trên tác phẩm của Cù Hựu, cũng như văn thể “truyền kỳ” đời Đường. ở một bài tựa cổ xưa khuyết danh (không ghi năm tháng) trong bản in khắc gỗ các truyện của Nguyễn Dữ, đề năm 1764, có nói: “Xem văn từ khuôn phép, nhờ đó mà giáo hóa thế gian”(1). ở lề trên của bản khắc gỗ, đối với tên Tông Cát, có lời giải thích rằng đấy là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Ghi chú này cho thấy rằng tập sách của Cù Hựu đã rất nổi tiếng đối với các nhà văn Việt Nam thời trung đại, vào phần tư đầu thế kỷ XVI, mặc dù khi ấy, tương truyền tác phẩm của Cù Hựu bị cấm ở Trung Hoa.

Trong văn chương thời trung đại, một trong những hiệu chỉ tính văn chương của tác phẩm, can dự đến nghệ thuật ngôn từ chính là quy phạm thể loại. Việc tuân thủ nó được nhấn mạnh trước hết qua tựa đề, vốn luôn có từ chỉ hình thức thể loại - truyện, chí, ký, lục v.v... Nguyễn Dữ tuân theo quy tắc thể loại được sử dụng trong văn ngôn; ở tựa đề các truyện của ông đều có từ chỉ thể loại (truyện - “tích” ở 6 tác phẩm, ký - “ghi” ở 5 tác phẩm và lục - “chép” ở 9 tác phẩm). Phải nói rằng đây chỉ là sự tuân thủ có tính hình thức đối với khuôn sáo thể loại. Khi các nhà văn trung đại gọi chuyện là truyện, họ nhấn mạnh rằng sẽ miêu tả toàn bộ đời người, từ khi sinh đến lúc chết; nếu họ hiệu chỉ nó bằng ký, họ có ý rằng trong chuyện có một việc không lớn; nếu kể việc thăm địa ngục, đến phúc địa, hay lên thiên tào - chuyện như thế gọi là lục. Nguyễn Dữ phá bỏ quy phạm ổn định của những hình thức thể loại này, tạo nên những tác phẩm phóng khoáng hơn .

Cũng như Tân thoại của Cù Hựu, sách của Nguyễn Dữ gồm 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện; ấy là khuôn theo cấu trúc tác phẩm của Cù Hựu. Các từ “ghi chép tản mạn” (mạn lục) trong nhan đề nhằm chỉ ra đặc tính thể loại của tập văn, làm rõ đặc điểm của văn liệu được giới thiệu, cũng như thể hiện thái độ của tác giả đối với các văn liệu này. Nếu trong khi gọi tập sách của mình là Tân thoại, Cù Hựu đã nhấn mạnh tính mới mẻ của các truyện, dù ở mức độ đáng kể, chúng cũng chỉ là biến thể của các chủ đề đã biết, thì Nguyễn Dữ lại không lật đổ truyền thống. Ông hướng người đọc đến chỗ là trong tập sách của ông quả có những chứng cứ được trình diện khái quát về sự tồn tại của một thế giới kế tiếp. Ông cũng cho thấy cần thêm lời giải thích giản đơn “từ tác giả” vào tự sự, kết thúc mỗi truyện bằng lời “khuyến giới”. Phương pháp như vậy đã phổ biến trong văn tự sự bằng văn ngôn Việt Nam, cũng như Triều Tiên. Nói chung, Nguyễn Dữ dựng truyện không hoàn toàn giống kiểu trần thuật trong văn xuôi vùng Viễn Đông. Mở ra con đường độc lập, mong muốn khẳng định hình thức dân tộc của truyện ngắn, Nguyễn Dữ vượt qua truyền thống văn chương của truyện truyền kỳ, xâm thực nó như xói vào một cấu trúc đã ổn định.

Truyện của Cù Hựu là “tài liệu” đặc sắc đối với Nguyễn Dữ, từ đó ông tạo nên thế giới truyện ngắn huyền diệu của mình. Chung quy, không chỗ nào Nguyễn Dữ không theo con đường cải biên chủ đề của truyện(2). Ông luôn đổi tên nhân vật, thời gian hành động và không gian địa lý, chuyển địa điểm hành động sang Việt Nam. Truyện Mộc miên thụ (Chuyện cây gạo) của Nguyễn Dữ có thể là ví dụ của sự hỗn nhập các chủ đề khác nhau(3). Chuyện kể về một chàng trai xuất thân từ gia đình giàu có, chở hàng ra chợ bán. Chàng thường neo thuyền cạnh cầu Liễu Khê, và lần nào ở đấy cũng thấy một giai nhân và một nữ tỳ luôn ôm đàn hồ cầm hai dây. Chàng giao đãi với họ. Giai nhân tên Nhị Khanh. Chàng cháy bỏng đam mê, và mỹ nhân cũng đáp thịnh tình. Quan hệ của họ kéo dài hơn một tháng. Một hôm chàng quyết định hỏi gia thất người đẹp. Ban đầu, nàng không muốn tỏ, nhưng sau thì nhượng bộ. Tối đến nàng dẫn chàng về nhà. Bước vào nhà, chàng kinh ngạc khi thấy áo quan và tượng con hầu tùy táng với cây hồ cầm hai dây trên tay. Chàng sợ hãi bỏ chạy. Sáng hôm sau, chàng vào làng thăm thú, và biết rằng cô gái tên Nhị Khanh đã chết nửa năm trước đó; áo quan và thi hài cho đến giờ vẫn quàn trong nhà bên rìa làng. Sau, chàng lâm bệnh nặng vì Nhị Khanh luôn réo gọi tên chàng. Đám bạn trói chàng bằng thừng chão, ngăn chàng đến với nàng. Một đêm chàng trốn khỏi thuyền. Sáng ra, người ta thấy chàng tắt thở nằm bên áo quan cô gái nọ. Hồn ma đôi tình nhân tiếp tục vui vầy bên cây gạo cổ, trồng cạnh miếu. Có lần, một đạo sĩ trú chân qua đêm trong ngôi miếu nọ, mục kích chàng trai cùng cô gái đắm mình trong ân ái. Hôm sau, đạo sĩ lập đàn, sai thần binh trừ tà; tại đấy, mọi người chứng kiến cảnh một đôi nam nữ bị thiên binh gông cổ kéo đi. Dân làng muốn lễ tạ đạo sĩ, nhưng ông giũ áo, lánh vào thâm sơn.

Phần đầu truyện Ma cây gạo ít nhiều nhắc ta nhớ đến Liên Phương lâu ký của Cù Hựu, trong đó nhân vật giong thuyền đi buôn, và neo đậu gần lầu tháp bên sông. Chi tiết giao đãi với các cô gái được lấy từ Đằng Mục túy du tụ cảnh viên ký của Cù Hựu. Đoạn thăm ngôi nhà quàn áo quan nhắc nhớ đến bước phát triển theo chủ đề riêng của truyện Mẫu Đơn đăng ký. ở đoạn cao trào nhất của tình tiết thăm nhà, dễ dàng thấy được sự giống nhau rất rõ trong miêu tả của Nguyễn Dữ và Cù Hựu. Sự tương cận trong miêu tả đặc biệt thấy được qua so sánh văn bản, một điều rất dễ thực hiện, bởi tiểu thuyết gia Việt Nam cũng viết bằng văn ngôn (Hán văn) như Kim Thời Tập .

 

 

Cù Hựu

Nguyễn Dữ

暗室, , ”. , , ”. , , , , .

... ám thất, tắc hữu lữ sấn, bạch chỉ đề kỳ thượng viết “Cố Phụng Hóa châu phán quan nữ Lệ Khanh chi quỹ”. Quỹ thượng huyền nhất song đầu mẫu đơn đăng, đăng hạ lập nhất minh khí tỳ tử, bối thượng hữu nhị tự viết “Kim Liên”. Sinh kiến chi, mao phát tận thụ, hàn túc biến thể, bôn tẩu xuất tự, bất cảm hồi cố.

(... Trong phòng tối có đặt quan tài của khách lữ thế, mảnh giấy trắng trên đấy đề “Quan tài Lệ Khanh, con gái phán quan châu Phụng Hóa khi xưa”. Trên quan tài treo đèn lồng có hình cặp hoa mẫu đơn, dưới đèn có tượng con hầu tùy táng, trên lưng ghi hai chữ “Kim Liên”. Chàng thấy vậy, râu tóc dựng đứng, toàn thân nổi gai, chạy vội khỏi chùa, không dám ngoảnh lại).

, , , , . , . , .

Hốt hỏa quang trung khởi, kiến tả biên an tiểu đằng sàng, sàng thượng hữu chu quan, quan bối phú hồng la nhất phúc, dĩ toái ngân sa đề “Nhị Khanh chi quỹ”. Quỹ bàng hữu sóc nê nữ tử, phụng hồ cầm thị lập. Trung Ngộ đản hàn, phát thụ, lang bối tẩu xuất.

 

(Thoắt có ảnh lửa thắp bên trong, thấy bên trái đặt giường mây đan nhỏ, trên có quan tài sơn son, lưng áo quan phủ tấm lụa điều, viết bằng ngân sa tán nhuyễn “Quan tài Nhị Khanh”. Cạnh quan tài có tượng con hầu nặn bằng đất sét ôm hồ cầm đứng hầu. Trung Ngộ lạnh mật, tóc gáy dựng đứng, hốt hoảng bỏ chạy).

Tình tiết được Nguyễn Dữ dựng lên giống y như của người đi trước: nhân vật thấy quan tài và tượng nữ tỳ; trên quan tài có dòng chữ ghi tên người chết. Thậm chí trong cả hai truyện, đề từ cũng theo cùng một kiểu: theo bước Cù Hựu, tiểu thuyết gia Việt Nam cũng dùng chữ Hán chuyên biệt “quỹ” (櫃), có nghĩa “quan tài với người chết”. Nếu thêm vào đó việc tên của Nhị Khanh và Lệ Khanh có cùng một thành tố Hán tự thứ hai “khanh” (卿), thì sự phụ thuộc văn bản sẽ càng rõ hơn nữa. Tính đồng nhất trong mô tả còn được nhấn mạnh qua việc đề cập đến “dấu hiệu đặc biệt” của nhân vật. Trong truyện của Cù Hựu, nhân vật lần đầu tiên thấy cô gái và nàng hầu của cô cầm đèn lồng có hình hai bông mẫu đơn; còn Nguyễn Dữ, trong lần hẹn gặp đầu tiên, ta thấy cô gái có nữ tỳ theo sau, tay ôm hồ cầm hai dây. Chính đàn hồ cầm, cũng như đèn lồng hoa mẫu đơn, sau sẽ mách bảo cho nhân vật rằng người tình của chàng là hồn người chết. Nhân vật của Cù Hựu, do sợ hãi mà tóc dựng đứng và toàn thân nổi gai; trạng thái này của nhân vật được nhà văn Trung Quốc diễn đạt qua hai cụm từ, gồm 4 âm tiết. Nguyễn Dữ tiết giảm thành một cụm từ, nhưng vẫn giữ 4 âm tiết, trong khi lấy lại từ “hàn” và từ một từ khác “phát” (ở Cù Hựu có 2 từ để chỉ tóc - “mao” và “phát”, tức “lông trên thân” và “tóc trên đầu”), và đưa vào văn bản của mình cũng cùng động từ “thụ” (豎), “dựng đứng lên”. Theo quan điểm của chúng tôi, toàn bộ điều này minh chứng sự phụ thuộc văn bản (tất nhiên, có tính sáng tạo, chứ không phải máy móc - chúng tôi nhấn mạnh) của Mộc miên thụ truyện Mẫu đơn đăng ký.

Ở Cù Hựu, đạo sĩ cấm nhân vật đến ngôi miếu nơi tà ma lẩn quất, còn ở Nguyễn Dữ, bạn bè chàng trai ngăn chàng hội ngộ với hồn ma tình nhân. Song, trong cả hai trường hợp, các nhân vật đều quay về với cô gái của mình, và ở đó, cái chết đã kịp thời bám theo sau họ. Trong truyện Trung Quốc, tình tiết được miêu thuật thú vị hơn. Yêu nữ kéo nhân vật vào trong quan tài: “Nàng nắm tay chàng lôi đến cỗ quan tài. Lúc đó, áo quan tự mở ra, và Lệ Khanh ôm lấy chàng, kéo chàng nhập quan. Nắp hòm đóng lại. Và như thế, chàng chết trong cỗ áo quan”. Tiểu thuyết gia Việt Nam đã bỏ toàn bộ tình tiết này: nhân vật của ông tắt thở, ôm lấy quan tài. Đây là lập trường khác nhau của các nhà văn: Cù Hựu tăng nỗi kinh khiếp một cách có ý thức; còn khi thuật chuyện phiêu lưu tà ma, Nguyễn Dữ lại lên án thói dâm đãng.

Tình tiết chung cuộc ở cả hai nhà văn cũng rất tương đồng. Nhân vật của Nguyễn Dữ, cũng như của Cù Hựu, đều hóa quỷ dữ. Nói như Cù Hựu, từ đấy cứ “vào lúc rạng sáng, khi tinh tú bị mây đen phủ khuất, hay lúc đêm khuya, khi vầng nguyệt bị tối ám che mờ, người ta thường thấy cô gái và chàng trai, dan tay cùng đi”; tình huống tương tự cũng thấy ở Nguyễn Dữ: “Từ đấy về sau, hễ đêm vừa buông, lại thấy cả hai người dan tay cùng đi...”(4). Cả đoạn kết cuộc phiêu lưu của hai linh hồn cũng được miêu thuật giống nhau. Đạo sĩ ra lệnh lập đàn, thảo bùa (Nguyễn Dữ ba câu, Cù Hựu một), sai thần binh bắt kẻ loạn nghịch. Tiếp đó, ở Cù Hựu là việc lấy cung tội phạm và bản cáo trạng dài của đạo sĩ. Nguyễn Dữ đã bỏ những đoạn nọ, không phát triển thêm, mà lập tức kết thúc chủ đề. ở cuối truyện, Cù Hựu viết: Đạo nhân phất tụ, nhập sơn (道 人 拂 袖, 入 山). Nguyễn Dữ phát triển câu này đôi chút, tăng bổ một dạng hình tượng khác: Đạo nhân phất y bất cố, cánh nhập thâm sơn khứ dĩ (道 人 拂 衣 不 顧, 竟 入 深 山 去 矣); ông thay cụm từ “phất tụ” (拂 袖) - “phất tay áo biểu thị sự không hài lòng và tức giận” thành đoạn đồng nghĩa “phất y” (拂 衣), mà theo Quốc ngữ từ điển cũng có nghĩa như “phất tụ”, nhưng còn mang nghĩa phụ thứ hai là “quy ẩn”(5). Có thể nói rằng sự thay đổi được Nguyễn Dữ dẫn dụng rất thành công và chính xác; nó còn được củng cố hơn qua việc dẫn thêm thành ngữ “bất cố” (không ngoảnh lại), thể hiện quyết tâm dứt khoát. Ông đã thêm vài hư từ cần thiết cho nhịp điệu của câu, và định ngữ “thâm” (sâu) trong tiếng Trung Quốc thường đứng trước từ “sơn” (núi). Vậy, câu kết này có dạng thức như sau: “Đạo sĩ phất tay áo, không ngoảnh lại, đi vào núi thẳm”.

Cần phải nói rằng, khi bỏ những đoạn lấy cung tội phạm, và điều quan trọng là việc kết tội (đốt lồng đèn và đày cả ba xuống chín tầng địa ngục), Nguyễn Dữ rõ ràng đã cắt đứt dòng logic của truyện: tội phạm bị bắt, bị tra vấn, và chịu tội hình. Có thể tiểu thuyết gia Việt Nam quyết định bỏ qua những đoạn văn sám hối và kết tội dài dòng, vì việc bàn luận đề tài đạo đức, có phần giống với văn bản của Cù Hựu, đã được tác giả đặt vào phần “khuyến giới” để kết thúc truyện; vậy nên nó đã không xuất hiện trong phần chính văn của truyện.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả vô danh của bài tựa xưa viết cho tập sách của Nguyễn Dữ đã nhấn mạnh rằng nhà văn Việt Nam có lời cảnh giới để giáo hóa thế gian. Truyền thống luận đề tiết yếu như thế rất phổ biến trong văn trần thuật bằng văn ngôn ở Việt Nam và Triều Tiên. Bậc tiền bối trước Nguyễn Dữ, vua Lê Thánh Tông (trị vì từ 1460 đến 1497), tác giả một tập truyện xuất sắc, cũng đã kết thúc truyện của mình bằng những lời khuyến giới. Hiển nhiên, tiếp nối truyền thống của bậc tiền bối, cố thêm ý nghĩa giáo huấn vào những truyện thường rất lạ kỳ của mình, Nguyễn Dữ thường kết truyện bằng những tiết yếu đạo đức đặc thù(6).

Tất nhiên, không nên nghĩ rằng tất cả 20 truyện ngắn của Nguyễn Dữ đều là biến thể của những tác phẩm tương tự của Cù Hựu. Trong số ấy có cả truyện về người phụ nữ bị chồng gán bạc, một chủ đề hoàn toàn độc lập. Tác giả Việt Nam có những truyện ngắn, trong đó việc vay mượn chủ đề từ Cù Hựu là không đáng kể, ví như Đào thị nghiệp oan ký. Trong truyện này chỉ có một tình tiết gắn với đạo sĩ, mà cũng không phải là tình tiết quan trọng nhất, rõ ràng được vay mượn từ Mẫu đơn đăng ký. Ở Cù Hựu, đạo sĩ thoạt đầu không muốn giúp dân truy bắt vong hồn đôi nam nữ. Ông bảo đã 60 năm không xuống núi, và chối rằng chẳng có phép thuật chi cả. Nguyễn Dữ cũng miêu tả tình huống tương tự: người nọ sinh nghịch tử, bèn cầu tìm đạo sĩ trên núi cao. Khi viên đại thần này cáo trình nỗi bất hạnh của mình với vị đạo sĩ khả kính, đạo sĩ cười mà bảo, “Tiên sinh sao lầm bấy vậy? Lão phu chẳng ở chùa quán, lắm thời chân không đến chốn thị thành… có biết thần chú, bùa phép gì đâu?”(7). Đây có thể là một trùng hợp ngẫu nhiên, nếu như không có thêm điều tương tự ở đoạn kết của truyện. Chúng ta đọc ở Cù Hựu, “Hôm sau, chúng dân kéo nhau đi tạ ơn đạo sĩ, nhưng không thấy bóng ông đâu, chỉ mình am cỏ còn nguyên vị…” [Và này là đoạn văn của Nguyễn Dữ], “Vợ chồng gom góp vàng bạc, lụa là đi tạ thầy Pháp Vân. Nhưng đến nơi chẳng còn dấu vết, chỉ thấy am cỏ phủ rêu, không một dấu người”(8).

Những truyện Long đình đối tụng lục, Từ Thức Tiên hôn lục, Trà Đồng giáng đản lục là sự lắp ghép của folklore dân tộc và những tình tiết trong truyện của Cù Hựu. Những motifs dân gian phổ biến - thăm thủy cung và quái vật đoạt vợ - đã được thể hiện trong Long đình đối tụng lục. Trong đó, Nguyễn Dữ sử dụng tình tiết phiên tòa xử mãng xà trong truyện Vĩnh Châu Dã miếu ký của Cù Hựu. Ví dụ về việc tác giả sử dụng nhiều nguồn gốc khác nhau còn là Từ Thức tiên hôn lục, trong đó Nguyễn Dữ sử dụng bố cục chủ đề truyện Giám Hồ dạ phiếm ký của Cù Hựu. Nguyễn Dữ ghép vào truyện một câu trứ danh của Đào Uyên Minh trong Ngũ Liễu tiên sinh truyện: “Ta không thể vì năm đấu thóc mà cúi lưng trước kẻ tiểu nhân”(9). Ở Nguyễn Dữ, người phát biểu câu này là một nhân vật chính trực từ quan.

Một truyện khác, Trà Đồng giáng đản lục, cũng là sự lắp ghép các motifs dân tộc với những tình tiết trong truyện của Cù Hựu. Đầu truyện kể về một quan viên ở thời nào đó vô tình có mặt trong vụ xét xử dưới địa giới. Truyện sử dụng motifs người chết hồi sinh rất thịnh hành và phổ biến trong văn học dân gian thế giới. Những motifs thụ thai trinh bạch từ sao trời giáng thế và hôn nhân theo lời tiên tri được sử dụng trong truyện cũng có nguồn gốc dân gian. Chi tiết trung tâm của truyện - nhà sư xuất hiện , báo trước điều bất hạnh - được lấy từ Lục Y nhân truyện. Motifs viên thuốc thần (ở Cù Hựu là trái cây), nhờ nó nhân vật hồi tâm và nhớ lại những biến đổi trong đời mình trước đây, làm nhớ đến chi tiết tương tự trong Tam Sơn phúc địa chí của Cù Hựu.

Một trong những thủ pháp hành văn của Nguyễn Dữ - biến truyện được thêm vào thành tình tiết chủ đề của chính mình - đã được thể hiện một cách lý thú trong Trà Đồng giáng đản lục. Trong truyện có tình tiết sau: Một lần tướng công Thiên [Tích] lập đàn kỳ an đạo hội, ông tự mình tiếp đón hàng trăm đạo nhân mũ cao áo dài; khi họ vừa bắt đầu tụng kinh, hành lễ, bỗng theo sau họ có một thầy tu lom khom, nghiêng ngả trong manh áo rách, dép nát lê mình bước đến. Lính vệ không cho vào, song người đó vẫn đứng nài, thế nên kẻ giữ cửa phải chạy vào bẩm với chủ. Thiên [Tích] quát mắng, đuổi đi. Đạo sĩ lê bước, buồn than: “Bất hạnh cho tôi! Đã tìm được cố nhân, vậy mà cố nhân lại bạc lòng quở trách. Ô Tôn nạn ấy tất phải mang”. Đoạn trích gợi nhớ một trong nhiều truyện phụ thuật trong Lục Y nhân truyện của Cù Hựu. Hồn thiếu nữ kể cho tình nhân của mình năm chuyện về quan đại thần đời Tống Giả Thu Hác; một trong năm chuyện ấy thuật về một vị đạo sĩ bị bạc đãi: “… để xin của bố thí, một đạo sĩ tiến tới cổng thành trong manh áo dài rách nát, vạt áo tả tơi. Kẻ gác cổng không cho ông vào vì trong đã đủ số. Đạo sĩ nài nỉ, không đi. Bất đắc dĩ, họ đành cho ông vào cổng. Vừa ăn xong, ông đặt úp chén trên bàn rồi bỏ đi. Cả đám đông cố lật chén lên, nhưng không suy xuyển. Họ báo lại cho Thu Hác. Hắn đến nhấc chén lên, thấy dưới chén có bài thơ hai câu: “Được thời lành tọa hưởng thời lành - Hoa rơi, nạn gặp ở Chương Châu”. Sự giống nhau ở đây thật rõ ràng.

Trong truyện của Cù Hựu, câu chuyện này không giữ vai chính; ở Nguyễn Dữ, nó là một trong những chuyện trung tâm. Nhờ người đạo sĩ cổ quái, nhân vật của truyện nhận ra rằng kiếp trước ông là một Trà đồng của Thượng đế trên thiên đình, sau đồng ý giáng trần làm tể tướng cho giúp vua một độ. ở Cù Hựu, cô gái báo cho nhân vật biết rằng ở kiếp trước, lúc họ đang yêu nhau, anh ta là một Trà đồng (người hầu trà). Dường như để tránh câu chuyện thêm vào từ Lục Y nhân truyện, Nguyễn Dữ đã dựng nên một truyện hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên, khi chuyển vào truyện của mình câu chuyện đạo sĩ tiên báo “họa Ô Tôn” ông đã không tạo cho tiến trình chủ đề này một lập luận (biện giải) nghệ thuật đầy đủ. Trong truyện của Cù Hựu tai họa được báo trước, bi kịch tận số của bạo chúa Giả Thu Hác được biện minh và viện dẫn đầy đủ với tất cả những sự tình trước đấy về hắn, và bằng cả cái tên nhơ nhuốc, cơ hồ là kẻ bội phản ô danh nhất trong lịch sử Trung Quốc, như nhà thơ thế kỷ XIII Wu Shiyin đã viết: “Những giận bởi không được ăn tim, uống máu kẻ nọ”. Ở Nguyễn Dữ, tướng công Thiên [Tích] là biểu hiện của lòng trung quân, chính trực, thanh liêm, nhưng “Bởi trước bị lắm kẻ coi khinh, nên dù oán trách nặng như tóc, ơn nhẹ như tơ, ông đều nhất nhất báo phục. Đấy chính là chỗ kém của ông vậy”. Thiên [Tích] hỏi đạo sĩ ông sẽ bị trừng phạt ở Ô Tôn vì lẽ gì. “Là tể tướng, ông chẳng lỗi lầm chi cả. Nhưng vì cầm quyền nhiều năm, chính ông có khi làm phúc cho người này, lúc lại ghét bỏ kẻ kia”. Viện dẫn như thế yếu hơn nhiều so với Cù Hựu.

Trong phần lớn truyện của Nguyễn Dữ, hành động phát triển trên nền của nhiều sự kiện lịch sử có thật. Những tình tiết mang tính dân tộc đã được đưa vào Nam Xương nữ tử lục. Đoạn đầu chuyện giống với Ái khanh truyện của Cù Hựu. Chàng Trương yêu cô Thiết và lấy cô làm vợ. Khi bắt đầu cuộc hành binh chống giặc Chiêm, Trương bị trưng binh. Ngày tháng trôi qua, buồn nhớ con, mẹ chàng Trương ốm nặng, và nàng dâu đã hết lòng thang thuốc cho bà. Khi mẹ chết, vợ chàng Trương chôn cất bà như mẹ đẻ.

Dễ nhận ra rằng tất cả những miêu thuật này gợi nhớ truyện của Cù Hựu. Đôi chỗ trùng nhau, thậm chí tính văn bản, ví như những lời cuối của bà mẹ chồng: “Chẳng phải mẹ không mong chồng con chóng về… lại những mong ngày sau trời thấu lòng thành dâu thảo, phúc trạch phù trì cho đông đúc cháu con. Xin trời xanh sau chớ phụ dâu hiền, như dâu hiền nay chẳng phụ mẹ già”. Những lời tương tự, có thể đọc thấy ở Cù Hựu: “Mong sao ngày sau dâu hiền có con có cháu, thảy đều như dâu hiền hiếu kính hôm nay. Trời xanh có thấu, xin chớ phụ người” . Nguyễn Dữ cũng dùng chính hình tượng “thương thiên” 蒼 天. Tiếp sau những lời này là lời của tác giả Cù Hựu. Nguyễn Dữ cũng lặp lại nó đúng từng lời: “Bà nói xong thì mất” .

Tuy vậy, nói chung, hành động ở nhà văn Việt Nam phát triển theo lối khác. Xuất phát từ nhiệm vụ nghệ thuật của mình, ông đã dựng nên câu chuyện về một người chồng đa nghi cả tin vào trẻ con, khiến vợ phải tự tử . Từ một chủ đề cũ của Cù Hựu nay chỉ còn chính việc tự tử của nhân vật nữ do danh dự bị ngờ vực, và chi tiết hiển hiện trước chồng sau khi chết. Trong khi tái tạo chủ đề của mình, Nguyễn Dữ đã đưa motifs ngây thơ trẻ con vào chuyện (hóa ra là, trong lúc vắng cha, người mẹ đã chỉ bóng của mình dối con ấy là cha) và những yếu tố rất phổ biến ở Viễn đông, như truyện cổ về cá (hoặc rùa) trả ơn.

Các truyện của Nguyễn Dữ, cũng như của Cù Hựu, là văn pha lẫn thi từ. Trong một số trường hợp, cũng dễ dàng thấy sự tương đồng với thi từ trong truyện của Cù Hựu, cũng như của Kim Thời Tập. Thế nên, trong Kim Hoa thi thoại của Nguyễn Dữ, vào một đêm thâm u, nhân vật chính lạc bước vào một nhà giàu có, và thấy những bài từ bốn mùa được viết trên bình phong. Hãy thử phân tích các bài từ về bốn mùa của Cù Hựu trong Vị Đường kỳ ngộ ký. Chúng ta nhận thấy rằng lời văn ở trước những câu đã lặp lại lời Cù Hựu: “Trên tường treo bốn bức hoa tiên trang kim, trên có đề thơ, thể thơ phỏng theo bài từ bốn mùa của Tô Đông Pha, chữ thì học lối viết của Triệu Tùng Tuyết” . (Có thể thấy rằng cả Cù Hựu và Nguyễn Dữ đều giống nhau: nhân vật của họ đều thấy khuê phòng, hoặc môn hộ phú gia trong mơ. Sự trùng hợp, tất nhiên, không phải là ngẫu nhiên).

Trong truyện của Nguyễn Dữ cũng có những bài từ bốn mùa. Nguyễn Dữ tiếp nối Cù Hựu, soạn từ theo thể thất ngôn. Ngay bài từ đầu tiên về mùa xuân, có thể khẳng định rằng Nguyễn Dữ đã xuất phát từ những câu tương tự của Cù Hựu. Cảm nhận này có thể được minh chứng qua dòng thứ hai của bài tứ tuyệt thứ hai : “Phấn hãn vi vi tẩm lục thường” 粉 汗 微 微 沁 綠 裳 (Phấn lẫn mồ hôi thấm áo xanh), rất giống cả về vị trí lẫn ý nghĩa so với thơ của Cù Hựu: “Phấn hãn ngưng hương tẩm lục sa” 粉 汗 凝 香 沁 綠 紗 (Phấn lẫn mồ hôi đọng hương thấm sa xanh) . Dễ dàng nhận thấy rằng, cấu trúc câu thơ và thành phần từ vựng (4 trong số 7 từ) ở Nguyễn Dữ trùng với Cù Hựu. Kết quả tra cứu Bội văn vận phủ cho thấy: tuy thành ngữ “mồ hôi và bụi” có rất nhiều ví dụ trong thơ ca, nhưng có thể khẳng định rằng đây chính là ảnh hưởng của Cù Hựu, bởi lẽ chúng tôi không thể tìm cả trong từ điển này, cũng như trong các từ điển giải thích khác, những tập hợp từ tương tự. Dòng thơ của Cù Hựu bắt nguồn nơi những bài từ về mùa thu của Tô Đông Pha, trong đó có câu “Phấn hãn dư hương tại kỳ trúc” 粉 汗 餘 香 在 蘄 竹 (Phấn lẫn mồ hôi cùng hương thơm lưu trên thân trúc)(10). Theo quan điểm của chúng tôi, việc nhắc đến hương thơm chỉ ra rằng, chính đây là nguồn gốc của dòng thơ Cù Hựu. Khi viết lại câu thơ của Cù Hựu, Nguyễn Dữ dã bỏ từ “hương” vốn được hậu thế vay mượn từ thi gia đời Tống.

Nguyễn Dữ tiếp nhận thể từ bốn mùa của Cù Hựu như một thể thống nhất. Chính vì vậy trong bài từ thứ hai về mùa hè, chúng tôi cũng đã tìm thấy những hình tượng được Cù Hựu sử dụng khi miêu tả trong mùa xuân. Vậy nên, ngay dòng đầu tiên của bài từ mùa hè của Nguyễn Dữ, câu “Phong xuy liễu hoa hồng phiến phiến” 風 吹 柳 花 紅 片 片 (Gió thổi hoa liễu, cánh đỏ từng cánh rơi) gọi lại dòng thơ mùa xuân của Cù Hựu, “Xuân phong xuy hoa lạc hồng tuyết” 春 風 吹 花 落 紅 雪 (Gió xuân thổi hoa rơi tựa tuyết hồng). Không chỉ “phong”, tất nhiên vốn có thể tìm thấy trong nhiều bài thơ khác, mà cả “hồng” như đã thấy, chỉ ra sự gần gũi của những câu thơ này. Trong thơ Nguyễn Dữ có điều không hợp lý: hoa liễu màu vàng, chứ không phải màu đỏ. ở Cù Hựu, không thấy nói rõ đấy là hoa gì (Chính vì vậy mà khi dịch sang tiếng Việt, các dịch giả hiện đại đã thay đổi “liễu” thành “lựu”) . Theo quan điểm phân tích của chúng tôi, thật thú vị khi đọc câu cuối của bài từ thứ nhất của Nguyễn Dữ về mùa hè , “Tích cảnh ai đề song tử yến” 惜 景 哀 啼 雙 紫 燕 (Tiếc hè, buồn than đôi én tía), tức là tập hợp thấy trong thơ mùa hè của Tô Đông Pha. “Nhũ yến” (én non) trong bài từ mùa hè của Cù Hựu hoàn toàn là những con chim non nhỏ bé, vì vậy chữ đầu trong tập hợp này có nghĩa là “còn bú mẹ”, “mới sinh”, “chưa mọc lông”.

Ngay lập tức nhà văn Việt Nam cảm thấy có chút ít gì không phù hợp của các từ “song” - “cặp”, “đôi” (thường nói về chim có đôi) và “nhũ yến” - những con én non, còn chưa đủ lông cánh. Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà Cù Hựu viết rằng, chúng “ló ra” “bò ra” từ rường nhà chạm khắc. Như đã nói, Kim Thời Tập cũng mượn cụm từ này, nhưng lược bỏ lượng từ “song”. Nguyễn Dữ đã chọn lấy cụm từ cận nghĩa ở Tô Đông Pha . Sự vay mượn này chính là từ bài thơ đã nêu của thi gia đời Tống, được khẳng định qua dòng cuối, trong đó Nguyễn Dữ dùng cụm từ “túy mi” 萃 眉 (mi biếc), vốn không có ở Cù Hựu, song lại thấy trong thơ tứ tuyệt về mùa hè của Tô Đông Pha . Nguyễn Dữ viết “túy mi đê” 萃 眉 低 (Rủ thấp đôi mày biếc). Bài từ thứ 3 về mùa thu của nhà văn Việt Nam còn chịu ảnh hưởng bài từ tương tự của Cù Hựu. Minh chứng là việc dẫn dụng miêu tả đom đóm, “huỳnh” 螢, và tiếp sau đó, trong bài từ thứ hai những dòng về âm thanh của cây sáo . Tô Đông Pha ở dòng thơ áp chót của bài từ về mùa thu đã viết về đàn “cầm”, Cù Hựu đổi nó thành sáo “động tiêu” 洞 簫, đặt dòng thơ về dụng cụ âm nhạc lên đầu trong bài từ thứ hai . Nguyễn Dữ cũng sử dụng từ “động tiêu”, nhưng chuyển dòng thơ về sáo vào chỗ áp chót, tức là vị trí của dòng thơ về đàn “cầm” của Tô Đông Pha.

Chúng tôi cũng tìm thấy những cụm từ được sử dụng sáng tạo trong thơ của Cù Hựu nơi bài từ về mùa hè của Nguyễn Dữ. ở dòng cuối cùng trong bài từ mùa xuân, Cù Hựu viết “Ngân bình hấp thủy chử tân trà” 銀 瓶 汲 水 煮 新 茶 (Nước châm bình bạc, trà vừa pha), còn ở Nguyễn Dữ bài thơ về mùa đông bắt đầu với dòng “Bảo lô bát hỏa ngân bình tiểu” 寶 爐 拔 火 銀 瓶 小 (Lò quý nhóm lửa, ấm bạc xinh). Nhân tiện, chúng tôi nhận thấy rằng, “bảo lô” rõ ràng là biến thể thành ngữ “ngọc lô” 玉 爐 của chính Cù Hựu trong bài từ mùa thu. Ai cũng biết trong văn học cổ các tính ngữ “ngọc” và “bảo” thường là đồng nghĩa.

Trong bài từ cuối cùng về mùa đông Nguyễn Dữ nói về “vân song” 雲 窗 (cửa sổ mây): “Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ” 紙 護 雲 窗 片 片 糊 (Giấy chắn cửa mây, tấm tấm che). Đại Hán - Hòa từ điển của Morohashi Tetsuji giải thích thành ngữ “vân song” là “cửa sổ đài cao, chạm mây”. Khảo sát những ví dụ được dẫn trong Bội văn vận phủ, thành ngữ này chỉ gặp trong thi ca. Có thể nhanh chóng giả định rằng, tác giả Việt Nam đã mượn thành ngữ này từ bài từ về mùa thu của Cù Hựu. Chúng tôi cảm thấy, ở Cù Hựu thành ngữ này như được đặt đúng chỗ hơn, bởi nó hợp thích với thành ngữ “thiết mã” (ngựa sắt). Thời xưa, người ta trang trí mái nhà bằng ngựa chạm bằng sắt. Nhà bình luận Chu Di 周 夷 giải thích như thế. Như vậy, cả dòng một và dòng hai của Cù Hựu đều có hình tượng cửa sổ cao. ở Nguyễn Dữ, thế song song này không được bảo lưu. Dòng trước trong bài từ của ông viết về người đẹp sau tấm màn vàng: “Mỹ nhân kim trướng yểm lưu tô”.

Thế nên, phân tích so sánh các đoạn thơ bổ sung về bốn mùa trong các chuyện của nhà văn Trung Quốc Cù Hựu, nhà văn Triều Tiên Kim Thời Tập và nhà văn Việt Nam Nguyễn Dữ cho phép kết luận như sau. Trong phần văn cũng như phần thơ, Nguyễn Dữ rõ ràng đã xuất phát từ văn bản của Cù Hựu. Thường hơn cả là nhà văn Việt Nam vay mượn những cụm từ thi ca riêng biệt và những từ ngữ có tính hình tượng từ những bài thơ của Cù Hựu, chuyển hóa chúng khá nhuần nhuyễn vào những bài thơ của mình. Cù Hựu đã soạn bộ sách của ông [một phần] trên cơ mô phỏng Tô Đông Pha; cả hai nhà văn Triều Tiên và Việt Nam đều hướng đến văn bản gốc và một số hình tượng vay mượn trực tiếp ở thi gia đời Tống này, người mà thơ từ đã rất nổi tiếng ở các nước trong vùng Viễn Đông.

Ngoài những trùng hợp đã được nhận xét giữa thơ của Kim Thời Tập và Nguyễn Dữ với thơ của Cù Hựu và Tô Đông Pha, trong những bài thơ của Kim Thời Tập và Nguyễn Dữ còn trùng hợp một số hình tượng vốn không liên quan đến cả Tô Đông Pha lẫn Cù Hựu. Trong bài thơ về mùa xuân, nhà văn Triều Tiên miêu tả cô gái “Lãn lai vô ngữ đình kim châm” 懶 來 無 語 停 金 針 (Biếng lười lặng im, kim ngừng thêu), còn ở Nguyễn Dữ, trong bài từ mùa hè có thể đọc thấy “Đình châm vô ngữ túy mi đê” 停 針 無 語 萃 眉 低 (Ngừng kim im lặng, chùng mày biếc). Đấy là điều gì? Là sự vay mượn từ [văn chương Hán văn] Triều Tiên sang Việt Nam? Hãy nhớ rằng không có một cứ liệu nào về việc phổ biến các tác phẩm của các nhà văn Triều Tiên ở Việt Nam thời trung đại; hơn nữa, các truyện của Kim Thời Tập không được biết tới ở ngay trên chính đất nước ông suốt trong một thời gian dài, do không được khắc in. Cả nền văn chương Việt Nam lẫn Triều Tiên phát triển hầu như trong cùng một cự ly, nhiều khi là song song, với trung tâm văn hóa khu vực là Trung Quốc trong thời trung đại. Chính tình trạng chung này dẫn đến suy nghĩ cho rằng cần tìm chìa khóa giải đoán sự trùng hợp này trong nền thi ca Trung Quốc tiền phát trước cả hai tác giả, và phổ biến rộng ra toàn khu vực Viễn Đông.

Từ điển Bội văn vận phủ đã cho một loạt những văn bản, trong đó sử dụng thành ngữ “đình châm”, song chỉ một văn bản trong số đó thuộc về nhà thơ đời Đường rất ít người biết tới Chu Giáng 朱 絳 là có cả thành ngữ “ngừng kim” và “lặng im”. Thực ra, nó cũng có chỗ khác biệt, bởi thay cho từ phủ định vô là phủ định từ “bất”, tuy chúng hoàn toàn đồng nghĩa trong trường hợp này .

Trọn bài thơ của Chu Giáng được đưa vào trong Toàn Đường thi, soạn vào cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII (nhân tiện, tác giả chỉ có duy nhất bài thơ này được giới thiệu trong tổng tập này). Bài thơ có tên Xuân nữ oán. Bài thơ tả cô gái u sầu ngồi thêu bên cửa sổ có màn lụa che. So sánh bài thơ về mùa hè của Nguyễn Dữ với bài thơ của Chu Giáng cho thấy nhà văn Việt Nam đã khai thác những hình tượng chính từ tác phẩm này. Điều này chứng tỏ những cụm từ như “sa song” (cửa sổ bị che bằng tấm lụa), “thương xuân” (thương cảm xuân thì) đã đi vào thêu dệt bài thơ tứ tuyệt của Nguyễn Dữ ở nguyên dạng . Rõ là, cả hình tượng chim “hoàng ly” ở nhà thơ đời Đường và chim “hoàng oanh” ở Nguyễn Dữ (xuất phát từ thơ của Chu Giáng) hoàn toàn đẳng nghĩa . So sánh bài thơ của Chu Giáng với bài từ mùa hè của Nguyễn Dữ cho thấy thực tế nhà văn Việt Nam mượn từ mỗi dòng của nhà thơ đời Đường một cụm từ hình tượng.

Việc xác định nguồn gốc của câu thơ đã phân tích ở Kim Thời Tập có phức tạp hơn. Ông cũng chuyển dụng thành ngữ “đình châm” và “bất ngữ” từ chính bài thơ đó của Chu Giáng. Không loại trừ rằng Kim Thời Tập đã dựa vào ai đó trong số những tiền bối Triều Tiên của ông. Hiển nhiên, nhà văn Việt Nam đã vay mượn hình tượng, tuy tương đồng với hình tượng được nhà văn Triều Tiên sử dụng, không phải từ ông ra (Kim Thời Tập), mà từ thi nhân Trung Quốc trước đó.

Sự vay mượn từ vựng trong thơ của Nguyễn Dữ đậm đặc hơn nhiều so với trong văn. Dường như ông đã xây dựng biến thể thi ca của mình đối với đề tài đã được đặt ra - và nói chung, đấy là bức tranh điển hình đối với thơ trữ tình thời trung kỳ.

Việc hình thành thể loại đoản thiên tiểu thuyết Việt Nam diễn ra trên nền ngôn ngữ văn chương của chung cả khu vực Viễn Đông. Nó theo hướng giải thoát câu chuyện khỏi những liên hệ truyền thống mang tính biên niên(11) và lối tư duy của những hình thức văn chương đã ổn định, vi phạm quy tắc thể loại đã được chấp nhận trong truyện truyền kỳ của Trung Quốc. ảnh hưởng của truyền thống văn chương Trung Quốc được ghi nhận khi bàn đến những yếu tố chủ đề và từ vựng, nhưng ít được nhận biết hơn trong chính hình thức văn chương của truyện, trong tính đặc sắc về thể loại của nó. Nguyễn Dữ đã xây dựng chuyện không trực tiếp theo khuôn kiểu kể chuyện trong văn chương khu vực Viễn Đông. Đó là quy luật, đặc thù đối với cả Triều Tiên cũng như Việt Nam.

Trương Văn Vỹ và Nguyễn Nam dịch
Nguyễn Nam hiệu chú

CHÚ THÍCH:

* Đầu đề do người dịch đặt lại. Dịch từ nguyên bản tiếng Nga Цюй Ю и старинная вьетнамская новелла [Cự Hựu và truyện ngắn cổ Việt Nam] của Кирина Ивановна Голыгина trong НОВЕЛЛА СРЕДНЕВЕКОВОГО КИТАЯ: Истоки сюжетов и их эволюция (VIII-XIV гв.) (Truyện ngắn Trung Quốc thời trung đại: Căn nguyên các chủ đề và diễn biến của chúng (thế kỷ VIII - XIV), Nxb. Hayka, Mockba, 1980, tr.250-265. [Chú thích của tác giả được ghi (1), (2); chú thích của người hiệu đính được đánh số 1, 2, 3].

(1) Rất tiếc, văn bản các truyện ngắn của Nguyễn Dữ bằng chữ Hán không được in lại nữa. Tất cả các ấn bản hiện nay đều là bản dịch sang tiếng Việt hiện đại. Ở bản in tại Hà Nội năm 1957, các bài thơ trong truyện còn được in bằng chữ Hán (xem Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục, H. 1957). Một số đoạn trích dẫn bằng chữ Hán mà chúng tôi sử dụng được B. L. Ρuфтин sao lại từ bản in năm 1764, trong thời gian ông đến thăm Hà Nội năm 1973. Theo xác nhận của Giáo sư Đặng Thai Mai, việc so sánh các truyện ngắn của Cù Hựu và Nguyễn Dữ chưa được bất kỳ nhà nghiên cứu Việt Nam nào tiến hành.

(2) Nếu gặp trường hợp cải tác một truyện, thì thường giữ lại tựa đề và hình thức thể loại của truyện gốc. Ví dụ, ở Cù Hựu, chuyện nhân vật thăm thủy cung được viết với thể lục: Thủy cung khánh hội lục (Cù Hựu) - Long đình đối tụng lục (Nguyễn Dữ); những cuộc hội ngộ với yêu nữ được miêu tả bằng thể ký (ghi): Đằng mục túy du tụ cảnh viên ký (Cù Hựu) - Tây viên kỳ ngộ ký (Nguyễn Dữ).

(3) Bản dịch tiếng Nga Chuyện cây gạo, xem: Пространные записи расскзов об удивительном - Старинная вьетнамская проза (Truyền kỳ mạn lục - Văn xuôi cổ Việt Nam), M. Ткачев (M. Tkachov) dịch từ tiếng Việt, Matxcơva, 1974, tr.7-16.

(4) Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục, [bản dịch Nga văn của Tkachov đã dẫn], tr.14-16.

(5) Quốc ngữ từ điển, tập 1, tr. 503-504.

(6) M. Tkachov [sdđ], “Lời nói đầu”, tr.192.

(7) Như trên, tr.51.

(8) Như trên, tr.53.

(9) Л. З. Эйдлин [L. Z. Eidlin], Тао Юань-мин и его стихотворение [Đào Uyên Minh và thi ca của ông], Москва, 1967, tr.338.

(10) Có lẽ ý nói vết tích và hương thơm để lại trên mo (bẹ) trúc.

(11) Н. И. НИКУЛИН (N. I. Niculin), Вьетнамская литература X-XIX вв (Văn học Việt Nam - Thế kỷ X-XIX), Москва, 1977, tr.138.

CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI HIỆU ĐÍNH

1 Có lẽ tác giả muốn nói đến bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm 2 tập, ký hiệu A.176/1-2). Bản này “chép theo bản in của Nguyễn Bích năm Cảnh Hưng 24 (1763)”. Xem Di sản Hán Nôm Việt Nam: Thư mục đề yếu - Catalogue des livres en Han Nôm, Gs. Trần Nghĩa, Prof. Franỗois Gros đồng chủ biên. Nxb. KHXH, H. 1993, tập 3, tr.61. Cũng xem thêm chú thích (1) của tác giả trong bài.

2 Thực ra, đây là bài tựa của Đại An Hà Thiện Hán viết năm 1547 (Vĩnh Định sơ niên), được khắc ở Cựu biên Truyền kỳ mạn lục (1712). Bản A.176 chép bài tựa này nhưng không ghi tên tác giả cùng niên đại của nó. Xem ảnh chụp các bài tựa này (1712 và 1763) trong Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh (chủ biên), Việt Nam Hán Văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ loại - Đệ nhất sách - Truyền kỳ mạn lục, Pháp Quốc Viễn Đông Học Viện, Đài Loan Học Sinh Thư Cục, 1987, tr.9 và 14.

3 Kim ngao tân thoại (viết bằng Hán văn) của danh nho Kim Thời Tập 金 時 習 (Kim Sisup, 1435-1493) là một mốc lớn trong văn học Hàn Quốc, đặc biệt là trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết ở nước này. Đã có một số bài viết ở Việt Nam liên quan đến Kim Thời Tập và Kim ngao tân thoại, ví như Jean Hyae Kyeong: So sánh thể loại tiểu thuyết Truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Văn học, 5/1995, tr.52; Kim Seona: Đề tài tình yêu trong Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam), Tạp chí Văn học, 10-1995, tr.33-35; Phạm Tú Châu: Truyền kỳ chữ Hán ở Hàn Quốc và Việt Nam, Tạp chí Văn học, 10-1995, tr.36-40.

4 Đúng ra là lão hòa thượng Pháp Vân.

5 Ở cả hai truyện, nhân vật tiên báo là đạo sĩ, không phải nhà sư.

6 Chưa rõ nhà thơ nào.

7 Những lời trên trích từ Ái Khanh truyện. Tham khảo Cù Hựu, Nguyễn Dữ, Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục, Phạm Tú Châu và Trần Thị Băng Thanh dịch và giới thiệu, Nxb. Văn học và Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây, H. 1999, tr.132 và 384-385.

8 Tuy diễn cùng một ý (Bà nói xong thì mất), ngôn từ của hai tác giả khác nhau. Cù Hựu viết “Ngôn ngật nhi một 言 訖 而 歿”; Nguyễn Dữ (Tự) viết “Ngôn chung nhi thệ 言 終 而 逝”.

9 Thực ra Nam Xương nữ tử lục là một câu chuyện có thực được tiểu thuyết hóa. Xem Nguyễn Nam: The Account of the Young Woman from Nam Xuong: Literary Texts and the Making of a Cult (Chuyện Người con gái Nam Xương: Văn bản văn chương và sự hình thành một tín ngưỡng), tham luận trình bày tại Hội nghị thường niên Hội Châu á học (Assocation for Asian Studies), ngày 4 đến 7 tháng 3 năm 2004 (San Diego, Hoa Kỳ).

10 Trong tình huống này, tuy ý nghĩa tương cận, văn từ của Nguyễn Dữ (Tự) vẫn khác: “Ông khách thấy phu nhân có làm bốn bài từ bốn mùa đề vào bốn bức bình đẳng vân mẫu”. Xem Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục, sđd, tr.103 và 420.

11 Đúng ra là câu thứ sáu trong bài từ thứ nhất ở Kim Hoa thi thoại.

12 Câu thứ sáu trong bài từ thứ nhất ở Vị Đường kỳ ngộ ký.

13 Các bản Truyền kỳ mạn lục hiện còn đều chép là “lựu hoa” 榴 花 (hoa lựu). Xem Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ loại - Đệ nhất sách - Truyền kỳ mạn lục, sđd, tr.443.

14 Đúng ra là câu thứ tư trong bài từ thứ hai.

15 Câu thứ ba trong bài từ mùa hè: “Nhất song nhũ yến xuất điêu lương” (én non một cặp trên rường ló ra).

16 Trong Tứ thời từ 四 時 詞 của Tô Đông Pha có câu: “Liêm ngạch đê thùy tử yến mang 簾 額 低 垂 紫 燕 忙” (én tía thoăn thoắt dưới rèm buông).

17 Cũng trong Tứ thời từ, Tô Đông Pha viết, “Cao lâu thụy khởi túy mi tần” 高 樓 睡 起 翠 眉 顰 (Lầu cao thiếp ngủ chau mày biếc).

18 Cả “huỳnh” và “động tiêu” đều xuất hiện trong bài thứ ba Thu Từ trong Kim Hoa thi thoại.

19 Trong Vị Đường kỳ ngộ ký, “động tiêu” xuất hiện ở câu thứ năm trong bài từ thứ ba.

20 Chu Giáng viết: “Dục tri vô hạn thương xuân ý - Tận tại đình châm bất ngữ thời 欲 知 無 限 傖 春 意 , 盡 在 停 針 不 語 時” (Hết lòng muốn biết ý thương xuân - Chính lúc biếng thêu, phút lặng câm).

21 Hai câu đầu của bài Xuân nữ oán như sau: “Độc tọa sa song thích tú trì - Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly 獨 坐 紗 窗 刺 繡 遲 , 紫 荊 花 下 囀 黃 驪” (Riêng ngồi bên cửa chậm tay thêu - Oanh hót dưới hoa bụi tử kinh).

22 Trong bài từ mùa hè ở Kim hoa thi thoại có các câu: Thương xuân bối lập nhất hoàng oanh và Quyện ỷ sa song mộng dục mê

Duong64

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU CÁCH DỊCH CẤU TRÚC BỊ ĐỘNG TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC GIẢI ÂM

TRẦN TRỌNG DƯƠNG

1. Nếu như, trong không gian liên ngữ Việt Hán, sự hình thành biến thể Hán văn Việt Nam tạo nên sự đa dạng trong việc sử dụng chữ của các nước đồng văn Đông Á thì cũng trong chính không gian liên ngữ này, hiện tượng “sang dòng” trong văn Nôm đã dựng chiếc cầu nối trung chuyển để tiếng Việt tiếp thu những yếu tố mà nó còn khuyết thiếu. Đối với những người học chữ Hán, một điều dễ nhận thấy là họ thường sử dụng thứ chữ này dưới sự chi phối ngấm ngầm của tâm lí, của cảm thức và của thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, khi chuyển dịch từ tiếng Hán về tiếng Việt, họ lại chịu sự chế ước, sự áp đặt từ cấu trúc ngôn ngữ của Hán văn. Kết quả là một mặt, sự giao thoa ấy tạo nên biến thể Việt Nam của Hán văn nói chung, mặt khác nó khiến cho câu văn Nôm có sự “lệch chuẩn”, không thuần Việt.

2. Hiện tượng thâm nhập của ngữ pháp Văn ngôn vào trong văn Nôm trước nay đã có nhiều người chú ý đến. Sự thâm nhập này có mức độ đậm nhạt khác nhau ở những phương diện ngữ ngôn khác nhau tùy theo từng thể loại văn bản (văn xuôi, thơ, phú…), tùy theo mục đích và đối tượng tiếp nhận văn bản trong từng môi trường lịch sử xã hội nhất định. Thơ, phú tiếp thu một khối lượng khá lớn từ Hán Việt. Ngược lại, trong các văn bản văn xuôi sự tiếp thu lại thể hiện trên phương diện trật tự từ. Cố học giả Hoàng Xuân Hãn khi nghiên cứu về văn Nôm đời Trần Lê thì cho rằng văn Nôm thời này “bị tiêm nhiễm bởi cú pháp Tống nho”(6). Song đây là một giả thuyết chưa được chứng minh. TS. Hoàng Hồng Cẩm, xuất phát từ cách dạy và học chữ Hán của người xưa, cho rằng Nguyễn Thế Nghi đã giải âm cuốn Truyền kì mạn lục theo phương pháp trực dịch, “đó là lối dịch thẳng để lột tả được đúng nguyên văn theo từng chữ”(3) ví dụ như câu “người chưng đầu, tính vốn lành” là dịch từ câu “nhân chi sơ tính bản thiện”. GS. N.V. Stankievitch nêu rõ ảnh hưởng của hư từ tiếng Hán vào bản dịch tiếng Việt, chức năng của những hư từ này là tạo ra sự nhịp nhàng cân đối của câu văn… Hiện tượng thâm nhập, giao thoa từ văn ngôn sang văn xuôi Nôm cần được xét ở ba cấp độ: 1. Sự giao thoa thể hiện trong việc sử dụng các đơn vị từ vựng; 2. Sự giao thoa thể hiện trong việc sử dụng hư từ; 3. Sự giao thoa thể hiện trong cách tạo ra một số kết cấu ngữ pháp như “lấy làm” (tiếng Hán là dĩ… vi).

3. Song, đây là một công việc rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi rất nhiều tâm lực và công sức của nhiều người. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ dám đặt ra nhiệm vụ là khảo sát cách dịch một số cấu trúc có ý nghĩa bị động trong Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, góp phần soi sáng sự thâm nhập từ văn ngôn vào văn xuôi Nôm vào giai đoạn thế kỉ XVII. Sở dĩ, chúng tôi chọn cấu trúc mang ý nghĩa bị động làm đối tượng khảo sát của mình vì đây là một trong những cấu trúc khá điển hình cho văn ngôn bên cạnh những hiện tượng khác như: sử động, ý động, đảo trang… Mặt khác, trong văn ngôn, câu mang ý nghĩa bị động có hình thức cú pháp phong phú, mỗi một hình thức lại có quá trình phát triển trong lịch sử và có những lưu tích trong Hán văn Việt Nam đồng thời cũng có những dấu ấn nhất định trong các tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Nôm. Từ việc so sánh cú pháp của câu văn chữ Hán với bản dịch của nó bằng tiếng Việt, ta có thể nhận biết được mức độ giao thoa giữa hai ngôn ngữ. Qua đó, ta có thể phân xuất ra những cách nói nào là cách nói thuần Việt, những cách nói nào là cách nói chịu ảnh hưởng của tiếng Hán, sự ảnh hưởng đó thể hiện ra sao, xảy ra ở giai đoạn nào trong lịch sử và những nguyên nhân hình thành nên sự giao thoa đó. Qua đó, ta cũng hiểu được cách người xưa tư duy về ngữ pháp, hiểu được phương pháp dịch thuật và hiểu được những tiêu chí thẩm mĩ của người xưa trong môi trường song ngữ.

4. Về văn bản dùng để khảo sát, chúng tôi chọn bản Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú kí hiệu HN.257và HN.258. Theo GS. Nguyễn Quang Hồng và nhiều nhà chuyên môn, đây là văn bản khá tốt, còn nguyên vẹn. Đây cũng là bản sách từng được GS. Nguyễn Quang Hồng sử dụng để phiên âm dịch chú(12). Song, chúng tôi không tiến hành khảo sát toàn bộ văn bản mà chỉ tiến hành trên năm truyện (trên tổng số 20 truyện của văn bản). Mỗi đơn vị thống kê bao gồm phần nguyên Hán văn, phiên âm Hán Việt, câu văn Nôm của Nguyễn Thế Nghi và phần diễn nghĩa của chúng tôi. Chúng tôi không ghi xuất xứ đơn vị đó thuộc truyện nào mà sau mỗi đơn vị thống kê, chúng tôi chỉ ghi thêm xuất xứ theo quyển (chữ số La Mã) và số trang văn bản gốc. Ví dụ: Giao thư kiến thụ ® Tờ giao thư cho xem (I.26b). Để tiện so sánh giữa hai văn bản, chúng tôi gạch chân những hiện tượng cú pháp trong câu nguyên văn; còn bên câu văn Nôm thì cũng gạch chân nếu có sự ảnh hưởng của Hán văn hoặc in nghiêng nếu câu dịch không chịu ảnh hưởng của Hán văn.

5. Khảo sát và so sánh:

5.1. Cấu trúc chữ “kiến”: 10 đv

5.1.1. Kiến + đt ® Thấy + đt: gồm: số 1, 3, 4, 6, 7, 8

Ví dụ: 3. Chỉ khủng thiền quyên kiến đố ® chỉn lệ nàng thiền quyên thấy ghen (chỉ sợ nàng bị người ta ghen tức) I.40a

5.1.2. Kiến + đt ® Thấy + dt : gồm: số 9

Ví dụ: 9. Kim giả nghiêm đường dĩ trực ngôn kiến kị ® nay vậy cha lấy lời thẳng thấy nỗi ghen (nay, vì mấy lời ngay thẳng mà cha bị ghen ghét) I.16b

5.1.3. Kiến + dt ® câu chủ động : gồm: số 2, 10

Ví dụ: 2. Giao thư kiến thụ ® Tờ giao thư đưa cho xem (đưa tờ giao thư cho Nhị Khanh xem) I.26b

Ví dụ: 10. Đãn tích nhật dĩ tiền nhân thái triệu vị an, cố ân cần kiến cự ® nhưng ngày xưa lấy mồ nấm kẻ tiên nhân chưa yên, vì vậy thấy nỗi ấy dám chống (Nhưng ngày trước, do mồ mả cha mẹ chưa yên, cho nên sự ân cần của chàng bị thiếp cự tuyệt) III.4a

5.1.4. Kiến + đt + ư + C ® Thấy + chưng + C + đt : gồm: số 5

Ví dụ: Nhiên tốt kiến tễ ư Hán ® song lại thấy chưng nhà Hán giết (Nhưng về sau, Hạng vũ bị nhà Hán giết) I.5a

5.2. Cấu trúc vi… sở: 11

5.2.1. Vi + C + sở + đt ® Phải + C + thửa + đt : gồm số 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 19

Ví dụ: 11. Ngã vi binh qua sở ngại ® Trọng Quỳ phải việc đòng bác thửa ngăn (Trọng Quỳ bị việc can qua ngăn trở) I.21a

12. Ngã cửu vi xuân trình sở khốn ® nàng ấy lâu phải say xuân thửa khốn (Đã lâu nay, người con gái ấy bị men xuân làm cho khốn khổ) I.33b

13. Tạc vi phu nhi sở khí ® ngày nọ phải chồng con thửa bỏ (Ngày trước thiếp bị chồng con ruồng bỏ) I.35b

5.2.2. Vi + đt ® Phải + C + đt: gồm: số 18

Ví dụ: 18. Hữu đầu mục giả tắc vi dâm sát ® ai có đầu mắt ấy thời phải nó dâm giết.

5.2.3. C + sở + đt ® C + thửa + đt : gồm: số 20, 21

Ví dụ: 20. Kì tước tắc thiên vương sở gia ® thửa tước thì vua nhà Chu thửa thêm (Chức tước của chàng là được vua nhà Chu ban cho) I.9a

5.3. Cấu trúc “chữ bị”:

5.3.1. Bị + đt ® phải + C + đt : gồm: số 22

Ví dụ: 22. Hữu hóa tài giả tắc bị tiềm nhương à ai có của cải ấy thì phải nó trộm lấy (Ai có của cải thì bị nó lấy trộm mất) III.1b

5.3.2. Bị + C + đt ® phải + C + đt : gồm: số 23

Ví dụ: 23. Phong lưu thoại bản khủng bị tha nhân niếp khởi ® Vốn những lời phong lưu lệ phải người khác dựng làm lấy IV.53a

5.4. Câu “Chủ /vị” mang ý bị động:

5.4.1. O +đt ® O + C + đt (câu đề thuyết) : gồm số 24

Ví dụ: Oan hồn vô cáo ® oan hồn chẳng ai hỏi cho IV.55a

5.4.2. O + đt ®đt + O (câu chủ động): 36

Ví dụ: 36. Mệnh khinh sương điệp ® khinh mạng dường sương trên lá (Coi nhẹ sinh mạng như sương treo trên lá) I.12a

5.4.3. O + đt ® O + phải + đt : gồm số 27, 28, 29

Ví dụ: 27. Hàn sinh dĩ vô tội phanh ® ngươi Hàn sinh lấy chẳng có tội chi mà phải mổ (Hàn sinh chẳng có tội gì mà bị đem ra mổ) I.8a

28. A Phòng dĩ vô cố hỏa ® Cung A Phòng lấy chẳng có cớ chi mà phải đốt (Cung A Phòng vô cớ bị đốt) I.8a

5.4.4. O + đt ® O + đt : gồm 30, 32, 34

Ví dụ: 34. Nhi Thi, Thư chi mạch cơ đoạn nhi phục tục ® mà chưng mạch Kinh Thi, Kinh Thư hầu dứt mà lại nối I.11a

5.4.5. O + đt ® O + được + đt : gồm số 37

Ví dụ: 37. Thích Cơ bế nhi hoạ thành nhân trệ ® Nàng Thích Cơ được yêu mà gây nên họa người làm lợn I.13a

5.5. Cấu trúc chữ “tao”:

5.5.1. Tao + K/c chủ vị ® gặp + k/c chủ vị : gồm số 40

Ví dụ: 40. Tao nhi bất tiếu, gia kế nhất không ® gặp con chẳng hiền, nghiệp nhà ấy đều không I.20b

5.5.2. O + tao + đt ® O + phải + đt : gồm số 41

Ví dụ: 41. Hữu dĩ phù chú lai giả chiếp tao vũ mạ ® Có ai lấy bùa chú lại ấy bèn phải rẻ mắng (Hễ ai đem bùa chú đến trừ cho thì đều bị anh ta chửi) III.4b

5.6. Cấu trúc từ “mông”:

5.6.1. O + mông + đt ® O + ơn + đt + : gồm số 43

Ví dụ: 43. Kim bộc hạnh mông diên tiếp ® nay min phúc ơn dự rước tiếp (Nay tôi may mắn được đón tiếp ngài) I.7b

5.7. Cấu trúc chữ “phụ”:

5.7.1. Phụ + đt ® chịu + k/c chủ vị : gồm số 44

Ví dụ: 44. Cửu phụ thâm tiếu à đã lâu chịu lời chê lắm (Đã lâu nay, chịu bao nhiêu nhiếc móc) I.13b

5.8. Cấu trúc chữ “ư”:

5.8.1. Đt + ư + C ® đt + chưng + C : gồm số 45, 46

Ví dụ: 45/46. Phi thấy ư khinh phù tắc thương ư trào oán à chẳng mất chưng nhẹ nổi thì hại chưng giễu hận (Thơ văn đời nay nếu chẳng bị làm hỏng vì những điều phù phiếm thì cũng bị tan nát bởi giọng giễu cợt) IV.48b

5.9. Cấu trúc đặc biệt:

5.9.1. Đt + T ® được + k/c chủ vị : gồm số 47

Ví dụ: 47. Phi xử tận kì luân nhi năng tân kì tiết hồ ? ® dù chẳng xử hết thửa đấng mà hay được vợ hết thửa tiết du (không sống trọn đạo làm chồng mà lại có được vợ sống vẹn tiết trinh hay sao) I.12b

6. Nhận xét:

6.1. Về hư từ: xem bảng dưới:

STT Hư từ Tần số Nguyên dẫn Mức thuần Việt Nguyên chữ Hán
1 Thấy 7 1, 3, 4, 6, 7, 8, 9 O Kiến
2 Phải 7 18, 22, 23, 27, 28, 29 V Vi
3 Phải… thửa 8 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 19 O Vi… sở
4 Được 2 37, 47 V
5 Gặp 1 40 O Tao
6 Ơn 1 43 O Mông
7 Chịu 1 44 V Phụ
8 Chưng 2 45, 46 O Ư
9 Thấy chưng 1 5 O Kiến… ư
10 Thửa 2 20, 21 O Sở

Có thể thấy trong 10 hư từ thì chỉ có 3 hư từ thuần Việt(14) được dùng với tần số là 11, 7 hư còn lại đều là dịch hư từ Văn ngôn, tần suất sử dụng là 36 lần trên 47 chiếm 76,6%.

6.2. Về cấu trúc và cách dịch của Nguyễn Thế Nghi:

6.2.1. Cấu trúc cùng có ở Việt và Hán: nếu chỉ xét ở mặt trật tự từ, ta có một số cấu trúc tương đồng như: cấu trúc chữ “kiến” thuộc tiểu mục 5.1.1 gồm số: 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8; hay cấu trúc Chủ/vị với các ví dụ: 30, 32, 34, hay cấu trúc chữ “tao” với các ví dụ 40; cấu trúc chữ “phụ” với ví dụ 44. Nhưng, khi tiêu chí trật tự từ giống nhau, ta lấy tiêu chí hư từ làm chính thì có thể coi 5.1.1 là đối dịch từ Hán văn. Đối với trường hợp còn lại, ta không thể xét bằng cả hai tiêu chí thì tạm coi là thuần Việt (nếu xét theo những tiêu chí khác như: tiêu chí kết hợp của từ thì chưa hẳn vậy).

6.2.2. Cấu trúc Hán văn: xét ở mặt trật tự từ bao gồm cả trật tự của hư từ thì ta có cấu trúc “phải… thửa” là cấu trúc Hán văn, với các ví dụ: 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19; và cấu trúc chữ “thửa” gồm các ví dụ 20, 21; cấu trúc chữ “ư” với các ví dụ 45, 46.

6.2.3. Cấu trúc Việt văn: đây là những trường hợp dịch thoát, không chịu ảnh hưởng từ cấu trúc và hư từ của văn ngôn. Thường những cấu trúc chủ vị mang ý nghĩa bị động trong tiếng Hán. Với các ví dụ: 2, 18, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 31, 33, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41.

6.2.4. Những cấu trúc sai dịch: đây là những cấu trúc bị sai lệch, không giống Hán văn, cũng không thuần Việt văn. Ví dụ: 9, 10, 43. Đây là những câu bị bóp méo do tác động hai chiều từ hai nhân tố: cấu trúc, hư từ Hán văn và cấu trúc của tiếng Việt.

7. Kết luận: Trong số 47 câu dịch thì có 24 câu dịch theo cấu trúc tiếng Việt chiếm tỉ lệ 51,1%, có 23 câu dịch theo cấu trúc phi Việt (gồm cấu trúc thuần Hán và cấu trúc sai lạc) chiếm 48,9%. Nếu chỉ xét riêng tiêu chí cấu trúc và tiêu chí hư từ ta có thể đi đến kết luận rằng: bản dịch Truyền kì mạn lục của Nguyễn Thế Nghi chịu ảnh hưởng khá nặng của văn ngôn. Hầu hết các hư từ của nó hiện nay đã biến mất. Nó chỉ tồn tại trong các văn bản dịch nghĩa các kinh điển Phật giáo và Nho giáo. Từ đây ta có thể nghĩ đến phong cách diễn nghĩa trong một giai đoạn dịch thuật thế kỉ XVII.

T.T.D.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Sách tiếng Việt:

(1) Bùi Thanh Hùng: Tìm hiểu tiếng “chưng” qua một vài văn bản Hán Nôm cổ, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1997.

(2) Đinh Trọng Thanh: Giáo trình sơ lược ngữ pháp tiếng Hán cổ đại, Trường Đại học Tổng hợp, 1993 (bản thảo).

(3) Hoàng Hồng Cẩm: Tân biên truyền kì mạn lục - Nghiên cứu văn bản và vấn đề dịch Nôm, Nxb. Văn hóa Dân tộc, H. 1999.

(4) Hoàng Hồng Cẩm: Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú một tác phẩm văn xuôi Nôm thế kỉ XVII, Thông báo Hán Nôm học năm 1995, Nxb. KHXH, H. 1996.

(5) Hoàng Thị Ngọ: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. Viện nghiên cứu Hán Nôm, H. 2000.

(6) Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê, “La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn”, Nxb. Giáo dục, H. 1998, Tập 3. tr.1909.

(7) IU.V. Rozdextvenxki: Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương, Đỗ Việt Hùng dịch, Nxb. Giáo dục, H. 1997.

(8) N.V. Stankievitch: Hiện tượng giao thoa từ ngữ pháp tiếng pháp Hán sang ngữ pháp tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 1.1998.

(9) N.V. Stankievitch: Loại hình các ngôn ngữ, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1982.

(10) N.V. Stankievitch: Một chứng tích lí thú về sự tiếp xúc Việt - Hán, bài khảo bình dân luận của Ngô Thời Sĩ, Tạp chí Ngôn ngữ số 4.1991

(11) N.V. Stankievitch: Sự giao thoa về ngữ pháp giữa tiếng Hán và tiếng Việt trên tư liệu Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục - Ngôn ngữ học đại cương, các ngôn ngữ ở Trung Quốc và Đông Nam Á, Xanhpêtécbua, 1995 (Tiếng Nga - bản dịch làm tư liệu).

(12) Nguyễn Dữ: Truyền kì mạn lục giải âm, Nguyễn Thế Nghi dịch sang văn Nôm, Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H. 2001.

(13) Nguyễn Tài Cẩn & N.V. Stankievitch: Nhận xét sơ bộ về một vài đặc điểm ngôn ngữ trong văn xuôi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, “Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa”, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2001.

(14) Nguyễn Tài Cẩn: Quá trình hình thành thế đối lập giữa ba từ “được, bị, phải”, “Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa”, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2001.

(15) Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên): Dẫn luận ngôn ngữ học (tái bản lần thứ bảy), Nxb. Giáo dục, 2001.

(16) Nguyễn Văn Chiến: Ngôn ngữ học đối chiếu với các ngôn ngữ Đông Nam Á, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, 1992.

(17) Paul Schneider: Khảo cứu bản dịch Nôm “Truyền kì mạn lục”, Lê Văn Quán dịch, Tạp chí Hán Nôm, số 1/1995.

(18) Phương Lựu (chủ biên): Lí luận văn học, Nxb. Giáo dục, 2002.

(19) Phạm Văn Khoái: Hán văn Việt Nam nhìn từ góc độ song ngữ, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1997.

(20) Phạm Văn Khoái: Song ngữ Hán Việt và sự phát triển về chức năng của tiếng Việt, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1.1996.

II. Sách tiếng Trung:

(21) Trình Hi Lam & Ngô Phúc Hy (chủ biên): Cổ đại Hán ngữ, Cát Lâm Nhân dân xuất bản xã, 1984.

(22) Vương Lực: Hán ngữ sử cảo, Trung Hoa thư cục, 1996.

III. Sách Hán Nôm:

(23) Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú . Kí hiệu HN. 257.

(24) Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú. Kí hiệu HN. 258.

Viet64

HÌNH DẤU TỶ ẤN TRÊN CÁC LỆNH CHỈ CỦA BẢY CHÚA TRỊNH THỜI

LÊ TRUNG HƯNG

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Trong Thông báo Hán Nôm học 1997 chúng tôi đã có bài Về hình dấu của chúa Trịnh Tùng trên một văn bản cổ, bài viết này xin được giới thiệu bảy hình dấu Tỷ ấn khác nhau trên sáu lệnh chỉ và một lệnh dụ của bảy chúa Trịnh từ Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1628) đến Đoan Vương Trịnh Tông (1785) thời Lê Trung hưng.

Ngoài lệnh chỉ của chúa Trịnh Tùng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được lệnh chỉ của vị chúa kế tiếp là Trịnh Tráng 鄭 壯 có tên gọi Thanh Đô vương lệnh chỉ 清 都 王 令 旨 Văn bản này có 2 trang khổ 26x24cm, VHv. 2490 chữ Hán viết theo lối Khải thư. Trang đầu bị mòn rách phần trên. Thanh Đô vương lệnh chỉ có nội dung gần giống như nội dung bản lệnh chỉ của Trịnh Tùng. Đây là lệnh chỉ của Trịnh Tráng chuẩn cấp cho 12 người thuộc xã Vũ Liệt, huyện Thanh Chương, Nghệ An được miễn tạp dịch để trông coi đền thờ Trung đẳng thần Đô Thiên đại đế Long vương ở địa phương.

Trang thứ 2 chỉ có một dòng ghi niên hiệu, phần trên tờ giấy bị rách nên chữ đầu bị mất chỉ còn lại 8 chữ •- Tộ thập niên nhị nguyệt thập bát nhật. Dưới chữ Tộ là hình một dấu vuông kích thước 4,8x4,8cm; bốn chữ triện trong dấu có nét khắc vuông là 4 chữ Thanh Đô vương tỷ 清 都 王 璽 (Tỷ ấn của Thanh Đô vương). Việc chân hóa chữ triện xác định con dấu cùng một số tiêu chí khác đã giúp cho việc khẳng định chữ bị mất là chữ Vĩnh 永. Dòng niên đại trọn vẹn 9 chữ là Vĩnh Tộ thập niên nhị nguyệt thập bát nhật 永 祚 十 年 二 月 十 八 日

(Ngày 18 tháng 2 năm Vĩnh Tộ 10 (1628).

Phía trên bên trái cạnh dòng niên hiệu có hình dấu 2 chữ đại tự lệnh chỉ 令 旨 có kích thước lớn, cỡ và kiểu chữ dấu này giống như dấu chữ lệnh chỉ ở văn bản của chúa Trịnh Tùng. Điều khác biệt là dấu chữ lệnh chỉ này lại in ở trang có dòng ghi niên hiệu, còn dấu chữ lệnh chỉ trong Bình An vương lệnh chỉ lại in riêng ở trang cuối cùng (tr.4) khác trang ghi niên hiệu (tr.3). Các bản lệnh chỉ, lệnh dụ mà chúng tôi sưu tập sau này đều có dấu chữ l ệnh chỉ hoặc lệnh dụ, vị trí in giống như bản lệnh chỉ của Thanh Đô vương Trịnh Tráng, tức là khác bản của Bình An vương Trịnh Tùng. (H.1).

Dấu Thanh Đô vương tỷ tức là Tỷ ấn của Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Trịnh Tráng là con của Trịnh Tùng và đã được chọn lập làm Thế tử, đầu năm 1623 được tấn phong là Thái úy Thanh Quốc công. Đến tháng 11 năm 1623 lại được sắc phong làm Nguyên súy Thống quốc chính Thanh Đô vương. Lễ tấn phong, sách phong tước vương cho các chúa Trịnh thường ban kèm sách vàng, ấn báu. Mặc dù chính sử nhiều khi không ghi chi tiết nhưng thực tế ở đây cho ta thấy tháng 11 năm 1623 Trịnh Tráng đã nhận sách phong và Tỷ ấn Thanh Đô vương tỷ. Tỷ ấn này đã được sử dụng từ đấy đến trước tháng 10 năm 1629.

Đọc tiếp chính sử ta lại thấy Trịnh Tráng cũng như một số chúa Trịnh sau khi lên ngôi chúa còn được tôn phong một lần nữa ở ngôi vị cao nhất; và như vậy họ đã được nhận và sử dụng hai loại Tỷ ấn khác nhau. Sách sử ghi “Mùa đông tháng 10. [Vua Lê] đặc sai quan mang phù tiết, sách vàng, ấn tước vương đến phong [Trịnh Tráng] làm Hiệp mưu công thần Đại nguyên súy Thống quốc chính sư phụ Thanh vương…”(1). Rõ ràng sau Tỷ ấn Thanh đô vương tỷ trên, khi được tấn phong là Thanh vương, Trịnh Tráng đã được nhận ấn quý mới có khắc chữ “…Thanh vương…” 清 王 chứ không dùng chữ Thanh Đô vương nữa. Tuy nhiên hiện nay chúng tôi không sưu tầm được chứng tích của Tỷ ấn này, và việc giới thiệu dấu Tỷ ấn của Tây vương Trịnh Tạc dưới đây sẽ lý giải cho vấn đề này.

Sau lệnh chỉ của Thanh Đô vương Trịnh Tráng chúng tôi còn in chụp được một số lệnh chỉ và lệnh dụ của các chúa Trịnh khác. Trên những văn bản Hán Nôm đó là những dòng niên đại khác nhau ghi chứng tích của một số chúa Trịnh. Đặc biệt là các hình dấu Tỷ ấn in trên văn bản; có dấu còn rõ, có dấu bị mờ nhưng nội dung chữ Triện trong dấu đã chứng minh cho chức tước của các chúa Trịnh, đồng thời cũng nói lên được sự khác biệt trong cách dùng Tỷ ấn của họ.

Giống như lệnh chỉ của chúa Trịnh Tùng, những lệnh chỉ, lệnh dụ này được đóng thành quyển mỏng hai hoặc ba tờ, chứ không phải là một văn bản có kích thước lớn như sắc phong. Thực tế sưu tầm in chụp có những lệnh chỉ, lệnh dụ không còn trọn vẹn mà chỉ giữ được tờ cuối có ghi niên đại và hình dấu. Đồng thời phạm vi nghiên cứu con dấu của chúng tôi chỉ chủ yếu tập trung vào việc phân tích trang có dòng ghi niên đại và lưu hình dấu, bên cạnh có tham khảo thêm những văn bản và tư liệu liên quan. Cho nên những trang mất, rách ngoài trang có hình dấu và niên đại cũng không gây ảnh hưởng nhiều.

Nguồn gốc một số lệnh chỉ, lệnh dụ này còn lưu giữ ở từ đường họ Lê Hiểm - dòng họ khai quốc công thần thời Lê ở Thanh Hóa. Gần 30 năm trước đây hậu duệ họ Lê này đã nhờ GS. Phan Huy Lê và GS. Phan Đại Doãn xem xét giúp đỡ. Năm 1980 hai GS. đã cho Ban Hán Nôm mượn sao chụp nguyên bản(2).

Các văn bản này hầu hết giống nhau về mặt hình thức. Giấy bản cũ, các mép góc đã bị mòn sờn nhiều, nhất là ở phần trên, nên có văn bản chữ đầu tiên ghi niên hiệu bị mất nửa chữ. Chữ Hán viết theo lối Khải, nét ngang kéo dài hất ngược kiểu chữ ghi trên sắc, chỉ, dụ và một số văn bản hành chính đầu thời Lê Trung hưng.

Bắt đầu từ lệnh dụ của Tây vương Trịnh Tạc niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680); lệnh chỉ của An Đô vương Trịnh Cương đời Vĩnh Thịnh 5 (1709); lệnh chỉ của Uy Nam vương Trịnh Giang năm Vĩnh Khánh 2 (1730); lệnh chỉ của Minh vương Trịnh Doanh đời Cảnh Hưng 3 (1742); lệnh chỉ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm năm Cảnh Hưng 28 (1768), cuối cùng là lệnh chỉ của Đoan vương Trịnh Tông năm Cảnh Hưng 46 (1785).

Sơ lược nội dung một số lệnh dụ, lệnh chỉ trên là: Thái bảo Hùng Quốc công Lê Hiểm là khai quốc công thần đã được vua Lê phong cấp ruộng đất, con cháu quyền thừa tự ruộng đất ở các xứ Thanh Hóa để thờ cúng, cộng 160 mẫu. Sau đó có người tranh chiếm. Cháu chắt Lê Hiểm thưa kiện, các chúa Trịnh đã ban lệnh dụ, lệnh chỉ bắt kẻ chiếm đất phải trả lại cho họ. Các lệnh chỉ lặp đi lặp lại việc xác nhận quyền sở hữu 160 mẫu ruộng ở các xứ Thanh Hóa là của con cháu công thần Lê Hiểm.

Văn bản thứ nhất là lệnh dụ của Tây vương Trịnh Tạc. Dòng ghi niên hiệu có 9 chữ Vĩnh Trị ngũ niên cửu nguyệt thập nhị nhật 永 治 五 年 九 月 十 二 日 (Ngày 12 tháng 9 năm Vĩnh Trị 5 (1680). Một dấu hình vuông in trên dòng niên hiệu từ chữ thứ 2 đến chữ thứ 5, một dấu hình vuông nữa ở phía dưới bên phải chỗ giáp hai trang giấy(3). Hai dấu này có hình thức và nội dung số lượng Triện văn giống nhau. 12 chữ Triện trong dấu xếp theo 3 hàng, mỗi hàng 4 chữ, nét khắc xếp liền khó đọc hơn dấu Bình an vương tỷ của Trịnh Tùng. Đó là 12 chữ Thượng sư thái phụ đức công minh thánh Tây vương chi tỷ 尚 師 太 父 德 公 明 聖 西 王 之 璽 (Tỷ ấn của Thượng sư thái phụ Đức công minh thánh Tây vương). Phía trên bên trái cạnh dấu ở dòng niên hiệu có một hình dấu với hai chữ lệnh dụ 令 諭 khá lớn giống như hai đại tự viết liền nhau theo kiểu chữ Khải thư. Đây cũng chính là một hình dấu gọi là dấu lệnh dụ chuyên dùng đóng trên những bản lệnh dụ của chúa để phân biệt với những bản lệnh chỉ và văn bản hành chính khác.

Tỷ ấn của Tây vương tức là Tỷ ấn của Tây vương Trịnh Tạc. Sách sử đã ghi lại rõ về các lễ tấn phong, tôn phong đối với Trịnh Tạc. Năm 1652 ông được tấn phong làm Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương. Năm 1659 ông được tôn phong làm Dực vận tán trị công thần Đại Nguyên súy Chưởng quốc chính Thượng sư Tây vương. Năm 1660 Trịnh Tạc được tôn phong làm Đại Nguyên súy Chưởng quốc chính Thượng sư thái phụ đức công nhân uy minh thánh Tây vương.

Lễ tấn phong hoặc tôn phong đối với các chúa Trịnh khá trọng thể. Mỗi lần có lễ này, các vua Lê đều lệnh cho đại thần cầm phù tiết mang sách vàng ấn vàng vinh phong cho các chúa Trịnh. Trong sách sử lễ tấn tôn thường ghi là sách vàng ấn báu; đồng thời xem xét tất cả hình dấu của một số chúa Trịnh, văn khắc chữ Triện đều ghi là Tỷ 璽 mà không ghi là Bảo 寶. Do đó chúng tôi cho rằng đây là quy định phân biệt việc sử dụng Bảo, Tỷ của vua Lê - chúa Trịnh. Không phải Tỷ của các chúa Trịnh đều được làm bằng ngọc, mà chủ yếu là đúc bằng vàng rồi khắc chữ Tỷ lên dấu, điều này giống như việc làm và sử dụng một số Kim ngọc Bảo Tỷ của các vua Nguyễn sau này. Cho nên đối với hình dấu của các chúa Trịnh chúng tôi dùng chữ Tỷ ấn để cho phù hợp.

Việc khẳng định bản lệnh dụ và hình dấu Tỷ ấn trên là của Tây vương Trịnh Tạc là hoàn toàn chính xác. Đây là hình dấu có nội dung số lượng Triện văn nhiều nhất trong những hình dấu của các chúa Trịnh, nó khác hẳn dấu Tỷ ấn của Bình An vương Trịnh Tùng, Thanh Đô vương Trịnh Tráng và các chúa Trịnh sau này. Nó cũng thể hiện sự khác biệt của con dấu đóng trên lệnh dụ khác với con dấu đóng trên lệnh chỉ. (H.2)

Tiếp theo xin giới thiệu hình dấu trên lệnh chỉ của chúa Trịnh Cương có dòng ghi niên hiệu với 10 chữ Hán: Vĩnh Thịnh ngũ niên thập nhị nguyệt thập ngũ nhật 永 盛 五 年 十 二 月 十 五 日 (ngày 15 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh 5 - 1709). Chữ Vĩnh 永 bị rách phần đầu. Dấu hình vuông đóng trên chữ Thịnh ngũ niên. Dấu có 4 chữ Triện xếp theo 2 hàng, khuôn nét chữ xếp gần liền nhau không để cách. Đó là 4 chữ An Đô vương tỷ 安 都 王 璽 (Tỷ ấn của An Đô vương). Cạnh dòng niên đại phía bên trái có hình dấu hai chữ lệnh chỉ 令 旨. Hình thức và tính chất của dấu lệnh chỉ này cũng giống như bản lệnh chỉ của các chúa Trịnh đã giới thiệu, riêng vị trí dấu đóng trên văn bản thì khác vị trí đóng dấu ở bản lệnh chỉ của Trịnh Tùng.

Dấu An Đô vương tỷ, tức là Tỷ ấn của An Đô vương Trịnh Cương. Sách sử cũng đã ghi về thời gian mà Trịnh Cương được tấn phong làm Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh tước An Quốc công là năm Chính Hòa 24 (1703). Tháng 9 năm Vĩnh Thịnh 5 (1709) ông được tấn phong làm Nguyên soái Tổng quốc chính An Đô vương. Và nhận sách vàng ấn báu. Khoảng 3 tháng sau đó tức ngày 15 tháng 2 năm Vĩnh Thịnh 5 (1709) bản lệnh chỉ trên của Trịnh Cương được thực hiện và có đóng dấu Tỷ ấn An Đô vương tỷ. Việc đối chiếu hình dấu Tỷ ấn trên văn bản lệnh chỉ với sự kiện sách sử ghi trên đã khẳng định tính xác thực của văn bản cũng như hình dấu. (H. 3).

Sau lệnh chỉ và hình dấu của Trịnh Cương là lệnh chỉ có dòng niên đại ghi: Vĩnh Khánh nhị niên thập nhị nguyệt sơ nhị nhật 永 慶 二 年 十 二 月 初 二 日. Trên dòng niên đại có in hình một dấu vuông có hình thức kích thước tương tự như dấu Tỷ ấn của chúa Trịnh Cương. Nhưng chữ Triện trong dấu có tự dạng khác; bốn chữ Triện trong dấu này là Uy Nam vương tỷ 威 南 王 璽 (Tỷ ấn của Uy Nam vương). Một dấu hình hai chữ lệnh chỉ 令 旨 cũng nằm ở phía bên trái dòng ghi niên đại, nó cũng chứng minh rằng văn bản Hán Nôm này là một bản lệnh chỉ và đây là trang cuối của lệnh chỉ. Dòng niên đại ghi rõ là văn bản được làm vào ngày 2 tháng 12 năm Vĩnh Khánh 2 (1730).

Dấu Uy Nam vương tỷ tức là Tỷ ấn của Uy Nam vương Trịnh Giang. Năm 1727 khi còn là Thế tử, Trịnh Giang đã được vua Lê phong là Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh tước Uy quận công kiêm nắm chính sự cơ mật. Năm 1730 Trịnh Giang tự tấn phong làm Nguyên soái Thống quốc chính Uy Nam vương, đồng thời cho đúc Tỷ ấn vàng. Tỷ ấn Uy Nam vương tỷ bắt đầu được sử dụng năm 1730 và đã được dùng đóng lên bản lệnh chỉ mà chúng tôi đã giới thiệu trên. (H. 4).

Lệnh chỉ tiếp theo cũng thuộc loại hình văn bản giống như các bản lệnh chỉ trên về hình thức, tính chất và nội dung; riêng niên đại văn bản và hình dấu có khác biệt. Dòng niên đại có 9 chữ Cảnh Hưng tam niên tứ nguyệt sơ ngũ nhật 景 興 三 年 四 月 初 五 日 (Ngày 5 tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 3 -1742).

Dấu hình vuông in trên dòng ghi niên hiệu có kích thước, hình thức và số lượng chữ triện trong dấu khác với dấu Tỷ ấn của các chúa Trịnh khác. 6 chữ Triện trong dấu xếp theo 3 hàng, mỗi hàng 2 chữ; đó là 6 chữ: Thượng sư Minh vương chi tỷ 尚 師 明 王 之 璽 (Tỷ ấn của Thượng sư Minh vương).

Một dấu hình hai chữ lệnh chỉ cạnh dòng niên đại, có hình thức tính chất giống như dấu chữ lệnh chỉ của các văn bản đã giới thiệu trước.

Thượng sư Minh vương tức là Trịnh Doanh, là con thứ ba của An Đô vương Trịnh Cương. Năm 1736 khi mới 17 tuổi Trịnh Doanh được phong làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, Thái úy tước Ân Quốc công. Năm 1740 sau khi tiêu diệt phe cánh Hoàng Công Phụ, Trịnh Doanh thay quyền ngôi chúa, lên ngôi vương lấy hiệu là Minh Đô vương và tiến tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương. Năm Ất Hợi (1755) vua Lê tấn phong Trịnh Doanh làm Thượng sư thượng phụ anh đoán văn trị võ công Minh vương. Trên thực tế sau khi lên ngôi chúa với hiệu là Minh Đô vương không lâu, Trịnh Doanh đã tôn xưng là Minh vương và dùng Tỷ ấn Thượng sư Minh vương chi tỷ. Cách sử dụng Tỷ ấn này của Trịnh Doanh hơi giống với Tỷ ấn của Tây vương Trịnh Tạc và khác với Tỷ ấn của các chúa Trịnh khác. Cùng thời gian này Thái thượng vương Trịnh Giang vẫn còn tồn tại, xã hội không ổn định phải chăng cũng tác động đến việc thay đổi xưng vương, dùng Tỷ ấn của Trịnh Doanh? Hình dấu Tỷ ấn này đã thêm một tư liệu cho việc nghiên cứu Tỷ ấn của các chúa Trịnh. (H. 5)

Tiếp theo xin được giới thiệu trang cuối của bản lệnh chỉ cũng có niên hiệu Cảnh Hưng nhưng có dấu Tỷ ấn của một vị chúa khác. Văn bản tuy đã cũ những chữ Hán và hình dấu còn rất rõ. Dòng ghi niên đại có 12 chữ là: Cảnh Hưng nhị thập bát niên thập nguyệt nhị thập nhị nhật 景 興 二 十 八 年 十 月 二 十 二 日 (Ngày 22 tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 28-1768). Một hình dấu vuông đóng dưới chữ Cảnh Hưng, dấu có hình thức kích thước, số lượng và bố cục chữ Triện giống như hình dấu của Bình An vương Trịnh Tùng, Thanh Đô vương Trịnh Tráng, An Đô vương Trịnh Cương và Uy Nam vương Trịnh Giang. Bốn chữ Triện trong dấu là Tĩnh Đô vương tỷ 竫 都 王 璽 (Tỷ ấn của Tĩnh Đô vương).

Cạnh bên trái dòng niên hiệu là hình dấu hai chữ lệnh chỉ 令 旨 có hình thức, tự dạng giống như dấu chữ lệnh chỉ của các văn bản đã nêu.

Dấu Tĩnh Đô vương tỷ là Tỷ ấn của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm. Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh, năm 1745 được lập làm Thế tử. Năm 1758 được phong làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh Thái úy, Tĩnh quốc công. Năm Đinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên ngôi chúa được tấn phong là Nguyên soái Tổng quốc chính Tĩnh Đô vương, được nhận ấn vàng sử dụng. Một năm sau, năm 1768 bản lệnh chỉ trên ra đời có lưu hình dấu Tỷ ấn này và chúng ta mới biết được tên của Tỷ ấn là Tĩnh Đô vương tỷ. (H. 6)

Hình dấu cuối cùng in trên lệnh chỉ được giới thiệu dưới đây được in trên dòng ghi niên hiệu chữ Hán có 12 chữ: Cảnh Hưng tứ thập lục niên bát nguyệt sơ tứ nhật 景 興 四 十 六 年 八 月 初 四 日 (Ngày 4 tháng 8 năm Cảnh Hưng 46 -1785).

Dấu hình vuông có hình thức, kích thước, số lượng và bố cục chữ Triện khác Tỷ ấn của các chúa Trịnh khác. 6 chữ Triện trong dấu được chia làm 3 hàng mỗi hàng 2 chữ. Là 6 chữ Sư thượng Đoan vương chi tỷ 師 上 端 王 之 璽 (Tỷ ấn của Sư thượng Đoan vương). (H. 7)

Dấu hai chữ lệnh chỉ bên cạnh dấu Tỷ ấn cũng có hình thức kích thước giống như dấu chữ lệnh chỉ ở các văn bản mà chúng tôi đã trình bày.

Sư thượng Đoan vương ở đây tức chúa Trịnh Tông. Trịnh Tông còn có tên là Trịnh Khải, là con của Trịnh Sâm. Năm Tân Sửu (1781) Kiêu binh Tam phủ nổi loạn phế Trịnh Cán rước Trịnh Tông lên ngôi vương làm Nguyên soái Tổng quốc chính Đoan Nam vương. Đây là thời kỳ kinh thành Thăng Long rối loạn, nhưng công tác hành chính vẫn được duy trì, một số văn bản vẫn được thảo và sử dụng Tỷ ấn của chúa. Bản lệnh chỉ có dấu Tỷ ấn trên là ví dụ minh chứng. Trịnh Tông và những người phò giúp cũng mô phỏng theo cách dùng Tỷ ấn của cha ông để làm Tỷ ấn này. Nhưng việc dùng chữ Sư thượng 師 上 trong dấu cũng có sự khác biệt. Tỷ ấn của Tây vương Trịnh Tạc và Minh vương Trịnh Doanh dùng hai chữ đầu là Thượng sư 尚 師, còn dấu Tỷ ấn trên là có hai chữ đầu là Sư thượng 師 上 nội dung chữ triện của Tỷ ấn này với hai chữ Sư thượng khác hẳn nội dung triện văn trên Tỷ ấn của các chúa Trịnh khác. Cách dùng chữ khắc trên Tỷ ấn của Trịnh Tông đã chứng minh cho việc Trịnh Tông tự tấn phong mình làm Thượng sư thượng phụ Đoan vương 尚 師 上 父 端 王 rồi làm Tỷ ấn khắc 6 chữ Sư thượng Đoan vương chi tỷ để dùng. Hình dấu Tỷ ấn này đã làm phong phú thêm cho số lượng, nội dung Tỷ ấn của các chúa Trịnh nói riêng và ấn chương thời Lê Trung hưng nói chung.

N.C.V

CHÚ THÍCH:

(1) Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT). bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1968, Tập 4, tr.254.

(2) Trên một vài trang phần chính văn của một số lệnh chỉ này có đóng dấu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, HC.9.

(3) Những văn bản sao chụp lại bản gốc chúng tôi không đo kích thước hình dấu để đảm bảo tính chính xác của con dấu.

TB

NÉT ĐẸP LỆ LÀNG
VÙNG CHIÊM TRŨNG PHÚ XUYÊN

ĐỖ THỊ HẢO

Xã hội Việt Nam thời xưa, các tổ chức ở nông thôn như phe giáp, xóm thôn, làng xã đều đặt ra những quy ước để giải quyết điều hoà các tranh chấp, xung đột, đồng thời khống chế và ràng buộc lẫn nhau trong cộng đồng hẹp mà “tối lửa tắt đèn” có nhau, quyền lợi và nghĩa vụ gắn kết với nhau. Trong một cộng đồng người cùng chung sống trong một khu vực, tất yếu phải nảy sinh những vấn đề giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân với tập thể hoặc giữa tập thể này với tập thể khác. Do đó, việc xây dựng các quy ước chung là điều tất yếu phải có. Quy ước có nhiều tên gọi khác nhau: Hương ước, lệ làng, tục lệ, khoán ước,… tùy theo từng nơi, nhưng phổ biến trong dân gian người ta vẫn gọi là lệ làng. Làng xã muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải có lệ làng, song vấn đề cốt thiết lại phụ thuộc vào nội dung các lệ làng tiến bộ hay lạc hậu, chứa đựng thuần phong mỹ tục hay những hủ tệ lạc hậu… Căn cứ vào thư tịch cổ, chúng ta biết rằng đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1496) triều đình đã ra lệnh “tiêu chuẩn hoá” các lệ làng, nhưng cho đến nay ta vẫn chưa tìm thấy một bản lệ làng nào ở thời gian đó. Hiện nay ở Thư viện Khoa học xã hội và Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được một số lệ làng cổ của huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Tây. Bản có niên đại xưa nhất là niên hiệu Cảnh Hưng thứ 35 (1774) và muộn nhất là niên hiệu Duy Tân 4 (1910). Cụ thể những bản lệ làng có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm như sau:

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Già Cầu tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 48 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Già Cầu tổng các xã tục lệ - lập năm Tự Đức 18 (1865), 95 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Hoàng Trung tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 65 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Khai Thái tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 45 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Khai Thái tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 52 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Lương Xá tổng các xã tục lệ, 80 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Mỹ Lâm tổng các xã tục lệ, 187 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Thịnh Đức tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 85 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Thịnh Đức tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 2 (1908), 178 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Thường Xuyên tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 220 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Tri Chỉ tổng các xã tục lệ - lập năm Cảnh Hưng 35 (1774), 180 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Tri Thuỷ tổng các xã tục lệ - lập năm Tự Đức 5 (11852), 55 tờ.

- Hà Đông tỉnh Phú Xuyên huyện Tri Thuỷ tổng các xã tục lệ - lập năm Duy Tân 4 (1910), 95 tờ.

Nhìn chung các bản lệ làng trên không phải được hoàn thiện ngay từ đầu mà thường xuyên được bổ sung ở các đời sau để phù hợp với tình hình thực tế đã thay đổi. Mỗi lần bổ sung thì các điều khoản càng cụ thể hơn, hợp lý hơn. Lệ làng được lập ra theo yêu cầu của từng địa phương cụ thể cho nên thời gian lập bản lệ làng của các thôn xã và nội dung của nó cũng không giống nhau. Mãi đến đầu thế kỷ XX, khoảng niên hiệu Duy Tân thứ 4 (1910), Nhà nước bảo hộ yêu cầu các làng xã kê khai lệ làng của địa phương mình theo mẫu định trước. Các bản lệ làng còn lại ở Phú Xuyên đến nay phần lớn được lập trong thời gian này, thử trích một đoạn sau đây làm ví dụ:

“Lý dịch xã Lễ Nhuế tổng Già Cầu huyện Phú Xuyên khấu trình: Bản xã chúng tôi từ trước tới nay đã có khoán lệ nhưng chỉ truyền khẩu. Nay dân xã chúng tôi đã hội họp, đối chiếu từng khoản điều lệ đã lưu hành về chính trị, phong tục, như thế nào nhất nhất khai trình sau đây. Đồng dân cùng ký đệ trình đầy đủ lên, cúi xin quan huyện xem xét, thật vạn phần may mắn”.

Nội dung các lệ làng hầu hết đề cập đến mọi vấn đề của nông thôn thời đó, song rút cục có thể quy vào bốn mục lớn là: hình luật, hộ luật, chính trị và phong tục.

Qua nghiên cứu các lệ làng ở Phú Xuyên chúng tôi thấy những cái hay cái tốt và những tệ nạn đan xen nhau. Những hủ tục nặng nề hành hạ biết bao con người của biết bao thế hệ cần phải xóa bỏ, đó là lệ về ngôi thứ và khao vọng ở nông thôn xưa. Ngôi thứ trong làng là việc cực kỳ hệ trọng. Khi làng họp ở đình để bàn việc công hay để thụ lộc sau khi tế thần thì người nào phải theo ngôi thứ ấy, ai ngồi sai thứ tự sẽ bị làng bắt vạ. ở làng xã xưa người ta hay tranh nhau “ăn trên ngồi trốc” một cách kịch liệt. Hoặc dùng tiền bạc để mua ấm mua nhiêu trong làng, hoặc mua phẩm hàm của Nhà nước. Lại có khi dùng thần thế hay mưu mô để giành lấy một vị trí trong làng. Câu tục ngữ “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” đã nói lên điều đó. Rồi nạn khao vọng “vô vọng bất thành quan”, nạn chè chén “một người quy cả làng say túy lúy”… khiến bao gia đình khánh kiệt, bán vợ đợ con.

Nói như thế không có nghĩa là cứ lệ làng là tiêu cực phải xóa sạch. Gạt bỏ đi những tệ nạn không thể tồn tại được, thì những ưu điểm của lệ làng cũng thấy khá rõ nét. Đầu tiên phải nói đến là tính chặt chẽ của lệ làng. Người nào vi phạm lệ làng tức là đã vi phạm cả cộng đồng, tất yếu sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ. Xét cho cùng lệ làng là pháp luật do cộng đồng làng xã đặt ra, nó là cơ sở để giữ yên kỷ cương phép nước. Bất cứ chính thể nào cũng cần phải xây dựng một xã hội có luật pháp. Đã là luật pháp thì không loại trừ một ai. Thực hiện lệ làng vừa là trách nhiệm nhưng cũng là nghĩa vụ và tình cảm của mỗi con người với làng với nước. Cho nên ai không ý thức được điều này thì đã có những điều khoản để xử lý:

“Người nào làm trái khoán ước mà dân đã lập ra, hoặc không tuân theo khoán ước sẽ bị phạt 6 mạch để sung công” (xã Ngải Khê, tổng Già Cầu).

Có nơi hình phạt được quy định rất chi tiết đến từng đối tượng vi phạm.

“Trong thôn người nào ương ngạnh không tuân theo khoán ước, thì các bậc trưởng thượng cứ căn cứ theo lệ làng phạt tiền là 3 quan 6 mạch để sung công. Nếu là trẻ con bị đánh 30 roi và tha cho lần đầu. Lần sau tái phạm bị xét xử như người lớn, tốn phí bao nhiêu đều phải gánh chịu. Người vi phạm lệ làng dù ở thứ bậc nào cũng không được dự tế ở đình” (thôn Trung, xã Vĩnh Xuân, tổng Khai Thái).

Những vấn đề lệ làng đề cập đến trước tiên phải kể tới những quy định về đạo đức mà tất thảy thành viên trong làng đều phải theo:

“Dân trong xã phải khiêm tốn nhường nhịn nhau. Kính trọng người già, thương yêu con trẻ. Lấy lễ độ đối xử với nhau, không được ngông cuồng ngạo mạn. Người nào hỗn láo với bậc trưởng thượng, chứng cớ rõ ràng thì bị phạt 1 quan sung công để răn đe kẻ khác” (xã Trung Lập - Lệ năm Tự Đức 29, 1876).

Tôn trọng người già vốn là truyền thống, là đạo lý của người Việt Nam. Đạo lý này được thực hiện từ trong mỗi gia đình cho đến ngoài xã hội. Nó tạo nên một trật tự tốt đẹp, góp phần làm cho xã hội được ổn định. Nó trở thành vấn đề đạo đức, xã hội và thời đại nào cũng cần thiết lập và duy trì. Làng Chuôn Ngọ xưa cũng là nơi vốn có truyền thống trọng người già (trọng lão). Lệ làng quy định đối với các cụ bà 50 tuổi được vào lão, còn các cụ ông 55 tuổi mới được quyền khao lão. Người khao lão được miễn 1/2 suất thuế đinh nhưng phải sắm sửa 50 khẩu trầu để trình làng. Những người khao lão 60 tuổi trở lên phải sắm biện 100 khẩu trầu. Các cụ bà khao lão biện lễ ra chùa. Những vị quan to tước lớn, về làng ở, tuy chưa đến tuổi cao nhất làng nhưng là những “người sang ngoài nước” nên họ cũng được tôn theo danh hiệu ấy để thể hiện truyền thống trọng sĩ - tôn trọng người tài. Những cụ thọ từ 80 tuổi trở lên được làng tặng áo đỏ, khăn đỏ. Mọi người có niềm tin rằng “kính già, già để tuổi cho”, con cháu sẽ được mạnh khỏe, kéo dài tuổi thọ.

Nhìn chung ở Phú Xuyên việc khao lão cũng đơn giản gọn nhẹ, các lệ định chú trọng đến mục đích thiết lập tôn ti trật tự trong làng xóm là chính, chứ không nệ vào việc ăn uống, chè chén.

“Trong xã có người lên lão, việc khao vọng gia chủ mời các cụ chức dịch đến nhà, trầu rượu hoặc ăn uống tuỳ tâm, không bắt buộc” (xã Ngải Khê).

Một đối tượng nữa được quan tâm thể hiện rõ trong các lệ làng, đó là trẻ em. Đây là thế hệ sẽ kế tiếp sự nghiệp của ông cha. “Tre già măng mọc”, vì thế đối với lớp trẻ phải uốn nắn từ lúc còn thơ dại và phải ràng buộc chúng bằng những khuôn phép, những luật lệ của làng.

“Trong làng xã, trẻ con không được rong chơi lêu lổng, tụ tập ở các hàng quán, uống nước chè, ăn nói sằng bậy. Nếu không tuân theo quy định trên, lý dịch bắt được quả tang sẽ phạt 1 đồng và 100 miếng trầu…” (thôn Trung, xã Vĩnh Xuân, tổng Khai Thái).

Muốn xây dựng được thuần phong mỹ tục, muốn làng xã phong lưu, thịnh vượng thì tình độ dân trí phải được nâng cao. Nhìn chung, hầu hết các lệ làng đều coi trọng việc học, khuyến học bằng cách mở trường, tìm thầy giỏi nhằm mục đích đào tạo nhân tài cho quê hương:

“Cử những người giỏi chữ Hán và chữ Quốc ngữ, bất kể quê quán ở đâu, làm thầy giáo trong làng. Hàng năm cấp cho 5 mẫu ruộng để cày cấy. Nếu người đó dạy dỗ không chuyên cần thì trình quan trên không cho dạy nữa, thay thế bằng người khác” (xã Đồng Vinh, tổng Thịnh Đức Thượng).

Cũng để khuyến khích việc học, lệ làng quy định khen thưởng và tôn vinh những người thành đạt rất rõ ràng, cụ thể:

“Người nào đỗ Tiến sĩ, Phó bảng, bản xã mừng 60 đồng, đỗ Cử nhân mừng 40 đồng, đỗ Tú tài mừng 30 đồng. Ngày vinh quy bản xã chuẩn bị nghi tiết để đón. Còn những người làm việc tại các công sở hay tổng lý được phẩm hàm thì được tặng 10 đồng để biểu thị lòng kính trọng” (thôn Nội, xã Hà Thao, tổng Già Cầu).

Hoặc là: “Trong xã có người đỗ Tiến sĩ, Cử nhân, hay Tú tài, Hội tư văn biện lễ vật cùng nhau đến chúc mừng để thể hiện coi trọng văn phong…”

Hầu hết nội dung những bản lệ làng ở Phú Xuyên đều toát lên mong muốn đẩy mạnh và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, làm cho nó phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Những ý tưởng trên được cụ thể hóa bằng những quy định, từ việc canh phòng đồng ruộng, làng xóm, cho đến tang ma, cưới xin, hình phạt về tội trộm cắp, cờ bạc, … tất cả đều có cân nhắc, xem xét. Đơn cử một vài ví dụ sau đây:

Việc cắt tuần phòng trông nom đồng nước, mùa màng;

“Hàng năm, tuần đinh canh phòng đồng điền theo 2 vụ. Bốn giáp cử cả thảy là 20 người: giáp Đông 5 người, Đông Nhị 5 người, giáp Tây 6 người và giáp Bắc 4 người. Chọn người lập sổ xuất hành, làng chia làm 4 khu tuần phòng. Vụ cấy, việc giữ hay tháo nước do tuần đinh canh giữ, hạn là từ tháng 11 đến mùng 3 tháng 3 âm lịch. Chiếu thu mỗi sào ruộng mạ nộp 2 mạch tiền canh. Nếu trong thôn có người nào đào đường, bắt trộm cá, theo lệ bị phạt 1 quan 2 mạch và 30 miếng trầu. Khi lúa chín tuần đinh phải đặt điểm canh phòng, thu hoạch xong, mỗi sào phải trả công 1 lượm lúa. Nếu trông nom không cẩn thận, chiếu theo tang vật bị mất phải bồi thường cho đủ số. Tuần đinh nào có hành vi không tốt lại không chịu nhận lỗi, giáp có người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người nào 60 tuổi hoặc xấp xỉ 60 thì không được đi tuần” (thôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ).

Trách nhiệm của mọi người đối với cộng đồng làng xóm nơi mình sinh sống:

“Nhà nào ở gần đường cái hoặc đường trong các ngõ xóm không được vứt rác bẩn ra đường. Phải phân chia nhau quét dọn sạch sẽ, ai vi phạm bị phạt 1 quan tiền sung công” (xã Đồng Vinh, tổng Thịnh Đức Thượng).

Để duy trì thuần phong mỹ tục và ngăn ngừa những tệ nạn, lệ làng đặt ra những hình phạt rất nghiêm ngặt: “Người nào trong thôn tổ chức đánh bạc, lý dịch và tuần tráng bắt được giải đi xét xử theo khoán ước. Bị phạt 36 quan sung công và 1 năm không được dự tế trong chốn đình chung” (thôn Quang Lãng, xã Cổ Liêu).

Về vấn đề hôn nhân:

“Trai gái lấy vợ gả chồng, thôn xã không được sách nhiễu của cải, không được đóng cổng, ngăn đường. Ai vi phạm bị phạt 5 quan sung công. Cỗ bàn ăn uống tùy hôn chủ định liệu, không quy định” (xã Hà Thao).

Lệ làng xử đối với những người muốn ly hôn: “Trong thôn, vợ chồng nào sống với nhau không hợp muốn ly dị thì tuỳ ý, nhưng phải làm đơn ký kết mỗi người giữ 1 bản. Nếu vợ không sai phạm mà chồng tự ý bỏ, hoặc vợ tự ý bỏ đi, thôn chiếu lệ phạt tiền 12 quan sung công và bắt đoàn tụ” (xã Cổ Liêu).

Việc tang ma:

Ở Phú Xuyên, ngoài những điểm chung như mọi nơi khác, lệ làng có những hình thức vừa giáo dục vừa răn đe từ khi người ta còn sống, khiến cho tình làng nghĩa xóm trở nên gắn bó, đồng thời mỗi người đều phải sống đẹp vì mình và vì mọi người.

“Mọi người phải tôn trọng lẫn nhau theo lễ. Người nhỏ tuổi khinh thường người trên phạt 2 đồng. Người trên lăng mạ kẻ dưới phạt 1 đồng sung công. Ai ỷ thế áp bức mọi người, hội đồng kỳ mục ghi vào sổ, đợi đến khi chết, con cháu trong họ phải đến tạ lỗi giải quyết với chức dịch xong, giáp đó mới cho chôn. Làm thế để phong tục của dân được nghiêm chỉnh” (thôn Quang Lãng, xã Cổ Liêu).

Thường mỗi lệ làng gồm trên 20 điều quy ước về nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, lệ làng ở Phú Xuyên ràng buộc người ta ở cả hai mặt: vật chất - phạt tiền, tinh thần - không được tôn trọng trong cộng đồng gần gũi với mình là xóm làng. Có lẽ vì thế mà lệ làng thường được coi trọng hơn phép nước, “phép vua thua lệ làng”.

Cùng với cả nước và cả tỉnh Hà Tây, hiện nay huyện Phú Xuyên đang thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, kết hợp với xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Việc này bao gồm nhiều lĩnh vực về văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần, nhằm tạo ta diện mạo mới ở nông thôn ngày nay. Xây dựng làng văn hóa thực chất là sự kế thừa những truyền thống, những di sản văn hóa tốt đẹp của cha ông với việc tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa hiện đại trong nước và thế giới. Thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở Phú Xuyên cho thấy, cùng với những tiêu chuẩn khác thì mỗi làng phải xây dựng được bản quy ước của riêng làng mình. Những bản quy ước này là của dân, do dân xây dựng trên cơ sở thực tiễn làng mình và phù hợp với pháp luật của nhà nước. Nó được nhân dân tự nguyện thực hiện nhằm thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ, văn minh làng xóm quê hương. Việc nghiên cứu tìm hiểu những lệ làng xưa của Phú Xuyên để rồi tiếp thu, kế thừa những mặt tích cực, rút kinh nghiệm, tránh những mặt tiêu cực, hạn chế, để xây dựng những quy ước mới là cần thiết và bổ ích.

Đ.T.H.

Anh64

BIA HẬU Ở VIỆT NAM

TRẦN KIM ANH

1. Cũng như các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Hán, lệ dựng bia đá để ghi việc đã xuất hiện ở Việt Nam từ hơn 1000 năm nay. Nhưng khác với các nước trên, do những yếu tố về thời tiết khí hậu, lại luôn xảy ra chiến tranh nên người Việt dường như triệt để hơn trong việc sử dụng loại vật liệu bền vững này để lưu giữ các ghi chép của mình. Do vậy ở Việt Nam, cho đến giai đoạn đầu thế kỷ XX, đến bất cứ thôn làng nào, đặc biệt là ở đồng bằng Bắc bộ, đều có thể bắt gặp những tấm bia đá được dựng ở đình, chùa, đền, miếu, từ đường, lăng mộ, hoặc ngoài cánh đồng, bên sườn núi, trong hang động, dọc triền sông, dưới gốc đa, bên giếng nước, thậm chí trong các ngõ xóm, tư gia với kích thước và hình dáng khác nhau, tạo nên một vẻ đẹp cổ kính cho cảnh quan và toát lên một màu sắc văn hóa khá độc đáo.

Qua nội dung văn bia, có thể thấy người Việt trong thời trung đại đã khắc lên đá gần như tất cả những gì mà họ muốn lưu truyền lâu dài như: tôn vinh quảng bá tôn giáo; các sự kiện lớn về chính trị quân sự; sự ra đời của các công trình kiến trúc; thơ văn của vua chúa, danh gia khi đi công cán hoặc vãn cảnh; sự tích các vị thần; sự nghiệp của các danh nhân; lý lịch của các vương hầu công chúa; lệnh, chỉ, của vua chúa ban cho một làng hay một cá nhân; phả hệ của một dòng họ; khoán ước của một làng; giao kèo với phường hát; kết quả của những vụ kiện tập thể; công đức của một cá nhân hay một tập thể cho các công trình kiến trúc, tóm lại nội dung hết sức phong phú đa dạng, là những tư liệu có thể góp phần bổ sung những chi tiết mà chính sử không ghi, đồng thời giúp nghiên cứu khá hữu hiệu về phong tục tập quán cùng sự vận động phát triển của xã hội Việt Nam thời trung đại.

Trong toàn bộ di sản văn bia, có một một dạng bia đặc biệt nhưng lại rất phổ biến, đó là bia Hậu Thần, Hậu Phật, Hậu Hiền lâu nay vẫn được gọi chung là bia Hậu. Đây là dạng bia có tỷ lệ khá lớn, chiếm đến gần 50% số thác bản bia hiện đang lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tỷ lệ bia thời Lê ở một số huyện thuộc Kinh Bắc đã cho thấy rõ điều này: Đông Ngàn 78 bia hậu trên 166 bia các loại; Yên Phong 39/124 bia, Quế Dương 52/103 bia; Tiên Du 21/74 bia; Gia Định 47/101 bia; Gia Lâm 31/74 bia(1)… Hay như qua tỷ lệ bia ở một xã là xã Bá Dương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây), thì trong số 41 tấm bia đá lớn nhỏ, với các niên đại rải rác từ năm Cảnh Trị 3 (1665) đến cuối thế kỷ XIX đã có tới 21 bia hậu. Tuy nhiên, từ lâu nay bia hậu thường bị coi là những văn bản ít giá trị nên gần như chưa mấy được quan tâm khai thác, vì vậy trong bài viết, chúng tôi tập trung giới thiệu về loại bia này.

2. Bia hậu là sản phẩm của tục lập Hậu ở Việt Nam. Những người được lập hậu được gọi là Hậu Thần, Hậu Phật, do đó bia hậu thường mang tên Hậu thần bi ký, Hậu Phật bi ký. Vậy thế nào là Hậu Thần, Hậu Phật ? Đây là những từ gốc Hán, song các từ điển Từ nguyên, Từ hải của Trung Quèc không có từ này, Từ điển bách khoa Nho - Phật - Đạo (2) không có mục từ Hậu Thần, chỉ có mục Hậu Phật được giải thích là “Một thuật ngữ Phật giáo dùng để chỉ Phật xuất hiện ở đời sau, tức là Vị lai Phật Di lặc Bồ Tát”, nhưng cách giải thích đó không phù hợp với trường hợp hậu Phật của Việt Nam, như vậy có thể ở Trung Quèc không có hiện tượng này nên đã không có những từ ngữ tương ứng. Theo cách hiểu của người Việt thì Hậu Thần, Hậu Phật là những người có công lao hoặc có đóng góp tiền của cho làng xã, cho các cơ sở tôn giáo như đình, đền, chùa, miếu được làng xã hoặc cơ sở đó công nhận, cho khắc bia ghi công và cho được thờ phụ tại đình, đền - nơi thờ thần làng - làm Hậu Thần, hoặc tại chùa - nơi thờ Phật - làm Hậu Phật, tức là được phụng thờ sau Thần Phật. Từ ý nghĩa này mà phái sinh các dạng Hậu Thánh, Hậu Hiền - ghi công cho những người đóng góp công của cho Hội Tư văn, cho dòng họ, được phụng thờ sau Khổng Tử và các vị tiền hiền. Về sau từ “Hậu” được nhìn nhận như một danh từ chỉ người được lập Hậu, chẳng hạn trong dân gian cho đến nay vẫn dùng từ “Cụ Hậu” để gọi người được lập hậu, hoặc ngay chính bản thân các từ lập Hậu, bầu Hậu, bán Hậu, mua Hậu cũng đã phản ảnh rất rõ điều này. Do cách hiểu đó mà dẫn đến có nơi đã xuất hiện bia hậu ngõ, ghi công đức cho người bỏ tiền của giúp cho dân trong một ngõ xóm(3). Như vậy trên thực tế, bia hậu chính là một dạng kỷ công đối với những người có công đức, song bia hậu khác bia kỷ công ở chỗ, bia kỷ công chỉ thuần túy ghi công đức lưu lại cho muôn đời, chủ yếu mang giá trị tinh thần, còn bia hậu lại có tính chất thực dụng hơn, người có công không chỉ được ghi công mà còn được hưởng những quyền lợi vật chất được ghi rất cụ thể trên bia, đó là nếu họ còn sống, mỗi khi làng có cúng tế, họ hoặc những người thân (tùy theo sự thỏa thuận hoặc đồng ý của làng) sẽ được nhận phần biếu của làng theo quy định, đây là một sự danh giá đối với bất kỳ cá nhân nào khi xã hội coi trọng “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp”. Còn nếu đã mất, vào các ngày giỗ, họ (hoặc người thân) sẽ được chính nơi nhận sự đóng góp của họ làm giỗ cho, và vào các ngày tuần tiết, được phối hưởng hương khói lễ vật cùng với thần Phật. Theo tín ngưỡng của người Việt, đây cũng là một vinh hạnh cho bất kỳ ai và là điều đặc biệt may mắn đối với những người không may phải sống cô độc, hoặc không có con nối dõi.

Tục lập Hậu và danh từ Hậu Thần, Hậu Phật có lẽ được nhắc đến sớm nhất là ở sách Hồng Đức thiện chính thư, một cuốn sách mang tên niên đại Hồng Đức thời Lê (1470 - 1497), như vậy cũng có nghĩa là từ thế kỷ XV đã có tục lệ này. Song, trong số thác bản bia lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trước khi nhà Lê Trung hưng, không có bia nào mang nội dung bia hậu. Bia Hậu thần từ vũ bi ký, mang niên đại Quang Bảo nhà Mạc (1557) vào giữa thế kỷ XVI, là bia hậu được coi là có niên đại sớm nhất. Tuy nhiên, theo phân tích của Đinh Khắc Thuân thì đây lại là tấm bia được khắc lại vào cuối thời Lê(4), người có công thực sự chỉ mới được coi là Hậu Thần vào thời điểm bia được khắc lại, thực chất ban đầu đây chỉ là bia kỷ công.

Theo khảo sát của chúng tôi thì bia mang nội dung lập Hậu mới chỉ bắt đầu xuất hiện từ sau khi nhà Lê Trung hưng. Cụ thể là đến các niên đại Quang Hưng (1578-1600), Hoằng Định (1600-1619), Vĩnh Tộ (1619-1629), Đức Long (1629-1635), Dương Hòa (1635-1643) mới bắt gặp các bia hậu. Vậy nếu tục lập Hậu đã có từ thời Lê sơ thì vì sao không phát hiện được bia hậu nào ở thời kỳ này ? Khảo cứu văn bản sách Hồng Đức thiện chính thư, chúng tôi đoán định sách này được biên soạn dưới thời Mạc, sở dĩ sách mang tên niên đại Hồng Đức là bởi các pháp quan nhà Mạc đã khảo xét và căn cứ các luật lệ thời Lê sơ, chủ yếu là của thời Hồng Đức, để chuẩn định luật pháp triều Mạc. Tuy vậy sách hiện nay chỉ có các văn bản sao chép ở đời sau, nên có nhiều điều luật phải cân nhắc về độ tin cậy. Trong sách, ở mục Lệ về Hậu Thần, Hậu Phật có viết ,“Trong dân gian, người giàu thì muốn mua danh, người nghèo thì làm việc vô sỉ, chỉ mưu lợi cho mình, đã mưu đồ xúi người giàu bỏ tiền của ra làm đình, giục người nhân bỏ công đức vào dựng chùa, mà không biết báo đền công đức, chỉ cốt lừa người lấy tiền. Chẳng được bao lâu tình nhạt lễ bạc, quên cả khoán ước, thói ác nảy sinh, hoặc phế bỏ giỗ chạp không làm như đời trước; hoặc làm cỗ bàn không đúng như quy ước. Hoặc năm trước năm sau không đúng tháng; hoặc ấu làm trưởng bỏ chẳng đồng tâm. Vì vậy hễ là con cháu của Hậu Thần, Hậu Phật, nếu thấy kẻ nào làm trái thì trình ngay với nha môn để đòi lại tiền của công đức. Nếu cố tình không chịu trả thì truy thu gấp đôi không tha”, đồng thời còn dẫn lệnh của năm Hồng Đức thứ 27 (1496) như sau: “Trộm thấy dân chúng trong thiên hạ hoặc là không có tiền dựng đình chùa, hoặc không có tiền nạp công dịch, hoặc giết người mà phải đền mạng, hoặc phạm pháp phải nộp tiền phạt nhưng lại không muốn mất tiền của mình mà nghĩ cách lấy tiền của người khác dùng thay, bèn dụ dỗ lập cam đoan thề thốt để làm vừa lòng nhà có của, chẳng bao lâu sau hoặc làm cỗ bàn bôi bác, hoặc bỏ không làm giỗ chạp, thấy tình cảnh đó thật đáng thương, muốn trừng trị thói bạc, vì vậy tâu trình: Từ nay truyền cho hễ làng nào trước đây đã lập ai làm Hậu Thần, Hậu Phật thì phải thờ cúng trước sau như một, y theo cam kết. Nếu ngày trước nhận tiền mồm miệng như Thích Ca, ngày sau trả lễ bụng dạ như Đạo Chích, không làm đúng như đã cam kết, thì cho con cháu của người có tiền được tố cáo với nha môn. Nếu quan tra theo cam kết, thấy vi phạm từ 1 điều trở lên thì cho thu lại tiền công đức trước kia, trả lại đủ số cho nhà có tiền, nhà có tiền không được đòi tiền lãi, còn xã đó không được lấy cớ trước đây đã có làm lễ để trừ bớt tiền, nhằm ngăn chặn mọi gian kế”(5). Nếu những thông tin trên đủ để tin cậy thì có thể thấy tục lập Hậu từ thời Hồng Đức cho đến thời Mạc đó khá phát triển, và đó phát triển đến như vậy, hẳn tục lệ này đã được hình thành từ trước đó khá lâu. Nhưng hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: tục lập Hậu chỉ xuất hiện khi tổ chức làng xã đã ổn định và ngôi đình đã tồn tại với chức năng vừa là nơi thờ thần vừa là nơi giải quyết các công việc hành chính của làng, lệ lập Hậu ở đây là do người đời sau khi sao chép đã đưa thêm vào chứ ở thời Hồng Đức chưa thể có lệ này. Vấn đề tổ chức làng xã và ngôi đình Việt Nam hiện nay vẫn đang còn là vấn đề phải đượcc xem xét kỹ hơn, ở đây chúng tôi không dám lạm bàn. Tuy cũng đồng ý với ý kiến lệ này là do người đời sau thêm vào, nhưng chúng tôi không cho rằng thời Hồng Đức chưa có tục lập Hậu. Tục lập Hậu theo chúng tôi, xuất hiện do được gợi ý từ việc cúng dường cho nhà chùa kết hợp với hình thức gửi giỗ lên chùa. Cúng dường là những hình thức Phật tử cung tiến tiòn hương đèn gạo muối tiền của để giúp nhà chùa, đây là một hình thức phổ biến ở bất cứ nơi nào có đạo Phật. Phật giáo hưng thịnh, việc cúng dường càng phát triển, người ta thậm chí đã cúng cho nhà chùa những tài sản lớn. ở nước ta, việc dựng bia và tạc tượng ghi công đức cho những người có đóng góp lớn cho nhà chùa đã xuất hiện từ thời Lý - Trần. Có thể do ban đầu, để có nhiều phật tử bỏ tiền của ra cúng dường, một số tăng lữ đã dùng quyền lợi được hưởng sự thờ cúng lâu dài sau khi đã về thế giới bên kia - một điều rất phù hợp với tâm lý và tín ngưỡng của người Á Đông - để khuyến khích họ, nên từ đó mà Hậu Phật ra đời. Về sau nhận thấy hiệu quả của hình thức này mà một số làng xã đã sử dụng để bày tỏ sự đền ơn của dân làng đối với những người có công lao hoặc có bỏ tiền của đóng góp vào việc xây dựng đình đền - nơi thờ thần - do đó đã xuất hiện Hậu Thần, Hậu Hiền lại xuất hiện muộn hơn nữa, chỉ khi các Hội Tư văn được phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVII - XVIII thì Hậu Hiền mới ra đời. Do rất phù hợp với tâm lý và thực tiễn xã hội nên hình thức này được sử dụng khá phổ biến và lâu dài, diễn biến thành tục lệ, nhiều làng đưa hẳn vào hương ước. Đặc biệt từ khi nhà Lê Trung hưng trở về sau, xã hội tương đối ổn định, sự phát triển mạnh về kinh tế ở khu vực kinh đô Thăng Long và Tứ trấn cùng sự ra đời của một số thương cảng lớn đã phần nào thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, tư tưởng thực dụng bắt đầu chi phối các quan hệ xã hội khiến cho hình thức này càng có đất phát triển, tới mức trở thành mặt hàng để đổi trao mua bán giữa những người có tiền và nơi cần tiền. Tức là từ chỗ người ta bầu Hậu đối với những người có công đức mà sau đó đã dẫn đến bán Hậu, mua Hậu đối với những người có tiền. Như trên đã dẫn, do có những làng hoặc những cơ sở tôn giáo cần kinh phí nên đã gợi ý, vận động những người có tiền của mua Hậu, tức là mua phần biếu của làng khi Hậu còn sống và sự thờ cúng của làng khi Hậu qua đời bằng một khoản tiền bạc hoặc ruộng đất nhất định do làng định ra. Dần dần nhận thấy lợi ích của việc bán Hậu mua Hậu, nên nhiều làng mỗi khi có việc cần kinh phí đã thường định ra mức bán Hậu và nhiều người không có nơi nương tựa, muốn được nương bóng thần phật, nhiều vị con cháu họ hàng muốn ông bà cha mẹ hoặc người thân được hưởng sự thờ cúng lâu dài đã sẵn lòng mua, trở thành một biện pháp thu hút kinh phí rất hữu hiệu. Tuy nhiên, tục lệ này đã gây ra không ít phiền phức bởi những vụ kiện cáo do có làng bỏ bê việc cúng hậu hay những vụ tranh chấp về ruộng Hậu khiến nhà nước phải nhiều lần ban hành các điều lệnh liên quan đến việc lập Hậu.

Lệ gửi giỗ lên chùa nảy sinh từ nhu cầu mong muốn cho bản thân hoặc người thân không có người nối dõi được hưởng sự thờ cúng sau khi qua đời. Đây có thể là sự kết hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo với tục thờ cúng người thân sau khi chết của người Nho giáo, thể hiện một nét bản địa hóa của Phật giáo. Bia Diên Khánh tự bi tạo năm Hồng Đức 10 (1479) cho biết: “Niên hiệu Thiệu Long thứ 3 nhà Trần, ông bà họ Dương đã cúng ruộng vào chùa để gửi giỗ”. Như vậy ở nước ta tục gửi giỗ từ đời Trần đã thấy xuất hiện. Tuy nhiên bia gửi giỗ (thường mang tên Ký kỵ bi ký), cũng chỉ thấy xuất hiện từ thời Lê trở về sau, song song tồn tại cùng bia hậu. Nhiều ý kiến cho rằng đây cũng là một dạng của bia hậu, xong xét kỹ nội dung văn bia, có thể thấy hình thức gửi giỗ và hình thức lập Hậu khác biệt nhau ở chỗ, thân chủ gửi tiền hoặc ruộng để nhà chùa sử dụng số tiền của đó làm giỗ lâu dài cho thân nhân họ, hoặc chính bản thân họ sau khi qua đời, chứ không đóng góp tiền của để làm công đức, họ không được tôn bầu là Hậu và chỉ được nhà chùa theo đúng ngày giỗ làm giỗ cho chứ không được hưởng các quyền lợi khác như Hậu, do đó loại bia này không thể được coi là bia hậu. Ở thời Lê hình thức gửi giỗ dường như không mấy phổ biến nên dạng bia ký kỵ rất ít so với bia hậu, ngược lại vào thời Nguyễn bia ký kỵ lại rất phát triển. Đây là một vấn đề tâm lý xã hội khi tiến hành nghiên cứu sẽ phát hiện được nhiều khác biệt lý thú về tình hình xã hội giữa thời Lê và thời Nguyễn. Xin được trở lại với vấn đề nêu ra ở trên, vậy nếu tục lập Hậu đã ra đời ít nhất là từ thời Lê sơ thì vì sao hiện nay không phát hiện được bia hậu nào của thời kỳ này ? Theo chúng tôi, ở thời Lê sơ, do điều kiện kinh tế, trong dân gian, việc dựng một tấm bia không mấy dễ dàng và phổ biến như sau này, hơn nữa dưới thời Lê Thánh Tông, quy định về việc sử dụng các văn bản hành chính như khế ước, chúc thư… được ban hành và sử dụng phổ biến, cho nên ở thời kỳ này, thuận lợi hơn cả là sử dụng văn khế viết tay để lập các bản giao kèo về lệ cúng Hậu. Về sau do thường bị lật lọng, hoặc qua binh hỏa dễ bị mất mát nên để làm yên lòng những người được lập Hậu, người ta đã xử dụng loại vật liệu bền vững là bia đá để lưu giữ được lâu dài bản giao kèo. Do đó có lẽ phải đến sau khi nhà Lê Trung hưng, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI, khi xã hội tương đối ổn định, kinh tế phát triển hơn, các công trình kiến trúc tôn giáo cũng như dân dụng được xây dựng nhiều, việc dựng bia đá đã trở nên phổ biến và dễ dàng nên lệ lập Hậu kèm theo dựng bia mới thực sự phát triển. Như vậy trên thực tế, bia hậu xuất hiện khá muộn sau khi tục lập Hậu đã phát triển và nó chính là bản giao kèo bằng đá thay thế các văn bản viết trên giấy của làng, hoặc của các cơ sở tôn giáo được nhận sự đóng góp đối với người được lập Hậu.

Tuy có những mặt trái từng bị lên án, song tục lập Hậu chắc hẳn đã giải quyết được nhiều vấn đề cả về vật chất lẫn tinh thần trong đời sống cộng đồng cũng như đối với một số cá nhân, vì vậy nó đã tồn tại qua nhiều thế kỷ và đã để lại một số lượng lớn các văn bia phản ánh tập tục này, qua đó phản ảnh được rất nhiều vấn đề về đời sống xã hội của Việt Nam ngót 4 thế kỷ.

3. Bia hậu bắt đầu thấy xuất hiện vào niên đại Quang Hưng, song đến niên đại Chính Hòa (1680-1705) thì dường như có sự bùng nổ, bia mang tên niên đại này khá nhiều và đạt đến đỉnh cao về sự phong phú của nội dung và mĩ thuật của hình thức. Tiếp các triều đại sau, tuy thời nhiều thời ít, song chưa thấy niên đại nào vắng bóng bia hậu. Cho đến niên đại Cảnh Hưng thì lại như có sự bùng phát, bia hậu thời kỳ này khá nhiều và cũng rất đẹp, tuy không đa dạng như bia thời Chính Hòa. Cứ thế tiếp tục sang triều Nguyễn, lúc thăng lúc trầm, bia hậu xuất hiện kéo dài qua các triều đại, đến tận khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tức là sau năm 1945, thậm chí cho đến những năm 1946, 1947, 1953, 1958 vẫn bắt gặp các bia hậu.

Về phân bố, có thể thấy bia hậu xuất hiện ở hầu khắp các tỉnh từ miền Trung trở ra Bắc, song tập trung chủ yếu ở các làng xã thuộc đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt là khu vực kinh đô Thăng Long và Tứ trấn - nếu nhìn theo địa lý hành chính thời Lê. Cụ thể theo địa lý hành chính hiện nay thì bia hậu có tỷ lệ rất cao ở các tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Về hình thức, bia hậu thường có kích thước khiêm tốn, ít có bia quá lớn. Bia lớn hay nhỏ, đẹp hay xấu phụ thuộc vào ngôi vị trong xã hội của người được lập Hậu và số tiền của do người đó bỏ ra. Do đó về mặt hình thức, bia hậu là dạng bia hết sức đa dạng phong phú về kích thước và trang trí, đặc biệt là bia thời Lê.

So sánh các bia hậu thời Lê với thời Nguyễn có thể thấy khá rõ sự khác biệt giữa hai thời kỳ. Bia thời Lê được làm khá cẩn thận, có nhiều bia hai mặt cỡ lớn, nhiều bia trụ bốn mặt với mái che hình chóp có các đường gờ hoa lá uốn lượn công phu, ngoài ra còn có một loại bia đặc biệt là bia tượng. Bia tượng là loại bia có mặt trước tạc chân dung Hậu, mặt sau mài phẳng để khắc văn bia. Nhìn chung bia thời Lê khá được chú trọng về mặt trang trí. Có lẽ ở loại hình bia này, do được phát triển dưới thời Lê - Trịnh, các quy định cấm kỵ đối với ngôi vị đã được nới lỏng hơn, cho nên thợ chạm khắc được tự do hơn. Hơn nữa bia hậu phần lớn là sản phẩm dân gian không mang tính chất quan phương nên không chịu ảnh hưởng của các cấm kỵ, do đó các chạm khắc trên bia rất đa dạng. Từ môtip rồng chầu, phượng chầu mặt nguyệt, mây tua… trên trán bia, với diềm bia chạm dơi, cuốn thư nghiên bút, hoa văn kỷ hà và chân bia chạm đài sen sóng nước, nghê, sư tử… rất chuẩn mực, cho đến các trang trí phá cách mang đậm tính dân gian như hình các loài động vật, ngựa, chim, cò, chó, tôm, cua, cá, chuồn chuồn, ếch…, các loại thực vật như sen, cúc, mai, tùng, trúc, khoai nước…với nét chạm khắc điêu luyện tinh tế, rất sống động. Đặc biệt loại bia tượng đã tạc lại được hình ảnh của bản thân Hậu Thần, Hậu Phật khá chân thực.

Chữ khắc trên bia thời Lê thường có nét khắc sâu, chữ chân, cũng có những bia khắc dạng chữ nửa chân nửa thảo, tuy khắc trên đá nhưng nét chữ mềm mại và rất nghệ thuật. Nhiều bia đẹp như một bức thư pháp.

Văn bia hậu đời Lê thường được viết bài bản, nhiều bia do các Tiến sĩ, quan lại, Nho sinh, các nhà sư và những trí thức có uy tín ở địa phương viết. Một bài văn bia hậu thường có bố cục như sau: mặt trước hoặc phần trên khắc bài ký chữ Hán cho biết về nhân vật được lập Hậu, lý do bầu Hậu, mua Hậu. Bài ký thường không quá dài nhưng chữ nghĩa chuẩn mực. Sau bài ký đôi khi có bài minh ca ngợi công đức của Hậu. Mặt sau bia hoặc phần dưới là phần thể lệ cúng Hậu, tức là quyền lợi được hưởng của người được lập Hậu, kèm theo lời thề sẽ thực hiện đúng quy ước của dân làng hoặc của những người có trách nhiệm trong làng. Sau cùng là phần ghi về vị trí ruộng vườn ao hồ do Hậu cung tiến. Niên đại dựng bia thường được ghi bằng chữ lớn và rõ ràng. Đương nhiên cuối cùng thường có phần lạc khoản ghi rõ tên họ chức tước người soạn văn bia, người viết chữ và người khắc.

Các nhân vật được lập Hậu ở thời Lê bao gồm nhiều thành phần nhưng bắt gặp trong đó khá nhiều người là hoàng thân quốc thích, quan lại tướng lĩnh của triều đình, các Thái giám, cung tần, nhũ mẫu, nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp trên.

Ở thời Nguyễn, về số lượng, bia hậu vẫn khá nhiều nhưng nội dung cũng như hình thức đã giảm sút so với thời Lê. Tuy vẫn có những bia được làm công phu, song nhìn chung bia thời kỳ này trang trí đơn điệu, chạm khắc sơ sài, nhiều bia hoàn toàn không có trang trí. Kích thước nhỏ, chữ khắc nông, cẩu thả. Văn bia phần lớn do các nho sĩ bình dân viết. Nội dung bài ký sơ sài, phần lạc khoản thường bị bỏ qua. ở thời Nguyễn rất ít Hậu là những nhân vật sang trọng, quý tộc, thường chỉ là những người buôn bán, phú nông, chức sắc trong làng xã, người vô tự, cô độc… là những nhân vật rất bình dân, chỉ có những đóng góp nhỏ.

Về nội dung, bia hậu ghi chép khá nhiều và khá chi tiết về những hoạt động xung quanh tục lập Hậu. Trước hết bia hậu ghi chép cẩn thận các khoản tiền của do Hậu bỏ ra, qua đó có thể thấy lực lượng Hậu đã đóng góp tiền của cho làng xã hoặc đình chùa bản địa khá đáng kể. Có người cúng đến hàng mẫu ruộng, ao, toàn bộ nhà cửa đất đai, hàng trăm quan tiền, toàn bộ số gỗ lim đủ để dựng đình làng… Bia Hậu thần bi ký, tạo năm Vĩnh Thịnh 11 (1715) cho biết Đô thái giám Ngô Quán Luân cúng 62 cây gỗ lim và 115 quan tiền, 2 mẫu ruộng cho xã Đạo Tú (nay thuộc huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Tây) làm đình. Hay Bia Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 23 (1702) cho biết: Chánh đội trưởng Nguyễn Công Nhậm, bỏ tiền giúp dân xã Ngô Khê (nay thuộc huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh) dựng một ngôi đình bằng gỗ lim, lại cấp 3 mẫu ruộng để dùng vào việc đèn hương. Bia Hậu Phật bi minh tạo năm Cảnh Trị 6 (1668) chép: Cung tần Nguyễn Thị Ngọc Hiểu cúng cho xã Như Ký (nay thuộc huyện Mỹ Văn tỉnh Hưng Yên) 70 dật bạc để sửa chùa. Bia Hậu thần bi ký tạo năm Dương Hòa 6 (1640) chép: bà Nguyễn Thị Nhị không có con đã bỏ tiền mua 3 mẫu 3 sào ruộng và 1 sào ao cúng cho làng Vĩnh Xuyên (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng) để được làm hậu thần.

Những khó khăn của làng nhờ sự đóng góp của những người được lập Hậu mà được giải quyết, cũng được chép rõ. Bia Sáng lập hậu thần bi ở xã Sơn Dương huyện Võ Giàng (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) cho biết: do xã có việc phải kiện cáo tốn kém, vợ chồng Trùm trưởng Nguyễn Hữu Luân bỏ 80 quan tiền và 1 mẫu đất giúp làng theo kiện; bia Hậu thần bi ký tạo năm Phúc Thái 2 (1727) cho biết xã không đủ tiền đóng quan dịch, ông bà Hoàng Công Quyền bỏ ra 150 quan nộp giúp; bia Đới đức bi ký tạo năm Bảo Thái 9 (1728) chép: năm Quý Tỵ mưa dầm liên miên nên đói kém, ông Trần Đình Ngọc giúp dân 500 quan tiền, 900 bát thóc để cứu đói Nhiều người chỉ do có công lao không có đóng góp vật chất cụ thể, cũng được tôn bầu, như bia Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 27 (1776) chép: Thuyên Trung hầu Nguyễn Thái Lai là người nhân đức, quan trước thường hay nhũng nhiễu hạch sách dân, nay ông về làm quan đã cho giảm nhẹ thuế khóa, thương yêu quan tâm đến dân, dân biết ơn nên tôn bầu cha mẹ ông làm hậu thần; bia Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 26 (1766) chép: Vinh Thọ bá họ Nguyễn, kế nối nghiệp nhà, canh tân thế nghiệp, khiến đất hoang sinh lợi, hợp với lòng người, được làng bầu làm Hậu Thần.

Thể lệ cúng tõ Hậu được ghi trên bia khá cẩn thận. Bia Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Trị 9 ghi lễ cúng Hậu Thần vào ngày giỗ là: 1 mâm xôi, 1 nọng lợn và 2 vò rượu cùng trầu cau, hương, vàng mã; bia Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 30 (1769) đặt tại đình xã Hùng Thắng huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang ghi quy định lễ biếu Hậu Thần vào dịp tuần tiết là: 2 đôi gà, 2 vò rượu, 2 mâm xôi, 2 phong trầu. Bia Lê quý hậu thần bi tạo năm Chính Hòa 17 (1696) ở xã La Phẩm (Sơn Tây) giao ước, hàng năm vào các lễ tiết phải dâng trước bia hậu một mâm cỗ gồm 1 thủ lợn, 1 vò rượu, 6 đấu gạo xôi, 1 đôi gà giá 3 mạch. Có bia khắc cả văn tế Hậu.

Tiền bạc do Hậu cung tiến thường được ghi rõ là loại tiền gì, cổ tiền hay sử tiền, đồng tiền hay thanh tiền, số lượng là bao nhiêu. Ruộng đất ao vườn do hậu cúng cho làng cũng được ghi chú cẩn thận về vị trí, số mẫu sào thước tấc.

Bia hậu còn cho biết những người Hoa sinh sống tại Việt Nam cũng được đặt bầu Hậu như người Việt. Bia Tự sự bi ký tạo năm Cảnh Trị 9 (1671) ở xã Gia Quất, huyện Gia Lâm (Hà Nội) chép: ông họ Trần người Minh (Trung Quèc), sống hào phóng quân tử, lấy vợ người làng, do làng có 12 mẫu 5 sào quan điền vì có việc cần phải bán, ông đã bỏ ra 12 dật bạc giúp làng chuộc lại nên được bầu làm Hậu Thần. Bia Hậu thần bi ký tạo năm Gia Long Kỷ Tỵ (1809) cho biết: Trưởng nữ Trình Thái Vinh là con gái Trình công người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), cúng cho xã 150 quan tiền và 3 mẫu ruộng để tu tạo đền thần của xã, dân xã đồng lòng tôn bầu cha mẹ bà làm Hậu Thần.

4. Bia hậu nếu chỉ nhìn từng cá thể thì quả là nội dung không có gì nhiều, song nếu nghiên cứu chúng trong một hệ thống, trong từng khu vực hành chính và trong những giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ cho những thông tin có giá trị. Ngoài việc phản ánh tập tục lập Hậu và tác động của nó đối xã hội, qua bia hậu còn có thể tìm hiểu được tình hình chính trị kinh tế văn hóa trong những giai đoạn nhất định. Chẳng hạn, sự xuất hiện không đều và hình thức đẹp xấu lớn nhỏ của bia hậu qua tõng niên đại đã phản ảnh khá rõ nét tình hình kinh tế của từng thời kỳ. Sự ra đời của các công trình kiến trúc với kinh phí khá lớn do Hậu đóng góp cùng sự phong phú về trang trí trên bia hậu thời Lê cho thấy sau khi nhà Lê Trung hưng, với sự tham chính của chúa Trịnh, xã hội Việt Nam đã dần ổn định, phần nào cởi mở hơn, ít bị câu nệ bởi lễ nghi hơn nên đã có những bước phát triển mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa. Đặc biệt phong cách trang trí dân gian mang đậm hơi thở đồng quê trên bia hậu thời Lê, nhất là ở thời Chính Hòa (1680-1705), nếu kết hợp với các tư liệu về điêu khắc đình chùa, tranh dân gian, sẽ cho một cái nhìn khá đầy đủ về một thời kỳ hưng thịnh của nông thôn Việt Nam.

Bia hậu phản ánh việc nhiều đình làng được xây dựng và các cuộc họp làng - chủ yếu là hội đồng sắc mục - tổ chức tại đình làng để quyết định việc lập hậu và thể lệ cúng hậu phần nào cho thấy, từ sau khi nhà Lê Trung hưng, tổ chức làng xã đã khá ổn định, ngôi đình làng đã thực sự trở thành trung tâm tín ngưỡng, hành chính của một làng, là biểu tượng quyền lực của làng.

Thông thường Hậu Thần và Hậu Hiền thường là nam giới, phụ nữ đa số được lập Hậu ở chùa - là Hậu Phật. Hiện tượng bia hậu phật nhiều hơn bia hậu thần cho thấy thường là phụ nữ đóng góp cho ngôi chùa làng và đóng góp cho chùa thường nhỏ hơn rất nhiều so với đóng góp cho đình, đã khẳng định thêm, song song với Nho giáo, Phật giáo từ thời Lê trở về sau vẫn phát triển nhưng đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu, lùi về các làng xã, tồn tại ở trình độ thấp hơn, với quy mô nhỏ hơn, mang tính chất phổ thông và bình dân hơn.

Cũng như vậy qua những phản ánh trên bia hậu, có thể đánh giá được phần nào sự xuống dốc dần của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn.

Ngoài ra, bia hậu còn phản ảnh rất nhiều vấn đề khác của đời sống xã hội, chẳng hạn quy định về lễ phẩm cúng Hậu, giá cả của lễ vật, loại tiền, ruộng đất cùng số ruộng đất ghi trên bia cho biết phần nào tình hình kinh tế, tình hình tiền tệ, giá trị đồng tiền, và vấn đề sở hữu ruộng đất trong từng giai đoạn lịch sử. Mức độ cung tiến của Hậu cũng cho thấy phần nào sự chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp khác nhau, và giữa các vùng khác nhau trong xã hội.

Bia hậu còn cho biết tục bầu Hậu đã giải quyết được nhiều vấn đề về công ích ở phạm vi làng xã, nhiều đình, chùa, cầu, quán, là những công trình công cộng quan trọng ở nông thôn, nhờ đóng góp của Hậu đã được xây dựng, sửa chữa. Nhiều vấn đề xã hội như cứu đói, thuế má, kiện tụng được giải quyết. Đối với nền kinh tế tiểu nông, tài chính manh mún, đây thực sự là một biện pháp thu hút kinh phí hữu hiệu.

Bia hậu phật nhiều hơn bia hậu thần, đồng thời việc phụ nữ chiếm đa số trong lực lượng Hậu cho thấy người phụ nữ Việt Nam khá chủ động trong kinh tế gia đình, là một lực lượng quan trọng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đồng thời cũng là những người rất giàu lòng nhân ái.

Văn bia hậu, nhất là ở thời Lê, nhiều bài được các Tiến sĩ hoặc những nhân vật nổi tiếng về chữ nghĩa viết nên có những bài tuy nhằm ca tụng công đức của Hậu nhưng lại kiêm miêu tả hình thế núi sông thắng cảnh, kiến trúc chùa chiền miếu vũ, với lối viết khá kỹ càng chau chuốt, nếu nhìn từ góc độ văn học cũng có những giá trị nhất định. Tuy vậy điều đáng chú ý hơn đối với văn bia hậu lại ở chỗ, phần lớn văn bia hậu được các nho sĩ bình dân viết, nhiều người trong số họ có trình độ chữ Hán rất sơ sài, khi viết văn họ thường pha tạp giữa ngữ pháp tiếng Hán với ngữ pháp tiếng Việt, tạo ra một văn phạm rất riêng, rất dễ hiểu đối với tầng lớp bình dân. Trong quá trình phát triển của tiếng Việt, đây cũng là một trong những yếu tố góp phần làm phong phú cấu trúc câu của tiếng Việt, đồng thời góp phần thúc đẩy sự lưu truyền rộng rãi của chữ Hán trong tầng lớp bình dân. Ngoài ra, rất nhiều từ Hán Việt qua con đường này đã đi vào ngôn ngữ bình dân, góp phần làm phong phú thêm cho tiếng Việt

Các vấn đề về sự thay đổi địa danh, quan chức, chữ húy, về ngôn ngữ văn tự qua các thời kỳ, đặc biệt về sự phát triển và hoàn thiện của chữ Nôm cũng phần nào được phản ảnh trên bia hậu.

Tóm lại, tục lập Hậu là một tập tục độc đáo ở Việt Nam, tập tục này đã sản sinh ra một sản phẩm độc đáo đó là loại hình bia hậu. Với đặc điểm là dạng văn bản ổn định (khắc trên đá) và nội dung gắn liền với hoạt động xã hội, bia hậu là những chứng cứ lịch sử hết sức cụ thể và sinh động về đời sống xã hội ngót bốn thế kỷ tồn tại của nó, do vậy những thông tin từ bia hậu khá chi tiết và đáng tin cậy. Hy vọng rằng loại hình tư liệu này sẽ được quan tâm khai thác một cách có hệ thống để phần nào giúp hoàn thiện hơn nguồn tư liệu về lịch sử và văn hóa của hai triều đại Lê và Nguyễn.

T.K.A.

CHÚ THÍCH:

(1) Văn bia thời Lê xứ kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã. Phạm Thị Thùy Vinh. Nxb. Văn hóa thông tin, Viện Cao học thực hành, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn đông Bác cổ - đồng xuất bản. H. 2003.

(2) Từ điển Nho Phật Đạo. Lão Tử - Thịnh Lê chủ biên. Nhóm Mai Xuân Hải dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc. Nxb. Văn học. H. 2001.

(3) Bia Hậu ngõ bi ký, mang niên đại Cảnh Hưng 37 (1776) tại thôn Thị, xã Yên Thường, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.

(4) Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc. Nxb. KHXH, H. 1996.

(5) Hồng Đức thiện chính thư. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ký hiệu A330.

TB

SÁCH ĐƯỜNG THI TUYỆT CÚ DIỄN CA

TRẦN XUÂN NGỌC LAN

Tiếp theo cuốn Phát hiện mới về Hồ Xuân Hương (2), vào cuối năm 2003, GS. Nhan Bảo lại cho ra mắt bạn đọc cuốn Đường thi tuyệt cú diễn ca.

Sách gồm 52 bài thơ Đường. Mỗi bài thơ được trình bày theo năm nội dung sau: (1) Thơ Đường viết bằng chữ Hán; (2) Phiên âm Hán - Việt; (3) Dịch Nôm thơ Đường; (4) Phiên âm; (5) Chú thích. Ngoài ra sách còn có phần phụ lục in kèm bản Hán Nôm gốc do Viện Viễn đông Bác cổ sưu tầm hiện lưu trữ tại Thư viện Paris (Pháp).

Phần dịch Nôm thơ Đường, do một thi nhân Việt Nam vô danh sống trong khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX tuyển chọn và dịch ra tiếng Việt viết bằng chữ Nôm. Trong 56 bài thơ được tuyển chọn có những bài rất quen thuộc với người Việt Nam như Lương Châu từ, Hoàng Hạc lâu, Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Phong Kiều dạ bạc, Vô đề v.v. Trong số những nhà thơ được tuyển chọn có: Lý Bạch, Vương Duy, Vương Hàn, Lý ích, Trương Kế, Lưu Đình Kỳ, Vương Xương Linh, Đỗ Phủ, Trương Thuyết v.v. Có thể nói đây là bản dịch Nôm được phát hiện lần đầu tiên ở Việt Nam.

Chữ Nôm trong bản dịch này không giống loại chữ Nôm trong Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa mà gần với Đại Nam quốc ngữ diễn ca, Hoa Tiên ký, Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca.

Nhiều chữ Nôm trước đây viết theo kiểu giả tá, được thay bằng chữ hình thanh loại 2. Ví dụ: đêm, lên, xưa, ngồi, lạ, ra, người v.v.

Phần phiên âm Quốc ngữ do GS. Nhan Bảo thực hiện. Ông đã bỏ nhiều công sức giúp chúng ta giải mã một bản Nôm khó, có giá trị. Chúng ta có thể đối chiếu với bản Nôm ở phần phụ lục kiểm tra lại bản phiên âm này, để thấy đây là bản phiên âm rất chính xác, đáng tin cậy đối với độc giả và các nhà nghiên cứu.

Phần chú thích cũng rất công phu, ngoài việc cung cấp kiến thức lịch sử, văn học của giai đoạn đời Đường - Tống, trong đó còn có khá nhiều chú thích dẫn cả thơ Đường do Trần Trọng Kim dịch. Điều này giúp độc giả có điều kiện để so sánh đối chiếu phần bản Nôm mới phát hiện này với bản dịch Quốc ngữ của Trần Trọng Kim.

Ví dụ bài: LƯƠNG CHÂU TỪ

- Bản dịch Nôm Đường thi mới phát hiện:

玻 璃

沙 場 我 渚
戰 地 埃 鄧 衛

- Bản dịch chữ Quốc ngữ của GS. Nhan Bảo:

Rượu đào với chén pha lê,
Ngập ngừng hầu uống đàn kề bên tai.
Sa trường say ngã chớ cười,
Xưa nay chiến địa mấy ai đặng về.

-Bản dịch chữ Quốc ngữ của Trần Trọng Kim:

Rượu nho kèm chén Lưu Ly
Uống thì trên ngựa tiếng thì dục sôi
Say mèm bãi cát chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai đã về.

Chúng tôi tin rằng việc xuất bản tập thơ này sẽ giúp độc giả Việt Nam nhất là độc giả yêu thơ Đường có thêm một tài liệu để tìm hiểu trình độ dịch thơ Đường của các bậc tiền bối Việt Nam, thêm một tài liệu để tìm hiểu chữ Nôm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX. Và có thêm một tài liệu để tìm hiểu thơ ca cổ đại Trung Quốc nói chung và Đường thi nói riêng.

T.X.N.L

CHÚ THÍCH:

(1) Đường thi tuyệt cú diễn ca. Nxb. Tổng hợp Tp. HCM, tháng 12/2003.

(2) Phát hiện mới về Hồ Xuân Hương. Nxb. KHXH, H. 1999.

TB

HAI BÀI CHÂM UỐNG TRÀ Ở
CHÙA MỘT CỘT

LÊ QUỐC VIỆT

Nhân xem Thông báo Hán Nôm học 2002, đến bài Chùa Một Cột và hai bài châm về uống trà của tác giả Đinh Công Vĩ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), thấy có đôi chỗ chưa ổn, nên xin mạo muội cải chính và cung cấp thêm tư liệu.

Minh văn treo ở xà ngang thượng điện chùa Một Cột không phải là hai bài Châm, nội dung tuy có nói đến trà (và thang) nhưng không hẳn “phản ánh vấn đề uống trà thời xưa” để rồi từ đó “có thể góp phần hiểu nền văn hóa ẩm thực thời xưa gắn với Phật giáo, làm cho ngôi chùa này thêm thanh tao và càng tỏ rõ người Hà Thành thanh lịch” như tác giả nêu trong bài viết. Đơn thuần chỉ là hai bài văn Cử tán với nội dung Hiến cúng theo thể tứ lục, biền ngẫu. Là một phần của khoa cúng khóa lễ đàn Thượng, Thiền lưu và Đạo lưu khi hành lễ thường tán 6 bài Hiến cúng tương ứng cho 6 lễ vật dâng cúng khác nhau nên gọi là Lục cúng(1), gồm: cử tán Hương (nhang), Hoa (hoa), Đăng (đèn), Trà (trà)(2), Quả (trái), Thực (món ăn chay tịnh) Thực thường được thay bằng Dược (thuốc)(3), Dược sau khi đun sắc thì chính là Thang. Hình thức thể hiện trên chất liệu bảng gỗ phủ sơn nên gọi là hai tấm Bảng văn, vì gắn đến trà và thang nên gọi là Bảng trà, Bảng thang. Nhân đây cũng xin lưu ý phân biệt rõ giữa bức châm bảng. Bảng trà, thang thường thường đi với Bảng giám môn, Bảng giám đàn Bảng cô hồn (4) liên đới với các khóa cúng trong Thủy lục chư khoa (5) như Mông Sơn, Du già, Phát tấu, Phá ngục, Giải oan, Cắt kết, Thập cúng … và bộ Hành trì nêu dưới.

Hai bài văn này thấy trong Thích thi Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương (gọi tắt là Hành trì, AC.225, A.2838, VHv.1096, VHv.1097 lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và tham khảo thêm các truyền bản cổ hơn năm 1918 hiện lưu trong các Tổ đình) vốn là một bộ khoa cúng thuộc vào loại “giáo ngoại biệt truyền” và “vô sư bất truyền” do Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang diệu soạn. Đây là cuốn sách mà học giới nước nhà lãng tâm chưa nghiên cứu và không giám chắc khẳng định là tác phẩm của Huyền Quang vì nhiều vấn đề, trong đó có hai bài Tán trên.

Vừa có điểm tương đồng với bài cử tán trong Thập cúng nghi thuộc Thủy lục chư khoa xuất hiện sau này, bài cử tán trong tác phẩm của Huyền Quang vừa có ý vị phảng phất lời thoại trong Thiền án của Triệu Châu. Thú vị hơn nữa khi dưới mỗi bài cử tán có thêm một bài Canh(6) hát nối theo thể thơ 4 câu 7 chữ, nói rõ trà, thang gồm những vị gì ? Trà và Thang giành cúng cho ai ? Vì không có kiến thức về Đông y nên hiện vẫn chưa rõ công hiệu những thảo dược được sắc đun trong trà và thang như thế nào ?

Do bài của Đinh tiên sinh trong Thông báo Hán Nôm học có một số chỗ dịch chưa ổn; nên chúng tôi phiên âm, ngắt câu và dịch lại như sau:

Bài 1:

Phiên âm:

Phù ! Trà vị giả, lộ tẩy ngọc nha, tiên xuân thám trích; tuyết minh kim niễn, phá ngọ thục tiễn. Thiên ngoại phi lai long bồi hương; nhân gian chiến thoái ma vương trận. Hưu khoa lư uyển, hảo nhận Triệu Châu.

Kim tắc:

Khải nhân thiên đạo tràng; kiến Thánh hiền pháp hội. Thiệt tế ba phiên hà hải; đỉnh môn nhãn chiếu càn khôn. Địch khiêu phiên lư khán thủ bán không phi tuyết; đương diên cử thác tự nhiên lưỡng dịch sinh phong.

Cẩn bạch.

Tạm dịch:

Ôi ! vị trà ấy, (do) móc rửa mầm ngọc, ngày xuân sớm hái; (hưng) tuyết rạng âu vang, (vừa tan) giấc ngọ (thì) đun xong. Hương ngoài trời bay tới hơi Long bồi(7); trận nhân gian đánh đuổi lũ Ma vương. Đừng khoe lò sắc ấm đun, biết tỏ Triệu Châu cổ Phật(8).

Nên nay:

Mở đạo tràng (cứu độ) trời người; dựng pháp hội (cung thỉnh) thánh hiền. Đầu lưỡi sóng lật biển sông(9); trên trán mắt soi trời đất(10). Múa quạt than lò, ngước xem tuyết phất lưng trời; giữa tiệc dốc bầu, nghiễm nhiên gió sinh đôi cánh.

Kính tâu.

Bài 2:

Phiên âm:

Phù ! Thang vị giả, phong giá phân cam ngạnh hướng thiệt đầu tha quá; căn trần thấu triệt thùy tằng tị khổng tiên tham. Đoạt Tô ma, Ba lị chi trân; thắng Cam lộ, Đề hồ chi diệu.

Kim tắc:

Khai Vô già chi pháp hội, vận Bất động chi đạo tràng. Thánh phàm thiệt tế tri âm, nhân thiên đỉnh môn cụ nhãn. Hư tâm uyển phụng nga nhi tửu; triết cước xanh phanh phượng tuỷ tương. Thiên thánh đài my, nhất thời khể thủ.

Cẩn bạch.

Tạm dịch:

Ôi ! Vị thang này, (do) đàn ong (chỉ lối), lõi mía ngọt kia đầu lưỡi nếm qua; cội trần hương thơm nức, mũi ai từng biết mà ngửi chơi. (Vị của thang này) vượt xa hương thơm quý của hoa Tô ma(11), Ba lị(12), hơn cả vị ngọt vi diệu của nước Cam lộ(13), sữa Đề hồ(14).

Nên nay:

Mở pháp hội Vô già(15), dựng đạo tràng vững vàng. (Dâng cúng vị thang này để) bậc Thánh, phàm đưa lưỡi liền biết mùi vị, cõi trời người trong đầu sáng mở con mắt trí tuệ. Chén rỗng lòng dâng lên rượu ngọt Nga nhi, chõ chân quỳ sắc đun nước tủy Phượng hoàng. Ngang mày dâng lên ngàn vị Thánh, (Đệ tử con nay) cùng thời cúi lạy.

Kính tâu.

L.Q.V.

CHÚ THÍCH:

1. Lục cúng: nghi lễ Phật giáo thời cổ, bắt nguồn từ A Di Đà kinh khi miêu tả cảnh giới cõi Tây phương cực lạc của Phật Di Đà, có chim Ca lăng tần già (đầu người mình chim) tấu nhạc và dâng đồ lục cúng mỗi khi Phật thuyết pháp. Xem Khoa Mông Sơn thí thực trong Thủy lục chư khoa và các hệ thống ván nong chạm khắc minh họa cho Lục cúng ở chùa Thái Lạc (Hưng Yên).

2. Lục cúng trong đàn Mông Sơn thay Trà ( ) bằng Trà ( ), một nghi lễ gắn đến việc thoa hương thơm hoặc dát vàng lên mình tượng Phật.

3. Khóa lễ thuộc đàn Mông Sơn hoặc tiền Phát Tấu hậu Mông Sơn, vị Pháp sư khi cúng đồ nào thường chạy đàn theo chữ đó. Đa phần đến chữ Thực, Pháp sư thường chạy đàn theo chữ Dược.

4. Khoa lễ đàn Thượng đầu tiên cúng nghinh sư duyệt đinh, tịnh trù cấp thủy, rồi đến phát tấu, tiếp linh, thỉnh Phật, triệu linh, tam phủ đối khám, cắt đoạn thông hành, giải oan cắt kết, kỳ an bố thí chẩn tế cô hồn. Bắt buộc phải treo bảng Trà và Thang ở tòa chính điện thờ Phật Thánh. Bảng Trà bên phải cho Phật, Thang treo bên trái cho Thánh. Bên ngoài hai cửa ngách tam quan treo bảng Giám đàn và Giám môn, với ý nghĩa ngăn không cho ma quỷ vào xâm phạm quấy nhiễu. Pháp sư là người “đại Phật tuyên dương” đứng ra cung thỉnh các vị Phật Thánh giáng đàn ban phúc hoặc giải trừ nghiệp chướng cho trai chủ, đồng thời là người thay Phật chẩn tế cơm cháo… cho thập loại cô hồn, nên Bảng cô hồn (còn gọi là Hàn lâm sở) được treo ngoài sân ngay sau vị Pháp sư, kiểu thức của các bảng tương tự, có thể là bài thơ phú với nội dung tương ứng với tính năng và vị trí đặt để.

5. Thủy lục chư khoa, 6 quyển, gồm 36 khoa cúng. Tương truyền do Chuyết Công Hòa thượng người Trung Hoa sang lánh nạn tu hành ở chùa Phật Tích và Bút Tháp soạn thuật dưới sự yêu cầu của Lê Thần Tông và Thanh vương Trịnh Tráng. Khoa cúng dùng trong đàn cầu siêu và thí thực… cho các vong linh binh lính tử trận trên cạn dưới nước trong chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Là tiền thân của Văn tế thập loại chúng sinh bằng chữ Nôm thời Nguyễn, cũng gọi là Tiểu du già thí thực khoa. Một số khoa cúng do môn đồ sau Chuyết Công như Minh Hành, Chân Nguyên, Trịnh Thập… soạn.

6. Nguyên văn bài Canh 6 vị cho bảng Trà:

Trầm hương Bạch đàn gia Tảo tử,
Cam thảo Sơn trà dữ Quế chi.
Lục vị hinh hương tê tiến cúng,
Phúc lưu đại tiểu bất tư nghì.

Tạm dịch:

Trầm hương, Bạch đàn thêm Tảo tử,
Cam thảo, Sơn trà với Quế chi.
Sáu vị hương thơm dâng tiến cúng,
Phúc cho con cháu khó so bì.

Nguyên văn bài Canh 8 vị cho bảng Thang:

Đinh hương Bạch đàn cộng Hoắc hương,
Xuyên khung Quan quế dữ Sinh khương.
Thanh đậu Bạch mật thang bát vị,
Thành tâm tiến cúng phúc tăng quang.

Tạm dịch:

Đinh hương, Bạch đàn cùng Hoắc hương,
Xuyên khung, Quan quế với Sinh khương.
Thanh đậu, Bạch mật canh tám vị
Thành tâm dâng cúng phúc khôn lường.

7. Hơi Long bồi: nói ẩn dụ, ví hương thơm trà bay xa khi đem sấy hoặc pha trà.

8. Triệu Châu: tức Thiền sư Triệu Châu (? - 898). Cao tăng thời Đường, họ Chu người đất Tào Châu, xuất gia lấy pháp danh là Tòng Thẩm, tu ở viện Quan Âm đất Triệu Châu (Hà Bắc - TQ), là đệ tử của Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền sư. Ông tịnh tâm ngộ đạo huyền, khi mất được dâng thụy là Chân Tế thiền sư, đời gọi là Triệu Châu Cổ Phật. Ông có nhiều thiền thoại và công án tham thiền gắn đến trà.

9. Ý nói khả năng thuyết pháp của Phật. Dẫn dụ câu trong kinh A Di Đà “Xuất quảng trường thiệt, biến phú Tam thiên Đại thiên thế giới” (Thì ra cái lưỡi dài rộng, ý nói khả năng che khắp cả thế giới Ba ngàn khiến cho chúng sinh đều được nghe pháp).

10. Ý nói một con mắt thứ ba, sinh ra từ sự nhắm lại và nhìn vào trong mình của đôi mắt kia (Thiền - quán). Sau khi tỏ thấy được chân tính (giác ngộ), trên trán như mọc ra con mắt, soi rọi càn khôn, đó gọi là Tuệ nhãn.

11. Hoa Tô ma: tức Tô ma la, tiếng Pali, Hán phiên. Tên loài hoa, mầu vàng rất thơm, thường dùng trang sức trong lễ kết tóc bên ấn Độ xưa.

12. Hoa Ba lị : tức Ba lị chất đa la, tiếng Pali, Hán phiên. Tên loài hoa, mọc ở cung trời Đao lợi. Hán dịch là Hương biến thụ (cây hoa thơm khắp).

13. Nước Cam lộ : chỉ nước mưa hạt móc có vị ngọt.

14. Sữa Đề hồ: một loại sữa bò, sau khi ngưng cất có thêm hương dầu gọi là sữa Đề hồ.

15. Pháp hội vô già: khóa lễ giải oan và chẩn tế cô hồn, tương tự như đàn Mông Sơn. Sở dĩ được gọi “vô già”, là vì những người tham dự đại hội không phân biệt hiền ngu, đạo tục, trên dưới, tất cả đều được bình đẳng tham gia tài thơ, pháp thơ, được bắt đầu từ thời Lương Vũ Đế (464 - 549).

TB

VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN THƠ TÀY NÙNG LƯU ĐÀI - HÀN XUÂN

NGUYỄN MINH TUÂN

Dân tộc nào cũng có một kho tàng truyện thơ cổ thật phong phú và quý giá. Người Thái có Soóng chụ xôn xao, người Kinh (Việt) có Truyện Kiều, Nhị Độ mai ... thì người Tày có Nam Kim - Thị Đan, Kim Quế, Quảng Tân -Ngọc Lương, Lưu Đài - Hán Xuân ...

Cũng như các tộc người khác, người Tày rất ưa thích truyện thơ cổ, mọi câu chuyện đều được họ học thuộc lòng bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc đọc trực tiếp hoặc qua truyền miệng mà tác phẩm Lưu Đài - Hán Xuân là một trong những trường hợp như vậy. Xuất phát từ nhiệm vụ khai thác vốn cổ của dân tộc, ở đây xin bước đầu giới thiệu tác phẩm Lưu Đài - Hán Xuân được viết bằng chữ Nôm Tày theo thể thất ngôn trường thiên thông qua tìm hiểu đôi nét nội dung cơ bản của tác phẩm và một vài đặc điểm của việc sử dụng chữ Nôm Tày trong văn bản để bạn đọc tham khảo.

I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM

1. Vấn đề văn bản

Hiện nay tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ ba văn bản có ký hiệu: VNv.685; VNv.672 và VNv.607, mỗi ký hiệu được ghi bằng một tên gọi khác nhau nhưng đều là truyện Lưu Đài - Hán Xuân. Dưới đây là hiện trạng từng văn bản.

Văn bản ký hiệu VNv.685/7 (ghi Tày Nùng thư).

Gồm 57 tờ, khổ 29x14cm, chữ viết tay, chân phương có chấm câu bằng son. Bìa được đóng bằng giấy cậy, gáy và mép sách không ghi chữ. Sách bị rách mất một số tờ đầu và cuối, nên không xác định được niên đại và người sao chép.

Văn bản gồm 3.256 câu, chia làm 13 đoạn theo thể thất ngôn trường thiên. Đoạn 1: 240 câu; đoạn 2: 82 câu; đoạn 3: 36 câu; đoạn 4: 60 câu; đoạn 5: 241 câu; đoạn 6: 14 câu; đoạn 7: 247 câu; đoạn 8: 371 câu; đoạn 9: 200 câu; đoạn 10: 924 câu; đoạn 11: 140 câu; đoạn 12: 430 câu; đoạn 13: 252 câu.

Văn bản ký hiệu VNv.607 (ghi Nùng thư truyện Lưu Đài - Hán Xuân ).

Gồm 69 tờ, khổ 27x14cm, chữ viết tay, chân phương có chấm câu bằng son. Bìa được đóng bằng giấy cậy sau này, ba tờ đầu bị rách mất khá nhiều chữ.

Cuối sách ghi: œœœ nhị niên, tuế thứ Đinh Mão niên nhị nguyệt thập ngũ nhật, viết tận. (Năm œœœ thứ 2, ngày 15 tháng 2 năm Đinh Mão, viết xong). Không thấy ghi tự hiệu người viết.

Văn bản gồm 3.116 câu, chia làm 13 đoạn. Đoạn 1, 246 câu; đoạn 2, 96 câu; đoạn 3, 120 câu; đoạn 4, 240 câu; đoạn 5, 14 câu; đoạn 6, 216 câu; đoạn 7, 336 câu; đoạn 8, 152 câu; đoạn 9, 280 câu; đoạn 10, 744 câu; đoạn 11, 448 câu; đoạn 12, 240 câu; đoạn 13, 51 câu.

Văn bản ký hiệu VNv.607 (ghi Nùng thư truyện Lưu Đài - Hán Xuân ).

Gồm 85 tờ, khổ 22,5x13,5cm, chữ viết tay, đá thảo có chấm câu bằng son. Bìa được đóng bằng giấy cậy, gáy và mép sách không thấy ghi chữ. Ngoài mép sách rách nát mất khá nhiều chữ.

Cuối văn bản ghi: Khải Định thập niên lục nguyệt sơ lục nhật, sao nhất quyển. (Quyển sao ngày 6 tháng 6 năm Khải Định 10 (1925)). Không thấy ghi tự hiệu người sao chép.

Văn bản gồm 3.293 câu, chia làm 13 đoạn. Đoạn 1, 235 câu; đoạn 2, 84 câu; đoạn 3, 38 câu; đoạn 4, 65 câu; đoạn 5, 241 câu; đoạn 6, 18 câu; đoạn 7, 257 câu; đoạn 8, 375 câu; đoạn 9, 225 câu; đoạn 10, 924 câu; đoạn 11, 145 câu; đoạn 12, 431 câu; đoạn 13, 255 câu.

Qua đối chiếu so sánh ban đầu giữa ba văn bản, thấy:

- Ngay ở ngoài bìa không có sự nhất quán về tên sách. Đây có lẽ là do Phòng Bảo quản hoặc người sưu tầm sau này tạm đặt để phục vụ bạn đọc.

- Giữa các đoạn trong các văn bản có sự dị biệt nhau về số câu.

- Trong các câu ở một số đoạn trong các văn bản có sự dị biệt, như: Bản (VNv.685) đoạn 7, câu số 15, ghi: 漢 春 勸 連 沃 Hán Xuân bước chân khuyên liền oóc (Hán Xuân bước chân nhẹ nhàng duyên dáng) thì hai bản (VNv.607 và VNv.673) đều ghi: 漢 春 娘 少 年 句 把 Hán Xuân nàng thiếu niên củ pja (Hán Xuân nàng thiếu nữ bước ra) v.v...

2. Về nội dung cốt truyện

Lưu Đài mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, phải đi ăn xin qua lần. Chàng tìm đến xin làm người ở cho nhà thày đồ. Ban ngày chàng đi chăn trâu, ban đêm nằm nghỉ ở nhà dưới nghe các sĩ tử học bài và học lỏm. Chàng rất thông minh, nghe đến đâu, nhớ đến đấy.

Hàng xóm nhà thầy có cô con gái tên là Hán Xuân, tài sắc vẹn toàn, con nhà giàu sang đã đến tuổi trưởng thành và có ý mến Lưu Đài. Một hôm, nhân ngày hội, được Phật xui khiến, nàng tung chiếc khăn tay gấm lên trời và nguyện sẽ kết hôn với chàng trai nào bắt được tấm khăn tay ấy. Chiếc khăn tay của nàng bay lên cõi Phật rồi bay xuống khoác vào vai Lưu Đài, Lưu Đài gỡ mãi không ra.

Hán Xuân ngỏ lời muốn kết duyên với Lưu Đài và nói với bố mẹ đón Lưu Đài về nhà nuôi ăn học. Nhưng Lưu Đài cảm mộ ơn đức ông thày không nỡ bỏ nhà thày mà đi. Hán Xuân và Lưu Đài đính ước. Nàng ngầm giúp đỡ Lưu Đài ăn học.

Nhân dịp nhà vua mở khoa thi kén chọn nhân tài, Lưu Đài đi thi đỗ Trạng nguyên. Chàng đến tạ ơn thày và cưới Hán Xuân.

Lưu Đài được nhà vua cử đi sứ nước Tần. Hán Xuân lúc đó đã có thai nhưng cũng xin đi theo chồng.

Khi đoàn thuyền của Lưu Đài đang ở giữa biển, công chúa con Long Vương hoá phép thành một trận cuồng phong làm đắm đoàn thuyền rồi đón Lưu Đài về thủy cung ép cưới làm chồng. Hán Xuân được sóng biển đánh dạt vào đất Quỷ Ngô Cương. ở đây, Hán Xuân đẻ con trai. Thấy Hán Xuân xinh đẹp, tướng Ngô Cương ép nàng làm vợ. Hán Xuân từ chối lấy cớ mới sinh đẻ. Ngô Cương đánh nàng thập tử nhất sinh và đem vứt hai mẹ con nàng ra bãi hoang. Nàng bế con thoát khỏi đất quỷ, đi tới cõi Phật. ở đó ba năm, nàng được Phật truyền cho phép thần thông và ban cho một cây gậy thần và chiếc kính Phật quán. Hán Xuân dùng gậy thần và chiếc kính Phật quán xuống thủy phủ cứu chồng, đưa chồng về quê hương.

Nước Đường đã ba năm không triều cống nước Tần. Vua Tần huy động quân 18 nước sang đánh nước Đường. Vua Đường cử quan Trạng Lưu Đài cất quân chống lại quân Tần. Nhờ Hán Xuân giúp sức, Lưu Đài đánh tan quân xâm lược.

Vua Tần lại liên minh với vua Quỷ Ngô Cương và Long Vương cùng đem quân sang đánh nước Đường.

Liên quân Tần, Ngô Cương và Long Vương cũng bị Hán Xuân cùng chồng đánh đuổi ra khỏi đất nước. Thừa thắng, quân Đường đánh sang đất Tần. Vua Tần thua trận, sai sứ sang xin hàng. Vua Đường lại cử Lưu Đài cùng Hán Xuân đi sứ Tần để giao hảo. Từ đó, hai nước giữ tình hữu nghị.

Câu chuyện thể hiện rõ một chân lý: chính nghĩa nhất định thắng phi nghĩa, người ngay bao giờ cũng thắng kẻ gian. Chính nghĩa ở đây không những được biểu hiện qua hai nhân vật Lưu Đài và Hán Xuân, mà còn được biểu hiện qua cả hoàn cảnh thịnh vượng của một nước nhỏ dưới triều vua hiền đức luôn luôn mong muốn được sống no ấm yên vui. Trong truyện, cuộc đời các nhân vật chính diện gặp không biết bao nhiêu gian nan thử thách: Đất nước bị nạn xâm lược đe doạ, vợ chồng Lưu Đài - Hán Xuân bị chia lìa đôi nơi, vợ cũng như chồng đều bị bức hôn, bao năm sau mới được đoàn tụ thì lại bị vua quở mắng vì “không làm tròn trách nhiệm”. Chiến tranh xâm lược lại nổ ra, đất nước loạn lạc, họ lại phải đối địch với những thế lực hung bạo và xảo quyệt. Nhưng cuối cùng quân xâm lược bị đánh bại, đất nước trở lại thanh bình. Thắng lợi ấy chính là thắng lợi của chính nghĩa.

Ra đời trong xã hội phong kiến, nội dung tác phẩm phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống, một vài đoạn toát lên triết lý Phật giáo, như: Dĩ đức báo oán (lấy đức báo oán), hoặc quan niệm về sự đời “không không có có”, tất thảy đều tuân theo quy luật của thuyết nhân quả luân hồi. Chính do chịu ảnh hưởng của triết lý này cho nên khi Lưu Đài có quyền thế, đã không xử lý đối với những người mà xưa kia họ đã cư xử không tốt với chàng, cũng như sau này bị vua Đường quở trách, Lưu Đài mới nghe theo lời khuyên của vợ, lui về quê nhà hưởng thú điền viên. Rồi sau cùng, Lưu Đài và Hán Xuân lại lập công trong cuộc kháng chiến chống Tần, nhưng hai vợ chồng không nhận sự ân huệ của triều đình, mà sống đời bình thường thanh bạch.

Qua các tình tiết éo le, qua thái độ, lời nói và hành động của các nhân vật, cho thấy tuyến chính diện có tinh thần chiến đấu khá cao. Đó là những con người luôn bền bỉ phấn đấu vượt mọi nghịch cảnh, dũng cảm chiến đấu với quân địch có sức mạnh hơn mình và mưu mô thâm hiểm. Cuối cùng họ đã đánh bại kẻ địch, buộc chúng phải giảng hòa. Tinh thần chiến đấu kiên trinh ấy chính là ngọn lửa kết tinh của truyền thống yêu nước và lòng yêu chính nghĩa của dân tộc Tày trong lịch sử.

Lưu Đài - Hán Xuân không tránh khỏi còn một vài hạn chế, trong đó tư tưởng duy tâm thần bí bộc lộ rõ hơn cả.

Tuy vậy, Lưu Đài- Hán Xuân vẫn là một tác phẩm cổ có giá trị của nền văn học Tày - Nùng. Nó là một trong những tác phẩm đã được người dân coi như báu vật, được lưu truyền qua nhiều đời dưới hình thức kể truyện và được sao chép gìn giữ qua nhiều thế hệ mà còn lại đến ngày nay.

Ngoài nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả rất khéo sử dụng điển cố của Trung Quốc để làm toát lên hàm ý sâu xa của câu chuyện, như: Mượn nhân vật Chu Mãi Thần (người thời Hán, nhà nghèo nhưng rất ham học, về sau làm nên đại nghiệp) để diễn tả Lưu Đài mồ côi khốn khó, nhưng vẫn hiếu học. Hay như đoạn kể về sự yên bình khi Lưu Đài cai quản một vùng, tác giả đã khéo dùng tích vua Nghiêu, vua Thuấn để lột tả việc giỏi trị nước, tài canh nông v.v...

II. MẤY NÉT VỀ VIỆC SỬ DỤNG CHƯC NÔM TRONG TÁC PHẨM

Cũng như các văn bản Nôm Kinh (Việt), khi đọc văn bản Nôm Tày, ta thấy rất rõ việc sử dụng chữ Nôm ở hai loại hình chính là tự tạo và vay mượn. ở đây việc sử dụng chữ Nôm tự tạo hay vay mượn như thế nào lại là một việc đáng quan tâm đối với người đọc và phiên dịch một tác phẩm Nôm Tày có giá trị. Dưới đây xin nêu vài vấn đề về cách dùng chữ Nôm thường gặp trong văn bản như sau:

1. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ âm Hán Việt, nhưng không hề dùng đến nghĩa của chữ. Đối tượng này chiếm khoảng 10% trong toàn văn bản. Ví như, để nói đến việc ẩm ướt, họ dùng chữ 飲 ẩm (ẩm ướt), trong đó HV: ẩm (uống); hay như chữ 根 Tày đọc căn (cùng nhau), HV: căn (rễ cây); hoặc chữ 按 Tày đọc án (đếm), HV án (xem xét); chữ 刀 Tày đọc đao (ngôi sao), HV: đao (cây đao, con dao)...

2. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ, âm nghĩa Hán Việt. Loại này chiếm khoảng 8%, như chữ 婚 姻 cả Tày và Việt đều đọc hôn nhân (nam nữ lập gia đình); chữ 富 貴 cả Tày và Việt đều đọc phú quý (giàu có, sang trọng); chữ 家 門 gia môn (cửa nhà, gia đình); chữ 遇 ngộ (gặp); chữ 疑 nghi (nghi ngờ); chữ 親 thân (thân mật); chữ 遠 方 viễn phương (nơi xa xôi)…

3. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Hán đọc chệch âm Hán Việt, không dùng theo nghĩa của chữ. Loại hình này chiếm khoảng 12%. Ví dụ:

保 Tày đọc bấu (không, chớ), HV đọc bảo (bảo vệ).

江ày: chang (giữa), HV: giang (con sông).

帝 Tày: đảy (được), HV: đế (vua, vương hầu).

者 Tày: giá (không, không nên), HV: giả (người, lão).

見 Tày: kẻn (đẹp kín đáo), HV: kiến (thấy, trông thấy).

4. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Hán đọc theo âm địa phương (Tày) chứ không đọc theo Hán Việt. Loại hình này chiếm khoảng 20%. Ví dụ: Chữ 許 hẩu (cho); chữ 十 (mười - số đếm); chữ 座 sloá (ngồi); 受 slủ (nhận); chữ 千 xiên (nghìn - số đếm); chữ 書 slư (sách)...

5. Chữ Nôm Tày sáng tạo (tức chữ do người Tày tự tạo theo dạng như chữ Nôm Kinh). Đây là loại chữ chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn bộ văn bản, khoảng 30%. Những chữ này mượn ở Hán hai yếu tố, một yếu tố chỉ âm và yếu tố kia chỉ nghĩa. Một vài ví dụ: để chỉ người già lão Trưởng bản, người ta dùng chữ ké (già - cụ già), gồm có 其 kỳ (chỉ âm) và 老 lão (chỉ nghĩa)... Dưới đây là vài ví dụ:

bân (trời); gồm: 奔 HV: bôn (âm) + 天 thiên: trời (ý);

bươn (tháng); gồm: 班 HV: ban (âm) + 月 nguyệt: tháng (ý);

cần (người); gồm: 斤 HV: cân (âm) + 人 nhân: người (ý);

đơng (trong); gồm: 登 HV: đăng (âm) + 中 trung: trong (ý).

hai (trăng); gồm: 台 HV: thai (âm) + 月 nguyệt: mặt trăng (ý).

háng (chợ); gồm: 行 HV: hành (âm) + 巿 thị: chợ (ý).

6. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt cả ba mặt chữ - âm - nghĩa. Loại hình này chiếm số lượng khoảng 15% trong toàn văn bản. Ví như: Chữ cả Tày và Việt đều đọc lạy và đều có nghĩa là (bái lạy, chào); hay như chữ cả Tày và Việt đều đọc người và đều có nghĩa là (người, con người); chữ xưa (xưa); chữ say (say); chữ trong (trong); chữ nên (nên); chữ rộng (rộng)…

7. Chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt có bị biến dạng về âm đọc. Loại hình này chiếm khoảng 5%. Ví như: Chữ chẻn (chén, cái chén); chữ nhời (lời); chữ  vể vang (vẻ vang); chữ vỉ (ví - câu ví); vùa (vua) ...

Qua việc sử dụng chữ Nôm vừa nêu trên, nếu đem đối chiếu với Đại tự điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính - Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học) của người Kinh còn thấy một số hiện tượng như sau:

- Đồng hình, đồng âm, khác nghĩa chiếm khoảng 15% giữa chữ Việt và Tày cùng hình, cùng âm, nhưng nghĩa chữ lại khác nhau hoàn toàn. Như, chữ 通 Tày và Việt đều đọc thông, nghĩa của Tày là (cái túi, cái bị), trong khi đó nghĩa của Việt lại là (thông thoáng); chữ 些 Tày và Việt đều đọc ta , nghĩa của Tày là (nhạc phụ), nghĩa của Việt là (ta); chữ Tày và Việt đọc đưa, nghĩa của Tày là (cái cựa), nghĩa của Việt là (đưa đón); hay như chữ 哿 Việt và Tày đều đọc cả, nghĩa của Việt là (tất cả), nhưng nghĩa của Tày lại là (căng ra); chữ chào 嘲, nghĩa của Việt (chào hỏi), còn nghĩa của Tày lại là (trộn lại); chữ ăn , nghĩa của Việt (ăn uống), nhưng nghĩa của Tày lại là (cái, chiếc); chữ mong 矇, nghĩa của Việt (trông mong), nghĩa của Tày là (tờ mờ sáng)...

- Đồng hình, đồng âm, đồng nghĩa chiếm khoảng 20% chữ Nôm của người Việt được người Tày sử dụng giữ nguyên cả ba mặt hình, âm, nghĩa. Thí dụ như: để chỉ con ong, người Tày viết và đọc ong, nghĩa là (con ong); giàu tức (giàu sang); thấy (thấy); trong (trong); lạy (lạy); say (say sưa); con (con nhỏ); giờ ( giờ phút); hay để chỉ ông Vua, viết , đọc âm Vua, nghĩa là (Vua)...

- Đồng hình, gần âm, đồng nghĩa chiếm khoảng 10% trong toàn bộ văn bản như: chữ Tày đọc rọ, Việt đọc rõ, đều có nghĩa là (rõ ràng); chữ Tày đọc cáng, Việt đọc cành, đều có nghĩa (cành cây); chữ Tày đọc pè, Việt đọc bè, đều có nghĩa là (cái bè); chữ Tày đọc cúa, Việt đọc của, đều có nghĩa (của nả); chữ “sang” trong nghĩa sang trọng, cả Việt và Tày đều viết , Tày đọc slang, Việt đọc sang, đều có nghĩa là (sang trọng); hay như chữ , Tày đọc slổng, Việt đọc sống, đều có nghĩa (sống còn); chữ Tày đọc ngản, Việt đọc nghìn, đều có nghĩa (nghìn - số đếm); chữ Tày đọc mẻ, Việt đọc mẹ, đều có nghĩa (người mẹ); hay chữ Tày đọc tiểng, Việt đọc tiếng, đều có nghĩa (tiếng nói)...

- Đồng hình, gần âm, khác nghĩa chiếm khoảng 15%. Xét về cách thức tạo chữ giữa Việt và Tày, thấy chúng cùng nguyên dạng về chữ viết, cùng có cấu tạo biểu âm, nhưng không cùng ngữ nghĩa. Thí dụ:

Tày đọc nhẳn nghĩa là (nặn, bóp), Việt đọc Nhằn là (cằn nhằn). Trong đó nhan 顏 (biểu âm).

恪 Tày đọc khạc nghĩa là (toác ra), Việt đọc khác là (khác nhau). Trong đó khác 恪 (biểu âm).

Việt đọc hầm có nghĩa là (hầm hố) thì ở Tày đọc hậm lại có nghĩa (mục nát). Hàm 含 là chữ biểu âm.

衛 trong khi Việt đọc về là (về) thì Tày đọc vẹ lại có nghĩa là (vẽ). Vệ 衛 là chữ được mượn, viết tắt.

沁 Việt đọc tắm là (tắm gội) thì Tày lại đọc tẳm là (trải qua). Tâm 心 là chữ được mượn nguyên hình...

- Đồng hình, khác âm, đồng nghĩa chiếm khoảng 10% số chữ đồng hình, đồng nghĩa, nhưng khác nhau về âm đọc. Thí dụ, chữ , người Tày đọc lấu, Việt đọc rượu đều có nghĩa là (rượu uống); hay như chữ Tày tởi, Việt đọc đời, đều có nghĩa là (đời sống); chữ Tày đọc rèo, Việt đọc theo, đều có nghĩa là (theo)... Điều này, phải chăng người Tày mượn dùng nguyên dạng chữ Nôm Việt, nhưng khi qua từ vựng Tày đã bị biến hóa để cho thuần Tày ?

- Đồng hình, khác âm, khác nghĩa chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong toàn bộ văn bản Lưu Đài - Hán Xuân, khoảng 30%. Ví như, chữ 茶 với Tày đọc giá nghĩa là (đừng, chớ), trong khi đó Việt đọc trà nghĩa là (trà uống); chữ 喑 Tày đọc ím nghĩa là (no bụng), Việt đọc ầm nghĩa là (ầm vang); chữ 對 Tày đọc đuổi nghĩa là (với), Việt đọc đối (đối với); chữ 閉 Tày đọc pay nghĩa là (chưa), Việt đọc bế (bế ẵm); chữ 茄 Tày già nghĩa là (ráp, sù sì), Việt đọc nhà (nhà ở); chữ 針 Tày đọc chồm nghĩa là (mừng), Việt đọc châm (châm cài) v.v...

Trên đây chỉ là bước đầu đưa ra một cái nhìn đại thể về một văn bản truyện thơ cổ khuyết danh được viết bằng chữ Nôm Tày - Nùng theo thể thất ngôn trường thiên. Hy vọng có thể góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu, phiên âm và dịch nghĩa tác phẩm Nôm Tày trong công cuộc đẩy mạnh khai thác di sản Hán Nôm các dân tộc ít người Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.

N.M.T

TB

TÌM HIỂU ĐÔI NÉT TRUYỆN THƠ NÔM TÀY - NÙNG TOỌNG TƯƠNG

TRẦN THU HƯƠNG

Trong kho tàng văn hóa dân tộc, tiền nhân để lại cho chúng ta một nguồn thư tịch Hán Nôm vô cùng quý báu.

Cuối thế kỷ XIII, Lê Quý Đôn thống kê được 115 tên sách, gồm những tác phẩm đang còn và những tác phẩm chỉ còn tên sách ( Thiên nghệ văn chí - Lê triều thông sử).

Đầu thế kỷ XIX, Phan Huy Chú thống kê được 214 tên sách ( Văn tịch chí - Lịch triều hiến chương loại chí ).

Trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp, tập 1 in năm 1970, ông đã giới thiệu được 213 tên sách, tập 2 do Nxb. KHXH, Hà Nội ấn hành năm 1990 gồm 216 tên sách.

Năm 1993, trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu (3 tập), do Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp cùng biên soạn, nhằm góp phần tìm hiểu chính xác hơn một nguồn tư liệu cốt yếu còn chưa được biết rõ về vốn văn hóa chung của toàn vùng. Cả thảy gồm 5038 đầu sách và khoảng 30000 đơn vị tư liệu. Ngoài ra còn vài nghìn cuốn sách nữa mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới đi sưu tầm về, hiện đang lên ký hiệu.

Di sản Hán Nôm Việt Nam, phần lớn là sách Hán Nôm của người Kinh, còn tài liệu sách vở Hán Nôm của các dân tộc ít người thì còn ít. Trong đó đáng kể hơn cả là mảng sách Nôm Tày - Nùng thuộc sáu tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái (cũ). Hơn 70 cuốn sách Nôm Tày Nùng trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã lên ký hiệu và hàng nghìn cuốn sách nữa do Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới đi sưu tầm, đang chờ lên ký hiệu để đưa ra phục vụ bạn đọc. Đây là một nguồn thư tịch rất phong phú và đa dạng, một thành tựu văn hóa lớn của dân tộc Tày - Nùng.

Mảng thư tịch Nôm Tày - Nùng rất quý giá, đề cập đến nhiều phương diện tri thức, kinh nghiệm về tự nhiên, cũng như xã hội rất gần gũi với đời sống của con người lao động, không chỉ của riêng dân tộc Tày - Nùng trong quá khứ mà cả đối với ngày nay. Nguồn thư tịch này được viết dưới nhiều lĩnh vực như: Ngôn ngữ văn học, Lịch sử, Y tế, Địa lý, Phong tục tập quán.... Trong số sách Nôm Tày - Nùng hiện đang lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì mảng sách về ngữ văn học chiếm số lượng nhiều hơn cả, với các thể loại như: truyện thơ cổ, truyện cổ tích, truyện cười, truyện trăm loài hoa, truyện trăm loài chim, văn ca ngợi công ơn cha mẹ, văn than khóc vợ khóc chồng, văn cầu mùa, thư tình, thư mời cưới, thơ mừng nhà mới, lượn, sli, đồng dao, ru con - ru em, tục ngữ, thành ngữ, đối liên...

Do đặc điểm lịch sử, các sản phẩm tinh thần của dân tộc Tày - Nùng có xu hướng hóa thân vào nền văn hóa dân gian của dân tộc mình. Trong đó, thể loại truyện thơ Nôm Tày - Nùng là một thí dụ. Truyện thơ Nôm Tày - Nùng hầu như là truyện cổ dân gian truyền miệng, thể hiện bằng văn vần mà hình thức là thơ thất ngôn trường thiên như: Truyện nàng Kim Quế, Truyện Nhân Lăng, Truyện Lưu Đài - Hán Xuân.... ở bài viết này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương (nghĩa là: Trọng Tương).

1- Về tác giả

Một đặc điểm đáng chú ý nhất là hầu hết các truyện thơ Nôm Tày - Nùng đều khuyết danh và đều không ghi niên đại xuất xứ, nhiều truyện lại mượn địa danh của Trung Quốc (nước Hàn, Tấn, Sở, Việt, Ngô, Ngụy...). Tên nhân vật cũng lấy từ lịch sử văn học Trung Quốc như: Dương Nga, Văn Đăm, Trương Phi, Tào Tháo, Hàn Tín... Truyện Trọng Tương là một trong những tác phẩm như vậy.

Có thể nói, từ thế kỷ XVI - XVII nhà Mạc lên đóng đô ở Cao Bằng, khi ấy nhà Mạc đem theo nhiều quan chức, nho sĩ, thầy đồ, tạo điều kiện để phát triển văn hóa ở địa phương. Họ đã phỏng theo kiểu cách của những truyện thơ Nôm khuyết danh của người Kinh mà sáng tác ra những truyện thơ Nôm Tày -Nùng. Dựa trên cơ sở của những truyện cổ tích truyền miệng đã được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, các tác giả đã lựa chọn sắp xếp thành truyện thơ. Có những truyện tuy là truyện cổ tích mang tính chất thần thoại, nhưng cũng gần như tiểu thuyết hóa. Có lẽ tác phẩm Trọng Tương cũng xuất hiện vào khoảng thời gian trên.

2- Về văn bản tác phẩm

Tác phẩm Trọng Tương - Hiện nay trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chỉ có một bản duy nhất, ký hiệu VNv.605, khổ 22x20cm, tờ đầu văn bản và tờ cuối văn bản có đóng con dấu hình chữ nhật của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu Nv.90 (đây là ký hiệu cũ). Tờ lót đầu và tờ lót cuối của văn bản có viết chữ, nhưng nội dung không thuộc nội dung của văn bản. Từng câu thơ trong văn bản đã được chấm câu bằng mực đỏ. Văn bản tổng cộng gồm 30 trang, chữ viết tay khá đẹp, rõ ràng, dễ đọc, trong văn bản có xen nhiều chữ Hán và chữ Nôm Việt. Toàn bộ tác phẩm gồm 805 câu thơ, được viết theo thể thất ngôn trường thiên. Truyện thơ này ban đầu được ghi lại bằng chữ Nôm, từ đó lưu truyền rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân lao động, thậm chí đến mức thuộc lòng, trở thành văn học truyền miệng, truyền từ người này sang người khác, từ địa phương này sang địa phương khác, từ đời này sang đời khác, thấy nội dung truyện hay, những người biết chữ sao chép lại để lưu truyền, hoặc để ngâm nga trong lúc nhàn rỗi và được lưu truyền cho đến ngày nay. Nhưng vì qua nhiều tay, nhiều tháng năm, sao chép nên truyện Trọng Tương cũng như nhiều truyện khác cũng không tránh được sự “tam sao thất bản”.

Ngôn ngữ văn tự sử dụng trong tác phẩm Trọng Tương là ngôn ngữ Tày - Nùng, xen lẫn ngôn ngữ Hán và Nôm Việt.

Như chúng ta đã biết, trên địa bàn Việt Nam, tiếp theo sau chữ Hán, và trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện thì đã có một lối chữ viết được gọi là chữ Nôm: Chữ Nôm Việt của người Kinh ở dưới đồng bằng, chữ Nôm Tày của người Tày chủ yếu ở các tỉnh vùng núi thuộc khu Việt Bắc, và một vài nơi khác. Cũng như chữ Nôm Việt, chữ Nôm Tày là một lối chữ vuông, xuất hiện từ các ký hiệu của văn tự Hán, nhưng lại chuyên dùng để ghi âm từ của ngôn ngữ dân tộc Tày. Tiếng Tày cũng như tiếng Việt, xét về đặc điểm ngôn ngữ, thì đây là ngôn ngữ âm tiết có tính đơn lập, có loại hình cơ bản giống như tiếng Hán. Nền văn tự ghi âm theo từng từ cụ thể, bao gồm một khối lượng lớn các ký hiệu vuông cực kỳ khó nhớ, khó học. Nhưng nó cũng rất phong phú, đủ để làm công cụ đắc lực phục vụ cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc nói chung, và sự phát triển của nền ngôn ngữ văn học dân tộc Tày - Nùng nói riêng. Tác phẩm Trọng Tương là một ví dụ minh chứng cho điều đó.

“Tỉnh Lã Hậu dụ mừa liền khả
Âm mưu bấu tham cạ thần liêu
Khoăn hồn lồng tu liêu slip điện
Hán trạng liền cáo kiện âm ty
Rườn Hán slí pac pi đâư các
Chắng pừa đảy slam pac cấy keng
Nhằng sliểu pac nâng them chắng mạn...”

Trong hệ thống văn tự khối vuông của các dân tộc Việt Nam, chữ Nôm Tày là một hệ thống chữ viết cổ của một dân tộc ít người, nhưng có số dân khá đông, đứng hàng thứ hai sau người Kinh. Người Tày vốn có nền văn hóa văn học nghệ thuật phong phú và đặc sắc, lại có một thứ văn tự chuyên dùng để ghi tiếng nói của dân tộc mình. Chữ Nôm Tày từng đảm nhiệm một vai trò quan trọng, đã truyền tải đến ngày nay nhiều giá trị truyền thống vô cùng quý báu thuộc các lĩnh vực trong đời sống tinh thần của người Tày, góp phần xứng đáng vào kho tàng di sản chung của cộng đồng văn hóa Việt Nam. Trong tác phẩm Trọng Tương ta thấy bên cạnh chữ Nôm Tày tự tạo, người Tày còn phải mượn văn tự Hán để biểu thị các khái niệm chính trị, xã hội, pháp lý, khoa học kỹ thuật... Sự vay mượn này phù hợp với quy luật nên nó làm cho tiếng Tày - Nùng thêm phong phú, có đủ sức làm công cụ giao tiếp của người Tày - Nùng trong xã hội, dẫn chứng sau trong tác phẩm là một ví dụ:

“Pắt Lã Hậu mừa dinh dâm dục
Hán Sở nguyện giao ước vằn xưa
Lập Hoài Vương hêt vua Nghĩa đế
Hẹn pây hội cắt địa Hồng Môn
Lại mưu khả Hán vương bấu vỉ
Hạng Vũ cần bất ngịa phi nhân...”

Ở loại mượn văn tự Hán, người Tày có những cách vay mượn:

a. Mượn hoàn toàn cả về văn tự lẫn ngôn ngữ như các chữ: dâm dục, Hán Sở nguyện giao ước, lập Hoài Vương, Nghĩa đế, địa Hồng Môn, Hán Vương, Hạng Vũ, phi nhân...

b. Vay mượn chữ Hán kèm theo mượn nghĩa, nhưng khi đọc thì không theo đúng âm Hán - Việt mà đọc chệch đi theo âm Tày: bất ngịa = bất nghĩa, phụ nự = phụ nữ, tướng hiến = tướng hiền...

c. Bên cạnh đó, người Tày còn vay mượn kiểu không hoàn toàn: Mượn một bộ phận chữ Hán để biểu ý, và một bộ phận dùng để biểu âm:

“Khi du đạng khi lỉn nguyệt hoa
Khi xoac voọng tức pja bẳn nộc
Khi ghẹo xuân liệu túc lân la
Khi chếch mác ngâm nga ôn cổ
Quan tách thời vua chủa bân đin ...”

Ở đây:

Pja: lấy nghĩa “cá” của từ Hán Việt “ngư” + “ba” đọc chệch theo âm Tày.

Nộc: lấy nghĩa: “chim” của từ Hán Việt “điểu” + “nhục” đọc chệch theo âm Tày.

Bân: lấy nghĩa “trời” của từ Hán Việt “thiên” + “bôn” độc chệch theo âm Tày.

Đin: lấy nghĩa “đất” của từ Hán Việt “thổ” + “điền” đọc chệch theo âm Tày.

Ngoài ra, người Tày còn mượn chữ và âm đọc Hán - Việt để ghi âm từ đơn tiết. Người Tày đọc Nôm Tày đúng như cách đọc Hán Việt nhưng nghĩa Tày:

“Vua Hán ni tốc lồng chỉnh lậc
Khỏi chắng au nhả pop che cằm
Ung Xỉ binh mà hăn pjêt nả
Sloong cần cụng cảng cạ đuổi căn...”

Trong đoạn thơ trên có từ: Tốc “ rơi” = mượn chữ 速 và âm Tốc ( Hán Việt)

Căn “cùng nhau” = mượn chữ 根 và âm Căn ( Hán Việt)

Người Tày còn mượn âm Hán Việt đọc chệch thành âm Tày:

“Quân Sở bọc slam voỏng slí phương
Hãm voọc thành slam bươn pjết khổn
Lương thực kin lẹo thuổn sạch không...”

Đọc đoạn thơ trên ta thấy: 卜 Bọc “vây” đọc chệch “bốc” của âm Hán Việt.

亡 Voỏng “vòng, lớp” đọc chệch “vong” của âm Hán Việt.

了 Lẹo “hết” đọc chệch “liễu” của âm Hán Việt.

Ngôn ngữ của người Tày, người Nùng hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh tế và khái quát, diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần. Do sự giao lưu văn hóa giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếng Việt có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống ngôn ngữ văn tự của đồng bào Tày - Nùng. Điều này cũng được thể hiện khá rõ nét trong tác phẩm Trọng Tương. Những chữ mượn hoàn toàn từ Nôm Việt về cả ba mặt: hình, âm, nghĩa, như:

“ Slam tởi hết Tư quan slíp đạo
Tên là Tư Mã mạo tài lương
Slinh mì lục thần môn nấng lạ
Cắt tên hết Tư Mã Trọng Tương ...”

Trong đó những chữ mượn của Nôm Việt là: tên là

呂 () lạ

Qua đó ta thấy, giữa Nôm Tày và Nôm Việt có một mối quan hệ hết sức mật thiết và sâu sắc.

3- Về thể loại

Tác phẩm thuộc thể loại truyện thơ, với hình thức là thơ thất ngôn trường thiên (truyện thơ dài, trong đó mỗi câu 7 chữ). Chữ thứ bảy của câu trên vần với chữ thứ năm của câu dưới. Tác phẩm Trọng Tương là một truyện thơ khá dài, được viết dựa trên cốt truyện lịch sử của Trung Quốc, với những nhân vật, địa danh lịch sử, xen lẫn một chút thần thoại hoá. Kết cấu truyện thơ đơn giản, giàu tính dân gian. Nhiều câu trong tác phẩm được viết bằng những lời thơ mộc mạc, quê mùa, khiến cho người đọc cảm thấy câu thơ không được mượt mà, trau chuốt:

“Bấu ngở nộc ca hảy cò rì
Kin ím lại bấu mì cạ ím
Cậy phú quý một mỉnh ích hây
Liền oóc toọng xiên tây tình phụ ...”

Bên cạnh những câu thơ được viết bằng chữ Nôm Tày, trong tác phẩm nhiều khi tác giả còn mượn nguyên cả câu chữ Hán:

“Lập nghiệp an thiên hạ quy mô

Hay “Trị thiên hạ dân yên thái bình”

Hay “Thi phú hệ văn chương tài trí” ...

Một vài câu Nôm Việt cũng được dùng trong tác phẩm:

“ Kim Tinh vâng lệnh pháp lạy vua”

Hay “Diêm Vương liền vâng cứ chiếu vua”

Hay “Xe pháo cờ đôi bên chiếu tướng” ...

Tác phẩm Trọng Tương là một truyện thơ Nôm có kết cấu đơn giản, giàu tính dân gian, nên tác phẩm được quảng đại quần chúng dân tộc Tày - Nùng xưa nay yêu thích.

4- Nội dung và giá trị tác phẩm

Tác phẩm có một cốt truyện mạch lạc, rõ ràng, có nhân vật chính diện (nhân vật Trọng Tương), phản diện (nhân vật Lã Hậu). Mở đầu tác phẩm kể về tình hình thời Sở - Hán tranh giành đất nước. Các quần thần của hai nước như: Hàn Tín, Trương Lương, Tiêu Hà, Hứa Phụ, Anh Bố... tranh giành quyền lực, mưu sát lẫn nhau. Vua quan thì mưu bày giết tướng hiền ở mọi nơi, hồn vía xuống nơi âm phủ. Nhà Hán làm tờ trình cáo kiện âm ti kêu oan cho người đã chết, nhưng Diêm Vương thì để án lưu lại đợi đủ bốn trăm năm mới xét. Sau khi vua Hán băng hà, hồn ngự xuống nơi âm phủ, linh hồn các quần thần được gặp lại nhau. Lã Hậu còn sống nắm quyền, với lòng dạ độc ác Lã Hậu đã âm mưu giết hại quần thần, giết Lưu ẩn và Thích Cơ. Hồn hai mẹ con về nơi hạ giới, được gặp hồn vua Hán và tâu hết mọi lời. Lã Hậu độc ác, vận đời đang đỏ thì trời gì giáng hoạ, bị bệnh nặng, nằm mơ thấy hồn ba người vào hoá hiện. Thích Cơ biến thành quạ vào mổ, Lưu ẩn biến thành chó vào cắn, Hàn Tín dương cung tên nhằm bắn. Sau một tháng Lã Hậu chết, hồn phách lại xuống nơi âm phủ, nhưng Diêm Vương còn lưu án lại chờ đủ bốn trăm năm mới xét. Cuối cùng nhân vật Trọng Tương là người đứng ra xử kiện, cho các oan hồn ở nơi âm phủ.

Phần một: Tác phẩm giới thiệu về tiểu sử, lai lịch của nhân vật Trọng Tương. Một nhân vật tượng trưng (không có thật), đại biểu cho lớp người chân chính đứng về phía nhân dân lao động, lên án xã hội đương thời. Trọng Tương là một nhân vật tài trí, hiểu rõ thi phú văn chương, thiên văn, địa lý, biết rõ được thời thế thịnh suy, biết thế gian, âm phủ, biết cả cõi trời. Đứng trước những bất công tàn bạo của xã hội, Trọng Tương cảm thấy rất bất bình với thời đại. Chàng trách vua chúa đất trời thời bấy giờ, tự nhiên vua Long quân biết đến, liền sai sứ ở dưới âm phủ lên bắt. Vợ chồng Trọng Tương lo âu khôn xiết. Kim Tinh ở trên trời thấy Trọng Tương bị oan trái liền tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng sai Kim Tinh xuống âm phủ bảo Diêm Vương giao cho Trọng Tương xét kiện. Diêm Vương vâng chiếu vua liền dời vị nhường ngôi cho Trọng Tương phụng trị.

Phần hai: Nói về chuyện Trọng Tương sử án: thứ nhất án Tề vương Hàn Tín, thứ hai án Lương Vương Bành Việt, thứ ba án Anh Bố Cửu Giang, thứ tư án Đinh Công, thứ năm án Thích Cơ, thứ sáu án Hạng Vũ, thứ bảy là phần luận tội cho các án oan hồn ở nơi âm phủ. Sau khi luận xét các án âm xong, Trọng Tương nghênh tờ biểu danh tâu lên Ngọc Hoàng. Đức vua phán khen nhân tài Trọng Tương, bèn sai Kim Tinh xuống bảo Diêm Vương cho Trọng Tương hoàn hồn sống lại. Vợ chồng Trọng Tương - Thị Nhậm lại được hội tiệc kết duyên. Thời gian vợ chồng Trọng Tương gặp nhau chưa đầy một năm thì chàng lại thác xuống âm ti. Thị Nhậm quá thương đau bèn thắt cổ theo chồng xuống suối vàng, hai vợ chồng lại cùng sống bên nhau cho trọn đạo.

Tác phẩm Trọng Tương là một loại truyện thơ, nhưng có cốt truyện mạch lạc, rõ ràng, có nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Tuy các nhân vật chưa được miêu tả đến mức điển hình, nhưng cũng đã phân biệt được cá tính của từng lớp người. Tác phẩm có tên xứ sở, tên nước, tên nhân vật, có lai lịch cụ thể, mặc dù chưa hẳn là hoàn toàn chuẩn xác về thời gian, tình tiết câu truyện, hoặc thể như Trọng Tương là ai? Điều chính ở đây là, thông qua tác phẩm, tác giả muốn miêu tả hiện thực xã hội đương thời, vừa xây dựng ước mơ hoài bão, tính công bằng xã hội và hạnh phúc của con người. Tác phẩm mang tính chất thần thoại, nhưng cũng gần như tiểu thuyết hóa. Nội dung của tác phẩm nổi lên chủ đề ở hiền gặp lành, ở ác phải tội, chính nghĩa thắng phi nghĩa, nhân nghĩa thắng bạo tàn. Tác phẩm đề cao và ca ngợi những nhân vật chính diện, có phẩm chất đạo đức (như Trọng Tương) và phê phán đả kích hoặc trừng trị những nhân vật phản diện, bọn cường quyền ác bá, vua quan tàn bạo.

Tư tưởng đạo đức của tác phẩm cũng là tư tưởng đạo đức của đồng bào Tày - Nùng nói riêng, cũng như của đại gia đình các dân tộc Việt Nam nói chung. Mặc dù còn có những mặt hạn chế nhất định, xong truyện thơ Nôm Tày Trọng Tương từ lâu vẫn được lưu tuyền rộng rãi trong đồng bào các dân tộc Tày - Nùng.

T.T.H

TB

TRIỂN LÃM BẢN IN CỔ NHẤT THẾ GIỚI

Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2004 tại Bảo tàng Vương quốc Anh đã trưng bày bản in cổ nhất thế giới. Đó là bản The Diamond Sutra (Kinh Kim Cương) ra đời từ năm 868 (CN), được tìm thấy trên vách của hang Đôn Hoàng, phía Tây Bắc Trung Quốc vào năm 1907 cùng một số bản in cổ khác. Cuốn sách này được in bằng Hán tự và có một lớp gỗ bảo vệ bên ngoài tránh ẩm mục. The Diamond Sutra là một trong số rất nhiều các hiện vật quý, phản ánh khá rõ văn hóa, nghệ thuật của người bản xứ.

Theo đánh giá của Susan Whitfield (Bảo tàng Anh quốc), thì The Diamond Sutra xứng đáng được coi là bản in quý và cổ nhất thế giới. Theo những văn tự ở cuối cuốn sách thì tác giả của The Diamond Sutra là người đàn ông có tên Vương Giới đã làm để cầu phúc cho cha mẹ. Bản in này đã xuất bản hàng trăm năm trước khi xuất hiện tại châu Âu”.

Bản in cổ nhất thế giới hiện đang có một bản sao y bản chính (kích thước, màu giấy) tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, dưới ký hiệu Ht.247.