TB

ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ KHOA CỬ TRUNG QUỐC TỚI VIỆT NAM(1)

VƯƠNG GIỚI NAM

Chế độ khoa cử là chế độ tuyển chọn nhân tài của xã hội phong kiến cổ đại Trung Quốc dựa trên việc tổ chức thi cử theo khoa mục. Việc thi tuyển khoa cử bắt đầu từ đời Tùy. Năm thứ 2 niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy Dạng Đế (606) bắt đầu dùng phép thi cử thay cho “chế độ cửu phẩm trung chính” áp dụng từ đời Ngụy Tấn về sau. Đây là sự mở đầu của chế độ khoa cử Trung Quốc. Nhà Đường theo chế độ nhà Tùy, thực hiện rộng rãi trong cả nước chế độ khoa cử lấy khoa Tiến sĩ làm khoa mục chủ yếu để chọn kẻ sĩ, chính thức hoàn thành bước quá độ từ “chế độ cửu phẩm trung chính” sang chế độ khoa cử. Đời Tống, nhằm tăng cường sự thống trị trung ương tập quyền, đã gia tăng số người được lấy đỗ, nâng cao những đãi ngộ sau khi thi đỗ, tăng cường hơn nữa chế độ khoa cử. Từ đây khoa cử trở thành vấn đề trọng tâm của chế độ giáo dục. Nền chính trị chuyên chế đời Minh phát triển cao độ, giai cấp thống trị càng coi trọng khoa cử hơn các thời đại trước, chế độ khoa cử hoàn thiện hơn, địa vị của khoa cử cũng được đề cao hơn trước, nhưng các khoa mục chọn kẻ sĩ được giảm bớt, chỉ đặt khoa Tiến sĩ. Đến đây, giáo dục thành ra phụ thuộc vào khoa cử. Đời Thanh về cơ bản vẫn theo chế độ khoa cử đời Minh. Cuối đời Thanh, khoa cử trở thành vật cản đối với sự phát triển của các trường học. Đến năm thứ 31 niên hiệu Quang Tự (1905) đã bãi bỏ chế độ khoa cử. Tính ra, từ đời Tùy đến cuối đời Thanh, chế độ khoa cử đã được thực hiện trong thời gian 1300 năm.

Chế độ khoa cử đã có tác dụng tích cực trong việc đào tạo, giáo dục nhân tài và làm phong phú, hoàn thiện nền giáo dục và chính trị văn hóa Trung Quốc. Dân tộc Trung Hoa phát minh ra chế độ khoa cử là một cống hiến to lớn cho văn hóa thế giới. Chế độ thi tuyển quan văn ở các nước Âu Mĩ và Nhật Bản, suy cho cùng đều phát triển bởi ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc. Chế độ khoa cử Trung Quốc càng có ảnh hưởng trực tiếp và rất sâu sắc đối với Việt Nam.

Năm đầu niên hiệu Điều Lộ đời Đường Cao Tông (679) đặt An Nam đô hộ phủ, chiếu dụ An Nam tiến cử kẻ sĩ về kinh sư. Năm thứ 5 niên hiệu Hội Xương đời Đường Vũ Tông (845) quy định cho An Nam cũng như các vùng Lĩnh Nam, Quế Phủ, Phúc Kiến mỗi năm có thể tuyển cử Tiến sĩ và Minh kinh lên làm quan ở trung ương. Để tuyển chọn nhân tài, đặt ra chức quan Nam tuyển sứ, chuyên đề bạt, cất nhắc người An Nam làm quan tại địa phương hay trong triều đình. Thời Đường Đức Tông, Khương Công Phụ, người huyện Quân Ninh, châu Ái (nay là huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) làm quan đến chức Gián nghị đại phu, là một trong những vị quan nổi tiếng đời Đường; Công Phục, em trai ông cũng vào làm quan Thái thú trong triều nhà Đường. Thời Đường Hiến Tông, Liêu Hữu Phương, thi nhân Giao Châu cũng đỗ Tiến sĩ. Từ đó, chế độ khoa cử tuyển chọn kẻ sĩ bắt đầu truyền vào An Nam. Lúc này, An Nam vẫn nằm trong cương giới nhà Đường.

Năm 968, Việt Nam trở thành quốc gia phong kiến độc lập. Thời kì nhà Lí, nền chính trị phong kiến chuyên chế phát triển. Năm 1070, Hà Nội (đương thời là thành Thăng Long) xây dựng Văn Miếu, tôn sùng học thuyết Nho gia, thờ Khổng Tử. Về sau, Văn miếu phổ biến ra các tỉnh, thậm chí các vùng quê cũng có Tiên sư đường để thờ phụng Khổng Tử. Năm thứ 4 niên hiệu Thái Ninh đời Lí Nhân Tông (1075), lần đầu tiên mở khoa thi chọn kẻ sĩ, đặt ra chế độ 3 năm thi một lần nhằm tuyển chọn đề bạt người tài làm việc nội chính, ngoại giao. Năm sau xây dựng Quốc tử giám. Từ đó về sau, văn chương theo cách thức của Trung Quốc trở thành tiêu chuẩn hữu hiệu nhất được công nhận để tuyển chọn quan lại. Đồng thời với việc đặt ra chế độ 3 năm thi một lần, triết lí của Khổng Tử do Chu Hy chú giải trở thành lí luận chính thống, ngôn luận của các bậc tiên sư được ghi chép trong kinh sách trở thành phép tắc bất di bất dịch. “Những người đi học căn cứ vào đó để phát triển ý kiến của mình về lý luận, chính trị và triết học.”(2)

Triều Trần, ngay từ đầu đã qui định niên hạn cho kì Đại tỷ, củng cố chế độ khoa cử. Trong niên hiệu Hồng Vũ nhà Minh, hạ chiếu cho phép An Nam tiến cử 10 sĩ tử đến kinh sư tham gia khảo thí. Thời kì nhà Lê, chế độ khoa cử Việt Nam bước vào giai đoạn hưng thịnh, vua chúa các đời, không ai là không lấy việc mở khoa thi tuyển chọn kẻ sĩ làm công việc đầu tiên. Trong thời gian Lê Thánh Tông ở ngôi, khoa cử cực thịnh một thời. Năm thứ 4 niên hiệu Quang Thuận (1463), quy định 3 năm một lần Đại tỷ. Lê Thánh Tông tại vị 38 năm (1460 - 1497), mở hơn 12 khoa, lấy đỗ hơn 511 Tiến sĩ, số khoa thi và số người lấy đỗ đều hơn hẳn triều Lí, triều Trần, khoa cử hưng thịnh xưa nay chưa từng có. Sau đó, đế vương các đời cũng đều theo đó mở khoa thi chọn kẻ sĩ.

Số lần mở khoa thi và số người được lấy đỗ từ triều Lí đến triều Hậu Lê liệt kê ở bảng sau:

Triều đại Tên đế vương Số năm ở ngôi Số lần mở khoa thi Số người được lấy đỗ Phụ chú
Triều Lí Lí Nhân Tông (Càn Đức) 55 (1072-1127) 1 10
Lí Anh Tông (Thiên Tộ) 38 (1138-1175) 1 Không có con số cụ thể
Lí Cao Tông (Long Cán) 35 (1176-1210) 1 Không có con số cụ thể
Triều Trần Trần Thái Tông (Cảnh) 33 (1225-1258) 3 96 Bắt đầu lấy Tam giáp để phân biệt cao thấp và đặt ra học vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Trần Thánh Tông (Hoảng) 21 (1258-1278) 2 74
Trần Anh Tông (Thuyên) 21 (1293-1314) 1 44
Trần Duệ Tông (Kính) 4 (1373-1377) 1 30
Triều Lê Lê Thái Tổ (Lợi) 6 (1428-1433) Bắt đầu thi Điện và quy định 3 năm thi một lần.
Lê Thái Tông (Lân) 9 (1434-1442) 2 23
Lê Nhân Tông (Tuấn) 16 (1443-1459) 3 31
Lê Thánh Tông (Hạo) 38 (1460-1497) 12 511
Lê Hiển Tông (Huy) 6 (1498-1504) 2 116
Lê Uy Mục Đế (Nghi) 4 (1505-1509) 109
Lê Tương Dực (Oanh) 7 (1509-1516) 2 43
Lê Cung Hoàng (Xuân) 5 (1522-1527) 2 20
Triều Mạc Mạc Đăng Doanh 11 (1529-1540) 2 60
Mạc Phúc Hải 6 (không rõ) 1 17
Mạc Phúc Nguyên 15 (không rõ) 5 91
Mạc Mậu Hợp 30 (1562- 1592) 8 156
Triều Hậu
Lê Thế Tông (Duy Đàm) 27 (1573-1600) 7 30
Lê Kính Tông (Duy Tân) 19 (1600-1619) 7 47
Lê Thần Tông (Duy Kì) 29 (1619- 1643) 7 77
Lê Chân Tông (Duy Hựu) 6 (1643-1649) 1 17
Lê Thần Tông (Duy Kì) 14 (1649-1662) 5 53
Lê Huyền Tông (Duy Vũ) 9 (1663-1671) 4 48
Lê Gia Tông (Duy Cối) 4 (1672- 1675) 1 5

(Chú thích: Theo Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ.)

Các triều vua Việt Nam từ Lý Nhân Tông đến Lê Gia Tông, đều rất coi trọng khoa cử. Nói về triều đại, triều Lê là thời đại khoa cử hoàn bị nhất của Việt Nam, cũng là thời đại giáo dục phát triển nhất. Đại Việt sử kí ghi: “Lê Thái Tổ bình định thiên hạ, giáo dục anh tài. Hỏi tìm rộng rãi thì cầu người ẩn dật; thu chọn quy mô thì thi khảo học trò. Tuy tên khoa Tiến sĩ chưa đặt mà khí mạch tư văn ấy đã hoàn thành. Thái Tông dựng nền móng, bắt đầu mở khoa Nhâm Tuất, các bậc hiền tài quần tụ. Nhân Tông kế tiếp mở ba khoa, nhân văn càng rạng. Đến Thánh Tông trung hưng Quý Mùi, số người lấy đỗ còn nhiều hơn trước.”(3) Lại nói: thời Lê Thánh Tông, “Văn trị vũ công, chiếu rọi sau trước. Đến đây giáo hóa sâu đậm, nguyên khí được sùng trọng. Văn giáo bừng bừng như sóng dậy, nho phong lồng lộng tựa gió cuốn, cho nên nhân tài lớp lớp xuất hiện đông đúc”(4). Có thể thấy chế độ khoa cử đã có ảnh hưởng tích cực, to lớn đến sự phát triển văn hóa Việt Nam.

Chế độ khoa cử ở Việt Nam bị bãi bỏ thậm chí còn muộn hơn cả Trung Quốc. Cho dù vào năm 1885, sau khi toàn bộ bờ cõi Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, vương triều họ Nguyễn của Việt Nam đã trở thành bù nhìn nhưng vẫn mở khoa tuyển sĩ, chế độ khoa cử lúc ấy bê nguyên xi chế độ khoa cử của nhà Minh, Thanh, thi cử không những dùng chữ Hán mà còn dùng thể văn bát cổ. Thân phụ của chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính là Phó bảng Tiến sĩ xuất thân của triều Nguyễn cuối thế kỉ XIX. Mãi cho đến năm thứ 4 đời Khải Định Nguyễn Hoằng Tông (1919), cuối cùng mới bãi bỏ khoa cử(5). Năm 1919, là năm Việt Nam chấm dứt khoa cử, cũng là thời điểm kết thúc của chế độ khoa cử [thời kỳ phong kiến] trên phạm vi toàn thế giới. Thời điểm này, muộn hơn 14 năm so với thời điểm triều Thanh Trung Quốc bãi bỏ khoa cử.

Khoa mục thi ở Việt Nam cũng giống với Trung Quốc. Khoa mục do nhà Đường đặt ra có 6 khoa gồm: Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Minh pháp, Minh thư, Minh toán, trong đó coi khoa Tiến sĩ là quan trọng nhất. Nhà Tống kế thừa chế độ nhà Đường, cũng chú trọng khoa Tiến sĩ. Đến nhà Minh, chỉ đặt khoa Tiến sĩ. Vào năm thứ 4 niên hiệu Thái Ninh đời Lí Nhân Tông Việt Nam (1075), lần đầu mở khoa thi, khoa mục cũng là khoa Tiến sĩ. Lúc này, Việt Nam vẫn chưa có tên gọi “Tiến sĩ” mà gọi chung là “Thái học sinh”. Năm thứ 8 niên hiệu Kiến Trung đời vua Thái Tông nhà Trần (1232) thi Thái học sinh. Năm thứ 2 niên hiệu Long Khánh đời Trần Duệ Tông (1374) bắt đầu thay cách gọi “Thái học sinh” bằng “Tiến sĩ”. Năm đầu niên hiệu Thiệu Bình triều Lê Thái Tông, chính thức đặt khoa Tiến sĩ, từ đó về sau, chế độ 3 năm thi một lần trở thành định lệ lâu dài.

Trình tự tiến hành của khoa cử Việt Nam giống như Trung Quốc. Đời Đường, khoa cử chia làm hai cấp: cấp thứ nhất là thi Hương, tổ chức ở châu huyện địa phương; cấp thứ hai là thi tỉnh, tổ chức ở kinh đô. Thời Võ Tắc Thiên thêm kì thi Điện. Bắt đầu từ năm thứ 6 niên hiệu Khai Bảo đời Tống Thái Tổ (973) trở đi, thi Điện trở thành chế độ. Đời Minh đặt khoa cử thành 4 cấp: một là thi Khoa, tổ chức ở huyện, thi đỗ là Tú tài; hai là thi Hương, tổ chức ở tỉnh hội, thi đỗ là Cử nhân; ba là thi Hội, tổ chức ở kinh sư, thi đỗ là Cống sĩ; bốn là thi Điện, Cống sĩ tham gia, do Hoàng đế tự chủ trì, thi đỗ gọi là Tiến sĩ. Đời Minh quy định năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội. Thi Hương vào tháng 8, thi Hội tổ chức tháng 2. Việt Nam mô phỏng phép tắc đời Tống, Minh cũng phân cấp thi cử. Nguyên lúc đầu phân làm hai cấp: thi Hội và thi Điện. Năm thứ 17 niên hiệu Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1486) quy định, tất cả những người tham gia thi Hội trước tiên phải tham gia kì thi Hương. Từ đó về sau, định kì tổ chức thi Hương. Người đỗ kì thi Hội mới được tham gia thi Điện. Từ năm thứ 6 niên hiệu Thái Hòa đời Lê Nhân Tông (1448) trở đi, thi Điện trở thành chế độ. Bắt đầu từ năm thứ 7 niên hiệu Quang Thuận đời Lê Thánh Tông (1466), thực hiện cứ 3 năm một khoa. Lúc đó, thi Hội vào tháng 2. Những cách làm này cơ bản giống với cách của đời Minh Trung Quốc.

Nội dung khoa cử của Việt Nam cũng giống Trung Quốc. Nội dung chủ yếu của khoa thi Tiến sĩ thời Đường là thi, phú, thời vụ sách. Nội dung thi cử đời Tống là kinh nghĩa, thi, phú, luận sách. Nội dung thi cử đời Minh là Thi, Dịch, Thư, Lễ kí, dùng thể văn biền ngẫu, còn gọi là văn bát cổ. Nội dung thi cử thời kì nhà Lê Việt Nam đại thể cũng giống với nội dung đã nói ở trên. Năm đầu niên hiệu Thiệu Bình đời Lê Thái Tông (1434) tổ chức thi Hội, nội dung thi là kinh nghĩa, Tứ thư, thi, phú và sách vấn. Năm thứ 3 niên hiệu Hồng Đức (1472) nội dung thi Hội là Ngũ kinh, Luận ngữ, Mạnh tử và thơ, phú, sách vấn. Thơ dùng luật Đường, phú dùng thể Lí Bạch.

Về yêu cầu tư cách thí sinh của Việt Nam cũng giống Trung Quốc. Từ đời Đường trở về sau, các triều đại đòi hỏi thí sinh nói chung phải có cả đức lẫn tài. Ngoài ra, còn có những quy định khắt khe, cụ thể khác. Đời Nguyên, quy định về tư cách thí sinh càng khắt khe hơn: “Những người là con nhà hát xướng hay tật nguyền, những kẻ gian tà phạm vào mười tội ác, không được dự thi” (Nguyên sử, Tuyển cử chí). Đời Minh thậm chí còn qui định: “Con cái nhà quan lại bị bãi chức, nhà hát xướng và người đang chịu tang cha mẹ, đều không được dự thi” (Minh sử, Tuyển cử nhị). Khoa cử của Việt Nam cũng có quy định tương tự. Năm thứ 3 niên hiệu Quang Thuận đời Lê Thánh(6) Tông (1462), qui định tư cách thí sinh tham gia thi Hội: “Người thực sự có đức hạnh, mới được đưa vào danh sách dự thi. Loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, kẻ điêu toa, tuy có học vấn, văn thơ hay cũng không cho vào thi. Thứ đến là con cái nhà hát xướng, cùng kẻ nghịch đảng ngụy quan, kẻ có tiếng xấu thì bản thân và con cháu đều không được dự thi”(7)

Võ cử Việt Nam cũng giống như Trung Quốc. Sau khi Võ Tắc Thiên nhà Đường trông coi triều chính, vào năm thứ 2 niên hiệu Trường An (702) bắt đầu đặt võ cử. Võ cử đời Đường khơi nguồn cho sự hưng khởi của võ học đời Tống. Đầu đời Minh, cũng thành lập võ học, đặt võ cử. Đời Thanh bắt đầu từ niên hiệu Thuận Trị, võ khoa tổ chức thi Hương, thi Hội như văn khoa. Đỗ kì thi Hương gọi là võ Cử nhân, đỗ kì thi Hội gọi là võ Tiến sĩ. Năm thứ 5 niên hiệu Bảo Thái đời vua Dụ Tông triều Hậu Lê Việt Nam (1724) bắt đầu thi võ cử, 3 năm thi một lần. Nội dung thi: trước tiên thi ghìm ngựa, múa đao; thứ đến thi bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa phi lao; sau nữa thi văn sách hỏi về phương lược trong Võ kinh thất thư. Năm thứ 41 đời vua Hiển Tông nhà Hậu Lê (1780), quy định lại cách thức thi. Nội dung thi định ra bốn trường: trường thứ nhất thi múa đao, bắn cung; trường thứ hai thi chạy bộ bắn cung, bắn pháo; trường thứ ba trước tiên thi phi ngựa bắn cung, sau đó là đi bộ đấu đao, bên đánh bên đỡ, cưỡi ngựa phi lao, đánh kiếm dài; trường thứ tư, thi làm một bài văn sách.

Nghi thức yết bảng và chế độ đãi ngộ người thi đỗ của khoa cử Việt Nam cũng giống như Trung Quốc. Đời Đường, người đỗ Tiến sĩ được tới dự yến ở vườn hạnh, gọi là “Thám hoa yến” (tiệc thăm hoa). Còn mở tiệc lớn ở đầm Khúc Giang mạn đông nam Trường An, gọi là “Khúc Giang hội”. Các Tiến sĩ còn được đến tháp Đại Nhạn chùa Từ Ân, đề tên lưu niệm, gọi là “Đề danh tịch” (tiệc đề tên). Đời Tống, Hoàng đế thết đãi các Tiến sĩ thi đỗ kì thi Điện. Năm thứ 4 niên hiệu Hồng Võ đầu đời Minh (1371), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã tự hỏi thi 120 vị đỗ kì thi Điện tại điện Phụng Thiên. “Sau đó, treo bảng vàng ngoài cửa Ngọ Môn, tuyên chiếu ở điện Phụng Thiên, ban tiệc thết đãi người thi đỗ.” Triều Lê Việt Nam rất ưu đãi người thi đỗ. Năm thứ 3 niên hiệu Đại Bảo(8) triều Lê Thái Tông (1442), lấy đỗ bọn Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên 23 người, ngoài việc ban cho học hàm, còn sai soạn văn đề danh, dựng bia đá kỉ niệm. Việc dựng bia Tiến sĩ bắt đầu từ đây. Năm thứ 4 niên hiệu Quang Thuận triều Lê Thánh Tông (1463), sau kì thi Điện, lệnh quan ở bộ Lễ quan yết bảng vàng ngoài cửa Đông Hoa.

Khoa cử ở Việt Nam và học vị trao tặng cho người đỗ cũng giống Trung Quốc. Học vị khoa cử Việt Nam hoàn toàn mô phỏng chế độ Trung Quốc, đỗ Đệ nhất giáp nhất, nhị, tam danh, gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa; gọi chung là Tiến sĩ cập đệ; những người đỗ Đệ nhị giáp, gọi chung là Tiến sĩ xuất thân, những người đỗ Đệ tam giáp, gọi chung là Đồng tiến sĩ xuất thân.

Toàn bộ chế độ khoa cử được thực thi ở Việt Nam đều mô phỏng chế độ khoa cử của các đời Đường, Tống, Minh (Trung Quốc). Chế độ khoa cử Trung Quốc truyền vào Việt Nam có tác dụng tích cực đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài của Việt Nam(9):

1) Thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Sau khoa thi đầu tiên vào năm 1075, năm sau (1076) Việt Nam mô phỏng chế độ giáo dục Đường Tống, xây dựng Quốc tử giám, tuyển chọn các quan văn biết chữ vào Quốc tử giám học tập. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tông càng coi trọng xây dựng nền giáo dục, đào tạo nhân tài, ở trung ương có Quốc tử giám dưới địa phương có Phủ học. Trong những năm niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông, mở rộng thêm qui mô Quốc tử giám, mô phỏng chế độ hành chính và quản lí dạy học của Quốc tử giám đời Đường, Tống, đặt chức Tế tửu (chức quan hành chính giáo dục cao nhất), Tư nghiệp (trợ giúp Tế tửu công việc quản lí) quản lí việc hành chính của trường; mời các trực giảng bác sĩ, giáo thụ đến dạy học. Sau đó, vào năm đầu niên hiệu Vạn Khánh đời vua Lí Thần Tông (1662), trùng tu nhà Thái học, mở rộng quy mô Quốc tử giám.

2) Nhằm thúc đẩy truyền bá rộng rãi văn hóa Hán ở Việt Nam. Năm 1075, Lí Nhân Tông lần đầu tiên thi Nho học; năm thứ 3 niên hiệu Kiến Trung đời Trần Thái Tông (1127) thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo). Các lần thi sau đều thi Tứ thư, Ngũ kinh và thơ phú. Do sùng Nho trọng Đạo, khuyến khích Hán học, cho nên Nho phong mạnh mẽ. Từ đó, văn hóa Trung Quốc truyền bá rộng rãi khắp Nam Bắc Việt Nam, thơ Hán trở thành hình thức văn học chủ yếu của văn học Việt Nam. Không ít tác phẩm của người Việt Nam triều Hậu Lê có thể sánh ngang với thơ ca cổ điển của Trung Quốc.

3) Đào tạo được hàng loạt nhân tài ưu tú. Trong vòng 598 năm kể từ năm thứ 4 niên hiệu Thái Ninh đời vua Lí Nhân Tông (1075) bắt đầu thực hiện chế độ khoa cử cho đến năm thứ 2 niên hiệu Dương Đức đời vua Lê Gia Tông (1673), Việt Nam tổ chức được 81 lần thi, lấy đỗ 1706 vị Tiến sĩ. Nhờ đẩy mạnh chế độ khoa cử, cho nên xuất hiện nhiều nhân tài, không ít người là bậc nhân tài kiệt xuất, rạng rỡ muôn đời. Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn trong niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình đời Trần Thái Tông soạn bộ Đại Việt sử kí, Ngô Sĩ Liên đỗ Tiến sĩ niên hiệu Đại Bảo đời Lê Thái Tông soạn bộ Đại Việt sử kí toàn thư, đây là một bộ sử Việt Nam khá hoàn thiện; Lê Quý Đôn đỗ Bảng nhãn niên hiệu Cảnh Hưng đời Lê Hiển Tông, là một bậc học giả lỗi lạc, những sách ông soạn như Lê triều thông sử Phủ biên tạp lục đều có giá trị học thuật cao, ông còn là một nhà ngoại giao nổi tiếng. Năm thứ 26 đời vua Càn Long nhà Thanh (1761) Lê Quý Đôn từng sang Trung Quốc cầu phong, tuế cống. Các vị xuất thân từ khoa cử thời Nguyễn như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, đều có vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Chế độ khoa cử Trung Quốc truyền vào Việt Nam, đã có ảnh hưởng to lớn tích cực đến sự phát triển chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam.

NGUYỄN TÔ LAN dịch

CHÚ THÍCH

(1) Dịch từ nguyên bản Trung văn: Trung Quốc khoa cử chế độ dữ Việt Nam đích ảnh hưởng, Trung Hoa văn hóa thông chí, Trung ngoại văn hóa giao lưu điển, (tập 10) Trung Quốc dữ Đông Nam Á văn hóa giao lưu chí, Thượng Hải nhân dân xuất bản xã xuất bản, 1998, tr.197- 204.

(2) [Việt] Đặng Thai Mai, Việt Nam văn học phát triển khái thuật, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Phân viện Trung Nam, Viện Khoa học Trung Quốc: Tư liệu nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1964.

(3) Đại Việt sử kí toàn thư, Lê kỉ tam [Bài văn bia Tiến sĩ đề danh bi kí của Đàm Văn Lễ, Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ thực lục, Q.12, tr.23a, 23b - ND].

(4) Đào Cử: Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh bi kí, Hoàng Việt văn tuyển, quyển 2, tr.11-12.

(5) Kim Tranh: Khoa cử chế độ dữ Trung Quốc văn hóa, Thượng Hải Nhân dân xuất bản xã xuất bản, 1990, tr. 238- 239.

(6) Thánh: nguyên văn ghi là Thuận - ND

(7) Đại Việt sử kí toàn thư, Lê kỉ tứ.

(8) Đại: nguyên văn ghi là Thái - ND

(9) Tham khảo Hoàng Quốc An: Trung Quốc khoa cử chế độ đối Việt Nam đích ảnh hưởng, Ấn Độ Chi Na, số 3, 1996./.

TB

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ VIỆT NAM

TRỊNH KHẮC MẠNH

Văn bia là hiện tượng văn hóa được nảy sinh từ đời sống xã hội như là nét đặc thù và là một trong những hình thức thông tin thời cổ và trung đại. Văn bia xuất hiện từ khá sớm, truyền thống sáng tạo văn bia ở các nước sử dụng chữ tượng hình (chữ khối vuông) bắt đầu từ Trung Quốc, sau đó được lan truyền sang các nước như Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.

Theo Chu Kiếm Tâm (朱 劍 心) trong cuốn Kim thạch học (金 石 學) thì nguyên tắc lập bia, được ghi chép trong Ngữ thạch (語石) phần Lập bi tổng lệ (立 碑 總 例 ) có 4 nguyên tắc chính(1):

- Một là: Thuật đức, tôn sùng bậc thánh nhân, ca ngợi kẻ hiền tài, biểu dương người trung thuận, nêu gương người hiếu nghĩa.

- Hai là: Ghi công, khắc vào đá ghi việc thánh thượng khi tuần du cho đến việc ghi công trạng của các tướng lĩnh.

- Ba là: Kỷ sự, ghi việc xây dựng đền đài lăng tẩm.

- Bốn là: Toản ngôn, từ công văn thư tín đến các sáng tác của văn nhân.

Về nội dung bài văn bia khắc vào đá, theo Cung Tự Trân () trong Thuyết khắc thạch ()có những chủ đề sau (2):

- Bậc đế vương đi tuần thú thì ghi lại để ca tụng công đức.

- Bậc đế vương đi săn bắn thì ghi lại nhân đó để ca tụng công đức.

- Có việc chinh phạt lớn thì ghi lại chủ yếu là để ca ngợi công lao.

- Có hiến lệnh lớn thì ghi lại để nói về pháp lệnh.

- Có việc cầu khấn lớn thì ghi lại là để tỏ lòng tin.

- Các việc đánh nhau giữ đất, vận chuyển quân lương, đều ghi lại là để nói về những điều hệ trọng.

- Vỡ đê ngập nước, hoặc xây dựng các công trình đê điều đều ghi lại là để nắm tình hình.

- Xây dựng các thành quách, lâu đài thì ghi lại để khảo xét.

- Thư tịch mất mát, học thuật nảy nở thì ghi lại để tìm hiểu.

Những nguyên tắc lập bia và những qui định về nội dung khi soạn bài văn, để khắc vào đá như nêu ở trên được Chu Kiếm Tâm nêu ra, theo chúng tôi chỉ có thể đúng với thời kì hình thành khai sáng ra thể văn bia mà thôi. Còn trên thực tế, trong quá trình phát triển, việc lập bia và soạn văn bia để khắc vào đá đã diễn ra hết sức phong phú và đa dạng, không chỉ ở chính nơi có truyền thống sáng tạo ra văn bia, mà ở cả các nước chịu ảnh của truyền thống này.

Nếu chúng ta đem đối chiếu giữa thực tế sáng tạo văn bia ở Việt Nam với những nguyên tắc lập bia và qui định chủ đề nội dung khi soạn văn bia mà Chu Kiếm Tâm nhắc lại ý của người đi trước ở Trung Quốc thì thấy có sự không đồng nhất. Phải nói rằng, những nguyên tắc lập bia và nội dung khi soạn văn bia ở nước ta được mở rộng, có những bia được lập không theo 4 nguyên tắc đã ghi chép trong Ngữ thạch phần Lập bi tổng lệ mà Chu Kiếm Tâm đã dẫn và có những bài văn bia được sáng tác để khắc vào đá cũng không theo những chủ đề mà Cung Tự Trân đã ghi chép trong Thuyết khắc thạch.

Một trong những thể văn được soạn thảo để khắc vào đá có thể coi là phá cách, đó là những văn bia khắc đá đề danh những người đỗ đạt, mà ta thường gọi là văn bia đề danh Tiến sĩ. Văn bia đề danh Tiến sĩ ở Việt Nam, lúc đầu thường do nhà vua và các quan lại cấp trung ương lập ở các văn miếu, nơi thờ tự Khổng Tử cấp quốc gia để ca ngợi nhà nước phong kiến, tôn sùng Nho học và khuyên răn kẻ sĩ; sau được lập tại các văn từ, văn chỉ ở địa phương, nơi thờ tự các bậc tiên hiền để nêu cao tinh thần tôn sư trọng đạo và khuyến khích học tập vùng quê mình.

Ở Trung Quốc lệ khắc bia đề danh Tiến sĩ có từ khá sớm (khoảng thế kỷ thứ VIII). Đó là những văn bia được khắc ở Nhạn tháp chùa Từ Ân kinh đô Trường An, rồi Quốc tử giám Nam Kinh và Quốc tử giám Bắc Kinh.

Ở Việt Nam việc lập bia đề danh được bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông (năm 1484) tại Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội. Chủ trương của vua Lê Thánh Tông về việc lập văn bia đề danh Tiến sĩ là nhằm tôn vinh bậc tri thức Nho học đỗ đại khoa, chủ trương này đã được các vua đời sau nối tiếp và các quan lại tại các địa phương đời sau hưởng ứng, tạo nên một hệ thống văn bia đề danh Tiến sĩ trong cả nước. Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam thời kì phong kiến hiện còn tập trung ở 2 văn miếu cấp quốc gia: Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội (82 bia) và Văn miếu Huế (34 bia), 2 văn miếu cấp tỉnh: Văn miếu Bắc Ninh (11 bia) và Văn miếu Hưng Yên (9 bia); ngoài ra ở một số văn miếu, văn từ, văn chỉ ở nhiều địa phương từ cấp phủ trở xuống đến cấp thôn cũng có lập văn bia đề danh Tiến sĩ (sơ bộ thống kê cũng có đến vài chục bia).

Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam thời kỳ phong kiến đã được nhiều thế hệ Hán học nghiên cứu, dịch và công bố; nhưng hoàn toàn mang tính độc lập cho từng di tích văn hóa. Hầu như chúng ta chưa có được cái nhìn tổng quan, bao quát về thể tài văn bia đề danh Tiến sĩ này. ấy là chưa kể đến có những bản dịch còn khá nhiều thiếu sót, như phiên âm họ tên và quê quán người đỗ đạt sai, rồi thừa thiếu cũng có, v.v...

Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến hệ thống văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam viết bằng chữ Hán hiện còn tập trung ở 2 văn miếu cấp quốc gia: Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội và Văn miếu Huế, 2 Văn miếu cấp tỉnh: Văn miếu Bắc Ninh và Văn miếu Hưng Yên. Đây là những nơi tập trung nhiều nhất hệ thống văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam thời kỳ phong kiến hiện còn ở nước ta. Còn văn bia đề danh Tiến sĩ ở các địa phương khác thì vấn đề văn bản hết sức phức tạp, chúng tôi sẽ đề cập vào một dịp khác.

a/ Văn miếu cấp quốc gia

1/ Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội

Văn miếu - Quốc tử giám ở kinh đô Thăng Long - Hà Nội được xây dựng từ năm 1070 thời vua Lý Thánh Tông (1023 - 1072), qua bao thăng trầm của lịch sử, trải các triều Trần - Hồ - Lê sơ - Mạc - Lê Trung hưng - Tây Sơn - Nguyễn, Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội được tu bổ, mở rộng và tồn tại đến ngày nay. Hiện ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội còn lưu giữ được 82 văn bia đề danh Tiến sĩ, có niên đại trải dài hơn 300 năm với 82 khoa thi. Văn bia được khắc đầu tiên có niên đại Hồng Đức thứ 15 (1484) cho khoa thi Đại Bảo thứ 3 (1442) và văn bia khắc cuối cùng có niên đại Cảnh Hưng thứ 41 (1780) cho khoa thi Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Số lượng văn bia được dựng theo thời gian như sau: thời Lê sơ có 13 văn bia, thời Mạc có 1 văn bia, thời Lê Trung hưng có 68 văn bia(3). Số người đỗ đại khoa được văn bia khắc họ tên, quê quán là 1304 vị Tiến sĩ Nho học (không kể 3 trường hợp đi thi 2 lần là Trịnh Thiết Trường, Nguyễn Nguyên Chẩn và Nguyễn Nhân Bị).

Hệ thống văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội được nhà nước phong kiến các thời kỳ tổ chức dựng bia, khắc đá, đề danh khá cẩn thận và chu đáo, từ việc chọn đá, tuyển người soạn bài văn bia, người nhuận sắc, người khắc, hình thức trang trí, v.v... Một đặc điểm dễ nhận thấy là, 82 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đều đề tên người soạn văn bia và bài văn bia thường được kết cấu theo một khuôn mẫu: phần mở đầu là ca ngợi công đức của các triều vua trị vì, ca ngợi đạo Nho và bậc thánh nhân quân tử; phần tiếp theo nói về việc mở khoa thi và liệt kê họ, tên, quê quán những người thi đỗ đại khoa; phần cuối là những lời bình về ý nghĩa của việc dựng bia, vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ của những người thi đỗ trước giang sơn đất nước. Một đặc điểm khác cũng dễ nhận thấy là 82 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đều khắc hoa văn trang trí rất cầu kỳ, mang tính cách điệu cao, là những tư liệu có giá trị khi nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc nước ta thời kì từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội thực sự là những tài liệu hết sức có giá trị khi nghiên cứu truyền thống giáo dục, chế độ khoa cử và nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ - Lê Trung hưng.

Nhưng văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội cũng có những đặc điểm liên quan đến vấn đề văn bản học mà chúng ta phải lưu ý khi sử dụng chúng. Đó là việc triều vua Minh Mệnh (1820-1840) thời Nguyễn cho đục những dòng chữ liên quan đến các chúa Trịnh trên 68 văn bia (các bia dựng từ năm 1653 đến năm 1779), hoặc việc 14 văn bia được xác định là khắc lại(4) đã làm mất đi tính minh xác của văn bia, một loại tài liệu được đánh giá cao về tính chính xác của văn bản.

82 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đã được làm thác bản từ những năm đầu của thế kỷ XX do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (tại Hà Nội) thực hiện và những năm cuối của thế kỷ XX do Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện, các thác bản hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 82 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội đã được dịch và công bố nhiều lần(5).

2/ Văn miếu Huế (Thừa Thiên - Huế)

Từ thời các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi xuống phương Nam, cũng đã cho xây dựng Văn miếu, nhưng rất tiếc, hiện chưa rõ địa điểm và năm xây dựng. Còn theo sử sách ghi chép thì: năm Nhâm Thân (1692), chúa Nguyễn Phúc Chu cho tu sửa Văn miếu ở Triều Sơn; đến năm Canh Dần (1770), Định Vương Nguyễn Phúc Thuần cho di chuyển Văn miếu về Long Hồ. Tới năm Gia Long thứ 7 (năm 1808), Văn miếu Huế chính thức của triều Nguyễn mới được xây dựng quy mô trên khu đất thuộc làng An Ninh (tức địa phận di tích ngày nay thuộc xã Hương Long, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế). Trải dòng lịch sử, Văn miếu Huế đã được nhiều lần trùng tu và sửa chữa, như: năm Kỷ Sửu (1829) triều vua Minh Mệnh, năm Quí Mão (1843) triều vua Thiệu Trị, năm Kỷ Dậu (1849) dưới triều Tự Đức, triều Thành Thái tu sử 2 lần, rồi triều Bảo Đại và hiện nay Văn miếu Huế đang được nhà nước đầu tư tu sửa nhằm khôi phục phần nào diện mạo của Văn miếu Huế thời Nguyễn.

Thời Nguyễn (1802-1942), từ đời Minh Mệnh, triều đình mở lại các khoa thi Đình, nên văn bia đề danh Tiến sĩ cũng được dựng lại. Từ năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822), đến khoa cuối cùng là khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919), có cả thảy 43 khoa thi. Tuy nhiên chỉ có 32 văn bia đề danh Tiến sĩ được dựng (trong đó có 3 văn bia khắc 3 khoa thi, 2 văn bia khắc 2 khoa thi) và 2 văn bia đề danh các Tiến sĩ võ (trong đó có 1 văn bia khắc 2 khoa thi) đã được dựng ở Văn miếu Huế.

Bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Huế nhỏ hơn và không đẹp bằng những bia đề danh Tiến sĩ ở Quốc tử giám Hà Nội. Nội dung văn bia cũng giản đơn hơn rất nhiều, không có bài ký mở đầu, chỉ ghi tên tuổi, quê quán của các vị Tiến sĩ mà thôi. Hình thức trang trí bia cũng giản đơn không cầu kỳ tỷ mỷ như những bia đề danh Tiến sĩ ở Quốc tử giám Hà Nội. Tuy vậy, 34 tấm bia này vẫn có giá trị nghiên cứu khoa cử thời Nguyễn nói chung và tên tuổi, quê quán của 303 vị Tiến sĩ văn võ thời Nguyễn nói riêng. Về phương diện mỹ thuật, bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Huế cũng là những tài liệu góp phần nghiên cứu phong cách mỹ thuật Việt Nam thời Nguyễn.

34 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Huế đã được làm thác bản từ những năm đầu của thế kỷ XX do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (tại Hà Nội) thực hiện, các thác bản này hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 34 văn bia này đã được dịch và công bố năm 2000(6).

B/ Văn miếu cấp địa phương

1/ Văn miếu Bắc Ninh

Về thời điểm xây dụng Văn miếu tỉnh Bắc Ninh, hiện chưa tìm thấy các tài liệu thư tịch ghi chép một cách chính xác. Có một số ý kiến cho rằng, Văn miếu Bắc Ninh được xây dựng vào thời Lê sơ (7), nhưng theo chúng tôi là chưa đủ tin cậy. Các tài liệu, thư tịch Hán Nôm ghi chép về Văn miếu Bắc Ninh hiện còn tìm thấy đều thuộc về thời Nguyễn và chỉ ghi việc trùng tu, sửa chữa Văn miếu mà thôi, không ghi chính xác thời điểm xây dựng Văn miếu. Theo văn bia Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký thì: Văn miếu Bắc Ninh xưa dựng ở sơn phận Thị Cầu, huyện Võ Giàng; năm Thành Thái thứ 5 (1893) được chuyển về núi Nác, thôn Phúc Đức, tổng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng(8) (tức địa phận xã Đại Phúc thị xã Bắc Ninh hiện nay). Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: Năm Gia Long thứ 1 (1802) tu sửa Văn miếu, đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phải làm lại(9). Như vậy Văn miếu Bắc Ninh theo sự ghi chép của các tài liệu, thư tịch Hán Nôm thì các đợt di chuyển và trùng tu đều diễn ra vào các năm muộn sau này mà thôi (năm 1893, năm 1896, năm 1912 và năm 1928). Vấn đề thời điểm xây dựng Văn miếu Bắc Ninh cần được tiếp tục khảo cứu cẩn trọng, nhưng dẫu sao thì Văn miếu Bắc Ninh cũng có một vị trí nhất định khi nghiên cứu giá trị lịch sử văn hóa địa phương nói riêng và lịch sử văn hóa dân tộc nói chung.

Tại đây, nhân dân địa phương còn lưu giữ được 14 tấm bia đá, trong đó có 11 tấm có tên là Bắc Ninh lịch triều đại khoa bi ký (Văn bia ghi những người đỗ đại khoa ở các triều đại tỉnh Bắc Ninh), văn bia ghi chép về khoa thi, họ tên, quê quán, học vị, chức tước của 678 vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ của tỉnh Bắc Ninh thời phong kiến (bao gồm cả tỉnh Bắc Giang và các huyện Gia Lâm, Văn Giang, Đông Anh ngày nay) từ thời Lý như Trạng nguyên Lê Văn Thịnh đỗ đầu kỳ thi Minh kinh bác sĩ khoa ất Mão niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075) đến thời Nguyễn như Nguyễn Duy Thiện đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901). Trong số 678 Tiến sĩ được khắc tên trong 11 tấm bia tại Văn miếu Bắc Ninh, có 367 trường hợp đã được khắc tên trong bia ở Văn miếu-Quốc tử giám Hà Nội và Văn miếu Huế; còn 311 trường hợp chưa được khắc tên trong bia ở Văn miếu-Quốc tử giám Hà Nội và Văn miếu Huế. 311 Tiến sĩ này chủ yếu thi đỗ vào thời Mạc và một số khoa thời Lê chưa lập bia, nên đây là những tư liệu quan trọng khi nghiên cứu về các nhà khoa bảng nước ta thời kỳ phong kiến.

Về hình thức văn bia, 11 tấm bia Bắc Ninh lịch triều đại khoa bi ký không khắc hoa văn trang trí, không đề tác giả, và niên đại khắc bia; điều này sẽ gây không ít những khó khăn cho chúng ta khi nghiên cứu về đời sống văn hóa nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh nói chung và văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Bắc Ninh nói riêng.

11 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Bắc Ninh đã được làm thác bản từ những năm đầu của thế kỷ XX do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (tại Hà Nội) thực hiện và những năm cuối của thế kỷ XX do Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện, các thác bản hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 11 văn bia này đã được Nguyễn Quang Khải dịch và công bố năm 2000(10).

2/ Văn miếu Hưng Yên

Văn miếu Hưng Yên nay thuộc địa phận xã Xích Đằng phường Lam Sơn thị xã Hưng Yên tỉnh Hưng Yên, nhân dân ở địa phương thường gọi là Văn miếu xứ Đằng. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Văn miếu ở phía tây bắc tỉnh thành, thuộc địa phận xã Xích Đằng, dựng năm Minh Mệnh thứ 20 (1839)”(11). Nhưng theo tư liệu hiện có ở Văn miếu, như chiếc khánh Văn miếu ngọc khánh có niên đại vào năm Gia Long thứ 2 (1803), hay chuông Văn miếu kim chung có niên đại vào năm Gia Long thứ 3 (1804) thì Văn miếu Hưng Yên có thể được xây dựng từ những năm đầu thời Nguyễn. Như vậy, về thời điểm tạo dựng Văn miếu Hưng Yên ở thị xã Hưng Yên (hay còn gọi là Phố Hiến), nơi từng là trung tâm buôn bán sầm uất thứ nhì vùng châu thổ sông Hồng “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến” cần được tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.

Văn miếu Hưng Yên trải theo thời gian cũng bao lần trùng tu sửa chữa, thời Nguyễn vào đời Thiệu Trị (năm 1820), đời Đồng Khánh (1886-1888), đời Bảo Đại (1941) và những năm gần đây Nhà nước, chính quyền địa phương đã quan tâm tu sửa nên Văn miếu ngày càng khang trang đẹp đẽ.

Văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Hưng Yên ghi chép 162 vị khoa bảng (chúng tôi dùng từ khoa bảng vì văn bia ở đây khắc cả những người đỗ Phó bảng), từ thời Trần là Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn đến thời Nguyễn là Tiến sĩ Đào Danh Văn. Trong số 162 Tiến sĩ được khắc tên trong 9 tấm bia tại Văn miếu Bắc Ninh, có 88 trường hợp đã được khắc tên trong bia ở Văn miếu-Quốc tử giám Hà Nội và Văn miếu Huế, 68 trường hợp chưa được khắc tên trong bia ở Văn miếu - Quốc tử giám Hà Nội và Văn miếu Huế, 1 trường hợp được xác định là nhân vật truyền thuyết (như Trạng nguyên Tống Trân), còn lại 5 trường hợp chưa rõ nguồn gốc.

Về hình thức văn bia, 9 tấm bia đề danh Tiến sĩ này, đều có khắc hoa văn trang trí, nhưng rất đơn giản. Các yếu tố văn bản như: tác giả và niên đại khắc bia đều không ghi (riêng 2 bia bổ di là bia thứ 8 và thứ 9 có ghi tác giả và niên đại).

9 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn miếu Hưng Yên đã được làm thác bản vào những năm cuối của thế kỷ XX do Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện, các thác bản hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 9 văn bia này đã được Nguyễn Quang Đồng khảo sát lấy làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cử nhân Hán Nôm khóa 44 năm 2003 (12).

Một vài nhận xét:

Như vậy, kể từ khi nước ta thoát khỏi sự thống trị của phong kiến phương Bắc (thế kỷ X), một nước Đại Việt độc lập tự cường ngày càng phát triển và đến đời vua Lý Thánh Tông lập Văn miếu ở kinh thành Thăng Long thờ Khổng Tử, Chu Công (Trung Quốc) và sau này thờ Chu Văn An (Việt Nam). Rồi việc vua Trần Nhân Tông cho lập Quốc tử giám cũng ở kinh thành Thăng Long để đào tạo nhân tài. Từ đó Nho học ở nước ta phát triển, suốt từ thời Lý đến thời Nguyễn, các bậc khoa bảng nối danh, xuất hiện nhiều bậc hiền lương quân tử, đạo cao đức trọng đáng nêu gương muôn đời cho hậu thế. Mở đầu cho chế độ khoa cử ở nước ta là kỳ thi Minh kinh bác sĩ khoa ất Mão niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075) đời vua Lý Nhân Tông và kết thúc là kì thi Hội khoa Kỷ Mùi niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919). Nhưng nhiều lý do khác nhau, nên mãi đến đời vua Lê Thánh Tông mới có hình thức lập bia đề danh Tiến sĩ.

Khi tìm hiểu các văn bia đề danh Tiến sĩ, chúng ta thấy được các triều đại phong kiến Việt Nam đều quan tâm tới việc chiêu tập hiền tài, đào tạo nhân tài cho đất nước, luôn có những chính sách phù hợp để phát triển nền giáo dục khoa cử. Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) từng viết: “Ngay khi vũ công đại định, văn đức sửa sang, muốn chiêu tập hiền tài, canh tân chính trị. Bèn xuống chiếu cho các nơi trong nước dựng nhà học để đào tạo nhân tài. Tại kinh đô có Quốc tử giám, ngoài các phủ có trường học” và “Lấy việc trọng đạo Nho làm việc hàng đầu, coi kén chọn anh tài tôn trọng hiền sĩ làm mưu lược tốt. Nghĩ việc đặt khoa thi, kén kẻ sĩ là chính sự cần làm trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi phục mở mang trị hóa chính là ở đây, mà sửa sang chính sự, sắp đặt công việc, giáo hóa dân phong mỹ tục cũng là ở đây, các bậc đế vương đời xưa làm nên trị bình đời nào cũng theo thế”. Như vậy, từ xưa các bậc đế vương đã coi việc chiêu nạp hiền tài và phát triển giáo dục là vấn đề rất quan trọng, vì giáo hóa chính trị là ở đây, và thuần phong mỹ tục cũng là ở đây. Chính vì thế, nhà nước phong kiến rất trọng dụng nhân tài, coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia, thể hiện sự hưng thịnh của đất nước. Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) từng đề cập tới vấn đề này như sau: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 (1448) cũng viết: “Sự lớn lao của nền chính trị của bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài, ... Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc, ... thì đều phải coi là cẩu thả”. Xem thế mới biết, vấn đề chiêu hiền đãi sỹ, vấn đề đào tạo nguồn lực và nhân tài cho đất nước là một chính sách hàng đầu, cực kỳ quan trọng, đối với bất kỳ thời đại nào, chế độ nào, trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt

Tiếp đến, khi tìm hiểu các bài văn bia đề danh Tiến sĩ, chúng ta còn thấy toát lên một vấn đề cũng hết sức quan trọng, đó là ý nghĩa giáo dục của việc lập bia và khắc đá đề danh; nhằm răn dạy các nhà khoa bảng, phải sống sao cho có ích với xã tắc, phải làm sao cho xứng danh kẻ sĩ khi được hưởng ơn vua lộc nước, khi được người dân kỳ vọng. Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 (1448) viết: “Nay những người được đề tên vào tấm đá này, cho dù nay đã có nửa phần tuổi tác đã cao, nhưng con người trung chính hay tà ngụy thế nào, việc làm được mất nên hư thế nào, công luận nghiêm xét, ngàn đời khó trốn”. Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Quí Mùi, niên hiệu Quang Thuận năm thứ 4 (1463) cũng viết: “Ngõ hầu trên không phụ thịnh ý của triều đình ban khen, dưới không phụ hoài bão lớn muốn phò vua giúp nước, để danh dự được lưu lại đời đời, danh thơm truyền mãi mãi, khiến cho người đời đến xem đọc tấm đá này, chỉ vào tên mà nói: đây là những người trung với nước, hiếu với dân, bàn nói ngay thẳng làm sáng thánh đạo, giữ vững đạo đức kiến lập công lao, được như thế là may mắn lắm. Nếu không được thế thì người xem đưa mắt bảo: kẻ này nhu nhược, kẻ này đức mỏng, kẻ này hèn nhát. Công luận còn đó, há chẳng nên cẩn thận lắm sao?”. Một bài văn bia khác, Bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 18 (1487) cũng đề cập tới vấn đề này như sau: “Kẻ sĩ được khắc tên vào bia đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau, làm những việc hợp sở học để làm nên sự nghiệp to lớn quang minh, khiến thiên hạ đời sau phải nhón chân lên mà nhắc nhở thanh danh, mến mộ khí tiết. Ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình dưỡng dục, dưới không phụ hoài bão thường ngày thì tấm đá khắc ra sẽ đời đời không mục vậy. Thảng hoặc có người ngoài có vẻ văn chương mà trong đức hạnh thiếu phần tu dưỡng, khiến cho điều mà người ta đọc được trên bia không giống như dư luận mà họ nghe biết, việc làm trái với sở học, làm huỷ hoại hạnh kiểm, điếm luỵ danh giáo thì là vết nhơ cho tấm đá này”. Như vậy, việc lập bia đề danh Tiến sĩ, ngoài ý nghĩa lịch sử văn hóa xã hội; còn mang giá trị giáo dục công dân, giáo dục lẽ sống ở đời.

Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam còn góp phần vào việc tìm hiểu thân thế sự nghiệp, quê quán các nhà khoa bảng Việt Nam, góp phần bổ sung cho tài liệu, thư tịch đăng khoa lục Hán Nôm. Trong tổng số 137 văn bia đề danh Tiến sĩ ở 4 khu di tích văn miếu, chúng tôi đã tiến hành thống kê được hồ sơ của 1.991 các vị khoa bảng, sau khi trừ đi số người đỗ đạt được khắc lại trong văn bia ở Văn miếu Bắc Ninh và Văn miếu Hưng Yên. Trong số 1.991 vị khoa bảng này, có 1.979 Tiến sĩ văn, 10 Tiến sĩ võ và 2 vị Phó bảng (ở Văn miếu Hưng Yên). So với số lượng 2.896 vị khoa bảng mà Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) do Ngô Đức Thọ chủ biên(13) giới thiệu, thì con số này thực sự không phải là nhỏ.

Ngoài ra, văn bia dề danh Tiến sĩ Việt Nam còn là những tư liệu rất có giá trị góp phần nghiên cứu lịch sử khoa cử Việt Nam, như: chế độ thi cử (việc qui định niên khoá thi, thể lệ thi,v.v..), tên gọi các khoa thi (Minh kinh bác sĩ, Thái học sinh, Hương, Hội, Đình, v.v..), cách gọi các thứ bậc những người đỗ đại khoa của từng thời kỳ lịch sử (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp, v.v.). Về phương diện địa lý, các địa danh liên quan đến quê quán những người đỗ đạt được khắc trong các văn bia đề danh sẽ giúp chúng ta xác định quá trình thay đổi tên gọi các địa phương trong lịch sử, góp phần nghiên cứu địa chí Việt Nam, ví dụ như: quê của Nguyễn Như Đổ (1424-1525) ở huyện Thanh Trì, đời Lê sơ gọi là huyện Thanh Đàm (清潭) thuộc phủ Thường Tín, đời Lê Trung hưng do kiêng chữ “Đàm” (tên huý Lê Duy Đàm) nên đổi là Thanh Trì (清池); sau lại kiêng chữ “thanh 清, nghĩa là trong” (tên tước của Thanh vương Trịnh Tráng) nên đổi là “thanh 青 nghĩa là xanh” khi viết Thanh Trì (青 池) . Các văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam còn là những tư liệu hết sức có giá trị cho các ngành khoa học xã hội, như: văn học, sử học, pháp luật, dân tộc, tôn giáo, hội họa, kiến trúc, v.v...

Với những giá trị nêu trên, rõ ràng là, văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam đáng được quan tâm nghiên cứu và giới thiệu một cách có hệ thống. Nên chăng cần có một bộ sưu tập về thể tài văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam và trong điều kiện kỹ thuật hiện nay sẽ in kèm ảnh các thác bản văn bia, để các nhà nghiên cứu và giảng dạy về khoa học xã hội có điều kiện nhìn nhận, đánh giá một cách tổng quát về thể tài văn bia này.

T.K.M

CHÚ THÍCH

(1), (2) Theo Chu Kiếm Tâm: Kim thạch học, Thượng Hải, 1955, tr.171-173.

(3) Văn miếu Quốc tử giám và 82 bia Tiến sĩ, Ngô Đức Thọ chủ biên, Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn miếu Quốc tử giám, H. 2002, tr.56.

(4) Nguyễn Thúy Nga: Việc khắc lại 12 bia Tiến sĩ ở Văn miếu - Hà Nội, Tạp chí Hán Nôm số 2/2002 và theo ý kiến của Nguyễn Hữu Mùi.

(5) Đỗ Văn Ninh: Văn bia Quốc tử giám Hà Nội, Nxb. VH-TT, H. 2000 và Văn miếu Quốc tử giám và 82 bia Tiến sĩ (Ngô Đức Thọ chủ biên), Sđd.

(6) Xem Đỗ Văn Ninh: Bia đề tên Tiến sĩ triều Nguyễn, Nghiên cứu Lịch sử số 5/1995 - 1/1996 và Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn (Phạm Đức Thành Dũng - Vĩnh Cao đồng chủ biên), Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2000.

(7) Văn miếu Bắc Ninh, UBND thị xã Bắc Ninh - Sở VH - TT Bắc Ninh, 1999.

(8) Ký hiệu No. 16.737, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(9) Đại Nam nhất thống chí (Bản dịch Viện Sử học), Nxb. Thuận Hóa, Huế 1992.

(10) Văn bia Văn miếu Bắc Ninh, Nguyễn Quang Khải dịch và chú giải, Nxb. Văn hóa Dân tộc, H. 2000.

(11) Đại Nam nhất thống chí, Sđd.

(12) Nguyễn Quang Đồng: Di sản Hán Nôm ở Văn miếu Hưng Yên, Đại học KHXH & NV (ĐHQG. Hà Nội), Luận văn Cử nhân Hán Nôm khóa 44, năm 2003.

(13) Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919), Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.

TB

VĂN BIA VĂN CHỈ YÊN PHỤ VĂN PHÁI HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BẮC NINH

LÂM GIANG

Huyện Yên Phong là một huyện đồng bằng nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh, có 18 xã, với 81 thôn, nơi đây từng có nhiều di tích và bia đá. Trong đó có Văn chỉ và bia văn chỉ. Song số lượng bia văn chỉ không nhiều, lại bị thất lạc trong chiến tranh. Hiện tại toàn huyện Yên Phong, chỉ sưu tầm được 9 bia văn chỉ của 7 xã thôn, trong đó xã Yên Phụ có 2 bia; thôn Phù Cầm, xã Dũng Liệt 2 bia, còn lại mỗi xã thôn có một bia: thôn Quan Độ, xã Văn Môn; thôn Phấn Động, xã Tam Đa; thôn Chính Trung, xã Yên Trung; thôn Thọ Đức, xã Tam Đa; thôn Phú Mẫn, xã Hàn Sơn. Chúng tôi xin giới thiệu ở đây văn bia Yên Phụ văn phái, xem như ví dụ tiêu biểu.

Yên Phụ trước đây gồm hai xã Yên Phụ Thượng và Yên Phụ Hậu (nay đều thuộc xã Yên Phụ). Văn chỉ của xã đặt tại Yên Phụ Thượng, có hai bia: Hoàng triều Minh Mệnh bát niên xuân Yên Phụ văn phái bi ký.

1- Hoàng triều Minh Mệnh bát niên xuân 皇 朝 明 命 八 年 春 còn có tên phụ là Văn phái bi ký 文 派 碑 記 (N017230), do Chu Văn Nghị 朱 文 議 Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) soạn năm Minh Mệnh thứ 8 (1827). Văn bia cho biết: Tiên khảo (tức bố Chu Văn Nghị), là người có công lập ra từ chỉ phụng thờ các vị Tiên hiền, rằng “Ấp ta từ đời Lý, đời Trần trở về trước, không thể khảo cứu được, nay Tướng công dựng từ chỉ ghi đầy đủ họ, tên, hiệu các văn nhân, Tiến sĩ gồm 2 người, Tiến triều gồm 4 người, Hương cống 62 người. Tiên khảo Chu công, hiệu An Nhân, nhiều đời làm nghề nông, nhưng đối với đạo Nho thì kính trọng sâu sắc, ham chuộng việc chép lại sách vở và giữ gìn như của báu, đó là cái chí của Tiên khảo vậy”. Tiếp theo lời mở đầu của bài văn bia trên là các phần theo thứ tự như sau:

- Phụ truyền: Chu Xa, người Yên Phú; Lê Tuấn Mậu, người Xuân Lôi.

- Tiến sĩ: Công bộ Thượng thư Nguyễn Chiêu Huấn, Lại bộ Thị lang Nguyễn Khắc Khoan.

- Tiến triều: Mật viện Chu [Văn] Thể, Hàn lâm Trương An Toàn, Tư nghiệp Tô Văn Trung, Thiếu khanh Nguyễn Duy Liêu.

- Hương cống: Đỗ [Viết] Không, Trương [Viết] Bảng, Chu Đức Sơn, Chu Thất Cử, Đỗ Định Sơn, Đào Chân Nghị, Nguyễn Đình Đức v.v. (gồm 62 vị, chỉ kê họ, tên, không ghi quê quán, khoa thi đỗ).

- Sinh đồ: 252 vị (không kê họ tên, chỉ kê số lượng).

Như vậy, bố Chu Văn Nghị khi đứng ra lập từ chỉ (sau gọi văn chỉ, lại đổi từ chỉ), đã lập danh sách một số vị đỗ Tiến sĩ, các vị Tiến triều và 62 vị đỗ Hương cống, chưa khắc vào bia đá. Đến năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), Chu Văn Nghị mới cho khắc vào bia và kê thêm tổng số 252 vị đỗ Sinh đồ nữa, gọi là Văn phái bi ký.

Xét nội dung trên thấy Chu Xa và Lê Tuấn Mậu ngay từ đầu đã được đưa vào phần Phụ truyền.

+ Chu Xa, trong Đăng khoa lục ghi người huyện Yên Phú, đỗ khoa Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433). Soạn giả bài văn bia ngờ “Yên Phú” có liên quan đến “Yên Phụ” mà cho rằng Chu Xa có thể người xã Yên Phụ. Thực ra, tên huyện Yên Phong xuất hiện từ đời Trần, thời Hồng Thuận (1500 - 1515), được gọi là Yên Phú, khoảng năm Lê Quang Thiệu (1516 - 1526) đổi lại Yên Phong ( Địa chí Hà Bắc - 1982, tr.117). Đăng khoa lục soạn cuối đời Lê Trung hưng, cũng chỉ ghi Chu Xa người huyện Yên Phú, chứ không ghi người xã Yên Phú, sự liên tưởng giữa tên huyện và tên xã là sự cách biệt đáng kể. Hơn nữa, trong huyện Yên Phong cũng có xã tên Yên Phú thuộc tổng Dũng Liệt. Có thể Chu Xa người xã này? Vấn đề này chưa thể xác định được.

+ Lê Tuấn Mậu người xã Xuân Lôi (nay thôn Xuân Lôi, xã Tam Giang), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490). Chưa rõ vì lý do gì mà soạn giả coi là người Yên Phụ ? Có thể Lê Tuấn Mậu vốn người Yên Phụ, vì lý do nào đó đã đến ở xã Xuân Lôi ?

Tiếp theo, Nguyễn Chiêu Huấn và Nguyễn Khắc Khoan được soạn giả khẳng định người Yên Phụ là đúng. Theo Đăng khoa lục, Nguyễn Chiêu Huấn đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514), là ông nội Nguyễn Khắc Khoan đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598), người xã Yên Khang. Yên Phụ Thượng khi ấy gọi xã Yên Khang ( Địa chí Hà Bắc, Sđd).

2- Yên Phụ văn phái bi ký 安 阜 文 派 碑 記 (N017232), dựng tháng 4, năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), cũng do Chu Văn Nghị, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất (1826) soạn. Tiếc thay, phần đầu của bia bị mờ mất nhiều chữ, không đọc được, nhưng từ dòng thứ 6 trở đi, chỉ mờ một số chỗ, kê họ tên, quê quán, khoa thi đỗ của các vị Tiến sĩ trong huyện Yên Phong từ thời Lê sơ đến hết thời Lê Trung hưng:

Thời Lê sơ 16 vị:

1. Chu Xa 朱 車 người Yên Phụ, đỗ khoa Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433).

2. Nguyễn Thạch Trụ 阮 石 柱 , người xã Xuân Lôi (nay là thôn Xuân Lôi, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469).

3. Ngô Trinh Chấp 吳 貞 執 , người xã Xuân Lôi (nay thôn Xuân Lôi, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478).

4. Ngô Ngọc 吳 鈺 , người xã Vọng Nguyệt (nay thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), đỗ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487).

5. Lê Tuấn Mậu 黎 俊 楙 , người xã Xuân Lôi (nay là thôn Xuân Lôi, xã Tam Giang), Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490).

6. Đỗ Công Lý 杜 公 理 ,người xã Tân Kiều, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490).

7. Nguyễn Thượng Nghiêm 阮 尚 嚴 người xã Khúc Toại (nay là thôn Khúc Toại, xã Khúc Xuyên), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496).

8. Đỗ An Vĩnh 杜 安 永 người xã Đẩu Hàn (nay thôn Đẩu Hàn, xã Hòa Long), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499).

9. [ ....... ], Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống 2 (1499).

10. Vũ Bá Thắng 武 伯 勝 , người [...], đỗ [...], khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502).

11. Hứa Tam Tỉnh 許 三 省 , người xã Vọng Nguyệt (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508).

12. Ngô Hải 吳 海 , người xã Vọng Nguyệt (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508).

13. Chu Bá Lạc 朱 伯 樂 , người xã Tân Trừ, Đệ nhị giáp Tiến sĩ, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508).

14. Nguyễn Tuyển 阮 選 , người xã [...] Đệ nhị giáp Tiến sĩ, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508).

15. Ngọ Cương Trung 午剛中, người xã Xuân Lôi (nay là thôn Xuân Lôi, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511).

16. Nguyễn Chiêu Huấn 阮 昭 訓 , người xã Yên Khang (nay là xã Yên Phụ), Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514).

Thời Mạc 13 vị:

1. Lương [Duy] Nhượng 梁 惟 讓 , người xã Nội Trừ, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529).

2. Nguyễn Quang Tán 阮 光 贊 , người xã Vọng Nguyệt, Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529).

3. Nguyễn Lương Bật 阮 良 弼 , người xã Nội Trừ, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính thứ 3 (1532).

4. Chu Địch Huấn 朱 迪 訓 , người xã Vọng Nguyệt (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Đại Chính thứ 3 (1532).

5. Ngô Phúc Tinh 吳 福 星 , người xã Chân Hộ (nay là thôn Chân Hộ, xã Dũng Liệt), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535).

6. Trịnh Đổ 鄭 堵 , người xã Phấn Động (nay là thôn Phấn Động, xã Tam Đa), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi, niên hiệu Vĩnh Định nguyên niên (1547).

7. Nguyễn Thừa Hưu 阮 承 休 , người xã Đông Xuyên (nay là thôn Đông Xuyên, xã Đông Tiến), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550).

8. Đỗ Lạc Trạch 杜 珞 澤 , người xã Hữu Tháp, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550).

9. Tạ Trọng Mô 謝 仲 模 , người xã Mân Xá (nay là thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550).

10. Trần Vi Nhân 陳 韋 仁, người xã Nội Trừ, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550).

11. Nguyễn Nghiêu Tá 阮 堯 佐 , người xã Chân Hộ (nay là thôn Chân Hộ xã Dũng Liệt), Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, khoa Bính Thìn, niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556).

12. Ngô Khánh Nùng 吳 慶 儂 , người xã Chân Hộ (nay là thôn Chân Hộ, xã Dũng Liệt), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn, niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556).

13. Ngô Trừng 吳 懲 , người xã Vọng Nguyệt (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thìn, niên hiệu Diên Thành thứ 3 (1580).

Thời Lê trung hưng 6 vị:

1. Nguyễn Khắc Khoan 阮 克 寬 , người xã Yên Khang (nay là xã Yên Phụ), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Tuất, niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598).

2. Nguyễn Tiến Dụng 阮 進 用 , người xã Nguyễn Xá (nay là thôn Nguyễn Xá, xã Thụy Hòa), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Tuất, niên hiệu Hoằng Định thứ 11 (1610).

3. Ngô Nhân Tuấn 吳 仁 濬 , người xã Vọng Nguyệt, (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 (1640).

4. Ngô Nhân Triệt 吳 仁 澈 , người xã Vọng Nguyệt, (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1667).

5. Nguyễn Quốc Cương 阮 國 綱 , người xã Nguyễn Xá (nay là thôn Nguyễn Xá, xã Thụy Hòa), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Chính Hòa thứ 9 (1688).

6. Lê Duy Đản 黎 惟 亶 , người xã Hương La (nay là thôn Hương La, xã Tam Giang), Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775).

Từ thống kê trên cho thấy:

- Chu Văn Nghị chủ trương kê họ, tên, quê quán, năm thi đỗ của các vị Tiến sĩ trong toàn huyện Yên Phong, không chỉ bó hẹp trong xã Yên Phụ như Văn phái bi ký trước đây. Văn chỉ (lúc đầu gọi từ chỉ) của Yên Phụ nay được dùng làm văn miếu hàng huyện, nên đổi là văn từ, vì đặt trên đất Yên Phụ, nên được gọi Yên Phụ văn phái.

- Chu Xa trong văn bia này được Chu Văn Nghị khẳng định người Yên Phụ ?

- Sau khi so sánh với Đăng khoa lục và bia Văn miếu (Hà Nội), thấy Chu Văn Nghị thống kê khá đầy đủ số Tiến sĩ hiện có trong huyện.

- Xã có người đỗ Tiến sĩ nhiều nhất huyện là Vọng Nguyệt (nay là thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang) 8 người, trong đó 5 người họ Ngô. Theo Đăng khoa lục và tấm bia Ngô tộc ngũ đại liên trúng Tiến sĩ để tại từ đường họ Ngô ở Vọng Nguyệt, thì họ Ngô ở đây 5 đời đỗ Tiến sĩ. Mở đầu là Ngô Ngọc, tiếp theo Ngô Hải, Ngô Trừng, Ngô Nhân Triệt, cuối cùng là Ngô Nhân Tuấn. Ngô Nhân Tuấn là con Ngô Nhân Triệt, là cháu nội Ngô Trừng, là chắt (tằng tôn) Ngô Hải, là chút (huyền tôn) Ngô Ngọc. Vọng Nguyệt còn ba người nữa là Hứa Tam Tỉnh, Nguyễn Quang Tán và Chu Địch Huấn.

- Nếu như ở phần Phụ truyền trong Văn phái bi ký đã nêu trên chỉ ghi Lê Tuấn Mậu người xã Xuân Lôi, thì ở đây có thêm ba người nữa là Nguyễn Thạch Trụ, Ngô Trinh Chấp, Ngọ Cương Trung. Và như thế rất có thể như chúng tôi đã nhận định ở trên là Lê Tuấn Mậu vốn là người Yên Phụ do hoàn cảnh nào đó đến ở Xuân Lôi ? Rất tiếc chưa có bằng chứng cụ thể.

- Chính tác giả bài văn bia này cũng đỗ Tiến sĩ, nhưng đỗ thời Nguyễn, nên không có trong danh sách trên, chỉ ghi Chu Văn Nghị, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Tuất soạn.

Vậy Chu Văn Nghị là người như thế nào, nếu như không có tấm bia do học trò dựng khi ông qua đời, để tại từ đường, soạn năm Tự Đức thứ 13 (1860), Chu tiên sinh từ đường (N017233), thì không thể biết: “Khoa Bính Tuất Hoàng triều Minh Mệnh thứ 7 (1826), Tiên sinh đỗ Tiến sĩ, vinh quy về quê, sau vì ốm mà không ra làm quan, bèn đem sở học của mình ra dạy học trò. Những người theo học, phần đông đều thành đạt. Đến mùa thu năm Canh Tý, Tiên sinh ốm nặng, rồi qua đời ngay tại nơi ở của mình, thọ 56 tuổi.

Môn sinh: Tiến sĩ Phan Đình Dương, Phó bảng Ngô Quang Diệu, Giải nguyên Nguyễn Hiệp, Cử nhân Nguyễn Thuật, Nguyễn Viên cùng kính ghi”.

Như vậy, Hoàng triều Minh Mệnh bát niên xuân hay Văn phái bi ký Yên Phụ Văn phái bi ký chủ trương kê rõ họ tên của các vị Tiến sĩ, Tiến triều, Hương cống, Sinh đồ là người xã Yên Phụ và các xã khác thuộc huyện Yên Phong, nhằm tuyên dương công trạng các vị có học hạnh, đã tạo ra cho Yên Phụ một “Văn phái”, làm tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo./.

L.G

TB

VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC
NHO HỌC Ở CẤP LÀNG XÃ QUA
TƯ LIỆU VĂN BIA

NGUYỄN HỮU MÙI

Việt Nam là nước có nền giáo dục Nho học lâu đời, từng đào tạo nhiều nhân tài làm rạng danh cho lịch sử dân tộc. Tuy vậy, trong các công trình nghiên cứu về Nho học, khi đề cập đến giáo dục ở cấp làng xã, các tác giả trong và ngoài nước thường gặp phải khó khăn là thiếu hụt nguồn tư liệu, làm hạn chế đến chất lượng công trình nghiên cứu. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, vấn đề giáo dục ở cấp làng xã đóng vai trò rất quan trọng, nó trang bị cho phần đông học sinh những kiến thức nhất định để tham gia hoạt động xã hội, còn bộ phận nhỏ ưu tú hơn sẽ tiếp tục học tập ở cấp huyện, phủ…, trở thành nguồn nhân lực cho các kỳ thi quốc gia. Vậy việc giáo dục cấp làng xã trước đây được tổ chức như thế nào trong điều kiện không được nhà nước quan tâm giúp đỡ ? Bài viết sau đây sẽ cố gắng khắc họa phần nào về vấn đề đó qua nguồn tư liệu văn bia hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

1. Xây dựng trường lớp

Việc sáng lập ra trường học trong cơ chế giáo dục ở Trung Quốc trong lịch sử là một nghĩa cử mang tính sáng tạo, trở thành sự nghiệp mang tính chuyên môn. Ở Việt Nam, theo ghi chép của thư tịch, chúng ta chỉ biết đến các trường học được lập tại các lộ, phủ, châu và huyện, thuộc các triều từ Trần đến Nguyễn, nằm trong diện quản lý của nhà nước, do các học quan đứng ra trông coi, kinh phí dựa vào nguồn trợ cấp của chính phủ. Còn trường do dân thiết lập có từ bao giờ, hiện chưa được rõ.

Căn cứ vào văn bia, chúng tôi thấy vấn đề này được đề cập khá cụ thể, tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ đầu thế kỷ XVIII trở về sau. Trong bia Học xá điền thổ bi ký, tạo năm Chính Hòa thứ 23 (1702), hai xã Văn Trưng và Lăng Trưng, huyện Bạch Hạc (nay là xã Văn Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) cùng nhau bàn bạc, thấy rằng chưa thiết lập trường học thì “e việc học sẽ do từng hộ mời thầy, đi theo nếp cũ [trường tư], đó không phải để dẫn rủ hậu học”. Họ đề xuất “Lập trường học là để chấn tác văn phong” muốn đoạt mũ áo cao sang ”không gì bằng con đường dựng trường mở lớp”. Vì vậy “mọi người trong hai xã không hẹp hòi về gia sản, cùng nhau bỏ ra ruộng đất” dựng thành ngôi trường làng trên diện tích 3 sào đất(1). Đây là tư liệu sớm nhất nói về việc xây dựng trường học trong văn bia nước ta mà chúng tôi biết đến.

Cuối thế kỷ XVIII, năm Cảnh Hưng 28 (1767), xã Phú Đa, cùng huyện Bạch Hạc cho rằng: “Hễ thành phong tục, không gì bằng ở việc học”, cùng nhau quyên xuất gia tài trong dân được 800 quan tiền cổ, trích một phần tiền dựng hai dãy nhà học, mỗi dãy 5 gian, trên tòa đất tư ở xứ Doanh Sung(2). Tương tự như cách làm đó, do dân một xã đảm nhiệm, còn có các xã Mục Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông(3); xã Hạc Bổng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định(4). Hai xã này tuy không ghi rõ giành bao nhiêu ruộng đất cho việc dựng trường, nhưng đều khẳng định đã dựng xong trường giành cho con em đến học tập.

Vào giữa thế kỷ XIX, năm 1853, nhà Nguyễn chính thức “Chuẩn cho các địa phương có nơi nào để ruộng đất công, tư làm trường hương học, để dạy con em trong làng, trọng giáo hóa, hậu phong tục, thì đều cho tùy theo sự tiện lợi của dân”(5). Chỉ dụ đó thật sự có tác động tích cực đến việc dựng trường tại nhiều địa phương. Vì vậy, vào năm Tự Đức thứ 8 (1855), xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây đã dựng xong hai ngôi trường(6). Cùng thời gian này, thôn Trạch Lôi, xã Trạch Mỹ Lộc, huyện Phúc Thọ, cùng tỉnh, cũng tạo 2 ngôi: 1 ngôi 3 gian 2 trái; 1 ngôi 4 gian, đều dùng đất công(7). Dân hai xã Văn Trưng, Lăng Trưng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên, vẫn dùng hình thức liên kết, vừa tu bổ ngôi trường cũ, vừa dựng thêm 10 gian trường mới, mua thêm 5 sào đất dùng cho trường học(8).

Những năm đầu thế kỷ XX, nhà nước bảo hộ Pháp thay đổi nền giáo dục cũ bằng nền giáo dục mới, mà thực chất là theo nền giáo dục Pháp học, thì loại trường “theo cách thức kiểu Tây” cũng được phản ánh trong văn bia. Đó là hai ngôi trường học cấp tổng của tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, tạo năm 1912 “dùng toàn gỗ lim, tường gạch lợp ngói”, chi phí hết 1070 đồng(9). Trường học tổng Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương hoàn thành vào năm 1924, chi phí hết 4000 đồng(10).

Tư liệu văn bia còn ghi nhận vai trò cá nhân trong việc xây dựng trường học. Chẳng hạn như trường hợp Quan viên tử Lê Thúc Khải cùng vợ Nguyễn Thị Thanh ở xã Đại Định, huyện Bạch Hạc cúng 3 mẫu ruộng, ao, vườn cho dân dựng trường vào năm 1756(11). Năm Gia Long thứ 2 (1803), ông Tri sự Nguyễn Trọng Điển tự xuất một khu đất cho thôn Đông, xã Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên dựng ngôi trường làng. Đến năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), trường học bị hư hại, các ông Dương Xuân Nhật, Nghiêm Phúc Thọ hiệp cùng tuần phiên của địa phương này dựng lại tạo thành ngôi trường mới(12).

Để trường học là nơi yên tĩnh, giành riêng cho học sinh học tập, nhiều địa phương đề ra những biện pháp quản lý rất cụ thể. Xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất quy định: “Những viên khoa mục trong thôn, người nào có thể tập hợp được 50 con em trong thôn đến học tập thì được thưởng 1 quan tiền” (Điều 10). Đối với môi trường xung quanh trường lớp, người dân cũng quy định: “Những gia đình ở bốn phía trường học không được nấu rượu, cãi nhau, trêu ghẹo phụ nữ, gây huyên náo ồn ào”. Hoặc: “Trước cửa trường học, mục đồng không được buộc trâu bò, cũng không được thổi sáo” (Điều 9)(13). Còn thôn Đông, xã Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên định ước bằng việc: “Cây cối trong diện thổ trạch của trường lưu giữ dùng tu bổ trường lớp. Nếu ai tự ý chặt phá, định tội 3 quan tiền cổ” (Điều 6)(14)…

2. Đặt học điền

Tư liệu về đặt học điền khá dồi dào. Mục đích đặt học điền nói rõ trong nhiều văn bia. Trong bia Học điền bi ký có viết: “Đặt ruộng học là để khuyến khích hậu học”(15). Hay: “Việc học mà có ruộng thì ý nghĩa của việc học sẽ được dài lâu”(16). Hoặc nói bao quát như của bia Học xá điền thổ bi ký: “Lập học điền là để dẫn dụ hậu học, làm chấn tác văn phong”(17). Xuất phát từ nhận thức ấy, mỗi địa phương đều dựa vào khả năng của mình để định liệu công việc. Ở cấp thôn, như thôn Phùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây đặt 2 mẫu ruộng(18); thôn Tri Chỉ, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên đặt 6 mẫu(19); thôn Chu Xã, xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông đặt 6 mẫu 2 sào 12 thước(20). Ở cấp xã, số ruộng đặt làm học điền cũng tương tự như của cấp thôn: xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đặt 3 mẫu(21); xã Vĩnh Khúc, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình đặt hơn 3 mẫu(22); xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đặt 4 mẫu 5 sào(23). Riêng ở cấp tổng, số học điền đặt ra lớn hơn nhiều so với số học điền của xã và thôn. Trong bia học điền của tổng Sơn Bình, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên cho biết, tổng này đặt tổng cộng là 16 mẫu(24).

Xét nội dung, việc đặt học điền thông qua hai hình thức là trích ruộng công của làng xã và huy động ruộng tư trong dân.

Hình thức trích ruộng công thấy ghi trên bia Học điền bi ký tạo năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785) của xã Trạch Lộ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Trong bia ghi các quan viên hương lão cùng toàn thể mọi người quyết định đặt 5 mẫu làm học điền(25). Tương tự như thế, lxã Đinh Xá, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên đặt 3 mẫu 2 sào(26). Một số địa phương khác, do nhu cầu đóng góp ruộng công cho học điền cấp tổng (tổng Sơn Bình, huyện Lập Thạch) cũng tích cực tham gia, như các xã Hạ Phiên, Lai Thu, Triệu Xá (mỗi xã bỏ ra 3 mẫu 2 sào). Thôn Chu, thôn Bình Đô, thuộc xã Chu Đề, mỗi thôn xuất 1 mẫu 6 sào(27).

Hình thức huy động ruộng tư trong dân được ghi nhận nhiều nhất chiếm số lượng lớn trên hầu hết số bia học điền. Hình thức này, trước hết phải kể đến vai trò cá nhân của Cai tổng, tổng Sơn Bình được nhắc đến trong tấm bia hàng tổng kể trên: Ông tên Hoàng Tĩnh, người bản tổng, con của Hoàng Thành, cựu Giáo thụ phủ Đoan Hùng, tự xuất gia tài gồm 3 mẫu 2 sào, giúp tổng chi phí cho việc học. Tổng đốc Đoàn Triển góp 2 sào 4 thước (28). Hậu thần Phan Quốc Yến, người thôn Đông, xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang cúng cho xã 1 mẫu ruộng làm học điền(29). Hai ông là Hoàng Đình Côn và Nguyễn Đức Gia ở xã Thổ Ốc, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên cùng mua hơn 3 mẫu ruộng, một nửa số này dành cho học điền, ghi trên bia Học tế điền bi(30). Ba ông này là Nguyễn Hữu Vinh, Lê Đình Tráng, Nguyễn Gia Đài ở xã Ái Sơn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa góp cho xã một sào học điền(31). Tiếp đến là tập thể, như xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc) gồm 15 người, người nhiều góp 2 sào, kẻ ít góp 14 thước, tổng cộng được 1 mẫu 5 sào 9 tấc(32). Xã Mật Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gồm 28 người, người nhiều góp 5 sào, người ít góp 1 sào, tổng cộng được 4 mẫu 9 sào(33). Ở xã Ngọc Than, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, ngoài 3 sào ruộng tư do mọi người cúng tiến, còn có 49 người, trong đó có 13 vị Sinh đồ đóng góp về tiền, người nhiều 1 quan, người ít 7 mạch. Số tiền này hợp với 3 sào ruộng tư đặt làm quỹ “hý lẫm” tức kho thóc dùng vào việc học(34). Xã Thổ Tang, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên góp được 2 mẫu 8 sào 1 thước 6 tấc, đặt tên là “ruộng giữ gìn đạo thánh hiền” (Vệ đạo điền)(35). Song, có thể nói, tiêu biểu nhất cho hình thức huy động ruộng tư trong dân, là của xã Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Ở đây, vào năm Tự Đức thứ 20 (1867), có cả một phong trào quyên góp, ủng hộ việc học diễn ra rất sôi nổi, với hai hình thức cung tiến ruộng tư và tiền. Kết quả thống kê cho biết : có 87 người tham gia, trong đó có 70 người góp ruộng, 18 người góp tiền. Trong số người góp ruộng, người đóng nhiều là 3 sào (Hương trưởng Phan Kế Trường), người đóng góp ít là 2 thước (Phan Trọng Thiêm). Có 4 trường hợp liên danh (Phan Văn Lâm, Trần Đình Lãm đóng 1 sào 4 thước; Phan Văn Tào, Phan Văn Thắng đóng 1 sào 10 thước; Hương trưởng Trần Phú Bằng, Trần Phú Văn đóng 3 sào 4 thước; Trịnh Tiến Trân, Trịnh Tiến Cơ đóng 2 thửa vườn liền bờ). Trong số người cung tiến tiền mặt, người đóng nhiều là 10 quan (Đoàn Văn Du), người đóng ít là 3 quan (11người), tổng cộng được 76 quan. Nét đáng chú ý là, trong 87 người, chỉ 1 trường hợp là người ngoài địa phương (Đoàn Văn Du, người xã Yên Lão Thị, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên), còn lại là người bản quán. Cũng trong số người này, trừ 5 vị Hương trưởng (Phan Quang Phúc, Phan Trọng Dĩnh, Phan Thế Tương, Phan Khắc Trường, Trần Phú Bằng), 1 vị là Lý trưởng (Phan Duy Thanh), còn lại là dân thường(36). Điều đó cho thấy việc đặt ruộng, tiền ở đây mang tính tự giác, do người dân lo liệu. Nó cũng cho thấy việc đặt ruộng học là khác với việc xây dựng, trùng tu đình chùa.

Cũng như dựng trường, việc đặt học điền thường kèm theo một số điều khoản nhất định, nhằm quản lý và sử dụng tốt số ruộng vườn hiện có. Những điều khoản này do chính làng xã đặt ra, có khi chỉ là 1 khoản, nhưng có khi là nhiều khoản. Nó cũng tùy từng nơi, từng lúc mà có những cách thức quản lý khác nhau, sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương. Người dân xã Trạch Lộ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ghi vắn tắt thành 1 khoản, quy định; “Nếu người nào vi phạm ruộng công học, toàn dân xã cùng nhau hội họp, tâu trình với quan ty để cảnh cáo người đó, giúp phong tục tư đạo trở nên tốt đẹp”(37). Dân thôn Chu Xá, xã Hữu Thanh Oai, tỉnh Hà Đông dặn dò nhau; “Nếu kẻ nào dám bàn đến chuyện đem ruộng này [học điền] làm việc khác để phá hoại học đường thì người ấy trở thành tội nhân muôn đời”(38). Người dân xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây có 14 khoản, trong đó khoản thứ 5, ghi: “Hoa lợi của học điền không được tùy tiện chi vào việc khác”; Điều 6: “Ruộng học do 4 giáp trong xã chia nhau cày cấy, mỗi mẫu nộp thóc hàng năm là 450 đấu. Ngoài số đó do người cày cấy được hưởng”; Điều 7: “Các thửa ruộng học, nếu bị xâm hại hoặc sạt lở, đều do người cày cấy bảo vệ, bồi đắp”(39). Điều 2 của xã Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, ghi: “Hạn định về số ruộng học, mỗi năm mỗi mẫu nộp 500 đấu thóc. Thuế công về số ruộng học do bản xã lĩnh chịu”(40).

3. Mời thầy dạy

Bên cạnh dựng trường, đặt học điền, việc mời thầy dạy là công việc tiếp theo, được các làng xã rất quan tâm, chú ý, xem đây là vấn đề quan trọng. Tuy mỗi nơi có cách lựa chọn khác nhau, nhưng điểm chung của tất cả là các xã khi mời thầy về dạy, là tìm người giỏi, tận tâm với công việc, có kinh nghiệm giảng tập. Hai xã Văn Trưng và Lăng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên có cách làm riêng, xã không trực tiếp đứng ra mời thầy, mà ủy quyền cho tập thể đảm nhận: “Giao cho quan viên và văn hội của hai xã cùng các thiện tín đứng ra giám sát để mời thầy giỏi” (Điều 2)(41). Chức sắc xã Bồ Điền, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, tự đứng ra mời thì quy định: “ Mời thầy giáo về dạy phải là người có khoa mục danh vọng” (Điều 3)(42). Xã Phù Chính, cùng tỉnh Vĩnh Yên quy đình cụ thể hơn: “Đón thầy giáo làng phải là người đỗ Cử nhân hoặc Tú tài có danh tiếng” (Điều 1)(43). Riêng xã Phú Vinh, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, quy định bắt buộc: “Mời thầy dạy tất phải hạng khoa mục, người ngoài xã có học hạnh tốt, không lười biếng, để giúp giảng tập cho con em trong ấp” (Điều 8)(44).

Việc nuôi dưỡng thầy là vấn đề thiết thực ghi nhận trên nhiều văn bia. Sở dĩ như vậy, bởi như văn bia Học điền bi ký của xã Mục Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cho biết: “Học quý ở được người thầy, mà việc dạy học không thể không nuôi dưỡng thầy”(45). Hơn nữa, như chúng ta biết, người thầy giáo xưa, dù là người khoa bảng không ra làm quan, hoặc cáo quan trở về, hoặc những Cử nhân, Tú tài…, miễn là người thầy giáo ở cấp làng xã, đều không thuộc diện nhà nước cấp lương bổng. Để giải quyết vấn đề này, các làng xã có cách làm của họ: “Đạo của việc học, rất quý có được người thầy, mà lộc nuôi dưỡng thầy cần có học điền”(46). Tức phải dựa vào học điền, lấy hoa lợi của học điền, kể cả vườn, ao (nếu có), làm lương cho thầy.

Về thực chất, làng xã sẽ quản lý số học điền hiện có, giao người nào đó đủ điều kiện lĩnh canh, người đó chỉ phải nộp số thóc theo quy định cho thầy, số dư mình sẽ được hưởng. Việc này được phản ánh trong bia học điền của xã Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Điều 2 quy định: “Hạn chế về số học điền, mỗi mẫu mỗi năm nộp 500 đấu thóc. Thuế công của số ruộng học do bản xã lĩnh chịu”; Điều 3, ghi: “Phàm người nào lĩnh canh số ruộng học, mỗi năm nộp thóc cho thầy vào 2 kỳ, một nửa nộp vào tháng 2, tháng 3 ; một nửa nộp vào tháng 10(47). Xã Bồ Điền, cùng huyện Vĩnh Tường, cũng quy định tương tự : “Thóc hàng năm tăng thu mỗi sào [của xã], tổng cộng 1000 đấu, vào 2 vụ hạ, đông, Lý trưởng đứng ra thu nhận giao cho thầy” (Điều 1) và “Số thóc có trên 6 mẫu học điền, cùng số thóc tăng thu mỗi sào, sẽ định làm lương đón thầy về dạy. Nếu nhà nào mời thầy tư về dạy, không được dự vào khoản lương của thầy” (Điều 3)(48). Tuy nhiên, cũng có xã như Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường(49) và Đồng Tâm huyện Yên Lạc(50), lại giao học điền cho chính học sinh của xã, cầy cấy, tự liệu lấy thóc làm lương trả thầy.

Để thầy yên tâm giảng dạy, nhiều xã còn đề ra một số hình thức ưu đãi hoặc kính biếu lễ vật cho thầy vào các dịp lễ tiết trong năm. Văn bia học điền của xã Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên tại Điều 4 quy định: “Ruộng học [6 mẫu 2 thước] do thầy được chọn người lĩnh canh, người trong ấp không được tranh chấp. Hoặc thầy giáo có người nhà lĩnh canh cũng được” và Điều 6: “Mỗi năm vào 3 tiết: Đoan ngọ, Thường tân, Nguyên đán, mỗi tiết mừng thầy 2 quan tiền. Y phục hàng năm trị giá 6 quan giao cho thầy”(51). Hai xã Văn Trưng và Lăng Trưng huyện Vĩnh Tường cũng ghi tại Điều 1: “Hễ là học điền hạng tốt (thượng hạng) thì giao cho thầy canh tác”. Hoặc Điều 5: “Nếu thầy đi thi, bản xã sẽ ứng lễ 2 quan tiền, Hội Tư văn có ăn uống đều phải kính biếu thầy”(52). Riêng xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường có lệ thù lao khá đặc biệt, theo văn bia thì ngoài số thóc được hưởng hàng năm theo quy định, thầy còn lĩnh thêm một khoản, gọi là “tiền tiễn khách” (tiễn khách tiền), gồm 1 quan. Số là, xã này hàng năm có lệ khóa tập sĩ nhân, tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 8, mời thầy làm giám khảo, khi dự xong, xã trích tiền công “bồi dưỡng”, nên có lệ ấy(53).

Sinh thời, người thầy giáo được các làng xã đối đãi trọng hậu, còn khi qua đời? Tư liệu văn bia về vấn đề này không nhiều, song đủ giúp chúng ta hình dung về một phong tục đẹp, là lo thờ tự chu đáo cho người thầy đã khuất. Đó là Tiên sinh họ Nguyễn, thụy Thành Ý, người xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh(54); Tiên sinh họ Nguyễn, tự Huy Bảo, người xã Khúc Lộng, huyện Văn Giang, cùng tỉnh(55); Tiên sinh họ Nguyễn, tự Đình Lệ, người xã Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương(56); Tiên sinh Đỗ Quang Húc, người xã Phú Hào, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định(57); Tiên sinh họ Nguyễn, tự Trọng Quát, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây(58); Tiên sinh Nguyễn Thiều, người xã Dị Nậu, cùng huyện(59). Tuy trong số họ, có người làm quan (Tiên sinh Nguyễn Trọng Quát, giữ chức Tri huyện Vũ Tiên); có người là Nho sinh ở Tú lâm cục (Tiên sinh Nguyễn Đình Lệ); có người thi Hội đỗ tam trường (Tiên sinh Nguyễn Huy Bảo) nhưng điểm chung đều là người mẫu mực về sư phạm, đức độ trong sáng, rất đông học trò theo học, trong đó có nhiều người thành đạt khoa cử. Lúc mất các môn sinh truy ơn, góp tiền và ruộng gửi vào văn chỉ hàng xã để Hội Tư văn lo thờ cúng hàng năm (môn sinh của Tiên sinh họ Nguyễn góp 10 đồng, 1 mẫu 5 sào ruộng; môn sinh của Tiên sinh Nguyễn Huy Bảo góp 100 quan tiền, 1 mẫu ruộng; môn sinh của Tiên sinh Nguyễn Đình Lệ góp 10 quan tiền, 3 sào ruộng; môn sinh của Tiên sinh Đỗ Quang Húc đem 300 đồng chi phí việc tang; môn sinh của Tiên sinh Đỗ Trọng Quát góp 2 sào và 10 thước ruộng; môn sinh của Tiên sinh Nguyễn Thiều góp 50 quan tiền, 3 sào ruộng. Tất cả các vị này đều được bầu làm Hậu hiền. Ngoài ra một số môn sinh ở thôn Tiền, xã Trường Quang, tổng Cao Xá, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa còn có lệ: “đến kỳ tế trong lễ tang (ngu tế) của thầy, mỗi người đóng 3 quan tiền” và “để tang thầy trong 3 năm”(60).

4. Giúp đỡ học sinh

Nếu việc dựng trường, đặt học điền, mời thầy dạy là những điều cần phải có để tổ chức học tập thì vấn đề học sinh là khâu sau cùng, đóng vai trò quan trọng nhất. Điều đó có nghĩa, làng xã muốn con em mình học tập tốt, thi đỗ đạt làm quan, mang hoài bão giúp đời, còn cần phải giúp đỡ thêm cho học sinh về vật chất. Chúng ta đều biết, với hệ thống văn bài, cũng như cách tổ chức thi cử xưa, người đi học muốn thành tài, đạt đến vinh quang, phải đầu tư vào đó rất nhiều thời gian, công sức, có khi là cả đời người. Nói như vậy là bởi khi lập bảng người đỗ đại khoa trong công trình Các nhà khoa bảng Việt Nam (do PGS.TS. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1993) nhằm tìm hiểu độ tuổi thành đạt của họ, chúng tôi nhận ra rằng, số người đỗ Tiến sĩ có độ tuổi dưới 20 quá ít: chỉ vẻn vẹn 59 người trên tổng số 2081 người biết được độ tuổi đỗ đạt 2,8%. Trong khi đó, người học sinh với tư cách công dân, vẫn phải gánh chịu sưu sai tạp dịch do nhà nước cũng như làng xã đặt ra.

Để giúp học sinh giải quyết bớt phần khó khăn, trước hết làng xã tạo điều kiện thuận lợi về giấy bút và sách vở học tập cho họ. Xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây có cả một hòm sách dùng chung trong học sinh, tựa như ngày nay ta gọi là thư viện nhà trường, quy định rằng: “Các bộ kinh sử trong hòm sách của trường thì các vị chức sắc trong làng mỗi năm phải 2 lần đem phơi vào các ngày trời nắng, có giao nhận, ghi chép đầy đủ, không cho mượn mang về nhà. Ai vi phạm sẽ phải bồi thường” (Điều 12). Nếu người nào không có điều kiện mua sách vở, xã sẽ giúp đỡ: “Các văn sĩ trong xã, mà số sách vở dùng ở nhà trường chưa đủ, sẽ tùy theo điều kiện của dân mua cho một bộ” (Điều 10)(61). Xã Phú Đa, không dùng hình thức như trên, mà thưởng giấy viết cho học sinh căn cứ vào kết quả “đại tập” và “tiểu tập” của xã: nguyên xã có 3 mẫu ruộng “trát bút” giao cho Hội Tư văn cày cấy, hễ vào 2 kỳ sóc vọng (mồng 1, ngày rằm) hàng tháng, xã chỉnh biện 1000 tờ giấy nhỏ, mời sĩ nhân đến dự. Ai dự “đại tập” có mặt tại bên tả đường của sinh từ (đề thi gồm 1 bài thơ, hoặc một bài phú tứ lục). Người nào đỗ thứ nhất, được thưởng 300 tờ; đỗ thứ 2, thứ 3, mỗi người được thưởng 200 tờ. Ai dự “tiểu tập” có mặt bên hữu đường của sinh từ (đề thi gồm câu đối hoặc phải đọc thuộc). Người nào đỗ thứ nhất, được thưởng 200 tờ; người nào đứng thứ 2 được thưởng 100 tờ (62).

Miễn sưu sai tạp dịch là biện pháp giúp đỡ tiếp theo của làng xã đối với học sinh, nhưng nó luôn đi kèm với điều kiện phải là người học tập đích thực, có ý chí vươn lên. Có thể thấy điều này qua cách làm của xã Vĩnh Phúc, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Người dân ở đây xác định: “Người đi học, lúc nhỏ chưa gắng sức công phu, khi trưởng thành lại bức bách ở công dịch”. Vì vậy, quy định: “Người nào có chí chuyên cần ở việc học, các việc canh điếm, canh thuế vụ, trông nom lúa màu, đắp đường sá, khơi hào rãnh sẽ nhất loạt cho miễn trừ, khiến họ không phải gián đoạn ở việc học”(63). Hay thôn Đoài, xã Dạ Hạ, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên cũng quy định: “Hễ sĩ nhân chuyên cần việc học, phàm sưu sai tạp dịch có trong thôn, đều được miễn trừ để trọng Nho đạo. Người nào vừa cày ruộng vừa học sẽ không được hưởng theo lệ này”(64). Các xã Trạch Lộ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương(65); Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên(66)… đều đưa ra các lệ giống như vậy.

Sau miễn sưu sai tạp dịch, là việc làng xã thưởng ruộng cho học sinh thấy ghi khá nhiều trên văn bia. Biện pháp này được xem là thiết thực để khuyến khích mọi người trong xã say mê học tập. Đương nhiên, muốn nhận lấy suất ruộng, người học sinh phải đáp ứng được yêu cầu do làng xã đặt ra, mà thông thường là vào kỳ khảo khóa 3 năm hoặc 1 năm, có sự chứng giám của quan viên chức dịch và người thầy giáo. Thôn Đông, xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang là như vậy: “Hễ học sinh trong thôn, cứ 3 năm mở 1 kỳ khảo khóa, tổ chức vào tháng 2, ruộng học đặt làm 3 hạng: hạng nhất gồm 8 sào, hạng 2 gồm 7 sào, hạng 3 gồm 6 sào. Ai tinh thông văn lý đỗ hạng nhất, nhận số ruộng hạng nhất; ai đỗ hạng 2, nhận ruộng hạng 2; ai đỗ hạng 3, nhận ruộng hạng 3”(67).

Ở mức độ khác, số ruộng thưởng ít hơn, là xã Vĩnh Phúc, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Người dân vùng duyên hải có lệ: “Hàng năm vào dịp xuân tế, sẽ khảo tập sĩ tử trong xã, người nào đỗ đầu, thưởng 3 sào ruộng; người nào đỗ thứ 2, thưởng 2 sào 7 thước; người nào đỗ thứ 3, thưởng 1 sào 7 thước 5 tấc”(68). Tương tự là xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội) đặt 3 phần ruộng học, cộng 1 mẫu 9 sào, làm phần thưởng học sinh, ai đỗ vào hạng nào, nhận ruộng theo hạng đó(69). Còn xã Phú Nhi, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây đặt 5 thửa “ruộng khoa trường”, cộng 8 sào 8 thước, cũng dùng làm phần thưởng cho học sinh(70). Có trường hợp như xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây không thưởng bằng ruộng mà thưởng bằng thóc; bởi xã có quỹ “hý lẫm”, quy định hàng năm vào 2 kỳ sóc vọng mỗi tháng, học sinh có mặt tại đình khảo hạch việc học, sĩ nhân theo thứ hạng mà lĩnh thóc từ quỹ công(71).

Bên cạnh việc thưởng ruộng, thóc là thưởng bằng tiền. Biện pháp này áp dụng cho học sinh có trình độ nhất định, tham dự các kỳ thi Hương và thi Hội. Thôn Mục Xá, xã Cao Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông định rằng: “Người nào dự trúng đại khoa, xã mừng 30 quan tiền, 1 bức trướng. Cử nhân mừng 20 quan, 1 bài thơ. Tú tài mừng 10 quan, 1 đôi câu đối”(72) Xã Tốt Động, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông quy định cụ thể hơn: “Người nào đỗ khoa trường hạng nhất giáp (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) mừng 120 quan; hạng nhị giáp (Hoàng giáp) mừng 100 quan; hạng Đệ tam giáp (Tiến sĩ) mừng 80 quan; hạng Phó bảng mừng 60 quan; hạng trung khoa (Cử nhân) mừng 40 quan; hạng tiểu khoa (Tú tài ) mừng 20 quan(73). Nhưng cũng có xã như Bảo Tàng của huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên, ngoài tiền mừng còn kèm theo cả ruộng: “Sĩ nhân đỗ đại khoa, mừng tiền 15 quan, 6 sào ruộng; sĩ nhân đỗ trung khoa, mừng tiền 10 quan, 4 sào ruộng, sĩ nhân đỗ tiểu khoa cùng người được ban sắc, mừng tiền 5 quan, 2 sào ruộng”(74).

Ngoài những ưu đãi mà các làng xã dành cho học sinh như vừa đề cập, có những địa phương, như xã Bồ Điền, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên cấp chi phí cho học sinh đi thi, mỗi người 1 quan, ghi tại Điều 4(75). Số tiền này không phải nhiều, nhưng là nguồn cổ vũ thiết thực đối với họ. Cũng cần ghi nhận thêm, để khuyến khích học sinh học tập, mau đỗ đạt thành tài, nhiều địa phương có lệ cho người đi học được dự vào Hội Tư văn, một tổ chức danh giá ở làng xã. Điều 2 trong tổng số 12 điều ước của thôn Đoài, xã Da Hạ, huyện Kim Hoa, tỉnh Phúc Yên ghi: “Gia nhập Hội Tư văn phải là người trúng khoa trường”(76). Xã An Lão, huyện Thanh Hà cũng quy định: “Hễ người nào trong xã thi trúng khoa trường và có chức sắc được gia nhập vào Hội Tư văn”(77). Thôn Đại Nhuận, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh lại quy định chi tiết hơn: “Người nào mới thi đỗ khoa trường, làm lễ yết thánh tại văn chỉ, gồm 1 miếng thịt lợn, giá tiền cổ 1 quan 2 mạch, 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 1 hộp trầu cau, được gia nhập Hội Tư văn(78). Còn khi đỗ đạt, họ được dựng bia ghi tên bày nơi văn chỉ, coi đó là nhân tài không chỉ cho dòng họ, mà cho cả quê hương xứ sở…

5. Một số nhận xét

Những vấn đề nêu trên: xây dựng trường lớp, đặt học điền, mời thầy dạy, giúp đỡ học sinh, đều ghi trên văn bia, đây là tư liệu của làng xã, do Trường Viễn đông Bác cổ (Pháp) và Viện Nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, in rập thành thác bản trong nhiều năm của thế kỷ XX. Những tư liệu này đã được chúng tôi giám định, đảm bảo sự tin cậy. Do vậy, có thể khẳng định rằng, có một nền giáo dục cấp tiểu học được mở ở cấp làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, vốn là nơi có truyền thống hiếu học và khoa bảng của cả nước. Đây là nền giáo dục do nhân dân đảm nhận, tự lo liệu cơ sở vật chất mà chủ yếu là dựa vào ruộng đất. Nó tồn tại độc lập bên cạnh nền giáo dục quốc lập vốn do nhà nước thiết lập từ cấp huyện trở lên và thay thế cho vai trò của nhà nước trong lĩnh vực giáo dục ở cấp cơ sở. Qua đó cho thấy vấn đề giáo dục học sinh vốn rất được các làng xã quan tâm, chú trọng. Họ đã giành những điều kiện tốt nhất cho công cuộc giáo dục tại địa phương: trường lớp do dân xây dựng, mời thầy giáo là người giỏi, có đức hạnh, học sinh không phải lao động chân tay, được miễn sưu sai tạp dịch, trợ cấp giấy bút, ban ruộng, mừng tặng khi đỗ đạt… Tất cả đều nhằm mục đích giáo dục con em thành tài, cống hiến cho xã hội. Đó là kết luận rút ra từ chuyên khảo này.

N.H.M

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) (8) (17) (41) (52). Học xá điền thổ bi ký. Tạo năm Chính Hòa thứ 23 (1720) No14252-3.

(2) Hương Trại điều lệ. Tạo năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767). No 14531.

(3) (45) (47) (53) (62) Học điền bi ký. Tạo năm Quang Trung 5 (1792). No 19615-7.

(4) Hạc Bổng xã bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 13 (1860). No 1894.

(5) Đại Nam thực lục, Quốc Sử quán triều Nguyễn, Tập 27, Nxb. KHXH, H. 1973, tr.410.

(6) (13) (39) (61) Hương học bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 8 (1855). No 17979/a,b.

(7) Hương học bi ký. Không ghi năm tạo. No 40727.

(9) (20) (28) (38) (43) Dẫn theo Vũ Băng Tú: Từ một tấm bia mới phát hiện của Đoàn Triển: biết được ngôi trường cách tân giáo dục ở một vùng quê, in trong Thông báo Hán Nôm học năm 2002, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 2003, tr.583.

(10) Lai Vu tổng tân học đường bi. Tạo năm Khải Định Giáp Tý (1924). No 41354-5

(11) Từ đường học điền bi. Tạo năm Cảnh Hưng 17 (1756). No 13933.

(12) (14) Học điền bi ký. Tạo năm Tự Đức 9 (1850). No 14907-8.

(15) (67) Học điền bi ký. Không ghi năm tạo. No 35123-4.

(16) Học điền bi ký. Tạo năm Tự Đức 13 (1860). No 14336.

(18) Học điền bi ký. Tạo năm Thiệu Trị thứ 3 (1843). No 41012-3.

(19) Tri Chỉ thôn học điền bi. Tạo năm Tự Đức thứ 4 (1851). No 15025-6.

(21) Từ chỉ bi. Tạo năm Tự Đức thứ 19 (1866). No 17355-6.

(22) (63) (68) (76) Tiên hiền bi ký. Tạo năm Cảnh Hưng thứ 13 (1731). No 4147-9.

(23) Tân đình bi ký. Tạo năm Gia Long thứ 14 (1815). No 45202-3.

(24) (27) Lập Thạch huyện Sơn Bình tổng học điền ký. Tạo năm Tự Đức thứ 7 (1854). No 15508-11.

(25) (65) Học điền bi ký. Tạo năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785). No 13293-4.

(26) Đinh Xá hương hiền từ bi. Tạo năm Tự Đức thứ 13 (1860). No 14583-4.

(29) Học điền bi ký. Không ghi năm tạo. No 35123-4.

(30) Học tế điền bi. Tạo năm Chiêu Thống thứ 1 (1787). No 9766-7.

(31) Tư văn hợp nghĩ bi ký. Tạo năm Thành Thái thứ 4 (1892). No 16528-9.

(32) Tế điền học điền tu trí bi ký. Tạo năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738). No 14548-9.

(33) Học điền bi ký. Tạo năm Tự Đức Ất Hợi (1875). No 19524-5.

(34) Học điền di tập bi. Không ghi năm tạo. No 24650.

(35) (37 (49) Văn chỉ bi ký. Tạo năm Gia Long Giáp Tý (1804). No 13704-5.

(36) (40 (51) (66) Học điền bi ký. Tạo năm Tự Đức 20 (1867). No 14359-60.

(42) (48) (75) Bồ Điền điều ước bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 24 (1871). No 14203.

(44) Phú Vinh xã học điền bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 9 (1856). No 31465-6.

(46) Học điền bi ký. Tạo năm Minh Mệnh 6 (1825). No 1171-2.

(50) Tư văn bi ký. Tạo năm Minh Mệnh Tân Mão (1831). No 15177.

(54) Hậu hiền bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 28 (1875 ). No 35678-9.

(55) Tòng tự Tiên hiền bi ký. Tạo năm Gia Long thứ 5 (1806 ). No 11404-5.

(56) Hậu hiền bi ký. Tạo năm Cảnh Hưng thứ 25 (1764). No 9247.

(57) Văn hậu bi ký. Tạo năm Thành Thái thứ 3 (1891). No 16453.

(58) Phối hưởng bi ký. Tạo năm Minh Mệnh thứ 5 (1824). No 19941

(59) Như sơn chi thọ. Tạo năm Tự Đức thứ 33 (1880). No 19939.

(60) Dẫn theo Hoàng Lê: Một tấm bia đề cao truyền thống tôn sư trọng đạo, in trong Tạp chí Hán Nôm, số 1 (1998), tr.75.

(64). Bản thôn tạo thạch bi ký. Tạo năm Quang Trung thứ 5 (1792 ). No 6939-40.

(69) Dịch Vọng xã khoa phả. Tạo năm Thành Thái thứ 8 (1896). No 592.

(70) Phú Nhi xã văn hội bi. Tạo năm Giáp Dần (1794). No 7138-9.

(71) Học điền dị tập. Không ghi năm tạo. No 24650.

(72) Tư văn bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 26 (1873). No 25024-5.

(73) Tốt Động xã văn chỉ bi ký. Tạo năm Tự Đức thứ 35 (1882). No 24450-1.

(74) Bảo Tàng xã văn chỉ bi ký. Không ghi năm tạo. No 4741-2.

(77) Tiên thánh Tiên hiền bi ký. Tạo năm Vĩnh Hựu thứ 2 ( 1736). No 11483-6

(78) Văn hội bi ký. Tạo năm Cảnh Hưng thứ 23 ( 1762). No 4435-6./.

TB

CÓ NÊN XẾP MÃ LÂN DẬT SỬ LỤC VÀO NHÓM LĨNH NAM CHÍCH QUÁI ?

ĐÀO PHƯƠNG CHI

Việt điện u linh tập (VĐULT) là một tác phẩm do Thủ đại tạng thư Hỏa chính trưởng Trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ Chuyển vận sứ Lý Tế Xuyên biên soạn và viết lời tựa vào năm Khai Hựu nguyên niên (1329). Đây là cuốn sách chép 27 thiên thần phả, ghi lại hình tích của 30 thần đất Việt từ thế kỷ XIV trở về trước, trong đó, chủ yếu là những vị thần có công đánh giặc cứu dân. Ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang phải thường xuyên đối phó với kẻ thù ngoại xâm, tác phẩm đã trở thành nguồn động viên đối với cuộc chiến giữ nước của dân tộc nên được mọi người hân hoan đón nhận. Chính vì vậy, từ thế kỷ XV đến những năm đầu XX, VĐULT gần như liên tục được các học giả Việt Nam quan tâm. Điều này thể hiện ở chỗ, không những liên tục được tục biên, trùng bổ, tân đính hiệu bình…(1), mà một số nhân vật trong tác phẩm còn được chuyển sang các cuốn sách khác như: Lĩnh Nam chích quái lục (LNCQL(2)), Mã Lân dật sử lục (MLDSL hoặc ML) và Tân biên thiên Nam vân lục liệt truyện (TBTNVLLT hoặc TB) với các mức độ gia công khác nhau. Tình hình văn bản những sách đó hiện còn như sau:

1. Lĩnh Nam chích quái lục

Hiện có 16 bản lưu giữ tại các thư viện:

- Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 12 bản, gồm các kí hiệu: A.1200; A.1300; A.1752; Vv.1266; A.33; Vv.1473; A.2107; A.2914; A.1516 và A.1442;

- Thư viện Quốc gia, 2 bản, ký hiệu R.1607 và R.6;

- Thư viện Viện Sử học, 1 bản, ký hiệu Hv.486.

- Thư viện riêng Phạm Quỳnh, 1 bản, ký hiệu H.42, được chế bản lại và in kèm bản dịch Lĩnh Nam chích quái (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960).

2. Tân biên thiên Nam vân lục liệt truyện

Chỉ còn 1 bản - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - A.1442.

3. Mã Lân dật sử lục

Còn 1 bản - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - A.1516.

Trong khi khảo sát các văn bản kể trên để tìm hiểu về những thiên được đưa từ VĐULT sang, chúng tôi thấy có một vấn đề nảy sinh: cần xem lại việc phân loại và xếp MLDSL vào nhóm sách nào ?

Kể từ đầu thế kỷ XX đến nay, LNCQL được rất nhiều học giả để tâm nghiên cứu. Những vấn đề văn bản, nội dung, nghệ thuật v.v… đã thu hút sự chú ý của nhiều người, trong đó, có 9 công trình đã từng tiến hành thống kê, miêu tả các văn bản. Đó là:

1. Bản dịch Lĩnh Nam chích quái (LNCQ) của Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San(3); 2. Bản dịch LNCQL của Lê Hữu Mục(4); 3. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (5); 4. Phần Khảo luận văn bản trong Thơ văn Lý - Trần (6); 5. Sự phát triển truyện văn xuôi Hán - Việt từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII đầu XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu (7); 6. Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san (8); 7. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (9); 8. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam( 10) và 9. Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu (11).

Trong những công trình trên, khi đề cập tới LNCQL, các tác giả Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San, Lê Hữu Mục, Trần Văn Giáp, Nguyễn Huệ Chi và Nguyễn Đăng Na không hề nhắc gì tới MLDSL. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1960 là năm lần đầu tiên việc khảo cứu văn bản LNCQL được Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San thực hiện, cho đến luận án PTS Ngữ văn của Nguyễn Đăng Na năm 1987, chưa có tác giả nào cho rằng MLDSL cùng hệ thống với LNCQL. Vấn đề nghiên cứu văn bản của LNCQL vẫn giữ nguyên như vậy cho tới năm 1991. Nhưng, từ năm 1992 trở đi, đã có thay đổi:

- Năm 1992, lần đầu tiên ta thấy Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san đã xếp chung MLDSL với LNCQL và so sánh số thiên của chúng với nhau.

- Năm 1993, trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, MLDSL đã được xếp chung vào mục (số 2012) mang tên Lĩnh Nam chích quái với lời dẫn: “ Lĩnh Nam chích quái 嶺 南 摭 怪 (= Mã Lân dật sử 馬 麟 逸 史)”.

- Năm 1997, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam cũng xếp MLDSL vào cùng nhóm với LNCQL và tiến hành đối chiếu tác phẩm này với các bản LNCQLb.

- Năm 2002, do là công trình dịch và chỉnh lí từ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , nên Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu ở mục LNCQ (trang 908) cũng ghi: 嶺 南 摭 怪 ,又 名 , 馬 麟 逸 史(12) ( Lĩnh Nam chích quái còn gọi là Mã lân dật sử).

Như vậy, việc coi MLDSL cũng gọi là LNCQL chỉ mới được đề cập tới từ hơn chục năm trở lại đây. Kể từ đó, chưa ai xem xét lại lý do của việc đồng nhất tên gọi hai tác phẩm vốn từ lâu vẫn có hai tên gọi khác nhau này.

Một câu hỏi được đặt ra: vì sao soạn giả Thư mục đề yếu lại xếp MLDSL vào LNCQL ?

Có lẽ, các soạn giả xếp MLDSL vào chung với LNCQL bởi hai lí do: Một là, MLDSL có nhiều thiên truyện giống LNCQL (36/41 thiên); hai là, trong lời tựa, người soạn MLDSL cho biết: Sách này nguyên do hai ông Hoàng giáp Kiều, Vũ (Kiều Phú, Vũ Quỳnh - ĐPC) cùng viết, (…) thu nhặt các truyện từ tích cũ Hồng Bàng trở về sau, tổng cộng bốn mươi điều (truyện ?), đặt tên là Lĩnh Nam chích quái truyện (…) Bèn tham khảo ghi chép những thiên còn lại, chép thành một tập, trong (đó) bỏ hai truyện Bạch trĩ, Ô Lôi (…), chép phụ thêm việc sau ở triều Lê (…) Dưới mỗi truyện thêm lời bình nông cạn, nhan đề là Mã Lân dật sử lục (是 錄 也 原 黎 朝 洪 德 黃 甲 喬 武 二 公 合 著(...) 收 採 鴻 龐 遺 跡 以 後 等 傳 共 四 十 條 名 為 嶺 南 摭 怪 錄 (...) 爰 參 考 遺 編 錄 為 一 集 內 刊 白 雉 烏 雷 二 傳 (...) 增 附 黎 朝 後 事 (...) 每 傳 下 略 加 淺 評 顏 曰 馬 麟 逸 史 錄 ).

Nếu không đọc kỹ văn bản, mà chỉ nhìn vào con số (36/41) thiên trùng tên với LNCQL thì việc xếp MLDSL vào LNCQL sẽ ổn thỏa, không có vấn đề gì để bàn. Nhưng tại sao TBTNVLLT có tới 39/39 thiên trùng với LNCQL mà các nhà nghiên cứu lại không cho tác phẩm này nhập luôn vào nhóm LNCQL, mà vẫn tách riêng thành tác phẩm độc lập(13) ?

Vậy, ở đây sẽ có hai lựa chọn: Một là, đã không xếp TBTNVLLT vào LNCQL, thì cũng chẳng thể xếp MLDSL vào LNCQL như các nhà nghiên cứu hơn 10 năm qua đã làm; hai là, nếu đã đưa MLDSL vào LNCQL thì cũng phải xếp TBTNVLLT vào LNCQL.

Để có được sự lựa chọn cuối cùng, trong khi khảo sát những thiên chép các thần của Lý Tế Xuyên sang các tác phẩm khác, chúng tôi đã tìm hiểu xem sự tương đồng giữa MLDSL với LNCQL và mức độ gần gũi giữa TBTNVLLT LNCQL ra sao, với hi vọng sẽ có thể đi tới kết luận rằng, có nên gạt cả hai bản ra khỏi LNCQL hay gộp chúng vào LNCQL.

Để khách quan hơn, chúng tôi chọn thêm hai thiên đầu tiên và cuối cùng trong số những thiên có cả trong ba văn bản LNCQL, TBTNVLLT và MLDSL để xem xét. Hai thiên này có đặc điểm khác với các thiên được xét trên kia là: 1. Không dính dáng gì về nguồn gốc trong VĐULT; 2. Là những vị trong số 22 vị thần đầu của LNCQL (14).

Sau khi tiến hành so sánh tất cả các thiên kể trên, chúng tôi thu được kết quả khá bất ngờ: 1. MLDSL TBTNVLLT không giống với LNCQL, cũng chẳng thuộc hệ văn bản của LNCQL; 2. MLDSL TBTNVLL là hai văn bản rất gần nhau về số câu cũng như tình tiết. Bảng thống kê dưới đây sẽ cho thấy điều đó:

STT Thiên Tổng số câu trong thiên của ML ML giống TB mà không LNCQL ML giống LNCQL, mà không giống TB
ML TB
1 1 Thiên Nam tị tổ (15) 65 0 1
3 3 Tản sơn thần 43 0 1
5 4 Lý Hiệu úy 22 0 0
9 10 Sĩ vương tiên 35 2 1
10 11 Tây Hưng vương 20 3 0
12 13 Long trảo đâu mâu 36 4 0
13 14 Trưng nữ vương 60 11 0
15 15 Mị Ê phu nhân 22 4 0
20 20 Phạm Cự Lượng 40 2 0
21 21 Nhị Trương đại vương 67 14 0
23 23 Long Đỗ thần 40 10 0
24 24 Đô Lỗ thạch thần 27 8 0
25 25 Đồng Cổ sơn thần 36 0 0
26 26 Lý Phục Man 27 7 0
27 27 Xung Thiên thần 40 12 1
28 28 Khai Phong đại vương 37 6 2
30 30 Hậu Thổ thần 24 3 0
34 35 Thần châu Long vương 24 6 0
38 39 Dạ Thoa vương 10 3 0
Tổng cộng 675 101 6
Tỉ lệ 14,96% 0,92%

Bảng thống kê trên đây cho thấy: xét về tỉ lệ giống nhau ở cấp độ câu thì MLDSL giống TBTNVLLT ~15%, trong khi đó nó chỉ giống LNCQL chưa đầy 1%, nghĩa là MLDSL gần TBTNVLLT hơn LNCQL 16 lần. Đây mới là kết quả khảo sát những câu giống nhau hoàn toàn, còn nếu như mở rộng tới những câu gần giống nhau hoặc na ná nhau, thì chúng ta sẽ thấy sự gần gũi giữa ML TB còn cao hơn nhiều, nghĩa là: 1. MLDSL gần TBTNVLLT hơn LNCQL; 2. TBTNVLLT MLDSL là hai văn bản có chung hệ bản gốc. Một số đoạn khá dài chỉ có trong MLDSL TBTNVLLT, mà không thấy xuất hiện ở các bản LNCQL. Điều này càng khẳng định nhận định của chúng tôi là đúng. Xin so sánh những đoạn được nêu ra trong bảng thống kê dưới đây (Phần gạch chéo cho biết bản đó không chép thiên đang được xét; đoạn in nghiêng là phần được dịch từ nguyên văn ra, phần in đứng là lời văn của chúng tôi; những đoạn có ở bản khác mà không có ở bản đó sẽ được thể hiện bằng chữ “không có”).

 

Ngoài những đoạn chỉ có ở hai bản ML TB được thể hiện trong bảng thống kê trên, còn có những sai khác rõ rệt giữa một bên là LNCQL và một bên là hai bản ML TB. Ví dụ như: hai nhân vật chính trong Thần châu Long vương, các bản khác là hai anh em họ Đặng, còn riêng hai bản ML TB lại là hai người bạn, một họ Đặng, một họ Nguyễn v.v.

 

Sau khi tiến hành đối chiếu các thiên trong VĐULT được chuyển sang các tác phẩm kể trên, chúng tôi càng thấy băn khoăn về việc xếp chung MLDSL với LNCQL. Bởi vì, những cứ liệu vừa nêu đã minh chứng rằng: MLDSL gần với TBTNVLLT hơn là LNCQL. Bảng thống kê trên đã cho thấy điều này thể hiện ở từng thiên truyện, chứ không còn mang tính chất cá biệt nữa. Và nếu xếp MLDSL vào nhóm của LNCQL, thì không khỏi có cảm giác khiên cưỡng. Vì những lý do kể trên, nên chăng hãy trả MLDSL về đúng vị trí của nó như các nhà khoa học trước năm 1992 đã làm - nghĩa là đưa MLDSL tách ra khỏi LNCQL ?(18)

Đ.P.C

CHÚ THÍCH:

(1) Xin xem: - Nguyễn Văn Chất viết Tục biên vào thế kỷ XV.

- Lê Tự Chi viết bài tựa về Tứ vị thánh nương vào thế kỷ XVI.

- Cao Huy Diệu viết Tiếm bình Bổ chú vào thế kỷ XVIII.

- Thuần Phủ Lê Hữu Hỉ tham gia chỉnh lí văn bản và viết Bạt năm 1712.

- Kim Miện Muội án lục năm 1771.

- Gia Cát thị biên soạn lại toàn bộ tác phẩm và đặt tên lại: Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập (TĐHB) vào năm 1774.

- Ngô Giáp Đậu trùng bổ bản Kim Miện Muội và viết Bạt trùng bổ năm 1919.

(2) Sách này tương truyền vốn do Trần Thế Pháp (? - ?) biên soạn. Theo như chỉ dẫn của Đặng Minh Khiêm trong Phàm lệ sách Việt giám vịnh sử thi tập thì tác phẩm vốn có tên là Lĩnh Nam chích quái lục. Sang thế kỷ XV, Vũ Quỳnh đã hiệu chính, xếp thành hai quyển, đặt tên là Lĩnh Nam chích quái liệt truyện. Một năm sau, Kiều Phú lại sửa chữa lần nữa. Sang thế kỷ XVI, Đoàn Vĩnh Phúc đưa một số thiên từ VĐULT vào Lĩnh Nam chích quái liệt truyện và đặt tên là Loại tục Lĩnh Nam chích quái. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất gọi theo Trần Thế Pháp là Lĩnh Nam chích quái lục, mặc dù tất cả các văn bản hiện còn của tác phẩm này không quyển nào còn nguyên dạng như thời Trần Thế Pháp. Chúng tôi chỉ gọi nó bằng tên gọi khác trong trường hợp trích dẫn nguyên văn.

(3) Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San dịch. Nxb. Văn hóa, H. 1960.

(4) Lĩnh Nam chích quái. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960.

(5) Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Nxb. KHXH, H. 1990.

(6) Nguyễn Huệ Chi: Khảo luận văn bản. Thơ văn Lý - Trần, Nxb. KHXH, H. 1977.

(7) Nguyễn Đăng Na. Luận án Tiến sĩ ngữ văn, 1987.

(8) 越 南 漢 文 小 說 叢 刊 , 神 話 傳 說 類 , 第 二 輯 : 陳 慶 浩 - 鄭 阿 財 - 陳 義 (主編 ),法 國 遠 東 學 院 出 本 ,臺 灣 學 生 書 局 印 行 .中 華 民 國 八 十 一 年 (1992) .

(9) Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu, Tập 3, Trần Nghĩa - François Gros chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.207.

(10) Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Trần Nghĩa chủ biên, Tập 1, Nxb. Thế giới, H. 1997.

(11) 越 南 漢 喃 文 獻 目 錄 提 要 : 劉 春 銀 - 王 小 盾 - 陳 義 (主 編) , 中 央 研 究 中 國 文 哲 研 究 所 編 印 , 中 華 民 國 九 十 一 年 (2002).

(12) Việt Nam Hán Nôm văn hiến… (Sđd), tr.908.

(13) Trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, có lẽ do thấy được sự tương đồng này, nên sau khi khảo và giới thiệu văn bản LNCQL, các tác giả cũng đã có giới thiệu TBTNVLLT, nhưng cho tách riêng, chứ không xếp văn bản này vào cùng nhóm LNCQL - dù vẫn biết rằng tác phẩm này thoát thai từ LNCQL (Sđd, tr.189).

(14) LNCQL vốn chỉ có 22 thiên, sau này tác phẩm tiếp tục được bổ sung thêm rất nhiều thiên. Xin xem thêm: Đinh Gia Khánh… (Sđd); Nguyễn Đăng Na (tài liệu đã dẫn) v.v.

(15) Tên thiên ở đây được lấy theo MLDSL , nên hầu hết là khác với tên các thiên trong những văn bản khác.

(16) Đoạn về bài hịch của Thi Sách và bài hịch của Hai Bà chiếm tới 1/3 dung lượng toàn thiên trong hai văn bản MLDSL TBTNVLLT.

(17) Điều đáng nói là, đoạn mà các bản khác không có trên đây lại là nội dung chính của hai bản MLDSL TBTNVLLT, chiếm tới 46/47 câu, tương đương 70,21% ở MLDSL và chiếm 43/64 câu, tương đương 67,18% ở TBTNVLLT.

(18) Trong khi viết bài này, tác giả đã nhận được những góp ý quý báu của PGS. TS. Nguyễn Đăng Na. Nhân đây, chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành.

TB

TRỮ TÌNH Ở THỂ PHÚ

PHẠM TUẤN VŨ

Một trong những thuộc tính sớm được xác định của thể phú là “tả chí”(1). Tìm hiểu trữ tình ở thể phú nhằm nhận thức một thuộc tính quan trọng của thể loại, góp phần lý giải diễn trình của thể loại này trong đời sống văn học dân tộc, một công việc mà theo chúng tôi cho đến nay vẫn chưa được chú trọng. Ngoài ra còn nhằm nhận thức sâu hơn những điểm tương đồng và khác biệt của thể phú trong đời sống văn học trung đại Việt Nam so với ở văn học Trung Quốc, thấy rõ hơn sự khác biệt giữa phú Nôm với phú chữ Hán Việt Nam.

Phú là thể loại của văn học Trung Quốc ra đời từ thời Xuân thu Chiến quốc trên cơ sở Kinh Thi, Sở từ và văn xuôi Tiên Tần, đã được người Trung Quốc minh định chân xác ngắn gọn là “bán thi bán văn” (nửa thơ nửa văn xuôi). Phú có nhiều tiểu loại. Có người chia thành năm tiểu loại, có người chia thành sáu(2) nhưng theo nhà nghiên cứu Trung Quốc Chử Bân Kiệt thì cách chia của Từ Sư Tăng đời Minh trong Văn thể minh biện được nhiều người cho là hợp lý hơn cả. Cách phân chia của họ Từ dựa trên những dấu hiệu hình thức nổi bật nhất và kết hợp được cả yếu tố thời gian. Theo Từ Sư Tăng, phú có bốn tiểu loại: Cổ phú, bài phú, luật phú và văn phú(3). Có những tiểu loại phú bao gồm những tiểu tiểu loại, ví dụ trong cổ phú có tao thể phú là những bài phú mô phỏng nhiều yếu tố của Sở từ với số tiếng trong câu và tiếng đệm “hề”. Như vậy phú không phải là một thể loại thuần nhất và nói đến thuộc tính của thể loại là nói đến những đặc tính cơ bản nhất và phổ biến nhất. Vì rằng thơ cổ là một ngọn nguồn quan trọng hình thành thể phú, phú và thơ đều có thuộc tính trữ tình, do đó cái nhìn đối sánh giữa chúng để nhận ra sự khác biệt trong trữ tình ở thể phú, theo chúng tôi là cách làm có cơ sở và hữu hiệu nhất.

Vì phú và thơ có chỗ giao thoa nên nhu cầu minh định trữ tình ở thể phú xuất hiện từ rất sớm. Có nhà nghiên cứu Trung Quốc đã chỉ ra rằng chỗ tương đồng giữa hai thể loại là nội dung trữ tình đều được hình thành trên cơ sở ngôn từ có vần và nhịp điệu. Chỗ khác biệt là ở thể phú, trữ tình trên cơ sở sự miêu tả rộng lớn. Đây là những nhận thức rất cơ bản nhưng chưa đủ, nhất là đối với người Việt Nam, phải nhận thức thể phú trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam bao gồm những thể loại du nhập từ Trung Quốc và những thể loại tu chỉnh từ văn học dân gian bản địa.

Trong các tiểu loại và tiểu tiểu loại phú Trung Quốc, tao thể phú là loại có phương thức trữ tình gần gũi với thơ nhất, bởi vậy có nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng nói đến trữ tình ở thể phú chỉ cần nói đến tao thể phú tưởng cũng đã đủ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, một khi phú có những giao thoa với thơ trong phương thức trữ tình thì càng cần phải nỗ lực để nhận thức những điểm khác biệt ở thể phú vì suy cho cùng, một thể loại chỉ tồn tại được và có ý nghĩa đích thực với đời sống văn học khi nó mang đặc thù trong nhận thức và thể hiện cuộc sống, xưa nay đều như vậy.

Ở thơ cổ ta cũng bắt gặp sự trữ tình dưới dạng triết lý nghị luận, tuy nhiên không phổ biến như ở thể phú. Có thể nói toàn bộ nội dung mô tả và tự sự ở bài phú là để tạo cơ sở cho triết lý nghị luận rành mạch chặt chẽ, trong khi ở thơ, việc này không nhất thiết. Điều đó rõ hơn khi ta đối sánh một bài phú với một bài thơ có chủ đề gần gũi. La Lưỡng Phong vịnh Tần Thủy Hoàng có viết: “Phần thư tảo chủng A Phòng hỏa, Thu thiết hoàn lưu Bác Lãng chùy” (A Phòng lửa nhóm từ đốt sách, Thu sắt còn lưu Bác Lãng chùy)(4). Theo nhà thơ, lửa thiêu cung A Phòng cũng như kết cục thảm hại của Tần Thủy Hoàng bắt đầu chính từ sự tham bạo của kẻ hôn quân bạo chúa này. A Phòng cung phú của Đỗ Mục cũng cùng quan niệm ấy. Tác giả dùng một lượng ngôn từ lớn và biện pháp khoa trương của thể phú miêu tả cung A Phòng quy mô lộng lẫy tưởng như không thể có được ở trần gian. Nghệ thuật ức dương càng làm nổi bật kết cục cung A Phòng chỉ còn một đám đất khô. Bài phú kết thúc bằng đoạn nghị luận: “Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã. Tộc tần giả, Tần dã, phi thiên hạ dã. Ta hồ! Sử lục quốc các ái kỳ nhân, tắc túc dĩ cự Tần; Tần phục ai lục quốc chi nhân, tắc đệ tam thế khả chí vạn thế nhi vi quân, thuỳ đắc nhi tộc diệt dã? Tần nhân bất hạ tự ai, nhi hậu nhân ai chi; hậu nhân ai chi nhi bất giám chi diệc sử hậu nhân phục ai hậu nhân dã!” (Than ôi ! Kẻ diệt sáu nước chính là sáu nước, chớ không phải nhà Tần. Kẻ giết cả họ nhà Tần chính là nhà Tần, chớ không phải thiên hạ. Ôi ! Giả sử sáu nước đều yêu thương dân mình, thì đủ sức chống lại nhà Tần. Giả sử nhà Tần lại yêu thương dân sáu nước, thì có thể làm vua từ ba đời cho đến muôn đời, ai có thể diệt cả họ được? Người nhà Tần không rảnh tự thương mình, mà người đời sau thương. Người đời sau thương nhà Tần mà không lấy đó là gương, thì cũng lại khiến người đời sau thương cho người đời sau vậy)(5).

Nhiều bài phú của Trung Quốc và Việt Nam hướng tới đối tượng trữ tình đặc biệt là các đấng quân vương với lời khuyên răn kín đáo ( phúng gián hoặc phúng dụ ) bằng những bài học lịch sử, tức cổ nghiệm kim. Có nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng với bài phú này, Đỗ Mục nhằm bày tỏ thái độ trước tình trạng xa hoa hưởng lạc của triều Bảo Lịch Đường Kính Tông. Ở Việt Nam Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu tái hiện chiến công của quân dân chống ngoại xâm trên dòng sông lịch sử và kết thúc bằng luận về đức nhân: “Nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu dẫn” (Người có đức nhân được lưu tên tuổi, những kẻ bất nhân đều bị mai một)(6). Tên thể phú cũng như một số thể loại văn học trung đại được báo ngay từ nhan đề tác phẩm báo cho người đọc chuẩn bị tâm thế thích hợp để tiếp nhận tác phẩm. Người xưa quen thuộc với tính chất phúng dụ của thể phú nên không ai nghĩ rằng Trương Hán Siêu chỉ truy tụng truy niệm cổ nhân mà hiểu cái chính là chỗ ông muốn bày tỏ nguyện vọng được thấy một đường lối trị nước nhân nghĩa ở chính thể đương thời.

Văn xuôi Tiên Tần là một ngọn nguồn hình thành thể phú. Văn xuôi chư tử thời ấy có nội dung triết lý nghị luận sâu sắc. Khi phú được thu hút vào quỹ đạo cung đình, sở trường đó hết sức đắc dụng nhằm điểm tô cho chế độ phong kiến (“nhuận sắc hồng nghiệp” chữ dùng của Ban Cố đời Hán) và trở thành một thuộc tính của thể loại. Tác giả viết phú có thể viết về một đề tài cụ thể, miêu tả một sự vật nhỏ bé nhưng bao giờ cũng hướng tới triết lý, nghị luận một vấn đề nhân sinh có ý nghĩa phổ quát, to lớn “cao đàm khoát luận” và điều này thường được tập trung ở cuối bài. Trong bài phú nhằm phúng gián, phần này được cổ nhân gọi là “khúc chung tấu nhã” (cuối bài tấu lên khúc nhạc hay). Có thể nói một chỗ rất quan trọng để phân biệt phú của các thời kỳ văn học không phải là chỗ viết về cái gì mà là chỗ nghị luận như thế nào. Ở Việt Nam nếu cần chọn phú chữ Hán của một giai đoạn văn học đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất thì chắc chắn đó là phú chữ Hán đời Trần (hay như một cách định danh khác là đời Trần-Hồ), tuy rằng số bài phú chữ Hán đời Trần mà chúng ta biết được chỉ xấp xỉ một phần ba số bài của Nguyễn Mộng Tuân, một tác giả đời Hậu Lê. Cái chính là chỗ đời Trần, thời đại phục hưng của dân tộc, những ràng buộc đối với kẻ sĩ chưa quá khắt khe, học phong thời đại thật đẹp đẽ, nhà nước phong kiến còn thực sự cần đến tâm huyết của kẻ sĩ chứ không phải coi họ như một món đồ trang điểm hoặc lũ văn nô hữu danh vô thực. Những lời triết lý nghị luận của các tác giả viết phú chữ Hán đời Trần không chỉ thể hiện tài năng văn chương của họ mà còn bộc lộ sở học và vị thế cao của kẻ sĩ đương thời vì thế rành mạch chính đáng được người đời sau ngợi ca, kế tiếp. Đời Hậu Lê khi viết về những chiến công chống giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi và Nguyễn Mộng Tuân đều có ý khuyên mọi người (mà trước hết là kẻ cầm quyền) hưởng sung sướng đừng quên những ngày gian khổ:

“Ngôi cao đã tột, mà gian nan nỗi trước nào khuây;
Tám món ăn quý, còn nhớ gọi lương khô bấy chầy.
Chín lần cung cấm, vẫn tưởng khi gió thổi sương bay;
Nhớ hoài nhớ mãi, đức vua thường gắng gỏi hàng ngày.”
(Nguyễn Mộng Tuân: Chí Linh sơn phú, Nguyễn Sĩ Lâm dịch)

Trữ tình ở phú còn có điểm đặc thù trong cách thể hiện và điểm này càng nổi bật khi đối sánh với thơ. Thời trung đại ở Trung Quốc và Việt Nam, thứ thơ được ưa chuộng nhất là thơ có ngôn từ đẹp đẽ (tú), biểu hiện tư tưởng cảm xúc một cách kín đáo (ẩn). Trong Tùy Viên thi thoại, Viên Mai đời Thanh cho rằng thơ nên đạm chứ không nên nồng nhưng là thứ đạm sau khi nồng. Ở Việt Nam nhà bác học Lê Quý Đôn cho rằng điều kỵ khi làm thơ đó là mạch thơ lộ liễu. Trữ tình ở thể phú dường như ngược lại. Tương ứng với sự cường điệu thường xuyên trong miêu tả, sự biểu thị tư tưởng cảm xúc cũng thường xuyên được khoa trương. Đọc Thượng Lâm phú của Tư Mã Tương Như, Tào Thực cảm thấy có nghìn người xướng, vạn người hòa theo (thiên nhân xướng, vạn nhân họa)(7).

Có thể nói trong các thể loại văn chương hình tượng ở Trung Quốc và Việt Nam xưa kia, phú là thể loại tiêu biểu nhất cho việc trữ tình dưới hình thức nghị luận và để làm được điều đó nó có cả một cơ chế nghệ thuật phù hợp. Đó là việc triển khai nội dung có thứ lớp chặt chẽ, các phần được liên kết với nhau bằng những nhóm từ chỉ quan hệ tòng thuộc hay nhân quả v.v... Trong khi đó chúng ta đều biết nhiều mối quan hệ trong một bài thơ là do người đọc tự xác lập trong quá trình cảm nhận, các cụm từ chỉ sự liên kết giữa các phần của bài thơ rất ít khi xuất hiện. Có người cho rằng sự rõ ràng minh bạch đồng nghĩa với giết chết thơ !

Một trong những thủ pháp làm nổi bật tính chất triết lý nghị luận là tác giả phú xây dựng cặp hình tượng chủ - khách vấn đáp. Tư tưởng tình cảm của chủ và khách có thể tương đồng hay tương phản nhưng cả hai dạng đều có tác dụng làm cho lý lẽ thêm sắc bén, tình cảm thêm sâu đậm qua sự cọ xát (nếu tương phản), bồi đắp (nếu tương đồng). Phú Trung Quốc đời Hán rất hay dùng hình thức chủ - khách vấn đáp. Ở Việt Nam, phú chữ Hán có dùng còn phú Nôm rất ít dùng (trong hai tập phú Nôm do Vũ Khắc Tiệp tuyển(8), gồm hơn 40 bài không có bài nào dùng hình thức này). Điều này có thể giải thích được. Khi bàn về những vấn đề của quốc gia dân tộc hoặc trình bày lý tưởng của kẻ sĩ, người xưa thường dùng chữ Hán để thêm phần trang trọng và như B.L.Riptin đã chỉ ra, một khi sự tiếp thu thể loại văn học đi liền với sự tiếp thu ngôn ngữ văn học thì những quy phạm thể loại được tuân thủ chặt chẽ hơn. Còn phú Nôm chủ yếu viết về những chuyện của đời sống bình thường, kể cả những chuyện quan niệm chính thống đương thời cho là không thanh nhã. Tư tưởng và ngôn ngữ đã khác thì hình thức thể văn có đổi khác là điều dễ hiểu.

Để nội dung triết lý nghị luận được minh bạch, có sức thuyết phục cao, người viết phú thường sử dụng tri thức kinh viện nhiều khi quá mức cần thiết, gây phản cảm. Không phải hậu sinh chúng ta mới nhận thấy điều đó. Chiêu Minh Thái tử (đời Lương), Viên Mai đời Thanh đều phản đối chủ trương “dùng cái học để làm thơ”. Trong Văn tâm điêu long, khi nêu ba loại bệnh người làm thơ đương thời, Viên Mai kể ra trước hết bệnh nhồi nhét điển tích. Còn đọc phú Trung Quốc hay phú Việt Nam viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm chúng ta đều nhận thấy các tác giả đều sử dụng nhiều điển tích. Điều này vừa do chức năng thể loại vừa do tâm lý người xưa “giỏi phú mới được tiếng là người hay chữ” (PGS. Phan Ngọc). Trong Cổ phú biện thể, Chúc Nhiêu đời Nguyên so sánh phú với thơ cổ và cho rằng tư tưởng tình cảm trong phú không được sâu xa như trong cổ thi (bất tương viễn cổ thi phú nghĩa)(9). Nhận xét này không phải không có cơ sở, nhất là khi người làm phú đời sau chịu sự “trói buộc từ bên trong” chặt chẽ hơn người làm thơ trong dân gian xưa. Tuy nhiên cũng phải thấy phú có những chức năng mới, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ mới mà rõ rệt nhất là việc chú trọng yếu tố nhận thức lý tính - điều mà nho sĩ Trung Quốc và Việt Nam mọi thời đều ưa thích. Cho đến nay đôi khi chúng ta vẫn còn bắt gặp những ý kiến theo kiểu lấy sở trường của một thể loại văn học nào đó làm chuẩn mực để xem xét những thể loại khác. Cách làm đó vô hình trung đã phủ nhận sự đa dạng của đời sống văn học.

Để tăng cường khả năng trữ tình nhiều khi các tác giả xen vào bài phú những bài đoản thi. Hiện tượng này đã có từ rất sớm ở phú Trung Quốc mà mở đầu là Xuân phú của Dĩu Tín đời Lục triều. Ở Việt Nam phú chữ Hán và phú Nôm đều có hiện tượng này, có bài phú Nôm xen ba bài thơ Đường luật. Trong bài phú, những bài đoản thi được dùng xen vào người xưa không gọi là thi mà gọi là ca. Cách định danh này nhằm khu biệt phương thức tồn tại của phú và thơ. Âm nhạc là một nhân tố để phân định các thể loại văn học cổ điển Trung Quốc. Cổ thi có thể được biểu diễn dưới hình thức ca (hình thức mà người Việt gọi là ngâm thơ chăng?), còn “bất ca nhi tụng vị chi phú”(10) (không hát mà đọc là phú). Hiện tượng dùng xen những bài thơ trong thể phú và trong truyện truyền kỳ cả ở Trung Quốc và Việt Nam cho thấy thơ là thể loại trữ tình điển hình và ưu việt, tuy nhiên nó không thay thế các hình thức trữ tình khác.

Nghiên cứu trữ tình ở thể phú cũng giúp ta hiểu thêm sự khác biệt nữa của việc sáng tạo và thưởng thức thể loại này ở Việt Nam. Ngay từ những thế kỷ đầu di thực vào Việt Nam, phú đã được dùng trong thi cử nên là thể loại mà người trí thức Việt Nam thời phong kiến phải thành thạo. Đọc nguyên tựa của vua Lê Thánh Tông viết ở đầu bài Lam Sơn Lương Thủy phú chúng ta ngạc nhiên thấy thế kỷ XV người Việt Nam đã biết nhiều như vậy về phú Trung Quốc. Ba thế kỷ sau, Lê Quý Đôn so sánh phú đời Trần với phú đời Tống chứng tỏ nhà bác học đã nắm được những đặc điểm hết sức nổi bật của phú Trung Quốc thời này. Tuy nhiên nhìn thực tiễn thể phú ở Việt Nam chúng ta thấy quả là thể loại này đã “nhập gia tuỳ tục”. Trong đời sống văn học Việt Nam thời trung đại không có thời kỳ nào thể phú lấn át các thể loại khác, dù chỉ xét ở một đề tài nào đó. Trái lại có những đề tài mà nhiều tác giả Trung Quốc viết bằng thể phú và để lại nhiều kiệt tác nhưng tình hình ở Việt Nam lại khác. Ví dụ đề tài trữ tình luyến ái. Trong số những bài phú chữ Hán được giới thiệu ở Tổng tập văn học Việt Nam và các tuyển tập văn học lớn chúng ta không thấy những bài thuộc đề tài này, ở phú Nôm cũng rất ít và đã mang sắc thái “xách mé”. Khi trữ tình bằng các thể loại có vần điệu người Việt Nam dường như bằng lòng với thơ cổ phong, thơ Đường luật, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, hát nói... Đối với nhà văn Việt Nam thời trung đại, để có đóng góp thực sự cho văn học dân tộc phải có tài năng và có bản lĩnh lớn đến độ phân biệt được cái học vì cử tử và học để sáng tạo.

P.T.V

CHÚ THÍCH

(1) Lưu Hiệp: Văn tâm điêu long. Thuyên phú. Xem Chử Bân Kiệt, Trung Quốc cổ đại văn thể khái luận, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 1990, tr.69 (tiếng Trung Quốc).

GS. Đặng Thai Mai giải thích chữ chí trong Thi ngôn chí như sau: “Ta nên hiểu chữ chí ở đây là “tâm” của kẻ sĩ (như từ căn của nó đã chỉ rõ). Cho nên, chí không phải chỉ có phần nghị lực, phần ý chí mà thôi, mà nó còn có cả phần tâm tình của kẻ sĩ nữa” (Tuyển tập Đặng Thai Mai, tập 1, Nxb. Văn hóa, 1984, tr.360). Nội dung phú Trung Quốc và phú Việt Nam cũng cho thấy phải hiểu chữ chí trong ý kiến của Lưu Hiệp theo nghĩa đó.

(2) Tào Minh Cương: Phú học khái luận, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1998, tr.44-52 (tiếng Trung Quốc ).

(3) Cổ đại Hán ngữ, hạ sách, đệ nhị phân sách, Vương Lực (chủ biên), Trung Hoa thư cục, 1964, tr.1287-1289 (tiếng Trung Quốc).

(4) Viên Mai: Tùy Viên thi thoại, Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb. Giáo dục, 1999, tr.31.

(5) Trần Trọng San: Hán văn, Bắc đẩu (In lần thứ năm), Sài Gòn, 1973, tr.309-310.

(6) Một số tài liệu dịch là “những người bất nghĩa tiêu vong, nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh” nghĩa có khác so với nguyên tác.

(7) Chử Bân Kiệt, sđd, tr.129.

(8) Phú Nôm, Thái Phong Vũ Khắc Tiệp biên tập, Vĩnh Hưng Long thư quán, H. 1931.

(9) Chử Bân Kiệt, sđd, tr.89.

(10) Chử Bân Kiệt, sđd, tr.70.

TB

ỨNG DỤNG CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

ĐẶNG QUỐC KHÁNH

Học thuyết Âm dương xuyên suốt mọi lĩnh vực của Y học cổ truyền, dùng giải thích kết cấu tổ chức, chức năng sinh lý, biến đổi bệnh lý và chỉ đạo dưỡng sinh, chẩn đoán cũng như điều trị lâm sàng.

1. Giải thích về kết cấu tổ chức

Học thuyết Âm dương cho rằng cơ thể là một chỉnh thể hữu cơ do âm dương kết hợp mà thành, tuy nhiên mỗi kết cấu tổ chức lại đều có thể căn cứ vào vị trí, đặc điểm chức năng phân theo thuộc tính âm dương. Sách Tố vấn - Bảo mệnh toàn hình luận viết: “Người là vật thể hữu hình cũng không tách rời âm dương”. Chương Kim quỹ chân ngôn luận viết cụ thể: “Xét về âm dương trên con người thì ngoài thuộc dương, trong thuộc âm. Xét trên thân thể thì lưng thuộc dương, bụng thuộc âm. Xét về tạng phủ thì tạng thuộc âm, phủ thuộc dương. Ngũ tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận đều thuộc âm. Lục phủ: đởm, vị, đại tràng, tiểu tràng, bàng quang, tam tiêu đều thuộc dương”.

Xác định thuộc tính âm dương của tổ chức tạng phủ trong cơ thể theo hai phương diện. Một là dựa vào vị trí đại thể giải phẫu, như xét vị trí trên dưới thì trên thuộc dương dưới thuộc âm; xét về trong ngoài thì ngoài thuộc dương, trong thuộc âm, xét trên cơ thể thì lưng thuộc dương bụng ngực thuộc âm; xét trên chi thể thì mặt trong là âm, mặt ngoài là dương... Hai là dựa vào thuộc tính tương đối của hoạt động sinh lý, như “Tàng tinh khí mà không tả” của ngũ tạng, với “Chuyển hóa vật mà không tàng” của lục phủ thì ngũ tạng thuộc âm, lục phủ thuộc dương... Do thuộc tính âm dương có thể phân vô hạn cho nên trong âm dương còn có thể phân âm dương, ví như bụng và ngực phân âm dương thì ngực thuộc dương, tâm là dương trong dương, phế là âm trong dương. Bụng thuộc âm, thận là âm trong âm, can là dương trong âm, tỳ là chí âm trong âm” (Sách Tố vấn - Kim quỹ chân ngôn luận). Ngay từng tạng cũng có thể phân âm dương, như tâm có tâm âm tâm dương, thận có thận âm thận dương, can có can âm can dương...

Hệ thống kinh lạc trong cơ thể cũng có thể phân âm dương, trong mười hai chính kinh có thủ túc tam âm tam dương, các kinh dương đi mặt ngoài chi thể kinh âm đi mặt trong chi thể. Kiều mạch và duy mạch của bát mạch kỳ kinh, nếu đi mặt trong cơ thể gọi là âm kiều âm duy; đi ở mặt ngoài cơ thể gọi là dương kiều và dương duy. Đốc mạch chạy ở ngực có chức năng tổng đốc các kinh dương nên gọi là “Bể của dương mạch” (Dương mạch chi hải). Mạch nhâm chạy ở bụng có tác dụng nhâm dưỡng các kinh âm nên gọi là: “Bể của âm mạch” (Âm mạch chi hải).

Như vậy kết cấu tổ chức tạng phủ, kinh lạc đều có thể căn cứ vào vị trí tương đối trên dưới, trong ngoài, biểu lý, trước sau... và đặc điểm hoạt động chức năng tương đối vừa để khái quát thuộc tính âm dương và còn để thuyết minh quan hệ đối lập thống nhất giữa chúng với nhau.

2. Giải thích chức năng sinh lý cơ thể

Về chức năng sinh lý cơ thể dù rằng là một cơ quan hoàn chỉnh hay chỉ là một bộ phận đều có thể dùng âm dương để giải thích. Hoạt động sống của cơ thể bình thường là kết quả duy trì điều hòa thăng bằng âm dương. Ví dụ như thăng giáng xuất nhập là hình thức cơ bản vận động khí cơ của cơ thể. Dương chủ thăng, âm chủ giáng; dương chủ xuất, âm chủ nhập. Chức năng sinh lý của cơ thể đều thông qua thăng giáng xuất nhập của khí mà thực hiện. Như thanh dương thượng thăng, trọc âm hạ giáng; thanh dương phát ra tấu lý bên ngoài, trọc âm chạy ở ngũ tạng bên trong; thanh dương đi ra tứ chi bên ngoài, trọc âm quay về lục phủ bên trong; hay tỳ thăng, vị giáng... đều thuộc về vận động thăng giáng xuất nhập của âm dương. Thăng giáng xuất nhập duy trì thăng bằng là bình thường, ngược lại là bệnh.

Âm dương hãy còn dùng để phân biệt các chất có chức năng sinh lý khác nhau trong cơ thể. Như “vệ khí” có tác dụng bảo vệ, ôn ấm cơ biểu thì gọi là “dương vệ”; “dinh khí” có khả năng hóa sinh huyết dịch, có tác dụng nhu dưỡng gọi là “âm dinh”. Dinh vệ hài hòa thì bình thường, bất hòa thì bệnh lý.

Như vậy các chức năng sinh lý của cơ thể đều có thể dùng khái niệm âm dương để giải thích, Sách Tố vấn - Sinh khí thông thiên luận viết: “Bản chất của sự sống là âm dương”.

3. Giải thích biến đổi bệnh lý trong cơ thể

Thăng bằng tiêu trưởng giữa âm và dương trong cơ thể là điều kiện cơ bản duy trì hoạt động sống bình thường. Âm dương không điều hòa sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản để bệnh tật phát sinh.

Sự phát sinh và phát triển bệnh tật liên quan đến hai phương diện chính khí và tà khí của cơ thể. Chính khí là chỉ những hoạt động làm cơ thể có khả năng đề kháng với bệnh tà, năng lực thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài và năng lực phục hồi tổ chức tổn thương. Tà khí chỉ các yếu tố gây bệnh. Những vấn đề này đều có thể dùng âm dương để chứng minh, giải thích. Chính khí phân âm dương bao gồm khí âm và khí dương. Tà khí cũng phân thành âm tà và dương tà. Như hàn thấp trong lục dâm gây bệnh là âm tà, phong thử nhiệt táo là dương tà. Quá trình bệnh tật là quá trình đấu tranh chính tà mà kết quả sẽ dẫn đến âm dương thiên thắng hay thiên suy. Vì thế cho dù bệnh lý biến hóa rất phức tạp nhưng đều có thể dùng thiên thắng thiên suy âm dương để tiến hành khái quát hóa.

3.1. Âm dương thiên thắng

Thắng là chỉ tà khí thịnh. Âm dương thiên thắng là chỉ trạng thái bệnh lý âm tà hoặc dương tà thiên thịnh, một mặt thuộc âm hay thuộc dương nào đó cao hơn bình thường. Sách Tố vấn - Âm dương ứng tượng đại luận viết: “Âm thắng tất dương bệnh, dương thắng tất âm bệnh, dương thắng tất nhiệt, âm thắng tất hàn”.

Dương thắng tất nhiệt, dương thắng tất âm bệnh: Dương thắng là một loại bệnh dương tà xâm phạm cơ thể, “tà thuộc dương” làm cho dương thịnh lên. Do đặc tính của dương là nhiệt nên “dương thắng tất nhiệt”. Như ôn nhiệt vào cơ thể xuất hiện sốt cao, phiền táo, mặt đỏ, mạch xác... gây chứng nhiệt của “dương thắng tất nhiệt”. Do dương có thể chế ước âm, nên khi dương thắng tất nhiên sẽ làm tiêu hao và chế ước phần âm của cơ thể, làm cho tân dịch sinh ra ít đi, không đủ tư nhuận, khô táo, nên “dương thắng tất âm bệnh”. Khi mắc ngoại cảm ôn bệnh, cứ để phát triển sẽ dẫn đến các chứng “dương thắng thương âm” thì miệng khô, môi phồng táo, lưỡi đỏ ít tân dịch...

Âm thắng tất hàn, âm thắng tất dương bệnh: Âm thắng là một loại bệnh hàn tà vào cơ thể, “tà thuộc âm” làm cho âm thịnh. Do đặc điểm của âm là hàn nên “âm thắng tất hàn”. Như hàn tà trực trúng thái dương xuất hiện chứng hàn của “âm thắng tất hàn”: mặt trắng, người lạnh, bụng đau lạnh, đi ngoài trong loãng, chất lưỡi nhạt rêu trắng, mạch trầm trì hoặc trầm khẩn... Do âm có thể chế ước dương nên khi âm thắng tất nhiên sẽ gây tổn thương và ức chế khí dương của cơ thể, làm cho khí dương hư suy vì thế “âm thắng tất dương bệnh”. Lại thí dụ hàn tà trực trúng nội tạng tùy theo sự phát triển của bệnh có thể xuất hiện các chứng “âm thắng thương dương” hoặc “âm thắng dương suy” thì chân tay lạnh, cuộn tròn, mạch trì phục hoặc vi tế muốn tuyệt...

Bệnh do âm dương thiên thắng hình thành thực chứng, dương tà thiên thắng gây nên chứng thực nhiệt, âm tà thiên thắng gây nên chứng hư hàn. Nên sách Tố vấn - Thông bình hư thực luận viết: “Tà khí thịnh tất thực”.

3.2. Âm dương thiên suy

Âm dương thiên suy tức âm suy, dương suy là trạng thái bệnh lý một mặt âm dương bất kỳ thấp hơn mức bình thường. Sách Tố vấn - Điều kinh luận viết: “Dương hư tức ngoại hàn, âm hư tức nội nhiệt”.

Dương hư tất hàn: Dương hư chỉ dương khí trong cơ thể hư suy. Căn cứ vào nguyên lý âm dương chế ước lẫn nhau tất âm tương đối thiên thắng nên xuất hiện chứng hàn. Như dương khí cơ thể suy nhược có thể xuất hiện chứng hư hàn của “dương hư tất hàn”. Sắc mặt trắng bạc, sợ lạnh, chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi muốn nằm, tự hãn, mạch vi...

Âm hư tất nhiệt: Khí âm cơ thể có tác dụng ức chế dương nhiệt, âm hư không thể chế dương tất dương tương đối thiên thắng mà xuất hiện chứng nhiệt. Như bệnh lâu ngày thương âm hoặc tố chất âm hư, có thể xuất hiện chứng hư nhiệt của “âm hư tất nhiệt” thì trào nhiệt, đạo hãn, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô lưỡi táo, mạch tế xác...

Bệnh chứng do âm dương thiên suy đều là chứng hư, âm hư tức gây chứng hư nhiệt, dương hư sẽ gây chứng hư hàn. Nên sách Tố vấn - Thông bình hư thực luận viết: “Tinh khí mất tất hư”.

Tóm lại tuy biến đổi bệnh lý rất phức tạp nhưng đều có thể dùng âm dương thất điều (thiên thắng thịnh suy) để giải thích.

Do hỗ căn hỗ dụng giữa âm và dương nên khi âm dương suy đến mức độ nhất định sẽ xuất hiện tình trạng âm dương gây tổn thương lẫn nhau, dương hư dẫn đến âm hư, âm hư dẫn đến dương hư. Dương hư mức độ nào đó thì sẽ không còn sinh được âm, tiếp tục xuất hiện hiện tượng âm hư gọi là “dương hư dẫn đến âm hư” (Dương tổn cập âm). Cũng như vậy âm hư đến mức độ nào đó sẽ không thể sinh dương gây nên hiện tượng dương hư gọi là “âm hư dẫn đến dương hư” (Âm tổn cập dương) cuối cùng dẫn đến âm dương lưỡng hư.

4. Dùng chẩn đoán bệnh tật

Học thuyết Âm dương dùng để chẩn đoán bệnh nghĩa là dùng âm dương khái quát các thuộc tính vị trí bệnh biến, tính chất của các chứng hậu, từ đó xác định các cương lĩnh biện chứng. Sách Tố vấn - Âm dương ứng tượng đại luận viết: “Người giỏi chẩn bệnh xem sắc diện, bắt mạch phân biệt âm dương”.

4.1. Phân tích thuộc tính âm dương của màu sắc, thanh âm, chứng trạng, mạnh tượng và vị trí bệnh. Phân biệt âm dương của màu sắc: màu vàng, đỏ thuộc dương, xanh trắng đen thuộc âm; sắc tươi sáng thuộc dương, ám tối thuộc âm. Phân biệt âm dương thanh âm: tiếng nói to mạnh rõ ràng thuộc dương, tiếng nói nhỏ nhẹ yếu thuộc âm. Hô hấp có lực, tiếng thở thô mạnh thuộc dương; hô hấp yếu ớt, tiếng thở nhẹ thuộc âm. Phân biệt âm dương chứng trạng, chủ yếu căn cứ tính chất hàn nhiệt, nhuận táo, động tĩnh của chứng trạng mà phân biệt thuộc tính âm dương. Ví như người nóng thuộc dương, người lạnh thuộc âm; miệng khô khát thuộc dương, miệng ướt nhuận không khát thuộc âm, bứt rứt không yên thuộc dương, nằm mệt mỏi ủ rũ thuộc âm. Phân âm dương mạnh tượng theo vị trí thì thốn là dương, xích là âm; theo động thái thì đến là dương, đi là âm; theo tần số mạch thì xác là dương, trì là âm; theo hình thái thì phù đại hồng hoạt là dương, trầm, sáp, tế, vi là âm. Phân biệt thuộc tính âm dương theo vị trí cơ quan bị bệnh thì ở biểu, ở ngoài, ở trên thuộc dương, ở lý, ở trong, ở dưới thuộc âm.

4.2. Phân tích thuộc tính âm dương của chứng hậu: Trong biện chứng nói chung đầu tiên dùng âm dương, biểu lý, hàn nhiệt, hư thực làm cương lĩnh biện chứng. Trong cương lĩnh ấy âm dương là tổng cương có nghĩa là âm dương chi phối hàn nhiệt, biểu lý, hư thực. Biểu nhiệt thực thuộc dương, lý hư hàn thuộc âm. Khi biện chứng lâm sàng, trước tiên cần phân rõ âm dương thì mới nắm được bản chất của bệnh, mới có thể dùng pháp đơn giản điều trị được bệnh phức tạp. Thày thuốc Trình Chung Linh thời Thanh viết trong Y học tâm ngộ: “Bệnh có tám vấn đề quan trọng là hàn nhiệt hư thực biểu lý âm dương. Trong đó âm dương của bệnh chi phối sáu vấn đề trên. Nhiệt, thực, biểu là dương; hàn, hư, lý là âm”.

Như vậy bốn cách chẩn đoán bệnh là vọng văn vấn thiết đều lấy phân rõ âm dương làm nhiệm vụ quan trọng đầu tiên. Chỉ có nắm vững quy luật âm dương trong biện chứng mới có thể phân tích và chẩn đoán chính xác thuộc tính âm dương của bệnh tật. Vì thế “Phàm chẩn bệnh điều trị, nhất thiết phải nắm âm dương. Cương lĩnh của đạo y, âm dương không nhầm lẫn lẽ nào điều trị không khỏi bệnh ? Y đạo tuy phức tạp, nhưng chỉ có một câu bao trùm tất cả đó là âm dương. Chứng có âm dương, mạch có âm dương, thuốc có âm dương… Giả như nắm vững âm dương, thì tuy y lí huyền diệu cũng coi như biết được quá nửa” (Trọng Cảnh toàn thư - Truyền trọng lục).

5. Ứng dụng phòng bệnh và điều trị

Điều hòa âm dương làm duy trì hoặc hồi phục tương đối thăng bằng đạt đến mức âm bình dương bí là nguyên tắc cơ bản của phòng bệnh và điều trị, đây cũng chính là nội dung chủ yếu của ứng dụng học thuyết Âm dương vào phòng bệnh và điều trị.

5.1. Chỉ đạo dưỡng sinh: Chú trọng dưỡng sinh là phương pháp quan trọng để duy trì sức khoẻ không bị bệnh. Cách dưỡng sinh căn bản nhất là điều chỉnh âm dương. Âm dương cơ thể là căn bản của sự sống. Thế giới tự nhiên có biến hóa bốn mùa xuân hạ thu đông tức là “bốn mùa âm dương”. Mục đích của dưỡng sinh là làm cho âm dương cơ thể hòa hợp với âm dương bốn mùa biến đổi thích ứng với nhau, nhằm duy trì điều hòa thống nhất cơ thể với tự nhiên để kéo dài tuổi thọ. Sách Tố vấn - Tứ khí điều thần đại luận viết: “Thuận với âm dương bốn mùa là gốc rễ của vạn vật, vì thế thánh nhân xuân hạ dưỡng dương, thu đông dưỡng âm. Đó là thuận với căn bản làm cho vạn vật theo qui luật sinh trưởng. Nếu đối nghịch với nguyên lý ấy tất phá đi quy luật, hại đến chân khí”. Câu dẫn trên đã đề cập đến nguyên lý căn bản cũng như tầm quan trọng của điều dưỡng âm dương bốn mùa.

5.2. Ứng dụng vào điều trị: Điều cơ bản là nắm chắc tình trạng rối loạn âm dương, dùng các phương pháp uống thuốc, châm cứu v.v… điều chỉnh thiên thắng thiên suy của âm dương để hồi phục điều hòa thăng bằng âm dương. Sách Tố vấn - Chí chân yếu đại luận viết: “Cẩn thận xem xét âm dương mà điều chỉnh cho thăng bằng”. Nói cụ thể là xác định nguyên tắc điều trị và phân tích quy nạp tính năng của thuốc.

(a) Xác định nguyên tắc điều trị: Do nguyên nhân căn bản của sự phát sinh phát triển của bệnh là âm dương không điều hòa, do đó điều chỉnh âm dương, thêm chỗ bất túc, bớt chỗ dư thừa, hồi phục điều hòa thăng bằng âm dương, làm cho âm bình dương bí là nguyên tắc cơ bản điều trị bệnh tật.

Nguyên tắc điều trị âm dương thiên thắng (thiên thịnh). Âm dương thiên thắng gây nên thực chứng nên nguyên tắc điều trị chung nhất: “thực thì tả”, tức bớt chỗ dư thừa. Chi tiết hơn là dương tà thịnh dẫn đến chứng thực nhiệt phải dùng phép hàn để trị nhiệt; âm tà thịnh dẫn đến chứng thực hàn phải dùng phép nhiệt để trị hàn. Nếu nhiệt tà và hàn tà cùng thịnh, do “dương thắng tất âm bệnh” hoặc “âm thắng tất dương bệnh” nên khi xuất hiện dương hư hoặc âm hư cần chiếu cố chỗ bất túc. Nghĩa là trong khi “tả thực” cần thêm những thuốc trợ dương hoặc tư âm.

Nguyên tắc điều trị âm dương thiên suy: Âm dương thiên suy gây chứng hư nên nguyên tắc chung nhất là “hư thì phải bổ”, tức là bổ sung chỗ bất túc. Chi tiết hơn âm thiên suy dẫn đến chứng hư nhiệt của “âm hư tất nhiệt”, điều trị cần tư âm để chế dương, dùng phép “tráng thủy là chính để chế dương quang”. “Nội kinh” gọi phép này là “dương bệnh trị âm”. Dương thiên suy dẫn đến chứng hư hàn của “dương hư tất hàn”, điều trị cần phù dương trợ âm, dùng phép “ích nguyên hỏa để tiêu âm ế”. “Nội kinh” gọi đây là phép “âm bệnh trị dương”. Để điều trị âm dương thiên thăng thiên suy, Trương Cảnh Nhạc căn cứ vào nguyên lý âm dương hỗ căn đề ra phép điều trị “trong âm cầu dương, trong dương cầu âm”. Ông nói: “Muốn bổ dương cần từ trong âm cầu dương, dương được âm trợ hóa sinh vô cùng. Muốn bổ âm cần từ trong dương cầu âm, âm được dương thăng chảy mãi không cạn”. (Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát trân - Bổ lạc).

(b) Phân tích thuộc tính âm dương của tính năng thuốc. Ứng dụng học thuyết Âm dương vào điều trị không chỉ xác định nguyên tắc điều trị mà còn cần phải khái quát tính năng của thuốc, lấy đó làm căn cứ chỉ đạo lâm sàng. Điều trị bệnh không chỉ cần chẩn đoán và chọn phép điều trị đúng mà còn cần nắm chắc thành thạo tính năng của thuốc. Căn cứ vào nguyên tắc điều trị đã xác định lựa chọn thuốc phù hợp mới có thể thu được kết quả điều trị tốt.

Tính chất của thuốc nói chung dựa vào tính vị và thăng giáng phù trầm của nó mà quyết định, tuy nhiên khí vị thăng giáng phù trầm lại đều dùng âm dương để quy nạp giải thích.

Tính dược chủ yếu là bốn tính: Hàn, nhiệt, ôn, lương. Trong đó hàn lương thuộc âm (hàn âm hơn lương), ôn nhiệt thuộc dương (nhiệt dương hơn ôn). Nói chung thuốc ôn nhiệt trừ bỏ tà âm hàn, giảm nhẹ hoặc loại trừ hàn tượng của cơ thể.

Ngũ vị gồm có: Chua, đắng, ngọt, cay và mặn (toan, khổ, cam, tân, hàm). Một số vị có vị nhạt hoặc chát (đạm, sát) cho nên thực tế không chỉ ngũ vị nhưng theo thói quen vẫn gọi là “ngũ vị”. Các vị cay, ngọt, nhạt thuộc dương, vị chua đắng mặn thuộc âm. Sách Tố vấn - Chí chân yếu đại luận viết: “Tân cam phát tán thuộc dương, toan khổ dũng tả thuộc âm, vị nhạt thảm tả thuộc âm". Rõ ràng vị tân cam có tác dụng phát tán; toan, khổ, mặn gây nôn và đi ngoài. Vị nhạt (đạm) chỉ có tác dụng lợi tiểu nhẹ.

Thăng giáng phù trầm là chỉ khuynh hướng tác dụng của thuốc trong cơ thể. Thăng là thượng thăng, phù là hướng phù việt ra ngoài biểu. Thuốc thăng phù đa số có đặc điểm thượng thăng phát tán, phù hợp với thuộc tính dương. Giáng là hạ giáng, trầm là hướng chìm vào trong lí. Thuốc trầm giáng có đặc điểm nội thu, tiết hạ và trọng chấn phù hợp với thuộc tính âm.

Tóm lại, điều trị bệnh là căn cứ vào tình trạng âm dương thiên thắng thiên suy của chứng trạng mà xác định nguyên tắc điều trị. Lại căn cứ vào thuộc tính âm dương của thuốc mà chọn thuốc cho phù hợp để điều chỉnh trạng thái âm dương thất điều của cơ thể, từ đó đạt được mục đích điều trị khỏi bệnh.

Đ.Q.K

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vương Cộng Đồ: Hoàng đế Nội kinh nghiên cứu đại thành. Nxb. Bắc Kinh, 1997.

2. Vương Tân Hoa: Nguyên nhân cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền. Nxb. Khoa học kỹ thuật Thượng Hải, 1988.

3. Bành Văn Khìu, Đặng Quốc Khánh: Những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền, Nxb. Hà Nội, H. 2003.

TB

LẠI BÀN VỀ BÀI PHONG KIỀU DẠ BẠC - MỘT BÀI THƠ GÂY XÔN XAO
DƯ LUẬN NGÀN ĐỜI

KIỀU THU HOẠCH

Trong lịch sử văn học thật hiếm có trường hợp như bài thơ Phong Kiều dạ bạc (1) của Trương Kế, chẳng những chỉ gây xôn xao dư luận ở nước Nam ta, mà cũng từng gây xôn xao dư luận cả ngàn đời nay tại chính nơi nó sinh ra.

Năm 1997, trên Tạp chí Hán Nôm số 3, có bài của Trần Đắc Thọ Tư liệu mới về một bài thơ Đường nổi tiếng, nêu lên một loạt thắc mắc của các học giả Trung Quốc, phương Tây, Nhật Bản v.v... về nội dung bài Phong Kiều dạ bạc (PKDB) của Trương Kế, nhà thơ kiệt xuất cuối thời thịnh Đường (713-756). Ông Đắc Thọ không nêu xuất xứ tài liệu mà chỉ tóm lược một số thắc mắc của các học giả đó như sau (chúng tôi rút gọn thêm):

- Quạ không kêu về đêm

- Ô Đề là tên thôn

- Giang Phong, Ngư Hỏa đều là địa danh

- Sầu Miên là tên núi...

Ông Đắc Thọ còn cho biết thêm một thông tin nữa, do ông Trần Chung Ngọc đã đi thăm chùa Hàn Sơn vào cuối năm 1966 cung cấp, đó là Giang Phong là tên hai cây cầu: Giang Kiều và Phong Kiều. Hai cây cầu khá gần nhau...

Sau đó, ông Đắc Thọ có làm một thao tác khoa học là điểm lại một lượt các địa danh đã nêu và lọc đi phần thiếu logích. Ông không công nhận Ngư Hỏa là địa danh và Sầu Miên là núi. Ông chấp nhận Ô Đề là tên thôn. Còn về thuyết Giang Phong là tên hai cây cầu thì không thấy ông nói gì, nhưng khi dịch lại bài PKDB thì ông lại dịch là Cầu cổ, như thế là ông đã mặc nhiên thừa nhận Giang Phong là tên hai cây cầu.

Năm 2003, trong cuốn Bình giảng thơ Đường (Nxb. Giáo dục), tác giả Nguyễn Thị Bích Hải đã dịch câu Giang phong ngư hỏa đối sầu miên là: Cây phong bên bờ sông, ngọn lửa đèn chài, (khách) ngủ với nỗi buồn. Đây là một lối trực dịch theo ngữ nghĩa, song thiếu hồn thơ, mà cũng thiếu logic vì đã ngủ làm sao còn nghe được tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Năm 2004, trên Tạp chí Hán Nôm số 5, tác giả Nguyễn Cảnh Phức trong bài Một cách tiếp cận bài thơ Phong Kiều dạ bạc lại dịch câu thứ hai là: Rặng cây phong bên bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một cách buồn rầu. Theo tác giả cho biết, thì sở dĩ dịch như thế là do tác giả đã phân tích và lý giải theo cấu trúc ngữ pháp của câu thơ. Chúng tôi cho rằng, không phải lúc nào, trường hợp nào dùng ngữ pháp hiện đại để mổ xẻ văn thơ cổ cũng đúng. Ở đây ai cũng có thể thấy ngay là cách dịch của Nguyễn Cảnh Phức “tây” quá, máy móc quá, và vô hình trung, đã xóa nhòa vai trò của chủ thể sáng tạo, tác giả, đồng thời là người khách lãng du đang “đối sầu miên”.

Về mấy địa danh Ô Đề, Giang Phong, Ngư Hỏa, Sầu Miên... như ông Trần Đắc Thọ đã nêu, theo chúng tôi cần phải ghi rõ xuất xứ; bởi lẽ trên một tạp chí khoa học như Tạp chí Hán Nôm, chúng ta không thể phát ngôn tùy tiện mà phải “nói có sách mách có chứng”. Nguồn phương Tây như ông Thọ nói thì chúng tôi chưa được biết, còn nguồn Nhật Bản và Trung Quốc thì chúng tôi có được đọc. Theo sách Giai thoại thơ Đường và tác giả của Hoài Anh (Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2002) cung cấp, thì Tạp chí Bella của Đài Loan, số 127, tháng 12 năm 1994, có đưa tin về một học giả Nhật Bản là Hà Tương Toàn Thứ Lang đi thăm chùa Hàn Sơn, và chính nhà sư Tịnh Không cai quản chùa Hàn Sơn đã cho ông khách Nhật biết Ô Đề là tên thôn, Sầu Miên là tên núi. Tuy nhiên, ông khách Nhật đã tỏ ý không đồng tình với cách giải thích của vị sư già coi chùa, và đã nói những lời thật hóm hỉnh: “Đối với cách giải thích này, tôi tuy có chút không thể hùa theo một cách cẩu thả, nhưng rốt cuộc thì, đây là lời người cai quản chùa Hàn Sơn, nên tôi cũng đành chấp nhận cách nói đó. Bởi vì chúng tôi là người Nhật, hoàn toàn không biết ở Tô Châu có Ô Đề thôn, Sầu Miên sơn, lầm về ý tứ cũng là việc bất đắc dĩ, tôi cũng đành lấy lý do không ngờ tới nên lầm mà tán đồng ý kiến của vị sư già. Thế nhưng tôi thì tôi nghĩ, dù sao chăng nữa, Tịnh Không sư phụ cai quản chùa Hàn Sơn cũng là người đời nay, biết đâu điều mà sư phụ nói cũng chỉ dựa theo truyền thuyết gần đây thôi, chứ không phải từ thời Đường mà Trương Kế sống”. Và sau đó, ông khách Nhật Bản đã chủ trương tìm đọc các sách cổ của người Trung Quốc viết để xem vấn đề này được giải thích như thế nào. (Theo một tài liệu do ông Nguyễn Quảng Tuân gửi cho chúng tôi, thì việc học giả Nhật Bản đi du khảo Hàn Sơn tự cũng được đưa tin trên World Express 94. Tin này đã được ông Trần Phò dịch ra tiếng Việt, và sau đó, ông Nguyễn Tất Phan dẫn lại trong bài “Nói thêm về bài thơ Phong Kiều dạ bạc”, đăng trên Tuần báo Văn nghệ số 29, ra ngày 17-7-2004).

Thực ra, việc địa danh hóa một số từ ngữ trong nội dung bài thơ PKDB không phải đợi đến thời điểm 1994 - khi du khách Nhật Bản thăm chùa Hàn Sơn và được sư ông coi chùa giải thích mới có. Đây đó trong một số thư tịch Trung Hoa viết về bài thơ PKDB của Trương Kế, sự việc này cũng đã được đề cập đến từ lâu. Chẳng hạn, Mao Tiên Thư đời Thanh từng cho rằng “Giang Phong” là tên chợ/ thị trấn, “Sầu Miên” là tên núi (江 楓 市名, 愁 眠 山名 ). Và ý kiến này cũng đã bị tác giả Trương Duy Minh bác bỏ trong sách Hàn Sơn tự (Nxb. Cổ Ngô Hiên, Tô Châu, 1993). Điều này không có gì là lạ; do chỗ bài thơ quá nổi tiếng, nên trong quá trình lưu truyền nó đã được dân gian truyền thuyết hóa và địa danh hóa luôn một số từ ngữ theo cách lý giải của họ. Folklore học gọi đây là cách giải thích theo từ nguyên học dân gian (étymologie vulgaire / populaire) và là hiện tượng có tính quy luật và có tính phổ quát trong văn hóa dân gian nói chung, trong địa danh học nói riêng.

Điều thú vị là ngoài hiện tượng địa danh hóa một số lời thơ, còn có hiện tượng thắc mắc về ngữ nghĩa. Chẳng hạn, theo sách Đường thi giai thoại (Nxb. Giáo dục Vân Nam, 2000), thì ngay từ thời Bắc Tống, nhà thơ kiệt xuất Âu Dương Tu (1007-1072) khi đọc câu “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” đã bình luận rằng: “Câu thơ hay lắm, song lúc nửa đêm không phải là lúc đánh chuông” (句 則 佳 矣 , 其 如 三 更 不 是 打 鐘 時) - Ý nói nội dung thơ không chân thực. Nhưng nhiều nhà văn nhà thơ lúc đương thời đã tỏ ý không đồng tình với Âu Dương Tu. Họ đã dẫn một số câu thơ có cụm từ “bán dạ chung / 半 夜 鐘 ” (chuông lúc nửa đêm) để chứng minh thơ Trương Kế là chân thực, trong đó có cả câu của nhà thơ lớn Bạch Cư Dị. Có tác giả còn nhận xét rằng, sở dĩ Âu Dương Tu nói thế là bởi ông chưa từng đến Ngô Trung (Tô Châu), chứ các chùa ở Ngô Trung hiện nay thực tế đều có đánh chuông lúc nửa đêm. Chúng tôi cũng đã tra cứu một số sử sách và từ điển chữ Hán cổ của Trung Quốc, thì đều có ghi cụm từ “bán dạ chung”, và giải thích đây là tiếng chuông chùa lúc nửa đêm để báo thời gian, còn được gọi là “phân dạ chung / 分 夜 鐘” (tiếng chuông chia đêm). Sách Nam sử còn ghi truyện Khâu Trọng Phu lúc trẻ ham học, khi đọc sách từng lấy tiếng chuông chùa kêu lúc nửa đêm làm giới hạn thôi học.

Theo thiển nghĩ, để hiểu một số hiện tượng trong văn hóa Trung Hoa, tốt nhất là nên tham khảo ý kiến của chính người bản ngữ. Đối với thơ Đường cũng vậy. Trương Kế là nhà thơ nổi tiếng thời Đường, do đó mà tất cả các tuyển tập thơ Đường, từ loại “Nhất bách thủ” (Một trăm bài) cho đến loại “Tam bách thủ” (Ba trăm bài) đều tuyển chọn bài PKDB của ông. Do đó, con đường ngắn nhất, khoa học nhất để hiểu các từ ngữ trong bài thơ là tìm đọc những chú giải của các nhà biên khảo người Trung Quốc. Theo hướng này, chúng tôi đã tìm đọc một số tuyển tập thơ Đường do các học giả Trung Quốc biên soạn như Đường thi nhất bách thủ (Trung Hoa thư cục, 1959), Đường thi tam bách thủ (Tân Cương Thanh thiếu niên xuất bản xã, 1997), Đường thi tam bách thủ (Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1999), và Đường thi tam bách thủ từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1999)... thì thấy các soạn giả đều chú giải thống nhất rằng: “Phong Kiều là tên cầu, ở ngoại thành phía tây thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô hiện nay. Điều thú vị là khi tra cuốn Từ nguyên (bản 1993), ngoài việc giải thích Phong Kiều là tên cầu, sách còn cho biết thêm, cái tên cầu này vốn xưa được viết với chữ “Phong / 封 ” là phong tặng, phong cương..., sau do tên bài thơ của Trương Kế mà chữ “Phong” lại được viết theo với nghĩa là cây phong (楓). Chúng tôi đã hơn một lần tới Tô Châu thì thấy trên thực địa cũng như trên sử sách và cả bản đồ hiện tại, chỉ có Phong Kiều, chứ không hề có cái gọi là Giang Kiều. (Kể cả lấy kính lúp cực đại căng mắt ra mà nhìn trên bản đồ / tư liệu mới của ông Trần Đắc Thọ, in trên Tạp chí Hán Nôm số 3-1997, cũng chẳng làm gì có hai chữ “Giang Kiều”. Còn về hai chữ “Giang phong” thì các bản chú giải đều giảng nghĩa là cây phong bên bờ sông. Cây phong còn gọi cây phong hương, tên khoa học là Liquidambar Formosana, thuộc loại cây cao to rụng lá, chiều cao có thể tới 40m, lá mọc đối, hình tựa bàn tay có 3 chẽ, viền mép lá có răng cưa nhỏ (cây non lá thường chẽ 5), trông tựa lá vông của ta, nên dân gian có người gọi cây vông Tàu. Trung Quốc, cây phong được phân bố từ lưu vực Hoài Hà tới miền tây Tứ Xuyên và trải dài xuống các vùng phương Nam. Đặc điểm của cây phong là có nhựa thơm, có thể dùng làm hương do đó có tên phong hương. Đặc biệt, khi trời sang thu, lá phong úa đỏ rất gợi cảm, nên văn học cổ điển Trung Hoa thường dùng cụm từ “Phong lâm / 楓 林” (Rừng phong) như là biểu tượng của mùa thu, các nhà thơ lớn đời Đường như Đỗ Phủ, Đỗ Mục... đều có thơ nói đến vẻ đẹp của lá phong mùa thu. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có câu: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. Các nhà bình điểm Trung Hoa đều cho rằng, chủ đề của bài thơ PKDB là tả cảnh đêm thu, vì thế mà nhà thơ nói đến “Giang phong” là hoàn toàn đúng với thủ pháp ước lệ, tượng trưng trong thi pháp thơ cổ điển Trung Hoa.

Nhân đây, chúng ta cũng nên biết rằng, đối với các văn bản thơ Đường cũng như các văn bản cổ Hán ngữ nói chung, người Trung Hoa hiện nay không phải ai đọc cũng hiểu. Do đó, các nhà biên soạn sách cổ thường cũng phải chú giải những từ ngữ khó hiểu; thậm chí có những văn bản còn phải dịch ra Trung văn hiện đại cho độc giả hiện nay có thể hiểu được. Như đối với hai chữ “ngư hỏa”, do chữ "ngư" (魚 ) là cá, đồng âm với chữ “ngư” (漁 ) là đánh bắt cá, nên ở sách Đường thi nhất bách thủ vốn nằm trong série sách phổ cập văn học cổ điển, hai chữ “ngư hỏa” (漁火) đã được chú thích rõ là: lửa đèn trên thuyền đánh cá (漁 船 上 的 燈 火 / ngư thuyền thượng đích đăng hỏa). Cuốn Từ nguyên, 1993, cũng giải nghĩa như vậy. Đây là nghĩa chuẩn, do chính các học giả Trung Hoa, là người bản ngữ chú giải. Như vậy, rõ ràng không thể hiểu là “Ngư Hỏa sơn” như ai đó đã đưa tin thất thiệt. (Xem: Tạp chí Hán Nôm số 3-1997; Giai thoại thơ Đường và tác giả của Hoài Anh). Ngay hai chữ “Ô Đề” (烏 啼) cũng được Đường thi tam bách thủ từ điển chú thích rõ là: “Ô nha đề khiếu”/ 烏 鴉 啼 叫 (quạ kêu réo); bởi Trung văn hiện đại gọi quạ là “Ô nha, lão nha” (烏 鴉 , 老 鴉) mà không gọi là “Ô” (烏 ) như chữ Hán cổ. Như vậy, qua các bản chú giải của các học giả Trung Quốc thì “Ô đề” vẫn hiểu là quạ kêu, chứ không hiểu là “thôn Ô Đề” như ông Trần Đắc Thọ đã thừa nhận và đã dịch thành địa danh: Trăng lặn Ô Đề sương bát ngát. Ở đây, chúng tôi cũng muốn trao đổi thêm với ông Trần Đắc Thọ về cái ý thắc mắc “Con quạ có phải là giống chim đi ăn đêm đâu mà kêu về ban đêm" ? Theo chúng tôi, nói như ông Thọ chỉ là lẽ thường tình. Song sự đời bao giờ cũng “Có khi biến có khi thường”, ta không nên cứng nhắc chỉ nhìn sự vật theo lẽ thường. Quạ vốn không thường kêu vào ban đêm, nhưng rất có thể vì một lẽ gì đó chúng cũng kêu về đêm như một biến động khác thường chứ. Nhiều nhà thơ cổ điển Trung Hoa đã có nói đến hiện tượng quạ kêu đêm, chính Lý Bạch (701-762) cũng có hẳn một bài với tiêu đề “Ô dạ đề” (Quạ kêu đêm). Còn ở Việt Nam, chúng tôi biết chắc chắn là chưa đầy đủ, thì cũng có một số nhà thơ nói đến quạ kêu đêm. Ở thời Trần Minh Tông (1300-1357), nhà thơ Nguyễn Ức tuy không trực tiếp nói đến quạ kêu đêm, song đã nói đến quạ bay rối loạn trong đêm và “ý tại ngôn ngoại” cũng cho thấy tiếng quạ kêu trong đêm: “Dạ nguyệt lũ kinh ô nhiễu thụ”/ 夜 月 屢 驚 烏 繞 樹 (Trăng đêm nhiều lần làm kinh động lũ quạ bay vòng quanh cây) trong bài Khách xá họa hữu nhân vận (Nơi quán khách họa vần thơ bạn). Lê Quang Định (1759-1813) trong bài Nghi Câu khách trung thất tịch (Đêm thất tịch ở quán khách Nghi Câu) cũng có câu: “Ngưu Nữ ảnh tà ô dạ tháo”/ 牛 女 影 斜 烏 夜 噪 (Sao Ngưu sao Nữ xế bóng, quạ réo trong đêm). Nguyễn Xuân Ôn (1825-1889) trong bài Hộ giá hạnh Thúy Sơn cảm tác (Hộ giá vua thăm núi Thúy cảm xúc làm thơ) thì viết: “Sơn thụ nguyệt minh khan nhiễu tước / Giang phong sương mãn thính đề ô”/ 山 樹 月 明 春 繞 雀 , 江 楓 霜 滿 聽 啼 烏 (Trăng sáng cây đầu non, thấy đàn chim sẻ bay quanh / Cây phong bên sông sương nhuốm đầy, nghe bầy quạ kêu). Còn nhà thơ Quách Tấn, thế hệ thi nhân 30-45, cũng có bài với tiêu đề Đêm thu nghe quạ kêu, và ông đã kể rõ trong hoàn cảnh nào ông đã cảm xúc làm bài thơ này. Ông kể: “Đó là một buổi tối cuối thu năm Đinh Mão (1927), trăng mờ mờ, từ bến đò An Thái ven bờ sông Côn trở về nhà, qua một khúc đường vắng, tôi đã nghe thấy một bầy quạ thình lình kêu vừa rùng rợn vừa lạnh lùng...” (Tư liệu do ông Nguyễn Quảng Tuân cung cấp). Do tiếng quạ kêu đêm như thế đã khiến Quách Tấn liên tưởng tới hồn thơ Trương Kế, và ông đã viết:

... Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lãnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng...
(Tập thơ Mùa cổ điển, 1941).

Đối với hai chữ “sầu miên” ở câu thứ hai của bài PKDB, cả hai cách hiểu và dịch của Nguyễn Thị Bích Hải và Nguyễn Cảnh Phức đều có chỗ bất cập như chúng tôi đã nêu ở trên. Phải nhận rằng, đây cũng là từ ngữ khó hiểu, nên các học giả Trung Quốc đều quan tâm chú giải. Bản Đường thi tam bách thủ, Tân Cương, 1997, chú rằng, “Sầu miên: chỉ hoài trước lữ sầu thảng tại thuyền thượng đích du nhân”/ 愁 眠 : 指 怀 著 旅 愁 躺 在 船 上 的 游 人 (Sầu miên: chỉ người du khách mang nỗi sầu lữ thứ nằm thao thức trên thuyền). Bản Đường thi tam bách thủ, Thượng Hải cổ tịch, 1999, thì chú “Sầu miên: dạ sầu bất miên chi nhân” / 愁 眠 : 夜 愁 不 眠 之 人 (Sầu miên: chỉ người đêm buồn sầu không ngủ được). Như vậy, các nhà chú giải đều hiểu “Sầu miên” là chỉ người lữ khách đêm buồn sầu thao thức không ngủ được. “Sầu miên” là chỉ người chứ không phải chỉ sự vật như cách hiểu của Bích Hải và Cảnh Phức. Tuy nhiên, nếu cứ máy móc dịch theo mặt chữ, thì “sầu miên” là ngủ trong nỗi sầu tư. Song các học giả Trung Hoa đều chú giải theo ý “dạ sầu bất miên chi nhân”, có nghĩa là người lữ khách đêm buồn thao thức không ngủ được. Thiết nghĩ chú giải như vậy là hợp lý, bởi nếu đã ngủ say thì làm sao còn có thể nghe được tiếng chuông từ chùa Hàn Sơn vọng đến thuyền, vào lúc nửa đêm... Mĩ học cổ điển phương Đông là thế, hư mà thực, thực mà hư. Có ý kiến bình điểm cho rằng, ba chữ đối sầu miên là cụm từ then chốt trong toàn bài thơ để chốt lại một chữ sầu, khiến cho nỗi sầu cứ vấn viết, man mác mãi trong không / thời gian bao la, mờ mịt của trời / nước đêm thu... Quả thực, đó là một lời bình rất tinh tế.

Các du khách, kể cả người Trung Hoa, khi đến thăm Hàn Sơn tự đều nhận thấy ngôi chùa này không có gì đặc sắc về mặt kiến trúc, song chính là nhờ bài PKDB của Trương Kế mà khu vực Hàn Sơn tự trở thành thắng tích nổi tiếng trong / ngoài nước. Trong lịch sử, nhiều thi nhân cũng đã làm thơ vịnh cảnh Phong Kiều cùng với tiếng chuông Hàn Sơn tự. Nhưng chưa một ai vượt qua được bài thơ của Trương Kế; do đó, bài thơ của ông đã được coi là danh tác lưu truyền thiên cổ.

Người viết bài này đã hơn một lần đến thăm Hàn Sơn tự. Mùa thu năm 1999, trong chuyến du khảo Tô - Hàng, lại có dịp cùng ông Mai Quốc Liên đến chiêm bái Hàn Sơn tự. Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng Trương Kế, mà tao nhân mặc khách, là các cô cậu sinh viên học sinh cùng các khách lữ du từ khắp mọi miền, theo tục lệ, ai đến đây cũng tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng, với ước nguyện muốn được truyền thêm chút năng lực sáng tạo. Người viết bài này đương nhiên cũng không ngoại lệ(2). Trao đổi với một vài du khách Trung Hoa, chúng tôi thấy họ đều tỏ vẻ thành kính, tự hào coi đó như một tục đẹp để luôn luôn tưởng nhớ và tôn vinh nhà thơ một cách bình dị, thiết thực. Mọi người ai cũng bảo, đến thăm Tô Châu mà không đến Hàn Sơn tự là coi như chưa đến Tô Châu, đến Hàn Sơn tự mà không vuốt tay chiêm ngưỡng tượng Trương Kế là coi như chưa hiểu cái hồn của thơ PKDB. Nhân đây, còn một chuyện cực kỳ thú vị không thể không nói, đó là thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt, mà còn ảnh hưởng cả đến đời sống văn hóa - ngôn ngữ của người Việt. Số là cái bát to mà hiện nay miền Bắc gọi là bát ô tô, miền Nam gọi là tô, thì Đại Nam quấc ân tự vị (Saigon, 1895) của Paulus Của giải thích là: “Bát thành Cô Tô làm ra, bát lớn mà khéo”. (Cô Tô tức tên khác của Tô Châu, do phía Tây nam Tô Châu có núi Cô Tô nên dân gian cũng gọi Tô Châu là Cô Tô. Tuy nhiên, ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa. Theo ý kiến của giới ngôn ngữ học, thì đó là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô, theo ý thơ Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự. Người miền Bắc nhân đó gọi là bát Cô Tô, sau gọi chệch là bát ô tô. Còn người miền Nam thì cũng từ cái tên bát Cô Tô mà gọi tắt thành bát tô, rồi tô. Xem thế, đủ thấy sức lan tỏa về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay!

K.T.H

Nguyên văn bài thơ PKDB được khắc vào bia, do Văn Trưng Minh viết.

Người viết bài này đang vuốt tay pho tượng Trương Kế.

TB

NHÂN ĐỌC BÀI “GÓP BÀN VỀ MẤY CHỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI THƠ NAM QUỐC
SƠN HÀ
” CỦA LẠI VĂN HÙNG

LÊ VĂN QUÁN

1. Lại Văn Hùng (LVH) tác giả bài viết này cho tôi là: “đã cố ý trích văn của PGS. Bùi Duy Tân theo kiểu: ‘gọt chân cho vừa giầy’. Điều đó không khỏi làm cho người đọc hiểu lầm sai mạch văn và lập luận của PGS. Bùi Duy Tân. Kiểu trích dẫn làm méo mó văn của người khác như vậy để phê phán, theo chúng tôi nghĩ có lẽ nên chấm dứt.” (3, tr.73).

Thế thì, chính LVH dẫn đoạn văn của PGS. Bùi Duy Tân mà tôi sử dụng ở bài ‘Bàn về hai chữ ‘Thiên thư’ trong bài thơ Nam quốc sơn hà” in ở Tạp chí Hán Nôm, số 2(69)-2005 cũng là theo kiểu “gọt chân cho vừa giầy”, “làm méo mó văn của người khác”, làm cho bạn đọc hiểu lầm về tôi.

Bài của tôi viết ở Tạp chí Hán Nôm, số 2(69)-2005, chẳng có xuyên tạc ý văn của PGS. Bùi Duy Tân, và cũng chẳng làm cho người đọc hiểu sai mạch văn, lập luận của PGS. Bùi Duy Tân. Tôi viết bài này là để chứng minh cho bạn đọc thấy các nhà Nho Việt Nam không phải thực dụng như PGS. Bùi Duy Tân đã viết: “Nhân sĩ thời Ngô, Đinh, Lê, Lí lấy trời hộ mệnh cho ý thức tự chủ của người thiêng hóa độc lập, chủ quyền, sát hợp với tâm thức người đời, lời thơ như mang sứ mạng của trời đất, ngân vang của thần thánh, xứng đáng là bước thăng hoa của tư tưởng Việt Nho.” (TCHN 2/05, tr.69). Vì thế, tôi lược bớt những câu PGS. Bùi Duy Tân nói đến “mớ” lí luận của Khổng Nho. Những chỗ tôi lược bớt đều có ba chấm (...), và có ghi lại số trang ở phần chú thích phía sau, để các bạn cần đọc, tra xét lại.

Nhưng khi viết về bài viết của tôi, LVH đã cắt xén bỏ hẳn câu của PGS. Bùi Duy Tân mà tôi đã trình bầy ở trên, không hề có chấm chấm (...) gì cả, để bạn đọc hiểu lầm về tôi và bào chữa cho lập luận của PGS. Bùi Duy Tân.

Nếu là người có thực tâm, thì LVH nên viết đầy đủ đoạn văn đó như sau: “Bài thơ cả quyết quyền ngự trị sông núi nước Nam là của vua Nam. Dám khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Nam nhỏ bé bên cạnh nước Bắc to lớn như thế chỉ có thể là Trời. Trời ở đây ẩn trên thiên thư, nhưng cũng có hàng chục văn bản có từ Hoàng thiên ở đầu câu thứ hai (Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư). Trời theo Khổng Nho là vô hình, linh diệu, chủ tể của vũ trụ, lấy thiên mệnh, thiên lí, thiên ý, thiên uy điều phối biến hóa việc thế gian, quyết định phận số cho muôn loài. Trời và người là “tương dữ”, “hợp nhất”, “thông đạt”. Trời nhìn nghe qua dân nhìn dân nghe, Trời thương dân, dân muốn là trời muốn... Vua thay trời trị dân thống nhất thiên ý dân tâm - Vua trị dân theo ý trời thì yên ổn, được mùa, trái ý trời thì ra tai, trời nổi can qua v.v... Cả mớ lí luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”, chỉ cốt làm rõ: Nước Nam là của vua / người Nam, đó là ý Trời, kẻ nào xâm lược nước Nam là trái nghịch ý Trời, là chống lại xu thế phát triển của lịch sử, tất sẽ bại vong. Nhân sĩ thời Ngô, Đinh, Lê, Lí, lấy trời hộ mệnh cho ý thức tự chủ của Người; thiêng hóa độc lập, chủ quyền, sát hợp với tâm thức người đời, lời thơ như mang sứ mạng của đất trời, ngân vang của thần thánh, xứng đáng là bước thăng hoa của tư tưởng Việt Nho” (4, tr.19).

Qua đoạn văn trên, chúng ta thấy những chỗ PGS. Bùi Duy Tân lập luận: Từ chủ quyền lãnh thổ cho đến nước Nam là của vua/ người Nam đều là ý trời. Thậm chí ý thức tự chủ của người Nam cũng là do trời hộ mệnh. Nghĩa là trời, đất, người nước Nam đều là do trời chi phối hết.

Ngoài ra, nếu đọc thêm những câu PGS. Bùi Duy Tân khái quát lí luận của Khổng Nho về trời lại càng thấy trời là siêu nhân, “điều phối biến hóa việc thế gian, quyết định phận số muôn loài.” Như thế, chúng ta càng thấy ý nghĩa của cả đoạn văn trên là trời quyết định tất thảy mọi sự việc ở đời. Điều đó thể hiện tôi không “làm cho người đọc hiểu sai mạch văn và lập luận của PGS. Bùi Duy Tân như LVH đã viết (3, tr.73).

2. Từ 分 野 này phiên âm Hán Việt là “phân dã” hay “phận dã”?

Trước hết, nói về âm đọc của chữ 分 Chữ này theo ý kiến của LVH “có hai cách đọc là “phân” và “phận”. Đó là LVH dựa vào Hán ngữ đại từ điển do các tác giả Trung Quốc biên soạn.

Tôi căn cứ theo Từ điển Hán Việt của các tác giả Việt Nam biên soạn, chữ 分 này có ba cách đọc:

- Đọc “phân” có nghĩa là: chia ra, chia riêng ra.

- Đọc “phận” có nghĩa là: chức vị của người.

- Đọc “phần” có nghĩa là: một góc ở trong toàn thể. (5, tr.106-109).

Qua đó, ta thấy các nhà Nho Việt Nam tiếp thu Hán học một cách có sáng tạo cho phù hợp với lối nói của người Việt Nam. Chứ không phải như LVH nghĩ, ở Hán ngữ có hai âm đọc khi chuyển sang Hán Việt cũng có hai âm đọc.

Thế thì, từ 分 野 này nên đọc như thế nào?

Trong tay tôi không có Hán ngữ đại từ điển, nhưng một bạn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã photocopy phần từ 分 trình bày trong Hán ngữ đại từ điển cho tôi. Trước khi phiên âm từ 分 野 này theo cách đọc Hán Việt, tôi đã tra cứu các từ điển sau:

· Thiều Chửu: Hán Việt tự điển, Nxb. Văn hóa - thông tin, 1999, tr.632 viết: “野 dã: cõi, người ngày xưa chia vạch bờ cõi, theo đúng như các vì sao, nên gọi là phân dã 分 野 .”

· Trần Văn Chánh: Từ điển Hán Việt, Hán ngữ cổ đại và hiện đại, Nxb. Trẻ, 2004, tr.259 viết: “分 野 phân dã [fēn yě] - giới hạn.”

· Từ hải, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, năm 1989, trang 310 ghi hai cách đọc của chữ 分 theo âm phổ thông Trung Quốc (âm Bắc Kinh):

分 (1) fēn (thanh 1, âm Hán Việt đọc là phân - LVQ).
(2) fèn (thanh 4, âm Hán Việt đọc là phậnphần - LVQ).

Đến phần dẫn các từ thì từ nào đọc thanh 4, Từ hải ghi thêm âm đọc “fèn” ở bên phải từ ấy, như 分 外 (fèn - ) (tr.310), 分 际 (fèn - ) (tr.311). Nếu một từ có hai cách đọc, Từ hải giải thích nghĩa của từ có cách đọc ở thanh 1 trước, tiếp đó ghi thanh 4 (fèn - ) rồi mới giải thích nghĩa của từ đó, như từ 分 子 phân tử, 分 子 (fèn - ) phần tử. (tr.310). Còn chữ 分 trong từ 分 野 (tr.311) không có âm đọc ở thanh 4. Như vậy, chữ 分 ở đây đọc thanh 1, âm đọc Hán Việt là “phân”, và từ 分 野 này có âm đọc Hán Việt là “phân dã”. Sau đó Từ hải giải thích nghĩa của từ “分 野 phân dã” khá rõ. Chúng tôi tạm lược thuật nghĩa của từ đó như sau: Một khái niệm trong Chiêm tinh của Trung Quốc cổ đại cho rằng trên mặt đất các châu, quận, bang, quốc đối ứng với khu vực nhất định trên trời. Có lẽ khởi nguồn ở thời Xuân thu Chiến quốc, rất sớm đã thấy ở các sách Tả truyện, Quốc ngữ v.v... Cái điều phân chia ranh giới (phân chia bờ cõi), phản ánh đại thể lấy “thập nhị thứ làm chuẩn”(1), đã in câu chuyện sớm nhất Vũ Vương đánh Trụ, tượng trời của trời đó là Tuế tinh tại thuần hỏa, do đó (分 野 ) phạm vi (bờ cõi) của nhà Chu là thuần hỏa.

Về sau, Chiến quốc cũng lấy nhị thập bát tú để (劃 分 分 野) phân vạch phạm vi (ranh giới, bờ cõi), như ở Hoài Nam tử, thiên Văn huấn v.v...

Sau này lại do “Thập nhị thứ” cùng “Nhị thập bát tú” liên hệ với nhau, sau thời Tây Hán hai loại (分 野 ) phân chia ranh giới, phạm vi, bờ cõi nhịp nhàng ăn khớp thông nhau. Điều gọi là quan hệ đối ứng giữa trời đất hoàn toàn do người qui định, các nhà lịch sử thêm bớt khác nhau là điều tất nhiên. Nay lấy “Thập nhị thứ độ số” và “Châu, quận, quốc thứ” ở trong Tấn thư, thiên Văn chí lập thành bảng như sau:

Thập nhị
thứ
壽 星
Thọ tinh
大 火
Đại
hỏa
析 木
Tích mộc
星 紀
Tinh
kỉ
玄 枵
Huyền hiêu
娶 訾
Thú Tí (Tì)
降 婁
Hàng (Giáng)
Lâu
大 梁
Đại lương
實忱
Thwcj thầm
鶉 首
Thuần thủ
鶉 火
Thuần hóa
鶉 尾
Thuần vĩ
Nhị thập bát tú 角亢氐
Giác, Kháng, Đê
房心
Phòng, Tâm
尾箕
Vĩ, Ky (Cơ)
斗牛女
Đẩu Ngưu, Nữ
虛危
Hư, Nguy
室壁
Thất, Bích
奎婁胃
Khuê Lâu
Vị
昂 畢
Ngang Tất
觜 參
Tuy Sâm
井 鬼
Tỉnh, Quỷ
柳星張
Liễu, Tinh Trương
翼 軫
Dực, Chẩn


Phân



Trịnh

Tống

Yến
吳越
Ngô, Việt

Tề

Vệ

Lỗ

Triệu

Ngụy

Tần

Chu

Sở
兗 州
Duyễn
Châu
豫 州
Dù Châu
幽 州
U Châu
揚 州
Dương Châu
青 州
Thanh Châu
井 州
Tỉnh Châu
徐 州
Từ Châu
翼 州
Dùc Châu
益 州
Ých Châu
雍 州
Ung Châu
三 河
Tam hà
荊 州
Kinh Châu

· Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, năm 1987, bộ đao, tập tý, trang 339 cho biết:

分 : 1. Thanh bằng, âm phổ thông Trung Quốc đọc “fēn”.
2. Thanh khứ, âm phổ thông Trung Quốc đọc “fèn”(2).

Tiếp đến phần từ, từ nào thuộc thanh khứ, Từ nguyên ghi thêm số 2 vào bên phải chữ 分 , giống như Hán ngữ đại từ điển, ví dụ các từ: 分2子 (tr.339) 分2外 (tr.340), 分2际 (tr.341)......

Còn từ 分 野 này (tr.341) không có ghi số 2 ở bên phải chữ 分. Điều đó chứng tỏ chữ 分 này đọc thanh bằng, và từ 分 野 này đọc âm Hán Việt là “phân dã”, nghĩa của từ 分 野 (phân dã) giống như trong Từ hải, mà chúng tôi đã trình bầy ở trên, cũng là học thuyết Thiên văn cổ đem vị trí của 12 sao đối ứng với vị trí của châu, quốc ở trên mặt đất.

· Khang Hy tự điển, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, tập Tý, bộ Đao, tr.72 chỉ giải thích âm đọc và nghĩa của chữ, không có phần dẫn từ, cho nên không ghi từ 分 野 này.

Tôi lại tra thêm các từ điển Hán Việt hiện đại, như quyển của Nguyễn Kim Thản chủ biên, Nxb. Thế giới, 1994; quyển Từ điển Trung Việt, Nxb. KHXH, H. 2001; quyển Từ điển Hán Việt do Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương chủ biên, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh - 1997. Tất cả các từ điển vừa kể trên đều ghi từ này là: “分 野 fēn yě”, đọc thanh 1 (thanh bằng - LVQ) với nghĩa là “ranh giới, giới hạn”.

Nhưng LVH căn cứ vào Hán ngữ đại từ điển cho rằng tổ hợp từ 分 野 này đọc là “phận dã”. Một số bạn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm khi nghe biết điều đó, liền nhắc tôi tra thêm Trung văn đại từ điển. Trung văn đại từ điển cũng nhiều chữ Hán lắm, không kém gì Hán ngữ đại từ điển. Tôi tra cứu thêm Trung văn đại từ điển, Trung Hoa dân quốc ngũ thập niên tứ nguyệt sơ bản, tập Tý, bộ Đao, tr.242, bên cạnh từ 分 野 không có ghi chú âm đọc thanh khứ.

Bài viết của LVH dựa vào Hán ngữ đại từ điển, phiên âm từ 分2野 là “phận dã” cũng chỉ là suy đoán, không có gì chắc chắn. Và LVH cho là “nếu phiên “phân dã” thì ý nghĩa khác hẳn chữ không liên quan gì đến việc phân chia bờ cõi”. (3, tr.74).

Nhưng Hán ngữ đại từ điển không ghi âm đọc Hán Việt, mà ghi theo âm của người Trung Quốc đọc chữ Hán. Nhất là chữ 分 đọc thanh khứ, ghi theo âm đọc phổ thông Trung Quốc là “分fèn” chuyển sang âm đọc Hán Việt không nhất luật đều đọc thanh khứ là “phận”, nó còn có thể đọc ở thanh bằng “phần”, mới nhìn chúng ta tưởng có âm đọc khác nhau là do nghĩa của từ. Trái lại, các nhà Hán ngữ học Trung Quốc đã chứng minh tiếng Hán ở thời thượng cổ chưa có thanh khứ. Chữ Hán đọc thanh khứ ở thời trung cổ có hai nguồn gốc: Một là từ thanh nhập biến ra; hai là từ thanh bằng và thanh thượng biến ra. (6, tr.102).

Qua đó, ta thấy từ 分2野 đâu chỉ có đọc là “phận dã”, huống hồ Từ hải, Từ nguyên chỉ có ghi một âm đọc ở thanh bằng với nghĩa là “phân chia ranh giới, giới hạn, bờ cõi.” Thậm chí, Từ hải còn lập bảng vị trí các ngôi sao trên trời đối ứng với vị trí các châu, quận, quốc ở dưới đất mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên giống như cái bảng ở Hán ngữ đại từ điển (tr.984) đưa ra thì không thể nói “分 野 phân dã” có nghĩa khác với “phận dã”.

Chính vì những lẽ đã trình bày trên, đến lúc này tôi vẫn theo cách phiên âm Hán Việt và chú giải nghĩa của bậc túc Nho Thiều Chửu và các tác giả Việt Nam biên soạn từ điển Hán Việt - phiên âm đọc từ 分 野 này là “phân dã” với nghĩa là: ranh giới, giới hạn, bờ cõi. Nói như vậy không có nghĩa tôi bảo thủ, mà là có đầy đủ luận chứng khoa học như đã trình bày ở trên.

LVH còn nói là “Câu thứ hai của bài Nam quốc sơn hà đã được đọc là”:

“Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”

Câu này có thể ở một vài tác giả nào đó viết ở đâu đó như thế, nhưng không được lưu truyền thông dụng trong dân chúng. Còn ở trong các sử sách, như Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1971; Thơ văn Lí Trần, tập I, Nxb. KHXH, H. 1977; và gần đây trong quyển Lịch sử Việt Nam, Nxb, Thuận Hóa, năm 2004, của tác giả Huỳnh Công Bá đều vẫn viết là:

“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”

Tôi cũng chưa hề thấy tác giả nào viết là “định phân”, nhưng LVH viết: “Dễ thấy là trong trường hợp ấy, không thể nào đọc là “định phân” được”. (3, tr.74). Một câu nói vu vơ bâng quơ, với dụng ý gì ?

3. LVH nói: “Vậy thì cái quyết định “phận dã” (cách quy định phận giới, địa phận) ấy là do đâu? Rõ ràng là ở “thiên thư” - ở Trời, chỉ có uy Trời, qua “Thiên thư” mới định được “phận”. (3, tr.74). Thế thì, tôi hỏi LVH “uy Trời” ở đây là ai ? là cái gì ? lại có thể “điều phối” biến hóa việc thế gian, quyết định phận số muôn loài.” - Chẳng phải cái “uy Trời” ấy là giai cấp thống trị phong kiến Trung Hoa đấy ư ?

Học thuyết Khổng Nho (Nho giáo) rất phù hợp với yêu cầu của chế độ phong kiến Trung Hoa. Giai cấp thống trị phong kiến Trung Hoa sử dụng học thuyết ấy như là một công cụ để biện hộ cho địa vị thống trị của mình, và duy trì trật tự xã hội phong kiến, nghĩa là giai cấp phong kiến Trung Hoa đã chính trị hoá Nho giáo. Đúng như GS. Nguyễn Khánh Toàn đã phát biểu: “Chế độ ấy hoàn toàn hủy diệt giá trị của con người. Nó kết hợp độc ác, tàn nhẫn thú tính với quỷ quyệt, xảo trá, lật lọng được thần thánh hóa dưới cái áo khoác huyền hoặc “theo mệnh trời” (7, tr.14). Với học thuyết Khổng Nho như thế, các nhân sĩ, các nhà Nho Việt Nam thời đó “tiếp biến” một cách “thực dụng” như thế không”?

Nhất là, bài thơ Nam quốc sơn hà sau khi ra đời lại được người đời gắn với truyền thuyết dân gian, chứa nhiều yếu tố tưởng tượng, huyền ảo, nhằm thần linh hoá nhân vật. Bài thơ xuất hiện ở thời kì lịch sử, Nho giáo chưa lấn át được Phật giáo, như ý kiến tôi đã đề cập ở bài “Bàn về hai chữ “thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” (8, tr.69).

Bài thơ này chắc đâu là của Nho giáo sáng tác. Biết đâu là của các sư tăng sáng tác thì sao? Hiện nay các nhà nghiên cứu còn băn khoăn về tác giả của bài thơ. Cho nên, ở đây vấn đề văn bản học là điều rất quan trọng. Đầu thời Lí, chữ Hán chưa được phổ cập ở Việt Nam. Nhưng trước đó đã có các nhà sư chuyển dịch kinh Phật từ chữ Phạn ra chữ Hán rồi; có nhà sư đã làm thơ bằng chữ Hán (xem Thơ văn Lí - Trần). Nhà Lí còn đặt các phẩm cấp các tăng quan: đứng đầu là chức Quốc sư, rồi đến các chức Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính... Người muốn thành tăng phải được thụ giới và ở các giới trường long trọng và được nhà nước cấp bằng. (9, tr.235). Điều đó chứng tỏ nhà Lí đã đào tạo các tăng quan rất có bài bản và các Tăng thống, Tăng lục đã thông thạo chữ Hán lắm rồi. Vì vậy, chúng ta cũng không thể loại trừ khả năng bài thơ Nam quốc sơn hà là do Tăng thống, Tăng lục... sáng tác.

Điều mà mọi người đều thấy, nhà nước phong kiến duy trì tôn giáo cũng là do: “Tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.” (10, tr.601). Đối với nhà nước phong kiến thời Lí, điều đó cũng không phải là ngoại lệ. Cho nên lúc đó vua quan nhà Lí đã dùng hình thức tôn giáo (thần Phật) đọc bài thơ lên để qui tụ, tập hợp lực lượng, động viên tướng sĩ đoàn kết quyết tâm đánh thắng giặc phương Bắc. Sau này được nhân dân tín ngưỡng (ngưỡng mộ) tôn bài thơ là thơ thần, chứ không phải như LVH nói: “Quả thật, người xưa thường tin rằng sở dĩ con người có thêm niềm tin và có thêm dũng khí là được trời đất giúp sức, thần linh phù trợ.” (3, tr.74).

LVH còn cho tôi “chỉ lấy ra một quan niệm về “Thiên mệnh” của Đổng Trọng Thư để cho rằng nói “Thiên mệnh” là duy tâm và vội vàng quy chụp, trong khi “thiên mệnh” còn được quan niệm theo nhiều cách khác nhau,”... (3, tr.74) Khoa học là khách quan, là sự thực lịch sử, tôi không qui chụp cho ai cả, LVH nói như vậy hoàn toàn không đúng. Tôi không chỉ lấy một quan niệm về “Thiên mệnh” của Đổng Trọng Thư, mà trước đó (8, tr.69) tôi đã nói đến “cái thuyết “Thiên mệnh” này vừa ra đời thì đã bị các nhà triết học Trung Hoa thời bấy giờ như Dương Hùng, Hoàn Đàm, Vương Sung, Vương Phù, Tuân Diệt, Trọng Trường Thống... phê phán là cái mê tín của thần học và cái hoang đường của sấm vĩ. Đặc biệt là ở cuối thời Đông Hán, Trọng Trường Thống phủ nhận “Quân quyền thần thụ” (Quyền của vua do trời trao cho).

Theo LVH “Thiên mệnh” còn được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Điều đó để các bạn đọc trả lời, lịch sử phán xét. Đây là bài trao đổi ý kiến không cho phép viết dài, nếu Tạp chí Hán Nôm thấy cần bàn về quan niệm “Thiên mệnh” và cho phép trao đổi bàn luận trên tạp chí, tôi sẵn sàng gửi bài trao đổi, bàn luận tiếp.

Nhân đây tôi chân thành cảm ơn các bạn ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã cung cấp cho tôi các loại từ điển chữ Hán, để tôi viết bài này.

L.V.Q

CHÚ THÍCH

(1) Từ hải giải thích “thập nhị thứ”: Một chế độ của một vòng trời chia thành 12 bộ phận, dùng để đo lường vị trí và sự vận động của hành tinh, nhật, nguyệt. Trong hai sách Tả truyện, Quốc ngữ lúc đầu thấy nhiều thứ danh (tên thứ), chủ yếu dùng ở vị trí sao Mộc. Tình hình phân chia sớm nhất của 12 thứ mãi vẫn chưa luận bàn chính xác (Sđd., tr.128).

(2) Ở Từ nguyên ghi đầy đủ cách phiên thiết, vận mẫu, thanh mẫu, thanh điệu. Ở đây, tôi chỉ ghi phần thanh điệu để các bạn tiện theo dõi.

(3) Lại Văn Hùng: “Góp bàn về mấy chữ có liên quan đến bài thơ Nam quốc sơn hà”, Tạp chí Hán Nôm, số 3(70)-2005.

(4) Bùi Duy Tân: Việt Nho qua một số tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam, H. 2004, tr.319.

(5) Đào Duy Anh: Từ điển Hán Việt, Nxb. Trường Thi, 1957; Xem thêm Trần Văn Chánh: Từ điển Hán Việt, Hán ngữ cổ đại và hiện đại, Nxb. Trẻ, 2004, tr.256-260.

(6) Vương Lực: Hán ngữ sử cảo, Thượng sách, Khoa học xuất bản xã, tháng 8 năm 1958.

(7) Nguyễn Khánh Toàn: Một số vấn đề của khoa học nhân văn, Nxb. KHXH, H. 1992.

(8) Lê Văn Quán: “Bàn về hai chữ ‘Thiên thư’ trong bài Nam quốc sơn hà”, Tạp chí Hán Nôm, số 2(69)-2005.

(9) Đào Duy Anh, Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, phần Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỉ XIX.

(8) Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội./.

TB

VĂN BIA THẦN ĐẠO ĐỖ KHUYỂN -
KHAI QUỐC CÔNG THẦN THỜI LÊ SƠ

PHAN ĐẠI DOÃN

Văn bản chữ Hán “Khai quốc công thần Thái sư Định Quốc công Đỗ Đại bi sự tích” là do chúng tôi sao chép tại một gia đình ở thôn Mật, xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1977. Sau đó chúng tôi lại nhờ ông Phạm Văn Kinh, Nghiên cứu viên Viện Sử học trở lại đối chiếu kiểm tra bản sao. Tiếp đó tôi lại nhận được văn bản của PGS. Jao Ta Kao người Nhật gửi tặng. Bản thảo này dựa vào các văn bản đó hợp thành.

Đỗ Đại tên thực là Đỗ Khuyển - một tên gọi đáng phải tìm hiểu. Những người đồng thời với ông vẫn ghi tên ông vào sử sách là Khuyển (犬?). Còn tên Đại (大) là do con cháu của ông về sau sửa.

Đây là văn bia thần đạo về Đỗ Khuyển, một tài liệu sử học nói về hoạt động của một công thần khai quốc, một đại thần thời Lê sơ. Tài liệu này có thể bổ sung cho chúng ta một số hiểu biết thêm về các vấn đề sau đây:

+ Khởi nghĩa Lam Sơn từ đất Thanh Hóa và toàn quốc, từ địa phương chuyển thành cả nước.

+ Vấn đề tổ chức và xây dựng chính quyền của Nhà nước Lê sơ buổi đầu và vai trò các công thần trong thời kỳ này.

+ Xuất thân và hoạt động của cá nhân Đỗ Khuyển ở triều đình và ở Thanh Hóa.

Trong danh sách khai quốc công thần đề ngày 27 tháng 2 năm Mậu Thân (1428) do Nhập nội Hành khiển Lê Cảnh Chuyên viết thì Đỗ Khuyển được xếp vào loại thứ năm, Liệt hầu. Ông cùng ngang hàng với các công thần Đỗ Bỉ, Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Bồi.

Đầu thời Lê Sơ, trải qua các đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, ông chủ yếu phụ trách các công việc trong hoàng thành - hoàng cung.

Xem qua nội dung văn bản thì đây là bản sao lại văn bia thần đạo Đỗ Khuyển. Không rõ đây là bản sao lần thứ mấy. Đọc kỹ thì thấy lời văn đã bị sửa chữa nhiều chỗ. Có chữ do người đời sau thêm vào; có lời văn không hiểu (vì trình độ người sao văn bản còn hạn chế). Thậm chí có chỗ nguyên bản bị lược bỏ như đầu đề bài văn. Đó là hạn chế đáng tiếc.

Tuy nhiên gạt bỏ những sai sót trên, sử dụng phần nội dung có kiểm tra lại thì văn bản này vẫn có nhiều tư liệu có giá trị, giúp cho bạn đọc hiểu sâu hơn về một giai đoạn lịch sử của tỉnh Thanh Hóa và toàn quốc.

Khi dịch, chúng tôi dựa vào văn bản hiện có làm cơ sở đồng thời đối chiếu với ghi chép của sử cũ là Đại Việt sử ký toàn thư và Lam Sơn thực lục. Làm như thế, chúng tôi mong muốn cố gắng cung cấp cho các nhà nghiên cứu, các bạn đọc những thông tin tương đối chính xác.

NỘI DUNG VĂN BẢN

Dịch nghĩa:

Khai quốc công thần Thái sư Định Quốc công Đỗ Đại bi sự tích(1).

Văn bia thần đạo về vị Suy thành tán trị Dực vận đồng đức công thần, Gia Hưng trấn Tiết độ sứ, Đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, Thượng trụ quốc, kiêm Chiêm Thành quốc Trà Lân châu phụ đạo(2), ban Kim ngư đại, Kim phù, Á Quận công, tứ quốc tính(3), gia tặng Tả tướng quốc Thái sư Định Quốc công(4).

Tháng giêng, Kỷ Mão, năm Diên Ninh thứ 6 (1459), [quan] Nhập nội kiểm hiệu Thái úy(5), Bình chương quân quốc trọng sự, ban quốc tính là Lê công bị bệnh hiểm nghèo. Ngày hôm đó [vua thương] ban cho tiền một vạn tám nghìn quan, sai thầy thuốc đến chuẩn trị và sứ giả đến thăm hỏi. Vua đến thăm bệnh hồi lâu, trở về, ông mới mất.

Vua thương tiếc cho nghỉ triều ba ngày, trầm lặng suy nghĩ không cùng, đặc biệt truy tặng [cho ông] là Nhập nội kiểm hiệu Thái úy, Tả tướng quốc Bình chương quân quốc trọng sự, cho tên thụy là Trung Định, sai quan Thái thường cúng tế.

[Vua lại sai quan] Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự Lê Lâm ban đồ tế lễ, [lại] sai quan [Nguyễn] Như Đỗ(6) soạn văn bia thần đạo(7).

Ông tên tục là Đại(8) người Đa Mỹ (9) [huyện] Cổ Lôi [phủ] Thanh Hóa vốn là họ Đỗ. Ông nội tên là Lương, cha tên là Lỗi được [ban tặng] tước Huyện hầu. Tổ bà là Lê thị, mẹ cũng là Lê thị đều được [ban là] Quận phu nhân do vị trí cao quý của ông.

Ông sinh năm Kiến Tân thứ hai (1400) vào cuối triều [Trần]. Quân Minh xuống phương Nam, cha ông chết trận ở cửa biển Giao Thủy(10).

Ông gặp buổi loạn nguy, biết Thái tổ Cao hoàng đế [Lê Lợi] ẩn mình ở Lam ấp(11), xin đến nương tựa làm tôi.

Năm Mậu Tuất (1418) giặc Minh đánh vào Lam ấp. Nghĩa binh [ta] đóng đồn ở Lạc Thủy bị tên hàng giặc dẫn chúng đi đường tắt tập kích. Ông bị bắt đưa ra Đông Quan. Hơn một tháng sau, [ông] trở về. Vua vui mừng hỏi tình hình giặc. [Ông] trả lời cụ thể “Đông Quan giữa ban ngày có cảnh tượng truy bắt, cướp bóc”. Vua cười nói: “Đó là triệu chứng sắp loạn”. Từ đó ông hầu bên cạnh [vua] không lúc nào xa rời. Vua biết ông là người có thể dùng được, bèn sai cai quản các quân Lạng Giang, Lỗi Giang.

Đầu năm Kỷ Tỵ (1419), ông giữ chức Cận thị thự ngũ cục, chi hầu, giữ chính đường. [Ông đã] trải qua nhiều gian khổ mà sắc thái không biến đổi.

Tháng Giêng năm Bính Ngọ (1426) quân ta vào huyện Thổ Du [phủ] Nghệ An(12). Giám quân Đại tư đồ Trình Nguyên Hãn(13) điểm quân tiến đến các huyện Đỗ Gia(14), Thể Du. Tiếp đến [vua] sai ông chỉ huy [một] vệ nghĩa quân cùng Lê Thiệt đặt phục binh ở cầu giặc chém chết chỉ huy [giặc là] Vi Thượng. Tướng chỉ huy ngụy là Nguyễn Vinh cướp phá cửa biển Đan Thai(15). [Ông] cùng với Lê Thiệt cầm quân đánh tan, chém đầu giặc, giặc chết đuối rất nhiều(16).

Tháng 9 [năm đó] ông làm quản giám Mi Hóa trung lộ(17) quân dân sự, cùng với Thông hầu là Lưu Nhân Chú kiểm soát các lộ Hồng Khoái [rồi] tiến vây thành Chí Linh(18). Riêng ông lại chỉ huy mấy nghìn [quân] tiến đánh các thành Thị Cầu, Xương Giang(19), đi đến đâu giặc đều run sợ.

Tháng chạp [năm đó], [ông] cùng với Nhân Chú chia đường dẫn quân tiến thẳng xuống sông Bồ Đề(20), tiến đánh Điêu Diêu(21). Giặc vào thành không dám ra quân, [Ông cho] quân chặn đường tiếp ứng (?). Thế là tất cả vùng phía bắc sông lớn đều thuộc về ta.

Tháng 10 Đinh Mùi (1427) vua (giao cho) ông chức Chiêu thảo sứ trấn (Quy) Hóa(22), cùng với Thái giám Trịnh Khả đánh thành Tam Giang (coi) các lộ quân Tuyên Quang, Đà Giang tập kích viện binh địch từ Vân Nam tiến xuống. Chúng tiến đến Song Xá(23), ông tung quân đánh địch. Thiếu uý Lê Bồi tiếp đến cùng hợp binh đánh phá. Tổng binh giặc Kiêm Quốc công Mộc Thạch ở Song Mật(24) lại bị đại phá, (quân ta) chém đầu giặc lấy được ngựa lừa, gia súc, chiến khí, xe cộ không kể xiết. Viện binh đã dứt, các thành phải hàng.

Tháng giêng năm Mậu Thân (1428), vua ở thành Đông Quan, sai ông Kiêm tri nội điện và Đông Tây Nam Bắc tứ đạo Đô thái giám nội ngoại chư quân sự(25), là tai mắt của nhà vua, (vua) lại ban cho (ông) Phương bình quân một đội để tỏ rõ sự sủng ái.

Tháng đó, lại giao cho ông chức Kim tử quang lộc đại phu, Tả lân hổ vệ Thượng tướng quân, ban cho Kim ngư đại, Thượng khinh xa đô úy, ngân phù, Liệt hầu(26) cho đổi họ theo vua.

Tháng 4 (năm đó) Hoàng đế (Lê Lợi) lên ngôi, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Tháng 8 (năm đó) chiếu giao cho ông chức Đồng Tổng tri Bổng thánh vệ chư quân sự, quản lĩnh thiên cương trung thánh dực quân, kiêm Tri ngự tiền thiết đột điều các quân.

Năm thứ 2 (1429) (vua về) Lam Kinh, ông quyền quản ngũ đạo chư vệ quân sự trấn thủ. Ban đêm vua về đến cửa thành (Đông Kinh) chỉ có lệnh mở cửa. Ông nói: “Đêm hôm không phân biệt rõ ràng không dám vâng chiếu”. Vua sai thị thần đốt đuốc chiếu rõ, lại nói lớn “Hoàng đế tại đây”. (Ông) mới mở cửa thành, rồi theo thánh giá nhà vua.

(Thuận Thiên) năm thứ 3 (1430) ông được thăng chức Đồng Tổng quản, ban cho Kim phù.

Tháng 12 năm Thuận Thiên thứ 5 (1432), có việc đánh Phục Lễ, qua Chiêm Thành(27) chu sư về đến kinh đô. Ông được thăng Thái(28) bảo chính công thần Kim tử vinh lộc đại phu, Thần phù hải môn trấn phụng tuyên sứ, Hành quân tổng quản, Bổng thánh vệ chư quân sự, đồng quân lĩnh thiết đột trung thánh dực quân, Quản lĩnh thiên cương quân, Thái giám nội ngoại chư, Dịch chính bộ quân, ban cho Kim ngư đại, phù.

Hoàng đế (Lê Lợi) khởi từ Lam ấp khai sáng nên nghiệp lớn đã thành, nay bị bệnh không về quê hương. Vua nói với đại thần giúp ta lấy thành, cùng hưởng lộc rời, bèn cho ông một bản thánh huấn, vàng 50 lượng. Ông cúi đầu nhận mệnh, vua băng(29).

Ông cùng các đại thần theo di chúc đưa Thái Tông lên ngôi.

Năm Thiệu Bình thứ nhất (1434) nhà vua phong công thần, phong ông Nhập (nội)(30) Thiếu úy, Tham tri Hải Tây đạo(31) chư vệ quân sự kiêm Tri nội ngoại chư dịch. Lệ dùng thái giám nội ngoại như cũ.

Tháng 5, năm Thiệu Bình thứ 3 (1436) (ông) kiêm lĩnh Tùy thân xá nhân các cục(32).

Tháng 7 (năm đó) ông được thăng Thanh Hóa, Nông Cống trấn phủ quân Đại tướng quân, trụ quốc, Tự hầu.

Năm Thiệu Bình thứ 4 (1437) gia thêm (cho ông) chức Tham tri chính sự(33).

Năm Thiệu Bình thứ 6 (1439) (ông) làm Tri ngự tiểu các quân, ban cho Kim phù.

Tháng 3, năm Canh Thân, Đại Bảo thứ nhất (1440) Thái Tông thân chinh đánh châu Thuận Mỗi, sai ông ở lại giữ kinh đô, nội ngoại tri trấn phủ (có quyền) chém trước tâu sau.

Năm Đại Bảo thứ 2 (1441) Hoàng thượng sinh ra Nhân Tông, vua thấy ông là người cẩn thận nhân hậu, sai bảo dưỡng. (Bấy giờ) Ai Lao xâm phạm biên giới, chiếu truyền ông chỉ huy tướng sĩ hỏi tội (giặc). Quân tướng đến Đà Lương gặp giặc, tiếp chiến. Ông thúc quân tiến đánh, càng đánh càng thắng, đuổi đến trấn Đình Bồ động Niệm Đốc, lại liên tiếp phá giặc. Thừa thắng đuổi đến Trịnh Bắc(34) vua bèn thăng chức, tiến tước.

Tháng 8, năm Đại Bảo thứ 3 (1442) Hoàng đế Thái Tông băng. Bấy giờ nhiều khó khăn nguy ngập(35).

Tháng 3, năm Đại Bảo thứ 4 (1443) ông cùng các đại thần đưa Hoàng thượng lên ngôi, mà bên trong thì bà Hoàng thái hậu buông rèm giữ quyền nghe chính sự(36). Trong nước được yên ổn.

Năm Thái Hòa thứ nhất (1443) ông được thăng là Sùng tiến nhập nội đô đốc, Bình chương quân quốc trọng sự kiêm coi Thanh Hóa trung lộ. Bấy giờ (một viên) sứ nhà Minh là Tiết Khiêm thấy ông luôn luôn ở bên cạnh mới hỏi là quan gì, nói “ký thác được người đấy”.

Tháng 6, năm Thái Hòa thứ 3 (1445), ngày tốt, (ông được phong) là Đặc tiến dương vũ công thần, Lương Giang trấn Thượng tướng quân Đặc tiến Nhập nội Đô đốc Bình chương sự. Hoàng thượng chuyên lấy ông làm tâm phúc, cho phép ông có suy nghĩ được biện nháp gì muốn hiến lên trên thì được đặc ân vào triều dâng tấu.

Tháng 11 (năm đó) ông được thăng tước Huyện hầu(37). Năm Thái Hòa thứ 4 (1446), Chiêm Thành cướp phá biên giới, (nhiều) đại thần phải nhận lệnh ra quân, duy ông ngày đêm quản quân túc vệ để yên tĩnh trong ngoài (kinh đô), lại thăng ông là Suy thành tá lý Dương vũ tĩnh nạn công thần, Gia Hưng trấn phiêu kỵ đại tướng quân, Đặc tiến (khai) phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu đại đô đốc, Bình chương sự, Hành quân đồng tổng quản, Thái giám nội ngoại tri nội điện các dịch, kiêm Tri ngự tiền chư quân, Thượng trụ quốc, ban Kim ngư đại, kim phù, Huyện Thượng hầu.

Sau Chiêm Thành có Quý Điền giết chủ, triều đình bàn đánh. Ông nói: “Chiêm Thành là nước không có lễ nghĩa, kẻ kia tuy vua tôi đổi ngôi, đấy là di tục thường có. Việc gì phải cử binh để mệt nhọc dân ta”. (Vua) mới thôi.

Tháng 8 năm Thái Hòa thứ 9 (1451) ông được gia thăng Đặc tiến khai phủ, Quận Thượng hầu. Ông cho rằng: đại thần không cần dùng riêng cấm binh. Ông nhiều lần dâng sớ xin giải chức Tri ngự tiền chư quân thái giám nội ngoại chư dịch. Quan chức này có liên quan đến quân dân, đều phải nộp trả(38).

Tháng 11 (năm đó), ông được tiến tước Quốc Thượng hầu(39).

Tháng 8, Ất Hợi, năm Diên Ninh thứ 2 (1455), ông được thăng là Suy thành tán trị Dực vận đồng đức công thần, Gia Hưng trấn tiết độ đại sứ, khai phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu, Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, Thượng trụ quốc, kiêm Trà Lân châu phụ đạo, ban cho Kim ngư đại, Kim phù, quận Á hầu(40).

Năm đó, ông xin sửa chữa và bổ sung bộ Lưỡng triều bảo lục, Hoàng Tông ngọc diệp, lại xin triều thỉnh chính nghị, đều được.

Ông phục vụ ba triều(41) giữ vững một tiết, nghị lực đủ để có mưu lược, tài năng đủ để bên trong ca tụng, bên ngoài mến phục, luận bàn trăm việc rõ ràng. Tấm lòng ông bền vững, trải chịu qua nhiều hoạn nạn nguy hiểm, vẫn giữ một lòng trung thành. Lấy thân giữ gìn an nguy cho thiên hạ. Ông giống như trụ đá giữa dòng, ngay thẳng. Giữ pháp độ, yên ổn cho dân, ông giống như Thái Sơn, Kiêu Nhạc, không sợ khó nhọc mà công trạch thì đến khắp mọi người(42).

Khi bị bệnh nặng, Công Sảng hỏi ông. Ông trả lời: “Ta phù giúp ba đời, chức vị thủ tướng, năm nay 60 tuổi, sự người đã hết, nay được chết già, đó cũng là ý trời. Về phần ta, không có gì là ân hận. Các con cháu cần tuân theo gia huấn của nhà ta. Ta tuy xuống chín suối cũng được yên lòng”.

Trong buổi đầu lấy lại nước, ông trải qua nhiều hoạn nạn, lại có sức bảo vệ thanh cung. Bà, mẹ và vợ cả của ông đều được phong là Quận phu nhân. Con trai có 9 người. Trưởng là Quán Chi, giữ chức Ngự tiền thiết đột quân, được tặng quan Nội hầu(43); thứ là Công Sảng làm Điện tiền Đô chỉ huy sứ, Tri ngự tiền hải kình, hải mã, hải thu, hải điểu, tính tình khiêm cẩn có phong cách của cha, lấy con gái Ngọc Vi, con của Nhập nội tư mã tham dự triều chính Lê Thụ; Công Đình, Khắc Tốn, Công Độ, Hữu Mục(44), Tư Đạo, Toàn Mỹ, Trực Hữu đều chưa đến tuổi làm quan. Con gái có 13 người: Ngọc Phương, lấy con quan Tổng tri quân kỵ vệ chư quân sự, Tham tri chính sự, tặng Nhập nội tư mã Á hầu, Nguyễn Lộ, em của Hoàng thái hậu; Ngọc Phi gả cho con quan Thái phó Lê Văn Linh là Nhập nội thị sảnh phó đô sứ tri tả ban Hoằng Lưu; Ngọc Chi gả cho con quan Thái phó Lê Nhữ Lãm là Điện tiền Đô chỉ huy phó sứ Tri Ngự tiền chấn lôi quân; Ngọc Liên gả cho con quan Đại tư đồ Lê Thận là Đồng tri Ngự tiền thị vệ quân; Ngọc Chỉ gả cho con quan tặng Liệt hầu Trịnh Khả là Công Mục. Các cô Ngọc Sót, Ngọc Chi đều là Quận phu nhân(45).

Công Sảng xem bói. Ngày Tân Tỵ, tháng 9 (vua) sai quan Nhập nội thiếu úy tham tri chính sự Lê Lư quản 5 đạo quân tống táng về quê, quản ở từ đường. Vua ra phía nam thành tiễn đưa, cấp tiền 5 nghìn quan. Ất Mão, ngày 7 tháng 10 táng ở quê nhà.

Bài tán rằng:

Lập công buổi ấy
Triều khí còn mờ
Cao tổ dấy nghĩa
Thay đổi đất trời
Một lòng trung định
Sai người giúp sức
Thời lòng trung chính
Đề xuất quân luật
Thuyền chiến, ngựa sắt
Kinh qua bốn biên
Đánh thành hãm trận
Ban ấn liên tiếp
Có đai nối mãi
Vọng nghe trên núi
Mấy lần quân nhạc
Tiết cứng thu sương
Ngay thẳng giữa ngày
Ba triều chỗ dựa
Hạnh phúc dài lâu
Gặp khi nguy khốn
Thân vâng cố mệnh
Ngày ngày phù vua
Cần mẫn hết sức
Đức lớn hồng lượng
Thân giữ an nguy
Là công xã tắc
Sông núi nguy(46) nga
Ông tạo thành quy
Giữ không để mất
Chính trị trong sạch
Dân được an ninh
Thoát cảnh phiền phức
Của cải chia đều
Khiêm khôn mãi mãi
Lâu dài to lớn
Vua mới cho ông
Nguyên lão cả nước
Nên thọ, nên khang
Thong thả bàn đạo
Ơn giữ hiếu đễ
Trước sau nghĩa lớn
Tuất điển ban thêm
Đẹp sang mãi mãi
Chết mà như sống
Lâu dài kẻ sau
Ghi rõ bài minh(47).

Ngày lành năm Kỷ Mão niên hiệu Diên Ninh 6 (1459), chính phụng Đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Tri Nhập thị học sinh cục kiêm Tri Ngự tiền học sinh cục đề cử, Khinh xa đô úy thần Nguyễn Trực phụng soạn - Thông phụng đại phu Nội mật viện sự kiêm Trung thư Thị lang Thượng kỵ đô úy Nguyễn Như Đổ vâng nhuận sắc.

Nhâm Tuất khoa Trung thư sảnh Trung thư xá nhân kiêm Tri cận thị chi hậu các cục thần Nguyễn Lãm, vâng viết chữ, [Kiển] chính thần Nguyễn Quá Uẩn phụng viết chữ Triện.

Ngự tiền tả ban điều kinh tác cục thị vệ nhân vâng khắc.

P.Đ.D

CHÚ THÍCH:

(1) Theo Lam Sơn thực lục (bản dòng họ Lê Sát) thì Đỗ Khuyển làm đến Thái phó, thời Lê Hồng Đức (1476-1497) mới được truy tặng là Thái phó Định Quận công.

Đại là do con cháu ông thay đổi về sau. Đại Việt sử ký toàn thư và Lam Sơn thực lục (bản dòng họ Lê Sát) đều chép là Đỗ Khuyển hay Lê Khuyển. Hẳn vì Khuyển có nghĩa là chó, nghe không được đẹp, nên con cháu đổi thành Đại. Chữ Khuyển và chữ Đại - có tự dạng giống nhau.

(2) Chiêm thành quốc Trà Lân châu ở đây là vô lý. Châu Trà Lân thuộc Nghệ An, tương đương với các huyện Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh ngày nay. Có lẽ chữ “Chiêm Thành quốc” là do người sau thêm vào.

(3) Tứ quốc tính là ban cho họ vua. Phần lớn các công thần khai quốc bấy giờ đều được đổi theo họ Lê Lợi.

(4) Như chú thích (1) đã nói, đời Hồng Đức, Đỗ Khuyển mới được tặng là Thái phó Định Quận công. Hàm tước Thái sư Định Quốc công là gia tặng về sau.

(5) Hàm Thái úy chép ở đây cần kiểm tra thêm.

(6) Nguyễn Như Đổ tên tự là Mạnh An, người làng Đại Lan, huyện Thanh Trì (nay là Đại Quan, Thanh Trì - Hà Nội). Năm ông 19 tuổi đậu Hội nguyên khoa Nhâm Tuất (1442) vào thi Đình đỗ Bảng nhãn. Thời Lê Thái Tông, ông giữ công việc soạn các văn bản chế cáo ở Viện Hàn lâm, sau làm An phủ sứ lộ Quy Hóa (khoảng Yên Bái, Lào Cai ngày nay). Thời Lê Thánh Tông, ông giữ qua nhiều chức: Thượng thư Bộ Lại, Thượng thư Bộ Lễ, Thừa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm, tân khách của Thái tử, Hội viên Tao Đàn v.v... ông mất vào niên hiệu Thống Nguyên (1522-1527) thọ 102 tuổi. Ngoài văn bia thần đạo Đỗ Khuyển, ông còn là tác giả văn bia thần đạo Lê Khôi.

(7) Văn bia thần đạo là thể văn cổ xưa khắc trên bia mộ của Trung Quốc có từ thời Hán. Thường văn bia thần đạo có thêm bài minh theo thể thơ. Thời Lý - Trần, thể văn này đã phổ biến. Các vua và nhiều công thần thời Lê sơ sau khi chết thường được dựng bia thần đạo. Chúng tôi đã được đọc một số văn bia thần đạo về các công thần ở Thanh Hóa như Hoàng Việt khai quốc công thần chi bi (về Lê Sao), Quốc triều tá mệnh công thần chi bi (về Nguyễn Chích), bia thần đạo (về Trịnh Khả, đã mờ nhiều), Đại Việt quốc tặng Thư quận công Trịnh công chi bi (về Trịnh Công Bộ con Trịnh Khả). Ngày nay nhiều bia đá thần đạo của các công thần không còn, nhưng có lẽ một số văn bản còn được chép lại trong gia phả. Hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ phát hiện thêm.

(8) Xem chú thích (1)

(9) Đa Mỹ nay là Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân. Quê hương của công thần khai quốc Nguyễn Nhữ Lãm cũng ở làng này.

(10) Cửa biển Giao Thủy là cửa sông Hồng. Có lẽ cha của Đỗ Khuyển là binh sĩ trong quân nhà Hồ bị tử trận tại đây.

(11) Lam ấp vào cuối Trần thuộc sách Khả Lam (còn gọi là Kha Mau), sau chiến thắng chống Minh, Lê Lợi đổi là Lam Sơn.

(12) Thổ Du nay là Thanh Chương, Nghệ An.

(13) Ông vốn tên là Trần Nguyên Hãn, vì kiêng tên là Trần Thị Ngọc Trần, vợ Lê Thái Tổ, nên phải đổi là họ Trình.

(14) Đỗ Gia nay là Hương Sơn, Hà Tĩnh.

(15) Cửa biển Đan Thai nay là cửa Hội Thống, Nghệ An.

(16) Lam Sơn thực lục và Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện này vào cuối năm 1425. Có thể bản sao này chép nhầm.

(17) Bản sao chép là Thanh Hóa trung lộ.

(18) Hồng và Khoái là vùng Hưng Yên - Hải Dương ngày nay. Thành Chí Linh thuộc huyện Chí Linh (Hải Dương).

(19) Thị Cầu thuộc Tp. Bắc Ninh, Xương Giang nay là Tp. Bắc Giang,

(20) Sông Bồ Đề là đoạn sông Hồng chảy qua huyện Gia Lâm (Hà Nội).

(21) Điêu Diêu thuộc Gia Lâm.

(22) Văn bản thiếu chữ Quy, chúng tôi ngờ là Quy Hóa.

(23) Bình Ngô đại cáo ghi là Đan Xá.

(24) Như trên

(25) Chức vụ này văn bản ghi rất lộn xộn, cần tra cứu thêm.

(26) Văn bản này ghi việc phong cấp liệt hầu vào tháng giêng, một số tài liệu khác lại ghi vào cuối tháng hai.

(27) Văn bản ghi “qua Chiêm Thành” là không chính xác: Đại Việt sử ký toàn thư có ghi sự kiện Lê Lợi thân chinh đánh Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, vì Hãn muốn chống lại triều đình trung ương. Sau đó Lê Lợi có đánh Ai Lao. Không có sự kiện qua Chiêm Thành trong thời gian này.

(28) Chúng tôi ngờ rằng không có chữ “thái”.

(29) Băng là từ chỉ sự chết của vua.

(3) Nguyên bản không có chữ “nội”, chúng tôi thêm vào.

(31) Hải Tây đạo là vùng đất từ Thanh Hóa trở vào đến Thuận Hóa được đặt ra từ thời Lê Thái Tổ. Đến thời Lê Thánh Tông thì đạo này chia làm 4 xứ: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam.

(32) Đoạn này văn bản ghi lộn xộn, chúng tôi sắp xếp như trên cho dễ hiểu.

(33) Đại Việt sử ký toàn thư lại ghi dài hơn là: Gia phong cho Thiếu úy Tham tri Hải Tây đạo chư vệ quân sự là Lê Khuyển làm Tham tri chính sự, gia Bổng thánh tráng sĩ vệ tổng quản, Thiếu úy, Tham chi chính sự (tham khảo bản dịch; tập III, 1967, tr.119).

(34) Những nhân danh, địa danh ở đây cần kiểm tra lại.

(35) Đây là sự kiện Lê Thái Tông bị chết ở Lệ Chi Viên (trại vải). Sau đó, Nguyễn Trãi và gia đình ông bị triều đình kết án chu di tam tộc.

(36) Ở đây là chỉ sự kiện vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu điều khiển việc nước.

(37) Văn bản chép là Huyện hầu, nhưng không rõ chữ huyện.

(38) Chúng tôi dịch theo văn bản, nhưng ý nghĩa không rõ ràng.

(39), (40) Ở đây có sự lộn xộn về phẩm tước, từ Huyện lên Huyện Thượng hầu rồi lên Quốc Thượng hầu nhưng lại xuống là Quân Á hầu. Điều này cần kiểm tra lại, có lẽ văn bản chép không chính xác.

(41) Ba triều vua là Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông.

(42) Ở đây có khoảng 200 chữ trong văn bản chúng tôi không dịch. Nội dung chủ yếu là ca ngợi đức tính của Đỗ Khuyển như là cẩn thận, nhân hậu, trung thành.

(43) Đại Việt sử ký toàn thư có ghi một chi tiết “Lê Quán Chi con trai của Đại đô đốc Lê Khuyển ban đêm họp nhau đánh giết người ở đô thị. Việc phát giác, bị hạ ngục, cùng dây dưa đến nội quan và con trai nhà chức trách đến hơn 10 người. Án sắp xong Thái hậu cho rằng Khuyển là bậc đại thần, giữ cấm binh, nhà vua ỷ trọng, nếu giết đi sợ đau lòng Khuyển, bèn làm trái phép, tha cho, chỉ thu tiền đền mạng trả cho người chết thôi. Giám quan Lê Lâm câm mồm, không dám nói, thậm chí có những trẻ con ở đô thị day tay nói rằng: “ta giận không làm đại quan thôi” (Sách đã dẫn, Tập III, tr.158).

(44) Lam Sơn thực lục (bản dòng họ Lê Sát) chép (về sau) Đỗ Công Độ làm Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc thiêm sự, Đỗ Khắc Mục làm dực ... (?) thiêm tổng tri.

(45) Ở đây có khoảng 60 chữ không dịch. Nội dung nói về gia đình các con gái của Đỗ Khuyển.

(46) Lời văn này tối nghĩa, chúng tôi không dịch.

(47) Phần này trở xuống tôi lấy tài liệu của PGS. Nhật Bản Jao Ta Kao thêm vào, do TS. Đinh Khắc Thuân dịch bổ sung.

(48) Nguyễn Trực (1417-1473) tự là Công Đĩnh, hiệu là Vu Liêu người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai (Hà Tây) đỗ Trạng nguyên năm Nhâm Tuất (1442) sơ bổ Hàn lâm Trực học sĩ được ít lâu thăng chức An Phủ sứ Lộ Nam Sách thượng rồi thăng Thị giảng - Khi vua Nhân Tông bị Nghi Dân giết ông làm bài văn tế, lời lẽ bi thiết đồng thời cáo bệnh nghỉ quan.

Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, ông làm quan giữ chức Trung thư Lệnh, ông mất khi đang giữ chức Hàn lâm Thừa chỉ kiêm Quốc tử giám Tế Tửu.

TB

CHUÔNG THỜI TÂY SƠN
Ở CHÙA BÀ MÓC (HÀ NỘI)

MAI XUÂN HẢI

Triều đại Tây Sơn chỉ kéo dài 14 năm, nhưng là một triều đại có võ công oanh liệt, và bước đầu xây dựng cơ sở văn hóa như khôi phục, phát triển chữ Nôm, xây dựng một số đình chùa. Tuy nhiên rất nhiều bài ký chuông đồng thời Tây Sơn bị hủy hoại, hoặc phải đục bỏ niên đại vào đời Nguyễn. May mắn thay, quả chuông ở chùa Phúc Lâm này lại còn nguyên vẹn cả niên hiệu nhà Tây Sơn. Chùa Phúc Lâm còn gọi là chùa Bà Móc tọa lạc tại số nhà 120 phố Yên Phụ, quận Ba Đình. Đó là một ngôi chùa cổ, nằm cạnh sông Hồng, phía đông trông ra sông Hồng.

Bài ký trên chiếc chuông này cho biết nơi đây thời Tây Sơn có tên là xóm Bà Móc, huyện Thọ Xương, trước đã có ngôi chùa thờ Phật, gọi là chùa Phúc Lâm. Khoảng năm Bính Ngọ (1786), gặp binh đao, chùa trở thành nơi hoang tàn, chuông bị lấy để đúc pháo, bản xóm dựng tạm ngôi thảo am để thờ cúng. Sau đó, chùa được xây lại và đến năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800), đúc chuông mới.

Bài ký ngoài việc cho biết những thông tin quý báu về quá trình dựng chùa và đúc chuông, còn cho người soạn minh chuông là Nguyễn Sĩ Bá, tước Tán Thành hầu, chức Ký lục huyện Diên Khánh, xứ Quảng Nam. Đồng thời văn chuông còn cho biết tên những vị Hưng công, Hội chủ và thập phương đã đóng góp kinh phí đúc quả chuông này. Xét thấy đây là một quả chuông quý, góp phần hiểu biết thêm về lịch sử ngôi chùa cổ ngay tại Hà Nội, chúng tôi xin phiên âm và dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.

CHUÔNG CHÙA PHÚC LÂM

Phiên âm:

Mặt 1: Phúc
Phúc Lâm tự hồng chung ký

Thọ Xương huyện Bà Móc xóm cựu hữu Phạn cung sùng phụng Tây Trúc hiệu Phúc Lâm tự quốc đảo nhi thế vận long thái, dân cầu nhi giá khánh biền trăn, chân đệ nhất phúc địa dã. Bính Ngọ niên gian, ngẫu kinh binh lãi nhi kinh cức đồng pháo bản xóm quyền cấu thảo am từ chi, nẫm trứ linh ứng, chúng nhân thỉ phát bà tâm chuyển tạo tân vũ, linh lung sắc tướng, kim thân tố hội chi, nghiêm nhiên kỳ phụng nguy nga, liên hoa bảo tọa phấn sức chi doanh nhĩ, kỳ văn nghi chương khí mẫn vô sở bất bị, chung do khuyết yên, cái tương hữu đãi giả hĩ. Tuế Kỷ Mùi niên, thích hữu Sơn Minh Vân Đình Bùi Viết Ôn sĩ chí Anh liệt tướng quân, chỉ huy sứ, Thiệu Thiên phủ Vĩnh Phúc huyện Biện Thượng xã cựu thị hầu Thân hữu tượng đội Hữu hiệu điểm Đường Phái hầu Nguyễn Đức Vượng bốc cư kỳ sở dữ bản xóm viên sắc thượng hạ đẳng cập chư thiện tín phát bồ đề tâm quyên xuất nang kim trạch cát chú tạo ư Canh Thân niên hạ ngũ nguyệt nhị thập bát nhật, Chúc Dung trợ quang, Mật Đà trợ xảo, bất nhật thành chi, khấu tư chung, tài nhất phát kình nhi bồ lao thanh chấn, ư thị dĩ vi thiện quả viên thành, trưng văn ư dư, dĩ ký kì thực, dư hỷ kỳ thiện niệm, bất cảm dĩ thiển học (?)... đồng tùy bút trực thư dĩ truyền vĩnh cửu, thị vi ký.

Mặt 2: Lâm
Hưng công dĩ hạ

Thống Trung hầu Tam trường Đức Hậu xã trưởng ¨ ¨ cổ tiền ngũ quan.

Ứng Thiên phủ Sơn Minh huyện Vân Đình xã Đô chỉ huy sứ Bùi Viết Ôn thê Trần Thị Yến dữ chúng tử nam nữ đồng gia đẳng xuất cổ tiền nhất bách tứ thập lục quan.

Thiệu Thiên phủ Vĩnh Phúc huyện Biện Thượng xã Cựu Thị hầu Trung hữu tượng đội, Hữu hiệu điểm Đường Phái hầu Nguyễn Đức Vượng, thê Nguyễn Thị Liên hiệu ¨ ¨ xuất cổ tiền nhất bách tam thập quan.

Bản xóm thượng hạ đẳng cổ tiền bát quan.

Chỉ huy sứ Lê Văn Luân thê Đỗ Thị Tư hiệu Diệu Ngọc cổ tiền thập quan.

Khách nhân Mạc Vĩnh Tùng hoàng lạp (?) ngũ cân.

Tiên Du huyện Tử Nê do xã cựu đồng Tri phủ Tri Trung cổ tiền ngũ quan, Đặng Tụ thê cổ tiền lục quan, đồng ngũ cân.

Nhất hội chủ dĩ hạ

Thượng Phúc huyện Phượng Dực xã cựu Huyện thừa Nguyễn Đình Yến thê ¨ Thị Quyền cổ tiền tứ quan.

Thọ Xương huyện ¨ ¨ phường Nguyễn Đình Phủ (?) tự Pháp Dĩ (?) thê Thị Tùng hiệu Thiện Bách cổ tiền tứ quan.

Mặt 3: Tự

Đường An huyện, Hoa Đường xã Nguyễn Đình... triều... cộng tam quan.

Tuyên Quang xứ Thủ hiệu Thực thê Ngô Thị Do cổ tiền tam quan.

Thập hương tập (?) tự công đức cộng đắc cổ tiền tam thập quan.

Bản xóm viên sắc Lê Đình Quỳ (?) công đức cổ tiền nhất quan.

Bản tự tăng Trần Đình Lương, bản xóm nhân Nguyễn Thị Đăng, Nguyễn Thị Cẩn, Nguyễn Thị Nho, Ngô Thị Cổ, Phùng Thị Hai ¨ tập thập phương cổ tiền thập quan.

Mặt 4: Chung

Thời: Cảnh Thịnh bát niên, tuế thứ Canh Thân ngũ nguyệt nhị thập bát nhật. Quảng Nam Diên Khánh ký lục Tán Thành hầu Nguyễn Sĩ Bá, Uông thị bái thư.

Dịch nghĩa:

Mặt 1: Phúc
Bài ký chuông chùa Phúc Lâm

Xóm Bà Móc huyện Thọ Xương, từ trước đã có chùa để thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm, nước cầu mà vận thời được hưng long, dân cầu mà phúc nhà được tốt đẹp, thật là một nơi đệ nhất phúc địa vậy. Khoảng năm Bính Ngọ (1786), thật ngẫu nhiên gặp cảnh can qua binh lãi, cảnh chùa gặp cảnh hoang tàn gai góc, chuông bị lấy đúc làm pháo, bản xóm dựng một thảo am để tạm thờ cúng, rất là linh ứng, mọi người bèn phát tâm bồ đề, chuyển xây chùa mới, sắc tướng lung linh, tượng Phật tô lại, nơi thờ phụng nghiễm nhiên trở thành nơi thờ cúng nguy nga, bảo tọa hoa sen thành nơi phấn sức mới mẻ, trang nghiêm, đồ thờ tế khí không thiếu thứ gì, duy còn quả chuông là còn thiếu. Đấy là còn đợi người tài mà thôi vậy. Đến năm Kỷ Mùi (1799), vừa vặn có ông Bùi Viết Ôn người xã Vân Đình, huyện Sơn Minh, làm quan đến chức Anh liệt tướng quân, Chỉ huy sứ, người xã Biện Thượng, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, ông Cựu Thị hầu, trước làm ở đội Thân hữu tượng chức Hữu hiệu điểm, tước Đường Phái hầu tên Nguyễn Đức Vượng ngụ cư ở đây cùng với các bậc viên sắc trên dưới trong bản xóm cùng các chư thiện tín phát bồ đề tâm quyên xuất túi vàng chọn ngày tốt đúc quả chuông vào ngày 28 mùa hè tháng 5 năm Canh Thân (1800), nhờ thần Chúc Dung giúp ánh sáng, thần Mật Đà giúp khéo léo, chẳng mấy chốc mà hoàn thành, khi gõ lên quả chuông này thì âm thanh vang động, thế là thiện quả viên thành, xin tôi bài minh văn để ghi sự thực. Tôi mừng vì việc thiện ấy, không dám cho mình là kém cỏi, bèn tùy bút mà viết thẳng ra để lưu truyền vĩnh cửu. Bèn làm bài ký.

Mặt 2: Lâm
Những vị hưng công có tên dưới đây:

Vị Thống Trung hầu, đỗ Tam trường, Xã trưởng xã Đức Hậu đóng góp cổ tiền là 5 quan.

Vị Thái bá Bùi Viết Ôn chức Đô chỉ huy sứ người xã Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên, cùng vợ là Trần Thị Yến, cùng các con trai con gái đóng góp cổ tiền là 146 quan.

Nguyễn Đức Vượng, tước Đường Phái hầu, chức Hữu hiệu điểm đội Trung hữu tượng người xã Biện Thượng, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên cùng vợ là Nguyễn Thị Liên hiệu là ¨¨ đóng góp cổ tiền 130 quan.

Mọi người lớn bé trong xóm đóng góp cổ tiền 8 quan.

Chỉ huy sứ Lê Văn Luân, vợ là Đỗ Thị Tư hiệu là Diệu Ngọc đóng góp cổ tiền là 10 quan.

Người khách là Mạc Vĩnh Tùng đóng góp 5 cây nến.

Xã Tử Nê huyện Tiên Du cựu đồng Tri phủ tên là Tri Trung đóng góp cổ tiền 5 quan, Đặng Tự cùng vợ đóng góp cổ tiền 6 quan cùng 5 cân đồng.

Những vị Hội chủ có tên dưới đây:

Xã Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, cựu Huyện thừa Nguyễn Đình Yến, vợ là Lê Thị Quyền đóng góp cổ tiền 4 quan.

Phường ¨ ¨ huyện Thọ Xương Nguyễn Đình Phủ, tự là Pháp Dĩ (?) vợ là ¨ Thị Tùng hiệu là Thiện Bách (?) đóng góp cổ tiền là 4 quan.

Mặt 3: Tự (chùa)

Xã Hoa Đường huyện Đường An Nguyễn Đình ¨ ¨ cổ tiền cộng là 3 quan. Xứ Tuyên Quang ông Thủ hiệu Thực, cùng vợ là Ngô Thị Do cổ tiền là 3 quan. Thập phương công đức cộng cổ tiền là 30 quan.

Viên sắc bản xóm Lê Đình Quỳ công đức cổ tiền 1 quan.

Nhà sư bản chùa Trần Đình Lương, người bản xóm Nguyễn Thị Đăng, Nguyễn Thị Cẩn, Nguyễn Thị Nho, Ngô Thị Cổ, Phùng Thị Hai, thập phương công đức tổng cộng cổ tiền 10 quan.

Mặt 4: Chung (chuông)

Ngày 8 tháng 5 mùa hè năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh 8 (1800), Ký lục huyện Diên Khách xứ Quảng Nam, tước Tán Thành hầu Nguyễn Sĩ Bá và họ Uông bái thư.

M.X.H

TB

THÔNG BÁO VỀ QUỸ
HỌC BỔNG HÁN NÔM – HAWARD YENCHING

Nhằm tạo điều kiện cho những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm trong cả nước có điều kiện đến Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội ) để tiếp xúc với các tài liệu Hán Nôm gốc, phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Viện Harvard-Yenching (Hoa Kỳ) thành lập Quỹ học bổng Hán Nôm - Harvard-Yenching.

l- Điều kiện và đối tượng được nhận học bổng:

- Ưu tiên những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm (không phân biệt độ tuổi), có trình độ đại học trở lên, có đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực Hán Nôm, được ủy ban tuyển chọn của Quỹ chấp nhận.

- Cuối khóa học phải có sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng khoa học do ủy ban tuyển chọn của Quỹ đề ra.

- Phải ghi lời cảm ơn tới Quỹ Hán Nôm - Harvard-Yenching, khi sản phẩm khoa học này được công bố.

- Người được nhận học bổng của Quỹ phải chấp hành đầy đủ mọi quy định yêu cầu của Quỹ và ủy ban tuyển chọn đề ra.

II- Số lượng học bổng hàng năm:

- Hàng năm Uỷ ban tuyển chọn của Quỹ sẽ tuyển từ 03 - 05 người để cấp học bổng. Năm đầu tiên (2005) ưu tiên tuyển 03 người đang làm công tác nghiên cứu Hán Nôm ở các tỉnh miền Trung và miền Nam.

III- Về Học bổng do Quỹ cấp:

Sau khi hồ sơ xin cấp học bổng được chấp nhận, mỗi người sẽ được cấp một khoản kinh phí là 15.000.000 VND (mười lăm triệu đồng) cho cả khóa học tập và công tác. Số tiền này bao gồm các khoản chi phí: đi lại, ăn ở, văn phòng phẩm, tiền tiêu vặt trong suốt thời gian học tập công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (Về chi tiết các khoản chi phí Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ có hướng dẫn cụ thể)

IV- Thời hạn nộp hồ sơ xin cấp học bổng:

- Từ ngày 1/8/2005 đến 15/8/2005

- Hồ sơ gồm: Đơn xin cấp học bổng, Lí lịch hoạt động khoa học có xác nhận của cơ quan chủ quản, Đề cương của đề tài nghiên cứu, 02 ảnh 4x6 cm.

Mọi chi tiết xin liên hệ theo địa chỉ:

Viện Nghiên cứu Hán Nôm
183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội.
ĐT: 84.4.8516809; Fax: 84.4.8570940