BÀI DẠ TRẠCH TIÊN GIA PHÚ Ở ĐÌNH LÀNG QUAN XUYÊN XÃ THÀNH CÔNG HUYỆN NGUYỄN MINH TƯỜNG 1. Lời giới thiệu Vào ngày 16-4-2005, nhận lời mời của các đồng chí phụ trách thôn Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, chúng tôi đã về làm việc tại địa phương trong một ngày. Công việc mà các đồng chí phụ trách thôn Quan Xuyên đề nghị chúng tôi giúp cho là: dịch những hoành phi, câu đối, bia đá... chữ Hán tại các công trình văn hóa - lịch sử trên địa bàn thôn như: đình Quan Xuyên, Nhà Sắc, Miếu Thượng, Miếu Trung, Miếu Hạ và tấm bia đá đặt tại bên tả (nhìn từ ngoài vào) của đình. Trong đó, đặc biệt có một bức hoành phi treo tại gian giữa nhà đại bái của đình Quan Xuyên, khắc toàn bộ bài Dạ Trạch Tiên gia phú khá nổi tiếng (có chừng 550 chữ). Ðây là một di sản vật thể quý báu về nhiều mặt (chạm khắc, thư pháp, nội dung văn học...) mà nhân dân Quan Xuyên còn lưu giữ được. Bài Dạ Trạch Tiên gia phú vốn khắc tại đền Đa Hòa, thuộc tổng Mễ Sở, huyện Ðông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Ða Hòa, xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên). Ðền Đa Hòa là ngôi đền chính thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa. Vào nãm Ất Tỵ (1905) đời vua Thành Thái, một đàn cầu tiên được tổ chức tại đền Đa Hòa. Những người hầu dưới đàn là: Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên... Bài Dạ Trạch Tiên gia phú này được coi là bài Giáng bút của Chử Đạo tổ (tức Chử Đồng Tử). Chu Mạnh Trinh, người xã Phú Thị, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), từng giữ chức Quang lộc Tự khanh, kính chép và khắc bài phú Giáng bút này ở đền Đa Hòa. Vào nãm Quý Sửu (1913) đời vua Duy Tân, các cụ phụ lão làng Quan Xuyên đã khắc lại bài Dạ Trạch Tiên gia phú này từ đền Đa Hòa đưa về treo tại đình. Nhận thấy đây là một bài phú hay, nội dung liên quan tới Chử Đồng Tử, một nhân vật được Đạo giáo Việt Nam suy tôn vào hàng "Tứ bất tử", chúng tôi xin phiên dịch toàn bộ bài Dạ Trạch Tiên gia phú và công bố để bạn đọc xa gần cùng tham khảo. 2. Nguyên vãn chữ Hán. 成 泰 乙 巳 年 渚 仙 降 筆 自 題 雲 萬 丈 以 騰 飛 水 千 重 而 凝 碧. 扁 舟 泛 泛 誰 從 訪 蓬 萊, 仙 境 之 虛 無; 夜 澤 汒 汒 我 獨 創 帝 子, 因 緣 之 屬 籍; 相 傳: 江 上 遇 帝 女 以 成 親; 誰 識: 仙 班 本 珠 宮 之 莫 逆. 雄 王 之 世, 十 九 相 承; 帝 曰 有 邦 彼 姝 者 子. 乃 從 星 而 顯 耀, 還 駕 雨 來, 赤 藤 勝 地 之 間; 因 伐 木 以 裁 樓, 別 向 風 雲, 白 社 圓 基 之 址. 是 處: 仙 家 雞 犬 何 事 飛 昇? 偶 然: 大 澤 龍 蛇 相 爭 議 庇. 杏 栽 千 樹, 藥 餌 遍 于 方 民; 桃 贈 萬 家 吟 詠 傳 於 閭 里. 辰 則: 月 明 夜 靜, 江 闊 天 空, 或 乘 舟 而 垂 釣, 或 倚 杖 以 迎 風; 攜 手 高 臺, 弄 玉 蕭 而 鳳 降, 識 針 還 閣, 聯 金 字 而 鵷 同. 塵 埃 風 景 蒼 汒 難 容, 久 住 日 月 壺 天 隱 約. 每 動 高 蹤; 乃 辭 帝 闕. 上 表 陳 情 旋 向 神 山 訪 予 舊 侶 赤 松 是 兩 師 遊 戲; 神 農 之 世 非 遙, 蒼 頡 生 文 字 契 書, 盤 古 之 風 可 緒. 四 頭 江 渚, 三 十 年 之 托 跡 轉 空; 扣 手 天 門 九 萬 里 之 高 歌 有 自. 樓 臺 亦 幻 瞕 梓 空 留; 江 波 寂 寂 雲 影 悠 悠. 閱 古 今 之 陳 跡; 感 禾 黍 於 郊 邱. 萊 公 之 陳 成 陰 德 能 兆 異; 潘 令 之 桃 結 寔, 我 亦 何 求. 然 而: 召 伯 甘 堂 不 伐; 總 人 心 之 思 慕 所 以: 羊 公 硯 首 興 言 示 來 者 之 綢 繆. 曰 庭 曰 閣; 成 邑 成 都. 仙 蹤 縹 緲; 往 事 荒 蕪. 筇 笠 林 間, 齊 東 野 之 妄 言 可 笑; 幕 帷 江 上, 趙 北 方 之 佳 話 還 無 虛 以 傳 虛 信 難 可 信. 人 思 舊 澤 而 不 忘; 我 獨 飛 靈 而 默 運 石 豈 能 言 之 物, 轉 也 何 曾; 檜 傳 左 紐 之 文, 是 誰 繆 引. 遂 使: 千 秋 韻 事, 遺 跡 難 憑 識; 看 一 片 閒 雲 仙 跡 不 泯. 維 新 癸 丑 春. 恭 錄 多 禾 祠. 乩 文. 奉 鐫 拜 進. 3. Phiên âm Thành Thái Ất Tỵ niên CHỬ TIÊN GIÁNG BÚT TỰ ĐỀ Vân vạn trượng dĩ đằng phi; thủy thiên trùng nhi ngưng bích. Biển chu phiếm phiếm thùy tòng phỏng Bồng Lai tiên cảnh chi hư vô; Dạ Trạch mang mang ngã độc sáng đế tử nhân duyên chi thuộc tịch. Tương truyền Giang thượng ngộ Đế nữ dĩ thành thân; Thùy thức: Tiên ban bản châu cung chi mạc nghịch. Hùng Vương chi thế, thập cửu tương thừa. Đế viết hữu bang, bỉ xu giả tử. Nãi tòng tinh nhi hiển diệu, hoàn giá vũ lai, Xích Đằng thắng địa chi gian; Nhân phạt mộc dĩ tài lâu, biệt hướng phong vân, Bạch Xã viên cõ chi chỉ. Thị xứ: Tiên gia kê khuyển hà sự phi thăng ? Ngẫu nhiên: Ðại trạch long xà tương tranh nghị tý. Hạnh tài thiên thụ, dược nhị biến vu phương dân; Ðào tặng vạn gia, ngâm vịnh truyền ý lý lý. Thời tắc: Nguyệt minh dạ tĩnh, giang khoát thiên không, Hoặc thừa chu nhi thùy điếu, hoặc ỷ trượng dĩ nghênh phong; Huề thủ cao đài, lộng ngọc tiêu nhi phượng giáng, Thức châm hoàn các, liên kim tự nhi uyển đồng. Trần ai phong cảnh thương mang, nan dung cửu trú; nhật nguyệt hồ thiên ẩn ước, mỗi động cao tung; Nãi từ Đế khuyết, thướng biểu trần tình; Toàn hướng thần sõn, phỏng dư Cựu lữ; Xích Tùng, thị lưỡng sư du hý, Thần Nông chi thế phi dao; Thương Hiệt sinh văn tự khế thư, Bàn Cổ chi phong khả tự. Tứ đầu giang chử, tam thập niên chi thác tích chuyển không; Khấu thủ thiên môn, cửu vạn lý chi cao ca hữu tự. Lâu dài diệc huyễn; hiêu tử không lưu. Giang ba tịch tịch, vân ảnh du du. Duyệt cổ kim chi trần tích; Cảm hòa thử ý giao khâu. Lai Công chi trúc thành âm đức năng t riệu dị; Phan Lệnh chi đào kết thực, ngã diệc hà cầu. Nhiên nhi: Thiệu Bá cam đường bất phạt, tổng nhân tâm chi tý mộ; Sở dĩ: Dương Công nghiễn thủ hứng ngôn, thị lai giả chi trù mâu. Viết đình viết các; thành ấp thành đô. Tiên tung phiêu diểu; vãng sự hoang vu. Cung lạp lâm gian, Tề đông dã chi võng ngôn khả tiếu; Mạc duy giang thượng, Triệu bắc phương chi giai thoại hoàn vô. Hý dĩ truyền hý; tín nan khả tín. Nhân tý cựu trạch nhi bất vong; ngã độc phi linh nhi mặc vận. Thạch khởi năng ngôn chi vật, chuyển dã hà tằng; Cối truyền tả nữu chi văn, thị thùy mậu dẫn. Toại sử: Thiên thu vận sự, di tích nan bằng; Thức khán nhất phiến nhàn vân, tiên tung bất dẫn. Duy Tân, Quý Sửu niên. Cung lục Đa Hòa từ. Kê vãn. Phụng thuyên bái tiến. v3. Dịch nghĩa: Năm Ất Tỵ (1905) đời vua Thành Thái ĐỀ TỰ BÀI GIÁNG BÚT CỦA TIÊN ÔNG CHỬ ĐỒNG TỬ Sông núi này, mắt ta ngắm nhìn đã mấy nghìn năm. Một khúc ca cao vút, lan rộng tới chín tầng trời. Trăng sáng chiếu qua mây, bóng nhạt nhòa bên bến sông. Sóng nước vỗ đập vào bãi cát vùng đất Dạ Trạch. Câu chuyện thần tiên về chiếc gậy trúc, nón gồi chẳng qua là ngoa truyền. Ai hay được chuyện tình duyên của con gái vua chốn đền đài ? Dù cho sống nõi trần gian, nhưng cuối cùng chẳng nhiễm bụi trần. Mọi chuyện rồi cũng theo Rùa vàng ra biển hay gửi trong đám mây trôi. DẠ TRẠCH TIÊN GIA PHÚ (PHÚ VỀ GIA ĐÌNH TIÊN ĐẦM DẠ TRẠCH) Ngọc khuyết thiên cao; Kim đài rộng mở(3). Mây muôn trượng bay cao, nước ngàn trùng xanh biếc(4). Thuyền một lá lênh đênh, ai hỏi chốn Bồng Lai cảnh tiên hư ảo? Dạ Trạch đầm nước mênh mang, ta riêng tạo chốn nhân duyên đế tử(5). Tương truyền: May gặp Hoàng nữ trên sông, rồi bỗng nên duyên phận; Biết chăng: Vốn nòi tiên sánh cùng Cung ngọc, chẳng có gì sai(6). Hùng Vương dựng nghiệp, mười chín đời truyền(7); Đế thất lưu truyền: Nước có mỹ nữ(8). Theo sao mờ hiển hiện, chớp nhoáng như xe bay, mây lướt mưa sa ở đất Xích Đằng(9) thắng địa. Rồi nhân thế phạt mộc dựng lầu cao, gây riêng một chốn, thử hỏi nào đâu Bạch Xã(10) nền xưa. Đây xứ: Tiên cung chó gà kêu việc xẩy đột nhiên; Bỗng nhiên: Ðầm lớn rồng rắn quấn quýt sao mà lạ(11). Trồng hạnh nghìn cây, thuốc hay giúp khắp thôn dân; Gây đào vạn cửa, lời ca vang cùng làng xóm. Những khi: Trãng sáng, đêm thanh, trời cao sông rộng. Lúc cưỡi thuyền buông câu; lúc tựa song đón gió. Dan tay gác tía, thổi sáo ngọc mà chim phượng đến; cài trâm bên cửa biếc, gắn chữ vàng mà uyên ương theo. Trần ai phong cảnh mênh mang, ở lâu sao đặng; Nhật nguyệt giữa trời lấp lánh, thấy động dấu tiên. Bèn từ cung khuyết. Dâng biểu trần tình; Lại đến thần sõn, tìm hỏi bạn cũ(12). Cùng Xích Tùng tiên du hí, đời ThầnNông(13) ngày ấy chẳng xa; Chữ Thương Hiệt(14) thư khế rành rành, phong tục Bàn Cổ(15) đã có đầu mối. Bốn mặt nước Chử giang(16), ba mươi nãm thác tích, thành không; Hai tay chắp Cửu trùng, ngàn muôn dặm ngợi ca từ đó(17). Lâu đài nào thấy; gậy cũ còn đâu ! Sóng nước mịt mờ, mây mù thãm thẳm. Xem nào cổ kim dấu tích; nhớ tới ngoài nội lúa ngô. Trúc Lại Công(18) nay đã thành rừng, đức thường gây dựng. Ðào Phan Lệnh(19) vốn đà kết trái, ta cũng chẳng cầu. Thế mà: Như Thiệu Bá(20) không phạt Cam đường, cũng là do lòng người tư mộ; Sở dĩ: Dương Công(21) miệt mài bên nghiên mực, chỉ mong cho hậu thế đẹp tươi. Nào đền, nào gác, nên xóm nên thành. Gót tiên lãng đãng; sự cũ hoang vu. Khá cười chuyện cũ hoang đường, gậy trúc nón gồi, đồn khắp hang cùng ngõ hẻm; Lại hay giai thoại vu võ, màn gấm bên sông, lan xa ngoài cõi Bắc phương(22). Đồn lại thêm đồn; tin không khó biết. Đầm xưa, người nhớ mãi chẳng quên; Ta vẫn riêng cưỡi mây phù vận(23). Đá có nói gì đâu mà vật chuyển dời, sao thế ? Sao truyền cội gốc chuyện xa xưa ngoa vậy, vì ai ?(24). Khiến cho: Nghìn thu chuyện đẹp, tích cũ khó tìm bằng cứ? Hãy nhìn một áng mây trôi, dấu tiên như còn tỏ. Năm Quý Sửu (1913) đời vua Duy Tân. Kính cẩn chép từ đền Đa Hòa - Văn giáng bút. Kính sao - Bái tiến. 4. Mấy nhận xét Bài Dạ Trạch Tiên gia phú, chúng tôi vừa giới thiệu trên đây, như đã nói, được coi là bài phú "giáng bút" của Chử Đạo tổ trong một đàn cầu tiên tổ chức tại đền Đa Hòa vào năm 1905. Ðàn cầu tiên là một sinh hoạt có tính văn hóa của những người trí thức Nho học Việt Nam tồn tại từ lâu đời. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đạo cầu hồn vốn xuất hiện ở Âu Mỹ, được gọi là Thần linh học hoặc Linh hồn học (Psychisme) thấm dần vào Việt Nam. Từ đó, đàn cầu tiên có thêm "người bạn đồng hành" là đạo cầu hồn nên đã phát triển hõn trước. Cầu hồn của phương Tây với cầu tiên của nước ta không khác nhau là bao nhiêu. Về nguyên tắc hai bên đều thừa nhận linh hồn bất tử, có thể giao tiếp với người sống, tiên "giáng bút" thì làm thõ, làm phú bằng chữ Hán. Cầu hồn kiểu Tây thì ai chấp bút cũng được, hồn nhập bút viết bằng chữ Pháp hay chữ Quốc ngữ. Bài Dạ Trạch Tiên gia phú được ra đời trong hoàn cảnh Cầu tiên do các vị Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên... tổ chức. Loại trừ việc coi bài phú này của Chử Đồng Tử là điều khó có thể tin được, thì giá trị văn học của Dạ Trạch Tiên gia phú là điều dễ nhận thấy. Về hình thức cũng như nội dung, Dạ Trạch Tiên gia phú có vẻ tài hoa, thanh thoát tương tự như bài Thanh Tâm Tài Nhân phú được sáng tác trong Tao đàn Hưng Yên cũng vào nãm 1905 của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Do vậy, chúng tôi cho rằng việc công bố rộng rãi bài Dạ Trạch Tiên gia phú này, để bạn đọc tham khảo và thưởng thức là điều hết sức cần thiết và bổ ích. N.M.T - T.Đ.Q CHÚ THÍCH (1) Nguyên chú: thủy trúng chính long. (2) Nguyên chú: chữ nguyên chú nhỏ quá lại mờ chưa đọc được. (3) Nguyên chú: lời này có ý rằng bậc quân chủ yêu quý người hiền tài. (4) Nguyên chú: ta từ trên trời giáng xuống trần thế. (5) Nguyên chú: lời này nói về đất nõi ta ẩn cư. (6) Nguyên chú: ta cùng Chính phi Tiên Dung đều là tiên giáng thế, không cần Hoàng đế cho phép, vẫn kết hôn. (7) Nguyên chú: Ta giáng sinh vào giờ Sửu (1-3 giờ sáng) năm Bính Ngọ, đời Hùng Vương thứ 19. (8) Nguyên chú: bỉ xu giả tử: Đẹp sao người con gái kia. Câu này dẫn trong Kinh Thi lấy ý thơ chương Đại Minh. (9) Xích Đằng: tên xã thuộc tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên), có đền thờ Phạm Bạch Hổ và Ðinh Ðiền. (10) Bạch Xã: địa danh thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam của Trung Quốc. Theo sách Tấn thư - Ðổng Kinh truyện, thì Bạch Xã là nõi mà Ðổng Kinh đã từng trú ngụ. Theo sách Thủy kinh chú thì Bạch Xã là tên làng cũ ở phía Bắc của sông Dương Cừ chảy qua tỉnh Hà Nam. (Từ nguyên-Bộ Ngọ, tr.57). (11) Nguyên chú: ta có phép thần có thể biến thành rồng rắn giáng thế. (12) Xích Tùng - Cựu Lã: tức Xích Tùng Tử và Lã Động Tân là hai vị tiên trong số Bát tiên của Đạo giáo thần tiên Trung Quốc. (13) Thần Nông: một trong Ngũ Đế trong thời Cổ sử Trung Quốc (Phục Hy - Thần Nông - Hoàng đế - Đế Nghiêu - Ðế Thuấn). Tương truyền, Thần Nông đã có công dạy dân biết trồng trọt, phân biệt ngũ cốc và chữa bệnh. (14) Thương Hiệt: người đời cổ của Trung Quốc, được coi là có công sáng tạo ra chữ Hán. (15) Bàn Cổ: một nhân vật thần thoại Trung Hoa. (16) Chử giang: dòng sông Hồng chảy qua bãi Chử Xá, nõi Chử Đồng Tử sinh ra và kiếm sống rồi gặp Tiên Dung công chúa. (17) Nguyên chú: Ta ngồi hóa giờ Dậu (7-8 giờ tối), ngày 20-9 nãm Giáp Tuất đời Hùng Vương thứ 20. Ta sống tại cõi trần 30 năm, lại trở về cõi tiên, vì thế cổ nhân bảo ta có thuốc trường sinh. (18) Lại Công Trúc: truyện Khấu Chuẩn trong Tống sử chép: Khấu Chuẩn bị biếm đến Lôi Châu, chết ở đó. Người nhà đem ông về táng ở Tây Kinh. Ðường đi qua huyện Công An, phía Nam Kinh Châu, nhân dân thương ông đều đặt bàn thờ, khóc lóc tế ông bên đường. Họ còn bẻ trúc trồng hai bên đường... Sau này trúc khô đi nhưng sinh ra măng. Do đó ở Kinh Châu có loại trúc Lại Công. ( ừ nguyên - bộ Thân, tr.27). (19) Phan Lệnh đào: chưa rõ ở điển nào. (20) Thiệu Bá: tên thật là Thiệu Công Thích, con thứ của Chu Vãn Vương. Ông cùng với Chu Công Ðán là hai bề tôi có công lao cai trị đất nước thời Chu Võ Vương và Chu Thành Vương. Thiệu Công Thích vốn họ Cõ, nhưng vì được chia thái ấp ở đất Thiệu, nên xưng là Thiệu Bá. Thiệu Bá xử kiện công minh cho dân, người sau trồng cây cam đường để ghi nhớ! Kinh Thi có câu: Tế phế cam đường (Rườm rà cây cam đường). (21) Dương Công: chưa rõ tác giả sử dụng điển nào. (22) Nguyên chú: sử nước ngoài có nói chuyện gậy trúc, nón gồi, có lý nào như vậy! Thế mà con Hoàng đế giáng vân. Đến việc vây màn bên sông, đều do bọn dốt nát bịa ra, không thể tin cậy được ! Muốn hiểu thấu phải tự mình lý giải mà thôi ! (23) Nguyên chú: nói là phi linh, tức giáng linh, đây dùng lời của bậc đại nhân. (24) Nguyên chú: chỗ này cũng nên xem xét cho rõ ràng./. |
I | II | III | IV | V | VI | VII | VIII | Tổng | |
nghĩa a | 1 | 2 | 1 | 2 | 1 | 5 | 12 | ||
nghĩa b | 3 | 1 | 4 | ||||||
nghĩa c | 3 | 1 | 8 | 1 | 2 | 1 | 2 | 18 | |
nghĩa d | 8 | 8 | 16 | ||||||
nghĩa e | 5 | 23 | 1 | 2 | 1 | 5 | 37 | ||
Tổng | 9 | 26 | 1 | 14 | 3 | 4 | 10 | 20 | 87 |
Liệt tử | Lão tử | |
nghĩa a | 12 | |
nghĩa b | 4 | 17 |
nghĩa c | 18 | 24 |
nghĩa d | 16 | 34 |
nghĩa e | 37 | |
Tổng | 87 | 75 |
DANH MỤC TÁC GIẢ VÀ BÀI VIẾT ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM NĂM 2005 |
STT | Tác giả | Số thứ tự xếp theo bài viết |
1 | THẾ ANH | 10 |
2 | TRẦN THỊ KIM ANH | 71 |
3 | DƯƠNG TUẤN ANH | 7 |
4 | VIỆT ANH | 19 |
5 | PHAN VĂN CÁC | 34 |
6 | NGUYỄN TÀI CẨN - ĐÀO THÁI TÔN | 43 |
7 | ĐÀO PHƯƠNG CHI | 13 |
8 | TRẦN BÁ CHÍ | 31 |
9 | NGUYỄN ĐÌNH CHÚ | 9, 24 |
10 | NGUYỄN TUẤN CƯỜNG | 58 |
11 | NGUYỄN XUÂN DIỆN | 54 |
12 | PHAN ĐẠI DOÃN | 65 |
13 | CHU QUẾ ĐIỆN | 28 |
14 | BÙI XUÂN ĐÍNH | 29 |
15 | PHẠM MINH ĐỨC | 72 |
16 | LÂM GIANG | 66 |
17 | NGUYỄN THẠCH GIANG | 33 |
18 | NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN QUANG NGỌC | 75 |
19 | PHAN THANH HẢI | 25 |
20 | MAI XUÂN HẢI | 11 |
21 | NGUYỄN QUANG HỒNG - NGUYỄN TUẤN CƯỜNG | 47 |
22 | KIỀU THU HOẠCH | 30 |
23 | NGUYỄN DUY HỢP | 17 |
24 | LẠI VĂN HÙNG | 18, 53 |
25 | ĐẶNG QUỐC KHÁNH | 61 |
26 | NGUYỄN TÔ LAN | 74 |
27 | CHU TUYẾT LAN | 48 |
28 | NGUYỄN THỊ LÂM | 12 |
29 | LÊ THÀNH LÂN | 76 |
30 | TRỊNH KHẮC MẠNH | 51, 63 |
31 | NGUYỄN KIM MĂNG | 4 |
32 | NGUYỄN HỮU MÙI | 62 |
33 | NGUYỄN ĐĂNG NA | 8, 57 |
34 | VƯƠNG GIỚI NAM | 1 |
35 | NGUYỄN THÚY NGA | 45 |
36 | NGUYỄN THỊ NGÂN | 36 |
37 | NGUYỄN TÁ NHÍ | 67 |
38 | TRẦN NGHĨA | 46, 50, 59 |
39 | HOÀNG THỊ NGỌ | 15 |
40 | TCHN | 60 |
41 | HỒNG PHI - ƯƠNG NAO | 3 |
42 | NGUYỄN VĂN PHONG | 27 |
43 | TRẦN XUÂN PHƯƠNG - PHẠM HƯƠNG LAN | 14 |
44 | NGUYỄN ĐÌNH PHỨC | 70 |
45 | LÊ VĂN QUÁN | 5, 38 |
46 | NGUYỄN HOÀNG QUÝ | 20 |
47 | TRẦN LÊ SÁNG | 68 |
48 | BÙI DUY TÂN | 37, 77 |
49 | CAO TỰ THANH | 39, 40 |
50 | ĐINH KHẮC THUÂN | 16 |
51 | TRẦN PHƯỚC THUẬN | 6 |
52 | NGÔ ĐỨC THỌ | 26, 49 |
53 | NGUYỄN THỊ TRANG | 64 |
54 | NGUYỄN QUẢNG TUÂN | 55 |
55 | NGUYỄN MINH TƯỜNG - TRƯƠNG ĐỨC QUẢ | 2 |
56 | NGUYỄN MINH TƯỜNG | 35, 44 |
57 | P.V | 21, 22, 23, 32, 52, |
58 | PHẠM THỊ THÙY VINH | 41, 73 |
59 | NGUYỄN CÔNG VIỆT | 42 |
60 | PHẠM TUẤN VŨ | 56 |
61 | NGUYỄN THÌN XUÂN | 69 |
STT | Tên bài viết | Tên tác giả | Kì / năm |
1 | Ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt Nam | VƯƠNG GIỚI NAM | 4/05 |
2 | Bài Dạ Trạch Tiên gia phú ở đình làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. | NGUYỄN MINH TƯỜNG - TRƯƠNG ĐỨC QUẢ | 6/05 |
3 | Bài thơ chữ Hán của Cử nhân Hồ Tam Kiểm ở núi An Hoạch (Thanh Hóa) | PHI HỒNG - HƯƠNG NAO | 5/05 |
4 | Bài văn bia Từ chỉ thờ Hương hiền xã Văn Điển của Bùi Huy Bích | NGUYỄN KIM MĂNG | 6/05 |
5 | Bàn về hai chữ “thiên thư” (天書) trong bài thơ Nam quốc sơn hà (南 国 山 河 ) | LÊ VĂN QUÁN | 2/05 |
6 | Bàn về xuất xứ và ý nghĩa của từ "Vọng cổ" | TRẦN PHƯỚC THUẬN | 6/05 |
7 | Biểu hiện hỗn tạp trong tư tưởng cuốn Liệt tử Xung hư chí đức chân kinh qua chữ “đạo” | DƯƠNG TUẤN ANH | 6/05 |
8 | Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về chữ nghĩa | NGUYỄN ĐĂNG NA | 2/05 |
9 | Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam | NGUYỄN ĐÌNH CHÚ | 2/05 |
10 | Chùa Láng và những bức hoành phi câu đối | THẾ ANH | 6/05 |
11 | Chuông thời Tây Sơn ở chùa Bà Móc (Hà Nội) | MAI XUÂN HẢI | 4/05 |
12 | Chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương trong Thiên Nam ngữ lục | NGUYỄN THỊ LÂM | 5/05 |
13 | Có nên xếp Mã Lân dật sử lục vào nhóm Lĩnh Nam chích quái ? | ĐÀO PHƯƠNG CHI | 4/05 |
14 | Danh môc t¸c gi vµ bµi viÕt ®¨ng trªn T¹p chÝ H¸n N«m n¨m 2005 | TRẦN XUÂN PHƯƠNG - PHẠM HƯƠNG LAN | 6/06 |
15 | Dấu vết cổ của phụ âm đầu tr qua chữ Nôm trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa | HOÀNG THỊ NGỌ | 5/05 |
16 | Đặc điểm văn bản và nội dung tục lệ làng xã cổ truyền | ĐINH KHẮC THUÂN | 3/05 |
17 | Đọc Bắc Ninh địa dư chí | NGUYỄN DUY HỢP | 1/05 |
18 | Góp bàn về mấy chữ có liên quan đến bài thơ Nam quốc sơn hà | LẠI VĂN HÙNG | 3/05 |
19 | Góp thêm tư liệu về Lã Xuân Oai | VIỆT ANH | 6/05 |
20 | Giới thiệu tác giả tác phẩm Hoa trình tạp vịnh | NGUYỄN HOÀNG QUÍ | 6/05 |
21 | Hội nghị Cộng tác viên năm 2005 | P.V | 1/05 |
22 | Hội nghị Quốc tế về khoa cử và giáo dục tại Trung Quốc | P.V | 5/05 |
23 | Hội thảo Nghiên cứu, giảng dạy Ngữ văn Hán Nôm trong nhà trường đại học và cao đẳng sư phạm | P.V | 2/05 |
24 | Hôm nay với Nho giáo | NGUYỄN ĐÌNH CHÚ | 1/05 |
25 | Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, một pho sử liệu đồ sộ về triều Nguyễn | PHAN THANH HẢI | 3/05 |
26 | Khảo cứu văn bản Thiên hạ bản đồ | NGÔ ĐỨC THỌ | 1/05 |
27 | Kho “Mộc thư”chùa Vĩnh Nghiêm với giá trị văn hóa | NGUYỄN VĂN PHONG | 5/05 |
28 | Kinh học | CHU QUẾ ĐIỆN | 6/05 |
29 | “La Nội, Ỷ La nhị xã lưu truyền khu hổ lang tích” và thực chất về hội “Giã La” | BÙI XUÂN ĐÍNH | 6/05 |
30 | Lại bàn về bài Phong Kiều dạ bạc - Một bài thơ gây xôn xao dư luận ngàn đời | KIỀU THU HOẠCH | 4/05 |
31 | Lãng Sơn - một vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981) | TRẦN BÁ CHÍ | 2/05 |
32 | Lễ ra mắt Chương trình văn hóa thơ luật Đường Việt Nam | P.V | 2/05 |
33 | Lời thì thầm của Nguyễn Du với chúng ta qua Đoạn trường tân thanh | NGUYỄN THẠCH GIANG | 3/05 |
34 | Luận Ngữ ngu án tác phẩm kinh học đáng chú ý | PHAN VĂN CÁC | 1/05 |
35 | Một bài thơ của Giáo thụ Trần Hữu Đáp mới phát hiện ở động Kính Chủ | NGUYỄN MINH TƯỜNG | 2/05 |
36 | Một công trình khoa học nghiên cứu so sánh tác phẩm truyền kỳ Đông Á | NGUYỄN THỊ NGÂN | 6/05 |
37 | Nam quốc sơn hà và Quốc tộ - Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn | BÙI DUY TÂN | 5/05 |
38 | Nhân đọc bài “Góp bàn về mấy chữ có liên quan đến bài thơ Nam quốc sơn hà” của Lại Văn Hùng . | LÊ VĂN QUÁN | 4/05 |
39 | Nho giáo với lịch sử Việt Nam | CAO TỰ THANH | 1/05 |
40 | Nói thêm về bài thơ gởi vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh | CAO TỰ THANH | 3/05 |
41 | Quang Châu hương ước điều mục (光 州 鄉 約 條 目) bản hương ước cổ nhất của Triều Tiên | PHẠM THỊ THÙY VINH | 3/05 |
42 | Sơ lược về 24 tiết khí trong Đại Nam hiệp kỷ lịch thời Nguyễn | NGUYỄN CÔNG VIỆT | 6/05 |
43 | Sự đóng góp của bản Liễu Văn Đường trong việc tìm ra niên đại Truyện Kiều | NGUYỄN TÀI CẨN - ĐÀO THÁI TÔN | 3/05 |
44 | Suy nghĩ về lợi ích của việc dạy chữ Hán cho lớp trẻ hiện nay. | NGUYỄN MINH TƯỜNG | 3/05 |
45 | Tài liệu địa chí cổ với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội | NGUYỄN THÚY NGA | 2/05 |
46 | Thể loại từ của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với văn học bản địa | TRẦN NGHĨA | 5/05 |
47 | Thi kinh giải âm văn bản sớm nhất hiện còn khắc in năm Vĩnh Thịnh 1714 | NGUYỄN QUANG HỒNG - NGUYỄN TUẤN CƯỜNG | 3/05 |
48 | Thông tin bổ sung về tài liệu Hán Nôm ở Đông Dương văn khố (the Tôyo Bunko) Nhật Bản | CHU TUYẾT LAN | 5/05 |
49 | Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm | NGÔ ĐỨC THỌ | 3/05 |
50 | Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc. | TRẦN NGHĨA | 1/05 |
51 | Thư tịch Hán Nôm Việt Nam luận giải về Tứ thư và Ngũ kinh hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm | TRỊNH KHẮC MẠNH | 1/05 |
52 | Thuyết trình về lịch sử và nghệ thuật ca trù Việt Nam | P.V | 5/05 |
53 | Tìm hiểu thêm về sự nghiệp thơ văn Vũ Tông Phan (1800-1851) | LẠI VĂN HÙNG | 5/05 |
54 | Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát, đánh giá về trữ lượng và giá trị) | NGUYỄN XUÂN DIỆN | 1/05 |
55 | Trả lời ông Lê Thành Lân Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép | NGUYỄN QUẢNG TUÂN | 3/05 |
56 | Trữ tình ở thể phú | PHẠM TUẤN VŨ | 4/05 |
57 | Truyền kỳ mạn lục dưới giác độ so sánh | NGUYỄN ĐĂNG NA | 6/05 |
58 | Truyện Kiều: thử tìm hiểu một âm đọc cổ của chữ Nôm vẫn đọc là “dấn/giấn” | NGUYỄN TUẤN CƯỜNG | 5/05 |
59 | Từ những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc, tìm hiểu cách tiếp nhận văn học nước ngoài của ông cha ta | TRẦN NGHĨA | 2/05 |
60 | Tưởng nhớ Giáo sư Trần Quốc Vượng; Tưởng nhớ Tiến sĩ Hoàng Văn Lâu | TCHN | 5/05 |
61 | Ứng dụng của học thuyết Âm dương trong y học cổ truyền | ĐẶNG QUỐC KHÁNH | 4/05 |
62 | Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở cấp làng xã qua tư liệu văn bia | NGUYỄN HỮU MÙI | 4/05 |
63 | Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam | TRỊNH KHẮC MẠNH | 4/05 |
64 | Văn bia ở văn chỉ xã Lạc Đạo | NGUYỄN THỊ TRANG | 1/05 |
65 | Văn bia thần đạo Đỗ Khuyển - Khai quốc công thần thời Lê sơ | PHAN ĐẠI DOÃN | 4/05 |
66 | Văn bia văn chỉ Yên Phụ văn phái huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh | LÂM GIANG | 4/05 |
67 | Văn tế các vong hồn tử nạn ở Đa Giá Thượng | NGUYỄN TÁ NHÍ | 6/05 |
68 | Văn thơ chữ Hán đền Bà Hải | TRẦN LÊ SÁNG | 6/05 |
69 | Vấn đề đưa chữ Hán vào nhà trường phổ thông | NGUYỄN THÌN XUÂN | 3/05 |
70 | Về bài từ Ngọc lang quy của Khuông Việt | NGUYỄN ĐÌNH PHỨC | 5/05 |
71 | Về chữ “是” trong bài “Khảo cứu văn bản Thiên hạ bản đồ” của PGS. Ngô Đức Thọ | TRẦN THỊ KIM ANH | 5/05 |
72 | Về hai tấm bia ghi về Hội Hoa Nghiêm ở chùa Tảo Sách của Cúc Hương Hoàng Thúc Hội | PHẠM MINH ĐỨC | 5/05 |
73 | Về một chi họ Lý (Đình Bảng) ở huyện Đông Sơn, Thanh Hóa | PHẠM THỊ THÙY VINH | 2/05 |
74 | Về một vài bản tuồng mới sưu tầm tại thành phố Huế | NGUYỄN TÔ LAN | 5/05 |
75 | Về tấm bia Cổ tích linh từ bi ký dưới chân núi Tử Trầm (Hà Tây) do nhà sử học Lê Tung soạn | NGUYỄN QUANG HÀ NGUYỄN QUANG NGỌC | 2/05 |
76 | Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép | LÊ THÀNH LÂN | 2/05 |
77 | Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam | BÙI DUY TÂN | 1/05 |