TB

NAM QUỐC SƠN HÀ VÀ QUỐC TỘ - HAI KIỆT TÁC VĂN CHƯƠNG CHỮ HÁN NGANG QUA TRIỀU ĐẠI LÊ HOÀN

BÙI DUY TÂN

Kiệt tác thứ hai là Quốc tộ - không còn phải bàn. Kiệt tác thứ nhất là Nam quốc sơn hà - cũng hiển nhiên đích thực, song vẫn cứ bàn thêm, xem như những giọt nước tràn ly. Cả hai đều xuất hiện ở thời Hoàng đế Lê Hoàn - một ông vua tiêu biểu cho mẫu hình Hoàng đế thời Đại (Cồ) Việt.

Thời đại Lê Hoàn, dầu có ngược lên và xuôi xuống ít năm, cùng với triều đại mà ông trị vì (980-1005), cũng chỉ vài ba chục năm, khoảng một đời, một thế hệ. Cứ nghĩ thời gian ngắn ngủi thế, đã đủ tạo lập một diện mạo văn chương? Lâu nay, theo quán tính, người ta thường gọi Thơ văn Lý - Trần hoặc Văn học thế kỷ X - XIV, gồm cả trước tác của ba triều đại Ngô - Đinh - Lê. Nhưng cả ba triều đại này, ngoài những vần sấm thi ngang qua, thì triều Ngô đã có gì, ngoài lời bàn của Ngô Quyền về kế sách phá Hoằng Thao, chưa đủ tiêu chí là một tác phẩm văn học thành văn; triều Đinh cũng chưa thấy gì thêm, ngoài lời sấm chấm hết: Đỗ Thích thí Đinh Đinh... Chỉ còn triều Tiền Lê, thời Lê Hoàn, với tìm tòi mới, có thể mạnh dạn khẳng định: đây là một triều đại khai sáng văn học dân tộc bằng hai kiệt tác thi ca Hán Nôm. Thơ văn thời này, ngoài một số bài thơ - kệ của các Thiền sư, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật: thứ nhất là thơ sấm, thứ hai là văn chương bang giao, thứ ba là văn học yêu nước, tất cả đều viết bằng chữ Hán.

Thời này được xem là “vỡ tổ sấm ký” (Nguyễn Đổng Chi). Người xưa quan niệm sấm là những điều hiện ra, bày ra trước (Sấm giả - triệu dã); sấm lấy quỷ quyệt khéo léo làm lời nói kín, dự đoán lành dữ (Sấm giả, quỉ vi ẩn ngữ dự quyết cát hung). Sấm thời này là sản phẩm của thiền sư, đạo sĩ, nho giả, mỗi người đều có ý đồ riêng khi tung ra những lời sấm, mỗi người đều có phần hiếu sự khi mượn lời thần bí báo trước sự cố cho rằng có ý nghĩa đổi đời sẽ xảy ra, nhưng phần chắc lại là khẳng định những biến cố đã xuất hiện. Nói thế vì sấm có thể có những câu báo trước, nhưng hầu hết lại được đặt ra khi đã xuất hiện các nhân vật và sự kiện lịch sử hữu quan. Câu sấm vào loại sớm thời này là:

“Đỗ Thích thí Đinh Đinh
Lê gia xuất Thánh minh
Cạnh tranh đa hoạnh tử
Đạo lộ tuyệt nhân hành”

Dịch là:

Đỗ Thích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh Thánh minh
Ganh đua bao kẻ chết
Đường đi người vắng tanh.
(Trần Quốc Vượng dịch).

Việt sử lược ghi lời sấm xuất hiện vào năm 974, để báo trước sự kiện sẽ diễn ra vào năm 979, nhưng lấy gì để chứng minh lời sấm đã đi trước sự cố đến 5 năm? Huống chi đến Đại Việt sử ký còn thêm cả chuyện 12 sứ quân và triều Lý xuất hiện bằng một khổ thơ 4 câu? Về mặt văn học, có thể xem lời sấm trên đây là sự phản ánh xung đột chết chóc, và điều tiên tri Hoàng đế anh minh sẽ xuất hiện. Thiền sư Vạn Hạnh “hễ nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm” (Thiền uyển tập anh), đã hơn một lần báo trước Lý sẽ thay Lê.

“Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thụ Nam thiên
Tứ phương can qua tĩnh
Bát biểu hạ bình yên”

Dịch là:

Cây tật lê (tức nhà Lê) chìm biển Bắc
Cây lý (tức nhà Lý) mọc trời Nam
Bốn phương binh đao lặng
Tám cõi được bình an.

Sấm cho ta biết một nét sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo của cộng đồng, lý tưởng muôn đời của dân tộc: muốn có thánh đế minh vương để an nguy trị loạn. Sự phồn thịnh của sấm thi, sấm ngữ, ở cái thời còn tao loạn và lắm thần linh, ma quỷ này, là nét đặc biệt của tinh thần thời đại.

Với tinh thần tự chủ, tự cường, triều đại Lê Đại Hành còn có danh tác của văn chương bang giao. Văn học bang giao thời này mở đầu bằng một giai thoại Lý Giác, sứ thần nhà Tống sang ta năm 987, bẻ bai hai câu thơ trong bài Vịnh nga của Lạc Tân Vương, để đùa anh lái đò Pháp Thuận:

“Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha”

Dịch là:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Chân trời nghển cổ trông.

Không ngờ, anh lái đò ung dung ngâm tiếp, cũng cải biên đôi chữ, cho trọn vẹn áng thơ hay của Lạc Tân Vương thần đồng Đường thi, khi mười tuổi:

“Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”

Dịch là:

Lông trắng phơi nước biếc
Sóng xanh quậy chèo hồng.

Thâm ý của Lý sứ thần “điển nhã” đến vậy, mà vẫn bị chú lái đò ngang “bắt bài” bằng tinh thần vô tốn (không thua kém) tri thức văn hóa chung ở các nước đồng văn trong vùng. Khác với vẻ đẹp nên thơ của một thi thoại, bài thơ lưu biệt của Lý Giác tặng Pháp Thuận (lần này thì với tư cách pháp sư cố vấn của triều đình) đã có sắc thái chính trị. Pháp Thuận đem thơ này dâng vua. Vua cho Thiền sư Khuông Việt xem. Khuông Việt nói: “Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đó chính là lời thơ ở hai câu kết:

“Thiện ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tĩnh kiến thiền thu”

Dịch là:

Ngoài trời lại có trời nên chiếu
Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu.

Đến khi Giác ra về cùng năm 987, Khuông Việt làm bài từ theo điệu Vương lang quy để đưa tiễn, theo lệnh Lê Hoàn. Khuông Việt tức Ngô Chân Lưu (933-1011), theo sử sách là hậu duệ của Ngô Quyền, thời Đinh Tiên Hoàng được lĩnh chức Tăng thống và được ban hiệu là Khuông Việt đại sư (nhà sư lớn khuông phò nước Việt). Dưới triều Lê Đại Hành, sư được vua kính trọng “phàm các việc quân quốc của triều đình, sư đều được tham dự”. Khi giặc Tống xâm lược, vua sai sư đến đền cầu đảo thần linh phù hộ, giặc sợ hãi tan chạy”. Sư cùng Pháp Thuận được cử ra tiếp sứ, dùng tài ứng đối ngoại giao khiến Giác kính phục. Bài Vương lang quy dưới đây, thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ thân mật, với giọng điệu trữ tình, vừa đằm thắm, hồn hậu, vừa cứng cáp, sáng trong, vượt qua lối thơ bang giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương:

“Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh tấu ngã hoàng.”

Dịch là:

Gió xuân đầm ấm cánh buồn giương,
Xa ngóng thần tiên lại đế hương.
Muôn dặm sóng xanh vượt trùng dương,
Trời xa về đường trường!
Tình thảm thiết,
Chén đưa đường,
Vin xe sứ giả vấn vương
Xin đem thân ý vì Nam cương
Tâu rõ cùng thánh hoàng.
(Bùi Duy Tân dịch)

Lời văn của bài từ từng được bàn luận nhiều. Chữ “ngã hoàng” chẳng hạn, một số học giả hiểu nghĩa là “vua ta”, tức hoàng đế nước Việt. Nhưng tôi và cũng không ít học giả thì lại cho rằng phải hiểu “ngã hoàng” là Hoàng đế của chúng ta, tức Hoàng đế của nhà Tống mới phù hợp với từ “đế hương” ở câu thứ hai. Tôn xưng vua Tống là “đế” là “hoàng”, hay “hoàng đế”, về sau sẽ trở thành thông lệ trong quan hệ bang giao giữa ta và các đế chế phương Bắc. Bấy giờ, Lê Hoàn, tước vương cũng chưa được phong, thì Khuông Việt sao dám gọi vua mình là “hoàng” trước mặt đại diện của thiên triều. Phải gọi “ngã hoàng” là hoàng đế của chúng ta mới phù hợp với ngữ nghĩa, với từ chương giao tế, với sách lược bang giao của người xưa.

Bài từ, ngoài cảm xúc chân tình, làm nên giá trị như đã nói trên, còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quy là tác phẩm mở đầu cho thể tài từ khúc trong văn học cổ, một thể tài đang thăng hoa để trở thành danh ngữ Tống từ, tiếp nối Đường thi, Hán phú... Sư nước Việt ngâm Tống từ tiễn Tống sứ của nước Đại Tống, lẽ nào chỉ là chuyện ngẫu hứng? Huống nữa “Bài từ tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” (Lê Quý Đôn). Tác phẩm quả thực có nhiều chữ hay, tứ đẹp, vừa lụa là gấm vóc, vừa tao nhã điển chương. Tất cả nhằm thể hiện ý hướng: dùng ngôn từ nghệ thuật chuyển tải đường lối bang giao hòa hợp Nam Bắc, một cách chân tình lịch lãm. Đường lối bang giao ấy là thừa nhận vai trò bá quyền chủ tể của Bắc triều Đại Tống (đế hương, ngã hoàng) và vị trí chư hầu, phiên quốc của nước Nam (vị Nam cương). Bảo vệ chính quyền tự chủ là bất di bất dịch, còn thần phục thiên triều thì có thể uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo, cập nhật, thậm chí giả vờ. Sứ mệnh chính trị bang giao của bài ca tiễn sứ đã được đại gia Khuông Việt thể hiện thành công.

Song, dầu Vương lang quy có là danh tác văn chương giàu ý nghĩa lịch sử đi nữa, thì người ta cũng khó đồng tình với Nhà văn - Giáo sư Trần Thanh Đạm, khi ông lấy bài này, sóng đôi với bài Quốc tộ, xem đó là hai tuyệt tác mở đầu lịch sử văn học Việt Nam thời cổ của hai thiền sư thi sĩ thời này. (Xem Hai thiền sư thi sĩ mở đầu văn học cổ điển Việt Nam - Hồn Việt - Nxb. Văn học). Dựa vào tư liệu mà giới nghiên cứu cổ Việt Nam học, trong mươi năm gần đây phát hiện, tôi cho rằng Quốc tộ (QT) Nam quốc sơn hà (NQSH) mới là hai kiệt tác ngang qua một đời vua: Lê Đại Hành.

Ở thời này, đề tài tập trung vẫn là những tác phẩm viết về tâm tư, tình cảm của thế hệ Lê Hoàn đối với vận mệnh của đất nước, vận hội của non sông. Bác Hồ, trong Lịch sử nước ta đã viết:

"Lê Đại Hành nối lên ngôi,
Đánh tan quân Tống, đánh lui Chiêm Thành”.

Chiến tích anh hùng của cộng đồng quốc gia Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn, thật tuyệt vời lại gắn với sự xuất hiện của một bài thơ huyền thoại: NQSH. Và điều này, với tư cách là người phát hiện, xin được trình bày cho rõ ngọn ngành.

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhân đi tìm tác phẩm đầu tiên của văn học dân tộc, để phản bác một ngộ nhận: Bạch vân chiếu xuân hải - bài phú khoa Tiến sĩ thời Đường của Khương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi đỗ lại trở về đất tổ, làm quan to, có lúc ngang Tể tướng thời Đường) là tác phẩm đầu tiên của văn học Việt, tôi đã chú ý đến xuất xứ của bài thơ NQSH. Vào cuộc tìm kiếm đầy hứng thú chưa lâu, thì được cố GS. Trần Quốc Vượng mách cho những dòng viết của GS. Hà Văn Tấn, trong bài Lịch sử, sự thật và sử học (Tổ Quốc - 401 - 1 - 1988) “Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay mọi người dường như đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật”.

Tạm quên ấn tượng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ, để vô tư thâm nhập vào kho sách Hán Nôm, tìm kiếm những tư liệu ghi chép bài thơ, tên bài thơ, các tình tiết có liên quan đến bài thơ. Nhờ viện trợ của đồng nghiệp, thân hữu, trong một thời gian ngắn, tôi đã có được khoảng ba chục văn bản hữu quan, thuộc các loại sách lịch sử, địa lý, truyện ký, thơ ca... và nhiều thần tích, thần phả truyền thuyết dân gian. Quan sát các văn bản này, thấy rõ nhiều điều:

1. Không có một văn bản nào ghi nhận Lý Thường Kiệt là tác giả, hoặc tương truyền là tác giả bài thơ.

2. Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của thần. Thần đây là Trương Hống, Trương Hát, tướng lĩnh của Triệu Quang Phục, bị Lý Phật Tử ép hàng, không chịu khuất phục, nên tự tử, trở thành phúc thần, được thờ phụng ở gần 300 ngôi đền ven các triền sông Cầu, sông Thương...

3. Thần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ tai hoạn, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai lần thần trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống (981), lần thứ hai giúp Lý Thường Kiệt chống Tống (1076). Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau, và cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại. Xin mở ngoặc: bài NQSH hiện hành, ở cả sách giáo khoa, thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, Trương Tôn thần sự tích - khuyết danh v.v... chỉ khác Đại Việt sử ký toàn thư: đảo “phận định” thành “định phận” (Xem Hợp tuyển văn học Trung đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục, H. 2004).

4. Bài thơ không hề được tuyển vào các tuyển tập thơ ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành phần cơ hữu trong truyền thuyết dân gian. NQSH chắc là do nhân sĩ thời tự chủ sáng tác, song đã được dân gian hóa, được hoàn thiện dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng. Rồi sau được cố định trong thần tích, thần phả, truyện ký, nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho nên, phải coi đó là bài thơ thần, tác giả là khuyết danh cũng được, nhưng là vô danh, hoặc vô danh thị thì khoa học hơn.

5. Từ trong những văn bản đáng tin cậy trên đây, có thể thấy: ngộ nhận Lý Thường Kiệt là tác giả NQSH của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược xuất bản từ 1919-1920, là do tự ý, chứ không dựa vào bất kỳ một tư liệu Hán Nôm nào. Đáng tiếc là sau đó, hầu hết các học giả đều sai theo, cho mãi đến hết thế kỷ thứ XX, họa hoằn lắm, một Hoàng Xuân Hãn, một Đặng Thai Mai, mà cũng chỉ chút hoài nghi bất chợt mà thôi !

Các nội dung trên đây đã được viết thành dăm bảy bài, đăng tải trên hàng chục sách báo, tạp chí (Xưa & Nay, Nghiên cứu văn học, Tạp chí Hán Nôm, Văn hóa dân gian, Thế giới mới, Văn nghệ, Văn hiến Hà Nội, Lý Công Uẩn và Vương triều Lý, Khảo và luận, Từ điển tác gia - tác phẩm, Hợp tuyển văn học trung đại, Sách giáo khoa Văn học 9, Tư liệu văn học 10 v.v...), soạn thành giáo án giảng giải ở hàng trăm giảng đường đại học và cao học, cấu tạo thành lời cho nhiều hội thảo, nhiều cuộc chuyện trò, trao đổi... Tất cả đều một kết luận: NQSH là bài thơ thần, vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt như đã ngộ nhận. Kết luận này tuy khoa học, và không kém phần thuyết phục, nhưng ngược lại một định luật, tuy không đúng nhưng từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức đại chúng, nhất là khi đất nước chống ngoại xâm, vì thế không dễ có ngay sự đồng thuận rộng rãi. Đành chờ đợi, chắc cũng chẳng bao xa, khi mà toàn bộ sách giáo khoa trung học bộ mới, cả sách lịch sử và ngữ văn đều đã khẳng định: NQSH là bài thơ thần, Lý Thường Kiệt có thể chỉ là người sử dụng bài thơ thần, để động viên quân sĩ xung trận mà thôi.

Đến đây, cần tìm thời điểm xuất hiện của bài thơ NQSH cũng như truyền thuyết Trương Hống - Trương Hát, như một tác phẩm nhân gian truyền miệng. Tư liệu còn lại cho ta biết thần phù trợ người trừ tai ngữ hoạn nhiều lần, ở nhiều nơi vào những năm tháng khác nhau từ Ngô - Đinh - Lê xuống đến Lý - Trần. Song, thần trực tiếp đọc thơ âm phù đánh giặc ngoại xâm, thì chỉ có hai lần. Lần giúp Lý Thường Kiệt, nhiều người đã biết, lần giúp Lê Hoàn được kể như sau: Năm Thiên Phúc nguyên niên (980) đời Lê Đại Hành, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cầm đầu đạo quân xâm lược nước Nam. Đến sông Đại Than, hai bên đối lũy, cầm cự với nhau. Lê Đại Hành được mộng báo của thần Trương Hống - Trương Hát: “Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh”. Canh ba đêm sau, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng... hai đạo âm binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc mà đánh. Quân Tống kinh hoàng. “Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhẫn phiên thành phá trúc dư”

Dịch là:

Núi sông nước Nam, vua nước Nam ngự trị
Điều ấy trời đã định rõ trong sách trời
Cớ sao giặc Bắc sang xâm lược
Bay sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre

Dịch thơ:

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm.
Bay hãy chờ gươm chém tả tơi.
(Dựa theo Ngô Linh Ngọc)

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan... Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ, huyết thực hưởng đời đời. (Lĩnh Nam chích quái - Trần Thế Pháp - Vũ Quỳnh - Kiều Phú).

Dựa vào tư liệu trên đây và nhiều văn bản truyền thuyết, thần tích được ghi chép lại trong có bài thơ thần NQSH, một số nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ đã xuất hiện đầu thời tự chủ. Nhưng đầu thời tự chủ, cụ thể là thời nào? Chắc không phải là thời đã giành được chính quyền, nhưng vẫn tự xưng và tự phong là Tiết độ sứ từ Khúc Thừa Dụ (905 - 907) đến Dương Đình Nghệ (931 - 937). Chắc chưa phải triều Ngô Quyền (938 - 965) đã xưng vương (939), thể hiện ý thức tự chủ, sánh ngang với các chư hầu của thiên triều, như dự đoán của cố GS. Bùi Văn Nguyên: “Bài thơ này có sắc thái dân gian, xuất hiện thời Ngô Quyền với trận Bạch Đằng thứ nhất. Về sau, Ngô Tuấn (tức Lý Thường Kiệt), dòng dõi Ngô Quyền nhắc lại bài đó ở trận sông Như Nguyệt. Ngô Sĩ Liên chép bài thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau tưởng là thơ Lý Thường Kiệt. Nên cần có cái tên cho bài thơ khuyết danh này, thì để Ngô Quyền, ông tổ của Ngô Tuấn có lẽ đúng hơn”. (Tổng tập văn học Việt Nam, T4. Nxb. KHXH, H. 1995, tr.22). Thậm chí cũng không thể là triều Đinh, dầu cho thời này, vua đã dám xưng là Đinh Tiên Hoàng, sánh so ngang ngửa với Tần Thủy Hoàng ngày xưa và hoàng đế Trung Hoa cùng thời. Hơn nữa, thời này chưa có ngoại xâm lăm le ngoài cõi, chưa cần lời lẽ “tuyên ngôn”. Mà là ở thời Hoàng đế Lê Hoàn, như PGS.TS. Trần Bá Chí khẳng định: NQSH là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định (Xem: Tạp chí Hán Nôm số 4-2003. Bài Về mấy bài Tuyên ngôn độc lập). Nguyễn Thị Oanh trong một công trình nghiên cứu công phu, trên Tạp chí Hán Nôm (Số 1 - 2002), bài Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà cũng chỉ ra rằng: bài thơ NQSH vốn xuất hiện thời Lê Hoàn, như nhiều sách Lĩnh Nam chích quái đã ghi chép, nhưng nhà sử học Ngô Sĩ Liên, theo quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của Lê Hoàn, ưa lòng trung nghĩa của Lý Thường Kiệt, nên đã đem thơ thần phù trợ vua Lê gán cho phù trợ tướng Lý; nay nên trả bài thơ về cho sĩ dân thời đại Lê Hoàn.

Bổ sung vào cách nhìn trên, trộm nghĩ nên là cách nhìn dưới góc độ văn hóa nhất là văn hóa tâm linh của thời đại Lê Hoàn, có phần đã khác với thời đại Lý Thường Kiệt sau hàng trăm năm. NQSH trong truyền thuyết Trương Hống - Trương Hát là tác phẩm có tính chất tập thể, truyền miệng. Sự hình thành tác phẩm là một quá trình, dõi theo hướng thời gian tiệm tiến. Quá trình ấy đi từ huyền đến thực, từ mộng mơ đến thực tiễn, qua cả người ghi chép. Quá trình ấy cũng thể hiện rõ, qua cách thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt. Thần ở cõi hư tiếp xúc với Người (Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt) ở cõi thực, đã giảm dần chất siêu nhiên, linh dị, sắc thái huyền ảo, trước mung lung, nồng đượm, sau nổi nênh, nhòa nhạt, hư thực dường phân. Có cảm giác cả thiên truyền thuyết trong Lĩnh Nam chích quái chỉ để viết về huyền thoại thần điều âm binh, đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc. Trong truyền thuyết, không khí thần kỳ linh dị mung lung, huyền bí, thấm đậm bao trùm, hư thực ảo huyền, âm dương hỗn độn, thần người ứng chiến, thế trận ầm trời dậy đất, mưa to gió lớn đùng đùng... Còn truyền thuyết trong Việt điện u linh Đại Việt sử ký toàn thư thì tình tiết thần đọc thơ âm phù Lý Thường Kiệt chỉ còn là một phiến đoạn, bị đẩy xuống đáy truyện, hoặc để ở cước chú, với chỉ vài câu rằng; đến đời Lý Nhân Tông, quân Tống sang xâm lược, Lý Thường Kiệt lập trại ven sông chống giữ. Một đêm quân sĩ trong đền nghe được tiếng thần ngâm thơ: Nam quốc sơn hà... Rồi quả nhiên quân Tống bị thua phải rút về nước... Tình tiết linh dị, thần kỳ của truyền thuyết bị tước bỏ, không khí huyền thoại loãng nhạt. Nếu nói như F. Hêghen: “Huyền thoại như là một giàn giáo nâng đỡ lịch sử. Nếu chúng ta cố tình gỡ bỏ giàn giáo đó, thì toàn bộ lịch sử sẽ bị đổ sụp” (Dẫn lại bài: Tư tưởng - Thế giới mới 557 - 22/3-2005 - tr.108). Giàn giáo huyền thoại thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc còn rõ dạng hình, đến Lý Thường Kiệt đã bị gỡ bỏ dần, theo tư duy duy lý của Nho gia; không nói đến: “quái, lực, loạn, thần”. Coi NQSH cũng như truyền thuyết lịch sử Trương Hống - Trương Hát xuất hiện vào thời Lê Hoàn, là một dự đoán giàu sức thuyết phục. Với tư liệu hiện nay, một kết luận như thế là tối ưu. NQSH được coi như bản tuyên ngôn độc lập, vừa khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, ngôi vị Nam đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua, dựa vào thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc thời diệt Tống bình Chiêm của triều đại Lê Đại Hành. Nhận định như thế là phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển văn hoá, văn học, của lịch sử dân tộc.

Kiệt tác thứ hai, ở triều đại Hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư Pháp Thuận, danh gia đã đề cập tới ở phần trên, khi tiếp sứ Lý Giác. Theo Thiền uyển tập anh, tác phẩm duy nhất còn giữ lại được văn bản bài thơ, thì Đỗ Pháp Thuận (915-990) học rộng, có tài văn thơ, lời nói phần nhiều hợp với sấm ngữ. “Trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn, hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên mà gọi Đỗ Pháp sư, thường ủy thác cho sư các công việc văn hàn... Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài, sư đáp:

“Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh”

Dịch nghĩa:

Vận nước dài lâu như dây leo quấn quýt
ở trời Nam phải dựng mở thái bình
Nhà vua sống vô vi ở trong cung điện
Thì khắp nước sẽ tắt hết chiến tranh

Dịch thơ:

Vận nước bền vững mãi
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trong điện gác
Chốn chốn hết đao binh.
(Bùi Duy Tân dịch )

Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. Thơ văn Lý - Trần (tập I) có lẽ là tập sách giới thiệu bài thơ đầu tiên, với nhan đề: Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (Trả lời nhà thơ hỏi về vận nước). Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 1) xuất bản 1980, đặt tên bài thơ là Quốc tộ (Vận nước, hoặc Ngôi nước). Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được các sách văn học sử, tổng tập, tuyển tập và cả sách giáo khoa văn học đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Một số sấm thi, sấm ngữ và cả NQSH thường là khuyết danh hoặc vô danh, nên chưa thể xác định được năm tháng tác phẩm ra đời. Thơ kệ của một số thiền sư nặng về thuyết giáo, giá trị văn học có phần hạn chế và hầu hết ra đời còn sau cả Quốc tộ, nên tính chất cột mốc của tác phẩm là điều cần khẳng định.

Cũng như NQSH, QT là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua “hỏi về vận nước ngắn dài”, nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình: “Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách “vô vi nhi trị”. Ba nhãn tự: quốc tộ, thái bình, vô vi vừa là điều kiện vừa là nhân quả cho nhau. “Quốc tộ” có nhiều nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mệnh quốc gia. “Thái bình” theo Hán Việt từ điển của GS. Đào Duy Anh: rất bình yên, thịnh trị, tức một xã hội thanh bình, yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. “Vô vi” là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão Tử, nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị trói buộc trong khuôn phép đạo đức nhân vi. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ mới, khi đặt bài này ở vị trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho “vô vi” nghĩa trong “vô vi pháp” của sách Phật: từ bi, bác ái, vị tha. Thậm chí có thể nghĩ rằng, với tư cách một thiền sư, một cố vấn chính sự, Pháp Thuận đã thể hiện quan niệm tam giáo trong lời thơ. “Vô vi” ở đây gồm “vô vi” của Đạo giáo, “vô vi pháp” của Phật giáo, song chủ yếu là “vô vi nhi trị” của Nho gia. Sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công, có chương: “Tử viết: Vô vi nhi trị, kỳ Thuần dã dư? Phù hà vi tai ? Cung kỷ chính nam diện nhi dĩ hĩ”. Nghĩa là: cái kẻ tự mình ung dung yên tĩnh, mà khiến thiên hạ bình trị, có lẽ là Thuấn đấy ư ? Ông ta có làm gì đâu ? Nghiêm trang đoan chính quay mặt về phía Nam [ý nói làm vua] mà thôi. Cụ Cao Xuân Huy giảng rằng: Vô vi của Khổng Tử là không bày đặt ra, không khai sáng ra, không tổ chức cái gì cả. Đây cũng là thiên nhân hợp nhất, có đức thì trị được, thì người ta hoá theo. Vô vi ở bài thơ chủ yếu là thể hiện phương châm đức trị, đó là hàm ý uyên áo của nhà sư. Như vậy là, với QT, Pháp Thuận đã khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình muôn thuở, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời nhà vua, bằng bốn câu thơ, với nội dung như thế, Pháp Thuận là thiền sư - thi sĩ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái bình muôn thuở của cộng đồng Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn.

Như vậy, triều vua Lê Hoàn, ngoài chiến tích lẫy lừng, còn có thành tựu lớn về văn chương. Hai áng thơ chính luận, hai kiệt tác không tiền khoáng hậu Nam quốc sơn hà Quốc tộ đều là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những truyền thống lớn của văn hóa, văn học dân tộc. Từ lâu, từng khẳng định NQSH có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì nay phải khẳng định thêm QT có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua một đời vua - quang vinh - sang trọng và hoành tráng biết bao./.

B.D.T

TB

THỂ LOẠI TỪ CỦA TRUNG QUỐC DU NHẬP VÀO VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ VỚI VĂN HỌC BẢN ĐỊA

TRẦN NGHĨA

I. THỂ LOẠI TỪ CỦA TRUNG QUỐC ÐƯỢC DU NHẬP VÀO VIỆT NAM TỪ BAO GIỜ ?

Sách Thiền uyển tập anh 禅 苑 集 英 (1) có đoạn chép về nhà sư Khuông Việt 匡 越 như sau: Khuông Việt (933 - 1011) người hương Cát Lị 吉 利, huyện Thường Lạc 常 樂 (Tĩnh Gia 静 嘉 , Thanh Hóa 清 化 ), họ Ngô 吳, tên Chân Lưu 真 流, là con cháu đời sau (hậu duệ) của Ngô Thuận Đế 吳 順 帝(2). Ông dáng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, có chí hướng cao xa. Thuở nhỏ theo học Nho, lớn lên theo học Phật... Năm 40 tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng 丁 先 皇 vời ông về Kinh đô (Hoa Lư) hỏi chuyện. Nhà sư đối đáp hợp với ý vua, được vua phong cho chức Tăng thống 僧 統 . Năm Thái Bình thứ hai (971), ông được ban tên hiệu là Khuông Việt Đại Sư 匡 越 大 师 . Đến triều Lê Đại Hành, ông đặc biệt được vua kính trọng ; phàm các việc lớn trong nước, ông đều được tham gia bàn luận... Năm Thiên Phúc thứ tám (987), nhà Tống sai Lý Giác 李觉 sang sứ nước ta (Việt Nam)(3). Bấy giờ Pháp sư Đỗ Thuận 杜 順 cũng có danh tiếng lớn, được vua sai cải trang thành Giang lệnh 江 令 (người quản lý đường sông) ra bến sông đón tiếp sứ giả. Lý Giác thấy Giang lệnh có tài nói chuyện, bèn làm thơ tặng, trong có câu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天 外 有 天 應 遠 照 (Ngoài trời còn có trời, nên soi thấu). Vua bảo Đỗ Thuận đưa thơ của sứ giả cho Khuông Việt xem. Khuông Việt xem xong, nói: “Sứ giả nước phương Bắc tôn kính bệ hạ không kém gì vua Tống”. Khi Lý Giác về nước, Khuông Việt làm bài từ theo điệu Nguyễn Lang quy 阮 郎 歸 để tặng tiễn, nguyên văn như sau :

祥 光 風 好 錦 帆 張
神 仙 复 帝 鄉
千 重 萬 里 涉 沧 浪
九 天 歸 路 長
情 惨 切
對 離 觴
攀 戀 使 星 郎
愿 將 深 意 為 邊 疆
分 明 奏 我 皇.

“Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục Đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
Đối ly thương
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã Hoàng.”

(Trời đẹp, gió thuận, giương cánh buồm gấm
Bậc thần tiên trở lại chốn Đế đô
Nghìn trùng muôn dặm vượt qua sóng biếc
Đường về nơi cung thất xa xôi
Lòng bịn rịn
Chén biệt ly
Lưu luyến vin xe sứ giả
Mong đem ý nghĩa sâu xa về chuyện biên cương
Tâu lại rành mạch với Hoàng đế chúng ta)(4).

Đoạn văn vừa dẫn cho thấy, muộn nhất là vào thế kỷ X, thể loại từ của Trung Quốc đã truyền tới Việt Nam, được người bản địa sử dụng để sáng tác. Người soạn ra bài từ là một nhà sư, và bài từ này của Ngô Chân Lưu về sau đã trở thành một trong những tác phẩm mở đầu cho dòng văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam sau ngày độc lập tự chủ.

II. CÁC CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VIỆT NAM

Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu vẫn cho rằng thể loại từ sau khi truyền vào Việt Nam, đã không có đất để phát triển. Một là vì muốn sáng tác được từ, phải am hiểu từ luật, mà từ luật thì rất khó nắm. Đến như một ông vua sính văn chương ở Việt Nam như Tự Đức mà còn phải kêu lên rằng: “Tại sao từ luật cứ bám vào các thanh thượng, khứ, nhập mà không xê dịch được ? Gò gẫm quá, khó triển khai” (何 词 律 乃 拘 拘 上 去 入 不 可 移, 则 甚 局 促 , 難 展 )(5). Hai là bởi các nhà Nho đời sau thường coi trọng văn, xem nhẹ từ, cho từ là “hại đạo”: “Văn là để chở đạo. Trong lòng không thành thực thì không thể hiện được ra bên ngoài. Cho nên Vọng Khê không mấy quan tâm đến thơ, cho là hại đạo, huống chi là từ” (文 以 載 道 . 非 誠 於 中 ,不 形 於 外 . 故 望 溪 不 屑 留 心 於 詩 ,以 為 害 於 道 , 况 詞 乎 哉 ! )(6).

Nhưng trên thực tế, tình hình chưa hẳn là như vậy. Sau nhiều năm sưu tầm, góp nhặt, hiện trong tay tôi đã có được một khối lượng tác giả, tác phẩm về từ rất đáng khích lệ và tự chúng đã vạch nên một lịch sử phát triển về từ Việt Nam gồm nhiều giai đoạn, đại để như sau:

Các giai đoạn phát triển Tác giả Từ tập, từ tuyển ... Số lượng bài Bị chú
( I )
TK.XV trở về trước ( Đinh - Lê - Lý - Trần - Lê sơ )
1. Ngô Chân Lưu 吳 真 流 (933 - 1011) 1 Hiện chép trong Thiền uyển tập anh 禅 苑 集 英 VHv.1267
2. Lương Như Hộc 梁 如 鵠 ( TK.XV ) Cổ kim chế từ tập 古 今 制 詞 集 ? Theo Nghệ văn chí 藝 文 誌 của Lê Quý Đôn. Sách hiện chưa tìm thấy.
( II )
TK. XVIII (Lê Trung hưng )
1. Đoàn Thị Điểm 段 氏 点 (1705 - 1740) 5 Hiện chép trong Truyền kỳ tân phả 傳 奇 新 譜 , A.48
2. Khuyết danh 9 Hiện chép trong Hoa viên kỳ ngộ tập 花 園 奇 遇 集, A.2829
3. Khuyết danh 1 Hiện chép trong Truyện ký trích lục 傳 記 摘 录 , A.2895
4. Khuyết danh 5 Hiện chép trong Việt Nam kỳ phùng sự lục 越 南 奇 逢 事 錄 , A.1006
( III )
TK. XIX ( Nguyễn )
1. Tương Giang Mai Cát Phủ 湘 江 枚 吉 甫 (? - ?) 1 Hiện chép trong Đào hoa mộng ký 桃 花 夢 記 , VHv.2151
2. Phan Huy Chú 潘 輝 注 (1782-1840) 8 Hiện chép trong Hoa thiều ngâm lục 華軺 吟 錄 , A.2041
3. Nguyễn Miên Thẩm 阮 綿 审 (1819-1870) Cổ duệ từ 鼓 枻 詞 104
4. Nguyễn Hoàng Trung 阮 黄 中 (? - ?) 22 Hiện chép trong Nguyễn Hoàng Trung thi tạp tập. Trường đoản cú 阮黄中詩 杂 集 . 長 短 句 , A.2274
5. Khuyết danh Cổ điệu ngâm từ 古調吟詞 A. 2262 64
6. Lật Viên 栗 园 (? - ?) Điền từ 填 詞 ? Cổ duệ từ 古 枻 词 có bài Đề Lật Viên Điền từ quyển hậu 題 栗 園 填 詞 卷 后. Sách hiện chưa tìm thấy.
7. Trịnh Phong Nhân 鄭 楓 人 (? - ?) Ngọc Điền Thảo Đường từ 玉 田 草 堂詞 ? Cổ duệ từ 古 枻 詞 có bài Dư nhã hữu... nhân họa Trịnh Phong nhân vận 余 雅 有 … 因 和 鄭 楓 人 韵 . Sách hiện chưa tìm thấy.
8. Tử Dụ 子 裕 (? - ?) Từ thoại 詞 話 ? Vi Dã hợp tập. Văn 3. Dữ Trọng Cung luận điền từ thư 葦 野 合 集. 文 三 .與 仲 恭 論 填 詞 書 . Sách hiện chưa tìm thấy.
9. Khuyết danh Từ tuyển 詞 選 ? Vi Dã hợp tập. Văn 3. Miên Trinh có viết bài Từ tuyển bạt 绵 , 詞 选 跋 . Sách hiện chưa tìm thấy.

Bảng thống kê về tác giả, tác phẩm trên đây cho thấy từ của Việt Nam có thể đã phát triển qua 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu từ Đinh - Lê - Lý - Trần đến Lê sơ, gồm 2 tác giả, 1 từ tập, với số lượng bài từ hiện sưu tầm được là 1 bài. Giai đoạn thứ hai chủ yếu là thời Lê Trung hưng, gồm 4 tác giả, với số lượng bài từ hiện sưu tầm được là 20 bài. Giai đoạn thứ ba chủ yếu là thời Nguyễn, gồm 9 tác giả, 3 từ tập, với số lượng bài từ hiện sưu tầm được là 199 bài. Tổng cộng số bài từ sáng tác qua cả 3 giai đoạn hiện sưu tầm được là 220 bài.

Có thể nói thể loại từ của Trung Quốc sau khi du nhập Việt Nam, không những không bị thui chột, mà trái lại, đã ngày càng thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả; chủng loại sách biên soạn, cũng như số lượng các bài từ làm ra mỗi ngày một dồi dào hơn.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA THỂ LOẠI TỪ ĐỐI VỚI VĂN HỌC BẢN ĐỊA

1.Thể loại từ của Trung Quốc sau khi du nhập Việt Nam, đã cung cấp thêm cho giới sáng tác một dạng thức biểu đạt mới thuộc lĩnh vực văn vần, tiếp sau thể thơ và thể phú đã được truyền vào Việt Nam từ mấy thế kỷ trước đó.

Như chúng ta đều biết, bài thơ cổ nhất của Việt Nam là bài Điếu Pháp sư Đạo Hy 吊 法 師 道 希 của Đại Thừa Đăng 大 乘 灯 người Ái Châu (Thanh Hóa, Việt Nam), học trò của Huyền Trang 玄奘 (602 - 664), Trung Quốc. Tác phẩm này hiện chép trong Đại Đường Tây vực cầu pháp Cao tăng truyện 大 唐 西 域 求 法 高 僧 傳 . Bài phú cổ nhất của Việt Nam là bài Bạch vân chiếu xuân hải 白 雲 照 春 海 của Khương Công Phụ 姜 公 輔 (TK. VIII), cũng người Ái Châu, hiện chép trong Toàn Đường văn 全 唐 文, Q.446. Còn về từ thì như trên đã đề cập, tác phẩm cổ nhất của Việt Nam là bài từ làm theo điệu Nguyễn lang quy của Ngô Chân Lưu tặng sứ giả nhà Tống Lý Giác vào năm 987.

2. Sau khi được người Việt Nam tiếp nhận, thể loại từ đã nhanh chóng tạo ra cho mình một số sân chơi. Từ tham gia vào việc bang giao, như trường hợp tác phẩm của Ngô Chân Lưu. Từ đi vào cung đình, như bài Tảo triều 早 朝 làm theo điệu Yết kim môn 謁 金 門 và bài Ngọ triều 午 朝 làm theo điệu Hạ thánh triều 賀 聖 朝 trong Cổ điệu ngâm từ. Từ được soạn ra để phổ nhạc, như Tự Đức từng cho biết: “Lời của một số bài hát ở nước ta là soạn theo điệu từ của Trung Quốc, như điệu từ Liêm ngoại 帘 外 chẳng hạn mà bấy lâu nay ta vẫn dùng” (Vi Dã hợp tập. Văn 1. Tờ 38b-39a,b). Nhưng nhiều nhất vẫn là những bài từ không liên quan gì tới nhạc, được soạn ra để giao tiếp, tặng đáp, tỏ bày chí hướng, cung cấp món ăn tinh thần cho bạn đọc v.v. mà ta dễ dàng bắt gặp trong các từ tập như Cổ duệ từ, Cổ điệu ngâm từ, hay trong các cuốn tiểu thuyết như Hoa viên kỳ ngộ, Đào hoa mộng ký, v.v.

3. Theo thống kê sơ bộ của tôi, các tác giả Việt Nam đã sử dụng cả thảy 125 điệu từ khác nhau của Trung Quốc để sáng tác, một con số quả tình không nhỏ, điều này nói lên khả năng và trình độ “điền từ” của người nước ta. Mặt khác, trong số 125 điệu từ ấy, những điệu từ được dùng nhiều nhất là Tây giang nguyệt 西 江 月 (7 lần), Lâm giang tiên 臨 江 仙 (7 lần), Hành hương tử 行 香 子 (6 lần), Ức Tần Nga 憶 秦 娥 (5 lần), Cán khê sa 浣 溪 沙 (5 lần), Vọng giang nam 望 江 南 (5 lần) v.v. Những điệu từ được dùng ít nhất là Nhất diệp lạc 一 叶 落 (1 lần), Thượng tây lâu 上 西 樓 (1 lần), Phong nhập tùng 風 入 松 (1 lần), v.v. Điều này nói lên thị hiếu của công chúng Việt Nam đối với các làn điệu từ mà Trung Quốc đã có. (Xem “Bảng thống kê các điệu từ của Trung Quốc được người Việt Nam sử dụng để sáng tác” bên dưới).

Lần đầu sưu tập và tìm hiểu ảnh hưởng của các làn điệu từ của Trung Quốc được người Việt Nam sử dụng để sáng tác, sự nhầm lẫn, sai sót là khó tránh khỏi, mong các vị thức giả vui lòng chỉ vẽ cho.

T.N

CHÚ THÍCH

(1) Thiền uyển tập anh: một cuốn sách Phật giáo Việt Nam, ghi chép các tông phái Thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng từ cuối thời Bắc thuộc đến đời Đinh, Lê, Lý.

(2) Ngô Thuận Đế: tên thụy của Ngô Quyền. Theo gia phả họ Ngô (吳 氏 世 譜 ), Ngô Chân Lưu là con Ngô Xương Tỉ, cháu Ngô Xuân Sắc. (Dẫn theo Bd. Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích, Nxb. Văn học, 1990, tr.42, chú thích 2).

(3) Đây là lần thứ hai Lý Giác sang sứ Việt Nam. Lần thứ nhất là vào năm Thiên Phúc thứ bảy (986).

(4) Thiền uyển tập anh. Đệ tứ thế. Khuông Việt Đại sư. Sđd, tr.44.

(5) Vi Dã hợp tập 苇 野 合 集 , Văn 1, Đáp chiếu trát tử 答 诏 子 , tờ 38b - 39ab.

(6) Vi Dã hợp tập, Văn 3, Dữ Trọng Cung luận điền từ thư 與 仲 恭 論 填 辞 書, tờ 34b-36a.

BẢNG THỐNG KÊ CÁC ĐIỆU TỪ CỦA TRUNG QUỐC ĐƯỢC NGƯỜI VIỆT NAM SỬ DỤNG ĐỂ SÁNG TÁC
*Ký hiệu về nguồn sách (Xếp theo trình tự số lượng các bài từ
từ nhiều đến ít):

A : Cổ duệ từ 鼓 枻 詞

B : Cổ điệu ngâm từ 古 調 吟 詞 , A.2262

C : Nguyễn Hoàng Trung thi tạp tập 阮 黃 中 詩 雜 集 , A.2274

D : Hoa viên kỳ ngộ tập 花 園 奇 遇 集 , A.2829

E : Hoa thiều ngâm lục 華 軺 吟 錄 , A.2041

G : Việt Nam kỳ phùng sự lục 越 南 奇 逢 事 錄 , A.1006

H : Truyền kỳ tân phả 傳 奇 新 譜 , A.48

I : Truyện ký trích lục 傳 記 摘 錄 , A.2895

K : Ðào hoa mộng ký 桃 花 夢 記 , VHv.2152

L : Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英 , VHv.1267

Bảng thống kê :

TT Tên điệu từ Nguồn sách và số lần xuất hiện của điệu từ trong sách
A B C D E G H I K L Tổng số
1 Bồ tát man 菩 薩 蠻 (蠻 或 作 鬘 ) 2 1 1 4
2 Bộ bộ kiều 步 步 嬌 1 1
3 Bộ thiềm cung 步 蟾 宮 1 1 2
4 Bốc toán tử 卜 算 子 1 1 2
5 Cách phố liên 隔 浦 蓮 1 1 2
6 Cán khê sa 浣 溪 沙 4 1 5
7 Canh lậu tử 更 漏 子 1 1
8 Chiêu Quân oán 昭 君 怨 1 1
9 Chúc Anh Đài cận 祝 英 台 近 1 1
10 Chuyển ứng khúc 轉 應 曲 1 1
11 Chương Đài liễu 章 台 柳 1 1
12 Cô loan 孤 鸞 1 1
13 Dạ hành thuyền 夜 行 船 1 1
14 Du thanh Mộc lan hoa 偷 聲 木 蘭 花 1 1
15 Dương Châu mạn 揚 州 慢 2 2
16 Dương liễu chi 楊 柳 枝 2 2
17 Dương quan dẫn 陽 關 引 1 1
18 Đa lệ 多 麗 1 1
19 Đào hoa khúc 桃 花 曲 1 1
20 Đào nguyên ức cố nhân 桃 源 憶 故 人 1 1 2
21 Đảo luyện tử 搗 練 子 1 1 2
22 Đạp sa hành 踏 莎 行 1 1
23 Điểm giáng thần 點 絳 唇 1 1 2
24 Điệp luyến hoa 蝶 戀 花 1 1 2
25 Giá cô thiên 鷓 鴣 天 2 2 4
26 Giải bội lệnh 解 佩 令 1 1
27 Giảm tự mộc lan hoa 減 字 木 蘭 花 2 1 3
28 Giang thành mai hoa dẫn 江 城 梅 花 引 1 1
29 Giang thành tử 江 城 子 1 1
30 Hạ tân lang 賀 新 郎 1 1
31 Hạ thánh triều 賀 聖 朝 2 2
32 Hải đường xuân 海 堂 春 1 1
33 Hành hương tử 行 香 子 4 1 1 6
34 Hảo sự cận 好 事 近 1 1 2
35 Hậu đình hoa 後 庭 花 1 1
36 Hiệt phương từ 襭 芳 詞 1 1
37 Hoa phi hoa 花 非 花 1 1 2
38 Hoa tâm động 花 心 動 1 1
39 Họa đường xuân 畫 堂 春 1 1
40 Khốc tương tư 酷 相 思 1 1
41 Kim nhân bổng lộ bàn 金 人 俸 露 盤 1 1
42 Lãng đào sa (cũng gọi là Mại hoa thanh) 浪 淘 沙 (賣 花 聲 ) 2 1 1 4
43 Lâm giang tiên 臨 江 仙 3 1 1 1 1 7
44 Liên lý chi 連 理 枝 1 1
45 Liễu sảo thanh 柳 梢 青 2 1 3
46 Luyến tú khâm 戀 繡 衾 1 1
47 Lưỡng đồng tâm 兩 同 心 1 1
48 Mai hoa khúc 梅 花 曲 1 1
49 Mại bi đường 邁 陂 塘 1 1
50 Mãn đình phương 滿 庭 芳 1 2 1 4
51 Mãn giang hồng 滿 江 紅 1 1 2
52 Mô ngư nhi 摸 魚 兒 2 2
53 Mô ngư tử 摸 魚 子 1 1
54 Mộc lan hoa 木 蘭 花 2 2
55 Mộc lan hoa mạn 木 蘭 花 慢 1 1
56 Mộng Giang Nam 夢 江 南 1 1
57 Nam kha tử 南 柯 子 (hay Xuân tiêu khúc 春 宵 曲 , Bích song mộng 碧 窗 夢 ) 1 2 1 4
58 Nam hương tử 南 鄉 子 1 1
59 Nghê thường trung tự đệ nhất 霓 裳 中 序 第 一 1 1
60 Ngọc lâu xuân 玉 楼 春 1 1 2
61 Ngọc lậu trì 玉 漏 遲 1 1
62 Ngu mỹ nhân 虞 美 人 2 1 3
63 Nguyễn lang quy 阮 郎 歸 1 1 2
64 Ngư gia ngạo 漁 家 傲 1 1
65 Nhãn nhi mị 眼 兒 媚 1 1
66 Nhân nguyệt viên 人 月 圓 1 1
67 Nhất chi xuân 一 枝 春 1 1
68 Nhất diệp lạc 一 葉 落 1 1
69 Nhất tiển mai 一 翦 梅 1 1 1 1 4
70 Như mộng lệnh 如 夢 令 1 1 1 1 4
71 Niệm nô kiều 念 奴 嬌 1 1
72 Pháp giá đạo dẫn 法 驾 導 引 1 1
73 Pháp khúc hiến tiên âm 法 曲 獻 僊 音 1 1
74 Phong lưu tử 風 流 子 1 1
75 Phong nhập tùng 風 入 松 1 1
76 Phượng hoàng các 鳳 凰 閣 1 1
77 Phượng hoàng đài thượng ức xuy tiêu 鳳 凰 臺 上 憶 吹 簫 1 1 2
78 Quy tự dao 歸 自 謠 1 1
79 Quyện tầm phương 倦 尋 芳 1 1
80 Sơ liêm đạm nguyệt 疏 簾 淡 月 2 2
81 Sương thiên hiểu giác 霜 天 曉 角 1 1 2
82 Tái đoàn viên 再 團 圓 1 1
83 Tấm viên xuân 沁 園 春 1 1
84 Tây Giang nguyệt 西 江 月 3 1 1 1 1 7
85 Thạch châu mạn 石 州 慢 1 1
86 Thái tang tử 采 桑 子 1 1
87 Thái thường dẫn 太 常 引 1 1
88 Thanh bình lạc 清 平 樂 1 1 2
89 Thanh ngọc án 青 玉 案 1 1 2
90 Thanh thanh mạn 聲 聲 慢 1 1
91 Thành đầu nguyệt 城 頭 月 1 1
92 Thế nhân kiều 人嬌 1 1
93 Thiềm cung khúc 蟾宮曲 1 1
94 Thiên thu tuế lệnh 千秋歲令 1 1
95 Thiên tiên tử 天仙子 1 1 2
96 Thiếu niên du 少年游 1 1
97 Thu ba mị 收波媚 1 1
98 Thủy điệu ca đầu 水調歌頭 1 1
99 Thủy long ngâm 水龍吟 1 1
100 Thụy giá cô 瑞鷓鴣 1 1
101 Thước kiều tiên 鵲橋僊 1 1 2
102 Thượng tây lâu 上西樓 1 1
103 Tích ngân đăng 銀 燈 1 1
104 Tích phân phi 惜 分 飛 1 1 2
105 Tiểu đào hồng 小 桃 紅 1 1
106 Tiểu trùng sơn 小 重 山 1 1 1 3
107 Tô mạc già 蘇 幕 遮 1 1
108 Trà bình nhi 茶 瓶 儿 1 1
109 Triều thiên tử 朝 天 子 (子 ,原 文 作 惜 ) 1 1 2
110 Trùng điệp kim 重 疊 金 1 1
111 Trường tương tư 長 相 思 1 2 1 4
112 Túy hoa âm 醉 花 陰 1 1 2
113 Túy hoa gian 醉 花 間 1 1
114 Túy xuân phong 醉 春 風 2 2
115 Tứ tự lệnh 四 字 令 1 1
116 Ức cố nhân 憶 故 人 1 1
117 Ức Hán nguyệt 憶 漢 月 1 1
118 Ức Tần Nga 憶 秦 蛾 2 1 1 1 5
119 Ức vương tôn 憶 王 孫 2 2 4
120 Vọng giang nam 望 江 南 1 1 1 2 5
121 Vũ trung hoa 雨 中 花 1 1
122 Xú nô nhi lệnh 醜 奴 兒 令 1 1
123 Xuân quang hảo 春 光 好 1 1 1 3
124 Ý nan vong 意 難 忘 1 1
125 Yết kim môn 謁 金 門 1 1 2
Cộng 104 64 22 9 8 5 5 1 1 1 220

TB

VỀ BÀI TỪ NGỌC LANG QUY CỦA KHUÔNG VIỆT

NGUYỄN ĐÌNH PHỨC

Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, mục Khuông Việt Đại sư truyện chép: “(Thiên Phúc) thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính, thời Pháp sư Đỗ Thuận diệc hữu thạnh danh, Đế mệnh biến phục vi giang lệnh, nghinh ư Giang Khúc. Giác kiến kỳ thiện ư văn đàm, dĩ thi tặng chi, hữu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” chi cú. Đế dĩ thị sư, đối viết: ‘Thử tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ bất dị’. Giác hoàn, sư tác từ viết Ngọc lang quy tống chi, kỳ từ vân: ‘Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, thần tiên phục đế hương. Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương, cửu thiên quy lộ trường. Nhân tình thảm thiết, đối ly thương. Phan luyến tinh tinh lang, nguyện tương thâm ý vị nam cương, phân minh báo ngã hoàng’ ”.

Dịch nghĩa:

Đời Lê, năm Thiên Phúc thứ 7 (968), Nguyễn Giác sang sứ nước ta. Thời ấy pháp sư Đỗ Thuận nổi tiếng văn chương, vua (chỉ Lê Đại Hành) bèn sai Thuận mặc thường phục, giả làm người chèo đò, đón Giác ở Khúc Giang. Giác thấy Thuận giỏi văn chương, bèn làm thơ tặng, trong thơ có câu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu”. Vua đem thơ ấy hỏi Khuông Việt, Khuông Việt nói: ‘Bài thơ này có ý tôn Bệ hạ như chúa của nó vậy’. Khi Giác về nước, Khuông Việt làm bài từ Ngọc lang quy để tiễn. Bài từ như sau:

“Gió xuân đầm ấm gấm buồm gương, thần tiên về đế hương.

Non nước nghìn trùng vượt đại dương, trời xa bao dặm trường.

Tình thảm thiết, chén bi thương.

Vin xe sứ vấn vương, dám xin tâu rõ cùng Thánh thượng, lưu ý chốn biên cương”.

Cùng sự kiện trên, Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I, phần Lê kỷ chép: “(Thiên Phúc), Đinh Hợi bát niên, Tống Ung Hy tứ niên xuân, ... Tống phục khiển Lý Giác lai. Chí Khúc Giang tự, Đế khiển pháp sư danh Thuận, giả vi giang lệnh, nghinh chi. Giác thậm thiện văn đàm, thời hội hữu lưỡng nga phù thủy diện trung, Giác hỷ ngâm vân: Nga nga lưỡng nga nga, ngưỡng diện hướng thiên nha’. Pháp sư ư bả trạo, thứ vận thị chi viết: ‘Bạch mao phô lục thủy, hồng trạo bãi thanh ba’. Giác ích kỳ chi. Cập quy quán, dĩ thi dị chi viết: ‘Hạnh ngộ minh thời tán thịnh du, nhất thân nhị độ sứ Giao Châu. Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến, Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu. Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch, xa từ thanh chướng phiếm trường lưu. Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu’. Thuận dĩ thi hiến, Đế triệu tăng Ngô Khuông Việt quan chi. Khuông Việt viết: ‘Thử thi tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ vô dị’. Đế gia kỳ ý, hậu dị chi. Giác từ quy, chiếu Khuông Việt chế khúc dĩ tiễn, kỳ từ viết: "Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, diêu vọng thần tiên phục đế hương. Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương, cửu thiên phục lộ trường. Tình thảm thiết, đối ly thương. Phan luyến sứ tinh lang, nguyện tượng thâm ý vị biên cương, phân minh tấu ngã hoàng".

Dịch nghĩa:

Năm Đinh Hợi Thiên Phúc thứ 8 (987), Tống lại sai Lý Giác sang sứ. Giác tới chùa Khúc Giang, vua sai pháp sư tên Thuận, giả làm người chèo đò nghênh đón. Giác vốn giỏi văn chương, vừa khi có hai con ngỗng bơi trên mặt nước, bèn ngâm vui: ‘Ngỗng kia đôi con ngỗng, ngửng mặt ngó ven trời’. Pháp sư đang cầm chèo, cũng tiếp vận đọc: ‘Lông trắng phô nước biếc, chèo hồng rẽ sóng bơi’. Giác càng lấy làm lạ. Đến khi về đến sứ quán, Giác làm thơ tặng Thuận, thơ rằng:

May gặp thái bình giúp trí mưu,
Một thân hai lượt sứ Giao Châu.
Đông Đô lưỡng biệt se lòng khách,
Nam Việt nghìn trùng mỏi mắt nhau.
Ngựa đạp khói mây băng đá hiểm,
Xe bon rừng biếc vượt dòng dâu.
Ngoài trời lại có trời nên chiếu,
Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thâu.

Thuận đem bài thơ dâng lên vua. Vua triệu Khuông Việt đến hỏi. Khuông Việt nói: ‘Bài thơ này có ý tôn Bệ hạ như chúa của nó vậy’. Vua khen ý ấy, tặng thưởng trọng hậu. Đến khi Giác về nước, vua xuống chiếu cho Khuông Việt viết một bài khúc để tiễn đưa. Bài khúc thế này:

Gió xuân đầm ấm gấm buồm giương, xa ngóng thần tiên về đế hương.

Non nước nghìn trùng vượt đại dương, trời xa bao dặm trường !

Tình thảm thiết, chén bi thương.

Vin xe sứ giả lòng vấn vương, dám xin tâu rõ cùng Thánh thượng, lưu ý chốn biên cương.

Ngoài hai tài liệu trên, Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án cũng chép sự việc trên, nhưng về cơ bản thống nhất với Đại Việt sử ký toàn thư. Ở đây bởi lý do trên, chúng tôi tạm thời không đưa Việt sử tiêu án vào phạm vi khảo sát. Lý Giác sang sứ Việt Nam là việc có thật, được ghi vào tín sử, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Trung Quốc (xem Tống hội yếu tập cảo, Tục tư trị thông giám trường biên, Tục tư trị thông giám, v.v...). Hai tài liệu của Việt Nam nói trên tuy cùng chép một sự việc, nhưng bộc lộ không ít mâu thuẫn, nhất là phần liên quan đến bài từ Ngọc lang quy. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt đi giải quyết những mâu thuẫn nói trên.

1. “Thất niên” hay “bát niên”?

Thiền uyển tập anh ngữ lục chép: “(Thiên Phúc) thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính...” Đại Việt sử ký toàn thư chép: “(Thiên Phúc) Đinh Hợi bát niên, Tống Ung Hy tứ niên xuân... Tống phục khiển Lý Giác lai...” Nguyễn Giác tức Lý Giác. Đại Việt sử ký toàn thư quyển 5 Trần Thái Tông kỷ chép: “(Kiến Trung Nhâm Thìn bát niên) hạ lục nguyệt, ban quốc húy, miếu húy, nguyên tổ húy Lý, nhân cải Lý triều vi Nguyễn triều, thả tuyệt dân chi vọng Lý thị dã”. (Năm Nhâm Thìn Kiến Trung thứ tám), mùa hạ tháng sáu, ban quốc húy, miếu húy, vì nguyên tổ nhà Trần có tên húy là Lý, nhân đó đổi họ Lý ra họ Nguyễn, cũng là để bách tính không còn nhớ đến nhà Lý nữa). Thiền uyển tập anh ra đời vào đời Trần, việc chép Lý Giác thành Nguyễn Giác là điều có thể hiểu được. Thiên Phúc thất niên, tức năm 986 sau công nguyên, ứng với năm thứ ba niên hiệu Ung Hy đời Tống. Sách Tục tư tự thông giám chép: (Ung Hy tam niên đông thập nguyệt) Canh Thân, dĩ Lê Hoàn vi Tĩnh Hải Tiết độ sứ, mệnh Tả bổ khuyết kinh triệu Lý Nhược Chuyết, Quốc tử giám ích đô Lý Giác, lãi chiếu vãng sứ”. {(Mùa đông tháng mười năm Ung Hy thứ ba) ngày Canh Thân, sai Tả bổ khuyết kinh triệu Lý Nhược Chuyết và Quốc tử giám ích đô Lý Giác đem chiếu sang phong cho Lê Hoàn chức Tĩnh Hải Tiết độ sứ}. Phần khảo dị sách ấy chép tiếp: “Giác sứ Giao Châu, Thực lục tại thập nhị nguyệt Tân Tỵ, kim bính thư chi”. [Việc Giác đi sứ Giao Châu, sách Thực lục (tức Tống Thái Tông thực lục) chép vào ngày Tân Tỵ tháng 12, nay chép chung ở đây]. Có thể thấy Nhược Chuyết và Giác không cùng sang sứ nước ta. Theo sách Nhị thập sử sóc nhuận biểu của Trần Viên, tháng 12 năm Ung Hy thứ ba không có ngày Tân Tỵ, chỉ có ngày Tân Tỵ vào tháng 1 năm Ung Hy thứ tư, tức ngày 18 tháng 1. ở đây có lẽ Thực lục đã chép nhầm, nhưng dù cho việc đi sứ của Giác vẫn ở tháng 12, thì đoạn đường mà Giác phải trải qua từ Biện Kinh đến nước ta cũng chiếm thời gian không ít. Như vậy, khi Giác cùng đoàn tùy tùng đặt chân lên đất Giao Châu, thời gian khi ấy ắt đã là mùa xuân năm Ung Hy thứ tư. Có thể nói Đại Việt sử ký toàn thư đã thấy được mối quan hệ trên, việc chép “Đinh Hợi bát niên, Tống Ung Hy tứ niên xuân” là hợp lý.

2. “Ngọc lang” hay “Vương lang”?

Sách Thơ văn Lý - Trần (Tập 1) do Viện Văn học thuộc ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam biên soạn, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1977, khi đề cập đến tác phẩm nói trên của Khuông Việt, ghi là Vương lang quy, đồng thời chua thêm rằng: “Đầu đề này chỉ chép ở Thiền uyển tập anh, Đại Việt sử ký toàn thư không chép. Vương lang quy có thể chỉ là tên khúc ca, chứ không hẳn là đầu đề”.

Quan điểm của chúng tôi về căn bản đi ngược với những nhận xét trên đây. Trước hết, liên quan đến truyền bản của Thiền uyển tập anh, giới nghiên cứu đa số đều công nhận sách này hiện có hai hệ thống truyền bản, tức truyền bản đời Lê và đời Nguyễn. Trong truyền bản đời Lê, “Vương lang” được chép thành “Ngọc lang”. Theo Hán Ngữ đại từ điển (Thượng Hải Từ Thư xuất bản năm 2002) hai chữ “Ngọc lang” thường dùng để tôn xưng người đàn ông. Ở đây Khuông Việt dùng “Ngọc lang” theo nghĩa ngoại giao, có ý tôn trọng Lý Giác. Giác họ Lý, dùng “Ngọc lang” để tôn xưng là hợp logic, giữ lại hai chữ “Vương lang” thật khó có thể lý giải mối quan hệ nói trên. Học giả Hồng Kông - Trịnh Vĩnh Thường trong Hán văn văn học tại An nam đích hưng thế dẫn theo bản Đại Việt sử ký toàn thư, mặc dù tác giả đã biết rõ tác phẩm này viết cho ai, nhưng khi đề cập đến tên của tác phẩm vẫn chép là “Tống ngọc lang”. Như vậy chữ “vương” trong truyền bản đời Nguyễn thực chất chỉ là chữ “ngọc”, ấy là do thợ khắc khắc thiếu một dấu chấm mà ra.

3. “Từ” hay “khúc”?

Ngọc lang quy là từ hay khúc, đây là một trong những vấn đề mấu chốt để giải quyết sự khác biệt về văn tự giữa Thiền uyển tập anh Đại Việt sử ký toàn thư. Về việc quy loại Ngọc lang quy, trước nay giới học thuật có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu chung có ba loại ý kiến cơ bản như sau:

Thứ nhất, coi Ngọc lang quy là một bài từ. Đây là quan điểm chiếm số đông, mà đại diện tiêu biểu là tác giả Thiền uyển tập anh Lê Quý Đôn. Lê Quý Đôn trong Toàn việt thi lục, phần Lệ ngôn chép: “Ngã bang triệu khải văn minh, vô tốn Trung Quốc. Lê Tiên Hoàng tống Tống sứ Lý Giác nhất từ, uyển lệ khả cúc”. (Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài từ vua Tiền Lê tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được).

Thứ hai là quan điểm cho Ngọc lang quy là một bài khúc. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Chiếu Khuông Việt chế khúc dĩ tiễn”. Trịnh Vĩnh Thường trong Hán văn học tại An nam đích hưng thế nói: “Khuông Việt Tống ngọc lang nhất khúc, vô luận thị áp vận, dụng từ, giai huy sái tự như, một hữu điêu trác chi tích”. (Khúc Tống ngọc lang của Khuông Việt bất luận ở mặt dùng từ, hiệp vận đều tự nhiên thoải mái, không chút dấu vết của sự gọt đẽo).

Thứ ba là quan điểm cho Ngọc lang quy là biến thể của từ điệu Nguyễn lang quy. Học giả Trung Quốc Hà Thiên Niên trong Việt Nam cổ điển thi ca truyền thống đích hình thành, Mạc tiền thi ca nghiên cứu(1) sau khi dẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư nói: Giá thị Việt Nam khả kiến đích tối tảo đích từ, Đại Việt sử ký toàn thư vị tái thử từ đích từ điệu, Thiền uyển tập anh tác Ngọc lang quy. Tra Từ phổ thư vô Ngọc lang quy nhất điệu, Nguyễn Lang quy tứ thập thất tự, tiền đoạn tứ cú bình vận, hậu đoạn ngũ cú tứ bình vận. Đán Thiền uyển tập anh cập Đại Việt sử ký toàn thư sở tái văn tự giai dữ thử bất thậm hợp, thượng khuyết đệ nhị cú ưng vi ngũ tự, nhi Đại Việt sử ký toàn thư vi thất tự; hạ khuyết thủ lưỡng cú các tam tự, nhi Thiền uyển tập anh hợp vi nhất cú thất tự, toàn từ thành tứ đối thất ngũ cú. Giá chủng bất đồng, khả thị vi Ngọc lang quy đích biến cách”. (Đây là bài từ sớm nhất còn thấy ở Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư không ghi từ điệu, Thiền uyển tập anh chép là Ngọc lang quy. Qua tra sách Từ phổ, không thấy có điệu Ngọc lang quy. Điệu Nguyễn lang quy 47 chữ, đoạn trước bốn câu vận bằng, đoạn sau năm câu bốn vận bằng. Bài từ chép trong Thiền uyển tập anh Đại Việt sử ký toàn thư khác xa điệu này, (bài ấy) đoạn trên câu thứ hai đáng lý phải năm chữ, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư chép đến bảy chữ; đoạn dưới hai câu đầu mỗi câu đáng lẽ phải ba chữ, nhưng Thiền uyển tập anh gộp thành một câu bảy chữ, cả bài thành bốn cặp câu năm và bảy chữ. Sự khác biệt này, có thể xem là biến thể của điệu Ngọc lang quy). Cùng quan điểm với Hà Thiên Niên, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa trong bài viết Việt Nam Từ nhân Bạch Hào tử cập kỳ Cổ duệ từ(2) cũng nói: “Việt Nam tối tảo đích từ đề vi Tống Lý Giác, hệ Lý triều từ nhân phỏng Nguyễn Lang quy nhi tác”. (Bài từ sớm nhất của Việt Nam là bài Tống Lý Giác, đó là từ, nhân đời Lý phỏng theo điệu Ngọc lang quy mà làm ra).

Theo quan niệm truyền thống, từ được coi là “thi dư” (từ là do thơ mà ra), khúc được coi là “từ dư” (khúc là do từ mà ra). Quan niệm này tuy không phản ánh đúng nguyên nhân hình thành và phát triển của từ và khúc, nhưng ở góc độ khác, nó phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Từ khác thơ ở cấu trúc câu dài ngắn (so sánh với thơ luật), khúc khác từ ở việc thêm chữ, tức từ có số câu chữ hạn định, tối kỵ thêm bớt, khúc thì có thể thêm bớt tùy theo nhu cầu biểu đạt. Từ tiêu chí này có thể thấy được lý do tại sao Ngô Sĩ Liên, Trịnh Vĩnh Thường coi Ngọc lang quy là khúc, cũng bởi lý do này mà khi họ Trịnh đề cập đến sự ra đời của từ Việt Nam đã đem cái mốc ấy kéo mãi tới giữa thế kỷ thứ XIX, tức đánh dấu bằng Cổ duệ từ của Thương Sơn, đây là điều vô cùng bất hợp lý, hoàn toàn trái ngược với thực tế phát triển của từ tại Việt Nam.

Quan điểm biến thể và mô phỏng của Hà Thiên Niên và Nguyễn Thị Quỳnh Hoa đã nêu trên tuy mới mẻ, nhưng cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế, nhất là sự thiếu thốn trong tra cứu tư liệu và việc đưa ra nhiều phán đoán mang tính võ đoán. Ví dụ Hà Thiên Niên cho rằng: Thiền uyển tập anh chép gộp “nhân tình thảm thiết đối ly thương” là bất hợp lý, nhưng không hề biết cổ nhân viết sách, nhưng ngắt câu bởi ở người sau, trách như thế há chẳng phải là “vô trung sinh hữu”! Nguyễn Thị Quỳnh Hoa đem chữ “Giác” 覺 trong “cảm giác” viết thành chữ “giác” 角 trong “tam giác”, lại đem bài từ ấy gán cho từ nhân đời Lý, nhưng bài viết này trọng tâm không ở Ngọc lang quy nên chúng tôi tạm thời không xét.

Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh viết: “Ngọc lang quy, mà bản đời Nguyễn tờ 5b10 gọi Vương lang quy, là tên Khuông Việt đặt cho bài từ, chứ đúng ra nó phải có tên Nguyễn lang quy, bởi vì thể tài âm luật và nhạc điệu của nó hoàn toàn đồng nhất với Nguyễn lang quy” (trang 32). Sau giải thích trên, tác giả tiếp tục giải thích nguồn gốc của từ điệu Nguyễn lang quy, đồng thời đem Ngọc lang quy so sánh với âm luật của điệu Nguyễn lang quy chép trong sách Từ luật của Vạn Thụ. Đối với chữ “nhân” dư ra trong bản Thiền uyển tập anh, tác giả cho rằng “chữ ấy là một diễn tự từ chữ “trường” đi trước đó mà ra” (trang 344). ở đây tuy chúng tôi nhất trí với cách lý giải này của tác giả, nhưng cũng còn không ít điểm cần trao đổi. Thứ nhất, Ngọc lang quy Nguyễn lang quy nên là hai khái niệm tách biệt, trong đó Nguyễn lang quy đóng vai trò từ điệu (cũng gọi là từ bài), còn Ngọc lang quy đóng vai trò từ đề (tức tên do tác giả đặt cho bài từ). Thứ hai, như chúng ta đều biết, ranh giới giữa từ và khúc rất mỏng manh, trong tình trạng hai chữ “diêu vọng” (遙望) chưa được giải quyết ổn thỏa, chưa định một tiêu chí phân biệt giữa từ và khúc, chưa biết Nguyễn lang quy có chăng được dùng cho khúc điệu, hay một biến điệu khác của từ, thì việc căn cứ theo âm luật của điệu Nguyễn lang quy để cắt xén văn tự quả là gượng ép. Thứ ba, Nguyễn lang quy là bài từ xưa nhất hiện còn của Việt Nam, khái niệm này không thể áp dụng cho Từ học Trung Quốc, những tuyển tập từ mà tác giả dẫn ra đa số tuyển chọn Tống từ, mà điệu Nguyễn lang quy lại định thể ở Nam Đường và tác phẩm thời ấy đến nay vẫn tồn tại không ít.

Tổng hợp những ý kiến đã xét ở trên, quan điểm của chúng tôi về Ngọc lang quy như sau: Thứ nhất, Ngọc lang quy là một bài từ, trong đó Nguyễn lang quy đóng vai trò từ điệu, Ngọc lang quy đóng vai trò từ đề. Thứ hai, văn tự bài từ nên lấy bản Thiền uyển tập anh làm chuẩn sau khi đã loại trừ một chữ “nhân”. Thứ ba, Ngọc lang quy là bài từ cổ nhất hiện còn của Việt Nam, nó không chỉ đánh dấu sự ra đời của từ Việt Nam mà cũng đánh dấu Từ học Trung Quốc chính thức truyền vào Việt Nam.

N.Đ.P

CHÚ THÍCH

(1) Luận văn tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Văn học cổ đại, Đại học Dương Châu, Trung Quốc, đệ trình ngày 06 tháng 5 năm 2003, trang 30.

(2) Đăng trên Cổ điển Văn học Tri thức số 3, năm 2001, tr.97 -100.

TB

TÌM HIỂU THÊM VỀ SỰ NGHIỆP
THƠ VĂN VŨ TÔNG PHAN (1800-1851)

LẠI VĂN HÙNG

A - Tiểu sử và hành trạng

Vũ Tông Phan, tự là Hoán Phủ, hiệu là Đường Xuyên và Lỗ Am (còn gọi Vũ Như Phan, Vũ Phan, Vũ Tự Tháp) sinh năm Canh Thân (1800), mất năm Tân Hợi (1851). Ông quê gốc ở làng Hoa Đường - một danh hương có nhiều kẻ sĩ tên tuổi của đất Bắc Hà xưa - nay là làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, Hải Dương. Bản thân họ Vũ cũng là một dòng tộc nổi danh thi thư. Ông nội Vũ Tông Phan là Vũ Tông Uyển (1740 - 1795) đỗ Hương cống, được bổ làm Thị nội văn chức trong phủ chúa Trịnh. Người em ông nội là Vũ Tông Diễm đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772), làm quan đến Hiến sát sứ, mở trường dạy học ở phường Báo Thiên, trong số môn sinh có vị Tiến sĩ danh tiếng một thời là Lập Trai Phạm Quý Thích. Cha Vũ Tông Phan là Vũ Tông Cửu (1781 - 1860) lại theo học Phạm Quý Thích và được ông Nghè gả em gái là Phạm Thị Đôi cho. Như vậy, Vũ Tông Phan được sinh ra từ cái nôi của hai dòng họ Vũ - Phạm giàu truyền thống về văn chương và khoa cử.

Năm Đinh Mão (1807) triều Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên, Vũ Tông Cửu đi thi đỗ Tú tài, về mở trường dạy học ở Vân Đình rồi chuyển đến dạy ở làng Mậu Hòa (nay là xã Minh Khai, huyện Hoài Đức). Vũ Tông Phan thuở nhỏ theo học với cha, đến khoa thi 1819 thì đỗ Tú tài, sau đó lập gia đình rồi cũng đi “ngồi chỗ” ở Hạ Hoa, Lâm Thao. Từ khoảng 1815, Phạm Quý Thích đã cáo quan về dạy ở thôn Báo Thiên Tự (sau đổi là Tự Tháp), nên đến 1819 - 1820, Vũ Tông Phan lại quay về học với cụ Nghè Phạm, kết bạn tâm giao với các nhân vật như Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung, Trần Văn Vi, v.v... Đến khoa thi năm ất Dậu (1825), Vũ Tông Phan đỗ Cử nhân và mùa xuân năm sau (Bính Tuất - 1826) thì đỗ luôn Tiến sĩ, rồi liền đến mùa thu được bổ làm ở Viện Hàn lâm. Năm sau, 1827, điều ra làm quan ngoài: Tri phủ Bình Hòa (sau cải là Khánh Hòa). Năm 1829, tháng hai lại về kinh làm Lang trung Bộ Binh, tham gia duyệt quyển kỳ thi Đình; tháng tám được điều ra Bắc làm Tham hiệp Tuyên Quang, rồi chuyển qua Tham hiệp Thái Nguyên. Tháng năm, 1830 bị cách chức. Nửa năm đầu 1831 được nghỉ tại gia ở thôn Tự Tháp đợi chỉ, đến mùa thu vào kinh và tháng mười một được khởi phục làm Giáo thụ phủ Thuận An (Bắc Ninh). Tháng chín, 1832 được thăng Thự Đốc học Bắc Ninh. Tháng năm, 1833 được cho nghỉ tạm để dưỡng bệnh và đến 1838 thì được nghỉ hưu hẳn, dồn sức vào công việc dạy dỗ học trò, và mất ngay tại trường học Giang Đình vào ngày 26 tháng sáu năm Tân Hợi (1851).

Vũ Tông Phan sống trọn vào nửa đầu thế kỷ XIX (1800 - 1851). Hoạn lộ của ông có thể nói là không dài, quan hàm không cao mà cũng chủ yếu là học quan, ít thực quyền. Tính từ khi bắt đầu vào làm ở Viện Hàn lâm đến khi nghỉ hẳn, quãng thời gian chỉ là 12 năm; trong đó lại có đến 5 năm “dưỡng bệnh”, vậy thực ra ông chỉ ở quan trường 7 năm. Có khá nhiều lý do để biến một vị Tiến sĩ trở thành một “nhàn quan”, “tản quan” như thế. Khách quan mà nói: triều Nguyễn chưa thật sự tin dùng nho sĩ Bắc Hà. Điều này có lẽ có nguyên nhân từ “bệnh tổ tông” ở các đời chúa Nguyễn trước. Vốn từ Bắc vào, nhưng các chúa luôn mang tâm tưởng là những kẻ công thần phò Lê, có tài nhưng bị chèn ép bật khỏi thánh địa. Họ xưng hùng ở phương Nam và trong thâm tâm không chịu thần phục chúa Trịnh ở phương Bắc. Nội chiến khốc liệt đã xảy ra, và trên thực tế các chúa Nguyễn đã tự cường được. Đến khi triều Nguyễn đánh bại Tây Sơn, nhất thống sơn hà thì các vùng đất đáng để tin tưởng hơn vẫn là các vùng “căn cứ địa” cũ tính từ Phú Xuân trở vào. Họ có chính sách thu phục nhân tâm Bắc Hà, nhưng việc thực hiện dường như không thật hiệu quả lắm. Về phía chủ quan, các nho sĩ Bắc Hà cũng không thật sự mặn mà với đương triều. Lúc đầu cái mặc cảm của kẻ chỉ nhờ chữ nghĩa mà được làm quan so với những kẻ có võ công “phục quốc” là cái mặc cảm dường như có thật. Nó biến thành ám ảnh. Hơn nữa, phần lớn nho sĩ cuối XVIII - đầu XIX đều là con cái, học trò các cựu thần nhà Lê - Trịnh. Những vướng mắc lịch sử không thể nào gạt bỏ hết. Máu thịt của họ vẫn gắn với mảnh đất thần kinh cũ và giang sơn của một triều đại từng vang bóng. Rất có thể, họ ý thức được rằng mình chỉ là một “vật trang sức” cho triều đại mới và triều đại mới sở hành không được như sở ngôn. Nên Nguyễn Du nín lặng cả đời không nói gì. Vũ Tông Phan cũng chỉ “trầm ngâm” không nói khi bàn đến “chuyện cũ”... Không khí ấy tạo một áp lực “vô ngôn” nhưng không phải không căng thẳng. Có người ra mặt chống đối (như Cao Bá Quát), có người hợp tác lấy lệ, và nhiều người "Quy khứ lai từ". Vũ chọn đường thứ 3.

Thế nên hoạn lộ của Vũ ngắn là hợp lẽ và là may mắn. Bởi vì, tự chọn con đường “cấp lưu dũng thoái”, Vũ Tông Phan đã đóng góp không ít cho văn hóa và giáo dục đương thời. Đấy cũng là cách “giúp đời hành đạo” trong khuôn khổ sức mình có thể đảm đương, cố gắng bằng mọi cách để trong vòng cương tỏa mà vẫn thực hiện được ý nguyện.

Thứ nhất, Vũ Tông Phan ra sức cổ vũ việc khôi phục các di tích văn hóa lịch sử, Ông soạn Văn bia ghi sự tích Trưng Vương (Trưng Vương sự tích bi ký), khích lệ và hâm nóng lòng tự tôn dân tộc bằng tấm gương của Hai Bà đánh đuổi giặc phương Bắc: “Ôi ! Trí tuệ biết nhường nào ! Chị em một nhà, anh hùng nghìn thuở. Có lẽ trong nữ giới chưa bao giờ có người như thế” (Bản dịch của Tuyển tập văn bia Hà Nội). Ông soạn Văn bia ghi việc trùng tu miếu hỏa thần và xây thêm giải vũ (Trùng tu hỏa thần miếu tăng kiến giải vũ) thờ thần mà chính là lo việc an dân. Ông cũng soạn Văn bia ghi việc trùng tu đền Tam Nguyên của họ Bùi Phất Lộc hằng tâm hằng sản với văn hóa Thăng Long. Về quê, ông lại soạn Bia văn chỉ Đường An (Đường An văn chỉ bi) để nêu cao truyền thống văn hiến của cả nước và của cả một vùng đất. Đặc biệt, ông cùng những người đồng chí hướng đã góp công rất nhiều vào việc tu sửa, tôn tạo các di chỉ quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm từ việc lập Hội, lãnh đạo Hội mua lại chùa Ngọc Sơn, biến thành đền, đến việc dựng lập văn bia, v.v...

Thứ hai, trong khi nhà Nguyễn hạ thấp và dần bỏ qua vai trò đại học của Văn miếu - Quốc tử giám thì chính Vũ Tông Phan có công lớn khởi xướng lập một trung tâm văn hóa - giáo dục khác cho Thăng Long xung quanh hồ Hoàn Kiếm. Từ 1836, ông đã cùng nhiều thân sĩ dựng lập Văn chỉ Thọ Xương, đứng đầu Văn hội Thọ Xương. Rồi ông tập hợp sĩ phu Hà thành lập Hội Hướng thiện và soạn văn bia Ngọc Sơn Đế quân từ ký (Bài ký đền thờ Đế quân ở Ngọc Sơn). Nội dung bài văn bia phần nào cũng nói rõ tôn chỉ và mục đích của Hội gửi gắm trong bốn câu thơ:

"Bảo kiếm tân ma bạch hiện quang,
Tứ phương chiếu diệu nhậm hành tàng.
Tòng tiền tự hữu căn cơ tại,
Nhuận sắc tăng huy thanh bá dương."
(Gươm báu mới mài ngời ánh sáng,
Hành hay tàng vẫn rạng muôn phương.
Cội nền thuở trước còn nguyên đó,
Tô điểm huy hoàng tiếng dậy vang)(*)

Đóng góp lớn thứ ba của Vũ Tông Phan là đi đầu trong việc mở trường dạy dỗ học trò. Trường học Hồ Đình do ông dựng lập cùng với trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu là hai trường học vào loại lớn thời bấy giờ. Thầy Vũ Lỗ Am đã đào tạo nhiều học trò thành tài, tiêu biểu như Nguyễn Tư Giản - đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1844), làm quan đến Thượng thư, Phó Tổng tài Quốc sử quán; hay như Lê Đình Diên - đỗ Hoàng giáp Ân khoa Kỷ Dậu (1849), làm Đốc học Hà Nội, v.v... Khoảng cuối 1848 Vũ Tông Phan trao lại trường Hồ Đình cho người con cả là Tú tài Vũ Như Trâm, lui về dạy trẻ tại nhà học Giang Đình (thôn Kim Giang, tổng Đông Lỗ, huyện Sơn Minh - nay là huyện ứng Hòa, Hà Tây) và mất ở đó. Cho nên, có thể nói đối với nghiệp làm thầy, Vũ Tông Phan là người “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”. Mấy chữ “Đào thục hậu tiến” mà triều Tự Đức ban tặng ông, là bằng chứng hiển nhiên đánh giá rất đúng sự nghiệp “trồng người” của Vũ Tông Phan - sự nghiệp mà ông đã dồn hết sức lực của cả cuộc đời mình.

Thứ tư, song song với việc lập Hội Hướng thiện, mở trường dạy học, Vũ Tông Phan còn dành thời gian và trí tuệ, tâm huyết và tình cảm vào việc trứ thuật sách vở, sáng tác thơ văn. Các tập sách ông biên soạn hiện còn mấy quyển như: Bắc Ninh tỉnh Đốc học Vũ Lỗ Am (húy Như Phan) tiên sinh trường dĩ hạ “chép 18 bài sách vấn mẫu để giảng tập” (theo Vũ Thế Khôi); Cổ văn hợp tuyển, gồm 13 quyển, 1384 trang, Vũ Tông Phan viết Tựa; Thiệu Trị thất niên Đinh Mùi khoa văn tuyển. Đó chủ yếu là sách “giáo trình” cho các môn sinh, còn mảng sách sáng tác thơ văn sẽ nói ở phần dưới đây.

B- Sự nghiệp thơ văn:

I- Các sáng tác thơ văn:

1- Tô Khê tùy bút tập, (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm [TVVNCHN], ký hiệu A.1968). Tác phẩm do chính Vũ Tông Phan viết Tựa vào cuối mùa xuân năm Đinh Mùi (1847), nhưng ý thức về việc làm sách có lẽ sớm hơn, vì trong lời Tựa có viết: “Mùa thu năm Bính Tuất (1826) hồi tưởng những tác phẩm trước khi nhật xuất thì đã nửa mất, nửa còn, chỉ tập hợp được mấy chục bài đã làm từ năm Tân Tỵ (1821) đến năm Ất Dậu (1825)” (Nguyễn Đức Sâm và Vũ Thế Khôi dịch). Như vậy đến 1826, Vũ Lỗ Am đã sưu tập thơ văn sáng tác trước khi đỗ Tiến sĩ (1821 - 1825) và “mấy chục bài” mà ông vừa kể là con số ít hơn so với thực tế “nửa mất, nửa còn”; và theo sự khảo sát của Vũ Băng Tú thì con số cụ thể là 34 bài thơ.

2- Lỗ Am di cảo thi tập, đây là tập sách quý được con cháu hai dòng họ môn sinh Vũ Tông Phan trân trọng bảo quản lưu giữ là các dòng họ Đỗ Khắc và Phí Văn ở Mậu Hòa - nơi thân phụ Vũ Tông Phan từng mở trường dạy học. Sách không hề có trong bất cứ thư viện nào, lưu chép số lượng sáng tác đầy đủ nhất của Vũ Tông Phan.

3- Kiếm hồ thập vịnh, (TVVNCHN, A.309). Sách chép các tác phẩm thơ vịnh thắng tích trùng khớp với các tác phẩm đã được sưu tập trong Lỗ Am di cảo thi tập.

4- Giang đình thập nhị vịnh, (TVVNCHN, VHv.654). Chép một số bài đề vịnh của Vũ Tông Phan, nhưng không đầy đủ và có chép cả thơ của tác giả khác.

5- Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, (TVVNCHN, A.1666). Chép 14 bài đề vịnh đất Thăng Long, nhưng đề mục và số bài so với Lỗ Am di cảo thi tập có thay đổi ít nhiều.

6- Tự Tháp Vũ tiên sinh thi tập, thực tế là phần thơ được chép trong Ngoại truyền kỳ lục (TVVNCHN, VHv.12). Vẫn là 14 bài thơ vịnh cảnh thành Thăng Long nhưng khớp với Lỗ Am di cảo thi tập hơn so với Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ.

Ngoài ra, thơ văn Vũ Tông Phan còn được tuyển chọn, biên chép trong các sách như: Danh công biểu tuyển (TVVNCHN, A.582), Danh nhân thi tập (TVVNCHN, VHv.145/1-2), Chư gia thi văn tuyển (TVVNCHN, A.357) và Đại Nam văn tập (TVVNCHN, A.317).

II - Mấy nét nội dung và nghệ thuật

1- Như nhiều tác giả văn học cổ khác, thơ văn chữ Hán của Vũ Tông Phan cũng hiện diện ở các thể tài phổ biến, như là: thơ Đường luật (nhiều nhất là thất ngôn bát cú, rồi đến tuyệt cú, ngũ ngôn), thơ cổ phong trường thiên, ca, văn bia, thư. Đặc biệt, Vũ Tông Phan có bài thơ Độc tọa đắc cú (Ngồi một mình bất chợt được câu thơ) chỉ có 2 câu:

"Thế đán quan ngôn ninh thức thế,
Nhân thường đắc chí bất tri nhân".
(Ở đời chỉ xem lời nói thì sao biết đời,
Người ta thường khi đắc chí thì không hiểu người)

Hình thức thơ như một cặp đối thế này rất ít thấy ở các tác giả khác. Nó ngắn gọn như một triết lý nhân sinh. Cũng nói một triết lý, Vũ Tông Phan có bài ngũ ngôn tứ tuyệt Ngẫu thuật:

"Nhân ái hà túc hỷ,
Nhân ố hà túc úy.
Ái ố nhược câu vô,
Chỉ phạ vi nhân bỉ ?"
(Người yêu sao đủ mừng,
Người ghét sao đủ sợ.
Nếu yêu, ghét đều vô nghĩa cả,
Thì chỉ sợ là bị người khinh bỉ.)

Như vậy, về mặt ngôn ngữ, thơ Vũ Tông Phan có xu thế hàm súc, kiệm lời, biểu thị chiều sâu của những suy ngẫm về nhân tình thế thái.

2- Đề tài phổ biến trong thơ Vũ Tông Phan là đề tài về thiên nhiên, cảnh vật và các danh tích. Nhiều nhất là những bài miêu tả, đề vịnh kinh thành Thăng Long (cũ) mà tập trung hơn cả vào khu vực Hồ Gươm. Đây là mảnh đất rất gắn bó với tác giả, là nơi tác giả sống và thực hành "đạo ẩn" của nhà Nho, cùng các bạn hữu đồng tâm đồng sức làm cuộc chấn hưng văn hóa. Các bài: Đề Tây Hồ, Đăng Trấn Vũ tự chung lâu (Lên lầu chuông chùa Trấn Vũ), Đề Nhĩ Hà, Du Tây Hồ (Chơi Hồ Tây), Ngọc Sơn dạ túc (Đêm ngủ ở đền Ngọc Sơn), Quá Đống Đa (Qua gò Đống Đa); và chùm bài Kiếm hồ thập vịnh: Vọng Kiếm di từ (Di chỉ đền Vọng Kiếm), Linh nữ thần miếu (Miếu thiêng thần nữ), Song phong tẩm nguyệt (Hai ngọn núi tắm trăng), Nhĩ thủy dẫn tuyền (Nguồn nước dẫn từ Nhị Hà), Cố lũy tà dương (Chiều tà trên lũy xưa), Điếu đài cổ kính (Đường cũ tới đài câu), Đinh thôn vãn địch (Sáo chiều thôn bãi), Sơn tự hiểu chung (Chuông sớm chùa Ngọc Sơn), Ngư ca trúc ngạn (Chài ca quanh bờ trúc), Âu hí phù sơn (Chim âu giỡn trên đảo nổi) đều là những bức tranh thiên nhiên thắng tích đẹp và in đậm dấu vết của dĩ vãng, của thời đã qua.

Kinh đô mới Phú Xuân (Huế) cũng gợi hứng cho tác giả sáng tác những bài thơ như: Trản lĩnh nhàn vân (Mây lửng lơ Hòn Chén), Hương giang tế nguyệt (Trăng trên dòng sông Hương sau mưa), Bỉnh sơn thụ sắc (Sắc cây núi Ngự), Lâu tiền thủy các (Thuyền thủy các trước Phu Văn Lâu)...

Rồi còn khá nhiều bài đề vịnh các danh thắng khác ngoài cố đô và tân đô như các bài thơ làm về cảnh vật nơi Giang Đình, nơi chùa động Hương Tích, nơi quê cũ Đường An, v.v...

Cảnh vật trong thơ Vũ Tông Phan thường có “ý ngụ”, như bài Tiền đường ngoạn nguyệt (Ngắm trăng trước hiên):

"Hiên không kỷ tĩnh nguyệt tà xâm,
Hồ ảnh thiên quang nhất sắc âm.
Vạn hộc ngân châu sư thủy diện,
Nhất điều bích luyện phách ba tâm.
Trúc ly phong phất thanh thanh tế.
Thụ ngạn sương hy vọng vọng thâm.
Hà xứ thiền chung tam ngũ khấu,
Lệnh nhân thanh sảng lãnh trần khâm."
(Hiên trống, ghế vắng, trăng chiếu nghiêng,
Sắc trời, ảnh hồ, một vệt tối sẫm.
Như có hàng vạn đấu ngọc sáng rây trên mặt nước,
Một dải lụa biếc bổ đôi tâm sóng.
Gió lay rặng trúc khẽ lao xao,
Sương mỏng bao phủ, bờ cây nhìn sâu hút.
Đâu đó vọng lại dăm ba tiếng chuông chùa,
Khiến lòng người sảng khoái thanh tịnh, rũ sạch bụi trần)

Rõ ràng 7 câu đầu tả cảnh, còn câu cuối nói con người nhờ cảnh mà như được gột rửa cho tĩnh lặng, thanh sạch. Đây là mối quan hệ tâm - cảnh thường thấy trong thơ ca xưa, nhưng thơ Vũ Tông Phan vẫn đem lại một vẻ mỹ cảm khá riêng biệt, và có thể nói đó cũng là một trong những tác phẩm thơ hay nhất về cảnh sắc Kiếm Hồ.

3- Bên cạnh những bức tranh thiên nhiên, cảnh vật, thơ Vũ Tông Phan còn có khá nhiều bức tranh về đời sống thực của chính bản thân tác giả và phần nào cảnh tượng xã hội đương thời.

Cảnh “gia bần”, cảnh nghèo được tác giả nhắc đi nhắc lại:

- "Nghiệp tương thân thế nhập phong trần,
Vị giải hà phương khả liệu bần."
(Đã trót đem thân thế dấn vào nơi gió bụi,
Vậy mà vẫn chưa có phương sách gì chữa được bệnh nghèo)
(Ngẫu cảm)

- "Lậu cư hạnh miễn diên thiêu hỏa,
Sinh kế thiên quan sử dụng kim."
(Ở nơi ngõ tối may mà thoát hỏa hoạn cháy lan,
Sinh kế lại khó khăn vì thiếu tiền dùng)
(Tiếp gia thư )

- "Mỗi ý quy lai lạc tự luân,
Quy lai tình huống lệ chiêm cân".
(Thị xá đệ tam lang )

(Mỗi khi nghĩ đến lúc về nhà, lẽ thường được gặp nhau là rất mừng,

ấy vậy mà về rồi nhìn cảnh nhà thì nước mắt đẫm khăn)

Cảnh sống của một ông thầy dạy chữ cũng hiện lên khá sinh động qua bài thơ Học xá hiểu khởi tức sự (Tức sự nhân dậy sớm ở trường học):

"Cách bích lân gia lạc chử thanh,
Đối sàng tiểu tử tụng di kinh.
Phục kê thiềm ngoại hô đồng loại,
Đề điểu ly biên báo hiểu tình.
Suyết bãi yên đồng thiên tự chuyển,
Ngâm tàn thi cú mộng sơ tinh.
Khởi lai đạm chước tam bôi mính,
Sách kiểu trai tiền tiếp học sinh."
(Bên kia vách nhà láng giềng đã nghe tiếng chày giã gạo,
Con nhỏ ê a đọc sách ở giường đối diện.
Ngoài thềm, tiếng gà cục tác gọi đồng loại,
Bên giậu chim hót báo một sớm trời trong.
Hút xong điếu thuốc lào trời như xoay chuyển,
Ngâm hết câu thơ giấc mơ vừa tỉnh.
Ngồi dậy nhấp mấy chén trà nhạt,
Rồi cất bước lên trai phòng đón học trò).

Ghép nối bài Tiền đường vọng nguyệt vừa kể trên vào bài thơ này, sẽ thấy được thời gian sinh hoạt của người làm thầy xưa. Đêm ngắm trăng vịnh cảnh cho đến lúc trăng tà, sương giăng chuông chùa điểm và sáng dậy sớm “chay lòng” tiếp đón học trò. Rõ là cảnh sống “bần” mà “thanh” của nghề thầy.

Vượt khỏi khuôn khổ thơ luật, thơ Vũ Tông Phan có những bài làm theo lối cổ phong trường thiên ghi lại những điều “sở kiến” mang bút pháp tả thực đột xuất:

"Tạc thị Sơn Nam cự trấn phố,
Kim thuộc Hà Nội, Lỵ Nhân phủ.
Sơn tự thương thương, giang tự thanh,
Phong quang dĩ bán cải tiền độ.
Nhân vấn Hà Nội tân tỉnh thành,
Khí sắc khả tự nãng thần phủ.
Nhân ngôn tòng phụng tân dịch lai,
Thử tích thập phân giảm bát cửu.
Tái giả phụ thành Hoài Đức dân,
Văn hữu tân lệnh giản binh ngũ.
Gia gia kinh động nhân bôn đào,
Bất luận thực hộ dữ khách hộ.
Tam thập lục cù vô dung phu,
Đại tiểu giả thị phế thương cổ.
Nhiễu thành kiếp đạo vô thần hưu,
Thành trung thất hỏa dạ chí ngũ.
Thôn phường thập thất nhi cửu không,
Tương tương phù huề thích lạc thổ.
Ta hồ thiên bách niên phồn hoa,
Vật thịnh nhi suy cố kỳ số.
Tuy nhiên sinh trưởng đô hội khu,
Dân đa du thực nhi du thủ.
Vi học chỉ thiết Nho chi danh,
Nghiệp thương vị phú dĩ tự phú.
Cư giả tương tụ vi ngoa ngôn,
Hành giả y lý cực văn tú.
Than trường đổ cục mãn nhai phường,
Tửu tịch ca diên vô đán mộ.
Thân lân giao hữu xảo tương cao,
Toàn vô bán điểm cá trung hậu.
Phong tục chí tư dụ kiêu sa,
Giai do bất trị hữu lao khổ.
Diệc tu sở kinh thử nhất phiên,
Dân tâm thứ cơ khả phục cổ..."
(Để Hà Nội giới thủ)
(Trước là Sơn Nam cự trấn phố,
Nay thuộc Hà Nội, Lỵ Nhân phủ.
Núi vẫn xanh xanh, sông vẫn trong,
Mà cảnh khác xưa đà quá nửa.
Nhân hỏi tân tỉnh thành Hà Nội,
Khí sắc xem có được như xưa.
Người bảo từ ngày lao dịch mới,
Trước mười nay tám chín phần thua.
Lại thêm dân cư Hoài Đức phủ,
Nghe có lệnh vua tuyển binh ngũ.
Nhà nhà thất kinh người trốn đi,
Bất kể dân gốc hay dân ngụ.
Ba sáu phố không kẻ làm thuê,
Chợ buổi chợ phiên buôn bán bỏ.
Quanh thành trộm cướp nổi triền miên,
Một đêm năm lần cháy trong phố.
Thôn phường mười hộ, chín trống không,
Dắt díu bỏ đi tìm lạc thổ.
Than ôi ! Nghìn năm đất phồn hoa,
Vật thịnh hay suy đều tại số.
Nhưng nay phát sinh nơi đô thành,
Nhiều hạng dân du thực du thủ.
Đi học chỉ cốt giật tiếng Nho,
Đi buôn chửa giàu đã khoe của.
Cư dân thường túm tụm ba hoa,
Bộ hành áo giày cực diêm dúa.
Sòng bạc tràn lan khắp gần xa,
Chiếu rượu, sạp ca thâu sớm tối.
Tâng bốc láng giềng, nịnh thân gia,
Không còn nửa phân lòng trung hậu.
Phong tục ngày một thêm kiêu sa,
Đều do chưa từng nếm lao khổ.
Cảnh này phải cho trải một lần,
Nhân tâm ngõ hầu về nếp cũ ...)
(Đến đầu địa giới Hà Nội)

Những điều “sở kiến” trong thơ Nguyễn Du vừa mới đó là nói về nỗi đau trần thế của con người, thì ở đây Vũ Tông Phan nói đến những tính nết xấu xa của con người. Điều này lý giải vì sao Vũ Tông Phan đã ra sức nêu vấn đề cải hóa phong tục, cải hóa nhân tâm; lấy văn hóa, tín ngưỡng và giáo dục làm công cụ. Có sớm quá không để nói rằng ngay từ đầu thế kỷ XIX, Vũ Tông Phan đã có tư tưởng cải tạo, canh tân xã hội và con đường mà ông chọn là luôn luôn đúng.

4- Thơ Vũ Tông Phan còn một điểm khá rõ nữa là thể hiện được chiều sâu tâm trạng của chủ thể sáng tạo.

Có nhiều bài thơ nói tâm sự chán ghét danh lợi, quan trường:

“Hồi đầu tam thập bát si linh,
Tự tiếu phù danh ngộ bán sinh.”
(Ngoái đầu lại đã 38 năm si mê,
Tự cười mình đã để cho cái danh phù phiếm làm lầm lỡ nửa đời)
(Sơ thu cảm hoài)

Tâm sự đó nhiều người từng nhắc đến, nhưng cái cách Nhàn trung kiểm trái (Ngồi rồi tính nợ) thì dường như chỉ có ở ông quan họ Vũ:

“Sinh lai dữ trái định tiền duyên,
Tiền trái yêm lưu hoạn trái khiên.
Tiền trái thanh hoàn ưng hữu nhật,
Bất tri hoạn trái đáo hà niên.”
(Với nợ sinh ra vốn nặng duyên,
Nợ tiền dai dẳng, nợ quan phiền.
Nợ tiền còn có ngày hoàn trả,
Trả nợ quan trường biết mấy niên)

Người ta hay nói nợ đời, nợ người, nợ rượu. Vũ Tông Phan nói “hoạn trái” (nợ quan trường). Cái nợ này đeo đẳng, khó trả. Vũ từng “ngồi không” đợi đến 5 năm mới được cho hưu, mà chức quan nào có thực quyền, nào có cao gì ?

Dứt được nợ quan, nghĩa là Vũ đã dứt được cái thực tại không đáng sống, không đáng để dấn thân. Ông đắm chìm trong những suy tư hồi cố, sáng tác rất nhiều về đề tài lịch sử. Các bài: Quá Ninh công lũy hoài cổ (Qua lũy Ninh công nhớ chuyện xưa), Tây Hồ hoài cổ (Hồ Tây nhớ xưa), Kiếm Hồ hoài cổ (Hồ Hoàn Kiếm nhớ xưa), Quá Nhị Trưng miếu (Qua đền thờ Hai Bà Trưng), Thu tịch phỏng Lê tiền Nam Giao đàn (Chiều thu thăm đàn Nam Giao trước triều Lê), Minh Tảo Sóc Thiên Vương ảnh từ (Đền thờ Sóc Thiên Vương ở Minh Tảo), Trường An lãm cổ ký (Ghi việc thăm dấu tích xưa ở Trường An), v.v... đều mang nặng ưu tư, hoài cảm về quá khứ. Ở đây có lòng tự tôn dân tộc, có tình cảm tự hào về những chiến công hiển hách, về chiều sâu văn hóa có độ tuổi suốt cả ngàn năm. Kèm theo đó là những cảnh báo. Cảnh báo chiến tranh “huynh đệ tương tàn”:

"Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
Hà sự kinh niên động giáp bào.
Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
Doanh thâu để sự không di chủng,
Sát phạt dư thanh đới nộ đào..."
(Quá Ninh công lũy hoài cổ)
(Đất này nếu như có chia thành Nam - Bắc,
Thì cớ gì mà đánh nhau liên miên năm này qua năm khác.
Ông trời tạo ra dãy Hoành Sơn còn chưa hiểm trở,
Nên con người có dựng lũy đất trơ trọi cũng phí công thôi.
Được, thua đều để lại những nấm mồ hoang cả,
Sóng giận dữ kia như còn mang dư âm chém giết năm nào...)

Cảnh báo kẻ xâm lược phương Bắc:

"Cô thành nhất phiến tứ kinh trăn,
Doanh trúc truyền văn Minh soái thần.
Mạn bả giang sơn khai hý cục,
Đấu tiêu hà túc lượng Nam nhân."
(Quá Minh nhân cố thành)
(Một tòa thành trơ trọi giữa cỏ gai mọc bốn bề,
Nghe nói rằng tướng giặc Minh mưu mô đắp thành này.
Dám ngạo mạn đem giang sơn làm trò đùa,
Nhưng đấu thùng kia sao đong được người nước Nam)

Cảnh báo người đang sống rằng chớ có quên, chớ có làm hoang hủy văn hiến dân tộc:

"Đáo đầu Long Đỗ diệc Hoa Lư,
Càn khôn xứ xứ thùy phi ngụ.
Bất tri lai giả cánh hà như,
Nhãn giới thử phiên sầu lũ lũ.
Tín nhiên lãm cổ bất kham trùng,
Tình cảnh tương khan thành điếu cổ."
(Trường An lãm cổ ký)
(Rốt cuộc Long Đỗ rồi cũng như Hoa Lư mà thôi,
Trong khoảng trời đất, ai không là khách trọ ?
Chẳng biết người đến sau ta sẽ thế nào?
Chỉ thấy trong tầm mắt, buồn dâng dằng dặc.
Đã hẳn thương tiếc chuyện xưa, chẳng nên trùng lặp,
Nhưng cảnh này, tình ấy cứ nảy sinh nỗi tiếc thương xưa).

Do vậy, cảm hứng về giang sơn xã tắc với những chuyện “thiên cổ”, “thiên thu” cứ trở đi trở lại như một nỗi day dứt khôn nguôi trong thơ Vũ Tông Phan.

Nhưng rất có thể sự đồng cảm không nhiều, nên bản thân nhà thơ hay nhân vật trữ tình thường khi rất cô đơn, quạnh vắng.

Tác giả, một mình Đối kính (Soi gương), nhìn mình và chỉ có mình với ảnh mình trong gương. Lại một mình Bất mỵ (Không ngủ):

"Thạp bàng nhân cộng thụy,
Đăng hạ ảnh cô vi.
Lãnh khí dục xâm bị,
Thê phong thần phất duy.
Hải lôi minh cách bức,
Thụ vũ trích đương phi.
Khách dạ mỗi như thử,
Gia hương hà nhật quy."
(Bên phản mọi người đều đã ngủ cả,
Dưới đèn chỉ có chiếc bóng ta nhỏ bé, cô đơn.
Khí lạnh như muốn lọt qua chăn,
Gió rét thỉnh thoảng lại lay màn.
Tiếng sấm biển vang bên kia vách,
Mưa rơi từ rặng cây đập vào cửa phên.
Đêm đất khách vẫn thường như vậy,
Đến ngày nào mới về được quê nhà).
Và vẫn một mình hồn mộng nhớ quê:
"Gia tín triêu triêu vọng,
Hương tâm mộ mộ trì.
Dạ trình phong vũ cấp,
Bất hứa mộng hồn quy."
(Mộng khởi)
(Sớm sớm trông ngóng tin nhà,
Chiều chiều lòng dõi nhớ quê.
Từng chặng đường đêm mưa gió dồn dập,
Chẳng cho hồn mộng về tới quê nhà)

Thỉnh thoảng cũng có nét biếm hài trào lộng về bản thân:

"Vị trí ư đê diệc vị cao,
Vị lưu ư tục diệc phi hào.
Học vô đa nhật thiên năng phận,
Xảo bất như nhân khước tự lao."
(Tự trào)
(Rằng thấp thì không cũng chẳng cao,
Chẳng phường tục tử, chẳng anh hào.
Học chưa được mấy, biết thân phận,
Xảo chẳng bằng người, phải khổ lao).

Thì đấy cũng là những khoảnh khắc chỉ càng làm cho tâm trạng buồn bã thêm đậm nét hơn. Thế nên giọng điệu thơ Vũ Tông Phan chủ yếu là trữ tình và đượm buồn, vừa man mác, vừa sâu lắng. Thời thế dẫu đổi dời nhưng đạo lớn không đổi, chính Vũ Tông Phan từng viết: “Ngô đạo bất duyên tang lỗ cục” (Đạo ta không liên quan đến thời cuộc đổi thay). Đấy là niềm tin, là lý tưởng sống của Nho gia. Tuy nhiên, nói là "bất duyên" nhưng thật ra chẳng thể nào "bất duyên" được, khi đem so những điều tốt đẹp trong sách vở thánh hiền với thực tại không mấy tốt đẹp thì cảm giác thất vọng là không thể tránh khỏi. ám ảnh thời đại, cái "ngôn từ" vô ngôn của thời thế bấy giờ chính là thứ đứng đằng sau những câu chữ thơ văn Vũ Tông Phan, nó khiến cho giọng điệu thơ ông bật ra phải là như vậy.

Nhìn chung, với khoảng trên 400 tác phẩm thơ văn, Vũ Tông Phan để lại một số lượng sáng tác không nhỏ. Nếu tìm kỹ, vẫn thấy tác giả có những cách tân nghệ thuật nhất định về thể tài, đề tài, về ngôn từ, hay về bút pháp tả thực. Nội dung thơ văn Vũ Tông Phan cũng khá phong phú. Tình cảm của ông đối với thiên nhiên cảnh vật có nét riêng biệt; lòng tự hào của ông đối với quá khứ lịch sử, quá khứ văn hiến dân tộc thật sâu đậm; và nhất là cái giọng điệu khá đặc trưng của chủ thể trữ tình về bản thân, gia cảnh, thời cuộc, thế sự cũng khó lẫn với các tác giả khác. Bên cạnh tư cách là một nhà văn, nhà thơ, Vũ Tông Phan còn có tư cách một nhà văn hóa với những đóng góp lớn cả về thực tiễn lẫn tư tưởng cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội quãng nửa đầu thế kỷ XIX.

L.V.H

TƯ LIỆU THAM KHẢO

(*) Tư liệu và thơ văn trong bài viết dẫn trích từ các tập sách sau:

- Vũ Tông Phan cuộc đời và thơ văn, Vũ Thế Khôi biên khảo, tuyển chọn và dịch, Nxb. Văn học, H. 1995.

- Vũ Tông Phan với văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Vũ Thế Khôi chủ biên, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H. 2001.

- Vũ Tông Phan - tuyển tập thơ văn, Vũ Thế Khôi tuyển chọn, giới thiệu, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H. 2001.

TB

DẤU VẾT CỔ CỦA PHỤ ÂM ĐẦU "TR" QUA CHỮ NÔM TRONG CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA

HOÀNG THỊ NGỌ

Âm tr có một vị trí đặc biệt trong lịch sử tiếng Việt. Hiện nay, âm tr được phát âm khá khác nhau giữa các vùng phương ngữ. Sở dĩ như vậy là vì nhiều lý do, trong đó có lý do là sự khác nhau về nguồn gốc. Trong bài viết này chúng tôi không đi sâu vào địa hạt ngôn ngữ mà chỉ đứng ở góc độ chữ Nôm để cung cấp thêm những cứ liệu cụ thể về dấu vết cổ của âm tr qua chữ Nôm của văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.

Trước hết xin điểm qua về văn bản Chỉ nam ngọc âm giảI nghĩa (CNNAGN). Có thể nói đây là một cuốn từ điển đối chiếu song ngữ Hán Việt cổ nhất hiện còn, trong đó phần tiếng Việt được ghi bằng chữ Nôm. Các truyền bản hiện còn đều là các bản được sửa chữa, biên soạn và in lại vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII dựa trên một bản cổ xuất hiện vào khoảng từ cuối thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XV. Vì vậy, chữ Nôm trong văn bản đã bị thay đổi nhiều về tự dạng. Tuy vậy, dấu vết cổ về cách ghi phụ âm đầu trong văn bản vẫn còn khá đậm, thể hiện rõ nét nhất qua cách ghi phụ âm đầu s rồi đến cách ghi phụ âm đầu tr.

Trong chữ Nôm âm tr thường được ghi bằng các mô hình như:

1- Những chữ Hán có phụ âm đầu tr> tr

2- Các tổ hợp phụ âm đầu: bl, kl, tl > tr

3- Những chữ Hán có phụ âm đầu l > tr

4- Những chữ Hán có phụ âm đầu đ > tr

Ngoài 4 mô hình cơ bản trên còn có những trường hợp dùng chữ Hán có âm đầu là [k] và [b] để ghi tr Việt

Trong bài này chúng tôi không quan tâm tới những chữ Nôm ghi tr theo mô hình tr > tr bởi vì mô hình này là phổ biến trong suốt quá trình hình thành, phát triển và sử dụng chữ Nôm. Người xưa thường dùng những chữ Hán có âm đầu trùng với âm đầu của tiếng Việt để ghi tiếng Việt. Chúng tôi chỉ đề cập đến 3 mô hình sau vì những mô hình này có liên quan đến cách ghi tiếng Việt cổ.

Dấu vết của các cách ghi theo 3 mô hình nói trên chúng tôi đã khảo sát văn bản và thấy như sau:

1. Mô hình 1: ghi bằng tổ hợp phụ âm đầu bl [bl], kl [kl] có 5 trường hợp, xuất hiện 8 lần trong văn bản:

Âm Chữ Nôm Chữ Hán ghi âm Tần số Xuất xứ
trai ba + lai 1 10- 62a
trán ba + lan 1 12 - 14b
trăng ba + lăng 2 15 - 5a
tròn cự + luân 1 10- 62a
trống cổ + lộng 3 11- 12a; 10- 76a; 1- 80a

2. Mô hình 2: ghi bằng những chữ Hán có phụ âm đầu l [l]

Dựa vào cấu trúc chữ Nôm cách ghi này được chia làm 2 loại như sau:

a. Chỉ có một thành tố ghi âm: có 27 trường hợp, xuất hiện 141 lần trong văn bản:

Âm Chữ Nôm Chữ Hán ghi âm Tần số Xuất xứ
trạch lịch 1 13 - 61a
trái lại 16 1 - 16a; 6,8 - 16a;7, 11 - 17a; 5 - 17b
tràn lan 3 1 - 7a; 2- 7b; 16 - 22b
trăm lâm 5 3 - 39a;4 - 42b; 10 - 58a; 8 - 58b; 8 - 64a
trăn (trở) lân 1 11 - 45a
trằn (trọc) lân 1 12 - 18a
trắng lãng 22 1- 17b; 2- 35a; 4 - 42b; 1 - 44a; 3 - 46b; 2 - 47a …
trẻ lễ 8 3-11b; 12-13a; 16-44b; 5-46b; 5, 15-63b
treo liêu 2 12 - 44b; 8 - 73a
trên liên 19 5 - 4a; 8 - 8a; 9 -15a; 4, 13 - 15b; 2 - 17a;…
tro 2 4 - 21a; 1 - 79a
trò lộ 6 8 - 1b; 13 -11b; 2 -11a; 13 -11b; 16 - 13a;…
(trằn)trọc lục 1 13 - 18a
trói lỗi 2 3, 11 - 37b
tròn luận 1 11 - 62a
tròn luân 15 1-16a; 11- 20b; 12-21a; 4 - 39a; 8 - 68b,…
trổ lỗ 3 5 - 50a; 13 - 59a; 6 - 59b
trôi lôi 1 12 - 61a
trôn luân 1 12 - 17a
trông lung 1 15 - 71b
trồng lung 1 9 - 66b
trống lộng 8 10, 12, 14, 16 - 49a; 12, 13 - 50b; 14 - 52a
trợ lữ 1 4 - 9b
(trăn) trở lữ 1 11 - 45a
trơn liên 7 15 - 8a; 8 - 9a; 4 - 41b; 15 - 45b; 16 - 66a;
trưa 1 8 - 56b
trước lược 11 3-4a; 9-8a; 8-20b; 4-57a; 3-79b; …

b. Có thêm thành tố biểu ý gồm 12 trường hợp, xuất hiện 38 lần trong văn bản:

Âm Chữ Nôm Chữ Hán ghi âm Tần số Xuất xứ
trạch lịch + bộ trùng 1 7 - 40b
trai lai + nam 7 14 - 9b; 9 - 10a; 6 - 11a; 6 - 11b; 6 - 13b; 2 - 55b; 16 - 71b.
trai bộ trùng + lai 1 10 - 62b
trăm lâm + bách 1 14 - 77a
trăng lăng + nguyệt 3 14, 15 - 5a; 4 - 12b
trâu lâu + bộ nhục 1 10 - 76a
trâu lâu + ngưu 15 4 - 20b; 6 - 45a; 7 - 48a; 13, 14 - 58b 14,16 - 59b; …
trầu lâu + bộ thảo 3 11 - 41b; 5 - 42a; 15 - 70b
treo liêu + bộ thủ 1 8 - 44a
trỏ lỗ + bộ thủ 1 3 - 16b
trôi Lôi + thuỷ 2 5 - 21a; 10 - 28a
trở lữ + bộ thủ 2 14 - 47a; 11 - 58a

3. Mô hình 3: ghi bằng những chữ Hán có phụ âm đầu đ [d] có 6 trường hợp, xuất hiện 6 lần trong văn bản:

Âm Chữ Nôm Chữ Hán ghi âm Tần số Xuất xứ
trán đán 1 5 - 15a
trầu đầu 1 16 - 11b
trích đích 1 15 - 60b
trò đồ 1 11 - 54a
trọi đội 1 11 - 56a
trôn đôn 1 14 - 16a

Qua các trường hợp thống kê theo 3 mô hình ở 3 bảng trên đã cho thấy:

Mô hình 1: dùng các tổ hợp phụ âm đầu: bl, kl, tl > tr

Một trong những nguồn gốc của âm tr hiện nay là từ một số các tổ hợp phụ âm đầu có thành tố thứ 2 là [*] như kl, bl, tl. Dấu tích của các cách ghi này đã thấy khá nhiều trong các văn bản Nôm gần thời điểm với bản gốc của CNNAGN(*). Vì là những truyền bản CNNAGN được san khắc, in lại rất muộn nên những dấu vết đầy đủ về cách ghi tr bằng những tổ hợp phụ âm đầu chỉ còn có 5 trường hợp như vậy.

Mô hình 2: dùng chữ Hán có phụ âm đầu l > tr

Ta đã biết quá trình đơn tiết hoá của tiếng Việt cũng là quá trình các yếu tố tiền âm tiết và tổ hợp phụ âm đầu bị mài mòn dần cho đến khi biến mất hẳn hoặc chuyển đổi sang một phụ âm khác (trừ một số rất ít vùng hiện nay còn bảo lưu cách đọc cổ ví dị như ở Bình - Trị - Thiên, Khu IV cũ). Trong quá trình đó, các tổ hợp phụ âm đầu thường loại bỏ dần đi một trong 2 thành tố, thường là thành tố thứ nhất. Điều đó được phản ánh rõ trong chữ Nôm. Những trường hợp dùng chữ Hán có âm đầu l [l] để ghi âm tr Việt chính là dấu vết của các tổ hợp phụ âm đầu tiền thân của tr còn lưu lại ở thành tố thứ 2. Nếu nhìn ngược lại để tái lập các trường hợp dùng l [l] ghi tr trong CNNAGN, ta sẽ thấy các kết quả tái lập trùng với những tư liệu đã được phát hiện từ các văn bản có gần thời điểm xuất hiện với bản gốc của CNNAGN. Ví dụ các từ: trái, trăm, trăng, trẻ, treo, trông, trống, trưa, trước,… trong bảng trên, ta đã thấy dấu vết đầy đủ của tổ hợp phụ âm đầu, dạng tiền thân của nó qua một số ví dụ như:

- trái: ghi bằng kl trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (PT): (cá + lại) ở dòng 1 - 10b

Ghi bằng kl trong Quốc âm thi tập (QÂTT): (cự + lại) trong câu Muốn ăn trái dưỡng nên cây (dòng 4 - 46b)

Ghi bằng bl trong bài phú Cư trần lạc đạo: (ba + lại) trong ăn rau ăn trái.

- trăm: ghi bằng kl trong PT: (cá + lâm) ở dòng 5-33b

- trăng: ghi bằng bl trong QÂTT: (ba + lăng) trong bài Tự thán 7 trong câu Tìm mai theo đạp bóng trăng dòng 1- 28a và Thuật hứng 22 trong câu Trăng kề cửa kẻo đèn khêu dòng 7 - 24b.

- trẻ: ghi bằng kl trong PT: (cá + lễ) ở dòng 7 - 10b và 4 - 19a.

- treo: ghi bằng kl trong QÂTT: (cự + liêu) Tự thán 3 trong câu Phú quý treo sương ngọn cỏ dòng 5 - 26b.

- trông: ghi bằng kl ở dạng 2 mã chữ riêng biệt trong PT:

(cá và lung) ở dòng 1 - 3a

(cư và lung) ở dòng 1 - 17a

- trống: ghi bằng kl trong QÂTT: (cổ + lộng) trong câu Sự nghiệp buồn đêm trống ba dòng 7 - 33a.

- trưa: ghi bằng kl trong PT: (cá + lư) ở dòng 1 -21a.

- trước: ghi bằng kl trong QÂTT: (cư + lược) trong câu Kìa nẻo Tô Tần thuở trước - Tự thán 21 dòng 4 - 24b.

Trong văn bản CNNAGN còn có một trường hợp: dùng công ghi trong, xuất hiện 4 lần ở: dòng 2 trang 9b; dòng 3 trang 38b; dòng 7 trang 68b. Đây là dấu vết của cách ghi dùng tổ hợp phụ âm đầu kl ghi trong chỉ còn lưu lại thành tố thứ nhất [k*]. Trường hợp này có thể thấy khá nhiều trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập… chỉ riêng trong PT đã thấy xuất hiện 93 lần cách ghi trong bằng công.

Trường hợp dùng những chữ Hán có âm đầu l để ghi tr Việt nhưng bên cạnh lại có thêm thành tố chỉ báo về nghĩa như 12 từ trong bảng trên chứng tỏ đã có sự thay đổi về cấu trúc chữ Nôm do dấu vết của các tổ hợp phụ âm đầu còn lưu lại ở thành tố thứ 2 là l [l] đã trở thành khó hiểu với người đương thời cần phải có thêm thành tố có nghĩa để giúp cho việc đọc chữ Nôm dễ dàng, chính xác hơn.

Mô hình thứ 3: dùng những chữ Hán có phụ âm đầu đ [d] để ghi tr Việt.

Trong bảng thống kê trên có 6 từ dùng đ [d] Hán để ghi tr Việt. Những cách ghi đó cho thấy chữ Nôm CNNAGN đã lưu giữ dấu vết của việc mượn âm Tiền Hán Việt đ [d] để ghi tr Việt. Hiện tượng này thường xuất hiện trong các văn bản Nôm cổ trước thế kỷ XVII.

Qua các cách ghi phụ âm đầu tr trong chữ Nôm CNNAGN có thể thấy rõ hơn về dấu vết các dạng tiền thân của tr trong tiếng Việt lịch sử ở thời điểm cách đây khoảng 5, 6 thế kỷ. Dấu vết về các dạng tiền thân của tr qua chữ Nôm văn bản CNNAGN đã góp thêm những cứ liệu quý để tìm hiểu về các nguồn gốc của phụ âm này trong lịch sử tiếng Việt.

H.T.N

CHÚ THÍCH

(*) Xin tham khảo: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. KHXH, 1999 (tr.69-71 và 103-108)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Đào Duy Anh: Chữ Nôm Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975.

2. Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. KHXH, H. 1979.

3. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo Dục, 1995.

4. Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981.

5. Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985.

6. Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu Tiếng Việt lịch sử. Nxb. Giáo dục, H. 1993.

7. Vương Lộc: An Nam dịch ngữ, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, 1995.

8. Nguyễn Tá Nhí: Các phương thức biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt, Nxb. KHXH, H. 1997.

9. Hoàng Thị Ngọ - Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh - Nxb. KHXH, H, 1999./.

TB

CHỮ NÔM PHẢN ÁNH NGỮ ÂM ĐỊA PHƯƠNG TRONG THIÊN NAM NGỮ LỤC

NGUYỄN THỊ LÂM

Thuật ngữ ngôn ngữ học gọi chung tiếng nói của địa phương là phương ngữ. ở nước ta, có thể phân chia thành ba phương ngữ lớn: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam(1). Trong từng vùng như vậy lại có những sắc thái ngôn ngữ riêng. Sự khác nhau giữa tiếng nói các địa phương thường được thể hiện ở những đặc trưng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, nhưng chủ yếu vẫn là trên bình diện ngữ âm(2). Điều này cũng đã được phản ánh vào chữ Nôm - một thứ chữ viết cổ xưa ghi âm tiếng nói của người Việt. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều dẫn chứng khi đi sâu vào các văn bản Nôm, nhất là các văn bản thơ ca cổ tích. Hiện nay, có thể coi Thiên Nam ngữ lục (TNNL) là một tác phẩm văn vần bằng chữ Nôm dài nhất mà ta còn bảo lưu được. TNNL ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XVII và giá trị của nó đã được giới nghiên cứu khẳng định. Trong quá trình phiên âm, chú giải văn bản này(3) chúng tôi còn nhận thấy có những trường hợp muốn đọc và hiểu TNNL một cách chính xác trong một số trường hợp thì không thể không quan tâm đến vấn đề ngữ âm địa phương thể hiện trong văn bản. Vấn đề này được thể hiện ở những nội dung như sau:

1. Không phân biệt /L/ - /N/. Ví dụ:

- Dùng chữ  “nên” (Nôm) để ghi âm “lên”, dùng  “năm” (Nôm) để ghi “lăm” trong khá nhiều trường hợp:

Trẻ từ lên chín lên mười (4a, d6)

Trẻ lên bảy tám mới cho học hành (73b, d9)

Tuổi vừa lên bốn mặt nhìn vẻ vang (77a, d2)

Long Cán tuổi tuần lên ba (89b, d8)

Âu Cơ là hiệu tuổi ngoài mười lăm (3a, d3)

Mười lăm bộ lạc thửa chưng cõi bờ (4a, d6)

Mười lăm bộ lạc dương xưa (12b, d2)

Mười lăm bộ lạc sứ quân (54b, d4)

Mười tám năm trị, tuổi đầy năm lăm (78a, d1)

...

Trái lại, TNNL dùng chữ 蓮 “lên” (Nôm) để ghi “nên” trong những câu:

Tre già măng mọc để hòng gây nên (74b, d5)

Đông cung thái tử lập nên (86a, d2)

Dụ Tông vô tự triều đình lập nên (111a, d1)

Thăm tìm đế thất lập nên (125a, d6)...

Tuy nhiên, cũng có trường hợp ghi đúng, như dùng chữ 戼 “nên” trong câu:

Cửa nhà căn bản lập nên,
Tốt phúc còn bền sinh được đôi trai. (90a, d7)

Cách ghi tương tự như trên còn có thể tìm thấy trong Việt sử diễn âm(4), một tác phẩm cùng thể loại diễn ca lịch sử ra đời từ thời Mạc, trong câu:

Thuở Hoàng thái tử Vệ vương,

Mới lên bảy tuổi khôn đương việc triều (16b, d3).

Trong sách Chỉ nam ngọc âm(5) cũng thấy dùng chữ 年 “niên” để ghi “lên” trong những câu:

Tiểu nhi con mọn tuổi còn lên ba (7b, d7).

Hậu tử là lên hột cơm (15a, d8)

...

Hoặc như trường hợp chữ 了 “nếu”, thông thường ghi bằng chữ 裊 “niểu”, nhưng trong nhiều trường hợp lại được viết thành (khẩu + liễu). Ví dụ:

Nếu mà khinh rẻ mẹ cha,
Áo xiêm thì cũng thành ra thú cầm
(Thi văn tạp lục,
tr. 20b)

“Nếu nhà chùa bỏ không cúng kỵ thì tôi có quyền lấy lại số ruộng đó”.
(Bia ký kỵ chùa Thạch Trì, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây)

“Dẫu là một cảnh thiên tạo địa thiết rất tinh xảo, nhưng nếu không có đức Từ lão tổ(6) tu luyện thoát hóa ở đó thì còn ai biết tới cho đến ngày nay”.
(Sài Sơn thi lục, tr.85b)

Những thí dụ như trên chứng tỏ những cách phát âm /L/ thành /N/ và ngược lại đã để lại dấu vết trong TNNL và trong các văn bản Nôm nói chung. Điều đó cho thấy người viết chữ Nôm đã phản ánh đúng âm đọc của địa phương mình. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng chỉ xảy ra cách đây chưa thật lâu, chứng cớ là trong Từ điển Việt - Bồ - La của giáo sĩ Alexandre De Rhodes xuất bản tại Rôm năm 1651 đã có l, n và cách đọc của nó được mô tả đúng như hiện nay, chỉ trừ một vài trường hợp đối với l như “lăn” còn là mlăn, “lể” (trong lể gai) còn là mlể, “lồi” còn là mlồi. Lên đến thời An Nam dịch ngữ(7) (khoảng thế kỷ XV, XVI), người đời Minh đã dùng chữ Hán có l để phiên âm 45 từ Việt đọc với l . Còn n cũng đã được ghi nhận qua việc phiên âm 16 từ Việt bằng những chữ Hán hồi đó có âm -n(8). Qua đó có thể thấy rằng chữ Nôm phản ánh những cách phát âm như trên có lẽ chỉ xuất hiện vào khoảng sau thế kỷ XVII.

2. Không phân biệt /T/-/CH/ (quốc ngữ ghi là tr, ch). Ví dụ:

- Dùng 徵 “trưng” (vời đến, trưng cầu) để ghi “chưng”(từ biểu thị thời gian diễn ra sự việc được nói đến: thuở, đương, trong) ở những câu:

Đế vương chưng dấy trời đà giáng sinh (59a, d1)

Chưng khi khốn ở Nguyên quân (102b, d4)

Chưng khi ác thú xông càn (106a, da3)...

Hoặc trong Việt sử diễn âm:

Có người ở nước thánh nhân,
chưng nước Lỗ, nghiệp văn nhà dòng (6a, d5)

- Dùng  “triều” (triều đình, triều đại) để ghi “chầu”, “chiều” trong những câu:

Tôn nàng làm chủ xem chầu Việt bang (2b, d6).

Mưa xuân hoa mọc chiều xuân (5b, d2)...

Sở dĩ có những cách ghi như trên, vì ở đây không có sự không phân biệt giữa hai phụ âm tắc đầu lưỡi và mặt lưỡi tr /t/ và ch /c/, chúng đều thành /c/. Hiện nay, khá nhiều nơi ở Bắc bộ phát âm những từ như “trăng sáng” thành “chăng sáng”, “đánh trống” thành “”đánh chống”, “trẻ con” thành “chẻ con”... Nói một cách khác, phụ âm tr/t/ chỉ còn tồn tại trong ý thức của người nói và được phân biệt trên chữ viết với phụ âm ch/c/ mà thôi. Tuy nhiên, trong cách mô tả của Từ điển Việt-Bồ-La đã cho thấy ở thế kỷ XVII ch/c/ là một âm tắc xát. Còn tr/t/ là một âm quặt lưỡi cũng đã có mặt nhưng nó còn đang tồn tại song song với bl, tl (bl, tl ở thuần Việt, tr ở Hán Việt) chứng tỏ nó đang ở trong quá trình chuyển hóa thành âm này. Đến khoảng cuối thế kỷ XVII thì /bl/ và /tl/ chuyển dần sang tr gi. Dấu vết của sự chuyển biến này để lại trong tiếng Việt khá rõ, nhất là trong cách dùng chữ Hán phiên âm các tên Nôm như Từ Liêm (tlèm-trèm), Phù Lưu blầu- trầu, giầu)... /BL/ lại theo phương ngôn mà có thể chuyển thành tr hoặc gi, còn /tl/ thì chuyển thành tr hoặc l. Ví dụ: blời > trời, giời, blo > tro, gio, blai > trai, giai, blả > trả, giả, tlái > trái, lái, tlâu > trâu, tlíu tlo > líu lo, tlúc tlắc > lúc lắc(9) . Như vậy thì quá trình tr, ch nhập một cũng chỉ có thể diễn ra ít nhất vào khoảng sau thế kỷ XVII.

3. Không phân biệt S - X. Ví dụ:

- Dùng  “xướng” (xướng ca) để ghi “sướng” (sung sướng):

Chơi lâu sướng dạ càn đua,
Bộ Lĩnh ngồi hoà bảo chúng rằng bay.
(60b, d2)

- Dùng  “sĩ” (làm quan) để ghi “xảy” (bỗng, chợt, lỡ) trong những câu:

Nam tuần xảy gặp một người thiếu niên (1a, d7)

Kề triều xảy thấy một người (7b, d4)

Đi xa lo nữa xảy chân (71b, d5)

Xảy chân chẳng chấp, xảy lời chẳng chi (92a, d8)...

Những cách ghi như trên cũng chứng tỏ không còn sự đối lập trong cách phát âm giữa S - X nữa, chúng nhập làm một thành /s/ (quốc ngữ ghi: x). Nhưng trong Từ điển Việt - Bồ - La, S đã có mặt với tư cách là một âm riêng biệt, cách phát âm được mô tả là một âm xát quặt lưỡi như thường thấy ở miền Trung và miền Nam, còn X cũng có cách phát âm gần giống như hiện nay(10). Điều đó cho thấy hiện tượng nêu trên cũng chỉ xảy ra trong khoảng mấy thế kỷ gần đây.

4. Không phân biệt R - /z/ (quốc ngữ ghi là d, gi). Ví dụ:

- Dùng  “dụng” (dùng) để ghi “rùng” trong câu:

Vua nghe thấy nói rùng mình,
Nể nang lão tướng công danh đã nhiều (103a, d2)

- Dùng  “dữ” (cùng với) để ghi “giữ” trong câu:

Rao nhau gìn giữ tứ thành,
Bảo nàng Trắc Nhị mọi tình cho hay. (25b,d8)

- Dùng  “giả” (hiền giả, học giả) để ghi “dã” trong câu:

Cờ bay chấp chới dường sao,
Can qua trắng, đòng đao biếc lè. (17b, d1)

Có thể tìm thấy những ví dụ tương tự như:

- Dùng  “du” (dầu) ghi “giầu” (trầu) trong câu”:

Ba đồng một mớ giầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không.
(Lý hạng ca dao, tr.10a)

- Dùng  “dã” (trợ từ cuối câu) để ghi “giã” trong câu:

Em về giã gạo ba trăng,
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm.
(Lý hạng ca dao, tr.99a)

Những ví dụ nêu trên cho thấy ở đây r cùng với d, gi đều phát âm như nhau thành /z/. Những từ có r tuyệt đại đa số đều là những từ thuần Việt. Ở Từ điển Việt - Bồ – La, r đã có cách đọc thống nhất, đó là một âm đầu lưỡi, hơi quặt và hơi rung, còn d được coi như một âm hoàn toàn độc lập, khu biệt với những âm khác. Cũng theo như sự mô tả của Alexandre De Rhodes, những từ hiện nay viết với gi như giời (trời), giầu (trầu), gianh (tranh) ở thời điểm đó đang còn là bl. Quá trình bl > gi đã có mầm mống từ thế kỷ XVII, chứng cứ là trong quyển từ điển này đã ghi cả blả, blả ơn (ở mục B) và giả, giả ơn (ở mục Gi). Hiện nay về mặt phát âm, ở miền Bắc không có một âm đặc biệt nào dành riêng cho r. Nhìn chung thì cả ba âm r, gi, r đều đã nhập làm một thành /z/, chỉ trừ một vài từ phiên âm kiểu như ra-đi-ô, ra-đa thì cách phát âm r có rung mới được phục hồi(11). Kết quả điều tra ngôn ngữ học cũng cho biết chỉ có một vài địa phương ở phía bắc Bình Trị Thiên là còn phát âm phân biệt d, gi mà thôi(12). Ở Nam bộ, hiện tượng phát âm không phân biệt d, gi cũng đã được phản ánh trong các văn bản Nôm, kể cả những tác giả lớn như Nguyễn Đình Chiểu(13). Theo GS Nguyễn Tài Cẩn thì sự phát âm không phân biệt giữa r d, gi cũng là kết quả của những sự diễn biến mới chỉ xảy ra vài ba thế kỷ trở lại đây(14).

Như vậy, ở TNNL hầu như đã thể hiện được những đặc trưng về mặt ngữ âm của một số vùng thuộc phương ngữ Bắc bộ. Chữ Nôm là một thứ chữ ghi âm nên sự thể hiện những cách phát âm địa phương là một vấn đề tồn tại khách quan trong văn bản. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình cứ liệu mà ta hiện biết thì những hiện tượng vừa nêu trên cũng chỉ xảy ra cách đây chưa thật lâu khi đã có sự xóa mờ gianh giới đối lập giữa các âm uốn lưỡi và âm không uốn lưỡi tương ứng l-n, tr-ch, s-x, r-d, gi tại một số vùng địa phương ở miền Bắc, khoảng sau thế kỷ XVII. Những Chữ Nôm phản ánh những cách phát âm địa phương như trên tồn tại ở TNNL cũng là điều dễ hiểu, bởi đây là tác phẩm ra đời vào thời Lê nhưng văn bản được sao chép ra sớm nhất là vào đầu thời Nguyễn(15). Do đó trong văn bản, bên cạnh chữ Nôm thời Lê còn có cả những chữ Nôm xuất hiện sau thời kỳ sáng tác của TNNL. Những chữ Nôm thuộc loại thứ hai này rất có thể do người sao chép đời sau đưa vào tác phẩm. Có thể chúng không được thu thập vào trong bất kỳ một quyển từ điển, tự điển chữ Nôm nào, nhưng khi gặp chúng trong văn bản, người đọc cũng cần có một kiến thức nhất định về phương ngữ học thì mới có thể đọc hiểu và phiên âm một cách chính xác những trường hợp tương tự như chúng tôi vừa nêu. Cũng cần lưu ý thêm rằng, khi đi vào một tác phẩm Nôm cụ thể nào đó thì cũng nên chú ý một cách đúng mức đến vấn đề xuất xứ của văn bản. Bởi giống như con người, mỗi văn bản cũng thường có quê quán, lai lịch riêng, và việc đi sâu tìm hiểu những chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương thể hiện trong đó có thể sẽ giúp ích ít nhiều cho việc phiên âm, chú giải một cách chính xác các văn bản Nôm mà chúng ta hiện có.

N.T.L

CHÚ THÍCH

1. Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb. KHXH, H. 1999.

2. Trần Thị Thìn: Tiếng quê ta, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống số 10-1999, tr.5.

3. Thiên Nam ngữ lục. Nguyễn Thị Lâm phiên âm, chú giải. Nxb. Văn học & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông-Tây, 2001.

4. Việt sử diễn âm. Nguyễn Tá Nhí sưu tầm, giới thiệu, biên dịch, Nxb. Văn hóa thông tin, H. 1997.

5. Chỉ Nam ngọc âm. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H. 1985.

6. Từ lão tổ: tức Từ Đạo Hạnh, nhà sư nổi tiếng thời Lý.

7. An Nam dịch ngữ. Vương Lộc giới thiệu và chú giải, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 1995.

8. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, H. 1995, tr.86 và tr.108.

9. Nguyễn Ngọc San: Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập 4, Nxb. Giáo dục, H. 1987, tr.267.

10. 11. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, sđd, tr.86, tr.108 và tr.114.

12. Nguyễn Tri Niên - Nguyễn Phan Cảnh: Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt d và gi hiện nay. Nghiên cứu Văn học số 8-1961.

13. Nguyễn Thị Lâm: Chữ Nôm với ngữ âm địa phương Nam bộ, Tạp chí Hán Nôm số 2-1993.

14. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, sđd, tr.162.

15. Nguyễn Thị Lâm: "Về các văn bản Thiên Nam ngữ lục hiện còn", Tạp chí Hán Nôm số 4 - 1997./.

TB

KHO "MỘC THƯ" CHÙA VĨNH NGHIÊM VỚI GIÁ TRỊ VĂN HOÁ

NGUYỄN VĂN PHONG

Chùa Vĩnh Nghiêm là một đại danh lam cổ tự, một Thiền viện - Trung tâm đào tạo tăng đồ trong suốt thời gian gần tám thế kỷ hình thành và phát triển của Phật phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chùa được dân gian quen gọi là chùa La, hay Đức La vì toàn bộ công trình kiến trúc tọa lạc trên một gò đồi nhỏ của xã Ông La (thời Nguyễn đổi thành xã Đức La), huyện Phượng Nhãn xưa, nay thuộc thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Qua các nguồn sử liệu, được biết chùa Vĩnh Nghiêm được mở mang xây dựng từ thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) trên nền móng của một ngôi chùa nhỏ có từ thời Lý (thế kỷ XI-XIII). Trải gần một thiên niên kỷ với nhiều lần trùng tu, tôn tạo công trình kiến trúc hiện nay cơ bản còn lại là sản phẩm của hai triều đại Lê - Nguyễn (thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XX).

Ngoài công trình kiến trúc, chùa Vĩnh Nghiêm còn được xem như một bảo tàng văn hóa Phật giáo Đại thừa khá tiêu biểu ở miền Bắc Việt Nam. Di vật cổ kính ở chùa Vĩnh Nghiêm rất phong phú, đa dạng, mỗi nhóm hiện vật đều xứng đáng xếp thành một bộ sưu tập khá hoàn chỉnh.

- Sưu tập tượng thờ, có hơn một trăm pho được bài trí ở toà Tam bảo, Tổ đệ nhất, Tổ đệ nhị, Khách đường. Bộ tượng ở đây cũng có mấy nhóm như Tượng phật, tượng Tổ, tượng Hậu, tượng Thánh được bài trí theo mô hình chuẩn mực thời Lê - Nguyễn;

- Hệ thống văn bia thời Mạc - Lê Trung hưng - Nguyễn;

- Hệ thống hoành phi - câu đối, đồ thờ, kho kinh sách nhà Phật, kho ván in kinh - sách... tất cả có tới vài nghìn đơn vị hiện vật quý giá. Một trong những di sản văn hóa đặc biệt quý giá ở chùa Vĩnh Nghiêm mà hiếm nơi nào trên đất nước ta còn lưu giữ được là kho ván khắc in. Thực chất đó là những trang sách bằng gỗ mà người xưa trang trọng gọi là mộc thư khố hay mộc bản thư khố.

2. Kho mộc thư ở chùa Vĩnh Nghiêm có tổng số gần ba nghìn bản lẻ, trong đó hầu hết là kinh, sách thuốc, luật giới nhà Phật; số còn lại là trước tác của Tam thế tổ và một số vị cao tăng dòng thiền Trúc Lâm (thơ, phú, nhật ký...) được khắc bản cách đây trên dưới hai trăm năm.

Có thể nói kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm là bảo vật vô giá của quốc gia. Qua kho bảo vật này người đời có thể khai thác lượng thông tin phong phú, đa lĩnh vực như: lịch sử Phật giáo, tư tưởng văn hóa hành đạo, nhập thế của dòng thiền Trúc Lâm, lịch sử nghề khắc in mộc bản, thân thế sự nghiệp một số vị cao tăng có nhiều cống hiến cho sự phát triển nền văn hóa truyền thống dân tộc... Hơn nữa, với sự tài hoa khéo léo của nghệ nhân xưa mỗi mảnh ván khắc xứng đáng là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật để đến hôm nay người đời được ngưỡng vọng và có thêm nguồn tư liệu tìm hiểu nghệ thuật chạm khắc gỗ Việt Nam thời Lê - Nguyễn.

Hiện nay các bản mộc thư được bảo quản trân trọng trong 7 kệ gỗ, trong đó có 2 kệ lớn đặt ở Tiền Đường (chùa Hộ), 4 kệ nhỏ đặt ở Thượng điện (Thiêu hương), 1 kệ nhỏ đặt ở tòa Tổ đệ nhất.

Hai kệ lớn ở Tiền đường với khoảng gần hai nghìn bản ván cơ bản là kho Kinh Hoa Nghiêm, cùng hơn 20 bản của bộ Kinh Di Đà. Bốn kệ ở tòa Thượng điện được sắp xếp lộn xộn gồm nhiều kinh sách khác nhau. Kệ nhỏ ở tòa Tổ đệ nhất có trên hai trăm bản, hầu hết là pho Kinh Đại Thừa.

Các ván in này đều bằng chất liệu gỗ thị, có kích cỡ tương đối đồng đều (trung bình 33x23x2,5cm). Vì đã qua nhiều lần in cho nên các mảnh ván đều có mầu đen bóng bởi bề mặt được phủ một lớp dầu mực in khá dày. Lớp dầu mực này thấm sâu vào ruột gỗ có tác dụng chống thấm nước, ẩm mốc, mối mọt rất hiệu quả. Phần lớp ván in được khắc chữ Hán trên hai mặt, kiểu chữ chân phương, chữ khắc sâu (khoảng 1,5mm) sắc nét và đều khắc ngược (âm bản). Mỗi mặt ván hai trang sách, khắc chạm đúng chuẩn mực theo kiểu đóng sách của người xưa. Biên lan có khung viền 4 lề trang sách gồm 1 đường chỉ to và một đường chỉ nhỏ (người xưa gọi là Văn vũ Biên lan). Bản tâm (hay Bản khẩu) thường khắc dòng chữ cho biết tên sách (Hoa khẩu), thứ tự trang sách. Thượng hạ Bản tâm Ngư vĩ (Đuôi cá) theo kiểu song Ngư vĩ. Tả hữu, thượng hạ Biên lan Thiên đầu - Địa cước rộng chừng 2,5cm. Nhiều trang được các nghệ nhân xưa khắc đan xen thêm những bức minh họa đường nét tài hoa tinh tế, bố cục chặt chẽ hài hòa xứng đáng là tác phẩm đồ họa trứ danh của mọi thời đại.

Theo dòng lạc khoản khắc ở bài tựa và dòng lạc khoản cuối các cuốn kinh - sách được biết, kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản khắc in dưới triều vua Tự Đức, Thành Thái nhà Nguyễn (nửa sau thế kỷ XIX), một số ít được khắc dưới triều vua Cảnh Hưng, nhà Lê (nửa cuối thế kỷ XVIII). Trong tổng số gần ba nghìn bản lẻ thì có ba chục đầu kinh - sách các loại, trong đó có tới 2/3 là Hoa Nghiêm kinh; còn lại là Di đà kinh, Quan Thế âm kinh, Tì Khưu ni giới kinh, Khai thánh chân kinh... và các sách, luật nhà Phật. Xin được thống kê tên một số pho kinh sách tiêu biểu:

1- Hoa Nghiêm kinh

2- Di Đà kinh

3- Quan Thế âm kinh

4- Khai thánh chân kinh

5- Đại thừa chỉ quán

6- Tỳ Kheo ni giới kinh

7- Tịnh độ sám nguyện

8- Thượng đế khuyến thế văn

9- Sa Di ni uy nghi

10- Bản nguyện chân kinh

11- Thiền tông bản hạnh

12- Thần du phương ký

13- Giới thực ngưu nhục

14- Giới thập đổ điều

15- Sa Di ni giới kinh

16- Khuyến thế lương ngôn

17- Kết hữu phàm tú huấn

18- Thiếu thất phú

19- Kim khoa ngọc luật

20- Tây phương mỹ nhân truyền

21- Yên Tử nhật trình

22- Thái vi công quá cách

23- An thai phôi sinh phương

24- Thiền tịch phú

25- Thích Ca giáng đản truyền

26- Quá dâm thuyết

27- Phụ kinh nghiệm cấp cứu phương

28- Văn Xương kiến thế văn

29- Văn Xương đế quân giới dâm văn

30- Đáp tịnh độ vấn tuỳ đáp vấn

31- Thái thượng cảm ứng biên

32- Đế quân cứu thế văn

3. Do không có điều kiện khảo cứu toàn bộ nội dung các kho kinh sách trên một cách kỹ lưỡng nên chúng tôi chỉ lược thuật nội dung của một số pho tiêu biểu.

- Hoa Nghiêm kinh là tên gọi tắt của Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Đại phương quảng là pháp sở chứng. Đức Phật là người đã năng chứng, đã chứng được các lý của Đại phương quảng. Vạn hạnh của nhân vị như hoa, đem hoa này trang nghiêm cho quả đất, cho nên gọi là Hoa Nghiêm. Còn muôn đức như hoa của đất, quả của phật, đem hoa này trang nghiêm cho phép pháp thân cho nên cũng gọi là Hoa Nghiêm. Giáo lý của Hoa Nghiêm kinh là viên đốn. Ai thụ trì (nhận và giữ) được Hoa Nghiêm kinh thì sẽ vào được cảnh giới tốt đẹp của Phật, mau chóng đắc đạo thành Phật.

- Di Đà kinh tên gọi tắt của Phật thuyết A Di Đà kinh. Di Đà là tên gọi tắt của Phật A Di Đà. Di Đà kinh của Phật Tịnh độ tông mà Đức Phật thuyết để Phổ độ chúng sinh. Nội dung tán dương công đức vô lượng vô biên của ngài, khuyến khích chúng sinh nên chấp trì xưng tụng danh hiệu A Di Đà nhất tâm bất loạn. Ai mà niệm danh hiệu ngài không sao nhãng thì lúc lâm chung được ngài rước về cõi cực lạc mà hưởng sự thanh nhàn, tĩnh lự.

- Bản nguyện chân kinh: Bản có nghĩa là "căn" tức thệ nguyện căn bản. Tâm của Bồ tát rất quảng đại, thệ nguyện cùng vô lượng. Tụng niệm kinh này để sở đắc điều đó.

- Quán thế âm kinh: Quán thế âm ngài là người có một mặt, ngàn tay, ngàn mắt, 108 hồng danh, ngài ngự trên đền Bổ Đà Ca Sơn, xứ Lạp Tát, Tây Tạng. Nếu ai thờ ngài ắt sẽ được phúc đức, ai cầu nguyện và niệm tưởng ngài thì được ngài che chở cứu nạn.

- Tì kheo ni giới kinh: Bậc Tì Kheo phải giữ đầy đủ 348 giới cấm. Trong luật 348 điều ngăn cấm được phân ra làm 7 khoản:

+ Ba la di pháp có 8 giới: dâm, đạo (trộm cắp), sát (sát sinh), vọng ngữ (điêu ngoa - hóng hớt), vì khiêu dâm mà đụng cọ với đàn ông từ nách đến gối, vì dâm dục mà hẹn hò cầm tay đàn ông ở chỗ vắng vẻ, giấu tội cho Tì kheo ni phạm đại giới, theo Tì kheo tăng phạm giới và không sám hối.

+ Tăng tàn (làm tổn hại sư tăng), có 17 giới cấm:

+ Xả đoa, có 30 giới cấm

+ Ba dật đề, có 178 giới cấm

+ Bá chúng học pháp, 100 giới cấm

+ Đề xa ni, 8 giới cấm

+ Thất diệt tránh, 7 giới cấm

- Sa Di ni giới kinh, có 10 điều ngăn cấm: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không điêu ngoa - hỗn xược, không rượu chè, không trang điểm, không làm gì gợi tính dâm dục, không nằm ghế cao, không nằm giường rộng, không ăn quá Ngọ, không ham tiền bạc - tiêu sài.

Sa Di ni có hai bậc: Ô Sa di là hạng từ 7 đến 12 tuổi, chủ yếu chăm sóc trông nom thóc lúa hoa quả nhà chùa; ứng Pháp Sa di là hạng từ 13 đến 19 tuổi, phải biết phụng sự các nhà sư và phục dịch các công việc nhà chùa.

- Thiền tông bản hạnh, Thiền tông là Phật phái chuyên tham thiền nhập định để đắc được Phật tính, Phật tâm, cho nên còn gọi là phái Tâm tông. Phái này không lập văn tự, thầy trò truyền tâm pháp cho nhau bằng cách di chuyển ý nghĩ, tư tưởng qua thiền định.

- Sa Di ni uy nghi (Nghi thức bắt buộc đối với Sa Di ni)

- Giới thực ngưu nhục (Những lời khuyên răn không ăn thịt trâu)

- Giới đổ thập điều (Mười điều khuyên răn không đánh bạc)

- Quá dâm thuyết (Lời khuyên không được hoang dâm vô độ)

- Thái vi công quá cách (Cách chế biến đồ ăn trong nhà chùa)

- An thai, thôi sinh phương (Phương thuốc an thai, thôi sinh)

- Khuyến thế lương ngôn (Lời khuyên làm việc thiện)

- Kết hữu phàm tứ huấn (Bốn lời dạy trong việc kết bạn)

- Phụ kinh nghiệm cấp cứu thương (Kinh nghiệm cấp cứu bệnh phụ nữ)

- Yên Tử nhật trình (Ghi hành trình các sư tổ lên Yên Tử)

- Thiền tịch phú (Bài phú về việc tĩnh dưỡng tu thiền)

- Thích Ca giáng đản truyền (Lời truyền ngày sinh của đức Phật Thích Ca).

- v.v...

Ngoài kho mộc thư trên, chùa Vĩnh Nghiêm còn có một số pho kinh - sách quý giá khác, như cuốn Khóa hư lục mà theo lạc khoản thì được tàng bản, in ấn tại chùa Vĩnh Nghiêm dưới triều vua Tự Đức nhà Nguyễn, thế nhưng không hiểu vì sao hiện nay không còn bóng dáng mảnh ván in nào.

4. Với giá trị văn hóa đặc biệt như trên, kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm cần được ưu tiên bảo tồn như những bảo vật quốc gia. Trên thực tế nó chưa được sự quan tâm hợp lý. Cách đây không lâu, để phục vụ đề tài nghiên cứu về trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm, Bảo tàng Bắc Giang có tổ chức hai lần kiểm kê để thống kê đầu kinh - sách nên đã đánh thức giấc ngủ im lìm từ hàng trăm năm nay của kho mộc thư quý giá này. Nhưng hiện tại việc bảo quản hiện vật vẫn hoàn toàn do nhà chùa đảm nhiệm, cơ quan chuyên môn ngành văn hóa chưa có kế hoạch, phương án bảo tồn một cách khoa học kho mộc thư cũng như các di sản văn hóa chùa Vĩnh Nghiêm. Đã mấy trăm năm tồn tại, với thời tiết khí hậu bất lợi như vùng chiêm trũng Trí Yên nên một số bản mộc thư đã bị nhiễm nấm mốc, mục sứt... cần được quan tâm khắc phục.

N.V.P

TB

VỀ CHỮ "THỊ" (是) TRONG BÀI
"KHẢO CỨU VĂN BẢN THIÊN HẠ BẢN ĐỒ" CỦA PGS. NGÔ ĐỨC THỌ

TRẦN THỊ KIM ANH

Tôi luôn thích các bài viết của PGS. Ngô Đức Thọ bởi sự rành rẽ, giàu thông tin và già dặn trong lĩnh vực văn bản học Hán Nôm của ông. Bài “Khảo cứu văn bản Thiên hạ bản đồ” trên Tạp chí Hán Nôm số 1-2005 vừa rồi của ông cũng vẫn đem lại cho tôi sự thích thú đó. Nhìn chung các lập luận của ông vẫn hết sức sắc sảo, tinh tường, với phong cách viết đầy lôi cuốn. Tuy nhiên, có một vấn đề nhỏ nhưng là một kiến thức cần thiết cho những người làm Hán Nôm, nên tôi xin phép P. Giáo sư được bàn một chút, nếu có chỗ chưa đúng mong được P. Giáo sư chỉ bảo.

ở trang 59 của Tạp chí, ngay phần đầu bài viết, tại Phần I: Nội dung chính và thông tin nghiên cứu; Mục 1: Nội dung chính, P. Giáo sư cho biết trong văn bản Thiên hạ bản đồ mang kí hiệu A.2628 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, “tại dòng cuối ở phần một, liền trang sau là mấy câu: “洪 德 拾 一 年 癸 卯 春 貳 月 拾 壹 日 史 部 尚 書 阮 如 堵 奏 為 邊 遠 瘴 地 書 本 月 午 時 玉 御 萬 壽 殿 司 禮 鋻 同 知 吳 文 o 奉 旨 是 欽 惟”.

Mấy câu này đã được P. Giáo sư phiên âm và dịch là: “Hồng Đức thập nhất niên Quý Mão xuân nhị nguyệt thập nhất nhật Lại bộ Thượng thư Nguyễn Như Đổ tấu vi biên viễn chướng địa thư. Bản nhật nguyệt thời ngọc ngự Vạn Thọ điện. Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o phụng sắc chỉ. Thị khâm duy !” (Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức 11 (1480) mùa xuân ngày 11 tháng hai. Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Như Đổ dâng thư tâu về miền biên cương xa xôi chướng khí. Ngày... tháng ấy giờ Ngọ vua ngự ở điện Vạn Thọ. Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o … (chữ mờ không đọc rõ) vâng chỉ. Vậy (?) kính tuân !)

ở đây có chú thích là: “Câu này ý nghĩa không thật rõ ràng, ở dưới sẽ nói đến”.

Và ở dưới, tại trang 67, P. Giáo sư đã trở lại “nói đến” đoạn văn này như sau:

“Về dòng ghi Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Như Đổ dâng thư tâu việc biên viễn thì tra tìm cả khoảng dài một hai chục năm ở giai đoạn này chỉ thấy mấy lần Nguyễn Như Đổ tâu bàn cất nhắc bổ dụng quan chức, hợp với chức vụ Thượng thư Bộ Lại, có thấy sử ghi Nguyễn Như Đổ dâng tâu thư sớ gì đâu. Đây nói Nguyễn Như Đổ tâu việc biên cương xa xôi khí độc, ý nghĩa rất mù mờ, trên dưới không có đoạn nào hỗ trợ cho rõ thêm (lược 3 dòng - TTKA)… hầu như không liên quan gì đến bản danh sách phủ huyện các thừa tuyên ? Tiếp đó nói việc vua ngự điện Vạn Thọ, không thấy chép vua truyền phán gì mà viên Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o đã vội vâng chỉ. Rồi đến câu: “是 欽 惟” (Thị khâm duy) Đọc văn từ hành chính chỉ thấy cụm từ “Khâm duy / Kính tuân !), đây tác giả A.2728 lại bịa ra cấu trúc “Thị khâm duy” rất ngớ ngẩn, nếu dịch thật đúng phải là: “Thế là kính tuân thôi !”. Lại còn chức Tư lễ giám Đồng tri nữa - phải tạm bỏ qua vì khó tra cứu (lược 2 dòng - TTKA), Tư lễ giám thì có nhưng chưa nghe nói chức ấy có “Đồng tri” !? Viên “Tư lễ giám Đồng tri” này thường túc trực hầu vua các việc văn thư sắc chỉ v.v... thì cũng có thể được sử ghi nhân một vụ việc nào đó, nhưng hầu vua ở giai đoạn này không có ai là Ngô Văn o … cả !”.

Như vậy theo phân tích của P. Giáo sư thì đoạn văn ngắn này có ba vấn đề không ổn, đó là:

1- Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Như Đổ tâu trình cái gì ?

2- Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o nhận được sắc chỉ về việc gì ? Và cụm từ “Thị khâm duy” là một sự bịa đặt ngớ ngẩn ?

3- Có chức Tư lễ giám Đồng tri không ?

Thực tế, chỉ cần đọc kĩ đoạn văn một chút thì sẽ thấy tình hình dễ hiểu hơn nhiều. Có lẽ do đọc vội nên P. Giáo sư đã có đôi chút nhầm lẫn về chấm câu và nghĩa từ khiến đoạn văn trở nên tối nghĩa. Theo tôi, đoạn văn phải được chấm câu và dịch như sau:

“Hồng Đức thập nhất niên Quý Mão xuân, nhị nguyệt thập nhất nhật, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Như Đổ tâu vi biên viễn chướng địa thư. Bản nguyệt nhật Ngọ thời, Ngọc ngự Vạn Thọ điện, Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o phụng sắc chỉ “Thị”. Khâm duy !”

(Mùa xuân năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức 11 (1480) Thượng thư bộ Lại Nguyễn Như Đổ tâu việc làm sách về vùng biên viễn chướng địa. Giờ Ngọ ngày ấy tháng ấy, vua ngự điện Vạn Thọ, Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o được sắc chỉ phê “Thị”. Kính tuân !).

Như vậy là đoạn văn này khá rõ ràng, các vấn đề P. Giáo sư cho là mù mờ đã trở nên khá dễ hiểu có thể lần lượt được trả lời như sau:

1- Vấn đề Nguyễn Như Đổ tâu ở đây là tâu việc làm sách về vùng biên viễn chướng địa, tức là làm danh sách các châu phủ huyện và bản đồ của những vùng này để hoàn chỉnh Thiên hạ bản đồ, có lẽ chính vì vậy mà tác giả đã đưa đoạn văn này vào sách Thiên hạ bản đồ. Và bản tấu đã được nhà vua phê chuẩn lập tức vào giờ Ngọ ngày hôm đó tại điện Vạn Thọ.

2- Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o đã nhận được sắc chỉ phê chữ “是” (Thị / Được, Cho phép). Chữ “Thị” ở đây là chữ các vua đời Lê thường dùng để phê chuẩn tấu sớ của quần thần. Điều này đã được học giả danh tiếng Phạm Đình Hổ cho biết trong bài “Hoạch Nặc” phần Hán Kỉ trong sách Quần thư tham khảo của ông, xin được trích dẫn và dịch như sau: “按 漢 制 天 子 於 公 卿 群 神 所 陳 之 事 有 可 從 者 故 制 曰 可 (...) 其 曰 可 者 猶 本 國 黎 朝 之 是 字 也 (...) 黎 朝 政 歸 王 府 有 事 奏 請 黎 帝 止 於 本 年 號 之 前 作 一 是 字 謂 之 御 是 常 見 景 興 年 間 顯 宗 是 字 其 形 如 龍 蜒 蜿 用 滿 紙 之 兩 幅 然 知 者 鮮 矣”(1).

“án Hán chế, Thiên tử ư công khanh quần thần sở trần chi sự, hữu khả tòng giả, cố chế viết “khả” (…) Kì viết “khả” giả, do bản quốc Lê triều chi “Thị” tự dã. (…) Lê triều chính quy vương phủ, hữu sự tấu thỉnh, Lê đế chi ư bản niên hiệu chi tiền tác nhất “Thị” tự, vị chi “Ngự Thị”. Thường Kiến Cảnh Hưng niên gian Hiển Tông “Thị” tự, kì hình như Long diên uyển, dụng mãn chỉ chi lưỡng bức. Nhiên tri giả, tiễn hĩ”.

(Xét chế độ nhà Hán, Thiên tử đối với những việc tâu trình của công khanh quần thần, nếu có thể theo được thì theo quy chế cũ phê chữ “Khả” (Được). (…) phê chữ “Khả” cũng giống như phê chữ “Thị” của triều Lê ở nước ta vậy. (…) Triều Lê, chính sự qui về phủ chúa, có việc tâu xin gì vua Lê chỉ phê một chữ “Thị” vào trước niên hiệu của mình, gọi là “Ngự Thị”. Ta từng được thấy chữ “Thị” của vua Hiển Tông đời Cảnh Hưng, hình dạng của nó uốn lượn như rồng, kín cả hai tờ giấy. Nhưng người biết điều này rất ít vậy !).

Vậy là không nghi ngờ gì nữa, ở đây nhà vua đã dùng chữ “Thị” đề chuẩn y bản tấu của Nguyễn Như Đổ, và quan Tư lễ giám Đồng tri Ngô Văn o đã nhận được sắc chỉ có phê chữ “Thị” đó.

3- Về chức Tư lễ giám Đồng tri thì P. Giáo sư cho biết “chưa nghe nói chức ấy có Đồng tri”. Thực ra về quan chế nhà Lê còn rất nhiều vấn đề phải bàn, chúng ta chưa có những nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này do đó nếu P. Giáo sư chỉ chưa nghe nói thì chưa hẳn không có chức đó. Chính sử cho biết Lê Thánh Tông là người luôn nâng đỡ họ ngoại - Họ hàng của Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao - rất có thể quan Tư lễ giám họ Ngô này là người trong họ ngoại của ngài. Nhưng là người trọng nhân tài, Thánh Tông đã dùng người thực học đưa vào chức Tư lễ giám, còn cất nhắc vì tình thân thì chỉ cho “Đồng tri” mà thôi. Đây cũng chỉ là phỏng đoán theo chủ quan của tôi không dám quả quyết.

Việc các vua nhà Lê dùng chữ “Thị” để phê chuẩn tấu sớ thực ra theo Phạm Đình Hổ thì “người biết được điều này rất ít” (Tri giả tiễn hĩ), do đó tôi mạo muội viết bài này với mong muốn nhiều người biết được điều đó để không lúng túng khi gặp phải. Bản thân tôi khi dịch một số văn bản thời Lê cũng đã nhiều lần gặp trường hợp này, nhưng nhờ học được ở Phạm Tiên sinh nên đã không bị vướng./.

T.T.K.A

CHÚ THÍCH

(1) Quần thư tham khảo, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.487.

TB

TRUYỆN KIỀU: THỬ TÌM MỘT ÂM ĐỌC CỔ CỦA CHỮ NÔM VẪN ĐỌC LÀ "DẤN/GIẤN"

NGUYỄN TUẤN CƯỜNG

1. Dấn, giấn, hay…? Đó là điều mà chúng tôi băn khoăn về âm đọc của một chữ Nôm xuất hiện hai lần trong Truyện Kiều:

Câu 898: Dớp nhà đến nỗi (?)(1) dấn / giấn vào tôi ngươi.

Câu 2941: dấn/ Giấn mình trong áng can qua.

Hai trường hợp này, các bản Kiều Quốc ngữ thường ghi một trong hai âm(2):

- Dấn: như bản Bùi Khánh Diễn, bản Nxb Văn học - 1979, các bản của Nguyễn Quảng Tuân…

- Giấn: như các bản Bùi Kỉ & Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Viện Văn học, Thế Anh, Nguyễn Tài Cẩn…

Trong Từ điển Truyện Kiều (Nxb. KHXH, 1974), cố học giả Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Giấn: đè xuống, nhận xuống; dìm xuống, đẩy vào” và dẫn các trường hợp: Giấn mình: đem thân mình cho lọt vào chỗ khó vào, vào chỗ bất đắc dĩ, Giấn vào tôi ngươi: giấn mình vào cảnh làm tôi đòi (tr.160-161). Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học, 2002) ghi nhận ở mục từ dấn1, nghĩa số 2, thì dấn có nghĩa là: “vươn mạnh, tiến mạnh tới, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Dấn sâu vào con đường tội lỗi. Dấn thân” (tr.248). Đây là nghĩa của từ Dấn/ giấn trong 2 văn cảnh kể trên.

Như vậy là theo quan điểm của Từ điển Truyện Kiều Từ điển tiếng Việt, Dấn và giấn chỉ là những cách viết chính tả khác nhau của cùng một từ. Đó là quan điểm của ngày nay. Đến đây, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: trong giai đoạn Truyện Kiều hình thành thì dấn hay giấn đã có mặt trong từ vựng tiếng Việt chưa, và nếu đã có thì chúng có phải là những dạng thức chính tả khác nhau của cùng một từ hay không ?

2. Để tìm lời giải cho câu hỏi trên, chúng tôi lần giở một số bộ từ điển (từ điển, tự điển, tự vị) cổ mà chúng ta đã có.

Kết quả là: trước từ điển của Génibrel (1898), những cuốn phổ dụng như de Rhodes (xuất bản năm 1651), de Béhaine (1772 - 1773), Taberd (1838), Huỳnh Tịnh Của (1895 - 1896) không có giấn mà chỉ có dấn với 2 nghĩa:

- Cái nôi, cái võng con nít, cái tróng.

- Đánh: dấn ba hèo = đánh ba hèo(3).

Một điều dễ nhận thấy là cả hai nghĩa này đều không phù hợp văn cảnh trong câu Kiều đã dẫn. Hiện nay, Dấn với nghĩa “cái nôi” còn tồn tại trong phương ngữ Bình Trị Thiên(4).

Như vậy, căn cứ vào các bộ từ điển, ta có cơ sở để đoán định rằng, trong tiếng Việt trước năm 1898:

- Chưa có từ Dấn với nghĩa như trong Từ điển Truyện Kiều Từ điển tiếng Việt đã ghi nhận.

- Chưa có từ giấn. Từ Từ điển Việt Pháp của Génibrel (Imprimerie de la mission à Tân Định, 1898) trở đi đã thấy xuất hiện từ giấn với nghĩa “Plonger dans l’eau; Mettre dans” (chìm vào nước; bỏ vào, rơi vào), hoặc “être pris, enveloppé dans…” (bị mắc phải, bao trùm trong…) (tr.268); ở Việt Nam tự điển của Hội Khai trí tiến đức (Imprimerie Trung Bắc Tân Văn, 1931) thì ghi nghĩa: “Giấn: dìm xuống, đè xuống” (tr.219). Một số từ điển sau đó cũng thu nhận giấn với những nghĩa có đôi chút xuất nhập so với hai cuốn trên(5).

Vẫn biết rằng cứ liệu từ điển mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ, nhưng điều kiện cần này đã đủ là một gợi ý khiến chúng tôi nghi ngờ rằng: ở thời điểm trước năm 1898, hai chữ Nôm ở các câu 898 và 2941 như đã dẫn sẽ có một âm đọc khác với giấn (vì không tìm được từ Việt nào đọc như thế) hay dấn (vì nghĩa của từ có âm đọc như vậy lại không phù hợp với văn cảnh của hai câu Kiều ). Nếu thật sự tồn tại một âm đọc như vậy, thì nhiều khả năng đó sẽ là “âm gốc” mà Nguyễn Du đã sử dụng khi viết Truyện Kiều, có thể hiện nay nó không còn tồn tại trong tiếng Việt, hoặc chỉ tồn tại ở dạng phương ngữ.

3. Chúng tôi xem lại một số bản Kiều Nôm, chú ý hơn tới những bản có niên đại cổ nhất hiện đã tìm được. Theo quan sát và nhận diện của chúng tôi thì tình hình chữ Nôm như sau:

Văn bản Nôm Chữ ở câu 898 Chữ ở câu 2941
Liễu Văn đường 1866 (LVĐ/1866)
Nọa Phu 1870 (NP/1870)
Liễu Văn đường 1871 (LVĐ/1871)
Duy Minh Thị 1872 (DMT/1872)
Kiều Oánh Mậu 1902 (KOM/1902)

Trong năm bản kể trên thì hai bản NP/1870 và KOM/1902 được viết hoặc khắc rất rõ nét những chữ này, ba bản còn lại tuy khắc không rõ bằng nhưng cũng đủ để chúng ta yên tâm định dạng mã chữ như trên. Qua đó ta thấy, đặc điểm chung nhất ở cả năm bản là đều dùng chữ trấn () làm thanh phù cho mã chữ Nôm đang xét. Trong câu 898, hai bản LVĐ/1866 và LVĐ/1871 phải chăng đã khắc một dạng biến thể (?) từ chữ 鎮 với phần bên phải như chữ 義 “nghĩa” viết giản lược bên dưới; bản DMT/1872 khắc giản hóa bộ “kim” 金 thành theo cách thường thấy. Trong câu 2941, bản DMT/1872 khắc phần bên trái trông như chữ “bạch” 白 (có thể đây là phần tàn khuyết của bộ “kim”, bởi chúng ta biết rằng bản DMT/1872 khắc sai khá nhiều), nhưng phần bên phải vẫn có chữ “chân” 真 , tức là vẫn đảm bảo một âm đọc gần với “Trấn”.

Hơn nữa, ở câu 2556:

- Trong khi bản KOM/1902 ghi là Thoắt đem mình (渞 剾 命)bỏ chiến trường như không.

- Nhiều bản khác lại ghi khác ở ba chữ đầu: Đem mình đi ( / )(6) hay Dấn [hay Dẫn ?] mình đi… ( )(7).

- Còn bản LVĐ/1871 lại khắc chữ đầu câu với một mã chữ khác: (tiên + dẫn). GS. Nguyễn Tài Cẩn gợi ý hai âm đọc là Dẫn hoặc Dấn(8), chúng tôi thấy có lẽ đọc âm Dấn đúng hơn, bởi nếu đọc là Dẫn thì chưa thể hiện được vai trò của thành tố biểu ý “tiên” (nghĩa là trước, phía trước ® vươn về phía trước, tức cùng trường nghĩa với Dấn). Khi phiên Nôm bản LVĐ/1871, soạn giả Nguyễn Quảng Tuân cũng phiên chữ này là Dấn(9) (bản LVĐ/1866 bị tàn khuyết mất tờ chữ Nôm có câu 2556).

Vậy thì, xét riêng trong văn bản LVĐ/1871, chữ Dấn () ở câu 2556 về tự dạng khác hoàn toàn với hai chữ ở các câu 898 () và 2941 () đang xét. Điều này nếu nói là ngẫu nhiên hoặc do văn bản khắc sai chữ thì thật khó chấp nhận, nó chỉ có thể cho phép ta nghĩ rằng: hai chữ kia ( ) phải có âm đọc khác, chứ không phải là dấn!

3. Bước đầu, chúng tôi xác định âm đọc của hai trường hợp chữ đang xét phải gần với âm “trấn”. Căn cứ theo quy luật biến đổi âm đầu, vần và thanh điệu trong chữ Nôm thì một số trường hợp âm đọc có khả năng xảy ra nhất (về lí thuyết) là: trán, trắn, trớn, trạn, trặn, trợn, giắn, rán, rấn, rướn…

Kiểm tra trong các từ điển cổ, chúng tôi đã tìm thấy một từ có âm trắn. Từ này xuất hiện lần đầu (?) trong tự điển của Pigneaux de Béhaine (1772 - 1773), được ghi với mã chữ 鎮, và giải nghĩa là “Gieo mình vào lửa, nước v.v…” (bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên, tr.502), cho nên không phải ngẫu nhiên mà trong mười chữ Nôm ở năm bản Kiều vừa dẫn đã có tới sáu chữ mang thành tố biểu ý là bộ thủy ( ) gợi lên mối liên quan đến nước. Từ điển thì chú nghĩa như vậy, nhưng ta có thể hiểu theo nghĩa khái quát hơn là “lâm vào hoàn cảnh khó khăn”. Các từ điển muộn hơn (như Taberd, Huỳnh Tịnh Của, Génibrel, Khai trí tiến đức, Gustave Hue, Trần Văn Khải, Thanh Nghị, Trần Văn Thanh…)(10) nhất luật đều có từ Trắn này, những cuốn có chữ Nôm thì thống nhất ghi là 鎮 (Hán Việt = trấn). Đến Huỳnh Tịnh Của, ông đã chú rõ thêm một số nghĩa mà ở de Béhaine và Taberd trước đó đã dùng nhưng chưa giải thích một cách thật sự rõ ràng:

“鎮 Trắn. n(11). Gieo mình vào, tríu mến, trằn nặng.

Trắn tríu: tríu theo, tríu mến.

Trắn vào: gieo mình vào.

Trắn mình: gieo mình.

Trắn nước: gieo mình xuống nước.

Đau trắn: đau trằn xuống (như đau đẻ).

Trắn xuống: trằn xuống, dằn xuống” (Huỳnh Tịnh Của, tr.1081).

Như thế là Huỳnh Tịnh Của đã gián tiếp giải thích rõ ràng về hai câu Kiều:

“Trắn vào tôi ngươi” nghĩa là gieo mình vào cảnh làm tôi đòi.

“Trắn mình trong áng can qua” nghĩa là gieo mình vào trong đám binh đao.

Trong một số cuốn từ điển từ Việt cổ mới xuất bản không thấy có từ trắn(12). Trong những tự điển chữ Nôm gần đây thì chỉ Đại tự điển chữ Nôm(13) của Vũ Văn Kính là có chữ trắn, nhưng không thấy nêu ví dụ trong văn Nôm. Có thể soạn giả Vũ Văn Kính đã tiếp thu trắn trong một số từ điển cổ nhưng chưa tìm được ngoại chứng, ai dè nó xuất hiện ngay trong Truyện Kiều, chỉ có điều là đã bị bỏ qua!

Hiện nay, Trắn vẫn tồn tại trong phương ngữ Nam bộ, với nghĩa là “gieo, ngâm” như “trắn mình dưới nước”, hay trong tổ hợp từ “trắn tríu” với nghĩa “quấn quýt, quyến luyến”(14).

Ngoài ra còn có thể kể đến âm rấn, các từ điển có chữ Nôm đều ghi mã chữ (Taberd, Huỳnh Tịnh Của, Génibrel). rấn có một số nét nghĩa gần với trắn, như trong “rấn thuyền” ở Taberd, “rấn thân” ở Khai trí tiến đức, “chìm vào nước, rấn nước” ở Gustave Hue. Có thể thấy phải đến thời Gustave Hue (1937) thì rấn mới có một nghĩa giống trắn, vì vậy âm đọc của hai chữ Nôm đang xét khó có thể là rấn được.

Với việc song song xuất hiện dấn (câu 2556) và trắn (câu 898, 2941) trong cùng một bản LVĐ/1871, có thể nhận thấy vào khoảng nửa sau thế kỉ XIX đã có sự “giao thoa” về ngữ nghĩa giữa trắn với dấn trước khi trắn lui vào “hậu trường”, nhưng lúc đó không ghi là dấn mà ghi là giấn () như trong Génibrel (xin xem phần phụ lục kèm sau bài viết này). Ngày nay, nghĩa của từ trắn này có thể được tìm thấy phần nào trong các từ dấn hoặc nhấn.

Dẫu biết rằng “tận tín thư bất như vô thư”, nhưng với trường hợp chữ Trắn này, ta có thể tin tưởng vào sự ghi chép khá thống nhất trong các từ điển kể trên (xin xem phụ lục).

5. Như vậy là xuất phát từ cơ sở văn tự (chữ Nôm) và cơ sở từ vựng (qua các bộ từ điển cổ), bên cạnh những cách đọc DấN / GIấN như ngày nay vẫn quen dùng, chúng tôi xin đề nghị thêm một giải pháp âm đọc Trắn cho chữ Nôm ở hai câu Kiều:

Câu 898: Dớp nhà đến nỗi (?) Trắn vào tôi ngươi

Câu 2941: Trắn mình trong áng can qua

Mặc dù âm trắn không còn được dùng trong tiếng phổ thông nữa, nhưng xét từ góc độ ngữ âm học tái lập âm đọc cổ và góc độ văn bản học hướng tới phục hồi văn bản (gần với) nguyên tác truyện Kiều thì, thiết nghĩ, âm đọc này cũng cần được giới Kiều học lưu tâm nghiên cứu.

N.T.C

CHÚ THÍCH

(1) Dớp nhà đến nỗi: hiện nay ba chữ Dớp, nhà, nỗi vẫn có nhiều dị bản: chữ Dớp còn có cách phiên là Rớp (Bùi Khánh Diễn), Rấp (Trương Vĩnh Kí) trất (Nguyễn Tài Cẩn), chúng tôi tạm để là dớp theo các bản Bùi Kỉ & Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh. Chữ Nhà ở bản Liễu Văn đường 1871 lại là nhơ (). Chữ nỗi theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh là đỗi. Vì vậy, sau ba chữ Dớp, nhà, nỗi, chúng tôi đánh dấu hỏi (?) để tồn nghi.

(2) Ngoài ra còn có một số dị bản: Chữ ở câu 898: bản Trương Vĩnh Ký ghi: “CHEN” bản Bùi Kỉ và Trần Trọng Kim ghi Giấn và chú thích: “Có bản viết là: Buộc vào hay là Mắc vào” bản Bùi Khánh Diễn và bản Tản Đà cũng ghi Mắc. Chữ ở câu 2941: bản Trương Vĩnh Kí là “Sấn”, bản Tản Đà là “Giấu”...

(3) Đối với cuốn de Béhaine, chúng tôi theo bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên với nhan đề Tự vị An Nam La Tinh, Nxb. Trẻ, 1999, trang 110; cuốn Taberd cũng ghi hoàn toàn giống với de Béhaine ở mục từ này. Riêng Từ điển Việt - Bồ - La của de Rhodes thì không có cả dấn lẫn giấn.

(4) Xin xem Võ Xuân Trang: Phương ngữ Bình Trị Thiên, Nxb. KHXH, H. 1997, tr.243, tác giả ghi âm là Giấn.

(5) Xin xem: Gustave Hue, Tự điển Việt Hoa Pháp, Imprimerie Trung Hòa, 1937, Nhà sách Khai trí tái bản theo đúng nguyên bản, 1971, trang 336; Trần Văn Khải, Đồng âm vận tuyển, xuất bản lần đầu năm 1948, Thanh Trung thư xã xuất bản kì chín, không đề năm xuất bản, trang 48; Trần Văn Thanh, Đồng âm dẫn giải và mẹo luật chánh tả, Á châu, 1963, tr.64…

(6) Như các bản Abel des Michels, Chu Mạnh Trinh, Chiêm Vân thị, LVĐ/1916 (Kim Vân Kiều quảng tập truyện), bản kí hiệu R987 ở Thư viện quốc gia, bản chép tay của cụ Chu Phi Bảng ở Diễn Châu (Xin xem: Thế Anh phiên âm và khảo dị, Truyện Kiều, đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, Nxb. Văn học, 1999, tr.426).

(7) Như các bản Quan Văn đường 1879, Phúc Văn đường 1932 (Xin xem Thế Anh, Sđd).

(8) Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh thị 1872, Nxb. ĐHQGHN, 2002, tr.507.

(9) Xin xem: Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo đính, Truyện Kiều, bản Nôm cổ nhất, Liễu Văn đường 1871, Nxb. Văn học & TT. Nghiên cứu Quốc học, 2002, tr.246.

(10) Với cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của de Rhodes, chúng tôi đã tra những dạng mà theo lí thuyết có thể là âm cổ của trắn như blắn, tlắn, krắn, klắn nhưng đều không thấy, điều đó chưa hẳn đã có nghĩa là thời đó (1651) tiếng Việt chưa có âm này, bởi như ta biết, số lượng từ được thu thập trong cuốn từ điển này là không nhiều, chỉ khoảng 9.000 mục từ, trong khi ở de Béhaine là 29.000, ở Taberd là 31.000, ở Huỳnh Tịnh Của là 53.000 (xem thêm Nguyễn Khắc Xuyên, Sđd, phần Thay lời giới thiệu của Nguyễn Đình Đầu, tr.6-7).

(11) Chữ cái “n” biểu thị đây là chữ Nôm, theo cách ghi tắt của soạn giả.

(12) Xin xem: Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện, Từ điển từ Việt cổ, in lần thứ nhất Nxb. VH - TT, 2001, in lần thứ hai Nxb. Từ điển bách khoa, 2003; Vương Lộc, Từ điển từ cổ, Nxb. Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học, in lần thứ nhất năm 2001, in lần thứ hai năm 2002.

(13) Vũ Văn Kính: Đại tự điển chữ Nôm, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1999, tr.1401: “Trắn: trắn mình vào, trắn xuống (như giấn)”.

(14) Xin xem: Nguyễn Văn ái chủ biên, Từ điển phương ngữ Nam bộ, Nxb. Tp. HCM, 1994, tr.557.

Phụ lục: Sự tồn tại và diễn biến của Dấn, Giấn, rấn, trắn
trong một số từ điển

Từ điển Năm xb Dấn Giấn Rấn Trắn
de Rhodes 1651
de Béhaine 1772 1773 - Tróng, nôi, võng con nít.
- Dấn ba hèo: đánh trượng, roi.
- Gieo mình vào lửa, nước v.v…
Taberd 1838 - Tróng, nôi, võng con nít.
- Dấn ba hèo: đánh trượng, roi.
- Rấn lên - Rấn thuyền - Gieo mình vào lửa, nước v.v…
Huỳnh Tịnh Paulus Của 1895 1896 - Đánh
- Cái nôi
- Xô đẩy, xông đụt (rấn tới, rấn lên, đẩy rấn, rấn ghe nó) - Gieo mình vào
- Tríu mến - Trằn nặng
Génibrel 1898 - Đánh
- Cái nôi
- Chìm vào nước; rơi vào
- Bị mắc phải
- Kéo căng, vươn mình: rấn lên, rấn vào bờ, chạy rấn tới…
- Như Rướn: rấn gân cổ lên
- Đưa thân vào
- Đau trắn
- Trắn tríu
Khai trí tiến đức 1931 - Dìm xuống, đè xuống. - Cố lên, rán lên: rấn bước, rấn sức, rấn tới, rấn thân. - Gieo mình vào
- Trắn tríu
Gustave Hue 1937 - Cái nôi
- Đánh
- Tự xô đẩy mình
- Tập trung (vốn)
- Chảy (nước mắt)
- Chìm vào nước; rơi vào
- Hạ xuống, ấn từ trên xuống
- Căng ra, rán sức: rấn bước, rấn lên, rấn gân cổ lên.
- Chìm vào nước: rấn nước
- Đưa thân vào
- Trắn tríu
- Đau đớn trong tạng phủ
Trần Văn Khải 1948 - Dấn thân vào
- Dấn ba hèo
- Dân dấn
- Giấn đầu xuống mà đánh - Trắn tríu
- Đau trắn
- Trắn mình xuống nước
Thanh Nghị 1958 - Cố lên, căn tới - Gieo mình vào
Trần Văn Thanh 1963 - Đè xuống nước
- Đưa mình vào: giấn thân (tiếng nầy có chỗ viết Dấn và chắc có lẽ do tiếng Nhấn mà ra)
- Rán lên: rấn bước - Gieo mình
- Trắn tríu nhau
Văn Tân 1967 Tái bản Cố lên: dấn bước - Dìm xuống nước cho nước thấm vào.
- Đè xuống, ấn mạnh xuống
- Cố lên, gắng lên: làm rấn, rấn bước, rấn sức
Phương ngữ Nam bộ 1994 - Dấn, sấn
- ấn sâu vào, nhấn vào, chen chèn vào
- Gieo, ngâm. Trắn mình dưới nước.
Phương ngữ Bình Trị Thiên 1997 - Cái nôi
Hoàng Phê 2002 tái bản - Dấn1: 1 Dồn sức thêm, cố thêm một mức. 2 Vươn mạnh, tiến tới, bất chấp gian nan, nguy hiểm. - Dấn2: (cũng viết Giấn) 1 Dùng tay đè mạnh xuống. 2 Dùng tay đè giữ cho chìm ngập trong nước. - Như Dấn2: 1 Dùng tay đè mạnh xuống. 2 Dùng tay đè giữ cho chìm ngập trong nước. - Như Dấn1: 1 Dồn sức thêm, cố thêm một mức. 2 Vươn mạnh, tiến tới, bất chấp gian nan, nguy hiểm.

TB

THÔNG TIN BỔ SUNG VỀ TÀI LIỆU HÁN NÔM Ở ĐÔNG DƯƠNG VĂN KHỐ (THE TOYO BUNKO), NHẬT BẢN

CHU TUYẾT LAN

Trong tháng 11 năm 2004, đoàn cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã sang công tác tại Nhật Bản, ngoài thời gian làm việc tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo và Thư viện Quốc hội, chúng tôi đã tới thăm và làm việc tại Đông Dương văn khố - một trong những trung tâm tàng trữ nguồn tài liệu Hán Nôm lớn nhất ở Nhật Bản, cũng như ở nước ngoài. Chúng tôi đã may mắn được đích thân ngài Tổng Giám đốc Đông Dương văn khố Shiba Yoshinobu tiếp, giới thiệu tổng quan về nguồn tài liệu ở đây, đồng thời cũng đưa chúng tôi đi thăm quan các kho sách quý hiếm như kho sách Trung Quốc cổ, kho sách Nhật Bản và kho tài liệu Hán Nôm. Chúng tôi gặp nhau ở ý tưởng cùng muốn xây dựng một chương trình trao đổi và hợp tác giữa hai cơ quan: Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Đông Dương văn khố, mục đích bổ sung cho kho sách Hán Nôm của chúng ta những tài liệu Hán Nôm mà hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm chưa có. Thông qua phần giới thiệu tổng quan về tài liệu ở Đông Dương văn khố, chúng tôi được biết tổng số sách ở đây là 85 vạn đơn vị tài liệu, trong đó tài liệu tiếng Trung Quốc chiếm 38%, tài liệu phương Tây chiếm 27%, tài liệu tiếng Nhật chiếm 18%, tài liệu bằng các ngôn ngữ đặc biệt (như ả Rập, Ba Tư, …) chiếm 6% và tài liệu đặc biệt quý hiếm chiếm 10%.

Chúng tôi đã được Ngài Tổng Giám đốc Shiba Yoshinobu tặng cho cuốn Việt Nam bản thư mục xuất bản gần đây nhất (năm 1999) và bản Danh mục sách Hán Nôm Việt Nam do GS Yamamoto Tatsuro Giám đốc tiền nhiệm của Đông Dương văn khố tặng lại nơi này khi ông nghỉ hưu. Nếu như cuốn An Nam bản mục lục xuất bản năm 1939 cho biết tại Đông Dương văn khố lúc đó có tất cả 104 tác phẩm Hán Nôm Việt Nam xếp theo Kinh, Sử, Tử, Tập(1), thì từ sau năm 1939 số sách Hán Nôm ở Đông Dương văn khố đã tăng lên tới 234 cuốn(2) (trong đó có 13 cuốn chưa có trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam Thư mục đề yếu), cũng theo PGS. Trần Nghĩa và NCV. Nguyễn Thị Oanh thì Thư mục sách Hán Nôm Việt Nam tại Đông Dương văn khố vào thời điểm năm 1995 là 206 tác phẩm(3).

Căn cứ vào cuốn Việt Nam bản thư mục xuất bản gần đây nhất mà chúng tôi vừa được tặng, chúng tôi thống kê được 298 đơn vị tài liệu Hán Nôm cũng xếp theo Kinh, Sử, Tử, Tập, (trong đó có 43 tác phẩm Hán Nôm Việt Nam chưa có trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu). Để tiện cho bạn đọc theo dõi, tra cứu và đối chiếu, chúng tôi sắp xếp 43 tác phẩm nói trên theo trật tự chữ cái tên sách (Có thể xem nội dung chi tiết tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

1. An Nam Nghệ An tỉnh, thôn, xã địa bạ 安 南 乂 安 省 村 社 地 簿

2. An Nam thông sử 安 南 通 史 

3. Án lược 按 略 

4. Cải thảo (Pháp văn) 改 草 ( 法 文 )

5. Chu Tạ Hiên di văn tập 朱謝 軒 遺 文 集 

6. Dương tộc gia phả 楊 族 家 譜 

7. Đại Nam đương án 大 南 檔 按, 1 sách 60 tờ.

8. Đại Nam đương án 大 南 檔 按 , 2 sách. Sách 1: 120 tờ; Sách 2: 113 tờ.

9. Đại Nam pháp lệnh tập 大 南法 令 集

10. Đại Thanh luật lệ hội thông tân soạn 大 清 律 例 會 通 新 撰 

11. Đại Việt quốc thư tập 大 越 國 書 集

12. Đại vương di văn 大 王 遺 文 

13. Đồng Khánh ngự lãm dư địa chí phụ đồ 同 慶 御 覽 與 地 誌 附 圖 .

14. Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc Thị gia phả 河 僊 鎮 鎮 氏 家 譜33 trang, 2 trang phụ bản

15. Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc Thị gia phả 河 僊 鎮 鎮 氏 家 譜47 tr.

16. Hiệu định Hoàng triều quan chế điển lệ - Quan chế điển lệ 校 定 皇 朝 官 制 典 例 - 官 制 典 例 .

17. Hình bộ điều lệnh vựng biên 刑 部 條 令 彙 編 .

18. Hoàng Hàn lâm hiệu chính Lễ ký đại toàn 黃 翰 林 校 正 禮 記 大 全 .

19. Hoàng Hàn lâm hiệu chính Thư kinh đại toàn 黃 翰 林 校 正 書 經 大 全.

20. Hoàng Việt lịch khoa thi phú 皇 越 歷 科 詩 賦 

21. Hoàng Việt quần thần khánh hạ tập 皇 越 群 臣 慶 賀 集 .

22. Hội đồng dịch bản cải nghĩ (Pháp văn) 會 同 譯 本 改 擬 ( 法 文 ).

23. Lạng thành kỷ thắng 諒 城 紀 勝.

24. Lê Lý kỷ sự 黎 李 紀 事.

25. Nam Định tỉnh, Nghĩa Hưng phủ, Vụ Bản huyện Trình Xuyên thượng tổng địa bạ 南 定 省, 義 興 府, 務 本 縣, 裎 川 上 總 地 簿.

26. Ngọc Sơn kinh đàn thần hóa trừ tai giải nạn kim sách(1) 玉 山 經 壇 神 化 除 災 解 難 金 冊.

27. Ngọc Sơn kinh đàn thần hóa trừ tai giải nạn kim sách(2) 玉 山 經 壇 神 化 除 災 解 難 金 冊.

28. Ngự chế thi nhị tập 御 制 詩 二 集.

29. Ngự chế thi sơ tập 御 制 詩 初 集.

30. Ngự chế văn nhị tập 御 制 文 二 集.

31. Ông phán Trinh, thủ bình an bộ 翁 判 貞, 取 平 安 部.

32. Quốc triều quan chế điển lệ - Quan chế điển lệ 國 朝 官 制 典 例 - 官 制 典 例.

33. Sách đinh thánh mẫu ngọc phả 冊 丁 聖 母 玉 譜.

34. Sắc tấu bi minh 敕 奏 碑 銘.

35. Sĩ hoạn châm quy tập 士 宦 箴 規 集.

36. Sử bộ hình danh tắc lệ tục biên 史 部 刑 名 則 例 續 編.

37. Tân san bổ chính thiếu vi thông giám tiết yếu đại toàn 新 刊 補 正 少 微 通 鑑 節 要 大 全.

38. Thanh Khâu Cao tiên sinh thi tập 清 邱 高 先 生 詩 集.

39. Thương Sơn văn di tập cập phụ lục 倉 山 文 遺 集 及 附 錄.

40. Tục nghị thuế đơn báo đơn chương trình 續 議 稅 單 報 章 裎.

41. Tự Đức nhị thập thất niên hoà ước 嗣 德 二 十 柒 年 和 約.

42. Trung dung đại toàn hoặc vấn 中 庸 大 全 或 問.

43. Việt Kiệu thư 越 嶠 書.

Như trên đã đề cập, bên cạnh cuốn Việt Nam bản thư mục của Đông Dương văn khố, chúng tôi còn có Danh mục tài liệu Hán Nôm do GS. Yamamoto Tatsuro tặng lại Đông Dương văn khố trước lúc GS về nghỉ hưu. Căn cứ vào danh mục này chúng tôi thống kê được 58 tên tài liệu Hán Nôm, chủ yếu là các bộ sử lớn của Việt Nam như: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử khâm giám cương mục chính biên, Việt sử tổng luận, Đại Nam thực lục, Đại Việt sử ký và Đại Việt sử ký toàn thư, v.v... Trong 58 tên tài liệu nói trên, thì có 14 tác phẩm chưa có trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu, đó là:

1. Bùi Tồn Am thi sao 裴 存 庵 詩 抄.

2. Các phù lập thành chân tông 各 苻 立 城 真 宗.

3. Chiêm trai thi khoá 澹 齋 詩 課.

4. Chư phiên chí 諸 番 志.

5. Cúc Hiên văn tập 菊 軒 文 集.

6. Hoàng Việt tam tự sử 皇 越 三 字 史.

7. Hưng Yên tỉnh Đốc học Nhị Khê Nguyễn đại nhân văn kí hạ bạt dĩ hạ 興 安 省 督 學 二 溪 阮 大 人 文 記 賀 跋 以 下.

8. Phạm Nghĩa Khê thi tập 范 義 溪 詩 集.

9. Phụ lục Nguyễn Dư Hiên tặng đáp chư luật. Bắc Ninh Du Lâm Vân Lộc Nguyễn tướng công tư - đại nhân thi tập 附 錄 阮 軒 贈 答 諸 律. 北 寧 揄 林 雲 簏 阮 相 公 思 - 大 人 詩 集.

10. Quốc triều sử toát yếu 國 朝 史 撮 要.

11. Tây Dương phiên quốc chí 西 洋 番 國 志.

12. Tiền triều thông sử 前 朝 通 史.

13. Ức hành thi tập 抑 行 詩 集.

14. Việt Nam địa dư đồ thuyết 越 南 地 輿 圖 說.

Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu thư mục mới nhất do Đông Dương văn khố tặng gần đây, chúng ta thấy có 57 (43 + 14) tác phẩm Hán Nôm vắng bóng trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, thiết nghĩ những thông tin này là hữu ích để chúng ta lấy đó làm cơ sở xây dựng chương trình hợp tác trao đổi về công tác sưu tầm, bổ sung tư liệu Hán Nôm ở nước ngoài. Thực tế là trải qua những biến thiên của lịch sử và do nhiều nguyên nhân khác nhau, di sản Hán Nôm Việt Nam đã tản mát ở nhiều nơi trên thế giới, đã đến lúc chúng ta cần có kế hoạch tổng thể phát huy cả nội lực và sự hợp tác từ bên ngoài để thực hiện việc qui sách Hán Nôm về một mối. Đây là việc làm cần thiết để tạo một nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại.

C.T.L

CHÚ THÍCH

(1) Trần Nghĩa: Sách Hán Nôm tại nước ngoài, Nghiên cứu Hán Nôm, 1985, tr.100-109

(2) Thư mục sách Hán Nôm tại Đông Dương văn khố Nhật Bản. Nguyễn Thị Oanh, Tạp chí Hán Nôm, số 4 (21)-1994, tr.63-77

(3) Thư mục tổng hợp sách Hán Nôm Việt Nam tại bốn tàng thư lớn của Nhật Bản. Trần Nghĩa, Nguyễn Thị Oanh, Tạp chí Hán Nôm 1 (38) 1999, tr.70-99

TB

VỀ MỘT VÀI BẢN TUỒNG MỚI SƯU TẦM TẠI THÀNH PHỐ HUẾ

NGUYỄN TÔ LAN

Tuồng Huế đã trải qua ba thế kỉ phát triển trong lòng văn hóa Phú Xuân và có được nhiều thành tựu dưới triều nhà Nguyễn. Từ đầu thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII, tuồng Huế thường được thể hiện ở dạng “diễn cương” (diễn không có kịch bản). Thường là, bầu gánh soạn một cương chính theo nội dung tích truyện rồi phân vai, còn lời thoại thì do diễn viên tự tạo. Đến cuối thế kỉ XVIII, cùng với sự phát triển rực rỡ của văn học Nôm, tuồng được các chúa Nguyễn ham thích, đưa vào cung đình. Nho sĩ coi tuồng như một thú chơi, hội tụ nhiều yếu tố của văn học nghệ thuật, nên quan tâm nhiều đến lời thoại, lời hát trong trình diễn. Vì vậy, kịch bản tuồng có cơ hội được hình thành. Thế kỉ XIX, tuồng càng được các vua Nguyễn quan tâm, bởi nội dung tuồng luôn đề cao sự tôn quân, rất phù hợp với quan điểm và dụng ý chính trị của giai cấp phong kiến. Mọi giới hát tuồng, người có học đua nhau sáng tác kịch bản tuồng. Các kịch bản tuồng được sao chép, nhân bản trong nước hoặc đưa sang in ở Trung Quốc. Đây là cơ sở để hình thành kho tuồng bản ở Huế.

Mặc dù là nơi tập trung nhiều kịch bản tuồng nhất nhưng Huế cũng là nơi chịu mất mát to lớn nhất về tuồng bản. Ngoài tác động của tự nhiên còn trải qua các biến cố lịch sử như thất thủ kinh đô năm 1885 (tuồng bản ở Đại Nội và các tàng thư khác hoặc bị tiêu huỷ, hoặc bị chở đi nơi khác), những năm 1945 - 1946, các giai đoạn tiếp sau như 1954 - 1963, 1968 - 1972 và từ sau 1975 đến nay tuồng bản ở Huế ngày càng thất thoát. Hiện ở Huế còn một số bản tuồng là những cuốn lẻ do các nghệ nhân cao tuổi như cụ Viên Bờ, La Cháu, Phan Hữu Lễ, Dương Hòa cất giữ. Trước đây, nghệ nhân tuồng Hoàng Ngọc Cơ (Giám Cơ) giữ được 60 vở, gần 100 hồi(1). Các gia đình tôn thất còn giữ lại được bao nhiêu cũng không thể thống kê được.

Ngoài những bản tuồng ở thành phố Huế, vẫn còn nhiều bản đang được lưu giữ tại một số nơi khác. Có thể kể đến 42 vở tuồng cổ tại Bảo tàng Anh Quốc (British Museum)(2) do gia đình Antonin Landes, một người Pháp từng làm việc tại Việt Nam hiến tặng năm 1894(3), trong số đó 31 bản tuồng đã được thư viện Anh quốc sao chụp và tặng lại Việt Nam (hiện lưu trữ tại thành phố Hồ Chí Minh). Thư viện B.E.F.E.O còn giữ được vở Vạn bửu trình tường (đã sao chụp tặng lại Việt Nam). Thư viện Viện Hán học tại Leiden (Hà Lan) giữ được 05 vở(4). Thư viện Viện Nghiên cứu Sân khấu(5) lưu trữ 112 đơn vị thư mục tuồng (gồm bản gốc, bản chép lại, bản chụp). Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội)(6) hiện lưu trữ khoảng hơn 50 bản tuồng (phần lớn là bản sao).

Gần đây, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã tìm mua được từ nghệ nhân một số bản tuồng, các bản tuồng này hiện được lưu trữ tại Phòng Nghiên cứu của Trung tâm. Tổng số 14 bản tuồng, đều là bản chép tay với nhiều kiểu chữ, phổ biến là chữ khải hoặc đá hành, thảo. 13 bản được chép trên giấy bản với kích cỡ và chất lượng khác nhau, 1 bản chép trên giấy vở kẻ ôli. Các bản này đều không còn nguyên vẹn, phần lớn đã rách, nát, mất góc, mất chữ. Nhiều trang được đóng lẫn vào mà chưa rõ thuộc văn bản nào, nhiều bản thứ tự trang lộn xộn, các trang có khuyên son hoặc bị xóa chữa nhiều. Có bản còn chua thêm chữ Latin, nội dung không phù hợp với nội dung của bản tuồng. Không có thông tin về niên đại hay tác giả kịch bản.

Trên cơ sở tham khảo một số tài liệu liên quan đến tuồng và tuồng cùng các tài liệu khác, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu với những bản tuồng mới sưu tầm. Xin giới thiệu tóm tắt tình trạng văn bản, nội dung của các tác phẩm này, cùng nhận xét bước đầu của chúng tôi (7).

1. Bắc Tống diễn truyện 北 宋 演 傳,hồi thứ 1.

Sách khổ 29x16cm; 56tr., (tờ 2 trang) trang 8 dòng, dòng 20 chữ. Ngoài đóng bìa (mầu hồng), các trang xếp lộn xộn, nát.

* Có thể nằm trong pho Tống sử (7 hồi) của Đào Tấn (?)

2. Đào Phi Phụng 陶 飛 鳳,hồi thứ 1, 2, 3. Hồi thứ 1 & hồi thứ 2 (số trang đánh liền):

Sách khổ 26x13cm; 72tr., (tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 18 chữ. Hồi 1: từ trang 1 đến trang 26; Hồi 2: từ trang 26 đến trang 51. Có dấu son tròn đề “Chủ nhơn Hoàng Ngọc Cơ, Đoàn Hát bộ Đồng Hỷ Ban, Huế” ở các trang: 2, 5, 14, 18, 20, 21, 24, 26, 32, 40, 44. Có lẽ đây là kịch bản của rạp Đồng Hỷ do nghệ nhân Hoàng Ngọc Cơ (Giám Cơ) làm Đoàn trưởng.

Hồi thứ 3: Sách khổ 26,5x11,5cm; 21tr. (không đủ, tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 18 chữ. Có dấu son hình chữ nhật đề “Hai”. (Chưa rõ dấu này của ai).

* Theo Cổ học viện thư tịch thủ sách, kho Diễn truyện A.2601/10(8) (VHN), trang 6b vở này nguyên có 4 hồi. Hiện nay BM còn lưu giữ được trọn vẹn. Trong tủ sách nghiên cứu của Nhà hát tuồng Bình Định, cho đến năm 1985 đã lưu trữ được một số văn bản vở Đào Phi Phụng. Tương truyền Đào Tấn có sửa chữa vở này, nhưng hiện nay vẫn chưa xác định được phần nào là nguyên bản, phần nào là gia công của Đào Tấn. (Vở này đã được giới thiệu và phiên âm trong Kịch bản tuồng trước Cách mạng(9). )

3. Đoàn hồng bạch ngoại … (Tống từ vân đại yến) 團 鴻 白 外…

Sách khổ 28x15cm; 42tr., (tờ 2 trang), trang 8 dòng, dòng 28 chữ. Không có tên vở, lấy tên theo 4 chữ đầu tiên. Theo chú thích bằng chữ quốc ngữ (Latin), đây là vở Tống từ vân đại yến.

* Vì chúng tôi chưa tìm được vở Tống từ vân đại yến trong các tài liệu đã tham khảo nên tạm thời chưa xác định được văn bản tuồng này đúng là vở Tống từ vân đại yến không. Về vở mang tên này còn thấy trong sách Tuồng Huế(10), phần Tổng quan về tác giả và tác phẩm tuồng Huế của Tôn Thất Bình, không rõ tên tác giả, được xếp vào thể loại tuồng đồ bi hùng.

4. Hỏa hầu tinh 火 猴 晶, hồi thứ 1.

Sách khổ 29x14cm; 74tr., (tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 18 chữ

* Theo CHV, trang 7a, vở này nguyên có 5 hồi chia thành 2 quyển. Hiện nay chỉ có VSK còn lưu trữ được hồi 1, 2, 4 của vở này.

5. Hộ sanh đàn diễn truyện 護 生 壇 演 傳, hồi thứ 1

Sách khổ 25x13cm; 36tr., (tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 28 chữ. Từ trang 1 đến trang 35 thuộc bản này, trang 36 chưa biết thuộc vở nào.

* Tác giả: Đào Tấn. Hiện còn 7 dị bản do Bảo tàng tổng hợp Bình Định lưu trữ(11) trong đó có bản của bà Trúc Tiên (con cụ Đào Tấn) kí tên và có bút tích duyệt định. Do chưa có điều kiện tiếp xúc với 7 bản nói trên, chúng tôi chưa xác định được vở này gồm bao nhiêu hồi.

6. Ngũ hổ bình Liêu 五 虎 平 遼, hồi thứ 4

1 bản, sách khổ 25x12cm; 22 tr., (tờ 2 trang), trang 8 dòng, dòng 18 chữ.

1 bản, sách khổ 25x12cm; 1 tr., (tờ 1 trang), trang 6 dòng, dòng 14 chữ.

Hai bản này kiểu chữ chép khác nhau

* Tại BM và VSK hiện lưu trữ hồi 1 của vở này. Đào Tấn có tham gia sửa chữa vở này, những sửa chữa được chỉ rõ trong Đào Tấn nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc(12), chúng tôi ghi ra đây để bạn đọc thuận tiện trong tham khảo, đối chiếu.

7. Ngũ hổ bình tây 五 虎 平 西, hồi thứ 10, 11, 12, 14, 15

Sách khổ 31x20,5cm; 112tr., (tờ 2 trang), trang 8 dòng, dòng 24 chữ. Hồi 11, 11, 12 không đủ, mất một số trang cuối. Hồi 14, 15 trọn vẹn. Các hồi đóng lộn xộn, không theo thứ tự.

* Theo CHV, trang 3b vở này nguyên có 8 quyển (chưa rõ số hồi). Được giới thiệu và phiên âm trong Tuồng hát bội(13).

8. Quần phương tập khánh diễn truyện 群 芳 集 慶 演 傳, hồi thứ 1

Sách khổ 29,5x13,5 cm; 58tr., (tờ 2 trang), trang 7 dòng, dòng 18 chữ. Trọn vẹn một hồi.

* Hiện VSK còn lưu trữ hồi 1, 2, 3, 4, 5 của vở này.

9. Tam quốc diễn truyện 三 國 演 傳, hồi thứ 10; 110.

Hai hồi này chữ viết và cách trình bày khác nhau nhưng vì nội dung cùng thuộc một vở nên chúng tôi đưa vào chung một mục.

Hồi thứ 10: “Mãnh Trương Phi trí thủ Ngõa Khẩu ải, Lão Hoàng Trung kế đoạt Thiên Đãng sơn". Sách khổ 28,5x17,5cm; 77tr., (tờ 2 trang), trang 7 dòng, dòng 22 chữ.

Hồi thứ 110: “Văn Ương đơn kị thoái hùng binh, Khương Duy bối thủy phá đại địch”. Sách khổ 29x14,5cm; 66tr., (tờ 2 trang), trang 7 dòng, dòng 19 chữ. Trọn một hồi.

* Theo CHV vở này nguyên có 115 hồi. Đến năm 1925 hồi 10 vẫn còn, hiện nay chưa tìm thấy bản nào khác ngoài bản mới tìm được này, hồi 110 hiện chưa tìm thấy.

10. Thiên tống kì duyên 天 送 奇 緣, hồi thứ 4

Sách khổ 27x12,5cm; 65tr., (tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 19 chữ. Trọn vẹn hồi cuối của vở tuồng. Trang cuối dòng cuối ghi Cộng tam thập tứ trang (trang bằng tờ ngày nay), như vậy nguyên bản có 68 trang, đã mất 3 trang.

* Tại thư viện gia đình nhà nghiên cứu Phan Thuận An hiện còn lưu giữ được hồi 2 và 3 của vở này (gồm 2 bản chép tay, 41 tờ, sách khổ 28,5x15cm). Theo CHV, trang 3b vở này nguyên có 4 quyển (chưa rõ số hồi), sau khi khảo sát chúng tôi nhận thấy hồi 4 là hồi cuối của vở tuồng nên có thể nói Thiên tống kì duyên nguyên có 4 hồi. Hiện chưa tìm thấy hồi 1.

11. Tống Thái Tổ túy trảm Trịnh Ân diễn ca 宋 太 祖 醉 斬 鄭 恩 演 歌.

Sách khổ 27x13cm; 78tr., (tờ 2 trang), trang 8 dòng, dòng 22 chữ.

* Hiện vở này chỉ còn được nhắc đến trong Tuồng Huế với tên Trảm Trịnh Ân. Như vậy đây là bản duy nhất hiện nay.

12. Từ Thứ tạ Lưu sứ quân 徐 庶 謝 劉 使 君.

Sách khổ 29x13,5cm; 1tr., (tờ 2 trang), trang 6 dòng, dòng 12 chữ, đóng lẫn vào vở khác.

* Có lẽ bản này chỉ là một phần (hay một trích đoạn) của vở Tam quốc chí, gồm 115 hồi đã nói ở trên.

13. Xích Phụng Nguyên 赤 鳳 元. hồi thứ 1

Sách khổ 27,5x15cm; 16tr., (tờ 2 trang), trang 8 dòng, dòng 24 chữ. Trọn vẹn một hồi.

* Hiện chưa thấy trong các tài liệu tham khảo cũng như trung tâm lưu trữ nào.

14. Sanh nam... 生 男… (Không rõ tên, lấy theo chữ đầu tiên là Sanh nam).

Bản này chép tay trên giấy vở học sinh kẻ ôli bằng bút máy, giấy ngấm nước, nhòe gần hết. Chưa xác định được thuộc vở nào.

Hầu hết các văn bản này đều không còn nguyên vẹn, giấy rách nát, nhiều dấu vết ngấm nước, nhòe chữ v.v… Trong các văn bản này số chữ, số đoạn, số trang mất khá nhiều nhưng vẫn có thể phục dựng diện mạo ban đầu dựa trên những bản khác còn lưu giữ lại được. Vì nhiều trang lộn xộn lại rách nát nên mặc dù rất cố gắng, song có những trang vẫn không biết xếp về bản nào, rất mong được các nghệ nhân và nhà nghiên cứu tuồng chỉ dẫn cho.

Nhìn chung, những bản tuồng nói trên phần lớn là hồi lẻ của những kịch bản tuồng nhiều hồi như: Đào Phi Phụng, Hỏa Hầu Tinh, Thiên tống kì duyên v.v… hoặc là những vở chỉ có một hồi, diễn độc lập nhưng là trích đoạn của một tích truyện nào đó như: Từ Thứ tạ Lưu sứ quân v.v… Có thể xếp chúng vào 3 nhóm:

Nhóm 1: Những vở hiện nay vẫn còn được lưu giữ dưới nhiều hình thức (trọn vẹn, một phần) như các vở số: 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 thì những bản vừa tìm thấy là những dị bản đáng quí trong công tác nghiên cứu văn bản học tuồng, giúp ích trong việc phục dựng nguyên trạng của tác phẩm sân khấu.

Nhóm 2: Những vở được nhắc đến trong một số tài liệu nhưng hiện không còn văn bản như các vở số: 1, 3, 11, 12 thì những bản vừa tìm thấy là một minh chứng rõ rệt cho sự tồn tại của những tên vở đó, cho ta một hình dung bước đầu về nội dung của vở, là điều kiện để tiếp tục sưu tầm những phần còn lại hoặc những dị bản trong dân gian.

Nhóm 3: Những vở không được nhắc đến trong các tài liệu khác như vở số 13, 14(14) thì việc tìm ra những văn bản này thực sự là đóng góp lớn cho ngành sân khấu, làm phong phú thêm kho kịch bản sân khấu nước nhà.

Như vậy việc sưu tầm, bổ sung các bản tuồng cổ còn sót lại trong tư gia đến nay vẫn không phải là không có kết quả và bổ ích. Những tài liệu này rất cần được khuyến khích phát hiện, mua lại và bảo quản nhằm khôi phục nguyên trạng các tác phẩm sân khấu. Đây là điều kiện để phục dựng lại toàn bộ các vở tuồng, đưa nghệ thuật tuồng đến với công chúng trong diện mạo vốn có của nó. Một mặt nhằm bảo tồn nó trên sách vở và trong không gian văn hóa thuộc về nó, mặt khác góp phần phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền quí báu của dân tộc.

N.T.L

CHÚ THÍCH

(1) Những vở này được Viện Nghiên cứu Sân khấu (Hà Nội) mua.

(2) Từ đây xin viết tắt là BM.

(3) Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế, 7-2002, tr.665, 667. Xin xem thêm về vấn đề này trong Nguyễn Thế, Bàn thêm về di sản tuồng Huế, Di sản Hán Nôm Huế, Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm Huế, Trung tâm BTDTCĐH & Trường ĐH KHXH & NV - ĐH QGHN, Huế, 2003, tr.282-286 và Trần Nghĩa: Sách Hán Nôm tại Thư viện Vương quốc Anh, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (24) - 1995.

(4) Trương Văn Bình: Sách Hán Nôm lưu giữ ở thư viện Leiden (Hà Lan), Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 2000, tr.57- 69.

(5) Từ đây xin viết tắt là VSK

(6) Từ đây xin viết tắt là VHN.

Ngoài ra hiện Phòng Nghiên cứu của Trung tâm hoạt động Văn miếu - Quốc tử giám còn giữ được hai hồi, một hồi của vở Sơn hậu, một hồi của vở Hán Sở tranh hùng.

(7) Nhân đây xin cảm ơn Phòng Nghiên cứu của Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã tạo điều kiện để chúng tôi nghiên cứu sưu tập này.

(8) Xin xem thêm trong Nguyễn Tô Lan, Sách Nôm trong mục Quốc âm, kho Quốc thư, Cổ học viện thư tịch thủ sách A.2601/1-10, Hội thảo Nôm quốc tế, H. 2004.

(9) Kịch bản tuồng trước cách mạng, tập 2, Viện Nghiên cứu Sân khấu xuất bản, H, 1970.

(10) Tôn Thất Bình: Tuồng Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tr.127.

(11) Vũ Ngọc Liên - Bùi Lợi - Mạc Côn - Ngô Quang Hiên, Thư mục tư liệu về Đào Tấn, ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nghĩa Bình, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Nhà hát Tuồng Nghĩa Bình, 1985, tr.60.

(12) Mịch Quang: Thân thế và sự nghiệp nghệ thuật tuồng Đào Tấn, Kỷ yếu hội nghị Đào Tấn lần 1, Đào Tấn nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc, Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình xuất bản, 1978, tr.67, 68.

(13) Tuồng hát bội, NHBT, 1970.

(14) Chúng tôi tạm xếp vở số 14 vào loại này.

TB

HAI TẤM BIA GHI VỀ HỘI HOA NGHIÊM Ở
CHÙA TẢO SÁCH CỦA CÚC HƯƠNG
HOÀNG THÚC HỘI

PHẠM MINH ĐỨC

Tảo Sách là ngôi chùa cổ thuộc xã Nhật Tân, tổng Thượng, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc phường Nhật Tân, Tp. Hà Nội, từ lâu đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Chùa được xây dựng khá khang trang, khuôn viên rộng rãi thoáng đãng, cảnh sắc tươi đẹp.

Chùa Tảo(1a) Sách hiện còn lưu giữ được rất nhiều văn bia, nhưng chúng tôi đặc biệt chú ý đến 2 tấm bia lớn được áp vào 2 bên tường trong nhà tổ. Cả 2 tấm bia đều được Cúc Hương Hoàng Thúc Hội soạn vào năm Bảo Đại thứ 8 (1933).

Cả 2 tấm bia đều có hình lục giác, do trán bia hình thang cân. Bia có kích thước: 1,45x0,85m. Trán bia được trang trí hai hình rồng chầu mặt trời, xung quanh diềm bia có hoa văn hình bông hoa 4 cánh khá bình dị.

Bia thứ nhất

Phiên âm:

CỰU TÀO SÁCH HOA NGHIÊN HỘI BI KÍ

Cái văn như thị: ngã văn thuyết pháp độ sinh phổ thần hóa ư tam thiên thế giới, tầm thanh cứu khổ chửng trầm luân ư thập bát Phong Đô, tịnh phúc cẩn cầu tâm kinh khả chứng. Viên hữu Nhật Tân phường phụng Phật thường trụ Linh Sơn tự cập dư nhân. Thiết dĩ tam nghiệp nan trừ, lục căn vị đoạn, lao trần nhiễu nhiễu mạo muội túc nhân, tiền lộ mang mang tất cánh, hà vãng ? Hỗn Sa Bà giới cực, tư tri ngô sinh chi khả ai, lịch a tăng kỳ xúc xứ, tổng ngã cung chi bất duyệt. Hữu tình quyến thuộc cơ đáo sinh tu ? Thử thế, thử thân y bách xích Bồ Đề chi thụ, quy Phật quy pháp kết tam sinh Đàn Việt chi hương Bát Nhã. Duy trần u tông vị hội thiển thường bạc thiệp pháp hải nan thông. Niệm nhất đán chi vô thường hồn quy minh phủ, tưởng bán sinh chi tạo nghiệp thân chiếu kính đài; nhiễm ác vạn thiên thâm khủng Diêm La vương chi chấn nộ, vi tuần tứ cửu do hạnh Phán Quan án chi vị tuyên. Duy bằng Phật pháp dĩ tán dương thứ đắc minh gian chi hồi. Cán viên tín thành tựu công đức trang nghiêm hữu Hoa Nghiêm kinh chi đại thừa phẩm thế chủ diệu nghiêm chi đệ nhất phổ hiền hành nguyện dĩ quy chung hoa chi vi ngôn, đại đức tuyệt hành nghiêm chi thủ nghĩa, sức pháp thành nhân. Tụng chi giả diên thọ độ vong, văn chi giả kinh thần phục quỷ, miệt dĩ gia hĩ, vô thượng pháp môn văn tại tư hồ ? Độc tôn kinh nghĩa viên lập Hoa Nghiêm hội, tức dĩ Hoa Nghiêm danh phúc chủng điền nhi Hoàng Độc Trần Cương Xá vi mệnh, tắc thanh phù tất tập nhu công tiền khoản lễ thiết hương hoa. Dục cầu hậu thế, nhân thị tại kim sinh tác sám hối. Thời cập vị vi quỷ độ tụng niệm ư đông nguyệt chi tam, siêu độ hội trung ký vãng hồn cử tuyên giảng ư tuần sơ lai. Thượng lang lang thanh tụng, chư Phật giao văn trạm trạm huyền linh. Phàm u tất đạt, thứ chuyển tội nhi vi phúc, dĩ siêu tử nhi hồi sinh, tịnh cấu sinh thiên miễn luỵ kiếp luân hồi chi khổ, trịch đao thành Phật kết chúng sinh hoan hỉ chi duyên. Thiết hữu ngôn yên, dữ đồng nhân ước bất khả chuyển dã. Duy nhĩ thạch chiêm sở hữu lệ ngôn chi liệt.

Đệ nhất điều: Linh Sơn tự tăng duy chức bản hội dĩ tụng Hoa Nghiêm kinh siêu độ đồng hội gia tiên cập thân nhân phụ mẫu, phu phụ vi tông chỉ, danh Hoa Nghiêm hội, mỗi niên thập nhất nguyệt nhất nhật khởi tụng truy tiến gia tiên, chí chạp nguyệt thập ngũ nhật mãn tán tuế dĩ vi thường hội. Nội thân nhân cập bản thân bất hạnh quá cố giả, chủ nhân từ dữ chính hội trưởng thông báo bản hội tề lai hộ tống, nhược khiếm giả tu hữu cáo từ, nhược viễn giả linh lân số nhân đại biểu.

Đệ nhị điều: Kỳ phúng nghi chuẩn tự tam nguyên, chí chung thất tuần bản hội chích công ngân nhị thập nguyên tu lễ Lương Hoàng Bảo. Cúng Phật chi nhu quân do bản tự thiết đàn tuyên giảng kỳ khoản đãi hiếu chủ chỉ dụng trại tứ bàn nhi dĩ. Do bản tự cúng biện nhưng giá lễ, hội trung nhân hoặc bản thân hoặc thân nhân chỉ đắc nhất nhân nhi dĩ, nhược dục tăng thiết đàn trường kỳ nhu phí do chủ nhân tự biện.

Đệ tam điều: Bản hội mỗi nhân các xuất ngân nhị thập nguyên mãi điền dĩ vi công lợi, ngoại lưu nhị bách nguyên phóng…, điền lợi sở nhập dĩ vi công nhu. Trạch cẩn tín, vật lực giả vi thủ quỹ kỳ xuất nhập chi số cụ hữu biên bản, yếu đắc minh bạch, nhược hữu sai thác dư nhược hoàn bồi. Hội nội hà nhân bất hạnh quá cố, thân nhân tình nguyện kế tập giả, xuất ngân y cựu.

Điều lệ kỳ tường như thượng, tư đặc ước phong đăng vu bi kí, hậu hữu thoá nghị linh bổ tư kí.

Linh Sơn tự thích tử chính hội trưởng tự Quang Anh, Giáo Linh tự tự Thanh (?) Kết, Quảng Bá tự tự Thanh Hiếu. (...)

Dịch nghĩa:

BIA GHI VỀ HỘI HOA NGHIÊM (1) Ở CHÙA TẢO SÁCH CŨ

Từng nghe thế này, Tôi nghe thuyết pháp độ sinh phổ hiền thần hóa ở ba nghìn thế giới, tầm thanh cứu khổ, cứu vớt trầm luân ở 18 tầng địa ngục, phúc lành cẩn cầu tâm kinh đã thấy. Nay có phường Nhật Tân và những người khác, phụng thờ Phật thường ở chùa Linh Sơn. Trộm nghĩ, tam nghiệp(2) khó trừ, lục căn(3) chưa dứt, nỗi vất vả trần gian nhũng nhiễu vì phải gánh lấy nhân duyên kiếp trước. Con đường trước mặt mờ mịt rút cục biết về đâu ? Trong thế giới Sa bà mênh mang mới biết cuộc đời của ta thật đáng thương thay ! Trải qua vô vàn kiếp thì thấy tấm thân ta cũng chẳng có gì vui thú, họ hàng của chúng sinh mấy người đi tu đâu ? Đời này kiếp này xin dựa vào cây bồ đề(4) trăm thước, quy Phật quy pháp kết thân với hương Bát Nhã của tam sinh(5) Đàn Việt(6). Chỉ có điều trần gian u tối chưa biết được cái nông cạn kém cỏi của mình mà đạo pháp lại mênh mông khó có thể thông hiểu được. Nghĩ đến một ngày vô thường hồn về Minh Phủ(7), ngóng đến sự tạo nghiệp của nửa đời thân soi kính đài. Nhiễm sâu vào muôn vàn điều ác, rồi lại sợ cơn giận của Diêm Vương(8); làm lễ tuần tứ cửu còn may mắn Phán Quan chưa tuyên án. Duy chỉ có cách dựa vào Phật pháp để tán dương thì may ra còn có thể thoát khỏi cõi minh gian. Lòng tin đã đạt được, công đức trang nghiêm, có kinh Hoa Nghiêm(9) là phẩm phổ hiền hành nguyện đệ nhất trong kinh diệu trang nghiêm của đại thừa, để kết cục trọn làm những lời tinh hoa, đẹp đẽ. Dùng nghĩa tuyệt hảo trong kinh điển tô điểm cho Phật pháp để hoàn thiện con người. Người tụng kinh này sẽ được trường thọ, được siêu độ vong linh; Người nghe kinh này thì quỷ thần cũng phải kính nể, không gì hơn được thế, pháp môn vô thượng dường như thấy ở đây chăng ? Để độc tôn kinh nghĩa do đó lập hội Hoa Nghiêm, tức là lấy phúc của tên Hoa Nghiêm gieo ở ruộng mà ông Hoàng Độc Trần Cương Xá đã nhận mệnh, các khoản tiền công góp lại để bày đặt lễ hương hoa. Muốn cầu cho kiếp sau tốt đẹp, vì thế kiếp này làm lễ sám hối; lúc đó chưa tụng kinh niệm Phật siêu độ cho thoát khỏi cõi quỉ, cho nên vào tháng cuối đông làm lễ siêu độ cho thân nhân những người trong hội, sau khi hồn vãng táng rồi thì giảng ở tuần thứ nhất. Những thanh âm trong trẻo tụng kinh ở phía trên các Phật nơi xa còn nghe thấy như vang vọng vào cõi huyền linh. Phàm người u mê tất thông đạt, có thể chuyển tội thành phúc, lấy việc siêu tử để hồi sinh. Sinh ra ở cõi sạch sẽ không còn nhơ bẩn, tránh được nhiều nỗi khổ của kiếp luân hồi; buông đao trở thành Phật, kết được duyên hoan hỉ của chúng sinh. Trộm có lời như vậy nên cùng mọi người kết ước không được thay đổi. Có những điều lệ ghi ở phía bên trái.

Điều thứ nhất: Các nhà sư thuộc bản hội trong chùa Linh Sơn duy lấy việc tụng kinh Hoa Nghiêm để siêu độ cho thân nhân, cha mẹ vợ chồng của những người trong hội làm tông chỉ. Hội Hoa Nghiêm vào ngày mồng 1 tháng 11 mỗi năm thì khởi tụng, truy tiến gia tiên, đến ngày 15 tháng chạp thì mãn tán năm và lấy đó làm thường hội. Trong đó thân nhân cùng bản thân những người trong hội chẳng may mất thì chủ nhân phải có lời và chính hội trưởng phải thông báo với những người trong bản hội để cùng đến đưa tiễn. Người nào vắng nên có lời cáo từ, người nào đi xa thì hội phải bổ sung thêm số đại biểu.

Điều thứ 2 : Nghi thức phúng viếng cho phép từ 3 đồng trở lên, cúng thất tuần bản hội chích 20 đồng tiền công làm lễ Lương Hoàng Sám(10). Tất cả nhu phí lễ Phật do bản hội thiết đàn tuyên giảng để khoản đãi hiếu chủ chỉ dùng 4 mâm mà thôi. Vì bản tự cúng biện lễ đó, cho nên hoặc bản thân hoặc thân nhân những người trong hội chỉ được 1 người tham dự. Nếu như muốn thêm người thì nhu phí do chủ nhân phải chịu.

Điều thứ 3 : Mỗi người trong bản hội phải bỏ ra 20 đồng mua ruộng làm công lợi, ngoài ra phải lưu 200 đồng [...], lợi điền nhập vào làm công quỹ. Chọn những người khá giả, tin tưởng làm thủ quỹ, số tiền chi tiêu phải có biên bản rõ ràng, nếu có sai phạm thì (thủ quỹ) phải bồi thường. Người nào trong hội chẳng may mất đi, người thân tình nguyện thay thế thì phải đóng tiền như cũ. Điều lệ đã rõ ràng như trên nay khắc lên bia. Phần sau có bổ sung thêm:

Thích tử chánh hội trưởng ở chùa Linh Sơn tên tự là Quang Anh(11), chùa Giáo Linh tên tự là Thanh Kết (?), chùa Quảng Bá tên tự là Thanh Hiếu (...).

Bia thứ 2

Phiên âm:

LINH SƠN TỰ HOA NGHIÊM HỘI BI KÍ

Cái văn thuyết pháp độ sinh Phật giáo dã, truy viễn thận chung nhân đạo giã. Bản tự tăng dĩ tụng Hoa Nghiêm kinh vi bản hội, truy tiến độ vong vi tông chỉ. Bi thượng tường chi hĩ, duy dĩ chư gia phả thố tạp nan kê, giản thúc trần biên hồ ngư dị hoại, thụ tư trinh thạch dụng chí phương danh ư dĩ thùy chi bất hủ. (...)

Dịch nghĩa:

BIA GHI VỀ HỘI HOA NGHIÊM Ở CHÙA LONH SƠN

Từng nghe thuyết pháp độ sinh(12) là Phật giáo vậy, truy viễn thận chung(13) là nhân đạo vậy. Các nhà sư ở chùa Linh Sơn lấy việc tụng kinh Hoa Nghiêm làm gốc, truy tiến độ vong làm tông chỉ. Bia trên đã nói rõ điều này, duy có điều phả điệp của những người trong hội dài dòng khó kể, nếu giản thúc đi thì lại e hư hỏng mất, vì thế khắc vào bia đá cho tiếng thơm mãi lưu truyền. (...)(14)

Một vài nhận xét:

+ Về hội Hoa Nghiêm

- Hội Hoa Nghiêm có đầy đủ những tiêu chí cần thiết của một tổ chức hội: Hội trưởng, đại biểu, công hội, thủ quỹ, công quỹ..., có tông chỉ, mục đích rõ ràng và những điều lệ rất chặt chẽ.

- Thực tiễn hoạt động: theo tấm bia “Linh Sơn tự kỷ niệm bi kí” - Bia ghi về kỷ niệm của chùa Linh Sơn của hòa thượng Phan Trung Thứ lập vào năm Tân Tị (1941) hiện còn được lưu giữ tại chùa thì vào năm Tân Tị và Nhâm Ngọ trước đó chùa Linh Sơn được xây dựng lớn như: tô tượng, đúc chuông, trang hoàng rất tốn kém. Trong thời gian này hội Hoa Nghiêm cùng nhân dân đã đóng góp rất nhiều tiền của để giúp chùa mà cụ thể là “Công hội Hoa Nghiêm giúp 500 đồng, những người ở hội Hoa Nghiêm giúp 2500 đồng”.

Điều này cho thấy hội Hoa Nghiêm đã không chỉ là pháp hội giảng tán kinh Hoa Nghiêm và siêu độ cho gia tiên những người trong hội một cách thuần túy mà thông qua quá trình hoạt động, hội đã gắn chặt mình với những ưu tư trăn trở, những biến cố thăng trầm của chùa, góp phần vào công cuộc trùng tu, cải tạo chùa. Mục này không thấy ghi trong điều lệ, song đây có lẽ là tính tích cực và sự uyển chuyển trong thực tiễn hoạt động của hội Hoa Nghiêm.

+ Về tác giả văn bia:

Theo tư liệu thư tịch thì Hoàng Thúc Hội (1870-1938), tên hiệu là Cúc Hương, tên tự là Gia Phủ, có biệt hiệu là An Sơn, người xã Yên Quyết Thượng, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Cử nhân năm Bính Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 18 (1906) nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học.

Tác phẩm của ông hiện còn là Sài Sơn thực lục, Sài Sơn thi lục.(15)

Tư liệu văn bia này bổ sung lai lịch dòng họ và gia thế họ Hoàng Thúc. Cụ thể như văn bia thứ hai ghi là: Gia tiên Hoàng Thúc hiệu là Mật Trai, Nguyễn Thị hiệu là Từ Phác, Nguyễn Húy Huỳnh hiệu là Thành Hiên, Vũ Thị Điềm hiệu là Từ Đạm, Vũ Thị Thừa hiệu là Diệu Đạo, Hoàng Thúc Hội tên tự là Gia Phủ hiệu là Cúc Hương, Nguyễn Thị Đoan hiệu là Diệu Chính.

Cúc Hương Hoàng Thúc Hội là người học rộng cả Nho và Phật, sống vào thời kỳ mà xã hội phong kiến đã suy vi. Đỗ Cử nhân nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học, lấy biệt hiệu là An Sơn cư sĩ, đi du ngoạn viết thơ văn ca ngợi cảnh đẹp của đất nước; biên tập sách, soạn văn bia lưu giữ những lời hay ý đẹp cho hậu thế, thiết tưởng công lao của ông cũng không nhỏ. Hai tấm bia trên được soạn vào năm 1933 tức là vào những năm cuối đời của ông, điều này cho thấy đến cuối đời lòng nhiệt huyết của ông đối với quê hương đất nước vẫn còn nồng nàn, cháy bỏng. Đến cuối đời vẫn mong muốn đóng góp công sức của mình cho quê hương, đây là nét đẹp của ông, nét đẹp của một phong cách sống và cũng là nét đẹp của con người Việt Nam.

Tóm lại, hai văn bia chùa Tảo Sách do Hoàng Thúc Hội biên soạn là tư liệu quý về Hội Hoa Nghiêm của chùa cũng như về gia thế con người Hoàng Thúc Hội.

P.M.Đ

CHÚ THÍCH

(1a) Vốn chữ Hán là Tào Sách, nhưng dân địa phương gọi là Tảo Sách.

(1) Hoa Nghiêm Hội (hành sự): Pháp hội giảng tán kinh Hoa Nghiêm.

(2) Tam Nghiệp: gồm: 1. Thân nghiệp, xảy ra ở thân; 2. Khẩu nghiệp, nói ra ở miệng; 3. ý nghiệp, nghĩ ở trong ý niệm. Ba nghiệp này theo duy thức của Đại thừa chia thành 2 loại Giả Thực. Hai nghiệp Thân Ngữ có thể chia ra 2 loại Giả Thực, còn ý nghiệp thì chỉ có một loại Thực nghiệp mà thôi.

(3) Lục căn: chỉ 6 thứ: Nhãn (mắt), Nhĩ (tai), Tị (mũi), Thiệt (lưỡi), Thân và ý. Căn: mang ý nghĩa năng sinh (có khả năng sinh sản). Như nhãn căn đối đãi với cảnh sắc mà sinh nhân thức, cho tới ý căn đối đãi với Phát cảnh mà sinh thức, cho nên gọi là căn. Trong 6 căn, 5 căn đầu là sắc pháp do tứ đại tạo thành. Riêng ý căn thì là tâm pháp. Nhưng Tiểu thừa coi ý thức tiền niệm là ý căn, còn Đại thừa thì coi Mạt - na - thức, tức thức thứ 7 trong 8 thức là ý căn.

(4) Bồ đề thụ: “Cây Bồ Đề”, thuật ngữ Phật giáo. Dịch âm tiếng Phạn là Bodhidruma, còn dịch là “giác thụ”, “đạo thụ”... chỉ cây Tất bát la. Tương truyền đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới gốc cây Tất bát la chứng đắc Bồ đề (giác ngộ), nên gọi Tất bát la là cây Giác ngộ. Tương truyền nhà sư thời Lương Nam triều là Trí Dược mang từ thiên trúc sang trồng ở Trung Quốc, mọc nhiều ở vùng Quảng Đông, tín đồ Phập giáo coi đây là thứ cây cát tường (tốt lành).

(5) Tam sinh: 3 đời (quá khứ, hiện tại, vị lai).

(6) Đàn Việt: (thuật ngữ) chỉ vị thí chủ. Ký quy truyện, Q.1: “Tiếng Phạn Đàn - na - bát - để (dànapati) dịch là thí chủ. Đàn - na là thí, Bát để là chủ, gọi là Đàn - Việt vốn không phải là cách gọi đúng. Bỏ chữ Na, giữ lại âm Đà ở trên, chuyển gọi là Đàn, lại thêm chữ Việt, ý nói do thực hành bố thí, nên có thể vượt qua khó khăn nghèo khổ.”

(7) Minh phủ: cũng viết âm phủ, nơi hồn người chết mê muội đi lại, tức sảnh đường của Diêm ma. Cũng gọi là Diêm phủ. Đó là các cảnh địa ngục, ngã quỷ, cảnh giới của âm hồn.

(8) Diêm vương: tức Diêm La vương, vị thần tục truyền cai quản địa ngục.

(9) Hoa Nghiêm Kinh: tên gọi tắt của Kinh Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm. Đại phương quảng là pháp sở chứng, Phật là người năng chứng, đã chứng được cái lý gọi là phương quảng. Hai chữ Hoa Nghiêm là thí dụ vị Phật này. Vạn hạnh của nhân vị như hoa, đem hoa này trang nghiêm cho đất quả, cho nên gọi là Hoa Nghiêm. Còn muôn đất như hoa của đức Phật, đem hoa này trang nghiêm cho nghiệp pháp thân, cho nên gọi là Hoa Nghiêm.

(10) Lương Hoàng Sám: Lương Vũ Đế, khi còn làm Thứ sử Ung Châu, phu nhân của ngài là Hi Thị là người tính tình rất độc ác, sau khi mất hóa thành một con mãng xà báo mộng cho vua biết. Nhà vua liền cho soạn bộ “Từ bi đạo tràng sám pháp”, 10 quyển, và mời sư tăng làm lễ sám hối. Nhờ đó phu nhân được sinh thành người trời, từ trên không trung cảm tạ nhà vua rồi bay đi. Phép sám hối do đó lưu hành ở đời gọi là: Lương Hoàng Sám.

(11) Quang anh: tên đầy đủ là Trương Quang Anh là đệ tử của Tổ sư Quang Lâm ở chùa Quảng Bá. Năm Canh Ngọ nhận mệnh của Tổ sư trụ trì chùa Linh Sơn tức chùa Tảo Sách (Theo Linh Sơn tự kỷ niệm bi kí).

(12) Thuyết pháp độ sinh: giảng giải đạo pháp cứu vớt nhân sinh.

(13) Thận chung truy viễn: thận trọng với tang lễ cha mẹ, tế tự tổ tiên đời xưa.

(14) (...): phần sau bia là tên của gia tiên những người trong hội, chúng tôi xin được giới thiệu vào dịp khác.

(15) Trong thời gian hoàn thành bài viết chúng tôi nhận được sự giúp đỡ rất tận tình của PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí, nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Từ điển Phật học Hán Việt. Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản năm 1992.

2. Từ điển Nho, Phật, Đạo, Lao Tử - Thịnh Lê chủ biên, Nxb. Văn học, 2001

3. Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam. Nxb. KHXH. H. 2002.

4. Sài Sơn thi lục, kí hiệu A.3033, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

5. Sài Sơn thực lục, kí hiệu A.3227.

6. Xem Phạm Minh Đức: Bước đầu khảo sát và giới thiệu tư liệu Hán Nôm chùa Tảo Sách, Hội nghị Thông báo Hán Nôm học 2004.

TB

BÀI THƠ CHỮ HÁN CỦA CỬ NHÂN HỒ TAM KIỂM Ở NÚI AN HOẠCH (THANH HOÁ)

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

Sau khi giới thiệu bài thơ của Cử nhân Nguyễn Văn Đạt, quê ở Lâm Thao, Phú Thọ, chúng tôi sưu tầm tiếp được thêm bài thơ chữ Hán không đề của nho gia Hồ Tam Kiểm, người làng Quỳnh Bảng, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão, triều Tự Đức (1879) và đã từng giữ chức Tri huyện sở tại (Đông Sơn), đề ở núi An Hoạch. Vì mặt đá khắc bút tích này bị thấm nước, không thể dập được, chúng tôi đành bắc thang thay nhau trèo lên đọc và ghi lại từng chữ, nên chắc khó tránh khỏi sai sót, mong độc giả chỉ bảo và lượng thứ.

Nguyên văn:

桑 滄 底 局 幾 週 星
半 壁 依 然 壹 樣 清
洞 口 雲 關 籠 石 像
岩 頭 風 爽 嚮 鍾 聲
地 標 名 勝 春 常 住
天 假 高 人 趣 偶 成
此 日 登 臨 評 往 事
勳 臣 品 望 自 崢 嶸
成 泰 己 丑 冬
東 山 縣 知 縣 瓊 榜 亭 胡 胡 三 檢 題

Phiên âm:

"Tang thương để cục kỷ chu tinh
Bán bích y nhiên nhất dạng thanh
Động khẩu vân quan lung thạch tượng
Nham đầu phong sảng hưởng chung thanh
Địa tiêu danh thắng xuân thường trú
Thiên giả cao nhân thú ngẫu thành
Thử nhật đăng lâm bình vãng sự
Huân thần phẩm vọng tự tranh vanh.
Thành Thái Kỷ Sửu đông
Đông Sơn huyện, Tri huyện Quỳnh Bảng, Đình Hồ - Hồ Tam Kiểm đề."

Dịch nghĩa:

Cuộc dâu bể đã bao lần đổi thay
Nửa vách núi vẫn giữ nguyên vẻ trong sáng
Mây trùm trước cửa động luồn cả vào tượng đá
Đầu non gió thoảng làm cho tiếng chuông vang vọng
Cảnh tỏ rõ là nơi danh thắng mùa xuân còn mãi
Trời mượn người tài nên hứng thú bỗng xuất hiện
Ngày nay trèo lên nơi này bình về việc đã qua
Huân thần phẩm vọng tự nhận thấy chênh vênh !
Mùa đông, năm Kỷ Sửu, triều Thành Thái. Tri huyện Đông Sơn, Quỳnh Bảng Đình Hồ - Hồ Tam Kiểm đề(1).

Dịch thơ:

Bể dâu cuộc thế chuyển vần quanh
Nửa vách non nguyên vẻ lịch thanh
Cửa động mây trùm lồng tượng đá
Đầu non gió thoảng vọng chuông thanh
Đất nêu danh thắng xuân thường tại
Trời mượn hiền nhân thú bỗng thành
Lên núi hôm nao bình việc cũ
Huân thần phẩm tước thấy chênh vênh!
Mùa đông, năm Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái (1889). Hồ Tam Kiểm người xã Quỳnh Bảng, huyện Đông Sơn hiệu là Đình Hồ đề.

Hồng Phi - Hương Nao dịch

CHÚ THÍCH

(1) Theo Cao Xuân Dục: Quốc triều hương khoa lục, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch - Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1993, tr.455.

Nguyễn Đổng Chi: Địa chí văn hóa dân gian Nghệ - Tĩnh, Nxb. Nghệ An, Vinh. 1995, tr. 465.

TB

TƯỞNG NHỚ
GIÁO SƯ TRẦN QUỐC VƯỢNG

Giáo sư Trần Quốc Vượng sinh ngày 12/12/1934 tại Hải Dương. Ông tốt nghiệp thủ khoa Cử nhân Sử - Địa Trường Đại học Văn khoa Hà Nội năm 1956 và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1960, ông phiên dịch và chú giải Việt sử lược - bộ sách lịch sử vào loại xưa nhất do người Việt Nam viết còn lưu truyền được đến ngày nay và cho tái bản vào giữa tháng 9 năm 2005; năm 1973 chủ biên bộ Danh nhân Hà Nội, 2 tập; năm 1975 ông viết Hà Nội ngàn xưa; năm 1976 viết Mùa xuân và phong tục Việt Nam. Ông còn biên soạn các sách giáo khoa: Cơ sở Khảo cổ học, Cơ sở Văn hóa học, Lịch sử Việt Nam và một số sách chuyên môn như: Theo dòng lịch sử (1995); Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa (1998); Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm (2000).

Năm 1980, ông được phong hàm Giáo sư. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ: Chủ nhiệm bộ môn Khảo cổ học, Giám đốc Trung tâm Liên văn hóa Đại học Tổng hợp Hà Nội; Trưởng môn Văn hóa học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đồng thời từ năm 1989, Giáo sư Trần Quốc Vượng đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thư kí Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Phó Chủ nhiệm CLB Nghề truyền thống Việt Nam, Tổng thư kí Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội từ năm 1976. Ông còn là Chủ tịch đầu tiên của Hội Sử học Hà Nội.

Giáo sư Trần Quốc Vượng đã qua đời sáng 8/8/2005. Giáo sư ra đi để lại khoảng trống vắng khó thể lấp nổi trong khoa học lịch sử Việt Nam, trong ngành văn hóa học còn non trẻ của nước nhà.

TB

TƯỞNG NHỚ
TIẾN SĨ HOÀNG VĂN LÂU

Ông Hoàng Văn Lâu sinh năm 1940 tại thôn Kỳ Trọng, xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình có nền nếp gia giáo, trọng đạo thi thư.

Năm 1961 ông thi đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, năm 1965 tốt nghiệp loại ưu và được giữ lại làm Cán bộ giảng dạy khoa Trung văn của Trường.

Ông đã trải qua các công tác giảng dạy, biên soạn giáo trình, công tác Đoàn, chủ nhiệm lớp, chủ nhiệm khối. Ở cương vị nào ông cũng tận tụy với công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 1980 ông về công tác tại Ban Lý luận nghiệp vụ Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Năm 1985 ông được bầu làm Ủy viên Hội đồng Khoa học Viện qua nhiều nhiệm kỳ tới khi nghỉ hưu. Năm 1986, ông bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn chuyên ngành Hán Nôm. Ông có đóng góp lớn cho công tác khoa học, đào tạo của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Năm 1988 ông được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Tạp chí Hán Nôm cho tới năm 2001. Có được sự thành công của Tạp chí Hán Nôm ngày hôm nay phải kể đến công lao của TS.Hoàng Văn Lâu.

Ông tham gia biên soạn, biên dịch nhiều công trình nghiên cứu Hán Nôm, viết nhiều bài tham dự Hội thảo Khoa học trong nước và quốc tế, đồng thời có nhiều bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Hán Nôm và các tạp chí khác. Tiêu biểu trong số những công trình Khoa học mà ông tham gia là Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (1993, tham gia biên soạn), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 1 (thời Lý) và tập 2 (thời Trần). Một số bộ sử lớn của dân tộc được ông tham gia dịch chú và xuất bản như: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều tạp kỷ, Việt sử cương mục tiết yếu v.v.;

Ngày mồng 8 tháng 8 ông đã ra đi vào cõi vĩnh hằng vì tai nạn giao thông. Gia đình, bè bạn, đồng nghiệp vô cùng thương tiếc và trân trọng tinh thần và năng lực làm việc của Tiến sĩ Hoàng Văn Lâu, như một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.

TB

HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ KHOA CỬ VÀ GIÁO DỤC TẠI TRUNG QUỐC

Hội nghị khoa học quốc tế về khoa cử và giáo dục được tổ chức tại Trung Quốc, nhân kỉ niệm 100 năm tròn bãi bỏ chế độ thi cử phong kiến, tổ chức tại thành phố Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc từ ngày 2 đến 4 tháng 9 năm 2005.

Tham dự hội thảo có khoảng 200 học giả bao gồm chủ yếu là các giáo sư, các nhà nghiên cứu khoa cử và giáo dục ở các thành phố khắp đất nước Trung Quốc, cùng các học giả nước ngoài như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Các tham luận tập trung giới thiệu kết quả nghiên cứu về lịch sử khoa cử Trung Quốc qua các triều đại, nhất là triều Tống và triều Minh, cùng các chuyên đề khá cụ thể như tính công bằng trong thi cử xưa, hậu quả của việc bãi bỏ thể lệ thi truyền thống... Ngoài ra các nghiên cứu còn đề cập đến khía cạnh văn hóa của khoa cử, tính tư tưởng và đặc biệt là lí luận rút ra từ nghiên cứu giáo dục truyền thống ở phương Đông.

Việt Nam có Tiến sĩ Đinh Khắc Thuân tham dự Hội thảo với đề tài Khoa cử Việt Nam: Lịch sử và tình hình nghiên cứu. Qua Hội thảo các nhà khoa học đã đề xuất việc nghiên cứu khoa cử và giáo dục truyền thống Trung Quốc cần được gắn với việc nghiên cứu khoa cử và giáo dục truyền thống ở các nước lân cận, nhất là Việt Nam.

TB

THUYẾT TRÌNH VỀ LỊCH SỬ VÀ
NGHỆ THUẬT CA TRÙ VIỆT NAM

Nhằm góp phần vào việc giới thiệu về văn hóa, âm nhạc truyền thống Việt Nam và hưởng ứng vào các hoạt động của chương trình xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận ca trù là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, ngày 16/7/2005, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức buổi thuyết trình về Lịch sử và Nghệ thuật ca trù của Thạc sĩ Nguyễn Xuân Diện (Phó Giám đốc Thư viện Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Thuyết trình có nhiều minh họa bằng các tư liệu ảnh, CD, VCD. Đặc biệt có phần trình diễn của nghệ sĩ ca trù nổi tiếng Phó Thị Kim Đức và các học trò được bà trực tiếp truyền dạy trong 5 năm qua.

Tham dự có gần 300 quan khách là các nhà khoa học đến từ các trường đại học, các viện nghiên cứu và các cơ quan thông tấn báo chí. Bảo tàng Dân tộc học và Viện Âm nhạc đã ghi âm, ghi hình toàn bộ buổi thuyết trình và chương trình biểu diễn ca trù làm tư liệu để giới thiệu với công chúng.