|
CHỮ VIẾT VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG MỘT NỀN QUỐC VĂN MỚI Ở VIỆT NAM VÀO NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
PHONG LÊ
I
Giao thoa ngôn ngữ trên ba loại chữ viết: Hán, Nôm, Quốc ngữ (cùng với chữ Pháp) là hiện tượng nổi bật vào đầu thế kỷ XX - ghi một dấu ấn đặc trưng của lịch sử và lịch sử văn học dân tộc trước yêu cầu hiện đại hóa.
Nhưng trước khi đến với hiện tượng đặc sắc này cũng cần trở lại một ít tình hình lịch sử.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, khi chữ Quốc ngữ sau ngót ba thế kỷ tồn tại, đã rời khỏi giáo đường và kinh bổn Thiên Chúa giáo để tham gia vào đời sống báo chí, xuất bản ở Nam Bộ, thì chữ Hán và chữ Nôm vẫn tồn tại trong sinh hoạt của các nhà Nho. Toàn bộ lực lượng trí thức Hán học từ Trương Định, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu... vẫn viết văn làm thơ trong mục tiêu “chở đạo” và từ trường sáng tác quen thuộc. Lực lượng viết bằng Quốc ngữ với những người mở đầu là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký... trên một số báo chí và xuất bản phẩm của chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ chỉ là một bộ phận nhỏ hoạt động ở địa bàn đô thị. Hai hệ văn chương này cùng tồn tại, mà không có chuyện tranh giành ảnh hưởng với nhau cho đến hết thế kỷ XIX ở Nam kỳ. Phải đến khi chữ Quốc ngữ chuyển ra Bắc kỳ, rồi khi ở Bắc kỳ và Trung kỳ khởi động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục thì cảnh chợ chiều của nền Hán học và cuộc cạnh tranh giữa bút lông và bút sắt mới được ghi nhận trong những nét vừa hài hước vừa bi thảm trong thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Từ đây là một cuộc chiến giữa Tân học và Cựu học, giữa văn minh và lạc hậu, mà chữ Hán và nền Hán học cũ sẽ trở thành đối tượng của sự phân tích và phê phán. Một cuộc phán xét được soi nhìn dưới ánh sáng của văn minh phương Tây thế kỷ XVIII; qua đó, sau một lịch sử hàng nghìn năm, hình tượng nhà Nho - kẻ sỹ bỗng trở thành hiện thân cho những gì gọi bằng hủ lậu, trong bài thơ Cáo hủ lậu văn (1905), có thể xem là một khai chiến đầy khí thế, để đi đến khai tử nền Cựu học:
“Sao không đập mạnh, thét dài
Cho người mê ngủ ai ai tỉnh dần ?
Sao không chống mảng mê tân
Cho người chìm đuối lần lần vượt lên ?
...
Nho ơi ! Nhắn hỏi mọi nhà:
Khăng khăng Nho thế sao ra cái đời !
Cổ ơi ! Nhắn bảo mọi nơi:
Khư khư cổ mãi đứng ngồi sao đây ?
Thương thay! Thương thay! Thương thương thay !
Ngắn than, dài thở, sự này tại ai ?
Người sao trời rộng đất dài
Ta sao co quắp một nơi thế mà !
Người sao nhảy thẳng bay xa
Ta sao chen chúc xó nhà với nhau !
Người sao làm chủ hoàn cầu
Ta sao nô lệ cúi đầu làm tôi ?”
Cùng với hình tượng nhà Nho, và toàn bộ nội dung nền học thuật cũ, còn là câu chuyện chữ; hoặc nói đúng hơn, còn phải trở lại câu chuyện chữ. Trước sự thắng thế tuyệt đối và hiệu quả quá rõ ràng của chữ Quốc ngữ, Vũ Bội Liên đã có thể viết trong bài Phi lộ, trên tờ Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 28-3-1907: “Chữ Hán quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường văn minh, làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao cơm gạo mới dùng được chữ. Khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng vì nỗi dùi mài một đời học các điều cao xa quá. Chữ thảm, chữ hại làm cho ai mó đến cũng phải quên cả việc thường đời nay để học việc đời xưa, đời xưa thực chết rồi, thực xa rồi”. Từ cái nhìn phê phán này mà dễ dàng hiểu được một đối sánh như được viết trong Văn minh tân học sách (1904): “Một đằng thì mất mấy năm trời để đi học một thứ chữ khác hẳn tiếng mình mà vẫn không có công hiệu; một đằng thì mất không tới sáu tháng là học ngay được văn tự của tiếng mình. Vậy thì không thể không theo chữ nước ta, điều ấy rõ ràng hết sức rồi. Một đằng thì theo đuổi lối học đầu ngọn, ghi nhớ từ chương, rồi chung quy chỉ được có cái hư văn. Một đằng thì để tâm vào những điều giản dị, rõ ràng và thiết yếu mà lại thâu được thực học. Thế thì sách vở không thể không hiệu chính, phép thi không thể không sửa đổi, nhân tài không thể không cổ võ, cũng là một việc hết sức dễ hiểu vậy”(1).
Tất nhiên, khi đã có một khoảng lùi lịch sử để nhìn lại, khi cái nền học mới đã hoàn toàn thắng thế thì sẽ không khó nhận thấy cái nhìn phủ định của phái Duy tân lúc này là có phần thái quá. Nền học vấn cũ, thể hiện qua nội dung và thể chế thi cử để chọn người làm quan, quả là hủ lậu; bởi các định chế và khuôn mẫu được đặt ra là mô phỏng, bắt chước Trung Hoa, và kéo quá dài trong lịch sử; và cách thức thi cử, với trăm nghìn trói buộc, cạm bẫy khiến cho bao người có thực học phải thất cơ lỡ vận, và một nhà thơ có tài là Trần Tế Xương cả 8 khoa không vượt nổi cái ngưỡng Tú tài... Nhưng sự thành đạt của một kẻ sĩ, trong ý nghĩa đích thực của nó, cả khi nhập thế, cũng như khi xuất thế là vượt ra ngoài khuôn khổ đó, để trở về với bản lĩnh của dân tộc và bản sắc của cá nhân. Và đó chính là cơ sở làm nên một nền văn chương - học thuật, gắn nối những tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc, như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sỹ, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến...
Đi sâu hơn và mở rộng ra thêm một chút câu chuyện chữ viết, thì có điều cũng dễ thấy là, khi đã chọn chữ Quốc ngữ, theo hướng la tinh hóa, thì đó là một sự đoạn tuyệt triệt để với hệ chữ truyền thống Hán và Nôm. Con đường này là khác hẳn, hoặc là không giống lắm với cách tìm chữ của Nhật Bản và Triều Tiên, căn bản vẫn dựa trên cơ sở chữ Hán, với một tỷ lệ lớn khối chữ vuông theo hai cách đọc, như chữ Kana của Nhật Bản; hoặc trên một phần chữ Hán rồi thoát dần ra và xây dựng một hệ chữ viết mới rất hữu hiệu, theo nguyên tắc biểu âm như chữ Hangưl của Triều Tiên. Không theo hướng la tinh hóa mà vẫn trên cơ sở chữ truyền thống, hai nền văn hóa và văn chương - học thuật Nhật Bản và Triều Tiên căn bản vẫn có một gắn nối dễ dàng với truyền thống, dựa trên cơ sở chữ Hán.
Còn ở Việt Nam ta? Tôi không phải là người nghiên cứu ngôn ngữ, nên không dám có ý tưởng gì đặc biệt về câu chuyện này. Không có ý tưởng, chẳng hạn: giá như dân tộc ta có một con đường tìm chữ khác, không phải là chữ Nôm từ thế kỷ XIII mà việc tiếp cận và sử dụng nó còn khó gấp năm sáu lần chữ Hán; cũng không phải là chữ Quốc ngữ từ nửa sau thế kỷ XIX cắt đứt mối giây liên hệ với truyền thống (khiến cho, chẳng phải chờ đến bây giờ, tất cả các thế hệ con em của chúng ta, từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay mỗi lúc tiếp xúc với các văn bản Hán, Nôm trên giấy, trên bia, trên hoành phi, câu đối ở khắp các đền chùa, miếu mạo, đều xa lạ); mà là một thứ chữ khác, tựa như chữ Kana hoặc Hangưl của Nhật Bản, Triều Tiên? Và nếu nhìn vào sự phát triển của hai nước này thì có điều thật rõ ràng là, dẫu có cùng một khởi điểm thấp, và một mặt bằng trình độ ngang nhau vào nửa sau thế kỷ XIX, so với ta, cả hai đều có những bước tiến vọt về kinh tế và xã hội, để một đã là cường quốc, một trở thành con rồng. Còn ta, dẫu có sớm việc tìm đến mẫu tự la tinh, để gắn nối và tiếp xúc trực tiếp với văn minh phương Tây, vẫn không có được sự phát triển như hai nước “đồng văn”? ở đây có nguyên nhân gì ở chữ viết không?
Đó là những vấn đề vượt quá sức nghĩ của người viết bài này; và vượt tầm bao quát của bài viết này. Trở lại với đời sống văn học mấy thập niên đầu thế kỷ XX, thì có sự thực rõ ràng ai cũng thấy, đó là, chính nhờ có Quốc ngữ, dễ học, dễ đọc, dễ viết mà chỉ trong một thời gian ngắn, chỉ vài chục năm, gần như một phần không nhỏ nền văn chương, học thuật cũ trong kho tàng dân gian và cổ điển của dân tộc, đã được sưu tập, phiên âm, biên dịch và ấn hành cho sự đọc của toàn dân. Nhờ vào Quốc ngữ mà khu vực dịch thuật đã có thể vươn rộng ra nhiều nước để mở ra những chân trời lạ cho số lượng người đọc bỗng trở nên rất đông đảo. Nhờ vào Quốc ngữ mà một nền sáng tác hiện đại chỉ trong dăm chục năm đã hoàn toàn chiếm lĩnh văn đàn, và vươn lên những đỉnh cao, đạt được những giá trị ổn định cho suốt cả thế kỷ, với hàng trăm tác giả (nếu chỉ tính những tên tuổi lớn), nhiều nghìn tác phẩm, chiếm hàng triệu trang in trên sách, báo - một con số vượt hẳn số trang in của cả nghìn năm Trung đại.
Rõ ràng chữ Quốc ngữ, từ khi cả dân tộc có ý thức sử dụng, đã thực hiện được một khối công việc rất lớn, vừa có ý nghĩa “phục hưng” các giá trị của truyền thống, vừa vươn tới những giá trị mới, trong từng bước hội nhập với nhân loại, với thời đại.
Trở lại với nội dung phủ định quyết liệt cái học cũ của phái Duy tân vào thập niên đầu thế kỷ XX. Khi sự nhận thức về thất bại của dân tộc là sự thấp thua của một trình độ văn minh - văn minh nông nghiệp đối với văn minh công nghiệp, và thất bại đó cũng đang diễn ra ở chính Trung Hoa mà người đầu tiên nhận rõ thực trạng là Lỗ Tấn trong A.Q chính truyện và Khổng Ất Kỷ; khi nhu cầu canh tân đất nước diễn ra không chỉ ở trong nước mà là cả phương Đông còn chìm trong giấc ngủ dài của đêm trường trung cổ, trong đối sánh với phương Tây từ tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang đế quốc chủ nghĩa, thì chính các nhà Nho, các bậc thâm nho trong nền Hán học, chính họ lại là người cổ động tích cực nhất cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ, như Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng:
“Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách China
Chữ kia nghĩa nọ dịch ra tỏ tường”.
(Trần Quý Cáp)
“Trước hết hãy học ngay Quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau
Chữ ta, ta đã thuộc làu
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài”.
(Nguyễn Phan Lãng)
Sau chữ Hán và chữ Nôm, đến bây giờ là Quốc ngữ - được xem là “hồn trong nước”, là “chữ ta”, dẫu sự thật rành rành là nó được cấu tạo bởi các tự mẫu latinh.
Và trong 6 chương trình của Văn minh tân học sách thì việc học và dạy Quốc ngữ là ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất đối với việc xây dựng một nền văn hóa mới, một nền văn minh mới, để thay cho toàn bộ nền văn chương- học thuật cũ, không những không cứu được nước mà còn gây nên sự chìm đắm quá sâu và quá lâu toàn dân tộc trong vòng tối tăm, hủ lậu.
Như vậy là cho đến khi dân tộc đứng trước sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, và đứng trước yêu cầu khẩn thiết phải hiện đại hóa thì những bất cập và bất tiện của hai loại chữ Hán và Nôm mới được thức nhận một cách triệt để. Bởi, phải đến lúc này, khi có một thứ chữ mới làm công cụ để thực hiện nhiều chức năng, trong đó có chức năng bao trùm là canh tân đất nước, để theo kịp các nước “đồng văn”, “đồng chủng” ở phương Đông, và đến được với văn minh phương Tây, thì gần như hầu hết nội dung của nền học vấn cũ đều tỏ ra bất cập và lạc hậu trước thời cuộc. Tất cả đều không còn hiện ra trong vầng hào quang của một thứ tâm lý tự mãn, tự tôn tồn tại quá lâu trong lịch sử. Câu chuyện đối sánh giữa quốc gia Đại Việt với Thiên triều Trung Hoa từng luôn luôn diễn ra trong lịch sử - một bên là những cuộc chiến chống phương Bắc cuối cùng đều giành được thắng lợi; và một bên là nền văn chương học thuật dân tộc lại phỏng theo phương Bắc, và lấy phương Bắc làm mục tiêu đối sánh, thi đua... Vậy bên sự giống nhau của một mô hình chính thể quân chủ tập trung và cùng một hình thái kinh tế phong kiến lạc hậu thì hình thái văn hóa, văn chương, học thuật ở Việt Nam, sau những gì được xem là giống, như trong nhận xét của một học giả lớn thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn(2), hoặc một ông vua hay chữ thế kỷ XIX là Tự Đức(3) là có gì mới hoặc khác so với Trung Hoa? Câu chuyện này phải nhiều thập niên sau phong trào Duy tân mới được tiếp tục trong cuộc tranh luận về Quốc học, mà những người tham gia như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lê Dư, Trịnh Đình Rư... đã có thể đi sâu hơn một ít trong sự thức nhận những chỗ yếu, những mặt thiếu, hoặc thấp thua của nền văn chương học thuật Việt Nam được xây cất bằng chữ Hán và dựa trên các nền tảng tư tưởng Trung Hoa cổ điển.
Quốc học là một vấn đề rộng, và câu chuyện tranh luận hồi ấy chưa có kết thúc, bởi phía chủ trương có một nền Quốc học của nước nhà là Lê Dư còn chưa cho thấy diện mạo chung của nền Quốc học ấy là thế nào, ngoài một số áng văn thơ tiêu biểu, trong tiến trình một nghìn năm tự chủ. Ở đây nếu chỉ tách riêng khía cạnh ngôn ngữ - chữ viết để bàn thì quả không thể không thấy một rào cản rất lớn mà các tác giả Việt Nam khó có thể vượt qua. Người Việt đọc chữ Hán, viết chữ Hán, trong khi nói bằng một thứ tiếng khác; vậy làm sao có thể sánh với người Trung Hoa nói và viết đều bằng chữ Hán, dẫu Hán ngữ cũng phải trải nhiều thay đổi cho thích ứng với sự phát triển chung của tiếng nói, trên một đất nước đông dân nhất thế giới, với rất nhiều phương ngữ, để từ văn ngôn mà sang bạch thoại. Và sau chữ còn là cả một hệ thống nhiều lưu phái triết học có từ nhiều trăm năm trước Công nguyên; sau chữ là cả một lịch sử văn học, qua bao triều đại, không bao giờ vắng thiếu sự rực rỡ, phong phú, và các đỉnh cao. Hiểu thế để thấy, đi vào sự so sánh này, giữa văn học Trung Hoa nằm trong cái nôi của một nền văn minh lớn, có lịch sử nhiều nghìn năm, với văn học Việt Nam mượn chữ Hán, chỉ trong ngót một nghìn năm, thì quả là rất bất lợi. Duy có điều đáng nói là, do quy định của lịch sử, việc dùng chữ Hán để phô diễn những vấn đề của chính dân tộc mình cho một bộ phận tầng lớp trí thức, và qua họ mà đến với một đối tượng công chúng rộng rãi hơn, thì đó vẫn là lối thoát thông minh. Và sự thật là, trên con đường mượn chữ Hán, văn học Việt Nam cũng đã có những tác phẩm quý giá với nội dung yêu nước và khẳng định chủ quyền của dân tộc.
Tất nhiên toàn bộ muôn mặt đời sống, gồm cả đời sống nội tâm, riêng tư của con người vẫn có thể tìm đến chữ Hán. Nhưng như vậy, nó không thể tạo một cộng hưởng lớn, bởi chỉ những người có học (số này là rất ít) mới biết đọc - tất nhiên là đọc theo lối Hán Việt, kiểu giao lưu, đối ẩm, thù tạc giữa các nhà Nho, chứ không phải đọc Nôm, theo lối đọc của toàn dân. Và do thế tất cả các nhà thơ lớn của dân tộc kể từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... qua Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... đến Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều có con đường tìm đến thơ Nôm. Và Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, nếu không có được bản dịch của Đoàn Thị Điểm (?) thì làm sao có được sự sống đích thực của một tuyệt phẩm trong văn mạch dân tộc?
*
**
Con đường đi từ chữ Hán và chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ, từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX trong sự trình bày sơ lược như trên là phù hợp với tình thế mới của lịch sử, một bên là sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, một bên là nhu cầu khẩn thiết phải “canh tân” đất nước.
Trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, vai trò chữ Quốc ngữ dần dần được khẳng định trên phạm vi cả nước, và trở thành công cụ xây dựng một nền báo chí và văn thơ hiện đại. Cố nhiên chữ Hán và chữ Nôm chưa phải đã hết vai trò lịch sử của nó. Bởi số đông người viết cho đến lúc này đều là môn đồ của một nền Hán học lâu đời. Tuy đứng ở hàng đầu việc cổ động cho Quốc ngữ, nhưng không ít các nhà Nho lại còn ít biết, hoặc chưa thể đọc, viết một cách thông thạo thứ chữ mới này. Còn bộ phận công chúng có thể đọc, thì trong bước đầu làm quen với thị trường văn học ở buổi giao thời, họ thường đọc cả Hán, Nôm và Quốc ngữ. Và đó là một cần thiết lịch sử, tạo nên sự giao thoa của ba loại chữ, trong quá trình văn học chuyển gấp từ thời trung đại sang thời hiện đại. Nếu ở thành thị, một lớp công chúng mới hình thành theo sự thay đổi của nền kinh tế chuyển sang hình thái thuộc địa đã sớm quen thuộc với chữ Quốc ngữ thì ở nông thôn, vẫn là cả một địa bàn rộng lớn cho văn học Nôm và văn học dân gian truyền miệng. Đọc và viết bằng chữ Nôm vẫn là nhu cầu của một bộ phận trí thức bình dân; và do vậy Phan Bội Châu, trong thời kỳ là “ông già Bến Ngự”, từ 1925 đến 1940, lại dồn sức và tâm sự cho thơ Nôm. Ngay cả Nguyễn Ái Quốc, khi cần viết cho đồng bào quê hương, trong thời gian xa xứ, vẫn viết cả bằng thơ Nôm, bên cạnh chữ Pháp và Quốc ngữ. Đó là Nhật ký chìm tàu, bản in ở Diễn Châu - Nghệ An, năm 1930, trên cả hai thứ chữ Nôm và Quốc ngữ.
Nếu chữ Nôm cùng song song với chữ Quốc ngữ để biểu ý và ghi âm tiếng nói dân tộc, thì chữ Hán vẫn tồn tại như một bộ phận văn học quan trọng trong hai thập niên đầu thế kỷ XX với vai trò chủ đạo của Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các nhà Nho trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Và áng văn bằng chữ Hán cuối cùng, có tầm vóc lịch sử lớn trong văn học thế kỷ XX - đó là Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh, viết trong các nhà lao ở Quảng Tây - Trung Quốc, năm 1943.
Như vậy, sự giao thoa ngôn ngữ trong mấy thập niên đầu thế kỷ XX là một hiện tượng có tính lịch sử và mang dấu ấn thời đại.
Thế nhưng trong giao thoa là sự trưởng thành vượt bực để đạt đỉnh cao các năng lực biểu đạt của chữ Quốc ngữ. Chỉ trên dưới 60 năm, nếu tính từ những sáng tác đầu tiên của Trương Vĩnh Ký ở Nam kỳ, hoặc trên dưới 20 năm nếu tính từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chữ Quốc ngữ đã đủ sức đóng vai trò là phương tiện hiệu quả nhất cho công cuộc hiện đại hóa văn chương- học thuật dân tộc. Trong buổi đầu, ở Nam kỳ, nó là công cụ cho báo chí, khởi đầu là Gia Định báo (1865); rồi qua hai trường học lớn là Đông Dương tạp chí (1914-1917) và Nam Phong tạp chí (1917-1934) ở Bắc kỳ, mà ghi nhận những thành tựu đầu tiên trong công việc sưu tập, biên khảo, nghị luận và dịch thuật... như là một bộ phận quan trọng và là một chuẩn bị cần thiết cho việc xây dựng một nền Quốc văn hiện đại.
II
Một nền Quốc văn, trong nghĩa đầy đủ của nó là bao gồm cả hai bộ phận: văn chương và học thuật. Văn chương là đời sống sáng tác, trên hai thể loại chính là thơ, văn. Học thuật là đời sống khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật. Cả hai, trong tác động qua lại, làm nên diện mạo hoàn chỉnh cho một nền Quốc văn mới của dân tộc, trong tiến trình hiện đại hóa.
Trách nhiệm tạo thật sự những chuyển động và đưa lên đường ray hiện đại một nền Quốc văn mới, rồi sẽ đặt lên vai một thế hệ người viết xuất hiện vào những năm 20, với Tản Đà (1889-1939) - người tiền trạm của Phong trào thơ mới; với Phạm Duy Tốn (1883-1924) - người viết thiên truyện ngắn đầu tiên theo khuynh hướng hiện thực; với Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) - tác giả Tố Tâm, người khai sinh nền tiểu thuyết mới và trào lưu lãng mạn trong văn xuôi... Thế nhưng công việc chuẩn bị cho sự nghiệp sáng tác nằm trong các hoạt động sưu tập, phiên âm, biên khảo, dịch thuật thì đã được chuẩn bị sớm hơn - kể từ thế hệ Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Đỗ Mục (1866-?), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941), Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Can Mộng (1875-1953), Hoàng Tăng Bí (1883-1939), Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940), Trần Trọng Kim (1887-1953), Phan Khôi (1887-1959), Bùi Kỷ (1887-1960), Nguyễn Văn Tố (1889-1947), Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942), Phạm Quỳnh (1891-1945), Lê Thước (1891-1975)...
Đây là lớp người có vốn kiến thức sâu về văn hóa phương Đông, nhưng cũng không hoàn toàn xa lạ với văn hoá phương Tây. Phan Kế Bính, tác giả Việt Hán văn khảo và Việt Nam phong tục, chuyên giữ mục Hán văn cho Đông Dương tạp chí, nhưng theo Vũ Ngọc Phan, người đọc vẫn cứ nghĩ ông là nhà Tây học kiêm Hán học.
Công việc sưu tập, phiên âm, biên khảo, dịch thuật ở buổi đầu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây đã được đặt lên vai thế hệ các nhà Nho có ít nhiều vốn Tây học này, bắt đầu từ trong và sau Thế chiến I, chủ yếu chung quanh hai tờ Đông Dương tạp chí (1914-1917) và Nam Phong tạp chí (1917-1934).
Hoạt động của hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí, trong hiệu quả khách quan của nó, đã góp phần giới thiệu di sản văn hóa cổ, bao gồm vốn văn hóa dân gian và văn học cổ điển dân tộc; đồng thời qua dịch thuật và giới thiệu cũng góp phần thúc đẩy quá trình tiếp xúc với văn học phương Tây, giúp hướng tới và đẩy nhanh con đường hiện đại hóa văn học dân tộc(4).
Trong thế hệ các nhà Nho - học giả này có nhiều tên tuổi rất đáng kính nể. Nguyễn Văn Tố (1889-1947) - phụ trách Trường Viễn đông Bác cổ, người luôn luôn mặc quốc phục, đầu để búi tó, đối tượng chế riễu của nhóm Phong hóa, là người am hiểu sâu cả hai nền văn hóa Đông - Tây. Theo Hoàng Ngọc Phách, ông là nhà “bác học Việt Nam”, là người còn giỏi Pháp văn hơn cả nhiều thầy Tây ở Trường Bưởi. Bùi Kỷ (1887-1960) đậu Cử nhân, rồi Phó bảng, có mấy năm du học ở Pháp, theo Đặng Thai Mai, được người đương thời xem là “Hán - Pháp tinh thông”... “Cụ Bùi hồi này, cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn ở thủ đô”(5). ở tư cách nhà giáo - học giả, lớp thầy học của thế hệ Đặng Thai Mai, ngoài Bùi Kỷ, còn phải nhắc đến Võ Liêm Sơn (1888-1949), tác giả Hài văn và Cô lâu mộng có cả bằng Thành chung Tây học và Cử nhân Hán học trong hai năm 1911 và 1912; và Lê Thước (1891-1975), người mẫu mực về cả hai phương diện: tri thức Đông - Tây và khoa sư phạm...
Sau thế hệ những tên tuổi đã kể trên là một lớp trí thức trẻ hơn được đào tạo ở các bậc Trung học và Cao học Pháp - Việt. Nền thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ từ năm 1919, nên vốn Hán học ở lớp người này có mỏng dần đi, mỏng đi nhưng họ vẫn còn có. Có thể nói họ là lớp Tây học đầu tiên có ít nhiều vốn Nho học. Kể từ thế hệ này, sự lập thân và tu dưỡng nghề nghiệp của họ vừa dựa trên các kết quả hạn chế ở nhà trường, vừa là sự ráo riết mở rộng cái vốn đọc và học văn hóa phương Tây qua Pháp ngữ. Cũng cần nói thêm, từ đầu những năm 20, nền giáo dục ở nhà trường Pháp - Việt là hoàn toàn chuyên dành cho ngôn ngữ Pháp và văn học Pháp. Lớp sinh viên Cao đẳng Sư phạm, bằng con đường vừa học ở trường, vừa tự học, kể từ Hoàng Ngọc Phách, Đặng Trần Phất, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Nam Xương, Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Nguyễn Mạnh Tường, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khắc Viện... sẽ qua tiếng Pháp mà trực tiếp đến với lịch sử văn hóa và văn học Pháp, kể từ thế kỷ XVII cho đến đầu thế kỷ XX. Chữ Quốc ngữ sau hai thập niên vận động đã có thể tạo được một lớp công chúng thành thị cho văn học, lúc này đã có một đời sống thị trường khá nhộn nhịp ở Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bông, Tràng Tiền, không kể thị trường Sài Gòn đã có sớm hơn; thứ chữ Quốc ngữ đó giờ đây chỉ còn co lại một vị trí rất ít ỏi trong ba năm đầu Chương trình Tiểu học; còn chữ Hán chỉ được một giờ trong tuần ở Chương trình Cao đẳng.
Giáo dục trong nhà trường là như vậy, nhưng đời sống văn hóa tinh thần trong kết quả của cuộc vận động truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nơi số đông công chúng thành thị thì chắc chắn còn được mở rộng hơn, ngoài ý muốn của chính quyền thực dân.
Cố nhiên mục tiêu và khả năng trang bị của nền giáo dục Pháp - Việt là nhằm đào tạo những người thừa hành trong bộ máy hành chính của chế độ thuộc địa. Nhưng có sự thực là bên cạnh số ít ỏi những “ông Tây An Nam”, rất nhiều trí thức đều có tinh thần dân tộc và có ý thức tự học, tự lập rất cao để trở thành không phải trí thức thuộc địa như chính quyền thực dân mong muốn, mà là trí thức dân tộc với các tên tuổi thuộc các thế hệ như đã kể trên. Số lớn trong họ đều hướng về những nghề tương đối tự do như làm luật sư, thầy giáo, làm báo, hoạt động khoa học, kĩ thuật hoặc nghiên cứu học thuật, viết văn... Đó là những nghề không nhằm vào sự giàu sang, vinh thân phì gia; càng không chịu thân phận công chức nô lệ. Cái định hướng chọn loại nghề tự do này cũng nói lên phần nào ý thức dân tộc, lòng tự trọng, niềm mong muốn tự do của người trí thức Việt Nam; và mặt khác cũng chứng minh sự nhạy cảm của các thế hệ trí thức trước nhu cầu canh tân, đổi mới đất nước.
Vậy là, qua hoạt động khá liên tục của mấy thế hệ học giả, mà hai phương diện của văn chương - học thuật là di sản dân gian và cổ điển của dân tộc và tinh hoa của văn hóa nước ngoài để phổ cập cho công chúng rộng rãi đã được sưu tập, phát hiện, tuyển chọn, phiên âm, phiên dịch, chú giải, giới thiệu, trong suốt hai thập niên đầu thế kỷ XX, ở tư cách cá nhân, hoặc thông qua các nhóm, chung quanh một tờ báo, một văn đoàn, một ông chủ xuất bản.
Cố nhiên, sự chuẩn bị và những khởi động đầu tiên cho công việc này đã được tiến hành vào nửa sau thế kỷ XIX ở Nam kỳ - do là đất thuộc địa nên chữ Pháp và chữ Quốc ngữ có điều kiện và cần được phổ cập sớm hơn. Và người có công đầu tiên trên lĩnh vực này là Trương Vĩnh Ký (1837-1898) - nhà bác học biết rất nhiều thứ tiếng, nhưng vẫn dành phần tâm huyết cho việc phiên âm các văn bản văn chương cổ điển và biên soạn văn học dân gian bằng Quốc ngữ như Kim Vân Kiều của Nguyễn Du (1875), Đại Nam Quốc sử diễn ca (1887), Lục súc tranh công (1889), Phan Trần truyện (1889), Lục Vân Tiên truyện (in lần đầu 1889, lần thứ tư 1897)...
Một nhận thức tổng quan về lịch sử văn chương- học thuật dân tộc là rất cần cho việc xây dựng một nền sáng tác đương đại. Hiểu tình hình trên để thấy công việc sưu tập, phiên âm, phiên dịch di sản cổ nơi nguyên bản Hán Nôm ra văn bản Quốc ngữ, trong hoạt động âm thầm của mấy thế hệ trí thức, vào những năm mười, rồi hai mươi, để thông qua các phương tiện in ấn mà phổ cập cho công chúng rộng rãi những người có chữ và ham học, ham đọc là một bước ngoặt rất quyết định cho kho tàng văn học cổ trở thành món ăn tinh thần của nhân dân, và khiến cho văn học cổ tham gia được vào đời sống văn học đương đại.
Đó là các văn bản Truyện Kiều bằng Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Văn Vĩnh trên cơ sở hai bản Phường và Kinh; rồi văn bản Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim.
Đó là Chinh phụ ngâm mà vấn đề tác giả là Đoàn Thị Điểm hoặc Phan Huy ích đã được đặt ra.
Là việc phiên âm, phiên dịch và giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu trong vốn cổ dân tộc kể từ thời Lý - Trần. Trên Đông Dương tạp chí, Phan Kế Bính trích dịch Lê Quý Đôn, dịch Đại Nam nhất thống chí; Nguyễn Đỗ Mục biên tập Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải ... Trên Nam Phong tạp chí, Nguyễn Hữu Tiến dịch Vũ trung tùy bút, Lĩnh Nam dật sử, lược dịch Đại Nam liệt truyện, biên dịch Giai nhân di mặc, biên tập thơ cổ trong Cổ súy nguyên âm rồi Nam âm thi văn khảo biện, soạn Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa, và tuồng Đông A song phụng; Nguyễn Trọng Thuật dịch Thượng Kinh kí sự và viết tiểu thuyết Quả dưa đỏ.
Ưu Thiên Bùi Kỷ nghiên cứu các lối văn và thể văn dân tộc trong Quốc văn cụ thể, biên khảo Trê Cóc và Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim. Sở Cuồng Lê Dư soạn Nam quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử, Bạch Vân Am thi văn tập, Vị Xuyên thi văn tập, Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập.
Một loạt các truyện Nôm được phiên âm ra Quốc ngữ và bày bán rẻ trên các vỉa hè, đường phố Hàng Đào, Hàng Gai như Phan Trần, Phạm Tải Ngọc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Nhị độ mai, Thạch Sanh, Hoàng Trừu...
Và về kho tàng văn học dân gian, trên hai thể loại tiêu biểu là truyện cổ và ca dao, với công khai phá đầu tiên của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, là người, chỉ trong khoảng thời gian dưới 10 năm, từ 1927-1936, đã biên soạn và cho ấn hành khoảng 10 bộ sách gồm Đông Tây ngụ ngôn - 2 quyển, Nhi đồng lạc viên, Truyện cổ nước Nam - 2 quyển, Câu đối, Đào nương ca, Cổ học tinh hoa, Tục ngữ phong dao, Để mua vui...
Những khai phá ban đầu này rất đáng trân trọng, bởi đó chính là sự hưởng ứng và bổ sung cho nhau trong ý thức hoàn thiện diện mạo văn học dân tộc, và trên một nhận thức khoa học về đối tượng - do người tiến hành là các thế hệ tác giả nhận được ít nhiều ảnh hưởng lối tư duy Thái Tây, của văn hóa phương Tây.
Các hoạt động đó, theo tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên. Nó nằm trong ý thức về sự phục hưng văn hóa dân tộc. Có thể nói đến một cuộc phục hưng văn hóa như thế, có phần âm thầm nhưng không ít sôi nổi bên trong; và cố nhiên, khác với mọi cuộc phục hưng có quy mô rộng lớn, và có tầm nhân loại như thời kỳ Phục hưng (Renaissance) thế kỷ XVI của phương Tây, đây là cuộc phục hưng dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân và trong khuôn khổ chế độ thuộc địa. Một cuộc phục hưng trên cơ sở của ý thức dân tộc, trên mong muốn gây một niềm tự tôn: Việt Nam có một nền văn hóa riêng, không những lâu đời mà còn mang đặc trưng riêng, qua các tác gia thành văn và qua một nền văn chương bình dân, được xây dựng chính trên tiếng nói dân tộc và một tâm thức rất giàu bản sắc dân tộc. Nền văn học đó quả có chịu ảnh hưởng sâu văn hóa Trung Hoa trong một bộ phận viết bằng chữ Hán; nhưng ở bộ phận chữ Nôm và loại hình văn hóa dân gian lại là nơi bảo lưu rất rõ cốt tính dân tộc.
Sau việc sưu tập, phiên âm, phiên dịch, biên soạn là việc phân tích, khảo sát, đánh giá vốn di sản văn chương học thuật dân tộc. Câu chuyện này sẽ được đặt ra vào những năm 20 và 30, chung quanh câu hỏi: Chúng ta đã có một nền Quốc học chưa trong so sánh với văn minh Trung Hoa ? giữa những người tham gia là Ngô Đức Kế, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lê Dư, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... Đây là vấn đề có tầm học thuật khá rộng, chúng tôi xin được bàn vào một dịp khác.
Nhân vấn đề chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mà vấn đề ngôn ngữ dân tộc nói chung cũng được quan tâm. Do tiếp xúc với một ngôn ngữ sáng sủa, khoa học như ngôn ngữ Pháp nên yêu cầu khoa học hóa tiếng Việt, để nhanh chóng nâng cao hiệu quả sử dụng và phổ cập của nó cũng sớm được đặt ra, kể từ Việt văn tinh nghĩa (1928) của Nguyễn Trọng Thuật đến Việt Nam văn phạm (1943) của Trần Trọng Kim. Cố nhiên ở khu vực này thì giới nghiên cứu ngôn ngữ hôm nay của chúng ta đã có thể tiến rất xa và đặt ra những vấn đề rất mới. Nhưng trong những khởi động ban đầu ấy, điều không thể phủ nhận là một yêu cầu khoa học hóa tiếng Việt cùng một niềm yêu mến đến thiết tha tiếng Việt trải mấy thế hệ - từ Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đến Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, nó chính là một trong các động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn chương và đưa lại những thành tựu rạng rỡ trong văn xuôi và thơ.
Điều dễ thấy là có một khoảng thời gian ngót 10 năm, vào những năm 30, hoạt động học thuật dường như có thưa đi mà nhường sự sôi nổi cho phong trào sáng tác và phê bình. Những năm văn đàn xuất hiện dồn dập các tác phẩm tiêu biểu trên cả hai thể loại lớn là văn xuôi và thơ. Những năm xuất hiện nhiều tên tuổi tác gia, tác phẩm trên cả ba trào lưu: lãng mạn, hiện thực và cách mạng, có ý nghĩa kết tinh và hoàn thiện diện mạo hiện đại của nền văn học dân tộc.
Những kết quả gặt hái được trong phong trào sáng tác những năm 30 không thể nói là không có nguyên cớ trong sự phát triển của đời sống học thuật 30 năm trước đó, nó là kết quả mài miệt khổ công của vài ba thế hệ từ Nho học sang Tây học.
Và ở chặng cuối này, cùng với sự phát triển lên đỉnh cao của ba khuynh hướng sáng tác là sự ra đời những tác phẩm tiêu biểu trên các khu vực biên khảo, nghị luận, phê bình như Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, Văn học đời Lý và Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, Văn học khái luận của Đặng Thai Mai... Đấy là những tác phẩm xây dựng trên sức vóc của một người mà sau nửa thế kỷ nhìn lại vẫn thấy bảo lưu được các giá trị học thuật - những giá trị mà nhiều người trong giới nghiên cứu sau 1945 từng theo đuổi, nhưng không dễ ai cũng đạt được.
Đoạn văn sau đây nằm trong phần cuối sách Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm là một tổng kết có giá trị khái quát về sức sống của dân tộc và văn hóa dân tộc, và về tương lai của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam: “... dân tộc ta vốn là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa, lại biết nhờ cái văn hóa người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một nền văn học, tuy không phong phú, rực rỡ, nhưng cũng có chỗ khả quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết tìm thấy trong nền văn học của nước Pháp những điều sở trường để bổ sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu các vấn đề có liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm cho cái tinh thần dân tộc được mạnh lên để gây lấy một nền văn học vừa hợp với cái hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cái cốt cách cổ truyền”(6).
*
**
Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc và ngót mười thế kỷ độc lập tự chủ, dưới sức ép và luôn luôn chịu sự uy hiếp của các triều đại phong kiến phương Bắc, dân tộc và văn hóa dân tộc vẫn giữ được một bản lĩnh riêng, một cốt cách riêng để khẳng định sự tồn tại và phát triển.
Sau hơn một nửa thế kỷ bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược, dân tộc và văn hóa dân tộc lại biết cách thu hút và tiếp nhận những giá trị mới nhằm tạo nên một diện mạo mới trong sinh hoạt tinh thần của mình để không lạc hậu trước thời đại.
Đó là tình hình mới trong một cuộc chuyển giao thời đại (từ trung đại sang hiện đại) đã có thể được nhận diện, phân tích và tổng kết chỉ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, khi dân tộc đứng trước bước ngoặt lịch sử: Cách mạng tháng Tám năm 1945./.
P.L
CHÚ THÍCH:
(1) Dẫn theo Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX; Nxb. Văn hóa, H. 1961, tr.179.
(2) “Nước Nam ta, hai triều Lý Trần ngang vào triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa nhân tài, cốt cách văn chương không khác gì Trung Hoa (...) Thấy văn đời Lý, lối biền ngẫu bóng bẩy, đẹp đẽ giống thơ văn đời Đường, văn đời Trần lưu loát, chỉnh tề, giống kiểu văn đời Tống”; Từ trong di sản; Nxb. Tác phẩm mới, H. 1981, tr.96.
(3) “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán.
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”.
(4) Năm 1972, trong hồi kí Nhớ nghĩ chiều hôm, Đào Duy Anh viết: “Tôi tự học văn học Việt Nam và biết viết Quốc văn phải nói thực một phần không ít là nhờ chuyên đọc tạp chí Nam Phong. Trong khi dạy học ở Đồng Hới, đồng thời với việc học thêm chữ Pháp theo một chương trình nhất định, tôi không bỏ việc nghiên cứu Quốc văn và Hán văn, vẫn lấy Tạp chí Nam Phong làm công cụ chính”; Bản in của Nxb. Trẻ, 1989, tr.19.
(5) Đặng Thai Mai: Hồi kí; Nxb. Tác phẩm mới, H. 1985, tr.297.
(6) Bộ Giáo dục-Trung tâm học liệu xuất bản; Sài Gòn; in lần thứ mười; 1968, tr.461.
TÓM TẮT
Sự thay thế chữ Hán và chữ Nôm để chuyển sang chữ Quốc ngữ, trên phạm vi cả nước vào ba thập niên đầu thế kỷ XX. Qua công cụ mới là chữ Quốc ngữ, một nền Quốc văn mới đã hình thành, với bước khởi đầu - đó là công việc sưu tầm, phiên âm, phiên dịch, biên soạn vốn văn chương, học thuật dân tộc trên hai khu vực Hán-Nôm, và vốn văn hóa dân gian; và việc dịch thuật trên hai khu vực: Pháp và Trung Hoa. Đi sâu hơn vào phạm vi học thuật là các cuộc bàn thảo, tranh luận chung quanh việc xây dựng một nền Quốc văn mới, trên cơ sở tiếp thu và đánh giá lại vốn di sản cũ.
Từ những năm 30, xuất hiện một nền sáng tác mới, bằng chữ Quốc ngữ, trên cả ba trào lưu lớn là: trào lưu lãng mạn, trào lưu hiện thực, trào lưu cách mạng, với các tác gia và tác phẩm tiêu biểu, có ý nghĩa kết tinh và hoàn thiện diện mạo hiện đại của nền văn học dân tộc.
Sự kết tinh thành tựu về nghiên cứu học thuật xuất hiện muộn hơn một chút - vào cuối những năm 30 và nửa đầu những năm 40.
Cho đến lúc này, quá trình hiện đại hóa văn chương- học thuật dân tộc đã có thể được xem là kết thúc; và nền Quốc văn mới đã có một gương mặt tương đối hoàn chỉnh, trên các phương diện: sáng tác, nghiên cứu, nghị luận, phê bình./.
|