TB

CẦN KHẨN TRƯƠNG KHÔI PHỤC VIỆC DẠY CHỮ HÁN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM

NGUYỄN ĐÌNH CHÚ

1. Chữ Hán là của Trung Hoa, chữ Hán được du nhập vào Việt Nam cùng với cuộc xâm lăng của nhà Hán đối với Việt Nam ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Con đường đến với Việt Nam của chữ Hán không quang minh chính đại, nhưng thực tế chữ Hán cũng đã thành một thứ văn tự từng có vai trò tiên phong khai mở, phát triển văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Thử nghĩ, trong quá khứ dằng dặc hơn ngàn năm từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ thứ XIII tính đến khi Việt Nam bắt đầu có chữ Nôm, nếu không có chữ Hán vào thì văn hóa Việt Nam, văn học viết Việt Nam có gì để con cháu hôm nay khám phá, biểu dương, tự hào, và không có chữ Hán thì làm gì có chữ Nôm. ở đây, cần thấy rằng chữ Hán đã đến với Việt Nam theo hai (chứ không phải một) quan hệ: quan hệ với cuộc xâm lăng nhà Hán và sau đó còn gắn bó với các cuộc xâm lăng tiếp theo của cả triều đại phong kiến Trung Hoa trên đất nước ta; nhưng còn có quan hệ thuộc quy luật tự thân của văn hóa, trong đó có sự lan toả ảnh hưởng, cũng có thể nói là sức nâng đỡ của một nền văn hóa lớn với các nền văn hóa bé trong phạm vi một khu vực - mà quan hệ này là điều tất yếu và cần thiết. Chẳng phải vì thế mà nhiều người đã cho rằng chữ Hán là của Trung Hoa, nhưng chữ Hán cũng là của khu vực trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, …

2. Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. ở thời Bắc thuộc, nó đã phát triển đủ để lưu lại cho ngày nay một số trước tác, dịch phẩm liên quan đến Phật học, một số thơ văn. Đến thời tự chủ, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, chữ Hán đã đóng vai trò công cụ hàng đầu của nền văn hóa văn học bác học của Việt Nam. Nó là văn tự chính trong các lãnh vực văn hóa Việt Nam: hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn học. Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng chữ Nôm vẫn lệ thuộc chữ Hán trên phương diện cấu tạo, và văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn át được văn hóa chữ Hán dưới thời đại phong kiến. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự đổi thay của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chế độ phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa phong kiến kéo theo tình trạng văn hóa phong kiến Việt Nam vốn mang tính chất khu vực bị thay thế bằng văn hóa tư sản, kế nữa là văn hóa vô sản vốn mang tính chất toàn cầu. Do đó chữ Hán cùng với nền Hán học cổ truyền không kém hào quang đã lâm vào cảnh tàn cuộc. Năm 1915, ở Bắc Kỳ bỏ thi chữ Hán sau lần thi cuối cùng. Năm 1918, ở Trung Kỳ cũng là khoa thi Hương chữ Hán cuối cùng. Khoa thi Hội cuối cùng là năm 1919. ở Nam Kỳ thì việc bỏ thi chữ Hán đã diễn ra ngay sau ngày bị mất vào tay thực dân Pháp. Sau khi bỏ thi cử chữ Hán, trong các nhà trường Pháp Việt, từ cấp học tiểu học bậc hai (lớp đệ nhất, lớp đệ nhị, lớp nhất) đến cấp học cao tiểu (primaire supérieur), vẫn có dạy chữ Hán (caractères chinois) mỗi tuần 2 tiết, trong cảnh “chơi đồ cổ” mà cả thầy lẫn trò nói chung chẳng ai muốn chơi nữa. Mặc dù không phải không có người sau này có một trình độ Hán học vốn lại nhờ chính những giờ khai tâm chữ Hán từ đó. Cũng cần nói thêm trước năm 1945, trong một số gia đình có truyền thống Hán học, các cụ vẫn dạy chữ Hán cho con cháu. Thậm chí, có nơi còn có trường học chữ Hán được mở trong một số gia đình mà học sinh không chỉ là con em của gia đình đó, mà còn là con em trong làng xã.

Sau cách mạng Tháng Tám, trong khu vực kháng chiến, ở bậc trung học cấp II (nay là trung học cơ sở THCS), tại nhiều trường vẫn học chữ Hán, mỗi tuần 3 tiết, nhưng sau đó thì bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có cải cách giáo dục thì chữ Hán ra rìa hoàn toàn. Sau này, ở phổ thông trung học (PTTH) có học Trung văn, là chữ Hán nhưng đọc theo âm Trung Quốc hiện đại, không phải là âm Hán cổ nữa; vả chăng giữa Hán cổ và Hán hiện đại, ngữ nghĩa, cú pháp cũng có sự khác nhau không ít. Có người giỏi Trung văn hiện đại mà vẫn hiểu sai văn Hán cổ, chính là vì lẽ đó.

3. Chuyện đã diễn ra trong quá khứ là vậy, nhưng suy nghĩ của con người, nhất là với các bậc thức giả, lại không bao giờ dừng một chỗ. Gần đây, trong dư luận xã hội, kể cả trên sách báo, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy lại chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Lý do đề xuất này chính bắt đầu từ chỗ biết rằng: trong kho từ vựng tiếng Việt, số lượng từ gốc Hán mà từ đó gọi là Hán Việt, chiếm hơn 70%. Cho nên bỏ học chữ Hán là dẫn đến tình trạng người Việt Nam hiện nay hiểu sai ngữ nghĩa tiếng Việt rất nhiều. Không riêng gì dân chúng, mà cả đến các nhà văn, các vị Tiến sĩ, Viện sĩ cũng không ít người hiểu sai từ Hán Việt. Có nhà thơ đã viết trên báo giải thích “ý tại ngôn ngoại” là “ý ở trong, lời ở ngoài” (trong khi nghĩa của nó là: ý nằm ngoài lời). Có Viện sĩ trong buổi nói chuyện tại Thư viện quốc gia đụng đến hai chữ “chiết tỏa” đã giải thích là “tỏa rộng ra” (!)… Chúng ta còn có thể kể ra nhiều dẫn chứng cho việc không biết chữ Hán nên đã hiểu sai, nói sai, viết sai tiếng Việt hiện đại. Và đó là lý do để đề xuất vấn đề: cần dạy chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông cơ sở và trung học Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, điều này cách đây mươi mười lăm năm, và gần đây, cũng đã có chút khởi động. Cụ thể: ở chương trình Văn - tiếng Việt bậc PTTH trước cuộc cải cách 1990 đã có 4 tiết học về từ Hán Việt (lớp 12). Riêng với chương trình Ngữ văn PTCS đang và sắp qua giai đoạn thí điểm thì đã có sự quan tâm về việc dạy từ Hán Việt ngay từ lớp 6 với hai hình thức: thứ nhất, đối với một số bài thơ chữ Hán (ví dụ Nam quốc sơn hà…), cùng với việc phiên âm, dịch nghĩa, có thêm việc giải thích từng từ Hán việt; thứ hai, quy định số lượng từ Hán Việt cần học một cách chính khóa là 50 cho các lớp 6, 7 và trên 50 cho các lớp 8, 9. Cuối các sách giáo khoa đều có bảng từ Hán Việt được học chính thức của từng năm.

4. Với ý thức muốn đưa chữ Hán và chút ít khởi động như trên, thiết tưởng đã đến lúc cần đặt vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay một cách thấu đáo, có bài bản, có chủ trương kế hoạch hẳn hoi. Nhưng, muốn làm được điều đó, lại trước hết cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc học chữ Hán là thế nào trong việc xây dựng nên văn hóa Việt Nam hiện đại và tương lai.

4.1. Hãy trở lại vấn đề bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ. Đúng là từ lâu rồi, hình như người Việt Nam ta đã thống nhất với quan niệm rằng: dù chữ Quốc ngữ không phải do người Việt Nam ta sáng tạo ra, mà đó là sản phẩm của các cố đạo phương Tây nhằm tạo công cụ truyền giáo, nhưng sau đó, dưới chế độ thực dân, người Việt Nam ta đã vượt qua thời kì không chấp nhận đi đến chấp nhận và coi đó là chữ viết của nước mình (Quốc ngữ), bởi nó có lợi ích rất lớn trong việc dân chủ hóa nền văn hóa Việt Nam so với chữ Hán ngày trước. Đó là quan niệm tưởng như không có điều gì phải bàn nữa. Tuy nhiên gần đây, nhà ngôn ngữ học có tên tuổi Cao Xuân Hạo lại có quan niệm gần như trái ngược, khi ông cho rằng việc nước ta bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là một điều mất mát lớn. Quan điểm này đã bị nhà báo Nguyễn Hoàng Sơn công kích khá quyết liệt trên tạp chí Văn nghệ quân đội (2003). Vậy chúng ta nên hiểu thế nào cho thỏa đáng trước sự kiện bỏ chữ Hán thay bằng chữ Quốc ngữ ?

Trước hết, phải thấy rằng: việc bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là hiện tượng xảy ra trong cuộc đụng độ giữa hai khu vực Đông Tây. Trong cuộc đụng độ này, có vấn đề liên quan đến chữ viết của khu vực phương Đông, trong đó có chuyện la tinh hóa hay không? Thực tế tại phương Đông, ở nước này nước khác, ít nhiều có chuyện la tinh hóa chữ viết, nhưng rút cục cho đến nay, không một nước nào đi theo con đường la tinh hóa chữ viết truyền thống của mình. Nhật Bản trước sau vẫn dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn với hai cách đọc: Hán âm (Kan - on) và Quốc âm (Go - on). Ví dụ: với chữ “sơn” 山, cách đọc Kan - on là “san”, còn Go - on là “yama”. Triều Tiên, Hàn Quốc trước sau vẫn dùng chữ viết của nước mình là Hangeul do vua Sejong phát minh vào thế kỷ XV, mà trước đó họ cũng dùng chữ Hán như người Việt Nam (Hán Hàn). Trung Quốc cũng có lúc muốn la tinh hóa nhưng rút cục đã thôi hẳn. Các nước khác trong khu vực từng dùng chữ Hán không đâu la tinh hóa. Chỉ một Việt Nam ta làm thế, để rồi được cái gì và không được cái gì ? ý kiến của ông Cao Xuân Hạo không phải là không có lý, mà điều này ngay từ năm 1918, ông chủ bút Nam Phong - Phạm Quỳnh - trong bài Chữ Nho với văn quốc ngữ có nói: “Chắc ngày nay Nho học đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời nữa. Nhưng cũ là về phần hình thức mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần, còn cái gốc đạo đức của Nho học thì cùng với núi sông mà sống mãi muôn đời. Ta nên bỏ là bỏ phần hình thức phiền toái, còn phần cốt cách tinh tuý phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên địa cầu là còn phải nhờ cái tinh thần cố hữu ấy mới sống được. Nhưng muốn giữ tinh thần ấy mà bỏ hẳn chữ Hán là biểu hiện của tinh thần ấy thì sao được”(1). Ngược thời gian lên cuối thế kỷ XIX, chúng ta còn thấy nhà duy tân tiên phong và lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều, trong khi chủ trương xây dựng chữ Quốc ngữ mới cho đất nước, đã không lấy chữ Quốc ngữ do các cố đạo phương Tây sáng tạo mà sau này cả nước dùng. Ông chủ trương lấy ngay chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Ví dụ: viết 飲 食 (ẩm thực) nhưng đọc là “ăn uống”. Đúng là chúng ta cần suy nghĩ trước hiện tượng Nguyễn Trường Tộ vốn là người theo đạo Thiên chúa lại đã được trực tiếp tiếp xúc với phương Tây, có tư tưởng duy tân rất mực cấp tiến, mà vẫn không chấp nhận chữ Quốc ngữ la tinh hóa, kể cả chữ Nôm mà ông cha ta đã xây dựng từ các thành tố của chữ Hán.

Đúng là chuyện bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ la tinh hóa là chuyện không đơn giản khi nghĩ đến cái được cái mất trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XX trở đi. Điều đã có thể nói và cần nói là: việc bỏ chữ Hán quả đã ít nhiều cắt đứt với văn hóa truyền thống ngàn năm trước đó. Có điều kiện so sánh Việt Nam ta với Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, trên phương diện đối với văn hóa truyền thống xưa, liên quan đến yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho muôn đời, hẳn là sẽ rõ vấn đề hơn.

4.2. Để rõ vấn đề hơn, thử so sánh chữ Hán và chữ Quốc ngữ la tinh hóa xem sao. Từ lâu, hình như tuyệt đại đa số người Việt Nam ta đều thấy chữ Quốc ngữ la tinh hóa tiện lợi hơn hẳn chữ Hán. Với chữ Hán, chỉ một thiểu số người Việt Nam chiếm lĩnh được. Học chữ Hán phải “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách). Trong khi với chữ Quốc ngữ, người sáng dạ chỉ dăm bữa là xong, người tối dạ cũng chỉ ba bốn tháng là được. Chữ Quốc ngữ đã giúp đất nước ta dân chủ hóa được nền văn hóa văn học. Mấy điều đó quả thật không thể chối cãi. Tuy nhiên, đã đến lúc phải so sánh chữ Quốc ngữ với chữ Hán một cách khoa học hơn, cặn kẽ hơn. Cũng lại nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài viết Chữ Tây và chữ Hán thứ chữ nào hơn ? (Bán nguyệt san Kiến thức ngày nay, 1989) đã cho ta biết: trên thế giới từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC - thứ chữ ghi âm - là hợp lý nhất, khoa học nhất. Nhưng từ những năm 30 của thế kỷ XX, sau những công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan điểm chữ viết ghi âm là “khoa học nhất” đã phải nhường chỗ cho quan điểm “tổ hợp âm” của chữ viết, nhất là từ thập niên 70 trở lại đây. Để chứng minh tính ưu việt của lối chữ viết “tổ hợp âm”, năm 1978, một nhóm ngữ học Mỹ đã làm thí nghiệm, mở một số lớp gồm trẻ em khuyết tật bị chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng học tiếng Anh nhưng đều được viết bằng chữ Hán. Ví dụ: câu “He came to a high mountain” được viết bằng chữ Hán là 他 到 及 一 高 山 (tha đáo cập nhất cao sơn), thì sau 1 năm, các em đọc và viết được 1600 từ đơn và về khả năng hấp thụ tri thức tỏ ra không đần độn chút nào. Thậm chí, kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC. Điều này có liên quan đến bộ não, trong đó với loại trẻ khuyết tật, công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích). Để chứng minh tính ưu việt của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và thấy rằng khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì khi nhận ra một vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt rồi mũi, rồi miệng, rồi tai...) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó. Tâm lý học hiện đại đã từ hiện tượng đó mà đưa ra khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là Gestalt. Cái gestalt càng gọn ghẽ (pregrant) thì việc nhận dạng “tức khắc” càng dễ dàng và tự nhiên. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn lối chữ ABC. Chính từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách nổi tiếng Le nouvean monde sinisé (Thế giới Hán hóa ngày nay) Léon Vandermeersch đã khẳng định sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore phát triển thành những “con rồng” được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán.

Riêng Cao Xuân Hạo lại còn từ kết quả nghiên cứu cấu trúc ngữ âm mà đi đến những kết luận khoa học có liên quan tới vấn đề đang nói ở đây. Theo Cao Xuân Hạo: “tiếng Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các thứ tiếng châu Âu” nên “âm vị học của phương Tây (vốn là nền tảng lý thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu và phân tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt, hay những thứ tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng “có sườn phụ âm” như tiếng Ả rập, tiếng Do Thái… Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các ngôn ngữ biến hình”. “Chữ viết ABC vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ” vốn thuộc loại hình “ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những “âm tố” có cương vị tương đương, trong khi các thứ tiếng châu Âu, chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ (âm vị) còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì ?”. Từ quan điểm trên đây, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng: “việc học chữ Hán không thể không được đưa vào chương trình trung học”. Ông còn cho biết thêm: “hiện nay, nhiều người trong đó có cả những nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc. Theo họ, đến lúc ấy, cái hàng rào ngôn ngữ (barrières linguistiques) xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc sẽ bị vô hiệu hóa và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay”. Điều dự báo này có thành hiện thực hay không ? Xin chờ thời gian. Chỉ biết rằng người ta xem ra rất đề cao chức năng của chữ Hán. Vậy người Việt Nam ta nghĩ gì trước dự báo đó ?

4.3. Chung quanh vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chủ trương coi trọng từ thuần Việt, hạn chế từ Hán Việt. Đây cũng là vấn đề có liên quan tới thái độ đối xử với chữ Hán mà tưởng như đã được giải quyết xong xuôi, đâu vào đấy, không còn gì phải bàn thêm. Nhưng thực ra, ở đây vẫn có những điều cần được tường minh hơn, nếu không sẽ bất lợi cho việc xây dựng phát triển tiếng Việt nói riêng, văn hóa Việt nói chung. Có hai vấn đề đáng nói:

4.3.1. Thế nào là từ thuần Việt ? và Hán Việt ? Từ thuần Việt theo quan niệm thông thường là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt) sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một tộc người khác. Nếu thế thì cũng khó nói đến từ thuần Việt theo định nghĩa đó. Bởi lẽ tiền thân của tiếng Việt hiện đại là tiếng Việt Mường, mà tiếng Việt Mường lại là một chi của tiếng Môn - Khmer. Tất nhiên ở đây cần phân biệt hai hiện trạng ngôn ngữ (état de langue): tiếng Việt - Mường khi còn là một chi của tiếng Môn - Khmer và tiếng Việt - Mường khi đã tách khỏi tiếng Môn - Khmer. Hiện trạng sau là “thuần Việt Mường”. Với từ gốc Hán thì phức tạp hơn, vì ở đây có liên quan tới cuộc xâm lăng nhà Hán và giữa Việt Nam với Trung Hoa luôn luôn vẫn là hai quốc gia khác nhau (trong đó chủ nghĩa Đại Hán lại thường xuyên lấn át, bắt nạt Việt Nam) do đó mà trong tâm lý người Việt Nam dễ có mặc cảm xa cách thậm chí đối lập với tiếng Hán. Nhưng về khách quan, theo quy luật giao lưu ngôn ngữ, thực tế tiếng Hán và cũng là chữ Hán đã gia nhập kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với cái tên là Hán Việt. Hán Việt không phải là Hán hoàn toàn, Hán Việt là của Việt. Nó chiếm hơn 70% vốn từ tiếng Việt như ta đã biết. Sao lại cứ phải kì thị với nó, thậm chí là muốn bài trừ nó để sinh ra cái chuyện “phi công” thì nói “người lái”, “không phận” thì nói là “vùng trời”, “hải phận” thì nói là “vùng biển”, “nữ du kích” thì gọi là “du kích gái”…, mà thực ra là có thể dùng cả hai, thậm chí có trường hợp muốn thay nhưng thay không được, hoặc thay thì chỉ dở hơn thôi.

4.3.2. Vị trí, giá trị của từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt. Tâm lý kì thị từ Hán Việt ít nhiều đã bỏ quên, không nhận rõ hết tính năng, tính trội của từ Hán Việt trên hai phương diện ngữ pháp và tu từ:

- Về ngữ pháp: cũng theo Cao Xuân Hạo, cách kết cấu từ Hán Việt theo kiểu “trật tự ngược” (phụ chính) hơn hẳn kiểu “trật tự xuôi” (chính phụ) trong từ thuần Việt. Ví dụ: “xạ thủ nam” thì chỉ có thể hiểu một nghĩa người bắn là đàn ông, Còn “người bắn nam” thì có thể hiểu 2, 3 cách: người bắn là đàn ông, người bắn tên Nam, người bắn anh Nam. Mối quan hệ cú pháp giữa các từ Hán Việt chặt chẽ này rất cần cho việc xây dựng thuật ngữ chuyên môn. Trong vốn thuật ngữ khoa học, kỹ thuật hiện nay ở nước ta, số lượng thuật ngữ Hán Việt chiếm phần chủ yếu chính là nhờ tính chặt chẽ đó trong cú pháp từ Hán Việt.

- Về tu từ: các từ Hán Việt thực tế đã tạo ra phong cách, sắc thái ngữ nghĩa trang trọng, cổ kính, bác học, mà nếu thiếu chúng thì quả thật vẻ đẹp ngôn ngữ tiếng Việt, văn chương tiếng Việt sẽ sút kém đi một phần rất đáng kể. Thử tưởng tượng: “Hội phụ nữ Việt Nam” mà chuyển thành “Hội đàn bà Việt Nam”, “Hội con gái Việt Nam”; “nữ Thủ tướng Ấn Độ” mà chuyển thành “Thủ tướng gái Ấn Độ”, “nữ đồng chí” mà chuyển thành “đồng chí gái”, “nữ giáo sư” mà chuyển thành “giáo sư gái”… thì buồn cười biết bao.

5. Tất cả những gì được trình bày trên đây là nhằm đi đến kiến nghị “cần khẩn trương khôi phục chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam”. Nhưng khôi phục như thế nào? Có mấy vấn đề cần bàn:

5.1. Học chữ Hán là chỉ học từ Hán Việt đã được phiên âm, hay học bằng chính văn tự Hán? Rõ ràng là học bằng chính văn tự Hán thì có lợi hơn vì tận dụng được chức năng “tổ hợp âm” như trên đã nói. Nhưng thực tế, với thực trạng giáo dục Việt Nam vốn đã bỏ học chữ Hán từ lâu mà nay đặt ra yêu cầu đó thì khó thực hiện, nhất là liên quan đến vấn đề đào tạo giáo viên chữ Hán lại không đơn giản chút nào. Nên chăng là thế này: sắp tới nếu phân ban làm 2: A (gồm các ngành khoa học tự nhiên) và B (gồm các ngành khoa học xã hội) thì ở ban A sẽ học từ Hán Việt đã được phiên âm bằng chữ Quốc ngữ, ở ban B sẽ học từ Hán Việt bằng chữ Hán hẳn hoi, mà có thể buổi đầu chưa thể làm đại trà, nhưng phải có kế hoạch từng bước tiến tới đại trà trong ban B này. Nếu tôi không lầm thì trước 1950, tại một số trường chuyên khoa (như chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc còn ở Hà Tĩnh), với ban cổ điển (tương đương với ban B này) vẫn có giờ cổ văn, trong đó có học chữ Hán. Và ở miền Nam trước 1975, với một loại trường phổ thông nào đó, vẫn có giờ chữ Hán. Xin các vị có trách nhiệm và hiểu biết lịch sử giáo dục kiểm tra, bổ chính cho.

5.2. Học chữ Hán từ bậc học nào? Từ THCS lên PTTH ? Hay chỉ đến PTTH mới học? Theo tôi nên từ bậc THCS, mỗi tuần 1 tiết, cứ thế cho hết bậc PTTH. Thời gian của tiết học này sẽ lấy ở quỹ thời gian của phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn, dù chương trình Ngữ văn đã đi theo hướng tích hợp. Chẳng những thế mà còn phải lợi dụng tính năng của việc tích hợp. Với yêu cầu tích hợp này, ngay ở phần Văn cũng phải coi trọng việc dạy nghĩa từ Hán Việt trong các giờ giảng văn, chẳng riêng gì với văn học cổ mà cả ở văn học hiện đại. Mà việc này cũng cần được chương trình hóa, có định mức, định lượng hẳn hoi như sách giáo khoa Ngữ văn THCS thí điểm và sắp chính thức áp dụng đã và đang tiến hành.

5.3. Vừa qua, được cơ quan truyền thông đại chúng cho biết trong luật sửa đổi về giáo dục mà Quốc hội sẽ thông qua có đặt vấn đề đưa việc học chữ Hán vào lại nhà trường phổ thông (Nhật Bản, Hàn Quốc đều có dạy chữ Hán ở trường phổ thông). Tôi cũng mong rằng cả xã hội, đặc biệt là các bậc thức giả của đất nước cần lên tiếng ủng hộ quan điểm tích cực, giàu ý nghĩa đó để dự kiến trên đây trở thành chính thức trong luật sửa đổi về giáo dục được Quốc hội thông qua. Và nếu đã thành luật thì phải gấp rút xây dựng chương trình và vạch kế hoạch đào tạo giáo viên một cách khẩn trương, trong đó có việc tăng cường bộ môn chữ Hán tại các trường Đại học Sư phạm và xây dựng bộ môn chữ Hán tại các trường Cao đẳng Sư phạm trong cả nước.

N.Đ.C

CHÚ THÍCH:

(1) Phạm Quỳnh: Luận giải văn học và triết học. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2003, tr.56.

TB

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỮ NGHĨA

NGUYỄN ĐĂNG NA

Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ điển sớm đi vào sách giáo khoa từ trung học cơ sở đến phổ thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường cao đẳng, đại học ngành khoa học xã hội - nhân văn. Với vị trí như vậy, Bình Ngô đại cáo (BNĐC) cần được nghiên cứu một cách thấu đáo từ văn bản, dịch bản đến chú giải. Mặc dù suốt thế kỉ XX các nhà nghiên cứu đã đổ khá nhiều công sức vào nghiên cứu BNĐC, nhưng tới nay, không phải chẳng còn gì để bàn. Trong hai bài trước(1), chúng tôi đã giải quyết ba vấn đề:

1- Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư(2) là văn bản có độ tin cậy nhất. Tại văn bản này, không có câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân”. Câu “Đại Thiên... nhược vân” là lời mào đầu của viên hoạn quan, nói trước khi truyền chỉ.

2- Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” [代 天 行 化 ] là hiệu của Lê Lợi do các tướng sĩ tôn xưng ngài sau chiến thắng Tân Bình - Thuận Hóa năm Ất Tị 1425. Theo Toàn thư , tôn hiệu trên được dùng cho tới tháng 12 năm Đinh Mùi 1427 khi quân ta đại thắng giặc Minh. Sau đấy, Lê Lợi lên ngôi, không dùng tôn hiệu đó nữa, mà thay bằng niên hiệu Thuận Thiên [ 順 天 ].

3- Bản mà lâu nay các sách như Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập văn học Việt Nam, sách giáo khoa Văn học 9, Văn học 10... vẫn ghi là Bùi Kỉ dịch, thực ra không phải. Đấy là bản Trần Trọng Kim dịch, in trong Việt Nam sử lược từ năm 1919. Nguyên nhân có sự nhầm lẫn này là, Dương Quảng Hàm hiểu lầm ghi chú của Bùi Kỉ in trong Quốc văn cụ thể (3) năm 1932.

Trên cơ sở hai bài viết trước, ở bài này chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề khác: một số chữ nghĩa trong BNĐC. Về chữ nghĩa bài BNĐC quả là còn nhiều việc phải làm. Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi chỉ đề cập tới cách hiểu nhan đề bài cáo và cụm từ máu chảy trôi chày. Những chữ còn lại, xin để dịp khác.

1/ Cách hiểu nhan đề Bình Ngô đại cáo

BNĐC là tác phẩm văn học chức năng hành chính. Một quy tắc tuy không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ là, ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này dường như bất di bất dịch đối với tất cả tác phẩm văn học chức năng (hành chính và lễ nghi). Ta có thể lấy một số tên tác phẩm văn học chức năng hành chính Việt Nam thế kỉ X - XIV làm ví dụ. Chẳng hạn các tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn, Dụ chư tì tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của Chu An... Những chữ đứng cuối tác phẩm đã chỉ cho người đọc biết thể loại của chúng, như: ‘chiếu’ [ 詔 ], ‘hịch văn’ [ 檄 文 ], ‘sớ’ [疏]... Nhan đề bài Bình Ngô đại cáo cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên, hai chữ “đại cáo” sẽ là thể loại tác phẩm của Nguyễn Trãi

Vậy “đại cáo” là gì ?

Các nhà biên soạn sách giáo khoa hiện hành(4) có hai cách giải thích khác nhau. Soạn giả Văn học 10 cho rằng, Bình Ngô đại cáo “dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô”; rồi bổ sung thêm: “bài này viết theo thể cáo”(5). Cách giải thích trên cho thấy, “đại cáo” là một cụm từ, trong đó ‘đại’ là “rộng rãi”, còn ‘cáo’ là “tuyên cáo” - nó vừa là động từ, vừa là danh từ chỉ thể loại tác phẩm. Soạn giả Văn học 9 thì giải thích khác: “ Bình Ngô đại cáo là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô”(6). Như vậy, “đại cáo” vẫn là một cụm từ, ở đó, ‘cáo’ là danh từ chỉ thể loại, ‘đại’ phản ánh “quy mô” tác phẩm: lớn.

Thế thì, “đại cáo” trong BNĐC thực chất là cụm từ hay một từ ? Nếu là cụm từ, chúng thuộc cụm danh từ hay cụm động từ ? Và, ‘đại’ dùng để nói về tính phổ biến “rộng rãi” hay “quy mô” tác phẩm?

Trong Hán ngữ có hai chữ ‘cáo’: một chữ không bộ ngôn [告] và một chữ có bộ ngôn [ 誥 ]

Chữ ‘cáo’ không bộ ngôn [告] dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên và thường làm động từ; chữ ‘cáo’ có bộ ngôn [誥] dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người viết cũng phân biệt rạch ròi như vậy, trừ những văn bản văn học chức năng hành chính hoặc lễ nghi. Hơn nữa, cả hai chữ ‘cáo’ nói trên đều có thể đứng sau chữ ‘đại’ để thành “đại cáo”. Chẳng hạn, thiên Vũ Thành trong Kinh Thư có đoạn: “Việt tam nhật Canh Tuất, Sài Vọng, đại cáo [大 告] vũ thành” - “sau ba ngày là ngày Canh Tuất, làm lễ Sài, lễ Vọng, kính cáo (đại cáo) việc võ đã thành công”(7). Hai chữ “đại cáo” ở câu trên, Thẩm Quỳnh dịch là “kính cáo”(7), còn Nhượng Tống dịch là “cả tâu.”(8) Trong trường hợp này, hai ông đều hiểu ‘cáo’ [告] là động từ, ‘đại’ [大]làm trạng ngữ.

Chữ ‘cáo’ có bộ ngôn [ 誥 ] thường dùng để chỉ thể loại văn học, khi kết hợp với ‘đại’ sẽ thành “đại cáo” [ 大 誥 ]. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo [大 誥] này để chỉ thể loại tác phẩm của mình. Các sách Toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển(9)... đều xác nhận như vậy và ghi : 平 吳 大 誥 (Bình Ngô đại cáo).

Vậy “đại cáo” [大 誥] là thể loại gì và ý nghĩa của nó ?

Hán ngữ đại từ điển giải thích: “đại cáo [ 大 誥 ] là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: ‘Vũ vương mất, Tam Giám cùng Hoài di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại cáo’. Khổng truyện rằng, ‘Trình bày đại đạo [大 道] để cáo [誥] với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên’, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cáo [典 誥 ].”(10) Như vậy, ban đầu, “đại cáo” [大 誥] do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh ”trần ‘đại’ đạo dĩ ‘cáo’ thiên hạ” ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo.

Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

“Đại cáo” còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: “Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh”(11) gọi là Đại cáo. Hồng Vũ [ 洪 武 ] là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương [ 朱 元 璋 ] - người khai sáng ra nhà Minh, làm Hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 - 1398.

Dựa vào hai nghĩa mà Hán ngữ đại từ điển đã nêu ra, chúng ta hãy xem, Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” đặt trong nhan đề tác phẩm của mình nhằm mục đích gì và có ý nghĩa như thế nào?

Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là sự kiện quan trọng, là bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thất bại thảm hại của các thế lực hung tàn và cường bạo, mà còn khẳng định sự tất thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩa và chí nhân làm nền tảng tư tưởng. Vì thế, Nguyễn Trãi muốn nhân dịp này, bày tỏ để nhân loại thấy cái, “đại đạo” [大 道] - đạo lí lớn nhất của Việt Nam là, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, đúng như lời ghi trong Khổng truyện: “trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ”. Đây vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, vừa là mục đích mà thiên Đại cáo ở sách Thượng Thư - một trong năm bộ “kinh” ( Ngũ Kinh) của Trung Hoa cổ đại hằng dương cao. Xa rời mục đích ấy, ta không thể hiểu thấu đáo tư tưởng chủ đạo bài cáo của Nguyễn Trãi. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo; bình xong giặc Ngô, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài cáo bình Ngô của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

Vì sao Chu Thành Vương phải đánh Vũ Canh ? Bởi, y là tên phản chủ, kẻ phản phúc ! Sách Kinh Thư kể rằng, sau khi diệt xong Thương Vương Trụ tàn bạo, Chu Vũ Vương - cha của Chu Thành Vương vẫn thương tình, phong cho con trai Trụ Vương là Vũ Canh làm vua nước Ân. Khi Vũ Vương qua đời, con nối ngôi là Chu Thành Vương còn nhỏ. Trước hoàn cảnh đó, Tam giám gồm, Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc nổi loạn. Vũ Canh bèn liên kết với các tộc Di ở phía đông, hùa theo Tam Giám, đem quân đánh Thành Vương, phản lại nhà Chu. Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành Vương diệt Vũ Canh. Đấy là ý thứ nhất của hai chữ “đại cáo” mà Nguyễn Trãi dùng cho bài bình Ngô ở thời đại ông.

Thứ hai, Nguyễn Trãi viết bài Cáo bình Ngô khoảng cuối năm 1427 - đầu 1428, sau văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố năm Hồng Vũ 18 (1365) tới hơn bốn mươi năm. Điều đó cho thấy, khi viết bài cáo, Nguyễn Trãi hoàn toàn biết có sự kiện Chu Nguyên Chương ban bố Đại cáo. Minh sử ghi: “Minh Thái Tổ đã định xong ‘luật lệnh’, các quan hữu ti tuân thủ thi hành. Nhưng những kẻ phạm pháp ngày càng nhiều, bèn lệnh cho thu thập các sai phạm của quan và dân, chia ra từng điều, làm thành Đại cáo, gồm 10 mục. Tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 18, Đại cáo hoàn thành, gồm 74 điều. Lệnh ban xuống cho các trường học phải đem ra để dạy sĩ tử; còn ở làng quê thì đặt các trường tư, thuê thầy dạy”. Không những vậy, Chu Nguyên Chương còn khuyến khích mọi người đọc, học Đại cáo bằng lệnh: “Những ai đang bị tù đày mà đọc được Đại cáo thì sẽ giảm tội”. Năm sau - 1386, Chu Nguyên Chương lại ban Đại cáo tục biên, gồm 87 điều, Đại cáo tam biên 43 điều. Như vậy là, trong hai năm liền, Minh Thái Tổ đã liên tiếp ba lần ban Đại cáo, tổng cộng 204 điều. Tiếp theo, năm sau - Hồng Vũ thứ 20 (1387), Minh Thái Tổ lại ban Đại cáo vũ thần. Xem thế đủ biết, “Đại cáo” chính biên, tục biên, tam biên vũ thần của ông Thái Tổ nhà Minh cực kì quan trọng thật! Ông bắt tất cả mọi người, từ thành thị tới nông thôn, từ quan đến dân, từ văn đến võ, từ sĩ tử tới “phó thường dân”..., ai ai cũng phải đọc, phải học, phải thấm nhuần và quán triệt tinh thần của Đại cáo. Lớp học Đại cáo mở tới tận làng quê, thậm chí, biết đọc Đại cáo là tiêu chuẩn xét giảm án và ân xá cho các phạm nhân. Thế mà, nay Nguyễn Trãi gọi bài “bình Ngô” do mình soạn thảo là “Đại cáo”! Rõ ràng, ông muốn người đọc thấy rằng, bài cáo mà mình thay mặt dân tộc viết ra, chính là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố ròng rã suốt ba năm: Hồng Vũ 18, Hồng Vũ 19, Hồng Vũ 20. Đặt pháp luật Đại cáo để thống nhất đất nước, để cai trị nhân dân, để diệt trừ tội ác... Lẽ ra, văn kiện pháp luật Đại cáo của người sáng lập nhà Minh phải tượng trưng cho uy quyền và là công cụ bảo vệ nhà Minh. Nhưng, ở Việt Nam, ngược lại, nó dùng để “bình Ngô”!

Ngô là ai ? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng hai chữ “bình Ngô” ?

Không nên hiểu ‘Ngô’ theo hai cách như soạn giả Văn học 10 đã nêu ra(12). Ngô là nước Ngô, người Ngô, giặc Ngô! Vâng ! Nhưng nguồn gốc của chữ ‘Ngô’ từ đâu ra ?

Chu Nguyên Chương gốc người Hào Châu [ 濠 州 ](13) mà, Hào Châu xưa, thuộc đất Ngô. Vì thế, ‘Ngô’ chính là quê cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh: Thái Tổ Chu Nguyên Chương ! Hơn nữa, khi sự nghiệp đang trên đà thắng lợi (chiếm xong lộ Tập Khánh), năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc công [ 吳 國 公 ], ý muốn nhắc tới nguồn gốc của mình: người đất Ngô. Tám năm sau, khi sự nghiệp sắp thành công, ông cải xưng là Ngô Vương [ 吳 王 ], ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình sánh với nước Ngô thời cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan nước Sở hùng mạnh, truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt nước Việt, cầm tù Việt Vương Câu Tiễn...

Bởi vậy, Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên ngôi: Ngô Quốc công, Ngô Vương; vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của người khai sáng ra nhà Đại Minh: Chu Nguyên Chương! “Bình Ngô” là “bình” tận gốc rễ họ Chu - Thái Tổ nhà Minh. Ba đời vua Minh xâm lược nước ta là, Thành Tổ Chu Đệ, Nhân Tông Chu Cao Xí, Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức. Nếu kể từ thái Tổ Chu Nguyên Chương, Tuyên Đức là đời vua Minh thứ năm. Hai chữ “Đại cáo” nói riêng, nhan đề Bình Ngô đại cáo [平 吳 大 誥] nói chung, mang ý nghĩa thâm thúy và sâu sắc như vậy. Nắm được ý nghĩa nhan đề BNĐC là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.

2/ Máu chảy trôi chày

Tôi còn nhớ, khoảng trên dưới mười năm về trước có cuộc thảo luận khá sôi nổi và kéo dài về cách hiểu bốn chữ “máu chảy trôi chày”. Mọi người dường như thống nhất với nhau rằng, ‘chày’ được dịch từ chữ ‘chử’. Trong Hán ngữ, về cơ bản, ‘chử’ [杵] có nghĩa là cái chày. Nhưng là cái chày gì, dùng để giã gạo, hay cái chày nói chung như, chày đập vải, chày giã thuốc, giã trầu, hoặc một loại vũ khí thời xưa giống hình cái chày..., thì quả thực, mọi người chưa hoàn toàn nhất chí. Ngay cả khi đã là cái chày rồi, cuộc thảo luận vẫn chưa chấm dứt bởi, người thì bảo nó là cái chày giã gạo bằng chân; người lại nói, là cái chày giã gạo bằng nước ở miền núi... Cuối cùng, khi làm sách giáo khoa, soạn giả Văn 10 chú giải cho học sinh như sau: Máu chảy trôi chày là, “máu đổ ra nhiều quá thành suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”(14). Có đúng như thế không? Để hiểu đầy đủ vấn đề, chúng tôi thiết nghĩ, trước hết phải đọc lại văn bản BNĐC, đặng từ đó, bám vào chữ nghĩa của Nguyễn Trãi mà bàn, mà phân tích !

Đoạn có cụm từ được dịch là ‘máu chảy trôi chày’ của BNĐC trong Toàn thư Hoàng Việt văn tuyển đều thống nhất ghi:

“Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng(15).”

Hai vế đối nhau chỉnh chệ. Năm 1919 trong Việt Nam sử lược, quyển Thượng, Trần Trọng Kim dịch là:

Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ
Thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa(16).

Khi đem BNĐC in lại vào sách Quốc văn cụ thể(17) năm 1932, Bùi Kỉ vẫn giữ nguyên lời dịch của ông Trần. Đến lượt mình, lúc sử dụng lại bản dịch của Trần Trọng Kim in ở sách của Bùi Kỉ, năm 1943 trong Việt Nam văn học sử yếu(18), Dương Quảng Hàm cũng không đổi thay gì hết. Vậy là, bản dịch của ông Trần được các thế hệ sau dùng tới hơn 40 năm kể từ ngày nó ra đời năm 1919 cho tới những năm đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Có lẽ, vì muốn giữ theo cấu trúc thể tứ lục, khi dịch, ông Trần đã lược mỗi vế mất hai chữ “vị chi” và dịch thoát ý các chữ “chử phiêu”, “sơn tích”. Phải chăng vì nhận thấy lời văn dịch của ông Trần chưa thật sự lột tả hết ý của Nguyễn Trãi, nên năm 1962 khi Nhà xuất bản Văn Hóa cho ra mắt độc giả bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập II: Văn học Việt Nam thế kỉ X - XVII, các soạn giả đã chỉnh lí lại thành:

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen (19).

Rồi chú: “máu chảy trôi chày”: do chữ “huyết lưu phiêu chử” ở Kinh Thư. Ý nói giặc bị chết nhiều” (20). Từ đó, câu có cụm từ “máu chảy trôi chày” được thay thế lời dịch của ông Trần và thản nhiên bước vào sách giáo khoa trong nhà trường. Rồi cứ thế, một số người đã bám vào bốn chữ “máu chảy trôi chày” trong bản dịch và lời chú “huyết lưu phiêu chử” mà trao đổi, mà tranh luận một cách hùng hồn, sôi nổi, hào hứng và kéo dài, chẳng cần biết Nguyễn Trãi đã viết như thế nào nữa. Bây giờ nhìn lại, tôi thực sự lấy làm ngạc nhiên. Đúng là, một thời đã qua !

Như trên đã trình bày, Nguyễn Trãi chỉ viết “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu”, chứ đâu có viết “huyết lưu phiêu chử” mà bỗng dưng thành “máu chảy trôi chày” để tranh luận, để trao đổi ? Mà, giả sử, nguyên văn chữ Hán, cụ viết “huyết lưu phiêu chử”, cũng chẳng thể dịch là “máu chảy trôi chày” được! Soạn giả Hợp tuyển chỉ đúng khi cho biết xuất xứ cụm từ “huyết lưu phiêu chử” từ Kinh Thư mà thôi. Nguyên văn đoạn có “huyết lưu phiêu chử” trong Kinh Thư như sau, xin dẫn ra để bạn đọc tham khảo: “Giáp Tí muội sảng, Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội vu Mục Dã, võng hữu địch vu ngã sư; tiền đồ đảo qua công vu hậu dĩ bắc, huyết lưu phiêu chử”. Nghĩa là, “ngày Giáp Tí, lúc rạng đông, vua Thụ kéo quân đông như rừng, họp ở cánh đồng Mục Dã. Các binh sĩ không ai chống lại quân ta, toán tiền phong ngược cả dáo lại đánh toán quân đi sau rồi chạy(21), ‘huyết lưu phiêu chử’.” Ta thử hình dung xem, quân của Thụ (Trụ) dù bị giết nhiều vô vàn đi chăng nữa (vì chúng đông “như rừng”), nhưng làm sao máu đổ ra có thể “thành suối” để đến đỗi, “khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”, dù diễn đạt theo kiểu tu từ ? Thật không thể hình dung nổi ! Vậy, mấu chốt vấn đề ở chỗ nào? Có hai việc cần giải quyết.

Thứ nhất, cách hiểu chữ ‘chử’.

Trong Hán ngữ, ‘chử’ [杵] có 6 nghĩa. Ngoài nghĩa thông dụng là “cái chày” dùng để giã đập các vật, ‘chử’ còn thông nghĩa với ‘lỗ’ [櫓]. Hán ngữ đại từ điển giải thích, ‘chử’ thông nghĩa với ‘lỗ’ và: ‘lỗ’ [櫓], cổ đại vũ khí trung đích thuẫn [ 古 代 武 器 中 的 盾 ]”(22) - ‘lỗ’ là cái ‘mộc’, loại vũ khí thời xưa. Một thú vị nữa là, chính các soạn giả từ điển lại lấy ngay Kinh Thư, nơi có cụm từ “huyết lưu phiêu chử” để minh họa cho cách cắt nghĩa của mình. Các soạn giả viết: “Thư, Vũ Thành: ‘Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội ư Mục Dã... huyết lưu phiêu chử’”. Rồi, các soạn giả dùng sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, mục “bộ ‘mộc’ [木]” để giải nghĩa: “ ‘lỗ’, đại thuẫn dã [ 櫓,大 盾 也 ]. Thanh, Đoàn Ngọc Tài chú: ‘lỗ’, hoặc giả ‘chử’ vi chi; ‘huyết lưu phiêu chử’, tức ‘huyết lưu phiêu lỗ’ dã”(22). Đoạn văn trên cho biết, ‘lỗ’ [櫓] là cái mộc lớn. Ông Đoàn Ngọc Tài thời Thanh chú rằng, ‘lỗ’ do mượn chữ ‘chử’; ‘huyết lưu phiêu chử’ là ‘huyết lưu phiêu lỗ’.

Thế là đã rõ! Mộc - một loại vũ khí thời xưa, dùng để đỡ dáo đâm hoặc tên bắn. Mộc thì nhẹ, được làm bằng gỗ hoặc da thú, có hình tròn, hình bầu dục, hình lưỡi mác hoặc hình chữ nhật..., mặt quay ra phía ngoài để đỡ gươm đao, đỡ tên bắn có cấu tạo cong như mặt đáy chảo. Với chất liệu nhẹ và cấu tạo như vậy, ‘lỗ’ có thể nổi trôi theo dòng nước trong đó có máu của đối phương bị giết chảy ra. Điều này dễ hiểu và phù hợp với thực tế.

Thứ hai, Nguyễn Trãi viết:

Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Hai vế đối nhau từng chữ rất chỉnh. Mỗi vế gồm 12 âm tiết, chia thành hai: nửa đầu (6 âm tiết) chỉ nguyên nhân, nửa sau (cũng 6 âm tiết) chỉ kết quả. Ta có thể diễn giải như sau: Bởi “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu” khiến “giang thủy vị chi ô yết”; do “Đan Xá chi thi sơn tích” khiến “dã thảo vị chi ân hồng”. Nửa đầu của mỗi vế (6 âm tiết) lại theo cấu trúc 4 - 2: bốn âm tiết đầu làm chủ ngữ, hai âm tiết sau làm vị ngữ. Chủ ngữ của‘chử phiêu’ là ‘Lãnh Câu chi huyết’; chủ ngữ của‘sơn tích’ là ‘Đan Xá chi thi’. Lại nữa, trong ‘Lãnh Câu chi huyết’ thì, ‘huyết’ là trung tâm ngữ; cũng như vậy, ‘thi’ làm trung tâm ngữ cho ‘Đan Xá chi thi’. Nên lưu ý, “Lãnh Câu chi huyết” là máu (giặc Minh) trong dòng nước Lãnh Câu; “Đan Xá chi thi” là xác (giặc Minh chết) ở Đan Xá. ‘Sơn tích’ [山 積] là, tích lại như núi; ‘chử phiêu’ [杵 漂] là làm trôi cái ‘chử’. Xác giặc ở Đan Xá chất lại như núi; máu giặc đổ xuống Lãnh Câu làm cho trôi cái ‘chử’. Điều lạ là, ý tứ câu văn của Nguyễn Trãi rõ ràng, nhưng lời dịch đọc lên nghe mâu thuẫn. Xin đọc: “ Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc”. Vậy, Lãnh Câu là suối hay sông ? Đã đành rằng, ‘câu’ [ 溝 ] là suối, nhưng ở đây nó là địa danh! Vả chăng, Nguyễn Trãi cũng nói rõ ‘giang thủy’ [ 江 水 ] - nước sông, chứ đâu phải ‘câu thủy’ [ 溝 水 ] - nước suối. Hai âm ‘giang’ [江] và ‘câu’ [溝] đều thanh bằng, do đó không phải vì thanh điệu mà Nguyễn Trãi phải thay ‘câu’ bằng ‘giang’; hơn nữa, chúng lại không nằm ở vị trí gieo vần, nên càng không phải vì ép vần hoặc ép thanh mà đổi ‘câu’ (suối) thành ‘giang’ (sông). Trong một mệnh đề thôi, lúc thì ‘suối’, lúc lại ‘sông’, thế mà, ta cứ thản nhiên nhồi vào đầu bao thế hệ học sinh từ 1962 đến giờ. Thật tội nghiệp! Vế sau cũng thế: “ Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Làm gì có ‘thành’ nào ở đây ? Xác chết ở Đan Xá tích lại thành núi, vì việc đó mà cỏ ở ngoài đồng - dã thảo [野草] bị thẫm đỏ. Các chữ ‘Xá’ và ‘dã’ cũng tương tự trường hợp ‘câu’và ‘giang’ đã trình bày trên kia. Thì ra, đây là hai trận chiến: một ở sông (giang) Lãnh Câu, một ở đồng (dã) Đan Xá, hoặc một trận chiến phối hợp thủy lục: sông Lãnh Câu, đồng Đan Xá.

Vì sao xẩy ra hiện tượng dịch như vậy ? Có lẽ vì soạn giả Hợp tuyển hiểu lầm văn của ông Trần ? Ông dịch: “Suối máu Lãnh Câu” và “Thành xương Đan Xá”, thật là tuyệt vời. Phải chăng bởi nhận thấy dịch ‘chử phiêu’ là ‘trôi chày’ hoặc ‘chày trôi’ chưa thật thỏa đáng, nên ông Trần muốn lẩn đi, dịch thoát, cốt giữ ý: ‘Suối máu Lãnh Câu’. ‘Suối máu Lãnh Câu’ là máu ở Lãnh Câu nhiều tựa suối. Như vậy, Lãnh Câu đâu phải suối ! ‘Thành xương Đan Xá’ là xương giặc nhiều, chất lại tựa thành ở Đan Xá. Như vậy, Đan Xá đâu phải thành. Có điều, ông đã thay chữ ‘thi’ (xác chết) bằng chữ ‘xương’. Do dịch thoát ý, hai chữ ‘suối’ và ‘thành’ của ông Trần bị soạn giả Hợp tuyển hiểu nhầm, biến thành “ suối Lãnh Câu”, “ thành Đan Xá”, khiến câu văn vừa sai lạc ý nghĩa của Nguyễn Trãi và vừa mâu thuẫn. Bây giờ đến chữ ‘ô yết’ và ‘ân hồng’.

Dịch ‘Ô yết’ là ‘rền rĩ’ hoặc ‘nghẹn ngào’ đều được. Song, ‘Ô yết’ [ 嗚 咽 ] có hai nghĩa: một, chỉ tiếng khóc buồn đau; hai, chỉ âm thanh bi thương trầm lắng. Nếu dịch ‘ô yết’ là ‘nghẹn ngào tiếng khóc’ thì hơi quá vì đã gộp cả nghĩa một và hai của chúng lại. Trong văn cảnh, Nguyễn Trãi chủ yếu miêu tả nước chảy làm cho những cái mộc bị trôi nổi va đập vào nhau phát ra âm thanh trầm lắng, nghe thấy bi thương. “Ân hồng” dịch là “đầm đìa” thì chưa rõ, nhưng dịch thành “Đầm đìa máu đen” lại hơi quá. Ân hồng [殷 紅] dùng để chỉ màu đỏ thẫm, trong màu đỏ có pha sắc đen. ‘Ô yết’ và ‘ân hồng’ đối nhau: một từ chỉ âm thanh, một từ chỉ màu sắc, tạo nên khung cảnh thảm đạm của giặc Minh. Hơn nữa, nếu dịch “giang thủy vị chi ô yết” và “dã thảo vị chi ân hồng” là “nước sông nghẹn ngào tiếng khóc” và “cỏ nội đầm đìa máu đen” thì không những thái quá như chúng tôi đã phân tích, mà mỗi vế bị bỏ mất hai chữ rất quan trọng: “vị chi” [為之] - vì việc đó mà... Chữ ‘chi’ [之] là đại từ thay cho cả mệnh đề sáu chữ đứng trước: “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu”, “Đan Xá chi thi sơn tích”. Chúng là những nguyên nhân khiến cho nước sông ‘ô yết’, cỏ đồng ‘ân hồng’. Dĩ nhiên, dịch vừa sát nghĩa, vừa bảo đảm âm luật của thể loại là một việc cực kì khó. Chúng tôi luôn biết rằng, nói bao giờ cũng dễ hơn làm rất nhiều, nhưng chẳng phải vì vậy mà lặng im.

Khi viết BNĐC, Nguyễn Trãi dựa vào hiện thực cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Ông có thể sử dụng nhiều mẫu chất liệu có sẵn trong nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, nhưng ông chỉ dùng những gì diễn tả đúng nhất với hiện thực cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu” không phải là “suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày”, càng chẳng phải máu “đổ ra nhiều quá thành suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi” và ‘chử’ là cái ‘mộc’. Chỉ có những cái mộc bị trôi, chẳng có cái chày giã gạo nào “nổi lên trôi đi” cả ! Thế mới biết, hiểu cho thấu đáo một câu văn của cổ nhân khó thật !

Trên đây, chúng tôi mới nêu hai trường hợp: nhan đề “Bình Ngô đại cáo” và cụm từ “máu chảy trôi chày” mà đã có bấy nhiêu chuyện, huống cả bài Cáo thì, còn biết bao vấn đề nữa để bàn. Chỉ mong rằng, các nhà đang biên soạn sách giáo khoa mới, làm sao có được một bài BNĐC chuẩn xác từ văn bản đến chú thích, xứng đáng với tầm vóc bản “thiên cổ hùng văn” và thế hệ trẻ không phải học những điều chẳng có trong văn bản như ở thế kỉ trước !

N.Đ.N

CHÚ THÍCH:

(1) Xem Nguyễn Đăng Na:

a. Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về văn bản, Tạp chí Hán Nôm số 4/ 2002.

b. Bình Ngô đại cáo: vấn đề dịch giả và dịch bản, Tạp chí Hán Nôm số 5/ 2002.

(2) Từ đây gọi tắt là Toàn thư.

(3) Năm 1919 trong Việt Nam sử lược , trước bản dịch, Trần Trọng Kim cho in nguyên văn chữ Hán BNĐC và giới thiệu: “Tờ BNĐC này... theo nguyên văn ở trong tập Hoàng Việt văn tuyển ...” (tr.204). Khi in lại bản dịch của ông Trần vào Quốc văn cụ thể (Tân Việt Nam thư xã) năm 1932, Bùi Kỉ nhắc lại lời ông Trần: “Bài này dịch theo bài chữ nho ở bộ Hoàng Việt văn tuyển. ” (tr.96). Đọc lời ghi chú đó, Dương Quảng Hàm lại ngỡ Bùi Kỉ bảo mình dịch, nên lúc tuyển BNĐC vào Việt Nam văn học sử yếu năm 1943, Dương Quảng Hàm chua: “Bùi Kỉ dịch, Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã Hà Nội” (tr.262). Từ đấy, mọi người đều ghi theo lời chua của ông Dương.

(4) Trong bài này, chúng tôi chưa đề cập tới sách giáo khoa thí điểm.

(5) Văn học 10, sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, Tập một, Nxb. Giáo dục, tr.117.

(6) Văn học 9, Tập một, tái bản lần thứ 11, Nxb. Giáo dục, 2001, tr.21.

(7) Kinh Thư, Trung tâm học liệu, in lần thứ hai, Sài Gòn, 1973, tr.217.

(8) Thượng Thư, Văn Học, H. 2001, tr.112.

(9) Bùi Huy Bích: Hoàng Việt văn tuyển, Hi Văn Đường, Minh Mệnh 6 (1825). Tồn Am gia tàng bản.

(10) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ 3, 1988, tr.1388.

(11) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Sđd, tr.1388.

(12) Soạn giả Văn học 10 viết: “Có hai cách hiểu chữ Ngô: các vua nhà Minh quê ở đất Ngô; đời Ngô (thời Tam Quốc), bọn người sang cai trị nước ta đều rất tàn ác, từ đó, dân ta gọi người phương Bắc là người Ngô với ý khinh ghét”. Sđd, tr.124.

(13) Hào Châu [ 濠 州 ] thuộc đất Ngô thời Xuân Thu, bao gồm các huyện An Huy, Hoài Viễn, Định Viễn, Phượng Dương, Gia Sơn ngày nay; lị sở là Chung Li thuộc đất phía đông Phượng Dương.

(14) Văn học 10, Sđd, tr.126.

(15) Hoàng Việt văn tuyển, Sđd; ĐVSKTT, tập IV, KHXH, H. 1993, tờ 51 a, b.

(16) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, quyển Thượng, H. in lần thứ hai, 1928, tr.212.

(17) Bùi Kỉ: Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, H. 1932, tr.100.

(18) Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông Pháp, H. 1943, tr.261.

(19) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập II, Nxb. Văn Hóa, H. 1962, tr.257. Từ đây gọi tắt là Hợp tuyển.

(20) Hợp tuyển, tập II, Sđd, tr.260.

(21) Kinh Thư, Sđd, tr.215. Trong bản này, Thẩm Quỳnh dịch “huyết lưu phiêu chử” là “Máu người chảy trôi cả cái chày giã gạo”.

(22) Hán ngữ đại từ điển, tập 4, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ tư, 1994, tr.855./.

TB

TỪ NHỮNG TIỂU THUYẾT HÁN NÔM VIỆT NAM CÓ NGUỒN GỐC TRUNG QUỐC,TÌM HIỂU CÁCH TIẾP NHẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
CỦA ÔNG CHA TA

TRẦN NGHĨA

Trước hết, xin nói một chút về cụm từ “tiểu thuyết Hán Nôm” dùng ở đây. Hiện nay ở nước ta, một số nhà nghiên cứu chủ trương dành khái niệm “tiểu thuyết” để chỉ loại tác phẩm văn học có dáng dấp như tiểu thuyết phương Tây từ giữa thế kỷ XVIII trở về sau, còn loại tác phẩm mà người phương Đông thời cổ gọi bằng “tiểu thuyết” thì được thay bằng cụm từ “truyện văn xuôi tự sự”, xem chúng như tiền thân của tiểu thuyết. Tôi cho rằng chẳng việc gì phải từ bỏ truyền thống để chạy theo người ta như vậy. Những gì mà ông cha ta đã mệnh danh là “tiểu thuyết” thì hãy cứ gọi chúng bằng tiểu thuyết và nếu cần, thêm vào một chữ “cổ” - “tiểu thuyết cổ”, tiểu thuyết viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, để phân biệt với tiểu thuyết hiện đại. Mặt khác, tiểu thuyết Hán Nôm của ta không phải chỉ có loại “tản văn” tức truyện văn xuôi, mà ngoài tản văn ra, còn có cả loại “văn vần” tức truyện thơ nữa.

Theo thống kê bước đầu của chúng tôi, ta có khoảng 90 tác phẩm tiểu thuyết Hán Nôm, trong đó tiểu thuyết chữ Hán gồm 40 cuốn(1), tiểu thuyết chữ Nôm gồm 50 cuốn. Số tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc chiếm tỉ lệ 1/3, tức 30 cuốn. Xem bảng lược trình sau đây.

Bảng lược trình những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc

 
 
 
 
 
 

Bảng lược trình cho thấy trong số 30 cuốn tiểu thuyết cổ Việt Nam thuộc diện khảo sát, có 23 tác phẩm vừa là chuyển ngữ vừa là chuyển thể, 9 tác phẩm cải biên, 6 tác phẩm mô phỏng. Điều này nói lên những gì về cách tiếp nhận văn học nước ngoài của người nước ta thời xưa trên lĩnh vực tiểu thuyết ?

1. Về mặt đề tài, tiểu thuyết cổ Trung Quốc như ta được biết, bao quát một phạm vi rất rộng: linh quái (chuyện linh dị, yêu quái), yên phấn (chuyện tình, trai tài gái sắc, tài tử giai nhân), truyền kỳ (chuyện lạ ít thấy), công án (chuyện phá án hoặc xử lại những vụ án oan), pha đao (chuyện dao rựa chém giết), hãn bổng (chuyện roi gậy võ hiệp), yêu thuật (chuyện bùa chú phép thuật), thần tiên (chuyện tu tiên luyện đan, trường sinh bất tử), giảng sử (kể chuyện lịch sử), phúng dụ (chuyện khuyến thiện trừng ác), du ký (chuyện dạo chơi đây đó) v.v. Nhưng Việt Nam ta chủ yếu tiếp thu hai loại: truyền kỳ và yên phấn. Loại đề tài công án, du ký, giảng sử không phải không có, nhưng rất ít. Tiểu thuyết Hán Nôm của ta còn khai thác cả loại “bảo quyển” của Phật giáo và “hí khúc” thuộc kịch nghệ, tuy không nhiều.

Vì sao các tác giả Việt Nam lại chăm chú khai thác loại tiểu thuyết truyền kỳ và yên phấn ? Có lẽ bởi hai loại tác phẩm này dễ đọc, dễ vào đối với người Việt Nam ta hơn là các loại tác phẩm khác khi chúng tồn tại dưới dạng những văn bản ngoại ngữ.

2. Về mặt văn thể (thể chữ và thể văn), trừ một số lượng nhỏ tiểu thuyết (7 tác phẩm) vẫn dùng văn xuôi chữ Hán như bản nguồn, số còn lại (23 tác phẩm) đều được chuyển thành thơ Nôm Đường luật hoặc thơ Nôm lục bát, những phương thức diễn đạt hằng được số đông độc giả Việt Nam ưa thích.

3. Về mặt nội dung (cốt truyện, nhân vật, cấu trúc, tình tiết), do phải chuyển ngữ và chuyển thể, các tác giả Việt Nam không tránh khỏi việc cắt xén chỗ này, thêm thắt chỗ kia, nhào nặn lại nguyên tác cho phù hợp với quy cách của thể văn được sử dụng, cùng lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của độc giả bản địa. Và như vậy, dù muốn hay không, văn bản chuyển ngữ cũng như chuyển thể trong chừng mực khác nhau, đều hàm chứa một độ chênh về nội dung so với văn bản gốc. Cái quyết định trước hết ở đây chưa phải là có hay không có sự sáng tạo, mà là việc chuyển ngữ và chuyển thể thành công hay không thành công, có “tiêu hóa” được cái ngoại lai hay không sau khi lựa chọn.

4. Bên cạnh số tác phẩm chuyển ngữ và chuyển thể, ta còn thấy có cả những tác phẩm cải biên (như Nam Hải Quan Âm bản hạnh quốc ngữ, Phương Hoa truyện v.v.) hay mô phỏng (như Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục v.v.). ở loại tiểu thuyết này, hầu hết tên người, tên đất, khung cảnh, sự kiện... của Trung Quốc đều được thay bằng tên người, tên đất, khung cảnh, sự kiện... của Việt Nam, đánh dấu cái ngoại lai đã được “đồng hóa” và chuyển vào diện “tiếp biến” theo quy luật chung của tiểu thuyết bản địa (khoảng 60 tác phẩm cả Hán lẫn Nôm) đang phát triển song song với tiểu thuyết du nhập.

*
**

Tóm lại, qua việc tìm hiểu những tiểu thuyết Hán Nôm được chuyển ngữ, chuyển thể, cải biên, mô phỏng từ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, ta có thể hình dung một cách thức tiếp nhận văn học nước ngoài của cha ông : lựa chọn cái gì hữu ích và phù hợp với truyền thống văn hóa, văn học của dân tộc để tiếp thu, và điều quan trọng là làm sao để tiêu hóa, đồng hóa được chúng, cấp cho chúng một sức sống bản địa, biến chúng thành chất liệu góp phần đưa nền văn học Việt Nam đi lên phía trước.

T.N

SÁCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Xem Trần Nghĩa: Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân loại, Tạp chí Hán Nôm, số 3 - 1997.

2. Trần Nghĩa: Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm, số 2 - 1998.

3. Hàn Vĩ: Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết đích phân loại, Song nguyệt san Văn Sử Triết, Đại học Sơn Đông, Trung Quốc.

4. Sách đăng ký (Hán Nôm) của Học viện Viễn đông Bác cổ (Pháp) tại Hà Nội, phần mang ký hiệu AB và VN.

5. Trần Quang Huy: Việt Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết quan hệ chi nghiên cứu, Luận án Tiến sĩ, bảo vệ tại Đài Loan năm 1972.

6. Hà vị tỉ giảo văn học, Hoàng Tuệ Trân và Vương Đạo Nam dịch. Thượng Hải Xã hội khoa học viện xuất bản xã, 1991./.

TB

TÀI LIỆU ĐỊA CHÍ CỔ VỚI VIỆC
NGHIÊN CỨU THĂNG LONG - HÀ NỘI

NGUYỄN THUÝ NGA

Trong kho thư tịch cổ viết về Thăng Long - Hà Nội hiện còn một mảng tư liệu đặc biệt quý giá dùng để nghiên cứu địa lý lịch sử, diên cách địa danh và nhiều mặt khác. Đó là các sách địa chí.

Tập thể Phòng Nghiên cứu văn bản Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam trong nhiều năm qua đã tổ chức thực hiện đề tài Địa chí Thăng Long - Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm. Đây là công trình dịch chú, nhằm cung cấp cho người nghiên cứu cũng như độc giả những tư liệu gốc về địa chí Hà Nội xưa.

Trong bài viết này, chúng tôi xin thay mặt nhóm đề tài giới thiệu nguồn tài liệu và giá trị của nó đối với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội.

I. NGUỒN TÀI LIỆU:

Ở các thư viện lớn tại Hà Nội: Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia, Viện Sử học hiện còn 42 tài liệu và 2 tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Trung ương I Hà Nội, tổng cộng là 44 tài liệu.

Xét về hình thức biên soạn, có thể chia các tài liệu này làm 2 loại là quốc chí và địa phương chí.

1. Quốc chí: loại này có số lượng tương đối nhiều, gồm 27 quyển, như: Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng Khánh địa dư chí, Các tỉnh chí v.v...

2. Địa phương chí:

a/ Địa chí viết về một miền trong đó có Hà Nội: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục, Bắc Kỳ các tỉnh đạo phủ huyện, Bắc Kỳ giang sơn cổ tích v.v... gồm 8 quyển.

b/ Địa chí viết riêng về Hà Nội: Hà Nội địa dư, Hà Nội địa bạ, Thăng Long cổ tích khảo, Hoàn Long huyện chí, Đông Ngạc xã chí v.v..., gồm 7 quyển.

Xét về nội dung, cũng có thể chia chúng thành 2 loại:

1. Loại ghi chép tổng hợp: là những sách có đủ nội dung của sách địa chí, bao gồm: cương vực, diên cách, thành trì, núi sông, nhân vật, phong tục, sản vật v.v... như: Đại Nam nhất thống chí, Hà Nội địa dư, Hà Nội sơn xuyên phong vực, Hoàn Long huyện chí v.v... Cùng loại này nhưng có cả bảng kê danh sách huyện xã thôn như: Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng Khánh địa dư chí v.v...

2. Loại kê riêng danh sách các đơn vị hành chính xã thôn: loại này ít, chỉ có 3 tài liệu là: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Hà Nội địa bạ, Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (1890).

II. GIÁ TRỊ

1. Tài liệu địa chí với việc nghiên cứu địa lý lịch sử Hà Nội

a/ Việc thay đổi địa dư của Hà Nội trong lịch sử:

Từ khi Lý Thái Tổ xuống chiếu dời đô thì Thăng Long trở thành kinh đô của cả nước, phủ ứng Thiên là đất phụ quách kinh thành. Đến đời Lê, Quang Thuận năm thứ 10 (1469) đổi tên phủ ứng Thiên thành phủ Phụng Thiên, lĩnh 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương (huyện Vĩnh Xương sau đổi là Thọ Xương, huyện Quảng Đức năm Gia Long 4 (1805) đổi tên là Vĩnh Thuận). Đời Tây Sơn gọi là Bắc Thành. Năm Gia Long 4 (1805) đổi tên phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, lĩnh 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Như vậy trong nhiều thế kỷ, địa dư của Thăng Long xưa vẫn chỉ bao gồm phần đất đai thuộc 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận.

Năm Minh Mệnh 12 (1831) cải cách hành chính cả nước, bỏ trấn chia tỉnh hạt thì tỉnh Hà Nội cũng ra đời. Đến thời gian này, phạm vi Hà Nội mới bắt đầu được mở rộng và liên tục thay đổi.

Chúng tôi đã dùng 7 tài liệu có ghi số lượng đơn vị hành chính và tên từng phủ huyện xã thôn của tỉnh Hà Nội như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành dư địa chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Hà Nội địa bạ, Đồng Khánh địa dư chí và Danh sách các phủ huyện tổng của tỉnh Hà Nội năm 1888, Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (1890) để tìm hiểu sự thay đổi đó.

Có thể lấy cuộc cải cách hành chính năm Minh Mệnh 12 (1831) làm mốc để chia thành 2 giai đoạn chính.

- Giai đoạn 1: từ cải cách hành chính năm 1831 trở về trước

Sử sách hiện còn chỉ cho chúng ta biết kinh kỳ thời Lý - Trần gồm 2 huyện chia thành 61 phường(1), đến đời Lê chia thành 36 phố phường(2) mà không có một tài liệu nào ghi cụ thể danh sách đó(3). Căn cứ vào tài liệu ghi địa danh sớm nhất của đời Nguyễn hiện còn là sách Các trấn tổng xã danh bị lãm, chúng ta biết đến đời Gia Long, đơn vị hành chính đã đổi thành tổng, phường, xã, thôn. Nhưng không có thông tin nào cho biết thời gian cụ thể xảy ra việc thay đổi đó.

Có 3 tài liệu: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên đều ghi phủ Hoài Đức đời Gia Long có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, cộng 13 tổng, 250 xã thôn phường.

- Giai đoạn 2: từ năm 1831 về sau. Giai đoạn này việc thay đổi địa dư diễn ra nhiều và liên tục, nhất là sau khi thành phố Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888. Có 3 lần thay đổi:

+ Từ năm 1831 đến 1887 Đồng Khánh thứ 2

Có 2 tài liệu Hà Nội địa bạ và Đồng Khánh địa dư chí lục kê tỉnh Hà Nội lúc này gồm 4 phủ là Hoài Đức (3 huyện: Từ Liêm, Thọ Xương, Vĩnh Thuận), Thường Tín (3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên), ứng Hòa (4 huyện: Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, Thanh Oai) và Lý Nhân (5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương). Tổng cộng 15 huyện, 127 tổng, 1104 xã thôn phường.

Thời gian này tỉnh Hà Nội có phạm vi rộng nhất, gồm toàn bộ đất đai khu vực nội thành, huyện Từ Liêm và 2 tỉnh Hà Đông, Hà Nam ngày nay.

+ Năm 1888 Đồng Khánh 3

Có 1 tài liệu: Danh sách các phủ huyện tổng làng của tỉnh Hà Nội năm 1888.

Thời gian này tỉnh Hà Nội vẫn gồm 4 phủ: Lý Nhân (5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương), ứng Hòa (2 huyện: Sơn Lãng, Thanh Oai), Hoài Đức (4 huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Thọ Xương, Vĩnh Thuận) và Thường Tín (3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên). Tổng cộng 14 huyện, 113 tổng và 992 xã thôn.

So với địa dư từ 1831 đến 1887, năm này tỉnh Hà Nội có thêm huyện Đan Phượng nhưng bớt 2 huyện Hoài An và Chương Đức.

+ Năm 1889-1890 đời Thành Thái

Có 1 tài liệu: Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890. Lúc này tỉnh Hà Nội không còn cấp phủ và chỉ còn 11 huyện là Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên, Từ Liêm, Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Sơn Lãng, Thanh Oai, Kim Bảng, Duy Tiên và Đan Phượng. Tổng cộng 95 tổng, 750 xã thôn.

Thời gian này, địa dư tỉnh Hà Nội đã thu hẹp đáng kể, từ chỗ mở rộng 15 huyện, nay chỉ còn 11 huyện: năm 1888 cắt 2 huyện Hoài An, Chương Đức; 3 huyện Thanh Liêm, Bình Lục và Nam Xương năm 1890 chuyển về thành lập tỉnh Hà Nam.

Năm 1888 thành phố Hà Nội thành nhượng địa của Pháp, vùng ngoại thành nhập với huyện Vĩnh Thuận đổi tên là huyện Hoàn Long(4), tỉnh lỵ Hà Nội chuyển về xứ Cầu Đơ, gọi là tỉnh Cầu Đơ, sau đó đổi tên thành tỉnh Hà Đông. Tài liệu mang tên tỉnh Hà Nội muộn nhất là Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (năm 1890) nên chúng tôi chỉ tìm hiểu địa dư Hà Nội đến năm 1890.

Có thể liệt kê các phủ huyện tỉnh Hà Nội thời Nguyễn như sau:

Phủ Huyện 1802-1831 1831-1887 1888 1889-1890
Hoài Đức Vĩnh Thuận
Thọ Xương
Từ Liêm
Đan Phượng
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Thường Tín Thượng Phúc
Thanh Trì
Phú Xuyên
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Ứng Hòa Sơn Minh
Hoài An
Chương Đức
Thanh Oai
+
+
+
+
+


+
+


+
Lý Nhân Kim Bảng
Duy Tiên
Thanh Liêm
Bình Lục
Nam Xương
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Cộng 2 15 14 11

b/ Việc thay đổi địa danh của Hà Nội trong lịch sử:

Dùng các tài liệu có kê tên phường xã thôn như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc thành địa dư chí lục, Hà Nội địa bạ, Đồng Khánh địa dư chí lục, Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890; lập một bảng đối chiếu, chúng ta sẽ tìm ra được hệ thống tên riêng những phường xã thôn của Hà Nội đã thay đổi từ đời Gia Long, qua Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh đến Thành Thái. Sự thay đổi này rất nhiều và liên tục, đặc biệt trong khoảng từ đời Minh Mệnh sang đời Tự Đức.

Sự thay đổi này có nhiều lý do, có khi vì việc tách nhập đơn vị hành chính, có khi vì lý do tu từ, có khi vì kiêng tránh từ tôn kính, nhưng nhiều nhất và quan trọng nhất là do lệ kiêng húy.

Trong khi chưa thể lập được danh sách tất cả các xã thôn phường thay đổi, chúng tôi tạm lập một bảng tên địa danh thay đổi vì kiêng húy như sau:

Stt Chữ húy Gia Long Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức Kiến Phúc Đồng Khánh Thành Thái
1 Cảo Nhật Cảo Nhật Tảo - - - - -
2 - Minh Cảo Minh Tảo - - - - -
3 - Lai Cảo Lai Tảo - - - - -
4 - Cảo Khê Tảo Khê - - - - -
5 - Cảo Dương Tảo Dương - - - - -
6 - Nhật cảo Nhật Tảo - - - - Nhật Tựu
7 - Ninh Cảo Ninh Tảo - - - - -
8 Đam Tây Đam Tây Tựu - - - - -
9 - Phúc Đam Phúc Lý - - - - -
10 Hoa Hoa Ngạc - Đường Ngạc - - - Đường
11 - Xuân Hoa - Xuân Yên - - - -
12 - Hoa Ngư - Nam Ngư - - - -
13 - Yên Hoa - Yên Phụ - - - -
14 - Bạch Hoa - Bạch Liên - - - -
15 - Hoa Kinh - Minh Kinh - - - Chính Kinh
16 - Hoa NHị - Phương Nhị - - - -
17 - Hoa Âm - Thanh Âm - - - -
18 - Hoa Nao - Bạch Nao - - - -
19 - Tam Hoa - Tam Đăng - - - -
20 - Hoàng Hoa - Hoàng Mộc - - - -
21 - Ngô Hoa - Ngô Đồng - - - -
22 - Hoa Xà - Hương Xà - - - Phương Xà
23 - Hoa Phong - Khả Phong - - - -
24 - Liên Hoa - Liên Đích - - - -
25 - Phú Hoa - Phú Túc - - - -
26 - Hoa Sam - Thanh Sam - - - -
27 - Hoa Đình - Phượng Đình - - - -
28 - Nam Hoa - Nam Phố - - - -
29 - Kim Hoa - Kim Liên - - - -
30 - Hoa Viên - Hương Viên - - - Phượng Viên
31 - Bạch Hoa - Bạch Nao - - - -
32 - Đích Hoa - Liên Đích - - - -
33 Tông Tông Tranh - Hoà Tranh - - - -
34 - Tông Chất - Đa Chất - - - -
35 Tuyền Du Tuyền - Du Tiền - - - -
36 - Thạch Tuyền - Thạch Bích - - - -
37 - Thanh Tuyền - Thanh Khê - - - -
38 - Tuyền Cam - Thuỷ Cam - - - -
39 Triền Thao Triền - Thao Chính - - - -

Tất cả có 73 xã phường, phân bố ở các đời như sau:

- Minh Mệnh có 9 chữ: Cảo: 7, Đam: 2

- Thiệu Trị 29 chữ: Hoa: 23, Tông: 2, Tuyền: 4, Triền: 4

- Tự Đức 7 chữ: Hồng: 4, Hằng: 1, Thường: 1, Chương: 1

- Đồng Khánh 1 chữ: Đường

- Thành Thái 23 chữ: Hương: 11, Đường: 10, Chiêu: 1, Biện: 1

Từ bảng kê này, chúng tôi có nhận xét:

Hương là chữ húy đời Kiến Phúc, nhưng trong văn bản sách Đồng Khánh địa dư chí lục (soạn đời Đồng Khánh) tất cả các chữ “Hương” vẫn còn hiện diện, đến đời Thành Thái (sách Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX) mới thấy đổi tên mới.

Đường, Biện là chữ húy đời Đồng Khánh, nhưng cũng sách trên vẫn thấy ghi tên cũ, chỉ đến đời Thành Thái mới đổi hàng loạt (trừ 1 chữ “Đường” tên xã Đường Bạt đổi thành Thường Bạt, đến đời Thành Thái lại đổi thành Thiệu Bạt)(5).

Ngoài việc đổi tên do kiêng húy, 2 chữ Thiên Nguyễn thuộc diện từ tôn kính nên đến đời Tự Đức đều phải đổi. Có 4 trường hợp tên tổng xã có chữ “Thiên”, như Thiên Mỗ đổi thành Đại Mỗ, Thiên Kiện thành Đại Kiện và Thiên Mạc thành Hòa Mạc; 3 trường hợp tên tổng xã có chữ “Nguyễn” phải đổi, như Nguyễn Xá thành Tiên Xá và Nam Xá.

Những tư liệu này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu diên cách địa danh đến từng xã thôn phường phố của Hà Nội từ đầu đến cuối thời Nguyễn.

2/ Lớp địa danh phường xã thôn ngót một thế kỷ của Hà Nội:

Trong số 14 tác phẩm mà chúng tôi tuyển chọn, có 5 tài liệu kê được lớp địa danh đến phường xã thôn:

- Các trấn tổng xã danh bị lãm (đời Gia Long)

- Bắc Thành địa dư chí lục (đời Minh Mệnh)

- Hà Nội địa bạ (đời Tự Đức)

- Đồng Khánh địa dư chí lục (đời Đồng Khánh)

- Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (đời Thành Thái).

Hai tài liệu đầu phản ánh lớp địa danh đời Gia Long-Minh Mệnh về trước, không có nhiều thay đổi; 2 tài liệu tiếp theo ghi địa danh đời Thiệu Trị có nhiều thay đổi, đến Tự Đức - Đồng Khánh không thay đổi; tài liệu cuối cùng là lớp địa danh đời Thành Thái, có nhiều thay đổi.

Với số tài liệu khá đủ và tương đối liên tục như vậy, người nghiên cứu có thể lập một bảng tra hệ thống địa danh của Hà Nội từ đời Gia Long cho đến đời Thành Thái. Qua hệ thống này, có thể nhận ra sự đổi tên của từng phường, xã, thôn, kể cả tên đổi vì kiêng huý và sự cắt chuyển đơn vị tổng, xã thôn phường từ nơi này sang nơi kia v.v... Ví dụ Hoa Kinh là tên từ đời Minh Mệnh về trước của thôn thuộc tổng Khương Đình huyện Thanh Trì, đời Thiệu Trị kiêng huý chữ Hoa đổi là Minh Kinh, đến đời Thành Thái đổi là Chính Kinh, thường gọi là Kẻ Mọc, nay thuộc quận Thanh Xuân v.v...

Đây là nguồn tư liệu hết sức quý giá và cần thiết để nghiên cứu diên cách địa danh đến từng phường xã thôn của Hà Nội trong thời gian gần trọn thế kỷ XIX.

3/ Tư liệu về phố phường, cửa ô của Hà Nội xưa

Sách Thăng Long cổ tích khảo là tài liệu duy nhất cung cấp cho chúng ta tên và vị trí của 17 trong số 21 cửa ô đời Lê.

Cũng chính sách này ghi được tên một số phường của Thăng Long thời Lê và tên các phố của thành Hà Nội cuối thời Nguyễn. Đặc biệt quý là danh sách tên Nôm của các phố phường và nghề nghiệp của dân sinh sống ở đó.

Năm 1888 Hà Nội trở thành nhượng địa, thực dân Pháp xây dựng mới và quy hoạch thành phố theo kiểu phương Tây thì sách Nam quốc địa dư chí lược Nam quốc địa dư ghi được khi đó thành phố Hà Nội chia làm 8 hộ (Hà Thành bát hộ), mặt phố chia làm 4 hạng, gồm 55 phố.

Sách Hà Nội địa dư lại cung cấp cho chúng ta thêm tư liệu tìm hiểu về việc người Hà Nội xưa đặt tên phố như: "Có nơi đặt theo tên điện như Huy Văn, Giảng Võ; có nơi đặt theo tên cổng thành như Trường An, Bảo Khánh; có nơi đặt theo tên đàn như Xã Tắc, Phong Vân; có nơi đặt theo tên cơ quan nhà nước như Khâm Thiên, Công Bộ, Ngự Sử; có nơi lại đặt theo tên đơn vị quân đội như Thị Vật, Tiền Tiệp v.v..."

Những tư liệu thuộc loại này thật hiếm, thật quý, thật hữu ích đối với việc nghiên cứu phố phường Hà Nội xưa.

4/ Tư liệu về Hoàng Thành thời Lê, thành Hà Nội thời Nguyễn

a/ Hoàng thành đời Lê:

Sách Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Đại Nam nhất thống chí, Thăng Long cổ tích khảo v.v... có những thông tin rất quý về Hoàng Thành mà không một loại thư tịch nào ghi được.

Đại Việt địa dư toàn biên viết: “Căn cứ vào đồ bản thành Thăng Long đời Hồng Đức, thì thành này hình như thước thợ mộc. Ba mặt đông, nam, bắc vuông vắn, mặt tây và nam dài bằng một nửa. Cửa đông bắt đầu từ thôn Đức Môn (trước là thôn Đông Môn) tổng Đồng Xuân, theo hướng bắc đến sông Tô Lịch, đi bờ bên tả qua cửa bắc về phía tây đối với phường Nhật Chiêu, theo về phía nam là cửa Bảo Khánh, theo hướng nam đến phía trước bên hữu Văn Miếu, lại đến phía sau qua sang bên tả là cửa Nam, đi thẳng về phía đông. Đấy là dấu cũ thành Thăng Long, ở giữa là cung thành, trong cửa cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu điện Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Văn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An. Trong có suối Ngọc. Ngoài cung thành là Hoàng thành. Về bên đông, phía trước là Thái Miếu, phía sau là Đông Cung. Bên tây qua núi Khán Sơn là điện Giảng Võ. Lại về phía tây là đền thờ Linh Lang. Trường thi Hội đều ở đấy. Hoàng thành, cung thành đều xây bằng gạch. Nền điện Kính Thiên ở chỗ đất bằng có gò đất nổi lên cao, bằng phẳng vuông vắn. Sách địa lý nói rằng “núi Nùng ở chính giữa” tức là nơi này. Đằng sau lại mọc ra núi Tam Sơn, bên hữu lại mọc ra núi Khán Sơn”.

Sách Hà Nội địa dư ghi: “Thành mở 4 cổng: cổng phía đông là Tường Phù, phía tây là Diệu Đức, phía nam là Đại Hưng, phía bắc là Quảng Phúc, lại đắp thành đất bao bọc ở xung quanh. Năm Thiên Thành 2 (1029) đắp một lớp thành bao bọc ở xung quanh gọi là Phượng Thành. Đầu thời Trần vẫn giữ theo như thế và định ra hai bạn phường Tả và Hữu của Kinh thành ...Nội thành gọi là thành Long Phượng. Đầu niên hiệu Quang Thuận triều Lê mới cho xây thành Đại La, lại nhân theo quy chế thời Lý, Trần, mở mang Phượng Thành, xây rộng ra 8 dặm”.

Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: "Đời Lý gọi là thành Thăng Long, mở cửa Đại Hưng, tức là đình Quảng Minh ngày nay, phía bắc là cửa Đông Hoa tức là cầu Đông Thị ngày nay, phía tây là cửa Quảng Đức tức đường Giảng Võ ngày nay, còn cửa Diệu Đức ở phía bắc thì nay bị lở xuống sông” v.v...

Những ghi chép về vị trí các cửa thành, kiến trúc di tích liên hoàn như vậy v.v... là những tư liệu hết sức quý giá giúp chúng ta lần theo đó mà đi tìm vị trí Hoàng thành xưa.

b/ Thành Hà Nội thời Nguyễn:

Khi kinh đô chuyển vào Phú Xuân thì thành Thăng Long đặt là đại trấn thành. Việc xây dựng, sửa sang và mở rộng quy mô được ghi chép trong nhiều tài liệu và khá phong phú.

Sách Bắc Thành địa dư chí lục ghi: “Trên núi Nùng trong thành dựng 5 toà chính điện, Hoàng cung và 6 nhà ở hai bên tả hữu, xung quanh có tường xây, mở 5 cửa, lại mở một cửa ngách để thông vào nội đình, xây từng bậc dẫn vào đường hẻm... Ngoài đường hẻm là cửa Đoan Môn, trên cổng có khắc hai chữ “Đoan Môn” (di tích này từ triều Lý nay vẫn giữ nguyên), trên cổng đặt lầu trống.

Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Thành tỉnh Hà Nội chu vi hơn 432 trượng, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, hào rộng trên dưới 4 trượng, mở 5 cửa, ở địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Từ đời nhà Lê về trước kinh đô đều đặt ở đây, lại có tên là thành Phụng Thiên, ở trong thành Đại La. Thành lâu năm sụt đổ, đến đời Tây Sơn, theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng. Bản triều đầu đời Gia Long lấy làm lỵ sở của Bắc Thành. Năm thứ 3 (1804), triều thần bàn rằng thể chế xây thành của Tây Sơn không hợp qui chế cũ, tâu xin sửa đổi. Năm thứ 4 (1805), sai quan đốc sức việc xây đắp, trong thành dựng kỳ đài và 2 toà hành cung, chính điện, tả hữu vu mỗi bên một toà; mặt sau dựng ba toà nội điện, một tả vu, một hữu vu, sau điện dựng lầu Tinh Bắc; quanh nội điện đều xây tường gạch; lại đằng trước chính điện xây một đường ống bằng đá thẳng đến Đoan Môn, có biển bằng đá khắc hai chữ “Đoan Môn”, đấy là di tích từ đời Lý. Ngoài cửa dựng nhà bia, xây kỳ đài, qui mô rộng lớn. Năm Minh Mệnh thứ 12 chia tỉnh hạt, lấy thành này làm thành tỉnh Hà Nội, năm thứ 16 cho rằng thân thành quá cao, giảm bớt đi 1 thước 8 tấc. Các đời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị dùng thành này làm sở bang giao”.

5/ Tài liệu địa chí với việc nghiên cứu di tích văn hóa

Ngoài giá trị về lịch sử văn hoá mà ai cũng biết, chúng tôi muốn nói đến những giá trị đặc biệt khác:

- Vị trí của hàng loạt núi non và di tích được ghi trong sách là thông tin đáng tin cậy cho người nghiên cứu dựa vào đó để xác định địa điểm, từ đó góp phần vào việc xác định khu vực Hoàng Thành mà hiện nay giới nhiên cứu trong cả nước đang tập trung sức lực nghiên cứu.

- Việc ghi chép quá trình xây dựng, trùng tu, đổi tên v.v... là những thông tin quý để tìm hiểu lịch sử di tích. Như quán Trấn Vũ, năm Minh Mệnh 21 (1840) đổi thành Chân Vũ; chùa Long Ân, năm Minh Mệnh 2 cho đổi là Sùng Ân điện; năm Thiệu Trị 1 (1841) lại đổi là chùa Hoằng Ân v.v...

- Tài liệu địa chí duy nhất ghi về phủ chúa Trịnh là Thăng Long cổ tích khảo cho chúng ta biết vị trí của phủ như sau: "ở phía đông nam thành 1 dặm, phố Cấm Chỉ huyện Thọ Xương là cửa trước phủ, phố Hoành Đình ở phường Phục Cổ tức là cửa sau phủ". Phố Hoành Đình tức phố Đình Ngang thuộc phường Cửa Nam, vị trí như vậy tương đương với khu vực phố Cửa Nam đến phố Cấm Chỉ ngày nay.

Có thể tóm tắt những giá trị chính của nguồn tài liệu địa chí như sau:

1. Về thay đổi địa dư của Hà Nội: từ lúc chỉ có 2 huyện, sau cải cách địa dư mở rộng nhất: 15 huyện, bao gồm toàn bộ nội thành Hà Nội, tỉnh Hà Đông và tỉnh Hà Nam ngày nay; sau đó chỉ còn 13, rồi 11 huyện.

2. Về thay đổi địa danh: 72 xã thôn có tên trùng với chữ húy phải đổi là Cảo, Đam, Hoa, Tông, Tuyền, Triền, Hồng, Hằng, Thường, Chương, Đường, Hương, Đường, Chiêu, Biện; 4 xã thôn có chữ trùng từ tôn kính là Thiên và Nguyễn. Ngoài ra còn có các lý do khác như tách nhập xã thôn, lý do tu từ v.v...

3. Lớp địa danh đến cấp phường, xã, thôn đời Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh và Thành Thái.

4. Về thành Thăng Long: núi Nùng là nơi nhà Lý xây chính điện, đời Lê đổi là điện Kính Thiên, đời Tây Sơn theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng, thời Nguyễn về cơ bản vẫn theo di tích từ đời Lý mà mở rộng thêm, năm Minh Mệnh 16 cho hạ bớt thành xuống 1 thước 8 tấc.

5. Tên và vị trí 17/21 cửa ô; tên 55 phố thuộc nội thành đầu thế kỷ XX, đặc biệt quý là tên Nôm và mặt hàng bán đặc trưng của các phố.

6. Các núi sông, di tích v.v... ngoài giá trị văn hóa, lịch sử thì vị trí của chúng có giá trị trong việc góp phần giúp các nhà nghiên cứu xác định vị trí Hoàng Thành và các kiến trúc liên quan đến thành Thăng Long xưa.

*
**

Với những giá trị đích thực như vậy, chúng tôi tin rằng những tác phẩm địa chí cổ hiện còn thực sự là những tài liệu quý giá, hữu ích đối với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội về nhiều phương diện.

N.T.N

CHÚ THÍCH:

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, bản Chính Hòa, Hoàng Văn Lâu dịch chú, GS. Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. KHXH, H. 1993, T2, tr.12.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. tr.507.

(3) Các nhà nghiên cứu như GS. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuân Sán, Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Vinh Phúc, Hoàng Đạo Thúy v.v... trong các công trình nghiên cứu về Hà Nội đã lập danh sách 36 phường, nhưng chưa khớp nhau.

(4) Huyện Hoàn Long trước thuộc tỉnh Hà Đông, sau thành Đại lý đặc biệt của thành phố Hà Nội.

(5) Về lệnh kiêng húy và các chữ húy, xin xem: Chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ, Nxb. Văn hóa, H. 1977./.

TB

LÃNG SƠN - MỘT VỊ TRÍ QUAN TRỌNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG LẦN THỨ NHẤT (980 - 981)

TRẦN BÁ CHÍ

Những năm 980 - 981, dân tộc ta dưới sự chỉ đạo tài tình của Lê Đại Hành tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược vô cùng anh dũng và đã chiến thắng giòn giã. Chiến thắng đó bảo vệ được Tổ quốc độc lập vừa được khôi phục, sau mươi thế kỷ Bắc thuộc.

Năm 1981, Viện Sử học Việt Nam đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 1000 năm cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê. Từ đó nhiều vấn đề khoa học được đặt ra, như vấn đề so sánh lực lượng, diễn biến chiến sự v.v và phức tạp nhất là việc xác định vị trí một số địa danh cổ như Bình Lò, Tây Kết, Hoa Bộ, Lãng Sơn v.v… Bài viết này chỉ nhằm xác định địa danh Lãng Sơn mà bấy lâu nay bị đọc nhầm là Ngân Sơn, liên quan đến đường hành quân của đạo quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy đồng thời làm sáng tỏ thêm sự nghiệp kháng chiến của quân dân ta thời Tiền Lê.

I
NGÂN SƠN HAY LÃNG SƠN TRONG SÁCH VIỆT SỬ LƯỢC

Trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 (tháng 9 - 10 - năm 1983), Đinh Văn Nhật bác bỏ ý kiến của Nguyễn Vinh Phúc và cho rằng: “Chúng tôi loại trừ các đường khác vì hoặc không bảo đảm an toàn, hoặc quá dài, đi quá lâu, thí dụ như đường Cao Bằng, Ngân Sơn, Thái Nguyên…”. Tác giả kết luận: “Ngân Sơn ghi trong Việt sử lược chính là núi Mỏ Thổ (162cm) cao nhất vùng đồi bậc thềm trung du của các huyện Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế. Tọa độ địa lý của núi Mỏ Thổ là 21025’ bắc, 106005’ đông”. Thực ra Việt sử lược không hề ghi Ngân Sơn, mà chỉ ghi Lãng Sơn.

Hai tác giả trên có ý kiến khác nhau về vị trí Ngân Sơn nhưng lại thống nhất, theo bản dịch Việt sử lược, cho rằng đạo quân Hầu Nhân Bảo đi qua Ngân Sơn. Cuộc tranh luận đã thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm đến địa danh Ngân Sơn. Nhưng vấn đề đầu tiên được đặt ra là sách Việt sử lược có chép đạo quân Hầu Nhân Bảo đi qua Ngân Sơn hay không ? Trở lại các văn bản chữ Hán của Việt sử lược kết quả kiểm tra văn bản học cho thấy, đoạn văn chép đường hành quân của Hầu Nhân Bảo chỉ có tên đất Lãng Sơn, không hề thấy tên đất Ngân Sơn. Sau đây xin thống kê kết quả:

- Sách Việt sử lược (nguyên bản ở Tứ khố toàn thư) in trong Hoàng triều phiên thuộc dư địa tùng thư, do Thượng Hải thư cục in năm 29 thời Quang Tự (1903), ký hiệu ở Thư viện Viện Thông tin là P.264/4. Đoạn chép chiến sự năm 981, nguyên văn như sau: “Tân Tị, Thiên Phúc nguyên niên xuân Tam nguyệt, Hầu Nhân Bảo quân chí Lãng Sơn (浪 山). Trần Khâm Tộ chí Tây Kết, Lưu Trừng chí Bạch Đằng Giang…”

- Sách Việt sử lược do Thượng Hải Thương vụ ấn thư quán in năm thứ 26 thời Trung Hoa dân quốc, tức năm 1938, ký hiệu của Thư viện Viện Văn học là T.N.725. Nguyên văn chữ Hán cũng y hệt sách trên nghĩa là có câu: “Hầu Nhân Bảo quân chí Lãng Sơn…”

- Sách Việt sử lược, nguyên bản ở Thủ Sơn các tùng thư, nhóm Vương Vân Ngũ tập hợp vào Tùng thư tập thành, in lại năm Trung Hoa Dân quốc thứ 25, tức năm 1937, có rải rác trong một số tư nhân. Nội dung sách này ở Kỷ Lê Đại Hành cũng chép hệt như các bản sách in nói trên.

Ngoài các bộ sách in nói trên, tôi cũng đã đọc hai sách Việt sử lược viết tay ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1331, VHv.1521. Hai sách sao này cũng đều chép “Hầu Nhân Bảo quân chí Lãng Sơn …” như các bản in, chứng tỏ đoạn này sao đúng.

Như vậy sách Việt sử lược là bộ chính sử cổ nhất của nước ta đã chép rõ: đạo quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy có dừng lại ở Lãng Sơn. Chữ Lãng ở đây kết cấu theo lối tả hình hữu thanh của Lục thư. Nửa bên trái là bộ “thủy” (ba chấm) ghép cùng nửa bên phải là bộ “lương”, viết thành chữ “lãng” (浪). Lãng có nghĩa là sóng, biểu hiện tính năng động của nước ở vùng sông biển. Chữ nghĩa in chép rành rọt, không hiểu tại sao một vài bài viết, bài dịch đã đọc nhầm Lãng Sơn ra Ngân Sơn. Bản dịch Việt sử lược năm 1960 đã in nhầm là Ngân Sơn và đặc biệt gần đây, Thơ văn Lý - Trần, tập 3, in năm 1978, phần chữ Hán ở trang 260 viết đúng chữ Lãng, mà đoạn phiên âm ở trang 261 lại vẫn đọc là Ngân ?…

Về tên đất Lãng Sơn, một địa danh âm Hán Việt tồn tại trên trục đường biển giao thông Nam Bắc đã qua nhiều đời là việc bình thường. Trong cổ tịch văn bản Việt Nam, Trung Quốc, ta thấy nhiều chỗ, chữ Lãng còn được ghép với cách từ Hán Việt sau đây để trở thành các địa danh vùng sông biển:

Đảo : (ngoài bộ điểu, trong bộ sơn, kết cấu theo lối nội - hình ngoại thanh 島): chỉ núi đá hoặc có lẫn đất cát, chung quanh đều có nước bao bọc; tỷ dụ đảo Vân Đồn, đảo Hoàng Sa, đảo Phú Quốc, đảo Vĩnh Thực…

: (trái bộ sơn, phải bộ dư 嶼) chỉ tầm vóc nhỏ hơn đảo, nhưng chung quanh vẫn có nước bao bọc. Sách Đồng Khánh địa dư chí quyển 16, ký hiệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm VHv.2456 có chép: Xà Đầu dư, Tử Tiêu dư v.v…

Cương (trái bộ sơn, phải bộ cương : Núi nhỏ hoặc đá hoặc đất, có phần giáp nước. Như Lãng Cương, Tử Cương, Cương Lĩnh…

Giáp (trái bộ sơn, phải bộ giáp 岬: núi nhỏ có phần sườn ngập nước biển, gọi là giáp; đảo có mũi chĩa ra gọi là giáp giác. Như Tượng Đầu giáp: hòn Đầu Voi; Hoàng Long giáp: hòn Rồng Vàng v.v…

Cống (trên bộ công, dưới bộ thủy: 汞 kết cấu theo lối thượng thanh hạ hình): Chỉ luồng nước chen giữa quần đảo, hay lạch nước chen vào chỗ hai bên là bãi cát hoặc bãi núi.

Ở vùng Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh có các lạch Cống Ông, Cống Bà, Cống Đồn, Cống Cái, Cống Hạp, Cống Yên, Cống Đông, Cống Thừa… Một số tài liệu địa lý xưa của ta, thường đổi chỗ lại tùy tiện viết chữ “Cống” này ra chữ “Cống” (trên bộ công, dưới bộ bối 貢) có nghĩa là cống nạp, cống phú… nên lớp người sau khó hiểu tình hình địa lý cùng hải đảo.

Với tính chất hình thành địa danh như vậy, ở vùng hải đảo thường có những địa danh như Lãng Sơn, Lãng Dư, Long Cương, Cương Giáp v.v… ở vùng biển nước ta, địa danh Lãng Sơn có liên quan tới các cuộc chống Tống, chống Nguyên mà từ khoảng thời Hậu Lê lại nay, không ai xác định được. Tuy nhiên, tên tuổi nó còn thấy rõ trong các sử liệu tin cậy: Việt sử lược, Thiền uyển tập anh, An Nam chí lược, xác định được vị trí Lãng Sơn sẽ giúp ta xác định được đường hành quân và hoạt động của đạo quân Hầu Nhân Bảo sang xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ X.

II
LÃNG SƠN TRONG SÁCH AN NAM CHÍ LƯỢC

Tên tuổi Lãng Sơn không chỉ được ghi chép rõ ràng trong sách Việt sử lược mà còn được thấy ở sách An Nam chí lược do Lê Trắc viết từ cuối thế kỷ XIII sang đầu thế kỷ XIV.

Tôi đã được đọc bản sách in của Viện nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.16 Sách do Lục Thiện Đường thuộc thành phố Thượng Hải in lại vào tháng 2 năm Giáp Thân (1884).

Trong quyển 4 của sách này, phần thuật lại việc quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ ba đã nhắc tới địa điểm Lãng Sơn như sau:

Phiên âm: “Thập nhất nguyệt, thập nhất nhật Mậu Tuất, chu sư tiên tiến, kinh Vạn Ninh thủy khẩu, bỉ tướng Nhân Đức Hầu Trần Đa phục binh Lãng Sơn, tương đoản ngã hậu. Giác chi, tức dạ vi sơn, trà minh kích tẩu, nịch tử giả chúng sổ bách nhân, hoạch thuyên sổ thập tẩu…”.

Nghĩa là: “Ngày 11 tháng 11 là ngày Mậu Tuất, chu sư tiến trước, qua cửa biển Vạn Ninh, tướng bên kia (bên Đại Việt) là Nhân Đức Hầu Trần Đa phục binh ở Lãng Sơn, định cắt đứt hậu quân ta. Ta (bên quân Nguyên) biết được, lập tức đang đêm bao vây núi, chờ sáng thì đánh. Chúng thua bỏ chạy, chết đuối vài trăm người, ta bắt được mấy chục thuyền…”

Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm đã chú thích kỹ về đoạn này và riêng về địa điểm Lãng Sơn thì đoán định như sau: “ Toàn thư quyển 5 trang 52b chép: Ngày 28… (2-1-1288) Phán thủ Nhân Đức Hầu Toàn đem chu sư đánh ở vụng Đa Mỗ (Đa Mỗ Loan) giặc chết đuối rất nhiều, bắt được 40 tên, thuyền ngựa khí giới đem dâng vua. “Chúng tôi (tức Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm) cho rằng: Nhân Đức Hầu Trần Đa và Nhân Đức Hầu Toàn là một người (vì cùng chiến đấu trong vùng biển Quảng Ninh và nhất là không thể có hai người khác nhau lại cùng một tước hiệu trong cùng một thời). Lãng Sơn trong An Nam chí lược chắc là Ngọc Sơn. Nguyên sử quyển 209 An Nam truyện chép: Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp qua cửa Ngọc Sơn (Mũi Ngọc, Móng Cái). Có lẽ trận Lãng Sơn chép trong An Nam chí lược và trận Đa Mỗ chép trong Toàn thư là một trận…”(1)

Như vậy, địa điểm Lãng Sơn ở vùng biển Quảng Ninh đã liên quan đến đạo thuỷ quân Tống của Hầu Nhân Bảo ở thế kỷ X và trận đánh tướng Nguyên là Ô Mã Nhi ở thế kỷ XII, chứng tỏ đó là một vị trí chiến lược quan trọng.

III
NÚI LÃNG SƠN TRONG SÁCH THIỀN UYỂN TẬP ANH

Thiền uyển tập anh là tác phẩm thời Trần có nhiều sử liệu quí giá. Hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 1 bản, VHv.1267 in năm thứ 11 niên hiệu Vĩnh Thịnh thời Hậu Lê (1715).

Sách này có chép đến Lãng Sơn ở Tiểu truyện Thiền sư Vạn Hạnh. Nguyên văn như sau: “Vạn Hạnh… Đại hành hoàng đế viu sở tôn kính, Thiên Phúc nguyên niên, Tống Hầu Nhân Bảo lai khấu, dồn quân Tử Cương giáp Lãng Sơn. Đế triệu sư vấn chi dĩ thắng bại. Đối viết: Tam thất nhật trung tặc tất thoái. Hậu quá nhiên…”

Dịch nghĩa: “Thiền sư Vạn Hạnh… đến vua Đại Hành lại càng tôn kính sư. Năm đầu niên hiệu Thiên Phúc (980) tướng Hầu Nhân Bảo nhà Tống sang chiếm nước ta, đóng quân ở khoảng núi Tử Cương và Lãng Sơn. Vua mời sư hỏi về thắng bại. Sư đáp: Chỉ ba bẩy ngày giặc tất lui. Sau quả đúng như thế…”

Trong nguyên bản khắc chữ “giáp” là vỏ, đáng ra chữ “giáp” đó phải kèm bộ “sơn” ở nửa bên trái, mới đúng chữ “giáp” có nghĩa là núi nhỏ ở biển. Nhưng trường hợp sơ suất này cũng như trường hợp chữ “cống” tôi đã trình bày ở phần I.

IV
XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ LÃNG SƠN

Xác định vị trí núi này, các tác giả sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII đối chiếu với Nguyên sử, Toàn thư đã đoán định: “Lãng Sơn chắc là Ngọc Sơn…” Tọa độ địa lý trung bình của Ngọc Sơn là 21027’ vĩ bắc, 107057’ kinh đông.

Tôi (TBC) căn cứ ba nguồn sử liệu gốc nói trên, nhất là sách Thiền uyển tập anh cho biết thêm Lãng Sơn liền với núi Cương (hoặc Tử Cương), do đó tôi đoán định Lãng Sơn xưa là cù lao Hai Núi ngày nay trên thực địa và trên bản đồ hiện đại.

1. Xét về giới hạn của vị trí.

- Phía tây cù lao Hai Núi (Lãng Sơn xưa) nay còn tên núi Cương hoặc Tử Cương). Tọa độ địa lý trung bình của Núi Cương là: 210 16’ vĩ bắc, 107 0 34’ kinh đông, gần bãi đất liền châu Tiên Yên, chắc vào khoảng thế kỷ X bãi phù sa chưa lấn ra nhiều. Vùng sông phía tây núi Cương nay còn địa danh Hải Lãng.

- Phía Nam cù lao, nay là vụng cửa Mô, do biến âm tên xưa là vụng Đa Mỗ (Đa Mỗ loan) hay Vụng Mỗ (Mỗ Loan). Mô và Mỗ có âm gần nhau và tự dạng cũng có phần gần nhau. Vụng Cửa Mô bao phía nam cù lao Hai Núi là eo biển cổ họng của Duyên Hải Đạo từ thời Đường Tống. Có lẽ thời chống Nguyên thuyền của vua Trần phải rẽ cửa này nếu vào sông Tam Trĩ.

- Phía đông nam Lãng Sơn nối cửa Mô liền với miệng túi của luồng biển châu Vân Đồn, thuyền phương Bắc thường đi đường lộng theo ven, rồi qua vụng Cửa Mô, mới đến được Cửa Ông, Bạch Đằng. Nhưng khi có thuyền tốt, thuận gió đẹp trời, họ cũng có thể từ khơi phía cù lao Lợn Lòi đi vào, thì phục binh ở bờ đông nam Hai Núi cũng vẫn chặn đánh được.

Với hình thế giới hạn nói trên, Lãng Sơn trở thành vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến đường biển phía đông bắc nước ta. Tọa độ địa lý trung bình của Lãng Sơn là 21014’ vĩ bắc, 107036’ kinh đông.

2. Xét về thủy trình và kế hành quân của giặc.

Ở thế kỷ X, Bộ chỉ huy Tống buộc Hầu Nhan Bảo phải dừng quân ở Lãng Sơn, vì sợ rằng quân đội Tống không hợp được thủy bộ với nhau thì không thắng được Giao Chỉ, đồng thời cũng nhằm kiềm chế tính hiếu chiến, hấp tấp lập công của Hầu Nhân Bảo. Mà muốn hội quan tất phải tính độ đường của hai đạo thuỷ bộ đi, đến chỗ cần phải đặt hợp điểm; giá như đặt ở khoảng Ngọc Sơn thì chưa tiện lợi, vì cách điểm xuất phát (Lôi Châu) chưa xa, mà yêu cầu thông tin liên lạc cũng chưa cần. Vậy thì quân Tống phải đặt hợp điểm ở vùng Lãng Sơn là vừa phải, vì ở đó bộ binh Tôn Toàn Hưng với thủy binh Hầu Nhân Bảo dễ liên lạc với nhau bằng đường bộ hoặc đường sông Tiên Yên.

Đối chiếu thủy trình ghi trong Minh nhất thống chí Độc sử phương dư kỷ yếu, ta thấy: từ núi Bạch Long Vĩ đi thuyền theo bên bờ, sau hai ngày đến cửa Ngọc Sơn; đi tiếp một ngày đến châu Vạn Ninh ( An Nam chí lược ghi: Cửa biển Vạn Ninh; Đại Thanh nhất thống chí ghi: châu Vạn An): đi tiếp 1 ngày nữa đến Miếu Sơn (Miếu Sơn ở tọa độ trung bình 21022’ vĩ bắc, 107045’ kinh đông, hướng phía Nam cửa sông Hà Cối); lại đi tiếp 1 ngày nữa đến Đồn Suốt tuần ty (bờ biển ta xưa, từ Ngọc Sơn đến Đồ Sơn đã đặt nhiều tuần ty, thường kèm thêm Cửa Suốt. Cửa Suốt ghi trong thuỷ trình này có lẽ là Cửa Suốt xưa đặt gần Cửa Mô khoảng 4 km về phía tây, chắc không phải chỗ Cửa Ông); lại đi thuyền 2 ngày nữa đến phủ lỵ Hải Đông… Nhắc lại đoạn thủy trình trên, muốn nói rằng các thời trước, người phương Bắc vào nước ta chủ yếu là đi thuyền ven bờ biển và đến Cửa Mô tất yếu phải rẽ, mới có đường thông. Hơn nữa An Nam chí lược cho biết: Chu Sư nhà Nguyên đi qua cửa biển Vạn Ninh mới đến Lãng Sơn. Sách Toàn thư thì chép: Nhân Đức Hầu Toàn đem thủy quân đánh quân Nguyên ở vụng Đa Mỗ… Vậy thì Lãng Sơn phải ở gần vụng Đa Mỗ hay Cửa Mô, tức Cù lao Hai Núi như tôi đã đoán định.

3. Về tên núi Lãng Sơn: người đời sau khó nhận biết

Tên núi Lãng Sơn nay chỉ được thấy ở vài tập sách thời Trần, mà sách đó cũng do bọn Hoàng Phúc mang về nước Minh, sau triều Thanh cho in lại, thì ta mới được biết(2). Có lẽ đó là lý do mà khi Ngô Sĩ Liên soạn Quốc Sử, chỉ nghe Lãng Sơn trong khẩu truyền(3) mà không thấy Lãng Sơn trong đồ tịch, nên sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 1) của ông chép: “Mùa xuân tháng Ba, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn…” Vì có thể ông tưởng rằng: quân Hầu Nhân Bảo đã đi qua ải Chi Lăng theo đường Sứ lộ có từ thời Lý.

Sự nhầm tưởng trên đây, một phần do sách cổ bị mất mát, một phần do đến thời Ngô Sĩ Liên thì con đường sứ lộ từ Thăng Long qua Ôn Châu Lạng Sơn đến Ải Nam Quan là đường thẳng, tiện lợi nhất. Tình hình địa lý lúc đó không dễ cho Ngô Sĩ Liên hiểu rằng đạo bộ binh của nhà Tống do Tôn Toàn Hưng chỉ huy sang xâm lược nước ta, đã đi theo hướng đường bộ Ung Châu qua đất Nhương, đất Thang, rồi vào nước ta bằng con đường cổ Tiên Yên, Đông Triều như Lê Quý Đôn và Đặng Xuân Bảng sau này có bàn đến.

Theo sách Sử học bị khảo (phần Địa lý hạ) của Đặng Xuân Bảng thì, từ thời Đinh - Lê về trước, đường bộ ta đi sang Trung Quốc là đi qua đất Quảng Yên, còn đường sứ lộ từ Thăng Long đến ải Nam Quan, đặc biệt là đoạn khoảng từ ải Chi Lăng, Ôn Châu đến biên giới Trung Quốc thì mới đắp xong vào năm Thuận Thiên thứ 9 (1019). Người đầu tiên được vua Lý cử sang nhà Tống đi bằng đường này là Phí Trí năm 1020 được lệnh sang Quảng Tây đón kinh Tam Tạng.

Lê Quí Đôn khảo cứu địa chí Đường Tống và dẫn sách Hoàn Vũ ký đã cho biết: Quỉ Môn Quan ở phía nam huyện Bắc Lưu có hai thành đá dựng đối nhau, có văn bia và đền thờ Mã Viện ở đó. Người thời Tấn cũng đã qua Quỉ Môn Quan ấy sang Giao Chỉ, họ thấy có nhiều chướng lệ, nên nói câu: “Mười người đi, chín người không trở về”. Mà huyện Bắc Lưu thì gần châu Tiên Yên trấn Quảng Yên nước ta, Quỉ Môn Quan ở chỗ gần châu ấy, tục truyền ở châu Ôn Lạng Sơn là không đúng ( Vân Đài loại ngữ, quyển 3 điều 62).

Sách Đại Nam nhất thống chí (quyển 24 Lạng Sơn) mục Đền miếu chép “Đền Quỉ Môn: ở xã Chi Lăng châu Ôn, trước mặt là khe sâu, sau lưng là núi đá, cây cối um tùm, hình thế hiểm trở. Tương truyền đền này thờ Phục Ba Mã Viện, nhưng xem kỹ tượng đá thì tượng hình dáng đàn bà, sự tích thì ngoa truyền không thể khảo cứu được”.

Căn cứ các nguồn tài liệu vừa dẫn trên, rõ ràng đạo thủy quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy đã hành quân theo tuyến đường ven biển Lãng Sơn Bạch Đằng và đạo bộ binh Tống do Tôn Toàn Hưng chỉ huy đã đi theo tuyến đường cổ Tiên Yên, Đông Triều để vào nước ta, chứ không liên quan gì đến vùng Ải Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn như sách Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê đã chép, cũng không hề qua Ngân Sơn như đã bị dịch nhầm trong sách Việt sử lược.

T.B.C

CHÚ THÍCH:

(1) Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb. KHXH, H. 1970, tr.261-262.

(2) Trần Bá Chí: Nghiên cứu lịch sử số 6, tháng 11 - 12 năm 1979.

(3) C.L. Madrolle Le Tonkin ancien - BEFEO XXVII - 1937, p. 304.

TB

BÀI VĂN BIA CỔ TÍCH LINH TỪ BI KÝ Ở NÚI TỬ TRẦM (HÀ TÂY) DO NHÀ
SỬ HỌC LÊ TUNG SOẠN

NGUYỄN QUANG HÀ
NGUYỄN QUANG NGỌC

1. Xuất xứ tấm bia và vài nét về tác giả

Tại xóm San, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện còn lưu giữ được tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Bia có chiều cao 1,22m, rộng 1,20m, trong đó trán bia cao 0,24m, chạm hoa văn rồng chầu mặt nguyệt cách điệu, hai diềm bia chạm hoa, dây leo. Bia được dựng trong một am nhỏ có mái che, chữ còn khá rõ nét, viết chân phương, dễ đọc. Bia gồm 22 dòng, mỗi dòng khoảng 50 chữ, tổng cộng hơn 1200 chữ, một bài tựa và một bài minh dài hơn 70 câu (mỗi câu 4 từ). Phần cuối bia là dòng lạc khoản ghi: “Hồng Thuận nhị niên, tuế thứ Canh Ngọ trọng thu, cát nhật, Tiến thận quang lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử giám Tế tửu(1) Tri kinh diên sự thần Lê Tung đẳng phụng sắc soạn”. Nghĩa là: (Ngày tốt, tháng giữa thu [tháng 8] năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 [1510] do Tiến thận Quang Lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn soạn sắc)

Đây là tấm bia mà soạn giả là một nhà sử học nổi tiếng sống cách chúng ta khoảng 500 năm. Nội dung tấm bia cho biết nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI, xung quanh việc Lê Tương Dực (1509 - 1516) lên ngôi. Ngoài ra, nội dung tấm bia còn mô tả về quang cảnh khu di tích núi Trầm thời Lê(2).

Ngoài tấm bia ở núi Trầm do Lê Tung soạn. Nội dung tấm bia tại đình Kim Liên về cơ bản cũng tương tự như tấm bia ở chân núi Tử Trầm nhưng có thay đổi thêm bớt một số từ. Bia ở đình Kim Liên có chiều cao 2,20m, rộng 1,40m, dày 0,22m, hoa văn rồng chầu mặt nguyệt, khắc đẹp rõ nét. Bia không có tên, dòng đầu ghi: “Cao Sơn Đại vương thần từ minh tịnh tự” (Bài tựa và bài minh bia ở đền thờ Cao Sơn Đại vương). Mặt sau ghi: “Cảnh Hưng tam thập tam niên, tuế tại Nhâm Thìn, trọng thu, sơ nhất nhật, phụng lập bi. Nguyên bi tại Phụng Hóa huyện tự cổ truyền lai, phù vu Bồ Đề giang tân. Ư Hoằng Định niên gian, bản phường duệ đắc nghênh hồi trí vu tự địa, trí tư huyền trưng lũ thử nhân phụng nghênh lập bản Từ tả biên dĩ thị tôn nghiêm, truyền vĩnh cửu nhưng tả dĩ vi chí vân”. Nghĩa là: (Bia dựng ngày mồng một, tháng giữa thu [tháng 8], năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 [1772]. Bia nguyên ở huyện Phụng Hóa(3). Từ xưa truyền lại trôi đến Bồ Đề(4). Khoảng niên hiệu Hoằng Định [1602 - 1619] bản phường kéo lên đặt ở đất chùa, bày ở bên trái của đình để cho thêm phần tôn nghiêm, bèn viết vào để truyền mãi mãi).

Như vậy, xuất xứ của tấm bia này đã rõ ràng. Chúng tôi không biết ở huyện Phụng Hóa (xưa) có còn tấm bia nào của Lê Tung không, nhưng khi đối chiếu chúng tôi cho rằng tấm bia đình Kim Liên này đã chép lại gần như hoàn toàn nội dung tấm bia ở chân núi Tử Trầm. Điều đó chứng tỏ uy tín cũng như sử bút của nhà sử học Lê Tung được người đời sau trân trọng(5). Mặt khác xét về vị trí địa lý và địa hình thì tấm bia ở chân núi Tử Trầm đã phản ánh đúng cảnh quan như "núi rừng rậm rạp, cành lá giao nhau, có vực sâu...".

Lê Tung tên thật là Dương Bang Bản (1452 - 1514) người xã An Cừ, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là một vị công thần sống vào cuối triều Lê sơ, được ban quốc tính, sau đổi là Lê Tung. Năm 23 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức (1484) đời Lê Thánh Tông. Ông từng được cử đi sứ, làm quan thăng đến chức Lễ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, tước Đôn Thư bá, thọ 63 tuổi(6). Tác phẩm của ông hiện nay được biết đến không nhiều(7), quan trọng nhất là Việt sử thông giám tổng luận (8).

Dưới triều vua Lê Uy Mục và đặc biệt dưới triều Lê Tương Dực, Lê Tung được giao nhiều trọng trách quan trọng. Năm Hồng Thuận thứ 5 (1513) ông được cử soạn tấm bia: Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Khoa thi Tiến sĩ năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 [1511](9)). Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Mùa thu, tháng 9 năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), sai Thiếu Bảo, Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, Đôn Thư bá(10) Lê Tung soạn bài Đại Việt thông giám tổng luận. Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết: năm 1514, Lê Tung cùng các nhân vật nổi tiếng khác như Lê Phụ, Đàm Thận Huy, Nguyễn Bá Thuyên, Đỗ Nhạc trông coi việc thi(11)... Được triều đình giao cho nhiều công việc quan trọng như thế, chứng tỏ tài năng mẫn tiệp và sự tín nhiệm của triều đình đối với ông.

2. Bối cảnh lịch sử khi Lê Tung soạn Cổ tích linh từ bi ký

Có thể nói rằng, nhà sử học Lê Tung là người đã từng chứng kiến nhiều đổi thay của xã hội Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI. Cuộc đời làm quan của ông trải qua 5 đời vua: Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1469 - 1497), Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống (1498 - 1504). Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục niên hiệu Đoan Khánh (1505 - 1509), Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận (1509 - 1516).

Kể từ khi thi đậu Hoàng giáp (1484) cho đến khi qua đời, ông may mắn tận mắt thấy được thời kỳ thịnh trị vào bậc nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam (dưới triều Lê Thánh Tông) và cũng chính ông đã chứng kiến sự khủng hoảng trầm trọng của triều Lê Uy Mục và Lê Tương Dực.

Lúc này nhiều công thần, hiền tài bị giết hại như Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử đài Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật... Chính vào thời điểm này, Lê Tung được giao nhiều việc quan trọng như: Thừa tuyên xứ Thanh Hoa(12), Hàn lâm viện Kiểm thảo...

Tuy được tin dùng, được giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng sống và làm việc dưới quyền một ông vua bạo ngược, gian ác, Lê Tung cùng nhiều văn thần khác phải lựa chọn hành động khởi binh chống lại. Sử chép: "Tháng 11 năm 1509, bấy giờ vua giết hại tông thất, Giản Tu Công còn bị giam ở ngục mới đem của đút lót người canh giữ thoát ra được, chưa kịp chào mẹ, anh em và vợ mình, một mình trốn vào Tây Đô. Đến cửa biển Thần Phù được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn đúc giáo dài, cùng bọn văn thần Nguyễn Diễm, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Lê Thanh Hoa, Tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung khởi nghĩa, sai Lương Đắc Bằng viết hịch dụ đại thần và các quan. Đại ý nói: Bạo chúa Lê Tuấn phận làm con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn"(13)...

Có thể nói những sự kiện nổi bật dưới thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã được sử sách chép lại khá kĩ. Điều đặc biệt là những sự kiện lịch sử ấy đã được nhà sử học Lê Tung - người đã từng trực tiếp tham gia làm nên lịch sử giai đoạn này ghi lại gần như đồng thời qua tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Nội dung tấm bia không những cho chúng ta biết sự mâu thuẫn gay gắt trong triều đình Lê Uy Mục, quá trình giúp Lê Tương Dực lên ngôi mà còn giúp cho chúng ta hiểu thêm lịch sử cũng như quang cảnh khu di tích núi Trầm - một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Hà Tây cách chúng ta ngày nay 5 thế kỷ. Cả hai tấm bia ở núi Trầm và ở đình Kim Liên như đã đề cập ở trên đã được một số sách giới thiệu nhưng còn sơ sài, thậm chí viết sai và chưa nghiên cứu kỹ về văn bản. Sau đây chúng tôi xin phiên âm, dịch lại cho sát nghĩa hơn đặc biệt là tiến hành khảo sát kĩ về văn bản (chúng tôi chọn văn bia ở núi Tử Trầm làm bản chính).

. Nội dung tấm bia

Phiên âm:

Cổ tích linh từ bi ký

Cao Sơn đại vương thần từ minh tịnh tự.

Cái văn:

Đế vương hưng nhân nghĩa chi binh, cứu sinh dân chi mệnh. Kỳ quy khôi hoành toán hạp tịch hùng khuých(14), dĩ thành mạc đại chi công, sáng mạc đại chi nghiệp giả. Cái hữu mạc đại chi đức, nhi cùng thiên(15) vi chi hiệp ứng, thần minh vi chi tán trợ phi ngẫu nhiên dã. Thị Chu Vũ triệu tạo Thương cơ, tất lại sơn xuyên linh thần chi khắc tướng, Hán Quang trùng hưng xích tộ, diệc lại bạch y phụ lão chi nhiên phù ư Hoàng Đại Việt.

Thánh tổ Cao hoàng đế, khởi nghĩa chi sơ, tắc hữu hoằng hựu chí linh chư danh thần vi chi âm chất khởi phi. Thiên địa quyến vu chí nhân, quỷ thần hưởng vu hữu đức giả da. Khuyết hậu miếu từ sáng lập, ân lễ triệu xưng tự điển, chiêu thùy xuân thu chí tế, giai sở dĩ báo thần tứ nhi kỳ(16) hồng hưu dã. Linh ứng chương minh, cổ kim phù khế. Khoảnh giả, Lệ Mẫn thất đức, hung bạo tứ hành, ngoại thích chuyên quyền, nội triều can chinh, đồ độc triệu thứ, ngư nhục tông phiên, thiên oán dân nộ nhi bất chi tri, chúng bạn thân(17) li nhi bất chi giác. Kỷ Tỵ niên, thập nhất cực, ức triệu chi dân. Thời tắc hữu Trường Lạc điện thân thuộc, dương vũ hiệp mưu, đồng đức hiệu trung, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghị đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc Thừa tướng thượng tể, Thái phó Uy quốc công Nguyễn Bá Lân; Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Tả đô đốc Kim Ngô vệ đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ; Quang tiến Trấn quốc Đại tướng quân(18), Tả kiểm điểm tham đốc hiệu lực, Tứ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ đẳng, phụng mệnh tồ chinh, đồng tâm dực tán củ hợp hào kiệt, phúng tập(19) dân binh, tá bạch mao hoàng việt chi hành, đại cực nịch hanh truân(20) chi cử, Văn Lữ đẳng hành chí Ninh Sơn huyện(21). Kỳ sơn lâm linh úy, diên mậu quảng mạc, hữu uyên danh Lầm đương nhất mẫu, hứa tĩnh thâm bất trắc, thụ mộc giao gia. Thượng hữu nhất từ, cái dĩ thảo mao(22). Từ trung lập thạch đề viết: “Cao Sơn Đại vương”, Văn Lữ đẳng đổ(23) chi kinh dị, nãi khẩn chúc viết: “Đoan Khánh tàn ngược, dân bất liêu sinh. Thiên mệnh nhân tâm, quy vu hữu đức. Kim Thánh thượng dĩ Thánh Tông chi tôn, Kiến Hoàng chi tử. Tư tổ tông sáng nghiệp chi nan, mẫn(24) triệu tính đảo huyển chi khổ, vị xã tắc kế hưng, trừ tàn khử bạo chi binh. Văn Lữ đẳng cộng tá minh quân dĩ an thiên hạ. Thần như hữu linh, âm phù mặc tương, dĩ tế đại nghiệp. Sự thành chi nhật, Văn Lữ đẳng tất thỉnh mệnh vu triều tôn hiển chi dĩ chiêu thần chúc”.

Ngôn tất, nghiêm chỉnh bộ ngũ túc đội nhi hành, tứ phương thần dân bất kỳ nhi hội hồ tương đan thực dĩ nghênh vương sư. Binh vô huyết đao chi lao, dân toại vân nghê chi vọng, hùng đồ đãng địch cung cấp túc thanh, ức niên chi chung đỉnh. Cái miên(25) cửu miếu chi quang linh, vĩnh thỏa tam cương, cửu trù dĩ chi nhi phục yên(26).

Hoàng đồ quốc tộ do thị nhi tái an, tăng bất tuần nhật nhi thành công chi tốc như thử. Cái do, thánh đức tố phù, thiên nhân hiệp ứng, nhi qủy thần hữu dĩ tương chi dư. Bản niên, thập nhị nguyệt(27), sơ nhị nhật, Hoàng thượng quang đăng bảo vị, Đản phủ đa phương(28) phát chính thi nhân, dĩ sủng thỏa hồ, triệu tính(29) xưng lễ hàm trật, dĩ hoài nhu hồ. Bách thần Văn Lữ đẳng ngưỡng đại huân chi khắc tập tư thần huống chi, khổng chương dĩ kỳ sự, văn ngọc âm, tứ khả sắc Ninh Sơn huyện, Tử Trần xã(30), doãn đốc áp quân dân, cấu tác từ vũ. Mệnh Công bộ tác bi, nhưng mệnh thần đẳng soạn minh(31) dĩ thùy vĩnh cửu. Cố thần đẳng ngu lậu, xương thúc dĩ tán dương thánh hoàng công nghiệp chi long, phát huy(32) thần lý cảm thông chi diệu. Nhiên ký thao phụng. Minh chiếu cảm bất đối dương hưu mệnh hồ. Thần đẳng thiết duy: đức tất thụ mệnh, cổ kim chi(33) định lý dã, vi chi năng hiển, quỷ thần chi thịnh đức dã. Cái kỳ triệu phi thường chi nghiệp. Tuy bản đế vương chi đức, nhi tán thành phi thường chi nghiệp, diệc do thần minh chi trợ. U minh nhất lý, cảm ứng nhất cơ, thiên nhân tương dữ chi tế, hữu như thử giả, nghi kỳ luân hoán. Từ vũ, thần hôn hương hỏa báo thần tứ dã. Trật chi tự điển, lặc chi trinh mân, chiêu linh ứng dã. Duy thần tố lẫm, càn khôn chi chính khí, chung quang nhạc chi tinh linh, nhiên tương hoàng đồ, vĩnh phù bảo tộ, phù hồng hưu ư hữu vinh, giới cảnh phúc ư vô cùng, tắc tư sơn dã dữ thiên địa đồng, kỳ du hĩ(34). Y ư hưu tai.

Minh viết:

Úy bỉ sầm cương
Yên phụ thương thương(35)
Chung kỳ dựng tú
Tốt thắng dục tường
Hồi uyên(36) trừng bích
Lục thủy phù quang
Tĩnh thâm mạc trắc
Bàn vô phương dân(37)
Lương trùng khảm lập
Thần bí linh tàng
Liêu tai tứ cố
Hiên khoát vũ trụ
Xác thị (38) thử gian
Hữu nhất từ vũ
Mao cái trúc dạng
Phần đề thạch chủ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi khổng phụ
Hữu cảm giai thông
Khuyết thi tư phổ
Thời thuộc cấu truân(39)
Thiên khải minh quân
Tây Đô phấn thi(40)
Mao việt cung thân
Hoàn toàn danh tướng
Củ củ nghĩa dân
Tiễu trừ chí nhuệ
Khẩn chúc tư cần
Đại sự khắc tế
Tương lễ thị ban
Dương dương như tại
Linh giám hoằng khải
Trợ ngã uy thanh
Tiêu trì điện mại
Dân úy vọng nghê
Phong truyền(41) quải bái
Tăng bất du tuần
Báo tứ khổng khánh
Khẩn khoản vân tiên
Cụ trần linh huống
Nhật đốc phất huyên
Cửu trùng(42) du cửu
Thịnh ý quyền quyền
Tưu quy viện khế
Cốc nhật tải quyên
Chiêu đáp bất sảng
Cử hành thị tiên
Nãi giới tể ấp
Hưng tu duy cấp
Cưu công trợ tài(43)
Hoa tự (44) du lập
Giác suy đống lương
Luân hoán nguy ngập
Miếu mạo tôn nghiêm
Quang linh diệp dập(45)
Hương hỏa minh yên(46)
Tuế thời viên cập
Thẩn thị kí công
Duy thạch khung lung
Thu tự xuân phúc
Triện Lý, Lệ Chung
Lưu phương ích hiển(47)
Hữu(48) quốc tăng long
ức niên tích phúc
Càn khôn thanh thái
Y thùy lực dư
Duy thần thị lại
Quảng bá hưu phong
Từ tiền vĩnh trấn
Chiêu vĩnh vô cùng.

Hồng Thuận nhị niên(49), tuế thứ Canh Ngọ, trọng thu, cát nhật.

Tiến Thận Quang lộc đại phu(50), Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần, Lê Tung đẳng phụng sắc soạn.

Hiển cung đại phu Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi phụng tả.

Thí An bí danh tạo cơ san thư tượng tượng phó, thần Bùi Nhữ Dịch phụng san.

Dịch nghĩa:

Văn bia đền thiêng cổ tích

Bài tựa và bài minh đền thờ Cao Sơn đại vương

Thường nghe: Bậc đế vương lấy binh để hưng nhân nghĩa, cứu dân, khôi phục lại công nghiệp, không gì lớn lao bằng. Đại để là do sự giúp đỡ của thần linh không phải là ngẫu nhiên vậy. Vì thế Vũ Vương đã gây dựng nên công nghiệp họ Chu(51) ắt nhờ cậy vào thần linh sông núi. Quang Vũ trùng hưng công việc nhà Hán(52) cũng phải nhờ vào các bậc phụ lão áo trắng giúp đỡ(53).

Thánh tổ Cao Hoàng đế buổi đầu khởi nghĩa, tất có sự phù hộ lớn lao, họa phúc đều bởi do các bậc thần linh nổi tiếng, trời đất chí nhân, quỷ thần có đức. Về sau đền miếu được dựng xây, triều đình ban ơn lớn lao, để xuân thu tế lễ, đều là báo đáp công ơn của thần, nổi tiếng linh ứng, phù hộ xưa nay. Bỗng chốc Lệ Mẫn(54) thất đức hung bạo, ngoại thích chuyên quyền, trong triều can gián, chà đạp dân chúng, giết hại tông thần. Trời oán dân giận mà không biết, dân chúng chống lại rời bỏ mà không hay.

Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509) Hoàng thượng tránh loạn ở Tây Đô, tập trung nghĩa binh để khôi phục công nghiệp lớn lao của Cao Tổ, của muôn triệu dân. Lúc ấy, ở điện Trường Lạc(55), người thân thuộc cùng nhau bàn bạc, dốc lòng trung thành, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc thừa tướng, Thượng tể Thái phó Uy Quốc công Nguyễn Bá Lân(56); Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tả Đô đốc Kim Ngô vệ, Đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ(57). Quang tiến trấn quốc, Đại tướng quân, Tả kiểm điểm, Tham đốc hiệu lực, Tứ vệ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ(58) cùng kính cẩn vâng mệnh đi đánh dẹp. Cùng nhau tập hợp hào kiệt, nhóm họp dân binh, giúp cho cờ quạt đao binh đi làm việc lớn. Vượt qua khó khăn, Văn Lữ hành quân đến huyện Ninh Sơn(60). Núi rừng rậm rạp, hoang vắng, có vực sâu, khoảng một mẫu yên tĩnh ngập nước, sâu không lường được, cây cối cành lá giao nhau, trên có một đền thờ lợp bằng cỏ tranh, trong đền dựng cột đá đề chữ: "Cao Sơn Đại Vương". Văn Lữ nhìn thấy, sợ hãi mà khấn rằng: “Đoan Khánh(61) tàn ngược dân không sao sống nổi. Lòng người, mệnh trời đều trở về với người có đức. Nay Thánh thượng lấy con của Kiến Hoàng(62) cháu của Thánh Tông lên làm vua. Nghĩ rằng tổ tông gian nan dựng nghiệp, thương muôn họ phải chịu cảnh đọa đầy. Vì sự duy trì của xã tắc mà dấy binh để trừ tàn khử bạo. Văn Lữ giúp nhà vua giữ yên thiên hạ. Thần như linh thiêng, phù hộ cùng cứu giúp nghiệp lớn. Công việc thành công, Văn Lữ tâu với triều đình để tôn vinh công lao của thần”.

Cầu xong, hàng ngũ chỉnh tề kéo đi, bề tôi và dân chúng không hẹn nhau mà mọi người đều tập trung đi theo, chuẩn bị giỏ cơm, túi nước để đi đón quân của nhà vua. Binh không phải khổ máu dây mũi gươm đao, dân thỏa nguyện mong chờ, như nắng hạn gặp mưa rào, giặc bị tiêu diệt, cung cấm sạch làu, muôn năm bền vững. Đại để, do sự linh thiêng của miếu mạo, Tam cương, Cửu trù(63) được bền vững dài lâu, sự nghiệp lớn lao lại được khôi phục.

Vận nước do đó lại được an, chưa đến một tuần mà đã thành công nhanh chóng. Được như thế, là do đức thánh phù hộ, đạo trời và lòng người giúp sức, quỷ thần cùng tương trợ chăng ?

Ngày 2 tháng 12 năm ấy (1509), Hoàng thượng lên ngôi(64). Nhà vua vỗ về, thi hành nhân nghĩa để thể hiện sự sùng chuộng, muôn họ được ban hàm phẩm trật để tỏ rõ lòng mến mộ. Văn Lữ cùng trăm thần được thưởng công lớn. Nghĩ rằng, công của thần thật lớn lao. Nghe lời ngọc, ban sắc cho xã Tử Trầm, huyện Ninh Sơn. Sai quân dân xây dựng đền thờ, mệnh cho Bộ Công dựng bia, sai thần soạn bài minh để lại mãi mãi. Nhưng thần vốn nông cạn, sao đủ để ca ngợi công đức lớn lao của Hoàng đế, phát huy cái kỳ diệu của thần thánh, bèn đội ơn trọng đãi, kính cẩn vâng theo mà không dám chối từ. Thần trộm nghĩ, đức vốn thụ bẩm ở trời vốn là lẽ xưa nay, do đó mà được vinh hiển là cái đức lớn của quỷ thần vậy. Đại để, mở ra sự nghiệp phi thường cũng là do cái đức đế vương, làm nên nghiệp lớn cũng là do thần sáng suốt giúp sức, sự biến hóa linh diệu, đạo trời lòng người cùng nhau giúp đỡ. Như thế, phải sửa sang đền miếu để sớm tối hương hỏa, báo đáp công ơn của thần. Triều đình ban cho ân điển, khắc vào đá quý để tỏ rõ sự linh ứng vậy. Nghĩ rằng thần lớn lao vĩ đại tập trung cả trời đất, kết tinh linh thiêng của núi sông, cùng bảo hộ cơ đồ bền vững, phù giúp sự nghiệp đến vô cùng, phúc lớn vô tận, tức là núi này vậy. Cùng tồn tại mãi mãi với trời đất. Than ôi ! Tốt đẹp thay!

Minh rằng:

Núi cao rậm rạp
Cây cối tốt xanh
Linh thiêng kết tụ
Chứa chất điềm lành
Dòng sông uốn lượn
Nước biếc lung linh
Thẳm sâu khó lường
Mênh mông rừng núi
Non cao nước sâu
Dấu ấn thần linh
Bốn phương vắng lặng
Vũ trụ bao la
Nơi đây đất phúc
Có một ngôi đền
Lợp bằng cỏ tranh
Cột đá đề chữ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi gò lớn
Có cảm đều thông
Thi hành rộng khắp
Khi gặp gian truân
Trời sinh minh quân
Tây Đô giết giặc
Cùng mang cờ kiếm
Tướng giỏi hăng say
Tập hợp nghĩa dân
Một lòng diệt giặc
Kính cẩn cầu khẩn
Giúp đỡ lớn lao
Tướng lễ ban gia
Bao la như thế
Mọi chốn linh thiêng
Giúp ta tăm tiếng
Hơn bão hơn chớp
Dân mong ngóng tin
Treo cờ thắng trận
Chưa quá một tuần
Đất trời trong sáng
Bởi dựa vào đâu
Dựa vào thần thánh
Báo công thắng lớn
Khẩn khoản tâu bày
Quả được ứng ngay
Hết lòng phù giúp
Cửu trùng đáp lại
ý thánh thiết tha
Xin chọn giao ước
Ngày đẹp trai giới
Rõ rệt không sai
Cử hành trước hết
Khuyên bảo ấp này
Tu sửa liền ngay
Góp công góp của
Nhanh chóng dựng xây
Trụ cột xà rui
Nguy nga lộng lẫy
Miếu mạo tôn nghiêm
Linh thiêng ngời sáng
Nghi ngút khói hương
Suốt năm dân kính
Ghi việc ghi công
Viết vào đá quý
Xuân cúng thu thờ
Dựa vào khí tốt
Tiếng tăm lẫy lừng
Giúp nước thịnh hưng
Muôn năm tích phúc
Quảng bá tốt lành
Trước đền trấn yểm
Chiếu mãi vô cùng.

Ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8), năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 (1510).

Tiến thận Quang lộc đại phu, Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn vâng soạn.

Hiển cung đại phu, Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi kính cẩn viết. Thí An bí doanh tạo sở san thư tượng thạch phó, thần Bùi Nhữ Dịch kính cẩn khắc chữ(17).

N.Q.H - N.Q.N

CHÚ THÍCH:

(1) Quốc tử giám Tế tửu là một chức quan đời xưa. trong bia khắc là “Kiêm Quốc tử giám Tế Tri kinh diên sự”: thiếu chữ “tửu” (酒).

(2) Có thể xem bản thần tích, thần sắc của thôn Miếu, xã Long Châu thờ Cao Sơn đại vương của tổng Tiên Lữ, Hà Đông, ký hiệu Viện Thông tin khoa học xã hội Q418/1125 và của thôn San, ký hiệu Q4 18/II 24.

(3) Huyện Phụng Hóa trong sách Hồng Đức bản đồ (bản chữ Hán) lưu trữ tại Đông Dương văn khố Tokyo (Nhật Bản) ký hiệu X-2-24 tờ 6 viết: Huyện Phụng Hóa (phủ Thiên Quan, xứ Thanh Hoa) có 27 xã, 1 trang, 1 trại.

(4) Bến Bồ Đề nay thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội.

(5) Chúng tôi gọi tấm bia ở xóm San, xã Phụng Châu dưới chân núi Tử Trầm là bản (A) - ký hiệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm N0 1954. Bản ở đình Kim Liên là bản (B) - N0 1025-1026. Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một quyển sách chữ Hán, ký hiệu VHT.42 chép lại bản (A) có sửa chữa bằng bút chì, (đây là một cuốn sách mới chép gần đây). Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1992, tr. 61 giới thiệu bản (B) là do Bùi Nhữ Trạch khắc bia, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 23 (1762). Tên bia là Cao Sơn Đại vương thần từ bi minh. Khi dịch bản (A), sách Chương Mỹ xưa và nay, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây, 2003, tr.678 lại viết là Bùi Văn Dịch khắc. Đúng ra là Bùi Nhữ Dịch khắc, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772) và bia không có tên, bản (B) dòng đầu ghi Cao Sơn Đại vương từ minh tịnh tự.

(6) Xem Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoãn năm Cảnh Hưng 40 (1779) ký hiệu VHv.650 - 1 quyển tờ 30a hoặc xem Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ chủ biên), Nxb. Văn học, H. 1993, tr.182.

(7) Hiện nay, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một số sách chép lại tác phẩm của Lê Tung:

- Sách chép tay bài văn bia đền Cao Sơn đại vương ở ứng Hòa rồi sửa chữa bằng bút chì, kí hiệu VHt.42.

- Đại Nam bi ký thi trướng bảo tập: A.222.

- Nhàn ái thần từ lục: một bản viết 32 tr, 32x22,5cm, A.710. Viết về sự tích của Đỗ Kính Tu có lời bình của Ngô Sĩ Liên, Lê Tung. Ngoài ra còn một số bản thần phả mang tên Lê Tung soạn. Song về về niên đại của những bản thần này có nhiều nghi vấn. (Xem thêm bài Nhà sử học Lê Tung và lạc khoản trong một số bản thần phả hiện có của Nguyễn Quang Trung, Lê Kim Thuyên, Thông báo Hán Nôm học năm 1997, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.664-670.

(8) Việt sử thông giám tổng luận do Lê Tung soạn. Theo Phan Huy Chú, khi Vũ Quỳnh làm xong sách Đại Việt thông giám thông khảo, dâng lên vua, Tương Dực muốn tóm tắt những điều quan trọng trong bộ sử ấy và có phê phán làm thành bài tổng luận để đọc cho tiện, bèn sai Lê Tung soạn (chú thích của Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Nxb. KHXH, H. 1993, tập III, tr.173. Bản chữ Hán, Bản kỷ (BK) quyển XV - tờ 24b.

(9) Bia mang số 11 ở Văn Miếu Hà Nội hoặc thác bản văn bia Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, NO 1369.

(10) Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB), Nxb. KHXH, H. 1997, tr.28 (bản chữ Hán tờ 111b) ghi là “Đôn Hòa bá”. Theo ĐVSKTT và hai tấm bia (A), (B) đều ghi là “Đôn Thư bá”.

(11) ĐVSKTT - BK, q. XV, tờ 24b, bản tiếng Việt Sđd., tr.72. Xem thêm: Hồng Thuận lục niên Giáp Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, N0 1356.

(12) ĐVSKTT - BK, q. XIV tờ 24b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.40.

(13) ĐVSKTT - BK, q. XIV, tờ 50b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.97-98.

(14) Tuyển tập văn bia Hà Nội (TTVBHN), Nxb. KHXH, H. 1978, tr.16-23; tr.118-123 chép nhầm là “Hùng đồ” (雄 圖).

(15) Bản (B) viết nhầm thành chữ “thị” (示) vì chữ “thị” (示) và chữ “thiên (天) tự dạng giống nhau.

(16) TTVBHN ghi là chữ “kỳ” (期) theo bản gốc đúng ra phải là (祈).

(17) Bản (A) viết là “dân” (民), bản (B) viết là “thân” (親) cả hai chữ này đều thông nghĩa.

(18) TTVBHN thiếu chữ “quân” (軍).

(19) TTVBHN thiếu chữ “tập” (集).

(20) Bản (A) viết là , bản (B) viết là (屯). Riêng chữ (屯) có 2 âm đọc “truân” và “đồn”. Ở đây, chữ (屯) phải đọc là “truân” (nghĩa là khó khăn) mới thông nghĩa. Có lẽ bản (A) viết lộn chữ “truân” (屯) thành chữ “đồn”
().

(21) Bản (B) thay 3 chữ “Ninh Sơn huyện” (寧 山 縣) bằng chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣) (xem thêm chú thích 3).

(22) Bản (B) viết: “cái dĩ mao thảo” (蓋 以 茅 草) bản (A) thiếu chữ “dĩ” (以).

(23) TTVBHN viết nhầm chữ “đổ” () thành chữ “thị” (視).

(24) Bản (B) viết chữ “Đồng” (同) (cả câu là: cùng muôn họ chịu cảnh đọa đầy); Bản (A) viết là chữ “mẫn” (憫), (cả câu là : thương muôn họ chịu cảnh đọa đầy) đều có nghĩa.

(25) TTVBHN ghi “ích diên” (益 延). Theo bản (B) viết là “ích miên” (益 綿). Bản (A) viết là “ích cẩm” (益 錦) có lẽ bản (A) khắc nhầm.

(26) Bản (A) khắc là “yên” (焉), bản (B) khắc là “chính” (正) ở đây phải là “yên” (焉) mới đúng. Bản (B) khắc nhầm.

(27) TTVBHN viết là “thập nguyệt” (十 月). Xin sửa lại là “thập nhị nguyệt” (十 二 月) .

(28) Bản (A) viết là “linh phương” ( 方). Bản (B) khắc là “đa phương” (多 方), chúng tôi theo bản (B),

(29) Bản (A), (B) đều ghi là “vu triệu tính” (于 兆 姓), “vu bách thần” (于 百 神). TTVBHN ghi là “vu bách tính (于 百 姓), “vu bách thần” (于 百 神).

(30) Bản (B) thay 6 chữ “Ninh Sơn huyện, Tử Trầm xã” (寧 山 縣, 紫 沉 社) bằng 3 chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣).

(31) Bản (A) đều viết là “thần đẳng soạn minh” (臣 等 撰 銘). TTVBHN ghi nhầm là “thần đẳng soạn bi” (臣 等 撰 碑).

(32) TTVBHN thiếu 2 chữ “phát huy” (發 揮).

(33) TTVBHN viết “cổ kim định lý” (古 今 定 理). Theo Bản (A), (B) phải là “cổ kim chi định lý” (古 今 之 定 理).

(34) Bản (B) khắc là “kỳ du cửu hĩ” (其 愈 久 矣) thêm chữ “cửu” (久).

(35) Chữ “thương” (蒼) không kiêng húy. Xem Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, H. 1997, tr.70-72.

(36) TTVBHN ghi là “uyên hồi” (淵 洄) xin sửa lại theo đúng nguyên bản là “hồi uyên” (洄 淵).

(37) Bản (A) là : “bàn vô phương dân” (磅 無 方 民) bản (B) viết là “bàn bạc vô phương” (磅 礡 無 方), chúng tôi theo bản (B).

(38) TTVBHN ghi là “hùng thị” (雄 視), không có nghĩa. Xin sửa theo bản gốc là “xác thị” (確 視).

(39) Bản (A) viết là chữ “đồn” ( ) Bản (B) viết nhầm “truân” (屯). Vì 2 chữ này tự dạng giống nhau. Theo chúng tôi bản (A) khắc nhầm, phải là “truân” mới đúng âm vận và thông nghĩa hơn.

(40) TTVBHN chép nhầm là “lưỡng đô chấn thi” (兩 都 振 施) đúng ra phải là “tây đô phấn thi” (西 都 奮 施). (Tây Đô giết giặc)

(41) TTVBHN chép nhầm là “phong tiền” (風 前), nguyên bản là “phong truyền” (風 傳).

(42) Bản (B) khắc là “cửu trùng trùng du cửu” (九 重 重 愈 久) thừa chữ “trùng” (重) (chữ này bị xóa nhưng còn khá rõ).

(43) Bản (A) là “cưu công trợ tài” (鳩 功 助 材), Bản (B) là “cưu công sức tài” (鳩 功 飭 材).

(44) Bản (A) viết là “hoa tự” (華 字) , Bản (B) là “hoa vũ” (華 宇).

(45) TTVBHN chép nhầm là “diệu tập” (耀 習) đúng ra phải là “diệu tập” (耀 熠).

(46) Bản (A) là “hương hỏa minh yên” (香 火 明 煙), bản (B) là “hương hỏa minh nhân” (香 火 明 ) vì bản (B) viết nhầm bộ “hỏa” (火) thành bộ “thị” (示) (cùng giống nhau về nghĩa).

(47) Bản (A) viết là “liệt phương ích hiển” (列 芳 益 顯), bản (B) viết là “lưu phương ích hiển” (流 芳 益 顯), chúng tôi theo bản (B).

(48) Bản )A) viết chữ “cổ” (估) (nghĩa là đánh giá). Bản (B) khắc chữ “hữu” (佑) (chữ “hữu” nghĩa là giúp đỡ). ở đây phải là “hữu”, Bản (A) khắc nhầm, vì tự dạng hai chữ gần giống nhau.

(49) TTVBHN viết nhầm là “Hồng Đức tam niên” (洪 德 三 年), đúng ra phải là “Hồng Đức nhị niên” (洪 德 二 年) .

(50) Bản (A) viết là “tiến thận quang lộc đại phu” (進 慎 光 祿 大 夫) bản (B) viết là “quang tiến thận lộc đại phu” (光 進 慎 祿 大 夫), chúng tôi theo bản (A).

(51) Nguyên văn chữ “thương cơ” (蒼 姬). Chữ “Thương” (蒼) là họ của Chu Vũ Vương, còn chữ “cơ” (姬) chưa rõ nghĩa.

(52) Lưu Bang sáng lập nhà Hán, theo truyền thuyết là con của Xích Đế đã chém chết con rắn trắng trước khởi nghĩa.

(53) Nguyên văn: “bạch y phụ lão” (白 衣 父 老) có lẽ là nhắc lại điển tích Thái tử Đan và đoàn quân tiễn Kinh Kha qua sông Dịch sang đất Tần, đầu đội khăn trắng, áo trắng tiễn đưa và ca bài hát: “Gió thổi sông Dịch lạnh tái tê - Tráng sĩ một đi không trở về” (Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn - Tráng sĩ nhất khứ, bất phục hoàn) ( Chiến Quốc sách - Yên sách ).

(54) Lệ Mẫn tức Lê Uy Mục. Theo các sách Việt sử cương mục tiết yếu (VSCMTY) Hồng Thuận trung hưng thực lục và ĐVSKTT (đều chép là “Mẫn Lệ công”. Nhưng ở hai bia (A), (B) đều viết là “Lệ Mẫn”.

(55) Điện Trường Lạc (thời Lê) được nhắc đến trong ĐVSKTT, BK, q. XVI, tờ 40a; Đại Việt Lam Sơn kính lăng bi N0 19724; VSCMTY, Sđd., tr.382. Trường Lạc còn là tên gọi của mẹ vua Hiến Tông. Năm 1504, khi Uy Mục lên ngôi giết bà Trường Lạc, duồng đuổi người họ tông thất và công thần về địa phương Thanh Hóa. Năm 2003, tiến hành khai quật tại Hội trường Ba Đình cũng phát hiện nhiều hiện vật khắc chữ “Trường Lạc điện”, “Trường Lạc khố”.

(56) Nguyễn Bá Lân sau được ban quốc tính là Lê Bá Lân. Nhưng bia này vẫn ghi họ của là Nguyễn Bá Lân. Xem ĐVSKTT, q. XIV, tờ 1b; q. XV, tờ 1a. Bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(57) Nguyễn Hoằng Dụ là con của Nguyễn Văn Lang - một vị khai quốc công thần vào bậc nhất dưới thời Lê Tương Dực (xem chú thích 16).

(58) Nguyễn Văn Lữ là một vị khai quốc công thần cùng với Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Bá Lân, Lê Tung... giúp Lê Tương Dực lên ngôi.

(59) Nguyên văn “bạch mao hoàng việt” chữ trong thiên Mục thệ của Kinh Thư: “Vương tá trượng hoàng việt, hữu bỉnh bạch mao” (Nghĩa là: vua Vũ Vương tay trái chống búa dát vàng, tay phải cầm cờ tiết mao trắng). Thiên Mục thệ viết về việc vua Vũ Vương cùng tướng sĩ làm lễ tuyên thệ ở đất Mục trước khi đi chinh phạt vua Trụ.

(60) Huyện Ninh Sơn đến năm 1533 (Lê Trang Tông lên ngôi - húy là Ninh) đổi thành huyện Yên Sơn. Đến thế kỷ XIX, trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: "Chúc Sơn ở bên hữu núi Ninh Sơn, có ngọn núi tròn nổi lên, xung quanh có nhiều rừng vây bọc" (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. KHXH, H. 1992, T 1, tr.89.

(61) Đoan Khánh tức niên hiệu của vua Uy Mục, tên húy là Tuấn (1479-1509), ở ngôi 5 năm (1505-1509).

(62) Sử chép: "Khi Dinh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Hồng Thuận, truy tôn cha là Kiến Vương Tân làm Kiến Hoàng đế", ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1a; VSCMTY, Sđd., tr.387.

(63) Tam cương, Cửu trù: theo học thuyết Nho giáo, "Tam cương" là ba mối quan hệ: quân thần, phụ tử, phu phụ (đạo vua tôi, cha con, vợ chồng). “Cửu trù”: chín phép lớn trị thiên hạ của thời cổ ghi trong Kinh Thư thiên Hồng Phạm.

(64) Xem ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1b, 2a, bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(65) Triện Lý, Lệ Chung: Lý Tư, đời Tấn đổi kiểu chữ Đại triện thành chữ Tiểu triện. Chung Do, đời Tam Quốc là người nổi tiếng viết chữ Lệ đẹp. Cả câu này ý nói kén chọn người viết chữ đẹp để khắc vào bia đá./.

TB

VỀ MỘT CHI HỌ LÝ (ĐÌNH BẢNG) Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, THANH HÓA

PHẠM THỊ THÙY VINH

Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua và dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long cũng chính là thời kỳ dòng họ Lý ở Đình Bảng chính thức bước lên vũ đài chính trị. Nhà Lý đã có những đóng góp xuất sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nền văn hiến Đại Việt giàu bản sắc văn hóa cũng được bộc lộ rõ nhất từ chính thời đại này. Nhưng sau khi nhà Trần giành Vương triều từ nhà Lý với sự nhường ngôi cho chồng của Lý Chiêu Hoàng, vai trò chính trị của nhà Lý chấm dứt. Dòng họ Lý đã thất tán đi nhiều nơi và có một bộ phận đổi sang họ Nguyễn.

Trải qua những biến cố và thăng trầm của lịch sử, con cháu của dòng họ Lý (Đình Bảng) đã có những biến chuyển lớn. Một trong số đó là sự kiện ra đi của Hoàng tử Lý Long Tường đến bán đảo Triều Tiên sinh sống, câu chuyện này đã được nhiều sách báo giới thiệu. Tuy nhiên còn có một sự di chuyển âm thầm khác của con cháu dòng họ Lý vào xứ Thanh mà dường như ít có thông tin đề cập đến. Sự ra đi khỏi quê cha đất tổ để đến lập nghiệp ở một miền quê khác của con cháu dòng họ Lý dường như đã bị thời gian làm cho quên lãng vì họ đã mai danh ẩn tích và các sử gia cũng không ghi chép lại. Nhưng cũng thật là bất ngờ và cảm động khi chúng tôi được biết ngày nay hậu duệ của vua Lý Thái Tổ ở Thanh Hóa vẫn còn có những chứng tích ghi nhận nguồn gốc của mình.

Cuối tháng 8/2004 chúng tôi có dịp vào thăm xã Đông Hòa huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Chuyến đi này do bác Nguyễn Thìn Xuân là người trong dòng họ Nguyễn gốc Lý và ủy ban Nhân dân xã Đông Hòa tổ chức. Xã Đông Hòa ngày nay là xã Đồng Phô trước kia (bao gồm cả vùng đất của xã Đông Ninh huyện Đông Sơn) thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, xứ Thanh Hoa. Đây là vùng đất Việt cổ, hiện còn bảo lưu rất nhiều phương ngữ cũng như những hiện vật cổ như: gốm, sứ, tiền đồng, trống đồng. Tấm bia cổ nhất khắc chữ Hán còn lại ở Việt Nam niên hiệu Đại Nghiệp 14 (618) nhà Tùy cũng chính được đặt tại xã Đồng Phô (nay thuộc phần đất xã Đông Ninh huyện Đông Sơn).

Chúng tôi đã được bác Xuân cho biết tóm tắt về sự xuất hiện của con cháu dòng họ Lý tại địa phương này. Hiện nay tại Đông Hòa có hai nhánh của dòng họ Lý (Đình Bảng), một là nhánh Nguyễn Thìn, hai là nhánh Nguyễn Đình. Ông tổ của hai nhánh này cũng là những người đầu tiên đến đây lập nghiệp.

Ông tổ của nhánh Nguyễn Thìn vào Đồng Phô là Đông Chinh Vương, ông tổ nhánh Nguyễn Đình vào Đồng Phô là Dực Thánh Vương. Đây là hai anh em ruột với Lý Phật Mã tức vua Lý Thái Tông.

Chúng tôi đã kiểm tra lại các sự kiện liên quan đến hai vị Đông Chinh và Dực Thánh qua các tư liệu lịch sử.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư - Bản kỷ (tập 2) ghi về hai vị Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ như sau:

- Năm Thuận Thiên thứ 6 (1015) xuống chiếu cho Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh các châu Đỗ Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên…(1)

- Năm Mậu Ngọ Thuận Thiên thứ 9 (1018) mùa đông tháng 10, sắc phong cho Hoàng tử Lực làm Đông Chinh Vương(2).

Năm Mậu Tuất, Thuận Thiên thứ 13 (1022), xuống chiếu cho Dực Thánh Vương đi đánh Đại Nguyên Lịch(3).

- Năm Đinh Mão Thuận Thiên 18 (1027), mùa thu tháng 8, xuống chiếu cho Khai Thiên Vương (Lý Phật Mã) đi đánh Thất Nguyên và Đông Chinh Vương đi đánh Văn Châu(4).

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép khá kỹ loạn “Tam vương” nhà Lý sau khi Lý Thái Tổ mất và Lý Phật Mã nhận di mệnh lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tông:

“Mùa xuân tháng 2, vua không khỏe, ngày Mậu Tuất vua băng hà ở điện Long An. Bề tôi đều đến cung Long Đức xin Thái tử vâng di chiếu lên ngôi. Ba vương là Đông Chinh Lực, Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành. Đông Chinh Vương phục trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức phục ở cửa Quảng Môn, đợi Thái tử vào thì đánh úp”.

Nhưng việc định lật đổ Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi vua của ba vương bị thất bại, do Tướng quân Lê Phụng Hiểu đã liều mình dâng gươm xin phá vây cứu Thái tử. Trong trận chiến đó Vũ Đức Vương bị giết cùng với tất cả binh lính của ba phủ, chỉ có Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là chạy thoát. Ngày Kỷ Hợi, Thái tử Phật Mã lên ngôi vua trước linh cữu của vua Thái Tổ, cũng ngày ấy hai vương Đông Chinh và Dực Thánh đều đến cửa khuyết xin chịu tội nhưng được vua ban chiếu xá tội và ban lại cho tước cũ(5).

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi: Năm Mậu Dần Thông Thụy thứ 5 (1038), tháng 12 năm ấy Đông Chinh Vương chết(6).

Đến đây các sự việc liên quan đến Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương không thấy các sử gia ghi chép nữa.

Qua các sự kiện được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy hai vương Đông Chinh và Dực Thánh từng được vua Lý Thái Tổ cử đi đánh dẹp loạn ở nhiều nơi và họ đều lập công xuất sắc. Trong cuộc đảo chính để giành ngôi báu với Thái tử Lý Phật Mã họ đã bị thua nhưng không bị trả thù, vua Lý Thái Tông vẫn ban chiếu xá tội và ban lại tước cũ cho họ. Các sự việc này cũng được Việt sử lược ghi chép lại. Đại Việt sử ký toàn thư ghi sự kiện Đông Chinh Vương chết năm 1038, tức là sau sự kiện đảo chính 10 năm. Từ đây chúng ta có thể loại bỏ khả năng hai vương đi vào xứ Thanh ngay sau khi cuộc đảo chính bất thành, và vì thế họ không thể là những người đầu tiên của hai nhánh họ Nguyễn vào Đồng Phô, Đông Sơn lập nghiệp. Sự kiện con cháu dòng họ Lý (Đình Bảng) chuyển sang họ Nguyễn chỉ bắt đầu từ khi nhà Trần lên ngôi, và dòng dõi của vua Lý Thái Tổ đã phải chạy đi nhiều nơi khác sinh sống để bảo tồn giống nòi. Điều này khiến chúng tôi suy luận: có lẽ chỉ các thế hệ sau của hai vương Đông Chinh và Dực Thánh mới là những người đầu tiên của chi họ Lý (Đình Bảng) vào Thanh Hóa. Chúng tôi cũng được nghe báo cáo của người trong dòng họ Nguyễn Thìn và Nguyễn Đình ở xã Đông Hòa cho biết: dòng họ đã vào Thanh Hóa trong khoảng 800 năm. Như thế có thể cho phép đoán định con cháu của Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương đã vào xứ Thanh Hoa sớm nhất là từ cuối thế kỷ XII chậm nhất là đầu thế kỷ XIII. Trong khi đó Đông Chinh Vương đã mất từ cuối những thập kỷ đầu của thế kỷ XII. Phải chăng con cháu của hai Vương đã dự cảm được điều gì đó bất ổn về tình thế chính trị nên đã lánh trước vào Thanh Hoa? Tuy nhiên chúng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: “Tại sao lại chỉ có con cháu của hai vương Đông Chinh và Dực Thánh trong loạn “Tam vương” chạy vào Thanh Hoa sinh sống mà không phải là thêm các chi nhánh khác?” Phải chăng có một sự liên hệ nào đó giữa việc đảo chính bất thành và việc di cư vào xứ Thanh để lập nghiệp ? Câu hỏi này chúng tôi xin nêu ra để chờ cơ hội giải đáp.

Cũng trong dòng họ Nguyễn ở xã Đông Hòa có một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng là Tướng quân Nguyễn Chích, ông là hậu duệ đời thứ 5 của Lý Công Uẩn(7). Hiện tên ông được lấy để đặt tên cho trường cấp II của huyện Đông Sơn.

Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu hệ thống hoành phi câu đối tại hai nhà thờ của dòng họ Nguyễn Đình và Nguyễn Thìn ở xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ghi nhận sự liên hệ giữa họ Nguyễn ở đây và nơi phát tích là Đình Bảng.

(1) Câu đối hoành phi tại nhà thờ Nguyễn Thìn

Chính giữa của từ đường là bức hoành phi to, cổ kính khắc bốn chữ Cổ pháp triệu cơ 古 法 肇 基 (保 大 甲 申 年) (Bảo Đại Giáp Thân niên). Tại đền Đô xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn nơi thờ tám vị Hoàng đế nhà Lý cũng treo một bức hoành phi khắc 4 chữ này. Các cụ ở xã Đông Hòa cho biết chính nhờ bức hoành phi này mà con cháu họ Lý ở Hàn Quốc và họ Lý ở Đình Bảng đã về đây nhận họ. Ngoài ra ở nhà thờ họ Nguyễn Thìn còn có một đôi câu đối khác cũng ghi nhận sự quan hệ mật thiết giữa dòng họ này và quê hương của Lý bát đế. Đó là câu đối:

出 蕉 山 廷 榜 前 池 消 舊 水
派 延 河 銅 鋪 昔 樹 發 今 花
(壬 午 春)
“Xuất Tiêu Sơn Đình Bảng tiền trì tiêu cựu thủy
Phái Diên Hà Đồng Phô tích thụ phát kim hoa(8)”
(Nhâm Ngọ xuân)

Tạm dịch là:
Xuất phát từ Đình Bảng Tiêu Sơn, ao trước tiêu hết nước cũ
Chia phái vào Đồng Phô Diên Hà, cây xưa nở hoa mới.
(Mùa xuân năm Nhâm Ngọ)

2) Câu đối ở nhà thờ Nguyễn Đình

a. 歷 世 王 公 功 在 前 朝 名 在 史
累 朝 花 袞 傳 於 後 裔 蔭 於 民
“Lịch thế vương công, công tại tiền triều danh tại sử
Lũy triều hoa cổn truyền ư hậu huệ, ấm ư dân.”

Tạm dịch:
Vương công nhiều đời, công lao ở triều trước, tên ghi trong sử
sách
Vẻ vang mấy thuở truyền cho hậu duệ, dân được hưởng phúc ấm

b. 入 文 相 出 為 武 將
生 帝 臣 化 作 福 神
“Nhập văn tướng xuất vi võ tướng
Sinh đế thần, hóa tác phúc thần.”

Tạm dịch:
Khi vào là tướng văn khi ra là tướng võ
Khi còn sống là vua, khi hóa là phúc thần.

c. 騰 國 山 河 留 姓 字
累 朝 袍 笏 國 恩 長
“Đằng quốc sơn hà lưu tính tự
Lũy triều bào hốt quốc ân trường.”

Tạm dịch:
Đất nước, núi sông ghi tên họ
Nhiều đời áo bào hốt ngọc, ơn nước trường tồn.

d. 奕 葉 箕 裘 家 眷 在
故 家 鐘 鼎 等 春 秋
“Dịch diệp cơ cầu gia quyến tại
Cố gia chung đỉnh đẳng xuân thu.”

Tạm dịch:
Truyền đời con cháu nối nghiệp gia quyến vẫn còn
Gia tộc xưa đã một thời vương quyền bá nghiệp lừng lẫy.

e. 配 上 等 神 千 古 石 碑 留 姓 字
贊 中 興 業 億 年 香 火 樹 風 聲
“Phối thượng đẳng thần thiên cổ thạch bi lưu tính tự
Tán trung hưng nghiệp ức niên hương hỏa thụ phong thanh.”

Tạm dịch là:
Phối thờ cùng Thượng đẳng thần, nghìn năm bia đá còn lưu
tên họ
Giúp sự nghiệp Trung hưng, vạn năm hương hỏa còn tạo nên
phong phú.

Trên đây là một số hoành phi câu đối ở hai nhà thờ Nguyễn Đình và Nguyễn Thìn vốn là hậu duệ của vua Lý Thái Tổ ở xã Đình Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tuy hai nhánh này vào Thanh Hóa lập nghiệp đã hơn 800 năm nhưng ký ức về một thời hào hùng oanh liệt của tổ tiên vẫn còn được truyền tụng từ đời này sang đời khác. ý thức tự hào về nguồn cội của con cháu dòng họ Lý xưa kia vẫn còn chảy rất mãnh liệt trong các thế hệ đã mang họ Nguyễn hôm nay. Đó là một ý thức rất đáng tự hào về truyền thống của dân tộc Việt chúng ta. Hy vọng rồi đây chúng ta có thể còn được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu quý khác về dòng họ Lý ở Đình Bảng nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long (Đông Đô) Hà Nội.

P.T.T.V

CHÚ THÍCH:

(1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 1, tr.84, Nxb. KHXH, H. 1998.

(2) nt, trang 85.

(3) nt, trang 85.

(4) nt, trang 86.

(5) nt, trang 88.

(6) nt, trang 96.

(7) Chi tiết này do bác Nguyễn Thìn Xuân hiện là cán bộ hưu trí tại Hà Nội cung cấp.

(8) Tại nhà thờ Nguyễn Thìn còn một số đôi câu đối nữa nhưng do chưa có điều kiện nên chúng tôi mới chỉ có trong tay đôi câu đối này.

TB

BÀN VỀ HAI CHỮ “THIÊN THƯ” (天 書) TRONG BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ
(南 國 山 河)

LÊ VĂN QUÁN

Nam quốc sơn hà là bài TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP đầu tiên của nước ta. Nội dung của TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP chủ yếu đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và các dân tộc. Đồng thời, bài Nam quốc sơn hà ra đời cũng là thể hiện hùng khí và sự lớn mạnh của dân tộc ta. Thế mà, hai chữ “thiên thư 天 書” ở trong câu thơ:

“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
截 然 定 分 在 天 書

(Rành rành định phận ở sách trời) (1, tr.181), lại lí giải không ổn. Có ý kiến cho là tác giả bài thơ(*) đã dựa vào tư tưởng “thiên mệnh” (= mệnh trời), trời quyết định mọi sự việc ở đời. Gần đây, trong bài Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, PGS. Bùi Duy Tân đã viết: “Trời ở đây ẩn trên thiên thư... Cả mớ lý luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”,... (2, tr.318).

Thực tế, tác giả bài thơ không suy tư như thế, tức là người dân Việt cũng không tiếp thu một cách thần bí như vậy. ở đây, trong câu thơ này, tác giả dùng hai chữ “thiên thư 天 書” (= sách trời) là có cơ sở pháp lý vững chắc, chứ không phải dựa vào “thiên mệnh” (= mệnh trời). Tác giả nắm rất vững văn hóa truyền thống Trung Hoa về “phân dã 分 野”, tức là cách phân chia bờ cõi đất nước. Sách “ Sử ký, Thiên quan thư 史 記 天 官 書” viết “天 則 有 列 宿 , 地 則 有 州 域 - Thiên tắc hữu liệt tú, địa tắc hữu châu vực” (Trời thì có các vì sao, đất thì có châu vực). Như vậy, chúng ta có thể thấy người xưa coi (xem) các ngôi sao trên trời có liên hệ với châu vực ở dưới đất. ở thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, người ta căn cứ vào Châu vực ở dưới đất để phân vạch sao trên trời, phân biệt các ngôi sao ở trên trời phối với châu, quốc ở dưới đất, khiến chúng đối ứng với nhau, mỗi ngôi sao là thuộc “phân dã” (= phân chia bờ cõi) của mỗi nước. Cách phân vạch bờ cõi của các sao, nói chung phân phối theo các nước như sau: (3, tr.789 - 790).

Ngay ở Tự điển Hán Việt của Thiều Chửu cũng chép: “Người ngày xưa chia vạch bờ cõi, theo đúng như các vì sao, nên gọi là phân dã 分 野 (4, tr.632).

Do đó, “thiên thư” (= sách trời) mà tác giả nói đến là liên quan đến phân dã (分 野), đến các ngôi sao trên trời. Đấy là một hiện thực khách quan, mỗi một vì sao trên trời thuộc phân vạch bờ cõi của mỗi nước, điều đó sử sách còn ghi chép rành rành. Tác giả vận dụng “thiên thư” (= sách trời) là đề xuất đến phép tắc vĩnh hằng, phổ biến, khách quan, tính hợp lý đã sản sinh ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa tư tưởng truyền thống Trung Hoa. Chắc hẳn bọn vua quan nhà Tống biết rõ điều đó. Cái điều trong Sử ký, Thiên Quan thư 史 記,天 官 書...” đã đề cập đến và trong các sách kinh điển Nho gia Trung Hoa luôn luôn nhắc: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Nếu vua quan nhà Tống không hiểu được cái phép tắc đó, cái quan hệ bang giao giữa hai nước, mà lại:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”
(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)

thì:

“Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời).

Bài thơ viết rất biện chứng, rất lôgíc, tư tưởng duy vật chất phác thể hiện khá rõ, tác giả đã lấy sử sách, sự thực làm chứng cớ để chứng minh đất nước Nam là của vua Nam, là chủ quyền của dân tộc Việt Nam, là nước có chủ quyền, không ai có quyền xâm phạm. Theo lối suy nghĩ và cách nói nôm na của dân ta là, nhà ta ta ở, kẻ nào xâm phạm đến, ta sẽ đập tan xác. Theo văn hóa truyền thống Trung Hoa, ấy là lẽ tất yếu, lẽ đương nhiên, thế mà, bọn vua quan phong kiến phương Bắc vẫn ôm hy vọng, tính kế đánh chiếm nước ta. Nhưng PGS. Bùi Duy Tân lại nói: “Nước Nam là của vua / người Nam, đó là ý trời, ... kẻ nào xâm lược nước Nam là trái nghịch ý trời là chống lại xu thế phát triển của lịch sử sẽ bại vong”. (2.tr.319).

Bài thơ Nam quốc sơn hà mang ý nghĩa tuyên ngôn độc lập. Nội dung của tuyên ngôn độc lập chủ yếu là đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống của con người, ...: Thế mà, hai chữ “thiên thư” này lại được hiểu theo quan điểm “thiên mệnh” thì làm sao thực hiện được quyền bình đẳng, quyền sống của con người... Bọn vua quan phong kiến phương Bắc duy trì, bảo vệ thuyết “thiên mệnh”, “thần quyền” là để vĩnh hằng thống trị dân chúng (lão bách tính), trấn áp các nước chư hầu, di địch. Cho nên cái thuyết “thiên mệnh” này vừa ra đời, thì đã bị các nhà triết học Trung Hoa thời bấy giờ như Dương Hùng, Hoàn Đàm, Vương Sung, Vương Phù, Tuân Diệt, Trọng Trường Thống... phê phán là cái mê tín của thần học và cái hoang đường của sấm vĩ. Đặc biệt, ở cuối thời Đông Hán, Trọng Trường Thống phủ nhận “Quân quyền thần thụ” (Quyền của vua do trời trao cho) (仲 長 統 否 認 君 權 神 授) (6, tr.10).

PGS. Bùi Duy Tân tâm đắc viết tiếp: “Nhân sĩ thời Ngô, Đinh, Lê, Lý lấy trời hộ mệnh cho ý thức tự chủ của người thiêng hóa độc lập, chủ quyền, sát hợp với tâm thức người đời, lời thơ như mang sứ mạng của đất trời, ngân vang của thần thánh, xứng đáng là bước thăng hoa của tư tưởng Việt Nho” (2. tr.3119). Câu nói này nghe ra rất trúng tâm lý của những con người xưa nay tin tưởng ở “thiên mệnh” (mệnh trời). Tuy vậy thực tế là đánh giá quá thấp các nhân sĩ của nước Việt xưa, trong khi bài thơ Nam quốc sơn hà vốn đã trả lời rõ điều này. Tác giả viết bài thơ là một nhà Nho không hề có tư tưởng đó. Qua nội dung bài thơ chúng ta thấy ý câu thơ trên và dưới gắn kết với nhau rất chặt chẽ, rất lôgíc: Đất nước Nam là của vua Nam, của người Nam, sự thực khách quan đã ghi ở sách trời bằng “phân dã 分 野”, phân chia bờ cõi đất nước rõ rành rành. Bọn giặc vô cớ đến xâm phạm, ta sẽ đánh tan tành. Lời thơ vang vọng núi sông ở thế hiên ngang, niềm tự cường dân tộc, lòng tin tưởng vững chắc ở sức mạnh của dân tộc mình sẽ đập tan bất cứ lũ giặc nào đến xâm phạm bờ cõi đất nước ta. Tư tưởng Việt Nho đâu phải nhờ trời, nhờ thiên mệnh, thần thánh mà thăng hoa. Hơn nữa, căn cứ vào tiến trình lịch sử Việt Nam, đạo Nho tuy đã xâm nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, nhưng ở thời Đinh, Tiền Lê vẫn chưa tạo được ảnh hưởng đáng kể, nổi trội trong đời sống tâm linh người Việt vẫn là những tín ngưỡng dân gian hòa trộn với những tôn giáo có nguồn gốc từ nền văn minh Nam á, như Phật giáo. Triều đình Đinh - Tiền Lê vẫn suy tôn Phật giáo làm quốc giáo. Đến thời Lý, các nhà Nho như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành giữ chức Thái úy có vai trò như Tể tướng lại càng không có tư tưởng sùng bái đạo Nho về “thiên mệnh”. Vì chính quyền nhà nước thời Lý là một chính quyền sùng Phật và thân dân. Nhiều nhà vua và quý tộc đã theo đạo Phật, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái (7, tr.71; 1, tr.127).

Đến đây chúng ta có thể khẳng định, ở thời Đinh, Tiền Lê, đầu Lý, Nho học chưa phát triển, Nho giáo chưa thể lấn át được Phật giáo.

Hai chữ “thiên thư 天 書” (= sách trời), không nên hiểu theo quan điểm “thiên mệnh” (mệnh trời) của Nho giáo. Vì ở thời Tần Hán, Nho gia Đổng Trọng Thư đưa ra quan điểm duy tâm, “trời” trở thành thượng đế có quyền lực tối cao, mọi người đều do thượng đế sáng tạo ra. Trời đặt ra cho xã hội loài người một vị vua có quyền lực tối cao để “thay trời hành đạo”. Quan điểm duy tâm ấy phù hợp với yêu cầu của giai cấp thống trị phong kiến, cho nên nó được bảo tồn, lưu truyền trong xã hội phong kiến, đến ngày nay không thể tồn tại được nữa.

Bài thơ Nam quốc sơn hà, ngắn gọn, lưu truyền sống mãi trong tâm hồn các thế hệ mai sau niềm tự hào về nền độc lập, về chủ quyền dân tộc... của nước Nam ta, chính là do ông cha ta đã xây dựng nên.

L.V.Q

CHÚ THÍCH:

(*) Hiện nay tên tác giả của bài thơ, các nhà nghiên cứu của ta còn chưa nhất trí, cho nên ở đây tôi gọi theo danh từ chung là tác giả.

(1) Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, H. 1971.

(2) Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) - Viện Harvard Yanching (Hoa Kỳ), “Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam”, H. 2004.

(3) Cổ Đại Hán ngữ, Vương Lực chủ biên, tập 3, Trung Hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1962.

(4) Thiều Chửu: Từ điển Hán Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1999.

(5) Phùng Hữu Lan: Đại cương triết học sử Trung Quốc, Nguyễn Văn Dương dịch, Nxb. Thanh niên, 1999.

(6) Trung Quốc triết học sử thông lãm, Nhiệm Kế Dũ, Trương Đại Niên... Trung tâm Đông phương xuất bản, 1996.

(7) Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Nxb. Giáo dục, H. 2003.

TB

VỀ TỜ BÌA BẢN KIỀU NÔM DO
NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP

LÊ THÀNH LÂN

Bản Nôm Truyện Kiều do Nguyễn Hữu Lập (NHL) chép là của Giáo sư Đàm Quang Hưng (ĐQH) ở thành phố Houston bang Texas, Hoa Kỳ, gọi tắt là bản NHL . Bản này được ông Nguyễn Bá Triệu (NBT) cho in chụp, rồi phiên âm và khảo dị để soạn thành cuốn Truyện Kiều chữ Nôm và khảo dị, xuất bản 2 lần tại Canada vào các năm 1999 và 2000, chúng tôi đọc bản năm 2000, gọi tắt là bản NBT [1]. Năm 2003, ông Nguyễn Quảng Tuân (NQT) cũng in chụp bản NHL, rồi phiên âm và khảo dị để soạn thành cuốn sách có bìa ngoài ghi là Truyện Kiều. Bản kinh đời Tự Đức và bìa trong ghi là Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh). Bản kinh đời Tự Đức 1870 [2], gọi tắt là bản NQT.

Trang 19 bản NQT có in tờ bìa bản NHL với hình thức đẹp, nội dung lạ. Về nguyên tắc, tờ bìa, nhất là tờ bìa sách cổ có một vai trò rất quan trọng, nó cho ta những thông tin cô đọng nhất về nội dung tác phẩm, tác giả, người sáng tác, năm soạn, năm chép ...

Nhiều người đã có bài tỏ sự nghi ngại về tính xác thực của tờ bìa này, và đó cũng là nội dung chủ yếu của bài báo.

Để dễ theo dõi mỗi khi gặp những tên gọi khác nhau trong các đoạn trích dẫn, độc giả cần biết qua về tên của người chép bản NHL trong các tư liệu đó. Dựa vào các thông tin trong Lời tựa của bản NHL, NBT đã xác định tên người chép là Lâm Nhu Phu, NQT theo đó mà phiên âm tên đệm khác đi thành Lâm Nọa Phu. Nguyễn Tuấn Cường xác định lại tên ông là Nguyễn Hữu Lập, hiệu Tiểu Tô Lâm, tự Nọa Phu [3]. Nguyễn Hữu Sơn xác định là Nguyễn Hữu Lập - Thiếu Tô Lâm - Nọa Phu [4].

I. NHỮNG Ý KIẾN KHÁC NHAU VỀ TỜ BÌA BẢN NHL

1. Ông NBT viết:

“Sách chép tay, nhiều chỗ bài tựa ở tờ bìa ngoài rách nát không đọc được” [1].

Chúng tôi cho rằng có lẽ NBT sơ ý viết thiếu một dấu phảy nằm giữa các chữ “bài tựa” và “ở tờ bìa”. Nếu đúng thế thì, theo ông tờ bìa rách nát không đọc được, nên ông không biết nội dung và hình thức của nó như thế nào, do đó ông đặt tên cho cuốn sách của mình là Truyện Kiều chữ Nôm và khảo dị, không có chữ Đoạn trường tân thanh như ở bản NQT.

2. Năm 2000, trong bài Bản Kinh đời Tự Đức, viết để giới thiệu trước bản NHL đăng trên Kiến thức ngày nay, NQT viết:

“Quyển này, theo lời ông Hưng, nguyên bản còn tốt, giấy màu ngà rất mịn, chỉ bị rách nát mấy tờ đầu. Ông (ĐQH) đã dán lại cẩn thận (Chúng tôi nhấn mạnh - LTL).

Bìa quyển Nôm cổ được ghi như sau:

Ở chính giữa là tên truyện: ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH. ở phía bên phải ghi tên tác giả: HỒNG SƠN LIỆP HỘ NGUYỄN DU TỐ NHƯ ÔNG TRỨ.

Ở phía bên trái ghi ngày tháng năm sao chép và tên người sao chép: TỰ ĐỨC CANH NGỌ TRUNG THU HẬU TỨ NHẬT, HOAN CHÂU TIỂU TÔ LÂM NỌA PHU THƯ”[5].

Trong bài này chưa thấy ông NQT cho in tờ bìa bản NHL và những thông tin về hình thức và nội dung của nó dường như chỉ là “theo lời ông Hưng” chứ không phải do chính ông NQT mô tả một tờ bìa nằm ngay trước mặt.

3. Năm 2002, lần đầu tiên tờ bìa bản NHL được in ở trang 306 của cuốn Truyện Kiều, Bản Nôm cổ nhất, Liễu Văn Đường 1871 [6] nhằm giới thiệu trước, nhưng không một lời về lai lịch và phẩm chất của nó. (Xin xem tờ bìa này ở ảnh ‡ góc phải phía dưới của hình 4).

4. Năm 2003, trong bản NQT, đoạn đã được chúng tôi nhấn mạnh ở mục 2 nay được soạn giả sửa lại là:

“... chỉ bị rách nát mấy tờ đầu. Ông (ĐQH) đã dán và BỒI LẠI (LTL) tờ bìa ” [2]

Tờ bìa bản NHL được in ở góc trái phía trên trang 19 như một “vi nhét” và không đặt nó ở đầu văn bản. Đến đây chúng ta được biết tờ bìa được “bồi lại”.

Cũng cần nhấn mạnh là trong bản NQT, cụm từ “Đoạn trường tân thanh” vắng mặt ở bìa ngoài, chỉ in ở bìa trong.

5. Trên Kiến thức ngày nay số 473, Đào Thái Tôn (ĐTT) đã có ý ngờ về tờ bìa không phải của nguyên bản, nên viết:

Công bố văn bản cổ là phải hết sức trung thực với bản gốc. Tên văn bản như thế nào, phải để nguyên như thế, không được thay đổi hay thêm thắt gì vào văn bản. Tôi rất ngợ bản chụp mà NQT công bố. Ngay cả tờ bìa mang tên sách (Đoạn trường tân thanh) ông cũng không cho in trên đầu văn bản (LTL)” [7].

6. Tháng 11 năm 2003, trên Kiến thức ngày nay số 476 [8] (bài được in lại ở tr.309-317 cuốn Truyện Kiều. Nghiên cứu và thảo luận [9]), NQT đã trả lời rằng:

“Ông (ĐTT) nói vậy là không xem kỹ quyển sách. Tôi đã CHỤP (LTL) lại tờ bìa ở trang 19 để giới thiệu quyển sách và ở trang 35 tôi đã phiên âm đầy đủ tên tác giả, tên sách, tên người sao chép và cả năm sao chép”.

Bây giờ NQT cho biết: tờ bìa được chụp.

7. Nguyễn Tuấn Cường (NTC) trên Tạp chí Hán Nôm, số 3 (64)-2004, cũng có lời ghi chú:

“Thực ra, chúng tôi cũng muốn đặt vấn đề nghi ngờ trang bìa bản Kiều 1870 vốn không phải là của bản gốc (LTL), bởi 2 lý do: thứ nhất, (...); thứ hai, trang bìa ghi là “Hoan Châu Tiểu Tô Lâm Nọa Phu thư”, so với lời tựa ghi: “Hoan Châu Tiểu Tô Lâm Nọa Phu Lập (LTL) thư...” thì thiếu mất chữ Lập. Chúng tôi ngợ rằng trang bìa gốc đã bị mất, trang bìa hiện còn là do người sau căn cứ theo thông tin trong lời tựa để chép lại, người chép có thể không hiểu (hoặc thiếu những thông tin cần thiết) giá trị của chữ Lập nên đã bỏ chữ ấy đi. Nếu có cơ hội khảo sát trực tiếp bản gốc thì có lẽ sẽ sáng tỏ đôi điều” [3].

8. Trên tờ Văn nghệ, số 35 + 36 (2-9-2004), NQT trả lời:

“Ông Nguyễn Tuấn Cường đã nêu ra nghi ngờ về trang bìa quyển Đoạn trường tân thanh đã ghi thiếu mất chữ Lập trong câu “Hoan châu Tiểu Tô Lâm Nọa Phu (Lập) Thư”.

Điều nghi ngờ này chúng tôi cũng đã nêu ra với ông Đàm Quang Hưng, người sở hữu quyển Đoạn trường tân thanh.

Ông Đàm Quang Hưng trong bức thư trả lời chúng tôi đề ngày 21-9-2000 đã cho biết: “mấy trang đầu quyển Đoạn trường tân thanh bị mọt ăn thủng làm nát thành nhiều mảnh. Chúng tôi cố gắng ghép các mảnh vụn ấy lại với nhau cho ngay ngắn, đem đi photocopy với mục đích tái tạo những chữ viết ở ngoài bìa vì thế tờ bìa trong bản photocopy biếu thầy có thể là không đúng 100% với nguyên bản” [10].

“Có thể” là không chắc, nhưng cũng không loại trừ khả năng “đúng 100%”!

9. Đọc bài Truyện Kiều. Bản Kinh đời Tự Đức - 1870 của NQT trong Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn & Phát huy Di sản Hán Nôm Huế, năm 2003 [11], chúng tôi còn thấy một dị bản của tờ bìa bản NHL, được chế bản bằng máy tính mà niên đại “Canh Ngọ”, được ghi là “Canh Niên”. Xin xem hình 1, ở đây chúng tôi khoanh một khung vuông quanh chữ “niên”. Chúng tôi có hỏi những người dự Hội thảo thì được biết, nguyên bài của ông NQT được phát ra trong Hội thảo có tờ bìa giống như trong các tài liệu [2], [6] và [9]. Theo lệ thường thì sau Hội thảo, tác giả còn có điều kiện hoàn chỉnh bản thảo của mình trước khi in kỷ yếu. Vậy, dị bản của tờ bìa xuất hiện trong tập Kỷ yếu này là do sơ xuất của NQT hay của người biên tập, hay của ban Tổ chức Hội thảo? Song, dù lỗi của ai thì cũng thật đáng tiếc, bởi về văn bản học ta không thể tùy tiện như vậy được.

II. CHÚNG TÔI XIN BÀN LUẬN

1. Sơ bộ có thể nhận thấy ông NQT viết về tờ bìa bản NHL nhiều lần, nhưng không nhất quán. Ban đầu, vào năm 2000, khi giới thiệu về bản NHL [5] ông chưa cho in tờ bìa, mà chỉ mượn lời ông Hưng để mô tả về nó. Đến năm 2002, trong [6], ông cho in ảnh chụp tờ bìa để giới thiệu trước, nhưng vẫn không nói rõ tình trạng của nó trong nguyên bản. Năm 2003, khi in sách [2], tờ bìa được in như một vi nhét ở một góc trang 19, tách riêng khỏi nguyên bản (bắt đầu từ trang 36) và ông cho biết: “ông (ĐQH) đã dán và bồi lại tờ bìa”. Hai động từ “dán” và “bồi” này không rõ, nó lấp lửng, gây một ấn tượng rằng, dường như nhờ thế tờ bìa chỉ dày lên, bền và chắc, chứ không thay đổi gì về nội dung và hình thức. Đến khi thoáng có sự nghi ngờ của ĐTT thì NQT vẫn mập mờ viết rằng, ông “đã chụp lại tờ bìa” [8]. Cái động từ “chụp” này dường như càng khẳng định tờ bìa là chính xác đấy, nó được chụp lại cơ mà. Chỉ đến khi NTC viết rõ một khiếm khuyết trong nội dung của tờ bìa, ông mới đưa ra “cái phao cấp cứu” là lá thư của ông ĐQH [10], để đổ lỗi cho chủ nhân của cuốn sách. Cách làm này không ổn, không “sòng phẳng” như ông NBT. Tại sao ông NQT không công bố rằng, “ tờ bìa... có thể không đúng 100% với nguyên bản” ngay từ đầu vào năm 2000 [5], hay ngay khi nó được công bố lần đầu vào năm 2002 [6], hoặc chậm hơn là vào lúc sách được in ra vào năm 2003 [2], hay chậm nhất là khi phải trả lời ĐTT vào cuối 2003 [8] mà phải để đến tận tháng 9-2004 [10] mới “hé lộ” điều này. Ngay cả cái thông tin “bị mọt ăn thủng” cũng phải đến lúc này mới được viết rõ ra.

2. Nếu như không có những ý kiến của ĐTT và NTC, chắc NQT cũng không cho mọi người biết rằng tờ bìa đó “có thể không đúng 100% với nguyên bản”. Vậy ông không làm đúng phận sự của người công bố văn bản là cần cung cấp những thông tin quan trọng mà mình biết về tình trạng văn bản một cách tỷ mỉ và chính xác. Ông định dấu sự thật đó để làm gì ?

3. Một điều đáng tiếc là: ông NQT đã đi gần khắp 3 châu Âu, Á, Mỹ; vượt vạn dặm vòng quanh nửa quả địa cầu để đến tận thành phố Houston; vậy mà còn mấy cây số nữa là đến được nhà người “vốn quen biết từ hơn nửa thế kỷ nay” để có thể nhìn tận mặt, sờ tận tay cuốn sách vô cùng quý hiếm; vậy mà ông đã không cố thực hiện cho được trọn vẹn công việc trong thời gian 3 tháng dừng chân ở Hoa Kỳ. Thực sự chúng tôi không chỉ tiếc mà còn cảm thấy hơi lạ nữa.

4. Bìa ngoài các sách cổ thường đóng bằng giấy phết nhựa cậy dày, bền để dễ bảo quản. Bìa trong được in hoặc được chép trên giấy dó như các trang sách khác, nó có nội dung và hình thức như mọi tờ bìa sách hiện nay. Nếu bản NHL cũng được chép theo lệ thường đó, thì Tờ bìa chúng ta đang bàn cũng được viết trên giấy dó, đặt trước Lời tựa nên số phận của nó chắc còn mong manh hơn những trang đầu của Lời tựa.

5. Từ điểm 4, theo chúng tôi nhận định thì không phải chỉ là “có thể” mà phải nói là chắc chắn: tờ bìa đó “không đúng 100% với nguyên bản”, thậm chí có thể không có một chút nào của nguyên bản. Cái câu: “Mấy tờ đầu... bị mọt ăn thủng làm nát thành nhiều mảnh ...” nó mới phiếm định làm sao! Vậy, có mấy tờ (1 tờ hay 2 tờ hay 3 tờ hay không thể biết được chính xác số lượng) phải vứt đi hoàn toàn, không giữ lấy được 1 chữ? Mấy tờ nhân đôi lên là mấy trang? Tờ bìa có nằm trong số “mấy tờ đầu” đó không? Cứ nhìn vào 5 trang còn lại của Lời tựa NHL, chúng tôi dám chắc là có ít nhất 1 trang trong Lời tựa không còn vớt vát được, ngay cả chữ “Tựa” là chữ quan trọng nhất của mấy trang này hoặc không giữ được một vết tích nào đó để tỏ ra còn một chút của trang đầu. Liệu ta có thể biết được Lời tựa có mấy trang, mất mấy trang? Còn như tờ bìa là tờ ở ngoài cùng có thể bị rách nát đến mức nào? Nếu việc mọt ăn lại xảy ra ở Sài Gòn, trước khi bị bán ra hiệu sách cũ, rồi lưu lạc thêm mấy tháng, đi một con đường dài sang đến Hoa Kỳ mới được một bàn tay “nâng giấc”, “phục chế ” thì liệu tờ bìa có hư hại thêm gì nữa không so với các tờ ở bên trong? Ông ĐQH phục chế từ lúc nào mà cái ngày ông NBT được biết đến bản NHL này thì đã thấy “tờ bìa ngoài rách nát không đọc được” rồi. Cứ theo lời ông NBT ở trang 64 thì có lẽ ông đã từng cùng ông ĐQH đàm đạo với nhau, thậm chí đến một chi tiết nhỏ như ở câu 888 của Truyên Kiều, tôi chắc ông NBT đã từng gặp ông ĐQH và xem bản NHL rồi nên nhận xét của ông về tờ bìa là đáng tin cậy. Vả lại đây là sách tái bản, nếu lần in đầu có viết sai về tờ bìa, thế nào mà ông ĐQH chẳng đính chính giúp ông NBT.

6. Có thể đoán chắc rằng, những mảnh vụn của tờ bìa không đủ để dùng khôi phục lại chính nó, cũng như trang đầu của Lời tựa. Trong bài Niên đại tuyệt đối của bản Nôm Truyện Kiều do NHL chép [12], chúng tôi đã nêu ra một sự lạ về thủ bút NHL của bài thơ của Phạm Quý Thích. Ông NQT có tới 2 bản thủ bút này: Một là, nó nằm trong bản NBT, (xin xem hình 2). Hai là, ông ĐQH đã gửi cho ông nên khi mô tả văn bản, ông cho biết nó nằm ở trang 9. Vậy, tại sao ông không cho in chụp thủ bút này như bao nhiêu trang khác mà lại dùng cách chế bản điện tử (xin xem hình 3) in ở trang 47 và đặt vào khoảng giữa Lời tựa và văn bản Truyện Kiều. Phải chăng thủ bút NHL này bị làm “vật hy sinh” biến thành “vật liệu” chính để sản xuất tờ bìa như chúng tôi mô tả dưới đây?

III. PHẢI CHĂNG ĐÂY LÀ CÁCH TẠO DỰNG TỜ BÌA ?

1. Có hai cách làm để tạo ra một câu, một đoạn, một trang với thủ bút của người chép hay với con chữ của nguyên bản

Một là, có thể làm một cách thủ công: cắt từng chữ ở những chỗ khác nhau, phóng to hay thu nhỏ nhờ máy photocopy, rồi dán lại thành một tờ hoàn chỉnh, cuối cùng đem photocopy. Ông NBT làm cách này để khôi phục 2 câu 1681 và 1682 ở trang 120 với thủ bút của NHL, như ông đã viết.

Hai là, hiện đại hơn, có thể dùng máy quét (Scanner) để cóp các chữ, các từ, các cụm từ vào máy tính. Trong máy tính ta có thể: phóng to, thu nhỏ, bóp chữ (làm cho nó dài ra), nén chữ (làm cho nó lùn xuống), có thể tô, tẩy, sửa chữ, thay đổi dãn cách giữa các chữ trong cụm từ... rồi ghép lại với nhau.

2. Để tạo tờ bìa này, có thể cóp các chữ từ những chỗ nào? (xin xem phụ lục ở hình 4)

+ Tên sách có thể được ghép bởi hai từ “đoạn trường” lấy ở câu 5 (ảnh 4 hình 4) và “tân thanh” và ở câu 8 (ảnh 3 hình 4) trong bài thơ của Phạm Quý Thích với thủ bút của NHL có thay đổi đôi chút về dãn cách, thậm chí có thể tẩy sửa một chút cho khác đi mà vẫn thấy là thủ bút của NHL. Chúng tôi có khoanh bằng ô vuông những từ này trên các ảnh chụp tại hình 4. Để mọi người khó nhận ra điều này, đành phải “hy sinh” thủ bút của NHL và thay vào đó một chế bản điện tử bài thơ. Giả thuyết này xem ra có sức thuyết phục, bởi đem đối chiếu “tờ bìa” bản NQT với bài thơ Phạm Quý Thích trong bản NBT ta thấy rất giống. Cần lưu ý rằng do kỹ thuật chế bản khác nhau (chẳng hạn một bên dùng máy ảnh thường hoặc máy ảnh kỹ thuật số, một bên dùng máy quét (Scenner), hoặc cùng dùng máy quét nhưng có độ phân giải khác nhau) nên các chữ hơi khác nhau. Các chữ trong bản NBT luôn mảnh và sắc nét hơn (xem hình 2) các chữ trong bản NQT. Trên hình 4, các cột chữ ở ảnh 3, 4 là của bài thơ Phạm Quý Thích, chúng tôi cóp từ bản NBT nên nét chữ mảnh hơn chữ trong tờ bìa bản NQT (ảnh 7 hình 4). Thực ra có thể làm khác một chút: các từ của cột tên sách có thể cóp ở những chỗ khác trong nguyên bản, bởi trong Truyện Kiều có 17 từ “đoạn trường”, 3 từ “thanh khí” để lấy chữ “thanh” và 1 từ “thanh tân” để lấy chữ “tân”. Tất nhiên làm thế hơi “cách rách” một chút, nhưng khó phát hiện hơn. Song, phải nhận rằng, chữ “đoạn” trong bài thơ này đẹp và rõ ràng hơn các chữ khác trong văn bản.

+ Cột niên đại và tên người chép có thể được cóp từ thủ bút NHL trong Bài tựa để làm ra tờ bìa. Tất nhiên cũng phải mất công “chế biến” đôi chút, chẳng hạn bỏ đi các chữ “Lập”, chữ “ư” và thay đổi dãn cách. Như NTC nhận xét: người chế tác không hiểu vai trò của chữ “Lập” nên không đưa vào bìa.

+ Công việc “chế tác” cột tên tác giả thì tế toái hơn đôi chút: có một chữ không có trong Bài tựa và trong văn bản Truyện Kiều đó là chữ “trứ” và một số chữ bị mờ thì phải viết thêm hoặc tô lại nên trông chúng có vẻ hơi “cứng”, không có được cái mềm mại của thủ bút NHL, đặc biệt là chữ “trứ”.

IV. THẢO LUẬN ĐÔI ĐIỀU VỀ NỘI DUNG TỜ BÌA

Nếu quả thật mọi việc đã diễn ra như trên, thì hẳn ai cũng nghĩ như chúng tôi rằng: đây là tờ bìa giả, rất không đáng tin cậy. Vậy, chúng tôi xin phân tích thêm:

1. Như NTC đã nêu, phần người chép bị thiếu một chữ quan trọng đó là chữ “Lập”, tên người chép sách.

2. Bìa sách cổ thường chỉ ghi năm, bởi việc khắc in không có thể xong trong một ngày. Việc chép sách cũng vậy, đặc biệt việc chép sách của một người không chuyên, chỉ nhân lúc rảnh rỗi tranh thủ chép thì chắc phải vài tháng hoặc vài năm. Vậy mà ở đây trên bìa sách ghi rõ ngày tháng. Cái ngày tháng ấy lại trùng với một ngày viết Lời tựa; điều này không tự nhiên.

3. Trong khi hầu hết các sách thời đó đều ghi tên sách là Kim Vân Kiều truyện hoặc Kim Vân Kiều tân truyện, thì tờ bìa này chép là Đoạn trường tân thanh. Có lẽ phải 32 năm sau, Kiều Oánh Mậu mới là người đầu tiên cho sách cái tên như vậy. Tên sách rất quan trọng. Nếu quả đúng NHL viết tên sách như vậy thì có thể đây là một chứng lý hay cho việc thảo luận. Cũng cần lưu ý là, trong phần Lời tựa còn sót lại sau vụ mối ăn, không hề thấy NHL nhắc đến cái cụm từ Đoạn trường tân thanh mà chỉ nhắc đến Kim Vân Kiều truyện.

4. Trong khi hầu hết các sách đều ghi tác giả là “Tiên Điền Lễ Tham Nguyễn Hầu”, thì tờ bìa này chép là “Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du Tố Như ông”. Cái tên này có lẽ sẽ là một đề tài rôm rả cho việc tranh luận về thời điểm sáng tác Truyện Kiều. Điều này dường như trái với nhận định của ông Nguyễn Quảng Tuân và GS. Mai Quốc Liên, người viết Lời giới thiệu bản NQT, cho rằng Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều sau khi đi sứ về. Cũng cần lưu ý là có thể Lời tựa chép rằng tác giả viết Truyện Kiều khi ông còn là Hồng Sơn Liệp Hộ, nhưng ở trang bìa chưa chắc đã chép thế; bởi người xưa thường ghi chức tước cao nhất của tác giả và do kiêng kỵ nên hiếm khi ghi tên tục của tác giả ở ngoài bìa. Tờ bìa này ghi rõ tên tác giả là “Nguyễn Du”, liệu chép thế có thiếu tôn trọng tác giả không ? Còn điều này nữa: “sơ tứ nhật” thì làm thành “hậu tứ nhật” và dường như người xưa ít dùng chữ “trứ” mà thường dùng chữ “soạn”.

5. Nhân đây, chúng tôi có lời bàn thêm: không nên vì bất kỳ một mục đích nào, mà đặt tên sách ở bìa ngoài khác với tên sách ở bìa trong như ở cuốn sách này: bản NQT [2].

Chúng tôi viết mục II và mục III chỉ như một nghi vấn, bởi chúng tôi không dám tin rằng sự thực lại có thể như vậy. Nếu có gì hơi quá xa đà thì xin ông NQT và độc giả lượng thứ.

L.T.L

TÀI LIỆU DẪN:

[1] Nguyễn Bá Triệu (biên soạn): Truyện Kiều chữ Nôm và khảo dị. VN Priting. Ottawa, Ontario - Canada. 2000.

[2] Nguyễn Du: Truyện Kiều Bản kinh đời Tự Đức, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 2003.

[3] Nguyễn Tuấn Cường: Đi tìm Lâm Nọa Phu (người san cải nên bản Kiều Nôm 1870). Tạp chí Hán Nôm, số 3 (64) - 2004, tr.7-12.

[4] Nguyễn Hữu Sơn: Tìm người chép lại Truyện Kiều năm Canh Ngọ (1870). Văn Nghệ, số 33 (14-8-2004), tr.17.

[5] Nguyễn Quảng Tuân: Bản Kinh đời Tự Đức. Kiến thức ngày nay, số 368 (1-11-2000).

[6] Nguyễn Du: Truyện Kiều. Bản Nôm cổ nhất. Liễu Văn Đường 1871, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị. Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 2002.

[7] Đào Thái Tôn: Giá trị đích thực của bản Truyện Kiều do Lâm Nọa Phu chép tay năm 1870. Kiến thức ngày nay, số 473. tr.41-45.

[8] Nguyễn Quảng Tuân: Trả lời ông Đào Thái Tôn về bài Giá trị đích thực của bản Truyện kiều do Lâm Nọa Phu chép tay năm 1870. Kiến thức ngày nay, số 476 (1-11-2003).

[9] Nguyễn Quảng Tuân: Truyện Kiều. Nghiên cứu và thảo luận. Nxb. Văn học. 2004.

[10] Nguyễn Quảng Tuân: Trao đổi về Truyện Kiều. Đôi điều về bài Tìm lại người chép lại Truyện Kiều năm Canh Ngọ (1870). Văn nghệ, số 35 + 36 (2-9-2004), tr.19.

[11] Nguyễn Quảng Tuân: Truyện Kiều. Bản Kinh đời Tự Đức - 1870. Trong sách Di sản Hán Nôm Huế. Trung tâm BTDT cố đô Huế và Đại học KHXH & NV - ĐHQG, H. 2003, tr.127-143.

[12] Lê Thành Lân: Niên đại tuyệt đối của bản Nôm Truyên Kiều do Nguyễn Hữu Lập chép (Sắp công bố).


TB

MỘT BÀI THƠ CỦA GIÁO THỤ
TRẦN HỮU ĐÁP MỚI PHÁT HIỆN Ở ĐỘNG KÍNH CHỦ

NGUYỄN MINH TƯỜNG

Trần Hữu Đáp (1873-1956) xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng đất Sơn Nam hạ. Ham học, được bà cô giúp lương, đi nhiều nơi vừa ngồi dạy học vừa học. Học và dạy ở nhà cụ Nghè Vân Đình (Dương Lâm), học trò - con cụ Nghè Vân Đình là Dương Thiệu Tường sau đỗ Tiến sĩ. Trần Hữu Đáp đỗ Tú tài đồng khoa với ông thông gia năm 1897 (thời Thành Thái). Ông thông gia (Trần Ngọc Lâm) sau đỗ Cử nhân năm 1913 (thời Duy Tân). Cả hai ông đều làm nghề dạy học, từ Huấn đạo đến Giáo thụ, rồi về hưu... Trần Hữu Đáp thích đi thăm phong cảnh, di tích lịch sử. Còn để lại các bài thơ trong động Kính Chủ, trên núi Đọi và chùa Đọi.

Trong chuyến về công tác tại Thành phố Hải Dương tháng 10-2004, chúng tôi đến thăm động Kính Chủ(1). Đến chân núi, trời đã xế chiều, khói và sương thu bảng lảng bao quanh động.

Đi chừng 50m theo những bậc đá khá cao thì tới cửa động Kính Chủ. Trước mặt tôi là “Kỳ quan Dương Cốc” nổi tiếng, nơi mà cách ngày nay hơn 600 năm, danh sĩ Phạm Sư Mạnh - người quê ở chốn này: làng Hiệp Thạch, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn (tỉnh Hải Dương nay), đã từng lấy lòng hang làm thư phòng, lấy vách đá làm giấy viết. Và cũng chính tại đây, còn lưu giữ bài thơ nổi tiếng của ông: Hành dịch đăng gia sơn(2) (Nhân đi việc quan lên chơi núi quê nhà). Tấm bia đá khắc bài thơ của họ Phạm làm vào năm 1368(3) nay được dựng sừng sững tại cửa động.

Và thật may mắn, chúng tôi đã phát hiện được bài thơ thất ngôn luật của quan Giáo thụ phủ Kinh Môn Trần Hữu Đáp được khắc ở bên phải cửa động.

Bài thơ được khắc trực tiếp vào vách đá, cách mặt đất chừng hơn 3m (cũng vì cách mặt đất khá cao nên rất khó phát hiện).

Nguyên văn chữ Hán như sau:

啟 定 九 年 春
披 雲 直 上 石 門 扁
俯 瞰 層 峰 列 下 屏
李 主 遊 觀 遺 像 在
范 公 勳 業 故 山 銘
地 開 陽 谷 先 藏 日
人 向 岩 阿 使 氣 靈
絕 頂 坐 看 今 古 事
河 山 依 舊 自 高 清
翰 林 檢 討 , 荊 門 教 授
河 南 維 先 黎 舍 龍 山 陳 有 答
敬 題

Phiên âm:

Khải Định cửu niên, xuân.

“Phi vân trực thướng thạch môn thiên,
Phủ khám tằng phong liệt hạ bình.
Lý chúa du quan di tượng tại,
Phạm công huân nghiệp cố sơn minh.
Địa khai Dương Cốc tiên tàng nhật,
Nhân hướng Nham A sử khí linh.
Tuyệt đỉnh tọa khan kim cổ sự,
Hà sơn y cựu tự cao thanh.
Hàn lâm Kiểm thảo, Kinh Môn Giáo thụ,
Hà Nam, Duy Tiên, Lê Xá, Long Sơn Trần Hữu Đáp kính đề.”

Dịch nghĩa:

Khải Định năm thứ 9 (1924), mùa Xuân

Đội mây lên thẳng đến cửa động hẹp,
Cúi nhìn từng từng ngọn núi bày ra ở phía dưới như bức bình phong.
Vua Lý(4) đến chơi, nay còn để tượng ở đây,
Sự nghiệp lớn của Phạm công(5) xưa vẫn còn được khắc ở núi.
Đất mở ra hang Dương Cốc mà nơi mặt trời mọc trước, giờ còn đây,
Người đều hướng về ngọn núi ấy, vì vậy khiến nó có linh khí.
ở chỗ đỉnh cao nhất ngồi xem sự việc xưa nay,
Thì sông với núi vẫn như xưa tự nó cao thanh.
Giáo thụ phủ Kinh Môn, Hàn lâm Kiểm thảo, quê làng Lê Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là Trần Hữu Đáp, hiệu Long Sơn(6) kính đề.

Dịch thơ:

Cửa đá mây che dấn bước lên,
Non xanh trùng điệp ngút tầm nhìn.
Lý vương du ngoạn hình còn đó,
Phạm tể công lao chữ vẫn nguyên.
Dương Cốc bình minh nơi đất mở,
Nham A linh khí chốn nhân duyên.
Xưa nay sự thế nhìn suy ngẫm,
Sông núi thanh cao tự cổ truyền.

Trần Hữu Đáp bấy giờ đương làm Giáo thụ Kinh Môn, tức vị quan chịu trách nhiệm về việc học của phủ này. Nhân dân địa phương còn lưu giữ hình ảnh một vị học quan đức độ, nho nhã, yêu văn thơ và làm thơ khá hay. Trần Hữu Đáp sau này được thăng làm Tri phủ Bình Giang, rồi về hưu trí(7).

Trong bài thơ trên, tác giả Trần Hữu Đáp dụng tâm sử dụng lại một số ý lấy từ thơ của danh nho Phạm Sư Mạnh như: “Cố sơn” (Phạm công huân nghiệp cố sơn minh) cũng tức là “Gia sơn” = Núi quê nhà trong bài thơ nói trên của họ Phạm; hoặc “tàng nhật” là thoát ý từ câu thơ nổi tiếng của Phạm Sư Mạnh:

“Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật.
Giang sơn vượng khí Bạch Đằng thu.”

Nghĩa là:

Mặt trời chiếu vào hang Dương Cốc là cảnh lạ trong bầu trời.
Khí thiêng của non sông tụ cả ở hơi thu sông Bạch Đằng.

Hai câu luận của bài:

“Địa khai Dương Cốc tiên tàng nhật
Nhân hướng Nham A sử khí linh.”

Đó là hai câu thơ hay sử dụng điển tích khá nhuần nhuyễn của tác giả.

Bài thơ của Trần Hữu Đáp thật đáng để chúng ta cùng thưởng thức và bảo tồn.

N.M.T

CHÚ THÍCH

(1)Động Kính Chủ được người xưa coi là động đẹp thứ 6 của trời Nam - “Nam thiên đệ lục động”. Câu này được viết ở ngay cửa tam quan vào động.

(2) Bài Hành dịch đăng gia sơn này được in lại trong tập Thơ văn Lý - Trần, Nxb. KHXH, H. 1978, tập 3, tr.79.

(3) Ở phần lạc khoản có ghi Trần triều nhất bách tứ thập tứnnghĩa là triều nhà Trần năm thứ 144 (1225 + 143 = 1368).

(4) Theo sách Bắc thành địa dư chí thì đây là vua Lý Thần Tông (1128-1133).

(5) Phạm công tức Phạm Sư Mạnh.

(6) Trần Hữu Đáp lấy hiệu là Long Sơn, tức núi Long Đội (núi Đọi), núi quê hương Duy Tiên, Hà Nam của ông.

(7) Được biết: Trần Hữu Đáp là ông nội của GS. Sử học Trần Quốc Vượng - Đại học Quốc gia Hà Nội. GS. Trần Quốc Vượng sinh năm 1934 tại một Bệnh viện của phủ Kinh Môn, trên lưng chừng ngọn núi, dựng đài Tổ quốc ghi công ngày nay của huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương./.

TB

HÔI THẢO “NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY NGỮ VĂN HÁN NÔM TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG SƯ PHẠM”

Ngày 5 tháng 4 năm 2005, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã diễn ra Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề “Nghiên cứu, giảng dạy Ngữ văn Hán Nôm trong nhà trường đại học và cao đẳng sư phạm”. Hội thảo đã thu hút được nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn Hán Nôm. Với gần 60 tham luận thuộc 2 lĩnh vực chính: Các vấn đề khái quát, thực trạng, phương pháp nghiên cứu, giảng dạy, học tập Hán Nôm và Nghiên cứu văn bản chữ nghĩa, giới thiệu văn bản mới, vấn đề giảng dạy Hán Nôm trong nhà trường. Mở đầu là đề dẫn của GS. Đặng Đức Siêu nêu tính cấp thiết của hội thảo. Tiếp sau đó là các báo cáo của GS. Nguyễn Đình Chú, GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng, PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh, TS. Đinh Khắc Thuân, Nhà giáo Nguyễn Khắc Phi, PGS. Phan Văn Các, GS.TS. Lê Văn Quán, PGS. Trần nghĩa...

Được biết đây là sinh hoạt khoa học thường xuyên của trường Đại học Sư phạm Hà Nội cụ thể là của khoa Ngữ văn, mong rằng qua những cuộc hội thảo như thế này sẽ giúp Bộ Giáo dục có những hướng chỉ đạo thật sát sao, cụ thể đối với sự phát triển nền giáo dục nước nhà.

P.V

TB

LỄ RA MẮT CHƯƠNG TRÌNH VĂN HÓA THƠ LUẬT ĐƯỜNG VIỆT NAM

Ngày 9 tháng 3 vừa qua, tại Trung tâm Văn miếu - Quốc tử giám, Hiệp hội câu lạc bộ UNESCO Việt Nam vừa ra mắt Chương trình văn hóa thơ luật Đường Việt Nam chủ đề Văn hóa quê hương với sự góp mặt của hơn 600 người yêu thơ Đường từ mọi miền đất nước.

Thơ Đường là đỉnh cao của sự phát triển thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó mang giá trị nghệ thuật độc đáo và có ảnh hưởng sâu sắc tới thơ ca ở các thời đại sau không chỉ ở Trung Quốc mà đã dần trở thành món ăn tinh thần đã được Việt hóa, nhất là đối với tầng lớp Nho sĩ ở Việt Nam. Ngày nay chữ Hán không còn được phổ biến rộng nhưng ngược lại thơ Đường và người thích thơ Đường càng rộng rãi. Để gìn giữ nét đẹp văn hóa này đồng thời nhằn quy tụ được những người yêu thơ Đường trong cả nước, Chương trình văn hóa thơ luật Đường Việt Nam đã ra đời nhằm tôn vinh thơ Đường và đây sẽ là một đòn bẩy để thúc đẩy việc nghiên cứu văn hóa cổ Việt Nam và việc đưa thơ Đường vào giảng dạy trong trường học.

Công việc và tham vọng của người yêu thơ Đường còn nhiều gập ghềnh nhưng hi vọng rằng với một tương lai không xa, hoạt động của Chương trình sẽ góp phần bảo vệ và phát huy vốn văn hóa cổ dân tộc.

P.V