TB

CHỮ VIẾT VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG MỘT NỀN QUỐC VĂN MỚI Ở VIỆT NAM VÀO NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

PHONG LÊ

I

Giao thoa ngôn ngữ trên ba loại chữ viết: Hán, Nôm, Quốc ngữ (cùng với chữ Pháp) là hiện tượng nổi bật vào đầu thế kỷ XX - ghi một dấu ấn đặc trưng của lịch sử và lịch sử văn học dân tộc trước yêu cầu hiện đại hóa.

Nhưng trước khi đến với hiện tượng đặc sắc này cũng cần trở lại một ít tình hình lịch sử.

Từ nửa sau thế kỷ XIX, khi chữ Quốc ngữ sau ngót ba thế kỷ tồn tại, đã rời khỏi giáo đường và kinh bổn Thiên Chúa giáo để tham gia vào đời sống báo chí, xuất bản ở Nam Bộ, thì chữ Hán và chữ Nôm vẫn tồn tại trong sinh hoạt của các nhà Nho. Toàn bộ lực lượng trí thức Hán học từ Trương Định, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu... vẫn viết văn làm thơ trong mục tiêu “chở đạo” và từ trường sáng tác quen thuộc. Lực lượng viết bằng Quốc ngữ với những người mở đầu là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký... trên một số báo chí và xuất bản phẩm của chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ chỉ là một bộ phận nhỏ hoạt động ở địa bàn đô thị. Hai hệ văn chương này cùng tồn tại, mà không có chuyện tranh giành ảnh hưởng với nhau cho đến hết thế kỷ XIX ở Nam kỳ. Phải đến khi chữ Quốc ngữ chuyển ra Bắc kỳ, rồi khi ở Bắc kỳ và Trung kỳ khởi động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục thì cảnh chợ chiều của nền Hán học và cuộc cạnh tranh giữa bút lông và bút sắt mới được ghi nhận trong những nét vừa hài hước vừa bi thảm trong thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Từ đây là một cuộc chiến giữa Tân học và Cựu học, giữa văn minh và lạc hậu, mà chữ Hán và nền Hán học cũ sẽ trở thành đối tượng của sự phân tích và phê phán. Một cuộc phán xét được soi nhìn dưới ánh sáng của văn minh phương Tây thế kỷ XVIII; qua đó, sau một lịch sử hàng nghìn năm, hình tượng nhà Nho - kẻ sỹ bỗng trở thành hiện thân cho những gì gọi bằng hủ lậu, trong bài thơ Cáo hủ lậu văn (1905), có thể xem là một khai chiến đầy khí thế, để đi đến khai tử nền Cựu học:

“Sao không đập mạnh, thét dài
Cho người mê ngủ ai ai tỉnh dần ?
Sao không chống mảng mê tân
Cho người chìm đuối lần lần vượt lên ?
...
Nho ơi ! Nhắn hỏi mọi nhà:
Khăng khăng Nho thế sao ra cái đời !
Cổ ơi ! Nhắn bảo mọi nơi:
Khư khư cổ mãi đứng ngồi sao đây ?
Thương thay! Thương thay! Thương thương thay !
Ngắn than, dài thở, sự này tại ai ?
Người sao trời rộng đất dài
Ta sao co quắp một nơi thế mà !
Người sao nhảy thẳng bay xa
Ta sao chen chúc xó nhà với nhau !
Người sao làm chủ hoàn cầu
Ta sao nô lệ cúi đầu làm tôi ?”

Cùng với hình tượng nhà Nho, và toàn bộ nội dung nền học thuật cũ, còn là câu chuyện chữ; hoặc nói đúng hơn, còn phải trở lại câu chuyện chữ. Trước sự thắng thế tuyệt đối và hiệu quả quá rõ ràng của chữ Quốc ngữ, Vũ Bội Liên đã có thể viết trong bài Phi lộ, trên tờ Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 28-3-1907: “Chữ Hán quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường văn minh, làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao cơm gạo mới dùng được chữ. Khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng vì nỗi dùi mài một đời học các điều cao xa quá. Chữ thảm, chữ hại làm cho ai mó đến cũng phải quên cả việc thường đời nay để học việc đời xưa, đời xưa thực chết rồi, thực xa rồi”. Từ cái nhìn phê phán này mà dễ dàng hiểu được một đối sánh như được viết trong Văn minh tân học sách (1904): “Một đằng thì mất mấy năm trời để đi học một thứ chữ khác hẳn tiếng mình mà vẫn không có công hiệu; một đằng thì mất không tới sáu tháng là học ngay được văn tự của tiếng mình. Vậy thì không thể không theo chữ nước ta, điều ấy rõ ràng hết sức rồi. Một đằng thì theo đuổi lối học đầu ngọn, ghi nhớ từ chương, rồi chung quy chỉ được có cái hư văn. Một đằng thì để tâm vào những điều giản dị, rõ ràng và thiết yếu mà lại thâu được thực học. Thế thì sách vở không thể không hiệu chính, phép thi không thể không sửa đổi, nhân tài không thể không cổ võ, cũng là một việc hết sức dễ hiểu vậy”(1).

Tất nhiên, khi đã có một khoảng lùi lịch sử để nhìn lại, khi cái nền học mới đã hoàn toàn thắng thế thì sẽ không khó nhận thấy cái nhìn phủ định của phái Duy tân lúc này là có phần thái quá. Nền học vấn cũ, thể hiện qua nội dung và thể chế thi cử để chọn người làm quan, quả là hủ lậu; bởi các định chế và khuôn mẫu được đặt ra là mô phỏng, bắt chước Trung Hoa, và kéo quá dài trong lịch sử; và cách thức thi cử, với trăm nghìn trói buộc, cạm bẫy khiến cho bao người có thực học phải thất cơ lỡ vận, và một nhà thơ có tài là Trần Tế Xương cả 8 khoa không vượt nổi cái ngưỡng Tú tài... Nhưng sự thành đạt của một kẻ sĩ, trong ý nghĩa đích thực của nó, cả khi nhập thế, cũng như khi xuất thế là vượt ra ngoài khuôn khổ đó, để trở về với bản lĩnh của dân tộc và bản sắc của cá nhân. Và đó chính là cơ sở làm nên một nền văn chương - học thuật, gắn nối những tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc, như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sỹ, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến...

Đi sâu hơn và mở rộng ra thêm một chút câu chuyện chữ viết, thì có điều cũng dễ thấy là, khi đã chọn chữ Quốc ngữ, theo hướng la tinh hóa, thì đó là một sự đoạn tuyệt triệt để với hệ chữ truyền thống Hán và Nôm. Con đường này là khác hẳn, hoặc là không giống lắm với cách tìm chữ của Nhật Bản và Triều Tiên, căn bản vẫn dựa trên cơ sở chữ Hán, với một tỷ lệ lớn khối chữ vuông theo hai cách đọc, như chữ Kana của Nhật Bản; hoặc trên một phần chữ Hán rồi thoát dần ra và xây dựng một hệ chữ viết mới rất hữu hiệu, theo nguyên tắc biểu âm như chữ Hangưl của Triều Tiên. Không theo hướng la tinh hóa mà vẫn trên cơ sở chữ truyền thống, hai nền văn hóa và văn chương - học thuật Nhật Bản và Triều Tiên căn bản vẫn có một gắn nối dễ dàng với truyền thống, dựa trên cơ sở chữ Hán.

Còn ở Việt Nam ta? Tôi không phải là người nghiên cứu ngôn ngữ, nên không dám có ý tưởng gì đặc biệt về câu chuyện này. Không có ý tưởng, chẳng hạn: giá như dân tộc ta có một con đường tìm chữ khác, không phải là chữ Nôm từ thế kỷ XIII mà việc tiếp cận và sử dụng nó còn khó gấp năm sáu lần chữ Hán; cũng không phải là chữ Quốc ngữ từ nửa sau thế kỷ XIX cắt đứt mối giây liên hệ với truyền thống (khiến cho, chẳng phải chờ đến bây giờ, tất cả các thế hệ con em của chúng ta, từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay mỗi lúc tiếp xúc với các văn bản Hán, Nôm trên giấy, trên bia, trên hoành phi, câu đối ở khắp các đền chùa, miếu mạo, đều xa lạ); mà là một thứ chữ khác, tựa như chữ Kana hoặc Hangưl của Nhật Bản, Triều Tiên? Và nếu nhìn vào sự phát triển của hai nước này thì có điều thật rõ ràng là, dẫu có cùng một khởi điểm thấp, và một mặt bằng trình độ ngang nhau vào nửa sau thế kỷ XIX, so với ta, cả hai đều có những bước tiến vọt về kinh tế và xã hội, để một đã là cường quốc, một trở thành con rồng. Còn ta, dẫu có sớm việc tìm đến mẫu tự la tinh, để gắn nối và tiếp xúc trực tiếp với văn minh phương Tây, vẫn không có được sự phát triển như hai nước “đồng văn”? ở đây có nguyên nhân gì ở chữ viết không?

Đó là những vấn đề vượt quá sức nghĩ của người viết bài này; và vượt tầm bao quát của bài viết này. Trở lại với đời sống văn học mấy thập niên đầu thế kỷ XX, thì có sự thực rõ ràng ai cũng thấy, đó là, chính nhờ có Quốc ngữ, dễ học, dễ đọc, dễ viết mà chỉ trong một thời gian ngắn, chỉ vài chục năm, gần như một phần không nhỏ nền văn chương, học thuật cũ trong kho tàng dân gian và cổ điển của dân tộc, đã được sưu tập, phiên âm, biên dịch và ấn hành cho sự đọc của toàn dân. Nhờ vào Quốc ngữ mà khu vực dịch thuật đã có thể vươn rộng ra nhiều nước để mở ra những chân trời lạ cho số lượng người đọc bỗng trở nên rất đông đảo. Nhờ vào Quốc ngữ mà một nền sáng tác hiện đại chỉ trong dăm chục năm đã hoàn toàn chiếm lĩnh văn đàn, và vươn lên những đỉnh cao, đạt được những giá trị ổn định cho suốt cả thế kỷ, với hàng trăm tác giả (nếu chỉ tính những tên tuổi lớn), nhiều nghìn tác phẩm, chiếm hàng triệu trang in trên sách, báo - một con số vượt hẳn số trang in của cả nghìn năm Trung đại.

Rõ ràng chữ Quốc ngữ, từ khi cả dân tộc có ý thức sử dụng, đã thực hiện được một khối công việc rất lớn, vừa có ý nghĩa “phục hưng” các giá trị của truyền thống, vừa vươn tới những giá trị mới, trong từng bước hội nhập với nhân loại, với thời đại.

Trở lại với nội dung phủ định quyết liệt cái học cũ của phái Duy tân vào thập niên đầu thế kỷ XX. Khi sự nhận thức về thất bại của dân tộc là sự thấp thua của một trình độ văn minh - văn minh nông nghiệp đối với văn minh công nghiệp, và thất bại đó cũng đang diễn ra ở chính Trung Hoa mà người đầu tiên nhận rõ thực trạng là Lỗ Tấn trong A.Q chính truyện Khổng Ất Kỷ; khi nhu cầu canh tân đất nước diễn ra không chỉ ở trong nước mà là cả phương Đông còn chìm trong giấc ngủ dài của đêm trường trung cổ, trong đối sánh với phương Tây từ tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang đế quốc chủ nghĩa, thì chính các nhà Nho, các bậc thâm nho trong nền Hán học, chính họ lại là người cổ động tích cực nhất cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ, như Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng:

“Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách China
Chữ kia nghĩa nọ dịch ra tỏ tường”.
(Trần Quý Cáp)

“Trước hết hãy học ngay Quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau
Chữ ta, ta đã thuộc làu
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài”.
(Nguyễn Phan Lãng)

Sau chữ Hán và chữ Nôm, đến bây giờ là Quốc ngữ - được xem là “hồn trong nước”, là “chữ ta”, dẫu sự thật rành rành là nó được cấu tạo bởi các tự mẫu latinh.

Và trong 6 chương trình của Văn minh tân học sách thì việc học và dạy Quốc ngữ là ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất đối với việc xây dựng một nền văn hóa mới, một nền văn minh mới, để thay cho toàn bộ nền văn chương- học thuật cũ, không những không cứu được nước mà còn gây nên sự chìm đắm quá sâu và quá lâu toàn dân tộc trong vòng tối tăm, hủ lậu.

Như vậy là cho đến khi dân tộc đứng trước sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, và đứng trước yêu cầu khẩn thiết phải hiện đại hóa thì những bất cập và bất tiện của hai loại chữ Hán và Nôm mới được thức nhận một cách triệt để. Bởi, phải đến lúc này, khi có một thứ chữ mới làm công cụ để thực hiện nhiều chức năng, trong đó có chức năng bao trùm là canh tân đất nước, để theo kịp các nước “đồng văn”, “đồng chủng” ở phương Đông, và đến được với văn minh phương Tây, thì gần như hầu hết nội dung của nền học vấn cũ đều tỏ ra bất cập và lạc hậu trước thời cuộc. Tất cả đều không còn hiện ra trong vầng hào quang của một thứ tâm lý tự mãn, tự tôn tồn tại quá lâu trong lịch sử. Câu chuyện đối sánh giữa quốc gia Đại Việt với Thiên triều Trung Hoa từng luôn luôn diễn ra trong lịch sử - một bên là những cuộc chiến chống phương Bắc cuối cùng đều giành được thắng lợi; và một bên là nền văn chương học thuật dân tộc lại phỏng theo phương Bắc, và lấy phương Bắc làm mục tiêu đối sánh, thi đua... Vậy bên sự giống nhau của một mô hình chính thể quân chủ tập trung và cùng một hình thái kinh tế phong kiến lạc hậu thì hình thái văn hóa, văn chương, học thuật ở Việt Nam, sau những gì được xem là giống, như trong nhận xét của một học giả lớn thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn(2), hoặc một ông vua hay chữ thế kỷ XIX là Tự Đức(3) là có gì mới hoặc khác so với Trung Hoa? Câu chuyện này phải nhiều thập niên sau phong trào Duy tân mới được tiếp tục trong cuộc tranh luận về Quốc học, mà những người tham gia như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lê Dư, Trịnh Đình Rư... đã có thể đi sâu hơn một ít trong sự thức nhận những chỗ yếu, những mặt thiếu, hoặc thấp thua của nền văn chương học thuật Việt Nam được xây cất bằng chữ Hán và dựa trên các nền tảng tư tưởng Trung Hoa cổ điển.

Quốc học là một vấn đề rộng, và câu chuyện tranh luận hồi ấy chưa có kết thúc, bởi phía chủ trương có một nền Quốc học của nước nhà là Lê Dư còn chưa cho thấy diện mạo chung của nền Quốc học ấy là thế nào, ngoài một số áng văn thơ tiêu biểu, trong tiến trình một nghìn năm tự chủ. Ở đây nếu chỉ tách riêng khía cạnh ngôn ngữ - chữ viết để bàn thì quả không thể không thấy một rào cản rất lớn mà các tác giả Việt Nam khó có thể vượt qua. Người Việt đọc chữ Hán, viết chữ Hán, trong khi nói bằng một thứ tiếng khác; vậy làm sao có thể sánh với người Trung Hoa nói và viết đều bằng chữ Hán, dẫu Hán ngữ cũng phải trải nhiều thay đổi cho thích ứng với sự phát triển chung của tiếng nói, trên một đất nước đông dân nhất thế giới, với rất nhiều phương ngữ, để từ văn ngôn mà sang bạch thoại. Và sau chữ còn là cả một hệ thống nhiều lưu phái triết học có từ nhiều trăm năm trước Công nguyên; sau chữ là cả một lịch sử văn học, qua bao triều đại, không bao giờ vắng thiếu sự rực rỡ, phong phú, và các đỉnh cao. Hiểu thế để thấy, đi vào sự so sánh này, giữa văn học Trung Hoa nằm trong cái nôi của một nền văn minh lớn, có lịch sử nhiều nghìn năm, với văn học Việt Nam mượn chữ Hán, chỉ trong ngót một nghìn năm, thì quả là rất bất lợi. Duy có điều đáng nói là, do quy định của lịch sử, việc dùng chữ Hán để phô diễn những vấn đề của chính dân tộc mình cho một bộ phận tầng lớp trí thức, và qua họ mà đến với một đối tượng công chúng rộng rãi hơn, thì đó vẫn là lối thoát thông minh. Và sự thật là, trên con đường mượn chữ Hán, văn học Việt Nam cũng đã có những tác phẩm quý giá với nội dung yêu nước và khẳng định chủ quyền của dân tộc.

Tất nhiên toàn bộ muôn mặt đời sống, gồm cả đời sống nội tâm, riêng tư của con người vẫn có thể tìm đến chữ Hán. Nhưng như vậy, nó không thể tạo một cộng hưởng lớn, bởi chỉ những người có học (số này là rất ít) mới biết đọc - tất nhiên là đọc theo lối Hán Việt, kiểu giao lưu, đối ẩm, thù tạc giữa các nhà Nho, chứ không phải đọc Nôm, theo lối đọc của toàn dân. Và do thế tất cả các nhà thơ lớn của dân tộc kể từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... qua Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... đến Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều có con đường tìm đến thơ Nôm. Và Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, nếu không có được bản dịch của Đoàn Thị Điểm (?) thì làm sao có được sự sống đích thực của một tuyệt phẩm trong văn mạch dân tộc?

*
**

Con đường đi từ chữ Hán và chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ, từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX trong sự trình bày sơ lược như trên là phù hợp với tình thế mới của lịch sử, một bên là sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, một bên là nhu cầu khẩn thiết phải “canh tân” đất nước.

Trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, vai trò chữ Quốc ngữ dần dần được khẳng định trên phạm vi cả nước, và trở thành công cụ xây dựng một nền báo chí và văn thơ hiện đại. Cố nhiên chữ Hán và chữ Nôm chưa phải đã hết vai trò lịch sử của nó. Bởi số đông người viết cho đến lúc này đều là môn đồ của một nền Hán học lâu đời. Tuy đứng ở hàng đầu việc cổ động cho Quốc ngữ, nhưng không ít các nhà Nho lại còn ít biết, hoặc chưa thể đọc, viết một cách thông thạo thứ chữ mới này. Còn bộ phận công chúng có thể đọc, thì trong bước đầu làm quen với thị trường văn học ở buổi giao thời, họ thường đọc cả Hán, Nôm và Quốc ngữ. Và đó là một cần thiết lịch sử, tạo nên sự giao thoa của ba loại chữ, trong quá trình văn học chuyển gấp từ thời trung đại sang thời hiện đại. Nếu ở thành thị, một lớp công chúng mới hình thành theo sự thay đổi của nền kinh tế chuyển sang hình thái thuộc địa đã sớm quen thuộc với chữ Quốc ngữ thì ở nông thôn, vẫn là cả một địa bàn rộng lớn cho văn học Nôm và văn học dân gian truyền miệng. Đọc và viết bằng chữ Nôm vẫn là nhu cầu của một bộ phận trí thức bình dân; và do vậy Phan Bội Châu, trong thời kỳ là “ông già Bến Ngự”, từ 1925 đến 1940, lại dồn sức và tâm sự cho thơ Nôm. Ngay cả Nguyễn Ái Quốc, khi cần viết cho đồng bào quê hương, trong thời gian xa xứ, vẫn viết cả bằng thơ Nôm, bên cạnh chữ Pháp và Quốc ngữ. Đó là Nhật ký chìm tàu, bản in ở Diễn Châu - Nghệ An, năm 1930, trên cả hai thứ chữ Nôm và Quốc ngữ.

Nếu chữ Nôm cùng song song với chữ Quốc ngữ để biểu ý và ghi âm tiếng nói dân tộc, thì chữ Hán vẫn tồn tại như một bộ phận văn học quan trọng trong hai thập niên đầu thế kỷ XX với vai trò chủ đạo của Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các nhà Nho trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Và áng văn bằng chữ Hán cuối cùng, có tầm vóc lịch sử lớn trong văn học thế kỷ XX - đó là Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh, viết trong các nhà lao ở Quảng Tây - Trung Quốc, năm 1943.

Như vậy, sự giao thoa ngôn ngữ trong mấy thập niên đầu thế kỷ XX là một hiện tượng có tính lịch sử và mang dấu ấn thời đại.

Thế nhưng trong giao thoa là sự trưởng thành vượt bực để đạt đỉnh cao các năng lực biểu đạt của chữ Quốc ngữ. Chỉ trên dưới 60 năm, nếu tính từ những sáng tác đầu tiên của Trương Vĩnh Ký ở Nam kỳ, hoặc trên dưới 20 năm nếu tính từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chữ Quốc ngữ đã đủ sức đóng vai trò là phương tiện hiệu quả nhất cho công cuộc hiện đại hóa văn chương- học thuật dân tộc. Trong buổi đầu, ở Nam kỳ, nó là công cụ cho báo chí, khởi đầu là Gia Định báo (1865); rồi qua hai trường học lớn là Đông Dương tạp chí (1914-1917) và Nam Phong tạp chí (1917-1934) ở Bắc kỳ, mà ghi nhận những thành tựu đầu tiên trong công việc sưu tập, biên khảo, nghị luận và dịch thuật... như là một bộ phận quan trọng và là một chuẩn bị cần thiết cho việc xây dựng một nền Quốc văn hiện đại.

II

Một nền Quốc văn, trong nghĩa đầy đủ của nó là bao gồm cả hai bộ phận: văn chương và học thuật. Văn chương là đời sống sáng tác, trên hai thể loại chính là thơ, văn. Học thuật là đời sống khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật. Cả hai, trong tác động qua lại, làm nên diện mạo hoàn chỉnh cho một nền Quốc văn mới của dân tộc, trong tiến trình hiện đại hóa.

Trách nhiệm tạo thật sự những chuyển động và đưa lên đường ray hiện đại một nền Quốc văn mới, rồi sẽ đặt lên vai một thế hệ người viết xuất hiện vào những năm 20, với Tản Đà (1889-1939) - người tiền trạm của Phong trào thơ mới; với Phạm Duy Tốn (1883-1924) - người viết thiên truyện ngắn đầu tiên theo khuynh hướng hiện thực; với Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) - tác giả Tố Tâm, người khai sinh nền tiểu thuyết mới và trào lưu lãng mạn trong văn xuôi... Thế nhưng công việc chuẩn bị cho sự nghiệp sáng tác nằm trong các hoạt động sưu tập, phiên âm, biên khảo, dịch thuật thì đã được chuẩn bị sớm hơn - kể từ thế hệ Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Đỗ Mục (1866-?), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941), Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Can Mộng (1875-1953), Hoàng Tăng Bí (1883-1939), Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940), Trần Trọng Kim (1887-1953), Phan Khôi (1887-1959), Bùi Kỷ (1887-1960), Nguyễn Văn Tố (1889-1947), Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942), Phạm Quỳnh (1891-1945), Lê Thước (1891-1975)...

Đây là lớp người có vốn kiến thức sâu về văn hóa phương Đông, nhưng cũng không hoàn toàn xa lạ với văn hoá phương Tây. Phan Kế Bính, tác giả Việt Hán văn khảo Việt Nam phong tục, chuyên giữ mục Hán văn cho Đông Dương tạp chí, nhưng theo Vũ Ngọc Phan, người đọc vẫn cứ nghĩ ông là nhà Tây học kiêm Hán học.

Công việc sưu tập, phiên âm, biên khảo, dịch thuật ở buổi đầu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây đã được đặt lên vai thế hệ các nhà Nho có ít nhiều vốn Tây học này, bắt đầu từ trong và sau Thế chiến I, chủ yếu chung quanh hai tờ Đông Dương tạp chí (1914-1917) và Nam Phong tạp chí (1917-1934).

Hoạt động của hai tờ Đông Dương tạp chí Nam Phong tạp chí, trong hiệu quả khách quan của nó, đã góp phần giới thiệu di sản văn hóa cổ, bao gồm vốn văn hóa dân gian và văn học cổ điển dân tộc; đồng thời qua dịch thuật và giới thiệu cũng góp phần thúc đẩy quá trình tiếp xúc với văn học phương Tây, giúp hướng tới và đẩy nhanh con đường hiện đại hóa văn học dân tộc(4).

Trong thế hệ các nhà Nho - học giả này có nhiều tên tuổi rất đáng kính nể. Nguyễn Văn Tố (1889-1947) - phụ trách Trường Viễn đông Bác cổ, người luôn luôn mặc quốc phục, đầu để búi tó, đối tượng chế riễu của nhóm Phong hóa, là người am hiểu sâu cả hai nền văn hóa Đông - Tây. Theo Hoàng Ngọc Phách, ông là nhà “bác học Việt Nam”, là người còn giỏi Pháp văn hơn cả nhiều thầy Tây ở Trường Bưởi. Bùi Kỷ (1887-1960) đậu Cử nhân, rồi Phó bảng, có mấy năm du học ở Pháp, theo Đặng Thai Mai, được người đương thời xem là “Hán - Pháp tinh thông”... “Cụ Bùi hồi này, cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn ở thủ đô”(5). ở tư cách nhà giáo - học giả, lớp thầy học của thế hệ Đặng Thai Mai, ngoài Bùi Kỷ, còn phải nhắc đến Võ Liêm Sơn (1888-1949), tác giả Hài văn và Cô lâu mộng có cả bằng Thành chung Tây học và Cử nhân Hán học trong hai năm 1911 và 1912; và Lê Thước (1891-1975), người mẫu mực về cả hai phương diện: tri thức Đông - Tây và khoa sư phạm...

Sau thế hệ những tên tuổi đã kể trên là một lớp trí thức trẻ hơn được đào tạo ở các bậc Trung học và Cao học Pháp - Việt. Nền thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ từ năm 1919, nên vốn Hán học ở lớp người này có mỏng dần đi, mỏng đi nhưng họ vẫn còn có. Có thể nói họ là lớp Tây học đầu tiên có ít nhiều vốn Nho học. Kể từ thế hệ này, sự lập thân và tu dưỡng nghề nghiệp của họ vừa dựa trên các kết quả hạn chế ở nhà trường, vừa là sự ráo riết mở rộng cái vốn đọc và học văn hóa phương Tây qua Pháp ngữ. Cũng cần nói thêm, từ đầu những năm 20, nền giáo dục ở nhà trường Pháp - Việt là hoàn toàn chuyên dành cho ngôn ngữ Pháp và văn học Pháp. Lớp sinh viên Cao đẳng Sư phạm, bằng con đường vừa học ở trường, vừa tự học, kể từ Hoàng Ngọc Phách, Đặng Trần Phất, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Nam Xương, Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Nguyễn Mạnh Tường, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khắc Viện... sẽ qua tiếng Pháp mà trực tiếp đến với lịch sử văn hóa và văn học Pháp, kể từ thế kỷ XVII cho đến đầu thế kỷ XX. Chữ Quốc ngữ sau hai thập niên vận động đã có thể tạo được một lớp công chúng thành thị cho văn học, lúc này đã có một đời sống thị trường khá nhộn nhịp ở Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bông, Tràng Tiền, không kể thị trường Sài Gòn đã có sớm hơn; thứ chữ Quốc ngữ đó giờ đây chỉ còn co lại một vị trí rất ít ỏi trong ba năm đầu Chương trình Tiểu học; còn chữ Hán chỉ được một giờ trong tuần ở Chương trình Cao đẳng.

Giáo dục trong nhà trường là như vậy, nhưng đời sống văn hóa tinh thần trong kết quả của cuộc vận động truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nơi số đông công chúng thành thị thì chắc chắn còn được mở rộng hơn, ngoài ý muốn của chính quyền thực dân.

Cố nhiên mục tiêu và khả năng trang bị của nền giáo dục Pháp - Việt là nhằm đào tạo những người thừa hành trong bộ máy hành chính của chế độ thuộc địa. Nhưng có sự thực là bên cạnh số ít ỏi những “ông Tây An Nam”, rất nhiều trí thức đều có tinh thần dân tộc và có ý thức tự học, tự lập rất cao để trở thành không phải trí thức thuộc địa như chính quyền thực dân mong muốn, mà là trí thức dân tộc với các tên tuổi thuộc các thế hệ như đã kể trên. Số lớn trong họ đều hướng về những nghề tương đối tự do như làm luật sư, thầy giáo, làm báo, hoạt động khoa học, kĩ thuật hoặc nghiên cứu học thuật, viết văn... Đó là những nghề không nhằm vào sự giàu sang, vinh thân phì gia; càng không chịu thân phận công chức nô lệ. Cái định hướng chọn loại nghề tự do này cũng nói lên phần nào ý thức dân tộc, lòng tự trọng, niềm mong muốn tự do của người trí thức Việt Nam; và mặt khác cũng chứng minh sự nhạy cảm của các thế hệ trí thức trước nhu cầu canh tân, đổi mới đất nước.

Vậy là, qua hoạt động khá liên tục của mấy thế hệ học giả, mà hai phương diện của văn chương - học thuật là di sản dân gian và cổ điển của dân tộc và tinh hoa của văn hóa nước ngoài để phổ cập cho công chúng rộng rãi đã được sưu tập, phát hiện, tuyển chọn, phiên âm, phiên dịch, chú giải, giới thiệu, trong suốt hai thập niên đầu thế kỷ XX, ở tư cách cá nhân, hoặc thông qua các nhóm, chung quanh một tờ báo, một văn đoàn, một ông chủ xuất bản.

Cố nhiên, sự chuẩn bị và những khởi động đầu tiên cho công việc này đã được tiến hành vào nửa sau thế kỷ XIX ở Nam kỳ - do là đất thuộc địa nên chữ Pháp và chữ Quốc ngữ có điều kiện và cần được phổ cập sớm hơn. Và người có công đầu tiên trên lĩnh vực này là Trương Vĩnh Ký (1837-1898) - nhà bác học biết rất nhiều thứ tiếng, nhưng vẫn dành phần tâm huyết cho việc phiên âm các văn bản văn chương cổ điển và biên soạn văn học dân gian bằng Quốc ngữ như Kim Vân Kiều của Nguyễn Du (1875), Đại Nam Quốc sử diễn ca (1887), Lục súc tranh công (1889), Phan Trần truyện (1889), Lục Vân Tiên truyện (in lần đầu 1889, lần thứ tư 1897)...

Một nhận thức tổng quan về lịch sử văn chương- học thuật dân tộc là rất cần cho việc xây dựng một nền sáng tác đương đại. Hiểu tình hình trên để thấy công việc sưu tập, phiên âm, phiên dịch di sản cổ nơi nguyên bản Hán Nôm ra văn bản Quốc ngữ, trong hoạt động âm thầm của mấy thế hệ trí thức, vào những năm mười, rồi hai mươi, để thông qua các phương tiện in ấn mà phổ cập cho công chúng rộng rãi những người có chữ và ham học, ham đọc là một bước ngoặt rất quyết định cho kho tàng văn học cổ trở thành món ăn tinh thần của nhân dân, và khiến cho văn học cổ tham gia được vào đời sống văn học đương đại.

Đó là các văn bản Truyện Kiều bằng Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Văn Vĩnh trên cơ sở hai bản Phường và Kinh; rồi văn bản Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim.

Đó là Chinh phụ ngâm mà vấn đề tác giả là Đoàn Thị Điểm hoặc Phan Huy ích đã được đặt ra.

Là việc phiên âm, phiên dịch và giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu trong vốn cổ dân tộc kể từ thời Lý - Trần. Trên Đông Dương tạp chí, Phan Kế Bính trích dịch Lê Quý Đôn, dịch Đại Nam nhất thống chí; Nguyễn Đỗ Mục biên tập Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải ... Trên Nam Phong tạp chí, Nguyễn Hữu Tiến dịch Vũ trung tùy bút, Lĩnh Nam dật sử, lược dịch Đại Nam liệt truyện, biên dịch Giai nhân di mặc, biên tập thơ cổ trong Cổ súy nguyên âm rồi Nam âm thi văn khảo biện, soạn Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa, và tuồng Đông A song phụng; Nguyễn Trọng Thuật dịch Thượng Kinh kí sự và viết tiểu thuyết Quả dưa đỏ.

Ưu Thiên Bùi Kỷ nghiên cứu các lối văn và thể văn dân tộc trong Quốc văn cụ thể, biên khảo Trê Cóc Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim. Sở Cuồng Lê Dư soạn Nam quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử, Bạch Vân Am thi văn tập, Vị Xuyên thi văn tập, Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập.

Một loạt các truyện Nôm được phiên âm ra Quốc ngữ và bày bán rẻ trên các vỉa hè, đường phố Hàng Đào, Hàng Gai như Phan Trần, Phạm Tải Ngọc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Nhị độ mai, Thạch Sanh, Hoàng Trừu...

Và về kho tàng văn học dân gian, trên hai thể loại tiêu biểu là truyện cổ và ca dao, với công khai phá đầu tiên của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, là người, chỉ trong khoảng thời gian dưới 10 năm, từ 1927-1936, đã biên soạn và cho ấn hành khoảng 10 bộ sách gồm Đông Tây ngụ ngôn - 2 quyển, Nhi đồng lạc viên, Truyện cổ nước Nam - 2 quyển, Câu đối, Đào nương ca, Cổ học tinh hoa, Tục ngữ phong dao, Để mua vui...

Những khai phá ban đầu này rất đáng trân trọng, bởi đó chính là sự hưởng ứng và bổ sung cho nhau trong ý thức hoàn thiện diện mạo văn học dân tộc, và trên một nhận thức khoa học về đối tượng - do người tiến hành là các thế hệ tác giả nhận được ít nhiều ảnh hưởng lối tư duy Thái Tây, của văn hóa phương Tây.

Các hoạt động đó, theo tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên. Nó nằm trong ý thức về sự phục hưng văn hóa dân tộc. Có thể nói đến một cuộc phục hưng văn hóa như thế, có phần âm thầm nhưng không ít sôi nổi bên trong; và cố nhiên, khác với mọi cuộc phục hưng có quy mô rộng lớn, và có tầm nhân loại như thời kỳ Phục hưng (Renaissance) thế kỷ XVI của phương Tây, đây là cuộc phục hưng dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân và trong khuôn khổ chế độ thuộc địa. Một cuộc phục hưng trên cơ sở của ý thức dân tộc, trên mong muốn gây một niềm tự tôn: Việt Nam có một nền văn hóa riêng, không những lâu đời mà còn mang đặc trưng riêng, qua các tác gia thành văn và qua một nền văn chương bình dân, được xây dựng chính trên tiếng nói dân tộc và một tâm thức rất giàu bản sắc dân tộc. Nền văn học đó quả có chịu ảnh hưởng sâu văn hóa Trung Hoa trong một bộ phận viết bằng chữ Hán; nhưng ở bộ phận chữ Nôm và loại hình văn hóa dân gian lại là nơi bảo lưu rất rõ cốt tính dân tộc.

Sau việc sưu tập, phiên âm, phiên dịch, biên soạn là việc phân tích, khảo sát, đánh giá vốn di sản văn chương học thuật dân tộc. Câu chuyện này sẽ được đặt ra vào những năm 20 và 30, chung quanh câu hỏi: Chúng ta đã có một nền Quốc học chưa trong so sánh với văn minh Trung Hoa ? giữa những người tham gia là Ngô Đức Kế, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lê Dư, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... Đây là vấn đề có tầm học thuật khá rộng, chúng tôi xin được bàn vào một dịp khác.

Nhân vấn đề chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mà vấn đề ngôn ngữ dân tộc nói chung cũng được quan tâm. Do tiếp xúc với một ngôn ngữ sáng sủa, khoa học như ngôn ngữ Pháp nên yêu cầu khoa học hóa tiếng Việt, để nhanh chóng nâng cao hiệu quả sử dụng và phổ cập của nó cũng sớm được đặt ra, kể từ Việt văn tinh nghĩa (1928) của Nguyễn Trọng Thuật đến Việt Nam văn phạm (1943) của Trần Trọng Kim. Cố nhiên ở khu vực này thì giới nghiên cứu ngôn ngữ hôm nay của chúng ta đã có thể tiến rất xa và đặt ra những vấn đề rất mới. Nhưng trong những khởi động ban đầu ấy, điều không thể phủ nhận là một yêu cầu khoa học hóa tiếng Việt cùng một niềm yêu mến đến thiết tha tiếng Việt trải mấy thế hệ - từ Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đến Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, nó chính là một trong các động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn chương và đưa lại những thành tựu rạng rỡ trong văn xuôi và thơ.

Điều dễ thấy là có một khoảng thời gian ngót 10 năm, vào những năm 30, hoạt động học thuật dường như có thưa đi mà nhường sự sôi nổi cho phong trào sáng tác và phê bình. Những năm văn đàn xuất hiện dồn dập các tác phẩm tiêu biểu trên cả hai thể loại lớn là văn xuôi và thơ. Những năm xuất hiện nhiều tên tuổi tác gia, tác phẩm trên cả ba trào lưu: lãng mạn, hiện thực và cách mạng, có ý nghĩa kết tinh và hoàn thiện diện mạo hiện đại của nền văn học dân tộc.

Những kết quả gặt hái được trong phong trào sáng tác những năm 30 không thể nói là không có nguyên cớ trong sự phát triển của đời sống học thuật 30 năm trước đó, nó là kết quả mài miệt khổ công của vài ba thế hệ từ Nho học sang Tây học.

Và ở chặng cuối này, cùng với sự phát triển lên đỉnh cao của ba khuynh hướng sáng tác là sự ra đời những tác phẩm tiêu biểu trên các khu vực biên khảo, nghị luận, phê bình như Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, Văn học đời Lý Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, Văn học khái luận của Đặng Thai Mai... Đấy là những tác phẩm xây dựng trên sức vóc của một người mà sau nửa thế kỷ nhìn lại vẫn thấy bảo lưu được các giá trị học thuật - những giá trị mà nhiều người trong giới nghiên cứu sau 1945 từng theo đuổi, nhưng không dễ ai cũng đạt được.

Đoạn văn sau đây nằm trong phần cuối sách Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm là một tổng kết có giá trị khái quát về sức sống của dân tộc và văn hóa dân tộc, và về tương lai của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam: “... dân tộc ta vốn là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa, lại biết nhờ cái văn hóa người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một nền văn học, tuy không phong phú, rực rỡ, nhưng cũng có chỗ khả quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết tìm thấy trong nền văn học của nước Pháp những điều sở trường để bổ sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu các vấn đề có liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm cho cái tinh thần dân tộc được mạnh lên để gây lấy một nền văn học vừa hợp với cái hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cái cốt cách cổ truyền”(6).

*
**

Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc và ngót mười thế kỷ độc lập tự chủ, dưới sức ép và luôn luôn chịu sự uy hiếp của các triều đại phong kiến phương Bắc, dân tộc và văn hóa dân tộc vẫn giữ được một bản lĩnh riêng, một cốt cách riêng để khẳng định sự tồn tại và phát triển.

Sau hơn một nửa thế kỷ bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược, dân tộc và văn hóa dân tộc lại biết cách thu hút và tiếp nhận những giá trị mới nhằm tạo nên một diện mạo mới trong sinh hoạt tinh thần của mình để không lạc hậu trước thời đại.

Đó là tình hình mới trong một cuộc chuyển giao thời đại (từ trung đại sang hiện đại) đã có thể được nhận diện, phân tích và tổng kết chỉ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, khi dân tộc đứng trước bước ngoặt lịch sử: Cách mạng tháng Tám năm 1945./.

P.L

CHÚ THÍCH:

(1) Dẫn theo Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX; Nxb. Văn hóa, H. 1961, tr.179.

(2) “Nước Nam ta, hai triều Lý Trần ngang vào triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa nhân tài, cốt cách văn chương không khác gì Trung Hoa (...) Thấy văn đời Lý, lối biền ngẫu bóng bẩy, đẹp đẽ giống thơ văn đời Đường, văn đời Trần lưu loát, chỉnh tề, giống kiểu văn đời Tống”; Từ trong di sản; Nxb. Tác phẩm mới, H. 1981, tr.96.

(3) “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán.
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”.

(4) Năm 1972, trong hồi kí Nhớ nghĩ chiều hôm, Đào Duy Anh viết: “Tôi tự học văn học Việt Nam và biết viết Quốc văn phải nói thực một phần không ít là nhờ chuyên đọc tạp chí Nam Phong. Trong khi dạy học ở Đồng Hới, đồng thời với việc học thêm chữ Pháp theo một chương trình nhất định, tôi không bỏ việc nghiên cứu Quốc văn và Hán văn, vẫn lấy Tạp chí Nam Phong làm công cụ chính”; Bản in của Nxb. Trẻ, 1989, tr.19.

(5) Đặng Thai Mai: Hồi kí; Nxb. Tác phẩm mới, H. 1985, tr.297.

(6) Bộ Giáo dục-Trung tâm học liệu xuất bản; Sài Gòn; in lần thứ mười; 1968, tr.461.

TÓM TẮT

Sự thay thế chữ Hán và chữ Nôm để chuyển sang chữ Quốc ngữ, trên phạm vi cả nước vào ba thập niên đầu thế kỷ XX. Qua công cụ mới là chữ Quốc ngữ, một nền Quốc văn mới đã hình thành, với bước khởi đầu - đó là công việc sưu tầm, phiên âm, phiên dịch, biên soạn vốn văn chương, học thuật dân tộc trên hai khu vực Hán-Nôm, và vốn văn hóa dân gian; và việc dịch thuật trên hai khu vực: Pháp và Trung Hoa. Đi sâu hơn vào phạm vi học thuật là các cuộc bàn thảo, tranh luận chung quanh việc xây dựng một nền Quốc văn mới, trên cơ sở tiếp thu và đánh giá lại vốn di sản cũ.

Từ những năm 30, xuất hiện một nền sáng tác mới, bằng chữ Quốc ngữ, trên cả ba trào lưu lớn là: trào lưu lãng mạn, trào lưu hiện thực, trào lưu cách mạng, với các tác gia và tác phẩm tiêu biểu, có ý nghĩa kết tinh và hoàn thiện diện mạo hiện đại của nền văn học dân tộc.

Sự kết tinh thành tựu về nghiên cứu học thuật xuất hiện muộn hơn một chút - vào cuối những năm 30 và nửa đầu những năm 40.

Cho đến lúc này, quá trình hiện đại hóa văn chương- học thuật dân tộc đã có thể được xem là kết thúc; và nền Quốc văn mới đã có một gương mặt tương đối hoàn chỉnh, trên các phương diện: sáng tác, nghiên cứu, nghị luận, phê bình./.

TB

LẠI BÀN VỀ
"TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN"

LÊ VĂN QUÁN

Vấn đề này trước nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Gần đây, ở Tạp chí Hán Nôm, số 3 - 1999, GS. Nguyễn Tài Thư có bàn về “Tam giáo đồng nguyên” - hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á. Tiếp theo hướng đi đó, bài viết này bàn về “Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam.

Kinh sách Nho gia khi nào truyền vào Việt Nam mọi người còn phân vân. Nói chung cho rằng, chữ Hán truyền vào Việt Nam có lẽ phải sau khi Tần Thủy Hoàng (221 TCN) thâu tóm 6 nước, thống nhất văn tự Trung Quốc. Đạo Nho lúc đầu truyền vào Việt Nam qua con đường xâm lược, chứ không phải bằng con đường giao lưu văn hóa. Sau đó, ở thế kỷ I, kinh sách Nho giáo và chế độ nhà trường của triều Hán truyền vào Giao Châu. Sĩ Nhiếp thống trị ở Giao Châu hơn 40 năm đã đặt nền móng Nho học ở Việt Nam. Lúc bấy giờ Trung nguyên Trung Quốc biến loạn, các Nho sỹ sang Giao Châu lánh nạn rất nhiều, trong đó, trước hết người truyền bá tư tưởng “Tam giáo nhất chí” là Mâu Tử, trước tác của ông có Lý hoặc luận. Ông cho rằng chân nhân của Đạo giáo và Tam hoàng Ngũ đế của Nho gia cùng phối với nhau, giáo nghĩa của Phật giáo cũng có chỗ chung với học thuyết Nho, Đạo. Khi có người đề xuất đạo của Đạo gia có khác với giáo của Thích Ca, ông liền trả lời: “Thiên đạo pháp tứ thời, nhân đạo pháp ngũ thường, ... đạo chi vi vật, cư gia khả dĩ sự thân, tể quốc khả dĩ trị dân, độc lập khả dĩ trị thân, lý nhi hành chi, sung hồ thiên địa, phế nhi bất đồng, tiêu nhi bất li...” (Lý hoặc luận) - (Phép của đạo trời là bốn mùa, phép của đạo người là ngũ thường, ... đạo là vật, ở nhà có thể thờ cha mẹ, đứng đầu nước có thể cai trị dân, độc lập (sống độc lập) có thể sửa mình, dẫm lên mà đi, bổ lấp vào trời đất, phế bỏ mà không khác nhau, tiêu mất mà không xa rời...)

Đất nước Việt Nam nằm ở giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Phật giáo lúc ban đầu truyền bá có tác dụng là cái cầu nối, học giả Trung Hoa Hồ Thích (Hồ Thích luận học cận trước, Thượng Hải, 1935) nói rằng “Hồi đó đã có những đường liên lạc giữa trung tâm Luy Lâu và trung tâm Bành Thành... Ông cho rằng đã có những vị tăng ni khởi hành đi từ Giao Châu đến Vũ Châu (ở Quảng Tây) rồi từ Quảng Tây đến Quảng Đông, và từ Quảng Đông vượt qua núi non đi tới miền hạ lưu châu thổ sông Dương Tử” (1, tr.33).

Theo Cao tăng truyện đời Tấn ghi chép lại, cao tăng Khương Tăng Hội nổi tiếng ở thế kỷ thứ III, vì cha của ông buôn bán ở Giao Chỉ đã từng là khách ở Giao Châu, cho nên ông sinh sống ở Giao Châu. Từ trong kinh điển của ông biên dịch có thể thấy ông là một người bàn luận “Tam giáo hợp nhất” rộng lớn, lấy Phật giáo làm chủ. Khương Tăng Hội viết ở trong sách “Lục độ kinh tập, sát vi vương kinh” không những dùng nguyên khí của Đạo gia để chỉ “tứ đại” (bốn điều lớn) của Phật gia (tức là bốn nguyên tố đất, nước, gió, lửa) mà còn dùng “linh hồn bất tử” của truyền thống để nói rõ học thuyết “luân hồi chuyển sinh” của Phật giáo. Ngoài ra, ông còn ra sức tuyên truyền tư tưởng luân lý cương thường trung hiếu nhân ái của Khổng Mạnh. Trước thế kỷ thứ VIII, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng Ấn Độ tương đối lớn, nhưng sau đó dần dần chuyển hướng sang Trung Quốc và trở thành một chi nhánh quan trọng của Phật giáo Đại thừa.

Ở thời Ngũ đại Trung Quốc, Việt Nam bắt đầu xây dựng nhà nước độc lập có chủ quyền, qua giữa triều Đinh (970-978), triều Tiền Lê (980 - 1009), triều Lý (1010-1225), triều Trần (1225-1440), thời kỳ này chính là giai đoạn chủ nghĩa phong kiến Việt Nam phát sinh và phát triển, rất nhiều nhà thống trị dùng chính sách tăng cường trung ương tập quyền, nước giàu quân mạnh, do đó, xã hội yên định, văn hóa phồn vinh. Triều Đinh, triều Tiền Lê và triều Lý tuy lấy Phật giáo làm quốc giáo, quốc sư đều do tăng lữ đảm nhiệm, đã hình thành tình hình Hoàng đế và sư tăng cùng chung thiên hạ, nhưng về mặt tôn giáo các giáo đồ đoàn kết càng đông, càng chặt chẽ, những vương triều này đều lưu hành chính sách tam giáo, tuyên truyền tư tưởng “tam giáo nhất trí”. Ví dụ, ở triều Đinh, niên hiệu Thái Bình thứ 2 (971) qui định phẩm giai của văn, võ, tăng, đạo, quan tăng có chức danh: Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính v.v... Triều Trần và triều Lý dùng kẻ sĩ, nhưng vẫn thực hành chế độ tam giáo Nho, Thích, Đạo, lần lượt tổ chức thi cử, tuyển chọn đề bạt những nhân tài ưu tú ở trong tôn giáo để phục vụ nhà nước. Năm 1195 Lý Cao Tông mở khoa thi tam giáo. Theo Việt sử thông giám cương mục, quyển thứ 6, ghi: “Trần Thái Tông Thiên ứng Chính Bình năm thứ 16 (1247) tháng 8, mùa thu thi tam giáo, trước tiên là lệnh cho con nhà Thích, Lão có thể kế nghiệp, đều được vào thi...”. Triều Lý vì chịu ảnh hưởng của Bắc triều Trung Quốc, đặc biệt là khen và cất nhấc Đạo giáo, khiến nó cùng ngang hàng với địa vị Nho, Phật, sự thực ở triều Lý vào khoảng hai trăm năm đều tôn trọng tam giáo.

Ở Việt Nam, triều Lý, triều Trần tuyên truyền tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”. Các đế vương triều Lý, triều Trần nhận thức rõ ràng Nho giáo và Phật giáo đối với xã hội có tác dụng quan trọng khác nhau, thời kì này Phật giáo tuy trên phương diện chính trị được triều đình coi trọng, chiếm địa vị chủ đạo, nhưng do tư tưởng luân lý đạo đức của Nho gia, đặc biệt là tư tưởng tam cương ngũ thường thâm nhập vào lòng người chỉ đạo sinh hoạt tinh thần của nhân dân. Ngoài ra, Nho giáo ở phương diện nhận thức xã hội, đặc biệt là phương diện quản lý hành chính nhà nước và đề bạt tuyển chọn quan lại đã cố định lâu dài, không phải là điều Phật giáo có thể thay thế. Đạo giáo đã có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc sống xã hội, do đó, họ không thể không thúc đẩy phương châm chính sách tam giáo đồng hành. Phương châm tam giáo đồng hành đối với giai cấp thống trị là phương pháp và con đường ngắn nhất, tốt nhất lúc bấy giờ để thống trị nhân dân.

Sau đời Tống, Lý học Trình Chu chủ đạo ở lĩnh vực tư tưởng, tình hình này có ảnh hưởng sâu sắc đối với Việt Nam. Tư tưởng và lý luận của Nho gia, dưới ảnh hưởng Phật giáo cũng có sự phát triển biến hóa. Nhất là từ Tống - Nguyên về sau, Lý học coi việc kế thừa đạo thống của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử và phục hưng Nho học là nhiệm vụ của mình. Nhưng Nho học mà họ phục hưng không còn là Nho học thời Tiên Tần nữa. Như Lao Tử - Thịnh Lê đã đúc kết: một mặt lý luận siêu hình của Lý học chịu ảnh hưởng rất sâu của Huyền học, như hình thái lý luận “tự nhiên hợp lý” mà Huyền học đề xuất đã được Lý học tích cực tiếp thu và phát triển. Mặt khác, Lý học cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của lý luận Phật giáo. Như các quan điểm “chủ tĩnh”, “tính thể”, “thể dụng nhất nguyên”, “lý nhất phân thù” v.v... mà Lý học đặc biệt nhấn mạnh, tất cả đều liên quan chặt chẽ với lý luận Phật giáo. Do đó, Nho học mà Lý học đại biểu khác rất xa về hình thái lý luận của Nho học Tiên Tần. Nhiều qui phạm đạo đức của Nho học Tiên Tần đến Lý học đã được thêm vào nhiều đạo lý siêu hình học. Như Khổng Tử có đến mấy chục chỗ nói về chữ “nhân”, nhưng tất cả đều hết sức cụ thể. Chẳng hạn, khi trả lời Nhan Uyên hỏi: “Nhân là gì ?”. Khổng Tử nói: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” - (Sửa mình khôi phục lễ là nhân). Trả lời Trọng Cung, Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. Tại bang vô oán, tại gia vô oán” - (Điều gì mình không muốn thì đừng thi hành với người khác. ở trong nước không có oán, ở nhà không có oán). Trả lời Phàn Trì, Khổng Tử nói: “yêu người” (Ái nhân) (Tất cả các ví dụ đã dẫn đều ở Luận Ngữ - Nhan Uyên). Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: “Phù nhân giả kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. (Luận Ngữ - Ung Dã) - (Người có nhân, mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì giúp người khác thành đạt); “Cương, nghị, mộc, nột cận nhân” (Luận Ngữ - Tử Lộ) - (Quả quyết, cương nghị, chất phác, thật thà, nói năng thận trọng là gần với đức nhân.) v.v... tất cả đều là những việc làm rất cụ thể. Mạnh Tử thì từ câu nói: “Nhân giả, ái nhân” ( Mạnh Tử - Li lâu hạ) - (Người nhân yêu người) suy rộng ra đến “ái vật” (yêu vật) và nên cùng với “nghĩa”, nhấn mạnh “Tư nhân do nghĩa” (Mạnh Tử - Tận tâm thượng) - (giữ điều nhân, theo điều nghĩa), cuối cùng vận dụng vào việc thực hành nhân chính v.v... Nhưng đến Lý học, tình hình đã khác xa. Ví dụ, Chu Hi giải thích chữ “nhân”. Khi thì nói: “Nhân giả ái chi lý, tâm chi đức dã” (Học nhi chú) - (Nhân là lý của sự yêu thương, là đức của tâm). Khi thì nói: “Vi nhân giả, sở dĩ toàn kỳ tâm đức dã. Cái tâm chi toàn đức, mạc phi thiên lý, nhi diệc bất năng bất hoại vu nhân dục. Cổ vi nhân giả, tất hữu dĩ thắng tư dục nhi phục vu lễ, đắc sự giai thiên lý, nhi bản tâm chi đức phục toàn vu ngã hĩ.” (Nhan Uyên chú) - (Làm điều nhân để giữ toàn tâm đức. Sự toàn đức của tâm, không có gì không phải là thiên lý mà cũng không thể không bị phá hủy bởi nhân dục. Vì vậy, người làm điều nhân phải chiến thắng tư dục mà trở về với lễ, thì mọi việc đều hợp với thiên lý mà đức của bản tâm lại được toàn vẹn ở ta). Ở đây, điều thay đổi chủ yếu là sự gợi mở về lý luận siêu hình về chữ “nhân”. Điều mà chúng ta cần đặc biệt chú ý là sự khác biệt về lý luận. (2, tr.23 - 24)

Trong đời Lý đời Trần, các nhà Nho Việt Nam học chữ Hán là học theo kinh sách của Tống Nho chú thích, chủ yếu là tiếp thu hệ tư tưởng của Tống Nho. Vì thế, giúp vua trị nước không phải chỉ có các nhà sư mà còn có các nhà nho. Những nhà nho như Nguyễn Công Bật, Nguyễn Công Diễm v.v... cũng mộ đạo Phật. Ở đời Lý, trong Thiền tông có những nhà sư giải thích sự tương đồng và sự giao lưu giữa Phật và Khổng. Theo Đinh Gia Khánh cho biết, ở sách Thiền uyển tập anh, nhà sư Viên Chiếu đã có ý kiến về vấn đề này. Khi được hỏi: “Phật chi dữ thánh, kì nghĩa văn hà?” - (Phật tổ với thánh nhân, cái nghĩa như thế nào?) thì nhà sư đọc bài kệ rằng: “Li hạ trùng dương cúc. Chi đầu thục khí oanh” - (Hoa cúc nở ở chân dậu ngày trùng dương, chim oanh ngày trời ấm hót đầu cành.) Khi đệ tử vẫn chưa hiểu, nhà sư lại đọc lời kệ “Trú tắc kim ô chiếu. Dạ lai ngọc thỏ minh” - (Ngày thì mặt trời soi, đêm thì mặt trăng sáng.) (3, tr.124).

Qua đó, chúng ta thấy, nhà sư dùng hình tượng “tiết trùng dương hoa cúc nở chân dậu, ngày trời ấm chim oanh hót đầu cành” và “ngày mặt trời soi, đêm mặt trăng sáng” là thể hiện coi trọng mối quan hệ giữa Phật và thánh đều như nhau. Điều khác nhau là Phật có ý nghĩa đối với người đời ở hoàn cảnh này, Nho có ý nghĩa đối với người đời ở hoàn cảnh khác, nhưng cùng là ánh sáng. Thời gian này, Nho giáo chưa có thế lực và ảnh hưởng trong xã hội, cho nên Nho dựa vào Phật. Hơn nữa, các giai tầng đối kháng trong nước phải xích lại gần nhau để chống kẻ thù chung. Tình hình này thúc đẩy Nho, Phật, Đạo hội nhập để tăng sức mạnh cố kết cộng đồng dân tộc. Trần Thái Tông trong lời tựa sách Thiền tông chỉ nam đã viết: “Phương tiện để mở lòng mê muội; cái đường lối soi rõ sống chết chính là đại giáo của đức Phật. Giữ cán cân cho hậu thế, nêu khuôn phép cho tương lai là trách nhiệm nặng nề của tiên thánh vậy... Trẫm ngày nay há chẳng lấy trách nhiệm của tiên thánh làm trách nhiệm của mình, giáo hóa của Phật làm giáo hóa của mình hay sao”. Ở Khóa hư lục ta càng thấy rõ Nho, Phật đã trở thành một: “Tội nguyền của hai thân, lừa thánh dối hiền, phỉ cha báng chúa, lúc chết sẽ bị đưa xuống địa ngục chịu tội “rút lưỡi quăng ra”, “muôn kiếp mới sinh - dù được làm người - còn phải câm ngọng” (4, tr.90). Như vậy, từ đời Lý, trong Thiền tông đã có quan niệm dung hòa Phật giáo và Nho giáo. Đến đời Trần, xu hướng Phật giáo uốn theo Nho giáo càng rõ ràng hơn. ở các đời Lý, Trần, quan niệm tam giáo đồng nguyên biểu hiện rất rõ ràng. Chỉ có điều, nhà nước phong kiến đang trên bước đường củng cố, thì vai trò của Nho giáo càng có tác dụng thiết thực hơn Phật giáo và Đạo giáo. Vì thế, sang thế kỷ XIII, giáo lý của đạo Phật cũng bị phê phán. Nho sĩ trưởng thành, lớn mạnh. Sự trưởng thành này diễn ra trên cơ sở chế độ điền trang dần dần nhường bước cho chế độ tư hữu ruộng đất. Cơ cấu nhà nước phong kiến vào cuối thế kỷ XIV, có những thay đổi. Những chức vụ quan trọng của nhà nước phong kiến trước đây nằm trong tay quí tộc thì dần dần chuyển sang tay Nho sĩ. Khi Nho giáo đã chiếm được ưu thế trong cung đình, thì gạt bỏ Phật ra khỏi nhà nước, Nho giáo nắm quyền quản lý đất nước cả về chính trị và tinh thần.

Đến thế kỷ XV, sau khi triều Lê thành lập, phương châm, chính sách đều chống lại tam giáo đồng hành của mấy triều đại trước, Nho giáo độc tôn, đề xướng tôn Khổng, đọc kinh sách, đẩy mạnh Lý học Trình Chu, tiến hành bài xích Phật giáo hoặc quản lý Phật giáo nghiêm ngặt hơn. Phật và Đạo tuy mất quyền lực chính trị về mặt pháp lý, nhưng lại nắm được đời sống tâm linh huyền bí của con người trong xã hội phong kiến còn nặng về thần học. Đến xã hội thời Lê - Trịnh ở cuối thế kỷ XVIII lâm vào khủng hoảng, bế tắc trong đời sống tinh thần, lại hướng người ta vào con đường tôn giáo. Các nhà tư tưởng hàng đầu của đất nước lúc bấy giờ, như Trịnh Huệ Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, v.v... khôi phục lại “Tam giáo nhất nguyên” một cách có ý thức. Nho giáo với cách cai trị bằng giáo hóa, bằng đức không đề ra được những giải pháp linh hoạt, thoát khỏi bế tắc, lại phải cầu cứu đến Phật và Đạo.

Trịnh Huệ cho rằng: “Khổng Tử phê phán dị đoan nhưng không phê phán Phật, Mạnh Tử phê phán họ Dương, Mặc song không hề phê phán Phật”(5, tờ 6b). Ngô Thì Sĩ nói: “Từ bi (Phật), thanh tịnh (Đạo) cùng với nhân nghĩa, trung chính (Nho), công dụng có hơi khác nhau, nhưng gốc đều ở chỗ chính tâm, tu thân, đều có thể xây dựng kỷ cương cho loài người và duy trì trị hóa được.” (Bài văn ghi việc sửa lại đền tam giáo).

Phan Huy Ích nói: “Lời dạy của Phật tuy “không hư, tịch diệt” song cốt yếu làm cho tâm tính luôn trong sạch, sáng sủa, không khác gì nói: “Thành ý của đạo Nho”. (Bài tựa quyển Trúc Lâm đại nhân viên giác thanh).

Trịnh Huệ còn lấy ví dụ cụ thể để chứng minh Tam giáo tương đồng: “Mạnh Tử nói, người quân tử đối với cầm thú nghe tiếng kêu mà không nỡ ăn thịt. Đạo giáo nói rằng côn trùng thảo mộc không thể bị làm thương (5, tờ 2a), Phật giáo thì không cho chết chóc. Tôn chỉ của ba giáo là để “khiến người làm thiện”: “Nói về mặt giáo tuy có phân biệt làm ba, nhưng nói về mặt lý thì sự qui kết có một, một đó là gì? Là khiến người làm thiện mà thôi” (5, tờ 4a+4b) Trịnh Huệ nhắc đi nhắc lại: “Ba giáo vẫn là một môn, ba dòng vẫn là một lý, vốn không phải như nước lửa, giả chân, đen trắng, ngọt đắng có tính chống lại nhau” (5, tờ 2a).

Còn về Đạo giáo càng về sau càng mờ nhạt. Đạo giáo ở Việt Nam có hai dòng: một là Đạo giáo thần tiên; hai là Đạo giáo phù thủy.

Đạo giáo thần tiên gắn với thuật luyện thuốc linh đan, trường sinh bất tử, để trở thành tiên. Đạo giáo thần tiên ảnh hưởng trong tầng lớp quí tộc, quan liêu. Như thần xa xưa, Đạo giáo thần tiên để lại vết tích nơi luyện linh đan YÊN KÌ SINH ở núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh).

Đạo giáo phù thủy gắn liền với các tục cúng lễ xua đuổi tà ma. Đạo giáo phù thủy có ảnh hưởng nhiều trong lớp quần chúng. Đạo giáo phù thủy dần dần bị đồng hóa vào hệ thống tín ngưỡng dân gian của đạo Tam phủ và Tứ phủ.

Đạo Tam phủ hình thành trên cơ sở tục thờ nữ thần. Thờ các nữ thần của núi rừng, sông suối, thổ địa, mây mưa, sấm chớp v.v... và người làm nghề thờ cúng đã khái quát lên thành ba vị nữ thần là ba vị mẫu ngự trị cõi trần: mẫu Cửu Thiên, mẫu Thượng Ngàn, mẫu Thủy. Đó là Tam phủ: Thiên phủ (trời), Nhạc phủ (núi rừng), Thủy phủ (sông biển). Sau này (thế kỷ XVI) có thêm mẫu Liễu Hạnh (bà chúa Liễu) xuất thân từ cõi nhân gian, sau khi chết được thờ làm thần linh, trở thành vị mẫu của Nhân phủ. Đạo Tam phủ phát triển thành đạo Tứ phủ (Thiên phủ, Nhạc phủ, Thủy phủ, Nhân phủ). Phủ có nghĩa là cõi, như cõi trời, cõi núi rừng, cõi sông biển v.v... Phủ còn có nghĩa là nơi thờ cúng mẫu, như Phủ Tây Hồ, Phủ Giầy v.v... (6, tr.132)

Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy gọi là đạo Tam phủ, đạo Tứ phủ, nhưng hệ thống tín ngưỡng chưa trở thành một tông giáo, vì thiếu cơ sở giáo lý với một thế giới quan hoàn chỉnh.

Tình hình tam giáo xuất hiện trong hoàn cảnh như thế, nhưng Phật và Đạo cũng chỉ dừng lại ở mặt giải toả tâm linh, hiện thực xã hội bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc. Bởi vì “Cái bế tắc nằm ngay trong chế độ chuyên chế quan liêu, Nho giáo, đẳng cấp trí thức với chỉ hai con đường xuất xử và cơ sở kinh tế xã hội của nó, thì về tư tưởng, ai cũng chỉ có thể lựa chọn, mà trong tam giáo thì chỉ có Nho giáo là nhập thế, vì đời.”(7, tr.103).

Đến triều Nguyễn thống nhất Việt Nam vẫn theo chính sách của triều Lê tôn sùng Nho ức chế Phật, xóa bỏ quan hệ trong nội bộ Phật giáo Thiền tông; do đó, đạo Phật thất bại, thế lực ở trong triều đình hoàn toàn suy yếu, nhưng trong dân gian, đặc biệt là trong nông dân vẫn còn có ảnh hưởng nhất định. Ở thế kỷ XVIII - XIX, khi triều Nguyễn nắm quyền, một số Nho sĩ nổi tiếng, ấp ủ nguyện vọng góp phần xây dựng đất nước hưng thịnh, theo đuổi kinh nghiệm giáo huấn từ trong quá khứ lịch sử, họ cho rằng hệ thống tam giáo Nho, Thích, Đạo đều tồn tại là hiện tượng có tính qui luật phổ biến trong lịch sử Việt Nam, cho nên một lần nữa đề xuất thuyết “Tam giáo đồng nguyên”. Nói là “Tam giáo đồng nguyên” nhưng cũng xuất phát từ những lập trường khác nhau. Vốn là nhà nho thì giải thích hiện tượng đó trên cơ sở Nho, vốn là phật tử thì giải thích hiện tượng đó trên cơ sở Phật. Nội dung và tính chất của quan niệm “đồng nguyên”, do đó cũng khác nhau. ở triều đại này hay triều đại khác, ở tác giả này hay tác giả khác mức độ thiên về đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão có khác nhau, nhưng thông thường ảnh hưởng của nó có tính chất hỗn hợp. Tam giáo Nho, Thích, Đạo ở trong lịch sử văn hóa, lịch sử tư tưởng, lịch sử tôn giáo Việt Nam đều có ảnh hưởng quan trọng, giữa chúng vừa có đấu tranh lại vừa có dung hợp, nhưng dung hợp là xu thế chung của phát triển. Nho gia Việt Nam không giống Trung Quốc luôn luôn ở vào địa vị thống trị, và ảnh hưởng của nó rất sâu rộng.

CHÚ THÍCH:

(1) Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, H. 1992.

(2) Từ điển Nho Phật Đạo, Lao Tử - Thịnh Lê (chủ biên), Nxb. Văn học, H. 2001.

(3) Lịch sử văn học Việt Nam, Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương, tập 1, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1978.

(4) Trần Thái Tông: Khóa hư lục, Đào Duy Anh dịch, chú giải, Nxb. KHXH, H. 1974.

(5) Trịnh Huệ: Tam giáo nhất nguyên thuyết, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1183.

(6) Đinh Gia Khánh: Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, Nxb. KHXH, H. 1993.

(7) Trần Đình Hượu: Tạp chí Triết học, số 4 (55) - 1986.

TB

HỌ LÊ TRUNG Ở HOẰNG HOÁ, MỘT DÒNG HỌ GIÀU TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ YÊU NƯỚC

NGUYỄN TÁ NHI

Họ Lê Trung ở xã Hoằng Ngọc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xưa kia là một thế gia vọng tộc trong vùng, nhiều đời có người được phong hầu dựng ấp. Hiện nay gia tộc còn giữ được một bản gia phả viết lại năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) và 12 đạo sắc phong thần cho phúc thần Lê Đô Thống. Gia phả ghi chép lược sử 12 thế hệ từ cụ thủy tổ Quảng Đức thời Lê Trung hưng cho đến đời thứ 12 thời Minh Mệnh nhà Nguyễn, thời gian dài khoảng 150 năm. Mở đọc gia phả chúng ta có thể thấy rõ mục đích của người viết là giúp cho người đời sau nhận biết công lao sự tích của tiền nhân để mà cố gắng gìn giữ. Bài tựa cuốn gia phả viết:

"Từng nghe: Cây có ngàn cành vạn lá thảy đều sinh ra từ gốc, nước có muôn nhánh ngàn dòng đều phải cậy có nguồn sâu. Loài vật còn biết như thế, huống hồ là con người ta. Đây chính là lí do để ta viết lại gia phả. Họ ta từ đời cụ tiên tổ, quan tước có chỗ đổi thay, chữ nghĩa trong bản phả cũ có chỗ lờ mờ, e rằng người đời sau khó lòng nhận biết. Nay ta xin tóm lược phả cũ, bổ sung thêm cho rõ, lược ghi sự tích của tổ tông để con cháu xem đấy mà thấy được công đức lưu truyền, thế thứ trước sau, tổ tiên dựng nghiệp từ xưa. Người đời sau dựa vào ghi chép thế thứ mà nhận họ hàng, do vậy ghi chép phải chuẩn xác, không dám sơ xuất, cốt để đời sau nhờ cậy tin tưởng".

Quả đúng như vậy, ngày nay giở trang phả cũ đọc lại từng hàng, chúng ta sẽ thấy công tích của tổ tiên dòng họ Lê Trung đất Hoằng Hóa hiện ra rõ nét. Tổ đời thứ hai của dòng họ là Lê Trọng Giang và Lê Trọng Hải đã có những đóng góp đáng kể cho vương triều Lê - Trịnh hồi bấy giờ. Một người được phong tước Tĩnh Quận công, một người được phong tước Văn Tuyền hầu. Trong xã hội Việt Nam xưa, công hầu khanh tướng là mục tiêu phấn đấu, là mơ ước cao đẹp của bao người. Nhìn ở góc độ khác, thì đó cũng chính là thước đo sức phấn đấu của con người thời đó. Tổ đời thứ hai Lê Trọng Giang được phong Uy vũ công thần Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô đốc Tĩnh Quận công, có thể coi là một người phấn đấu đạt đến đỉnh cao của danh vọng.

Theo quy chế quan chức đời Lê thì Uy vũ là một trong 24 bậc vinh phong cho các công thần đời Lê. Về huân hàm thì danh hiệu Thượng trụ quốc là huân hàm hạng nhất ban thưởng cho các võ quan có công với nước, xếp bậc Chánh nhất phẩm, lúc mới phong gọi là Đặc tiến khai phủ Thượng tướng quân, sau một thời gian thử thách thấy xứng đáng thì thăng là Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Như vậy thì tướng quân Lê Trọng Giang bấy giờ được xếp hàng võ quan cao cấp bậc nhất. Dĩ nhiên là chức ấy chưa phải là tối cao, bởi trên ông còn các chức Tiết chế, Thái sư, Thái phó, Thái úy, Quốc công nữa.

Để tìm hiểu rõ hơn về tướng quân Lê Trọng Giang và dòng họ Lê Trung ở Hoằng Hóa, chúng tôi tiếp tục tìm tòi nghiên cứu theo hai hướng. Một là đọc thêm các sách khác, tìm kiếm thêm sự tích trong các bộ chính sử hoặc gia phả của các nhà. Thật khó khăn vất vả, một vị công thần có tước phong lớn như vậy mà không hề tìm ra dấu tích trong chính sử. Các bộ sử lớn như Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt thông sử, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chép các sự kiện lịch sử trong khoảng thời gian chiến tranh Lê - Mạc từ 1530 đến 1630, riêng phía nhà Lê chép được hơn 160 vị quận công, thế mà lại không thấy nói về Tĩnh Quận công Lê Trọng Giang. Điều đó càng thôi thúc người viết phải tích cực đọc rộng thêm sách của các nhà. Thế rồi điều gì phải đến sẽ đến, đọc đến sách Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu kí có một đoạn chép về Trọng Giang hầu gan dạ quả cảm. Sách viết:

"Lúc bấy giờ Tiết chế Thanh Hoa Trịnh Tùng đang đóng quân ở ngoài Yên Mô, Yên Khang. Nghe tin quân Mạc tới Trịnh Tùng bèn thân hành cùng các đại tướng Hoàng Đình ái, Nguyễn Hữu Liêu đem quân ra ngoài lũy Bùi Môn chặn đánh, phá tan được quân Mạc.

Sau đó quân Mạc tiến đến Hà Đô, tướng Nam đạo là Lại Thế Mĩ đem quân đến khiêu chiến, cùng lúc tiến vào lũy Bùi Môn. Phủ tiết chế liền sai Thái úy Dương Quận công Nguyễn Hữu Liêu đem quân nghênh địch. Dương quận công cho sắp sửa khí giới và sai thuộc tướng Nguyễn Cảnh Kiên là tiên phong.

Nguyễn Cảnh Kiên bèn dàn quân thành nhạn trận, hô quân xung phong. Quân Bắc là Lại Thế Mĩ phóng ngựa lên chĩa giáo xông vào đánh. Vừa trông thấy Cảnh Kiên, Thế Mĩ liền chỉ tay quát rằng:

- Cha mày tài trí như vậy mà còn bị bắt. Nay mày chỉ là đứa trẻ lại dám chống lại quân triều đình hay sao? Hãy mau quy thuận triều đình thì cha con mày sẽ được bảo toàn tính mạng.

Cảnh Kiên quát lại:

- Tên phản tặc bỏ chúa theo giặc kia, nay định đến đây xin nộp mạng hay sao?

Thế Mĩ cả giận, thúc ngựa vượt khỏi hàng quân xông lên. Trong đội tiên phong của quân Cảnh Kiên có Trọng Giang hầu trông thấy Thế Mĩ, bèn nạp đạn vào súng áp nách bắn một phát trúng Thế Mĩ. Thế Mĩ ngã ngựa chết ngay. Quân Mạc đại bại. Quân lính tranh nhau chặt lấy đầu Thế Mĩ."

Lại Thế Mĩ vốn là công thần nhà Lê, từng được ban tước Phúc Quận công. Năm 1570 Thái sư Trịnh Kiểm mất, Lại Thế Mĩ theo phò Trịnh Cối chống lại triều đình, sau bị thất bại đã theo Trịnh Cối đầu hàng nhà Mạc. Đến đây, Lại Thế Mĩ theo quân nhà Mạc tiến vào Thanh Hóa đánh nhau với nhà Lê. Sự kiện này cũng thấy chép trong sách Đại Việt sử kí toàn thư:

"Tháng 8 năm Gia Thái thứ 5 (1577)

... Sau quân Mạc lại tiến đến Hà Đô. Bọn tướng Nam đạo Nguyễn Quyện đem quân phục ở phía ngoài đê chờ đợi, rồi sai Hoàng Quận công cùng bọn Lại Thế Mĩ đem quân khiêu chiến tiến đến ngoài cửa lũy Khoái Lạc. Lại Thế Mĩ nhảy lên ngựa trước đến đánh. Quan quân dùng súng bắn chết dưới chân ngựa. Quân Mạc tan vỡ. Các quân tranh nhau dâng tai Thế Mĩ ở cửa quân. Thưởng công."

Sự kiện xảy ra năm 1577, "quan quân dùng súng bắn" chép trong Toàn thư, chính là Trọng Giang hầu chép trong Hoan Châu kí và chính là Lê Trọng Giang ở Hoằng Hóa. Sách Hoan Châu kí cho biết, trận chiến giữa quân Lê và quân Mạc xảy ra năm 1577, phía quân Lê do Dương Quận công Nguyễn Hữu Liêu chỉ huy. Nguyễn Hữu Liêu lấy Dương Nham hầu Nguyễn Cảnh Kiên làm tiên phong. Trọng Giang hầu là thuộc tướng của Nguyễn Cảnh Kiên và dĩ nhiên là phiên chế trong đội quân Tiên phong. Sau chiến thắng đó Nguyễn Cảnh Kiên từ tước hầu được thăng làm Tín Quận công (sau đổi là Thư Quận công). Trong chiến thắng đó, Trọng Giang hầu bắn chết Lại Thế Mĩ, tạo đà cho quân Lê đánh thắng quân Mạc, vậy thì hẳn ông sẽ được triều đình ban thưởng cho trọng hậu. Trở lại tình hình chiến sự giữa hai tập đoàn Lê - Mạc hồi bấy giờ. Quân Mạc do Thạch Quận công chỉ huy mấy năm liên tiếp vào đánh quân Lê, khiến cho quân Lê bị tổn thất nặng nề. Năm 1575 Nguyễn Quyện đánh Hoan Châu giết chết đại tướng của quân Lê là Lai Quận công Phan Công Tích. Sau đó liên tiếp bức hàng Lâm Quận công, Bảng Quận công. Năm 1576 Nguyễn Quyện lại vào đánh Thanh Hoa, bắt sống danh tướng Tấn Quận công Trịnh Mô. Thanh thế quân Mạc rất lớn nên năm 1577 quân Mạc vào đánh Thanh Hoa, thì quân Lê hoảng loạn, dân chúng lo sợ. Do vậy, chiến thắng năm 1577 này của quân Lê đã làm thay đổi hẳn cục diện. Quân Mạc không dám xâm phạm cõi nam, quân Lê lấy lại khí thế, củng cố hậu phương, xây dựng lực lượng, để rồi đủ sức đánh ra Thăng Long, khôi phục nhà Lê.

Hướng thứ hai là tiếp tục khai thác các tư liệu gia phả sắc phong được họ Lê Trung lưu giữ. Gia phả họ Lê Trung cho biết, họ Lê từ đời cụ tổ thứ 2 cho đến đời tổ thứ 7, tên húy của các người trong họ đều dùng bộ Thủy .

1. Tổ đời thứ hai húy là Trọng Giang 仲 江. Chữ Giang nghĩa là sông nước có bộ Thủy.

Em cụ Trọng Giang là Trọng Hải, chữ Hải 海 là biển cả, có bộ Thủy.

2. Tổ đời thứ ba húy là Trọng Diễn 仲 演, chữ Diễn 演 là xa khơi, có bộ Thủy.

Ông Diễn sinh hai con trai là Trọng Bạn 仲 泮, chữ Bạn 泮 là bờ nước và Trọng Tứ 仲 泗. Chữ Tứ 泗 là con sông ở quê Khổng Tử, có dùng bộ Thủy.

3. Tổ đời thứ tư là Trọng Bạn 仲 泮.

Ông Bạn có hai bà:

Bà cả sinh ra Trọng Tấn 溍, Trọng Trào 潮.

Bà thiếp sinh ra Trọng Yêm 淹, Trọng Lỗi 仲 và Trọng Tuần 洵.

Tất cả các chữ Tấn (nước sôi trào ra), Trào (nước triều dâng), Yêm (ngập nước), Lỗi (nước to), Tuần (nước lên) đều dùng bộ Thủy.

4. Tổ đời thứ năm Trọng Tấn 仲 溍

Ông Trọng Tấn sinh ra Trọng Phổ 仲 潽

5. Tổ đời thứ sáu là Trọng Phổ 仲 潽

Ông Trọng Phổ sinh được hai con trai là Trọng Chử 仲 渚 và Trọng Rộc 仲 淥. Chữ Chử là bãi sông, bến sông và chữ Rộc là nước trũng, ruộng trũng đều dùng bộ Thủy.

6. Tổ đời thứ bẩy là Trọng Chử 仲 渚

Ông Trọng Chử sinh được hai con trai là Trọng Lí 理 và Trọng Tính 性. Từ đây tên húy của dòng họ Lê Trung không còn sử dụng bộ Thủy nữa, đời sau nếu có dùng chỉ là ngẫu nhiên.

Một dòng họ có đến sáu thế hệ liên tục đặt tên dùng bộ Thủy, đây hẳn là một việc làm có ý thức. Việc đặt tên dùng chuyên một bộ không phải là chuyện lạ, ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đều có, song dường như nó chỉ được thực hiện ở những cửa thế gia vọng tộc, chẳng hạn họ Trịnh nhà chúa Trịnh, các đời đều dùng bộ Mộc 木; họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội mấy đời dùng bộ Sĩ 士; họ Đặng ở Lương Xá, Hà Tây nhiều đời dùng bộ Nhật 日. Họ Lê Trung ở Hoằng Hóa có đến sáu đời đặt tên dùng bộ Thủy , có thể coi đây là hàng thế gia vọng tộc.

Trở lại việc gia phả ghi cụ tổ đời thứ hai húy là Trọng Giang, thụy là Quảng Xuyên. Chúng tôi xin đề nghị sửa lại tên thụy thành tên tự mới đúng. Lí do thứ nhất là nhiều đời tổ có tên tự dùng chữ Quảng, như tổ đời thứ nhất tự là Quảng Tính, tổ đời thứ tư tự là Quảng Vũ, tổ đời thứ sáu tự là Quảng Hiền v.v... Hai là trong cách đặt tên tự của người xưa, tên tự thường dùng để giải thích thêm cho tên húy. Ví dụ ông Tử Lộ học trò của Khổng Tử, tên là Lộ (con đường) tên tự là Trọng Do (theo đường); Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ ở Tả Thanh Oai, Hà Nội, tên húy là Sĩ (làm quan), tên tự là Thế Lộc (hưởng lộc quan); Sử gia Phan Huy Ôn ở Can Lộc, Hà Tĩnh tên húy là Ôn (ôn hòa), tên tự là Hòa Phủ (ông hòa nhã) v.v... Cũng lẽ đó thì ông Trọng Hải có tên tự là Trọng Hải có tên tự là Quảng Kê mới đúng.

Từ hai hướng tìm hiểu nghiên cứu như trình bày ở trên, chúng ta có đầy đủ cứ liệu để xem xét đánh giá về dòng họ Lê Trung ở Hoằng Hóa, một dòng họ giầu truyền thống văn hóa yêu nước, thật xứng đáng với lời khen của vua Lê Thế Tông: Khải văn võ đường. Có thể nói họ Lê Trung không chỉ là làm rạng danh cho xứ Thanh lịch sử oai hùng mà còn làm cho bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam càng thêm nồng thắm. Những mong các cơ quan quản lí văn hóa của cả nước nghiên cứu đánh giá xếp hạng theo quy chế của nhà nước./.

>N.T.N

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại Việt sử kí toàn thư, Bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1993.

2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch, Nxb. Giáo dục, H. 1998.

3. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Nxb. KHXH, H. 1993.

4. Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu kí, Bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1988.

5. Gia phả họ Lê Trung, nguyên bản chữ Hán lưu giữ tại nhà thờ họ Lê Trung ở xã Hoằng Ngọc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa./.

TB

TÁC GIẢ TRỊNH DOANH VÀ
CÀN NGUYÊN NGỰ CHẾ THI TẬP

NGUYỄN THỊ LÂM

Trịnh Doanh là con thứ của chúa Trịnh Cương (1709-1729), em ruột chúa Trịnh Giang (1729-1740) và là chúa thứ bảy đời vua Lê chúa Trịnh, nguyên quán ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, có tài văn võ. Từ năm 1736 đời Lê ý Tông, được cử giữ chức Thái úy, tiết chế thủy bộ chư doanh, tước An Quốc công lúc mới 16 tuổi. Năm Canh Thân (1740) đời Lê Hiển Tông, được thay anh lên nối nghiệp chúa. Đến năm Nhâm Tuất (1742) tự phong là Đại nguyên soái Tổng quốc chính, Minh Đô vương.

Ông mất tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767), được tôn xưng là Nghị tổ Ân vương.

Trong số các chúa Trịnh, Trịnh Doanh là một vị chúa hay thơ và sành về thơ Nôm. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã có lời bàn: “Đến Ân vương [Trịnh Doanh] dụng công về việc làm thơ, làm đến mấy trăm bài, cũng đáng gọi là một vị chúa hiền thích văn thơ...”. Tác phẩm của ông có Càn nguyên ngự chế thi tập (1). Sách gồm 268 bài, trong đó có 37 bài thơ chữ Hán và 231 bài thơ chữ Nôm. Như ta đã biết, Trịnh Doanh lên ngôi chúa vào năm 1740 nên số bài thơ này ra đời từ 1740 đến 1767. Tuy nhiên, phải đến khi con trai ông là Trịnh Sâm (1737-1782) lên nắm quyền thì các bài thơ này mới được tập hợp, ghi chép thành sách. Người tuân theo mệnh lệnh chúa Trịnh làm công việc này là Phan Lê Phiên (1734-1809), giữ chức Hàn lâm viện Thị thư, Tư nghiệp Quốc tử giám. Trong bài khải dâng sách đề ngày 20 tháng 8 năm Cảnh Hưng 31 (1770), ông viết: “Kính vâng thánh chỉ, biên chép các bài thơ ngự chế của tiên thánh vương theo thứ tự, sắp đặt thánh huấn theo từng việc, từng loại, vựng thành bốn quyển, đặt tên là Càn nguyên ngự chế thi tập”.

Đây là một tác phẩm có những đóng góp nhất định trên lĩnh vực thơ Nôm. Tuy nhiên, tác phẩm này hầu như vẫn ít được chú ý. Trong Từ điển Văn học, tập 2 (Nxb. KHXH, H. 1984), PGS. Phạm Tú Châu đã giới thiệu khái quát về Càn nguyên ngự chế thi tập trong mục Trịnh Doanh. Tiếp đó, cũng trong mục này ở Tổng tập văn học Việt Nam, tập 7, ( Văn học Việt Nam nửa thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII, PGS. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H. 2000) cũng giới thiệu tiểu sử tác giả và chọn phiên âm, chú thích 19 bài thơ. Có thể nói cho đến nay Càn nguyên ngự chế thi tập còn chưa được phiên âm, công bố một cách đầy đủ.

Sau khi hoàn thành, có lẽ Càn nguyên ngự chế thi tập đã được đem khắc in, bởi trong bài khải Phan Lê Phiên có viết: “Sách này in xong, thần tự thẹn công lao không có mấy, đêm khuya chúa xem đến, may cũng bổ ích ít nhiều...”. Hiện nay, sách chỉ còn một bản chép tay được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1319, 104 tờ, mỗi tờ viết hai mặt, chất giấy đã cũ, có mục lục và bài khải nói trên. Tuy không đề rõ năm tháng hoặc tên người sao chép nhưng qua những đặc điểm về ngôn ngữ văn tự, cứ liệu địa danh và cách viết không kiêng húy có thể đoán định bản chép tay này ra đời khá sớm, có lẽ trước đời Nguyễn và sau bản in không lâu. Sách bao gồm 4 quyển đóng chung:

- Càn nguyên ngự chế thi tập, quyển I, 37 tờ, 84 bài (có 2 bài Hán): Việc nhân ái trong họ hàng (Nhân thân chi sự) 8 bài;,Phép tắc trong nhà (Nhàn gia chi tắc) 35 bài, Đạo trị nước (Vi trị chi đạo) 9 bài, Phép luyện quân (Cật nhung chi pháp) 12 bài, Nhân việc mà dạy bảo (Nhân sự chi huấn) 20 bài.

- Càn nguyên ngự chế thi tập, quyển II, 23 tờ, 51 bài (có 9 bài Hán): Sai các tướng đi đánh trận (Khiển chúng tương vu chinh) 40 bài, Sai các quan đi trấn nhậm (Mệnh chư hầu xuất trấn) 11bài.

- Càn nguyên ngự chế thi tập, quyển III, 19 tờ, 52 bài (có 17 bài Hán): Khen, dụ đại thần (Tưởng dụ đại thần) 21 bài, Uý lạo sứ thần (Tưởng lạo sứ thần) 10 bài, Tưởng lệ các bậc kỳ lão (Ưu lễ kỳ thần) 18 bài, Tôn sùng các bậc thánh triết (Bao sùng thánh triết) 3 bài.

- Càn nguyên ngự chế thi tập, quyển IV, 25 tờ, 81 bài (có 9 bài Hán): Cảm nhận phúc trời (Cảm thiệu thiên hưu) 16 bài, Ban thưởng (Khánh thưởng) 5 bài; Ngụ hứng (Ký hứng) 8 bài, Vịnh phong cảnh miền đông (Đông chinh kỷ thắng) 3 bài, Vịnh phong cảnh các nơi (Tỉnh phương kỷ thắng) 14 bài, Vịnh phong cảnh kinh thành (Kỳ điện kỷ thắng) 4 bài, Tạp vịnh 28 bài và Ngẫu tác 3 bài.

Đi vào nội dung, có thể thấy quyển I tập trung vào những vấn đề khuyến giới. Điều này thể hiện qua hàng loạt bài thơ mừng tặng, khuyên răn người thân trong gia đình về việc trau dồi đức hạnh, giữ gìn đạo lý trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến như các bài: Cung hạ ý Đức chủng mộc tê hoa nhị trung sinh diệp, Ban hạ Thái trưởng công chúa khang kiện, Ban hạ Thái trưởng công chúa tân gia, Ban tương vương tôn Trịnh Tông, Ban Chính cung, Ban Đông cung, Ban Bắc cung, Ban Nam cung, hoặc khuyên bảo các quận chúa về nhà chồng:

“Kìa lời Chu Dịch(2) dạy nhàn gia,
Khắc cốt minh can(3) đạo kính hoà.
Trước ghín(4) khăng khăng lòng hiếu thuận,
Sau răn nớp nớp(5) thói kiêu sa.
Lệ côn ắt xứng trong danh giá,
Tam tứ(6) càng gồm thửa nết na.
Sớm thấy điềm lành lan quế trỗi,
Phúc lành thể ắt dõi lâu xa.”
(Ban Thưởng Trì cung Quận chúa hồi môn)

Bản thân nhà chúa là người mưu việc thịnh trị cho đất nước cũng phải làm cho muôn dân trăm họ được yên vui:

“Gây nên chính trị phép Thang Văn(7)
Khắn khắn tua gìn đạo khắc cần(8).
Ngoài chấn võ uy thanh đảng ác(9),
Trong tu văn giáo vỗ dân thuần(10).
Trung hưng rạng nối công thời hựu(11),
Chí thiện trau nên đức nhật tân(12),
Quyến mệnh muôn trông trên bảo hựu(13),
Xưa sau dám lãng chữ duy thân(14).”
(Đồ trị công)

Những quan niệm như trên ở người điều hành bộ máy thống trị như Trịnh Doanh không có gì lạ, bởi ông là đại diện cho hệ tư tưởng chính thống của thời đại. Tuy chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử nhưng trong một số bài cũng chứa đựng những yếu tố hợp lý, tích cực. Chẳng hạn các bài nói về việc thận trọng trong phong tục ( Cẩn phong hoá), bàn về hiểu người (Luận tri nhân), ghét thói gian nịnh (Ố gian nịnh). Đặc biệt, trong chùm thơ “Luận tài đức” gồm năm bài, tác giả đã nêu được mối quan hệ khá đúng đắn giữa hai phạm trù đó khi cho rằng:

Đức thời là cội ngọn là tài,
Tài đức gồm hai mới đáng tài...
Tài là hoa gấm phô nền đức,
Đức có thơm danh tỏ chữ tài.
Ướm nhắc cân xưng(15) tài miễn (lẫn) đức,
Trọn tài, vẹn đức thánh nhân tài...

Quyển II và III chủ yếu đi vào một công việc có tầm quan trọng hàng đầu là khích lệ các tướng lĩnh, uý lạo các bậc đại thần, sứ giả để động viên, khuyến khích họ làm tròn bổn phận. Điều này thể hiện qua hàng loạt bài ban cho các tướng đi đánh trận như Bính Quận công, Điều Quận công, Kiên Quận công, Tuân Quận công, Khuông Quận công, Bích Quận công, Miên Quận công, Nguyễn Huy Nhuận, Vịnh Quận công, Việp Quận công. Tác giả không quên biểu dương những cố gắng, công lao khó nhọc của họ:

“Dấy dức(16) ba quân thuở trận tiền,
Tiên khu(17) từng đã trải nhiều phen.
Ruổi rong trước đỉnh tên tam định(18),
Tóm được trong tay chước vạn toàn.
Hiểm yếu đòi nơi lòng chẳng ngại,
Phiên hàn(19) mấy bức thế càng bền.
Đã Nam thời Bắc công thu vẹn,
Thẻ “dữ đồng”(20) này chói chói tên.”
(Ban Tuân Quận công)

Ông hết sức ca ngợi và biểu dương công trạng của những viên quan đi trấn nhậm ở bên ngoài như Nguyễn Công Thể, Trình Quận công, Phấn Quận công, Lệ Phương hầu, Vực Quận công, Cổn Quận công, Cảnh Trung hầu, Châu Trung hầu, Thành Quận công. Họ xứng đáng là bức trường thành che chắn của chế độ:

“Từng trải phong sương sửa việc ngoài,
Trung cần(21) hai chữ vẹn gồm hai.
Dẹp yên đảng ác ong đồn sạch,
Vỗ được dân lành nhạn trạch vui.
Tiếng nức hai phương hầu có mấy,
Lòng thìn(22) một tiết chẳng hề sai.
Cõi Đông tua lại can thành(23) đấy,
Phức phức danh thơm thẻ ngọc bày.”
(Ban Trình Quận công trấn Hải Dương)

Ông cũng tỏ lòng ưu ái, trông đợi ở các sứ thần như Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai, Vũ Khâm Lân, Nguyễn Huy Oánh trong khi những người này gánh vác trọng trách ở bên ngoài:

Vó câu(24) đường thẳng mặc khoan thai,
Công nghĩa hai bề vẹn cả hai.
Tiên(25) ngọc khăng khăng vâng bệ ngọc,
Rượu mai phang phảng chuốc đình mai.
Niềm trung ái rành ghi dạ,
Gánh quân thần uốn (vẫn) nặng vai.
Kíp thấy quy dao(26) công được vẹn,
Danh thơm càng rạng chốn vân đài(27).
(Gia ban Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh)

Những nội dung trên đây cho thấy Trịnh Doanh đã bao quát hầu hết mọi công việc, từ việc lớn đến việc nhỏ. Ông động viên khuyến khích các đại thần văn võ cốt để phát huy hết năng lực, sở trường của mỗi người. Tất cả những việc làm ấy đã trở thành cấp bách và có ý nghĩa thiết thực khi mà xã hội Việt Nam thời Trịnh Doanh lên nắm chính quyền là một xã hội đen tối, loạn lạc. Để cứu vãn tình hình, ông không thể không thi hành một số chính sách mới nhằm chỉnh đốn bộ máy quan lại, khoan nới sức dân, ưu đãi các tướng lĩnh để kịp thời đối phó với những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra. Có thể nói nội dung trong tập thơ phần nhiều là do những yêu cầu về chính trị, quân sự và hoàn cảnh cụ thể qui định. Tuy vậy, cũng có những bài thể hiện được tình cảm chân thành, quí trọng người tài của tác giả.

Quyển IV phần lớn là thơ cảm hứng, đề vịnh của tác giả trong những dịp đi du ngoạn, thăm thú những cảnh đẹp như Tiêu Tương, phố Hiến, núi Sài Sơn, núi Dục Thúy, núi Trinh Tiết, các chùa chiền và hang động nổi tiếng như chùa Phao Sơn, chùa Phả Lại, chùa Phúc Long, chùa Nguyệt Đường, hang Địch Lộng... Nhà thơ say sưa trước vẻ đẹp hữu tình của hang Cắc Cớ:

“Khen thợ trời xưa uốn (vẫn) có công,
Lạ thay Cắc Cớ(28) chẳng lời không.
Bước tiên in ngọc rành rành tạc,
Cửa động dòm trăng hẻm hẻm thông.
Phương trượng(29) đã giành nơi giới định,
Đại can lại sẵn nẻo tàng dung.
Kìa kìa một mái dày huyền hoặc,
Thế vững kim thang(30) dõi chẳng cùng.”
Và phong cảnh kỳ thú ở Long Châu:
“An bài sẵn có chốn thiên thành,
Cảnh trí nhìn xem rất lạ thanh.
Mãn địa(31) vẻ hà lồng bảo thụ,
Quán thiên bóng nguyệt ánh thiền quynh(32).
Tư bề nước nhiễu(33) tư mùa gấm,
Tám mặt non vầy tám bức tranh.
Chẳng những trí nhân vầy thửa thú,
Lại thêm vững đặt bức trường thành.”

Lại có những cảnh đẹp gắn liền với truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc như cửa bể Thần Phù hoặc địa danh Bồ Đề thuộc Gia Lâm hiện nay:

“Càn khôn(34) vẹn thiểu đúc nên bầu,
Tựa chạm đồ phong(35) vẻ cuốn thâu.
Mấy trạm lâu đài thanh vặc vặc,
Ba ngàn thế giới(36) dãi làu làu.
Nền nhân cao đắp gây trương tán,
Đai ngọc xa băng nước uốn câu.
Dấu cũ bình Ngô công nấy trước,
Nay còn thế tráng vững kim âu(37).”

Có thể nói bất kỳ ở nơi đâu, cảnh vật dưới ngòi bút của ông cũng hiện lên thật sinh động, hấp dẫn. Những bài thơ thuộc loại này đã ít nhiều thể hiện tình cảm yêu mến và tự hào về phong vật của đất nước. Thể thơ thường dùng là Đường luật, đôi khi có xen vào những câu sáu chữ (trong 231 bài chữ Nôm thì có 218 bài thất ngôn, 10 bài thất ngôn xen lục ngôn). Lối thơ này đã từng thấy trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác gia thời Hồng Đức, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngự đề Thiên hoà doanh bách vịnh của Trịnh Căn ở cuối thế kỷ XVII. Trong tác phẩm này lại được vận dụng khá tinh tế ở một số bài như: Tá điếu ngụ cảnh từ, Vịnh Địch Lộng phong cảnh, Gia ban Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh. Có một số bài làm theo thể lục bát: Chinh nghi dụng pháp, Đấu trạo thức, và song thất lục bát: Khánh thưởng chư vương tôn thị tiền. Tuy hai thể thơ này còn ở dạng thể nghiệm nhưng cũng có những câu khá chải chuốt, nhuần nhuyễn:

“Quý xuân(38) vừa tiết hạ thiên,
Khí hoà đầm ấm mọi miền khoe tươi.
Uốn (vẫn) vẹn mười nền nhân cây đức,
Dưới trên đều phấn sức trị công(39).
Quân minh vì có thần trung,
Gây nên thái vận(40) ngoài trong phỉ nguyền.
Thói nhân hậu noi bề tiên triết,
Cho vầy nên thời tiết thái hanh.
Trải xem đã mấy kỷ canh(41),
Bây chừ đem lại thần kinh vẹn toàn...”

Một điều dễ nhận thấy là Càn nguyên ngự chế thi tập tuy có khá nhiều bài ca ngợi những cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước, nhưng hình như vẫn còn thiếu vắng những bức tranh mô tả hiện thực đời sống xã hội so với những tác phẩm trước đây như Hồng Đức quốc âm thi tập hoặc Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Trong số 268 bài thì nhiều nhất là các bài khuyến giới, thứ đến là động viên khích lệ các bề tôi, cuối cùng là phần thơ đề vịnh. Có thể thấy Trịnh Doanh đã có nhiều cố gắng nhằm vãn hồi chế độ phong kiến đang ở trong giai đoạn khủng hoảng, quý trọng và tin dùng những bậc hiền tài. Ngoài ra, ông còn là một nhà thơ yêu thiên nhiên và đây là một tác phẩm đã đạt được những giá trị nhất định về phương diện tư tưởng và nghệ thuật văn chương.

Mặt khác, tuy là một văn bản chép tay nhưng do tính chất kế thừa của một nền văn tự mà Càn nguyên ngự chế thi tập còn lưu giữ được những mã chữ Nôm cổ như chữ “trong” ghi bằng “công 工”, “sang ” ghi bằng (cự + lang 巨 + 郎), “trước ” ghi bằng (cư + lược 車 + ), “sau ” ghi bằng (cư + lâu 車 + 婁)... Trong văn bản cũng có khá nhiều từ cổ mà hầu như hiện nay không còn sử dụng nữa: Thừa lưa (dồi dào, đầy đủ); khứng (chịu); ghín (cẩn thận); tua (nên); mựa (chớ); thìn (giữ gìn); miễn (lẫn); phen lê (so bì); thốt (nói); thày lay (gây ra sự phiền toái); cóc (biết); đòi (nhiều); khong khen (khen ngợi), ngõ ngàng (tài giỏi)... Ngoài ra, tác phẩm còn có nhiều từ lặp như: vặc vặc, lộng lộng, rỡ rỡ, nớp nớp, chói chói, hớn hớn, vẳng vẳng, đáu đáu, khắn khắn... mà về sau, những từ thuộc loại này sẽ có sự biến âm để tạo thành từ lấp láy. Đây là một tài liệu quý để nghiên cứu chữ Nôm và lịch sử tiếng Việt. Tác giả cũng tỏ ra có nhiều cố gắng trong việc Việt hoá nhiều từ ngữ gốc Hán như: “quyền môn” thành “cửa quyền”, “tứ đoan” thành “bốn mối”, “ngũ luân” thành “năm luân”, “từ vân” thành “mây từ”, “ngũ phúc” thành “năm phúc”... Với số lượng 231 bài thơ chữ Nôm (chỉ sau Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi), Càn nguyên ngự chế thi tập xứng đáng là một bằng chứng về sự phát triển và khả năng diễn đạt của ngôn ngữ dân tộc ở thế kỷ XVIII. Có ý kiến cho rằng lối thơ thất ngôn xen lục ngôn đến thế kỷ XVII đã kết thúc với thơ Nôm của Trịnh Căn(42). Nhưng sang thế kỷ XVIII, Càn nguyên ngự chế thi tập với tổng cộng 268 bài thơ, trong đó có những bài xen lục ngôn đã góp phần khẳng định sự phát triển của thể thơ này lên một đỉnh cao mới. Thơ Nôm Đường luật xen lục ngôn quả đã gặt hái được khá nhiều thành tựu trong đó có thi phẩm của các chúa Trịnh. Như vậy thì Càn nguyên ngự chế thi tập lại là một cái mốc để có thể nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của thơ Nôm Đường luật, trong đó có thể xen pha lục ngôn. Đây cũng là bằng chứng về sự phát triển của thơ ca tiếng Việt ở giai đoạn này.

Càn nguyên ngự chế thi tập của Trịnh Doanh tuy có sử dụng những điển tích từ các nguồn văn liệu Trung Quốc, nhất là ở Tứ thư, Ngũ kinh và có nhiều từ cổ nhưng nhìn chung bình dị, dễ hiểu. Ông tỏ ra coi trọng việc sử dụng chữ viết dân tộc, không có sự phân biệt vị trí, tác dụng giữa chữ Nôm và chữ Hán. Trái lại, ở ông chữ Nôm có phần tỏ ra hữu hiệu hơn trong việc sáng tác thơ văn và bày tỏ tư tưởng tình cảm của mình. Với Càn nguyên ngự chế thi tập, Trịnh Doanh chẳng những rất quan tâm đến chữ Nôm, trực tiếp làm nhiều thơ bằng chữ Nôm mà còn có tác dụng cổ vũ cho phong trào sáng tác bằng tiếng Việt. Quả vậy, ở thời kỳ này đã có không ít tác giả còn để lại những tác phẩm Nôm lưu truyền ở đời như Nguyễn Huy Oánh có Huấn nữ tử ca, Nguyễn Tông Quai có Sứ trình tân truyện, Nguyễn Bá Lân có Giai cảnh hứng tình, Ngã ba Hạc phú... và những tác giả khác. Trong tiến trình phát triển của thơ Nôm nói chung, Càn nguyên ngự chế thi tập là tác phẩm có đóng góp tích cực vào việc trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc và chỉ riêng con số 231 bài thơ Nôm cũng đủ để đưa tác giả của nó vào danh sách những nhà thơ có tên tuổi của nền văn học trung đại Việt Nam.

N.T.L

CHÚ THÍCH:

1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Trần Nghĩa - Prof. Franỗois (chủ biên). Nxb. KHXH, H. 1993, tr.201.

2. Chu Dịch: tên một bộ sách triết học cổ nhất của Trung Quốc thời xưa.

3. Khắc cốt minh can: ghi tạc vào lòng.

4. Ghín: cẩn thận (từ cổ).

5. Nớp nớp: sợ hãi.

6. Tam tứ: tam tòng và tứ đức. Tam tòng nói về người con gái ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Tứ đức là bốn đức hạnh của người phụ nữ bao gồm công, dung, ngôn, hạnh.

7. Thang Văn: chỉ Thành Thang đời Thương và Văn Vương đời Chu là hai vị vua hiền đời xưa của Trung Quốc.

8. Khăn khắn: chuyên tâm, chăm chỉ. Tua: nên. Khắc cần: cần cù, siêng năng.

9. Cả câu ý nói ngoài dùng uy vũ để diệt đảng ác.

10. Cả cây ý nói bên trong sửa sang giáo hoá để vỗ về dân lành.

11. Công thời hựu: công luôn giúp đỡ.

12. Nhật tân: ngày càng đổi mới.

13. Bảo hựu: che chở.

14. Duy thân: vì người thân

15. Cân xưng: cân nhắc, so sánh.

16. Dấy dức: hăng hái.

17. Tiên khu: quân tiên phong đi trước đánh giặc.

18. Tên tam định: bắn ba mũi tên dẹp yên giặc. Tiết Đinh Quý đời Đường được lệnh đem quân đi đánh giặc, bắn ba mũi tên để thị uy, giặc liền xin hàng.

19. Phiên hàn: phên dậu.

20. Dữ đồng: cùng nhau hưởng phú quý.

21. Trung cần: hết lòng vì vua.

22. Thìn: giữ gìn (từ cổ).

23. Can thành: can là cái mộc để che thân thể, thành là bức tường. Bảo vệ ở trong và trấn giữ ở ngoài gọi là can thành. Nghĩa bóng: chỉ tướng tài.

24. Vó câu: vó ngựa câu.

25. Tiên: tờ giấy có hoa văn.

26. Quy dao: xe trở về.

27. Vân đài: đài mây.

28. Cắc Cớ: tên một hang động trên núi Sài Sơn.

29. Phương trượng: nơi vị sư trụ trì trong chùa ở.

30. Kim thang: do bốn chữ “Kim thành thang trì” (thành bằng sắt và ao nước nóng), ý nói thành trì rất vững chắc quân giặc không làm gì được.

31. Mãn địa: khắp nơi trên mặt đất.

32. Quán thiên: khắp bầu trời. Quynh; miếng gỗ gài cửa.

33. Nhiễu: vây bọc xung quanh.

34. Càn khôn: hai quẻ trong Kinh Dịch, tượng trưng cho trời đất.

35. Đồ phong: bức tranh phong cảnh.

36. Ba ngàn thế giới: do chữ “Tam thiên thế giới”. Theo Phật giáo, họp một nghìn nước lại là Tiểu thiên thế giới, nhân một nghìn lần Tiểu thiên thế giới thành Trung thiên thế giới, nhân một nghìn lần Trung thiên thế giới là Đại thiên thế giới, nhân ba lượt một nghìn lần gọi là Tam thiên thế giới.

37. Kim âu: cái bình vàng, tượng trưng cho quốc gia.

38. Quý xuân: cuối mùa xuân.

39. Trị công: công việc trị lý quốc gia.

40. Thái vận: vận thái bình hanh thông.

41. Mấy kỷ canh: mấy mươi năm.

42. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức: Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.37.

TB

BIA TRĂN TÂN TỪ LỆ VÀ LỆ TẾ THẦN DƯỚI THỜI HỒNG ĐỨC

PHẠM THỊ THUỲ VINH

Xã Phúc Thọ, tổng Quảng Bố, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh có ngôi đền cổ thờ một vị thủy thần là Lã Nam Đế Vương, miếu hiệu của thần là Trăn Tân. Tại ngôi đền này còn lưu giữ ba tấm bia cổ liên quan đến thần tích và các lệ thờ cúng thần, trong đó có bia Trăn Tân từ lệ 溱 津 祠 例, thác bản văn bia hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu 6370-6371.

Bia có kích thước 40x72cm với 17 dòng chữ Hán, có tất cả khoảng 500 chữ, các chữ đều khắc nông, nhỏ và bị mờ rất nhiều. Nhưng nhận thấy đây là một văn bản có nhiều thông tin về tục lệ tế thần có niên đại tuyệt đối chính xác vào cuối thế kỷ XV nên chúng tôi xin dịch công bố văn bia này. Sau đây là bản phiên âm và dịch nghĩa của chúng tôi.

Phiên âm:

Trăn Tân từ lệ bi ký

Kinh Bắc xứ, Thuận An phủ, Thiện Tài, Gia Định nhị huyện, Phúc Thọ xã tế chủ Cao Huy Lãng, Quảng Nạp xã tế chủ Nguyễn Thế Vinh, Lĩnh Mai xã tế chủ Nguyễn Đình Quế, Quảng Bố xã tế chủ Vũ Cơ, Thanh Liễu xã tế chủ Nguyễn Văn Thành, Hạo Bố xã tế chủ Hoàng Đăng Tuyển, Đỗ Tế xã tế chủ Đỗ Văn ích, Phú Nẫm xã tế chủ Nguyễn Công Tuần, Quỳnh Bội xã tế chủ [] Đức Lâm [] [] xã thôn đẳng đồng phụng sự thượng đẳng thần nhất vị miếu hiệu Trăn Tân tại Phúc Thọ xã địa phận giang biên xứ. Nãi ư Đinh Mùi niên thất nguyệt sơ bát nhật thời kỳ kiến thần phiệt nhất chu tựu vu miếu xứ thiết chi hậu miếu nội ngoại Phúc Thọ xã. [] [] [] bảng tiếp các xã tựu vu miếu xứ nghị hành khánh tán lễ. Nhưng thử cộng hội định lập hội, cầu tiền cấp dĩ hội tử các lệ [] [] [] [] phụng cận [] định tế lệ. Cụ trần vu tư dĩ truyền vĩnh viễn văn.

Kê:

Nhất định lập hội lệ hương hỏa, Phúc Thọ áp cái hội tử. Đệ nhất nhật Quảng Nạp, Lĩnh Mai; đệ nhị nhật Quảng Bố; đệ tam nhật Thanh Liễu, Hạo Bố; đệ tứ nhật Đỗ Xá, Phú Nẫm; đệ ngũ nhật Quỳnh Bội. Hệ Trăn Tân từ lệ như hữu đồi tệ tu lý hoàn thành chi hậu, cứ hương hỏa xã chuyển hội tử tựu vu miếu xứ hội nghị hội lệ.

Chuẩn viết: Thỉnh kinh [] hội tử mỗi xã chư cổ tiền nhất quan, tất viên cơ cung tiến lễ, mỗ xã các chiếu mỗ xã đương sở thiết lập hoa thập tiêu. Chí nhật quan viên trung nam nghi vệ tề tựu thỉnh kinh. Phú Thọ nghênh Thánh vị trung hành; Quảng Nạp, Lĩnh Mai tiên hành; Quảng Bố tả biên; Thanh Liễu, Hạo Bố hữu biên; Đỗ Xá, Phú Nẫm dữ Quỳnh Bội hậu hành. Cập hồi chí miếu sở, hội tử thỉnh tạ nhi hồi. Chiếu nhật hội lệ (lệ tại tiền), kỳ mỗ xã hội nhật đàn sở lập. Nghiêm cấm bất đắc cứ phạm hương hỏa xã, cai đội trung nam đồng môn áp cái. áp chiếu y xã thủy nhập hành lễ, lễ tất hương hỏa xã cai đội tái nhập bái thần. Xuất kính ngôn, trung nam dĩ nghiêm hội sở ([] y nhật hội tử chỉnh chư nhất đầu, suy nhất bàn, tửu nhất [], phù lưu nhất phong hương hỏa xã cai đội. Chí nhật dĩ vãn, hương hỏa cai đội trung nam tái nhập áp cái giải xuất tiên hành lễ. Hội tử hậu hành, tề tựu Trăn Tân miếu bái tạ nhi hồi, kỳ các hội tiến mãn tạ thần lễ. Các xã đồng mãi đồng thụ dĩ hoàn kính ý, dĩ biểu thuần phong, ngưỡng hà tôn thần phù trì chi đại đức dã.

Nhất phụng nghênh lệ: Hệ đệ niên tứ nguyệt sơ lục nhật, hương hỏa Phúc Thọ xã cáo nghênh. Sơ thất nhật Quảng Nạp xã cáo từ. Sơ bát nhật Phúc Thọ xã, Lĩnh Mai xã, Quảng Bố xã phụng nghênh; Phúc Thọ xã kiệu vị chí tại tiền; Lĩnh Mai kiệu vị chí tại thứ; Quảng Bố kiệu vị chí tại hậu, tịnh ư chí kiệu đường trung gian xứ tấu nghênh khất. Các xã bái tạ, thượng kiệu hoàn hành, Lĩnh Mai tiên hành, Phúc Thọ trung hành, Quảng Bố hậu hành. Hồi chí Đống Lã xứ, Phúc Thọ kiệu vị chí trung, Lĩnh Mai kiệu vị chí tại tả, Quảng Bố kiệu vị chí tại hữu. Như hữu yến lễ, Phúc Thọ xã tả văn, độc chúc, đông tây thông ngôn. Tồn chư tế khí, tế vật mỗ xã các tư tự chỉnh. Sơ cửu nhật Phú Nẫm xã phụng nghênh. Hướng thượng các lệ giai dĩ chuẩn định, nhưng minh vu thạch dĩ thùy hậu thế vân.

Minh viết:

Quốc xưng Nam Việt

Huyện mỹ Thiện Gia

Tâm đồng phụng sự

Miếu lập nguy nga

Lệ tư viên định

Lạc vô dĩ gia

Phúc tuy dân xã

Tộ diễn hoàng gia

Tư bi nhất lặc

Vạn đại bất ma

Lê triều Hồng Đức thập bát niên tuế thứ Đinh Mùi thập nhất nguyệt cốc nhật.

Bản tổng Quảng Bố xã Tân Sửu khoa Tiến sĩ Hàn lâm viện Hiệu lý Đông các Thị thư Nguyễn Đình Tuấn soạn.

Phúc Thọ xã xã trưởng Cao Sĩ Vinh tả.

Kinh Môn phủ Hiệp Sơn huyện Kính Chủ xã thạch tượng Trịnh Duy Năng thuyên.

Dịch nghĩa:

Bia ghi về các lệ đền Trăn Tân

Chủ tế của các xã thuộc hai huyện Gia Định và Thiện Tài phủ Thuận An xứ Kinh Bắc là: Cao Huy Lãng chủ tế xã Phúc Thọ, Nguyễn Thế Vinh chủ tế xã Quảng Nạp, Nguyễn Đình Quế chủ tế xã Lĩnh Mai, Vũ Cơ chủ tế xã Quảng Bố. Nguyễn Văn Thành chủ tế xã Thanh Liễu, Hoàng Văn Tuyển chủ tế xã Hạo Bố, Đỗ Văn ích chủ tế xã Đỗ Xá, Nguyễn Công Tuần chủ tế xã Phú Nẫm, [] Đức Lâm chủ tế xã Quỳnh Bội [] [] cùng toàn thể các xã thôn trong hai huyện cùng thờ phụng một vị Thượng đẳng thần miếu hiệu là Trăn Tân tại bên sông địa phận xã Phúc Thọ. Vào giờ Thìn ngày mồng 8 tháng 7 năm Đinh Mùi cầu thấy thần cưỡi thuyền đến miếu đạt ở [phía sau miếu ?] xã Phúc Thọ. [] [] [] các xã đến miếu bàn bạc việc tiến hành lễ khánh tán. Vì thế cùng họp bàn định lập hội, tìm tiền đề cấp cho hội viên [] [] []... định các lệ tế. Xin trình bày đầy đủ ở dưới để truyền lại vĩnh viễn.

Kê khai:

Quyết định lập hội lệ hương hỏa

Xã Phúc Thọ cầm lọng hội tử [hội viên]. Ngày thứ nhất xã Quảng Nạp, Lĩnh Mai; ngày thứ hai xã Quảng Bố; ngày thứ ba xã Thanh Liễu, Hạo Bố; ngày thứ tư xã Đỗ Xá, Phú Nẫm; ngày thứ năm Quỳnh Bội.

Hễ đền Trăn Tân nếu như bị hư hỏng, sau khi hoàn thành việc tu sửa thì dựa theo xã chịu việc hương hỏa mà chuyển cho hội tử đến miếu họp bàn bạc về lệ của hội.

Chuẩn theo [như sau]: Khi thỉnh kinh thì hội tử mỗi xã góp lợn trị giá một quan cổ tiền, xong rồi đặt trong thúng tròn dâng lên làm lễ. Xã nào cũng phải chiếu theo xã đang gánh vác công việc mà dựng nên 10 cây nêu hoa. Tới ngày, lớp quan viên trung nam của các xã mang nghi phục đứng hầu đến tề tựu cầu kinh. Xã Phúc Thọ nghênh Thánh vị đi giữa, xã Quảng Nạp, Lĩnh Mai đi trước, xã Quảng Bố đi phía bên trái, xã Thanh Liễu, Hạo Bố đi phía bên phải, xã Đỗ Xá, Phú Nẫm đi phía sau. Khi về đến miếu sở hội tử xin cảm tạ mà quay về.

Chiếu theo ngày hội lệ (lệ đã nêu ở trước) thì xã nào đến ngày hội [phải] lập đàn tế, nghiêm cấm không được vi phạm. Lớp trung nam, đồng môn của đội hương hỏa xã ấy cầm lọng, giữ chiếu [sắc], xã ấy vào làm lễ đầu tiên, lễ xong, đội hương hỏa xã ấy lại vào bái lạy thần, khi ra nói lời cung kính. Lớp trung nam giữ nghiêm miếu sở... (Vào ngày ấy các hội tử phải chuẩn bị một đầu lợn, một mâm xôi, một chai rượu, một phong trầu cau và đội hương hỏa của xã). Đến cuối ngày, lớp trung nam của đội hương hỏa ấy lại vào cầm lọng đưa ra làm lễ trước tiên, hội tử lễ sau, cùng đến tế tựu ở miếu Trăn Tân bái tạ rồi quay trở về, còn các hội bước lên làm lễ cảm tạ thần. Các xã cùng mua cùng thụ lộc để tỏ lòng thành tôn kính, để biểu dương thuần phong, để tôn vinh ngưỡng mộ đức lớn của thần đã phù trì che chở.

Lệ phụng nghênh rước

Hàng năm vào ngày mồng 6 tháng 4 đội hương hỏa xã Phúc Thọ làm lễ cáo rước. Ngày mồng 7 xã Quảng Nạp làm lễ cáo văn. Ngày mồng 8 xã Phúc Thọ, xã Lĩnh Mai, xã Quảng Bố phụng nghênh rước.

Kiệu vị xã Phúc Thọ đặt ở phía trên, kiệu vị xã Lĩnh Mai đặt ở phía dưới, kiệu vị xã Quảng Bố đặt ở phía sau. Tất cả đều đặt kiệu ở gian giữa của miếu đường, tâu xin rước, các xã bái tạ thượng kiệu trở về. Xã Lĩnh Mai đi trước, xã Phúc Thọ đi giữa, xã Quảng Bố đi sau. Quay về đến xứ Đống Lã thì kiệu vị xã Phúc Thọ đặt ở giữa, kiệu vị xã Lĩnh Mai đặt bên trái, kiệu vị xã Quảng Bố đặt bên phải. Nếu như làm lễ cầu an thì xã Phúc Thọ viết văn, đọc tờ văn tế, đông tây thông ngôn. Còn các đồ tế khí và vật tế thì xã nào xã ấy tự chuẩn bị riêng. Đến ngày mồng 9 xã Phú Nẫm phụng rước.

Trở lên là các lệ đã được chuẩn định, bèn làm bài minh khắc vào đá để truyền lại cho hậu thế. Minh rằng:

Nước xưng Nam Việt

Huyện đẹp Thiện, Gia

Đồng tâm phụng sự

Lập miếu nguy nga

Lệ nay đã định

Vui khắp mọi nhà

Phúc yên dân xã

Kéo dài hoàng gia

Nay bia một tấm

Muôn đời không nhòa.

Triều Lê niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) vào năm Đinh Mùi tháng 11 ngày tốt.

Nguyễn Đình Tuấn, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu, Hàn lâm Hiệu lý, Đông các Thị thư, người xã Quảng Bố bản tổng soạn văn bia.

Cao Sĩ Vinh, xã trưởng xã Phúc Thọ viết chữ.

Trịnh Duy Năng, thợ đá xã Kính Chủ huyện Hiệp Sơn phủ Kinh Môn khắc.

Qua văn bia vừa giới thiệu ở trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:

1. Việc 9 xã: Phúc Thọ, Quảng Nạp, Lĩnh Mai, Quảng Bố, Thanh Liễu, Hạo Bố, Đỗ Xá, Phú Nẫm, Quỳnh Bội thuộc hai huyện Thiện Tài và Gia Định phủ Thuận An xứ Kinh Bắc cùng thờ một vị Thượng đẳng thần miếu hiệu là Trăn Tân, chứng tỏ vị thần này đã từng được các triều đại vua ban sắc phong phẩm trật từ trước đó. Trong văn bia khắc là Trăn Tân từ tích ở đền này cho biết vào thời Sĩ Vương cai trị, thấy ngôi đền linh ứng, đã sắc phong cho thần là Trung đẳng linh thần; khi Lý Anh Tông lên nối ngôi đã gia phong là Thượng đẳng linh thần. Việc trên văn bia thế kỷ XV ghi các phẩm trật của thần đã khẳng định các triều vua từ triều Hồng Đức trở lên đã có chế độ sắc phong ban phẩm trật cho các vị thần. Bởi vì từ trước tới nay chúng ta mới chỉ đọc qua các bản thần tích ghi nhận các vị thần đã được các triều đại phong kiến từ Lý, Trần đến Lê sơ phong sắc nhưng lại chưa được đọc các văn bản.

2. Trong bài văn bia, vị thần được đánh giá rất cao vì đã có đức lớn phù trợ cho dân, tuy không nói cụ thể về sự tích của thần (vì đã có bia Trăn Tân từ tích ) nhưng có thể nhận biết đây là một vị thủy thần và thần được thờ tại ngôi miếu, ở bên bờ sông. Chúng ta biết rằng vào thế kỷ XVII khi các ngôi đình làng được đồng loạt xây dựng ở khắp các làng quê Việt với chức năng là trụ sở làm việc của lớp quan viên sắc mục trong làng thì cũng là khi các vị thần - đấng thần linh tối cao của cả làng - được đưa từ miếu về thờ tại đình. Lúc này tất cả các hoạt động lễ hội của làng xung quanh việc tế thần đều được tiến hành ở ngôi đình. Đình làng là trung tâm của sinh hoạt làng xã. Theo tư liệu văn bia thì thế kỷ XV chưa có đình làng giống như thế kỷ XVII, XVIII, vì thế khi các xã thuộc hai huyện Thiện Tài và Gia Định làm lễ tế thần chỉ thấy xuất hiện ngôi miếu thờ mà không nhắc tới ngôi đình nào. Lúc này vị thần vẫn còn được thờ tại miếu, chưa được rước về thờ tại đình, chứng tỏ làng chưa có ngôi đình như các giai đoạn về sau.

3. Về lệ tế thần được nêu lên trong văn bia cho thấy: chỉ đến năm Hồng Đức thứ 18 (1487) các làng xã thuộc hai huyện Thiện Tài và Gia Định mới đặt ra những qui định về lệ tế thần, những qui định này khá cụ thể và chi tiết. Như: “Khi thỉnh kinh thì hội tử mỗi xã góp lợn trị giá một quan cổ tiền, xong rồi đặt trong thúng tròn dâng lên làm lễ”. Hay “các hội tử phải chuẩn bị một đầu lợn, một mâm xôi, một chai rượu, một phong trầu cau...”. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong văn bia thế kỷ XV đề cập đến vấn đề này. Bởi vì việc ghi cụ thể giá lợn là bao nhiêu, hoặc xôi, gà, oản quả trị giá thế nào... chúng tôi mới chỉ thấy được phản ánh trên văn bia từ thế kỷ XVII trở đi, văn bia thế kỷ XVI cũng chưa thấy ghi như vậy. Hay như việc đặt ra hội hương hỏa để liên danh thờ cúng thần, những người được giao trọng trách trong hội lệ ấy là lớp trung nam cũng là những thông tin mới. Điều này cho thấy vào thời điểm cuối thế kỷ XV việc tế thần chỉ được tiến hành ở ngôi đền thờ chính, các xã xung quanh phải đến lễ tại đền này. Chưa thấy việc thờ vọng từ xa như giai đoạn sau cũng như chưa thấy bóng dáng của ngôi đình làng xuất hiện trong văn bia như là một địa điểm linh thiêng nhất của làng xã trong việc cúng tế thần linh. Chúng ta đều biết rằng sang đến thế kỷ XVII khi các làng xã Việt đồng loạt xây dựng các ngôi đình làng thì vị thần nào thiêng nhất có công phù trợ giúp dân làng sẽ được đưa vào thờ tại đình. Vị thần đó có thể được nhiều làng xã cùng thờ cúng tại những ngôi đình khác nhau của từng làng. Những người được giao trọng trách về tế lễ thần được phản ánh qua văn bia từ thế kỷ XVII về sau là tầng lớp quan viên sắc mục, tức là lớp người có chức quyền trong làng và các bậc hương lão. Còn lớp trung nam là lớp người còn trẻ, còn sung sức thì không được tham dự vào. Đây là điểm khác biệt rất rõ. Có thể hình dung việc tế thần dưới thời Hồng Đức (hay là từ thời Hồng Đức ngược trở lên) mang tính hồn toàn, trong trẻo hơn, chưa có sự can thiệp của tầng lớp quan viên làng xã.

4. Việc tế thần qua văn bia chủ yếu mang tính nghi lễ nhiều hơn là những qui định về phẩm vật và đồ tế cúng như sau này.

TB

VỀ SỐ LƯỢNG "TIÊN CÔNG" Ở KHU HÀ NAM (HUYỆN YÊN HƯNG, TỈNH QUẢNG NINH) QUA MỘT SỐ TÀI LIỆU HÁN NÔM

BÙI XUÂN ĐINH

Khu Hà Nam (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) là vùng đất trũng thấp, bao bọc bởi hai dòng sông là sông Chanh và sông Rút, mặt đông giáp cửa biển Nam Triệu. Theo các nguồn tài liệu thì xa xưa, đây là vùng đất hoang hóa. Từ những năm 30 của thế kỷ XV, nhiều nhóm cư dân ở nội đồng đã ra quai đê, ngăn nước mặn, khai phá đất đai, lập nên các làng xã. Cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, vùng đất này gồm 10 làng, cũng là 10 xã thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, trấn Yên Quảng là: Vị Dương, Vị Khê, Lưu Khê, Quỳnh Biểu, An Đông, Hải Yên, Phong Cốc, Hưng Học, Cẩm La và Trung Bản. Sau hòa bình lập lại, 10 làng này thuộc 7 xã:

- Xã Liên Vị: gồm hai thôn (làng) Vị Dương và Vị Khê.

- Xã Yên Hải: gồm hai thôn Hải Yến và An Đông.

- Xã Liên Hòa: gồm ba thôn Quỳnh Biểu, Lưu Khê và Trung Bản.

- Xã Phong Cốc: là một phần của làng (xã) Phong Cốc cũ.

- Xã Phong Hải: tách ra từ làng Phong Cốc sau Cải cách ruộng đất.

- Xã Cẩm La: chỉ gồm làng Cẩm La.

- Xã Nam Hòa: gồm làng Hưng Học và xóm Đồng Cốc của làng Phong Cốc cũ.

Ngày 28-4-1998, Chính phủ ra Nghị định 23/1998 NĐ-CP thành lập xã Tiền Phong trên cơ sở 1117, 77 ha diện tích tự nhiên và 1364 nhân khẩu của xã Liên Vị; 523, 23 ha diện tích tự nhiên của xã Liên Hòa.

Với tấm lòng "uống nước nhớ nguồn", từ bao đời nay, cư dân vùng đất này có tục thờ Tiên công, tức những người đứng ra chiêu tập dân khắp nơi để khai phá đất đai, lập làng. Có 7/10 làng thờ Tiên công với những quy mô và thể thức khác nhau:

- Các làng Vị Dương, Hải Yên, Lưu Khê thờ Tiên công ở đình.

- Các làng Trung Bản, An Đông, Cẩm La, Phong Cốc thờ Tiên công ở miếu. Miếu làng Trung Bản là miếu gốc của cả bốn làng này, cùng thờ từ xa xưa; còn miếu Cẩm La được hình thành khoảng cuối thế kỷ XIX. Hội miếu Tiên công Cẩm La là một hội lớn của tỉnh Quảng Yên cũ, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, cả về quy mô (bốn xã Cẩm La, Phong Cốc, Trung Bản và An Đông là chính, cùng nhiều xã khác tham gia) và về nội dung (nhiều hình thức biểu thị sự biết ơn các vị Tiên công, như đánh vật, đắp đê tượng trưng...).

Tuy nhiên, lâu nay, một số nhà nghiên cứu và trong dân gian thường đưa ra số lượng Tiên công là 17 vị (thập thất) hay 19 vị (thập cửu). Thực ra, đây chỉ là số Tiên công được thờ ở miếu Cẩm La và miếu Trung Bản, tức các Tiên công của các làng: Cẩm La, Phong Cốc, Trung Bản và An Đông, trong khi lại không tính đến các Tiên công của các làng xã khác. Thêm nữa, khoảng chục năm nay, việc thờ Tiên công chỉ tổ chức chính ở miếu Cẩm La, tuy linh đình, nhưng việc tuyên truyền, giải thích về những người có công khai lập vùng đất Hà Nam lại thiếu thấu đáo, đã gây ra những nghi kỵ, thắc mắc, dẫn đến một số hiềm khích trong cán bộ và nhân dân vùng này, trước hết là với các làng ở vùng dưới của khu Hà Nam, xưa nay vốn bị một số người coi là "dân hạ tổng"(1).

Bằng những tư liệu Hán Nôm, kết hợp các tư liệu khác, chúng tôi mong muốn góp phần lý giải vấn đề được nêu.

1. Tiên công ở hai làng Vị Dương, Vị Khê

Theo lưu truyền dân gian ở làng Vị Dương thì làng này thế kỷ XV hợp với làng Vị Khê thành xã Vị Dương. Cả hai làng này do hai ông Hoàng Kim Bảng, Đồng Đức Hấn chiêu tập dân khai phá. Do vậy, hai ông cùng được dân hai làng thờ tại đình. Điều này được khẳng định qua các tư liệu Hán Nôm sau:

1.1. Sắc phong: theo các bô lão trong hai làng, trước đây hai đình đều có sắc phong của các vị, khi đình bị phá, không rõ số sắc phong này chuyển đi đâu. Trong đợt khảo sát tháng 4-1995, tôi may mắn được cụ Hoàng Văn Được (ở xóm Đông, làng Vị Dương, sinh năm 1924, là hậu duệ của Tiên công Hoàng Kim Bảng) cho xem bản sắc phong đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924). Sắc phong có đoạn: "Sắc cho xã Vị Dương, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên, phụng sự khai canh Hoàng Kim Bảng, Đồng Đức Hấn nhị vị đại lang chi thần...".

1.2. Bia: tấm bia đề ngày 18 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 24 (1493) hiện còn lưu ở đình làng Trung Bản, thác bản hiện còn lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu 10526-10529 ghi rõ: vào ngày 10 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), các quan triều đình đã về đo đạc ruộng đất, đê điều, thống kê dân đinh ở các làng xã thuộc khu Hà Nam và đã xác nhận xã Vị Dương do Hoàng Kim Bảng, Đồng Đức Hấn khai phá ở phía tây nam xứ Bản Động; với số ruộng là 1343 mẫu, 2 sào, 4 thước, 5 tấc, đê lộ là 893 trượng 4 thước, dân đinh có 247 suất.

Điều đáng lưu ý là, tên xã Vị Dương cùng hai vị Tiên công được ghi lên trên đầu trong số các xã, các vị Tiên công có tên trong bia (nguyên văn trong bia: "nhất cấp Vị Dương xã Hoàng Kim Bảng, Đồng Đức Hấn đẳng...". Do vậy, mỗi vị Tiên công được cấp riêng 5 mẫu ruộng, 5 sào vườn.

2. Tiên công ở làng Lưu Khê

Theo lưu truyền thì làng Lưu Khê vào thế kỷ XV, có tên là Lương Quy, do hai ông Đỗ Độ và Đào Bá Lệ chiêu tập dân khai phá, do vậy, hai ông được thờ tại đình (đình đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa năm 1994). Hiện nay trong đình còn ban thờ; bài vị của các ông. Điều này được thẩm định qua hai tư liệu Hán Nôm sau:

2.1. Sắc phong: đạo sắc đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924) cho hai ông hiện được lưu tại đình, có nội dung tương tự như sắc phong cho hai vị Tiên công làng Vị Dương.

2.2. Bia: trong nội dung của bia Hồng Đức lưu tại đình Trung Bản (đã nêu) có đoạn: "cấp Lương Quy xã Đào Bá Lệ, Đỗ Độ đẳng... (cấp cho Đào Bá Lệ, Đỗ Độ ở xã Lương Quy)", với số ruộng là 1087 mẫu 3 sào 3 tấc ở đông nam xứ Bản Động, đê lộ dài 623 trượng 4 thước; dân đinh là 142 suất. Hai vị Tiên công cũng được cấp ruộng, vườn như các Tiên công ở Vị Dương.

3. Tiên công ở làng Hải Yến

Theo lưu truyền thì làng Hải Yến từ đầu thế kỷ XIX trở về trước có tên là Hải Triền, do ông Phạm Nhữ Lãm chiêu tập dân nghèo đến khai phá. Điều này được khẳng định qua các tài liệu Hán Nôm:

3.1. Bia Chính Hòa: tấm bia lập ngày tốt tháng 3 năm Chính Hòa thứ 24 (1703) hiện còn dựng ở sân đình làng, thác bản hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu 10534-10537 cho biết: vào đầu thời Lê Sơ, ông Phạm Nhữ Lãm đã cùng dân đắp đê, khai phá đất đai, lập làng; đến năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức (1484), làng chính thức hình thành. Bia ghi rõ địa giới của làng.

3.2. Bia Hồng Đức: trên một mặt khác của tấm bia Hồng Đức tại đình Trung Bản (đã nêu) có ghi: vào ngày mồng 7, tháng 11 năm Hồng Đức thứ 20 (1489), các quan triều đình đã về đo đạc xã Hải Triền và công nhận xã. Bia ghi rõ: "Nay cấp cho xã Hải Triền do Phạm Nhữ Lãm chiêu tập những người không có ruộng và có ít ruộng(2) khai phá ở phía tây bắc xứ Bản Động", với số ruộng là 339 mẫu 5 sào 10 thước, đê dài 481 trượng 3 xích, dân đinh là 170 suất.

3.3. Bảng khắc gỗ: trong hậu cung đình làng Hải Yến còn một bảng khắc gỗ đề ngày mồng 10 tháng giêng năm Bính Tý đời Tự Đức (1876) có nội dung "Rước thủy tổ các tộc họ Tiên công khai làng vào đình phối hưởng", trong đó, Phạm Nhữ Lãm đứng tên đầu tiên.

4. Tiên công ở làng Trung Bản và các làng khác

Theo lưu truyền thì làng Trung Bản xưa là gốc của xã Bông Lưu thời Hồng Đức, do hai anh em ông Hoàng Lung, Hoàng Linh lập ra với số ruộng là 1599 mẫu 8 sào 13 thước ở phía đông và tây bắc xứ Bản Động, đê dài 997 trượng 5 thước 3 tấc, dân đinh có 647 suất. Hai vị Tiên công cũng được cấp riêng mỗi người 5 mẫu ruộng, 5 sào vườn. Điều này được khẳng định qua tấm bia Hồng Đức dựng tại đình và bản sắc phong cho hai ông đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924) lưu tại miếu thờ hai ông ở cạnh đình.

Về sau, xã Bông Lưu được mở rộng ra các phía, lập thêm ba làng mới là: Phong Cốc, An Đông và Cẩm La. Những người có công mở rộng làng xóm là 17 vị quê ở làng Đồng Lầm, phường Kim Hoa, kinh thành Thăng Long (nay là phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội). Theo lưu truyền dân gian và gia phả các họ: Vũ, Nguyễn ở Phong Cốc; Vũ, Nguyễn, Bùi ở Yên Đông thì 17 vị Tiên công từ Thăng Long xuống đây khai phá đất đai từ năm đầu niên hiệu Thiệu Bình (1434) và lập ra các làng như sau:

- Làng Cẩm La do các ông Phạm Việt, Dương Quang Tấn, Dương Quang Tín (hai anh em) khai lập. Các dòng họ này ở làng Cẩm La hiện vẫn còn nhà thờ các ông.

- Làng Phong Cốc (gồm cả xã Phong Hải và xóm Đồng Cốc xã Hưng Học hiện nay) do các ông Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Ngô Bách Đoan, Bùi Huy Ngoạn, Lê Khép, Lê Mở (hai anh em), Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn Phúc Vinh (ba anh em) khai lập. Hiện tại làng Phong Cốc đều có nhà thờ của các ông (theo dòng họ).

- Làng Yên Đông do các ông Vũ Giai, Vũ Tam Tỉnh, Bùi Bách Niên, Nguyễn Thực, Nguyễn Nghệ (hai anh em) khai lập. Hiện tại làng còn có nhà thờ của các ông. Mười bảy vị Tiên công của ba làng Cẩm La, Phong Cốc, Yên Đông được thờ chung tại miếu ở làng Cẩm La, gọi là miếu Tiên công. Miếu đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa năm 1990. Tại miếu hiện còn bảng khắc gỗ cỡ lớn, khắc nguyên văn nội dung đạo sắc đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924) phong cho các ông. Trong miếu còn có ba bài vị. Bài vị chính có dòng chữ "Khai sáng đồng điền thập thất Tiên công thần vị" (ghi tên 17 vị Tiên công). Bài vị bên phải có hàng chữ "Phụ khẩn hậu đồng liệt vị Tiên công thần vị" và bài vị bên trái có hàng chữ "Phụ khẩn tiền đồng liệt vị Tiên công thần vị" (không ghi tên các Tiên công). Ngoài ra, miếu còn có tấm bia Phong Lưu tứ xã Hồ Mạch, lập ngày tốt, tháng 10 năm Bảo Đại thứ 11 (1936), nói về quá trình dân bốn xã thuộc xã Phong Lưu cũ khai phá vùng Hồ Mạch (nơi khai phá đầu tiên của xứ Bản Động được ghi trên bia Hồng Đức) và mở mang làng xóm. Một tấm bia khác có tiêu đề Phối hưởng bi ký lập ngày tốt, tháng 2 năm Bảo Đại thứ 10 (1935) nói về việc bốn xã trùng tu miếu Tiên công, bà Hoàng Thị Thánh cúng 2000 đồng, trị giá bằng 200 tấn thóc cho việc tu bổ này.

Như vậy, từ xã Bông Lưu ban đầu mà cốt lõi là làng Trung Bản, các vị Tiên công đã mở mang thêm ba làng khác là: Cẩm La, Phong Cốc và Yên Đông (cùng nằm trong xã Bông Lưu). Trong cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX có tên là xã Phong Lưu; đến khoảng cuối thời Thành Thái (1889-1907) chia thành bốn xã theo đơn vị thôn làng như trên.

Tóm lại, qua các tư liệu Hán Nôm được trình bày ở trên cho thấy, ít nhất có đến 24 vị Tiên công có công khai lập vùng đất Hà Nam thuộc huyện Yên Hưng vào giữa thế kỷ XV trở đi, chứ không phải chỉ có 17 vị (được thờ ở miếu Tiên công Cẩm La) hay 19 vị (thêm hai vị ở miếu Trung Bản). Có thể tóm lược các vị Tiên công và các làng mà họ khai lập được thờ qua bảng thống kê dưới.

Vì thế, cấp ủy, chính quyền, ngành văn hóa huyện Yên Hưng và các xã trong khu Hà Nam cần tuyên truyền, giải thích rõ về các vị Tiên công để cán bộ và nhân dân trong vùng hiểu về công lao khai phá của họ, vừa để tránh những xích mích, mâu thuẫn đã và đang xảy ra từ việc hiểu không đúng về vấn đề Tiên công.

B.X.Đ

CHÚ THÍCH:

(1) Hạ tổng: vốn là khái niệm chỉ phương hướng (phía dưới của tổng Hà Nam, gồm các làng Vị Dương, Vị Khê, Hải Yến) chỉ là tương đối vì các làng này liền kề với các làng Yên Đông, Trung Bản, Phong Cốc). Dần dần đã mang một ý nghĩa miệt thị, nên nhiều trong người cán bộ và nhân dân các làng Vị Dương, Vị Khê, Hải Yến không thích dùng, trong khi nhiều người các xã phía trên lại quen dùng. Điều này nhiều lúc đã gây ra những bức xúc nhất định.

(2). Nguyên văn: "Vô thiểu điền nhân".

TB

NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT CỦA BA THỂ THƠ TUYỆT CÚ, HAIKƯ VÀ LỤC BÁT

NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

Ba thể thơ tuyệt cú, haikư và lục bát đều là thể thơ cách luật ngắn nhất trong văn học dân tộc của Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Hẳn là không chỉ ba dân tộc này mới có thể thơ ngắn của mình nhưng ở đây chỉ giới hạn trong phạm vi ba thể thơ này mà thôi.

Trước hết, nói về những điểm tương đồng.

Ngoài cái dấu hiệu quy mô nhỏ đến kinh ngạc của chúng ra, ba thể thơ này còn có nhiều điểm giống hoặc gần gũi nhau.

Về sự hình thành, có thể thấy chúng đều có nguồn gốc từ thơ ca dân gian, được các nhà thơ sống gần gũi với nhân dân tiếp thu và phát triển để rồi đạt đến đỉnh cao ở các nhà thơ lớn thời trung đại của mỗi dân tộc. Đó là Lý Bạch và Đỗ Phủ ở Trung Quốc, Bashô ở Nhật Bản và Nguyễn Du ở Việt Nam. Đương nhiên đó là nhìn đại thể, còn con đường hình thành và phát triển của chúng cũng có những sự khác biệt sẽ đề cập đến sau.

Về mặt tính chất, nếu chúng ta chỉ xét lục bát ở cấp độ một đơn vị chỉnh thể tối thiểu, tức là một chu kỳ 6+8, đủ để làm nên một bài lục bát đơn giản nhất, thì cả ba thể thơ tuyệt cú, haikư và lục bát đều chủ yếu là thể thơ trữ tình. Nói “chủ yếu” là vì trong quá trình phát triển chúng đều có thể thích dụng với trào phúng, triết lý…

Cả ba thể thơ này đều có một đặc trưng cơ bản giống nhau: hàm súc cao độ. Điều này như một lẽ đương nhiên và là lý do tồn tại của thể thơ. Bởi vì chúng rất ngắn, nếu chúng không có khả năng ngụ ý và gợi ý thì chúng đã chẳng có sức sống lâu bền đến thế. Tiền đề của sự hàm súc là sự ngắn gọn. Trong ba thể thơ, dài nhất là tuyệt cú cũng chỉ 4 câu với 28 âm (nếu là thất ngôn tuyệt cú) hoặc 20 âm (nếu là ngũ ngôn tuyệt cú) thứ đến là haikư với 17 âm; ngắn nhất là lục bát với 14 âm. Không rõ trên thế giới có thể thơ nào ngắn hơn lục bát nữa không. Quy mô rất nhỏ, nếu không nói là cực nhỏ, mà điều gửi gắm trong đó, gợi lên từ đó lại rất phong phú, sâu xa.

“Bên đê cổ tha thướt,
Liễu như vòm khói xanh.
Giá mà tơ chẳng đứt,
Níu giữ buộc thuyền anh”.
(Ung Dụ Chi - Liễu ven sông )

“Dù tan đi vỡ lại
Vầng trăng nơi đáy nước
Còn mãi”.
(Shiki)

“Qua cầu rút ván tháo đinh.
Đó đà ở bạc với mình thì thôi”.
(Ca dao)

Có lẽ không nên phân tích, bởi vì mọi sự phân tích sẽ “cố định hóa” nội dung thâm hậu và sức gợi của tác phẩm theo chủ quan của người phân tích, làm giảm đi sự huyền diệu linh lung và khả năng gợi mở vào tâm hồn người đọc của những thế giới tinh tế đến vậy.

Một điều cũng đương nhiên do tính hàm súc của thể thơ đưa lại, khiến chúng gặp nhau ở một điểm có tính quy luật: ở cả ba thể thơ, trọng tâm ý nghĩa đều ở cuối. (Có lẽ đây cũng là đặc điểm chung của các tác phẩm có quy mô nhỏ?)

Thơ haikư là thế:

“A sa gao
Chiếc gàu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên”.
(Chiyô)

Hai câu trước chỉ là nền, chỉ là giới thiệu bối cảnh để câu cuối thể hiện niềm trân trọng thiên nhiên và cái đẹp.

“Mưa đông giăng đầy trời
Một chú khỉ đơn độc
Cũng mong chiếc áo tơi”.
(Bashô)

Có ba câu ngắn ngủi thôi mà tấm lòng nhân cùng dành cho câu cuối. Câu một là bối cảnh lạnh lùng mênh mông. Câu hai Bashô nhìn thấy chú khỉ ? Câu ba là chú khỉ nhìn Bashô mà “mong chiếc áo tơi”. Chú khỉ cô đơn, chú khỉ lạnh lùng, chú khỉ không nói. Sao Bashô nhận ra? Nhà thơ đã đặt mình vào cảnh ngộ trần trụi giữa mưa đông, co ro vì lạnh của chú khỉ mà ngộ ra và “phát biểu” cái mong ước nhỏ nhoi tội nghiệp của sinh linh bé bỏng ấy. Tiếng nói nhỏ nhẹ của haikư đã chở tiếng nói của lòng nhân hậu bao la đến với mọi tấm lòng “tri âm”.

Thơ tuyệt cú là thế:

Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê hương.
(Lý Bạch - Tứ đêm lặng)

Đến nỗi có nhà nghiên cứu tinh thâm về thơ Đường đã nói: “Muốn làm một bài thơ tuyệt cú hay là phải bắt đầu từ câu… cuối”. Cũng có thể nói như vậy với haikư và lục bát.

Đành rằng mọi quy luật đều có ngoại lệ. Thi thoảng cũng có trường hợp phần cuối của bài thơ không hay bằng phần đầu. Chẳng hạn:

Hồ xanh từ thuở chưa hoàn kiếm,
Mượn một nơi mà trả một nơi.
Cầm tay mới biết xa Hà Nội,
Biết mượn gì đây để ngỏ lời.
(Khuyết danh - Không đề )

Trong trường hợp này, đối với tác giả thì điều muốn nói là ở hai câu sau, mà chủ yếu là câu cuối. Còn đối với người đọc thì hai câu đầu, đặc biệt là câu thứ hai là rất hay mà hai câu sau khó lòng theo được. Nhưng những trường hợp phần đầu hay hơn là rất hiếm. Nghĩa là, nhìn tổng thể thì thơ tuyệt cú gieo nặng trọng tâm ý nghĩa ở cuối bài. Điều này ta có thể kiểm chứng ở thể thơ tuyệt cú của Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, kể cả thơ cổ và kim. Xin ví dụ một bài tuyệt cú chữ Hán của một nhà thơ người Nhật:

“Ngọn bút có thần giục sấm vang,
Quanh đỉnh Hương Lô khói tía tràn.
Ông trời chẳng tiếc ngân hà nữa,
Vì trích tiên trút xuống trần gian”
(Thanh Sơn Diên Quang - Lý Thái Bạch ngắm thác núi Lư)(1)

Và trong thơ hiện đại Việt Nam:

“Sương giăng mờ trên ngõ Tạm Sương,
Ngõ rất cụt mà lòng xa thẳm.
Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm,
Thương một đời đâu phải Tạm Thương”.
(Chế Lan Viên - Chơi chữ về ngõ Tạm Sương tức Tạm Thương )

Xin không nêu dẫn chứng nữa vì vô số bài thơ có thể chứng minh cho luận điểm này.

Vậy còn thơ lục bát ?

Cứ thử lấy ra bất kỳ cặp câu lục bát nào trong hàng ngàn “bài” ca dao mà toàn bài chỉ vẻn vẹn có một câu sáu và một câu tám, từ trong một bài thơ gồm nhiều chu kỳ sáu tám, thậm chí chúng ta rút ra bài học cặp sáu tám nào từ một truyện thơ gồm hàng ngàn cặp sáu tám, thì chúng ta cũng hoàn toàn có thể nhận thấy: trọng tâm ý nghĩa bao giờ cũng ở câu tám (tức câu cuối của chu kỳ).

Câu sáu thường chỉ là bước chuẩn bị cho câu tám. Câu sáu là “đề” câu tám là “thuyết”:

“Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”.
(Ca dao)

“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
(Nguyễn Bính - Tương tư )

“Măng non là búp măng non,
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre”.
(Nguyễn Duy - Tre Việt Nam )

“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều )

Như vậy, trọng tâm ý nghĩa được dồn vào phần cuối là một đặc trưng thể loại của cả ba thể thơ.

Còn một điểm tương đồng nữa là trong nền thơ ca của mỗi dân tộc, các thể thơ này có thể nói là dễ làm nhưng khó làm được cho thật hay.

Nhà tiểu thuyết lớn nhất của thời Êđô ở Nhật Bản Ihara Saikaku được gọi là Nimanô (Nhị vạn ông) vì tài làm thơ nhanh. Trong một cuộc thi thơ ông đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haikư trong khoảng thời gian 24 giờ đồng hồ. Dù con số hai vạn có thể không hoàn toàn chính xác, nhưng chắc là Saikaku đã ứng tác rất nhiều bài haikư liên tục. Có thể do ông có tài ứng tác nhanh nhưng cũng vì thể thơ cho phép người ta có thể sáng tác nhanh, nhiều. Đành rằng đôi khi vì quá nhanh quá nhiều nên có thể là cũng… khó đắt.

Thể thơ tuyệt cú cũng để lại những chùm rất sai quả. Chẳng hạn như với một chuyến đường sông, Tiền Hử (thời vãn Đường) hái được một “chùm” Giang hành vô đề nhất bách thủ. Sau một chuyến hành trình, Củng Tự Trân (đời Thanh) có thể cho khắc in một tập thơ 315 bài tuyệt cú Kỷ Hợi tạp thi. Trong những chùm thơ hàng trăm bài ấy số bài hay không nhiều.

Còn ở Việt Nam, lục bát xuất hiện khắp nơi - trong lời ru, trên cánh đồng, trên báo tường, trên đường phố (Tất nhiên cũng có nhà thơ chẳng bao giờ “hạ cố” đến lục bát). Gặp trường hợp nào người ta cũng có thể làm lục bát được cả (mà “Bút Tre” là một ví dụ). Nhưng sáng tác được một bài lục bát hay thật là khó. ở đây chúng ta tạm chưa giải thích nguyên nhân của hiện tượng này.

Mặt khác, ba thể thơ này cũng có nhiều điểm khác nhau, trong đó có sự khác nhau ngay trong những điểm tương đồng.

Về nguồn gốc, điểm chung của chúng là bắt nguồn từ trong thơ ca dân gian những con đường định hình của chúng lại khác nhau. (Có ý kiến cho rằng có lẽ ở Việt Nam thể thơ lục bát có được từ kết quả giao lưu văn hóa với dân tộc Chăm. Nhưng ở đây tạm thời chưa đủ điểu kiện để thảo luận). Tên gọi của các thể thơ này cũng xuất hiện sau trước khác nhau. Cái tên “tuyệt cú” đã được xuất hiện từ đời Lương (502-557) cách đây 1500 năm. Thể thơ lục bát được định danh muộn hơn, khoảng đời Hậu Lê. Còn ở Nhật Bản, thể thơ 3 dòng 5-7-5 đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XVII với Bashô nhưng mãi đến cuối thế kỷ XIX mới được nhà thơ Shiki định danh là haikư. Thực ra, nguồn gốc, con đường phát triển, định hình và định danh rồi lại phát triển của ba thể này cần những công trình nghiên cứu công phu tường tận. Chẳng hạn như thể thơ lục bát ở ta quá chừng quen thuộc nhưng nguồn gốc của nó cũng còn nhiều ý kiến tranh luận.

Nguồn gốc, con đường phát triển khác nhau của ba thể thơ này cũng phản ảnh vị trí, số phận của chúng trên văn đàn của mỗi dân tộc cũng như ảnh hưởng của chúng đến văn học các dân tộc khác.

Trong thơ ca của ba dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam ba thể thơ này đều có vị trí quan trọng nhưng ảnh hưởng của chúng đối với thơ ca các nước ngoài thì rất khác nhau.

Hình thành từ rất sớm (thế kỷ VI), lại theo con đường ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến các nước láng giềng “đồng văn”, thơ tuyệt cú được các nhà thơ Nhật Bản, Việt Nam tiếp thu từ rất sớm (cả ở Triều Tiên nữa nhưng hiện tại chúng tôi chưa có tài liệu nên chưa tìm hiểu được thời điểm), có thể nói là ngay từ buổi đầu xây dựng nền thơ ca dân tộc. Nhật Bản, từ thế kỷ thứ VII đã xuất hiện thơ tuyệt cú bằng chữ Hán và cho đến thế kỷ XIX, thơ tuyệt cú vẫn chiếm tỉ lệ rất cao trong thơ chữ Hán của người Nhật. (Chẳng hạn trong cuốn Nhật Bản Hán thi hiệt anh có 1451 bài thơ thì thơ tuyệt cú có đến 906 bài, chiếm tỉ lệ 61%. Đành rằng đây chỉ là tuyển tập nên tỉ lệ có thể chưa hoàn toàn trùng với tỉ lệ trong thực tế, nhưng tuyển tập thường vẫn có tính chất tiêu biểu nên chắc cũng phản ánh gần đúng thực tế). ở Việt Nam, trong văn học viết, thơ tuyệt cú cũng rất phổ biến. Trong thơ Lý - Trần tức là thơ chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán, thơ tuyệt cú chiếm tỉ lệ rất cao (nếu không nói là áp đảo). Đến các thời kỳ sau, tỉ lệ luật thi và thơ cổ thể có thể tăng lên nên tỉ lệ thơ tuyệt cú không cao như ở thời kỳ đầu. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, khi mà ảnh hưởng của thơ Trung Quốc ở Việt Nam giảm đi thì thơ tuyệt cú lại là thể được các nhà thơ Việt Nam thường sử dụng nhất trong các thể thơ ngoại lai. Hầu như các nhà thơ lớn đều có sáng tác thơ tuyệt cú. Đặc biệt tỉ lệ thơ tuyệt cú rất cao trong thơ Hồ Chí Minh, cả trong Nhật ký trong tù và trong sáng tác trong hai cuộc kháng chiến. Người Việt Nam cũng thường làm thơ tuyệt cú bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ngay cả trong nhiều bài thơ dài được chia làm nhiều khổ 4 câu, thì từng khổ ấy cũng mang dáng dấp của bài thơ tuyệt cú. (Chẳng hạn Đây mùa thu tới, Thơ Duyên, Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ, Theo chân Bác v.v.). Điều này ít gặp trong thơ trường thiên Trung Quốc.

Thơ haikư thì cho đến thế kỷ XIX, trước Minh Trị duy tân, chủ yếu chỉ được lưu hành trên đảo quốc Phù Tang. Nhưng cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, theo đà phát triển của kinh tế xã hội Nhật Bản, cùng với sự tiêu thụ hàng hóa Nhật Bản, thể thơ haikư cũng được nhiều nhà thơ nước ngoài biết đến và nhiều người đã tiếp thu thể thơ này. Ngày nay ảnh hưởng của thể thơ haikư đã vươn đến nhiều nơi trên thế giới. Có lẽ chưa có thể thơ nào có cái vinh dự được phổ biến rộng rãi ở nhiều kinh tuyến như thơ haikư.

“Nằm bệnh giữa cuộc lãng du
Mộng hồn còn phiêu bạt
Những cánh đồng hoang vu”.

Đây là bài thơ Bashô làm trước khi qua đời. Có lẽ vì nhà thơ quá yêu cuộc đời, quá yêu đất nước và con người nên muốn đong đầy tâm hồn mình mọi hình ảnh của xứ sở Phù Tang. Có lẽ trong lần “Nằm bệnh giữa cuộc lãng du” này Bashô đã linh cảm được rằng bước chân mình không còn lãng du được nữa nên gửi đến “những cánh đồng hoang vu” mà mình chưa kịp đến tấm “mộng hồn phiêu bạt” của mình chăng? Như vậy, dù Bashô không thể đến nhưng nhà thơ đã gửi hồn mình, gửi thơ haikư đến với muôn nơi, đến với muôn đời.

Đành rằng, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, thơ haikư khi bước vào thi đàn các nước đã có sự biến đổi đáng kể, có thể không còn là 17 âm như trên quê hương của nó, nhưng sự kiệm lời và kiểu cấu tứ thì vẫn được tôn trọng.

Trong khi thơ tuyệt cú chỉ lan toả đến những nước “đồng văn”, tức là những nước đã có thời dùng chữ Hán và ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính, thì thơ haikư lan toả xa rộng hơn nhiều; còn thơ lục bát vẫn chưa vượt được lũy tre xanh Việt Nam. Sự khác biệt về khả năng và phạm vi ảnh hưởng của ba thể thơ này là do nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân về sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản vẫn là do đặc điểm về cách luật của ba thể thơ này và đặc điểm ngôn ngữ dân tộc. Tuy cùng là thơ cách luật nhưng trong ba thể thơ này mức độ chặt chẽ của cách luật có khác nhau. Có lẽ cách luật của thơ lục bát là chặt chẽ nhất, cách gieo vần cũng phức tạp hơn. Mặc dù có chấp nhận biến thể nhưng về cơ bản là cặp câu lục bát đòi hỏi gieo cả vần chân và vần lưng và chỉ gieo vần bằng, gần như là thuần âm. Điều này khiến lục bát không thể “vào” được các nền thơ của ngôn ngữ đa âm và không có thanh điệu. Thơ tuyệt cú có nhiều dạng (10 dạng) trong đó loại “cổ tuyệt cú” tương đối tự do hơn, nhưng dù là ở dạng nào cũng phải gieo vần. Còn haikư với ngôn ngữ liên âm, không có thanh điệu dễ được tiếp nhận hơn ở các ngôn ngữ ấn Âu, và điều quan trọng hơn là nó có thể gieo vần hoặc không. Với đặc điểm “dễ dãi” về hình thức ấy, thơ haikư dễ “nhập cảnh” hơn nhiều so với tuyệt cú và lục bát.

Một nhà phê bình người Pháp đã nhận xét về thơ haikư rằng:

“Sự ngắn gọn của haikư không phải là vấn đề hình thức. Haikư không phải là một tư tưởng phong phú rút vào một hình thức ngắn mà là một sự tình vắn tắt đã tìm ra được hình thức vừa vặn của mình”. (Chuyển dẫn từ: Nhật Chiêu - Thế giới thơ Haikư. Tạp chí Kiến thức ngày nay số 1).

Vậy là, ở đâu có một “sự tình vắn tắt” cần tìm cho mình một “hình thức vừa vặn” thì người ta có thể tìm đến haikư từ chính thình thức ngôn ngữ của mình. Có nghĩa là haikư đã truyền đi xa cái “thần” của hình thức (chứ không phải bản thân hình thức cố định của nó); nó có thể “vừa vặn” với những ngôn ngữ khác. Ngay ở Trung Quốc, Việt Nam nơi đã có tuyệt cú và lục bát thì haikư vẫn được hoan nghênh. Có người nghĩ rằng người Trung Quốc có tính tự đại e rằng không chịu tiếp thu. Không phải thế. Người Trung Quốc rất chịu khó tiếp thu văn hóa ngoại lai. Ngay cả thể thơ Sounnet của Châu Âu cũng được người Trung Quốc học tập. Không ít nhà thơ Trung Quốc đã làm thơ theo kiểu haikư (như Hồ Thích, Băng Tâm…). Thơ haikư đến Việt Nam khá muộn nhưng ai đã tiếp xúc với haikư cũng trọng nể thể thơ này. Có người Việt đã làm thơ ba câu lục bát lục (vị chi là 20 âm - hiện tượng này trong ca dao trước kia đã có nhưng rất hiếm). Phải chăng đây là một hiện tượng tiếp thu tự phát haikư trên cái nền lục bát ?

Có một sự khác biệt khá rõ nữa giữa hai thể thơ tuyệt cú, haikư với thể lục bát. ở điểm này thì ưu thế lại thuộc về lục bát. Lục bát, ở hình thức tối thiểu của nó chỉ là một cặp hai câu 14 âm vẫn hoàn toàn có thể tự thành một đơn vị tác phẩm như hàng ngàn “bài” ca dao chúng ta thường gặp. Nhưng do đặc điểm vừa gieo vần chân vừa gieo vần lưng của nó, lục bát còn có khả năng “lắp ghép” để thành một bài thơ trường thiên như Lỡ bước sang ngang hoặc lắp ghép với thể thơ song thất lục bát, rồi các chu kỳ song thất lục bát lại được lắp ghép, làm thành những khúc ngâm trường thiên như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Ba mươi năm đời ta có Đảng … Đặc biệt người ta có thể viết truyện thơ bằng cách lắp ghép hàng ngàn (hoặc vô số) cặp câu lục bát lại. Khả năng “sinh nở”, lắp ghép này không thấy có ở tuyệt cú và haikư. Người ta có thể sáng tác liền một hơi hai vạn bài haikư nhưng không thành một truyện thơ. Người ta có thể sáng tác từng chùm tuyệt cú xoay quanh một chủ đề như Hí vi lục tuyệt cú của Đỗ Phủ, Luận thi thi của Triệu Dực, chùm 100 bài Giang hành vô đề nhất bách thủ, chùm 315 bài Kỷ Hợi tạp thi của Củng Tự Trân, nhưng cũng không phải là truyện thơ. Nghĩa là thơ haikư và tuyệt cú không lắp ghép được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lắp ghép các chu kỳ lục bát thành truyện thơ, mà trong phạm vi bài này tạm chưa giải thích nhưng chúng tôi nêu hai nguyên nhân có thể coi là cơ bản: một là khả năng “sinh nở” bằng cách lắp ghép của thể thơ lục bát (người Việt có năng khiếu “lắp ghép”); một nữa là nhu cầu sáng tác những câu chuyện (tiểu thuyết) trường thiên, nhưng ở thời trung đại trong văn học Việt Nam thể tài văn xuôi tự sự chưa kịp phát triển. Người ta bèn dùng hình thức văn vần để sáng tác truyện. Một điều thú vị là những truyện thơ đầu tiên của người Việt lại không phải bằng thơ lục bát mà bằng thể thơ Đường luật, như Truyện Vương Tường, Tô Công phụng sứ. Nhưng những thử nghiệm ấy đã không thành công. Chứng cớ là sau đó không ai làm theo lối ấy nữa và những tác phẩm ấy chỉ được các nhà nghiên cứu nhắc đến trong văn học sử chứ không được lưu truyền rộng rãi về sau. Lục bát được thử nghiệm trong diễn ca lịch sử, trong truyện Nôm bình dân thành công, rồi các nhà thơ lớn cũng dùng nó để viết truyện thơ.

Trong ba thể thơ tuyệt cú, haikư và lục bát, chỉ có lục bát được dùng để sáng tác tác phẩm tự sự trường thiên. Đó là cái năng lực kỳ diệu khả đoản khả trường, khả thân khả xúc, co giãn tùy nhu cầu của thể lục bát. Thế rồi, đôi khi người ta rút từng cặp sáu tám ra nó vẫn có thể đứng độc lập có nghĩa được.

Chẳng hạn:

“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”.
“Mấy người bạc ác tinh ma
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương”
( Truyện Kiều )

hoặc:

“Trai thì trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình”
(Nguyễn Đình Chiểu - Lục Vân Tiên )

“Khắc xuất khắc nhập” được thế kể cùng kỳ diệu thật. Có so ra mới thấy cái sở trường kỳ diệu của lục bát, xin đừng vì nó quá gần gũi, quá quen thuộc mà coi thường.

Phải chăng khả năng này có quan hệ họ hàng với truyền thống “câu thơ đôi” trong văn học Nam Á và Đông Nam Á? Câu trả lời xin đợi các nhà chuyên môn. Và phải chăng truyện thơ Nôm là một hợp thể giữa hai truyền thống văn hóa Đông Nam Á và Đông Á trên cơ tầng văn hóa Việt Nam? Chứng minh và giải thích giả thiết này có lẽ không phải là công việc của một công trình hay của một người. Rất mong lời giải đáp của các chuyên gia.

Ba thể thơ tuyệt cú, haikư và lục bát với tư cách là ba thể thơ ngắn nhất của ba dân tộc láng giềng. Chúng đã và đang có vị trí quan trọng trong nền thơ ca của mỗi dân tộc. Mỗi thể có ưu điểm và lý do tồn tại, phát triển của mình. Nhưng chúng có ảnh hưởng qua lại gì với nhau không? Nếu có thì ở những điểm nào? và tương tác như thế nào? Đó cũng là vấn đề còn để ngỏ cần được nghiên cứu thêm.

Cuối cùng, xin lại nói về một điểm tương đồng của ba thể thơ này, cái điểm tương đồng đã là điểm xuất phát để chúng tôi nhận thấy cần có bài viết mang tính phác thảo này. Đó là: ba thể thơ này đều đã có vị trí quan trọng trong nền thơ ca của Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam mà chúng vẫn đang dồi dào sức sống và chúng tôi tin rằng chúng cũng sẽ là những thể thơ quan trọng đối với nền thơ ca của ba dân tộc trong tương lai. Tất nhiên chúng sẽ có những bước phát triển và biến đổi ít nhiều. Biến đổi chứ không biến mất. Điều này do nhiều lẽ những có mấy lẽ cơ bản: trong nền văn minh hiện đại, văn chương càng cần sự hàm súc. Những áng thơ văn trường thiên tất nhiên có vị trí quan trọng nhưng những thể tài có quy mô nhỏ mà lại đầy sức gợi hẳn vẫn được ưa chuộng vì nó đáp ứng được nhu cầu của nhiều lớp người, ở nhiều trình độ khác nhau và tất cả đều hoạt động với tốc độ cao.

Điều này cũng diễn ra ở các thể tài tự sự. Những cuộc thi truyện ngắn và cực ngắn ở một số nước trên thế giới trong đó có Trung Quốc, Việt Nam nhắc ta nhớ đến những tác phẩm “chí quái” “chí nhân” thời Lục Triều hay truyện ngắn bằng “nắm tay” của Nhật Bản. Cho đến thế kỷ XX rồi XXI người Nhật vẫn tổ chức thi và bình thơ haikư. ở Trung Quốc từ những bài ca hai ba câu vươn dài đến Ly Tao, Khổng Tước Đông Nam Phi lại trở về những bài thơ chỉ 13 hay 15 âm, thơ Trung Quốc tìm được thể tuyệt cú 20 âm. Từ một cặp lục bát 14 âm người ta lắp ghép để thành truyện thơ hàng ngàn câu. Rồi truyện thơ nhường bước cho văn xuôi hiện đại, lục bát được các nhà thơ dùng để thể hiện những nỗi “tương tư”, những nỗi “ngậm ngùi”. Rồi nó lại co lại, trở về với dạng nguyên thủy tối thiểu trong thơ dân gian hiện đại mà thơ “Bút Tre” là một hiện tượng đáng chú ý. Chắc người sẽ buồn cười vì nhắc đến “Bút Tre” sau khi nhắc đến những Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Nguyễn Duy… Nhưng có lẽ hiện tượng “Bút Tre” cũng cần được nghiên cứu. Nó là một hiện tượng “nhại” lục bát. Nhưng nếu như với Đôn-Ki-Hô-Tê, Xec-van-tec đã “nhại” đồng thời khai tử cho tiểu thuyết kỵ sĩ, thì “Bút Tre” “nhại” lục bát lại thôi thúc lục bát đổi mới để tìm đường. Nguyễn Duy chẳng xuất hiện sau “Bút Tre” sao? mà rồi lục bát kiểu “Bút Tre” cũng không bị diệt chủng. Thể thơ ấy khả đoản, khả trường, co giãn thoải mái, thâm thúy cao sang cũng được mà dí dỏm tinh nghịch cũng được. Nó nghiêm cẩn trang nhã mà cũng dễ dãi bao dung.

Sự vận hành của các thể loại xem ra cũng mang ít nhiều ý vị “chu nhi phục thủy” của dịch đạo.

Những thế giới nghệ thuật nhỏ xinh tinh tế, chứa đựng những điều ngụ ý và gợi ý sâu xa của tuyệt cú, haikư và lục bát không chỉ là kỳ diệu trong quá khứ mà có lẽ vẫn là những thế giới linh lung mời gọi ở tương lai.

N.T.B.H

CHÚ THÍCH:

(1) Người viết tạm dịch từ bài thơ chữ Hán của một nhà thơ Nhật Bản. Bài tuyệt cú này in trong sách Nhật Bản Hán thị hiệt anh, do Vương Phúc Tường, Uông Ngọc Lâm, Ngô Hán Anh tuyển biên. Ngoại ngữ giáo học dữ nghiên cứu xuất bản xã Bắc Kinh 1995, tr.501.

Thanh Sơn Diên Quang (1808 - 1871) là một nhà thơ Nhật Bản, tác giả của nhiều sách, từng làm Giáo sư Đại học thời vua Minh Trị.

Nguyên văn bài thơ chữ Hán, phiên âm Hán Việt như sau:

Lý Thái Bạch quan Lư Sơn bộc bố đồ
Bút hạ hữu thần khu tấn lôi,
Hương Lô phong bạn tử yên khai.
Thiên công bất tích ngân hà thủy,
Trực vị thi tiên khuynh tả lai./.

TB

HỌ TẠ NGÕ Ô Y

LÊ TIẾN ĐẠT

Một trong những bài thơ Đường nổi tiếng được nhiều thế hệ độc giả biết đến là bài Ô Y hạng (烏 衣 巷) - Ngõ Ô Y của Lưu Vũ Tích (劉 禹 錫):

朱 雀 橋 邊 野 草 花
烏 衣 巷 口 夕 陽 斜
舊 時 王 謝 堂 前 燕
飛 入 尋 常 百 姓 家

Chu Tước kiều biên dã thảo hoa
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tính gia.

(Bên cầu Chu Tước cỏ hoa;
Ô Y đầu ngõ bóng tà tịch dương;
Én xưa nhà Tạ, nhà Vương;
Lạc loài đến chốn tầm thường dân gian).
(Tản Đà dịch)

Bài thơ chỉ có bốn câu, nhưng tác giả đã thể hiện được tấm lòng cảm khái sâu sắc trước sự đổi thay của thời thế, lẽ hưng vong thịnh suy của cuộc đời. Các sách về thơ Đường hiện nay thường chỉ giải thích: “Ngõ Ô Y có hai nhà quý tộc họ Vương và họ Tạ ở, do con cháu thường mặc áo đen nên gọi là ngõ Ô Y (áo đen).” Nhưng để hiểu được bài thơ trên, sẽ là không thấu đáo, nếu chúng ta không nắm rõ về hai dòng họ quý tộc Vương, Tạ; không hiểu biết đầy đủ danh tiếng giầu sang quyền quý, truyền thống sĩ hoạn nối đời, cùng tài hoa phong lưu của họ. Gia đình quý tộc Vương Đạo (王 導) cùng những câu chuyện về "Thảo thánh nhị Vương" (草 聖 二 王) - cha con nhà thư pháp nổi tiếng Vương Hi Chi (王 羲 之), Vương Hiến Chi (王 獻 之) có lẽ nhiều người đã biết, không cần phải nói lại. Vậy còn gia đình họ Tạ?

Ngõ Ô Y xưa nằm ở phía đông nam khu Kiến Khang Tống Thành (nay là Nam Kinh). Cùng ở ngõ này với gia đình quý tộc họ Vương, có thể nói gia tộc họ Tạ là một vọng tộc phong lưu nổi tiếng còn để lại nhiều tên tuổi trong sử sách. Bắt đầu từ thời Tam Quốc, do chúa Đông Ngô là Tôn Quyền (孫 權) lấy con gái họ Tạ làm vợ, những người có tài trí họ Tạ bắt đầu được đề bạt nắm giữ các chức vụ, và họ Tạ dần trở thành một danh gia vọng tộc. Đến thời Tấn, phong lưu của họ Tạ có thể nói là một điển hình cho phong độ Ngụy Tấn Nam triều. Trong cái phong lưu ấy, không những văn tài, võ lược mà đến cả uống rượu cũng đáng để mọi người phải khâm phục.

Nhân vật nổi tiếng nhất họ Tạ phải kể đến Tạ An (謝 安), tự An Thạch (安 石), là nhà chính trị, nhà quân sự nổi tiếng thời Đông Tấn, đồng thời cũng là một nhân vật phong lưu tột bực. Ông là người mẫn cảm, có tri thức, phong độ tiêu sái tự nhiên, từ nhỏ đã nổi tiếng, mọi người đều khâm phục sự cao nhã. Ông thường giao du với các danh nhân như: Vương Hi Chi (王 羲 之), Hứa Tuần (許 詢), Chi Độn (支 遁), … Ra ngoài thì ngao du sơn thủy, về nhà thì đọc sách làm thơ, bơi thuyền ngâm vịnh, thả hồn theo núi đồi khe suối. Mỗi lần ra ngoài lãm thưởng đều đem theo kỹ nữ, không quan tâm đến thế sự, người đời rất ngưỡng mộ. Hơn 40 tuổi, vì sự an nguy của quốc gia, nghĩ đến câu "thất phu hữu trách", ông mới chịu nhận lời mời của quan đại thần Hoàn Ôn (桓 溫) làm chức Tư mã. Sau khi nhậm chức, ông đã cùng người cháu là Kiến Vũ tướng quân Tạ Huyền (謝 玄) chỉ huy quân sĩ phá giặc Bồ Kiên (符 堅) nhà Tiền Tần trong trận chiến trên sông Hợp Phì nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, an định xã tắc cho nhà Đông Tấn. (Trương Hán Siêu trong bài Bạch Đằng giang phú từng so sánh trận chiến chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của quân dân nhà Trần "khác nào Tào Tháo bị thua ở sông Xích Bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ" chính là nhắc đến trận đánh này). Nhưng Tạ An không tranh giành với đời, tuy được triều đình trọng dụng, song ông chỉ mong muốn hoàn thành công nghiệp rồi lánh đời ẩn dật. Ông dựng một biệt thự trên đồi cao, dựng lầu, trồng trúc, thường mở tiệc ở đây, tụ tập con cháu Tạ gia, uống rượu làm thơ, tiệc rượu tiêu phí hàng trăm lạng vàng, vô cùng xa hoa, có thể nói là phong lưu thơ rượu của họ Tạ được xác lập từ đó. Tạ An mất lúc 66 tuổi, được tặng chức Thái phó, ban thụy là Văn Tĩnh (文 竫), có thể nói là vinh quang trọn đời.

Anh trai của Tạ An, cha của Tạ Huyền là Tạ Dịch (謝 奕) tự là Vô Dịch (無 奕), cũng là một danh sĩ nổi tiếng, từ nhỏ đã được nhiều người ca ngợi. Tạ Dịch từng nhậm chức Huyện lệnh huyện Diệm, vì là bạn thân của quyền thần Hoàn Ôn, nên được phong chức Tư mã An Tây trở thành thuộc hạ của Hoàn Ôn. Song do quan hệ bạn bè, tuy ở dưới trướng của Hoàn Ôn, nhưng ông thường không để ý đến cấp bậc trên dưới, tuỳ ý ngâm vịnh, không phân biệt ở đâu, Hoàn Ôn thường đùa gọi ông là "Phương ngoại Tư mã" (方 外 司 馬) nghĩa là quan Tư mã ở ngoài khuôn phép. Một trong những đặc điểm của Tạ Dịch là nghiện rượu. Đặc biệt là trong lúc uống rượu, Tạ Dịch thường uống "vô tư", không phân biệt cấp bậc hành chính, bỏ qua cả lễ nghi của triều đình. Một lần, khi uống rượu đã say, đang đông đủ cả các quan liêu thuộc, Tạ Dịch ép Hoàn Ôn uống rượu khiến Hoàn Ôn phải trốn chạy đến cửa Nam Khang, trốn trong phòng của người vợ cả. Người vợ cả bấy lâu bị lạnh nhạt, nay thấy chồng đến, nói: "Nếu không có "cuồng Tư mã" Tạ Vô Dịch thì chúng ta làm gì có cơ hội gặp gỡ thế này?". Tạ Dịch xách rượu đuổi đến, không thấy Hoàn Ôn đâu, chỉ thấy viên tuỳ tướng, liền kéo tay bắt cùng uống, say rồi cười bảo: "Chạy mất một tên lính già, lại bắt được một tên lính già, ta còn gì phải trách đây?". Hoàn Ôn biết được nhưng cũng không để bụng.

Tạ Linh Vận (謝 靈 運) (385 - 433) - cháu nội Tạ Huyền, cũng là một nhân vật tài hoa của gia tộc họ Tạ. Do từ nhỏ được gia đình gửi nuôi ở ngoài nên ông còn có tên là Khách Nhi (客 兒), thường gọi là Tạ Khách. Ông đọc khắp các sách, văn chương trác việt, sánh hàng với Nhan Diên Chi (顏 延 之) nhưng thực tế còn hơn cả họ Nhan. Ông được tập phong tước Khang Lạc công (康 樂 公), nên người đời thường gọi là Tạ Khang Lạc. Từ nhỏ Tạ Linh Vận đã được sống trong xa hoa, sung sướng, lấy yến ẩm, du ngoạn làm vui.

Khi nhậm chức Thái thú Vĩnh Gia, Tạ Linh Vận thường chỉ thích ngao du sơn thuỷ, không màng đến danh lợi, rồi cố xin từ quan, dời đến Cối Kê (nay là Thiệu Hưng - Chiết Giang), dựng nhà giữa chốn kề sông tựa núi, phong cảnh tuyệt trần. Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Tấn, Tống, thơ ông phần lớn là thơ sơn thuỷ, trong đó có nhiều câu thơ nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi như: "Trì đường sinh xuân thảo; Viên liễu biến minh cầm 池 塘 生 春 草, 園 柳 變 鳴 禽 (Bờ ao cỏ xuân mượt; Liễu vườn hóa chim kêu)”… Thơ ông cứ vừa viết xong thì khắp kinh thành đã tranh nhau truyền chép. Ông còn nổi tiếng về thư pháp. Thơ và chữ của ông được Tống Văn đế coi là "nhị bảo", và cho vời ông về làm quan ở kinh sư, ngày đêm hầu cận, đàm đạo. Tuy được hầu cận bên vua, nhưng ông không lấy đó làm vinh mà thường lẳng lặng trốn ra ngoài thành du hành, có lúc đi xa hàng trăm dặm, mười mấy ngày không về, bị các quan đàn hặc phải miễn chức về quê. Sau khi về quê, Tạ Linh Vận thường cùng anh em trong họ tổ chức các hoạt động văn chương yến thưởng, ngao du sơn thủy.

Khoảng niên hiệu Nghĩa Hi (義 熙) nhà Đông Tấn, Tạ Linh Vận cùng với Tạ Hồn (謝 混) và các con cháu Tạ gia là Tạ Chiêm (謝 瞻), Tạ Hối (謝 晦), Tạ Diệu (謝 曜), Tạ Hoằng Vi (謝 宏 微) lập thành một nhóm thơ văn thường cùng nhau tụ tập yến ẩm ngâm vịnh, sử sách gọi là "Ô Y chi du" (烏 衣 之 游) trở thành văn chương thưởng hội nổi tiếng nhất của con cháu họ Tạ. Những nhân sĩ có tiếng đương thời mà không phải họ Tạ cũng không dám tham dự. Trong thơ của Tạ Hồn có câu: "Tích vi Ô Y du; Thích thích giai thân tính 昔 為 烏 衣 游, 戚 戚 皆 親 姓 - (Xưa tụ hội du chơi ở Ô Y, đều là họ hàng thân thích)” chính là như vậy.

Thơ văn họ Tạ còn có Tạ Diểu (謝 眺) (464 - 499), tự là Huyền Huy (玄 暉), thường được người đời gọi là Tiểu Tạ (so sánh với Tạ Linh Vận). Ông từng nhậm chức Thái thú Tuyên Thành nhà Tề (Nam triều), nên còn được gọi là Tạ Tuyên Thành (謝 宣 城). Từ niên thiếu ông đã có tài hoa xuất chúng, từng làm các chức văn học, công tào ở phủ Cánh Lăng vương, là một trong "Cánh Lăng bát hữu" (竟 陵 八 友), văn chương rất được hâm mộ. Ông và Thẩm Ước (沈 約) sáng lập ra thể thơ Vĩnh Minh (永 明), đánh dấu một giai đoạn quan trọng trên con đường phát triển thơ ca Trung Quốc từ "cổ thể" tự do đến "cận thể" có cách luật nghiêm chỉnh, trong đó các sáng tác của ông là nhiều nhất, hiện còn hơn hai trăm bài, đến đời Minh được người sau tập hợp lại thành Tạ Tuyên thành tập. Ông có rất nhiều câu thơ hay được truyền tụng rộng rãi như: "Dư hà thành tán ỷ; Trừng giang tĩnh như luyện 余霞成散綺,澄江靜如煉 (Những đám ráng chiều sót lại thành những tấm là tản mát, Dòng sông trong vắt phẳng lặng như một dải lụa trắng)” và "Thiên tế thức quy chu, Vân trung biện giang thụ 天 際 識 歸 舟, 雲 中 辦 江 樹h (Bên trời biết con thuyền đã trở về; Trong mây nhận rõ được những cái cây bên sông)”. Thơ của ông chính là mở đầu cho thơ ngũ ngôn, thất ngôn luật thi đời Đường sau này. Đến thời Đường, Lý Bạch, Đỗ Phủ đều có thơ ca ngợi Tạ Diểu, đánh giá cao thơ ca của ông.

Cháu nội Tạ Linh Vận là Tạ Siêu Tông (謝 超 宗) cũng nổi tiếng có văn tài, được hoàng đế vô cùng ưa chuộng và từng ca ngợi: Tạ Siêu Tông sừng lân lông phượng, đúng là Tạ Linh Vận tái thế. Tạ Siêu Tông không những giỏi thơ văn mà còn tiếp nối truyền thống uống rượu của họ Tạ. Ông từng giữ chức Hoàng môn lang thời Tề Cao Đế, nhưng do ông thường uống rượu ngay cả khi làm việc ở công đường, nên bị điều đi làm chức Trung quân Tư mã cho Nam Quận vương. Nhưng sau đó ông chẳng những không thay đổi tính tình mà càng ngạo tài uống rượu hơn, coi thường cả mọi người nên cuối cùng bị hạ ngục, rồi đày đi xa.

Con trai của Tạ Siêu Tông là Tạ Kỷ Khanh (謝 幾 卿) lúc ấy mới 8 tuổi gặp cảnh gia đình tan nát, chia tay cha ở Tân Đình, vô cùng đau khổ, nhảy xuống sông tự tử, nhưng được kịp thời cứu thoát. Tạ Kỷ Khanh từ nhỏ đã có tài biện bác, vô cùng linh hoạt, mọi người đều gọi là "thần đồng". Lớn lên từng làm quan cho nhà Tề, nhà Lương.

Một đặc điểm trong phong lưu họ Tạ là: có tài nhưng ham rượu, uống rượu là cuồng ẩm, đắc ý là uống, không để tâm đến lễ tiết. Đặc điểm đó cũng là đặc điểm điển hình cho nét phong lưu của văn nhân Trung Quốc. Tạ Kỷ Khanh cuồng ẩm cũng là thừa kế gia phong. Có lần sau khi tham gia yến tiệc chỉ dành cho giới hào môn quý tộc ở Lạc Du Uyển, do uống chưa đủ say, trên đường trở về qua một quán rượu, Tạ Kỷ Khanh liền xuống xe vào quán, không phân biệt quý tiện, sĩ thứ cùng ngồi uống rượu với mấy người phu xe. Thời ấy, đó là một hành động vô cùng khác lạ, khiến mọi người đổ đến xem đông như kiến, nhưng Tạ Kỷ Khanh thì vẫn bình thản như không. Ở dinh thự, Tạ Kỷ Khanh cũng thường mặc quần ngắn, cùng môn sinh lên lầu uống rượu, hò hét thâu đêm suốt sáng, kinh động cả mọi người, cuối cùng bị đàn hặc mất chức. Sau khi thôi chức vụ, Tạ Kỷ Khanh dời đến ở Thạch Tỉnh, Bạch Dương, bạn bè trong triều thường chở rượu đến cho ông, trong số đó có Dữu Dung (庾 容) là thân nhất. Hai người thường ngồi xe ra ngoài thành chơi, uống rượu say rồi vung kiếm mà hát, như không có ai bên cạnh. Sau này, Tạ Kỷ Khanh ra nhậm chức Thái tử Suất canh lệnh, nhưng vẫn giữ thói quen, không hề thay đổi, đến mức lại bị đàn hặc.

Con trai của Tạ Hoằng Vi là Tạ Trang (謝 莊) tự là Hi Dật (希 逸) dung mạo đẹp đẽ, văn tài, tửu lượng đều được "chân truyền" của Tạ gia. Tống Văn Đế gặp, rất lấy làm lạ, phải thốt nên: Lam Điền sinh ngọc, chẳng phải là nói sàm ! Đến khi Minh Đế lên ngôi, đại xá thiên hạ, cho người tìm Tạ Trang để soạn thảo chiếu thư. Đúng lúc Tạ Trang ra ngoài công đường, ngồi uống rượu đã ngà ngà say, được lệnh ông liền lập tức vào cung soạn thảo chiếu thư, nhưng văn chương vẫn tuyệt diệu, được người đời truyền tụng.

Thời kỳ Nam Bắc triều xã hội Trung Quốc trải qua nhiều biến động, các triều đại Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần thay thế lẫn nhau, chính sự liên tục thay đổi, nhiều triều đại có xuất thân từ giai tầng xã hội thấp, nên có những mâu thuẫn và tị hiềm với các dòng họ danh gia vọng tộc lâu đời. Họ Tạ cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn đó. Con cháu họ Tạ đã có nhiều người tài hoa gặp phải hoạn nạn: Tạ Linh Vận bị biếm quan, cả nhà phải đày đi Lĩnh Nam, bản thân bị giết; Tạ Diểu cũng bị sát hại; Tạ Siêu Tông bị đi đày, … Dòng dõi danh gia họ Tạ dần dần bị mai một, đến đời Đường có thể nói ngõ Ô Y, với dinh thự của quý tộc Vương, Tạ cùng yến hội "Ô Y chi du" nổi tiếng đã thực sự trở nên một phế tích hoang tàn. Đó chính là nguyên nhân để nhà thơ Lưu Vũ Tích viết nên một bài thơ đầy thương thời mẫn thế đến như vậy.

L.T.Đ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lịch sử văn học Trung Quốc. Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện KHXH Trung Quốc. Nxb. Giáo dục (1993) (Dịch theo Trung Quốc văn học sử. Nxb. Văn học nhân dân Bắc Kinh, 1988).

2. Giản minh Trung Quốc văn học sử. Trần Ngọc Cương, Thiểm Tây nhân dân xuất bản xã.

3. Trung Hoa tửu truyện, Vạn Vĩ Thành - Nam Phương nhật báo xuất bản xã.

4. Tính thị phong lưu, Ninh Tuyền Sính, Quảng Châu xuất bản xã.

TB

GÓP Ý VỀ HAI BÀI CHÂM UỐNG TRÀ
Ở CHÙA MỘT CỘT

KIỀU THU HOẠCH

Mặc dầu không có trong tay cuốn sách Thông báo Hán Nôm học 2002, song đọc bài góp ý kiến của hai vị hành giả Lê Quốc Việt - Nguyễn Đạt Thức ở Thiền viện Ngọc Quán về “Hai bài châm uống trà ở chùa Một Cột” của ông Đinh Công Vĩ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), chúng tôi cũng cảm nhận được ý kiến của hai vị hành giả là hoàn toàn đúng đắn và khá sâu sắc về Phật học. Thế mới biết làm cái nghề Hán Nôm quả là khó lắm thay! Người nghiên cứu Hán Nôm học chẳng những phải thuộc lòng ba cái chữ Hán “Thiên/trời, Địa/đất, Vân/mây...” mà còn phải hiểu biết trong đầu óc biết bao nhiêu là những thứ tri thức liên ngành, đa ngành... nếu không thì tránh sao khỏi cái chuyện “dịch” thành “diệt”, bình giải lại thành bình tán hươu vượn... Tuy nhiên, như đã nói, do không có văn bản chữ Hán trong tay, nên trong bài viết này, chúng tôi sẽ không bàn đến chuyện đúng sai của Đinh tiên sinh (và cả những đúng sai trong bản dịch lại của hai vị hành giả), mà chỉ xin nhân những chú thích của hai vị hành giả, đóng góp thêm một số tư liệu về Phật học và y dược học mà thôi.

· Trước hết về những chú thích có liên quan đến Phật học

1 - Ở chú thích 1, về chim Ca lăng tần già nên bổ sung đầy đủ như sau: Ca lăng tần già 迦 陵 頻 伽, tên phiên âm Hán Việt của Kalavinka. Còn gọi Calangià, Calantầngià, Yếtlatầnca, Calăngtìgià, Yếtlănggià, Yếtlăngtầngià, Yếttìgiàla, Catìgiàla, Cáptìgiàla, Catìgià, Cavĩla... là tên một loài chim có giọng hót rất hay, người Hán dịch là Mĩ âm điểu hoặc Diệu thanh điểu. Theo Huyền ứng âm nghĩa, q.1: “Calăngtầngià trong Kinh sách có khi viết là Calatầngià, hoặc Calangià, Yếtlatầngià, Tìgià đều là dịch sai tiếng Phạn cả. Calăng nghĩa là tốt, tìgià là tiếng, nghĩa là chim hót hay”. Còn sách Tuệ uyển âm nghĩa, q.hạ thì ghi: “Calăngtầngià là loài chim có tiếng hót hay, hoặc gọi là chim có tiếng hót hay tuyệt diệu. Loài chim này vốn sống ở núi Tuyết Sơn, có thể hót từ khi còn nằm trong trứng. Tiếng hót của nó hòa nhã, thánh thót người nghe mãi không chán”. Trong kinh điển Phật giáo thường ví tiếng hót của loài chim này với diệu âm của chư Phật và Bồ Tát.

Chúng tôi nghĩ: tiếng chim hót hay, và tiếng chim ví với diệu âm của chư Phật, là hai ý chủ đạo không nên lược bỏ trong chú thích về loài chim huyền thoại này.

2- Ở chú thích 11, về hoa Tô ma. Chú thích quá sơ giản như thế, coi như chưa giải thích rõ được đây là hoa gì. Chúng tôi xin chú giải đầy đủ như sau: hoa Tô ma là tên gọi tắt theo tiếng Phạn Samana, chữ Hán Việt viết là 蘇 摩 那(Tômana), hoặc 須摩那 (Tumana), cũng còn gọi Mallika, Malị, Mạtla. Sách Phật của người Hán ghi là Man hoa 鬘 華 (Man hoa là tên gọi tắt của Tômana hoặc Sumana) do loại hoa này có thể dùng trang sức lên mái tóc nên mới viết chữ man 鬘 có nghĩa là mái tóc đẹp; đây là lối dịch kết hợp âm nghĩa rất tài tình và là sở trường của người Trung Hoa. Theo Kê Hàm người đời Tấn; trong sách Nam phương thảo mộc trạng thì loại hoa này lại được viết là 耶 悉 茗 花, 末 利 花(Da tất mính hoa, Mạt lị hoa) và cho biết loại hoa này do người Hồ từ Tây Trúc (ấn Độ cổ) di thực sang vùng Nam Hải, người phương Nam thích thú hương thơm của nó, đua nhau trồng. (Tên gọi 耶 悉 茗 花 là một ẩn số hết sức thú vị, bởi nó hoàn toàn trùng hợp về ngữ âm với cái tên khoa học gọi loại hoa này trong cụm từ Jasminum Sambac Ait mà rồi từ đó ngôn ngữ Âu - Tây gọi loại hoa này là Jasmin. Hiện chúng tôi vẫn chưa giải mã được vấn đề này)(1). Còn theo Lý Thì Trân đời Minh trong bộ Bản thảo cương mục, thì loại hoa này được gọi theo nhiều tên với những chữ viết khác nhau như: mạt lị茉利mạt lị末利mạt lệ抹厲, mạt lị抹利, một lị沒利, mạt lệ末麗... Và Lý Thì Trân giải thích, sở dĩ có những cách gọi tên và viết khác nhau là bởi loài hoa này vốn có nguồn gốc từ xứ Ba Tư, di thực vào miền Nam Trung Hoa, do đó người Hán cứ theo tiếng của người Hồ mà ghi âm lại nên mỗi người một kiểu, mỗi thời một khác. Chung quy đây chỉ là chữ Hán ghi âm của người Hồ. Riêng với người Hán, kể từ đời Tấn, loại hoa này được gọi theo đặc trưng của hoa là nại hoa 奈 花 (có nghĩa là thứ hoa thơm lâu), rồi ngọc xạ 玉 麝 (chỉ thứ hoa thơm quý như xạ hương), rồi băng nhụy冰 蕤 (chỉ bông hoa trắng như băng rủ xuống), rồi tố hinh hoa 素 馨 花 (nghĩa là thứ hoa ngát thơm thuần khiết)... Cũng theo khảo sát của Lý Thì Trân thì thứ hoa này có hai màu: vàng và trắng. ở Việt Nam, sách Lĩnh Nam chích quái thời Trần - Lê có lẽ là cuốn sách sớm nhất có ghi tên hoa mạt lị 茉 利, mà chúng ta vẫn gọi là hoa lài (mlài - nhài), đây cũng chính là cách gọi theo âm của một loại hoa có nguồn gốc ngoại vực, vốn được biến âm từ tên hoa Sumana trong sách Phật.

3- Ở chú thích 14, nói về Sữa Đề hồ, nếu chỉ chú thích đơn giản là “Một loại sữa bò, sau khi ngưng cất có thêm hương dầu gọi là sữa Đề hồ” thì cũng coi như chưa giải thích được điều gì, và cũng chưa giúp người đọc hiểu được ý nghĩa của hai từ này trong văn cảnh ra sao. Thiết nghĩ, nên chú thích rõ hơn như sau: Đề hồ 醍 醐, một trong năm vị chế từ sữa trâu bò, là món ăn ngon nhất, là vị thuốc tốt nhất. Theo Kinh Niết bàn thì “Đề hồ là món ăn ngon nhất trên thế gian”. Cũng theo Kinh Niết bàn, q.14: “Từ trâu vắt ra sữa, từ sữa chế ra lạc 酪 (tức mỡ sữa - beurre), từ lạc chế ra sinh tô và thục tô 酥 (tương tự váng sữa - crème), cũng từ lạc và thục tô lại tinh luyện ra đề hồ (tức pho mát - fromage). Đề hồ là món ngon nhất. Được uống đề hồ thì mọi bệnh đều hết. Tất cả các vị thuốc đều có ở trong đó. Này thiện nam tử, đức Phật cũng như vậy. Từ Phật mới có được 12 bộ Kinh. Từ 12 bộ Kinh mới có được Tuđala, từ Tuđala mới có được Kinh Phương đẳng, từ Kinh Phương đẳng mới có được Kinh Bát nhã ba la mật, từ Kinh Bát nhã ba la mật mới có được Đại Niết Bàn. Khác nào món Đề hồ. Do vậy, dùng Đề hồ để ví với Phật tích”. Tông Thiên Thai còn ví hai bộ Kinh Pháp Hoa Kinh Niết Bàn là những kinh điển quý báu như vị Đề hồ. Thuật ngữ Phật học còn nói: lấy Đề hồ rót xuống đỉnh đầu người (Đề hồ quán đỉnh 醍 醐 灌 頂), để ví với việc đưa trí tuệ vào cho người đó. Xem thế đủ thấy hai chữ Đề hồ còn hàm nghĩa ẩn dụ hết sức sâu xa, không thể chỉ chú thích qua loa về cái nghĩa hiển ngôn là một loại sữa...

· Thứ hai, về vấn đề có liên quan đến kiến thức Đông y, theo sở nguyện của hai vị hành giả: “Vì không có kiến thức về Đông y nên hiện vẫn chưa rõ công hiệu những thảo dược được sắc đun trong trà và thang như thế nào?”. Chúng tôi có được học Đông y từ nhỏ, lại thường đọc Bản thảo cương mục và các sách hữu quan, đo đó xin cung cấp một số tư liệu về các vị thuốc nêu trong Bảng Trà và Bảng Thang như sau:

Về 6 vị của Bảng Trà:

1) Trầm hương 沉 香 (còn được gọi trầm thủy hương沉 水 香, kỳ nam hương 奇 南 香, mật hương 蜜 香...) tên khoa học là Aquilaria agallocha, Roxb. Hình thái: cây cao lá thường xanh. Vị cay đắng, tính ấm. Gỗ màu vàng, do có mùi thơm lại chìm xuống nước không nổi mà có tên trầm hương. Chủ trị các bệnh đau bụng, đau dạ dày; có tác dụng kích thích tiêu hóa, trừ phong, chữa nôn mửa, bí tiểu tiện...

2) Bạch đàn 白 檀 (còn gọi 檀 香 ...) tên khoa học là Santalum album L. Hình thái: cây cao thường xanh. Vị cay ấm, có mùi thơm đặc biệt. Chủ trị các bệnh dạ dày, đau bụng, đau thận, trừ phong; sát trùng, lợi tiểu...

3) Tảo tử 棗 子 (còn có các tên đại tảo 大 棗, can tảo 乾 棗, hồng tảo 紅 棗...) tên khoa học Zizyplus jujuba Mill. Hình thái: cây cao nhỏ rụng lá. Quả chín màu đỏ nâu, hình bầu dục (ta gọi táo xoan) hột nhọn. Vị ngọt, tính ấm. Chủ trị ho, long đờm; bổ trung ích khí, bổ tỳ phế, lợi tiểu, có tác dụng hòa hoãn các vị thuốc khác, chữa viêm loét dạ dày...

4) Cam thảo 甘 草 (còn có các tên linh thảo 靈 草 , mật thảo 蜜 草...) tên khoa học là Glycyrrhiza glaba L. Hình thái: cây cỏ lâu năm. Phần rễ cây thẳng dùng làm thuốc. Tính vị ngọt, ôn hòa. Chủ trị ho, long đờm, chữa viêm dạ dày, bổ trung ích khí, bổ tỳ phế; có tác dụng hòa hoãn độc tố của các vị thuốc khác...

5) Sơn trà, nói đầy đủ tên vị thuốc phải là Sơn trà hoa 山 茶 花, tên khoa học là Camellia japonica L. Hình thái: cây cao thường xanh. Hoa có các màu đỏ, trắng dùng làm thuốc. Tính vị ngọt hơi đắng, lạnh. Chủ trị các bệnh về máu, như chảy máu mũi, chảy máu dạ dày, chảy máu ruột, ho ra máu... (Tuy nhiên, vị thuốc này có lẽ bị ghi lầm với vị Sơn tra 山 查, còn gọi Sơn tra nhục 山 查 肉... tên khoa học Crataegus cuneata Sieb. Et Zucc. Hình thái: cây mọc thành bụi, hoặc cây cao rụng lá. Quả dùng làm thuốc. Tính vị chua ngọt. Là thứ thuốc có công dụng chữa tiêu hóa rất hay. Chủ trị các loại bệnh đầy bụng, tiêu tích trệ, chữa lá lách sưng to, làm khỏe tỳ... Chúng tôi coi đây là một tồn nghi về văn bản, cần được xem xét lại cụ thể, bởi nếu là thuốc về hệ tiêu hóa thì vị Sơn tra hợp lý hơn).

6) Quế chi 桂 枝 (còn có các tên gọi nhục quế 肉 桂, quan quế 官 桂, quế tâm 桂 心...) tên khoa học là Cinnamomum loureiru Nees. Hình thái: cây cao thường xanh. Vỏ cây, cành cây dùng làm thuốc. Tính vị cay, ngọt thơm, ấm. Chủ trị các bệnh tiêu hóa, làm mạnh dạ dày; chữa nhức đầu, đau bụng, đau lưng; chữa ho, thông mạch máu...

Về 8 vị của Bảng Thang:

1) Đinh Hương 丁 香 (còn gọi thiệt hương 雞 舌 香...) tên khoa học là Jambosa caryophyllus Ndz. Hình thái: cây cao thường xanh, mọc ở vùng nhiệt đới. Nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc. Tính vị cay ấm, có mùi thơm bốc mạnh. Chủ trị các bệnh tiêu hóa, chữa đau bụng, đau răng, chữa nôn mửa đi tả...

2) Bạch đàn (đã chú thích, xem phần trên).

3) Hoắc hương 藿 香 tên khoa học là Agastache rugosa O. Kuntze. Hình thái: cây cỏ sống lâu năm. Thân và lá có mùi thơm hắc, phơi khô làm thuốc. Chủ trị các bệnh tiêu hóa, đau bụng tiêu chảy, bệnh thời khí, chống nôn mửa, giúp mạnh dạ dày...

4) Xuyên khung 川 芎 (còn có tên khung cùng 芎 窮...) tên khoa học là Conioselinum anvittatum Turcz. Hình thái: cây cỏ lâu năm. Phần rễ củ của cây dùng làm thuốc. Tính vị đắng, cay, mùi thơm bốc mạnh, ấm. Chủ trị các bệnh đau dạ dày, nhức đầu, choáng váng, giảm đau, hạ huyết áp...

5) Quan quế (đã chú thích ở phần trên).

6) Sinh khương 生 薑 (còn gọi địa tân 地 辛...) tên khoa học là Zingiber oficinale Roscoe, tức củ gừng tươi sống, nếu phơi khô thì gọi là can khương 乾 薑. Hình thái: cây cỏ lâu năm, mọc ở vùng nhiệt đới châu á. Tính vị thơm cay, ấm. Chủ trị phòng hàn, giải cảm; làm mạnh dạ dày, giúp tiêu hóa tốt, chống nôn mửa; chữa ho đờm, nhức đầu, ngạt mũi...

7) Thanh đậu 青 豆. Các loại cây đậu đều có chung tên khoa học là Glycine max (L) Merv. (G. Soja Benth) thuộc hình thái cây cỏ sống 1 năm. Các cây đậu làm thuốc thường dùng bạch biển đậu 白 扁 豆, hắc đậu 黑 豆, lục đậu 綠 豆, và xích đậu 赤 豆, không thấy nói đến thanh đậu. Chắc người ghi văn bản muốn nói đến loại đậu xanh mà thanh 青 và lục 綠 đều có nghĩa là xanh, nên đã tùy tiện ghi 青 mà không ghi 綠. Theo các sách về dược học thì tất cả các loại đậu trên có tác dụng giải nhiệt và chữa bệnh tiêu hóa. Đặc biệt loại lục thanh đậu chữa chứng nhiệt lỵ rất tốt.

8) Bạch mật 白 蜜, tức mật ong, có tác dụng bổ dưỡng và chữa các bệnh tiêu hóa... bài Khuê tình 閨 情 của Lý Thương ẩn đời Đường có câu “紅 露 花 房 白 蜜 脾, 黃 蜂 紫 蝶 兩 參 差 - Hồng lộ hoa phòng bạch mật tỳ/Hoàng phong tử điệp lưỡng sâm si. (tạm dịch: Sương đỏ đài hoa buông mật trắng. Ong vàng bướm tía dập dìu bay)”.

Chúng tôi đã chú giải một cách sơ lược song khá đầy đủ về các mặt tên gọi, hình thái học, tính vị và công dụng chủ yếu của các vị thuốc trong hai bảng Trà và Thang. Nhìn chung, đó là các vị thuốc có công dụng phòng chống các bệnh thuộc hệ tiêu hóa, giúp ăn ngon miệng, ngủ khỏe và lưu thông khí huyết. Ngoài ra, với tính vị thơm cay đặc biệt, một số dược liệu như: trầm hương, đàn hương, đinh hương, hoắc hương... còn có công dụng trừ tà khí và diệt khuẩn có hiệu quả.

K.T.H

CHÚ THÍCH:

(1) Theo Nguyễn Thị Oanh, người từng học tại Nhật Bản cho biết, thì người Nhật cũng gọi hoa nhài là Jasmin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản thảo cương mục, là bộ sách khoa thư về dược học phương Đông, đồng thời cũng là công trình khảo cứu có giá trị về động thực vật học, do Lý Thì Trân khổ công biên soạn trong 30 năm, vừa tổng kết các sách bản thảo thời cổ vừa kết hợp điều tra điền dã trong dân gian. Sách được hoàn thành vào năm Vạn Lịch 24 (1596) đời Minh. Sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng phương Tây, được các học giả thế giới đánh giá cao. Bản chúng tôi sử dụng là bản in của Nxb. Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải, 1955.

2. Hiện đại thực dụng Trung dược, do Diệp Quất Tuyền chủ biên, Thượng Hải Vệ sinh xuất bản xã, 1957.

3. E. Gaspardone: Le lexique Annamite des Ming, J.A, Tone CCXLI, fas 3, N03, 1953, (Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội , H. 8o8).

4. Từ điển Phật học Hán Việt, do Kim Cương Tử chủ biên, Phân viện Nghiên cứu Phật học xuất bản, H. 1992.

5. Từ hải- Từ nguyên.

TB

TRAO ĐỔI GÓP VÀI Ý KIẾN VỚI BÀI
VỀ BÀI THƠ GỬI VỢ THỨ BA CỦA TRẦN THIỆN CHÁNH CỦA CAO TỰ THANH

NGUYỄN MINH TƯỜNG

Tạp chí Xưa - Nay số 208 tháng 3 năm 2004 có đăng bài Về những bài thơ của Trần Thiện Chánh của Quang Hùng. Trong bài viết, tác giả có giới thiệu nguyên văn ba bài thơ của Tuần phủ Ninh Bình Trần Thiện Chánh gửi cho ba bà vợ: một ở Gia Định, một ở Nha Trang và một ở Huế. Theo tác giả, bài thơ Gởi bà ở Nha Trang : “Vì không có bài nào khác để đối chiếu, lại không có cả chữ Hán nguyên bản để dò lại cách phát âm và tự dạng nên đành tạm chấp nhận… Cho nên, chúng tôi đành phải “đoán mò” để dịch nghĩa bài thơ trên (anh Vũ Đức Sao Biển, đoán và dịch nghĩa)…”. Tôi đã đọc khá kỹ bài Gởi bà ở Nha Trang của Trần Thiện Chánh mà Vũ Đức Sao Biển đã đoán định và dịch nghĩa, thì quả thật thấy nhiều chỗ bất ổn, không thông nghĩa. Tôi đang có ý định thử đính chính lại những chữ bất ổn trong bài thơ trên, với mong muốn giúp mình hiểu đúng một tác phẩm của tiền nhân, nhưng rồi công việc bề bộn, chưa thực hiện được. Do vậy, khi được đọc bài Về bài thơ gởi vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh của tác giả Cao Tự Thanh đăng trên Tạp chí Xưa - Nay số 210, tháng 4-2004, trong đó có “Giới thiệu bản phục hồi bước đầu và bản dịch bài thơ nói trên”, tôi thật sự thích thú.

Đọc kỹ bài viết của tác giả Cao Tự Thanh, tôi thấy bài thơ Gởi bà ở Nha Trang của Trần Thiện Chánh mà Quang Hùng công bố ở số báo trước đã được “phục hồi” khá hợp lý, nghĩa đã tương đối thông. Còn có đúng với “nguyên bản” của Trần Thiện Chánh không thì điều đó chưa thể đoán chắc được. Chỉ có điều, tôi tán đồng cách làm việc của tác giả Cao Tự Thanh, và cũng cho rằng: “Muốn phục hồi nguyên bản trong trường hợp bài thơ này thì phải căn cứ vào ngữ âm Nam Bộ, chủ đề bài thơ và thi pháp cũng như thi luật thơ Đường để giải thích và hiệu đính những chỗ sai…”.

Tác giả Cao Tự Thanh chắc chắn cũng đồng ý với tôi rằng: nếu chỉ dựa vào phần phiên âm Hán Việt văn bản bài thơ của Trần Thiện Chánh, lại do “một nông dân chất phác, chữ Hán biết lom lem”, nhớ, rồi đọc lại để mong phục hồi được “nguyên bản”, thì vừa thật khó, vừa rất ít hy vọng chính xác. Tuy nhiên, đọc bài thơ đã được tác giả Cao Tự Thanh “phục hồi” so sánh với bài của do Vũ Đức Sao Biển “đoán định” thì thấy bài của Cao Tự Thanh thông nghĩa hơn, chữ nghĩa chắc hơn. Nhưng, dưới đây, tôi cũng xin trao đổi thêm với tác giả Cao Tự Thanh về phần chữ Hán và phần dịch nghĩa bài thơ này.

1. Về ghi sai chữ: câu 7 - 8:

“Ký ngữ tầm mai đa thiểu khách
Hoàn sầu mai diệc sấu nam chi.”

Cả hai chữ mai, đều viết nhầm là “枚 - mai”: có nghĩa là từng cái, từng chiếc… hoặc họ Mai (như Mai Thúc Loan chẳng hạn), thực ra trong văn cảnh đó là 梅 mai = cây mai. Tôi đoán rằng đây là sự thiếu sót của người chép chữ Hán, chứ không thuộc về tác giả Cao Tự Thanh. ở hai câu thực, 3 – 4:

“Khách lý sơ cuồng hoàn tiếu ngã
Hoa biên liễm nhiễm cánh bằng thùy?”

mà được dịch là:

Đất khách ngông cuồng lại tự cứu mình
Bên hoa khép nép biết cậy vào ai ?

thì chưa thật sát nghĩa.

Câu 3: “Khách” lý mà dịch là “Đất khách” là không đúng. “Sơ cuồng” nguyên nghĩa là ít cuồng (thường được dùng theo nghĩa bóng là giả cuồng) mà dịch là “ngông cuồng” thì nặng quá.

Tôi thấy nhiều bản dịch thơ chữ Hán cổ như tập Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi chẳng hạn, dịch giả cũng thường dịch “sơ cuồng” thành “ngông cuồng”. Điều đó cho thấy các dịch giả không chú ý tới nghĩa của chữ “cuồng” trong cổ văn và những người được mệnh danh là “cuồng khách” trong văn chương Hán học xưa, là hạng người nào.

Trước hết, chữ “cuồng” trong văn chương cổ điển không hoàn toàn có nghĩa xấu như chữ “ngông cuồng”. Sách Từ Nguyên giải thích chữ “cuồng” (狂) có 4 nghĩa (thì 2 nghĩa dưới hợp với điều chúng ta đang bàn):

a- “Chí đại ngôn đại viết cuồng (Luận ngữ) cuồng giả tiến thủ”. Nghĩa là: “Người mà chí quá lớn, lời nói quá cao thì gọi là cuồng. Trong bộ Luận ngữ, Khổng Tử từng nhận xét: Người cuồng có chí tiến thủ.”

b- “Phóng đãng viết cuồng (Luận ngữ): Cổ chi cuồng giả tứ; kim chi cuồng giả đãng”. Nghĩa là: “Người phóng đãng thì gọi là cuồng. Sách Luận ngữ viết: Kẻ cuồng thời xưa thì buông thả, kẻ cuồng thời nay thì phóng đãng”.

Như cách giải thích của Từ nguyên, thì sao có thể dịch “cuồng” là “ngông cuồng” được! Kẻ ngông cuồng thì ngay ngày nay cũng không chấp nhận được nói chi nhà Nho xưa. Vả lại, người xưa lại thường chỉ tự nhận mình “sơ cuồng” (cuồng nhẹ, cuồng ít thôi!). Tôi nghĩ từ “Sơ cuồng”, cũng như các từ “Học giả”, “Ký giả”, “Cao sĩ”… đã được Việt hóa, không cần dịch nữa, mà dịch ra thì hóa ra sai nghĩa và ngô nghê.

Ở đây, tôi thấy nên bàn kỹ đối với một số người mà văn học sử Trung Hoa, cũng như Việt Nam gọi là “Cuồng khách”, “Cuồng sĩ”. Để được thế nhân tôn xưng là cuồng sĩ, cuồng khách đâu phải là nhiều! Lịch sử Trung Quốc cổ trung đại trải dài như thế mà chỉ nghe nói có vài ba người, đó là Sở cuồng Tiếp Dư, Nguyễn Tịch, Lý Bạch…

Nguyễn Tịch sống vào thời Lưỡng Tấn, thời cực kỳ loạn lạc. Nguyễn Tịch vốn có cuồng danh, say mềm suốt ngày. Tư Mã Chiêu muốn kết thân gia với Nguyễn Tịch, ông bèn cố ý say luôn 60 ngày, làm cho người mai mối không làm sao có cơ hội gặp được ông, dù một lần, vì thế nên đành thôi. Kỳ thực, Nguyễn Tịch bề ngoài có vẻ phóng đãng mà bên trong rất thuần chính. Hành động phóng đãng đó hoàn toàn chỉ là một cách thế giả vờ để tránh họa. Đó là một kỹ xảo nhằm minh triết bảo thân mà thôi.

Lý Bạch (701-762) là con người cuồng phóng, không chịu một sự trói buộc nào. Đỗ Phủ trong bài Bất kiến (Lâu không gặp) đã viết về Lý Bạch như sau:

“Bất kiến Lý sinh cửu
Dương cuồng chân khả ai
Thế nhân giai dục sát
Ngô ý độc liên tài…”

(Đã lâu không gặp chàng Lý Bạch
Giả điên thực đáng thương
Người đời ai cũng muốn giết.
Ý ta riêng vẫn thương tài…).

Ở Việt Nam ta, chính Ức Trai tiên sinh trong bài Thuật hứng (số 23) cũng tự nhận:

“Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng
Con cháu nhiều ngày chịu khó dường.”

Đối với người Trung Hoa để làm được một bậc “cuồng khách” thì khó lắm thay! Cho nên, tại đền thờ Lý Bạch, một văn sĩ Trung Quốc là Đào Mộng Kinh đã đề tặng:

“Bạch công nhất khứ vô cuồng khách!
Thử địa thiên thu hữu thịnh danh.”

(Ông Bạch ra đi rồi, thì đời chẳng ai đáng gọi là cuồng khách.
Tại đất này, nghìn năm còn lưu giữ được danh lớn của ông).

Bây giờ, trở lại với câu thơ thứ 3:

“Khách lý sơ cuồng hoàn tiếu ngã.”

Cao Tự Thanh dịch là:

“Đất khách ngông cuồng lại tự cười mình.”

Ấy là vì tác giả cho rằng: “Khách lý sơ cuồng” là chỉ vào tác giả Trần Thiện Chánh! Thực ra, sơ cuồng, ở đây, Trần Thiện Chánh muốn nhắc đến một hạng người minh triết kiểu Nguyễn Tịch, Lý Bạch… đã vượt ra khỏi thế tục và cho rằng mình chưa thể làm như vậy được! Còn hai chữ “Khách lý”, không thể dịch là “Đất khách” (muốn nói ý này, người xưa hay dùng từ “Khách xá”: “Khách xá thê lương dạ tự niên” - (Quán khách lạnh lùng đêm dài như ngày ("trong số người khách" hoặc Nguyễn Trãi…). Còn “khách lý” thì xưa nay các thi nhân thường dùng để chỉ “trong cảnh làm khách” như câu thơ của Nguyễn Trãi dưới đây:

- “Khách lý giang sơn chỉ thử tình”
(Quy Côn Sơn chu trung tác)
(Trong cảnh làm khách đối với giang sơn chỉ chút tình này).

- “Khách lý khan vân tình dị thiết”
(Đề Hà hiệu úy Bạch Vân tự thán)
(Trong cảnh làm khách nhìn mây, tình dễ thiết tha).

Vì thế câu:

“Khách lý sơ cuồng hoàn tiếu ngã”

thì nên dịch là: Kẻ sơ cuồng trong số khách lại cười ta.

Tác giả Trần Thiện Chánh tự thẹn rằng mình không làm được như các bậc sơ cuồng trước đây, thoát ra khỏi mọi sự trói buộc của thế tục.

3. Về nhận định của tác giả

Ở cuối bài, Cao Tự Thanh nhận định về mấy câu cuối bài thơ của Trần Thiện Chánh như sau: “Tuy nhiên, nếu chữ “hữu” ở câu 6 là chữ “nữ” thì hai câu luận sẽ chặt chẽ hơn, cũng như chữ “mai” ở câu 7 khiến hai câu 7 - 8 có vẻ không ăn khớp lắm với toàn bộ bài thơ…”. Tôi lại nghĩ khác với Cao Tự Thanh. Tôi cho rằng câu luận để nguyên:

Mỹ nhân nguyệt hạ tinh thần viễn
Tiên hữu sơn trung tín tức kỳ.”

mới thật đối.

- Câu 5: Mỹ nhân (hàm ý nói về vợ mình).

- Câu 6: Tiên hữu (hàm ý nói về mình, tức tác giả Trần Thiện Chánh).

Còn thay bằng “Tiên nữ” như Cao Tự Thanh nghĩ, thì định chỉ ai ?!. Nên nhớ bấy giờ Trần Thiện Chánh đang làm quan tại vùng núi non Ninh Bình, ông tự xưng “Tiên hữu sơn trung” (Bạn của tiên ở trong núi) là vừa hợp cảnh vừa hợp tình.

Tôi có cảm tưởng Cao Tự Thanh thấy lạ tại sao chữ “mai” lại xuất hiện ở câu 7 của bài thơ ? Phải chăng với Cao Tự Thanh, “Mai” cùng với Trúc, Tùng thành “Đông hàn tam hữu” (Ba người bạn chịu rét mùa đông), tức tượng trưng cho bậc quân tử, đấng mày râu ? Hình ảnh về cây mai không ăn nhập gì với bài thơ gửi cho vợ này? Theo tôi, ở đây Trần Thiện Chánh đã sử dụng điển cố, xuất xứ từ bài Tạp thi của nhà thơ đời Đường, Vương Duy:

“Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự.
Lai nhật ý song tiền
Hàn mai trước hoa vị ?”

(Bác từ trong quê ra
Hẳn biết việc trong quê
Ngày bác đi thì ở trước cửa sổ căng màn the.
Cây hàn mai đã chớm hoa chưa?).

Như vậy, cây mai ở đây, Trần Thiện Chánh muốn nói tới bà vợ của ông. Câu “Ký ngữ tầm mai” (Gửi lời hỏi về cây mai) là rõ ràng nhắc tới tứ của bài Tạp thi nói trên của Vương Duy. Hiểu như trên, thì câu:

“Ký ngữ tầm mai đa thiểu khách”

là một câu thơ khá sâu và khá ý nhị, và nên dịch là: Những khách “gửi lời hỏi thăm mai” cùng nhiều người.

Cuối cùng, tôi vẫn băn khoăn là không có nguyên bản bài thơ Gửi bà vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh để tìm hiểu đúng với ý của ông. Còn, dựa trên bản “phục hồi” của Cao Tự Thanh trên đây, tôi thấy vẫn chưa thật yên tâm. Mặc dù vậy, tôi cũng mạnh dạn bàn góp với tác giả Cao Tự Thanh mấy ý kiến nhỏ trên đây, âu cũng là mong hiểu đúng một bài thơ của bậc tiền nhân đáng kính: Tuần phủ Trần Thiện Chánh./.

N.M.T

TB

MỘT CÁCH TIẾP CẬN BÀI THƠ
PHONG KIẾU DẠ BẠC

NGUYỄN CẢNH PHÚC

Bài thơ Phong kiều dạ bạc của nhà thơ Trung Quốc Trương Kế từ trước đến nay đã được nhiều dịch giả nước ta dịch và bình chú. Cách dịch và bình chú từng câu thơ đã thể hiện cách hiểu khác nhau của mỗi người. Trong bài viết này tôi muốn bàn về cách hiểu câu thơ thứ hai của bài thơ Phong Kiều dạ bạc của ba dịch giả Nguyễn Thị Bích Hải, Nguyễn Khuê và Nguyễn Quảng Tuân. Trước hết xin được giới thiệu nguyên văn chữ Hán và phiên âm bài thơ nổi tiếng trên.

楓 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天
江 楓 漁 火 對 愁 眠
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鍾 聲 到 客 船

PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

1. Cách hiểu của Nguyễn Thị Bích Hải: trong cuốn Bình giảng thơ Đường do Nxb. Giáo dục in năm 2003, tr.84, tác giả viết: “Cây phong bên bờ sông, ngọn lửa đèn chài, (khách) ngủ với nỗi buồn”.

2. Cách hiểu của Nguyễn Khuê: trong cuốn Tự học Hán văn, do Nxb. Tp. Hồ Chí Minh in năm 1995, tr.294, tác giả viết: “Hàng cây phong bên bờ sông, ánh đèn thuyền chài đối cùng khách đang thao thức sầu” (trong khoang thuyền đậu tại bến Phong kiều).

3. Cách hiểu của Nguyễn Quảng Tuân: trong Kiến thức ngày nay số 388 ra ngày 20/5/2001, tr.71, tác giả viết: “Khách (tác giả) nằm trong thuyền ngó ra ngoài thấy hàng cây phong ở trên bờ sông và những ánh đèn thuyền chài trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ được”.

Như vậy, bà Bích Hải cho rằng cả “giang phong”, “ngư hỏa” và “khách” đều “ngủ với nỗi buồn”. Cách hiểu này, theo tôi chưa hợp lý ở chỗ tác giả đã ngủ thì làm sao mà nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn ở ngoại thành Cô Tô vọng đến được. Tiếp theo, ở tr.85, bà Bích Hải viết: “giang phong” và “ngư hỏa” một tĩnh một động, một tối một sáng, một bên bờ một trên sông, cảnh vật tự thành hai “vế đối”. Cách phân tích này cũng chưa được thuyết phục. Bởi lẽ, “ngư hỏa” đã ngủ thì phải “tĩnh” chứ không thể “động” được. Mặt khác, về hình khối và kích thước thì “giang phong” rất to, “ngư hỏa” rất nhỏ, hai vật cách nhau một trời một vực, không thể làm thành hai “vế đối” được. Phân tích như thế liệu có khiên cưỡng không.

Cách hiểu của Nguyễn Khuê và Nguyễn Quảng Tuân giống nhau ở chỗ: cả hai ông đều cho rằng “khách” (tác giả), đang “thao thức sầu”, “trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ được”. Qua cách dịch của hai ông, chúng ta thấy rằng, hai ông đã bỏ sót mất chữ “miên” (眠) nghĩa là “ngủ” ở trong nguyên tác. Tuy không nói ra, nhưng có lẽ hai ông đều cho rằng Trương Kế viết thừa ra chữ: “miên” (眠), Vì thế khi dịch ra văn xuôi, cả hai ông đã bỏ qua chữ “miên”. Hoặc cũng có thể hai ông đã tra cứu một cuốn từ điển Hán Việt nào đó giải nghĩa rằng “miên” (眠) có nghĩa là “thao thức không ngủ được” rồi dịch như trên. Chúng tôi đã tra cứu Từ hải và Từ nguyên, chữ “miên” không hề có nghĩa là “thao thức không ngủ được”, mà chỉ có nghĩa là “ngủ”. Vì vậy, theo tôi “Giang phong, ngư hỏa đối sầu miên” nên dịch nghĩa như sau: “Rặng cây phong bên bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một cách buồn rầu”. Tôi dịch như thế là do tôi hiểu cấu trúc ngữ pháp của câu đó như sau:

江 楓 漁 火
chủ ngữvn1tr.ngvn2

Câu này cũng có thể phân tích theo cách thứ hai như sau:

江 楓 漁 火對 愁 眠
chủ ngữ vị ngữ

Vị ngữ là cụm động từ trong đó có 2 động từ là 對 và 眠. Tác giả đã phả hồn mình vào “giang phong” và “ngư hỏa” - hai vật vốn vô tri vô giác để nhân cách hóa chúng, làm cho chúng cũng biết ngủ một cách buồn rầu. Hay nói một cách khác tác giả đã miêu tả cảnh vật thông qua lăng kính nội tâm của mình để mà ngụ tình. Qua đây, độc giả có thể suy luận mà biết được rằng Trương Kế đang thao thức không ngủ được vì buồn, mặc dầu ông không trực tiếp nói ra điều đó. Qui luật tâm lý này đã được cụ Nguyễn Du diễn đạt bằng thơ như sau:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
(Truyện Kiều)

Trương Kế đã diễn đạt tâm trạng của mình vô cùng kín đáo, tế nhị, thể hiện tính cô động, súc tích, lời ít ý nhiều, ý ở ngoài lời - một trong những nét nghệ thuật nổi bật làm thơ Đường hấp dẫn toàn nhân loại hơn nghìn năm nay. Tôi xin lấy thêm một dẫn chứng để minh họa cho điều này. Trong bài 月 夜 nhà thơ Đỗ Phủ viết:

香 霧 雲 鬟 濕
清 輝 玉 臂 寒
“Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.”

Nghĩa là: “Làn sương thơm làm cho mái tóc mây bị ướt. ánh trăng trong làm cho cánh tay ngọc bị lạnh”. Đọc xong 2 câu này, độc giả suy ra sẽ biết được rằng vợ của Đỗ Phủ trong phòng khuê “đêm nay” ở Phu Châu ngắm trăng rất lâu nên mới bị sương làm ướt tóc, cánh tay lạnh vì ánh trăng chiếu vào và bà đương nhớ thương chồng da diết bởi biết rằng Đỗ Phủ đang bị quân giặc An Lộc Sơn giam giữ ở kinh đô Tràng An vời vợi nghìn trùng, biết đến bao giờ mới gặp lại được. “Nhớ sâu thì ngắm lâu” - (ý của một nhà nghiên cứu văn học ở Trung Quốc). Qua phân tích và chứng minh như trên, chúng ta thấy rằng bà Bích Hải dịch: “Cây phong bên sông ngọn lửa đèn chài, (khách) ngủ với nỗi buồn” là chưa thuận. Dịch như vậy, hiểu như vậy e rằng đã làm lộ ý thơ, làm mất đi đặc điểm nghệ thuật ý tại ngôn ngoại, tả ít gợi nhiều - một trong những đặc điểm nghệ thuật tuyệt vời của thơ Đường ở Trung Quốc trong 3 thế kỷ: thế kỷ thứ VII, thế kỷ thứ VIII, thế kỷ thứ IX. Nói tóm lại, bà Bích Hải, ông Nguyễn Khuê và ông Nguyễn Quảng Tuân hiểu câu thơ thứ hai của Trương Kế tuy có khác nhau về chi tiết nhưng lại giống nhau ở điểm chính là đã làm cho ý thơ bị lộ - một điều tối kỵ đối với các nhà thơ Đường ở Trung Quốc. Nhà thơ Tản Đà đã dịch bài thơ này của Trương Kế ra tiếng Việt như sau:

“Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”

Bản dịch thơ này chưa phải là toàn bích nhưng được nhiều nhà nghiên cứu văn học ở nước ta đánh giá là bản dịch thơ hay nhất trong các bản dịch về bài thơ Phong kiều dạ bạc. Câu thứ hai có từ “giấc hồ” tương đối khó hiểu với một số độc giả. Trong tiếng Hán “hồ điệp” (蝴 蝶) có nghĩa là “con bướm”. Tương truyền rằng có một hôm Trang Tử - một nhà triết học cổ đại của Trung Quốc nằm ngủ mơ thấy mình hóa thành con bướm. Vì thế, từ đó về sau, người ta thường dùng “giấc hồ”, “giấc điệp” để chỉ giấc ngủ, giấc mơ. Cấu trúc ngữ pháp của câu đó như sau:

Lửa chài cây bếnsầu vương giấc hồ.
Chủ ngữ/vị ngữ (kết cấu c+v)

“Sầu vương giấc hồ” có nghĩa là “vẻ sầu vương vấn giấc ngủ”. Như vậy, cụ Tản Đà hiểu rằng “lửa chài” và “cây bến” đều ngủ. Trong khi ngủ thì “lửa chài” và “cây bến” đều bị vẻ sầu vương vấn lấy giấc ngủ. Điều này hoàn toàn phù hợp với câu thơ ở nguyên tác là “giang phong” và “ngư hỏa” đang “đối diện với nhau mà ngủ một cách buồn rầu”, như tôi đã phân tích ở trên. Tất nhiên, “cây bến” nghĩa là “rặng cây ở bến” không xác định, không cụ thể bằng “giang phong”. Nhưng cụ Tản Đà dịch như thế cũng đáng để chúng ta khâm phục lắm rồi.

Trên đây là một cách hiểu của tôi, nếu có chỗ nào chưa thỏa đáng, kính mong quý vị trao đổi thêm để chúng ta hiểu đúng một áng thơ Đường vào loại tuyệt tác của nhà thơ Trương Kế.

N.C.P

TB

HỢP TUYỂN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM (Tập một) - Sách mới với tư liệu Hán Nôm nguyên gốc cập nhật

ĐÕ THU HIỀN

Lâu nay, văn học trung đại vẫn là một mảng khó tiếp cận đối với số đông độc giả, không chỉ bởi rào cản về ngôn ngữ, văn tự, khoảng cách về văn hoá giữa quá khứ và hiện tại mà còn vì những khó khăn trong việc tìm kiếm tư liệu tham khảo, đặc biệt là dạng sách tuyển chọn những tác phẩm nguyên gốc. Những bộ sách có quy mô quá lớn và chuyên sâu như Tổng tập văn học Việt Nam, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Thơ văn Lý - Trần, Nguyễn Trãi toàn tập... tỏ ra không thích hợp với số đông bạn đọc. Dạng sách tuyển tập phổ thông như Hợp tuyển văn học Việt Nam đã xuất bản từ quá lâu, trong một thời gian dài không thấy sửa chữa, in lại, tư liệu cũng không cập nhật được các thành tựu của giới khảo cứu văn học trung đại. Có thể thấy rằng, đến nay, việc biên soạn mới một bộ sách tuyển chọn các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam đã trở thành đòi hỏi tất yếu, như một món nợ với người đọc mà những người tâm huyết với nghề không thể không nghĩ đến. Trong tình hình đó, năm 2004 này, Nxb. Giáo dục vừa cho trình làng tập một của bộ Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam là việc làm thực sự có ý nghĩa.

Đây là cuốn đầu tiên trong bộ sách gồm bốn tập của nhóm soạn giả Bùi Duy Tân (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Đức Duật, Nguyễn Đức Dũng thực hiện. Bộ sách ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết về loại sách tuyển chọn tác phẩm thời trung đại, mà còn là một thành công của những người làm sách trong nỗ lực tìm đến một diện mạo thích hợp nhất với đối tượng mà bộ sách hướng tới, là những độc giả yêu thích văn học nói chung. Những bộ tuyển tập phổ thông trước đó cũng đã lựa chọn một hình thức tương tự như vậy, nhưng Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Nxb. Văn học, H. 1976) có số trang ít hơn, số tác phẩm cũng do đó cũng không nhiều bằng và chưa in ấn một kiệt tác chữ Hán nguyên gốc nào như Nam quốc sơn hà, Thiên đô chiếu v.v... Với quy mô lớn trong lần in mới bộ sách có thể thâu tóm được các tác phẩm đặc sắc của những tác giả tiêu biểu nhất trong khi vẫn đảm bảo được khả năng bao quát diện mạo chung của văn học giai đoạn này. Đặc biệt là, với tất cả những ưu điểm đó, bộ sách vẫn không quá nặng nề, hàn lâm. Tập một có dung lượng hơn 600 trang, bao gồm văn học từ thế kỷ X - XV, chia thành hai phần: thế kỷ X - XIV và thế kỷ XV. Tập sách làm theo cách truyền thống, tuyển chọn những tác phẩm tiêu biểu của từng tác giả trong giai đoạn đó. Các tác giả được sắp xếp theo trình tự năm sinh, tác phẩm của từng tác giả được sắp xếp theo trình tự thời gian ra đời. ở từng tác giả đều có phần tóm lược tiểu sử. Đối với mỗi tác phẩm, trình bày theo thứ tự lần lượt từ lời dẫn phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải.

Khác với các hợp tuyển hay tổng tập trước đó, bộ sách lần này lấy tên là Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam với một phụ đề nhỏ Thế kỷ X-XIX. Thuật ngữ “văn học trung đại” gần đây đã được dùng thường xuyên trong các giáo trình và chuyên khảo của giới nghiên cứu, nhưng đây là lần đầu tiên nó được sử dụng cho một bộ hợp tuyển như thế này.

Mở đầu cuốn sách là một bài Khái luận dài 18 trang rất công phu của PGS. Bùi Duy Tân, người có thâm niên trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại ở trường đại học. Bài viết đã phác thảo những nét cơ bản diện mạo nền văn học viết Việt Nam trong mười thế kỷ với phần đi sâu về giai đoạn văn học thế kỷ X - XV. Đây chính là chìa khóa giúp cho người đọc bước vào thế giới của văn học trung đại Việt Nam. Việc nắm vững tình hình văn bản và cách nhìn khoa học hơn trên cơ sở những thành tựu mới của nghiên cứu văn học trong những năm gần đây đã được tác giả sử dụng cho bài khảo luận quan trọng này.

Thừa hưởng bề dày của công việc tuyển chọn tác phẩm trong nhiều năm ở nước ta, các nhà làm sách đã có được sự cân nhắc, đánh giá tác phẩm tương đối hợp lý và đúng đắn. Việc lựa chọn văn bản được đặt trên tiêu chí giá trị nội dung và nghệ thuật đích thực của bản thân tác phẩm, gạt bỏ những yếu tố ngoài văn chương, nên so với những bộ tuyển tập trước đó thì Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam đã chọn được nhiều tác phẩm có giá trị hơn. Lựa chọn bản dịch cũng là việc rất khó khăn với các soạn giả, bởi vì cùng với thời gian, số lượng bản dịch ngày càng phong phú và bộn bề. Bộ sách đa phần dựa vào những bản dịch có sẵn, có giá trị và đã được bạn đọc công nhận, như bản dịch Bình Ngô đại cáo của Bùi Kỷ do cố GS. Bùi Văn Nguyên hiệu đính. Ngoài ra, có những tác phẩm người soạn sách phải dựa vào nhiều bản dịch khác nhau để tạo thành một bản chuẩn xác nhất. Có khi, một bản dịch hoàn toàn mới được lựa chọn để thay thế cho bản dịch cũ xét thấy chưa đạt yêu cầu, đó là trường hợp của bài thơ Nam quốc sơn hà. Điều này trước hết liên quan đến chuyện dịch nghĩa. Người làm sách đã tỏ ra rất “khó tính” trong việc chỉnh sửa lại phần dịch nghĩa, ngay đối với những bản dịch đã quen thuộc. Những cách hiểu mới đó dẫn đến việc lựa chọn lại bản dịch thơ. Các bản dịch quen thuộc vẫn dịch nghĩa câu đầu tiên là “Núi sông nước Nam thì vua Nam ở”(1) hoặc “Non sông nước Nam, Nam đế làm chủ”(2). Hai cách dịch đó hoặc còn thông tục, giản đơn, hoặc có phần mới mẻ, hiện đại. Chính vì thế mà Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam đã dịch lại là: “Núi sông nước Nam thì vua Nam ngự trị” với lời giải thích: “Dịch chữ ra ngự trị để rõ được cái ý bao hàm: vua nước Nam vừa quản lý vừa cai trị đất nước của mình theo thể chế vương quyền”, và theo đó chọn bản dịch thơ của Ngô Linh Ngọc: “Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự”. Cách dịch này vừa bảo đảm sát ý nguyên tác, vừa truyền tải được sắc thái cổ kính, trang nghiêm cần thiết của một tác phẩm văn chương thời trung đại.

Cái mới quan trọng ở tập này là một số tác phẩm cơ bản của giai đoạn thế kỷ X - XV đã được làm lại dựa vào những văn bản đáng tin cậy nhất. Đó là các tác phẩm: Nam quốc sơn hà, Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo v.v... Trước đây, bộ sách chính thống như Tổng tập văn học Việt Nam, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Thơ văn Lý - Trần... và cả sách giáo khoa phổ thông cũng đều dựa vào bản in ở thế kỷ XVIII. Lần này, chúng ta đã được tiếp cận những văn bản từ một nguồn có thể coi là cổ nhất và cũng là đáng tin cậy nhất cho đến thời điểm hiện tại, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên mang ký hiệu A3, (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm), sách đã được dịch in từ 1967, 1968, có tham khảo Đại Việt sử ký toàn thư - Nội các quan bản, (Nxb. KHXH, H. 1993) Đó cũng lại là bốn tác phẩm đặc biệt được chọn in trang trọng cả nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ,... trong hợp tuyển này. Lý do thật dễ hiểu bởi đây vẫn luôn được coi là những bản hùng ca bất tuyệt gắn liền với những thời điểm huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Chính điểm mới nói trên đã khiến các văn bản này trong bộ sách có một số khác biệt so với các công trình trước đó. Ngoài ra, các soạn giả cũng cố gắng so sánh, đối chiếu các văn bản để tìm ra một lựa chọn hợp lý nhất. Bài Nam quốc sơn hà theo Đại Việt sử ký toàn thư thì có đảo hai chữ “định phận” thành “phận định” (so với bản vẫn dùng trích từ Trương tôn thần sự tích). Với chữ “phận định” có ý kiến cho rằng giá đọc là “phân định” thì bài thơ tỏ ra hợp niêm luật hơn, âm điệu hay hơn mà nghĩa cũng rõ ràng hơn, khẳng định sự phân chia đã có sẵn. Bản dịch nghĩa của những tác phẩm này cũng đã được điều chỉnh ít nhiều những chỗ cần thiết để có thể hiểu đúng tác phẩm. Bài Thiên đô chiếu cũng có một thay đổi nhỏ: “đế vương chi thượng đô” trở thành “kinh sư chi thượng đô”. Đây là một thay đổi mà các nhà làm sách hẳn phải cân nhắc kỹ trước khi đưa vào bộ hợp tuyển. Bởi vì thay chữ “đế vương” thành “kinh sư”, tác phẩm có vẻ như mất đi một ý lâu nay vẫn được tán tụng rất nhiều, đó là khẳng định Đại La xứng đáng là nơi kinh đô của bậc đế vương, nghĩa là đề cao một vương triều tự chủ. Còn “kinh sư” cũng có nghĩa như “kinh đô”, ý cả cụm từ đó chỉ kinh đô bậc nhất. Thế nhưng, theo các soạn giả, “Ở đây lấy lại hai chữ kinh sư theo Đại Việt sử ký toàn thư để tỏ rõ sự tôn trọng nguyên tác, một nguyên tác được in ấn, lưu giữ trong một bộ quốc sử quý giá nhất thời xưa.” Ở Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo v.v... cũng được hiệu chỉnh theo bản nguyên gốc. Rõ ràng, đó là một cách làm việc rất chuyên nghiệp, đầy tinh thần khoa học, khách quan của những người làm sách.

Ngoài bản thân cách tuyển chọn văn bản thì một phần rất quan trọng trong việc trình bày, giới thiệu tác phẩm văn học thời trung đại là khâu chú thích, chú giải. Như phần Phàm lệ đã nói rõ, vì tuyển chọn những tác phẩm cổ điển đã từng được chú giải khá tường tận trong các sách cũ nên ở đây, nhóm biên soạn chủ yếu sử dụng lại những thành quả đã có của người đi trước. Tuy nhiên, các soạn giả đã rất nỗ lực trong việc bổ sung, chỉnh sửa những chú giải đó cho tương ứng với trình độ của giới nghiên cứu văn học đương đại cũng như thích hợp với kiến giải của cá nhân nhà khoa học. Trong Bình Ngô đại cáo có một chú giải đáng chú ý “mưu phạt tâm công” là “đánh vào mưu kế và đánh vào lòng người, nhằm làm tan rã tinh thần của giặc. Có thể hiểu: đánh bằng mưu trí và đánh bằng lòng người (tức đánh bằng nhân nghĩa). Hai cách hiểu đều có lý, cách hai hay hơn”. Cách hiểu thứ nhất là theo truyền thống, cách thứ hai gần đây mới được đề cập đến(3). Nhóm biên soạn đã thiên về cách hiểu thứ hai mà theo đó, cụm từ này trở nên gần với tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi hơn. Nguyễn Trãi đã dùng hình thức ngôn từ của Nho giáo truyền tải một tư tưởng nhân nghĩa sáng tạo của riêng người Việt Nam do ông đặt nền móng về một thứ nhân nghĩa gắn chặt với tinh thần nhân dân, tinh thần dân tộc. Tuy nhiên, có một vài chỗ nên chăng các soạn giả có thể cân nhắc thêm. Một ví dụ là chữ “vô vi” trong bài Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận được thích nghĩa như sau: “Nguyên văn hai chữ “vô vi” nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, không bị ràng buộc theo khuôn phép, đạo đức con người đặt ra. Đạo Phật (vô vi pháp) quan niệm “vô vi” còn có nghĩa là từ bi, bác ái, vị tha...”. Nếu chú ý đến tình hình Nho - Phật - Đạo đồng hành trong thời gian này ở Việt Nam thì có thể thấy rằng, vấn đề phức tạp hơn thế. “Vô vi” là thuật ngữ của cả tam giáo nên ở đây lại có nghĩa thêm là “chữ của Nho gia mượn của Đạo gia để biểu thị phương sách Đức trị”(4). Khổng Tử nói rằng: “Vô vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dư ? Phù, hà vi tai ? Cung kỷ, chính nam diện nhi dĩ hĩ” (Luận ngữ - Vệ Linh Công)(5).

Ngoài ra, bộ sách đã được cập nhật rất tốt về tình tình tư liệu tác gia, tác phẩm, nguồn văn bản v.v..., tận dụng triệt để những thành quả gần đây trong nghiên cứu văn học trung đại, đặc biệt là văn bản học. Ví dụ rõ ràng nhất là bài thơ Nam quốc sơn hà đã được PGS. Bùi Duy Tân chứng minh không phải là tác phẩm của Lý Thường Kiệt mà là một bài thơ Thần không có tác giả (Vô danh thị), một sáng tác tập thể có tính chất dân gian, qua hàng loạt bài viết trong những năm gần đây(6). Thực chất, theo cố GS. Bùi Văn Nguyên bài thơ này đã xuất hiện sớm nhất là từ đời Ngô, có mặt trong cuộc chiến của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.(7) Cùng với nhiều dẫn liệu thuyết phục khác có thể khẳng định rằng, đây chính là tác phẩm đầu tiên của nền văn học viết Việt Nam. Và ở Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, lần đầu tiên nó đã được đặt đúng vị trí đó thay cho Dự đại phá Hoằng Thao chi kế của Ngô Quyền trong Thơ văn Lý - Trần Quốc tộ trong Tổng tập văn học Việt Nam (về hình thức thì đặt Nam quốc sơn hà trước Quốc tộ nhưng vì lý do đó là một “bản tuyên ngôn độc lập” của dân tộc ta, thực chất vẫn cho rằng Quốc tộ mới là tác phẩm mở đầu). Một ví dụ khác cũng khá tiêu biểu là Dương Không Lộ, một tác giả vẫn được coi là tương đối quan trọng trong văn học Phật giáo đời Lý với hai bài thơ nổi tiếng luôn được tuyển chọn trong các bộ tuyển tập, kể cả khi số trang của các bộ sách đó rất hạn chế như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, thậm chí đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông trong một thời gian dài. Nhưng với những tư liệu hiện có, giới nghiên cứu đã dần khẳng định cả hai bài thơ đó đều không phải của Không Lộ mà có xuất xứ từ văn học Trung Quốc. Ở Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tác giả này đã hoàn toàn không được nhắc tới. Ngược lại, tác phẩm của Hồ Nguyên Trừng trước kia vì nhiều lý do đã không được tuyển chọn trong các bộ sách chính thống thì lần này cũng đã được đưa vào như những tác phẩm có giá trị. Các mục truyện trong sách Thiền uyển tập anh, Việt sử lược, Việt điện u linh và tác phẩm của Huyền Quang, Nguyễn Húc, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông v.v... cũng được dịch thêm, dịch mới, bổ sung với số lượng khá phong phú.

Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam ra đời đã không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết về sách tham khảo văn học trung đại cho đông đảo độc giả yêu văn chương, giáo viên, học sinh, sinh viên v.v... mà còn đóng góp một bộ sách quý cho tủ sách của người làm công tác nghiên cứu văn học trung đại. Có cơ sở để tin rằng, các tập tiếp theo của bộ sách sẽ được ra đời trong sự mong đợi và hoan nghênh của bạn đọc.

Đ.T.H

CHÚ THÍCH:

(1) Thơ văn Lý - Trần, T1, Nxb. KHXH, H. 1980).

(2) Tổng tập văn học Việt Nam, T1, Nxb. KHXH, H. 1980.

(3) Xem Phan Hữu Nghệ: Phân tích văn bản một số tác phẩm Hán Nôm tiêu biểu, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2002.

(4) Từ điển Bách khoa Nho - Phật - Đạo. Thịnh Lê (Chủ biên). Nxb. Văn học, (bản dịch), H. 2001.

(5) Nghĩa là : “Kẻ vô vi mà bình trị được, có lẽ là Thuấn vậy chăng có làm gì đâu ? Cung kính ngay ngắn quay mặt về phía nam mà thôi:. “Quay mặt về nam” là ý nói làm vua.

(6) Xem Bùi Duy Tân: Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập 1. Nxb. Giáo dục. H. 1999. Khảo và luận một số thể loại tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập 2. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. H. 2001.

(7) Xem Bùi Văn Nguyên: Tổng tập văn học Việt Nam. Tập IV, Nxb. KHXH, H. 1995, tr.22.

TB

NGỌC PHẢ CÁC VUA TRIỀU LÊ

TRẦN BÁ CHI

Khi nghiên cứu các di tích ở Hoa Lư - Ninh Bình, chúng tôi đọc được một số truyền thuyết và thần tích liên quan đến Lê Hoàn. Thiết nghĩ đây là tư liệu mới cung cấp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc. Do vậy chúng tôi giới thiệu tóm lược nội dung thần tích này.

Ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê (xếp ở hạng Thượng thượng đẳng thần, bộ thứ nhất của chi Càn). Đây là bản chính của bộ Lễ.

Nước Việt ta do các vua Hùng dựng nghiệp đã hơn hai ngàn năm; tiếp đến An Dương Vương trị nước năm mươi năm. Rồi sau đó, nước ta lại thuộc các nhà Đông Hán, Tấn, Tống, Tề, Lương và Tùy Đường, đến Ngô Quyền mới khôi phục được nền độc lập cho đất nước. Nhưng chưa được bao năm thì bọn cường thần tiêu biểu là mười hai sứ quân cùng nhau gây loạn, mỗi sứ quân chiếm cứ một địa phương, dân nước Việt ta vô cùng cực khổ, phải chịu sưu thuế nặng nề, lao dịch vất vả suốt một thời gian dài vô chủ không kể xiết. May mắn thay đến lúc lòng dân quá chán chường vì loạn lạc, ý trời cũng muốn trừ bọn cường thần, bỗng xuất hiện một nhân tài là Đinh Bộ Lĩnh, người xã Đại Hoàng thuộc động Hoa Lư phủ Trường Yên Châu ái (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Ông thường ra vào động Hoa Lư cùng với các trẻ mục đồng kết thành một đảng khoảng hơn trăm người, ngày ngày ra luyện tập ở võ trường mưu đồ làm việc lớn. Nhưng lúc ấy chưa có ai trội tài thao lược, còn phải lo chiêu nạp thêm người để chờ thời phát lệnh. Thường có câu “vua giỏi thì sẽ gặp được tướng tài”, sẽ có lúc con rồng nằm dưới ao gặp làn mây luồng gió tự nhiên kéo đến bốc lên cao.

Trước đó ở xã Trường Yên thuộc động Hoa Lư, nước Cồ Việt ta có một gia đình, ông chồng là Lê Lộc 黎 祿, cưới vợ người cùng xã là Cao Thị Khương 高 氏 姜 , sinh được một con trai đặt tên là Lê Hiền 黎 賢. Gặp thời cảnh nhà túng thiếu, hàng ngày không đủ ăn, vì mất mùa xảy ra nhiều năm, dân làng đều đói khổ, ở vùng phủ Trường Yên cũng luôn luôn xảy ra trộm cướp... Ông Lê Lộc tự than phiền: “Đói nghèo đến thế, lại gặp buổi loạn ly, biết lấy gì tồn tại ở đây được? Chẳng bằng đi tìm đất khác lương thiện yên ổn mà giữ lấy thân còn hơn”. Thế rồi ông đem vợ con, gom góp gia tài, đi tìm cảnh sống. Khi đến xã Bảo Thái huyện Thanh Liêm phủ Lý Nhân đạo Sơn Nam, ông thấy địa thế ở đó là nơi sơn thủy hữu tình, núi dẫu cao nhưng chất vàng tươi, nước dẫu trong nhưng lắm khe ngòi. Tuy vậy dân làng cũng đủ no, phong tục thuần phác, có thể làm nơi an cư được. Vì thế ông tìm vào làng, có lời thưa với các cụ phụ lão xin được cư trú, được các già làng vui vẻ cho ở. Ông bèn dựng một ngôi nhà nhỏ bên sườn núi.

Cũng có thuyết kể rằng: Từ khi ông Lê Lộc đến ở, ông tự gọi mình là ngư phủ làm nghề đánh cá. Ông kết đăng tre, kéo vó, đặt đó khắp vùng ruộng từ trên xã ứng Liêm xuống đến dòng khe của xóm ông ở, hễ nơi nào tìm được cá là ông đánh. Lúc ấy ở đó có một con hổ hàng ngày qua lại cạnh nhà ông, như có ý muốn làm quen với người, ông liền nuôi nó như con nuôi. Từ đó con hổ biết dựa vào người không dám làm hại, đối với vật cũng không hại các vật, ông bèn đặt tên cho hổ là hổ Sơn Trường 山 長. Một hôm mưa to gió lớn, ông Lộc đặt đó ở chỗ dòng nước xiết, sai Sơn Trường ngồi canh giữ. Đêm ấy đến khoảng giờ Tý, ông thay quần áo giả làm người khác đến chỗ đơm đó, liền bị hổ Sơn Trường vồ cắn chết. Khi hổ nhận ra đó là cha nuôi, nó đưa xác ông táng ở phía bắc núi Bảo Thái, rồi cúi đầu quặp đuôi chạy biến. Con ông Lộc là Lê Hiền vô cùng thương xót bố. Sau ba năm mãn tang lo trọn đạo hiếu, Lê Hiền trở về quê cũ (tức là xã Trường Yên Thượng), lấy vợ người làng Trường Yên Hạ là Đặng Thị Khiết 鄧 氏 潔, vợ chồng chăm lo làm việc thiện, nhân dân địa phương ai cũng khen ngợi rằng: “Nhà này ăn ở nhân đức tất gặp được phúc lành”. Bấy giờ ông Hiền đã ngoài sáu mươi tuổi, vợ là bà Đặng Thị Khiết cũng đã ngoài bốn mươi. Một hôm bà chiêm bao thấy mình ôm mặt trời ngồi trên lưng rồng bay từ trên trời xuống, từ đó bà có thai. Bà sinh được một trai, mặt mũi khôi ngô, phong thái tuấn tú. Hai cha mẹ đều mừng sinh được con, cho đó là nhờ hồng phúc của trời đất, xin được đặt tên cho con là Hoàn 桓. Ngày qua tháng lại, khi Hoàn đến bảy tuổi thì gia đình gặp phen bất hạnh, tai biến khôn lường: ông Lê Hiền mất, rồi bà Đặng phu nhân cũng mất, phải lo lắng việc gia đường hương hỏa, thờ cúng cha mẹ đúng như lễ nghi. Nên từ đó gia tài khánh kiệt, Hoàn phải sớm chiều làm mướn, cuộc sống một nắng mười sương, nhà cửa tiêu điều, vườn không rau cỏ... Hoàn phải nương tựa vào người bản châu, xin làm con nuôi viên quan Sát sứ cũng người họ Lê. Năm Hoàn mười một tuổi, được học với thầy, chẳng những quán triệt được văn chương, mà còn tinh thông cả võ nghệ; hiểu được đạo Khổng Mạnh qua bốn sách năm kinh, nắm được mưu lược của Tôn Ngô qua ba tập truyện bốn bài khóa, bạn bè cùng lứa không ai là không kính phục.

Đến năm mười sáu tuổi, Hoàn nhớ lại lời di chúc (cho biết mộ của ông nội táng ở núi Bảo Thái) liền tìm đến thăm mộ ông ở xã Bảo Thái đạo Sơn Nam. Sau đó, dân xã Bảo Thái dựng lên một tòa nhà gianh vào chỗ thời xưa cụ Lộc ở, khẩn khoản mời Hoàn ở lại đó, dạy dỗ cho trẻ trong xã. Hoàn ở đó một thời gian thì nghe tin ở động Hoa Lư có Đinh Bộ Lĩnh tổ chức nghĩa quân nổi dậy rất lớn. Thế là ông nổi chí tang bồng, động lòng hồ thỉ, liền hăng hái vác gậy đi theo. Ông cùng Đinh Bộ Lĩnh và các tướng lĩnh hợp sức chung lòng, đánh tây dẹp đông, chẳng bao lâu thì loạn mười hai sứ quân đều bị dẹp tắt, đất nước lại được đại định. ở động Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, được tôn hiệu là Đại Thắng Minh hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lập kinh đô ở thành Hoa Lư. Xét công lao phong chức tước cho các công thần tướng sĩ, phong cho Lê Hoàn người cùng quê chức Thập đạo tướng quân kiêm làm chức Phụ chính, ông bái mệnh lạy tạ trước mặt vua và xin được về nhà thăm viếng phần mộ tổ tiên, vua y cho.

Lê Hoàn sắp xếp xe ngựa, trở về hai xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, đến từ đường cúng tế tổ tiên. Sau đó, lại về xã Bảo Thái đạo Sơn Nam mở tiệc mừng (lễ ở mộ cụ Lộc), nhân dân cả xã đều kéo đến làm lễ chào mừng. Dân lại lập một sinh từ, xin thờ sống quan Thập đạo Lê Hoàn ở chỗ trường xưa ông ngồi dạy trẻ. Ông cảm động ban cho dân làng một tráp vàng để dân tạo ruộng hồ, gây nguồn lợi cho nhu phí hương nến, tế tự ngày sau.

Sau đó ông trở lại triều đình, vua tôi hòa hiệp, thiên hạ thái bình, muôn dân đang sống yên vui, bốn biển thanh bình, thịnh trị. Thời gian thấm thoắt được mấy năm bỗng một đêm vua Đinh bị ngộ sát, triều đình lâm họa, cử Đinh Toàn nối ngôi thay cũng chẳng ăn thua.

Thế rồi giặc Tống kéo sang xâm lược, Dương hậu liền sai ông lo việc dẹp giặc và lấy áo bào khoác cho ông, khuyên ông lên ngôi, gọi là Hoàng đế Lê Đại Hành (Hoàng đế Lê Hoàn, người động Hoa Lư, thời ấy thuộc ái Châu, cha là Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết đều chết sớm, ông được quan Sát sứ người cùng họ nuôi làm con. Hoàng đế ở ngôi được hai mươi bốn năm, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi(1). Khi vua mất, con là Long Việt được lập làm Trung Tông hoàng đế).

Vua chỉ kịp làm một việc: truy phong cha là Đại Hành hoàng đế, sắc chỉ xuống khắp mười đạo, cho dân lập đền thờ Lê Đại Hành. Bấy giờ nhân dân Bảo Thái cũng đến kinh thành Hoa Lư, rước sắc về dựng đền, ghi thần hiệu để thờ cúng.

Trung Tông làm vua chỉ được mấy ngày, thọ hai mươi ba tuổi, vì bị em là Lê Long Đĩnh giết để tự làm vua. Dưới thời Ngọa Triều dân lao dịch vất vả, sưu thuế nặng nề, Vua lại thích giết chóc, thích hình phạt, thích rượu chè, gái đẹp, cho nên bị bệnh trĩ, phải nằm coi chầu dân gọi là Ngọa Triều hoàng đế. Ngọa Triều ở ngôi có bốn năm, thọ được hai mươi bốn tuổi, gây nên vận trời đen tối, làm cho thế nước suy vong. (Ôi! Trời sinh ra dân tất cho thời vận hưng khởi, tất báo điềm lành cho biết: “Hoa Lê sẽ rụng, hạt mận kết thành”. Thế rồi ngôi nước lại chuyển sang họ Lý, mở đầu là Lý Công Uẩn(2).

Từ đó họ Lý nắm được quốc quyền, suy tôn vua Đinh, vua Lê là những vua đầu có công sáng nghiệp, đặt nền tảng độc lập thống nhất cho nước Đại Cồ Việt. Vua Lý lại suy tôn ba hoàng đế triều Tiền Lê, truyền cho dân xã Bảo Thái phải rước sắc văn về, xây đền thờ phụng(3). Từ đó về sau, quốc dân cầu khẩn gì cũng được các Đế linh ứng phù hộ. Do vậy, qua triều đại này đến triều đại khác đều bao phong mỹ tự cho các đại vương bậc Thượng thượng đẳng thần, hưởng hương lửa tế tự ức vạn năm, cùng ban phúc chung cho cả nước. Đó là nghi thức lưu truyền vĩnh hằng của nước Việt ta.

- Tôn phong Lê Đại Hành hoàng đế.

- Tôn phong Lê Trung Tông hoàng đế.

- Tôn phong Lê Ngọa Triều hoàng đế.

Chuẩn y cho xã Bảo Thái thờ chung ba vị Hoàng đế kể trên.

Vâng mệnh khai rõ ngày sinh ngày mất và việc kiêng tên húy các đế như sau:

- Ngày sinh của hoàng đế Lê Đại Hành là ngày 15 tháng 7 (lễ tế dùng ba cỗ chay, các thứ xôi lợn rượu... tổ chức ba ngày ca hát).

- Ngày sinh hoàng đế Lê Trung Tông là ngày 8 tháng 3 (lễ dâng ba cỗ chay, xôi lợn rượu... ba ngày ca hát).

- Ngày sinh hoàng đế Ngọa Triều là ngày 15 tháng 2 (lễ dâng ba cỗ chay, xôi lợn rượu...)

- Ngày mất của hoàng đế Lê Đại Hành là ngày 6 tháng 3 (lễ dâng ba cỗ chay, xôi lợn rượu... cấm ca hát).

- Ngày mất của hoàng đế Trung Tông là ngày 15 tháng 8 (lễ dâng ba cỗ chay, xôi lợn rượu... không được ca hát).

- Ngày mất của hoàng đế Lê Ngọa Triều là ngày 21 tháng 11 (lễ dâng ba cỗ chay, xôi lợn rượu... cấm ca hát).

Hàng năm có lễ quốc tế tại đây vào mùa xuân, mùa thu. Kính cẩn ghi những chữ húy nhất thiết phải kiêng:

- Tên húy của Đại Hành hoàng đế là Hoàn

- Tên húy của Trung Tông hoàng đế là Việt

- Tên húy của Ngọa Triều hoàng đế là Đĩnh.

Ba chữ húy trên, khi đọc thì phải đọc nhỏ.

Năm đầu hoàng hiệu Hồng Phúc (1572), tháng 10 ngày tốt.

- Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn (ngọc phả).

Triều Lê niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, ngày 18 tháng 10 (tức ngày tháng 11 năm 1736).

- Quản giám bách thần tri điện, Hùng Lĩnh thiếu khanh (thần)

Nguyễn Hiền vâng mệnh viết (4).

T.B.C

CHÚ THÍCH

(1) Nay đọc lại các bản Ngọc phả thời xưa mới rõ quê gốc của Lê Hoàn là ở động Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, sớm theo Đinh Bộ Lĩnh làm đến Thập đạo tướng quân. Đến năm 980, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, kéo sang xâm lược nước Đại Cồ Việt, thì Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế lãnh đạo cuộc kháng chiến lớn, đánh tan 4 đạo quân thủy bộ của nhà tống, bảo vệ an toàn nước Đại Cồ Việt độc lập tự do.

2. Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư “Lý Vạn Hạnh vào hầu vua Lê ở thành Hoa Lư,. Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua lại gả con gái cả là Lê Thị... sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích mới được trao. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.

(3) Đền chính ở Bảo Thái thờ chính cả ba vị là Đại Hành, Trung Tông, Ngọa Triều. Còn đền ở thôn Yên Lãng, xã Văn Tự chỉ thờ chính hai vua con và thờ vọng vua cha (Lê Hoàn).

(4) Nội dung bài viết này đúng như thần tích gốc có ở đền Hoa Lư, đền thờ các vua Lê ở Bảo Thái, ở Liễu Đôi và ở thôn Yên Lãng, xã Văn Tự phủ Thường Tín./.

TB

VỀ BÀI BIỂU VĂN BẰNG CHỮ NÔM
ĐẦU ĐỜI NGUYỄN

TRẦN THỊ GIÁNG HOA

Văn Nôm biền ngẫu là thể loại văn được sử dụng khá phổ biến, các loại thường gặp là phú văn, tế văn, hịch văn, mục lục văn v.v… Ngoài ra còn thể loại chế, biểu rất ít gặp. Gần đây chúng tôi tìm thấy bài biểu văn bằng chữ Nôm xuất hiện vào khoảng đầu thời Nguyễn. Đó là Thanh Hoa xứ Hà Công Thái dữ thổ tù cẩn đẳng thượng ngôn (Hà Công Thái cùng các Thổ tù xứ Thanh Hoa kính cẩn dâng lời lên Hoàng thượng). Đây là một trong số ít bài biểu bằng chữ Nôm được biết, vì vậy chúng tôi giới thiệu tác giả và nội dung văn bản này.

1. Tác giả: Bài biểu Thanh Hoa xứ Hà Công Thái dữ thổ tù cẩn đẳng thượng ngôn được chép trong sách Thiên triều sắc phong, ký hiệu A.337, hiện lưu giữ tại kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Về hình thức, bài biểu này tuân thủ thể cách của văn biền ngẫu, có từng cặp đối nhau, ý tứ sâu sắc, vần điệu nhịp nhàng. Thông thường các bài biểu văn được viết bằng chữ Hán, nhưng bài văn này viết bằng chữ Nôm kết hợp nhuần nhuyễn với thể loại văn học Hán.

Về nội dung, biểu văn chúc mừng nhà vua hoàn thành công nghiệp thống nhất đất nước. Căn cứ theo đầu bài có thể biết được tác giả là Hà Công Thái, Thổ tù xứ Thanh Hoa, ngoài ra không thấy ghi chép gì hơn. Do vậy chúng tôi mở rộng tìm thêm cứ liệu, thì thấy hai tư liệu ghi chép về Hà Công Thái.

Một là, sách Mộc lang kỳ vũ chúc tịnh bản triều sự lược, ký hiệu A.1102, có ghi chép về Thống lĩnh Hà Công Thái như sau: "Ông là người miền Thượng đạo xứ Thanh Hoa. Vào cuối thời Lê, đất nước gặp cơn biến loạn, Thái triệu tập binh sĩ chiếm cứ miền Thượng đạo Thanh Hoa, tự xưng là Thống lĩnh. Sau cùng với thổ mục của một vùng đất rộng lớn là Nguyễn Đình Ba triệu tập dân của các man, sách chống lại quân Tây Sơn. Năm Giáp Dần, sai người đến Gia Định, phụng chiếu đem tài vật đến nộp, được giao cho chức Thống lĩnh quân các đạo Nghệ An, Thanh Hoa. Theo lệnh chiêu tập nghĩa dũng, chuẩn bị tiếp ứng quân đội của nhà vua. Nhận mệnh quay về, Thái liên kết binh sĩ và hào mục hai xứ Thanh Nghệ chống lại quân Tây Sơn. Năm Nhâm Tuất, giặc tan, phụng mệnh coi việc miền thượng đạo. Sau bị bọn đạo tặc sát hại."

Hai là, sách Đại Nam thực lục cũng thấy ghi chép đến nhân vật này:

“Tháng 2 năm Giáp Dần, năm thứ 15 (1794), Thống lĩnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái sai người dâng biểu xin theo” (trang 306, tập I).

“Tháng 4, năm Canh Thân, năm thứ 21 (1800), phiên thần Thanh Hoa là Khâm sai chánh thống lãnh quận công Hà Công Thái sai người dâng biểu, xin tập hợp bọn thổ tù và sửa sang binh khí để theo bọn Thượng đạo Tướng quân Nguyễn Văn Thụy đi đánh giặc” (trang 444, tập I).

“Tháng 9, năm Gia Long thứ 1 (1802), [Vua] ban quan tước cho các thổ tù ở Bắc Hà. Vua cho rằng Thống lĩnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái tập hợp các thổ mục ứng nghĩa có công nên phong cho tước Quận công” (trang 526, tập I).

“Mùa xuân, năm Ất Sửu, niên hiệu Gia Long thứ 4 (1805), Thống lĩnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái vào chầu. Vua cho một bộ mũ áo, 100 quan tiền. Khi về lại ban áo quần cho bộ thuộc theo thứ bậc khác nhau” (trang 623, tập I).

Những cứ liệu lịch sử trên đều xác nhận, Hà Công Thái là Thống lĩnh miền thượng đạo xứ Thanh Hoa, từng giúp vua Gia Long chống lại quân Tây Sơn, có công được triều đình ban thưởng.

Lại dựa vào những dữ liệu lịch sử trong bài biểu văn này cho biết, nước ta thời bấy giờ được chia thành 16 đạo; gọi quân Tây Sơn là Tây tặc và 17 năm chiến tranh của Nguyễn ánh; đất Thanh Hóa vẫn gọi là xứ Thanh Hoa vì chưa kiêng húy chữ Hoa (năm Thiệu Trị thứ 3 [1843] mới đổi thành Thanh Hóa); cộng với cách xưng hô khiêm tốn của tác giả "Chúng tôi: lạm hàng ngoại phục; nhờ đức tiên triều. Chốn cốc nhai từng xa lánh giáo thanh; mây mường lĩnh những trông chừng vạn lý…". Vì vậy, chúng tôi đoán định bài văn này được viết vào khoảng đầu thời Nguyễn và tác giả chính là Hà Công Thái - nhân vật lịch sử được nhắc đến trong Đại Nam thực lục.

Có lẽ từ trước đến nay, mọi người mới chỉ biết đến Hà Công Thái là một vị Thống lĩnh có tài thao lược, từng giúp vua Gia Long thống nhất đất nước, nhưng chưa biết đến ông còn có một bài văn viết bằng chữ Nôm lời lẽ thống thiết, có thể xếp ông vào tác gia Hán Nôm. Do vậy chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài biểu này:

2. Nội dung văn bản:

Phiên âm:

THANH HOA XỨ HÀ CÔNG THÁI DỮ THỔ TÙ ĐẲNG CẨN THƯỢNG NGÔN
Nay mừng thấy:
Vận mở thái hanh;
Đời sinh duệ thánh.
Trăm trận vẹn công nhảy ngựa;
Bốn phương trông tượng bay rồng.
Chúng tôi:
Thành hoảng thành hoài(1), cẩn phụng biểu văn khuyến tiến giả(2).
Kính mặc:
Nửa ngàn năm mở mặt càn khôn, điềm quy dữ(3) đã rõ ngôi chân mệnh;
Mười sáu đạo(4) nương vừng nhật nguyệt; nghĩa tôn thân(5) nào rẽ chốn hà xu(6).
Bệ giáp cao xa;
Lòng quỳ nhỏ bé.
Chúng tôi trộm nghĩ rằng:
Trời sinh vật đặng một người xuống trị, vậy xưa nay đà có đấng quân sư(7);
Thánh ra đời cho muôn nước đều yên, thời đâu đó cũng là trong thần thiếp(8).
Danh phận vốn từ xưa đã định;
Lý số xin lấy trước mà suy.
Hạ Thiếu Khang(9) gây có lữ thành, trừ Nghệ Trạc lại nối ngôi An ấp;
Hán Quang Vũ(10) dậy từ Mẫu khuyển, diệt Mãng lang rồi xây bệ Cảo Kinh.
Xưa từng nghe câu “bất phế hà hưng” (11);
Nay trộm nghĩ thế “cửu phân tất hợp”(12);
Vâng nhà nước:
Gây nền nhân hậu;
Nhờ sức thánh thần.
Nghĩa phù Lê, sáng khắp dặm thiên, muôn thu để thư ghi khoán tạc(13);
Công diệt Mạc, chia từ Lệ Hải(14), ngàn dặm gây nước gấm non thêu.
Năm hai trăm vầy một cõi Mân Kỳ(15);
Triều bảy tám chia nửa trời Ngưu Đẩu(16).
Từ Tây tặc(17) một loài trong suất thổ(18), dòm thấy khi gặp bước dám can thường;
Nhân Bắc Hà(19) nhiều nỗi chốn tiêu tường(20), vin được đá vẻ đường thêm tứ ngược(21).
Cá ao cạn dễ tìm đường ẩn lại;
Lúa ruộng khô nào biết nẻo trông nghê(22).
Có kẻ nương lấy bóng ẩn tinh(23), thời khói vẩn mây mờ ra mấy độ.
Có kẻ mượn lấy cành kỳ mộc(24), cùng mưa trôi gió bẻ đã nhiều phen.
Hào cửu tam(25) đà lộ lộ càn cung;
Chữ lục thất(26) hẳn rành rành thiên sấm(27).
Mừng nay:
Điềm trị gặp giữa hội lành;
Kính vui đức vương thượng.
Tài triếp bách vương;
Đức gồm tứ thánh.
Nghìn muôn dặm đoái giang sơn nước cũ, giả Cối Kê(28) từng giảng quyển Xuân Thu;
Mười bảy năm(29) từng trông thiên hạ nhà ai, xây hà nội(30) để thu đồ vương bá.
Gạo sơn cốc rõ ra hình tất thủ;
Than Quán Tầm bừng ra thế trùng viêm.
Buồm Lưu Phàn(31) tự lối gió sang nam, thổi ế vụ(32) sáng hương đèn chín miếu.
Cờ Linh Vũ(33) lại chỉ sao ra bắc, quét yêu phân(34) đàm chiếu đòi muôn phương.
Vũ công đã lừng khắp non sông;
Hiếu đức lại sáng thâu trời đất.
Miền u cốc cũng soi vừng ác tế, rửa hận xưa hoa cỏ khắp mừng xuân;
Chốn đào lâm đà thấy lũ trâu về, vầy hội mãi cõi bờ đều ngung cổ(35).
Dưới chín bệ rộng sân giản địch, mặt sô nghiêu(36) cùng dự đến dâng cần;
Ngoài tám man thông lối thê hàng, lòng phong nghị(37) dám xin vào dãi bạch.
Lời mạo độc những đau lòng lo sợ;
Tình chiêm y xin nhờ lượng xét soi.
Trong Xuân Kinh(38) là tôn xã dấu xưa, đã chính thủy để rạng nền chung hứ(39);
Ngoài Long Đỗ(40) vốn đế vương cảo trước, xin tiến tôn cho rạng bóng miện lưu.
Vương vu thiên, vâng biệt nghĩa bút hoa;
Đế kỳ quốc, dám nghe lời đỉnh nguyệt.
Lấy thiên hạ trong lòng dân tay ngụy, công nghiệp ví Đinh Lê Trần Lý đã đâu hơn;
Chung xa thư(41) tự mặt nước chân trời, phong vực dẫu Triệu Lạc Hùng Bàng là chửa có.
Vâng thấy đức khiêm quang thường rỡ rỡ;
Thể giữ lòng đoái duyệt những chăn chăn.
Vả ngày nay mở mối gây giềng, chính đại quang minh để mới mặt lạ nghe tai cho thỏa ý.
Với những kẻ theo mây ruổi gió, cù lao ưởng chưởng thuở vin vây vịn cánh mới cam lòng.
Duy ngàn năm rạng vẻ vĩnh thân;
Khắp tám cõi hay điềm hồi ngọ.
Chúng tôi:
Lạm hàng ngoại phục;
Nhờ đức tiên triều.
Chốn cốc nhai từng xa lắng giáo thanh;
Mây mường lĩnh những trông chừng vạn lý.
Sân ngọc bạch lạm gần dòm nghi trượng;
Lầu thuận thiên mừng gặp hội nhất gia.
Chúng tôi bất thăng.

T.T.G.H

CHÚ THÍCH:

(1) Thành hoảng thành hoài: run sợ cúi đầu.

(2) Khuyến tiến giả: kính cẩn soạn văn dâng lên.

(3) Quy dữ: (mệnh trời) ban cho và lấy đi. ý cả câu nói 500 năm trời sẽ ban mệnh cho thánh nhân.

(4) Mười sáu đạo: triều Nguyễn về cơ bản vẫn duy trì cách phân chia địa lý hành chính của nhà Lê, khi đó nước ta được chia thành 13 đạo (trấn), đời Nguyễn mở thêm về phương Nam gồm ba trấn.

(5) Tôn thân: những người tôn quý cùng trong dòng họ với vua.

(6) Hà xu: nơi biên viễn xa xôi.

(7) Thần thiếp: thần là bề tôi, thiếp là nàng hầu trong nhà, ở đây có ý chỉ những người dưới quyền.

(8) Quân sư: bài Tựa sách Đại học có đoạn: "Nhất hữu thông minh duệ trí năng tận kỳ tính giả, xuất ư kỳ gian, tắc thiên tất mệnh chi dĩ vi ức triệu chi quân sư." (Người thông minh sáng suốt có thể biết rõ được tính trời ban cho, sinh ra trên thế gian, trời nhất định giao cho làm bậc quân sư của triệu triệu người). Chữ "quân sư" này được dùng với ý là người bề tôi giỏi giúp dẫn dắt muôn người.

(9) Hạ Thiếu Khang: con vua Tướng nhà Hạ, là cháu bảy đời của vua Hạ Vũ. Khi trưởng thành, ông cùng với cựu thần là Mỵ hợp lục diệt Trạc, khôi phục triều đại nhà Hạ.

(10) Hán Quang Vũ: tên là Lưu Tú, cháu chín đời của Hán Cao Tổ. Ông dẹp xong loạn Vương Mãng, đến năm Canh Thủy thứ 3 lên ngôi định đô tại Lạc Dương, lập nên nhà Đông Hán.

(11) Bất phế hà hưng: không có cái cũ sụp đổ thì không có cái mới hình thành.

(12) Cửu phân tất hợp: tình thế phân chia lâu ngày rồi sẽ hợp lại.

(13) Thư ghi khoán tạc: Hán Cao Tổ lập cái khoán bằng sắt, tạc chữ son cam kết phong đất cho các công thần, dẫu cho Thái Sơn mỏng như đá mài, Hoàng Hà cạn chỉ bằng dải lưng thì triều đình vẫn không quên công lao của các công thần.

(14) Lệ Hải: có lẽ ở đây chỉ sông Nhật Lệ.

(15) Mân Kỳ: tức Mân ấp và Kỳ Sơn là nơi phát tích của nhà Chu.

(16) Ngưu Đẩu: là hai ngôi sao nằm ở phận vị phương Bắc, vì thế cho nên người ta thường dùng hai chữ này chỉ Bắc quốc (tức Trung Quốc).

(17) Tây tặc: ý chỉ quân Tây Sơn.

(18) Suất thổ: lấy ý từ câu Suất thổ chi tâm, ý nói khắp mọi nơi trong đất nước này.

(19) Bắc Hà: được tính từ bờ bắc sông Gianh trở ra.

(20) Tiêu tường: nơi chốn thân cận, liền kề, trong nội bộ dòng tộc.

(21) Tứ ngược: thả sức làm những điều bạo ngược không tuân theo phép tắc.

(22) Trông nghê: trông mưa.

(23) ẩn tinh: tinh tú còn ẩn náu, ý nói chưa phát tích.

(24) Kỳ mộc: cây mộc khác, ý nói họ Lê khác thay thế (trong lời sấm).

(25) Hào cửu tam: ở đây chỉ hào cửu tam trong quẻ Càn - Kinh Dịch, là hào đắc chính lại đắc trung, tượng cho người sắp lên ngôi cao nhất.

(26) Lục thất: trong vòng bảy tám năm nữa, ý chỉ thời gian quý.

(27) Thiên sấm: lời tiên đoán về sự tốt, xấu.

(28) Cối Kê: tên núi, nằm ở phía Đông nam huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, tương truyền vua Hạ Vũ hội chư hầu ở đây.

(29) Mười bảy năm: chỉ khoảng thời gian từ năm 1776 khi Nguyễn ánh nổi dậy chống lại quân Tây Sơn.

(30) Hà nội: ý nói đến non sông đất nước, không phải địa danh Hà Nội.

(31) Lưu Phàn: tức Lưu Bang và Phàn Khoái. Phàn Khoái vốn làm nghề thịt chó, sau theo Lưu Bang khởi nghĩa. Trong bữa tiệc Hồng Môn, Hạng Vũ có ý giết Lưu Bang nhưng Phàn Khoái đã ngăn chặn được. Về sau do có công lớn nên được phong Vũ Dương hầu.

(32) Ế vụ: mây mù.

(33) Linh Vũ: tức Hán Quang Vũ và Đặng Vũ. Đặng Vũ là người Tân Dã, sống thời Đông Hán, tự Trọng Hoa. Khi nhỏ đến Trường An học, kết giao thân thiết với Hán Quang Vũ. Quang Vũ khởi binh đến phía bắc sông Hoàng Hà, Đặng Vũ đem sách lược đến phò giúp. Khi Tú xưng đế, bái Đặng Vũ làm Đại Tư đồ, phong làm Tán hầu.

(34) Yêu phân: yêu quái.

(35) Ngung cổ: ngóng trông.

(36) Sô nghiêu: chỉ người cắt cỏ và người kiếm củi.

(37) Phong nghị: những lời ong tiếng ve, về sau dùng chữ này để chỉ những lời nói dèm pha.

(38) Xuân Kinh: chỉ kinh đô Phú Xuân.

(39) Chung hứ: chưa rõ nghĩa ?

(40) Long Đỗ: chỉ thành Hà Nội.

(41) Chung xa thư: lấy chữ từ câu "Xa đồng quỹ thư đồng văn" (nghĩa là: xe cộ có cùng một trục, sách vở dùng cùng một lối văn tự). ở đây chỉ sự thống nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Từ Nguyên, bản hợp đính, Nxb. Thương vụ ấn thư quán, 1998.

2. Mộc lang kỳ vũ chúc tịnh bản triều sự lược, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1102.

3. Đại Nam thực lục, tập I, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục, H. 2002.

4. Điển nghĩa văn học Nôm Việt Nam, Nguyễn Thạch Giang, Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2002.

5. Phú Việt Nam cổ và kim, Phong Châu, Nguyễn Văn Phú giới thiệu, sưu tầm và chú thích, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2002.

6. Từ điển từ Việt cổ, Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2001.

TB

CHỮ HÁN TRÊN TRÁP GỖ Ở BẢO TÀNG XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH

BÙI CÔNG CHẤT

Tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh hiện đang trưng bày chiếc tráp gỗ của ông Nguyễn Đình Huân, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, năm 1930, ở chi bộ Sơn Hà, làng Kim Liên, Nam Đàn. Ông bị địch bắt giam và hy sinh vào năm 1931, vì đòn tra tấn dã man của chúng(1).

Ở phía dưới đáy chiếc tráp có khắc 5 dòng chữ Hán, mỗi dòng 5 chữ, phần lớn viết theo giản thể. Chữ chân phương, nét sắc sảo, khắc trên ván mỏng (xem ảnh).

Điều đáng lưu ý của 5 dòng chữ ấy là mỗi dòng đi theo một bộ.

Theo cách đọc chữ Hán cổ, từ bên phải sang, dòng thứ nhất, bộ thủy (); dòng thứ 2, bộ thảo (艸); dòng thứ ba, bộ ngọc (玉); dòng thứ 4, bộ sơn (山); dòng thứ 5, bộ miên ().

Có lẽ là một thú chơi chữ của các thầy đồ Nghệ, tương tự trong dân gian truyền tụng những câu lục bát cùng một phụ âm:

“Chết chống chơi chốn chùa chiền
Chanh chua, chuối chát chính chuyên chờ chồng”

Chưa có thể hiểu được một cách đầy đủ ý nghĩa của 25 con chữ khắc nói trên, bởi còn ngờ rằng, đó vốn là một tấm ván có chữ đã được xẻ ra làm ván đáy. Nếu vậy, nguyên trước có thể là một bài thơ 8 câu 7 chữ (Thất ngôn bát cú) như ta thường thấy.

Nhưng nếu đúng như lời của gia chủ chiếc tráp: “Ông Nguyễn Đình Huân vốn là nhà Nho, đã tự khắc bài thơ ấy để biểu lộ lòng mình” thì phải suy mà đọc, bởi có một số chữ thiếu nét hoặc không có trong bộ đó.

1. 泃 江

2. 艾 芼 芝 菈 () ...

3. (珪)... (瑋) 玥 (月)

4. 岦 ()... (岌)... 岑 ()

5. 定 完 宇 宙 字

Phiên âm:

1. Câu, giang trừng dư huyên

2. Ngải, mao, chi lị bật

3. Phác, đinh, khuê, vĩ nguyệt

4. Lập ngật cập sầm anh

5. Định hoàn vũ trụ tự

Với nghĩa như sau:

1. Sông, ngòi, bãi mênh mông

2. Các loại cỏ: Ngải, mao, chi... thơm nồng

3. Các loại ngọc quý; Phác, đinh, khuê, vĩ... lung linh ánh trăng

4. Núi dựng cao trông ngất trời

5. Những chữ trên (cảnh tượng trên) đều trong vòng vũ trụ.

Tạm dịch:

Vô đề

1. Sông nước bãi mênh mông

2. Cây cỏ hoa thơm nồng

3. Ngọc sao khuê ánh nguyệt

4. Núi dựng ngất trời, trông

5. Chữ trong vòng vũ trụ

6. Sông nước bãi mênh mông (lặp lại câu 1).

Vì những sự khác lạ của bài thơ chữ Hán, nên chúng tôi giới thiệu bước đầu, những mong độc giả và nhà nghiên cứu quan tâm chỉ giáo.

B.V.C

CHÚ THÍCH:

(1) Hiện vật do Nguyễn Hồng Vân, nữ chuyên viên Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh sưu tầm, 1993.