TB

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC DƯỚI GÓC ĐỘ
SO SÁNH

NGUYỄN ĐĂNG NA

Áng “thiên cổ kì bút” Truyền kì mạn lục [ 傳 奇 漫 錄 ] do Nguyễn Dữ [阮 嶼] - người Hồng Châu(1) sáng tác tại Thanh Hoa(2) khoảng sau năm 1527 khi Mạc Đăng Dung đã cầm quyền thay nhà Lê, lập nên triều Mạc. Tác phẩm gồm 4 quyển, 20 thiên truyện, có Lời tựa của Hà Thiện Hán(3) đề nãm 1547. Tương truyền, Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi - bạn thân của Mạc Đăng Dung đã diễn dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ - Nôm(4) và có thể Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phủ chính.

Trước hết, có hai vấn đề cần giải quyết.

Một là, tên tác giả.

Do đặc điểm văn tự, hầu hết họ và tên các tác gia vãn học trung đại Việt Nam được ghi bằng chữ Hán. Tên của Nguyễn Dữ cũng vậy; trong các văn bản Hán Nôm khắc in đều ghi họ tên ông là 阮 嶼. Chẳng hạn, Tân biên truyền kì mạn lục bản Vĩnh Hựu năm thứ ba Đinh Tị 1737, bản Cảnh Hưng nãm thứ 35 (1774), Hoàng Việt thi tuyển bản Minh Mệnh năm thứ 5 (1824)… Chữ 嶼 sách Từ nguyên phiên là tự: “từ ngữ thiết, âm tự, ngữ vận” [徐 語 切 ,音 序 , 語 韻] (tập Dần, trang 82); Hán ngữ đại từ điển cũng phiên là tự: “Quảng vận, từ lữ thiết, thượng ngữ, tà” [廣 韻, 徐 ;呂 切 , 上 語 ,邪 ] (Tập 3, tr.869). Với cách phiên âm này (âm tự [序] hoặc phụ âm đầu vần tà [thì phụ âm đầu vần phải là T, không thể là D được. Các từ điển do người Việt biên soạn nhưz Hán Việt từ điển của Thiều Chửu (tr.164) cũng phiên 嶼 là tự. Tự [嶼] là đảo nhỏ. Vậy, tên tác giả là Truyền kì mạn lục (TKML) là Nguyễn Tự.

Chúng tôi không phải người đầu tiên đặt vấn đề phiên âm lại tên của Nguyễn Dữ. Cách đây hõn 40 nãm - nãm 1962, khi cho xuất bản Tân biên Truyền kì mạn lục, dịch giả Thứ Lang Bùi Xuân Trang đã ghi tên tác giả TKML là Nguyễn Tự(5). Tiếp đó 25 năm - năm 1987, “Nguyễn Khắc Kham đã đặt nghi vấn về cách đọc tên tác giả TKML”(6) một cách chính thức. Lại sau Nguyễn Khắc Kham 15 năm, trong bài viết của mình, Nguyễn Nam đề nghị: “nay căn cứ theo bản Cựu biên (TKML), xác định lại tự thể 嶼 , âm đọc Tự(7). Từ trước tới nay, bởi quá tin vào cách phiên âm của Trúc Khê Ngô Vãn Triện, nên ta cứ quen gọi người sinh thành ra TKML là Nguyễn Dữ. Có lẽ, đã đến lúc cần phải trả lại đúng tên gọi cho tác giả: Nguyễn Tự (nhưng trong bài viết này chúng tôi vẫn gọi theo truyền thống)..

Hai là, nghĩa của nhan đề Truyền kì mạn lục. Cụm từ “truyền kì mạn lục” gồm 2 thuật ngữ: truyền kì và mạn lục.

Hãy nói về 2 chữ “mạn lục” trước.

Hán ngữ đại từ điển tập 6, trang 89 giải thích: mạn lục [漫 錄] là “tùy bút kí lục” [隨 筆 記 錄] - viết theo cảm hứng của ngòi bút. Dĩ nhiên, hai chữ kí lục [記 錄] trong trường hợp này hàm nghĩa làm vãn, viết văn, sáng tác. Thể mạn lục xuất hiện ở Trung Hoa khá sớm; thời Tống, có Ngô Tăng(8) viết Năng cải trai mạn lục [能 改 齋 漫 錄 ], 18 quyển.

Vậy mà, các nhà viết sách của Việt Nam lại hiểu “mạn lục” theo một cách khác. Soạn giả Từ điển văn học giải thích: Truyền kì mạn lục là, “Sao chép tản mạn các truyện lạ”(9); sau này, soạn giả Từ điển văn học (bộ mới) có điều chỉnh: “ghi chép tản mạn các truyện truyền kì”(10). Soạn giả Ngữ văn 9, tập một, trang 49 (sách in năm 2005) thì giải thích: Truyền kì mạn lục là “ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền”.

Cách người Việt Nam giải thích đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhận thức của người nước ngoài. Bởi vì, khi nghiên cứu văn học Việt Nam, về cõ bản, người nước ngoài thường tin tưởng các nhà nghiên cứu Việt Nam và lấy đấy làm chỗ dựa. Chẳng hạn, trong công trình Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục, Toàn Huệ Khanh người Korea viết: “TKML… có nghĩa là ghi chép câu chuyện li kì lưu truyền tản mạn trong dân gian”(11).

Giải thích “mạn lục” là “ghi chép tản mạn” có 2 điều bất ổn.

Thứ nhất, Truyền kì mạn lục là loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó không thể coi đấy là tác phẩm “ghi chép”. Khái niệm “ghi chép” đã khiến người đọc hiểu sai loại hình thể loại tác phẩm kí; thậm chí, chỉ là ghi chép tạp nhạp, chúng chẳng những không phải là loại hình truyện mà cũng chẳng phải vãn chưõng; người cầm bút chẳng cần gia công nghệ thuật vẫn được. Chính soạn giả Ngữ văn 9 cũng hiểu như vậy qua cách giải thích của mình: “ghi chép… những điều vẫn được lưu truyền”. “Những điều” không thể là những truyện và ghi chép những điều “vẫn lưu truyền” thì chẳng cần đầu tý công sức.

Thứ hai, tác phẩm của Nguyễn Dữ không hề tản mạn, dù hai chữ “tản mạn” được dùng theo kiểu tu từ: nói khiêm. Thực ra “mạn” [漫] là tùy ý, không câu thúc. Bởi vậy, trong Hán ngữ có hàng loạt cụm từ chỉ thể loại tác phẩm đi với “mạn” như: mạn họa [漫畫], mạnthư [漫 書], mạn sao [漫抄], mạn bút [漫筆], mạn tả [漫寫], mạn hứng [漫興 ]… Trong trường hợp này, các chữ mạn họa, mạnthư, mạn sao, mạn bút, mạn tả, mạn hứng… đều là một từ dùng để chỉ thể loại tác phẩm.

Còn “truyền kì” nếu đứng riêng, là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết cấu… của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người ta gọi chúng là truyền kì. Nhưng đứng trong cụm từ “truyền kì mạn lục”, thì, truyền kì làm định ngữ, chỉ tính chất của thể mạn lục - một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ, sáng tác của tác giả, không bị câu thúc bởi bất kì một lí do gì cả. Cách đặt nhan đề tác phẩm như vậy vừa thể hiện sự khiêm tốn của một tác gia trung đại, vừa nói rõ cái “chí” của người cầm bút và vừa để khu biệt đặc trưng tác phẩm văn học Việt Nam với tác phẩm Trung Hoa Tiễn đăng tân thoại. Theo tôi, đấy là vấn đề quan trọng khi nghiên cứu so sánh các tác phẩm văn học Việt Nam với tác phẩm văn học Trung Hoa(12).

Hiện chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất nãm nào. Đến nay ta chỉ biết rằng, ông là con của Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496) là Nguyễn Trường Phiêu và hình như, Nguyễn Dữ còn là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)(13), là bạn học của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613).

Nguyễn Dữ đỗ Hương tiến và có lẽ đã làm Huyện tể(14) huyện Thanh Toàn, nhưng chẳng rõ vì sao chưa đầy một năm, ông từ quan với lí do phải phụng dưỡng mẹ già và từ đó “chân không hề bước tới thành thị”(15).

Gần 20 năm qua, TKML được giới khoa học nước ngoài như Liên Xô (trước đây), Nhật Bản, Korea, Đài Bắc… quan tâm nghiên cứu(16). Ngoài việc chỉ ra những đóng góp độc đáo của Nguyễn Dữ vào kho tàng truyện truyền kì khu vực đồng vãn, không ít nhà nghiên cứu, kể cả một số nhà nghiên cứu người Việt đã cho rằng, Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu (1346-1427) trong Tiễn đăng tân thoại khi viết TKML mà, chứng cứ rõ nhất là truyện Cây gạo.

Đứng về lôgích hình thức mà nói, Nguyễn Dữ viết TKML khoảng những nãm 1527-1547, sau Cù Hựu hõn 100 nãm. Cù Hựu mất nãm 1427. Nên, nếu truyện Cây gạo giống truyện Cây đèn mẫu đơn thì ắt là, Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng (hoặc mô phỏng, hoặc bắt chước…) Cù Hựu. Nhưng, nếu suy luận như vậy, sẽ lí giải thế nào các hiện tượng sau đây: truyện Hương Ngọc của Bồ Tùng Linh (1640-1715) giống truyện Cuộc kì ngộ ở trại Tây của Nguyễn Dữ (cuối thế kỉ XV - nửa đầu thế kỉ XVI), truyện Chuột đồng và chuột nhà của nhà vãn Nga L. Tônxtôi (1828-1910) giống truyện Bức thư của một con muỗi trong Thánh Tông di thảo tương truyền do Lê Thánh Tông (1442-1497) sáng tác, Truyện thác đao điền của Na Uy thế kỉ XVIII giống Truyện Lê Phụng Hiểu của Việt Nam thế kỉ XIV ? Nếu theo lập luận của lôgích nói trên, ta cũng sẽ phải kết luận rằng, Bồ Tùng Linh mô phỏng Nguyễn Dữ, L. Tônxtôi bắt chước Lê Thánh Tông, Na Uy thế kỉ XVIII chịu ảnh hưởng của Việt Nam thế kỉ XV…?

Dĩ nhiên, chúng tôi hoàn toàn không phủ định vai trò Tiễn đăng tân thoại đối với quá trình phát triển truyện ngắn truyền kì khu vực đồng vãn. Nhưng trong nghiên cứu so sánh văn học, cần phải tính đến cả những khả năng về tính đồng loại hình của các nền văn học trên thế giới; phải tính đến sự trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển tương đồng giữa các quốc gia thời phong kiến, khiến chúng có sự gặp gỡ về nhu cầu phản ánh những hiện tượng tương đồng vào những thời điểm khác nhau… Hõn nữa, truyện truyền kì, về cơ bản, được xây dựng trên cõ sở những cốt truyện, nhân vật, môtíp… dân gian. Trong lí thuyết văn học sử người ta gọi hiện tượng này là quá trình dân gian hóa truyện dân gian. Cho nên, những cốt truyện, nhân vật, môtíp... truyện truyền kì các nước giống nhau hoặc na ná giống nhau là điều chẳng có gì lạ, bởi chúng đều có nguồn gốc dân gian, đều được khai thác từ dân gian. Đấy là ta chưa kể tới phương thức sáng tác của người trung đại: lấy tiền nhân làm chuẩn mẫu; người sáng tác cố gắng vươn tới cái đã có, thể hiện lại cái đã có theo cách của riêng mình, của thời đại mình. Đúng như nhận xét rất hóm hỉnh của A.Ja. Gurêvích: “Ãn cắp văn thì không sao cả nhưng sáng tạo độc đáo thì bị coi là tà giáo”(17).

Ngoài ra, nghiên cứu so sánh văn học cũng cần phải chú ý tới tâm lí các dân tộc thuộc khu vực đồng vãn như Việt Nam, Korea, Nhật Bản… Các dân tộc này, một mặt luôn muốn tiếp thu kế thừa tinh hoa rực rỡ từ nền văn học Trung Hoa (kể cả các nước lân cận), nhưng mặt khác lại có mặc cảm rằng, văn học của dân tộc mình không bằng Trung Hoa. Do mặc cảm đó, một tâm lí khá phổ biến là, họ muốn chứng tỏ cho người Trung Hoa thấy, mình chẳng thua nhường Hoa Hạ: “bất tốn ý Hoa Hạ”. Với tâm lí ấy, người Việt Nam trước đây luôn làm công việc đối sánh: Trung Hoa có gì, ta cũng phải có cái đó. Chẳng hạn, Trung Hoa có Hàn Dũ, Việt Nam có Hàn Thuyên; Trung Hoa có U minh lục, Địa quái lục…, Việt Nam cũng có Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục… Tuy nhiên, tâm lí này diễn ra rất phức tạp và tùy từng giai đoạn lịch sử mà cách biểu hiện cũng như mức độ biểu hiện của chúng diễn ra khác nhau.

Thời kì đầu, khi nước nhà mới giành được độc lập, người Việt cố gắng xây dựng quốc gia theo mô hình càng khác Hoa Hạ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Chính vì thế, đạo Phật có mảnh đất mầu mỡ phát triển ở Nam Việt thời Lí. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ rằng, đạo Phật vào Việt Nam khá sớm, trước cả Trung Hoa và Luy Lâu đã trở thành trung tâm Phật học từ thế kỉ thứ III thứ IV. Khi giai cấp phong kiến Việt Nam lớn mạnh, Nho giáo trở thành mô hình cho nhà nước Nam Việt đi theo thì, người Việt lại luôn muốn sánh mình với Hoa Hạ. Cách đối sánh như vậy, vừa thể hiện lòng tự tôn dân tộc, vừa thể hiện tâm lí tự ti dân tộc. Từ thế kỉ XVII về sau, sự hiểu biết nền vãn hóa và vãn học Trung Hoa được dùng làm thước đo giá trị bậc trí giả.

TKML ra đời đầu thế kỉ XVI. Diện mạo ban đầu của tác phẩm ra sao, căn cứ các bản hiện còn, ta không thể xác định được. Văn bản TLML còn lại ngày nay, kể cả “cựu bản” lẫn “tân biên” chắc chắn đã bị biến dạng theo quan niệm người Việt thế kỉ XVIII. Mà thế kỉ XVIII như vừa trình bày, thước đo giá trị tác phẩm được tính bằng sự hiểu biết nền văn học Trung Hoa. Vì thế, người ta cần tạo ra một Hà Thiện Hán thế kỉ XVI phát biểu thay cho người thế kỉ XVIII; cần đối sánh TKML với tác phẩm khá nổi tiếng của Trung Hoa thế kỉ XIV-XV Tiễn đăng tân thoại; cần chứng minh rằng, TKML của Nguyễn Dữ không vượt ra khỏi phên giậu của Tông Cát. Để làm được việc này, biết đâu người của thế kỉ XVIII đã chẳng tự ý chia tác phẩm của Nguyễn Dữ thành 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện giống như cấu trúc văn bản của Cù Hựu; thậm chí, Tiễn đăng tân thoại Phụ lục, người ta cũng tạo cho TKML Phụ truyền kì(18). Rồi người ta “tăng bổ” TKML theo hướng đối sánh, cố gắng gò những chi tiết trong tác phẩm Nguyễn Dữ thành sao cho tương ứng tác phẩm Trung Hoa với ý muốn tôn vinh Nguyễn Dữ, mà chẳng chú ý rằng, làm như vậy là vô tình hạ thấp Nguyễn Dữ và không nghĩ tới tính đồng loại hình, tới đặc tính của truyện truyền kì, tới phương pháp sáng tác của người trung đại… Chính vì thế, nghiên cứu so sánh văn học, phải tính đến tất cả các yếu tố nói trên một cách thực sự cầu thị, khách quan và tôn trọng hiện thực. Vả chăng, thể loại tác phẩm của Cù Hựu là “tân thoại” - viết mới lại các "thoại" đã có, còn Nguyễn Dữ là "mạn lục" viết một cách tùy hứng không chịu sự câu thúc gò bó; tính chất truyện của Nguyễn Dữ là “truyền kì”, còn tính chất truyện của Cù Hựu không được tác giả chỉ ra. Cách đặt tên tác phẩm của Nguyễn Dữ làm ta liên tưởng đến cách đặt nhan đề tác phẩm của Thanh Hiên: Đoạn trường tân thanh. Ngay khi đặt nhan đề tác phẩm của mình, các tác gia Việt Nam trung đại hình như đã dự cảm được điều này.

Nếu Lê Thánh Tông hướng văn học vào việc phản ánh con người, lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh thì Nguyễn Dữ đi xa hõn một bước: phản ánh số phận con người, chủ yếu là số phận mang tính chất bi kịch của người phụ nữ. Nhờ đó mà, Nguyễn Dữ đã mở đầu cho chủ nghĩa nhân vật trong văn học Việt Nam thời trung đại. Thông qua số phận các nhân vật, Nguyễn Dữ đi tìm giải pháp xã hội: con người phải sống ra sao để vươn tới hạnh phúc, để nắm bắt được hạnh phúc? Hạnh phúc tồn tại ở đâu: trên trần gian này hay miền tiên giới, cõi thiên tào hay nõi thủy cung…? Đối với người đàn ông, hạnh phúc là gì và đối với người phụ nữ như thế nào là hạnh phúc? Nguyễn Dữ đưa ra rất nhiều giả thiết bằng các cuộc thử nghiệm, nhưng tất cả đều bế tắc. Đó là thông điệp cuối cùng ông để lại cho người đọc. Hõn nữa, Nguyễn Dữ là người Việt Nam đầu tiên dùng thuật ngữ truyền kì để đặt tên cho tác phẩm của mình. Có thể nói, ông là cha đẻ của thể truyện truyền kì Việt Nam. Nghiên cứu so sánh văn học phải đào xuống chiều sâu cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm, chứ không thể chỉ dừng ở cấp độ so sánh đề tài.

Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi khi nghiên cứu so sánh TKML của Nguyễn Dữ với bất cứ một tác phẩm truyền kì nào.

N.Đ.N

CHÚ THÍCH

(1) Hồng Châu: nay thuộc tỉnh Hải Dương

(2) Thanh Hoa: nay là tỉnh Thanh Hóa.

(3) Hiện chưa rõ tiểu sử của Hà Thiện Hán. Phải chãng, đó là Hà Nhiệm Đại sinh năm 1525 ? Hoặc giả, đây chỉ là một tên mang ý nghĩa tượng trưng như kiểu Thanh Tâm tài nhân, Tiểu Thanh…

(4) Xem thêm Tục Công dư tiệp kí của Trần Trợ.

(5) Xin xem Nguyễn Tự: Tân biên truyền kì mạn lục, Trung tâm học liệu. Sài Gòn, quyển 1 và 2: 1962; quyển 3 và 4: 1963; in lần thứ hai: 1970.

(6), (7) Nguyễn Nam: Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự, Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 2002.

(8) Ngô Tăng [吳 曾 ]: văn học gia thời Nam Tống, tự là Hổ Thần [虎 臣], người vùng Sùng Nhân (nay thuộc Giang Tây), có tập bút kí Năng cải trai mạn lục.

(9) Từ điển văn học, Nxb. KHXH, H. 1984, tập II, tr.57.

(10) Từ điển văn học, Nxb. Thế giới, H. 2003, tr.1124. Mục Nguyễn Dữ trong 2 bộ Từ điển (cũ và mới) đều do 1 người viết.

(11) Toàn Huệ Khanh: Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.56.

(12) Xem thêm Nguyễn Đăng Na: Đoạn trường tân thanh - một mã khóa vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 5/1999.

(13). Hiện nhiều nhà nghiên cứu bác luận điểm cho rằng, Nguyễn Dữ là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm bởi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh nãm 1491 chỉ bằng, thậm chí còn ít tuổi hõn Nguyễn Dữ. Vả chăng, mãi đến năm 1535 Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đỗ Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Đệ nhất danh, còn TKML có thể được sáng tác sau khi Mạc Đãng Dung lên ngôi 1527 không lâu. Nãm Hà Thiện Hán viết Lời tựa 1547 rất có thể chỉ là nãm in TKML chứ chưa hẳn là nãm tác phẩm ra đời. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, Phùng Khắc Khoan không thể là bạn học của Nguyễn Dữ được, bởi Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 khi đó TKML đã hoặc sắp ra đời.

(14) Những điều này hoàn toàn dựa vào Lời Tựa của Hà Thiện Hán, mà Hà Thiện Hán như đã nêu, chưa chắc là người có thật.

(15) Có lẽ điều này do tác giả Lời Tựa TKML dựa vào truyện Người tiều phu ở núi Nưa để viết. Trong truyện ấy, Nguyễn Dữ có kể, khi Trương công - sứ giả của Hồ Hán Thương tìm đến, mời người tiều phu núi Nưa ra làm quan, người tiều phu đáp: “Ta tuy chân không bước đến thị thành…”.

(16) Chẳng hạn các công trình:

- K.I. Gôlưghina: Những truyện ngắn bên ngọn đèn, Nxb. Khoa học, Matxcõva, 1988.

- Trần Ích Nguyên: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Nxb. Văn học, H. 1999;

- Toàn Huệ Khanh: Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc - Trung Quốc- Việt Nam…, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2004.

(17) A.Ja. Gurêvích: Các phạm trù vãn hóa trung cổ. Nxb. Giáo dục, 1996, Hoàng Ngọc Hiến dịch, tr.11.

(18) Xin xem thêm Nguyễn Đăng Na: Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện, Tạp chí Văn học, số 2/1988./.

TB

VĂN THƠ CHỮ HÁN ĐỀN BÀ HẢI

TRẦN LÊ SÁNG

Đền thờ Bà Hải ở xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh là một ngôi đền rất cổ. Qua hõn bảy trăm năm bể dâu biến đổi, thiên tai địch họa, ngôi đền vẫn không ngừng được nhân dân hương khói và đã được chép vào sử sách; ngôi đền này cũng đã được xếp hạng cấp Nhà nước. Hàng nãm, cứ vào ngày mười hai tháng hai âm lịch, địa phương lại tổ chức ngày giỗ long trọng của Bà. Vào ngày giỗ này, người ta lại nhớ đến bài Văn tế của Trần Duệ Tông thương nhớ người vợ trung trinh, quả cảm của mình không khác Phàn Cõ, Tương Phi:

“Hu ta hồn hề, ngọc chất quỳnh tư;
Cách quân tâm hề(1), Sở quốc Phàn Cõ;
Thiện chấp phụ đạo hề, ngu nhuế Tương Phi;
Tư quân bất vọng hề, thân biệt hương vi;
Vị quân nhi táng hề, hồn trầm thủy mi(2).
Thương hải mang mang hề, tha sinh hà thì;
Ngọc dung thát thát(3) hề, tái hợp nan kỳ;
Tưởng kỳ chân thục hề, tâm chuyển y y;
Đổ kỳ vãn hàn hề, lệ sái phi phi;
Kỳ sở trí hề, thực thiên chi vi;
Kỳ sở nhiên hề, thị trẫm chi hi;
Ô hô thống tai hề, hồn kim hà chi.
Như tại thiên hề, thiên hữu tỵ dực hi;
Như tại địa hề, địa hữu lư chi;
Hồn như cô độc hề(4), hồn hà sở quy;
Hồn như hữu quy hề, dữ trẫm truy tuỳ;
Hồn như hữu linh hề, bảo trẫm biên thùy;
Ai tai hồn hề, hâm thử huyền chi.”

Vào nãm 1973, chúng tôi chuẩn bị biên soạn Tập III bộ Thơ vãn Lý - Trần, khi làm tư liệu về vua Trần Duệ Tông (Trần Kính), chúng tôi tìm được bài thơ tứ tuyệt của ông trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bài Trung gian chi hữu xích chủy hầu) và bài Văn tế nói trên trong Hải khẩu linh từ lục (Truyện đền thiêng Hải khẩu), sách Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Việc có đưa bài Văn tế truyền kỳ này vào thơ vãn đời Trần hay không đã được bàn bạc. Ý kiến cuối cùng là nên đưa vào thơ vãn đời Trần. Lý do thì nhiều, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin không trình bày. Điều chúng tôi muốn nói là, khi đã chấp nhận bài Văn tế này thì cũng là chấp nhận luôn bài Kê minh thập sách bài Biểu của bà Nguyễn Cõ Bích Châu mà ở dưới chúng tôi sẽ nói thêm… Đầu xuôi thì đuôi lọt, đầu năm 1993, khi Hội đồng biên tập bộ Tổng tập văn học Việt Nam phân công chủ biên Tập III bộ Tổng tập này, chúng tôi đã cho biên tập hai tác phẩm nói trên của vua Trần Duệ Tông và bài Kê minh thập sách của bà Nguyễn Cõ Bích Châu, có khảo tác giả, vào Tổng tập văn học Việt Nam(5).

Bộ sách Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ có bản dịch từ khá sớm(6), trong sách này, Hải khẩu linh từ lục chép về bà Nguyễn Cõ Bích Châu là ái phi của vua Trần Duệ Tông; bà xinh đẹp, thông minh, dám vì nước quên mình; sống anh minh, chết thành linh thần, có đền thờ phụng, ấy là đền Bà Hải mà ở trên chúng tôi đã nói. Văn bản Truyền kỳ tân phả khá phức tạp, vì vậy, khi dịch bài Kê minh thập sách trong sách này, chúng tôi không theo bản dịch mà dịch theo bản chúng tôi đã so sánh với các văn bản để hiệu đính. Bài dịch của chúng tôi như sau:

“Mười điều vợ hiền dâng vua

Trộm nghĩ: Dời củi khói lò, phải lo yên trước khi chưa loạn; lấy dâu ràng cửa tổ; ở hồi yên phải nghĩ lúc nguy. Vì nhân tình dễ đắm cuộc yên vui mà thế đạo khó được thường bình trị. Cho nên: Cao Dao trước đã ca ngợi, rồi dâng lời can chớ biếng, chớ hoang. Giả Phó từng đã thở dài, ấy chính vào lúc thái bình thịnh trị. Chính bởi vua yêu mà ngãn trước, phải đâu khác chúng để khoe tài. Thần thiếp Bích Châu này, lúc nhỏ sinh nõi nghèo hèn, lớn lên được vào cung cấm. Cuộc yến tiệc thường được ban õn, mắt long nhan bao lần soi tới. Vá áo xiêm vua Ngu, dám đâu sánh người nam tử, trút trâm như bà Khuõng, thiếp xin làm trước đình thần. Kính dâng mười sách, mong được một điều: Một là gốc nước, bỏ điều tàn bạo thì lòng người được yên. Hai là giữ nếp xưa, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối. Ba là đè kẻ lộng quyền để trừ mọt nước. Bốn là thải bọn nhũng lại để bớt hại dân. Nãm là mong chấn hưng Nho phong, khiến lửa đuốc sáng soi cùng nhật nguyệt. Sáu là xin cầu lời nói thẳng để người người được bàn bạc khắp nõi nõi. Bảy là tuyển quân nên tìm sức mạnh hõn là vóc người. Tám là kén tướng nên trọng thao lược hõn là gia thế. Chín là khí giới cần bén sắc chứ không chuộng hoa hoè. Mười là trận pháp, cốt tề chỉnh chứ không cần đẹp mắt. Xét mấy điều ấy đều rất thiết thời. Dám dâng lên tấm lòng trung thực, mong nhận cho lời nói quê mùa. Bỏ điều dở mà làm điều hay, xin bệ hạ lượng nghĩ. Nước được thịnh, dân được yên, thiếp mong lắm vậy(7).

Theo Hải khẩu linh từ lục thì bài Thập sách dâng lên được vua Duệ Tông rất khen ngợi, nhưng rồi gác đấy không động đến. Cũng nên nói thêm rằng, vua Duệ Tông và bà Bích Châu ngoài nghĩa vua tôi, tình vợ chồng còn có cùng sở thích vãn chương. Một hôm vua ra câu đối:

“Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.”
(Trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng).

Bà Bích Châu đối:

“Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thủy để phù dung.”
(Sắc xuân đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước).

Vua Duệ Tông thích lắm, tặng bà một đôi hoa tai vàng và từ đó gọi bà là Phù Dung. Bích Châu là người học rộng, bà muốn đem sở học giúp Duệ vương. Khi thấy bài Kê minh thập sách không được nhà vua để tâm đến, bà lại làm một bài Biểu dâng lên để thúc giục. Nguyên vãn chữ Hán của bài Biểu như sau:

竊 聞 玁 允 之 憑 陵 孔 熾 從 古 已 然 匈 奴 之 桀 驚 不 臣 近 來 愈 甚 蓋 為 寇 固 蠻 夷 之 常 態 而 用 兵 非 王 者 之 本 心 蕞 爾 占 城 僻 居 海 島 戎 馬 昔 年 嘶 珥 水 本 知 我 國 有 疵 戰 轂 當 日 動 邊 塵 秪 謂 民 心 初 定 故 敢 呈 蠅 群 之 舞 草 自 不 知 螳 之 當 車 然 聖 人 當 垢 納 污 藏 無 可與 犬 羊 而 較 勢 且 治 道 貴 本 先 末 後 願 且休 貔 虎 以 息 民 理 灼 明 柔 可 制 剛 言 澤 采 德 惟 廟 遠 舞 干 羽 于 虞 陛 七 旬 何 患 不 來 苗 藏 琴 瑟 於 夏 宮 基 月 自 應 能 服 扈 允 也 策 稱 為 上 伏 惟 宸 斷 自 衷 .

Phiên âm:

“Thiết văn: Hiểm Doãn chi bằng lăng khổng xí, tòng cổ dĩ nhiên. Hung Nô chi kiệt cảnh bất thần, cận lai dũ thậm. Cái vi khấu cố man di chi thường thái, nhi dụng binh phi vương giả chi bản tâm. Tối nhĩ Chiêm Thành tịch cư hải đảo, nhung mã tích niên tư Nhị thủy, bản tri ngã quốc hữu từ, chiếm tỳ đương nhật động biên trần, chỉ vị dân tâm sõ định, cố cảm trình nhăng quần chi vũ thảo, tự bất tri đường kiên chi đương xa nhiên. Thánh nhân đương cấu nạp ô tàng, vô khả dữ khuyển dương nhi giao thế; thả trị đạo quý bản tiên mạt hậu, nguyện thả hưu tỳ hổ dĩ tức dân, lý chước minh nhu khả chế cương ngôn, trạch thái đức duy giới viễn, vũ can vũ vu Ngu bệ, thất tuần hà hoạn bất lai Miêu ! Tàng cầm sắt ý Hạ cung, cõ nguyệt tự ưng nãng phục Hỗ doãn dã. Sách xưng vi thượng, duy thần đoán tự trung(8).”

Cụ Ngô Lập Chi dịch: “Thiếp trộm nghĩ, rợ Hiểm Doãn ngang tàng quá lắm, từ trước quen thân; rợ Hung Nô kiệt hiệt gớm ghê, đến nay càng tệ. Vì cướp bóc là cái thói thường của man di mà dùng binh không phải bản tâm của vương giả. Nhỏ xíu kia Chiêm Thành, ở mé nõi hải đảo. Nãm xưa kéo quân vào Nhị thủy, nhòm thấy nước ta bất hòa, khi ấy tiếng trống động ngoài biên, chỉ vì lòng dân chưa yên, cho nên chúng dám tung đàn ruồi nhặng múa ngoài bãi cỏ, có khác nào giõ càng bọ ngựa ngãn bánh xe. Nhưng thánh nhân rộng lượng bao dung, không thèm cùng với lũ chó dê so sánh. Việc trị đạo, trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàn, trị cái rắn nên dùng cái mềm, phục rợ xa cốt lấy đức. Vua đời Ngu Thuấn chỉ múa nhạc mà bảy tuần giặc Hữu Miêu đến hàng. Vua nhà Hạ Vũ chỉ gảy đàn, chẵn một tháng rợ Hồ quy phục. Đó là thượng sách, xin xét toán cho minh” (Truyền kỳ tân phả; Bd; Sđd).

Bài Biểu dâng lên nhưng không được báo lại, liền đó vua Trần Duệ Tông chuẩn bị binh mã Tây chinh. Việc này, trong triều ý kiến bất đồng. Ngự sử Lê Tích dâng sớ: “Nếu xa giá thân đi đánh, thần nghĩ là không nên”. Ngự sử Trương Đỗ ba lần can; Đại tướng Đỗ Lễ cũng can ngãn và bị nhà vua sai lấy áo đàn bà cho mặc… (Toàn thư, Bd; Tập III, Nxb. KHXH, H. 1971; tr.185-188). Tháng chạp năm Bính Thìn (1376), vua Trần Duệ Tông thống lĩnh 12 vạn binh mã Tây chinh. Đến Thanh Hóa, theo đường thủy đã đào sẵn, đi vào Hà Hoa, tức vào Hải Khẩu ở xã Kỳ La, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Chính ở cửa biển này, bà Nguyễn Cõ Bích Châu đã dám chết vì việc nước. Qua năm sau, vua Trần Duệ Tông cũng chết trận. Việc vua Trần Duệ Tông, Tây chinh thực ra cũng là việc bất đắc dĩ. Về việc này cũng như về con người vị vua này, có rất nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu kỹ, bởi sử thời Lê - Nguyễn có một số chỗ chê hõi quá về một số nhân vật thời Trần. Còn về thất bại của vua Trần Duệ Tông, có lẽ nói như vua Lê Thánh Tông là thể hiện sự thông cảm: “Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường; quốc gia tương vong tất hữu yêu nghiệt” (Hải khẩu linh từ lục).

Gần một trăm năm sau cuộc Tây chinh của vua Trần Duệ Tông, năm Canh Dần (1470), vua Lê Thánh Tông lại phải thống lĩnh 26 vạn binh mã Tây chinh, đại quân cũng nghỉ ở cửa biển Kỳ Hoa. Trong bài thơ Kỳ La hải môn lữ thứ, vua Lê Thánh Tông viết:

“Phá hiểu thừa phong đáo hải môn
Hàm triều húng húng nộ đào bôn.”
(Trời sáng bạch, cưỡi gió lướt tới của biển
Ngọn triều mặn giận dữ tung sóng xô cuồn cuộn).

Trong thơ của vua Lê Thánh Tông, hai tập Chinh tây kỷ hành Minh lương cẩm tú có khá nhiều bài viết về các cửa biển, nhất là cửa biển Kỳ Hoa, còn gọi là cửa Nhượng Bạn. Đây có lẽ là tư liệu quý để tác giả Hải khẩu linh từ lục viết tiếp phần sau truyện này. Truyện chép rằng, ngay đêm đầu tiên ở hải khẩu Kỳ Hoa, vua Lê Thánh Tông trong giấc ngủ đã tiếp kiến bà Nguyễn Cõ Bích Châu đến kể sự việc và xin nhà vua cứu khỏi tay thủy quái. Vua Lê Thánh Tông đã sai quan Thị lang Nguyễn Trọng Ý(9) viết thư cáo với Quảng Lợi Vương, Vương trả lời, lại sai Học sĩ là Lương Thế Vinh(10) đọc thư ấy… Cuối cùng thủy quái bị đuổi đi nõi khác, xác bà Bích Châu nổi lên, nhà vua lấy lễ Hoàng hậu mai táng, dựng đền bằng lá, lại làm bài thơ đề vào vách tả của đền:

“Bản thị Hy Lăng cung lý nhân
Lâm nguy vị quốc độc vong thân
Yêu phong nhất trận đào hoa lãng
Xuân mộng tam canh Đỗ Nhược tân
Hàn thủy vô đoan mai Sở Phụ
Hương hồn hà xứ điếu Tương Quân
Hu ta bách vạn hùng bi lữ
Bất cập thư sinh nhất hịch văn.”

Dịch:

Một vị thiền phi thủa vua Trần
Hy sinh vì nước quản chi thân
Đào hoa chìm nổi cõn giông tố
Đỗ Nhược mõ màng giấc mộng xuân
Dòng nước vô tình chôn Sở Phụ
Hương hồn nào chỗ viếng Tương Quân
Than ôi trăm vạn quân hùng mạnh
Lại kém thư sinh một hịch văn.

Khi Tây chinh trở về, vua Lê Thánh Tông trong giấc ngủ lại thấy gặp bà Duệ phi, bà nói nhà vua là vị Tiên đồng ở Tiêu điện trên thiên đình; bà cảm õn nhà vua về các việc nhà vua đã giúp bà, lại nói: Hai câu cuối của bài thõ, về quan hệ vua tôi, vợ chồng, lòng thiếp có chỗ không yên. Nhà vua rất khen ý tứ sâu sắc của bà. Khi tỉnh dậy, vua Lê Thánh Tông đã cho xóa hai câu cuối và sửa lại là:

“Cương thường vạn cổ ưng vô quý
Từ hạ thư cưu hư thủy văn.”
(Cương thường muôn thủa nên không thẹn
Chim nước bên đền vui kiếm ăn).

Ngoài bài thơ trên, trong Hải khẩu linh từ lục còn có một bài thơ nữa của vua Lê Thánh Tông:

“Hổ lữ thân đề xuất Nhị Hà
Mãn thiên xuân sắc hộ chinh kha
Chu kỳ phất tận trường không ế
Phấn trạo huy trừng vạn khoảnh ba
Lâm Ấp trĩ ly đã ngã hệ
Đồ Bàn ngư tức cảm thùy hà
Loan cung cao quải phù tang ngoại
Trực bả hà tu tác nhất gia”.

Dịch:

Hùng mạnh thân chinh xuất Nhị Hà
Đầy trời xuân sắc hộ thuyền ra
Cờ hồng quét sạch mây đen tối
Chèo phấn đè êm sóng trắng lòa
Lâm Ấp trĩ sa mong tới cứu
Đồ Bàn cá ngạt cúi xin hòa
Phù tang cao ngất treo cung báu
Sao được xa gần cụm một nhà.

Sau khi về kinh, vua Lê Thánh Tông cho lập đền, cấp ruộng tế và cấp người thủ từ. Lại có sắc phong hai chữ Chế Thắng. Nhưng trong tập Minh lương cẩm tú, vua Lê Thánh Tông có bài thơ Hà Hoa hải môn lữ thứ (Đóng quân ở cửa biển Hà Hoa) lại nói đến đền Chế Thắng khi còn trên đường hành quân:

Hà Hoa đáo xứ vũ sùng triêu
Hoàn hải mang nhiên tứ vọng dao
Xúc thạnh du du vân luyến tụ
Bài nham húng húng lãng tùy triều
Thủy Tiên đàm thượng yên hà cổ
Chế Thắng từ trung thảo mộc kiều
Túy ỷ bồng song ngâm hứng phát
Thi hoài khách tứ bội vô liêu

Bản dịch của cụ Đỗ Ngọc Toại:

Mưa mai mù mịt cửa Hà Hoa
Ngắm biển mênh mang bốn phía xa
Mây mến đầu non lõ lửng đứng
Sóng theo con nước rập rờn qua
Thủy Tiên đầm nọ đầy sương sáng
Chế Thắng đền kia rực cỏ hoa
Say tựa bên mui càng nảy hứng
Lòng thơ dạ khách khó khuây khoa.

Trong nguyên chú của bài thơ này lại cho biết: “Chế Thắng phu nhân: cung nữ của vua Trần Duệ Tông. Nhà vua Nam chinh, tới cửa Kỳ Hoa gặp gió to, thuyền không qua được, nhà vua bèn trai giới bí mật cầu đảo, đặt người cung nữ ấy lên chiếc mâm vàng, để trôi trên mặt nước dâng cho thủy thần. Do có chuyện báo õn đó nên thường linh ứng. Người dân bèn lập đền thờ ở bên trái cửa biển. Nay trong tự điển là Thượng đẳng thần”(11).

Một số thơ vãn chữ Hán ở đền thờ Thượng đẳng thần Chế Thắng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh mà chúng tôi vừa giới thiệu ở trên là xuất xứ ở tác phẩm Hải khẩu linh từ lục trong Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ tử. Quả thật, ngôi đền nhỏ mà có đến hai vị vua để lại vãn thơ là rất hiếm, rất vinh dự cho đền và địa phương. Truyền kỳ tất khó tin được cả, song qua đối chiếu với một số văn bản khác, chúng tôi thấy cũng cần xem xét kỹ, bỏ đi cả là không khoa học. Vấn đề này đã được bàn nhiều và có lẽ vẫn còn cần phải bàn tiếp; nhưng kể từ khi chúng tôi quyết tâm đưa bài Văn tế bà Nguyễn Cõ Bích Châu vào phần Phụ lục của Tập III, Thơ vãn Lý - Trần (1978) - Sđd, đến nay hầu như ý kiến ủng hộ có phần nhiều hõn một số ý kiến khác. Gần đây, bộ Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông; (Tổng tập)(12) đưa bài Bản thị Hy Lăng cung lý nhân (Lấy đầu đề tự đặt là Vịnh Chế Thắng phu nhân) vào chính vãn, chúng tôi thấy mừng vì thêm có người ủng hộ thực tế.

T.L.S

CHÚ THÍCH

(1) Có bản chép (cbc): Năng cách tâm hề

(2) Cbc: Thủy tề

(3) Cbc: Đạp đạp

(4) Cbc: Hồn độc cô kiết hề

(5) Xin xem Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 3b, Nxb. KHXH, H. 1994; tr.356-364.

(6) Truyền kỳ tân phả, Bd; Hoàng Hữu Yên và Ngô Lập Chi; Nxb. Giáo dục, H. 1962. Trong bản dịch này, bài Văn tế Nguyễn Cõ Bích Châu của vua Trần Duệ Tông, được cụ Ngô Lập Chi dịch như sau:

Than ôi hồn chừ; yểu điệu phong ty
Chính lòng vua chừ; nước Sở Phàn Ky (Cõ)
Giữ đạo vợ chừ; bến Ngu Tương Phi
Nhớ vua không quên chừ; vĩnh biệt hương vi
Vì vua thác oan chừ; hồn tan thủy mi
Bể khõi mông mênh chừ; kiếp khác bao thì
Mắt ngọc xa cách chừ; tái hợp khó kỳ
Nhớ lại bao đức tốt chừ;
giấy mực chừ; giọt lệ lâm ly
Số mệnh đã định chừ; trời kia không vì
Vì đâu nên nỗi chừ; lỗi trẫm khó ty (từ)
Than ôi thương thay; hồn bỏ trẫm đi
Nếu ở trên trời chừ; như chim kia dực phi
Nếu ở dưới đất chừ; như cây liên lý chi
Hồn hiu quạnh chừ; không chốn y quy
Hồn có thiêng chừ; cùng trẫm truy tùy
Hồn phảng phất chừ; giữ nõi biên thùy
Thương thay hồn chừ; hưởng chén quỳnh chi.

(7) Trần Lê Sáng; Bd. Kê minh thập sách; Thơ văn Lý - Trần, Tập III, Nxb. KHXH, H. 1978. Bạn đọc có thể theo dõi nguyên bản chữ Hán và phiên âm trong sách này.

(8) Gần đây có người đến hỏi chúng tôi văn bản có liên quan đến Bà Hải (Nguyễn Cõ Bích Châu), chúng tôi đã giới thiệu một số văn bản đã xuất bản; riêng bài Biểu này chưa có nguyên vãn xuất bản; vậy nhân dịp này xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.

(9) Nguyễn Trọng ý còn gọi Nguyễn Xung Xác (có tên ở bia Văn miếu, Hà Nội), lại gọi Nguyễn Nhân Phùng (1450-?); đỗ Tiến sĩ, làm Lễ bộ Tả Thị lang; được vua cho đổi thành họ Lê; có tên trong Hội Tao đàn, rất được vua Lê Thánh Tông yêu quý.

(10) Lương Thế Vinh (1441-?), tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên; đỗ Trạng nguyên, làm Hàn lâm thị thư; có tên trong Hội Tao đàn; vua Lê Thánh Tông thường giao cho ông soạn các giấy tờ về bang giao.

(11) Mai Xuân Hải (Chủ biên), Hoàng Hồng Cẩm, Phạm Thùy Vinh biên dịch; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (Tổng tập); Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb. Văn học, H. 2003.

(12) Như chú thích trên./.

TB

VĂN TẾ CÁC VONG HỒN Ở
ĐA GIÁ THƯỢNG

NGUYỄN TÁ NHÍ

Về sự kiện bọn hung đồ giết hại dân lành ở xã Đa Giá Thượng huyện Gia Viễn phủ Trường Yên, các bộ chính sử như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương mục tiết yếu v.v... đều ghi chép tương đối giống nhau. Chẳng hạn sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn chép:

“Tháng 5 mùa hạ (năm Chính Hòa 15-1694) bắt giết 52 người dân hung ác ở xã Đa Giá Thượng.

Xã Đa Giá Thượng đường núi nhỏ hẹp hiểm trở, lại có nhiều hang hốc. Dân xã ấy đặt riêng khoán ước với nhau, dựng điếm canh đón người qua lại hoặc ngủ trọ tại xã, đến đêm bắt giết đi quăng xác xuống vực rồi cướp lấy của cải. Việc này kéo dài hơn 20 năm, xương trắng chất thành đống.

Đến nay việc bị phát giác, triều đình sai Thạc Quận công Lê Hải đem quân đi khám xét, bắt được đảng ác gồm 290 tên, đem chém 52 tên đầu xỏ hung ác bêu đầu ở chợ. Những tên còn lại bắt chặt ngón tay rồi đưa đi đày ở châu xa, xóa bỏ tên làng của xã này”.

Sự việc xảy ra từ những năm đầu thập kỷ bảy mươi của thế kỷ XVII, kéo dài suốt 20 năm. Triều đình cử quan quân đi đánh dẹp, mãi đến năm 1694 Thạc Quận công Lê Hải mới dẹp yên được. Các tư liệu lịch sử chỉ cho biết số lượng bọn gian ác bị bắt là 290 tên, còn về số người bị nạn là bao nhiêu thì không thấy đề cập tới. Gần đây, tìm trong kho sách Hán Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi thấy có bài Văn tế xót thương u hồn ở xã Đa Giá Thượng (Chuẩn tuất u hồn tại Đa Giá Thượng xã tế văn). Nguyên bản viết bằng chữ Hán chép trong sách Quốc âm văn tế sao lục, ký hiệu VNv.256. Bài văn viết vào tháng 5 năm Giáp Tuất (1694), không ghi tên người soạn, có thể là môn khách của Thạc Quận công Lê Hải giúp ông soạn thảo để tế các vong hồn, lời văn rất thống thiết, cảm động lòng người. Nội dung bài văn cho biết, số người tử nạn cả thảy là 318 người, gồm lái buôn tinh nghệ công thương, nghệ sĩ ở giáo phường hát hay đàn giỏi, người đi hành dịch, có cả những hành khách đi ngao du thưởng ngoạn thắng cảnh non nước. Họ là những người khác quê khác quán, do công việc cần thiết phải đi qua vùng này nên ngộ hại. Một khi triều đình biết đến liền thẳng tay trừng trị:

“Theo phép xử nghiêm diệt lũ ác, trừ bỏ bọn độc dữ gian hung;

Dùng lễ nghi tống táng thưởng khao, an ủi u hồn nơi giá lạnh”.

Đó cũng là lý do mà Thạc Quận công Lê Hải đọc văn tế gửi đến an ủi các u hồn bị hại ở Đa Giá Thượng. Nhận thấy đây là tư liệu lịch sử quý, có thể bổ sung thêm cho chính sử về một sự kiện xảy ra cách đây đã đến 310 năm rồi, chúng tôi xin phiên âm dịch nghĩa giới thiệu toàn văn.

Phiên âm:

"Chính Hòa thập ngũ niên Giáp Tuất ngũ nguyệt nhật.

CHẨN TUẤT U HỒN TẠI ĐA GIÁ THƯỢNG XÃ TẾ VĂN

Trí tế vu chư oan hồn chi linh viết:

Ô hô !

Vật chi vinh khô hữu thời hĩ nhi bất vi dị giả hiển kỳ thời;

Nhân chi tử sinh hữu mệnh yên nhi thậm khả ai giả phi kỳ mệnh.

Y hi ! Nhĩ bối hề !

Thiên lý thù hương;

Ngũ phương dị tính.

Hữu hiệp nghệ tinh trí túc khứ xu sự ư công thương;

Hữu tương âm nhã điệu cao đầu phó ư ca vịnh.

Hữu hành lữ nhi yết tức quán xá ư tạm thời;

Hữu tòng dịch nhi vãng lai đạo lộ ư nhất khoảnh.

Ưu du vô sự, duy tri bất bế hộ vi an;

Xưng tụng thái bình, vô phục hữu trì binh tự cảnh.

Khởi kỳ Đa Giá Thượng chi hung đồ;

Cảm tác khang cù trung chi hãm tỉnh.

Kiếp vu đồ, sát vu túc, bạo tàn há thì sài lang;

Lưu vu thủy, phao vu sơn, hung ác thực phù cưu kính.

Ai thử vô cô;

Li thử bất hạnh.

Nhĩ phụ mẫu huynh đệ chi hào vọng, bàn hoàn mộng hậu tưởng dung;

Nhĩ phu thê nhi tử chi ai cầu, hoảng hốt đăng tiền điếu ảnh.

Tung trầm tích một nhi nan tri;

Vật hoán tinh di nhi dũ quạnh.

Tán lạc tha hương khách tứ, hà xứ quy y;

Hoang lương tịch địa cô hồn, vô nhân đảo thỉnh.

Hàm oan thậm nhật tiêu ma;

Ẩm hận hà thời cùng kính.

Khánh kim:

Thượng hữu thánh minh;

Bàng thi nhân chính.

Thông quách nhật lâm nguyệt chiếu, củ đàn tài lãm thốn tiên;

Uy dương điện xiết phong phi, bộ tróc tuyền ban mệnh lệnh.

Ngô đẳng:

Tấu mệnh hành tra;

Chấp ngôn hành chính.

Cứu kỳ do, cật kỳ nặc, hung đồ võng độc ư nhiên tê;

Trích kỳ phục, phát kỳ gian, ác đảng vô đào ư huyền kính.

Đại chương tội trạng chi tham tàn;

Tận đắc sự tình chi bao hoạnh.

Thuyết đắc tam bách thập bát nhân chi bị hại, thùy năng vô lệ hạ nhi thống tâm;

Ngôn cập nhị thập dư niên chi xúc gian, thục bất dục cưu đầu nhi hệ cảnh.

Chương sớ phu văn;

Cao minh thùy thính.

án pháp nhi hình tru lưu thoán, trừ bỉ xú loại chi gian hung;

Dĩ lễ nhi liễm táng tế khao, uý nhĩ u hồn chi liêu lãnh.

Nhĩ bối đãn đương;

Giải nhĩ cựu oan;

Hoàn kỳ nguyên tính.

Lai hâm lai hưởng, cộng ngưỡng thụ ư hồng ân;

Dĩ phụ dĩ du, đồng siêu thăng ư tịnh cảnh.

Kim tắc:

Đàn soạn cụ trần;

úy bi giao tịnh.

Đổ di hài chi hữu mộ, cảm xâm dã thảo nhàn hoa;

Tưởng bạch cốt chi vô, hận phó trường giang cao lĩnh.

Ô hô ! Ai tai !

Nhĩ bối hưởng chi."

Dịch nghĩa:

Ngày tháng 5 Giáp Tuất (1694) niên hiệu Chính Hòa 15

VĂN TẾ XÓT THƯƠNG U HỒN Ở XÃ

ĐA GIÁ THƯợNG

Gửi lời tế đến vong linh các u hồn rằng:

Ô hô !

Vật có héo tươi tùy thời, song có khác chi nhau bởi đều làm tỏ chữ thời;

Người ta sống chết có mệnh, vậy nên thật đáng thương cho kẻ thác không phải mệnh.

Hỡi ôi lũ các ngươi:

Muôn dặm xa quê;

Năm phương khác tính.

Kẻ thì nghề tinh trí sáng bôn ba theo việc công thương;

Kẻ thì tốt giọng hay đàn náo nức theo nghề ca vịnh.

Có khi hành lữ rồi nghỉ ngơi, quán xá cốt chỉ tạm thời;

Có khi lao dịch mà lai vãng, đường xa dừng chân chốc lát.

Vô sự nhàn du, đâu có biết cài cửa hưởng vui;

Thái bình vịnh cảnh, chẳng hề mang giáo gươm tự vệ.

Nào ngờ Đa Giá Thượng lắm kẻ hung đồ;

Dám giữa buổi thái bình gây ra trọng án.

Cướp ở đường, giết ở cửa, bạo tàn nào kém sài lang;

Ném xuống nước, vứt lên non, hung ác thực hơn hổ báo.

Thương kẻ hiền lành;

Xót người bất hạnh.

Cha mẹ anh em ngươi khổ ngóng, miên man trong mộng tưởng đến dung nhan;

Vợ chồng con cái ngươi mỏi trông, hoảng hốt trước đèn ngỡ là bóng ảnh.

Tích dấu tung chìm thật khôn lường;

Sao dời vật đổi đành hưu quạnh.

Tan tác tha hương quán khách, nào biết về đâu;

Thê hương đất lạnh hồn cô, ai người cầu đảo.

Hàm oan nào thuở tiêu ma;

Ôm hận khi nao cho hết.

Mừng nay:

Trên có thánh minh;

Ban ra nhân chính.

Khắp nơi nhật chiếu nguyệt soi, tấu đàn hặc vừa được vua xem;

Uy đức sấm vang chớp giật, lệnh tiễu trừ ban ngay lập tức.

Bọn ta:

Tâu xin ban mệnh khám tra;

Nhận lệnh thi hành chính sự.

Xét duyên do, tìm trốn tránh, lũ hung đồ trốn lẩn vào đâu;

Tóm lũ ẩn, truy bọn gian, bày đảng ác đừng hòng chạy thoát.

Vạch rõ tội trạng tham tàn;

Có đủ sự tình ngang ngạnh.

Nói đến ba trăm mười tám người bị hại, ai mà chẳng rơi lệ xót thương;

Kể về hai chục năm chứa chất ác gian, ai không muốn bêu đầu lũ ác.

Biểu tấu vừa đệ lên;

Đấng cao minh đã biết.

Theo pháp xử nghiêm diệt lũ ác, trừ bỏ bọn độc dữ gian hung.

Dùng lễ nghi tống táng thưởng khao, an ủi hồn nơi giá lạnh.

Lũ các ngươi hãy nên:

Giải bỏ oan khiên;

Trở về bản tính.

Về hâm về hưởng, cùng nhau đón nhận ơn vua;

Vừa hiểu vừa tin, cùng siêu thăng nơi tịnh cảnh.

Bữa nay thì:

Cỗ đã đặt bày

Bảo nhau đến hưởng.

Ngắm di hài đã có mộ, cảm thông cỏ nội hoa đồng;

Tưởng xương trắng hề rơi, hận gửi sông dài núi thẳm.

Hỡi ôi thương thay

Lũ người về hưởng.

Tài liệu tham khảo

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, H. 1993.

2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, 1998.

3. Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. KHXH, H. 2000.

4. Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa (Đồng chủ biên), Nxb. KHXH, H. 1993.

5. Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp, Nxb. KHXH, H. 1972.

6. Ninh Bình tỉnh chí, A.1268.

7. Quốc âm tế văn sao, VNv.256.

TB

BÀI DẠ TRẠCH TIÊN GIA PHÚ Ở ĐÌNH LÀNG QUAN XUYÊN XÃ THÀNH CÔNG HUYỆN
KHOÁI CHÂU TỈNH HƯNG YÊN

NGUYỄN MINH TƯỜNG
TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

1. Lời giới thiệu

Vào ngày 16-4-2005, nhận lời mời của các đồng chí phụ trách thôn Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, chúng tôi đã về làm việc tại địa phương trong một ngày. Công việc mà các đồng chí phụ trách thôn Quan Xuyên đề nghị chúng tôi giúp cho là: dịch những hoành phi, câu đối, bia đá... chữ Hán tại các công trình văn hóa - lịch sử trên địa bàn thôn như: đình Quan Xuyên, Nhà Sắc, Miếu Thượng, Miếu Trung, Miếu Hạ và tấm bia đá đặt tại bên tả (nhìn từ ngoài vào) của đình. Trong đó, đặc biệt có một bức hoành phi treo tại gian giữa nhà đại bái của đình Quan Xuyên, khắc toàn bộ bài Dạ Trạch Tiên gia phú khá nổi tiếng (có chừng 550 chữ). Ðây là một di sản vật thể quý báu về nhiều mặt (chạm khắc, thư pháp, nội dung văn học...) mà nhân dân Quan Xuyên còn lưu giữ được.

Bài Dạ Trạch Tiên gia phú vốn khắc tại đền Đa Hòa, thuộc tổng Mễ Sở, huyện Ðông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Ða Hòa, xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên). Ðền Đa Hòa là ngôi đền chính thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa.

Vào nãm Ất Tỵ (1905) đời vua Thành Thái, một đàn cầu tiên được tổ chức tại đền Đa Hòa. Những người hầu dưới đàn là: Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên... Bài Dạ Trạch Tiên gia phú này được coi là bài Giáng bút của Chử Đạo tổ (tức Chử Đồng Tử). Chu Mạnh Trinh, người xã Phú Thị, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), từng giữ chức Quang lộc Tự khanh, kính chép và khắc bài phú Giáng bút này ở đền Đa Hòa.

Vào nãm Quý Sửu (1913) đời vua Duy Tân, các cụ phụ lão làng Quan Xuyên đã khắc lại bài Dạ Trạch Tiên gia phú này từ đền Đa Hòa đưa về treo tại đình. Nhận thấy đây là một bài phú hay, nội dung liên quan tới Chử Đồng Tử, một nhân vật được Đạo giáo Việt Nam suy tôn vào hàng "Tứ bất tử", chúng tôi xin phiên dịch toàn bộ bài Dạ Trạch Tiên gia phú và công bố để bạn đọc xa gần cùng tham khảo.

2. Nguyên vãn chữ Hán.

成 泰 乙 巳 年

渚 仙 降 筆 自 題
河 山 過 眼 幾 千 年
一 曲 高 歌 散 九 天
江 渚 月 明 雲 影 淡
澤 林 水 漲 隴 沙 圓
漫 傳 筇 笠 仙 家 事
誰 識 樓 臺 帝 子 緣
到 底 一 塵 還 不 染
金 鰲 駕 海 寓 雲 煙
夜 澤 仙 家 賦
玉 闕 天 高 金 臺 地 辟.

雲 萬 丈 以 騰 飛 水 千 重 而 凝 碧.

扁 舟 泛 泛 誰 從 訪 蓬 萊, 仙 境 之 虛 無;

夜 澤 汒 汒 我 獨 創 帝 子, 因 緣 之 屬 籍;

相 傳:

江 上 遇 帝 女 以 成 親;

誰 識:

仙 班 本 珠 宮 之 莫 逆.

雄 王 之 世, 十 九 相 承;

帝 曰 有 邦 彼 姝 者 子.

乃 從 星 而 顯 耀, 還 駕 雨 來,

赤 藤 勝 地 之 間;

因 伐 木 以 裁 樓, 別 向 風 雲,

白 社 圓 基 之 址.

是 處: 仙 家 雞 犬 何 事 飛 昇?

偶 然: 大 澤 龍 蛇 相 爭 議 庇.

杏 栽 千 樹, 藥 餌 遍 于 方 民;

桃 贈 萬 家 吟 詠 傳 於 閭 里.

辰 則:

月 明 夜 靜, 江 闊 天 空, 或 乘 舟 而 垂 釣, 或 倚 杖 以 迎 風;

攜 手 高 臺, 弄 玉 蕭 而 鳳 降, 識 針 還 閣, 聯 金 字 而 鵷 同.

塵 埃 風 景 蒼 汒 難 容, 久 住 日 月 壺 天 隱 約.

每 動 高 蹤; 乃 辭 帝 闕.

上 表 陳 情 旋 向 神 山 訪 予 舊 侶 赤 松 是 兩 師 遊 戲;

神 農 之 世 非 遙, 蒼 頡 生 文 字 契 書, 盤 古 之 風 可 緒.

四 頭 江 渚, 三 十 年 之 托 跡 轉 空;

扣 手 天 門 九 萬 里 之 高 歌 有 自.

樓 臺 亦 幻 瞕 梓 空 留; 江 波 寂 寂 雲 影 悠 悠.

閱 古 今 之 陳 跡; 感 禾 黍 於 郊 邱.

萊 公 之 陳 成 陰 德 能 兆 異; 潘 令 之 桃 結 寔, 我 亦 何 求.

然 而:

召 伯 甘 堂 不 伐; 總 人 心 之 思 慕

所 以:

羊 公 硯 首 興 言 示 來 者 之 綢 繆.

曰 庭 曰 閣; 成 邑 成 都.

仙 蹤 縹 緲; 往 事 荒 蕪.

筇 笠 林 間, 齊 東 野 之 妄 言 可 笑;

幕 帷 江 上, 趙 北 方 之 佳 話 還 無 虛 以 傳 虛 信 難 可 信.

人 思 舊 澤 而 不 忘; 我 獨 飛 靈 而 默 運

石 豈 能 言 之 物, 轉 也 何 曾;

檜 傳 左 紐 之 文, 是 誰 繆 引.

遂 使:

千 秋 韻 事, 遺 跡 難 憑 識;

看 一 片 閒 雲 仙 跡 不 泯.

維 新 癸 丑 春.

恭 錄 多 禾 祠.

乩 文.

奉 鐫 拜 進.

3. Phiên âm

Thành Thái Ất Tỵ niên

CHỬ TIÊN GIÁNG BÚT TỰ ĐỀ
Hà sõn quá nhãn kỷ thiên niên
Nhất khúc cao ca tán cửu thiên
Giang chử nguyệt minh vân ảnh đạm
Trạch lâm thủy trướng lũng sa viên(1)
Mạn truyền cung lạp tiên gia sự(2)
Thùy thức lâu đài đế tử duyên
Đáo để nhất trần hoàn bất nhiễm
Kim ngao giá hải ngụ vân yên.
DẠ TRẠCH TIÊN GIA PHÚ
Ngọc khuyết thiên cao; kim đài địa tịch

Vân vạn trượng dĩ đằng phi; thủy thiên trùng nhi ngưng bích.

Biển chu phiếm phiếm thùy tòng phỏng Bồng Lai tiên cảnh chi hư vô;

Dạ Trạch mang mang ngã độc sáng đế tử nhân duyên chi thuộc tịch.

Tương truyền Giang thượng ngộ Đế nữ dĩ thành thân;

Thùy thức: Tiên ban bản châu cung chi mạc nghịch.

Hùng Vương chi thế, thập cửu tương thừa.

Đế viết hữu bang, bỉ xu giả tử.

Nãi tòng tinh nhi hiển diệu, hoàn giá vũ lai, Xích Đằng thắng địa chi gian;

Nhân phạt mộc dĩ tài lâu, biệt hướng phong vân, Bạch Xã viên cõ chi chỉ.

Thị xứ: Tiên gia kê khuyển hà sự phi thăng ?

Ngẫu nhiên: Ðại trạch long xà tương tranh nghị tý.

Hạnh tài thiên thụ, dược nhị biến vu phương dân;

Ðào tặng vạn gia, ngâm vịnh truyền ý lý lý.

Thời tắc: Nguyệt minh dạ tĩnh, giang khoát thiên không,

Hoặc thừa chu nhi thùy điếu, hoặc ỷ trượng dĩ nghênh phong;

Huề thủ cao đài, lộng ngọc tiêu nhi phượng giáng,

Thức châm hoàn các, liên kim tự nhi uyển đồng.

Trần ai phong cảnh thương mang, nan dung cửu trú; nhật nguyệt hồ thiên ẩn ước, mỗi động cao tung;

Nãi từ Đế khuyết, thướng biểu trần tình;

Toàn hướng thần sõn, phỏng dư Cựu lữ;

Xích Tùng, thị lưỡng sư du hý, Thần Nông chi thế phi dao;

Thương Hiệt sinh văn tự khế thư, Bàn Cổ chi phong khả tự.

Tứ đầu giang chử, tam thập niên chi thác tích chuyển không;

Khấu thủ thiên môn, cửu vạn lý chi cao ca hữu tự.

Lâu dài diệc huyễn; hiêu tử không lưu.

Giang ba tịch tịch, vân ảnh du du.

Duyệt cổ kim chi trần tích; Cảm hòa thử ý giao khâu.

Lai Công chi trúc thành âm đức năng t riệu dị; Phan Lệnh chi đào kết thực, ngã diệc hà cầu.

Nhiên nhi: Thiệu Bá cam đường bất phạt, tổng nhân tâm chi tý mộ;

Sở dĩ: Dương Công nghiễn thủ hứng ngôn, thị lai giả chi trù mâu.

Viết đình viết các; thành ấp thành đô.

Tiên tung phiêu diểu; vãng sự hoang vu.

Cung lạp lâm gian, Tề đông dã chi võng ngôn khả tiếu;

Mạc duy giang thượng, Triệu bắc phương chi giai thoại hoàn vô.

Hý dĩ truyền hý; tín nan khả tín.

Nhân tý cựu trạch nhi bất vong; ngã độc phi linh nhi mặc vận.

Thạch khởi năng ngôn chi vật, chuyển dã hà tằng;

Cối truyền tả nữu chi văn, thị thùy mậu dẫn.

Toại sử: Thiên thu vận sự, di tích nan bằng;

Thức khán nhất phiến nhàn vân, tiên tung bất dẫn.

Duy Tân, Quý Sửu niên.

Cung lục Đa Hòa từ.

Kê vãn.

Phụng thuyên bái tiến.

v3. Dịch nghĩa:

Năm Ất Tỵ (1905) đời vua Thành Thái

ĐỀ TỰ BÀI GIÁNG BÚT CỦA TIÊN ÔNG CHỬ ĐỒNG TỬ

Sông núi này, mắt ta ngắm nhìn đã mấy nghìn năm.

Một khúc ca cao vút, lan rộng tới chín tầng trời.

Trăng sáng chiếu qua mây, bóng nhạt nhòa bên bến sông.

Sóng nước vỗ đập vào bãi cát vùng đất Dạ Trạch.

Câu chuyện thần tiên về chiếc gậy trúc, nón gồi chẳng qua là ngoa truyền.

Ai hay được chuyện tình duyên của con gái vua chốn đền đài ?

Dù cho sống nõi trần gian, nhưng cuối cùng chẳng nhiễm bụi trần.

Mọi chuyện rồi cũng theo Rùa vàng ra biển hay gửi trong đám mây trôi.

DẠ TRẠCH TIÊN GIA PHÚ

(PHÚ VỀ GIA ĐÌNH TIÊN ĐẦM DẠ TRẠCH)

Ngọc khuyết thiên cao; Kim đài rộng mở(3).

Mây muôn trượng bay cao, nước ngàn trùng xanh biếc(4).

Thuyền một lá lênh đênh, ai hỏi chốn Bồng Lai cảnh tiên hư ảo?

Dạ Trạch đầm nước mênh mang, ta riêng tạo chốn nhân duyên đế tử(5).

Tương truyền: May gặp Hoàng nữ trên sông, rồi bỗng nên duyên phận;

Biết chăng: Vốn nòi tiên sánh cùng Cung ngọc, chẳng có gì sai(6).

Hùng Vương dựng nghiệp, mười chín đời truyền(7);

Đế thất lưu truyền: Nước có mỹ nữ(8).

Theo sao mờ hiển hiện, chớp nhoáng như xe bay, mây lướt mưa sa ở đất Xích Đằng(9) thắng địa.

Rồi nhân thế phạt mộc dựng lầu cao, gây riêng một chốn, thử hỏi nào đâu Bạch Xã(10) nền xưa.

Đây xứ: Tiên cung chó gà kêu việc xẩy đột nhiên;

Bỗng nhiên: Ðầm lớn rồng rắn quấn quýt sao mà lạ(11).

Trồng hạnh nghìn cây, thuốc hay giúp khắp thôn dân;

Gây đào vạn cửa, lời ca vang cùng làng xóm.

Những khi: Trãng sáng, đêm thanh, trời cao sông rộng.

Lúc cưỡi thuyền buông câu; lúc tựa song đón gió.

Dan tay gác tía, thổi sáo ngọc mà chim phượng đến; cài trâm bên cửa biếc, gắn chữ vàng mà uyên ương theo.

Trần ai phong cảnh mênh mang, ở lâu sao đặng;

Nhật nguyệt giữa trời lấp lánh, thấy động dấu tiên.

Bèn từ cung khuyết. Dâng biểu trần tình;

Lại đến thần sõn, tìm hỏi bạn cũ(12).

Cùng Xích Tùng tiên du hí, đời ThầnNông(13) ngày ấy chẳng xa;

Chữ Thương Hiệt(14) thư khế rành rành, phong tục Bàn Cổ(15) đã có đầu mối.

Bốn mặt nước Chử giang(16), ba mươi nãm thác tích, thành không;

Hai tay chắp Cửu trùng, ngàn muôn dặm ngợi ca từ đó(17).

Lâu đài nào thấy; gậy cũ còn đâu !

Sóng nước mịt mờ, mây mù thãm thẳm.

Xem nào cổ kim dấu tích; nhớ tới ngoài nội lúa ngô.

Trúc Lại Công(18) nay đã thành rừng, đức thường gây dựng.

Ðào Phan Lệnh(19) vốn đà kết trái, ta cũng chẳng cầu.

Thế mà: Như Thiệu Bá(20) không phạt Cam đường, cũng là do lòng người tư mộ;

Sở dĩ: Dương Công(21) miệt mài bên nghiên mực, chỉ mong cho hậu thế đẹp tươi.

Nào đền, nào gác, nên xóm nên thành.

Gót tiên lãng đãng; sự cũ hoang vu.

Khá cười chuyện cũ hoang đường, gậy trúc nón gồi, đồn khắp hang cùng ngõ hẻm;

Lại hay giai thoại vu võ, màn gấm bên sông, lan xa ngoài cõi Bắc phương(22).

Đồn lại thêm đồn; tin không khó biết.

Đầm xưa, người nhớ mãi chẳng quên; Ta vẫn riêng cưỡi mây phù vận(23).

Đá có nói gì đâu mà vật chuyển dời, sao thế ?

Sao truyền cội gốc chuyện xa xưa ngoa vậy, vì ai ?(24).

Khiến cho: Nghìn thu chuyện đẹp, tích cũ khó tìm bằng cứ?

Hãy nhìn một áng mây trôi, dấu tiên như còn tỏ.

Năm Quý Sửu (1913) đời vua Duy Tân.

Kính cẩn chép từ đền Đa Hòa - Văn giáng bút.

Kính sao - Bái tiến.

4. Mấy nhận xét

Bài Dạ Trạch Tiên gia phú, chúng tôi vừa giới thiệu trên đây, như đã nói, được coi là bài phú "giáng bút" của Chử Đạo tổ trong một đàn cầu tiên tổ chức tại đền Đa Hòa vào năm 1905.

Ðàn cầu tiên là một sinh hoạt có tính văn hóa của những người trí thức Nho học Việt Nam tồn tại từ lâu đời. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đạo cầu hồn vốn xuất hiện ở Âu Mỹ, được gọi là Thần linh học hoặc Linh hồn học (Psychisme) thấm dần vào Việt Nam. Từ đó, đàn cầu tiên có thêm "người bạn đồng hành" là đạo cầu hồn nên đã phát triển hõn trước. Cầu hồn của phương Tây với cầu tiên của nước ta không khác nhau là bao nhiêu. Về nguyên tắc hai bên đều thừa nhận linh hồn bất tử, có thể giao tiếp với người sống, tiên "giáng bút" thì làm thõ, làm phú bằng chữ Hán. Cầu hồn kiểu Tây thì ai chấp bút cũng được, hồn nhập bút viết bằng chữ Pháp hay chữ Quốc ngữ.

Bài Dạ Trạch Tiên gia phú được ra đời trong hoàn cảnh Cầu tiên do các vị Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên... tổ chức. Loại trừ việc coi bài phú này của Chử Đồng Tử là điều khó có thể tin được, thì giá trị văn học của Dạ Trạch Tiên gia phú là điều dễ nhận thấy. Về hình thức cũng như nội dung, Dạ Trạch Tiên gia phú có vẻ tài hoa, thanh thoát tương tự như bài Thanh Tâm Tài Nhân phú được sáng tác trong Tao đàn Hưng Yên cũng vào nãm 1905 của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Do vậy, chúng tôi cho rằng việc công bố rộng rãi bài Dạ Trạch Tiên gia phú này, để bạn đọc tham khảo và thưởng thức là điều hết sức cần thiết và bổ ích.

N.M.T - T.Đ.Q

CHÚ THÍCH

(1) Nguyên chú: thủy trúng chính long.

(2) Nguyên chú: chữ nguyên chú nhỏ quá lại mờ chưa đọc được.

(3) Nguyên chú: lời này có ý rằng bậc quân chủ yêu quý người hiền tài.

(4) Nguyên chú: ta từ trên trời giáng xuống trần thế.

(5) Nguyên chú: lời này nói về đất nõi ta ẩn cư.

(6) Nguyên chú: ta cùng Chính phi Tiên Dung đều là tiên giáng thế, không cần Hoàng đế cho phép, vẫn kết hôn.

(7) Nguyên chú: Ta giáng sinh vào giờ Sửu (1-3 giờ sáng) năm Bính Ngọ, đời Hùng Vương thứ 19.

(8) Nguyên chú: bỉ xu giả tử: Đẹp sao người con gái kia. Câu này dẫn trong Kinh Thi lấy ý thơ chương Đại Minh.

(9) Xích Đằng: tên xã thuộc tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên), có đền thờ Phạm Bạch Hổ và Ðinh Ðiền.

(10) Bạch Xã: địa danh thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam của Trung Quốc. Theo sách Tấn thư - Ðổng Kinh truyện, thì Bạch Xã là nõi mà Ðổng Kinh đã từng trú ngụ. Theo sách Thủy kinh chú thì Bạch Xã là tên làng cũ ở phía Bắc của sông Dương Cừ chảy qua tỉnh Hà Nam. (Từ nguyên-Bộ Ngọ, tr.57).

(11) Nguyên chú: ta có phép thần có thể biến thành rồng rắn giáng thế.

(12) Xích Tùng - Cựu Lã: tức Xích Tùng Tử và Lã Động Tân là hai vị tiên trong số Bát tiên của Đạo giáo thần tiên Trung Quốc.

(13) Thần Nông: một trong Ngũ Đế trong thời Cổ sử Trung Quốc (Phục Hy - Thần Nông - Hoàng đế - Đế Nghiêu - Ðế Thuấn). Tương truyền, Thần Nông đã có công dạy dân biết trồng trọt, phân biệt ngũ cốc và chữa bệnh.

(14) Thương Hiệt: người đời cổ của Trung Quốc, được coi là có công sáng tạo ra chữ Hán.

(15) Bàn Cổ: một nhân vật thần thoại Trung Hoa.

(16) Chử giang: dòng sông Hồng chảy qua bãi Chử Xá, nõi Chử Đồng Tử sinh ra và kiếm sống rồi gặp Tiên Dung công chúa.

(17) Nguyên chú: Ta ngồi hóa giờ Dậu (7-8 giờ tối), ngày 20-9 nãm Giáp Tuất đời Hùng Vương thứ 20. Ta sống tại cõi trần 30 năm, lại trở về cõi tiên, vì thế cổ nhân bảo ta có thuốc trường sinh.

(18) Lại Công Trúc: truyện Khấu Chuẩn trong Tống sử chép: Khấu Chuẩn bị biếm đến Lôi Châu, chết ở đó. Người nhà đem ông về táng ở Tây Kinh. Ðường đi qua huyện Công An, phía Nam Kinh Châu, nhân dân thương ông đều đặt bàn thờ, khóc lóc tế ông bên đường. Họ còn bẻ trúc trồng hai bên đường... Sau này trúc khô đi nhưng sinh ra măng. Do đó ở Kinh Châu có loại trúc Lại Công. ( ừ nguyên - bộ Thân, tr.27).

(19) Phan Lệnh đào: chưa rõ ở điển nào.

(20) Thiệu Bá: tên thật là Thiệu Công Thích, con thứ của Chu Vãn Vương. Ông cùng với Chu Công Ðán là hai bề tôi có công lao cai trị đất nước thời Chu Võ Vương và Chu Thành Vương. Thiệu Công Thích vốn họ Cõ, nhưng vì được chia thái ấp ở đất Thiệu, nên xưng là Thiệu Bá. Thiệu Bá xử kiện công minh cho dân, người sau trồng cây cam đường để ghi nhớ! Kinh Thi có câu: Tế phế cam đường (Rườm rà cây cam đường).

(21) Dương Công: chưa rõ tác giả sử dụng điển nào.

(22) Nguyên chú: sử nước ngoài có nói chuyện gậy trúc, nón gồi, có lý nào như vậy! Thế mà con Hoàng đế giáng vân. Đến việc vây màn bên sông, đều do bọn dốt nát bịa ra, không thể tin cậy được ! Muốn hiểu thấu phải tự mình lý giải mà thôi !

(23) Nguyên chú: nói là phi linh, tức giáng linh, đây dùng lời của bậc đại nhân.

(24) Nguyên chú: chỗ này cũng nên xem xét cho rõ ràng./.

TB

SƠ LƯỢC VỀ 24 TIẾT KHÍ TRONG
ĐẠI NAM HIỆP KỶ LỊCH THỜI NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Trong kho thư tịch Hán Nôm của chúng ta có một mảng sách chiếm số lượng khá lớn, đó là những sách viết về Thiên văn học, lịch số, toán pháp; trong đó đã có số ít cuốn được dịch công bố dưới các góc độ khác nhau. Riêng sách viết về niên lịch đã được Ban Lịch nhà nước và các nhà nghiên cứu lịch pháp khai thác giới thiệu; tuy nhiên chưa có một công trình nào tập hợp, thống kê tài liệu thư tịch Hán Nôm viết về âm dương lịch Việt Nam một cách đầy đủ chi tiết. Bài viết này chỉ xin được giới thiệu sơ lược về 24 tiết khí trong cuốn lịch thông dụng dưới thời Nguyễn là Đại Nam hiệp kỷ lịch.

Về lịch sử lịch pháp nước ta, nhìn chung theo các nhà viết lịch cho rằng từ thời Lý trở về trước, nước ta dùng lịch của Trung Quốc. Có thể bắt đầu từ thời Trần ta mới làm lịch theo phép lịch Thụ Thời giống nhà Nguyên - Mông và đặt cơ quan khí tượng làm lịch là Ty Thiên văn (?). Đến cuối thời Trần thì lại đổi tên gọi lịch pháp Thụ Thời làm Hiệp kỷ lịch. Sang thời Lê chúng ta dùng lịch theo phép lịch Đại Thống nhà Minh Trung Quốc. Song chúng ta hiện nay chưa tìm được những cuốn lịch nào có từ thời Lê trở về trước, do đó tài liệu thư tịch viết về lịch pháp thời Nguyễn nhất là những cuốn như Đại Nam hiệp kỷ lịch là những tài liệu có tính chất quan phương. Triều Nguyễn ngay từ năm Gia Long thứ 12 (1813) tham khảo lịch pháp Trung Quốc và các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó, triều đình đã ban hành lịch mới với tên gọi Hiệp kỷ lịch. Tiếp nối đến đời Minh Mệnh đổi tên nước là Đại Nam, nhưng đến mấy chục năm sau mới đặt gọi là Đại Nam hiệp kỷ lịch và duy trì đến hết triều Nguyễn. Đầu thời Nguyễn còn một bộ lịch khác ra đời gọi là Khâm định vạn niên thư, cùng với Hiệp kỷ lịch là hai bộ lịch ban hành dùng với tính chất pháp định do Tòa Khâm Thiên giám thực hiện. Sau hai bộ lịch trên triều Nguyễn còn lưu hành các bộ khác cũng viết về lịch nhưng thiên về chọn ngày giờ và đan xen thêm phần mục khác với phép trạch cát, chiêm đoán v.v. Đó là các sách Ngọc hạp thông thư, Ngọc hạp toản yếu, Hiệp kỷ biện phương, Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp ký v.v.

Đại Nam hiệp kỷ lịch là tên của bộ lịch ở thời Nguyễn như chúng tôi đã nói, hàng năm triều đình thường làm một cuốn lịch để ban hành cho khắp trong kinh, ngoài tỉnh. Mỗi cuốn lịch được ban hành có tên gọi cụ thể, ví dụ ở đời Thành Thái thứ 2 (1890) là Đại Nam Thành Thái nhị niên tuế thứ Canh Dần hiệp kỷ lịch (大 南 成 泰 二 年 歲 次 庚 寅 協 紀曆). Hoặc ở đời Khải Định thứ 3 (1918) là Đại Nam Khải Định tam niên tuế thứ Mậu Ngọ hiệp kỷ lịch 大 南 啟 定 三 年 歲 次 戊 午 協 紀 曆 . Đây là những bản in do tòa Khâm Thiên giám chịu trách nhiệm thi hành. Khâm thiên giám là cơ quan dự đoán khí tượng thủy văn, khí hậu, có nhiệm vụ dự báo thời tiết, làm lịch âm dương ban hành toàn quốc, quản lý tài liệu thư tịch về thiên văn, lịch pháp; chọn ngày giờ tốt để Hoàng đế và triều thần thực hiện những việc quan trọng như tế lễ, xuất quân, tuần thú, kiếm tạo v.v. Quan chức ở Khâm thiên giám chịu trách nhiệm quản lý chính thường do một đại thần kiêm quản. Trưởng quan trông nom túc trực thường xuyên ở Khâm thiên giám là chức [Khâm thiên] Giám chính (監 正) hàm Chánh ngũ phẩm, Phó có chức Giám phó (監 副) hàm Tòng ngũ phẩm. Chánh phó ở đây thường đặt mỗi chức một người. Chức dưới nữa gọi là Ngũ quan chính (五 官 正 ) hàm Chánh lục phẩm. Dưới nữa là chức Linh đài lang (靈 臺 郎) thường đặt 2 vị. Thuộc viên ở Khâm thiên giám là các viên thư lại cũng có phẩm hàm bát hoặc cửu phẩm. ở mỗi cuốn lịch hàng năm tên tuổi, chức vụ, phẩm hàm của vị đại thần kiêm quản cùng những người ở Khâm thiên giám trực tiếp làm cuốn lịch đó đều được ghi bằng chữ lớn rõ ràng tách riêng ra trang riêng biệt. Đó chính là các tác giả của cuốn lịch ban hành và chắc chắn phải chịu trách nhiệm về việc biên soạn và ấn hành cuốn lịch đó.

Nội dung quyển lịch ghi 12 tháng đặt theo hệ can chi có ghi cả tháng đủ tháng thiếu, tháng đủ ghi là đại (大), tháng thiếu ghi là tiểu (小). Phần đầu thường ghi 24 tiết khí trong một năm với thời khắc khá chi tiết. Phương vị niên thần ghi tóm lược gọn trong một tờ biểu đồ. ở mỗi tháng tính từ tháng giêng (chính nguyệt) đến tháng 12 ghi khá kỹ các Trực, Nhị thập bát tú và các sao tốt xấu trong các cột nghi (宜) hoặc bất ghi (不 宜).

Xin nói về 24 tiết khí trong lịch đi liền từ tháng giêng đến tháng 12 bắt đầu từ tiết Lập xuân (立 春). 23 tiết tiếp theo là Vũ thủy (雨 水), Kinh trập 驚 螫 , Xuân phân 春 分 , Thanh minh 清 明 , Cốc vũ 穀 雨 , Lập hạ 立 夏 , Tiểu mãn 小 滿 , Mang chủng 芒 種 , Hạ chí 夏 至, Tiểu thử 小 暑 , Đại thử 大 暑 , Lập thu 立 秋 , Xử thử 處 暑 , Bạch lộ 白 露 , Thu phân 秋 分 , Hàn lộ 寒 露 , Sương giáng 霜 降, Lập đông 立 冬, Tiểu tuyết 小 雪 , Đại tuyết 大 雪 , Đông chí 冬 至 , Tiểu hàn 小 寒 , Đại hàn 大 寒 .

Có lẽ trong dân gian không ít người coi 24 tiết khí xuất phát từ âm lịch Á Đông dùng cho các nước nông nghiệp. Thực ra 24 tiết khí lại được tính toán phân chia theo dương lịch. Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta phải sơ lược tìm hiểu vòng quay của trái đất quanh mặt trời và sự chuyển vận tuần hoàn của các thiên thể trong vũ trụ, các điểm mốc của thời gian đi liền với các tiết khí. Từ phương Tây đến phương Đông ngay từ cổ xưa đã có sự đồng nhất tương đối về thiên văn học. Theo sự nghiên cứu tính toán của các nhà thiên văn học thì trái đất của chúng ta nằm trong hệ Thái dương. Thái dương hệ gồm mặt trời, trái đất, sao Kim, sao Mộc, sao Thủy, sao Hỏa, sao Thổ, sao Thiên vương, sao Hải vương, sao Diêm vương và nhiều vệ tinh gồm cả mặt trăng bao quanh các thiên thể.(1) Trong đó quả đất quay xung quanh mặt trời một vòng tính được là hơn 365 ngày. Quả đất có đường xích đạo bao quanh để phân chia Bắc bán cầu và Nam bán cầu mà các nhà khoa học đã ước tính được là 12.757km. Cổ xưa con người không tính được sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời nên đã tính ngược lại coi mặt trời chuyển động quanh trái đất và đặt tên cho đường đi của mặt trời là đường Hoàng đạo. Cho đến ngày nay người ta vẫn nói đến đường Hoàng đạo và gọi là đường chuyển động của mặt trời trên quỹ đạo biểu kiến.

Trong thiên văn học cổ xưa để tiện quan sát vũ trụ với sự chuyển dịch của các thiên thể ở Thái dương hệ, người ta đã phân đường Hoàng đạo làm 12 cung đều nhau, mỗi cung 30o. Tổng là 360o một vòng Hoàng đạo, tức là một vòng quả đất quay quanh mặt trời. Chu kỳ đó được gọi là một năm, được chia làm 12 tháng tương ứng với 12 cung Hoàng đạo. Đồng thời ở mỗi cung Hoàng đạo người ta lại ứng hợp với một chòm sao riêng biệt xếp theo thứ tự số 1 từ cung Hoàng đạo 0o-30o, lần lượt đến cung số 12 là cung 330o-360o. Điểm này cả Đông và Tây phương đều có sự thống nhất, nhưng về cách đặt tên sắp xếp thì có sự khác nhau. 12 chòm sao phương Tây thời cổ xếp theo thứ tự ứng với 12 cung Hoàng đạo đọc theo âm Hán là: Hùng Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình, Thiên Yết, Nhân Mã, Sơn Dương, Bảo Bình, Song Ngư. Đó là những quy ước trực quan gắn với sinh vật hay tĩnh vật của người phương Tây cổ.

Ở phương Đông sự tương ứng của 12 cung Hoàng đạo với các chòm sao người ta gọi là 12 tinh thứ được xếp theo thứ tự hệ can chi. Các chòm sao tương ứng cũng được chia làm 12 cung và người ta đã lấy 28 chòm sao (Nhị thập bát tú) là những chòm sao lớn trên bầu trời để gắn kết ứng hợp. Bắt đầu từ 00-300 là Tinh thứ Giáng Lâu gọi là cung Tuất ứng với các chòm Bích, Khuê, Lâu. Lần lượt tiếp theo cho đến cung thứ 12 (3300-3600) là các Tinh thứ Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, Tinh Kỷ, Huyền Hiêu và Tu Tư. Mỗi một Tinh thứ là một cung 300 ứng với các chòm sao tiếp trong Nhị thập bát tú là: Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất. Sự tương ứng của các sao này không phân chia đều nhau, thứ tự xếp theo hệ can chi tiếp cung Tuất theo chiều nghịch là các cung Dậu, Thân, Mùi, Ngọ, Tị, Thìn, Mão, Dần, Sửu, Tý, Hợi. Về Nhị thập bát tú, hệ can chi và các sao cát, hung trong Lịch pháp chúng tôi xin được trình bày vào một dịp khác. ở đây chúng ta trở lại với 12 cung Hoàng đạo và 24 Tiết khí đã nói ở trên.

Chu kỳ vòng Hoàng đạo hay vòng quay của Trái đất quanh mặt trời được gọi là một năm dựa trên cơ sở phát hiện chu kỳ ngày-đêm (trái đất tự quay quanh mình) và chu kỳ tháng (mặt trăng quay quanh trái đất) của con người cổ xưa. Đó là những mốc thời gian đơn sơ nhất mà từ đó cổ nhân tiếp tục quan sát vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên, chu kỳ thời tiết, dùng những dụng cụ thô sơ nhất để biết thêm và đánh dấu được những điểm mốc thời gian khác. Đó là chu kỳ 4 mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông được phân đều trong một năm 12 tháng và được đánh dấu bằng các tiết khí khác nhau theo 12 cung Hoàng đạo. Chu kỳ của một năm thời tiết này cổ nhân còn gọi là năm Hồi quy. Căn cứ vào đó người ta đã làm ra lịch Tiết khí lấy điểm mốc thời gian là 4 mùa và chia đều một năm thành 24 phần rồi đặt tên cho mỗi phần. Đấy chính là 24 tiết khí mà thời cổ gọi là khí được phân đều tương ứng với 12 cung Hoàng đạo. Mỗi một cung Hoàng đạo ứng với 2 tiết khí trong thời gian là 1 tháng và lại được chia thành 2 khí, khí đầu gọi là Tiết khí, khí sau gọi là Trung khí.

Trong khai quật khảo cổ học và tài liệu thư tịch cổ Trung Quốc như sách Lã Thị xuân thu cuối thời Chiến quốc đã thấy ghi chép về 24 Tiết khí, trong đó đầu tiên là 8 tiết Lập xuân, Xuân phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập thu, Thu phân, Lập đông, Đông chí được nói tới là những tiết chính quan trọng. Đó là những điểm đánh dấu sự chuyển dịch rõ rệt của mùa và phân định 4 mùa thời tiết của một năm. 8 tiết chính này được phân đều trong cả 2 phần Trung khí Tiết khí, trong đó 4 tiết Lập xuân, Lập hạ, Lập thu, Lập đông thuộc 12 Tiết khí là những tiết đầu của 4 mùa. Còn lại 4 tiết Xuân phân, Hạ chí, Thu phân Đông chí thuộc 12 Trung khí là các tiết giữa mùa.

Như vậy 12 Tiết khí tính từ tiết Lập Xuân được gọi là: Lập xuân, Kinh trập, Thanh minh, Lập hạ, Mang chủng, Tiểu thử, Lập thu, Bạch lộ, Hàn lộ, Lập đông, Đại tuyết, Tiểu hàn. Còn 12 Trung khí tính từ tiết Vũ thủy là: Vũ thủy, Xuân phân, Cốc vũ, Tiểu mãn, Hạ chí, Đại thử, Xử thử, Thu phân, Sương giáng, Tiểu tuyết, Đông chí Đại hàn.

Trở lại vòng quay của trái đất tức một năm Hồi quy hay đường Hoàng đạo là 360o. Các nhà Thiên văn học, lịch pháp đã thống nhất lấy mốc 00 của vòng Hoàng đạo là điểm đánh dấu bằng tiết Xuân phân; lấy mốc 180o là điểm đánh dấu bằng tiết Thu phân. Đây là hai mốc tiết khí có thời gian ngày và đêm dài bằng nhau. Sự di chuyển cung Hoàng đạo đến mốc 900 là điểm đánh dấu bằng tiết Hạ chí, đó là điểm cực bắc trên bán cầu. Sự di chuyển đến mốc 270o là điểm đánh dấu bằng tiết Đông chí, đó là điểm cực Nam trên bán cầu.

Như vậy chúng ta đã thấy rõ thời gian chuyển dịch của một tiết khí được tính bằng 15o trên cung Hoàng đạo và sự tuần hoàn của 24 tiết khí rất ứng hợp với 12 cung Hoàng đạo. Bắt đầu từ 0o lần lượt ta sẽ có các tiết khí Xuân phân (0o-15o), Thanh minh (15o-30o), Cốc vũ (30o-45o), Lập hạ (45o-60o), Tiểu mãn (60o-75o), Mang chủng (75o-90o), Hạ chí (90o-105o), Tiểu thử (105o-120o), Đại thử (120o-135o), Lập thu (135o-150o), Xử thử (150o-165o), Bạch lộ (165o-180o), Thu phân (180o-195o), Hàn lộ (195o-210o), Sương giáng (210o-225o), Lập đông (225o-240o), Tiểu tuyết (240o-255o), Đại tuyết (255o-270o), Đông chí (270o-285o), Tiểu hàn (285o-300o), Đại hàn (300o - 315o), Lập xuân (315o-330o), Vũ thủy (330o-345o), Kinh trập (345o-360o). Đối chiếu cung độ của 24 tiết khí ta thấy rất khớp với cung độ của Nhị thập bát tú và tinh thứ gắn với 12 cung Hoàng đạo đã nói ở trên. Đó là sự khẳng định 24 tiết khí có nguồn gốc từ dương lịch tính theo hệ mặt trời.

24 tiết khí trên mặc dù có nguồn gốc từ Dương lịch, song do phản ánh chính xác chu kỳ chuyển dịch của thời tiết nên nó đã trở thành lịch pháp áp dụng cho nông nghiệp. Đối với các nước nông nghiệp người ta lấy tiết Lập xuân làm tiết khí đầu tiên của 24 tiết khí gắn với nông lịch hàng năm.

Ở các nước như khu vực châu Á việc tính và hiểu các tiết khí theo khí hậu của mỗi nước ở một số tiết cũng có sự khác nhau. Đối chiếu nghĩa 16 tiết khí (ngoài 8 tiết chính) của Trung Quốc và Việt Nam dưới đây ta thấy rõ sự khác biệt đó. Ở Trung Quốc nếu tính từ sau tiết Lập xuân sẽ là Vũ thủy (mưa nước), Kinh trập (sâu tỉnh dậy), Thanh minh (trong sáng), Cốc vũ (mưa lúc tốt), Tiểu mãn (lúa kết hạt), Mang chủng (lúa nẩy râu), Tiểu thử (nắng nhẹ), Đại thử (nắng gắt), Xử thử (nắng muộn), Bạch lộ (móc trắng), Hàn lộ (móc lạnh), Sương giáng (sương sa), Tiểu tuyết (tuyết nhẹ), Đại tuyết (tuyết lớn). Ở Việt Nam tương ứng là các tiết Vũ thủy (ẩm ướt), Kinh trập (sâu nở), Thanh minh (trong sáng), Cốc vũ (mưa rào), Tiểu mãn (duổi vàng), Mang chủng (tua rua), Tiểu thử (nắng oi), Đại thử (nóng nực), Xử thử (mưa ngâu), Bạch lộ (nắng nhạt), Hàn lộ (mát mẻ), Sương giáng (sương sa), Tiểu tuyết (hanh heo), Đại tuyết (khô úa). Tiết Bạch lộ ở Trung Quốc gọi khi thời tiết chuyển lạnh, hơi nước kết thành sương trên mặt đất thì ở Việt Nam được coi là thời kỳ nắng nhạt. Tiết Tiểu tuyết Đại tuyết ở Trung Quốc có khí hậu giá lạnh tuyết rơi thì ở Việt Nam thời tiết lúc đó được coi là hanh heo và khô úa. Đó là do vòng quanh mặt trời chuyển động biểu kiến với vận tốc không đều cho nên các tháng tiết khí ở mỗi cung Hoàng đạo có độ dài không bằng nhau, chu kỳ khí hậu ở mỗi khu vực cũng khác nhau nên mới có sự dị biệt về một số tiết khí như đã nêu ở trên.

Trong lịch pháp 24 tiết khí bao giờ cũng được ghi đầu tiên đặt vào phần chính trang nhất. Các tiết khí được gắn liền với ngày, tháng, giờ, khắc quy ước ghi theo hệ can chi.

Đại Nam hiệp kỷ lịch thời Nguyễn ta thấy việc ghi chép 24 tiết khí rất rõ ràng chi tiết đến phân (分), khắc (刻) các giờ, ngày, tháng có tiết khí. Như ở Đại Nam hiệp kỷ lịch đời Khải Định thứ 3 năm Mậu Ngọ (1918) trang đầu ghi thời khắc tiết khí ở Phủ Thừa Thiên kinh đô nhà Nguyễn. Tháng giêng đủ (正 月 大) ngày 9 Đinh Dậu vào giữa giờ Dậu(2), khắc đầu(3), bẩy phân(4) là tiết Vũ thủy 雨 水. 22 Tiết khí tiếp theo lần lượt nằm vào cuối tháng giêng và 11 tháng còn lại. Như vậy các tiết Vũ thủy Kinh trập vào ngày 9 và 24 tháng giêng; Xuân phân Thanh minh vào ngày 9 và 24 tháng 2; Cốc vũ Lập hạ vào ngày 11 và 26 tháng 3; Tiểu mãn Mang chủng vào ngày 13 và 28 tháng 4; Hạ chí vào ngày 14 tháng 5, Tiểu thử Đại thử vào ngày 4 và 17 tháng 6; Lập thu Xử thử vào ngày 2 và 18 tháng 7; Bạch lộ Thu phân vào ngày 4 và 20 tháng 8, Hàn lộ Sương giáng vào ngày 5 và 20 tháng 9; Lập đông Tiểu tuyết vào ngày 5 và 20 tháng 10; Đại tuyết Đông chí vào ngày 6 và 21 tháng 11; Tiểu hàn Đại hàn vào ngày 5 và 20 tháng 12.

Nếu lập biểu bảng ta sẽ thấy các tiết khí có số ngày không đều nhau, mỗi tiết khí là 15 hoặc 16 ngày. Thường mỗi tháng có 2 tiết khí, riêng tháng 5 trong năm Mậu Ngọ (1918) này có 1 tiết khí là Hạ chí rơi vào ngày 14 do sự dung sai chuyển dịch của những tiết khí trên theo tháng đủ tháng thiếu. Điểm đáng chú ý nữa là ta sẽ thấy ở đây chỉ có 23 tiết khí và thiếu một tiết đầu tiên là Lập xuân. Xem xét kỹ phần chữ nhỏ ở trang 13 trong cuốn lịch này chúng tôi thấy ghi rõ tiết Lập xuân đã rơi vào giữa giờ Hợi ngày Nhâm Ngọ tức ngày 23 tháng 12 của năm trước là năm Đinh Tỵ. Như vậy ta đã thấy tiết Lập xuân có thể diễn ra vào trước hoặc sau tết Nguyên đán hàng năm ở nước ta. Tính theo chu kỳ chuyển vận của các tiết khí thì tiết Lập xuân chỉ có thể rơi vào sau ngày 15 tháng 12 (tháng chạp) của năm trước, hoặc rơi vào trước ngày 15 tháng giêng của năm mới. Đồng thời tài liệu Đại Nam hiệp kỷ lịch này cũng đã chỉ ra rằng một năm âm dương lịch của ta sẽ ghi đủ 24 tiết khí hoặc chỉ ghi 23 tiết khí vì một phần của tiết khí đó (tiết Lập xuân) đã rơi vào cuối năm trước.

Điểm cuối cùng tôi muốn nói ở bài viết này là sự không giống nhau của giờ khắc và phân ở mỗi tiết khí của mỗi địa phương khác nhau trên cùng một lãnh thổ Việt Nam trong cuốn lịch nêu trên. Mặc dù mỗi Tiết khí diễn ra trong cùng một ngày, cùng một giờ, song trong một giờ đó có sự chênh lệch ở đầu giờ hay giữa giờ, còn các khắc và phân cũng có sự khác biệt. Như tiết Vũ thủy diễn ra vào ngày 9 tháng giêng trên toàn quốc. Ở Kinh đô Huế nó rơi vào giữa giờ Dậu khắc đầu phân thứ 7 Thì ở các tỉnh Hà Tiên, Thái Nguyên và Tuyên Quang tiết Vũ thủy rơi vào đầu giờ Dậu 3 khắc 12 phân. Còn ở Nghệ An, Thanh Hóa và Hà Nội nó lại rơi vào khắc đầu tiên giữa giờ Dậu. Trong khi đó ở các tỉnh An Giang và Sơn Tây Vũ thủy rơi vào đầu giờ Dậu 3 khắc 14 phân.

Đối chiếu tiếp tiết Hạ chí diễn ra vào ngày Canh Tý tức ngày 14 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1918) giữa các tỉnh. ở Kinh đô Huế Hạ chí rơi vào đầu giờ Mùi 2 khắc 13 phân, thì ở các tỉnh Định Tường, Quảng An và Lạng Sơn nó rơi vào đầu giờ Mùi 1 khắc 10 phân. Đồng thời ở Khánh Hòa và Bình Định Hạ chí lại rơi vào đầu giờ Mùi 3 khắc 4 phân.

Như vậy, sự diễn ra của các tiết khí còn lại trên khắp các địa phương và khu vực ở Việt Nam đều có sự chênh lệch về phân, khắc và cả giờ trong cùng một giờ. Tuy nhiên sự kiện này không phải 30 tỉnh và phủ Thừa thiên cuối thời Nguyễn đều hoàn toàn khác nhau. ở đây Khâm thiên giám đã thống kê và ghép các tỉnh có tiết khí giống nhau hoàn toàn đến tận thời gian phân và in vào sách phân định theo đường kẻ ngang. Ta tạm gọi đó là khu vực, mỗi khu vực có 2, 3 hoặc 4 tỉnh mặc dù tỉnh cách rất xa nhau trong cùng một khu vực. Đấy là các khu vực Hà Tĩnh, Thái Nguyên và Tuyên Quang; An Giang và Sơn Tây; Nghệ An, Thanh Hóa và Hà Nội; Hà Tĩnh và Ninh Bình; Bắc Ninh và Hưng Yên; Nam Định, Cao Bằng, Hải Dương và Vĩnh Long; Định Tường, Quảng Yên và Lạng Sơn; Biên Hòa và Gia Định; Khánh Hòa và Bình Định. Riêng Thừa Thiên Huế và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Bình Thuận và Quảng Ngãi đứng riêng mỗi tỉnh một khu vực về tiết khí. Lịch tiết khí còn tính đến cả vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc và ghép với tỉnh Hưng Hóa là một khu vực. Ngoài ra khu dân tộc thiểu số Hỏa Xá, Thủy Xá được ghép với tỉnh Phú Yên cũng thấy ghi trong lịch.(5)

Điểm đặc biệt về chữ in 24 tiết khí trong bộ lịch này là nhà Nguyễn đã in kiêng húy chữ Chủng 種 (trong Mang chủng) thành chữ Thực 植 nên đọc là Mang thực. Đó là do lệ kiêng húy chữ Chủng - tên của của Gia Long - Nguyễn Ánh. Lúc nhỏ Nguyễn Phúc Ánh có tên là Chủng Noãn 暖 nên hai chữ này sau được nhà Nguyễn kiêng húy không dùng.

24 tiết khí trong lịch pháp cổ truyền dân tộc giới thiệu sơ lược trong một bài viết này chắc chắn vẫn chưa thể đầy đủ, chưa phản ánh hết được ý nghĩa khoa học với lẽ huyền diệu trong quy luật tự nhiên mà cổ nhân đã chiêm nghiệm và ghi lại.

N.C.V

CHÚ THÍCH

(1) Theo các nhà nghiên cứu lịch ngoài 5 hành tinh gọi là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được phát hiện từ mấy nghìn năm trước. Ba hành tinh còn lại được các nhà Thiên văn học châu Âu tìm thấy vào những thế kỷ gần đây: sao Thiên Vương năm 1781, sao Hải Vương năm 1846 và sao Diêm Vương năm 1930.

(2) Thời gian 1 ngày tính theo giờ cũ hệ can chi chia làm 12 giờ. Bắt đầu từ 0 giờ gọi là giờ Tý (11h đến 1h khuya) đến giờ Hợi (9h đến 11h đêm). Đầu giờ thường ghi là Sơ, giữa giờ ghi là Chính.

(3) Một khắc tương đương 15 phân. Khắc đầu tiên trong 1 giờ thường gọi là Sơ khắc. Đo thời khắc xưa kia người ta dùng 1 cái bình đựng nước có lỗ nhỏ, trên có khắc từng độ, tính giọt nước rỉ ra ngay từng độ khắc để tính thời gian.

(4) 1 phân tương đương với 1 phút.

(5) Hỏa xá, Thủy xá: tên hai dân tộc ít người ở miền Thượng du phía Tây nam Trung kỳ, thường thấy ghi trong sách sử thời Nguyễn.

TB

"LA NỘI Y LA NHỊ XÃ LƯU TRUYỀN KHU HỔ LANG TÍCH" VÀ THỰC CHẤT VỀ HỘI "GIÃ LA"

BÙI XUÂN ĐÍNH

Làng La Cả nằm ven thị xã Hà Đông, vốn là một làng cổ, làng lớn. Cuối thế kỷ XVI đã chia thành hai làng (cũng là hai xã) La Nội và Ỷ La. Điều này có thể nhận biết được qua tấm bia Hoa Nghiêm tự bi lập ngày 20 tháng năm, năm Sùng Khang thứ 10 đời Mạc Mậu Hợp (1575) hiện còn lưu tại tiền đường chùa Hoa Nghiêm (dân làng gọi là chùa Cả). Bia này đã được Đinh Khắc Thuân giới thiệu trong cuốn Văn bia thời Mạc(1).

Từ một làng La lớn đến đầu thế kỷ XVI, La Cả chia thành hai làng La nhỏ (La Nội và Ỷ La), nằm trong hệ thống “bảy làng La, ba làng Mỗ”(2) ở ven thị xã Hà Đông. Cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, hai làng này cũng là hai xã thuộc tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) huyện Từ Liêm thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội). Hiện nay, hai làng trở thành hai thôn thuộc xã Dương Nội, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Mặc dù chia thành hai làng (cũng là hai xã) với Hội đồng kỳ mục và bộ máy chức dịch riêng, nhưng từ xưa đến nay, cả hai cụm dân cư vẫn là một khối thống nhất: vẫn chung đình, chùa, hương ước, thờ chung Thành hoàng và cùng tổ chức hội lệ hay lễ hội hàng năm. Hội làng La Cả là một trong ba hội lớn, nổi tiếng có nét độc đáo ở Xứ Đoài trước đây, đã đi vào ca dao:

Bơi Đăm, rước Giá, hội Thày,

Vui thì vui vậy, chẳng tày Giã La.

Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong dân gian, thậm chí cả trong một số nhà nghiên cứu đã có những kiến giải khác nhau về bản chất của hội qua câu “Vui thì vui vậy, chẳng tày Giã La”, thậm chí một số nhà nghiên cứu đã giải thích là “rã La”, tức đêm rã đám làng La có tục tắt đèn để đàn ông, đàn bà được nghịch ngợm với nhau, từ đó cho rằng, đấy là biểu hiện của yếu tố phồn thực trong hội làng hay hội làng La là “hội phồn thực”(3).

Có nhiều dịp về làng La Cả nghiên cứu, tôi đã cố gắng thu thập các nguồn tư liệu để “giải mã” nội dung, bản chất của vế sau trong câu ca dao trên. Một trong những tài liệu Hán Nôm còn lưu tại đình có thể được coi là “chìa khóa” để lý giải vấn đề là bản “La Nội - Ỷ La nhị xã lưu truyền khu hổ lang tích” (tích đánh hổ lưu truyền của hai xã La Nội và Ỷ La). Đây là nội dung của lễ thức “đánh bệt” trong buổi giã hội vào đêm ngày 14 tháng giêng hàng năm.

Văn bản viết trên giấy bản, khổ 22x15cm, gồm 4 tờ, mỗi tờ có 42 dòng, mỗi dòng bình quân có 5 chữ, phần lớn là chữ Nôm, có xen chữ Hán. Văn bản được lập ngày mồng 3 tháng giêng năm Long Đức thứ 3 (1734), sao lại vào năm Thành Thái thứ 6 (1894). Dưới đây, xin dịch toàn bộ nội dung văn bản này.

(Để tiện theo dõi, xin có một số quy định sau:

- Các hàng chữ đậm là trình tự từng màn diễn.

- Các hàng chữ để trong dấu móc [ ] là thể thức trình diễn trong từng màn.

- Chữ in nghiờng là lời xướng trong màn diễn).

TÍCH ĐÁNH HỔ LƯU TRUYỀN CỦA HAI XÃ LA NỘI - Ỷ LA

Ngày mồng 3 tháng giêng năm Long Đức thứ 3 (1734), viết lại sự tích lưu truyền.

Kể:

[Lần đầu hát chúc thánh]. Múa lọ(4).

Màn thứ nhất:

[Nam có một người xướng,

Nữ có một người xướng,

Múa Tiến lộc,

Múa Côn].

Màn thứ hai:

[Bên chú(5) dùng tiếng gà gáy, chó sủa đi săn và xướng rằng]:

Hỡi đồ chúng ta, đi săn điền liệp(6) đón đường,

Rước lấy Thánh giá hoàn cung,

Rước lấy quan cao lộc vị,

Về cho hai Chạ(7).

[Cả đoàn đi săn diễu xung quanh đình rồi trở về trong đình].

Bên nữ hỏi rằng:

Bệt chú đi thăm(8) đến đâu, có thấy chi chăng?.

Đáp rằng:

Bệt chú đi thăm đến mả Chiền Quan(9), nào thấy gì đâu,

Thấy một cái chim, là cái chim chích,

Thấy một cái chích là cái chích chim,

Rước lấy quan cao lộc vị, về cho hai chạ,

Ả(10) đường xa ra về ! Ả đường xa ra về !.

[Tiếp đó bên cháu lại dùng tiếng gà gáy, chó sủa, diễn lại cảnh đi săn xung quanh đình và trở lại trong đình].

Bên nữ hỏi rằng:

Bệt cháu đi thăm đến đâu, có thấy chichăng ?

Đối rằng:

Bệt cháu đi thăm đến mả Chiền Quan,

Nào thấy gì đâu,

Thấy một cái ốc, là cái ốc biêu,

Thấy một cái biêu, là cái biêu ốc,

Rước lấy quan cao lộc vị, về cho hai chạ,

Ả đường xa ra về ! Ả đường xa ra về !.

[Tiếp theo, bên chàng tái hiện cảnh đi săn như trước].

Bên nam hỏi rằng:

Bệt chàng đi thăm đến đâu, có thấy chi chăng ?

Đáp rằng:

Bệt chàng đi thăm đến mả Chiền Quan,

Nào thấy gì đâu,

Thấy một cái hổ lang vàng mép,

Nó làm ủ ê phiền não,

Nó làm tằm ủ, rượu chua(11),

Chốc này(12) dùng sức, bắt lấy cho được, cái hổ lang vàng mép,

Rước lấy quan cao lộc vị, về cho hai chạ,

Ả đường xa ra về ! Ả đường xa ra về !.

Màn thứ ba: đánh hổ lang, xướng rằng:

Hỡi là trai ta, cuộc săn chốc này,

Trai thì cho mạnh, khí giới cho bền,

Lưới vây ống nỏ,

Bắt lấy cho được, cái hổ lang vàng mép,

Đem về lột da nó, lót ngai cho Đức Vua ngự,

Lấy nanh nó, làm cán đao cho Đức Vua cầm,

Lấy thịt nó, làm canh cho Đức Vua ăn,

Lấy xương nó, làm am sơn kiệu cho Đức Vua ngự,

Rước lấy quan cao lộc vị, về cho hai Chạ.

Màn thứ tư: thể hiện sức mạnh đánh hổ lang

Xướng :

- Bệt chú đánh nhất cấp,

- Bệt cháu đánh nhất cấp,

- Bệt chàng đánh nhất cấp.

Màn thứ năm (xướng): Múa Hà rông(13), phá sắc tam cấp, phá tạp tam cấp.

Màn thứ sáu (xướng): Múa vông, tống hổ lang xuất ngoại, nghênh thánh giá hoàn cung [Lễ kết thúc](14).

Toàn bộ lễ thức “đánh bệt” trên đây được dựa trên nền của sự tích dân làng La Cả theo Thành hoàng là Đương Cảnh Công diệt hổ ác cứu dân. Sự tích này được ghi lại trong bản thần phả được sao lại vào ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8), năm Thành Thái thứ 6 (1894) trên cơ sở các văn bản của Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính và Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền. Theo đó, Đương Cảnh Công là con bà Trần Thị Châu - người phụ nữ làm nghề nhuộm thâm ở làng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, đạo Hải Dương, lên Đại La trang, Kỳ La khu (tức làng La Cả) thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây. Đương Cảnh Công sinh ngày mồng 10 tháng giêng năm Giáp Dần (?), thiên tư đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô. Ngày tháng trôi qua, Đương Cảnh Công mỗi ngày một khôn lớn; lên động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây học Tản Viên Sơn Thánh, được Tản Viên yêu mến truyền cho đủ các phép. Sau Đương Cảnh Công kết duyên cùng hai bà tiên nữ vốn là con gái động chủ Ma Thị.

Một năm nọ, cả một vùng rộng lớn từ chân núi Tản Viên xuống đồng bằng đang yên lành thì bị hàng đàn hổ dữ về hoành hành, gây nhiều thiệt hại về người và của. Vua Hùng Duệ Vương cho sứ giả đi các nơi tìm người tài giỏi ra diệt hổ ác cứu dân. Đương Cảnh Công liền lên Kinh đô tại Việt Trì xin Vua cho thống lĩnh 5000 quân đi diệt hổ. Ông đã tổ chức cho dân các làng đặt bẫy giết hổ. Sau một thời gian, từng đàn hổ ác lần lượt bị tiêu diệt, chỉ còn con "hổ lang vàng mép" là chúa sơn lâm trốn trong rừng sâu. Trước khi trở vào rừng diệt hổ ác, Đương Cảnh Công về trang Đại La sửa sang ngôi miếu ở đó làm lễ rồi chọn 100 trai tráng của làng làm lính đi theo để diệt hổ. Dân làng góp lưới, bẫy cho Đương Cảnh Công. Sau buổi tiệc chiêu đãi quân sĩ và dân làng, Đương Cảnh Công cất quân thẳng vào sào huyệt hổ lang, có hai bà vợ vốn là con gái Động chủ Ma Thị thông thạo các lối trong rừng dẫn đường. Cuối cùng, con hổ lang vàng mép - chúa sơn lâm bị sa bẫy. Đương Cảnh Công ra lệnh giết hổ để cung biếu nhà vua và khao quân sĩ, da để lót ngai, nanh làm cán đao, còn xương thì đem về chôn tại một gò đống gần làng làng La Cả gọi là “Đống Hùm”. Hổ dữ bị diệt, đất nước trở lại thanh bình. Đương Cảnh Công được phong thực ấp tại huyện Từ Liêm. Ông lập dinh tại trang Đại La, mở tiệc mời dân trang đến dự. Tiệc đang vui thì Đương Cảnh Công và hai bà vợ theo đám mây bay về trời. Dân trang thương tiếc, làm tấu biểu lên nhà vua. Vua phong sắc cho thần là “Đô đốc linh ứng đại vương”, lệnh cho hai thôn La Nội, Ỷ La được phụng thờ mãi mãi tại đình và quán. Đình và quán La Cả đã được công nhận là Di tích Lịch sử văn hóa, theo Quyết định 13/2000 QĐ/BVHTT, ngày 28-7-2000. Trước đây đình còn lưu giữ 22 đạo sắc của các triều vua phong cho Đương Cảnh Công(15). Hàng năm, để tưởng nhớ công lao diệt hổ ác cứu dân của Đương Cảnh Công, dân làng mở hội từ mồng 7 đến 14 tháng giêng. Hội này có hai đặc điểm nổi bật khiến dân gian hiểu lầm:

- Một là, có bốn lần rước (từ đình về quán và ngược lại) đều diễn ra vào ban đêm, mỗi khi chuyển ngai của Đương Cảnh Công và ngai của hai bà vợ từ ban thờ xuống kiệu (và ngược lại) đều phải tắt hết đèn đóm.

- Hai là, vào đêm 14 tháng giêng có tục “đánh bệt” (với các lễ thức như văn bản trên đây đã phản ánh) ở trong đình, diễn lại cảnh dân làng theo Đương Cảnh Công diệt hổ ác. Trong phần lớn thời gian của lễ thức, đèn nến trong đình bị tắt để “nhử hổ” (trú trong một “khu rừng” làm bằng các thứ lá dưới gầm hậu cung) và chỉ có một số người thuộc dòng “quan viên” được tham dự. Chính điều này đã làm người các làng bên hiểu sai - nếu không muốn nói là xuyên tạc, rằng “hội La có tục tắt đền để làm nghi lễ phồn thực”.

Ngoài bản thần phả và các sắc phong, còn có một số tài liệu Hán Nôm có thể minh họa cho lễ thức “đánh bệt” của hội Giã La:

Một là, trong đình làng La Cả hiện còn lưu 7 đôi câu đối nói về sự tích Đương Cảnh Công. Xin trích một đôi tiêu biểu:

Cứu thử vạn phương dân, phạt hổ khu lang tồn hiển tích,

Nguy nhiên thiên cổ thánh, đằng vân giá phượng tủng anh thanh.

(Cứu muôn dân đất này, dẹp hùm đuổi sói còn đây đầy hiển tích,

Muôn thuở thánh anh minh, đạp mây cứu phượng tiếng thơm lẫy lừng).

Hai là, trong bản hương ước làng La Nội lập ngày mồng 10 tháng 4 năm Duy Tân thứ 4 (1910) có điều khoản: “Năm nào được mùa thì dân xã phối hợp với xã Ỷ La tổ chức vào đám từ mồng 7 đến 14 tháng giêng mới giã đám. Ngày giã đám thì thu lượm các thứ lá đem về làm thành một khu rừng nhỏ ở đình. Một vị giáp trưởng đeo mặt nạ có vẽ hình con hổ. Nhân dân hai xã xếp thành hai hàng, gióng trống khua chiêng dồn đuổi bắt hổ trói lại, rồi tổ chức lễ rước thần”(16).

Như vậy, bản “La Nội, Ỷ La nhị xã lưu truyền khu hổ lang tích” cùng các tài tài liệu Hán Nôm khác là bằng chứng để lý giải thực chất của câu ca “Vui thì vui vậy chẳng tày Giã La” chính là lễ thức “đánh bệt” (đánh hổ) trong đêm giã hội làng La Cả, không phải là lễ thức phồn thực như nhiều người đã ngộ nhận.

B.X.Đ

CHÚ THÍCH

(1) Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH, H. 1996, tr.169.

(2) Bảy làng La cần được hiểu đúng là hai làng La Cả (La Nội, Ỷ La), bốn làng La Khê (Bắc, Nam, Đông, Tây) và làng La Tinh, tức các làng thuộc tổng La Nội, huyện Từ Liêm cũ.

(3) Xem:

- Phan Kế Bính: Việt Nam phong tục, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1990, tr.105.

- Toan Ánh: Nếp cũ hội hè đình đám, quyển Hạ, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992, tr.253-255.

- Lâm Bá Nam: Nghề dệt cổ truyền ở làng La Khê, trong Tạp chí Dân tộc học, số 3/ 1986.

- Bùi Thiết: Từ điển lễ hội Việt Nam, Nxb. VHDT, 1993, tr.255-256.

- Nguyễn Vinh Phúc: Hội cầu phồn thực, trong Kiến thức ngày nay số 130 (tháng 1, 2 / 1994). Và còn nhiều bài viết trên các tạp chí, sách khác.

(4) Múa lọ: một thể thức múa, các ả đào cầm lọ hoặc cặp lọ bên mình để múa. Các ả đào múa trong đêm giã hội làng La Cả là các ca nữ phường Đồng Trữ (nay thuộc xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).

(5) Bệt: từ cổ, nghĩa là phía, bên; về sau được phiên âm Hán - Việt thành “biệt”. Bệt chú nghĩa là phía bên chú. Trong bản dịch này, các lời xướng được dùng là “Bệt” (bệt chú, bệt cháu, bệt chàng); còn các đoạn nói về diễn trình của lễ thức được dịch là “bên” (bên nam, bên nữ, bên chú, bên cháu, bên chàng).

(6) Điền liệp: nghĩa Hán - Việt nghĩa là đi săn. Ở đây dùng ghép hai từ “đi săn điền liệp” làm một, là cách dùng từ để nhấn mạnh nghĩa của người Việt, giống như “người công nhân”, “sông Hồng Hà”, “sông Trường Giang” v. v.

(7) Chạ: từ cổ, nghĩa là “làng”.

(8) Sở dĩ phải nói là “đi thăm”, không nói là “đi săn” vì người xưa khi đi săn (hoặc làm việc gì quan trọng) cần giữ bí mật, không nói rõ, nói thật việc mình đang làm (lưu ý đoạn ở trên nói là “đi săn” vì đi liền với từ “điền liệp”).

(9) Chiền Quan: một địa điểm trong làng La Cả xưa.

(10) Ả: có nghĩa là hà, chẳng hà, chẳng ngại.

(11) Tằm ủ, rượu chua: nghĩa bóng là làm hỏng hết các việc (nuôi tằm thì tằm ủ, tằm chết, nấu rượu thì rượu chua).

(12) Nguyên trong văn bản là “chốc này” (“chốc” nghĩa là “lúc”), nên tôi chuyển luôn thành “lúc này” cho thuận nghĩa và thuận lời xướng.

(13) Múa Hà rông: một điệu múa cung đình có từ thời Trần, nghĩa là múa tự do.

(14) Xin chân thành cảm ơn PGS, TS. Nguyễn Tá Nhí đã giúp chúng tôi trong việc dịch văn bản này.

(15) Các đạo sắc được ban vào các năm : Vĩnh Thọ thứ 3 (1660), Cảnh Trị thứ 8 (1671), Dương Đức thứ 3 (1675 ?), Chính Hòa thứ 4 (1683),Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), Vĩnh Khánh thứ 3 (1731), Đồng Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909) đều có 1 đạo. Niên hiệu Cảnh Hưng có 4 đạo (các năm 1740, 1767, 1784 - 2 đạo). Các niên hiệu có 2 đạo là Chiêu Thống (cùng năm 1787), Quang Trung (1792), Cảnh Thịnh (1793), Thiệu Trị (1846), Tự Đức (1850, 1880). Đáng tiếc do công tác bảo quản không chu đáo nên hầu hết số sắc phong này đã bị kẻ gian lấy mất cách đây vài năm.

(16) Hương ước làng La Nội, bản chữ Nôm, lưu tại Thư viện Thông tin KHXH./.

TB

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM
HOA TRÌNH TẠP VỊNH

NGUYỄN THỊ HOÀNG QUÍ

Hoa trình tạp vịnh là tác phẩm chữ Hán của Phan Huy Thực, người dòng họ Phan Huy nổi tiếng ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Tập sách gồm 116 bài thơ đi sứ của ông, là nguồn sử liệu quí cần được nghiên cứu và giới thiệu.

Tiểu sử tác giả

Phan Huy Thực tự Vị Chỉ, hiệu Xuân Khanh, tước Khuê Nhạc hầu, thụy Trang Lượng; sinh giờ Tị ngày 5 tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778); mất ngày 20 tháng 2 niên hiệu Thiệu Trị 6 (1846) tại làng Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây). Họ Phan Huy ở Sài Sơn, vốn ở thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch, tổng Canh Hoạch; sau chuyển đến thôn Gia Mỹ, xã Thu Hoạch cùng tổng. Địa danh này cuối đời Lê đầu đời Nguyễn thuộc huyện Gia Mỹ, trấn Nghệ An. Phan Huy Thực là cháu nội của Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789), người được coi là vị Tổ khai khoa của dòng họ; từng giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền Lê-Trịnh, tước Phong Khuê hầu. Năm 1787, Phan Huy Cận nghỉ hưu về sinh sống ở làng Thụy Khuê và là Tổ đầu tiên của dòng họ Phan Huy ở đây.

Cha Phan Huy Thực là Phan Huy ích (1751-1822), thi đỗ Giải nguyên năm 1771, rồi lại đỗ đầu thi Hội cùng năm. Phan Huy ích làm quan cho nhà Lê; sau theo Tây Sơn, được Quang Trung tin dùng, phong giữ nhiều chức vụ cao. Mẹ Phan Huy Thực là bà Ngô Thị Thục (1750-1792), vốn là con gái Ngô Thì Sĩ (1726-1780) và là em gái Ngô Thì Nhậm (1746-1803). Họ Ngô cũng là một dòng họ khoa bảng lớn và là một văn phái có tiếng ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).

Phan Huy Thực sinh ra và lớn lên vào nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, một thời kỳ khủng hoảng, đây cũng là thời kỳ bùng nổ các cuộc nổi dậy chống áp bức, mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Triều đại Tây Sơn tồn tại không lâu thì nhà Nguyễn giành lại ngôi vị. Từ đó xây dựng nên một triều đại kéo dài hơn trăm năm; sống trong triều đại đó, gia tộc Phan Huy và bản thân Phan Huy Thực không tránh khỏi sự chao đảo biến động. Chính điều kiện cuộc sống đó đã tác động không nhỏ đến đời sống, tâm tư và chí hướng của ông. Có thể nói rằng Phan Huy Thực đã thật may mắn được nuôi dưỡng trong cái nôi văn hóa của hai dòng họ: dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn và dòng họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai. Với những tên tuổi lớn như Phan Huy Cận (ông nội), Ngô Thì Sĩ (ông ngoại), Phan Huy ích (cha), Ngô Thì Nhậm (bác), Phan Huy Ôn (chú); một nhà ba cha con họ Phan cùng đỗ đại khoa, cùng làm quan một triều, cũng là trường hợp hiếm thấy trong trường khoa hoạn.

Trong 30 năm làm quan triều Nguyễn, trải ba triều vua: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị; Phan Huy Thực được giao trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Quản lý Khâm thiên giám Ty Lý thiên, làm Tổng tài bộ Thực lục; ông còn góp nhiều công sức vào việc chế tác nhạc khúc, định ra điển lễ triều đình đương thời. Ngoài ra, Phan Huy Thực còn tham gia ban giám khảo các kỳ thi Hương, thi Hội. Nói chung ông là người hiểu sâu, biết rộng nhiều lĩnh vực văn hóa: thiên văn, lịch pháp, âm nhạc, giáo dục, văn học... Về đức hạnh, Phan Huy Thực là người thẳng thắn, giản dị và thanh liêm; dù làm quan đến chức Thượng thư nhưng ông vẫn là người khiêm nhường, đức độ và tiết tháo. Vì thế, ông được bạn bè đồng liêu như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Hà Tông Quyền kính nể và khâm phục. Năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị nguyên niên (1841), vì tuổi già ốm đau luôn nên được nghỉ đặc cách. Năm Thiệu Trị 2 (1842), nhà vua tuần du Bắc Hà, Phan Huy Thực đến hành tại chúc mừng, được nhà vua úy dụ ban cấp bạc lụa và tặng bài thơ Ngự đề(1) để tỏ lòng hậu đãi đối với người bề tôi cao tuổi. Bài thơ được ông đem khắc lên vách núi Sài Sơn (nay hiện vẫn còn).

Phan Huy Thực sáng tác nhiều thơ văn, tiếc rằng đến nay không ít tác phẩm của ông đã bị thất truyền, chỉ còn lại tên sách trong thư tịch.

Các tác phẩm hiện còn:

Tác phẩm chữ Nôm: Tỳ bà hành diễn âm khúc, VNv.100, A.443, AB.1148; Nhân ảnh vấn đáp, VNv.288; Nhân nguyệt vấn đáp AB.1150, AB.146; Bần nữ thán, VNb.69.

Tác phẩm chữ Hán: Hoa trình tạp vịnh, VHv.80; Sứ trình tạp vịnh, A.2791, v.v... Và một số bài văn tế, câu đối, thơ đề vịnh, bi văn... còn nằm tản mạn trong kho sách Hán Nôm.

Văn bản tác phẩm

Sứ trình tạp vịnh, A.2791; là cuốn gia thư, chép tay trên giấy bản mỏng khổ 27,3x15,4cm, chữ viết theo lối đá thảo, đẹp nhưng nhiều chữ viết tắt khó đọc. Văn bản gồm 21 tờ, đóng bìa màu vàng bằng giấy bản bồi, gáy phết sơn ta, bên trong chép chữ Hán trên giấy đã bị ố vàng nhiều chỗ, mép giấy sờn rách. Trang đầu mé bên phải ghi 2 dòng chữ Hán bằng loại son nhạt khá lớn giống như chữ viết nháp: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán, nhạc chi mệnh mệnh xuân hạ thu đông” (đông là chữ “đông” (東) chỉ phương hướng, chứ không phải là chữ “đông” ( 冬 ) là mùa đông). Tiếp dòng thứ 3 chữ viết khá đẹp rõ ràng bằng mực tàu: “Gia Long Đinh Sửu thập lục niên trọng xuân cốc đán. Phó sứ Khuê Nhạc Phan hầu ngâm lục. Bào đệ Lâm Khanh Hạo, đường đệ Huyền Đồng tử tiếm bình” (Ngày lành tháng giữa xuân năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Long thứ 16 (1817). Tập thơ của Phó sứ họ Phan, tước Khuê Nhạc hầu. Em trai tự Lâm Khanh, tên Hạo và em họ Huyền Đồng tử cùng tiếm bình); tên tác phẩm Sứ trình tạp vịnh, giữa trang đầu được đóng dấu hình bầu dục mực đen của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO).

Sách chia làm 2 phần:

- Phần một: từ tờ 1a đến 5a chép 21 bài thơ của Phan Huy Thực trong đó có 7 bài đầu làm trong khi đi sứ Trung Quốc năm 1817, và 14 bài thơ cảm hoài đề vịnh làm trong nước. Tờ 6, chép bài bạt của Phan Huy Chú cho tập Sứ trình tạp vịnh.

- Phần hai: từ tờ 7a đến 15b phụ chép thơ của tác giả Trần Tử Ông. Tờ 16b đến 21a chép các bài văn tế, câu đối... Theo nội dung của từng bài thơ ở phần một, chúng tôi tạm chia tập thơ thành 2 phần: Thơ đi sứ và thơ tạp vịnh trong nước.

Tác phẩm Hoa trình tạp vịnh, VHv.80. Đây là một văn bản chép tay trên loại giấy bản dày, khổ 29x17cm; bìa sách bên ngoài màu đen sơn ta còn mới do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tu bổ lại; trang đầu bên trong là loại giấy bản mỏng mịn dai như giấy ở văn bản Sứ trình tạp vịnh, trên có đề dòng chữ Việt “Hoa trình tạp vịnh của Phan Huy Thực” và dòng chữ Hán “Phan Huy Thực Sơn Tây Yên Sơn Thụy Khuê nhân” (Phan Huy Thực người xã Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây) bằng mực Cửu Long xanh, bên cạnh là con dấu vuông có dòng chữ: “Thư viện Khoa học Trung ương”; trang 2 (từ tờ 1a đến 37b) lại là loại giấy bản dày, có ghi tên sách: Hoa trình tạp vịnh Lễ bộ Thượng thư trí sự Khuê Nhạc hầu Phan đại nhân (Tập thơ đi sứ của đại nhân họ Phan, tước Khuê Nhạc hầu, chức Thượng thư bộ Lễ đã nghỉ hưu); chữ viết trong văn bản này đẹp, hơi đá thảo; trên dưới hai mép sách có ghi dòng chữ Phan sứ trình ngâm lục (Thơ đi sứ họ Phan). Cả tập thơ gồm 116 bài, trong đó có 7 bài thơ đầu giống hệt 7 bài thơ đầu trong tập Sứ trình tạp vịnh như đã nói trên. Nếu so sánh hai văn bản Hoa trình tạp vịnh Sứ trình tạp vịnh, chúng ta có thể nhận thấy:

Điểm giống nhau: Cả hai văn bản đều là sách chép tay trên giấy bản, chữ viết đẹp đá thảo. Từ bài số 1 đến bài số 7 của cả hai tập thơ đều trùng nhau, ngoại trừ một vài chữ dùng khác nhau.

Điểm khác nhau: Về hình thức khác nhau về kích cỡ, chất giấy. Nếu Hoa trình tạp vịnh viết trên giấy bản thô, thì Sứ trình tạp vịnh được viết trên giấy bản mỏng mịn. Về nội dung: Bài thơ thứ 7 ở tập Sứ trình tạp vịnh Hoa Sơn binh mã chỉ chép được 3 câu thơ đầu, thì ở tập Hoa trình tạp vịnh chép đủ cả 8 câu thơ. Từ bài thứ 8 trong tập Sứ trình tạp vịnh đến bài 21 là phần thơ tạp vịnh với nội dung không liên quan trực tiếp đến chuyến đi sứ của Phan Huy Thực. Từ bài thứ 8 đến bài thứ 116 trong Hoa trình tạp vịnh có nội dung đi sứ với phần nguyên dẫn tỉ mỉ, chính xác đến từng ngày giờ và các hoạt động của sứ bộ. Từ đó chúng tôi đi đến nhận xét rằng:

- Văn bản Sứ trình tạp vịnh cung cấp cho chúng ta thông tin về thời gian đi sứ của Phan Huy Thực là “Ngày lành, tháng trọng xuân năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Long 16 (1817)”, và số lượng tập thơ là 150 bài. Đây là hai thông tin quan trọng về thời gian đi sứ và số lượng tập thơ; đó cũng chính là những dữ kiện chính xác về sự kiện và thời gian đi sứ của Phan Huy Thực được ghi rõ trong các sách Phan gia công phả, Đại Nam liệt truyện và cũng được Trần Văn Giáp chép trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nguyễn Văn Siêu khẳng định trong minh văn Thượng thư Phan Khuê Nhạc thần đạo minh, soạn năm Tự Đức 18 (1865). Về số lượng thơ đi sứ chép trong Sứ trình tạp vịnh quá ít so với số bài thơ Phan Huy Thực làm khi đi sứ; nhưng văn bản này lại có lời bạt của Phan Huy Chú khẳng định giá trị tập thơ mà văn bản Hoa trình tạp vịnh không có. Văn bản Sứ trình tạp vịnh viết nhiều chữ kiêng húy đời Nguyễn, nhưng không tuân thủ qui cách nhất quán; như các chữ “Hoa” ( ) viết thiếu nét trong các bài thơ Bái mệnh cung kỉ, Mạc phủ đạo trung, Đông dạ ki hoài; chữ “Miên” ( ), chữ “Thời” ( ) viết đổi vị trí bộ thủ, hay viết thành chữ “Thì” (辰). Hai chữ “Hoa, Miên” qui định kiêng húy thời Thiệu Trị (1841-1847), trong đó chữ “Hoa” kiêng húy tên mẹ vua Thiệu Trị là Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu, còn chữ “Miên” là chữ kị húy vua Thiệu Trị. Chữ “Thời, Thì” kiêng húy tên vua Tự Đức. Lại có bài thơ không viết kị húy chữ “Hoa” (花) như trong bài thơ Hoa Sơn binh mã; chứng tỏ văn bản được chép sau khi Phan Huy Thực đã mất (1846), tức sau năm Thiệu Trị và Tự Đức khá xa.

Qua đối chiếu so sánh giữa hai văn bản Hoa trình tạp vịnh Sứ trình tạp vịnh, chúng ta thấy hai văn bản này có mối liên quan với nhau chặt chẽ, bổ sung thông tin cho nhau để tạo nên dung mạo gần sát thực với tập thơ Hoa thiều tạp vịnh mà cả hai văn bản Sứ trình tạp vịnh Hoa trình tạp vịnh đều là dị bản của nó. Vậy văn bản Hoa trình tạp vịnh có số bài thơ tương đối khớp với số bài thơ đi sứ của Phan Huy Thực; lại còn mang đầy đủ đặc điểm: kỉ sự, tả cảnh, tả tình, vịnh sử... của các nhà thơ đi sứ khác trong dòng họ Phan Huy. Chính vì thế, chúng tôi chọn Hoa trình tạp vịnh để dịch và giới thiệu. Tính từ Phan Huy ích với tập Tinh sà kỉ hành, Phan Huy Chú với tập Hoa Thiều ngâm lục; Phan Huy Vịnh với tập Như Thanh sứ trình đến Phan Huy Thực với tập Hoa trình tạp vịnh thì dòng họ Phan Huy đã làm nên một dòng thơ kỉ sự tiêu biểu trong thể loại thơ đi sứ Việt Nam. Đọc các tập thơ đó, người ta có thể hình dung được từng chi tiết của các chuyến đi sứ, các nghi lễ ngoại giao, phong cảnh thiên nhiên, những con người đã gặp, những di tích lịch sử, nhân vật lịch sử cùng tâm sự của các tác giả về tình cảm nhớ nước thương nhà, niềm tự hào dân tộc, tinh thần hòa hiếu với các dân tộc láng giềng.

Giá trị của tập thơ Hoa trình tạp vịnh

Hoa trình tạp vịnh, có nghĩa là những bài thơ vịnh trên đường đi sứ sang Trung Hoa. Các sứ giả nước ta thời xưa khi đi sứ, ngoài việc gánh nặng sứ mệnh của đất nước, còn phải vượt qua bao khó khăn vất vả trên đường đi. Khi đọc tập Hoa trình tạp vịnh, chúng ta sẽ bị cuốn hút không những bởi lời thơ hay ý đẹp, những câu thơ chắt lọc, trau chuốt; mà còn vì những chi tiết trong chuyến đi sứ, với những cảnh sắc trên đường, những diễn biến tư tưởng trong nhận thức về cuộc đời và con người được phản ánh qua từng bài thơ.

Thơ tả cảnh chiếm vị trí chủ yếu trong toàn bộ tập Hoa trình tạp vịnh. Đó là những bài thơ miêu tả cảnh vật, những điều “kiến văn” trên đường đi, để vừa làm công việc ghi chép của một cây bút ký sự, vừa làm công việc của một thi nhân; việc ghi chép có tính chất bút ký thông qua cảm quan của nhà thơ nên không hề giảm chất thơ. Khi đi đường bộ, vượt qua bao nhiêu suối khe, vách núi gian lao vất vả qua bài Mạc phủ đạo trung:

“Miên mạo khê nham hành lộ nan,
Nham vân khê thảo tống chinh an...
... Dục bằng thắng thưởng tiêu ly tứ,
Vị kiến phồn hoa chỉ kiến san.”
(Suối khe vách núi dằng dặc, đường đi khó khăn,
Mây núi cỏ khe đưa tiễn người khách đi xa...
... Muốn ngắm nhìn phong cảnh để tiêu bớt nỗi niềm ly biệt,
[Đi mãi] chẳng thấy cảnh phồn hoa, chỉ thấy toàn là núi non).

Lúc đi đường thủy, vượt qua ghềnh thác hiểm trở, tính mạng luôn bị đe dọa trong bài Kinh ngũ hiểm than:

“Liên lạc giang tâm trĩ thạch căn,
Tiêu sam chướng khí thổ hoàn thôn...
... Chinh khả loạn tụy phong thế cấp,
ám ki nộ kích lãng hoa phiên...”
(Đá dựng dăng dăng liên tiếp giữa lòng sông,
Hơi nước mịt mù, khi tan khi tụ...
... Thuyền trôi ngoắt ngéo theo chiều gió mạnh,
Đá ngầm giận dữ tung lên những đợt sóng hoa...)

Qua sông Hoàng Hà, ghé lầu Hoàng Hạc, lầu Nhạc Dương; dong thuyền trên hồ Động Đình, đến Kinh đô nước người làm công việc bang giao. Tiếp xúc với ai, tác giả đều làm thơ và ghi thêm những dòng nguyên dẫn khá tỉ mỉ; điều đó đã giúp cho người đọc khi xem nguyên bản cảm thấy hào hứng thú vị như đang thưởng thức một áng văn du kí. Với bài Phiếm Động Đình hồ (Bơi thuyền chơi trên hồ Động Đình) như sau:

“Tứ cố xuyên nguyên tổng nạp tàng,
Uông hàm hải lượng nhất mang mang.
Thu trừng bích thủy liên thanh thảo,
Ngạn dũng thương ba hám Nhạc Dương.
Chí chính đại phu nhàn thác hứng, (a)
Lãng ngâm tiên tử khoái phi tường. (b)
ỷ bồng biến lãm Kinh Ngô giới,
Phú vịnh không tàm lão Đỗ chương.

(Nguyên dẫn: Khoảng giờ Thìn ngày 16, Sứ bộ đến yết cáo ở miếu thờ thần hồ Động Đình; chèo thuyền đi qua bãi Thanh Thảo vào Động Đình. Sau giờ Mùi đến đình Hồi Phong, buộc thuyền bên cạnh bãi trong hồ. Sáng sớm ngày hôm sau, dong buồm thuận gió. Giờ Tị thì đến bến Nhạc Châu.

Nguyên chú:

(a) Đại phu thời Ngô Việt là Phạm Lãi bơi thuyền chơi Ngũ Hồ; nay trong hồ còn có trạm dịch Lộc Giác, tương truyền là di tích ngôi nhà cũ của Đào Chu công (tức Phạm Lãi).

(b) Lã Thuần Dương(2) ba lần say, người Nhạc Dương không biết câu thơ: “Ngâm vang lên khi bay qua hồ Động Đình”.

(Nhìn bốn phía, nơi này như chứa nước của mọi nguồn sông,
Sông nước mênh mông, vô tận như biển cả.
Nước biếc trong veo, trời thu tiếp liền với cỏ xanh,
Sóng xanh vỗ bờ, như lay động Nhạc Dương.
Xong hết việc nước, vị đại phu nhàn nhã mặc cho cảm hứng đến.
Người tiên ngâm vang lên, để thuyền lướt đi như bay.
Tựa mái thuyền nhìn khắp cõi Kinh Ngô,
Làm thơ vịnh cũng chỉ thẹn với ông già họ Đỗ(3).)

Cũng thuộc loại thơ miêu tả cảnh vật nhưng chân thực mà chất lượng, không hề thua kém những bài thơ tả tình sâu lắng; trên đường đi sứ qua Lạng Sơn, những người trong dòng họ Phan Huy không ai là không vào thăm động Nhị Thanh, nơi Ngô Thì Sĩ từng làm Hiệp trấn tại đây. Phan Huy Thực cũng vậy, tự hào với truyền thống thi thư của dòng họ, trong bài Yết Nhị Thanh động, ông viết:

“Trùng sơn liễu nhiễu ủng thanh phiên,
Thập cấp sơn yêu kiến động môn.
Đại tạo hà niên chung lệ cảnh,
Chí nhân thử địa thực linh căn,
Thiên thu hất hưởng chân dung tại,
Nhất mạch văn chương thế ấm tồn...”
(Núi lớp lớp bao quanh như nâng rào xanh che chắn,
Leo lên mười bậc thang nơi sườn núi là nhìn thấy cửa động.
Tạo hóa từ bao giờ đã chung đúc nên cảnh đẹp này,
Bậc chí nhân đã đến nơi đây trồng cây linh phúc.
Nghìn năm hương khói nghi ngút, dáng người còn mãi,
Một mạch văn chương còn để lại cho đời...)

Động Nhị Thanh, một thắng cảnh gây nhiều cảm xúc sâu sắc đối với con cháu dòng họ Phan Huy; một cảnh đẹp thiên nhiên có bàn tay gia công tu tạo của Ngô Thì Sĩ. Thăm cảnh nhớ người, dải núi có dấu tích của ông ngoại như không còn là ngọn núi bình thường nữa mà trở thành nơi “trồng cây linh phúc” cho đời.

Đi sứ, trong cảnh ngựa xe dập dìu, giao tiếp ồn ã. Tuy thế, con người Phan Huy Thực trong những ngày công cán ấy; phần nhà ngoại giao không hề lấn phần nhà thơ, ông vẫn dành nhiều thời gian tĩnh lặng để chiêm nghiệm những biến đổi của ngoại cảnh, khơi gợi thế giới tình hoài sâu sắc. Cái tình hoài da diết bộc lộ trong “Hoa trình” là tình yêu nỗi nhớ nước nhớ nhà. Tâm sự đó được thể hiện qua nhiều bài thơ có các từ “Dạ” (đêm), “Vãn” (chiều). Thống kê lại, ta thấy trong cả tập thơ đi sứ của Phan Huy Thực có đến 8 bài thơ nói về cảnh chiều và đêm. Khi màn đêm buông xuống, cảnh náo nhiệt ban ngày dường như đã lùi xa; chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình. Đây là lúc bộc lộ những tâm sự thầm kín, là dịp nói lên những tình cảm chân thành, không bị gò bó, khuôn sáo. Bài Dạ tọa (Ngồi trong đêm) có đoạn viết:

“... Đường tốt châu đăng hành phát pháo,
Thi nhân minh nguyệt tọa văn chiêm.
Phong ai vũ mấn tha hương khách,
Đao xích không khuê thử dạ tâm...”
(... Lúc lên đèn, quân lính bắn pháo hiệu,
Dưới ánh trăng, nhà thơ ngồi nghe tiếng chày giặt áo.
Gió mưa bụi trần bám đầy tóc mai người khách xa quê,
Dao cắt bấc, thước may nơi khuê phòng trống trải như thấu nỗi lòng đêm nay...)

Hay trong bài Tiêu Tương giang vãn phiếm (Buổi chiều buông thuyền trên sông Tiêu Tương), cũng có đoạn:

“...Tam kỳ hảo diểu hợp Tiêu Tương,
Thái xúc lăng ba phiếm tịch dương.
Tà ỷ bồng song ngưng viện cửu,
Thiên biên qui cách điểm văn chương.”
(... Ngã ba sông mênh mông là nơi hợp dòng của sông Tiêu sông Tương,
Những màu sắc rực rỡ dỡn đùa sóng nước dập dờn lúc hoàng hôn,
Bên trời loáng thoáng những cánh chim bay về, gợi hứng văn chương.)

Âm thanh huyên náo của các nghi thức tiếp đón, tiễn đưa trên đường đi sứ không làm khuây khỏa được nỗi u trầm nhớ thương trong lòng người sứ giả xa nhà khi chiều buông, những lúc đêm dài thanh vắng đối diện với chính mình. Mặc dù cảnh sắc nơi ngã ba sông Tiêu Tương lúc hoàng hôn thật êm đềm, nhưng vẫn không ngăn được tâm hồn tác giả mong được làm cánh chim bay về nơi chân trời xa thẳm, nơi có quê hương xứ sở thân yêu của mình. Tuy mang trọng trách của quốc gia, dù vướng bận nhiều công việc thù đáp với nước người, Phan Huy Thực vẫn giành thời gian và tình cảm cho những người thân và gia đình. Đây là tình cảm đặc biệt của tác giả, và chính vì tình cảm ấy đã khơi dậy thi hứng trong con người ông. Nhớ đến ngày giỗ mẹ, ông giãi bày trong bài thơ Tiên tỷ húy thời dạ tọa cảm tác (Cảm tác trong đêm giỗ mẹ), một nỗi cảm hoài man mác:

“... Từ vĩ gian lao thập thất phiên,
Chỉ kim huyết lạc ngũ chi tồn.
Tổng chi thù đáp vô trần trích,
Thẩn thị khuê ly trướng tảo phiền...
... Gia sơn hồi diến nam vân diểu,
Độc ỷ thuyền song thức lệ ngân.”
(... Người mẹ từng sinh nở mười bảy lần vất vả,
Đến nay chỉ còn lại năm anh em.
Tất cả các con muốn báo đền ơn mẹ, nhưng chẳng được mảy may,
Huống chi trong cảnh xa cách, không chút rau dưa dâng lên.
... Quay về ngóng nhìn ngọn núi quê nhà, chỉ thấy mây phương nam xa tắp,
Một mình tựa cửa bên thuyền, thầm gạt dấu lệ rơi).

Lúc này, những thủ tục bang giao, những đón chào thù ứng nơi đất khách quê người như mờ đi hết, chỉ còn lại một con thuyền, một người con xa nhà, xa quê ngồi thao thức suốt đêm trong ngày giỗ mẹ. Hình bóng người mẹ xa xôi, nhập vào làm một với hình bóng “Gia sơn” (Núi nhà) tức núi Thầy, phủ Quốc. Tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ của Phan Huy Thực cũng chính là nếp gia phong của dòng họ Phan Huy. Phan Huy Chú trong tập Hoa Thiều ngâm lục cũng có bài thơ Tiên tỷ húy nhật cảm hoài (Cảm hoài ngày giỗ mẹ). Với một tình cảm hết sức đằm thắm thiết tha:

“... Đâu suối sông quê mà khóc mẹ,
Đây sương gió lạ lạnh ghê người.
Thuyền đêm một nén hương cô độc,
Buồn ngóng non nhà cách dặm khơi….(4)”

Ngoài đề tài tả cảnh, tả tình; trong tập Hoa trình tạp vịnh còn có một đề tài chiếm số lượng lớn trong cả tập thơ là đề tài vịnh sử. Có đến hơn 30 nhân vật lịch sử được đề cập đến trong tập thơ đi sứ này. Họ đều là những nhân vật nổi tiếng, những người tài năng về chính trị, giỏi về học thuật; không chỉ vậy số phận của họ phần lớn đều kết thúc thật bi kịch. Phan Huy Thực đã viết về họ với một mối cảm thương sâu xa.

Qua núi Hoa Sơn, gợi nhớ Hoàng Sào, vị đầu lĩnh của quân khởi nghĩa thời Đường Hy Tông, tác giả viết:

“Tuấn bích lăng tằng vạn nhẫn cao,
Thiên thu di tích thuyết Hoàng Sào.
... Kim Thống thị phi đương sử bút,
Thạch đồ nghi tín nhận lâm sao.
Du du vãng sự bằng thùy hội,
Sơn tự vô ngôn phong tự hào.”
(Vách núi chót vót cao vạn nhẫn,
Di tích ngàn năm như kể về chuyện Hoàng Sào.
... Triều đại Kim Thống đúng sai, đã có sử gia đương thời ghi chép,
Bức tranh đá nửa tin nửa ngờ nhận qua ngọn cây rừng.
Chuyện cũ đã qua lâu rồi, biết hỏi ai cho rõ được,
Núi vẫn lặng im, chỉ có tiếng gió gào mà thôi.)

Đến Ngô Châu, Viếng ba liệt nữ nhà họ Lưu; ca ngợi khí tiết của họ, khiến bao kẻ mày râu đi qua đều tự thấy xấu hổ:

“Băng ngọc trinh tâm nghĩa tự trì,
Nhất môn tam liệt tối hy kì...
Chung cổ tinh linh lưu thủy quốc,
Bách niên tính tự phó đài bi...
... Vãng lai vô hạn tu mi khách,
Đa thiểu môn tâm quí nữ nhi.”
(Tấm lòng trinh tiết trong trắng, tự giữ tiết nghĩa,
Một nhà có ba liệt nữ thì thật hiếm có lạ lùng...
... Tinh thần từ xưa vẫn lưu lại nơi sông nước,
Tên tuổi mãi còn phó thác cho tấm bia rêu.
Biết bao khách mày râu qua lại nơi đây,
Liệu có mấy người tự thấy xấu hổ với mấy nàng nhi nữ ?).

Qua đất Quế Lâm, nơi có nhiều cảnh đẹp gắn liền với biết bao tên tuổi các vị tướng tài ba nổi tiếng như Gia Cát, Việt Vương, Phục Ba... ông cũng viết nên những dòng thơ cảm khái, thể hiện trong bài Việt Vương thành:

“Hà địa cung thành ấn lục đài,
Tương truyền Việt đại cựu di lai.
Viên dung lưu củng phiên đài tráng,
Cơ chỉ giao thành thí viện khai...
... Suy di nhân sự hoàn như thử,
Phù thế du du nhất trướng hoài.”
(Thành quách cung thất ở nơi nào, chỉ thấy in ngấn rêu xanh,
Tương truyền đó là di chỉ cũ của vua Việt Vương.
Tường thành còn lưu lại, có đài canh làm phên dậu hùng tráng bao quanh,
Nơi nền cũ đã trở thành viện sở để mở khoa thi....
... Suy ra, việc người cũng giống như vậy,
Đời người phù du, dằng dặc một nỗi buồn).

Qua đất Hứa thăm miếu Quan Thánh, nơi trước đây Quan Vân Trường từng bị bắt giam cùng hai phu nhân của Lưu Bị, (đây là mưu kế thử thách lòng trung trinh của Quan Vũ đối với Lưu Bị của Tào Tháo. Không những Quan Vũ không theo mà vượt qua năm cửa ải, chém đầu sáu tướng giặc về với Lưu Bị). Trong bài Hứa thành Quan Thánh miếu (Miếu thờ Quan Thánh ở thành Hứa), Phan Huy Thực cũng không ngớt thán phục, ngợi ca:

“... Bỉnh chúc bất phương song tẩu tại,
Phong kim thùy cấm ngũ quan hành.
Vĩ nhân tâm sự chân vô quí,
Lão tặc gian mưu ám tự ki.
Thiên tải Hứa đô di tích diểu,
Dương dương miếu tự úc linh thanh.”
(... Việc cầm đuốc là cốt để không làm phương hại đến sự có mặt của hai chị dâu,
Gói vàng lại, ai cấm nổi cuộc đi qua năm cửa ải.
Việc làm và tấm lòng của bậc vĩ nhân thật không hổ thẹn,
Mưu mô gian trá của tên giặc già tự mình cảm thấy ghê sợ.
Di tích Hứa đô trải ngàn năm đã mờ mịt,
Riêng ngôi miếu thờ vẫn rờ rỡ tiếng linh thiêng).

Rồi qua đất Vĩnh Xuyên, nhớ Liễu Tử Hậu tức Liễu Tông Nguyên. Đến Lỗi Dương nhớ Đỗ Phủ. Thăm đền thờ Tam Lư đại phu Khuất Nguyên...

Một đề tài mới mẻ trong thơ đi sứ của Phan Huy Thực là tình hòa hiếu dân tộc. Để củng cố quan hệ với triều đình phương Bắc, sau khi lên ngôi Gia Long có cử đoàn sứ bộ sang Thanh để cống nạp và chúc thọ Thanh Nhân Tông. Đây là công việc hết sức trọng yếu, quan hệ tới việc duy trì và phát triển tình hòa hiếu, giao lưu hữu hảo giữa hai nước, tạo điều kiện củng cố và bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước. Vì thế, trong nhiều bài thơ Phan Huy Thực còn gửi gắm cảm xúc của mình vào việc xướng họa, thù đáp với những nhân vật quan trọng ở đất Trung Nguyên, như khi ông làm thơ Thù biệt Lễ bộ Tự ban Lý Duy Thuần (Thơ từ biệt ông Tự ban Lý Duy Thuần ở bộ Lễ):

“... Minh đường tảo phụng chỉ Nam xa,
Luyến khách như quân diệc khổng gia.
Trân trọng văn tài cần chỉ lệ,
Vân cù thản bộ xuyết xuân hoa.”
(... Nơi minh đường một sớm phụng mệnh trở về phương Nam,
Mến khách như ông thật là quí hóa.
Chút văn tài được trân trọng, là do gắng công học tập,
Thanh thản bước trên đường mây hứng nhặt lấy hoa xuân).

Hay trong bài Họa đáp văn nhân Đường Tổ Hướng (Thơ đáp lại nhà thơ Đường Tổ Hướng), có những câu thơ hay, khiến người đọc thấy được cái tình của tác giả:

“... Tương kỳ hậu hội ngư đa viễn,
Xuân đáo trùng yêu Nam quốc nhân.”
(... Kỳ hẹn nhau sau chuyến hội ngộ đã xa cách,
Mùa xuân đến lại mời tiếp người khách phương Nam).

Kết luận

Tập thơ Hoa trình tạp vịnh được Phan Huy Thực sáng tác bằng các chủ đề quen thuộc, như cảnh sắc trên đường đi sứ, vịnh đề các di tích lịch sử, nhân vật lịch sử; nhưng những bài thơ của ông lại tràn đầy cảm xúc trong sáng, tươi mới khác lạ về tình yêu nước thương nhà, cùng những âm hưởng tự hào trong sáng, thanh cao mà hồn hậu rất riêng của mình. Người đọc cảm thấy hào hứng như được đồng hành cùng ông trên con đường vạn dặm đó. Có thể nói Hoa trình tạp vịnh của Phan Huy Thực là những vần thơ hay, mang tính thẩm mĩ cao, nội dung lại khá phong phú, giầu lòng vị tha “lời thơ đã không bỏ qua cái cốt cách của người xưa, mà ý tứ lại phiêu dật, cách điệu ôn nhã. So với các nhà thơ danh tiếng cũng đâu có chịu kém” (Phan Huy Chú - Sứ trình tạp vịnh bạt). Thơ đi sứ của Phan Huy Thực nói riêng và của nhiều sứ giả - nhà thơ Việt Nam khác trong lịch sử bang giao với phương Bắc nói chung, mãi mãi là tấm lòng nhân ái, tâm hồn và trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ đất nước của dân tộc.

H.T.Q

CHÚ THÍCH

(1) Thơ Ngự đề: Xem Luận án Thạc sĩ khoa học ngữ văn: Phan Huy Thực, con người và sự nghiệp thơ văn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, H. 1998, tr.24.

(2) Lã Thuần Dương: tức Lã Động Tân, một đạo sĩ nổi tiếng cuối thời Đường.

(3) Ông già họ Đỗ: tức Đỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng thời Đường.

(4) Xem Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy. Sở VHTT. Hà Sơn Bình, 1983./.

TB

BIỂU HIỆN HỖN TẠP TRONG TƯ TƯỞNG CUỐN LIỆT TỬ XUNG HƯ CHÍ ĐỨC CHÂN KINH
QUA CHỮ "ĐẠO"

DƯƠNG TUẤN ANH

1. Sách Liệt tử Xung hư chí đức chân kinh (gọi tắt là Liệt tử) là một trong tam đại kinh Đạo học (gồm Lão tử Đạo đức kinh, Trang tử Nam hoa kinh Liệt tử Xung hư chí đức chân kinh) được hậu nhân xưng tụng, nhất là các đệ tử của Đạo gia. Sách gồm 8 thiên, trên ba vạn chữ, phần lớn được viết dưới hình thức ngụ ngôn (tương tự như Trang tử).

Về tác giả: nhân vật Liệt Ngự Khấu (được cho là tác giả của sách này, nên tên sách mới có hai chữ Liệt tử) là ai vẫn còn là một bí ẩn của lịch sử. Có ý kiến phỏng đoán Liệt Ngự Khấu sống ước trong khoảng trước sau đời vua Chu Noãn Vương (thế kỉ IV TCN), người nước Trịnh. Có ý kiến lại cho rằng ông ta không hề là người có thật, chỉ là nhân vật ngụ ngôn trong sách của Trang tử; tác phẩm này là một nguỵ tác của Vương Bật, viết trong khoảng đời Nguỵ, Tấn.

Về tác phẩm: mãi tới năm Thiên Bảo nguyên niên (742), Đường Huyền Tông mới có sắc phong Liệt tử là Xung hư chân nhân và tôn sách của ông là Xung hư chân kinh. Năm Cảnh Đức thứ tư (1007), Tống Chân Tông lại phong thêm hai chữ chí đức thành Xung hư chí đức chân kinh, đặt nó ngang hàng với nhiều tác phẩm kinh điển hàng đầu khác của Đạo giáo.

Cho dù còn nhiều khúc mắc về tác giả cũng như sự ra đời của tác phẩm nhưng Liệt tử vẫn là cuốn sách được đánh giá rất cao cả về giá trị nghệ thuật lẫn nội dung tư tưởng. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chủ yếu quan tâm tới những biểu hiện tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm qua một chữ, cũng là một thuật ngữ đóng vai trò then chốt trong tư tưởng Đạo học - chữ “đạo”.

2. Quan tâm tới tư tưởng của Đạo học không thể không nắm cho chính xác cách hiểu thế nào là “đạo”. Thế nên khi tiếp cận những tác phẩm thể hiện tư tưởng Đạo học, người ta thường quan tâm xem chữ “đạo” có nghĩa gì trong những văn cảnh cụ thể. Điều này đã từng được tiến hành với các tác phẩm Lão tử đạo đức kinh và Trang tử Nam hoa kinh. Chẳng hạn, người ta đã thống kê được trong Lão tử đạo đức kinh sử dụng 75 lượt chữ “đạo” với các nội dung ý nghĩa như: “đạo” chỉ bản thể vũ trụ, “đạo” chỉ quan hệ xã hội, “đạo” chỉ phương pháp trị quốc, “đạo” chỉ quy luật vận động khách quan của vũ trụ, quy luật vận động của xã hội…; Trang tử Nam hoa kinh sử dụng tới 352 chữ “đạo” có nội dung ý nghĩa căn bản tương tự như trong Lão tử, ngoài ra còn có ý nghĩa khác như: “đạo” chỉ con đường đi, “đạo” là nói…

Tựu chung lại, có thể nhận xét: Chữ “đạo” trong Lão tử Đạo đức kinh Trang tử Nam hoa kinh mang ý nghĩa triết học, xã hội học, chính trị học chứ tuyệt nhiên không mang màu sắc tôn giáo, mê tín, vu thuật. Ngay cả khi dùng chữ “đạo” với tư cách như một khái niệm gắn với vấn đề đạo đức thì nó vẫn có một sự phân biệt với cách dùng “đạo” trong học thuyết của Khổng môn.

3. Sách Liệt tử là một trong tam đại kinh Đạo học nhưng từ lâu đã được các học giả xác nhận tính chất hỗn tạp về nội dung tư tưởng. Trong phạm vi bài viết này, tính chất hỗn tạp ấy sẽ được làm sáng tỏ hơn nữa trên cơ sở xem xét, thống kê, tìm hiểu cách sử dụng chữ “đạo” trong sách Liệt tử.

3.1. Có thể thấy rõ ngay điều này khi bên cạnh những ngữ nghĩa quen thuộc của chữ “đạo” vẫn thường gặp trong sách của Lão - Trang, chẳng hạn: “Vô sở do nhi thường sinh giả đạo dã” (Không chỗ dựa vào mà vĩnh viễn sinh tồn là Đạo - Trọng Ni thiên; “đạo” ở đây chỉ bản thể vũ trụ); “Cố viết: yểu nhiên vô tế, thiên đạo tự vận” (Cho nên nói rằng: (quy luật tự nhiên) sâu xa vô cùng, quy luật ấy tự nó vận hành - Lực Mệnh thiên, “đạo” ở đây chỉ quy luật vận động khách quan)… thì người ta vẫn gặp rất nhiều trường hợp chữ “đạo” được dùng với nghĩa mang màu sắc tôn giáo hoặc chữ “đạo” được sử dụng mang màu sắc của chữ “đạo” trong Khổng môn. Có thể quan sát một số ví dụ cụ thể:

“Thương Khâu Khai vãng vô nan sắc, nhập hỏa vãng hoàn, ai bất mạn, thân bất tiêu, Phạm thị chi đảng dĩ vi hữu đạo, nãi cộng tạ chi viết: Ngô bất tri tử tri hữu đạo nhi đản tử, ngô bất tri tử chi thần nhân nhi nhục tử” (Thương Khâu Khai mặt không đổi sắc, đi vào trong lửa rồi lại trở ra, tro bụi không hề dính trên người, da thịt không hề bị bỏng cháy, bọn môn khách họ Phạm cho rằng lão có đạo thuật, bèn cùng nhau xin lỗi lão: Chúng tôi không biết ông có đạo thuật nên đùa giỡn ông, không biết ông là thần nhân nên khinh thị ông. - Hoàng Đế thiên, chữ “đạo” ở đây chỉ đạo thuật, mang tính chất vu thuật).

“Tích nhân hữu ngôn tri bất tử chi đạo giả” (Xưa, có người tự xưng biết được thuật trường sinh bất tử - Thuyết phù thiên, chữ “đạo” ở đây chỉ phương thuật, không mang tính chất triết học, chính trị học hay xã hội học)…

Chữ “đạo” trong những trường hợp trên rõ ràng rất gần nghĩa với “thuật”, mang dấu ấn tôn giáo chứ không phải như một khái niệm mang tính chất học thuật.

Còn ví dụ sau lại là chữ “đạo” chỉ cái đạo tu tề trị bình thuần tuý màu sắc Nho gia: “Kiểu văn trị thân dĩ cập gia, trị gia dĩ cập quốc. Thử ngôn tự ư cận chí vu viễn dã. Kiểu vi quốc tắc trị hĩ, nhi gia tắc loạn hĩ. Kì đạo nghịch da?” (Tôi nghe nói tu dưỡng bản thân rồi mới tề được gia, tề được gia rồi mới trị được nước. Như vậy là có ý nói từ gần tới xa. Tôi đã trị được nước, nhưng nhà tôi lại loạn như vậy, phải chăng là cái đạo ấy trái ngược rồi ? - Dương Chu thiên )…

3.2. Ngay cả với những trường hợp dùng chữ “đạo” với ý nghĩa chỉ quy luật vận động khách quan thì cũng có những biểu hiện khác với Lão và Trang.

Cả Lão tử Trang tử đều coi quy luật vận động khách quan ấy là tự nhiên. Sách Lão tử viết: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (Người noi theo đất, đất noi theo trời, trời noi theo đạo, đạo noi theo tự nhiên - Tượng nguyên đệ nhị thập ngũ). Đạo, do đó, là cái hợp quy luật vận động khách quan. Hoặc: “Thiên chi đạo, kì do trương cung dư ? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc nhi phụng hữu dư” (Đạo trời như giương cung vậy chăng? Cao thì hạ xuống, thấp thì nâng lên; thừa thì rút bớt, thiếu thì thêm vào. Đạo trời rút bớt chỗ thừa thêm cho chỗ thiếu. Đạo của xã hội con người thì không như vậy, (lại) rút bớt chỗ thiếu để cung phụng chỗ thừa - Thiên đạo đệ thất thập thất). Lão tử đã phân biệt “thiên chi đạo” với “nhân chi đạo” để phê phán xã hội thời đó đã làm nhiều việc trái với lẽ thường. Sách Trang tử cũng viết: “Hà vị đạo? Hữu thiên đạo, hữu nhân đạo. Vô vi nhi tôn giả, thiên đạo dã; hữu vi nhi lụy giả, nhân đạo dã” (Đạo là gì ? Có thiên đạo (đạo trời), có nhân đạo (đạo người). Vô vi mà tôn quý, đó là thiên đạo. Hữu vi mà hệ luỵ, đó là nhân đạo). Trang tử phân biệt “đạo” thành “thiên đạo” và “nhân đạo”, cũng với ý tưởng tương tự như Lão tử.

Còn Liệt tử cũng đề cập tới quy luật vận động khách quan trong chữ “đạo”, nhưng nhiều khi lại nghiêng về chiều hướng của chữ “mệnh”. Chẳng hạn, trong Lực Mệnh thiên, sau khi bàn qua về các nhân vật tiêu biểu cho những loại người khác nhau, tác giả kết luận: “Thứ chúng thái dã, kì mạo bất nhất, nhi hàm ư đạo, mệnh sở quy dã” (Những thái độ tính cách nhiều vẻ ấy, tuy biểu hiện không giống nhau, nhưng cùng hợp với đạo, đều là kết quả do số mệnh dẫn đến)…

4. Với 87 lần xuất hiện, tần suất sử dụng chữ “đạo” trong sách Liệt tử là khá thấp. Sách Lão tử chỉ hơn năm ngàn chữ (bằng khoảng 1/6 độ dài sách Liệt tử) nhưng đã xuất hiện tới 75 lượt chữ “đạo”. Sách Trang tử có tới 352 chữ “đạo”. Cụ thể các lần xuất hiện chữ “đạo” trong từng thiên sách Liệt tử lần lượt như sau: Thiên thụy thiên 9 lượt, Hoàng Đế thiên 26 lượt, Chu Mục Vương thiên 1 lượt, Trọng Ni thiên 14 lượt, Thang vấn thiên 3 lượt, Lực Mệnh thiên 4 lượt, Dương Chu thiên 10 lượt, Thuyết phù thiên 20 lượt.

Chữ “đạo” được dùng trong 87 lượt kể trên mang nhiều nghĩa khác nhau, về cơ bản có thể quy vào mấy nhóm nội dung chính sau:

a. Con đường, đường.

b. Bản thể của vũ trụ.

c. Quy luật vận động khách quan, thuận theo quy luật.

d. Quan hệ xã hội, quan hệ cá nhân, phương pháp tu dưỡng bản thân. phương pháp trị quốc.

e. Đạo thuật, phương thuật, cách.

Cụ thể chữ “đạo” được sử dụng theo mỗi nghĩa ở từng chương như sau (số la mã là thứ tự các thiên, số tự nhiên là số lượt xuất hiện):

I II III IV V VI VII VIII Tổng
nghĩa a 1 2 1 2 1 5 12
nghĩa b 3 1 4
nghĩa c 3 1 8 1 2 1 2 18
nghĩa d 8 8 16
nghĩa e 5 23 1 2 1 5 37
Tổng 9 26 1 14 3 4 10 20 87

5. Với những kết quả thống kê nêu trên có thể sơ bộ nhận xét về cách dùng chữ “đạo” trong sách Liệt tử như sau:

5.1. Số lượt xuất hiện của chữ “đạo” ở mỗi thiên là rất không đều đặn. Thiên thứ hai có 26 lượt, trong khi thiên thứ ba chỉ có 1 lượt.

5.2. Phân bố số lượt xuất hiện chữ “đạo” ở mỗi nội dung cũng không đều đặn. Với ý nghĩa “đạo” chỉ bản thể của vũ trụ, một trong những ý nghĩa chính của chữ “đạo” trong tư tưởng của Lão - Trang, chữ “đạo” lại chỉ xuất hiện 4 lượt (ít lần xuất hiện nhất trong các nghĩa). Trong khi đó chữ với ý nghĩa “đạo” chỉ đạo thuật (mang màu sắc mê tín, tôn giáo), cách, là ý nghĩa không thấy xuất hiện trong sử dụng chữ “đạo” trong tư tưởng của Lão - Trang, thì lại xuất hiện xuất hiện tới 37 lượt (chiếm tới 42,5%). Thậm chí xét riêng ở một thiên, người ta cũng dễ dàng nhận ra ở những thiên có số lượt xuất hiện chữ “đạo” nhiều nhất như Hoàng Đế thiên 26 lượt, hay Thuyết phù thiên 20 lượt, những nội dung ý nghĩa thường thấy ở chữ “đạo” trong tác phẩm của Lão - Trang lại không xuất hiện (“đạo” chỉ bản thể vũ trụ), hoặc xuất hiện rất ít (“đạo” chỉ quy luật vận động khách quan của vũ trụ và xã hội, thuận theo quy luật: Hoàng Đế thiên 1 lượt, hay Thuyết phù thiên 2 lượt).

6. So sánh việc sử dụng chữ “đạo” của sách Liệt tử với sách Lão tử (hai sách này có số lượt sử dụng chữ “đạo” gần tương đương nhau) cũng có thể nhận thấy một số vấn đề khá thú vị.

Liệt tử Lão tử
nghĩa a 12
nghĩa b 4 17
nghĩa c 18 24
nghĩa d 16 34
nghĩa e 37
Tổng 87 75

Rõ ràng, nghĩa con đường, đường đi (nghĩa gốc của chữ“đạo”), và nghĩa đạo thuật, cách, phương thuật (mang màu sắc tôn giáo, vu thuật) không được sách Lão tử đề cập tới khi sử dụng chữ “đạo”. Trong khi đó, hai nghĩa này lại được sử dụng rất nhiều trong sách Liệt tử (49/87 lượt, bằng 56,3%).

7. Qua việc tìm hiểu cách sử dụng chữ “đạo” trong sách Liệt tử xung hư chí đức chân kinh, chúng ta cũng có thể có những chứng cứ khoa học xác đáng chứng minh biểu hiện hỗn tạp trong tư tưởng cuốn sách này. Kết quả đó cũng góp phần khẳng định sự “tham bác” lẫn nhau giữa các nhà để làm phong phú, hoàn thiện học thuật của mỗi nhà. Sự “tham bác” ấy thể hiện từ bình diện tư tưởng chung cho đến cả cách sử dụng một thuật ngữ. Tính chất hỗn tạp nảy sinh là phù hợp với quy luật vận động của văn hoá vói chung và mỗi hiện tượng văn hóa nói riêng: giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa trên con đường vận động và phát triển.

D.T.A

TB

KINH HỌC

CHU QUẾ ĐIỆN

Kinh học là cái học huấn giải, trình bày và nghiên cứu kinh điển Nho gia. Trung quốc cổ đại có Ngũ kinh, sau này mở rộng bổ sung thành Thập tam kinh. Khổng Tử dạy học dùng Lục nghệ làm tài liệu, chỉnh lí biên định Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Những sách này từ thời Chiến Quốc trở đi được học phái Nho gia dùng làm tài liệu cơ bản để giảng dạy, thầy trò cùng truyền, hình thành nên rất nhiều truyện kí, "Lục nghệ kinh truyện có hàng nghìn hàng vạn" (Tư Mã Thiên, Sử kí - Tự tự). Vì giải thích thuyết minh kinh sách, làm sáng tỏ kinh nghĩa, dựa vào truyện kí của kinh ngày càng nhiều, cho nên đến đời Hán chính thức ra đời tên gọi "Kinh học".

Kim văn kinh học là một học phái của Nho gia đời Hán, có sự đối lập với Cổ văn kinh học. Năm đầu thời Tây Hán, các kinh sách Nho gia đều được sử dụng theo lối viết Lệ thư thông dụng đương thời, do hàng loạt học giả giảng giải, hình thành một học phái gọi là Kinh học. Hà Gian Hiến, Vương Lưu Đức đã sưu tập thư tịch trong dân gian "những sách gom được đều là sách cổ văn thời Tiên Tần". Thời Hán Vũ Đế, Lỗ công Vương Lưu Dư để xây dựng mở rộng dinh thất, đã dỡ bỏ nơi ở cũ của Khổng Tử, từ trong bức tường phát hiện hàng loạt cổ tịch thời Tiên Tần, cũng toàn là cổ văn. Cuối thời Tây Hán, Lưu Tử Chính đề xướng số cổ văn này, hình thành nên một học phái khác của kinh học. Người đời sau gọi học phái của Lưu Tử Chính là "Kinh cổ văn học". Đó chỉ là cách gọi tương đối, trước đó kinh học đều lấy kinh sách kim văn làm gốc, được gọi là "Kinh kim văn học". Sau này hai phái lại phân biệt gọi là "Cổ văn kinh học" và "Kim văn kinh học".

Đại sư kinh học Đổng Trọng Thư tu sửa kinh Xuân thu, truyền Công dương học. Đây là Kim văn kinh học, giữa đời Tây Hán đã nhận được sự coi trọng của Hán Vũ Đế, lập Ngũ kinh bác sĩ, rất tôn quí. Các đại sư Kim văn kinh học đều nhậm chức Bác sĩ ở trong triều đình Tây Hán, các kinh sách của Kim văn kinh học cũng có phái khác biệt. Kinh Xuân thu có Công dương học, Cốc lương học. Cùng là Xuân thu công dương truyện, giữa Đổng Trọng Thư và Hồ Mẫu Tử cũng có sự bất tương đồng. Đổng Trọng Thư truyền cho Doanh công, Doanh công truyền cho Mục Mạnh, Mục Mạnh truyền cho Nghiêm Bành Tổ và Nhan An Lạc. Hai họ Nghiêm, Nhan nắm vững những điều được truyền, đến đời Đông Hán, học phái Công dương xuân thu có hai nhà Nhan, Nghiêm. Nhan An Lạc truyền cho Lãnh Phong, Nhậm Công, do đó nhà họ Nhan lại có cái học Lãnh, Nhậm, sau này lại có cái học Quản (Lộ), Minh (Đô). Ngoài 14 vị Bác sĩ đời Đông Hán trừ Xuân thu công dương của hai nhà Nhan, Nghiêm. Còn nói đến Dịch của bốn nhà Thi, Mạnh, Lương Khâu, Kinh Thị. Thư có ba nhà Âu Dương, Đại Phục Hầu, Tiểu Phục Hầu. Giảng Thi có ba nhà Tề, Lỗ, Hàn. Lễ có hai nhà Đại Đới và Tiểu Đới. Kim văn kinh học cho rằng sách Ngũ kinh đã được Khổng Tử cải biên qua, Khổng Tử đem tư tưởng của mình gửi gắm vào những con chữ của Ngũ kinh. Sử ký của nước Lỗ được Khổng Tử viết thành Xuân thu, mỗi một chữ đều ẩn chứa nội hàm sâu sắc, đều làm sáng tỏ một loại nghĩa lớn. Đây tức là "vi ngôn đại nghĩa". Các nhà Kim văn cho rằng Khổng Tử là nhà chính trị, vì xã hội đời Hán đã chế định một loạt hệ thống phép tắc, những phép tắc này đều bao hàm ở trong văn tự của Ngũ kinh. Các nhà Kinh văn muốn từ trong Ngũ kinh lĩnh hội được tư tưởng của Khổng Tử, phát triển rộng rãi vào trong hiện thực xã hội. Đổng Trọng Thư thậm chí căn cứ vào đại nghĩa của kinh Xuân thu xét xử án kiện. Tác phẩm Xuân thu khuyết ngục là việc làm sáng tạo chưa từng có của ông ta. Kiến giải kinh văn một cách chủ quan, gán ghép Thiên nhân cảm ứng, điều đó khiến cho Kim văn kinh học dần suy vi, sau đời Đông Hán ngày càng sa sút. Hơn một nghìn năm sau, đến cuối thế kỉ XVIII lại một lần nữa được các học phái nghiên cứu tìm tòi Kim văn kinh học, sau đó Ngụy Nguyên, Dực Tự Trân đề xướng Kinh thế chí dụng, cùng với Kim văn kinh học có chỗ tương đồng, đã thúc đẩy sự phát triển của Kim văn kinh học. Những năm cuối triều Thanh, xã hội loạn lạc, chính trị hủ bại, những kẻ sĩ có tâm huyết đã nỗ lực từ trong cổ tịch tìm kiếm phương thức để điều trị các mối tệ bệnh của xã hội, những người như Sảm Bình, Bì Tích Thụy, Khang Hữu Vi đã nhận thấy giá trị của Kim văn kinh học, định lợi dụng nó để chuẩn bị cho biến pháp Mậu Tuất, mưu tính cải cách xã hội, thực hiện mục đích dân giàu binh mạnh. Những tác phẩm Kinh học thông luận, Kinh học lịch sử của Bì Tích Thụy; Tân học ngụy kinh khảo, Khổng Tử cải chế khảo, Xuân thu Đổng thị học của Khang Hữu Vi đều là những tác phẩm trọng yếu ở giai đoạn cuối Thanh đến Dân quốc của Kim văn kinh học. Những trước tác này đối với giới học thuật đương thời có ảnh hưởng rất lớn, và đối với biến cách xã hội cũng có tác dụng thúc đẩy nhất định.

Cổ văn kinh học là một học phái của Nho gia đời Hán, đối lập với Kim văn kinh học. Giữa thời Tây Hán sau khi triều đình độc tôn Nho thuật, các sách kinh điển Nho gia sao chép lối viết Lệ thư đang thông dụng ở đời Hán. Hà Giản Hiến, Vương Lưu Dư sưu tập cổ tịch trong dân gian, những sách ấy đều là cổ văn của thời Chiến Quốc. Thời Hán Vũ Đế, Lỗ Cung Vương Lưu Dư, phát hiện ra một loạt thư tịch cổ văn thời Tiên Tần. Cuối đời Tây Hán, Lưu Hâm Hiệu, Lí Mật Tịch, phát hiện ra Cổ văn kinh truyện, từng kiến nghị triều đình chế đặt chức quan Bác sĩ cho Cổ văn thượng thư, Mao thi, Dật lễ, Xuân thu tả truyện, nhưng gặp phải sự phản đối đồng loạt của các vị học quan Bác sĩ phái Kim văn kinh học. Di thư nhượng thái thường bác sĩ của Lưu Hâm căn cứ vào lí lẽ để tranh luận, từ đó nổ ra cuộc tranh luận giữa Kim văn kinh học và Cổ văn kinh học

Cổ văn kinh học tôn Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư, lấy điển tịch Nho gia làm tư liệu lịch sử, mối quan hệ của nó đối với chính trị xã hội không có tác dụng to lớn. Họ nghiên cứu điển tịch là để làm rõ bộ mặt vốn có, để khôi phục Chu lễ, không phải là để biến cách xã hội. Lúc Vương Bôn còn đương chính, đã đề xướng khôi phục cổ văn, từng một phen đem Cổ văn kinh học lập học quan, đặt Bác sĩ. Cổ văn kinh học cho rằng điển tịch Nho gia chỉ là ghi chép lại sự thực lịch sử, Khổng Tử là nhà sử học "Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ" tịnh không vì nhà Hán chế định qui tắc hoạt động xã hội gì, cũng không công nhận trong kinh sách có cái gì gọi là "Vi ngôn đại nghĩa". Cổ văn kinh học cũng không đề xướng tư tưởng Thiên nhân cảm ứng, khá thành thực trong việc lí giải kinh sách. Bắt đầu sau thời Tây Hán, rất nhiều nhà tư tưởng không tuân theo lối học chương cú đã không hài lòng với các sách sấm vĩ đang thịnh hành đương thời, và đối với Kim văn kinh học có những chỗ phê bình. Cùng với sự suy thoái của Kim văn kinh học, sự suy nhược của nền thống trị Tây Hán, Cổ văn kinh học ngày càng hưng khởi. Các học giả nổi tiếng đương thời như Lưu Hâm ra sức cổ súy Cổ văn kinh học. Những học giả như Dương Hùng, Vương Sung, Cổ Quỳ cũng đều nghiêng về phía Cổ văn kinh học, sau này có đại sư kinh học là Mã Dung và Trịnh Huyền. Từ sau đời Đông Hán, Cổ văn kinh học ngày dần hưng khởi, sức ảnh hưởng của sách Tả truyện thuộc phái Cổ văn kinh học đã vượt qua cả Cốc lương truyện, Công dương truyện của phái Kim văn kinh học, tuy nhiên "Tam truyện" đều nằm ở trong Thập tam kinh. Triều Thanh học phái Càn Gia đã nghiên cứu kinh sách, tôn sùng Trịnh Huyền, Hứa Thận; tinh thông tiểu học, giỏi việc khảo chứng danh vật, tìm tòi nghiên cứu điển chương chế độ, chú ý Huấn hỗ, gọi là "Hán học". Cận đại, Chương Thái Viêm, Lưu Sư Bồi là đại sư của Cổ văn kinh học có làm Quốc cố luận hành.

Phạm Hương Lan dịch
(Theo Trung Quốc Nho học, tr.14-16,
Nxb. Trung tâm xuất bản Phương Đông, năm 1997)

TB

MỘT CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NGHIÊN CỨU SO SÁNH TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ ĐÔNG Á

NGUYỄN THỊ NGÂN

Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục là luận văn Tiến sĩ của tác giả Hàn Quốc Jeon Hye Kyung (Toàn Huệ Khanh) bảo vệ năm 1994(1). Trong bối cảnh giao lưu văn hóa Việt - Hàn và giao lưu văn hóa khu vực hiện nay, Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ là một đóng góp đáng trân trọng trong nghiên cứu tác phẩm văn học truyền kỳ của ba nước cũng như của văn học Đông Á nói chung. Dưới đây tôi xin nêu những điểm chính của công trình nghiên cứu (luận án).

Luận án gồm 5 chương chính. Phần mở đầu, nêu mục đích nghiên cứu, lịch sử vấn đề nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu - phần này đề cập đến quan niệm nghiên cứu của tác giả luận án. Các chương II và III, tiếp theo khảo sát sự tiếp xúc giao lưu văn hóa giữa ba nước Hàn - Trung - Việt, sự du nhập và ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại Trung Quốc vào Hàn Quốc và Việt Nam. Chương IV, xây dựng tiêu chuẩn so sánh toàn bộ các tác phẩm. Chương V, so sánh thực tế các truyện của tác phẩm ba nước. Chương VI, nêu ý nghĩa văn học sử Đông Á của tác phẩm ba nước. Phần kết luận là tóm tắt các kết quả nghiên cứu.

Trước hết về quan niệm nghiên cứu của tác giả luận án:

Mục đích nghiên cứu của đề tài được tác giả xác định ở ngay tiêu đề của luận án: Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục. Tác giả định nghĩa: "Tiểu thuyết truyền kỳ ở đây là tiểu thuyết cổ bằng chữ Hán mang nội dung truyền kỳ".

Nguồn gốc của "Tiểu thuyết" (hay "Tiểu thuyết cổ") đã từng là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận - trong bài viết này tôi muốn tìm hiểu quan niệm của tác giả luận án qua việc xem xét vị trí của tác phẩm truyền kỳ Kim Ngao tân thoại trong lịch sử văn học Hàn Quốc.

Giới nghiên cứu văn học Hàn Quốc nói chung coi Kim Ngao tân thoại là tác phẩm chiếm vị trí quan trọng nhất trong lịch sử tiểu thuyết Hàn Quốc:

Trong lịch sử văn học Hàn Quốc, văn học tự sự khởi nguồn từ thần thoại, truyền thuyết cổ đại, trải qua thời kỳ phát triển văn học truyền kỳ mạt kỳ Silla (Tân La), sơ kỳ Koryo (Cao Ly) thế kỷ IX - X và thời kỳ phát triển của truyện ký và tỳ thuyết tạp lục hậu kỳ Koryo (thế kỷ XIV), cho đến sơ kỳ Choson (Triều Tiên) thế kỷ XV, sự xuất hiện của tập truyện truyền kỳ Kim Ngao tân thoại của tác giả Kim Xi Xưp (Kim Thời Tập) mới coi là đã hoàn toàn xác lập văn học tiểu thuyết. Tiểu thuyết đoản thiên Hán văn Hàn Quốc phát triển qua các thế kỷ XV, XVI và nửa đầu thế kỷ XVII. Bắt đầu từ trung kỳ thế kỷ XVII văn học Hàn Quốc bước vào thời kỳ phát triển tiểu thuyết Hàn văn nhưng cho đến tận cuối thế kỷ XIX, tiểu thuyết trường thiên Hán văn và tiểu thuyết đoản thiên Hán văn vẫn liên tục xuất hiện(2).

Như vậy, trước khi tập tiểu thuyết truyền kỳ Kim Ngao tân thoại ra đời ở cuối thế kỷ XV, văn học truyền kỳ Hàn Quốc là tiền thân của tiểu thuyết đã phát triển ở thế kỷ IX - X. Sách Tam Quốc di sự do tác giả Nhất Nhiên (1206-1289) biên soạn, ghi chép những truyền thuyết dân gian thời kỳ Tam Quốc (thế kỷ I -nửa đầu thế kỷ VII), trong đó truyện Điều Tín Kim Hiện cảm hổ có thuyết cho là tác phẩm truyền kỳ thời mạt kỳ Silla thế kỷ IX và đặc biệt, Tân La thù dị truyện là tác phẩm thu thập những kỳ văn dị đàm thời Silla (nửa sau thế kỷ VII - thế kỷ IX), trong số các thiên truyện còn lại, truyện Thôi Chí Viễn có thể xem là sáng tác cá nhân, các thiên khác đều do văn nhân gia công viết lại trên cơ sở những truyền thuyết dân gian địa phương(3).

Qua xem xét vị trí của Kim Ngao tân thoại trong lịch sử văn học Hàn Quốc như trên, ta có thể nhận ra bước chuyển quan trọng của văn học Hàn Quốc ở thế kỷ XV: từ văn học cổ (truyện cổ, thần thoại, truyền thuyết) đến loại tiểu thuyết truyền kỳ (truyện sáng tác cá nhân). Tác giả luận án khi xem xét vị trí của Truyền kỳ mạn lục trong lịch sử văn học Việt Nam đã chỉ ra bước chuyển ấy là chung cho cả văn học Đông Á mà tiểu thuyết truyền kỳ đời Đường Trung Quốc, Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc, Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam và văn học vật ngữ của Nhật Bản "là những bằng chứng rõ rệt về tiểu thuyết truyền kỳ là tiểu thuyết đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết Đông Á".

Như vậy, tiêu chí để phân biệt tác phẩm tiểu thuyết truyền kỳ với tác phẩm văn học cổ chính là ở yếu tố sáng tác cá nhân. Tác giả luận án coi yếu tố cá nhân là quan trọng nhất của tiểu thuyết: "Vấn đề tên tác phẩm và tên tác giả dần có sự chuyển hướng từ tập thể tác giả sang cá nhân và khuynh hướng cá nhân hóa đó là yếu tố quan trọng nhất phát triển tiểu thuyết văn học".

Hơn nữa, giới nghiên cứu văn học Hàn Quốc nói chung cũng như tác giả luận án cho rằng lịch sử hình thành tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á bắt nguồn từ Tiễn đăng tân thoại của Trung Quốc. Họ không chỉ nghiên cứu về tiểu thuyết truyền kỳ Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc mà còn nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn - Trung - Nhật hay Hàn - Trung - Việt.

Xuất phát từ quan niệm: Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc (cuối thế kỷ XV), Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam (đầu thế kỷ XVI) trên cơ sở kế thừa truyền thống văn học tự sự nước mình, nhưng đều chịu ảnh hưởng ở một trình độ nào đó của Tiễn đăng tân thoại Trung Quốc. Hơn nữa, hai tác phẩm đều thuộc loại tiểu thuyết truyền kỳ và có điểm chung, là được coi như những tiểu thuyết đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết của mỗi nước; nhưng hai tác phẩm không trực tiếp ảnh hưởng đến nhau, nên tác giả luận án xác định phương hướng nghiên cứu là, trên cơ sở lấy Tiễn đăng tân thoại làm tiêu chuẩn so sánh sự khác nhau hay giống nhau giữa Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục, để có thể tìm hiểu điểm chung của tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á cũng như nét riêng của tiểu thuyết truyền kỳ mỗi nước. Quan niệm nghiên cứu như vậy, không giống với quan niệm nghiên cứu so sánh nhằm làm sáng tỏ tính sáng tạo của tác phẩm chịu ảnh hưởng, mà phương pháp nghiên cứu thường là, so sánh những truyện có nhiều điểm giống nhau của các tác phẩm, để rút ra kết luận tác phẩm sáng tạo hay mô phỏng.

Tác giả luận án quan niệm Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục đều chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, nhưng đó không hề là sự mô phỏng vay mượn một cách cụ thể, mà là sự chịu ảnh hưởng một cách toàn thể từ phương diện thể loại tiểu thuyết truyền kỳ để sáng tạo nên tác phẩm truyền kỳ của riêng mỗi nước - vừa mang những đặc điểm thể loại tác phẩm chung, vừa mang những nét riêng về tác giả cũng như văn hóa, địa lý mỗi nước.

Phương pháp nghiên cứu của luận án được tác giả xác định phù hợp với mục đích nghiên cứu: So sánh một cách toàn diện tác phẩm (tức là so sánh từ phương diện thể loại tiểu thuyết truyền kỳ của tác phẩm) để làm sáng tỏ đặc trưng của tác phẩm, trong đó lấy Tiễn đăng tân thoại làm thước đo xem xét diện mạo biến đổi của Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục về tác giả, tác phẩm và văn hóa, từ đó nêu ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ ba nước.

Các chương tiếp theo từ chương II đến chương VI là sự cụ thể hóa quan niệm nghiên cứu, mục đích nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu của tác giả luận án:

Chương II, về giao lưu văn hóa giữa ba nước Hàn - Trung - Việt, tác giả luận án nêu lên đặc trưng nổi bật là Trung Quốc như cầu nối cho giao lưu tiếp xúc văn hóa Việt - Hàn thời Trung đại. Những cuộc tao ngộ giữa sứ thần hai nước gặp gỡ nhau ở Trung Quốc; sự tích dòng họ Lý Hoa Sơn ở Hàn Quốc; người Triều Tiên phiêu dạt đến Việt Nam hay người Việt Nam phiêu dạt đến Hàn Quốc... là những bằng chứng về sự tiếp xúc trực tiếp giữa nhân dân hai nước. Qua đó ta có thể hiểu biết một cách cụ thể về tình hình chính trị, chế độ, phong tục, tập quán, sản vật, khí hậu, văn chương, thơ phú... của hai nước.

Chương III, về sự du nhập và ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại tới Hàn Quốc và Việt Nam: Tiễn đăng tân thoại của tác giả Cù Hựu đời Minh không chỉ được tầng lớp văn nhân trí thức Trung Quốc đón nhận mà còn truyền đến các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Để từ đó, ở những nước này xuất hiện những tác phẩm truyền kỳ mô phỏng nối dòng theo thể loại tiểu thuyết truyền kỳ - trong đó, Tiễn đăng tân thoại Trung Quốc, Kim Ngao tân thoại Hàn Quốc, Truyền kỳ mạn lục Việt Nam, Gia Tỳ Tử Nhật Bản là những tác phẩm đầu tiên. Tác giả luận án nhận định vai trò bà đỡ của Tiễn đăng tân thoại cho sự xuất hiện của tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á. Riêng Kim Ngao tân thoại Hàn Quốc có điểm khác biệt, nó truyền đến Nhật Bản, cùng với Tiễn đăng tân thoại Trung Quốc ảnh hưởng đến sự hình thành tác phẩm Gia Tỳ Tử của tác giả Tiễn Tỉnh Liễu Ý, nhưng ở Hàn Quốc không có tác phẩm mô phỏng, kế thừa theo thể loại truyền kỳ của Kim Ngao tân thoại một cách rõ rệt. Phải chăng là loại hình tác giả Kim Thời Tập và tác phẩm Kim Ngao tân thoại bị phủ nhận một cách tuyệt đối trong xã hội Triều Tiên cứng nhắc về trật tự Nho giáo và đầy mâu thuẫn.

Chương IV, trước khi xây dựng tiêu chuẩn so sánh toàn bộ tác phẩm, tác giả luận án xem xét diện mạo các tác phẩm theo góc độ so sánh, xem như đặc điểm ngoại hình của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ:

Thứ nhất, cơ sở nội sinh xuất hiện tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc và Việt Nam. Về mặt chính trị xã hội là thời kỳ trật tự xã hội bị rối loạn, quyền thần chiếm đoạt ngôi vua. Về mặt tác giả là sự xung đột bi kịch giữa tư tưởng văn nhân với hiện thực xã hội. Về mặt văn học là thời kỳ văn học phát triển với sự ra đời của các tuyển tập truyện cổ và các tác phẩm văn học mang tính nhân cách hóa.

Thứ hai, kết cấu của tác phẩm, Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục đều chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại về tên tác phẩm, về đầu đề các truyện trong tác phẩm cũng như về quy mô cấu trúc tác phẩm: tên của ba tác phẩm đều mang khái niệm tiểu thuyết truyền kỳ "tân thoại" hay "mạn lục". Đầu đề các truyện trong tác phẩm đều viết thể văn ký, truyện, chí, lục là các thể loại văn học Trung Quốc tuy có những biến đổi; và quy mô cấu trúc tác phẩm đều chia thành quyển, mỗi quyển 5 truyện. Riêng con số 5 truyện trong Giáp tập (tập A) của Kim Ngao tân thoại cũng là một đặc trưng được tác giả luận án quan tâm làm sáng tỏ khi so sánh theo loại hình các truyện của tác phẩm cũng như so sánh thực tế các truyện của ba tác phẩm.

Chương IV, tác giả luận án xây dựng tiêu chuẩn so sánh toàn bộ tác phẩm cũng có nghĩa là tác giả so sánh theo loại hình các truyện của ba tác phẩm.

Tác giả theo phương pháp phân loại truyền kỳ đời Đường, chia các truyện của ba tác phẩm làm hai loại: diễm tình kỳ quái.

Về loại truyện diễm tình, là loại truyện miêu tả sự li hợp trong tình yêu nam nữ, tác giả luận án căn cứ theo tình huống cuộc gặp nam nữ nhân vật chính chia ra 3 trường hợp: truyện viết về sự li hợp của nam nữ ở thế giới hiện thực; truyện viết về sự li hợp của nam nữ ở thế giới hiện thực rồi chuyển sang thế giới phi hiện thực; truyện viết về sự li hợp của nam với nữ hồn ma ở cả thế giới hiện thực và phi hiện thực (dưới đây viết tắt các loại hình truyện là LH1, LH2, LH3).

Tiễn đăng tân thoạiTruyền kỳ mạn lục có cả ba loại truyện, riêng Kim Ngao tân thoại không có LH1 - vì sao vậy ? Đây cũng là một đặc trưng của Kim Ngao tân thoại sẽ được tác giả luận án làm sáng tỏ khi so sánh LH2 và LH3 có ở cả ba tác phẩm là loại hình kết hợp giữa yếu tố truyền kỳ với yếu tố diễm tình. Tác giả luận án thông qua so sánh yếu tố truyền kỳ, để xem xét điểm khác nhau của loại diễm tình trong ba tác phẩm. Điều đó cũng có nghĩa là, tác giả thông qua so sánh loại hình truyện diễm tình của ba tác phẩm để xem xét sự tiếp nhận và biến đổi của Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục từ Tiễn đăng tân thoại. Kết quả so sánh cho thấy truyện diễm tình của Kim Ngao tân thoại đậm sắc thái truyền kỳ nhất, thể hiện rõ nhất động cơ sáng tác của tác giả - chủ đề diễm tình có mục đích để giải mối hận ở thế giới hiện thực: lòng trung thành và tình yêu dang dở. Đến đây đặc điểm truyện diễm tình không có LH1 của Kim Ngao tân thoại đã được tác giả luận án làm sáng tỏ. Tác giả Kim Ngao tân thoại đã chủ ý không xây dựng cốt truyện tình yêu nam nữ ở thế giới hiện thực mà mượn mô típ truyền kỳ cấu tạo cốt truyện ở thế giới hiện thực để ngụ ý động cơ sáng tác.

Truyền kỳ mạn lục như trên đã nói, có cả 3 loại hình truyện như Tiễn đăng tân thoại, nhưng kết quả so sánh của tác giả luận án cho thấy sự biến đổi của tác phẩm nhằm thể hiện ý đồ sáng tác mang tính giáo huấn của tác giả. Ngoài chủ đề diễm tình nêu cao trinh tiết phụ nữ, còn là lời cảnh báo người chồng ghen tuông mù quáng trong Nam Xương nữ tử lục, người chồng ham mê cờ bạc trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện, phê phán kẻ cậy quyền ỷ thế trong Thúy Tiêu truyện, nêu cao trinh tiết phụ nữ gắn với ca ngợi tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm trong Lệ Nương truyện hay chủ đề diễm tình hòa quyện với chủ đề bài trừ yêu quái trong Tây viên kỳ ngộ ký.

Về loại truyện kỳ quái miêu tả nhân vật của thế giới hiện thực và thế giới phi hiện thực, tác giả luận án căn cứ theo nội dung loại truyện kỳ quái chia ra: truyện xây dựng các bối cảnh không gian thế giới phi hiện thực khác nhau và truyện viết về sự giao du hay diệt trừ giữa các nhân vật của thế giới hiện thực với nhân vật của thế giới phi hiện thực.

Tiễn đăng tân thoạiTruyền kỳ mạn lục đều xây dựng các bối cảnh không gian như thế giới long cung, thế giới địa phủ, thế giới thần tiên, thế giới thiên đình và bao gồm truyện viết về sự giao du hay diệt trừ giữa nhân vật thế giới hiện thực với nhân vật thế giới phi hiện thực. Kim Ngao tân thoại có 3 truyện bao gồm cả 4 loại thế giới phi hiện thực trên, nhưng chỉ viết về sự giao du giữa văn nhân với nhân vật các thế giới phi hiện thực; trong đó 2 truyện có chủ đề xác nhận tài năng văn chương của nhân vật chính rồi được nhận chức quan ở thế giới phi hiện thực (Tiễn đăng tân thoạiTruyền kỳ mạn lục không có loại hình này), 1 truyện có chủ đề xác nhận tài năng văn chương của nhân vật chính rồi được nhận quà tặng (Tiễn đăng tân thoại có loại này, Truyền kỳ mạn lục không có loại này).

So sánh trên của tác giả luận án cho thấy Kim Ngao tân thoại đề cao việc xác nhận tài năng văn chương của nhân vật chính rồi được nhận chức quan (ở địa giới, ở thiên giới) hay được nhận quà tặng (ở long cung), đến đây con số 5 truyện của Kim Ngao tân thoại được tác giả luận án làm sáng tỏ. Tác giả Kim Ngao tân thoại đã không xây dựng những cốt truyện thường thấy ở truyện cổ Hàn Quốc, như sự linh nghiệm về thế giới kỳ lạ hay con người diệt trừ yêu quái, mà chỉ xây dựng truyện văn nhân giao du trong những thế giới lý tưởng rồi nhận được chức quan hay quà tặng. Và như vậy, 2 truyện loại diễm tình 3 truyện loại kỳ quái, 5 truyện của Kim Ngao tân thoại phù hợp nhất với động cơ sáng tác của tác giả. Kết quả so sánh của tác giả luận án cho thấy, nếu như ở truyện diễm tình, tác giả Kim Thời Tập đã hiện thực hóa những hy vọng của bản thân bằng cách đưa những yếu tố phi hiện thực vào trong thế giới hiện thực; thì ở truyện kỳ quái, tác giả lại huyễn tưởng hóa những hy vọng ấy, bằng cách kết cấu mộng du lấy thế giới phi hiện thực làm trung tâm.

Xem xét sự biến đổi của Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục, tác giả luận án cho rằng Truyền kỳ mạn lục biến đổi nhiều hơn về chủ đề sáng tác như tỷ lệ các truyện theo mô típ diệt trừ yêu quái hoặc châm biếm chính trị cao hơn Tiễn đăng tân thoại, sự kết hợp yếu tố truyền kỳ với yếu tố truyện cổ dân gian; kết hợp mô típ kỳ quái với diễm tình và với các sự kiện lịch sử, cũng như nhân vật lịch sử; hay về phương thức sáng tác, kết hợp lời bình của tác giả ở cuối truyện... Ngược lại, Kim Ngao tân thoại không theo hướng biến đổi phong phú về chủ đề mà khắc họa sâu sắc chủ đề, ngụ ý động cơ sáng tác, là "tiểu thuyết hình tượng hóa ý đồ sáng tác của tác giả".

Chương V, tác giả luận án so sánh thực tế các truyện của ba tác phẩm, theo loại hình các truyện kỳ quái và diễm tình để khảo sát về nhân vật, bối cảnh, kết cấu, phương thức sáng tác, chủ đề tư tưởng. Thông qua so sánh để tìm hiểu sự biến đổi về tác phẩm, tác giả, văn hóa cũng như quan hệ ảnh hưởng giữa Tiễn đăng tân thoại với Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục.

Về loại truyện diễm tình, tác giả luận án chọn ba truyện tiêu biểu của ba tác phẩm là Thúy Thúy truyện của Trung Quốc (sau đây gọi tắt là Thúy Thúy ), Lý Sinh khuy tường truyện của Hàn Quốc (sau đây gọi tắt là Lý Sinh ) và Lệ Nương truyện của Việt Nam (sau đây gọi tắt là Lệ Nương ). Sự khác nhau về tác giả, về địa lý là tiêu điểm để tác giả luận án xem xét diện mạo biến đổi của tác phẩm mỗi nước.

Kết quả so sánh của tác giả luận án cho thấy rõ, Thúy Thúy đậm sắc thái truyền kỳ diễm tình miêu tả tình yêu nam nữ. Lý SinhLệ Nương trên cơ sở kế thừa những tác phẩm văn học cổ của nước mình và tiếp nhận ảnh hưởng của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ diễm tình Trung Quốc nói chung, của Thúy Thúy nói riêng để thể hiện rõ động cơ sáng tác, phương pháp sáng tác của tác giả mang đặc điểm văn hóa riêng của mỗi nước. Ở Lý Sinh, chủ đề diễm tình ngụ ý giải hận, phương thức sáng tác xen lẫn thơ ca giữ vai trò đối thoại gián tiếp giữa nam nữ nhân vật chính được chú trọng, tư tưởng hiện thực nổi bật trên nền tư tưởng Nho giáo Phương Đông. Ở Lệ Nương, chủ đề diễm tình hòa quyện với chủ đề yêu nước đánh giặc ngoại xâm; tri thức uyên bác của tác giả về lịch sử và về văn học bộc lộ rõ nét, tư tưởng Nho giáo, tư tưởng Phật giáo kết hợp với tình cảm yêu nước, ý chí chống giặc ngoại xâm.

Về loại truyện kỳ quái, tác giả luận án chọn ba truyện tiêu biểu của ba tác phẩm: Thủy cung khánh hội lục của Tiễn đăng (sau đây gọi tắt Thủy cung), Long cung phó yến lục của Kim Ngao (sau đây gọi tắt là Long cung), Long đình đối tụng lục của Truyền kỳ mạn lục (sau đây gọi tắt là Long đình).

Kết quả so sánh của tác giả luận án cho thấy, Thủy cung là điển hình của truyền kỳ loại kỳ quái miêu tả sự giao du của văn nhân ở thế giới long cung kỳ lạ. Long cung dựa đúng theo cốt truyện của Thủy cung nhưng nhấn mạnh tài năng văn chương của nhân vật chính ở thế giới long cung, phương thức sáng tác vay mượn cốt truyện Thủy cung nhưng cấu trúc kiểu mộng du để khắc hoạ thế giới long cung văn chương hoa lệ hơn, thế giới long cung của Thủy cung thật kỳ lạ nhưng thế giới long cung của Long cung đầy chất lý tưởng và lãng mạn. Khác hẳn với Thủy cungLong cung, Long đình khắc họa ý đồ giáo huấn của tác giả, diệt trừ yêu quái làm hại dân lành, cốt truyện Long đình cấu tạo lại theo kiểu truyện cổ tích Việt Nam và thế giới long cung không phải là thế giới lí tưởng, kỳ lạ mà gần gũi với thế giới trần gian.

Qua việc so sánh các tác phẩm truyền kỳ của ba nước ở các chương IV, V và chương VI, tác giả luận án rút ra ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ ba nước:

Tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của tác giả Cù Hựu đời Minh Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á. Kim Ngao tân thoại của tác giả Kim Thời Tập Hàn Quốc và Truyền kỳ mạn lục của tác giả Nguyễn Dữ Việt Nam chịu ảnh hưởng một cách toàn diện từ phương diện thể loại của Tiễn đăng tân thoại- mở ra thời đại tiểu thuyết truyền kỳ ở nước mình; hơn thế nữa, Kim Ngao tân thoại còn ảnh hưởng tới sự xuất hiện Gia Tỳ Tử của tác giả Tiễn Tỉnh Liễu Ý Nhật Bản là tác phẩm mở đầu tiểu thuyết truyền kỳ Nhật Bản. Và như vậy, Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục chính là cầu nối cho quá trình tiếp nhận, biến đổi thể loại truyền kỳ và giao lưu văn hóa trong khu vực Đông Á. So sánh về sự biến đổi của Kim Ngao tân thoại Truyền kỳ mạn lục, tác giả luận án rút ra nhận xét: "Truyền kỳ mạn lục được coi là hình thái tiểu thuyết truyền kỳ phát sinh một cách tự nhiên; còn Kim Ngao tân thoại được coi là tiểu thuyết mượn mô típ truyền kỳ một cách có ý đồ", bởi thế nên giới nghiên cứu văn học Hàn Quốc nói chung coi Kim Ngao tân thoại là tiểu thuyết đầu tiên của Hàn Quốc.

Đọc luận án của tác giả Toàn Huệ Khanh, tôi cảm nhận được hiệu quả của một phương pháp nghiên cứu so sánh mang tính toàn diện về loại hình các tác phẩm tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á, trong đó bao gồm cả sự hình thành, quá trình cách tân thể loại, từ đó mở ra những khả năng mới trong nghiên cứu văn học, văn hóa khu vực Đông Á. Cứ hình dung tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á như một toà lâu đài cổ kính, các nhà khoa học đã và đang từng bước khám phá những bí ẩn; tuy thế, nhiều vấn đề của thực tiễn sáng tác mỗi dân tộc cần được tiếp tục bàn bạc và trao đổi.

N.T.N

CHÚ THÍCH

(1) Tác giả Toàn Huệ Khanh hiện là Giáo sư giảng dạy tại khoa tiếng Việt trường Đại học ngoại ngữ Hàn Quốc. Mới đây hai trong số các công trình nghiên cứu văn học so sánh của bà đã được dịch từ tiếng Hàn sang tiếng Việt:

(2) Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam (thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.

(3) Nghiên cứu so sánh truyện cổ Hàn Quốc và Việt Nam (thông qua tìm hiểu sự tích động vật). Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội 2005.

Ngoài ra, sách Kim Ngao tân thoại của tác giả Kim Thời Tập (1435-1493) cũng được dịch từ tiếng Hàn sang tiếng Việt (Nxb. Đại học Quốc gia, 2004). Cả ba sách đều do Giáo sư Toàn Huệ Khanh và nhà nghiên cứu Hàn Quốc Lý Xuân Chung dịch. Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn các dịch giả đã gửi tặng sách.

(4) Theo Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết giản sử của Giáo sư Trương Hiếu Huyền, khoa Quốc văn Đại học Koryo Hàn Quốc và theo Triều Tiên văn học sử, Vi Húc Thăng biên soạn, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1986. Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn Giáo sư Choe Yong Chu (Thôi Dung Triệt) và Giáo sư Chang Hyo Hyen (Trương Hiếu Huyền) ở trường Đại học Koryo Hàn Quốc đã tặng tôi những tài liệu quý giá.

(5) Xem thêm Nguyễn Thị Ngân: Vân Anh truyện trong dòng mạch tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc với đề tài tình yêu lãng mạn, Thông báo Hán Nôm học năm 1998; Tân La thù dị truyện và văn nhân truyền kỳ Thôi Chí Viễn, Thông báo Hán Nôm học năm 2000. Viện nghiên cứu Hán Nôm./.

TB

BÀN VỀ XUẤT XỨ VÀ Ý NGHĨA CỦA TỪ "VỌNG CỔ"

TRẦN PHƯỚC THUẬN

Vọng cổ là một tên gọi rất quen thuộc với người Việt Nam, nhất là ở Bạc Liêu, ai cũng biết nó là một bản nhạc phổ thông nhất và tiêu biểu nhất trong cổ nhạc Nam Bộ. Vọng cổ hiện nay còn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu âm nhạc và thực tế đã có nhiều sách vở, nhiều cuộc hội thảo khoa học đề cập đến. Tuy nhiên tên gọi Vọng cổ từ đâu mà có và ý nghĩa đích thực của nó là gì thì đến nay vẫn chưa có lời đáp thỏa đáng. Lý giải vấn đề này có 2 ý kiến tiêu biểu. Một là, ông Cao Kiến Thiết(1) cho rằng: “Theo ba tôi kể thì năm 1919 thầy Thống tức ông Trần Xuân Thơ(2) người miền Bắc, giỏi chữ Nho, ngụ tại An Trạch Đông, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đã đề nghị ba tôi thay chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thành Vọng cổ (tiếng trống vọng lại). Lý do là ba tôi lấy điển tích “Tô Huệ chức cẩm hồi văn” làm nội dung của bài ca và bản nhạc. Bởi lòng Tô Huệ khi chức Cẩm hồi văn thì nghe tiếng trống đánh từ xa vọng lại, chứ không phải là tiếng trống đêm, cho nên chữ Dạ cổ thì tối nghĩa còn chữ Vọng cổ thì càng làm rõ điển tích này đã chọn. Và trong cuộc họp đó ba tôi đã đồng ý đổi chữ Dạ cổ hoài lang thành Vọng cổ hoài lang, nghĩa là theo tiếng trống vọng lại mà nhớ chồng. Nhưng lúc đó bản Dạ cổ hoài lang đã được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi, nên phải mất thời gian khá lâu mới thống nhất được tên gọi “Vọng cổ”. Đây là lời phát biểu của ông Cao Kiến Thiết trong cuộc hội thảo khoa học về Cao Văn Lầu tổ chức tại Bạc Liêu năm 1989(3).

Hai là, nhạc sĩ Trần Tấn Hưng(4) nói rằng: “Chính soạn giả Trịnh Thiên Tư(5) trong buổi lễ giỗ tổ cổ nhạc ở Bạc Liêu năm 1935 đã đề nghị với ông Sáu Lầu và mọi người như sau: Bản nhạc gốc 20 câu của ông Sáu vẫn nên gọi là Dạ cổ hoài lang vì đó chính là cái tên gốc, cái tên lịch sử không nên sửa đổi. Hơn nữa nhớ chồng lúc ban đêm là điều thích hợp với người chinh phụ, lại hợp với nội dung bản nhạc của ông Sáu. Chúng ta không thể lấy ý nghĩa và hoàn cảnh của nàng Tô Huệ như thầy Thống đã nói lúc trước để sửa đổi cái tên Dạ cổ hoài lang, vì đây là hai tác phẩm khác nhau, cũng như không thể lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sửa Truyện Kiều của Nguyễn Du được. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay bản Dạ cổ hoài lang đã được biến thể sang nhịp 8, vậy cũng nên dùng 2 chữ Vọng cổ để đặt tên cho các bản đã được canh tân này. Nhưng Vọng cổ do tôi đề nghị hôm nay cũng không theo nghĩa “tiếng trống vọng lại” mà lại mang ý nghĩa “trông về truyền thống xưa”, vì các bản nhịp 8 tuy chữ đàn đã khác xa bản gốc, nhưng vẫn từ Dạ cổ hoài lang mà ra, vì vậy “truyền thống xưa” ở đây chính là bản Dạ cổ hoài lang. Ý kiến của ông Trịnh Thiên Tư được ông Sáu cùng mọi người chấp thuận và hoan nghênh nhiệt liệt. Và cũng từ đó đến nay mọi người đều gọi bản nhạc gốc là Dạ cổ hoài lang và gọi chung các bản được canh tân là Vọng cổ”.

Như vậy, từ Vọng cổ được xuất hiện do lời đề nghị của hai ông Trần Xuân Thơ và Trịnh Thiên Tư, nhưng từ Vọng cổ được sử dụng là của ông Tư hay ông Thơ ? Muốn giải quyết vấn đề này ắt hẳn phải xác định cái nghĩa đang được sử dụng của nó, nói cách khác bản Vọng cổ ngày nay - cái tên của nó mang ý nghĩa gì ?

Như trên đã nói từ Vọng cổ (望 鼓) của ông Trần Xuân Thơ, thì có nghĩa là “tiếng trống vọng lại” ? còn từ Vọng cổ (望 古) của ông Trịnh Thiên Tư có nghĩa là “trông về xưa”. Như vậy về phần nghĩa của hai từ này không dính dáng với nhau nhưng phần âm lại đồng âm nên thường hay nhầm lẫn. Muốn xác định từ Vọng cổ mang ý nghĩa nào, tốt nhất là dùng tên gốc của nhạc bằng chữ Hán để chứng minh và dùng phương pháp so sánh để giải quyết vấn đề này?

Hiện nay có một bản rất phổ thông gọi là Tân cổ giao duyên (新 古 交 緣), bản được thành lập do phương pháp gối đầu Vọng cổ của soạn giả Mộng Vân và sau đó được nhiều soạn giả khác thực hiện bằng cách kết hợp giữa tân nhạc và bản Vọng cổ. Chúng tôi tạm mượn cái tên Tân cổ giao duyên này để làm cơ sở để truy tìm ra cái nghĩa đang được sử dụng của từ Vọng cổ. Tạm nêu ra hai trường hợp như sau:

1/ Nếu từ cổ ở đây có nghĩa là cái trống thì Tân cổ giao duyên (新 鼓 交 緣) sẽ được hiểu là “cái trống mới giao duyên”. Nghĩa là không phù hợp với kết cấu và nội dung của bản Tân cổ giao duyên. Nếu cố hiểu là “mới” và “cái trống” giao duyên với nhau lại càng không có ý nghĩa gì cả.

2/ Nếu từ cổ ở đây có nghĩa là xưa thì Tân cổ giao duyên (新 古 交 緣) theo nghĩa đen là “mới” và “cũ” giao duyên, nghĩa bóng muốn nói tân nhạc và cổ nhạc cùng hòa hợp, thật đúng với kết cấu và nội dung bản Tân cổ giao duyên.

Rõ ràng là trường hợp thứ nhất không hợp lý. Và như vậy, cổ ở đây được xác định là xưa thì Vọng cổ phải mang nghĩa “trông về xưa” hay “chiêm ngưỡng truyền thống xưa”, ý nghĩa này là do ông Trịnh Thiên Tư đề xuất.

Tóm lại: Từ Vọng cổ có xuất xứ tại Bạc Liêu và được sử dụng từ tháng 08 năm ất Hợi (1935) do lời đề nghị của soạn giả Trịnh Thiên Tư.

Căn cứ vào lời phát biểu của ông Tư và xét theo thực tế thì Dạ cổ hoài lang và Vọng cổ là hai bản khác nhau, nhưng Vọng cổ do Dạ cổ hoài lang mà có, vì vậy Vọng cổ phải mang ý nghĩa “trông về truyền thống xưa”.

T.P.T

CHÚ THÍCH

(1) Con trai lớn của ông Cao Văn Lầu.

(2) Thầy tuồng đoàn hát bộ của ông Ba Xú, một trong những đoàn hát đầu tiên ở Bạc Liêu.

(3) Từ Dạ cổ hoài lang, Nxb. Mũi Cà Mau, 1992, tr.84-85.

(4) Nhạc sĩ Năm Nhỏ (1921-1982), học trò nhỏ nhất của Nhạc Khị, cũng là người thừa kế thờ Tổ Cổ nhạc Bạc Liêu sau khi thầy qua đời.

(5) Tác giả sách Ca nhạc cổ điển - 1962, nhà ở xã Vĩnh Mỹ, huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu, ông cũng là bạn đồng môn với nhạc sĩ Cao Văn Lầu.

TB

CHÙA LÁNG VÀ NHỮNG BỨC
HOÀNH PHI CÂU ĐỐI

THẾ ANH

Chùa Láng có tên chữ là Chiêu tự và được giải thích trong văn bia tạo dựng năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) hiện còn được bảo quản ở chùa như sau: Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư đại thánh nên gọi là Thiền (Cái nguyên hữu chiêu hiển gia tường, cố dĩ Chiêu danh. Đĩnh sinh Thiền sư đại thánh, cố dĩ Thiền danh). Chùa ở cuối phố chùa Láng, một đường phố đẹp mới được hoàn thành vào năm 2004 thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Về cảnh đẹp của chùa, bài văn bia đã mô tả: Thật là danh lam bậc nhất, thế gian không có chùa nào sánh kịp. Khí tốt Phượng thành bên hữu toả khắp, dòng sông Tô Lịch bên tả lượn vòng, Nhị Hà nghìn dặm quanh Kinh đô uốn khúc, như rồng xanh lớp lớp chầu về, Tản Viên dãy núi đầy khí đẹp hướng vào, như hổ trắng đàn đàn đến họp.

Chùa nằm trong một khuôn viên rộng và đẹp, có nhiều cây cổ thụ, có một quần thể kiến trúc nhịp nhàng cân đối hoà quyện với không gian và cảnh quan thiên nhiên. Cổng tam quan dẫn vào sân chùa có đôi câu đối viết theo lối Khải thư rất đẹp ghép bằng những mảnh sứ màu xanh làm tăng thêm vẻ trang nghiêm cổ kính và hoành tráng của ngôi chùa. Giữa sân chùa là một kiến trúc độc đáo - nhà Bát giác, nơi đặt kiệu thánh vào đêm trước ngày khai hội. Mái nhà lợp theo kiểu mái chồng, hai tầng, 16 mái trông rất thanh thoát và hài hòa. Phía sau sân chùa là tiền đường, trung đường, nhà thiêu hương, thượng điện, tả hữu hành lang, nhà tổ, nhà mẫu và vườn tháp. Thượng điện được bố trí theo kiểu “tiền Thánh hậu Phật”, với tượng đức thánh Láng đặt ở phía trước, phía sau là các lớp tượng Phật.

Để có được kiến trúc như hiện nay chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu và chắc chắn cũng có nhiều thay đổi so với ban đầu, nhưng điều quan trọng là những nét cổ kính về di tích và địa điểm của chùa vẫn giữ nguyên như cũ. Tuy nhiên, nay sát cạnh khuôn viên của chùa lại có thêm một công trình mới là, đài tưởng niệm liệt sĩ của Phường mà nhiều người cho là không phù hợp với cảnh quan chung.

Theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam thì Chùa Láng được xây dựng từ đời Lý Thần Tông (1128-1138)(1) để thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Tương truyền Từ Đạo Hạnh quê làng Láng (nay là phường Láng Thượng, quận Đống Đa) tu hành đắc đạo ở đây và hóa kiếp ở chùa Thầy (Quốc Oai, Hà Tây) đầu thai làm con Sùng Hiền hầu (em vua Lý Nhân Tông). Câu chuyện về Thiền sư Từ Đạo Hạnh mang nhiều màu sắc truyền kỳ. Theo các nguồn tư liệu còn lại đến hôm nay thì câu chuyện đại khái như sau: Từ Đạo Hạnh có tên là Từ Lộ con ông bà Từ Vinh và Tằng Thị Loan, học giỏi, đỗ đầu khoa Bạch Liên nhưng không ra làm quan, mà tìm đường sang Tây Trúc học đạo để trả thù cho cha. Nguyên Từ Vinh có hiềm khích với Diên Thành hầu, bị Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên giết chết rồi vứt xác xuống sông Tô Lịch. Sau khi đắc đạo và trả thù được cho cha Từ Đạo Hạnh đến trụ trì ở Chùa Phật Tích trên núi Sài Sơn (chùa Thầy). Bấy giờ vua Lý Nhân Tông không có con trai bèn xuống chiếu tìm con cháu tôn thất để nối ngôi. Em vua Lý Nhân Tông là Sùng Hiền hầu gặp Từ Đạo Hạnh nói chuyện cầu tự và Thiền sư hứa sẽ giúp đỡ vợ chồng Sùng Hiền hầu sắp sinh, Từ Đạo Hạnh tắm rửa và vào hang núi hóa thân. Sau đó vợ Sùng Hiền hầu sinh con trai đặt tên là Dương Hoán và được lập làm hoàng thái từ nối ngôi hoàng đế tức là Lý Thần Tông, kiếp sau của Từ Đạo Hạnh.

Hiện nay trong chùa có pho tượng Từ Đạo Hạnh bằng mây đan phủ sơn mặc áo cà sa và tượng Lý Thần Tông bằng gỗ ngồi trên ngai vàng. Dưới mái hành lang còn có hai dãy thập điện và 18 vị La Hán cùng nhiều tượng thờ có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX trải dài từ đời Lê đến triều Nguyễn được bàn tay tài hoa của các nghệ nhân tạo tác rất sinh động mang tính nghệ thuật cao. Theo lời kể của nhiều người ở địa phương thì trước đây trong chùa còn có một quyển kinh bằng đồng lá, tương truyền mỗi lần vua Lý lên chùa vẫn dùng để tụng. Sau này quyển kinh bị thất lạc. Ngoài những hiện vật quí như đồ thờ cổ, sắc phong, bia đá, chuông, án văn chạm rồng thế kỷ thứ XVII, kiệu rước thế kỷ thứ XVIII, trong chùa còn có một số lượng lớn đại tự, hoành phi, câu đối ca ngợi công đức Thiền sư cũng như triết lý của đạo Phật. Chùa đã được chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm vào năm 1946 và đã được công nhận di tích lịch sử - văn hóa đợt đầu trong cả nước năm 1962.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số câu đối và hoành phi tiêu biểu để bạn đọc tham khảo. Vì chưa có điều kiện lập sơ đồ để xác định vị trí cụ thể của từng câu đối và hoành phi, chúng tôi sẽ không theo thứ tự bố trí ở từng khu vực trong chùa.

1. “Thiền thiên khải thánh (Trời thiền sinh thánh)

2. “Chiêu Thiền tự” (Chùa Chiêu Thiền)

3. “Tuệ nhật” (Ánh tuệ - Mặt trời trí tuệ)

Trí tuệ Phật có thể chiếu sáng những chỗ tăm tối ở thế gian. Bởi vậy trí tuệ đó như mặt trời.

4. “Từ vân” (Mây lành)

Lòng từ bi quảng đại của đức Phật như đám mây lành che chỏ cho chúng sinh.

5. “Long Hoa hội” (Hội Long Hoa)

Khi đức Di lặc thành Phật, ngài ngồi ở dưới gốc cây long hoa, cánh hoa như đầu rồng nên gọi là long hoa. Ngày 8 tháng tư các chùa thiết trai lấy nước ngũ hương tắm Phật, tổ chức hội Long Hoa tượng trưng cho việc đức Di lặc hạ sinh.

6. “Nguyệt chi hằng” (Trăng vĩnh cửu - Nguyệt tròn đầy)

7. “Vi chi hiển” (Màu nhiệm rõ ràng)

8. “Kỷ sinh tu đáo” (Mấy kiếp tu nên)

9. “Chí tai khôn nguyên” (Lớn thay đức mẹ)

10. “Tổ ấn trùng quang” (Nếp tổ lại sáng ngời)

11. “Lý triều thánh đế” (Thánh đế Lý triều)

12. “Thánh cung vạn tuế” (Chúc thánh muôn năm)

13. “Hiển đế hóa thân” (Vĩnh hiển làm vua, biến hóa nên thần)

14. “Thánh đức nan tư” (Đức độ của thánh khôn lường)

15. “Thần công mạc trắc” (Công lao của thần khó mà tính được)

16. “Khâm phúc tứ dân” (Ban phúc cho dân)

17. “Túc ung” (Nghiêm túc hài hòa)

18. “Tĩnh khiết” (Tĩnh lặng, trong sạch)

19. “Thiền quynh nhật lệ” (Cửa thiền ngày đẹp)

20. “Phật tức tâm” (Phật là tâm)

21. “Tục lữ tiêu” (An niềm tục lụy)

22. “Không thị sắc” (Không là sắc)

Không và sắc là thuật ngữ của Phật giáo. Không có nghĩa là trống không, không có thật. Tất cả các sự vật trong tam giới đều không phải là thật. Nhận ra điều đó tức là Không. Phật giáo cho hết thảy cái gì có hình có tướng đều gọi là Sắc.

23. “Tĩnh tâm trần” (Lắng bụi lòng)

24. “Thất tịnh hoa” (Bảy hoa sen thanh tịnh)

25. “Khai kim thế giới” (Cõi vàng rộng mở)

26. “Diệu sắc thân” (Diệu sắc (Surùpa) phiên âm theo tiếng Phạn là Tô lâu ba. Sắc tướng báo thân báo độ của Phật tuyệt diệu không thể nghĩ bàn).

27. “Vô dữ đẳng” (Không gì sánh kịp)

28. “Kim ngọc lâu đài” (Lâu đài vàng ngọc)

29. “Diệu giác khế thiền tâm, Lý đại Bạch Liên tiêu đặc tuyển,

Xuân dương khai thắng hội, Sài nham Bích động đối linh quang”

(Diệu giác hợp lòng thiền, triều Lý Bạch Liên ngôi sáng tỏ,

Xuân dương mừng hội lớn, núi Thầy Bích Động ánh linh thiêng).

Diệc giác: Sự giác ngộ kỳ diệu. Thuật ngữ Phật giáo để chỉ tự mình giác ngộ (tự giác) và giác ngộ cho người khác (giác tha).

Xuân dương: chỉ mùa xuân.

30. “Nghĩa đại tiêm cừu, Tô Lịch trường lưu thiên thủy bích,

Cơ thần diệu hóa, Sài nham di tích thạch đài hương.”

(Nghĩa lớn báo thù, Tô Lịch chảy xuôi dòng nước biếc,

Mưu thần kỳ diệu, núi Sài lưu mãi đá rêu hương).

31. “Sài Lĩnh hưởng truyền kim cổ độc,

Tô Giang phái dẫn thủy thiên trường”

(Tiếng vọng núi Thầy xưa nay có một

Nước xuôi sông Tô chảy mãi không cùng).

32. “Tự hữu huy hoàng nghiêm thánh tượng

Phật tiền thí xả độ quần sinh.”

(Trước Phật chúng sinh ơn tế độ

Bên chùa tượng Phật dáng uy nghi).

33. “Sài Sơn thanh hóa, đế trụ tiền thân, Lạc Việt thiên thu tồn hiển tích.

Thiên tự linh quang, thiền môn thắng cảnh, Long Thành vạn cổ thử danh lam”

(Sài Sơn hóa thánh, kiếp trước của vua, Lạc Việt nghìn thu lưu tích cũ;

Chùa trời linh ứng, thắng cảnh thiền môn, Long Thành muôn thuở đất danh lam).

34. “Đống vụ nguy nguy hiển ứng trường chiêu thần diệu thuật,

Môn quynh đăng đãng ngưỡng chiêm như kiến Phật chân kinh.”

(Lầu điện nguy nga, phép diệu thần thông soi tỏ mãi

Cửa thiền lồng lộng ngước nhìn như thấy Phật chân kinh).

35. Không không sắc sắc thiên thu Phật

Hóa hóa sinh sinh thượng đẳng Thần

Không không sắc sắc ngàn thu Phật

Hóa hóa sinh sinh thượng đẳng Thần.

36. “Bát diệp sơn hà thanh hạc mộng

Thiên thu phàn tử ấp long môn”

(Tám lá non sông trong mộng hạc

Ngàn thu thôn ấp hướng long môn).

Bát diệp: Chỉ tám đời vua triều Lý.

37. “Sinh hóa hà niên tiên thị đế

Anh linh thử địa thánh nhi thần”

(Sinh hóa năm nào tiên hóa đế

Anh linh cõi ấy thánh bên thần).

38. “Học đạo Tây thiên, Sài Lĩnh thiên thu truyền Phật tích,

An dân Nam địa, Lý triều tái thế hiện Vương thân.”

(Học đạo Tây thiên, Sài lĩnh ngàn thu truyền Phật tích,

An dân đất Việt, Lý triều tái thế hiện Vương thân).

39. “Không không sắc sắc đoàn tuệ quả ư bát đan, An Lãng tự di dung vạn kỷ thanh linh chiêm giả kính,

Hóa hóa sinh sinh thoát nạp y nhi cổn miện, Phật Tích sơn cổ động thiên thu truyền ký ngưỡng di cao.”

(Không không sắc sắc, tròn quả phúc ở bát đan, chùa An Lãng di tích nơi đây, tiếng linh thiêng muôn đời chiêm bái,

Hóa hóa sinh sinh, cởi cà sa thay cổn miện, núi Phật Tích động xưa còn đó, chuyện thần kỳ ngàn thuở lưu danh).

Bát đan: Vật để đỡ lót ở dưới bát đựng thức ăn của các nhà sư.

Nạp y: Áo cà sa.

Cổn miện: Lễ phục nhà vua.

40. “Nhàn thú thị Tiên, bất tất Bồng Lai, Hải đảo,

Tâm thành tức Phật, hà tu Tây Trúc, Thiên Thai.”

(Nhàn thú là tiên, chẳng cứ Bồng Lai, Hải đảo;

Tâm thành tức Phật, cần chi Tây Trúc, Thiên Thai).

41. “Ngũ giới chân truyền khải địch hậu nhân thâm tự hải,

Nhất thành trai bạt kiều chiêm Bắc đẩu trọng như sơn).

(Ngũ giới còn truyền răn bảo người sau sâu tựa biển,

Nhất thành trai bạt ngẩng xem Bắc đẩu nặng nhường non).

Ngũ giới: chỉ năm điều cấm của những người theo đạo Phật: không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói càn, uống rượu.

42. “Khởi thị thuyết hoang đường, thần thánh đản sinh giai thực lục,

Hà tiêu khấu linh dị, quần phương đính đới tức danh lam.”

(Đâu phải chuyện hoang đường, thần thánh sinh ra đều chép thực,

Cần chi tìm linh dị, khắp nơi thờ phụng ấy danh lam).

Linh dị: chuyện linh thiêng khác thường.

T.A

CHÚ THÍCH

(1) Theo Hà nội - di tích lịch sử văn hóa và danh thắng, Doãn Đoan Trinh chủ biên - Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, H. 2000) thì Lý Anh Tông (1138-1175) cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha là Lý Thần Tông (kiếp sau của Từ Đạo Hạnh).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Từ điển di tích văn hóa Việt Nam , Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, 2003.

- Tuyển tập văn bia Hà Nội. Quyển 1, Nxb. KHXH, H. 1978.

- Hà Nội di tích lịch sử văn hóa và danh thắng, Trung tâm UNESCO... H. 2000.

- Hà Nội danh lam cổ tự, T1, Nxb. VH - TT, 2003.

- Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. KHXH, 2004.

- Việt điện U linh (bản chữ Hán của miền Nam.

- Một số tư liệu của Ban quản lý di tích chùa Láng.

TB

GÓP THÊM TƯ LIỆU VỀ LÃ XUÂN OAI

VIỆT ANH

Lã Xuân Oai (1838 - 1891) là một nhân vật lịch sử - văn hóa, sống hồi nửa sau thế kỷ XIX ở Việt Nam. Ông tên tự là Thúc Bào, quê làng Thượng Đồng, huyện Phong Doanh (nay thuộc xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Lã Xuân Oai là học trò Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, đỗ Cử nhân thứ hai khoa Giáp Tý (1864), Phó bảng khoa Ất Sửu (1865). Lã Xuân Oai từng đảm nhiệm các công việc: Tri huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Tri phủ Nho Quan (Ninh Bình), Án sát tỉnh Ninh Bình. Khi làm Chánh sứ sõn phòng ở Nho Quan, ông có công lập ra tổng Tam Đồng. Lã Xuân Oai được cử đi quân thứ Tuyên Quang, sung chức Tán tường quân vụ một thời gian; ở đây, ông đã có công góp phần bắt hai tướng phỉ cờ vàng Hoàng Sùng Anh và Lý Dường Tài. Khi thực dân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, ông được giữ chức Tuần phủ Lạng - Bình (tức Lạng Sõn và Cao Bằng), đang lo chống giặc thì được cử làm Chánh sứ chuẩn bị sang Trung Quốc. Nhưng sau đó, việc đi sứ phải hoãn lại. Cuối nãm 1883, ông và những bạn cùng chí hướng liên lạc với Lãnh binh Hà Nội mưu việc lớn ở đấy, nhưng không thành. Ông còn tạo điều kiện giúp đỡ khí giới cho các sĩ phu yêu nước Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Huy Quảng nhằm duy trì phong trào kháng chiến ở các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ. Sau đó, lại tổ chức để họ đưa nghĩa quân lên Lạng Sõn cùng mưu việc đánh Pháp. Triều Nguyễn lệnh cho tất cả quan quân ở Bắc Kỳ lập tức triệt binh để tỏ rõ tín nghĩa với Pháp, Lã Xuân Oai cự tuyệt lệnh đó, kiên trì chủ trường kháng chiến. Tháng 2 nãm 1885, hõn bảy ngàn quân Pháp tiến đánh Lạng Sõn, quân ta thế cô không thể chống nổi. Thành Lạng Sõn thất thủ, ông lánh sang Trung Quốc, cường quyết không làm tay sai.

Ba năm sau, vì còn mẹ già, ông về nước, mở trường dạy học ở Ninh Bình. Ông nối lại liên lạc với các sĩ phu yêu nước ở Ý Yên là Phong Doanh mưu việc cứu nước. Năm 1889, tại quê ông nổ ra cuộc khởi nghĩa vũ trang do học trò của ông là Cử nhân Phạm Trung Thứ chỉ huy. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Lã Xuân Oai bị địch bắt, kết án 10 nãm, đày đi Côn Ðảo và mất ở đó ngày 23 tháng 10 nãm Tân Mão (theo dường lịch là 24/11/1891).

Những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu để tâm sưu tầm thêm tư liệu về quá trình chống giặc ngoại xâm của Lã Xuân Oai, nhưng thư tịch để lại không nhiều. Tư liệu truyền miệng về Lã Xuân Oai được con cháu trong họ lưu giữ một số. Còn về tư liệu thành vãn, chỉ có Côn Đảo thi tập là sáng tác viết bằng chữ Hán, chữ Nôm của Lã Xuân Oai được truyền đến nay. Ngoài ra, trong thư tịch nước ngoài ghi chép về cuộc chiến Trung - Pháp trong mảng tư liệu này cũng có những thông tin quý về Lã Xuân Oai, nhưng chưa được giới thiệu đầy đủ. Trong bài viết này, xin được giới thiệu thêm tư liệu về Lã Xuân Oai từ nguồn thư tịch viết bằng chữ Hán đang được lưu giữ tại Trung Quốc và Việt Nam.

1. Từ Diên Húc là một nhân vật chính trị tầm cỡ của Trung Quốc ở nửa sau thế kỷ XIX, trực tiếp phụ trách quan hệ giữa triều đình nước Nam và triều đình nhà Thanh. Trong giai đoạn này, Lã Xuân Oai được triều đình giao trọng trách xử lý một số sự vụ ngoại giao giữa triều đình Việt Nam và Trung Quốc. Hai ông đã thư từ trao đổi với nhau.

Lá thư thứ nhất như sau:

復 越 南 諒 山 巡 撫 呂 春 葳

頃 奉 華 椷, 備 聆 壹 是. 承 詢 弟 出 國 關 日 期, 俟 後 有 定 期, 即 當 馳 聞. 北 寧 各 營 所 需 砲 械 等 件, 准 於 本 月 十 一 日 由 龍 州 起 運 出 關, 仍 用 民 夫 道 經 貴 治, 希 即 照 料 一 切, 用 牛 恐 亦 難 行 ; 分 飭 所 屬 地 方 官 多 撥 兵 民 護 運 , 俾 得 迅 速 前 進, 庶 免 有 誤. 事 泐 布 復, 即 頌 勛 安 ! 希 惟 朗 照 不 戩.

七 月 初 八 日 繕.

Phiên âm:

Phúc Việt Nam Lạng Sõn Tuần phủ Lã Xuân Oai,

Khoảnh phụng hoa giam, bị linh nhất thị. Thừa tuân đệ xuất quốc quan nhật kỳ, sĩ hậu hữu định kỳ, tức đường trì văn. Bắc Ninh các dinh sở nhu pháo giới đẳng kiện, chuẩn ý bản nguyệt thập nhất nhật do Long Châu khởi vận xuất quan, nhưng dụng dân phu đạo kinh quý trị, hy tức chiếu liệu nhất thiết. Dụng ngưu khủng diệc nan hành; phân sức sở thuộc địa phương quan đa bát binh dân hộ vận, tỷ đắc tấn tốc tiền tiến, thứ miễn hữu ngộ. Sự lặc bố phúc, tức tụng huân an ! Hy duy lãng chiếu bất tiển.

Thất nguyệt sõ bát nhật thiện.

Tạm dịch:

Phúc đáp Việt Nam Lạng Sõn Tuần phủ Lã Xuân Oai,

Vừa nhận thư quý, lời lời đều phải. Ðược hỏi về kỳ hạn qua cửa quan, phải đợi có thời gian cố định, nay đã có tin nên lập tức báo ngay.

Các loại pháo đạn, khí giới cần thiết mà các doanh trại Bắc Ninh yêu cầu, vào ngày 11 tháng này bắt đầu được vận chuyển từ Long Châu, vẫn sử dụng dân phu đi đường qua trị sở của quý quan, hy vọng được quan tâm lo liệu tất cả. Dùng trâu thì sợ cũng khó đi, vậy sức lệnh chia cho quan viên địa phường dốc sức điều binh dân hộ tống vận chuyển, để được tiến hành nhanh chóng, ngõ hầu tránh lỡ hạn kỳ.

Khắc sâu đáp rộng, công lớn xiết bao ! Rất mong quý quan xem xét không chậm trễ.

Viết ngày mùng 8 tháng 7.

Lá thư thứ hai:

復 越 南 諒 平 巡 撫 呂

頃 奉 惠 書,恍 如 晤 語。閣 下 與 子 明 , 蘿 洲 諸 君 子 皆 為 貴 國 重 臣 , 與 國 家 有 休 戚 相 關 之 義 ; 當 此 我 圉 孔 棘 , 惟 當 一 心 主 持 至 計 , 共 濟 艱 難 , 庶 河 山 有 再 造 之 時 , 他 族 不 容 偪 處 , 竹 帛 有 銘 勛 之 典 , 休 聞 垂 於 來 玆 。 鄙 人 從 事 其 間 , 盡 吾 心 力 所 能 為 , 進 則 有 以 靖 鄰 封,退 則 不 致 辱 君 命,何 幸 如 之 。 至 承 示 及 貴 同 事 阮 君 奉 委 業 已 抵 關 一 節,前 接 貴 嗣 王 咨 稱, 河 內 , 南 定 , 海 陽 各 省 尚 為 敵 據 , 擬 由 海 道 直 達 天 津 等 情 , 業 經 敝 省 兩 院 憲 據 情 入 告。將 來 冊 封 之 使,諒 由 粵 東 派 員 前 往 貴 國 舉 行 典 禮 也。

耑 泐 復 佈 , 順 候 台 祺 。 不 備 。

九 月 初 一 日 繕 發 。

Phiên âm:

Phúc Việt Nam Lạng Bằng Tuần phủ Lã,

Khoảnh phụng huệ thư, hoảng như ngộ ngữ. Các hạ dữ Tử Minh, La Châu chư quân tử giai vi quý quốc trọng thần, dữ quốc gia hữu hưu thích tường quan chi nghĩa; đường thử ngã ngữ khổng cức, duy đường nhất tâm chủ trì chí kế, cộng tế gian nan, thứ hà sõn hữu tái tạo chi thì, tha tộc bất dung bức xứ, trúc bạch hữu minh huân chi điển, hưu vãn thùy ý lai tư. Bỉ nhân tòng sự kỳ gian, tận ngô tâm lực sở năng vi, tiến tắc hữu dĩ tịnh lân phong, thoái tắc bất trí nhục quân mệnh, hà hạnh như chi. Chí thừa thị cập quý đồng sự Nguyễn quân phụng uỷ nghiệp dĩ để quan nhất tiết, tiền tiếp quý Tự Vường tư xưng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dường các tỉnh thượng vi địch cứ, nghĩ do hải đạo trực đạt Thiên Tân đẳng tình, nghiệp kinh tệ tỉnh lưỡng viện hiến cứ tình nhập cáo. Tường lai sách phong chi sứ, lượng do Việt Ðông phái viên tiền vãng quý quốc cử hành điển lễ dã.

Chuyên lặc phúc bố, thuận hậu đài kỳ. Bất bị.

Cửu nguyệt sõ nhất nhật thiện phát.

Tạm dịch:

Phúc đáp Việt Nam Lạng Bằng (Lạng Sõn - Cao Bằng) Tuần phủ Lã,

Vừa nhận thư quý, bừng như tỉnh ngộ. Các hạ cùng các ông Tử Minh, La Châu đều là trọng thần của quý quốc, đều có quan hệ tới việc vui buồn của quốc gia. Ðường lúc này biên cảnh nước tôi lâm cõn nguy cấp, chỉ chuyên tâm lo tính vẹn tròn kế sách, để vượt gian nan, ngõ hầu núi sông được tái tạo, kẻ ngoại tộc không thể o ép được, để sự tích được ghi khắc vẻ vang vào trúc lụa, danh tiếng được truyền lan vinh dự tới mai sau. Nay kẻ hèn tôi đường lúc tòng sự, dốc hết khả năng tâm sức mà làm, để thuận lợi thì yên định được biên cảnh lân bang, lỡ bước thì không đến nỗi làm nhục vường mệnh, được thế thì may mắn nào bằng.

Nhận được lời chỉ bảo của quý quan cùng với việc quý đồng sự Nguyễn quân vâng mệnh trên lên ải quan, trước đã được tiếp nhận thông tư về việc xưng hiệu của quý Tự vường; vì các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hải Dường hãy còn đang bị địch chiếm cứ, nên xét tình hình theo đường biển tới thẳng Thiên Tân rồi qua tỉnh tôi, các quan hai viện sẽ căn cứ tình hình mà báo cáo. Sứ giả mang sách phong dự tính sẽ do phái viên từ Việt Đông đem đến quý quốc để thi hành điển lễ.

Khắc sâu ban rộng, chờ đợi tin lành từ quý đại nhân ! Lời không nói hết.

Viết và gửi ngày mùng 1 tháng 9.

2. Tại làng Thượng Động (thường được gọi là Thượng Đồng), xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, trong nhà thờ họ Lã, hiện còn lưu giữ được một số hoành phi câu đối từ thế kỷ XIX. Trong đó, có một tấm hoành phi và một đôi câu đối có cùng một tác giả là một vị quan chức Trung Quốc. Nguyên vãn như sau:

呂 氏 祠 堂

光 緒 元 年 乙 亥 仲 冬 吉 旦

大 清 觀 察 使 者 趙 沃 拜 書

Phiên âm:

Lã thị từ đường

Quang Tự nguyên niên Ất Hợi trọng đông cát đán

Đại Thanh Quan sát sứ giả Triệu Ốc bái thư.

Tạm dịch:

Từ đường họ Lã

Ngày lành tháng 11 giữa đông niên hiệu Quang Tự thứ nhất, năm Ất Hợi 1875.

Vị Quan sát sứ giả nhà Ðại Thanh là Triệu Ốc kính viết.

燕 翼 遺 謀 仁 讓 著

鳳 毛 濟 美 禮 詩 書.

光 緒 元 年 供 進. 大 清 布 政 使 銜 趙 沃 拜 書.

Phiên âm:

Yến dực di mưu nhân nhượng trước

Phượng mao tế mỹ Lễ Thi thư.

Quang Tự nguyên niên cung tiến. Đại Thanh Bố chánh sứ hàm Triệu Ốc bái thư.

Tạm dịch:

Tính kế truyền đời, đức nhân, nhường rạng rỡ,

Tô đời thêm đẹp, sách Thi, Lễ ghi sâu.

Niên hiệu Quang Tự thứ nhất (1875) cung tiến. Vị quan chức hàm Bố chánh sứ nhà Ðại Thanh là Triệu Ốc kính viết.

Tên tác giả của hoành phi, câu đối được lưu giữ tại từ đường họ Lã là người ngoại quốc - một quan chức nước láng giềng. Tìm kiếm trong tư liệu lịch sử của Trung Quốc chép về thời kỳ này, thấy có đôi chỗ chép về nhân thân và chính tích của người có tên Triệu Ốc này. Nhà Thanh năm Đồng Trị thứ mười ba (1874), để trấn áp nội loạn trong địa phường mình đang cai trị, Tuần phủ Quảng Tây là Lưu Trường Hựu bổ nhiệm một viên chức trong đạo là Triệu Ốc làm Hữu Quân cai quản mười doanh; Triệu Ốc dẫn một lộ quân từ phủ Trấn An kéo ra thảo phạt loạn quân Hoàng Sùng Anh. Nãm 1875, Triệu Ốc cầm quân liên tiếp hạ được huyện Để Định, phủ Tường An; khiến cho thổ dân châu Bảo Lạc cùng dân tộc Bạch Miêu kéo nhau quy phục. Sùng Anh dẫn lực lượng lớn chống cự. Triệu Ốc tới gặp Từ Diên Húc khi ấy đang tòng sự ở Điền Châu để cầu viện; kết quả là Từ Diên Húc điều thêm hai doanh quân giúp sức. Vì thế, Sùng Anh quay đầu bỏ chạy. Triệu Ốc đốc thúc các cánh quân tiến công, lấy được Hà Dường. Ðến tháng 7, lại bắt sống và tiêu diệt được Hoàng Sùng Anh. Tư liệu cho thấy, Triệu Ốc là một quan chức có năng lực của triều đình nhà Thanh. Bút tích của họ Triệu người Trung Quốc được lưu giữ trong chốn thờ phụng tổ tiên của họ Lã ở Việt Nam thể hiện sự trân trọng của một quan chức nước ngoài đối với Lã Xuân Oai; đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ mối quan hệ mật thiết giữa Lã Xuân Oai - một quan chức Việt Nam, với quan chức Trung Quốc trong việc cùng nhau lo gìn giữ biên cường.

V.A

* Tư liệu trong đoạn vãn này được trích và dẫn theo sách Văn học yêu nước và cách mạng Hà Nam Ninh, tập I, Nxb. KHXH, H. 1981; sau đó được trích dẫn sử dụng lại trong bài viết Lã Xuân Oai, tư liệu còn gửi lại tham dự Hội nghị Thông báo Hán Nôm học 2004.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Trung Pháp chiến tranh tư liệu, Bắc Kinh xuất bản (tư liệu Trung văn).

2. Côn Đảo thi tập, bản viết tay (tư liệu Hán Nôm của gia đình cụ Lã Xuân Oai)./.

TB

BÀI VĂN BIA TỪ CHỈ THỜ HƯƠNG HIỀN XÃ VĂN ĐIỂN CỦA BÙI HUY BÍCH

NGUYỄN KIM MĂNG

Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tự Hy Chương, hiệu Tồn Am là một danh sĩ nổi tiếng đời Lê mạt. Ông người làng Định Công, huyện Thanh Trì (Hà Nội), sau sang ngụ cư ở làng Thịnh Liệt cùng huyện. Bùi Huy Bích là dòng dõi Quảng Quốc công Bùi Xương Trạch, Tiên Quận công Bùi Vĩnh Uyên, có nội tổ là Bùi Xương Tự, thân phụ là Bùi Dụng Tân đều là những nhân vật có tiếng trên văn đàn và lịch sử nước ta. Ông đỗ Hương cống đời Lê Hiển Tông (1762), năm 25 tuổi niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đỗ Hoàng giáp, làm Hiệp trấn Nghệ An, sau làm đến Hộ bộ Tả Thị lang Hành tham tụng, tước Kế Liệt hầu. Sau ông cáo bệnh về ở ẩn tại hai tỉnh Sơn Tây và Hải Dương. Khi Gia Long lên ngôi, khi quay trở về thành Thăng Long, được vua mời ra làm quan nhưng ông từ chối. Bùi Huy Bích cũng là một trong những học trò xuất sắc của Lê Quý Đôn. Tuy là quan đầu triều nhưng ông lại đặc biệt quan tâm tới những di sản về văn hóa, ông đã góp phần xây dựng đền Huỳnh Cung thờ Chu Văn An và tìm con cháu cụ ở Thanh Liệt để tiến triều. Ông trước thuật rất nhiều, trong đó tiêu biểu Hoàng Việt thi văn tuyển, Quốc triều chính điển, Nghệ An thi tập… hoặc hơn trăm bài thơ trong Tồn Am thi tập. Giờ đây chúng ta có thêm Thanh Trì huyện, Văn Điển xã Tiên hiền Từ chỉ bi ký của ông, điều đó càng giúp chúng ta hiểu thêm về tấm lòng và sự nghiệp sáng tác văn học phong phú của Tồn Am. Mặt khác, qua văn bia này thấy được truyền thống hiếu học của làng quê này như thế nào.

Tấm bia Từ chỉ hiện được dựng tại đình Văn Điển, đây là một loại bia rất ít gặp vì kiểu dáng và kích thước khá lớn của nó. Bia hình trụ tròn đều, ruột bia đặc, chất liệu đá xanh thường thấy ở vùng núi đá Ninh Bình và Thanh Hóa. Chiều cao của bia là 1,70m, lòng bia dài 1,10m. Bia không có hoa văn trang trí, chóp bia tròn, đế bia là hai phiến đá hình tròn, xung quanh thân bia khắc nội dung bài ký.

Bài ký chia làm hai phần.

Phần chính: Gồm 28 dòng (mỗi dòng 31 chữ) tổng cộng khoảng 900 chữ Hán, chữ to, nét khắc chân phương, rõ ràng.

Phần phụ: Khoảng hơn 20 dòng (mỗi dòng 20 chữ), có khắc xen nhiều chữ nhỏ. Phần này chép họ tên, chức tước và số ruộng của các tiền Hội và đương Hội cung tiến.

Bia được khắc vào mùa đông tháng 11 niên hiệu Gia Long thứ 2 (1803), tức là sau 2 năm kể từ khi Bùi Huy Bích trở về quê quán.

Theo văn bia thì Từ chỉ này thuộc Từ chỉ của hàng xã, được xây dựng vào đầu đời Nguyễn, ở bờ phía bắc sông Tô Lịch. Như chúng ta đã biết, Từ chỉ là nơi thờ các vị Tiên hiền những người trong làng đỗ đạt qua các khoa thi Nho học. Tuy nhiên, Chu Văn An không phải là người làng Văn Điển nhưng vẫn được phối thờ ở nơi trang trọng nhất, tại chính đàn của Từ chỉ này. Đó là vì người dân Văn Điển vô cùng sùng kính Văn Trinh công, một người đức cao, học rộng, đáng làm gương cho muôn đời. Người dân nơi đây mong muốn được phối thờ ngài là để mong cho con cháu đời sau hãy noi theo gương của Văn Trinh công, học rộng, đỗ cao, đem tài năng giúp ích cho đời.

Vốn dĩ bia dựng ở Từ chỉ của xã, nhưng Từ chỉ đã bị phá hủy trong cuộc kháng chiến chống Pháp, còn tấm bia này thì được các cụ trong làng chuyển về để ở đằng sau đình. Đến năm 1995, khi trùng tu đình làng Văn Điển, bia được dựng trang trọng trong nhà bia bên trái trước cổng đình.

Thiết nghĩ, đây là một bài văn bia có giá trị, do vậy chúng tôi xin dịch và giới thiệu phần nội dung chính của tấm bia, góp thêm một tư liệu quý cho những ai quan tâm đến nhân vật nổi tiếng này.

Dịch nghĩa:

BÀI KÝ BIA TỪ CHỈ THỜ HƯƠNG HIỀN CỦA XÃ VĂN ĐIỂN, HUYỆN THANH TRÌ(1)

Trong khoảng vũ trụ duy chỉ dựa vào sự giáo hoá của họ Khổng mà kỷ cương của muôn đời được lập. Vậy nên, đền thờ ngài đặc biệt được thịnh hành ở quốc đô(2) và các lộ(3). Còn đền thờ các vị Hương hiền(4) thì ở xã nào cũng có, vì các vị Hương hiền phải tuân theo sự giáo hoá của Tiên thánh(5). Đối với các Tiên thánh thì không dám khinh nhờn mà phải kính trọng các Hương hiền, điều đó cũng có nghĩa là tưởng nhớ tới các Tiên thánh vậy.

Xã Văn Điển huyện ta mới đầu học vấn còn kém, xuân thu nhị kỳ hàng năm đều kính bày bài vị của các Tiên thánh ra kính tế. Từ năm Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng (1743) trở về sau, trong khoảng 10 năm ấy đã có 7 người thi Hương đỗ Tam trường, 8 người đỗ Thư lại, nhưng người ra làm quan chỉ có 2. Bởi vậy đã cho xây Từ chỉ(6) bên bờ bắc sông Tô Lịch và quy định vị trí phối thờ như sau: Văn Trinh công Chu tiên sinh(7) thờ ở chính đàn, những người làm quan trong triều phối thờ ở bên phải đàn, còn các Nho sinh, Sinh đồ, Thư lại phối thờ ở bên trái đàn. Những người có học trò đỗ đạt, các chức sắc có quyền hành và những người đem ruộng cung tiến đều có thứ phẩm. Vào tháng 2 và tháng 8 năm Kỷ Sửu các đinh nam lập đàn tế tại đình, kể từ đó đến nay việc sửa lễ tế không bao giờ quên. Nếu xã không làm lễ tế các Tiên thánh, e rằng sẽ bị khinh nhờn. Trong miếu của xã, các bậc Nho sinh phải được đặt lên hàng đầu, Chu tiên sinh không phải người của xã Văn Điển cớ sao lại được rước về phối thờ tại đây? Xưa, nước ta vốn không có vị Tiên sư nào, mà phải thờ Tiên sư của nước láng giềng. Huống chi Chu Tiên sinh ta lại là bậc đại Nho của nước Việt, được tôn là Tiên hiền ở đất Thanh Trì. Tiên sinh dốc lòng hành đạo ở đời, mà không cầu được nổi danh. Lấy đức tính chính trực mà đứng giữa triều đình, biết lễ nghĩa tiến thoái trước sau. Nghe đến phong thái của Tiên sinh mà đủ khiến bọn gian tà run sợ. Người đời nói rằng Tiên sinh có trước tác Tứ thư thuyết ước, nay sách đã thất truyền, nhưng cái sở học của Tiên sinh thì vẫn còn đó. Từ khi có các môn đệ kiệt xuất, Tiên sinh chỉ chuyên chú dạy trò làm sáng đạo thánh, ngăn tà thuyết, bởi vậy đã tạo nên những bậc anh tài đem sức giúp đời. Lại thấy được cái chí lớn của bậc học giả nước Việt ta, mong được như các Tiên hiền mà không nhập Thánh vi diệu, nếu không Tiên sinh phải biết theo ai? Tôi thiết nghĩ: “Miếu thờ Thánh của xã Văn Điển, đã được các thân sĩ lo toan chu đáo, rồi định ra các lệ rõ ràng. Từ đây đạo truyền vào nước Nam, thì nước Nam đã trở thành một nước văn hiến. Từ đầu đời Trần trở về trước, ngoài những nơi đô thành ra, chưa nơi đâu có tên là “học cung văn miếu”. Nay không chỉ các lộ có trường dạy học, mà nhỏ như một xã cũng đã biết coi trọng việc này. Dường như văn minh ở đất kinh đô đã thấm vào sự giáo hóa của Tiên thánh ngày một sâu hơn, chẳng phải là thịnh lắm sao?

Mùa đông năm nay, bản xã gồm 29 người cùng nhau hội họp bàn về việc khắc bia đá ghi lại sự việc này. Họ đến nhờ tôi làm bài tựa.

Tôi nghĩ rằng: “Nước giếng ấm áp thì khí dương sẽ sinh, đó là điều có thể đoán biết vậy. Cây cỏ nẩy mầm, thì mùa xuân sẽ tới, đó là điều có thể đoán biết vậy. Trước bản xã chưa phụng thờ Nho học, thì gần đây đã coi trọng việc tế lễ các Thánh hiền trong miếu. Chẳng phải đời trước mở mang, đời sau hoàn thiện, để có cảnh Nho phong phấn chấn như thế chăng? Tôi vốn mến người làng Văn Điển mà văn phong được hưng phát từ đây. Tuy thế, việc hướng đạo mộ đức cũng không trái với ý đại lược của Văn Trinh công, xin đợi tài năng tự phát của kẻ vãn sinh. Nay có vài vị trưởng lão dày công vun đắp, tôi là người cùng huyện, có cái tình láng giềng qua lại với nhau đã từ lâu nên mới nói như vậy. Đó chỉ là thiển ý của riêng tôi khi lạm bàn về đức hạnh cao minh của bậc tiên triết, mong người đời sau hãy noi theo đường đó. Nếu nói rằng nêu lên để dạy bảo người đời, thì tôi là người vụng về đâu dám nhận.

Tồn Am Cư sĩ Bùi Bích, hiệu Hy Chương, người xã Định Công, đến ngụ cư ở làng Thịnh Liệt cùng huyện soạn văn bia.

Sau đông chí 3 ngày, mùa đông tháng Quý Hợi, niên hiệu Gia Long thứ 2 (1803) dựng bia.

Nguyễn Đức Trạch, người xã Nhân Mục Môn cùng huyện, kính cẩn viết chữ.

Bạt thạch đội Hoàng Đăng Năm khắc chữ.

(Phần phụ chỉ liệt kê tên người và số ruộng. Chúng tôi lược bỏ).

N.K.M

CHÚ THÍCH

(1) Xã Văn Điển, huyện Thanh Trì: nay là xóm Chùa, thôn Văn Điển, xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

(2) Quốc đô: chỉ kinh đô của một nước.

(3) Lộ: tên một đơn vị hành chính đời Trần - Lê tương đương với các tỉnh ở đời Nguyễn.

(4) Hương hiền: cũng giống như Tiên hiền, chỉ các vị Nho học, ở trong làng mà họ tên được ghi trong bia Từ chỉ.

(5) Tiên thánh: giống như Tiên sư, tức chỉ đức Khổng Tử là ông tổ của đạo Nho, được thờ trong các Văn miếu ở Kinh đô và hàng tỉnh thời xưa.

(6) Từ chỉ: Nơi thờ các vị Tiên hiền, những người trong làng đỗ đạt cao của các kỳ thi Nho học trước đây, để khuyến khích những người đi học. Cũng gọi là Văn chỉ.

(7) Văn Trinh công Chu tiên sinh: Chu Văn An (? - 1370), tự là Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, thuỵ Văn Trinh. Người thôn Văn, làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì. Ông là người tính nết ngay thẳng, khí tiết trong sạch, có tài văn chương, uyên thâm về đạo lý Nho học. Là thầy của những người nổi tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát. Khi mất được phối thờ tại Văn miếu, cùng hàng với các bậc hiền triết./.

TB

DANH MỤC TÁC GIẢ VÀ BÀI VIẾT ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM NĂM 2005

STT Tác giả Số thứ tự xếp theo bài viết
1 THẾ ANH 10
2 TRẦN THỊ KIM ANH 71
3 DƯƠNG TUẤN ANH 7
4 VIỆT ANH 19
5 PHAN VĂN CÁC 34
6 NGUYỄN TÀI CẨN - ĐÀO THÁI TÔN 43
7 ĐÀO PHƯƠNG CHI 13
8 TRẦN BÁ CHÍ 31
9 NGUYỄN ĐÌNH CHÚ 9, 24
10 NGUYỄN TUẤN CƯỜNG 58
11 NGUYỄN XUÂN DIỆN 54
12 PHAN ĐẠI DOÃN 65
13 CHU QUẾ ĐIỆN 28
14 BÙI XUÂN ĐÍNH 29
15 PHẠM MINH ĐỨC 72
16 LÂM GIANG 66
17 NGUYỄN THẠCH GIANG 33
18 NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN QUANG NGỌC 75
19 PHAN THANH HẢI 25
20 MAI XUÂN HẢI 11
21 NGUYỄN QUANG HỒNG - NGUYỄN TUẤN CƯỜNG 47
22 KIỀU THU HOẠCH 30
23 NGUYỄN DUY HỢP 17
24 LẠI VĂN HÙNG 18, 53
25 ĐẶNG QUỐC KHÁNH 61
26 NGUYỄN TÔ LAN 74
27 CHU TUYẾT LAN 48
28 NGUYỄN THỊ LÂM 12
29 LÊ THÀNH LÂN 76
30 TRỊNH KHẮC MẠNH 51, 63
31 NGUYỄN KIM MĂNG 4
32 NGUYỄN HỮU MÙI 62
33 NGUYỄN ĐĂNG NA 8, 57
34 VƯƠNG GIỚI NAM 1
35 NGUYỄN THÚY NGA 45
36 NGUYỄN THỊ NGÂN 36
37 NGUYỄN TÁ NHÍ 67
38 TRẦN NGHĨA 46, 50, 59
39 HOÀNG THỊ NGỌ 15
40 TCHN 60
41 HỒNG PHI - ƯƠNG NAO 3
42 NGUYỄN VĂN PHONG 27
43 TRẦN XUÂN PHƯƠNG - PHẠM HƯƠNG LAN 14
44 NGUYỄN ĐÌNH PHỨC 70
45 LÊ VĂN QUÁN 5, 38
46 NGUYỄN HOÀNG QUÝ 20
47 TRẦN LÊ SÁNG 68
48 BÙI DUY TÂN 37, 77
49 CAO TỰ THANH 39, 40
50 ĐINH KHẮC THUÂN 16
51 TRẦN PHƯỚC THUẬN 6
52 NGÔ ĐỨC THỌ 26, 49
53 NGUYỄN THỊ TRANG 64
54 NGUYỄN QUẢNG TUÂN 55
55 NGUYỄN MINH TƯỜNG - TRƯƠNG ĐỨC QUẢ 2
56 NGUYỄN MINH TƯỜNG 35, 44
57 P.V 21, 22, 23, 32, 52,
58 PHẠM THỊ THÙY VINH 41, 73
59 NGUYỄN CÔNG VIỆT 42
60 PHẠM TUẤN VŨ 56
61 NGUYỄN THÌN XUÂN 69
STT Tên bài viết Tên tác giả Kì / năm
1 Ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt Nam VƯƠNG GIỚI NAM 4/05
2 Bài Dạ Trạch Tiên gia phú ở đình làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. NGUYỄN MINH TƯỜNG - TRƯƠNG ĐỨC QUẢ 6/05
3 Bài thơ chữ Hán của Cử nhân Hồ Tam Kiểm ở núi An Hoạch (Thanh Hóa) PHI HỒNG - HƯƠNG NAO 5/05
4 Bài văn bia Từ chỉ thờ Hương hiền xã Văn Điển của Bùi Huy Bích NGUYỄN KIM MĂNG 6/05
5 Bàn về hai chữ “thiên thư” (天書) trong bài thơ Nam quốc sơn hà (南 国 山 河 ) LÊ VĂN QUÁN 2/05
6 Bàn về xuất xứ và ý nghĩa của từ "Vọng cổ" TRẦN PHƯỚC THUẬN 6/05
7 Biểu hiện hỗn tạp trong tư tưởng cuốn Liệt tử Xung hư chí đức chân kinh qua chữ “đạo” DƯƠNG TUẤN ANH 6/05
8 Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về chữ nghĩa NGUYỄN ĐĂNG NA 2/05
9 Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam NGUYỄN ĐÌNH CHÚ 2/05
10 Chùa Láng và những bức hoành phi câu đối THẾ ANH 6/05
11 Chuông thời Tây Sơn ở chùa Bà Móc (Hà Nội) MAI XUÂN HẢI 4/05
12 Chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương trong Thiên Nam ngữ lục NGUYỄN THỊ LÂM 5/05
13 Có nên xếp Mã Lân dật sử lục vào nhóm Lĩnh Nam chích quái ? ĐÀO PHƯƠNG CHI 4/05
14 Danh môc t¸c gi vµ bµi viÕt ®¨ng trªn T¹p chÝ H¸n N«m n¨m 2005 TRẦN XUÂN PHƯƠNG - PHẠM HƯƠNG LAN 6/06
15 Dấu vết cổ của phụ âm đầu tr qua chữ Nôm trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa HOÀNG THỊ NGỌ 5/05
16 Đặc điểm văn bản và nội dung tục lệ làng xã cổ truyền ĐINH KHẮC THUÂN 3/05
17 Đọc Bắc Ninh địa dư chí NGUYỄN DUY HỢP 1/05
18 Góp bàn về mấy chữ có liên quan đến bài thơ Nam quốc sơn hà LẠI VĂN HÙNG 3/05
19 Góp thêm tư liệu về Lã Xuân Oai VIỆT ANH 6/05
20 Giới thiệu tác giả tác phẩm Hoa trình tạp vịnh NGUYỄN HOÀNG QUÍ 6/05
21 Hội nghị Cộng tác viên năm 2005 P.V 1/05
22 Hội nghị Quốc tế về khoa cử và giáo dục tại Trung Quốc P.V 5/05
23 Hội thảo Nghiên cứu, giảng dạy Ngữ văn Hán Nôm trong nhà trường đại học và cao đẳng sư phạm P.V 2/05
24 Hôm nay với Nho giáo NGUYỄN ĐÌNH CHÚ 1/05
25 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, một pho sử liệu đồ sộ về triều Nguyễn PHAN THANH HẢI 3/05
26 Khảo cứu văn bản Thiên hạ bản đồ NGÔ ĐỨC THỌ 1/05
27 Kho “Mộc thư”chùa Vĩnh Nghiêm với giá trị văn hóa NGUYỄN VĂN PHONG 5/05
28 Kinh học CHU QUẾ ĐIỆN 6/05
29 “La Nội, Ỷ La nhị xã lưu truyền khu hổ lang tích” và thực chất về hội “Giã La” BÙI XUÂN ĐÍNH 6/05
30 Lại bàn về bài Phong Kiều dạ bạc - Một bài thơ gây xôn xao dư luận ngàn đời KIỀU THU HOẠCH 4/05
31 Lãng Sơn - một vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981) TRẦN BÁ CHÍ 2/05
32 Lễ ra mắt Chương trình văn hóa thơ luật Đường Việt Nam P.V 2/05
33 Lời thì thầm của Nguyễn Du với chúng ta qua Đoạn trường tân thanh NGUYỄN THẠCH GIANG 3/05
34 Luận Ngữ ngu án tác phẩm kinh học đáng chú ý PHAN VĂN CÁC 1/05
35 Một bài thơ của Giáo thụ Trần Hữu Đáp mới phát hiện ở động Kính Chủ NGUYỄN MINH TƯỜNG 2/05
36 Một công trình khoa học nghiên cứu so sánh tác phẩm truyền kỳ Đông Á NGUYỄN THỊ NGÂN 6/05
37 Nam quốc sơn hà và Quốc tộ - Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn BÙI DUY TÂN 5/05
38 Nhân đọc bài “Góp bàn về mấy chữ có liên quan đến bài thơ Nam quốc sơn hà” của Lại Văn Hùng . LÊ VĂN QUÁN 4/05
39 Nho giáo với lịch sử Việt Nam CAO TỰ THANH 1/05
40 Nói thêm về bài thơ gởi vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh CAO TỰ THANH 3/05
41 Quang Châu hương ước điều mục (光 州 鄉 約 條 目) bản hương ước cổ nhất của Triều Tiên PHẠM THỊ THÙY VINH 3/05
42 Sơ lược về 24 tiết khí trong Đại Nam hiệp kỷ lịch thời Nguyễn NGUYỄN CÔNG VIỆT 6/05
43 Sự đóng góp của bản Liễu Văn Đường trong việc tìm ra niên đại Truyện Kiều NGUYỄN TÀI CẨN - ĐÀO THÁI TÔN 3/05
44 Suy nghĩ về lợi ích của việc dạy chữ Hán cho lớp trẻ hiện nay. NGUYỄN MINH TƯỜNG 3/05
45 Tài liệu địa chí cổ với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội NGUYỄN THÚY NGA 2/05
46 Thể loại từ của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với văn học bản địa TRẦN NGHĨA 5/05
47 Thi kinh giải âm văn bản sớm nhất hiện còn khắc in năm Vĩnh Thịnh 1714 NGUYỄN QUANG HỒNG - NGUYỄN TUẤN CƯỜNG 3/05
48 Thông tin bổ sung về tài liệu Hán Nôm ở Đông Dương văn khố (the Tôyo Bunko) Nhật Bản CHU TUYẾT LAN 5/05
49 Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm NGÔ ĐỨC THỌ 3/05
50 Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc. TRẦN NGHĨA 1/05
51 Thư tịch Hán Nôm Việt Nam luận giải về Tứ thư và Ngũ kinh hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm TRỊNH KHẮC MẠNH 1/05
52 Thuyết trình về lịch sử và nghệ thuật ca trù Việt Nam P.V 5/05
53 Tìm hiểu thêm về sự nghiệp thơ văn Vũ Tông Phan (1800-1851) LẠI VĂN HÙNG 5/05
54 Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát, đánh giá về trữ lượng và giá trị) NGUYỄN XUÂN DIỆN 1/05
55 Trả lời ông Lê Thành Lân Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép NGUYỄN QUẢNG TUÂN 3/05
56 Trữ tình ở thể phú PHẠM TUẤN VŨ 4/05
57 Truyền kỳ mạn lục dưới giác độ so sánh NGUYỄN ĐĂNG NA 6/05
58 Truyện Kiều: thử tìm hiểu một âm đọc cổ của chữ Nôm vẫn đọc là “dấn/giấn” NGUYỄN TUẤN CƯỜNG 5/05
59 Từ những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc, tìm hiểu cách tiếp nhận văn học nước ngoài của ông cha ta TRẦN NGHĨA 2/05
60 Tưởng nhớ Giáo sư Trần Quốc Vượng; Tưởng nhớ Tiến sĩ Hoàng Văn Lâu TCHN 5/05
61 Ứng dụng của học thuyết Âm dương trong y học cổ truyền ĐẶNG QUỐC KHÁNH 4/05
62 Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở cấp làng xã qua tư liệu văn bia NGUYỄN HỮU MÙI 4/05
63 Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam TRỊNH KHẮC MẠNH 4/05
64 Văn bia ở văn chỉ xã Lạc Đạo NGUYỄN THỊ TRANG 1/05
65 Văn bia thần đạo Đỗ Khuyển - Khai quốc công thần thời Lê sơ PHAN ĐẠI DOÃN 4/05
66 Văn bia văn chỉ Yên Phụ văn phái huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh LÂM GIANG 4/05
67 Văn tế các vong hồn tử nạn ở Đa Giá Thượng NGUYỄN TÁ NHÍ 6/05
68 Văn thơ chữ Hán đền Bà Hải TRẦN LÊ SÁNG 6/05
69 Vấn đề đưa chữ Hán vào nhà trường phổ thông NGUYỄN THÌN XUÂN 3/05
70 Về bài từ Ngọc lang quy của Khuông Việt NGUYỄN ĐÌNH PHỨC 5/05
71 Về chữ “是” trong bài “Khảo cứu văn bản Thiên hạ bản đồ” của PGS. Ngô Đức Thọ TRẦN THỊ KIM ANH 5/05
72 Về hai tấm bia ghi về Hội Hoa Nghiêm ở chùa Tảo Sách của Cúc Hương Hoàng Thúc Hội PHẠM MINH ĐỨC 5/05
73 Về một chi họ Lý (Đình Bảng) ở huyện Đông Sơn, Thanh Hóa PHẠM THỊ THÙY VINH 2/05
74 Về một vài bản tuồng mới sưu tầm tại thành phố Huế NGUYỄN TÔ LAN 5/05
75 Về tấm bia Cổ tích linh từ bi ký dưới chân núi Tử Trầm (Hà Tây) do nhà sử học Lê Tung soạn NGUYỄN QUANG HÀ NGUYỄN QUANG NGỌC 2/05
76 Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép LÊ THÀNH LÂN 2/05
77 Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam BÙI DUY TÂN 1/05