TB

CÔNG TÁC HÁN NÔM DƯỚI ÁNH SÁNG CHỦ NGHĨA MÁC

TRẦN NGHĨA

I

Mác không có bất cứ một chuyên luận nào trực tiếp nói tới công tác bảo tồn và nghiên cứu thư tịch cổ. Nhưng trên con đường hoạt động khoa học gắn liền với cách mạng đầy sáng tạo của mình, Mác đã để lại cho ta không ít những mẫu mực tuyệt vời về cách nhìn, cách đánh giá, cách khai thác di sản thành văn của các thế hệ đã qua.

1) Hãy nói trước hết cách nhìn của Mác đối với kho tàng văn hóa nhân loại. Quá khứ, theo Mác, là một kho lưu trữ hết sức phong phú những kinh nghiệm kỳ quý về cả hai phương diện thất bại cũng như thành công của con người đối với bản thân, đối với xã hội, đối với thiên nhiên… Quá khứ không ngừng cung cấp cho ta những tư liệu và chủ đề cần thiết để thao khảo, suy tư, từ đó nảy ra những bài học bổ ích. Về điểm này, Ăng - ghen có nhận xét như sau: “Mác không những đặc biệt ham thích nghiên cứu quá khứ lịch sử nước Pháp mà còn theo dõi lịch sử đương thời của nó trong tất cả những chi tiết, thu thập lấy những tài liệu để về sau cần phải dùng đến”(1). Chính vì vậy mà Mác đã qua tâm tới các nền văn hóa cổ ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường; luận văn tiến sĩ Sự khác nhau giữa triết học của Đêmôcrit (Đémocrite) và triết học tự nhiên của Epiquya (Epicure) có thể coi như một thể nghiệm sơ khởi trên đường nghiên cứu quá khứ. Các tác phẩm khoa học về sau của Mác, trong đó có bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản nổi tiếng và bộ Tư bản đầy trí tuệ, là bằng chứng về một quá trình lao động cần cù, căng thẳng để chưng cất và tiếp thu toàn bộ tinh hoa của tri thức loài người kể đến thời Mác, và nâng nó lên một tầm độ cao hơn. Thật đúng như Lênin nhận định: “Tất cả những cái đã được tư tưởng loài người sáng tạo ra, Mác đều sửa chữa nó lại và đã phê phán nó; và Mác đã rút ra được kết luận mà những kẻ bị giam hãm trong khuôn khổ tư sản hay những thành kiến tư sản không thể nào rút ra được”(2).

Chỗ hơn người ấy của Mác trong cách nhìn về giá trị và tiềm năng nền văn hóa quá khứ đã được Lênin, người học trò xuất sắc nhất hội lần thứ ba Đoàn thanh niên Cộng sản Nga ngày 02 tháng 10 năm 1920, Lênin nhấn mạnh: “Văn hóa vô sản không phải tự nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là nhà chuyên môn về văn hóa vô sản phát minh ra. Tất cả cái đó là hoàn toàn ngu ngốc. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển lô gích của tổng số những kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách thống trị của xã hội tư bản, của xã hội bọn địa chủ, của xã hội quan liêu”(3). Lê nin còn nói thêm: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi đã làm giàu trí nhớ của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”(4).

2) Không những coi trọng di sản văn hóa quá khứ của nhân loại, Mác còn đặc biệt quan tâm đến cách phân tích, đánh giá nó thế nào cho khách quan, chính xác, nhất là đối với một số nhân vật, tác phẩm, tác giả có vấn đề. ở đây, một lần nữa, ta lại bắt gặp những chỗ hơn người của Mác. Hãy lấy trường hợp của Mác đánh giá Lui Bônapactơ làm một trong số nhiều thí dụ.

Lui Bônapactơ (Cliarles Louis Napolêon Bonapate, 1808 - 1873), như chúng ta biết, là cháu của Napôlêông Bônapactơ (Napolêon Bonaparte, 1769 - 1821). Hồi còn trẻ, do giở nhiều mưu mô thủ đoạn trong quân đội, Lui Bônapactơ đã bị trục xuất ra nước ngoài. Sau cách mạng tháng hai Pháp 1848, y trở về nước và đắc cử tổng thống “Đệ nhị Cộng hoà quốc”, dưới sự bảo trợ của giai cấp tư sản Pháp. Năm 1852, cũng với sự giúp đỡ của giai cấp tư sản, y phát động chính biến, phế bỏ chính thể Cộng hòa, khôi phục chính thể Quân chủ, tuyên bố đổi “Đệ nhị Cộng hoà quốc” thành “Đệ nhị Đế quốc”, và tự xưng làm “Hoàng Đế Nã Phá Luân tam thế” của nước Pháp.

Trong thời gian cầm quyền, y một mặt thi hành chính sách đàn áp đối với trong nước và mặt khác phát động chiến tranh với nước ngoài, gây nhiều đau khổ cho nhân dân Pháp cũng như nhân dân Châu Âu.

Năm 1870, y lại phát động chiến tranh chống nước Phổ (Prussia), kết quả quân Pháp thua to, bản thân Lui Bônapactơ cũng bị bắt.

Cuộc đời đầy kịch tính trên đây của Lui Bônapactơ đã được nhiều cây bút tiếng tăm đương thời phác họa lại, trong đó đáng chú ý nhất là tác phẩm Napôlêông nhỏ của Vichto Huygô (Victor Hugo, 1802 - 1885) và tác phẩm Cuộc chính biến của Pruđông (Proudhon, 1809 - 1865). Theo Mác thì Vichto Huygô chỉ biết xử mạ chua cay và châm biếm không tiếc lời người đã gây ra cuộc chính biến. Huygô thấy bản thân biến cố đó như là “một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng”. Ông chỉ thấy trong đó “hành vi bạo nghịch của một cá nhân”. Ông không thấy rằng làm như thế là làm cho cá nhân đó trở thành vĩ đại bằng cách gán cho hắn một sức mạnh chủ động cá nhân chưa từng thấy trong lịch sử, chứ không phải làm cho cá nhân đó nhỏ nhen đi. Còn Pruđông, theo Mác, thì lại cố gắng trình bày cuộc chính biến như là “Kết quả của một sự phát triển lịch sử trước đó”. Nhưng dưới ngọn bút của ông, lịch sử cuộc chính biến lại biến thành “sự ca tụng nhân vật chính của cuộc chính biến”. Như thế là ông rơi vào sai lầm của các nhà sử học mệnh danh là “khách quan”. Khác với Vichto Huygô và Pruđông, Mác vạch cho chúng ta thấy “đấu tranh giai cấp ở Pháp đã tạo ra như thế nào những điều kiện và hoàn cảnh khiến cho một nhân vật tầm thường và lố bịch lại đóng vai anh hùng”(5). Cái mà Victo Huygô cũng như Pruđông ra sức tô vẽ, dù cố ý hay vô tình, là quan niệm anh hùng tạo thời thế. Còn Mác trái lại, bằng quan điểm duy vật lịch sử, đã làm rõ trong trường hợp này, chính thời thế tạo “anh hùng”.

Cũng một kiểu tiếp cận vấn đề như Mác - đặt đối tượng nghiên cứu vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó để tìm hiểu, phân tích, đánh giá - Ăng-ghen đã đi tới những kết luận rất hay và cố nhiên không giống với nhiều người khi nhận định về hạn chế của Sécnesepski (Tchernychevski, 1828 - 1889), nhà dân chủ cách mạng Nga. Trong phần phụ lục cho bài Về tính chất xã hội ở Nag, Ăng-ghen viết: “Sécnưsépski, vì những điều luận cấm sách báo nhập nội ở biên giới Nga, nên chưa bao giờ được biết những tác phẩm của Mác, vì khi bộ Tư bản xuất bản, thì ông đã bị đày từ lâu ở Viluixơ, vùng dân Yacutơ (…). Những cái mà chế độ kiểm duyệt Nga không để cho nhập nội, thì ở Nga, người ta biết rất ít, hay không biết tý gì cả. Vậy, nếu người ta thấy ở ông có một vài nhược điểm, một vài quan điểm hẹp hòi, thì chỉ nên lấy làm lạ là tại làm sao ông không có nhiều hơn thế nữa”(6).

Ngoài phương pháp lịch sử, chủ nghĩa Mác còn đặc biệt vận dụng phương pháp phân tích giai cấp khi đánh giá các hiện tượng xã hội cũ, mà trường hợp Ăng-ghen nhận xét về Gơtơ (Goetthe, 1749 - 1832) sau đây có thể xem như là một thí dụ điển hình. Gơtơ, theo Ăng-ghen, là một con người “khi thì to lớn phi thường; khi thì bé như trẻ con”; “khi thì là một bậc kỳ tài kiêu hãnh, ngạo nghễ, khinh miệt thế giới; khi thì là một kẻ philitanh tản mạn, tự mãn, hẹp hòi”. Trong con người Gơtơ có một cuộc đấu tranh liên tục giữa nhà thơ thiên tài chán ghép sự cùng khổ của những người chung quanh mình, với người con trai chu đáo của ông nghị tỉnh Phờrăngpho, đang tự thấy bắt buộc phải “ký kết đình chiến với sự cùng khổ và phải chịu cho quan sự cùng khổ đó”. Cuộc đấu tranh nội tâm này rốt cục đã đẩy Gơtơ đi đâu? Ăng-ghen viết: “Gơtơ là một người học rộng biết nhiều quá, có một bản chất linh lợi quá, nhiều tham vọng quá, nên không thể tìm lối thoát của sự khốn cùng bằng cách chạy theo lý tưởng của Căng (Kant, 1724 - 1804) như Sinle (Schiller, 1759 - 1805) đã làm; ông sáng suốt quá nên không thể không thấy rằng chạy trốn như vậy chung quy lại chỉ là đổi cái cùng khổ của ti tiện lấy cái cùng khổ của khoa trương. Tính khí ông, sức lực ông, toàn bộ chiều hướng của trí óc ông đều định sẵn cho ông một cuộc sống thực tế, nhưng cuộc sống thực tế mà ông thấy trước mắt ông lại là một cuộc sống cùng khổ. Gơtơ luôn luôn vướng phải tình trạng lưỡng nan ấy: sống trong một thế giới mà ông chỉ có khinh miệt thôi, tuy thế mặc dầu, ông lại bị ràng buộc vào thế giới đó là cái thế giới duy nhất trong đời mà ông có thể phát huy hoạt động của mình; và khi ông càng trở về giả, thì con người thi sĩ phi thường, de guerre lasse(7) lại càng lu mờ sau con người Tể tướng tiểu mọn của triều Weimar(8). Nghĩa là cuối cùng, bản chất giai cấp của Gơtơ đã thắng. “Gơtơ cũng như Hê-ghen (Hégel, 1770 - 1831), mỗi người trong lĩnh vực của mình, đều là những tượng Jupite (Jupiters) trên núi Olimpơ (Olimpiens), song cả hai đều không bao giờ hoàn toàn trút bỏ được tính chất philitanh Đức”(9).

Cách phân tích và đánh giá trên đây của Ăng-ghen không giống chút nào với cách phân tích và đánh giá của Gờ - run về Gơtơ. “Gờ-run tán tụng tất cả những ý kiến pilitanh của Gơtơ, hắn ta thấy đó là những ý kiến của con người, hắn biến Gơtơ từ người dân tỉnh Phờ - răngpho và người quan lại, thành “con người chân chính”, còn thì hắn lại bỏ qua hay bôi nhọ ngay cả những cái gì là vĩ đại, là kỳ tài ở Gơtơ”(10).

Đôi khi những đánh giá khác nhau về cùng một sự kiện, một tác phẩm, một tác giả quá khứ nào đấy lại là do sự phân tích tình hình chính trị không giống nhau.

Xuất phát từ tư tưởng duy tâm Jôre (Jaurès) ca ngợi Tônxtôi (L.Tolstôi, 1828 - 1910) là một nhà thần bí, có thể giúp ta “tìm lại cái ý nghĩa của tính giản dị, của tình anh em, của đời sống sâu xa và bí ẩn”(11). Plêkhanốp (Plékhanov, 1856 - 1918)) vốn dĩ không tin ở khả năng cách mạng của nông dân, cho rằng Tônxtôi là người thay mặt giai cấp quý tộc phong kiến bị những tiến bộ của chủ nghĩa tư bản làm phá sản(12). Còn Lê nin, người thừa kế và phát triển chân chính chủ nghĩa Mác, thì lại thấy Cách mạng Nga 1905 - 1907 không gì khác hơn là một cuộc “Cách mạng tư sản nông dân”, và những tác phẩm của Tônxtôi đã phản ánh tâm lý mâu thuẫn của người nông dân Nga trong cuộc cách mạng đó. Lê-nin viết: “Mới thoạt nhìn, có thể dường như là lạ kỳ và gán ghép nếu đem gắn liền tên tuổi của nhà nghệ sĩ vĩ đại với cuộc cách mà rõ ràng ông ta đã không hiểu được gì cả và cũng rõ ràng ông ta đã xa lánh đi. Dĩ nhiên nếu một vật rõ ràng không phản ánh được trung thực một hiện tượng, thì làm thế nào mà gọi nó là tấm gương của hiện tượng đó được. Nhưng cuộc cách mạng của chúng ta là một hiện tượng cực kỳ phức tạp; trong đám đông những người thực hiện và trực tiếp tham gia cách mạng có nhiều phần tử xã hội chính trị, họ hiển nhiên không hiểu được những việc đã xẩy ra và cũng rời bỏ những nhiệm vụ lịch sử thực sự mà quá trình các sự biến đã đề ra cho họ. Và nếu nhà nghệ sĩ của chúng ta là vĩ đại thật, thì người đó phải phản ánh được trong tác phẩm của mình ít ra là vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng (…). Tônxtôi vĩ đại là ở chỗ ông đã nói lên được những tư tưởng và những tâm trạng đã được hình thành trong hàng triệu nông dân. Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga. Tôixtôi độc đáo, vì toàn bộ tư tưởng của ông nhìn chung đã diễn đạt đúng những đặc điểm của cuộc cách mạng của chúng ta về phương diện là một cuộc cách mạng tư sản nông dân. Đứng về quan điểm đó mà xét thì sự phản chiếu những điều kiện mâu thuẫn trong đó đã diễn ra sự hoạt động lịch sử của nông dân trong quá trình của cuộc cách mạng của chúng ta”(13).

3) Nhận định, đánh giá di sản là cốt để khai thác. Khai thác thế nào cho đúng, cho tốt, cũng là một vấn đề Mác hằng quan tâm.

Việc du nhập văn họa Pháp vào nước Đức, theo Mác, là một thí dụ điển hình về tình trạng thừa kế, khai thác không đúng nơi đúng lúc.

Văn học “xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” của nước Pháp, nói như Mác, “sinh ra dưới áp lực của một giai cấp tư sản thống trị, là biểu hiện văn chương của sự phản kháng chống lại nền thống trị ấy, nó được đưa vào nước Đức giữa lúc giai cấp tư sản đang bắt đầu đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến. Các nhà triết học, các nhà triết học nửa mùa và những kẻ tài hoa ở Đức hăm hở đổ xô vào thứ văn học ấy, nhưng có điều họ quên rằng: văn học Pháp nhập khẩu vào nước Đức, nhưng những điều kiện sinh hoạt của nước Pháp lại không đồng thời đưa vào nước Đức. Đối với những điều kiện sinh hoạt Đức, văn học Pháp ấy đã mất hết ý nghĩa thực tiễn trực tiếp và chỉ còn mang một tính chất thuần tuý văn chương”(14).

Thực ra thì đây là một việc làm có dụng ý của giới triếu học Đức, chứ không hẳn là một sai lầm đơn thuần về mặt phương pháp. Mác bình luận: Bằng cách này, người ta “rõ ràng cắt xén văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Pháp. Và vì trong tay người Đức, văn học ấy không còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh của một giai cấp này chống giai cấp khác nữa, cho nên họ lấy làm đắc ý là đã vượt lên trên “tính phiến diện của Pháp”, là đã bảo vệ, không phải những nhu cầu thực sự, mà là “nhu cầu về sự thật”; không phải những lợi ích của người vô sản, mà là những lợi ích của con người, con người nói chung, “của con người không thuộc một giai cấp nào, cũng không thuộc một thực tại nào, con người chỉ có trong bầu trời mây mù của ảo tưởng triết học”(15). ý Mác ở đây muốn nói các nhà triết học Đức đã tước bỏ phần cách mạng của văn học Pháp khi du nhập nó vào Đức, và do vậy, việc Đức tiếp thu văn học Pháp chỉ còn mỗi một tác dụng là làm tê liệt ý chí cách mạng của người Đức mà thôi.

Nói đến di sản tức đã bao hàm một phân lượng nào đấy giá trị của nó đối với hiện tại. Nhưng như vậy không có nghĩa là mọi di sản đều có thể thừa kế trong bất cứ hoàn cảnh nào, cho dù đấy là những giá trị bền vững nhất. Cuộc sống hiện thực thường đề ra những nhu cầu và nhiệm vụ mỗi lúc một khác nhau, đặc biệt là trong các thời kỳ khủng hoảng cách mạng, cái cũ chưa qua, cái mới chưa đến. Các giá trị truyền thống ở đây có thể có hai tác dụng ngược chiều nhau: hoặc nâng đỡ, thúc đẩy xã hội đi lên, hoặc ngăn trở, kìm hãm bước tiến của nó. Mác viết: “Con người làm ra lịch sử của mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là làm theo những điều kiện nhất định trực tiếp sẵn có, do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã qua đè rất nặng lên đầu óc những người đang sống. Và ngay khi con người có vẻ như là đang ra sức tự cải tạo mình và cải tạo sự vật, ra sức sáng tạo ra một cái gì hoàn toàn mới mẻ, thì chính trong những thời kỳ khủng hoảng cách mạng đó, họ lại sợ hãi mà cầu viện đến các vong linh thời trước, họ lại mượn tên tuổi, khẩu hiệu, y phục của những vong linh đó, để rồi đội cái lốt đáng kính ấy của người xưa, và dùng những lời lẽ vay mượn đó mà hiện ra trên sân khấu mới của lịch sử”(16). Điểm đáng chú ý là “người mới bắt đầu học một ngôn ngữ mới, bao giờ cũng dịch nó trong đầu óc sang tiếng mẹ đẻ của mình”, chỉ khi nào người đó đã dùng được ngôn ngữ ấy mà không nhớ đến thậm chí còn quên hẳn được tiếng mẹ đẻ của mình, thì người đó mới “nói được một cách trôi chảy”(17). Lấy trường hợp xã hội tư sản đã kế thừa quá khứ như thế nào làm một dẫn chứng. Xã hội tư sản theo Mác, “vì hoàn toàn mê mải vào việc sản xuất của cải và các cuộc cạnh tranh hoà bình nên nó đã quên mất rằng vong hồn của thời đại La Mã đã chăm sóc nó khi nó còn ở trong nôi(…) Cũng như (…) Cơrôvoen (Crowen) và nhân dân Anh đã mượn trong kinh Cựu ước những câu nói, những nhiệt tình và những ảo tưởng cần thiết cho cuộc cách mạng tư sản của nó. Khi đã đạt được mục đích thực sự rồi, nghãi là khi đã biến xã hội Anh thành xã hội tư sản rồi, thì Lốc - cơ(18) đã gạt bỏ Ha-ba-cúc”(19). Nghĩa là bây giờ thì xã hội tư sản muốn chóng vánh thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thống quá khứ để được bay nhảy tự do…

Từ thực tế trên, Mác rút ra một hệ luận: “Trong các cuộc cách mạng ấy, người ta làm sống lại những người đã mất là để ca ngợi cuộc đấu tranh mới, chứ không phải là để học đòi theo những cuộc đấu tranh cũ; là để phóng đại trong tưởng tượng cái nhiệm vụ phải hoàn thành, chứ không phải để trốn tránh khỏi phải giải quyết những cuộc đấu tranh mới trong thực tế; là để tìm lấy cái tinh thần của cách mạng, chứ không phải là để một lần nữa triệu cái bóng ma của nó về”(20). Nếu không hiểu điều này - tức thừa kế, khai thác là nhằm phục vụ cho yêu cầu đi tới, yêu cầu phát triển của xã hội - thì việc thừa kế khai thác đó không những trở thành vô nghĩa, mà đôi khi lại còn là một khôi hài nữa: “Hê-ghen có nhận xét ở đâu đó rằng tất cả những sự biến lớn và nhân vật lớn trong lịch sử đều xuất hiện có thể nói là hai lần. Ông ta đã quên nói thêm rằng: lần đầu như một bi kịch, lần thứ hai như một trò hề” (21).

II

1) Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, Đảng ta ngay từ hồi còn hoạt động bí mật đã quan tâm đến vấn đề tiếp thu vốn cổ. Trong bản Đề cương văn hóa năm 1943, nhiệm vụ kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đồng chí Trường Chinh nêu lên như một khâu không thể thiếu trong chương trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tương lai. Từ sau 1945, khi Đảng ta giành được chính quyền, đường hướng trên đây một lần nữa được khẳng định với tầm sâu sắc mới: “Trong văn học cổ nước ta có nhiều hạt ngọc bị che phủ bởi một lớp bụi thời gian, mà bổn phận chúng ta phải tìm tòi, nhận xét, lượm lặt, không được bỏ sót một hạt”(22). Năm 1962, nói chuyện với Hội nghị Tuyên giáo toàn miền Bắc, đồng chí Lê Duẩn cũng nhắc nhở cán bộ phải đọc lịch sử nước nhà, chú ý khai thác truyền thống, có thể mới làm tốt được công tác tư tưởng trước mắt(23). Năm 1970, trong tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, và năm 1976, trong bài Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nạm thống nhất xã hội chủ nghĩa, đồng chí Lê Duẩn đã trình bày những suy nghĩ trên đây của mình một cách hoàn chỉnh hơn. Nói về con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí nhấn mạnh: “Con người xã hội chủ nghĩa của nước ta không những phải hấp thụ được những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại, mà còn phải kế thừa và phát triển những đức tính tốt đẹp tiêu biểu cho tâm hồn của con người Việt Nam được hun đúc suốt bốn ngàn năm lịch sử”(24). Nói về văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa đồng chí nêu rõ: “Mục đích của chúng ta là xây dựng một xã hội văn hóa cao. Nền văn hóa trong xã hội ấy là một nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Nó phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng làm chủ tập thể, phải hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại và những thành tựu văn hóa khoa học hiện đại. Đồng thời nó phải là sự kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì tốt đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hóa Việt Nam”(25).

Có thể lấy việc tiếp thu vốn cổ trong tầm nhìn của Đảng ta chưa bao giờ đặt nhẹ, nhất là trước nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam.

Sự quan tâm trên đây không chỉ thể hiện ở phạm vi lý luận, mà còn được quán triệt trong hành động thực tế, nhất là đối với công tác xây dựng ngành Hán nôm Việt Nam. Ngay từ cuối năm 1965, trong khi cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ đang lan rộng trên miền Bắc nước ta, một lớp Đại học Hán học nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ Hán nôm trẻ tuổi, chuyên đảm nhiệm việc khai thác, nghiên cứu và giới thiệu kho tàng văn hóa Việt Nam đã được tổ chức tại một địa điểm sơ tán cách Hà Nội 50Km về phía Đông Bắc. Lớp học đã được các đồng chí lãnh đạo Đảng ta, đặc biệt là đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Tố Hữu thường xuyên quan tâm, khích lệ. Nhà sử học Pháp Sáclơ Phuốcniô (Charles Fourniau) có dịp đến thăm lớp học, thấy sinh viên ta dựng vũ khi cạnh bàn, ngồi nghe giảng về triết học Phật giáo, đã phát biểu: “Thời gian ngắn ngủi lưu lại ở đây đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc và hầu như trái ngược nhau: một nước Việt Nam đang bận rộn vì hiện tại, nhưng vẫn nghĩ tới tương lai và chính ở đây tôi lại càng thấy quyết tâm chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam”(26).

Lớp Đại học Hán học kết thúc vừa mới ba năm, Ban Hán Nôm lại được thành lập. Những gì còn là phác thảo về kế thừa vốn cổ nơi Đề cương văn hóa, đến đây bắt đầu được thực sự thi công. Năm 1979, Ban Hán Nôm chuyển thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đánh dấu sự quan tâm mới của Đảng ta đối với việc khai thác truyền thống. Cũng có thể nói chưa bao giờ ở nước ta truyền thống lại gắn liền với hiện đại, dù là trong suy nghĩ hay là trong thực tiễn, như hôm nay.

2) Viện Nghiên cứu Hán Nôm ra đời với tư cách là một trung tâm bảo tồn và khai thác thư tịch cổ được ghi bằng chữ nôm và chữ Hán…

Để bảo tồn tốt, công tác sưu tầm cần được đẩy mạnh. Làm sao để trong một thời gian không lâu nữa, hầu hết không phải là tất cả những nguyên bản bằng chữ Hán, chữ Nôm còn nằm rải rác trong nhân dân hoặc trong các cơ quan, các Thư viện không có chức năng lưu giữ được tập trung về kho Viện Hán Nôm. Chẳng những vậy, Viện Hán Nôm còn cần có biện pháp thu hồi những sách vở Hán Nôm của ta đang tản lạc ở nước ngoài, trước hết là ở Ý, ở Pháp, ở Anh, ở Mỹ, ở Nhật, ở Trung Quốc…

Việc bảo quản cũng phải tiến hành thật chu đáo. Bất cứ một sơ suất nào dẫn tới hậu quả làm hư hỏng hoặc mất mát những sách Hán Nôm hiện có đều phải coi là không thể tha thứ được.

Bên cạnh nhiệm vụ sưu tầm và bảo quản, còn có nhiệm vụ chỉnh lý và khai thác. Sách vở, tài liệu Hán Nôm của ta bị biến động rất nhiều qua lịch sử, do khí hậu, chiến tranh tàn phá cũng có, do tinh thần khoa học và ý thức bảo vệ của con người chưa cao cũng có. Chuyện râu ông cắm cằm bà, chuyện tam sao thất bản, chuyện khó đọc khó hiểu trong thư tịch cổ không còn là hiện tượng cá biệt. Nhiệm vụ chính chủ yếu là công tác biện ngụy, công tác hiệu chỉnh, công tác huấn hỗ và cú đậu - ở đây có tầm quan trọng vô cùng. Không chỉnh lý, giám định tốt, nhất định không thể nghiên cứu, khai thác tốt. Công tác văn bản học, một khâu mà chính Mác cũng như Lê-nin luôn luôn coi trọng trong toàn bộ hoạt động khoa học của mình, vì vậy, trở thành yêu cầu bắt buộc đối với mọi công trình xuất bản về Hán Nôm từ nay về sau.

Việc khai thác thư tịch Hán Nôm cũng phải đi đúng hướng mà chủ nghĩa Mác - Lênin và các nhà lãnh đạo nước ta đã vạch chỉ.

Mục đích khai thác là để góp phần “đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hóa, ra sức xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”(27).

Nội dung khai thác là “truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường và mưu trí”; là “tình thương giữa những người lao động”; là “đức tính cần cù, tinh thần lạc quan yêu đời” của nhân dân ta (28).

Phương pháp khai thác là “kế thừa có chọn lọc, có phê phán và có sáng tạo”(29).

Tóm lại, kế thừa vốn cổ chung quy là để phát triển, là để gây ra tác dụng qua lại thường xuyên giữa kinh nghiệm quá khứ và kinh nghiệm hôm nay.

3) Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây, chúng ta cần có một đội ngũ cán bộ làm công tác Hán Nôm vừa mạnh lại vừa vững.

“Mạnh” ở đây là nói mạnh về nghiệp vụ. Người làm công tác Hán Nôm trước hết phải tinh thông về chữ Hán, chữ Nôm; lại phải có một hiểu biết tương đối về xã hội nước ta thời xưa, chỉ ít là để khỏi hiện đại hóa quá khứ khi tiếp cận thư tịch cổ. Mặt khác, cũng cần nắm được chừng mực nào đó những đường nét chung của văn biến toàn khu vực, ở đây chủ yếu là văn hiến Phương Đông, bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Mông Cổ, ấn Độ, để từ đấy hiểu sâu hơn, đúng hơn nền văn hiến Việt Nam, khả dĩ nâng cao trình độ nghiên cứu của ta lên tầm lý luận có ý nghĩa quốc tế.

“Mạnh” ở đây còn có nghĩa là tự trang bị cho mình một diện kiến thức đủ rộng về khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Ngày xưa “Văn - Sử - Triết” bất phân, “Nho - Y - Lý - Số” thường xuyên kết nối, sách vở Hán Nôm do vậy thường là một tập hợp đủ loại trí thức, mà nếu chúng ta không có một hiểu biết nhất định thì cũng không dễ mà phát hiện, nghiên cứu, khai thác tốt được.

Còn “vững” thì lại là nói về trình độ vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối kế thừa, khai thác vốn cổ của Đảng ta vào công tác thực tiễn. Không có bản lĩnh về mặt này, sự nhận xét đánh giá các hiện tượng quá khứ dễ chông chênh, thậm chí cái đáng gạt bỏ lại tiếp thu, cái đáng tiếp thu lại gạt bỏ. Cho nên người cán bộ làm công tác Hán Nôm, một lãnh vực dễ tách rời hiện đại, lại càng cần phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng ta. Đây là một đảm bảo để chúng ta không những sáng tạo được, mà còn khỏi lạc mất phương hướng trong quá trình công tác.

CHÚ THÍCH

(1) Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapactơ. Lời tựa của F. Ăng-ghen viết cho bản tiếng Đức xuất bản lần thứ III năm 1885; xem C.Mác, F.Ăng-ghen tuyển tập, in lần thứ 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 290.

(2) (3) Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên.

(4) Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên.

(5) Mác: Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapactơ. Lời tựa của Mác viết cho bản tiếng Đức xuất bản lần thứ II, xem C.Mác, F-Ăng-ghen tuyển tập, in lần thứ hai, Sđd, tr. 287.

(6) Xem C.Mác và Ăng-ghen về văn học và nghệ thuật, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, tr.223.

(7) Đã ngấy chiến đầu rồi.

(8) Ăng-ghen : Các Gờ-run: Đứng về phương diện con người của Gơtơ. Xem C.Mác và Ăng-ghen về văn học và nghệ thuật, Sđd , tr. 198.

(9) Ăng-ghen: Lútvich Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, xem C.Mác và Ăng-ghen về văn học và nghệ thuật, Sđd, tr. 206.

(10) Ăng-ghen: Thư gửi Mác ngày 15-1-1847. Xem C.Mác và Ăng-ghen về văn học và nghệ thuật, Sđd, tr.204.

(11) Bài nói chuyện về Tônxtôi ở Touloux, 10-2-1911. (Dẫn theo) V.Lê-nin về văn học và nghệ thuật, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.120.

(12) Nghệ thuật và đời sống xã hội. Dẫn theo V.Lênin về văn học và nghệ thuật, Sđd, tr. 120.

(13) Tônxtôi tấm gương phản chiếu cách mạng Nga.

(14) Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Xem C.Mác, F.Ăng-ghen tuyển tập, Sđd, tr. 55.

(15) Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Sđd. tr. 56,57.

(16) Mác: Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapactơ, Sđd, tr.291 - 293.

(17) Sđd, tr. 291 - 293.

(18) Lốc-cơ (Locke John, 1632 - 1704): nhà tư tưởng Anh, người kế tục đường lối triết học của Bêcơn (Bacon) và của Hôpxơ (Hobbes).

(19) Habacac: Một trong số mười hai nhà tiên tri Do Thái, sống vào khoảng thế kỷ VII Công Nguyên. Habacúc đã tố cáo chế độ tàn bạo đương thời và tiên đoán rằng nhân dân Ixracn sẽ bị người Canđê chinh phục sau đó lại sẽ được giải phóng.

(20) (21) Mác: Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapactơ, Sđd, tr. 293 và tr. 291.

(22) Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam, Diễn văn đọc ở đại hội Văn hóa toàn quốc năm 1948.

(23) Lê Duẩn: Tạo một chuyển biến mạnh mẽ về công tác tư tưởng. Xem Về văn hóa văn nghệ, Nxb. Tiền phong Tp. Hồ Chí Minh, 1975, Tr. 14 - 15.

(24) Dưới lá cờ vẻ vang… Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970.

(25) Toàn dân đoàn kết… Báo Nhân dân, 26-6-1976.

(26) Xem bài Lớp Đại học Hán học trong ba năm chống Mỹ cứu nước, Diễn văn của Đ/c Đặng Thai Mai, nguyên Viện trưởng Viện Văn học, kiêm chủ nhiệm lớp Đại học Hán Học, đọc trong buổi lễ tốt nghiệp của lớp, tổ chức ngày 1-11-1968 tại Hà Nội. Tạp chí Văn học số 12, Năm 1968.

(27) (28) Lê Duẩn: Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa; Tài liệu đã dẫn.

(29) Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV.

TB

VÀI NÉT VỀ BỘ SỬ
CỦA VƯƠNG TRIỀU TÂY SƠN

PHAN HUY LÊ
DƯƠNG THỊ THE
NGUYỄN THỊ THOA

Một đóng góp to lớn của vương triều Tây Sơn cho kho tàng văn hóa của dân tộc là việc vương triều này cho ra đời một tác phẩm sử học tầm cỡ có giá trị: Đó là bộ Đại Việt sử ký tiền biên.

Đại Việt sử ký tiền biên là một bộ sử lớn viết bằng chữ Hán do một tác giả nổi tiếng là Ngô Thì Sĩ biên soạn. Đến thời Tây Sơn con ông là Ngô Thì Nhậm sửa sang dâng lên vua và cho in. Bộ sử này được in lần đầu tiên vào năm 1800, niên hiệu Cảnh Thịnh thời Tây Sơn (bản này hiện nay chưa tìm được). Bản in ngày nay còn giữ được ở Phòng Bảo quản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thư viện của trường Đại học Tổng hợp, thư viện Viện Sử học và một vài tủ sách của tư gia là những bản được in vào đầu đời Nguyễn trên cơ sở ván khắc cũ của thời Tây Sơn có đục bớt một vài chữ như “Bắc Thành”, “Cảnh Thịnh”…

Bộ sử gồm 17 quyền chia làm 2 phần: Ngoại kỷ (7 quyển) và bản kỷ (10 quyển). Chép từ thời Hồng Bàng đến thời thuộc Minh gồm 4354 năm.

Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu đầy đủ nội dung của bộ sử mà chỉ xin so sánh để nêu lên vài nét đặc biệt của tác phẩm.

1) Tính độc lập về quan điểm của tác giả thể hiện qua bộ sử:

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Triệu Đà được coi là một ông vua chính thống, được xếp riêng thành một kỷ gọi là “Kỷ nhà Triệu”. Ngô Sĩ Liên đã từng nhắc lại lời Lê Văn Hưu tán tụng công đức của Triệu Đà: “Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự xưng đế, trong nước đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lão phụ, là người mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy cũng to lắm vậy”(1).

Trong Đại Việt sử ký tiền biên, thì khác hẳn. Ngô Thì Sĩ không coi Triệu Đà là vị vua chính thống, thời kỳ Triệu Đà nắm quyền không phải thời kỳ tự chủ mà là thời kỳ Ngoại thuộc, do đó, ông chép thành kỷ “Ngoại thuộc Triệu Vũ đế”. Ngô Thì Sĩ đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Không nhận Đà là vua, là để cho nước ta thành một nước riêng đấy”(2). Ông còn phân tích rõ bản chất quỷ quyệt của Triệu Đà và khẳng định Triệu Đà chính là kẻ đầu tiên gây họa cho nước ta, ông nói: “Triệu Đà đời Tần chỉ là một quan lệnh. Nhân nhà Tần loạn chiếm cứ đất Lưỡng Quảng. Lưu, Hạng đang tranh địa vị ở Trung Nguyên, chưa rỗi tính đến đất Lĩnh Nam. Sau khi nhà Hán ổn định Cao Tổ cũng thấy chán ghét binh đao, chán công trạng. Văn đế nối ngôi lại càng ngại dùng vũ lực… Đà nhân đấy buộc Mân Việt, Tây Âu phải lệ thuộc vào mình, xưng là “Hoàng Đế” để đề cao mình cho khác biệt. Song tự biết sức mình không địch nổi nhà Hán…bèn bỏ hiệu để tự xưng là bề tôi, dâng lễ công để làm vừa lòng nhà Hán, càng thấy rõ chỗ quỹ quyệt của Đà… Các nhà làm sử như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên lấy công mở đầu nghiệp đế mà quy cho Đà … Hết sức tán dương đức khiêm tốn của Đà là sai đấy… Đà chiếm Ngũ Lĩnh, chỉ khổ vì lòng tham không biết thế nào là đủ, lại tiêu diệt An Dương mà thôn tính đất đai, truyền được vài đời, rồi mất. Bản đồ sổ sách thuộc nước cũ của An Dương phải nhập vào nhà Hán do đó nước ta thành nguồn lợi cho Trung Quốc… nước ta ngoại thuộc vào Triệu, nên nội thuộc vào nhà Hán, cho mãi đến đời Đường quốc thống bị đoạn tuyệt, suy nguồn gốc người đầu tiên gây nên tai vạ không phải Đà thì còn ai ? Hơn nữa, Đà đặt nước ta làm quận huyện, chỉ biết tịch thu đất đai, vơ vét thuế má, chỉ cốt đầy ngọc bích cho nhà Hán, chất túi Lục Giả có đủ nghìn vàng. Còn như giáo hóa phong tục, không mảy may để ý đến. Trải qua hàng trăm năm đất nước chỉ là lệ thuộc… Lê Văn Hưu đặt phép chép sử đó, lập lối nghị luận đó, Ngô Sĩ Liên theo lối hiểu nông cạn đó mà không sửa đổi, cho đến bài Tổng luận của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm cùng nhau ca tụng cho Đà là bậc vua giỏi của nước mình. Đến nay đã trải hàng nghìn năm không ai cải chính, bởi vậy tôi phải luận thật sâu”(3).

Cuối cùng, ông kết luận: “Cho nên tiếc Ngũ Lĩnh, là tiếc cái sau khi bà Trưng mất, chứ không đáng tiếc cái trước khi Triệu Đà mất”(4). Bởi vì Bà Trưng mất, nước ta rơi vào tay nhà Hán, lại thành quận huyện của nhà Hán, chịu sự cai trị tàn ác của quân nhà Hán. Còn Triệu Đà mất hay còn thì nước ta vẫn mất độc lập, mất chủ quyền, vẫn bị quân Trung Quốc thống trị.

Quan điểm của Ngô Thì Sĩ về Triệu Đà thật rõ ràng dứt khoát. Quan điểm đó cũng được biểu thị khi tác giả đánh giá nhân vật Sĩ Nhiếp.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên coi Nhiếp là bậc vương, đặt hẳn thành kỷ gọi là “Kỷ Sĩ Vương” và viết “ Nước ta thông thi thư, quen lễ nhạc, thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương. Công đức ấy chẳng những chỉ thấy ở đương thời, mà còn truyền mãi đến đời sau, há chẳng lớn sao?”(5). Lê Văn Hưu cũng như Ngô Sĩ Liên đã đề cao Sĩ Nhiếp đến tột độ, cho Nhiếp là người mở mang nền văn hiến của nước ta, ca tụng đức khiêm tốn, tài văn chương của Nhiếp.

Trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ không gọi Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương, không xếp thành một kỷ “Sĩ Vương”. Ông cho rằng “Nhiếp chỉ là hạng quan thú mục, chỉ đáng xếp vào kỷ nội thuộc”. “Nhiếp tuy có tài, nhưng là người phương Bắc đến nhận mệnh làm thái thú; Nhiếp tuy có học vấn, giải sách Xuân thu, nhưng chỉ là để cho bản thân chứ chưa từng dạy dân trong nước, thực ra chưa bằng Tích Quang, Nhâm Diên(6). Hai ông Tích Quang, Nhâm Diên cũng chưa được chép riêng thành ký huống là Sĩ Nhiếp, cho nên tôi đã tước bỏ đi, cho vào kỷ nội thuộc theo lệ quan thú mục”(7). Đại Việt sử ký tiền biên là bộ quốc sử đầu tiên đã phê phán sai lầm kéo dài của các nhà sử học lúc đó khi coi nhà Triệu là một vương triều chính chống, coi Sĩ Nhiếp là ông tổ của nền văn hiến nước Nam và do đó, tác giả Đại Việt sử ký tiền biên đã không xếp Triệu Đà, Sĩ Nhiếp làm kỷ riêng, đấy là một quan điểm rất mới, rất tiến bộ của Đại Việt sử ký tiền biên, chứng tỏ tinh thần phê phán, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc rất chính đáng của tác giả. Tư tưởng này được quán triệt trong toàn bộ nội dung bộ quốc sử của vương triều Tây Sơn.

2) Đại Việt sử ký tiền biên tuy biên soạn trên cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư nhưng là một bộ sử riêng biệt mang tính chất một bộ sử luận phong phú. Bởi lẽ tác giả đã cố ý tập hợp lời bàn của nhiều sử gia nổi tiếng như lê Văn Hưu đời trần, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Nguyễn Nghiễm đời Lê và chủ yếu lời bàn của chính tác giả. Mỗi sự việc xẩy ra, mỗi đời vua, mỗi triều đại, mỗi nhân vật v.v… tác giả đều có những lời bàn xác đáng, lý luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép. Tất cả có tới 467 lời bàn. Sau mỗi triều đại đều có tổng luận, trong đó khen chê rõ ràng, khiến người đọc có thể tóm tắt được lịch sử của cả một triều đại. Sau đây là một vài lời bàn về một số nhân vật lịch sử, một số sự kiện v.v…

Về cuộc nổi dậy chiếm cứ Hoan Châu của Mai Hắc Đế, Ngô Thì Sĩ đã phê phán cách nhìn của sử cũ (Lê Văn Hưu) và ông nói rõ quan điểm của mình: “Đương lúc nội thuộc, Mai Hắc Đế ở Nam Đường khởi binh chiếm giữ châu, không chịu sự trói buộc của bọn quan lại bạo ngược, cũng là tay lỗi lạc trong bực thổ hào. Thành công thì có Lý Bôn, Triệu Quang Phục; không thành công thì có Phùng Hưng, Mai Thúc Loan. Họ đáng được biểu dương. Nhưng sử cũ lại chép là “tướng giặc” là sai lắm”.

Về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tác giả hết lời biểu dương sự nghiệp của hai nữ anh hùng này. “Không gì khó thu phục bằng lòng người, không gì khó tập hợp bằng thế nước, lại càng không gì khó bằng một phụ nữ mà tập hợp được nhiều nam giới làm người đồng chí với mình. Nước Nam nội thuộc đã từ lâu… Bà Trưng là một đàn bà góa vấn tóc vùng lên, con trai trong nước đều cúi đầu chịu sự chỉ huy của bà, quan chức hơn 50 thành cũng phải nín hơi không dám chống cự… Tiếng tăm của bà chấn động cả Man Di, Hoa Hạ; cơ nghiệp mở mang của bà khuyâý động cả đất trời. Ôi ! thật anh hùng thay!”(8).

Về chiến thắng của Lý Thường Kiệt, Ngô Thì Sĩ cũng đánh giá cao: “Cho nên tôi cho là chiến dịch ỏ Châu Ung, Châu Liêm là võ công bậc nhất từ trước tới nay. Lý Thường Kiệt là một hoạn quan lập được công trạng thần kỳ, người Tổng phải hổ thẹn với ta nhiều lắm. Xét thấy chiến dịch này nước ta tỏ rõ được binh uy. Người Tống cho là nước ta đang mạnh muốn lấy ân ý mà vỗ về. Từ đó những lễ nghi tiến công và hình thức giấy tờ không dám trách móc hà khắc, chỉ sợ trái ý ta lại sinh thù hận”(9).

Về chiến thắng của Ngô Quyền, Đại Việt sử ký toàn thư chỉ nhận xét chung chung. “Nhà Tiền Ngô nổi lên được không những chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục có thể thấy được quy mô của bậc đế vương”(10). Trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ lại đánh giá rất cao công lao của Ngô Quyền, ông nói: “Chiến dịch ấy giả sử Ngô Quyền không đánh cho một trận thật đau để đập tan nhuệ khí, bẻ gẫy mũi nhọn, thì bọn chúng sớm muộn sẽ đắc chí, cái thế nội thuộc lại dần dần hình thành. Cho nên chiến thắng Bạch Đằng là cơ sở của việc phục hồi quốc thống”(11).

Đối với kẻ thù, thái độ của Ngô Thì Sĩ được thể hiện trong Đại Việt sử ký tiền biên rất rõ ràng, sáng suốt và dứt khoát. Ông đã nhận định triều đình phong kiến Trung Quốc như sau: “…An Nam là nơi đô hội lớn, ruộng ưa trồng lúa, đất ưa trồng dâu, núi thì sản sinh vàng bạc, bể thì sẵn có ngọc châu. Kẻ buôn bán đến đây phần nhiều giàu có. Họ(12) lấy làm thèm thuồng muốn đặt nước ta làm quận huyện, bắt dân ta phải làm tôi tớ đã từ lâu. Khi chưa được thì muốn cho được, khi được rồi lẽ nào lại buông tha”(13). Cho nên “một thổ hào nổi lên thì quận thú dập tắt; một quận thú nổi lên thì thứ sử tập hợp lại mà đánh; thứ sử nổi lên thì Trung Quốc dốc toàn lực mà trị ngay”(14). Bản chất của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán Trung Quốc dốc toàn lực thôn tính ta là thế đấy.

Đối với cách chép sử của các sử gia đời trước, Ngô Thì Sĩ cũng mạnh dạn phê phán nhiều sai lầm của họ. Ví dụ trong “Ngoại kỷ thuộc Triệu”, ông nói: “Xét thấy một thời đại ngoại thuộc họ Triệu, sử cũ chép từ Vũ đế đến Thục Dương Vương đều phỏng theo sử nhà Hán mà biên chép thành sách.. Đà thuộc Hán, Giao Nam ta lại thuộc Đà, nên những hiện tượng tương ứng với Đà cũng đã không đáng ghi rồi, huống gì nhà Hán chép những biến dị của mặt trời và sao là để giúp cho việc chiêm nghiệm chứ liên quan gì đến Đà; nay đã nhầm mà đưa Đà vào hệ quốc thống, lại theo đấy mà bắt chước sự ghi chép của sử Hán cốt cho đầy sách sử, không xem xét có đúng hay không. Như thế thì đáng gọi là “dã” chứ không đáng là “sử”… sao có thể ghi chép nhầm như thế được. Cho nên tôi tước bỏ đi”(15). Cũng trong “Ngoại kỷ thuộc Triệu”, ông lại nhận xét: “Hai nước Mân Việt đánh nhau không phải việc của nước mình. Hơn nữa, Hoài Nam can việc đánh Mân Việt mà người Hán không nghe cũng không phải là việc bức thiết. Bức thư can gián của Hoài Nam mà sử cũ chép đã thấy trong sử nhà Hán rồi cho nên bỏ đi”(16). Trong kỷ nhà Lý, Ngô Thì Sĩ cũng nêu lên một số nhận xét phê phán: “Trong khoảng hơn 200 năm nhà Lý dựng chùa xây tháp, hết thảy các việc thờ Phật đều chép to chép đặc cách. Người biên soạn không biết đó là rườm rà, người hiệu đính cũng theo lối hủ lậu đó. Thật không đúng phép làm sử”(17). Ông phê phán sách chép sử của Lê Văn Hưu: “Lê Văn Hưu, rất tin điềm lành, thấy sự việc ghi trong lịch ngày của thời đại trước là ghi chép vào sử sách. Thế mà điển chương pháp lệnh của một thời đại thì không ghi. Rõ ràng là không đúng phép làm sử”(18).

Đại Việt sử ký tiền biên thể hiện một tinh thần phương pháp viết sử mới, tiến bộ. Tác giả đã phê bình lối viết cẩu thả không khảo cứu, thiếu khoa học của các sử gia thời trước, nhiều chỗ ông phê bình rất gắt gao và thẳng thắn. Lời bàn trong Đại Việt sử ký tiền biên vô cùng phong phú và đa dạng, đặc biệt là lời bàn của tác giả, thể hiện quan điểm dân tộc, tình yêu nước thương dân, căm ghét kẻ thù, bênh vực lẽ phải, khen chê đúng mức v.v…

3) Một giá trị đặc biệt nữa của Đại Việt sử ký tiền biên là tác giả đã tra cứu bổ sung được khá nhiều sự kiện, cải chính được khá nhiều sai sót của sử cũ mà chính bộ Việt sử thông giám cương mục đời sau đã phải theo. Đây là một điểm đáng chú ý và rất bổ ích cho người làm công tác nghiên cứu sau này và chính nó cũng nói lên được giá trị khoa học của bản thân tác phẩm. Xin đơn cử vài ví dụ:

Tất cả các sách sử của ta đều chép “Bà Trưng đã lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam”. Đại Việt sử ký tiền biên đã cải chính: “… Tổng cộng là 56 thành, sử cũ theo sử nhà Hán lầm là 65 thành, cho nên cải chính”(19). Trong sách; ông đã liệt kê từng thành và cộng lại là 56 thành. Về cái chết của Lý Nam Đế, ông đã vạch trần sự xuyên tạc của sử nhà Lương như sau: “Nói vua Lý Nam Đế ở trong động Khuất Liêu bị người trong động giết cắt tai dâng nhà Lương là nói khoác đấy”.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đại Hành hoàng đế, vua họ Lê, huý là Hoàn, người Ái Châu”(20). Đại Việt sử ký tiền biên nêu lên một ý mới: “Lê Đại Hành người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải người Châu Ái. Sử cũ chép nhầm”. Trong kháng chiến chống quân nguyên, về sự kiện năm 1288, Đại Việt sử ký tiền biên cũng có những giám định nói về sử liệu: “Xét sử cũ có ghi năm đó quan quân hội đánh ở ngoài cửa bể Đại Bàng, bắt được 300 chiếc thuyền tuần tiễu của giặc, người ngựa chết rất nhiều. Chiến dịch đó là do Khánh Dư đón đánh thuyền lương của nhà Nguyên. Nhà viết sử không khảo kỹ sự thực đó, cứ nói suông là quan quân. Còn chiến thắng của Khánh Dư lại ghi vào mùa đông năm Đinh Hợi. Cho nên cải chính lại mà ghi sự việc đó xuống dưới, để giữ lại sự ghi chép cũ. Hoặc sử cù chép Nguyễn Khoái đánh nhau với giặc bắt được Bình chương sự là áo Lỗ Xích. Nay tra Bắc sử thì áo Lỗ Xích là tướng đường bộ của nhà Nguyên, người đã cùng Thoát Hoan kéo quân đường bộ trở về. áo Lỗ Xích chưa hề đến Bạch Đằng mà bị Nguyễn Khoái bắt. Người bị bắt chỉ là viên tướng nhỏ… Những loại tương tự như vậy khảo xét không rõ, lường đặt không tường đã vội ghi vào sách làm cho người đọc nghi ngờ cho nên lược bỏ”(21).

Trong suốt 17 quyển của bộ sử còn nhiều chi tiết trận đánh, sự kiện lịch sử, địa danh thay đổiv.v… đã được bổ sung hoặc cải chính, mà chúng tôi không thể nêu ra hết được.

Tóm lại, Bộ Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ được sử quán triều Tây Sơn in là một bộ quốc sử rất giá trị. Nó không những thể hiện được quan điểm tiến bộ cảu tác giả mà còn là bộ sử luận phong phú và có tính khoa học cao. Hy vọng rằng một ngày gần đây, bản dịch của bộ Sử này sẽ được xuất bản để phục vụ yêu cầu của giới nghiên cứu khoa học xã hội và tất cả ai muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc.

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Nxb. KHXH Hà Nội, 1972, Tập I, tr. 78

(2) Đại việt sử ký tiền biên, Bản chữ Hán, Ngoại kỳ, q.2, tr.9.

(3) (4) Sđd. tr.11.

(5) Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, q.3. tr.102.

(6) Tích Quang, Nhâm Diên là hai thái thú do nhà Hán cử sang nước ta thời thuộc Tây Hán.

(7) Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, phần Ngoại kỷ, q3, tr.14.

(8) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.6.

(9) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.15.

(10) Sđd, tr.148.

(11) Sđd, Ngoại kỷ, q.7, tr5.

(12) Chỉ các triều đại phong kiến Trung Quốc.

(13) Sđd, Ngoại kỷ, q.6, tr.24.

(14) Sđd, Bản kỷ, q.1, tr.7.

(15) Sđd, Ngoại kỷ, q.2, tr.8.

(16) Sđd, tr.12.

(17) Sđd, tr.6.

(18) Sđd, Bản kỷ, q.2, tr.11.

(19) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.5.

(20) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr. 160.

(21) Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, Bản kỷ, q.1, tr.2.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ NGUYỄN TRỰC
MỘT TÀI NĂNG NHIỀU MẶT GIỮA THẾ KỶ XV

CÔNG VIỆT

Vấn đề tìm hiểu tác giả Nguyễn Trực hiện nay gặp nhiều khó khăn - tác giả thì lớn mà tư liệu còn rất ít. Sách đề cập đến ông thì nhiều, nhưng thường chỉ được vài dòng. Qua mấy đợt đi thực tế về Hà Sơn Bình, chúng tôi đã có thêm một số tài liệu về Nguyễn Trực. Đặc biệt, chúng tôi đã tìm thấy một cuốn gia phả 21 đời của dòng họ Nguyễn Trực. Cuốn gia phả này đã cũ, rách, khổ 27 x 16cm, chữ bút lông trên giấy bản cũ, có chấm mực son. Niên đại ghi trong gia phả là năm Tự Đức thứ 36 (1883) có lẽ là năm sao chép lại. Phần đầu ghi năm Duy Tân thứ 6 (1912), thứ 8 (1914), và phần cuối ghi năm Khải Định thứ 3 (1918) là hai phần bổ sung vào sau này(1). Từ cuốn gia phả mới sưu tầm này, cùng với một số tài liệu khác như cuốn ghi chép của dòng họ, các sắc phong của triều đại trước, một số hiện vật khác do con cháu Nguyễn Trực còn giữ được, kết hợp với những tài liệu có thể tìm đọc ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi đã có thể bước đầu phác họa những nét lớn về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trực, một tài năng đa dạng, một nhân vật lịch sử đáng chú ý giữa thế kỷ XV(2) (2).

Dòng họ Nguyễn Trực có truyền thống hiếu học và thành đạt trong văn chương học thuật. Cụ nội Nguyễn Trực - Nguyễn Tử Hữu làm Hàn lâm viện thị giảng, Thiêm tri hình viện sự triều Trần. Ông nội Nguyễn Trực là Nguyễn Bính, làm Nho học huấn đạo phủ ứng Thiên. Cha Nguyễn Trực, Nguyễn Thì Trung làm Quốc tử giám giáo thụ. Nguyễn Trực có người em là Nguyễn Chân làm Quốc tử giám tòng sự phủ Quốc Oai. Con trai Nguyễn Trực, Nguyễn Lực Hành làm Trung thư giám Sùng Văn Quán nho sinh, Nguyễn Tử Triệt đỗ Nho sinh túi lâm cục…(3). Hầu như đời nào, dòng họ này cũng có người làm Huấn đạo, Giáo thụ. Chức Huấn đạo ngày xưa lo việc rèn dạy nhân tài, thường lựa chọn những người có học thức, có uy vọng đảm nhận. Hiển nhiên trong khi rèn dạy nhân tài cho “thiên hạ” thì dòng họ này cũng có điều kiện bồi đắp trí thức cho con em mình. Nguyễn Trực sinh ra và lớn lên trong truyền thống gia đình và dòng họ như vậy. Ông tên tự là Công Dĩnh, hiệu Hu Liêu, sinh ngày 16 tháng 5 năm Đinh Dậu (1417), tại am Long Đẩu núi Phật Tích(4) quê ở làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, đạo Sơn Nam(5), là con trưởng Nguyễn Thì Trung và bà Đỗ Thị Chứng. Gia phả nói rằng: lúc mới sinh, dung mạo Nguyễn Trực kỳ vĩ khác thường, được vài tuổi tư chất đã thông minh đặc biệt. Lớn lên ở quê hương trong một gia đình có truyền thống văn học, cha lại là một văn nhân học rộng biết nhiều, nên từ nhỏ Nguyễn Trực đã được nuôi dạy chu đáo; lại thêm cảnh kỳ sơn tú thuỷ của vùng đất chùa Thầy quê hương, khiến Nguyễn Trực sớm có một tâm hồn phong phú. Tương truyền, chưa đầy 10 tuổi, ông đã nổi tiếng thần đồng, 12 tuổi đã thích làm thơ và làu thông kinh sử. Đến tuổi thành niên, kiến thức Nguyễn Trực đã làm cho nhiều vị danh nho phải khâm phục.

Nguyễn Trực lớn lên khi đất nước đã sạch bóng quân Minh xâm lược, các ông vua đầu tiên của nhà Lê đang bắt tay vào công cuộc xây dựng một vương triều thịnh trị vào bậc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta. Cũng như tầng lớp kẻ sĩ hồi ấy, chàng thanh niên này hăm hở tìm đường tiến thân để thi thố tài năng qua con đường cử nghiệp. Kết quả không phụ lại hoài bão và công phu “dùi mài kinh sử” của ông: 18 tuổi đỗ khoa thi hương, 25 tuổi đỗ Trạng Nguyên kho Nhâm Tuất (1442).

Vị trạng nguyên trẻ này sốt sắng thực hiện hoài bão của mình, đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Năm Thái Hòa thứ 2 (1442) ông nhận chức Chiêu nghị đại phu, Hàn lâm viện trực học sĩ, Vũ kị đô uý, làm An phủ sứ đi kinh lý vùng Nam Sách. Nhưng hình như chính trường thời buổi ấy(6) không phù hợp với tài năng và con người Nguyễn Trực, nên chỉ ít lâu sau, ông đã trở lại với những chức vụ hoàn toàn có tính chất “từ hàn”, “giáo chức” là Hàn lâm viện thị giảng, Thiếu trung đại phu, Hàn lâm thiêm tri nhập thị học sĩ, Ngự tiền học sinh nhị cục.

Tài năng và tri thức uyên bác của Nguyễn Trực ở thời gian này trước hết được thể hiện trên mặt trận đấu tranh ngoại giao. Nguyễn Trực cầm đầu một sứ bộ sang sứ nhà Minh vào năm 1444 cùng với phó sứ Trịnh Thiết Tràng(7). Giữa triều đình phương Bắc, Nguyễn Trực đã hoàn thành sứ mệnh bằng kiến thức uyên bác, tài ứng đối nhạy bén, sắc sảo, sự vững vàng cứng cỏi và trên hết là ý thức tự hào dân tộc rất chính đáng của mình, khiến vua tôi nhà Minh phải kiêng nể. Năm 1457 viên sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián sang ta. Lê Nhân Tông đã triệu Nguyễn Trực về triều để tiếp sứ Tàu. Hoàng Gián vặn vẹo đủ điều, nhưng điều nào cũng được Nguyễn Trực giảng giải phân minh, khiến cho vị “thiên sứ” nọ phải thán phục thốt lên “Quốc hữu nhân tài” (nước (Việt) có người tài). Có một giai thoại kể rằng, chuyến đi sứ năm 1444, gặp đúng kỳ thi Hội của triều đình nhà Minh. Nguyễn Trực và Bảng nhãn Thiết Tràng cũng được mời dự thi cùng với sứ thần các nước khác. Khi công bố kết quả, thì Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên và Trịnh Thiết Tràng đỗ Bãng nhãn. Nguyễn Trực được vua Minh phong làm Lưỡng quốc trạng nguyên và được ban tặng cẩm bào…

Theo ghi chép của nhiều tài liệu, Nguyễn Trực còn là một nhà kiến trúc có tài.

Năm 1457, ông được giao trách nhiệm trông coi việc xây dựng chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích(8), một công trình văn hóa nổi tiếng thời đó.

Tài năng và phẩm chất của Nguyễn Trực được Lê Thánh Tông đánh giá cao. Bản thân Nguyễn Trực cũng có những cống hiến trong việc giúp Lê Thánh Tông lập lại an ninh cho đất nước, sau thời gian rối ren kéo dài. Ví như năm Quang Thuận thứ 8 (1467), có lệnh sai Nguyễn Trực làm Cống biểu cho các đạo; ông cũng được tham gia nghị bàn những việc cơ mật của Nhà nước… Mặt khác, vốn rất coi trọng sự nghiệp đào tạo nhân tài, Lê Thánh Tông đã tìm thấy ở Nguyễn Trực một nhà giáo xuất sắc, mẫu mực, và cử ông làm Quốc tử giám tế tửu. Thời gian phụ trách việc rèn luyện nhân tài cho đất nước, Nguyễn Trực đã soạn nhiều tài liệu giảng dạy cho sĩ tử, được người đương thời tôn là bậc nho sư…

Nhưng có lẽ hoạt động văn hóa có ý nghĩa hơn cả trong giai đoạn này là việc Nguyễn Trực tham gia hiệu đính, phê duyệt bổ “bách khoa toàn thư” của thời ấy: Thiên Nam dư hạ tập”(9). Gia phả ghi rằng bộ Thiên Nam dư hạ tập theo lệnh của Lê Thánh Tông, phải mang đến tận nhà để Nguyễn Trực phê duyệt mới được xuất bản.

Lòng ưu ái của Lê Thánh Tông đối với Nguyễn Trực khá đặc biệt. Nhiều lần Nguyễn Trực nhận được tiền trợ cấp vì túng thiếu và cả “thơ ngự” của vua ban. Có một bài thơ Vua viết rằng:

Ban cừ lại ngã khổng phương huynh,
Hữu lộ tây sơn xuất Phượng Thành
Vị thẩm thuỳ đương ngô sở tứ,
Thị ưng Nguyễn tính, Trực kỳ danh.

Dịch nghĩa:

Trẫm sai người mang tiền đi ban

Dọc đường từ Phượng Thành tới núi phía tây,

Chưa xét ai đáng để trẫm cho cả,

(Chỉ có một người đáng được) ấy là người họ

Nguyễn tên Trực.

Thế nhưng, sống giữa triều đường, Nguyễn Trực vẫn không quên nơi chôn nhau cắt rốn. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), lấy cớ bị ốm ông xin về dưỡng bệnh ở quê hương, nhưng Lê Thánh Tông không cho, với Nguyễn Trực ở lại Kinh đô chữa bệnh. Nhân dịp này ông làm bài thơ, phần để cảm ơn vua, nhưng cũng là để tỏ nổi nhớ tiếc không được về ngắm cảnh cày bừa đầu xuân ở quê hương.

Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu Kinh,
Quy kế như kim nhất vị thành.
Hà nhật tây sơn sơn hạ lộ,
Soa y tiểu lạp khán xuân canh.

Dịch nghĩa:

Trong khi ốm đau, được ân chiếu nhà vua cho lưu lại

Kinh chữa bệnh,

Kế về nghỉ hưu đến nay vẫn chưa thành được.

Biết đến ngày nào trên con đường dưới núi tây,

Mới được mặc áo tơi, đội nón nhỏ, ngồi xem cày ruộng vào tiết xuân !

Thực ra, đó chỉ là ước mơ. Nguyễn Trực là con người ưa hoạt động. Nhiều công việc bề bộn như vậy, ông vẫn còn dành được thời gian làm thuốc, chữa bệnh. Chỉ với tập Bảo anh lương phương cũng đủ xếp ông vào hàng danh y của đất nước.

Nguyễn Trực qua đời vào ngày 28 tháng 12 năm Hồng Đức thứ 4 (1473) khi ông mới 57 tuổi, vào lúc tài năng của ông đang ở độ chín muồi. Văn thơ ông, sự nghiệp của ông gắn với một thời kỳ lịch sử rực rỡ nhất của triều đại nhà Lê. ở ông, “trong đạo đức có từ chương”(10), văn chương ông “làm đẹp cho nước, trở thành kinh điển”(11). Cống hiến của ông cho đời vẫn được các thế hệ truyền nhau nhắc nhở giữ gìn.

Về sáng tác, Nguyễn Trực viết rất nhiều. Đáng tiếc, hiện nay mới sưu tầm được rất ít.

Những bài chiếu, sắc, chế, cáo, biểu … do Nguyễn Trực làm, ông đều sai học trò biên chép, chia làm 4 loại (Kinh, Sử, Tử, Tập). Sau đó ông tự duyệt lại, biên soạn thành hai bộ sách nhan đề là Ngu nhàn tập Kinh nghĩa chư văn tập. Ngoài ra, còn có Hu liêu tập, thể văn cũng giống như Ngu nhàn tập. Những tác phẩm Nguyễn Trực đều được Lê Thánh Tông xem kỹ và có lời phê khen. Thời kỳ Nguyễn Trực ở Phượng Thành, biệt thự “Hoàn bích” của ông thường có những buổi bình thơ và họa thơ. Nguyễn Trực làm 50 bài thơ với chủ đề Chư sinh đáp hoạ và được nhiều kẻ sĩ cũng như nho sinh làm thơ hoạ lại.

Nguyễn Trực viết nhiều về y học. Ngoài bộ sách thuốc Bảo anh lương phương đã nói ở trên, ông còn nhiều cuốn ghi chép về y học, dược học, nay đã bị mất mát nhiều(12).

Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được những tác phẩm sau đây do Nguyễn Trực biên soạn, biên tập, phê duyệt, hay có sưu tập thơ văn của Nguyễn Trực:

Bối Khê Trạng nguyên đình đối sách văn A.1225

Bảo anh lương phương A.1462

Bối Khê Trạng nguyên gia phả A.1046

Cổ tâm bách vịnh A.702

Toàn Việt thi lục A.1262/1-5

Thiên Nam thi tập A.315

Thiên Nam long thủ lục A.220, A.1658, A.2215

Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo VHv. 1713/1 - 5, A.1335, VHv.1299

Thiên Nam dư hạ tập A.334/1 - 10; VHv.37; VHv.1313/a, b.

Ngoài ra, rải rác ở các bộ sưu tập văn thơ khác cũng có chép thơ văn của ông. Công việc sưu tầm tác phẩm của Nguyễn Trực còn phải tiếp tục tiến hành.

CHÚ THÍCH

(1) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có cuốn Bối Khê trạng nguyên gia phả, ký hiệuA.1046. Đây là sách mới sao lại gần đây, phần gia phả ghi sơ lược nhưng khớp với cuốn gia phả mới tìm thấy ở quê Nguyễn Trực.

(2) Khi viết phần này, chúng tôi có đối chiếu với những tư liệu trong các sách khác như Toàn Việt thi lục, Thiên Nam thi tập, Thiên Nam lịch triều đăng khoa bị khảo, Cổ tâm bách vịnh, Lịch tìêu đăng khoa lục…

(3) Nguyễn Trực còn hai người con trai do bà thiếp Đào Thị Tiếp, con Đào Công Soạn sinh ra, là Đôn Tĩnh và ái Mộng cũng đều đỗ Nho sinh tú lâm cục.

(4) Núi Phật Tích thuộc xã Thiên Phúc, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, nay thuộc Hà Sơn Bình.

(5) Nay là thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Sơn Bình.

(6) Năm 1442 Lê Thái Tông mất, vua Nhân Tông lên nối ngôi tuổi mới lên 3. Quần thần mời Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu Nguyễn Anh (Vợ Thái Tông và là mẹ Nhân Tông) “buông rèm coi chính sự”.

(7) Trịnh Thiết Tràng, hai lần thi đậu. Người Đông Lý, Yên Định. Đỗ Bảng nhãn khoa Mậu Thìn (1448), làm đến Hữu Thị Lang. Là con rể Nhân Tông, được phong Nghi Quốc công.

(8) Chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích thuộc xã Thiên Phúc, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (nay thuộc Hà Sơn Bình), Chùa này khởi công từ năm 1457, đến năm 1458 thì hoàn thành.

(9) Thiên Nam dự hạ tập, 100 quyển, năm Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông cử Thần Nhân Trung và Đỗ Nhuận biên soạn, ghi chép đủ các chế độ, luật lệ, văn hàn, điển lệ, cáo sắc, … (Xem Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí)

(10) Xem bài Điếu Nghĩa Bang trạng nguyên của Lê Thánh Tông, trong Hồng Đức Quốc âm thi tập, Nxb Văn học, In lần thứ 2, 1982, tr.92.

(11) Lời nhận xét về Nguyễn Trực của Thần Nhân Trung, đỗ Tiến sĩ năm Quang Thuận thứ 10 (1469), làm Lại bộ Thượng thư, Phó nguyên soái hội Tao đàn.

(12) Cụ Phó Lạc nay ở thôn Việt Yên, xã Đông Yên, huyện Quốc Oai Hà Sơn Bình là người kế tục được truyền thống y học của dòng họ. Cụ còn giữ được một số tư liệu y học của tổ mình là Nguyễn Trực.

TB

VÀI THÔNG TIN BAN ĐẦU VỀ
VĂN BẢN NÔM TÀY

NGUYỄN DOÃN TUÂN

Mấy năm lại đây trên các tạp chí của cơ quan Trung ương và văn bản Nôm Tày - một loại văn bản mà trước kia ít được quan tâm tới. Gần đây Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã phát hiện và sưu tầm được một số văn bản đáng chú ý. Đó là những văn bản không chỉ làm tài liệu phục vụ trực tiếp việc nghiên cứu một thành phần hữu cơ trong cơ cấu nền văn học Việt Nam đa dân tộc, mà còn là nguồn tư liệu giúp vào việc tìm hiểu các vấn đề ngôn ngữ học, văn bản học và dân tộc học. Để có thể đi sâu khai thác các di sản văn hóa thuộc loại này, hàng loạt vấn đề cần phải được đặt ra: hiện trạng văn bản ra sao ? Nội dung có những vấn đề gì? Nơi lưu trữ văn bản? v.v… Qua các chuyến đi thực tế với những kết quả thu được, chúng tôi thấy công việc tìm kiếm, lượm nhặt, bảo quản các di sản văn hóa còn phải tiếp tục làm trong nhiều năm tới đang mở ra những triển vọng tốt đẹp. Dưới đây là một vài thông tin và suy nghĩ của chúng tôi về loại văn bản đáng được quan tâm ấy.

Trước hết cũng cần nói rằng dân tộc Tày có một nền văn học thành văn khá sớm, vì trước khi có chữ Tày hiện hành, người Tày đã ghi lại các sáng tác bằng chữ Nôm của mình trên cơ sở cấu tạo chữ Hán và chữ Nôm Kinh. Các văn bản Nôm Tày còn lại với chúng ta ngày này chủ yếu là các văn bản chép tay(1). Tuy chưa thấy văn bản nào ghi năm sáng tác và tác giả của nó, nhưng một số văn bản lại có dòng lạc khoản cho ta thấy văn bản được sao chép cách chúng ta đã khá xa(2). Hơn nữa, cũng như dân tộc Kinh, dân tộc Tày có một nền văn học dân gian khá phong phú bao gồm nhiều thể loại: tục ngữ, ca dao, dân ca, phuối phác, phong slư, hát then, hát lượn; nhiều loại hình tự sự như truyện thần thoại, truyện cổ tích; và đặc biệt phổ biến là truyện thơ. Văn bản Nôm Tày là sản phẩm trực tiếp của xã hội Tày, vì vậy cũng phản ánh khá rõ tính đa dạng của xã hội ấy. Tuy nhiên, do chung sống trong một quốc gia thống nhất, do nền văn hóa Thăng Long có những ảnh hưởng nhất định đến các tộc người chung quanh mà văn bản Nôm Tày có những điểm giống văn bản Nôm Kinh cả về hình thức lẫn nội dung. Văn bản Nôm Tày cũng thường được đóng thành từng quyển mà ta vẫn quen gọi là sách. Mỗi quyển như vậy có bìa bằng giấy bản phất cậy màu xỉn nâu hoặc xỉn đen và được khâu bằng sợi se to theo lối khâu ba hoặc bốn nút. Trừ một số thể loại như phong slư thường thấy viết trên vải, các văn bản Nôm Tày dùng giấy bản là phổ biến, đóng kiểu tờ gấp, chất liệu giấy thô, với nhiều khuôn khổ khác nhau. Ví như văn bản Toọng Tương khổ 27 x 13; Tống Tân 26 x 16, nhưng văn bản Kim Quế lại có khổ 19 x 18(3) v.v… Trên giấy bản, đó là hệ thống thông tin văn Nôm viết bằng mực đen theo chiều dọc từ phải sang trái, có chấm câu và cách đoạn rõ ràng. ở mỗi văn bản lại có những kiểu viết chữ khác nhau, có lối viết chân hoặc chân bán thảo; có lối viết đơn hoặc viết kép; có lối viết phồn thể hoặc giản thể v.v… Đôi khi ở chỗ này chỗ kia lại có trường hợp cùng âm cùng nghĩa nhưng mà chữ thì khác nhau. Ví dụ âm nàng (nghĩa là nàng) có các mã ; 娘; âm noọng (nghĩa là em) có các mã ; ; âm Rườn (nghĩa là nhà) có các mã ; . Đặc biệt âm thanh địa phương được phản ánh khá rõ nét trong văn bản. Chẳng hạn cùng từ “nói”, có nơi dùng âm chang, mã chữ là ; có nơi dùng âm phuối, mã chữ lại là . Điều này cũng gây ít nhiều khó khăn trong việc phiên âm, nhưng cũng có thể sẽ đưa lại cho ta những điều thú vị trong việc tìm đến quê hương và thẩm định lí lịch của văn bản. Dựa vào đặc điểm này, phải chăng chúng ta có thể vạch ra những tiêu chí trên con đường tìm hiểu, phân loại và khoanh vùng văn bản. Một đặc điểm có tính phổ biến trong các văn bản Nôm Tày là trong kết cấu, nội dung được trình bày theo lối chương đoạn và mở đầu mỗi đoạn bằng các chữ “lại ca đoạn” (吏 段) nghĩa là: lại nói về đoạn. Xét về nội dung thông tin thì như trên đã nói, các văn bản Nôm Tày đã phản ánh khá nhiều mặt về con người. Ở đấy ta có thể thấy những tâm tư tình cảm của con người, những triết lý sống, những kinh nghiệm sản xuất miền núi, những thuần phong mỹ tục v.v…, đặc biệt là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt chống bọn bành trướng xâm lược phương bắc cùng được phản ánh khá đậm nét. Có thể nói văn bản Nôm Tày đã ghi được một cách sinh động những vấn đề của thời đại, của lịch sử xã hội Tày. Trong việc khai thác văn hoá văn minh của dân tộc, chúng ta quý trọng giá trị các văn bản ấy biết chừng nào.

Trở lên chúng tôi đã sơ bộ giới thiệu về diện mạo và nội dung văn bản Nôm Tày nói chung. Dưới đây chúng tôi xin điểm qua về tình hình các nguồn tư liệu mà qua điều tra chúng tôi được biết ở một số địa phương. Có thể nói ngoài những văn bản đã được lưu trữ ở kho sách Viện nghiên cứu Hán Nôm, còn không ít văn bản Nôm Tày đang lưu hành rải rác trên một địa bàn khá rộng. Một số cơ quan văn hóa và chính quyền địa phương đã xúc tiến việc thống kê thu thập, những văn bản Nôm Tày còn lưu trữ trong các gia đình tư nhân vẫn là chủ yếu. Nếu kể cả nguồn tư liệu sống là một số cụ biết chữ Nôm, thuộc lòng nhiều truyện, thì ở địa bàn nào có người Tày cư trú cũng có loại tư liệu sống này.

Ở các nơi như Ty văn hóa thông tin Thái Nguyên, Viện Bảo tàng, Trường Đại học Sư phạm có lưu trữ một số văn bản Nôm Tày. Đó là những văn bản sưu tầm từ nhiều địa phương và của gia đình các ông Bế Sĩ Uông. Triệu Văn Doanh, Nông Viết Toại, Hoàng Hựu. Chúng tôi được biết ông Bế Sĩ Uông có một số văn bản tốt với nội dung hay như Xuân Lan Tam Mởu Ngọ, Long Tôn, Long Lâu, Văn Thị v.v… Tuy nhiên, các văn bản ấy mới chỉ ở dạng tập hợp, còn việc bản quản khai thác nó, đúng như lời đồng chí giám đốc Viện Bảo tàng nói với chúng tôi, là phải chuyển về Viện Hán Nôm mới đúng chức năng, mới trở thành tài sản chung của quốc gia, mới có đủ phương tiện bảo quản lưu trữ. Đồng chí đó cũng đã nhận thấy rằng việc khai thác công bố các văn bản này không chỉ phục vụ riêng đồng bào Tày mà với một ý nghĩa lớn hơn là nó phải có một vị trí xứng đáng trong cái lâu đài văn hóa nguy nga của dân tộc. ý nghĩ đó đã vạch ra một phương hướng đúng cho công việc của chúng ta đang phải làm, vì mọi việc làm đúng chỉ có thể xuất phát từ cái nhìn đúng. ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Thái, Uỷ ban nhân dân huyện và phòng văn hóa thông tin huyện đã thông tư cho 21 xã trong huyện tổng kiểm kê toàn bộ sách Hán Nôm, kể cả sách mo then cúng bái. Kết quả bước đầu cho thấy Uỷ ban nhân dân các xã nắm tương đối chắc số văn bản Hán Nôm lưu hành trên địa bàn mình, đặc biệt là những kho sách tư nhân lưu trữ hàng chục văn bản, như gia đình các ông Nông Văn Ngọc, Vương Văn Ngấn, Nguyễn Tiến Ma (xã Đông Viên) giữ được các văn bản như Quang Vũ Nam – Kim Thị Đan, Toọng Tương, Slam Péc anh tài v.v…Gia đình các ông Lý Tiến, Nguyễn Đức Quảng, Vi Phát Nhúc, Liêu Đình Thanh (xã Rã Bản) còn giữ được các văn bản như: Kim Quế, Tần Chu, Tống Tân, Lưu Đài Hán Xuân, Thơ ca thời Đông Hán, Lượn cọi v.v… Gia đình các ông Hà Văn Cam, Hà Văn Tầm (xã Phương Viên) còn giữ được các văn bản Đính Quân, Tần Chu v.v…. Đặc biệt trong số sách nhà ông Nguyễn Tiến Ma, có cuốn gia phổ ghi về họ Nguyễn Đức ở Nam Hà lên cư trú lâu đời với người bản xứ, nay đã trở thành người Tày. Có những văn bản nói về kinh nghiệm sản xuất, những ước mơ trong lao động: cầu phong được gió, cầu vũ được mưa, trồng khoai khoai tốt bằng đầu, trong nhà vạn đại thóc lúa đầy đa. Qua các địa phương chúng tôi được tới, tình hình cho thấy số văn bản Nôm Tày còn lưu hành khá phong phú. Chẳng hạn xã Đông Viên có 3 đơn vị hành chính là Khau Chủ, Nà Kẹt và Nà Vằn với 1.800 nhân khẩu, 38 hộ người Kinh, 138 hộ người Tày, trên một diện tích dài 4km mà có tới 5 kho sách tư nhân chứa hàng trăm văn bản (kể cả sách mo then cúng bái). Ngay trong số sách Tào Pụt mà Uỷ ban xã đã thu giữ cũng không hoàn toàn là nội dung mê tín, vì có những sách nội dung khuyên dạy con cái làm ăn lương thiện, cách cư xử trong gia đình ngoài xã hội và dạy cả kỹ thuật cày cấy theo thời vụ. Chẳng hạn bài sau đây:

Nằm nà cón ngoòng á
Khẩu chẳng quá ngài chiêng
Khẩu chẳng phiêng pác giảo
Nằm nà lăng ngoòng á
Khẩu bấu quá ngài chiêng
Khẩu bấu phiêng pác giảo.

Nghĩa là:

Cấy trước lúc ve kêu(4)
Thóc đủ ăn qua tháng giêng
Thóc đầy tràn miệng cót.

Điều đáng chú ý nữa là ngay trên một địa bàn cũng có những dị bản khác nhau cả về nội dung và hình thức. Khi Uỷ ban huyện và Phòng Văn hóa - Thông tin được biết tình hình này, đồng chí Chủ tịch huyện Đồng Phúc vẻ rất phấn khởi nói với chúng tôi nhiều vấn đề về khả năng tiềm tàng văn hóa của huyện, đồng thời cho chúng tôi biết về một bia đá có chữ Hán Nôm dựng ở ven sườn đồi xã Đồng Lạc và hiện nay cứ đến ngày tảo mộ, đồng bào vẫn thắp hương cũng vái. Đồng chí gợi ý cho chúng tôi thu thập tài liệu nghiên cứu thử xem Chợ Đồn có phải là cái nôi của văn học Tày hay không và đề nghị hợp tác chặt chẽ giữa Phòng Văn hóa huyện với viện Hán Nôm trong việc sưu tầm khai thác các di sản văn hóa của huyện.

Ở tỉnh Cao Bằng, tuy chưa có điều kiện tiến hành kiểm kê một cách có quy mô, nhưng theo điều tra sơ bộ của chúng tôi những năm trước đây thì văn bản Nôm lưu hành trong tỉnh cũng khá nhiều, chủ yếu tập trung trong các gia đình có truyền thống Hán học cũ. Tại xã Bế Triều huyện Hà An có gia đình ông Hoàng An Định, Hoàng Văn Liêm lưu giữ được một số văn bản Nôm, trong đó có những văn bản đã phiên ra tiếng Tày và công bố(5). Hàng loạt các văn bản có giá trị như Trương Hán Mộu Đơn, Thôi Văn Thuỵ, Slam péc anh Tài, Thạch Sanh, Chiêu Đức Kim Nữ, Thơ mừng năm mới, mừng đám cưới v.v…Ở bao gia đình bao địa phương chưa kể xiết. Là một tỉnh vùng cao, xa trung tâm văn hóa, nhưng lại là cố đô của nhà Mạc nên cũng có những truyền thuyết về nguồn gốc chữ Nôm Tày khá hấp dẫn(6). Đã có được một câu trả lời khoa học - Cao Bằng có phải là nơi sản sinh ra chữ Nôm Tày hay không - thì điều cần thiết là Uỷ ban tỉnh và Ty văn hóa Thông tin địa phương tiến hành việc tập hợp toàn bộ di sản bằng chữ Nôm Tày trong tỉnh, trên cơ sở đó chúng ta sẽ đẩy mạnh công tác nghiên cứu. Nếu chỉ nghe truyền thuyết thôi thì có khác gì như “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” làm sao có thể đi đến một kết luận khoa học được.

Ở tỉnh Lạng Sơn tình hình lại khác: Số văn bản là truyện thơ có vẻ thưa thớt, nhưng số văn bản sli lượn lại có nhiều. Bởi vì đồng bào Lạng Sơn có truyền thống hát sli lượn từ lâu và cho đến nay những ngày hội chợ, ngày tết vẫn được coi là những ngày của sli của lượn. “Ca sĩ” hát sli lượn là quần chúng lao động mà chủ yếu là nam nữ thanh niên. Với hình thức diễn xướng tự nhiên, dàn trải khắp khu vực tổ chức hội hè, có khi cả bên sườn đồi, ven núi, suốt ngày đêm, những giọng sli lượn trầm bổng không dứt. Trong loại hình này ta cũng thấy có nhiều loại như lượn cọi, lượn bươu, lượn tứ quý v.v…. Đồng chí Mã Thế Vinh, phó trưởng Ty Thông tin - Văn hóa đã sơ bộ giới thiệu với chúng tôi về tình hình văn bản Hán Nôm và phương hướng hợp tác sưu tầm khai thác trong những năm tới ở một tỉnh vùng biên giới.

Ở Hà Tuyên, Yên Bái tuy chưa có điều kiện điều tra trực tiếp, nhưng qua các nguồn tin, chúng tôi thấy rằng: văn bản Hán Nôm ở các địa phương này có nhiều loại tồn tại bằng nhiều hình thức khác nhau trong dân gian. Số phận các văn bản này đang chờ đợi một sự quan tâm nào đó để từ trong quá khứ nó được sống lại với cả hiện tại và tương lai.

Tóm lại, trên đây là đôi nét về tình hình văn bản Hán Nôm Tày ở những vùng mà chúng tôi được đến. Dĩ nhiên đó mới chỉ là bước đầu khái quát với những điểm nhỏ trên một diện rộng. Tuy nhiên chúng tôi thiết nghĩ đối với các bản Nôm Tày cần phải tiến hành điều tra sưu tầm gấp với một thái độ và tình cảm trân trọng những di sản văn hóa của dân tộc. Đồng bào Tày có tập quán làm nhiều hơn nói, nhưng chắc rằng sẽ là vàng cả những khi im lặng và những điều đã nói. Văn bản Nôm Tày là di sản văn hóa đã ra đời và tồn tại thầm lặng từ xưa, nhưng chính sự thầm lặng ấy đang trở thành điều mới trong cái xưa đầy thú vị mà chúng ta ngày nay đang phải ra công phủi bụi thời gian để tìm kiếm lượm nhặt. Trên con đường tìm hiểu nghiên cứu các di sản văn hóa này, việc điều tra sưu tầm tư liệu hẳn là điều cần thiết trước tiên và cũng như trong Hội nghị bàn về sưu tầm bảo quản trước đây do Viện Hán Nôm tổ chức, chúng tôi nghĩ rằng cùng với sự hợp tác của các địa phương, Viện Hán Nôm, cơ quan chức năng, phải tập hợp được các văn bản đó về một kho lưu trữ, bởi vì có như vậy, các di sản văn hóa của dân tộc Tày anh em mới có được một vị trí xứng đáng trong vườn hoa văn hóa muôn sắc ngàn hương của dân tộc.

CHÚ THÍCH

(1) Chúng tôi đã điều tra thống kê các văn bản lưu trữ ở kho sách Hán Nôm và một số văn bản ở các huyện Na Rì, Phú Lương, Chợ Đồn tỉnh Bắc Thái, các huyện Hoà An, Trùng Khánh, Quảng Hoà tỉnh Cao Bằng; Các huyện Cao Lộc, Bắc Sơn, Hữu Lùng tỉnh Lạng Sơn thì chưa có văn bản nào in và ghi tên tác giả, mà chỉ thấy văn bản chép tay khuyết danh hoặc có bút tích của người sao chép mà thôi.

(2) Ví dụ: Văn bản Tần Chư, Nv. 78, kho sách Hán Nôm, có ghi: Thành Thái thập niên ở trang cuối. Như vậy, văn bản này đã có từ năm 1893.

(3) Toọng Tương mang ký hiệu Nv. 90; Tống Tân Nv.86 Kim Quế Nv.89 kho sách Hán Nôm.

(4) Người Tày có kinh nghiệm cấy trước lúc ve kêu là đúng thời vụ, tức là vào khoảng từ trung tuần tháng 6 đến hết tháng 7. Khoảng 30-7 trở đi về bắt đầu kêu là muộn.

(5) Văn bản Chiêu Đức Kim Nữ đã xuất bản bằng tiếng Tày; Nxb. Việt Bắc, 1975, do Hoàng An Định và Hoàng Đức Khải phiên âm.

(6) Xem truyền thuyết về chữ Nôm Tày, báo cáo khoa học của Lã Văn Lô.

TB

MỘT VÀI SUY NGHĨ CHUNG QUANH
VẤN ĐỀ ĐỌC NÔM PHIÊN NÔM
(1)

NGUYỄN TÀI CẨN

Về việc đọc các văn bản Nôm để phiên ra Quốc ngữ, trước nay đã từng có nhiều trường hợp gây ra tranh luận, mỗi trường hợp như vậy thường có những nguyên nhân cụ thể và những hoàn cảnh riêng biệt của nó. Tuy nhiên, nếu khái quát lên thì cũng có thể quy tụ lại được thành một số vấn đề cơ bản, ít nhiều có liên quan đến các đặc điểm của chữ Nôm, xét về mặt loại hình văn tự cũng như về mặt bối cảnh lịch sử xã hội đã chi phối lối văn tự đó. Dưới đây chúng tôi xin thử chọn ra, bàn đến một đôi vấn đề có tấm quan trọng chung đó.

I) Vấn đề trước tiên cần làm sáng tỏ, theo ý chúng tôi, là vấn đề xác định mối quan hệ giữa một bên là việc đọc Nôm với một bên là việc phục nguyên các dạng ngữ âm cổ.

Chữ Nôm là một hệ thống văn tự đã được sáng tạo ra cách ta khoảng chừng bảy, tám thế kỷ, nhiều văn bản Nôm cũng đã được viết ra cách ta hàng mấy trăm năm. Do các lẽ đó, trong các văn bản Nôm thể nào cũng phải có những chữ còn lưu lại những vết tích chức âm cổ, thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhưng chữ Nôm là một nền văn tự thuộc loại hình khác xa những nền văn tự ghi theo từng âm, như chữ Quốc ngữ hiện nay. Chữ Nôm thuộc loại hình văn tự không bộc lộ rõ ràng và trực tiếp những diễn biến ngữ âm đã từng xẩy ra. Mở một cuốn từ điển quốc ngữ cổ như cuốn của A. de Rhodes in năm 1651 ta có thể thấy ngay những âm nào đã diễn biến, kể từ đó đến nay. Trái lại mở một văn bản Nôm viết vào cùng một giai đoạn đó, thì ta không dễ dàng gì có thể nêu ngay được những diến biến ngữ âm như vậy. Do tình hình như thế, các nhà nho của chúng ta trước đây hầu như không bao giờ để tâm đến những điều mà hiện nay chúng ta - lớp con cháu họ - lại rất băn khoăn. Mở truyện Kiều ra họ cứ tự nhiên theo thói quen mà đọc “Trăm năm trong cõi người ta”… hoàn toàn không lưu tâm gì đến việc TRĂM ghi bằng thanh phù (lăm), TRONG ghi bằng thanh phù (long). Cũng vậy, khi thấy GIà bằng (trà) SáU ghi rằng bằng (lão), họ vẫn cho đó là điều tự nhiên, không có gì đáng để đem ra bình luận. Thành thử, chỉ mãi đến gần đây, khi một số tri thức ngữ âm lịch sử được phổ biến thì những cách phiên quốc ngữ như blái (trái), blăng (=trăng) mới bắt đầu xuất hiện trong các văn bản in ra để phục vụ đông đảo bạn đọc.

Nhưng đến đây một vấn đề mới lại được đặt ra: lúc nào nên phiên là trái, trăng, lúc nào nên phiên là blái, blăng ?. Phiên trái, trăng là phiên theo cách đọc hiện nay, phiên blái, blăng là phiên theo cách đọc cổ. Cách đọc hiện nay là một cách đọc đang có mặt thực sự trong cuộc sống, một cách đọc ai cũng có thể kiểm tra nên không ai có thể dám hoài nghi; các cách đọc cổ trái lại, đều là những cách đọc đã mất. Hiện chỉ do giới ngữ âm lịch sử phục nguyên lại, tái lập lại, tính chính xác của chúng không bao giờ cũng có thể bảo đảm đúng một trăm phần trăm. Những lúc cần thiết, ngay giới ngữ âm lịch sử cũng phải dùng ký hiệu đặc biệt - ký hiệu cáo hình hoa thị - để báo hiệu cho người đọc biết rằng đây chỉ là những cách đọc giả định. Mặt khác, những cách đọc như trái, trăng, đều là những cách đọc đang nằm trong “bộ nhớ” của mọi người, nói chung đọc lên ai cũng hiểu được, những cách đọc như blái, blăng, trái lại đều là những cách đọc chỉ một số rất ít nhà nghiên cứu là có thể nhận diện được. Do những lẽ đó, khi phiên những bản Nôm cổ ra chữ Quốc ngữ để phục vụ đông đảo người đọc thì theo ý chúng tôi dứt khoát chỉ nên phiên theo âm hiện đại chứ không thể phiên theo những âm cổ do giới nghiên cứu tái lập. Làm ngược thế tức là bỏ đi những cách phiên chắc chắn, ai cũng hiểu được, đem thay bằng những cách phiên giả định ít ai hiểu được. Cứ thử tưởng tượng một câu như: “Tìm mai theo đạp bóng trăng” mà phiên nhất quán từ đầu đến cuối theo ngữ âm cổ, thành:

Xìm môi xeo tạp poóng blăng(2)

Thì người đọc sẽ phản ứng như thế nào ? cho nên không phải ngạc nhiên mà trước nay, thiên hướng chung bao giờ cũng là phiên theo hiện đại cả. ở Trung Quốc đối với chữ Hán trong các tác phẩm của quá khứ, người ta cũng làm như vậy: giới Hán ngữ học tuy đã có những thành tựu xuất sắc trong việc tái lập âm Hán trung cổ và thượng cổ, nhưng khi đứng trước Tứ thư, Ngũ kinh, Sở từ, Đường thi bao giờ người ta cũng đều đọc theo âm Bạch thoại cả. Tóm lại, những dạng như blái, blăng đều là những dạng cổ phục nguyên, được giới nghiên cứu đưa ra không phải để dùng trở lại vào trong cuộc sống hàng ngày, trong thưởng thức văn học, mà đưa ra chỉ để dùng trong địa hạt ngữ âm lịch sử, những khi bàn về các âm cổ Việt Nam, bàn về quá trình cấu tạo chữ Nôm, lịch sử diễn biến của chữ Nôm v.v…

Nhưng nói phải phiên theo âm hiện đại đó mới chỉ là nói về chủ trương chung. Đi vào chi tiết, ít nhất cũng cần phải tính đến mấy trường hợp cụ thể như sau:

- Trường hợp 1: một từ xưa có, nay còn giữ lại được và vẫn đọc như xưa.

- Trường hợp 2: một từ xưa có, nay còn giữ lại được, nhưng đã đọc khác xưa.

- Trường hợp 3: một từ xưa có, nay đã mất trong phạm vi ngôn ngữ toàn dân, nhưng còn giữ lại được ở một đôi thổ ngữ nào đấy .

- Trường hợp 4: một từ xưa có, nay đã mất hoàn toàn, không tìm được vết tích bất kỳ ở thổ ngữ nào.

Nếu đem tình hình trong cuốn từ điển A. de Rhodes in năm 1651 so với hiện nay, thì thuộc trường hợp 1 là những từ như một, hai, ngày, tháng, ăn,nói … thuộc trường hợp 2 là những từ như blăng (=trăng), blả (=trả), mlạt (=nhạt), mlời (=lời), tlon (= tron), tlước (=trước), bó ngựa (=vó ngựa) thuộc trường hợp 3 là những từ như khảm (=đủ, ở Bình Trị Thiên còn nói là khẳm); tláo (=nôi trẻ em, ở Vĩnh Phú còn nói là tróng, chóng); tlam (=hoa tai, ở Nghệ An còn nói là Trằm)… thuộc trường hợp 4 là những từ như Mắng (= nghe), nghỉ (=dễ, dễ dàng), cang la (= một loại thúng, giỏ) … tu rích (=một loại dao)…(3).

Ở trường hợp 1 và 2 thì khi phiên thành âm hiện đại không xẩy ra khó khăn gì. ở trường hợp 3 vấn đề chính là phải phát hiện cho ra phương ngữ hiện còn lưu giữ cách đọc ứng với chữ dùng trong văn bản Nôm cổ. Cách đọc đó là một cách đọc đáng tin cậy, vì đang được dùng trong một vùng, nhưng vì cách đọc đó khó hiểu đối với toàn dân, nên khi phiên ra Quốc ngữ cần có chú thích. Riêng ở trường hợp 4 thì chúng ta không tài nào có thể phiên ra âm hiện đại được bởi lẽ đây là trường hợp những từ đã chết, không truyền lại đến ngày nay. Cố nhiên, trường hợp này chúng ta không còn có con đường nào khác ngoài con đường cố gắng tìm cách phục nguyên lại âm đọc cổ thông qua việc vận dụng phương pháp lịch sử so sánh hay phương pháp văn bản học. Cách đọc tìm ra được không phải bao giờ cũng có độ đáng tin cậy như nhau. Nhưng dầu đáng tin cậy hay không đáng tin cậy, bao giờ những trường hợp này cũng đòi hỏi cần phải có chú thích.

II) Trong số các văn bản Nôm chúng ta hiện có, có văn bản thì được viết theo tiếng Bắc, cũng có văn bản thì lại được viết theo tiếng miền Trung hay miền Nam. Do đó khi phiên Nôm ra Quốc ngữ, cũng cần lưu ý đến vấn đề tiếng địa phương.

Căn cứ theo sự phân loại trong ngôn ngữ học, có thể chia thành hai trường hợp: trường hợp gọi là từ địa phương và trường hợp gọi là dạng phát âm địa phương, ví dụ về trường hợp từ địa phương: cươi (= sân) ở Nghệ An, mần (= làm) ở Huế, qua (= ta) ở Nam bộ; ví dụ về dạng phát âm địa phương, cũng đọc thành cụng ở Nghệ An, nhà đọc thành già ở Huế, sinh đọc thành sanh ở Nam bộ. ở chữ Nôm, những sự khác nhau này có khi được thể hiện ra ở chữ viết nhưng cũng có khi không. Thông thường tình hình chung là như sau:

Từ địa phương Dạng phát âm địa phương
Viết khác
Không viết khác
(1) có
(4) không
(2) có
(3) có

Điều này cũng dễ hiểu: sân và cươi, làm và mần, ta và qua đều là những cặp từ gồm hai từ không cùng nguồn gốc, có cách phát âm rất xa nhau, nên về mặt văn tự, chúng không thể không viết khác nhau, ở các cặp cũng - cụng, nhà - già, sinh - sanh thì trái lại: mỗi cặp vốn bắt nguồn từ một gốc chung. Sự xa cách trong mỗi cặp nhìn chung hiện vẫn chưa thật lớn. Do lẽ đó, ở chữ Nôm, các dạng phát âm địa phương thường viết chung một chữ: sanh ở miền Nam viết hoàn toàn như sinh ở miền Bắc, già ở Huế viết hoàn toàn như nhà ở Hà Nội… Nhưng chữ Nôm là một nền văn tự vốn chưa được điển chế hóa, ngay một từ trong cùng một địa phương, lắm khi cũng có rất nhiều cách viết khác nhau. Vì vậy cũng không ít trường hợp ta gặp những dạng phát âm địa phương viết khác hẳn dạng phát âm phổ thông. So sánh:

Từ phổ thông Cách ghi địa phương: Huế(4)
1 Đặt (như trong đặt bày) Đặc (như trong đặc biệt)
2 Bắc (như trong bắc thang) Bát (chữ nôm = thư + bát)
3 Lăn (như trong lăn lóc) Lăng (như trong xâm lăng)
4 Van (- than van) Vang (như trong hiển vang)
(vinh đọc thành vang)
5 Chăn (50 năm chẵn) Chẳng (Hán việt chửng, đọc Nôm chẳng)
6 Đáng (như trong đáng lễ) Đắn (như trong nguyên đán)
7 Kiêng (- kiêng sợ) Kiên (- kiên cường)
8 Sang (- sửa sang) San (nghĩa là dọn dẹp)
9 Từng (- từng trải) Tần (nghĩa là nhiều lần)
10 Dàng (- dễ dàng) Nhàn (như trong nhàn hạ)
11 Dàn (- dàn quân) Nhàn – nhàn hạ

Từ phổ thông Cách ghi địa phương: Nam Bộ(5)
1 Vùng (như trong vùng vẫy) Dùng (Hán Việt dụng đọc Nôm dùng)
2 Với ( - cùng với) Giới (như trong giới thiệu)
3 Cát (- bãi cát) Các (- những, các)
4 Mặc (- mặc áo) Mặt (- mặt mũi)
5 Càng (- càng …càng) Càn (- càn khôn)
6 Chính (- chính chuyên) Chín (- tám, chín)
7 Chun (- chunra) Chung (- chung kết)
8 Hay (nghĩa là biết) Hai (- một hai)
9 Tai (như trong tai mắt) Tay (- chân tay)
10 Sau (- sau trước) Sao (- sao vậy)
11 Chuyến (- chuyến đi) Chiến (- chiến đấu)

Có hiện tượng từ địa phương, dạng phát âm địa phương phản ảnh vào chữ viết như vậy, thì khi phiên ra Quốc ngữ, chúng ta nên phiên như thế nào? Đứng trước câu hỏi này, theo ý chúng tôi, trước hết cần phân tích sự khác nhau giữa ba trường hợp 1, 2, 3. Xét về mặt văn tự, như trên đã nói, 1, 2, đứng về một phía, đối lập hẳn với 8; đứng về mặt ngôn ngữ thì 2, 3 lại đứng về một phía, đối lập hẳn với 1. Khi phiên ra Quốc ngữ, chúng ta không thể không tôn trọng ý muốn của tác giả đã thể hiện ra ở chữ viết, chúng ta không có quyền làm người hiệu đính chữa các từ địa phương tác giả đã dùng ra thành từ phổ thông: ở trường hợp 1, dứt khoát chúng ta phải bám sát chữ viết để phiên. Nói một cách cụ thể, những từ như xuê, va, sui gia, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng trong văn bản Nôm thì ta không thể không đưa vào trong bản Quốc ngữ. ở trường hợp 3 tình hình hoàn toàn ngược lại. Đứng trước câu:

Trước đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le

Chúng tôi nghĩ cứ nên phiên “nhân” chứ không phiên “nhơn” theo cách đọc Nam bộ. Phiên như vậy không phải là không tôn trọng nguyên bản của tác giả, bởi lẽ ngay bản thân tác giả lắm khi cũg đã chấp nhận cách phát âm phổ thông. Ví dụ:

Lão tiền liền bước lại gần
Thiệt là một gã văn nhân mắc nần.

Hơn nữa Nguyễn Đình Chiểu vốn viết bằng chữ Nôm. Mà trong văn bản Nôm, dầu có đọc nhơn, thì nhơn vẫn viết thống nhất như nhân trong toàn quốc: Vậy phiên nhân không có gì là sai trái. ở trường hợp 2 ta có tình hình trung gian giữa 1 và 3: bám sát chữ viết thì ta sẽ phiên như ở 1, tôn trọng ngôn ngữ thì ta sẽ phiên như ở 3, chúng tôi nghiêng về hướng thứ hai. Nghiêng về hướng này tuy không bám sát chữ viết (hiểu theo nghĩa hẹp) nhưng vẫn là tôn trọng nguyên tắc của nền văn tự Nôm, nói chung. ở nhiều văn bản khác, chúng ta đã chấp nhận có thể đọc bay khi có thanh phù bi cũng như khi có thanh phù bái, phi, thì ở đây cũng không có gì ngăn cản chúng ta, không cho phép chúng ta có thể đọc đặt khi có thanh phù đặc cũng như khi có thanh phù đạt, hoặc có thể đọc với khi có thành phù giới cũng như khi có thanh phù bối.

Chúng tôi không có ý định phổ thông hóa trong mọi trường hợp . Các tác giả sáng tác ở địa phương mà có sử dụng một số biến thể dạng phát âm địa phương, đó là một điều tự nhiên, dễ hiểu. Giữ lại một số dạng phát âm địa phương ở những chỗ thật cần thiết (như những chỗ cần cần gieo vần chẳng hạn), đó là một giải pháp đúng đắn, không ai chối cãi. Ví dụ:

Làm trai trong cõi người ta
Trước lo báo bổ sau là hiển vang
Tôn sư khi ấy luận bàn(6)

Giữ lại với một tỷ lệ như vậy cũng hay, vì đó cũng là một cách để giữ sắc thái địa phương cho tác phẩm. Nhưng nhìn chung, thì hai trường hợp 2, 3 đều nên phiên theo cách đọc toàn quốc cả. Chúng ta không nên quên rằng những tác giả như Nguyễn Đình Chiểu đều là những tác giả của toàn dân. Lục Vân Tiên là một tác phẩm của toàn dân. Giữ lại quá nhiều cách phát âm địa phương, giữ ở những chỗ hoàn toàn không cần thiết chỉ làm hại tác giả, tác phẩm, hạ thấp vai trò và tác dụng của tác giả, tác phẩm đối với toàn quốc. Đó là chưa kể một điều: quá trình thống nhất ngôn ngữ càng ngày càng cách lý mà càng ngày càng xích lại gần ngôn ngữ phổ thông của toàn quốc. Kiến nghị phiên trường hợp 2, 3 ra chữ Quốc ngữ theo hướng như trên chính cũng là đón trước cái xu thế chung đó của người đọc ở Huế và Nam bộ, và tích cực góp phần thúc đẩy cho cái xu thế đó.

III) Trên đây, ở mục I, khi bàn đến chủ trương phiên theo âm hiện đại, chúng tôi có đề cập đến hai trường hợp 3 và 4, trường hợp một từ xưa có, nay đã mất trong phạm vi ngôn ngữ toàn dân, chỉ may mắn còn được giữ lại ở một đôi thổ ngữ nào đấy và trường hợp này đã mất hoàn toàn không còn lưu lại vết tích gì trong tiếng Việt hiện đại. Hai trường hợp này chính là hai trường hợp thường gây ra nhiều khó khăn nhất khi đọc các văn bản Nôm cổ. Vì vậy cũng nên thảo luận thêm về hai trường hợp này, để tìm cách khắc phục dần các khó khăn.

Như trên đã nói, đây là trường hợp những từ cổ đã chết, chết hoàn toàn hoặc hầu như hoàn toàn. Những từ này dứt khoát không thể nào còn nằm ở trong bộ nhớ của tuyệt đại đa số hay của toàn thể cộng đồng người Việt chúng ta nữa. Đứng trước những từ như vậy mà cứ ngồi bóp trán suy nghĩ cố gắng tìm ra cho được một cách đọc sao cho có vẻ ổn thỏa, hiểu được - như trước nay nhiều người chúng ta quen làm - thì rõ ràng đó là làm một việc làm không thể nào đưa đến kết quả. Có kết quả làm sao được, khi cứ cố gắng đi tìm ở trong trí óc một cái vốn không còn có ở trong trí óc nữa; cho nên vấn đề của chúng ta ở đây phải là “biết mình không biết” để rồi cố gắng vạch ra được những bước đi chắn chắn, dẫn chúng ta dần dần tiến đến chỗ tìm ra được cái không biết đó. Theo ý chúng tôi có thể tạm chia thành ra ba bước, và ba bước đó như sau:

Bước 1: kiểm tra cách viết: Như mọi người đều biết, tình hình bảo quản văn bản thường có ảnh hưởng lớn đến việc đọc, việc phiên. Vì vậy, tốt nhất là nên mở đầu bằng việc kiểm tra, xét xem có chắc là ký hiệu văn tự được chép đúng, in đúng hay chép sai, in sai. Trong thực tế của công tác đọc Nôm, cả hai khả năng đó đều đã từng được gặp. Vì vậy, trên nguyên tắc, không thể gạt bỏ một khả năng nào. Nếu cho là đúng thì có thể bắt tay đi ngay vào việc khảo sát mặt âm, mặt nghĩa, mặt ngữ pháp. Nếu cho là sai, thì việc trước tiên lại phải cân nhắc biện luận, tìm mọi cách để quay trở lại cho được cái cách viết đúng đáng lý phải có… Cố nhiên, xét trên toàn bộ văn bản, thì xưa nay tỷ lệ những chữ viết đúng bao giờ cũng nhiều hơn hẳn tỷ lệ những chữ viết sai. Vì vậy, cũng nên tránh khuynh hướng sẽ gặp một trường hợp phức tạp, khó đọc nào là cũng đã vội nghĩ ngay đến chuyện chép sai, in sai.

Bước 2: Lập danh sách các khả năng đọc có thể chấp nhận được về mặt lý thuyết. Sau khi đã biết chắc chúng ta có trong tay những ký hiệu chép đúng, in đúng thì có thể bắt đầu ngay vào việc khảo sát mặt âm. Đi vào mặt này thì việc chủ yếu là phải nghiên cứu các thanh phù.

Dựa vào phụ âm đầu và vần của thanh phù trước hết nên vạch ra một sanh sách tối đa, gồm tất cả khả năng đọc của chữ. Ví dụ gặp một thanh phù như (liêu) chẳng hạn chúng ta thấy.

- Với phụ âm đầu “1”, có thể có 12 khả năng đọc L, R, TR, S, GI, CH, D, X, PH, T, TH, N.

- Với vần “iếu” có thể có 8 khả năng đọc: EO, EU, IEU, IU, AO, AU, ƯƠU:

- Như vậy tối đa chúng ta có đến 12 x 8 = 96 cách đọc để chọn lựa. Mà đó là chưa kể đến thanh điệu.

Danh sách tối đa tuy lớn, nhưng lại có thể chia thành nhiều loại có xác suất xuất hiện không đồng đều nhau. Chẳng hạn: Trong 12 khả năng đọc phụ âm đầu và 8 khả năng đọc bộ phận vần, trên đây ta thấy hay gặp nhất là các khả năng L, R, TR, S, EO, ÊU, IÊU, IU, còn ít có thể nhất là các khả năng T, TU, N, AU, ÂU, ƯƠU. Như vậy, có thể xếp LEO, LÊU, LIÊU, LIU, REO, RÊU, RIÊU, RIU; TREO, TRÊU, TRIÊU, TRIU, SEO, SÊU, SIÊU, SIU thành một loại, xếp TAU, TÂU, TƯƠI; THAU, THÂU, THƯƠU, NAU, NÂU, NƯƠU thành một loại thứ hai và xếp những trường hợp còn lại thành một loại thứ ba. Trong nghiên cứu không nên có định kiến trước, coi trọng một loại nào, vì lắm khi thực tế có thể đưa chúng ta đến những cái hết sức bất ngờ. Nhưng dầu sao, tiến hành được một sự sắp xếp các khả năng dọc theothứ tự, đi từ trường hợp có xác suất xuất hiện cao nhất đến trường hợp có xác suất xuất hiện thấp nhất cũng là một việc làm rất hữu ích(7).

Bước 3: Phân tích văn cảnh để chọn cách đọc tối ưu. Xuất phát từ danh sách tối đa trên đây, nhiệm vụ của chúng ta là phải đi đến chõ cuối cùng chỉ cọn lấy một cách đọc, và chỉ một mà thôi. Cách đọc tối ưu đó phải là cách đọc phù hợp nhất so với mọi yêu cầu của văn cảnh.

- Yêu cầu về mặt bằng trắc, về mặt vần, nếu đó là từ nằm ở vị trí có đối, có gieo vần.

- Yêu cầu về mặt ngữ pháp, về mặt từ loại, về mặt chức vụ cú pháp, về mặt khả năng kết hợp…

- Cũng như yêu cầu về mặt ngữ nghĩa, về mặt văn phong.

Công việc chủ yếu trong bước 3, như đã thấy là công việc khảo sát các yêu cầu này. Nhưng đây lại là một việc làm hàng ngày, rất quen thuộc đối với giới nghiên cứu chữ Nôm, cho nên thiết nghĩ cũng không có gì cần phải bình luận nhiều. Đáng nhắc lại chăng, theo ý chúng tôi, chỉ là mấy điểm nhỏ sau đây được rút ra từ kinh nghiệm của nhiều cuộc tranh luận.

Điểm 1: Không nên chia một cách quá tách bạch các mặt ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Tạm chia ra ba mặt chỉ là để tiện cho việc trình bày. Thực ra, trong quá trình đọc Nôm, phiên Nôm, các mặt đó thường xoắn xuýt lấy nhau, khi nghĩ đến mặt này cũng không thể nào hoàn toàn tách rời hẳn với việc nghĩ đến mặt kia.Một lần, đọc bia Sùng thiện bi ký đời Trần (1331) chính trong quá trình phân tích ngữ pháp, xét đặc điểm cấu tạo tên riêng người Việt, thấy tên Phạm thị Ma Lôi quá khác với các tên Phạm Thị Ban, Nguyễn Thị Mão gần đó nên chúng tôi đã đi đến giả thuyết coi Ma Lôi chỉ là một âm tiết có ML ở đầu. Như vậy, là kiến nghị về ngữ âm nhưng lại xuất phát từ ngữ pháp.

Điểm 2: Bước khảo sát ngữ pháp, ngữ nghĩa, nên đặc biệt coi trọng việc tra cứu các tài liệu cổ: từ điển A. de Rhodes, cách dịch trong Truyền kỳ mạn lục giải âm, các tài liệu Quốc ngữ thế kỷ 17. Nhiều sai sót đáng tiếc trước đây như việc không biết nghĩa của từ mắng (=nghe) và đọc lầm thành mảng (trong tượng mảng, mảng nghe); việc không biết nghĩa cổ của từ nghĩ (=dễ) và giải thích sai bốn câu trong bài tựa cuốn Chỉ nam ngọc âm.

Vốn xưa làm Nôm xe chữ kép
Người mới học khôn biết khôn xem
Bây giờ Nôm dạy chữ đơn
Cho người mới học nghĩ xem nghỉ nhuần

hoặc không biết xưa từ đá có dạng song tiết là đá (= hòn đá) nên giải thích sai câu thơ Nguyễn Trãi:

Dẫu người đi là đá mòn

v.v…đều bắt nguồn từ chỗ không tra cứu các từ điển cổ cả…

Điểm 3: Nói đến việc nghiên cứu văn cảnh, không nên chỉ bó hẹp trong việc khảo sát các mặt chỉ liên quan đơn thuần đến cấu trúc bên trong của ngôn ngữ. Phải nghĩ đến cả nhiều mặt khác, có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự ra đời của văn bản hay đến các đặc điểm thì không thể nhận diện được những trường hợp như thuấn nhà đa (=sunyât)(8), viết vô (= vít vô). y.ca lê gia (= église)… Không nghĩ đến xuất xứ của tác phẩm (tác phẩm viết ở Nam Bộ) thì cũng khó lòng đọc ngay được những từ như vùng (ghi bằng chữ dụng) với (ghi bằng chữ giới) hoặc chun/ra/ (ghi bằng chữ chung)… có một số chữ, trong những trường hợp đặc biệt, có thể cho phép chúng ta đọc hai cách hầu như tương đương, đọc vụ hay đọc mùa, đọc phòng hay đọc buồng… Không nghĩ đến phong cách chung chi phối toàn văn bản (phong cách hơi bác học hay phong cách hơi dân dã) thì những trường hợp này cũng khó lòng đoán định được nên ngả về cách đọc nào…

*
**

Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi, xung quanh vấn đề phương hướng đọc Nôm, phiên Nôm, rút ra từ thực tế một số cuộc tranh luận. Nhưng đó cũng chỉ mới là một số suy nghĩa bước đầu. Công tác đọc Nôm, phiên Nôm là một công tác hết sức phức tạp, nhất là khi đi sâu vào chi tiết của từng trường hợp cụ thể. Nhiều vấn đề mới đang được đặt ra. Nhiều vấn đề cũ đang còn treo lại chưa được giải quyết ngã ngũ. Đứng trước tình hình đó, theo ý chúng tôi, chỉ có dựa vào trí tuệ tập thể, mỗi người theo dõi, suy nghĩ về một vài khía cạnh, thì mới mong một ngày gần đây, có thể dần dần đúc kết lại được, đề lên thành một số bài học kinh nghiệm về phương hướng và phương pháp.

CHÚ THÍCH

(1) Công tác đọc các văn bản Nôm cổ để tìm hiểu nội dung của chung.

(2) Xìm môi xeo tạp poóng plăng là cách phục nguyên của ông Nguyễn Bạt Tuỵ

(3) Về những phát hiện như nghỉ, cang la, tu rích, xin xem thêm Trần Xuân Ngọc Lan - Sơ bộ khảo sát quyển từ điển Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, tóm tắt luận án phó tiến sĩ, Hà Nội. 1982.

(4) Những dẫn chứng về chữ Nôm ở Huế này đều rút từ cuốn Việt sử diễn nghĩa. Xin xem bài “Việt sử diễn nghĩa một bộ diễn ca dáng chú ý’ của Phan Hứa Thuỵ, Tạp chí Văn học số 4, 1983.

(5) Những dẫn chứng về chữ Nôm Nam bộ này đều do cụ Vũ Văn Kính trình bày trong bản báo cáo khoa học “Sơ lược về chữ Nôm Nam bộ”

(6) Xin xem thêm bài: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu (Hoàng Dũng, tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1982).

(7) Việc tính toán số lượng khả năng đọc và xác suất xuất hiện của mỗi khả năng đọc “phải được đặt cơ sở trên số liệu thống kê các tiền lệ đã phát hiện được”. Những con số chúng tôi nêu trên đây đều căn cứ vào kết quả thống kê hiện có.

(8) Trường hợp thuấn nhã đa (=sunyata) nêu trên đây chúng tôi đã được trong một bản báo cáo khoa học có nhan đề là “Nguyễn Trãi và những âm phù của phụ âm đầu kép trong chữ Nôm” của ông Lê Hữu Mục. Tác giả đã có nhã ý gửi cho chúng tôi xem. Nhân đây chúng tôi xin thành thực cảm ơn tác giả.

TB

NHÂN CHÚ THÍCH Ở MỘT BÀI THƠ CỔ

HOÀNG VĂN LÂU

Trong tập thơ Hoàng hoa đồ phả của Ngô Thì Nhậm, bài Khế Chương Đức mang một nét tâm sự đáng được chú ý . Bài thơ ấy như sau:

Thuỳ dương âm hạ đáo An Dương,
Độ ổn Chương Hà vị yếm trường.
Nghiệp quận đế khâu đài điện tận,
Nguỵ công tướng nghiệp vĩnh lưu hương.
Thuý vân vị vấn Chương Đài quán,
Tử khí nhưng y Trú Cẩm đường.
Quý ngã hậu hiền cần ngưỡng chỉ,
Thanh phong huề mãn nhập giang biên.(1)

Rong ruổi trên sứ trình một vạn hai ngàn dặm, nhà thơ có dịp “thung dung đề thơ Kim Lăng, Xích Bích”(2), một phần những bài thơ đó dành cho một thời đã qua và lớp người đã khuất. Tâm hồn dễ rung động của nhà thơ, thương cho tấm lòng “cô trung” của Gia Cát Lượng “không đủ sức tranh với trời xanh”(3), đồng cảm với chàng trai Giả Nghị, “giầu hiệp khí” mà phải “khổ đau day dứt vì chức nhiệm của mình”(4), giành cho Khuất Nguyên những lời xót thương vào loại xúc động nhất:

Vãng nhật kỷ hồi bi thệ thuỷ,
Ly tao chung cổ điếu tà dương(5)

Qua ngôi nhà cũ của Phùng Kinh, nhà thơ ngợi ca “sự nghiệp ngàn thu” của ông này(6). Đến Yún Thành, nhà thơ nhớ tới Nhạc Phi và tưởng như “kiếm khí” của người xưa vẫn còn phảng phất đâu đây(7)…

Nhưng phải nhận rằng, trong cả tập thơ, chưa có nhân vật nào được nhà thơ dành cho lòng ngưỡng mộ chân thành, sự ngợi ca nhiệt tình như vị Nguỵ công ở bài thơ trên. Dưới con mắt nhà thơ, toàn bộ khu di chỉ đế vương ở Nghiệp quận đều hết sạch cả, chỉ còn lại, mãi mãi, “tướng nghiệp” và “danh thơm” của Nguỵ công thôi!

Nhà thơ coi Nguỵ công như một mẫu mực lý tưởng, và tự mình cảm thấy hổ thẹn nhận là kẻ “hậu hiền” chưa noi theo được người xưa. Cũng chính vị Nguỵ công này, đã truyền sức mạnh và niềm tin cho nhà thơ. Ta hình dung thấy nhà thơ, sau khi thăm Nguỵ công ra về, bước xăm xăm, “hứng đầy gió mát” trở vào chốn sông nước Giang Nam…

Vị “Nguỵ công” đó là ai vậy?

Lời chú thích dưới bài thơ ghi rõ: “Nguỵ công tức Tào Tháo. Nhà Hán phong Tào Tháo ở đất Nguỵ quận, tước Nguỵ công”(8).

Từ chỗ cho Nguỵ công là Tào Tháo, thế tất phải biến “Trú Cẩm đường” thành… “Đồng Tước đài” cho … “nhất quán”(9).

Tào Tháo tự là Mạnh Đức, tiểu tự là A Man, hồi nhỏ được cử Hiếu liêm, khởi binh đánh Đổng Trác, dẹp “giặc” Khăn vàng, tiêu diệt nhiều thế lực cát cứ, có nhiều vũ công, có tài văn học. Không phải không có những tao nhân mặc khách hâm mộ phong thái anh hùng “hoành sáo phú thi” của Tháo. ở ta, đã có một thời, một hai vị chúa Trịnh và quần thần của Chúa cũng nhiệt thành đề cao Tháo. Nhưng trong lịch sử, Tào Tháo đã trở thành điển hình của loại gian hùng đầy dã tâm, và thủ đoạn, trở thành hóa thân của một lối sống ích kỷ và tàn bạo: “Thà phụ người chứ không để người phụ lại”.

Khen, chê là chyuyện “thanh khí tương cầu”. Xưa nay, đối với nhân vật Tào Tháo, dẫu có ai ca ngợi, xuất phát từ bất cứ động cơ gì, cũng chưa bao giờ dám đưa Tháo lên mức “khuôn mẫu lý tưởng” để mà suốt đời “ngưỡng vọng” “tiếng thơm muôn thuở” ấy ! Đáng chú ý là bài thơ này Ngô Thì Nhậm lại làm sau khi Quang Trung, đáng cứu tinh, vị minh chủ của mình vừa mất mới được mấy tháng, khi Nguyễn Quang Toản 15 tuổi lên ngôi vua chưa được mấy tuần ! Cứ theo như chú thích của bài thơ, thì họ Ngô say sưa hâm mộ sự nghiệp và tiếng thơm vĩnh viễn của Tháo, mà sự nghiệp của Tháo, thì lời chú thích đã nói thẳng ra: “Chưa xưng Đế nhưng thực tế đã tiếm vị của Hoàng Đế rồi”(10). Nếu vậy, ý đồ chính trị thực chất tư tưởng của Ngô biểu hiện qua bài thơ sẽ là gì?

Trong lịch sử, Ngô Thì Nhậm không phải là không có “vấn đề”. Vụ án năm Canh Tí, Nhậm bị làng nho đường thời kết án là “sát tứ phụ nhi Thị lang” (giết bốn cha để làm Thị Lan)(11), việc ông nhiệt thành ca ngợi Trịnh Sâm(12), việc ông nhắc khéo quân Lê Trịnh giữ Tam Điệp chống Tây Sơn(13) sau lại đi theo Tây Sơn… và sử nhà Nguyễn coi ông là một kẻ cơ hội, một đứa con bất hiếu, một bề tôi bất trung… Bấy giờ, thêm một bài thơ trên với lời chú thích rành rành như đã trích, thì người đọc có quyền nghi ngờ phẩm chất con người này, và hoài nghi luôn cả những lời đánh giá rất cao, rất nhiệt tình cảu Lời giới thiệu: “Tầm vóc cao về tư tưởng, phẩm chất và thiên tài toàn diện của Ngô Thì Nhậm xứng đáng là một trong những ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam”(14).

Đúng là Ngô Thì Nhậm có nhắc tới Tào Tháo trong nhiều trường hợp, nhưng không phải nhắc để mà khen. Chẳng hạn: “Tào Tháo vì nhà Hán đánh Đổng Trác, Tháo cũng tự cho mình là hết lòng trung với Hán. Tâm sự ấy có thể nói dối đời sau. Nhưng sau kinh Xuân Thu lại có sách Cương mục, thì cái tội của Tháo mới rõ rệt”(15). Ngô Thì Nhậm coi Tháo là “đứa giặc nước” như Vương Măng, Hoàn Ôn(16). Ông đánh giá Tào Tháo một cách tập trung nhất qua bài thơ Quá Hứa Đô cũng ngay trong tập Hoàng hoa đồ phả. Trong bài thơ này, Ngô Thì Nhậm gọi Tháo là “tên gian hùng xảo trá như loài cáo, miệng nói phù Hán nhưng lòng dạ nham hiểm chỉ muốn ăn hiếp nhà Hán”. Ông cực lực thóa mạ cái trò vui “một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” của Tháo là trò “thô bỉ và ngu xuẩn” rồi kết luận: “Dẫu thành quách lâu năm đã bao phen thay đổi, nhưng (Tháo) vẫn còn để lại vết nhơ không bao giờ xóa hết trong sử xanh”(17).

Chả lẽ, đối với cùng một nhân vật lịch sử Tào Tháo, trong cùng một chuyến đi sứ, mà lúc thì Ngô Thì Nhậm ngợi ca là “lưu thơm muôn thuở”, khi lại thoá mạ là “để thối ngàn thu”?

Thực ra, trong Bắc sử, chẳng phải chỉ một mình Tào Tháo được phong là Nguỵ công, và nếu ông Nhậm tốn kính Tào Tháo thì ông sẽ dùng cái tôn hiệu cao nhất của Tháo là Nguỵ Vũ Đế(18) chứ đâu phải cái tước “công” thấp hèn đối với Tháo ấy!

Vậy Nguỵ công của bài thơ trên là ai?

Tập Xuân Thu quản kiến, có một đoạn ghi rằng: “Sau khi Nguỵ công mất, binh quyền dần dần trao cho nho thần”(19). Lời chú thích ghi: “Nguỵ công là tước của Trương Tuấn”(20).

Trong Bắc sử có hai nhân vật mang tên là tự Trương Tuấn và đều là danh tướng đời Tống. Một Trương Tuấn 俊 tên là Bá Anh, người Thành Kỷ (Cam Túc). Viên tướng này đánh nhau với người Kim, lập được nhiều kỳ công, cùng với Hàn Thế Trung, Lưu Kỳ, Nhạc Phi đều là danh tướng đương thời, làm quan đến Thái Phó, được phong là Thanh Hà quận vương. Nhưng Trương Tuấn là kẻ hùa theo Tần Cối, chủ trương giảng hoà với người Kim, gây nên cái chết của Nhạc Phi(21). Ngô Thì Nhậm, trong một bài thơ đã dẫn(22) nhiệt liệt ca ngợi “kiếm khí” của Nhạc Phi, gọi Tần Cối là gian thần, hẳn không thể coi Trương Tuấn này là bậc “tiền hiền” “mãi mãi lưu thơm được” !

Còn một Trương Tuấn (浚) tên tự là Đức Viễn, người Miên Trúc (Tứ Xuyên), thời cao Tông làm tới Tuyên phủ sứ các lộ Xuyên, Thiểm, Kinh, Tây, Tri Khu mật viện, khi chết được tặng thái sư, được ban thuỵ hiệu là Trung Hiếu. Nhưng Trương Tuấn này là một viên bại tướng, từng bị biếm chức, bãi binh “Thất bại ở Phú Bình, chủ quan để quân đội bị tiêu diệt”(23). Con người như vậy cũng không thể là khuôn mẫu lý tưởng của Ngô Thì Nhậm được.

Tập Thơ văn Ngô Thì Nhậm(24), dưới bài thơ trên có chú rằng: “Nguỵ công là Triệu Phổ, làm quan Thái sư nhà Tống, người vùng đất Kế”. Triệu Phổ tên tự là Tắc Bình, ban đầu thờ Tống Thái Tổ, đến đời Tống Thái Tông, được phong làm Thái sư. Ông này từng có câu nói khá “nổi tiếng”: “Thần có một bộ Luận ngữ dùng một nửa bộ để giúp Thái Tổ định thiên hạ, dùng một nửa bộ để giúp bệ hạ đến thái bình”. Xem ra nhà trí thức lớn Ngô Thì Nhậm của chúng ta không chỉ “mê” có một bộ Luận ngữ! Nhưng quan trọng hơn, là Triệu Phổ khi chết mới được tặng Thượng thư lệnh và phong là Hàn Vương (chứ không phải là Nguỵ công!)(25).

Trong bài Hà Bắc đạo trung, sau khi câu thơ cuối:

“Biết bao làng nổi tiếng còn đề trên bia đá,

Đầy mắt cảnh thê lương, khiến cảm nghĩ đến người hiền xưa”(26), có một đoạn nguyên chú (của chính Ngô Thì Nhậm): “Trên đường đi qua làng cũ của các danh nhân: Hàn Nguỵ công, Đỗ Kiều, Phùng Đường, Quách Cự, Mẫn Tử Khiên, Trương Hoàn hầu”(27)…

Như vậy, chính tác giả đã cho chúng ta biết, có một ông Nguỵ công họ Hàn, thuộc lớp “danh nhân”.

Bài Khế Chương Đức trên đây, có nhắc tới công trình “Trú Cẩm đường” và được nhà thơ ca tụng hết mức: “Vượng khí của Thiên tử vẫn dựa vào Trú Cẩm đường”. Chú thích (dưới bài thơ) nói rõ: “Trú Cẩm đường là biệt thự của Hàn Kỳ làm Tể tướng đời Tống. Có phải Hàn Kỳ, tác giả của cái công trình Trú Cẩm đường nổi tiếng, là Hàn Nguỵ công trong nguyên chú, cũng là bậc tiên hiền lý tưởng mà tác giả khao khát muốn vươn tới trong bài thơ trên không?. Theo Tống sử(28) Hàn Kỳ, tên tự là Trĩ Khuê, người đất An Dương, (Tương Châu) đỗ Tiến sĩ khi còn rất trẻ, nổi tiếng từ rất sớm. Thấy triều đình có nhiều nịnh thần. Kỳ liên tiếp dâng sớ lên vua Tống, kết quả là: bốn tên quyền thần là Tể tướng Vương Tuỳ, Trần Nghiêu Tá, Tham tri chính sự Hàn ức, Thạch Trung Lập bị giáng chức cùng trong một ngày. Trước sau, ta ông đã dâng 70 tờ sớ, “nói rõ việc được mất, chấn chỉnh lại kỷ cương, (khuyên vua) gần gủi người trung trực, xa lánh kẻ gian tà”. Thời Tống Nhân Tông, Tây Hạ “làm phản”, Kỳ được cử làm Thiểm Tây Kinh lược chiêu thảo sứ, cùng với Phạm Trọng Yêm đem quân đi đánh, nắm binh quyền rất lâu, có uy vọng trên đời và là chỗ dựa của triệu đình. Khi làm Tể Tướng, Kỳ lập Anh Tông còn nhỏ tuổi lên ngôi vua; giữa Thái hậu và Anh Tông có hiềm khích, nhiều “trọng thần” bó tay bất lực, chỉ có Hàn Kỳ khuyên giải, giảng hoà được hai bên, khiến cho triều đình nhà Tống lại “sóng yên, biển lặng”. Sau vụ này, ông ta được bái làm Hữu bộc xạ và được phong là Nguỵ quốc công. Hàn Kỳ là viên đại thần “văn võ toàn tài”, có công lớn đối với nhà Tống, “Tướng tam triều, lập nhị Đế” (Làm tướng suốt ba triều, lậ hai vị Hoàng đế). Âu Dương Tu ca ngợi Kỳ: “Quyết định kế sách lớn, hoàn thành sự nghiệp to, làm việc quan bình tĩnh vững chắc, đặt thiên hạ vào thế vững như bàn thạch, là bậc “xã tắc chị thần”. Khi làm Tể tướng, Kỳ trở về quê hương, cho xây nhà Trú Cầm đường. Ngôi biệt thự này ở góc đông nam huyện thành An Dương, nằm trên sứ trình của Ngô Thì Nhậm. Trú Cẩm đường nổi tiếng vì nó gắn với một danh nhân, một vị Hàn Nguỵ công lỗi lạc, nó được Âu Dương Tu làm bài ký, Sái Tương viết chữ khắc bia và nhiều lớp tao nhân mặc khách đề vịnh ngợi ca. Sau khi lui về trí sĩ, Hàn Kỳ vẫn còn người con là Trung Ngạn kế tục ông giữ chức Tể tướng trong triều đình. Cũng vì lẽ đó, bài thơ mới có câu: “Thuý vân vị vấn Chương Đài quán, Tử khí nhưng y Trú Cẩm đường”; ý nói Hàn Kỳ tuy không làm quan trọng triều đình nữa, nhưng ngôi vua nhà Tống vẫn dựa vào nhà ông.

Như vậy, Nguỵ công trong bài thơ Khế Chương Đức, không phải là Tào Tháo, không phải là Trương Tuấn, cũng không phải là Triệu Phổ, mà là Hàn Kỳ, một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng đời Tống. Nhưng Ngô Thì Nhậm nhiệt thành ca ngợi Hàn Kỳ thì có ý nghĩa gì?

Chúng ta biết, sự nghiệp cứu nước và dựng nước oanh liệt do các lãnh tụ Tây Sơn lãnh đạo, trong đó có phần đóng góp bằng cả tài năng và tâm huyết của Ngô Thì Nhậm, sau cái chết đột ngột của Quang Trung, đứng trước những nguy cơ rất nghiêm trọng: Cảnh Thịnh nối ngôi còn ít tuổi bọn ngoại thích bất tài nắm mọi quyền hành, Nguyễn ánh thừa cơ phản công mạnh…Nhiều trí thức Bắc Hà trước đã theo Quang Trung, bây giờ tỏ ra hoang mang, muốn lui ẩn, hoặc tìm một con đường khác. Trong hoàn cảnh lịch sử sóng gió ấy, mang hoài bão làm một Hàn Kỳ, trừ bọn gian thần bên trong, dẹp yên giặc lớn bên ngoài, giúp vua trẻ tuổi đặt đất nước vào thế vững vàng như Thái Sơn, bàn thạch… thực đã thể hiện ý thức trách nhiệm rất cao của Ngô Thì Nhậm đối với bản chất năng động và lạc quan, không dừng lại ở suy tư ước vọng, ông nhìn về phía trước, xăm xăm trở về với một quyết tâm thực hiện hoài bão của mình. Phải chi hồi ấy Ngô Thì Nhậm có được điều kiện để cống hiến trọn vẹn tài năng cho đất nước? Đáng tiếc lịch sử không cho ta được thấy thành công của ông sau khi Quang Trung mất. Nhưng bài thơ trên, bài Khế Chương Đức như là một chứng tích ghi nhận tâm hồn trong sáng, hoài bão giúp dân, ý thức trách nhiệm và bản chất năng động, lạc quan của người trí thức chân chính này trong hoàn cảnh đau buồn khó khăn nhất. Sau khi xem xét lại chú thích của bài thơ, chúng ta có thể yên tâm với những lời đánh giá rất xác đáng, của một khối óc và tâm hồn rất “tri kỷ” với Ngô Thì Nhậm ở Lời giới thiệu.

CHÚ THÍCH

(1) Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. Tập I, tr. 505

(2) Hoàng Hoa đồ phả, Tiểu dẫn, Sách đã dẫn, Tập I, tr. 283.

(3) Xem Gia Cát Vũ hầu miếu, Sách đã dẫn, Tập I, tr. 409. Nguyên văn “Đỉnh phân vô lực tranh thương hiệu”.

(4) Xem Quá Trường Sa ức Giả Nghị, Sách đã dẫn, tập I, tr. 414. Nguyên văn: “Tất cánh thiếu niên đa hiệp khí, Toại giao nhất chức khổ quan tình”.

(5) Xem Điếu Tam lữ Đại phu, Sách đã dẫn, tập I, tr. 427. Dịch nghĩa là: Bài thơ Tích vãng nhật bao phen xót thương dòng nước chảy. Khúc hát Ly tao muon đời truy điệu ánh chiều tà.

(6) Xem Quá Tống Trạng nguyên Phùng Kinh cố trạch, Sách đã dẫn, tập I, tr. 459

(7) Xem Quá Yển Thành ức Nhạc Vũ mục, Sách đã dẫn, tập I, tr.478

(8) Tuyển tập thơ văn Ngô Thi Nhậm, Sách đã dẫn, tập I, tr. 506, chú thích (4)

(9) Như trên, chú thích (5), nguyên văn lời chú thích như sau:

“... ý thơ của hai câu 5 và 6: “Thúy vân” và “tử khí” thường dùng làm biểu tượng chỉ Thiên tử. “Chương Đài quán” là cung nhà vua, “Trú Cẩm đường” là nhà riêng của Tướng quốc. Muón nói Tào Tháo chưa xưng đế, nhưng thực tế đã tiếm vị của Hoàng đế rồi (trú Cẩm đường để chỉ Đồng Tước đài ở Nghiệp quận là đất phong của Tào Tháo)”.

(10) Xem chú thích (9)

(11) Xem phần Tiểu sử ngô Thì Nhậm, Sách đã dẫn, tập I, tr. 43, 44

(12) Xem bài Cung vãn Tiên thánh vương, Sách đã dẫn, tập I, tr. 99

(13) Xem bài Cảm hứng, Sách đã dẫn, tập I, tr. 103, có câu:

Thu nhập Ngũ Hồ tri ngã cộng
Tâm quan Tam Điệp hữu thùy tri.

(14) Ngô Thì Nhậm, một người trí thức chân chính, Sách đã dẫn, tập I, tr. 12.

(15) Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Sách đã dẫn, tập II, tr. 249.

(16) Như trên, tr.256.

(17) Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Sách đã dẫn, tập I, tr. 483. Nguyên văn bài thơ là:

Để ý khan lai mị tự hồ
Gian hùng tâm tích tại đương đồ.
Thâm cơ hiệp Hán xưng phù Hán,
Biệt cục doanh đô xướng tỷ đô.
Thất thạch mã lai phản hồ nhĩ,
Nhị Đồng Tước lạc bỉ tại ngu.
Cải quan thành quách niên lai cửu
Hoàn hữu thanh biên bất tận ô.

(18) Tào Phi lên ngôi Hoành đế truy phong cho Tào Tháo là Ngụy Vũ Đế.

(19) (20) Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Sách đã dẫn, tập II, tr. 257, và chú thích (2) cùng trang.

(21) Súc ấn Bách nạp bản Nhị thập tứ sử, Tống sử, quyển 369 (Dưới đây gọi tắt là Tống sử)

(22) Xem chú thích (7)

(23) Tống sử kỷ sự bản mạt , tập 3; Tống sử, q. 361

(24) Thơ văn Ngô Thì Nhậm, Bản đánh máy, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tập 4, ký hiệu D. 955, tr. 156.

(25) Từ nguyên, tr. 1427.

(26) Hà Bắc đạo trung, sách đã dẫn, tập I, tr. 528. Nguyên văn:

Kỷ đa danh lý đề kiên thạch,
Cực mục thê lương khái cổ hiền.

(27) Sách đã dẫn, tập I, tr. 528, chú thích (6)

(28) Tống sử, Quyển 312.

TB

MẤY SUY NGHĨ VỀ VIỆC PHIÊN ÂM
CHÚ GIẢI TỪ CỔ TRONG VĂN BẢN NÔM

NGUYỄN TÁ NHÍ

Văn bản Nôm là nơi giữ lại được khá nhiều từ cổ mà ngày nay không thấy hoặc ít thấy sử dụng. Đọc đúng âm, hiểu đúng nghĩa những từ này là việc làm rất cần thiết. Nó không chỉ giúp cho người đọc hiểu chính xác nội dung của những tác phẩm văn học cổ điển, mà còn cung cấp nhiều cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Từ nhiều năm nay, các nhà khảo cứu, phiên âm, chú giải, họ đã dụng công tìm tòi tra cứu các loại từ điển, đối chiếu so sánh với các văn bản Nôm khác, tham khảo tư liệu trong tiếng địa phương hoặc tiếng dân tộc ít người. Có trường hợp đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ở các bộ môn khoa học khác nhau, chẳng hạn như việc xác định âm đọc và nghĩa của các từ: song viết, la đá, thon von, nghĩ, mỗ, ốc, cóc v.v…(1)

Tất cả những công trình nghiên cứu thuộc loại này, từ các góc độ khác nhau, đã nêu ra một số phương hướng chung, biện pháp chung để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả hơn. Và đã có tác dụng tích cực, giúp cho các bản phiên âm, chú giải văn bản Nôm gần đây đạt được kết quả đáng kể. Thế nhưng đây đó, trong một số bản phiên âm vẫn thấy có trường hợp xử lý chưa thoả đáng, âm đọc và ý nghĩa của từ chưa được xác định chuẩn xác. Tại sao còn có hiện tượng này? Sau khi tham khảo một số bản phiên âm(2), chúng tôi suy nghĩ và thử phân tích một số nguyên nhân đã làm hạn chế kết quả phiên âm đó.

I – Thay thế từ cổ bằng một từ mới.

Những từ cổ này hầu như hoàn toàn vắng mặt trong kho từ vựng tiếng Việt hiện đại. Nhiều trường hợp ngay cả trong một số phương ngữ còn bảo tồn được nhiều từ cổ, cũng khó lần ra dấu vết của nó. Do vậy, khi thấy nó xuất hiện trong văn bản Nôm, người ta thường lầm lẫn nó với một từ đang được thông dụng. Chẳng hạn như:

1) Lung lăng

Ví có anh hùng duyên định mấy
Thì chi Đông Hán dám lung lăng
Hồng Đức Quốc âm thi tập(3) – Triệu ẩu

Từ “lung lăng” trong văn bản Nôm viết là 籠 . Bản Hồng Đức lại phiên âm là “hung hăng”.

Xét về ý nghĩa câu thơ, thì từ “hung hăng” quả cũng phù hợp với tính cách của bọn giặc Đông Hán. Thế nhưng tìm hiểu cấu tạo chữ Nôm, chúng tôi thấy hai chữ Nôm trên phiên âm là “hung hăng” chưa thật thoả đáng. Trong chữ Nôm thường thấy dùng từ Hán Việt có phụ âm đầu L để ghi từ Nôm có phụ âm đầu I, r, s…, không thấy ghi phụ âm h. Do vậy, trường hợp này nên đọc là “lung lăng”. Trong một số cuốn Từ điển cổ còn ghi được từ này, chẳng hạn Từ điển Việt Pháp của Génibrel giải thích từ “lung lăng” với nghĩa là “dữ tợn, bừa bãi”

Riêng từ “lung” lại có khả năng kết hợp với từ khác mà vẫn biểu thị nghĩa “dữ tợn, bừa bãi”, ví dụ các từ “kiêu lung”, “lung dữ”.

Lưu rằng chim lưới cá chài
Bài quân chi tướng còn lời kiêu lung
Truyện lưu nữ tướng

Lung dữ giết người hơn người Dương Tể nhà Đường
Truyền kỳ mạn lục giải âm

Do vậy, hiểu “lung lăng” là một từ cổ với nghĩa là “dữ tợn, bừa bãi” vừa đúng với mặt Nôm, vừa kết hợp với nghĩa của câu thơ hơn.

2) Bá

Tri chỉ đành hay quân tử chí
Gương trong chẳng bá chút trần xâm
Lịch triều tạp kỷ

Chữ Nôm ở nguyên bản viết là 播, sách Lịch triều tạp kỷ(4) phiên âm là “bợn”.

Xét về cấu tạo chữ Nôm, từ Nôm có vần “ơn”, thường được mượn từ Hán Việt có vần an, ân để ghi. Do vậy, đây có lẽ là một từ Việt cổ, từ này được sử dụng nhiều trong các văn bản Nôm khác, ví dụ:

Bụi đen chẳng bá chín giang sơn ấy.
Truyền kỳ mạn lục giải âm <

Con ngựa thì chín danh là mã,

Lị sang nhân chớ bá lâng lâng.
Thực vật bản thảo

Thạch yến nay vốn dòng cá đá,
Khí phong lam nảo bá chút phân.
Thực vật bản thảo

Trong Thực vật bản thảo, từ “bá” dùng để gieo vần với các từ “mã”, “đá”, cho ta thấy nó không thể đọc là “bợn” được.

Ngoài ra, “bá” còn kết hợp với từ khác tạo từ ra mới, vẫn mang theo nghĩa này. Ví dụ như từ “bá men”:

Quen hiềm dan díu điều làm bạn,
Lặng kẻo lân la nổi bá men.
Bạch vân quốc ngữ thi(5), Bài 5.

Vậy nên non nước cùng thì,
Mảy đường danh lợi chẳng hề há men.
Sô nghiêu đối thoại.

Vậy chúng ta cố gắng tìm tòi thêm để hiểu nghĩa vốn có của từ Việt cổ này là gì, nhưng có lẽ không phải là “bợn” như Lịch triều tạp kỷ đã phiên âm.

II - ảnh hưởng của chữ Hán mượn làm chữ nôm:

Có khi do hoàn cảnh ngôn ngữ khó xác định chuẩn xác ý nghĩa của từ, người đọc lại dựa ngay vào chính từ Hán Việt đó để xác định ý nghĩa. Ví dụ như:

1) Kham hạ

Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến
Đồng Giang được nấn một đài câu.
Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập(6) Bài 153.

Kham hạ Trương Lương chăng chứng ở,
Tìm tiên để nạp ấn phong hầu.
Nguyễn Trãi QÂ TT, Bài 162.

Bản Nguyễn Trãi I giải thích là “đánh khâm phục, đáng khen”. Bản Nguyễn Trãi II giải thích là “chịu ở dưới, chịu thua”. Bản Nguyễn Trãi III, giải thích là “chịu ở dưới, chịu ở địa vị thấp kém”.

Kham hạ điều canh còn để đợi
Kẻo còn đào mận những thày lay
Hồng Đức QÂTT, Tảo Mai

Phong quang dường ấy vui dường ấy,
Kham hạ Nghiêm Quang nức tiếng khen
Hồng Đức QÂTT, Hoa viên cảnh

Bản Hồng Đức giải thích là “cũng như nói, chả trách nào, hay: xứng đáng là”.

Kham hạ hiền xưa từ Hán lộc,
Cốc thành náu ẩn Xích Tùng chơi.
BVQNT, Bài 21.

Kham hạ thế lời còn để,
Khéo thì khó nhọc vụng phong lưu.
BVQNT, Bài 125.

Kham hạ thánh nhân còn dõi để,
Xảo ngôn hai chữ chép dòng dòng.
BVQNT, Bài 127.

Kham hạ Nghiêm Quang từ tước Hán,
Tam cong khứng đổi một cần câu.
BVQNT, Bài 166.

Bản Bạch Vân giải thích là “chịu thua”. Xét nghĩa của từ Hán Việt “kham hạ”, chúng tôi thấy, từ “kham” mang nghĩa là “có thể”, từ “hạ” mang nghĩa là “dưới”. Do vậy, có thể thấy được các cách giải thích là “chịu ở dưới”m “chịu thua”, “chịu ở địa vị thấp kém”, đều là không vượt ra khỏi sự ràng buộc của nghĩa Hán Việt của từ đó.

Tra cứu trong các văn bản Nôm khác, chúng tôi thấy từ “kham” còn có khả năng kết hợp với từ nghi ván “chị, nào’ để biểu thị ngữ nghi vấn khẳng định, nghĩa giống như các từ “hèn chi”, “hèn nào”. Ví dụ:

Cảnh tình nhìn vẻ khác thường,
Kham chi Lưu Nguyễn tưởng đường Thiên Thai.
Truyện Lưu nữ tướng.

Trăm nghìn thương nhớ nghìn phần tiếc.
Thục đế kham nào hoá tử qui.
Hồng Đức QÂTT, Thuyền vu thám thính.

Từ “kham” lại có thể kết hợp với từ “hèn”, tạo ra từ “kham hèn”, cũng vẫn biểu thị nghĩa “hèn nào”, ví dụ:

Kham hèn(7) luận ác, dâm vi thủ,
Ghỉn cho hay chẳng phải chơi.
BVQNT, Bài 155.

Từ điển Việt Pháp của Génibrel lại ghi được từ “kham hèn chi” với nghĩa là “Bởi đó cho nên” (C’est pourquoi).

Kham và hèn ngoài khả năng kết hợp với từ nghi vấn “chị, nào” để biểu thị ngữ khí nghi vấn khẳng định, còn có khả năng kết hợp với nhau tạo thành từ mới vẫn biểu thị ý nghĩa này. ở đây chúng tôi dự đoán là “kham hạ” có mối liên hệ mật thiết với các từ “kham hèn”, “kham chi”, “kham nào”, rất có thể là từ “kham hạ” xuất hiện sớm hơn.

Trở lại với các ví dụ nêu trên trong ba tác phẩm Nguyễn Trãi QÂTT, Hồng Đức QÂTT, BVQNT, chúng tôi thấy từ “kham hạ” được biểu hiện là “vì vậy, cho nên” rất phù hợp với nghĩa của các câu thợ. Qua đó có thể hình dung quá trình diễn biến của nhóm từ đó là: kham hạ, kham chi, kham nào, kham hèn, kham hèn chi, hèn chi, hèn nào …

2) Thon von

Văn này ngâm thể mỗ thon von,
Trương hải hay khao thiết thạch mòn.
Nguyễn Trãi QÂTT, Bài 49.

Nguyên bản chữ Nôm viết là thôn viên, Bản Nguyễn Trãi I phiên âm là “thôn viên”, giải thích là “người thôn quê,” nghĩa là giải thích bằng ngay nghĩa của từ Hán Việt đó.

Thực ra, như tôi đã từng chứng minh(8), đây là một từ cổ có âm đọc là “thon von”, được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, như Hồng Đức QÂ TT, BVQNT, Thiên nam ngữ lục, Tứ thư ước giải, Thi kinh giải âm, Chu dịch quốc âm ca, Truyện chàng Lýa, Lục Vân Tiên.

Trong các trường hợp này, “thon von” thường được dùng để miêu tả một xã hội, một chế độ hoặc thân phận của một con người đang suy thoái tàn lụi. Đặc biệt, trong Tứ thư ước giải và Thi kinh giải âm, “thon von” được dùng để giải thích từ Hán Việt “suy” (tàn lụi), và “vi” (yếu kém).

III. Có một số từ bản thân nó vẫn tồn tại, song phạm vi ngữ nghĩa ít nhiều có biến động.

Nghĩa là một trong những nghĩa thông dụng trước đây, ngày nay đã không được sử dụng hoặc ít được sử dụng. Gặp các trường hợp này người đọc thường dễ bỏ qua nghĩa cổ của nó, mà lại đi uốn nắn các từ xuất hiện ở gần nó cho phù hợp với nghĩa hiện tại của từ ấy. Ví dụ:

1) Then thuyền

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
Nguyễn Trãi QÂ TT, Bài 69

Bản Nguyễn Trãi I, phiên âm là “với then”, giải thích là “đầy then thuyền, khoang thuyền”. Bản Nguyễn Trãi II, phiên âm là “vạy then”, giải thích “tức là chở nặng quá làm then thuyền vạy đi, oằn xuống”.

Vạy then phong nguyệt mùa mùa đủ,
No miếng ngư hà bữa bữa thừa.
Hồng Đức QÂTT, Sở hành hồng liễu nhất ngữ chu.

Bản Hồng Đức phiên là “với then”, giải thích là ‘đầy thuyền”

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
BVQNT, Bài 126

Bản Bạch Vân phiên âm là “với then”, giải thích là “nặng đầy khoang thuyền, then thuyền, chữ “với” ý nói đầy lên đến nóc khoang, cao hết then thuyền”.

Các bản phiên âm đều nói đến “then thuyền”, song không thấy giải thích rõ “then thuyền” là bộ phận nào của chiếc thuyền, nằm ở vị trí nào trong thuyền? Theo cách lý giải “với then” là “đầy thuyền”, “đầy khoang, thuyền cao hết then thuyền”, chúng ta có thể hình dung được dường như các văn bản phiên âm đều cho rằng “then thuyền” là bộ phận nằm ở trên cao ao với đáy thuyền, hàng hoá chất vào thuyền phải có số lượng nhiều mới “cao hết then thuyền được”.

Thực ra, then thuyền là thanh gỗ đặt ngang thân thuyền dùng để đỡ ván thuyền. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt(9) có ghi từ này:

“Then: Tấm gỗ dài bắc ngang từ hông thuyền bên này sang hông thuyền bên kia”. Như vậy then thuyền là bộ phận nằm ngay ở đáy thuyền, lướt ván ngoài chắn nước, lướt ván trong đỡ hàng, đều ép vào then thuyền. Do đó hàng hoá chứa trong thuyền, bất kể nhiều hay ít đều đã chạm vào then thuyền không cần thiết phải nhiều lắm mới “với” tới then thuyền. Đây là lối nói cách điệu trong văn thơ cổ. Gió trăng (phong nguyệt) và ráng khói (yên hà) vốn không phải là thứ mà thuyền có thể đựng được, nhưng lại được các thi sĩ tưởng tượng là chứa vào đầy thuyền, nhiều đến nỗi làm cong cả then thuyền.

Hiểu then thuyền là “Tấm gỗ bắc ngang từ hông thuyền bên này sang hông thuyền bên kia”, rất phù hợp với nghĩa của câu thơ, song có điều là ngày nay để chỉ bộ phận này của con thuyền, người ta không dùng từ “then”, mà thay bằng từ “thanh dầm”, hoặc “thanh xà”.

2) Khỏi

Chúa đàn nẻo khỏi tan con nghé,
Hòn đất hầu lầm mất cái chim.
Nguyễn Trãi QÂTT, Bài 150

Bản Nguyễn Trãi I xếp vào mục tồn nghi, tạm đưa ra cách lý giải có liên quan đến thành ngữ ‘xảy đàn tan nghé”. Bản Nguyễn Trãi II cũng giải thích là lấy từ câu thành ngữ “xảy đàn tan nghé”.

Đúng là câu thơ này có liên quan đến thành ngữ “xảy đàn tan nghé”, nhưng từ “khỏi” ở đây phải hiểu như thế nào cho hợp với nghĩa này. Cuốn Từ điển tiếng Việt(10) ghi từ “khỏi” có ba nghĩa: “hết đau ốm; tránh được; không phải” Đem vận dụng ba nghĩa này vào câu thơ, thấy đều không thích hợp. Con trâu đầu đàn dù có “hết đau ốm”, có “tránh được” tai nạn gì, có “không phải’ làm việc gì, thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc con nghé phải tan đàn cả. Vấn đề ở đây là từ “khỏi” còn một nghĩa cổ, mà ngày nay không được sử dụng nữa, nên các bộ Từ điển mới không đưa vào. Đó là nghĩa “lìa xa, tách ra” chỉ thấy xuất hiện trong các văn bản Nôm cổ, ví dụ:

Đem về tam phủ đêm ngày,
Giấc nâng chốc chẳng khỏi tay mỗ giờ.
Thiên Nam ngữ lục

Đây là đoạn miêu tả vua Trần Dụ Tông say mê vợ người hát trò, không có phút nào có thể “lìa xa” được.

Chẳng nỡ một chóc khỏi nhau
(Nguyên bản chữ Hán: Bất nhẫn tạm xả)
Truyền kỳ mạn lục giải âm

Từ “khỏi” được dùng để giải nghĩa từ Hán Việt “xả” (lìa xa)

Rõ ràng là từ “khỏi” còn có một nghĩa là “lìa xa, tách ra”, chỉ một vật thể này xa cách một vật thể khác với một khoảng cách về không gian, rất có thể đây là nghĩa gốc của nó. Trở lại với câu thơ trong Nguyễn Trãi QÂTT, nếu hiểu “khỏi’ với nghĩa là “lìa xa, tách ra’, thì câu thơ trở nên rất dễ hiểu. Một khi con trâu đầu đàn lìa xa, thì câu thơ trở nên rất dễ hiểu. Một khi con trâu đầu đàn lìa xa thì đàn nghé mất chỗ dựa nên phải tan tác.

Trên đây là một vài suy nghĩ, tìm hiểu, phân tích nguyên nhân đưa đến việc xác định chưa chuẩn xác âm đọc của một số từ cổ. Phiên âm, chú giải từ cổ là một việc làm khó khăn phức tạp, những ý kiến trên đây chưa chắc đã thoả đáng, chúng tôi mong được các bạn đồng nghiệp trao đổi thêm.

CHÚ THÍCH

(1) Xem thêm Đỗ Văn Hỷ: Góp phần giải quyết những tồn nghi trong Quóc âm thi tập, Tạp chí Văn học, số 6, 1967; Nguyễn Tài Cẩn: Thử tìm hiểu cách đọc Nôm hai chữ song viết, Tạp chí Văn học, số 2, 1974; Đinh Gia Khánh: Tìm hiểu về từ “nghĩ” trong ngôn ngữ cổ, Ngôn ngữ , số 4, 1978...

(2) Các bản phiên âm là:

- Nguyễn Trãi quốc âm thi tập, Trần Văn Giáp và Phạm Trong Điều phiên âm chú giải, Nxb Văn Sử Địa, 1956, gọi tắt là: Bản Nguyễn Trãi I;

- Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh phiên âm chú giải phần thơ Nôm, Nxb KHXH, 1976, gọi tắt là: Bản nguyễn Trãi II;

- Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển) Lê Hiệu và Kiều Thu Hoạch phiên chú thơ Nôm, Nxb Văn học, 1982, gọi tắt là Bản Nguyễn Trãi III;

- Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên chú, Nxb Văn học, 1982, gọi tắt: Bản Hồng Đức;

- Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Như Sơn phiên chú phần thơ Nôm, Nxb Văn học, 1983, gọi tắt: Bản Bạch Vân.

(3) Từ đây trở xuống xin viết tắt là Hồng Đức QÂ TT.

(4) Lịch triều tạp kỷ, Bản dịch của Hoa Bằng, Nxb KHXH, Hà Nội, 1975.

(5) Từ đây trở xuống xin viết tắt là: BVQNT

(6) Từ đây trở xuống xin viết tắt là: Nguyễn Trãi QÂ TT.

(7) Nội dung bài thơ khuyên răn người ta không nên đam mê sắc dục, và đi đến kết luận: “vì thế nên khi luận tội, thì tội dâm dục đáng xếp hàng đầu”. Trường hợp này, Bản Bạch Vân phiên âm là “kham hiền”, giải thích là “đáng khen là hiền”. Đây cũng là trường hợp khi giải thích nghĩa từ, người chú giải còn bị ảnh hưởng bởi nghĩa chữ Hán được mượn làm chữ Nôm.

(8) Xem bài viết của Nguyễn Tá Nhí: Trả lại cho Nguyễn Đình Chiểu nghĩa đúng của từ “thon von”, Kỷ yếu hội nghị Nguyễn Đình Chiểu, Ty Văn hóa Bến Tre, 1984.

(9) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb KHXH, 1977.

(10) Từ điển tiếng Việt, Sách đã dẫn.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU THỜI ĐIỂM RA ĐỜI VÀ TÁC GIẢ CỦA SÁCH LÊ TRIỀU NGỰ CHẾ
QUỐC ÂM THI

TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

Lê Triều ngự chế Quốc âm thi là một tập thơ Nôm có giá trị. Tác phẩm này đã được ông Nguyễn Văn Tố giới thiệu trên báo Tri tân số 134 - 135, qua bài viết nhan đề Thơ vịnh sử thời Hồng Đức. Trong bài này ông đã giới thiệu ba bài thơ có cùng một đầu đề là: Bồ Đề thắng cảnh thi: Đây là những bài thơ khá hay của tác phẩm. Nội dung ca ngợi con người và cảnh đẹp của bến Bồ Đề, nơi mà trước đây Lê Lợi đã từng dựng chòi cao để chỉ huy quân sĩ tiến đánh thành Đông Quan. Đáng tiếc là cho đến khi kết thúc bài viết, ông Nguyễn Văn Tố vẫn không cho biết ý kiến về niên đại và tác giả của sách, đồng thời cũng chưa nêu rõ lý do vì sao lại xếp tác phẩm thơ Nôm này vào thời Hồng Đức. Gần đây hai ông Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại (Nxb Khoa học xã hội, 1968) cũng đã trích dẫn một vài đoạn thơ của tác phẩm này. Nhưng hai ông cũng không cho biết gì thêm về văn bản của cuốn sách. Do tình hình như vậy, chúng tôi muốn nhân đây bàn thêm về thời điểm ra đời và tác giả của tác phẩm vừa nêu.

Văn bản duy nhất còn lại mà chúng tôi nghiên cứu cũng chính là văn bản mà ông Nguyễn Văn Tố đã giới thiệu, ký hiệu AB.8 hiện có trong kho sách của Viện nghiên cứu Hán Nôm. Sách chỉ có một quyển, đây là cuốn sách chép tay, chữ Nôm to đẹp dễ đọc. Sách còn lành nguyên, cỡ 17 x 28cm, dày 72 trang, khoảng trên 7000 chữ. Tên sách được ghi ở giữa trang đầu, chữ to đậm: Lê Triều ngự chế Quốc âm thi: Trang thứ hai dòng đầu tiên ghi: Tiên triều ngự chế Quốc âm khúc ký thi quyển. Phía dưới dòng này ghi chếch sang bên trái dòng chữ nhỏ hơn “Giám ngọ niên thất nguyệt - nhật”. Trang cuối cùng, sau khi chấm dứt nội dung, không thấy ghi gì nữa. Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào cứ liệu bên ngoài văn bản, người đọc không thể biết được thời điểm ra đời cũng như tác giả cuốn sách. Sách này gồm 46 bài thơ Nôm sáng tác theo thể thơ Đường. Các bài thơ không trình bày độc lập, mà giữa những bài thơ Đường ấy, được nối liền bằng những đoạn thơ dài theo thể song thất lục bát hoặc lục bát biến thể. Có thể nhận thấy rằng tác phẩm này gần giống như một thiên ký sự bằng thơ. Tác giả là người yêu chuộng cảnh chùa chiền núi non và đã đi dụ lịch bằng đường sông. Mỗi bài thơ là một cảnh chùa hoặc một nơi danh thắng của đất nước, bắt đầu từ bến Bồ Đề, qua các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam Ninh v.v… rồi lại trở về Kinh đô. Nội dung những bài thơ, đoạn thơ này chủ yếu ngâm vịnh cảnh chùa chiền, núi no sông nước, vài cảnh sinh hoạt của con người… Có những bài thơ ca ngợi tên đất, tên sông gắn liền với những chiến lừng lẫy của dân tộc. Do đó cuốn sách này có một giá trị nhất định về tư tưởng và văn chương.

Đi sâu nghiên cứu nội dung văn bản, để thực hiện được mục đích đã đặt ra, chúng tôi thấy cần dựa vào bốn loại cứ liệu sau đây:

1) Kiêng huý

Trong sách có một số chữ viết kiêng huý, đó là các chữ: ánh; Hằng; Hạo; Miên; Đây là những chữ kiêng huý của thời Tự Đức. Do đó chúng tôi cho rằng cuốn sách này được sao chép từ thời Tự Đức về sau, sớm nhất vào năm 1848.

2) Những cứ liệu Ngôn ngữ

Trước hết là về cách viết chữ Nôm. Chúng tôi lập một bảng so sánh cách viết của một số chữ Nôm giữa văn bản Lê Triều ngự chế Quốc âm thi với một số văn bản khác như Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc âm thi tập, thế kỷ XV; Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Thập tam phương gia giảm, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, thế kỷ XVI; Tam thiên tự toản yếu, thế kỷ XVII; Đại nam Quốc sử diễn cả, Đoạn trường tân thanh, thế kỷ XIX. Kết quả so sánh cho thấy rằng: trong Lê triều ngự chế Quốc âm thi các chữ Nôm như: “trong” viết là “công”, “một” viết là “miệt”, “trước” viết là “xa + lược”, “sau” viết là “xa + lâu”, “tay” viết là “thủ + tư …” ngày càng ít xuất hiện trong các văn bản thế kỷ XIX và ngay cả cuối thế kỷ XVIII. Mặt khác trong sách còn khá nhiều chữ Nôm có cách viết tương đối cổ như chữ “người”, “mừng”, “vui”, “nghĩ” v.v… Trong cách dùng từ, sách còn sử dụng một số từ cổ như: chỉn, lưa, thừa lư, khoong khen … Tất cả những điều này chứng tỏ rằng Lê Triều ngự chế Quốc âm thi là một văn bản cổ hơn những văn bản ở vào nửa cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX.

3) Cứ liệu địa danh

Trong tác phẩm này có nhắc đến nhiều tên làng tên núi tên sông và nhất là các chùa tháp. Trong hàng loạt những địa danh có dường như không có cái tên nào mới được đặt ra sau đời Lê, đặc biệt là tên các chùa, các nơi danh thắng hầu hết đều là những chùa được xây dựng khá sớm vào thời Trần, Lê… Chúng tôi đặc biệt chú ý một đoạn thơ có nói đến ngôi thành cổ trên núi Phao Sơn (nay ở huyện Nam Sách, Hải Hưng)

…Dấu thành xưa kề gần nơi đó
Đám Phao Sơn lét cỏ chẳng ngoa…

Theo sách Địa dư chí của Phan Huy Chú thì nhà Minh xây thành trên núi Phao Sơn vào những năm 1407 - 1413, đến đời nhà Mạc thành này được xây dựng lại, sau đó bị tấn công và phá huỷ. Khi tác giả đến núi Phao Sơn này thì thành cũng chỉ còn là “dấu cũ”. Như thế có thể thấy rằng tác phẩm không thể ra đời vào trước thời nhà Mạc, tức là trước thế kỷ XVII được.

4) Cứ liệu văn bia

Trong kho văn bia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có một bản rập tấm bia ở trước cửa chùa Nhạc Lâm (nay thuộc Sài Sơn, Hà Sơn Bình) ký hiệu N0 1959 khổ 0, 45m x 0, 55m. Trên bia chỉ có một bài thơ và một dòng lạc khoản ở bên trái nội dung như sau:

Ngự đề
Nhạc lâm tự thi (Bài thơ chùa Nhạc Lâm)
Mảng vui thiên phúc cảnh Thiên Thành,
Ngoạn thưởng âu đây thích tính tình.
Than thán nhân cơ trông vời vợi,
Đùn đùn dạo ngạn bước thênh thênh.
Trời xuân vặc vặc hoa kề cửa,
Gió thụy hiu hiu nguyệt giải mành.
Trong thuở tỉnh phương buồm thuận tới,
Tiệc vầy ngâm ngợi khúc long bình,

Vĩnh Thịnh thập tam niên thất nguyệt thập thất nhật.
(Niên hiệu Vĩnh Thịnh ngày 17 tháng 7)

Vĩnh Thịnh là niên hiệu của vua Lê Dụ Tông, năm thứ 13 tức năm 1717. Một điều trùng hợp rất lý thú là trong sách Lê Triều ngự chế Quốc âm thi ở trang 14 a cũng có chép bài thơ này. Như thế, bài Nhạc Lâm tự thi là của một tác giả được ghi lại ở hai văn bản khác nhau, trên bia và trong sách. Dòng ghi thời gian “Vĩnh Thịnh thập tam niên thất nguyệt thập thất nhật” ngay dưới bài thơ “Ngự đề” ở bia chứng tỏ rằng, bài thơ được “Ngự đề” vào năm Vĩnh Thịnh mười ba (1717) tháng 7, ngày 17, rồi được khắc vào bia: Còn dòng “Giáp ngọ niên thất nguyệt nhật”, ghi sau câu “Tiên triều ngự chế Quốc âm khúc ký thi quyển” ở sách, lại chỉ rõ là “Quyển thơ khúc hí bằng Quốc âm “ngự chế” này được biên tập lại, hay sao chép lại vào năm Giáp ngọ “triều sau”. Kết hợp với các dấu hiệu có chữ huý thời Tự Đức của bản sao, có thể ghi nhận rằng, tập thơ được sao chép vào năm Giáp Ngọ (1894) tháng 7.

Tổng hợp toàn bộ những cứ liệu trên đây, chúng tôi cho rằng: Lê triều ngự chế Quốc âm thi được sáng tác vào những năm Vĩnh Thịnh, cụ thể là khoảng từ năm 1710 đến 1720.

Còn tác giả của tác phẩm này là ai?

Tên đề của sách là Lê Triều ngự chế Quốc âm thi. Bài thơ trong bia chùa Nhạc Lâm cũng có chữ “Ngự đề” vậy thì tác phẩm phải là của vua chúa triều Lê. Niên hiệu ghi trong bia Vĩnh Thịnh thứ 13 là niên hiệu của Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương. Xét các bộ sử như …………….

…………………….

Lê triều ngự chế quốc âm thi, tờ 1b. kí hiệu AB. 8,

Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch Triều tạp kỷ, Việt sử thông giám cương mục… đều không thấy nói đến việc Dụ Tông làm thơ Nôm bao giờ. Mặt khác Dụ Tông trong những năm làm vua không có thực quyền, ông vua này bị kiềm chế, thường buồn nản ít nói, hầu như không đi du ngoạn ở đâu. Nhưng năm 1715 và 1716 Dụ Tông lại có đại tang, vì vậy không thể đi chơi và làm thơ với tâm trạng sảng khoái như những bài thơ của tác phẩm được. Ngược lại cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư phần Bản kỷ tục biên (1676 - 1740) (Nxb. Khoa học xã hội, 1982) thì Trịnh Cương đã từng đề thơ Nôm ở một vài nơi danh thắng. Họ Trịnh hay xưng “Ngự đề”, “Ngự chế” trong các tác phẩm thơ văn của mình. Chẳng hạn Trịnh Doanh có tác hẩm Càn nguyên ngự chế thi. Trên cơ sở tài liệu lịch sử như vậy, phải chăng có thể khẳng định rằng tác giả của sách Lê Triều ngự chế Quốc âm thi là Trịnh Cương.

TB

TỪ HIỂU SAI HIỂU CHƯA HẾT ĐẾN
LƠ ĐỄNH DỊCH SAI

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Đọc quyển Dịch từ hán sang việt, một khoa học một nghệ thuật(1) chúng tôi nhận thấy có nhiều nhận xét tinh tế về vấn đề dịch thuật, từ lý luận đến kinh nghiệm.

Chúng tôi rất tâm đắc về những điều nhận xét đúng và cũng xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp về những điều chúng tôi còn băn khoăn.

1) Về câu: “Quyết hội nghị ư băng đê” của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo do Bùi Kỷ dịch, ông Ngô Linh Ngọc có nhận xét rằng: “Dịch thơ của con người lịch sử gắn với các sự việc lịch sử, vấn đề dựa vào “văn mạch” mà Phan Huy ích đã nói đến, cũng như vấn đề nắm vững “ngữ khí” của từng tác giả, càng rất quan trọng. Cụ Bùi Kỷ và một số cụ trước đây dịch Bình Ngô đại cáo, dịch không đúng câu “Quyết hội nghị ư băng đê” của Nguyễn Trãi, vì quên rằng đoạn trước câu này đã nói nhiều về thế địch mạnh, thế ta yếu (nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sớm), đến đoạn này thì ta cực mạnh, địch cực suy (dao mài vẹt núi, voi uống cạn sông) và đến giai đoạn tổng phản công thì ta quét địch giống như là “đê vỡ cuốn trôi tổ kiến, gió mạnh thổi sạch lá khô”. Mạch văn đến lúc này mạnh biết dường nào, nếu quay ngược lại với cái ý “tổ kiến hổng sụt toang đê cũ” thật là giảm khí lực và sai nghĩa. Cụ Bùi mà còn có lúc vội vã lầm như thế, những người hậu học, biết ít như chúng tôi thật đáng lo ngại biết chừng nào !”(2).

Chúng tôi thì không nghĩ như vậy và chúng tôi lại cho rằng cụ Bùi Kỷ không có lầm khi dịch câu “Quyết hội nghị ư băng đê” là “Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ”.

Nếu đặt câu ấy vào toàn bài Bình Ngô đại cáo cho đúng với giai đoạn tổng phản công, thì chúng ta phải hiểu là: Lúc này lực lượng nghĩa quân đã rất mạnh và kẻ địch đã suy yếu, chỉ cần đánh vào địa điểm xung yếu của chúng cũng có thể phá vỡ toang cả phòng tuyến lớn, khác nào dòng nước là có sức mạnh vô hạn, chỉ phá vỡ tổ kiến ở chân đê là có thể làm băng cả con đê dài".

Đàn kiến nó đùn đất lên làm tổ hỏng cả con đê, nên dòng nước lũ chảy mạnh xói vào là tổ kiến hổng sụt toang ngay xuống và con đê bị băng vỡ tan tành hết. Tổ kiến ở chân đê đâu phải là cái tổ kiến ở trên cây có cành lá chằng chịt lại mà trôi đi được. Nó chỉ là đống đất bị kiến đùn rỗng, nên gặp nước chảy mạnh là sụt toang ra như cụ Bùi Kỷ nói.

Vậy bảo cụ Bùi Kỷ dịch sai là không đúng.

2) Về hai câu thơ của Đỗ Mục do Trần Trọng Kim dịch. Ông Ngô Linh Ngọc có nhận xét rằng: "Trần Trọng Kim trước kia dịch bài Khiển hoài của Đỗ Mục cũng vì quá thiên về mặt chơi bời phóng túng trong một thời gian nào đó của "Tiểu Đỗ" nên đã dịch sai tình và ý của hai câu thơ:

Lạc phách giang hồ tái tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh

Ông dịch là:

"Giang hồ lạc phách rượu say,
Lưng eo, bụng lép, trong tay không tiền"

thì thật là cả một cái sai thảm hại"(3). Lời nhận xét ấy thật đúng. Ông P.V. trong bài Bàn thêm về dịch thơ - Thơ chữ Hán đăng ở Tạp chí Văn học số 2, năm 1982, có ghi thêm câu dịch lại như sau:

"Mang rượu đi khắp sông hồ như người mất vía
Bao cô gái Sở lưng ong xinh nhờ múa nhẹ trên bàn tay".

Chúng tôi cho rằng câu dịch nghĩa lại như vậy cũng vẫn sai, vì người dịch hiểu lầm hai chữ "lạch phách" này!

- Nếu phiên âm là "lạc phách" thì mới có nghĩa là: mất vía (sợ mất vía).

- Nếu phiên âm là "lạc thác" như trong bài thơ của Đỗ Mục thì hai chữ ất có nghĩa là: thất ý, đi lang thang nay đây mai đó, không có chỗ ở nhất định, âm "thác", tha lạc thiết, lạc thác "Khang Hi tự điển".

Người dịch lại câu thơ ấy cũng hiểu lầm mấy chữ "chưởng trung khinh". Sự thực thì: các cô gái nước Sở có lưng ong xinh đẹp đâu phải nhờ múa trên bàn tay.

Theo sách của Hàn Phi Tử thì: "Vua Linh Vương nước Sở thích những người con gái có lưng eo, nên trong nước có nhiều cô gái nhịn đói để có lưng eo, bụng nhỏ".

Còn chuyện múa trên bàn tay là do nàng Triệu Phi Yến đời Hán, người rất nhẹ có thể múa trên bàn tay được. Về sau người ta dùng mấy chữ "chưởng trung khinh" (múa trên bàn tay) để nói về những người con gái múa rất giỏi mà thật nhẹ nhàng. Do đó dịch lại câu "Sở yêu tiếm tế chương trung khinh" là: "Bao cô gái nước Sở lưng ong xinh nhờ múa nhẹ trên bàn tay" thì sai quá. Vậy muốn hiểu hai câu thơ trên, chúng ta phải phiên âm là "lạc thác" và hiểu đúng nghĩa của chữ ấy là kẻ bất đắc ý, lang thang nay đây mai đó, không có chỗ ở nhất định.

"Giang hồ tái tửu hành" mà dịch là mang rượu đi khắp sông hồ thì cũng không đúng hẳn, và "tái tửu hành" không phải chỉ có nghĩa là mang rượu đi mà nó còn có nghĩa là "hoa thiên tửu địa" tức là mê gái và uống rượu.

Đỗ Mục lúc trẻ là kẻ tài hoa lãng mạn. Khi ở Dương Châu, chàng trai ấy chỉ la cà các ca lâu tửu quán (chứ không phải mang rượu đi khắp sông hồ) nên sau mười năm, lúc đã tỉnh giấc mộng thì thấy chẳng còn gì, chỉ còn lại cái tiếng bạc tình mà thôi.

Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.

Hai câu này với hai câu trên kia là cả bài thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục mà ta có thể dịch nghĩa là:

"Vì bất đắc ý, ta đi lang thang khắp các ca lâu tửu quán (mê gái và uống rượu). Chỉ thích ngắm các cô gái có lưng ong múa thật nhẹ nhàng (như Triệu Phi Yến xưa có thể múa được ở trên bàn tay).

Sau mười năm trời mê say như vậy, nay chợt tỉnh giấc mộng Dương Châu ta thấy chẳng còn gì.

Chỉ còn lại cái tiếng bạc tình ở chốn thanh lâu mà thôi".

Có đọc cả bài như vậy chúng ta mới hiểu được rõ nghĩa hai câu: "Lạc thác giang hồ tái tửu hành, Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh" mà Trần Trọng Kim cũng như những người dịch thơ Đường khác đều dịch sai ý của Đỗ Mục.

3) Về bài thơ Độ Tang Càn của Giả Đảo mà Tản Đà dịch hỏng chữ "sương", ông Mai Quốc Liên đã có nhận xét như sau: "Tản Đà, một nhà thơ mà ta đã từng biết, một người tưởng không ai nghi ngờ được cái học Hán học và tài nghệ thi sĩ, đã được người ta công nhận tài dịch thơ Đường và đã để lại nhiều bản dịch trứ danh. Thế nhưng có lần Tản Đà đã thất bại. Đó là trường hợp ông dịch bài thơ Độ Tang Càn của Giả Đảo. Nguyên văn bài thơ như sau:

Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương,
Qui tân nhật dạ ức Hàm Dương.
Vô Đoan cánh độ Tang Càn thuỷ,
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.

và Tản Đà dịch:

Tinh Châu đất khách trải mươi hè,
Hôm sớm Hàm Dương bụng nhớ quê.
Qua bến Tang Càn vô tích nữa,
Tinh Châu ngoảnh lại đã thành quê.

Câu thơ Đường hiện ra trong một cấu trúc hô ứng nhưng khép kín và cái dụng công của Giả Đảo là thực hiện sự thống nhất về sắc thái từ ngữ ("khách xá" và "sương") để nhấn mạnh nỗi buồn tha hương của mình. Vì thế đem chữ "hè" dịch chữ "sương", Tàn Đà đã đánh mất Giả Đảo, chưa nói về vần điệu và ý tứ bản dịch quả thật đã không xứng với tài nghệ Tản Đà. Dù sao, đây là một bài học nhỏ: một thi sĩ tài danh, một nhà Hán học nhưng lơ đễnh không thâm nhập vào cái thế giới thơ đích thực của nguyên tác, không nắm từ ngữ trong cái cấu trúc toàn thể và trong sự vận động của nó trong cấu trúc đó, sẽ mắc sai lầm và dịch ngược lại ý nguyên tác"(4).

Chúng tôi thấy ông Mai Quốc Liên đã nhận xét đúng về điểm Tản Đà đã dịch ngược lại ý nguyên tác khi đem chữ "hè" dịch thành chữ "sương". Nhưng nếu bảo là Tản Đà "lơ đễnh" thì chưa chắc đã đúng. Có thể Tản Đà nghĩ rằng "sương" chỉ năm (vì mỗi năm có một kỳ sương giáng về mùa thu) thì "hè" cũng chỉ năm. Tản Đà cũng biết "hè" với "thu" là trái ngược nhau nhưng ông đã phải bỏ "ý" để theo "vần": Hè, về, quê. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, ông Mai Quốc Liên đã chép lầm câu thứ hai là "nhớ quê" nên bài thơ trùng vần "nhớ quê" (câu 2) và "thành quê" (câu 4), do đó ông đã phê bình oan Tản Đà về vần điệu.

Chúng tôi xin chép lại bài dịch của Tàn Đà nguyên văn như sau:

Qua bến Tang kiền
"Châu Tinh đất khách trải mươi hè,
Hôm sớm Hàm Dương bụng nhớ về.
Qua bến Tang Kiền vô tích nữa,
Tinh Châu ngoảnh lại đã thành quê".

Bài thơ dịch thì tuy có kém so với tài nghệ của Tản Đà nhưng chúng tôi nghĩ đây không phải trường hợp "lơ đễnh". Tản Đà chỉ thực sự lơ đễnh khi ông dịch bài "Tống khách qui Ngô" của Lý Bạch vì vào giữa mùa thu mà ông tả hoa đào nở rực rỡ. Nguyên văn bài thơ của Lý Bạch như sau:

TỐNG KHÁCH QUI NGÔ

Giang thôn thu vũ yết,
Lộ lịch ba đào khứ,
Đảo hoa khai chước chước,
Biệt hậu vô dư sự
Tửu tận nhất phàm phi
Gia duy toạ ngoạ qui
Đinh liễu tế y y
Hoàn ưng tảo điếu ky.

Tản Đà dịch là:

TIỄN KHÁCH VỀ NGÔ
"Sông thu ngớt hạ mưa tuôn,
Rượu vừa cạn chén cánh buồm xa bay.
Đường đi trải mấy nước mây,
Nằm ngồi ai chẳng khó thay đến nhà.
Cây đào hớn hở ra hoa,
Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn
Xa nhau rồi những thanh nhàn,
Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu".

Chúng ta để ý thấy ở đầu câu Lý Bạch đã nói đến mùa thu (thu vũ yết: mưa thu vừa tạnh) mà Tản Đà cũng đã dịch là: "Sông thu ngớt hạt mưa tuôn" thế mà không hiểu "lơ đễnh" thế nào, ông đã phiên âm "đảo hoa" thành đào hoa và dịch luôn câu "Đảo hoa khai chước chước" là "cây đào hớn hở ra hoa". Sự thực thì hai câu 5 - 6:

Đảo hoa khai chước chước
Đinh liễu tế y y

Có nghĩa là:

"Hoa trên đảo nở rực rỡ
Liễu bên bờ nước tơ nhỏ thướt tha"

Tản Đà đã nhầm rõ ràng là do lơ đễnh.

Nhóm biên dịch tập Thơ Đường, cuốn II gồm các ông Nam Trân, Hoa Bằng, Tảo Trang và Hoàng Tạo cũng không để ý sự lầm lẫn ấy và đã chép bài thơ dịch của Tản Đà như đã nói trên vào trong sách và còn dịch nghĩa thêm:

Xóm bên sông cơn mưa thu vừa tạnh,
Cạn chén rồi một lá buồm như bay.
Đường đi như lướt trên sóng bạc,
Chỉ việc ngồi hay nằm cũng sẽ đến nhà.
Hoa đào trên hòn đảo nở bung rực rỡ,
Liễu ven bờ tơ nhỏ thướt tha.
Chia tay rồi, không còn có việc gì,
Phẩy tấm đá lại ngồi câu cá.

Đúng các ông đã sơ ý và đã quá tin vào tài nghệ của Tản Đà!

Vậy để sửa bỏ một sai lầm vì lơ đễnh kia, hiện đây chúng tôi xin dịch lại bài Tống khách qui Ngô như sau:

TIỄN KHÁH VỀ ĐẤT NGÔ
Xóm bên sông mưa thu vừa tạnh,
Cạn chén rồi một cánh buồm bay.
Đường đi trên sóng lướt mây,
Ngồi nằm rồi cũng về ngay đến nhà.
Cây trên đảo nở hoa rực rỡ.
Liễu ven bờ tơ nhỏ thướt tha.
Thanh nhàn khi đã cách xa,
Phẩy trơn tấm đá kề cà ngồi câu.

CHÚ THÍCH

(1) Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội, 1982.

(2) Sđd. tr. 136, 137.

(3) Sđd. tr. 136

(4) Sđd. tr. 54, 55.

TB

HIỆN TƯỢNG GHI ÂM MANG TÍNH CHẤT ĐỊA PHƯƠNG TRONG CHỮ NÔM

NGUYỄN THỊ LÂM

Trong khi đọc các văn bản Nôm, chúng tôi thấy có một hiện tượng là: Có những vết tích của ngữ âm địa phương còn đọng lại trên văn bản qua các hình thức chữ Nôm. Chẳng hạn, có sự không phân biệt giữa các phụ âm đầu /l/ và /n/, /t'/ và /ch/, /r/ và /d/,... Tìm hiểu kỹ vấn đề này sẽ có tác dụng nhất định trong việc lý giải hoặc phiên âm các văn bản Nôm. ở phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin đi vào một trường hợp ít nhiều có tính chất tiêu biểu: mối quan hệ giữa: /l/ và /n/. Dưới đây là những biểu hiện cụ thể và nhận xét bước đầu.

1) Những chữ Nôm có phụ âm đầu đọc là /n/ được ghi âm bằng /l/.

Chữ Nôm Âm đọc Được ghi bằng
a) (= thổ + liêu) Niêu (cái niêu) liêu(1)
b) ( = thổ + lập) Nếu (nếp chùa) lập(2)
c) ( = khẩu + liệu) Nếu (nếu mà...) liễu(3)

Những trường hợp như trên, cách ghi âm có khác với cách ghi thông thường mà ta vẫn thấy trong nhiều văn bản: trường hợp a thường ghi "niêu" (= thổ + nao); trường hợp b thường ghi "nếp (= thổ + nhiếp); trường hợp c thường ghi "nếu" (= niểu). Nghĩa là khi ghi những chữ Nôm có phụ âm đầu là /n/ thì người ta mượn những chữ hoặc một bộ phận của chữ Hán có phụ âm đầu tương tự để ghi.

2) Những chữ Nôm có phụ âm đầu là /l/ được phiên bằng /n/

Ví dụ:

Chữ Nôm Âm đọc Được ghi bằng
a) (= nữ) lỡ (lỡ bước) (nữ)(4)
b) ( = mộc + na) la (la đà) (na)(5)
c) ( = niên + thành) lên (lên sởi) (niên)(6)

Ở đây tình hình cũng diễn biến tương tự như ở phần trên. Đáng lẽ có thể ghi chữ Nôm: "lỡ (= lã) hoặc (= tâm + lã) ở trường hợp a; hoặc ghi chữ "la" (= la) ở trường hợp b; hoặc ghi chữ "lên" (= thượng + liên) ở trường hợp c theo cách thông thường. Nghĩa là dùng chữ hoặc một bộ phận chữ Hán có phụ âm đầu là /l/ để ghi những chữ Nôm có phụ âm đầu tương tự. Nhưng ở đây thì ngược lại: /n/ được dùng để biểu âm /l/.

Sở dĩ có những trường hợp trên đây là vì có vấn đề ngữ âm địa phương.

Chúng ta biết rằng hiện tượng phát âm những âm tiết có phụ âm đầu /l/ thành /n/ hoặc ngược lại, vốn tồn tại từ lâu đời tại một số địa phương (như Nam Hà, Hải Dương, Hà Tây). Chữ Nôm là một thứ chữ ghi âm, nên nó cũng để lại dấu vết này. Các ví dụ trên chứng tỏ rằng, trong khi tạo chữ Nôm, người viết đã căn cứ vào tiếng địa phương của mình mà chọn âm phù cho thích hợp.

Trên đây, chúng tôi vừa đề cập đến một hiện tượng từng để lại những dấu ấn trên các văn bản Nôm. Song trong quá trình xem xét, chúng tôi cũng ghi nhận rằng: đây là những chữ Nôm thường chỉ xuất hiện ở những tác phẩm mang tính chất địa phương, phản ánh cách đọc, cách viết của của người địa phương.

Còn trong văn bản của các tác giả nổi tiếng, có thể nói phần lớn chữ Nôm có phụ âm đầu là /l/ và /n/ vẫn phản ánh đúng cách phát âm của đại đa số người Việt. Chúng ta hãy tạm hình dung qua sơ bộ khải sát 1.190 đơn vị ngôn ngữ có phụ âm như trên (thuộc "Bảng tra chữ Nôm" của Viện ngôn ngữ), trong bảng dưới đây:

Phụ âm toàn chữ Phụ âm của bộ phận biểu âm
C D Đ H K L N NG NH Q T TH TR V
L 7 2 8 775 1 1 3 2
Tỉ lệ % 0,5 0,2 0,6 65 0,08 0,08 0,25 0,2
N 1 5 9 8 353 1 7 3 2 1
Tỉ lệ % 0,08 0,4 0,76 0,6 30 0,08 0,5 0,25 0,2 0,08

Kết quả trên cho thấy: khi ghi âm một chữ Nôm có phụ âm đầu là /l/ hay /n/ thì thông thường người ta dùng một chữ hoặc một bộ phận chữ Hán có phụ âm đầu tương tự để làm bộ phận biểu âm. Do đó ta nhận thấy trường hợp này chiếm tỉ lệ cao nhất. Còn ở những trường hợp khác thì hoặc ít nhiều mang tính chất ngữ âm lịch sử hoặc mang tính chất ngữ âm địa phương, như hiện tượng vừa kể trên. Tuy chúng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng đó lại là tài liệu có ý nghĩa đối với những người nghiên cứu lịch sử tiếng Việt và văn tự Nôm. Cũng cần lưu ý thêm, đối với loại chữ Nôm mang tính chất ghi âm địa phương người đọc nhiều khi phải đoán định, đặt vào trong văn cảnh để tìm ra âm đọc cho đúng. Ví dụ trong một vế câu đối:

"Quả phúc dựng nên chùa một nếp"(7)

Nếu căn cứ vào bộ phận biểu âm của chữ "nếp"?????? thì có thể phiên là "lấp", hoặc "lớp" nhưng khi đem gắn vào mạch câu thì không có ý nghĩa gì cả. ở đây phải được phiên là "nếp" thì mới đúng với ý nghĩa "một nếp chùa".

Tác giả của bộ phận biểu âm có phần giảm đi, tuy nhiên nó vẫn có ý nghĩa nhất định đối với người địa phương, vì nó vẫn phản ánh đúng cách phát âm của họ.

Cuối cùng, có thể nghĩ rằng, nếu hiểu được bản chất của loại chữ này thì cũng ít nhiều giúp ích cho những người đang làm công tác phiên âm các văn bản Nôm, nhất là đối với loại văn bản mang tính chất địa phương.

CHÚ THÍCH

(1) (4) Bảng tra chữ Nôm, Nxb KHXH, 1976, tr. 13, 278.

(2) Câu đối ở chàu Hưng Ký, làng Hoàng Mai, Hà Nội.

(3) Luận ngữ thích nghĩa ca, Ký hiệu AB. 186, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. tr. 1.

(5) Trong một tác phẩm Nôm có ghi chép về ca dao địa phương Thanh Trì, Hà Nội.

(6) Nhật dụng thượng đàm, Ký hiệu AB. 511, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. tr.43.

(7) Xem chú thích 4.

TB

CHỮ "CHỚ" TRONG QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

CAO HỮU LẠNG

Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có khoảng 20 chữ "chớ" mang mã 渚(1). Chữ "chớ" này, nghĩa thông thường là đừng. Như ở các câu: "Chớ cậy sang mà ép nề" (44.1) "Bầu bạn cùng ta nghĩa chớ vong" (178.3) thì giảng là "đừng" là thoả đáng. Song ở một vài bài khác, nếu cũng giảng chữ "chớ" theo nghĩa đó thì hình như không thông. Như câu "Dứt vàng chăng chớ câu Hy Dịch", chữ "chớ ở đây nếu hiểu là đừng thì câu thơ không có nghĩa.

Để tiện trình bày, xin được dẫn bài thơ ra đây:

Bầu bạn cùng ta nghĩa chớ vong.
Người kia phú quí nỡ quên lòng
Dứt vàng chăng chớ câu Hy Dịch
Khinh bạc màng ngâm thơ Cốc Phong.
Quân tử nước giao âu những lạt
Hiền nhan rượu thét họ là nồng
Một phen bạn đến còn đằm thắm.
Hai bữa mừng nhau một mặt không.

Đây là bài thứ 51 trong mục Bảo kính cảnh giới.

Bài thơ là những lời khuyên về tình bạn. Câu đầu, tác giả nêu lên đạo lý của tình bạn, nghĩa tương tự như câu chữ Hán "Bầu tiện chi giao bất khả vong". Thừa tiếp ý trên, câu 2, chê những kẻ khi giầu sang đã nỡ quên tình bạn. Câu 3, mượn câu Kinh dịch "nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim), nghĩa là: hai người đồng lòng, có sự sắc bén chặt được vàng, ý khuyên người ta phải biết kết bạn để làm những việc lớn. Xét về cấu trúc ngữ pháp thì chữ "chớ" ở câu này phải mang chức năng động từ, và có nghĩa là "trái" (đạo). Nghĩa câu thơ là: Chẳng (đừng) trái câu "dứt vàng" (đoạn kim) trong Hy Dịch. Như thế mới hợp với nghĩa câu sau: Đừng mong ngâm thơ khinh bạch trong Cốc Phong (khinh bạc màng ngâm thơ Cốc Phong)(2).

Cũng như thế, câu 7 trong bài Giới Sắc (Phu phụ đạo thường chăng được chớ" (190.7), chữ "chớ" này cũng phải hiểu là "trái". Toàn câu thơ có nghĩa là: "Không được trái đạo vợ chồng". Hiểu như thế câu thơ mới có nghĩa và mới liền mạch với câu thơ sau: "Bối tông hoạ phải một đôi khi".

Trường hợp nữa là "chớ" trong câu:
Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ
Áo người vô nghĩa mặc chẳng thà...(3)
(Trần Tình, bài thứ 3)

Chữ "chớ" này cũng nên hiểu nghĩa là "trái" (đạo). Cả câu nghĩa là: "Ăn cơm của kẻ bất nhân là trái (đạo)" (chữ "ấy" có nghĩa như chữ "là"). Hiểu như vậy, vẫn bảo đảm được tinh thần bài thơ và giữ được vẻ trang nhã của câu thơ.

Thơ Nguyễn Trãi cổ điển, tinh nghiêm, từ ngữ bình dị nhưng chính xác, tập trung phục vụ cho chủ đề. Thơ Ông, chữ Hán cũng như Quốc âm, là những tứ cao diệu, tần, kỳ. Có điều thơ Quốc âm của Ông đến với chúng ta ngày nay qua một khoảng thời gian khá dài, nhiều từ ngữ đã mất đi lâu rồi mà các từ thư, từ điển không còn ghi lại được.

Việc tìm ra nghĩa của những từ cổ như chữ "chớ" sẽ làm giàu cho kho kiến thức từ ngữ Việt cổ, và giúp cho hiểu được những áng văn thơ cổ phong phú và chính xác.

CHÚ THÍCH

(1) Theo bản in Phúc Khê, năm 1868.

(2) Cốc phong: một thiên trong Kinh Thi, đại ý chê người đàn ông phụ bạc, có mới nới cũ.

(3) Câu sau: “áo người vô nghĩa mặc chẳng thà”, chẳng thà ở đây tương đương với nghĩa chẳng thèm

(4) Bài viết có tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Si Lâm, xin ghi lời cảm ơn.

TB

BÀI "HỒNG NGHỆ AN PHÚ"
CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG

THẠCH CAN

Bài Hồng Nghệ An phú của đồng chí Lê Hồng Phong sáng tác lúc bị giam trong tù Côn Đảo năm 1940, do đồng chí Nguyễn Tấn Miêng nhớ thuộc lòng đọc lại.

Đồng chí Nguyễn Tấn Miêng người Bạc Liêu (Nam Bộ), năm 1940 cũng bị đế quốc Pháp bắt, giam chung với đồng chí Lê Hồng Phong ở nhà tù Côn Đảo, nay là cán bộ quân đội, đã về hưu, hiện ở tại số nhà 263, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí Miêng không biết chữ Hán, nhưng khi đồng chí Lê Hồng Phong làm được câu nào thì đồng chí thuộc lòng câu ấy, đến nay đã hơn 40 năm mà đồng chí vẫn nhớ tường tận. Nhân dịp đồng chí Miêng đi trong đoàn cán bộ lão thành miền Nam ra thăm Thủ đô hồi tháng 8 năm 1984 vừa rồi, tôi may mắn được đồng chí đọc cho nghe bài phú này. Tôi bèn chép lại theo nguyên văn bằng chữ Hán để ghi nhớ một tác phẩm văn học có tính chất sử thi của một đồng chí cao cấp của Đảng đã hy sinh trong nhà tù đế quốc. Đồng thời cũng xin tạm dịch ra quốc văn theo đúng với nguyên thể của tác giả để cống hiến bạn đọc.

HỒNG NGHỆ AN PHÚ
Hồng Lĩnh cao phong đương bình trướng,
Lam Giang bích thuỷ tự thang trì.
Kỷ thiên niên tuấn kiệt anh nhi,
Tạ thắng địa duy trì Nam chính khí.
Cách vật chất cao đàm phong thuỷ,
Bối hoành sơn nhất luỹ tương liên.
Hướng Lam thành Ngư được diện tiền,
Cụ thử hữu thiên nhiên đích thắng cảnh.
Tường tế sát nhân dân phúc hạnh,
Trú, thực, y cứu cánh hà như?
Tô canh điền tạc tỉnh vi tư,
Bị tân khổ vị tự hồ cơ cận.
Tuy sơn thuỷ thủ chi bất tận,
Đãn chủ quyền khả hậu thuỳ chi?
Yếu sinh tồn phấn đấu vi y,
Phi sơn thuỷ tú kỳ chung tuấn kiệt.
Ngô dân chí dưỡng thành thiết huyết,
Lịch sơn hà bách chiết bất hồi.
Bình dân trung đột khởi quần khôi,
Sử cường đạo văn lôi nhi chiến đảm,
Lê Thái Tổ anh hùng quả cảm,
Cứ Lam thành sát tận Ngô Linh,
Vị giang sơn đả đảo bất bình,
Sáng vĩ tích quang vinh Nam Quốc sử.
Phan trung liệt Lam Giang hùng cứ,
Tật thanh hô: "Sát tả an lương",
Tuỳ thời khởi nghĩa cần vương,
Chí tại cứu phi thường chi quốc nạn.
Thống quan ngã Hồng, Lam dĩ vãng,
Đổ cận kim hùng tráng vô song.
Tô-duy-ai vận động tiền phong,
Khai ngã quốc công nông tân thế kỷ.
Tuy chiến đấu vị năng nhất trí,
Đản thanh danh phong mỹ hoàn cầu,
Phàm phong trào nhất khởi ba đào,
Chung nan miễn thăng cao nhi tạm thoái.
Cách mạng tuy nhất thời thất bại,
Di hạ lai hữu đại giá chi huấn điều:
Bất bình hành phát khởi phong trào,
Khách quan hựu liêu liêu vô điều kiện.
Khởi nghĩa đa tòng các phủ huyện,
Tại tập trung phương diện hư không.
Trí song phương lực lượng bất đồng,
Hựu dĩ Hãm Lam, Hồng vu tiều tuệ:
Yếu Đông - Dương nhất trí hưng công,
Đại liên minh toàn quốc công nông,
Phương chấn chỉnh Lam, Hồng chân thắng cảnh.

Côn đảo, năm 1940.

Dịch nghĩa:

BÀI PHÚ NGHỆ AN ĐỔ
Dãy Hồng Lĩnh núi cao làm bức bình phong,
Dải Lam Giang nước biếc tựa như hào nóng.
Hàng mấy ngàn năm các bậc anh hùng hào kiệt,
Dựa vào đất ưu việt này để duy trì chính khí nước Nam.
Lấy vật chất để mà luận bàn kiểu phong thuỷ(1).
Lưng tựa vào dãy Hoành Sơn làm một thành luỹ nối liền nhau.
Đảo Song Ngư chầu trước mặt thành Lam(2)
Nơi đây có đầy đủ thắng cảnh thiên nhiên.
Nhưng xét cho tường tận hạnh phúc của nhân dân,
Về nhà ở, cơm ăn, áo mặc ra sao?
Đem sức lực cày ruộng, đào giếng làm ra của cải,
Mà vẫn bị cực khổ bởi vì nghèo đói.
Tuy sông núi của ta của cải là vô tận,
Nhưng giận nỗi chủ quyền thuộc về tay ai?
Muốn sống còn phải dựa vào sức phấn đấu của mình.
Chứ đâu phải non kỳ nước tú chung đúc nên người tuấn kiệt.
Chí dân ta nuôi thành máu thép,
Từng trải non sông hàng trăm lần đổ gẫy cũng không chùn.
Trong bình dân trỗi dậy lớp lớp anh hùng,
Khiến quân giặc cướp nghe sấm vang mà vỡ mật.
Vua Lê Thái Tổ là người anh hùng quả cảm,
Giữ thành Lam giết hết quân Ngô,
Vì non sông mà đánh đổ nỗi bất bình,
Dựng nghiệp lớn làm rạng rỡ lịch sử nước Nam.
Vị trung liệt họ Phan(3) hùng cứ ở sông Lam,
Thét vang khẩu hiệu "Bình tây, sát tả, an lương"(4)
Tuỳ thời khởi nghĩa Cần vương,
Chí những muốn cứu tai nạn phi thường của nước nhà.
Xem tổng quát cõi Hồng, Lam thuở trước.
Nhìn về gần đây hùng tráng tuyệt vời,
Đi tiền phong trong cuộc vận động Xô -viết
Mở ra kỷ nguyên mới phong trào công nông yêu nước
Dẫu chiến đấu chưa được nhất trí,
Nhưng thanh danh đã vang dội toàn cầu.
Phàm phong trào lúc sóng cồn mới nổi dậy,
Không tránh khỏi có lúc lên cao rồi lại tạm thoái.
Cách mạng tuy một thời bị thất bại,
Để lại sau này một bài học lớn lao:
Bởi phong trào phát động không đều,
Mà điều kiện khách quan cũng xa vời chưa có.
Việc khởi nghĩa chỉ ở mấy phủ, huyện,
Chưa có sự chỉ huy chung ở bên trên,
Cho nên lực lượng hai bên không đồng đều,
Lại chìm đắm Lam, Hồng vào vòng tiều tuỵ.
Để phấn đấu cho một non sông tươi đẹp,
Phải dấy lên phong trào của cả xứ Đông Dương,
Phải có mặt trận liên minh công nông cả nước,
Mới chấn chỉnh được thắng cảnh sông Lam núi Hồng.
Dịch theo nguyên thể:
Hồng Lĩnh non cao làm lá chắn,
Lam Giang nước biếc tựa hào sôi.
Mấy ngàn năm tuấn kiệt anh tài,
Dựa đất vững cõi Nam ngời chính khí.
Lấy vật chất luận bàn hình thế,
Lưng tựa liền thành luỹ Đèo Ngang.
Hòn Ngư chầu trước mặt thành Lam,
Đầy đủ cảnh giang sơn tráng lệ.
Song hạnh phúc nhân dân xem xét kỹ,
Mặc, ở, ăn - Sinh kế ra sao?
Suốt quanh năm cuốc bẫm cày sâu
Vẫn nghèo đói phải lâm vào cực khổ.
Dẫu của cải non sông ta giầu có,
Nhưng chủ quyền, căm giận ở tay ai!
Muốn sống còn phải phấn đấu không ngơi,
Há sông núi đúc nên người hào kiệt?
Chí dân ta nuôi thành màu sắt,
Trải trăm lần có mất không chùng.
Trong bình dân trỗi dậy lớp lớp anh hùng,
Khiến quân giặc nghe sấm vang mà táng đảm.
Lê Thái Tổ anh hùng quả cảm,
Giữ Lam thành giết sạch quân Ngô,
Vì non sông rửa mối hận thù,
Xây nghiệp lớn điểm tô trang quốc sử.
Phan Trung liệt sông Lam hùng cứ,
Tiếng thét vang giết giặc cứu dân lương
Khắp nơi nơi khởi nghĩa Cần vương,
Chí những muốn cứu tai ương cho đất nước.
Nhìn tổng quát Hồng, Lam thuở trước,
Đến gần đây hùng tráng vô cùng.
Từ phong trào Xô - viết tiền phong,
Kỷ nguyên mới công nông mở lối.
Tuy chiến đấu chưa thâu về một mối,
Nhưng thanh danh đã vang dội toàn cầu.
Phàm phong trào nổi dậy lúc ban đầu,
Khó tránh khỏi lên cao rồi tạm thoái.
Cách mạng tuy một thời thất bại,
Để lại sau bài học lớn lao:
Bởi phong trào phát động không đều,
Mà điều kiện khách quan cũng xa vời chưa có.
Việc khởi nghĩa chỉ ở nơi huyện, phủ,
Mà bên trên chưa có chủ trương chung.
Nên tương quan lực lượng không đồng,
Lại chìm dắm Lam, Hồng vào vòng tiều tuỵ.
Để phấn đấu cho một giang sơn mĩ lệ.
Cả Đông Dương phải nhất trí hiệp đồng.
Đại liên minh toàn quốc công nông,
Mới chấn chỉnh thắng cảnh Lam, Hồng muôn thuở.

CHÚ THÍCH

(1) (2) Phong thủy: xưa để chỉ kiểu đất địa lý. Vùng Nghệ An xưa thường lưu truyền là có kiểu đất quý, hình thế sông núi có hình hổ, voi, rồng, phượng... Ngoài biển trước sông Cấm (cửa Hội) lại có 2 hòn đảo gọi là hòn Ngư chầu vào. nghệ Tĩnh xưa có câu sấm truyền “Song Ngư đáo địa, Nghi Lộc vi vương” (đảo Song Ngư liền đến đất, nghi Lộc làm vua). ở đây, ý tác giả là đứng về duy vật mà bàn về hình thế sông núi: đây là nơi hiểm yếu và thắng cảnh.

(3) Trung liệt họ Phan: tức Phan Đình Phùng.

(4) “Bình tây, sát tả, an lương” là khẩu hiệu của phong trào Cần vương lúc đó, có nghĩa là “dẹp giặc Tây, giết tả đạo, yên lương dân”.

TB

THÊM MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NINH TỐN

NGUYỄN ĐĂNG

Ninh Tốn xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ông nội và cha đều thi đỗ Hương cống và từng làm quan trong Viện hàn lâm dưới triều Lê Trịnh. Đặc biệt, người bác ruột là Ninh Địch thì đỗ Hoàng giáp, làm quan đến Đông Các Đại học sĩ. Bản thân Ninh Tốn cũng thi đỗ Hội Nguyên Tiến sĩ, và làm quan trong triều. Có thể nói rằng dòng họ Ninh ở Côi Trì này đã chịu ân dày của triều đình phong kiến Lê Trịnh. Thế nhưng cũng giống như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Võ Huy Tấn và những trí thức tiến bộ khác, Ninh Tốn đã vượt ra cái khuôn khổ "ngu trung" để đứng hẳn về hàng ngũ của phong trào Tây Sơn và đóng góp một phần sức lực xứng đáng vào công cuộc dựng nước và giữ nước do người "anh hùng áo vải" Quang Trung lãnh đạo. Vừa qua, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội mới cho ra mắt tập Thơ văn Ninh Tốn, tuyển chọn và giới thiệu 108 bài thơ văn tiêu biểu của Ninh Tốn. Tập sách này cũng giới thiệu khá đầy đủ về thân thế và sự nghiệp của nhà thơ. Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu và đánh giá đúng về tác phẩm và con người Ninh Tốn, chúng tôi xin giới thiệu thêm một số tư liệu có liên quan đến ông mà trong cuốn Thơ văn Ninh Tốn chưa có dịp đề cập đến.

1) Quê tổ của họ Ninh:

Sách Thơ văn Ninh Tốn dẫn theo Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hồ cho rằng quê tổ của Ninh Tốn ở làng Ninh Xá, huyện Chí Linh. Chí Linh quả thật có làng Ninh Xá, đây là vùng quê nổi tiếng văn vật, nhiều người đỗ đạt, ví dụ như Nguyễn Mại đỗ Hoàng Giáp đời Lê Hy Tông... Thế nhưng làng Ninh Xá ở huyện Chí Linh này có đúng là quê tổ của họ Ninh không? Sách Ninh tướng công hành trạng(1) Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện(2) đều chép ông tổ họ Ninh quê ở làng Ninh Xá huyện Vọng Doanh, đầu đời Hồng Đức đến khai khẩn đất hoang ở huyện Yên Mô, rồi lập ra làng Côi Đàm(3). Sách Các trấn tổng xã danh bị lãm(4) , cho biết làng Ninh Xá huyện Vọng Doanh thuộc vào phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam (nay là xã Cát Đằng, huyện ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh).

Đất Ninh Xá này nằm ở huyện đồng bằng, chỉ cách huyện Yên Mô một dòng sông Đáy. Do vậy họ Ninh có thể từ vùng đồng bằng đấp hẹp người đông, sang khai khẩn đất đai ở huyện miền núi gần đó, theo đúng phép chiếm xạ(5) do triều đình phong kiến lúc bấy giờ ban hành. Còn Chí Linh cũng là một huyện miền núi, đất đai hẳn không thiếu gì, chẳng cần phải đi khai khẩn nơi khác, hơn nữa Chí Linh và Yên Mô lại cách nhau rất xa, nên việc họ Ninh từ Ninh Xá Chí Linh đến Yên Mô là khó có thể xảy ra. Phạm Đình Hổ là người vùng Hải Dương rất quen thuộc dải đất Chí Linh, có lẽ ông đã lầm Ninh Xá của huyện Vọng Doanh với Ninh Xá của huyện Chí Linh chăng?

2) Thế phả họ Ninh:

Sách Hành trạng cho chúng ta biết thêm một số tài liệu về dòng họ Ninh ở Côi Trì: Ông nội Ninh Tốn (Hành trạng do Ninh Ngạn soạn, nên không chép tên, mà gọi là Gia nghiêm) sinh năm 1665, đỗ Hương cống năm 1705, làm Tri huyện Quảng Bình năm 1725, làm Đông Các đại học sĩ năm 1732, mất năm nào không rõ.

Bác ruột Ninh Tốn là Ninh Địch, sinh năm 1687, năm 1705 đỗ Hương cống cùng khoa với cha, năm 1718 đỗ Hoàng giáp, làm quan đến Đông Các Đại học sĩ, mất năm 1734. Ninh Địch trước tác rất nhiều, còn để lại Thuỷ trình quốc ngữ ca miêu tả phong cảnh từ Nhị Hà đến Cầu Dinh.

Bố Ninh Tốn là Ninh Ngạn(6), tự là Dã Hiên. Ngoài tác phẩm Vũ Vu thiển thuyết Phong Vịnh tập như sách Thơ văn Ninh Tốn đã giới thiệu, Ninh Ngạn còn biên soạn tập Ninh tướng công hành trạng như đã giới thiệu ở trên. Đây là tập sách quý cho biết nhiều tư liệu về họ Ninh ở Côi Trì. Hiện ở thư viện Viện Hán Nôm còn giữ được một bản chép tay, khổ 18 x 28, 34 trang, ký hiệu A. 1267. Chính Ninh Ngạn có viết một bài Tiểu tự, nói rõ quá trình biên soạn sách này. Bài Tiểu tự viết năm 1764, lúc đó tác giả vừa đúng 50 tuổi (Dư kim niên tri mệnh hĩ), do vậy có thể đoán biết Ninh Ngạn sinh năm 1715, kém Ninh Địch 28 tuổi. Hành trạng cho biết thêm Ninh Ngạn đỗ Hương cống năm 1750, từng làm Hiến phó sứ. Ninh Ngạn được ấm phong làm Thị độc trong Viện Hàn Lâm, ông nổi tiếng hay chữ, hào hoa phong nhã. Sách Tỉnh chí xếp ông vào một trong bảy người anh hào đất Trường An (Kinh đô) lúc bấy giờ (Trường An thất hào), ông được gọi là "Côi Trì thị độc Ninh Ngạn".

3) Thơ Nôm Ninh Tốn.

Ninh Tốn có sáng tác thơ Nôm không? Các sưu tập văn thơ của họ Ninh do con cháu trong họ biên tập như Thơ văn Ninh Tốn giới thiệu, đều không thấy có thơ Nôm. Sách Sài sơn thắng tích tạp ký(7) do nhà sư Tuệ Giác ở chùa Phạt Tích Sài Sơn - biên soạn năm Gia Long 6 (1807), có chép một bài thơ Nôm Đề Am Hiển Thuỵ và ghi rõ tác giả là Côi Trì Tiến sĩ Ninh Tốn. Bài thơ như sau:

Trên đỉnh non Sài một động xa,
Đồ bày để đợi kẻ đầu đà.
Mưa trời ngọc tưới lan đầy cửa,
Đất bụt xuân vầy nức những hoa.
Hương cúng triện dâng như thuỵ khí,
Kinh xem đàn điểm giục hằng nga.
Đá phàm đã hoá nên tiên động,
Thế giới đông nên hợp một nhà.

Bài thơ này được chép y nguyên trong tập Thiên nam hình thắng minh lương di mặc lục(8) nhưng ở phần lời dẫn lại ghi "Đời Lê Vĩnh Thịnh có hai vị Tiến sĩ lên núi dạo chơi, đề thơ ở vách am Hiển Thuỵ, một bài chữ, một bài Quốc âm. Sau khi chép xong hai bài thơ, một Hán, một Nôm, sách lại ghi thêm: "Lạc khoản ở dưới cho biết, cuối mùa xuân năm Canh Tý đời Lê Vĩnh Thịnh, kẻ hậu học ở Côi Trì, Yên Mô là Ninh Đạt và cháu gọi bằng bác là Ninh Tốn cùng bái đề".

Để xác định xem bài thơ Nôm này có phải của Ninh Tốn không, chúng ta cần phải tìm hiểu thêm xem Ninh Đạt là ai, quan hệ như thế nào với Ninh Tốn. Sách Hành trạng không chép Ninh Tốn có người bác nào là Ninh Đạt cả, mà người bác đỗ Tiến sĩ đời Vĩnh Thịnh thì chỉ có một mình Ninh Địch như đã giới thiệu ở trên. Còn Ninh Đạt, lại là người đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659) năm Vĩnh Thọ 2 đời Lê Thần Tông. Theo Vũ Trung tuỳ bút, thì Ninh Đạt vào hạng ông tổ năm đời của Ninh Tốn. Như vậy là Thiên nam hình thắng minh lương di mặc lục đã nhầm lẫn giữa Ninh Đạt và Ninh Địch. Thế nhưng, cho dù là nhầm Ninh Đạt với Ninh Địch, vẫn không thể có sự việc Ninh Địch và Ninh Tốn cùng đi chơi chùa Thày để mà "đồng bái đề" được, bởi vì Ninh Địch chết năm 1734, mà Ninh Tốn mãi đến năm 1744 mới sinh(9). Do đó có thể tạm kết luận rằng, những ghi chép trong Thiên nam hình thắng minh lương di mặc lục là không có căn cứ, mà điều ghi nhận của nhà sư Tuệ Giác trong Sài Sơn thắng tích tạp ký là có thể tin cậy được. Nhà sư Tuệ Giác trụ trì ngay ở chùa Phật Tích, và thời gian biên soạn sách của ông cũng rất gần với thời Ninh Tốn, nên những điều ông ghi chép được có nhiều khả năng đúng với sự thực hơn.

CHÚ THÍCH

(1) Ninh tướng công hành trạng, Ninh Ngạn biên saọn năm Cảnh Hưng Giáp Thân (1764), sách của Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu A. 1267, gọi tắt là Hành trạng.

(2) Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện, Nguyễn Văn Mẫn biên soạn năm Tự Đức 15 (1862). Sách của Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu A. 922, gọi tắt là Tỉnh chí.

(3) Côi Đàm: tên cũ của làng Côi Trì, do kiêng húy tên vua Duy Đàm, đã đổi ra tên này.

(4) Các trấn tổng xã danh bị lãm, Sách của Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu A. 570.

(5) Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ giải thích về phép “Chiếm xạ” như sau: “Thời Hồng Đức, sau cơn binh loạn, ruộng đất bỏ hoang nhiều, triều đình bàn thi hành phép Chiếm xạ, sai các thế gia hào hữu tùy sức khai khẩn đất hoang. Sau khi thành ruộng đất, cho ghi vào sổ của bộ Hộ, mãi mãi giữ làm của riêng, đó là phép Chiếm xạ”.

(6) Chữ Hán ghi tên Ninh Ngạn là , Sách Thơ văn Ninh Tốn tự điển Văn học (Nxb KHXH, 1984) đều đọc là “sản”. Tra cứu các tự thư chúng tôi thấy phải đọc là “nghiễn” hoặc “ngạn” mới đúng (“Ngư khiển thiết”, hoặc “ngữ ngạn thiết”). Xem Khang Hy tự điển Đồng văn thư cục nguyên bản, tr. 1189.

(7) Sài Sơn thắng tích tạp ký, Sách của Thư viện Viện Hán Nôm, bản chép tay, ký hiệu A. 923.

(8) Thiên Nam hình thắng minh lương di mặc lục, Sách của Thư viện Viện Hán Nôm, bản chép tay, ký hiệu A. 952.

(9) Các sách Thơ văn Ninh Tốn Từ điển văn học đều ghi Ninh Tốn sinh năm 1743, là chưa đúng. Trong bài Chuyết sơn thi tự Thơ văn Ninh Tốn có tuyển chọn, nói rõ Ninh Tốn đỗ Hương cống năm Nhâm Ngọ (1762), lúc ấy ông 19 tuổi. Theo cách tính tuổi của người xưa thì ông phải sing năm 1744 mới đúng.

TB

MỘT BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA
NGÔ THÌ NHẬM

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Ngô Thì Nhậm (1746 1803) để lại khá nhiều sáng tác, đặc biệt về thơ. Theo các tài liệu hiện có, ông để lại 7 tập với 592 bài thơ(1). Thời đại mà Ngô Thì Nhậm sống là thời đại phát triển rực rõ của văn thơ chữ Nôm. Nhưng hiện nay, chúng ta chưa tìm được bài thơ chữ Nôm nào của ông.

Trong số gần 600 bài thơ của Ngô Thì Nhậm, có một bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán, rất độc đáo, viết theo lối “thủ vĩ ngâm” (đọc xuôi đọc ngược đều được). Bài thơ đọc xuôi là thơ chữ Hán, khi đọc ngược lại là thơ Nôm. Xin giới thiệu bạn đọc bài thơ đó:

Phiên âm:

TỐNG CAO BẰNG ĐỐC ĐỒNG
Viên lâm thú chiếm lợi danh trường
Thích hứng du nhiên tự điểm trang,
Tiên các thí cầu triền nhật vựng
Cẩm thành phô ngọc ánh hoa đường
Thiền cơ tỉnh hát nghi chung lãng.
Nhạc khúc truyền ca đối nguyệt xoang.
Liên nhiễm bích ti phu lục liễu
Viên lâm thú chiếm lợi danh trường.

Dịch nghĩa

TIỄN QUAN ĐỐC ĐỒNG CAO BẰNG(2)
Thú vui vườn rừng đã chiếm lĩnh cả trường danh lợi
Hứng thú lâng lâng, tự nó điểm trang cho cuộc sống.
Gác tiên thử tung cầu, vấn vương vầng nhật,
Thành gấm phô vẻ ngọc, dọi ánh đường hoa,
Cơ thiền bừng thức tỉnh, đúng khi hồi chuông lanh lảnh,
Khúc nhạc truyền lời ca trước vầng trăng sáng dặt dìu
Sen nhuốm tơ biếc, liễu trải màu xanh,
Thú vui vườn rừng đã chiếm lĩnh cả trường danh lợi.

Bài thơ Nôm đọc là:

Trường danh lợi chiếm thú lâm viên,
Liễu lục pha tơ biếc nhuốm liền
Xoang nguyệt đối ca truyền khúc nhạc
Lắng chuông nghe hát tỉnh cơ thiền
Đường hoa ánh ngọc phô thành gấm.
Vầng nhật giỡn cầu, thử gác tiên
Trang điểm tự nhiên dầu hứng thích
Trường danh lợi chiếm thú lâm viên.

CHÚ THÍCH

(1) Xem phần giới thiệu văn bản trong bản thảo Thơ văn Ngô Thì Nhậm tập II, Bản đánh máy, Thư viện Viện NC Hán Nôm, ký hiệu D.498.

(2) Bản dịch xem Thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập Bút hải trùng đàm, Bài số 11, Bản thảo đã dẫn.

TB

VỀ CUỐN THẦN PHẢ LÀNG ĐÀO XÁ

BÙI XUÂN ĐÍNH

Những năm gần đây, trong khi thực hiện chương trình của Viện Dân tộc học nghiên cứu các loại hình làng xã cổ truyền của người Việt, chúng tôi có tiến hành khảo sát một làng trung du - Làng Đào xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú. Qua ba đợt điền dã, cùng với việc sưu tầm các tài liệu hiện đại, việc thẩm vấn dân tộc học, chúng tôi đã bước đầu thu được một số văn bản Hán Nôm còn lưu ở địa phương, trong đó, đáng chú ý là cuốn thần phả của làng này, có tên là Cần chi thuỷ thần bộ, Sách viết bằng chữ Hán, chép tay, gồm hai bản có giá trị nội dung như nhau. Bản chính ghi là soạn vào năm Hồng Phúc thứ 2 đời Vua Lê Anh Tông (1557 - 1558) trên giấy bản khổ 18 x 24cm. Theo các cụ già địa phương, vì sợ mất mát nên năm Bảo Đại thứ 12 (1937), các chức dịch và các bô lão trong làng đã sao nguyên nội dung sang một quyển khác cùng khổ giấy trên.

Với khoảng 9000 chữ, bản thần phả nêu lại sự tích các vị thành hoàng làng. Thời Hùng Vương thứ 18, vùng Đào Xá, Dị Nậu, Thọ Xuyên, Hưng Hóa (nay thuộc huyện Tam Thanh, Vĩnh Phú) bị Thuỷ Tinh dâng nước làm ngập lụt, Hùng Vương sai tướng là Hùng Hải Công đến trấn giữ và dẹp yên. Một hôm Hùng Hải Công và vợ là bà Trang phu nhân đi thuyền từ đầm Đào Xá tên đầm Thọ Xuyên, Dị Nậu. Giữa cảnh sông nước hữu tình, bà Trang phu nhân mơ sinh ra quý tử. ít lâu sau bà sinh được ba người con trai là Đạt Linh Long, Mãn Linh Long và Uyên Linh Long. Khi ba người khôn lớn, Hùng Vương phái Hùng Hải Công về trấn giữ cửa sông Nhị, cử người con thứ ba là Uyên Linh Long về nhậm trị vùng Thọ Xuyên, Dị Nậu, còn hai người kia ở lại giữ Đào Xá. Do công lao giúp dân trị thuỷ đó, dân Đào Xá cùn tôn Hùng Hải Công và người con của ông làm thành hoàng và cùng thờ họ ở đình và ở đền.

Đối với chúng tôi, tài liệu Cần chi thuỷ thần bộ rất có giá trị đối với việc tìm hiểu lịch sử làng Đào Xá cả trên bình diện sử học và dân tộc học. Ngoài việc để lại các tư liệu về tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ thần sống nước, dấu vết về tư duy lưỡng hợp của người Việt Nam qua các tục bơi chải, nghi lễ cầu mưa… thần phả còn cho phép hình dung một số mặt khác của làng Đào Xá từ xưa tới nay. Trước hết, cùng với một loạt các di vật khảo cổ học, trong đó có chiếc trống đồng Đào Xá thuộc loại Hê-Gơ I muộn được phát hiện đầu tiên trên đất Vĩnh Phú, tài liệu giúp ta có thể khẳng định Đào Xá nằm trên con đường mà tổ tiên ta từ miền núi dừng chân trước khi tiến xuống cư trú và khai phá vùng đồng bằng, nằm trong vùng dựng nước đầu tiên của dân tộc. Tài liệu cũng cho phép chúng tôi hình dung được cảnh quan làng Đào Xá và các làng xung quanh thời dựng nước. Đó là vùng nằm ven dòng chảy của một dòng sông cổ, nối liền sông Hồng và sông Đà thuở xa xưa. Nay dòng sông đó bị mất, trở thành những cánh đồng chiêm trũng ngập úng quanh năm. Chút ít tư liệu đó cũng gợi cho chúng ta quá trình đấu tranh gian khổ để chống lũ lụt, bảo vệ làng xóm, phát triển sản xuất của các nhóm cư dân ở đây thời dựng nước. Thần phả còn ghi cả sự kiện vua Trần Nghệ Tông cùng gia thất lánh nạn Dương Nhật Lễ tại Đào Xá. Điều này phù hợp với những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư( ) và cũng với ngôi đền thờ Trần Nghệ Tông, ở Đào thôn, một số tập quán trong canh tác, sinh hoạt và đặc biệt là cứ liệu ngôn ngữ cho phép khẳng định, cho đến thế kỷ XIV, vùng đất Đào Xá và xung quanh là vùng cư trú của người Mường hay vùng hỗn cư Mường Việt(2).

Đặc biệt, Cần chi thuỷ thần bộ rất có giá trị trong việc tìm về nguồn gốc bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Theo ghi chép trong thần phả thì năm 1076, trên đường đi kinh lý các nơi, xem xét địa thế để bố trí lực lượng và xây dựng phương án tác chiến, Lý Thường Kiệt đã ngược sông Hồng để nghiên cứu tuyến đường thuỷ nối kinh thành Thăng Long với vùng Tây Bắc sang Vân Nam (Trung Quốc) là con đường thông thương từ thời Bắc thuộc. Ông đã rẽ vào làng Đào Xá nghỉ chân và xem xét chổ gặp nhau của sông Hồng và sông Đà. Các bô lão và nhân dân địa phương vui mừng mổ trâu bò, bày yến tiệc đón Lý Thường Kiệt và cùng ông bàn việc xây dựng phòng tuyến chống giặc. Xong việc Lý Thường Kiệt vào đền cầu khẩn thần linh giúp nước. Thần hiện lên và đọc bốn câu thơ như sau:

Nam thiên dĩ định đế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân
Thất quận sơn hà đô nhất thống,.
Tống binh bất miễn tản như vân.

Xin tạm dịch là:

Trời Nam đã định vua Nam ta,
Đức lớn ngày thêm đổi mới ra.
Bảy quận non sông thu một mối,
Tống binh tan tác tựa mây sa.

Vừa dứt lời thì từ phía ngoài đầm xa hiện ra hai chiếc thuyền rồng, mỗi thuyền vài trăm người hò reo bơi thuyền thẳng vào đền. Lý Thường Kiệt tưởng quân Tống đến, bèn bày quân dàn trận ra đánh. Nhưng từ trên thuyền có tiếng người nói: “Thuyền quân thuỷ quan đến cùng ông đánh giặc Tống, xin đừng ngại”. Xong hai thuyền tiến vào đền, quân tướng Lý Thường Kiệt và quân tướng trên thuyền cùng làm lễ xuất quân đánh giặc. Giặc tan, Lý Thường Kiệt về làm lễ tâu vua, xin phong Hùng Hải Công làm “Thượng đẳng phúc thần”. Nhân dân Đào Xá mở hội ăn mừng. Trước đây, hàng năm từ 10 đến 15 tháng 7 âm lịch, trai đinh giữa bốn giáp trong làng thi bơi chải. Cứ hai giáp một chải, mỗi chải 27 người, bơi ba vòng từ cửa đền ra dãy đồi Gọc rồi bơi về. Khi bơi êm ả nhẹ nhàng, không động hiệu lệnh, lúc trở về mới khua chiêng trống và bơi nhanh. Bên nào về trước sẽ thắng cuộc, để diễn tả lại cảnh Lý Thường Kiệt bày quân đón thuyền rồng của thần linh.

Chúng ta thấy, sự tích và bài thơ trên đây có những nét giống với sự kiện Lý Thường Kiệt cầu đảo ở đền cửa sông Như Nguyệt và bài Nam quốc sơn hà của ông. Điều này khiến chúng ta có thể đặt ra hai giả thiết về tác giả bài thơ. Một là, bài thơ do các bô lão Đào Xá tặng Lý Thường Kiệt để tỏ lòng yêu nước và quyết tâm đánh giặc của họ. Hai là, bài thơ vẫn là của Lý Thường Kiệt, nhưng ông nói là của Hùng Hải Công và “Tam vị đại vương” báo mộng để gây hào hứng trong nhân dân và binh sĩ.

Nhưng dù tác giả là ai chăng nữa, thì bài Nam thiên dĩ định đế Nam quân về mặt nội dung vẫn có liên quan đến bài Nam quốc sơn hà và trận thắng chiến lược bên bờ sông Như Nguyệt, có giá trị làm rõ nguồn gốc và sức truyền cảm mạnh mẽ trong nhân dân của bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên đầy hào khí của dân tộc ta gần nghìn năm trước đây.

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tập II, tr. 157.

(2) Tham khảo: Lê Tượng: Những yếu tố văn hóa cổ Việt Mường trên đất Vĩnh Phú, Tạp chí Dân tộc học, số 2 - 1975.

TB

SÁCH HÁN NÔM Ở NƯỚC NGOÀI

TRẦN NGHĨA

Sách Hán Nôm của ta, những thư tịch và tài liệu bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm chủ yếu do người nước ta soạn thảo từ 1945 trở về trước, vì nhiều nguyên nhân phức tạp, một bộ phận đã tản lạc ra nước ngoài. Nguyện vọng chung của giới nghiên cứu Hán Nôm trong nước cũng như ngoài nước là làm sao để toàn bộ số sách Hán Nôm này sớm quy về một mối, vì lợi ích khoa học.

Trước khi đạt tới một tình hình lý tưởng như vậy, suốt nhiều năm qua, đã có những nổ lực nhằm sưu tầm, kiểm kê, giới thiệu số sách Hán Nôm hiện tàng trữ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là ở Nhật, ở ý, ở Pháp.

Về sách Hán Nôm Việt nam ở Nhật, có bài Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục, in kèm theo sau bản thư mục Triều Tiên Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, xuất bản tại Nhật năm Chiêu Hoà XIV (tức năm 1939). An nam bản mục lục cho biết tại Đông Dương văn khố của Nhật hồi bấy giờ có tất cả 104 tác phẩm Hán Nôm Việt Nam được xếp thành bốn cụm Kinh, Sử, Tử, Tập(1). Nay xem lại, trừ đi những tác phẩm Trung Quốc đưa nhầm vào đây như Việt Kiệu thư(2), Thanh Khâu Cao tiên sinh thi tập(3), hoặc tác phẩm Trung Quốc do người nước ta trùng san như Kinh dịch, Kinh Xuân thu… số còn lại với khoảng 90 tác phẩm đều đúng là sách do người Việt Nam soạn thảo, trong đó có những bản sách quý như Hồng Đức bản đồ (phụ toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư; Giáp ngọ niên bình Nam đồ; Cảnh Thịnh tân đồ; Cao Bằng phủ toàn đồ; Mục Mã trấn doanh đồ), bản viết tay; Truyền kỳ mạn lục bản in năm Vĩnh Thịnh VII, tức 1712; Vân đài loạn ngữ, Bản viết tay, 9 quyển; Ức trai tập, bản Dương Bá Cung biên tập năm Tự Đức XXI, tức 1868, 6 quyển v.v…

Về sách Hán Nôm ở ý, có bài Annamitische Xaverius literatur của một người Đức tên là Schurhammer đăng trên tạp chí tiếng Đức Missionswissenschaftliche Studien, tr. 300 - 314, năm 1951. Trong bài viết này, Schurhammer với sự cộng tác của Trần Văn Huy người Việt Nam, đã sơ bộ giới thiệu 24 tác phẩm viết tay bằng chữ Nôm hoặc chữ Quốc ngữ, dưới ký hiệu Codici Borgiani Tonchinesi, tại Thư viện Toà thánh Vatican ở ý. Riêng về mặt chữ Nôm, bản thư mục của Schurhammer có nêu hai tác phẩm đáng chú ý, đó là Lễ missa, dầy gần 200 trang, soạn vào đầu thế kỷ XIX (thời Gia Long), và Các việc đạo đức và tu đức, dày hơn 500 trang, chưa rõ năm biên soạn(4). Năm 1960 Việt Nam khảo cổ tập san số 1, xuất bản tại Sài Gòn, in bài Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu châu của Nguyễn Khắc Xuyên, qua đó bổ sung thêm được 10 tác phảm Nôm cho bản thư mục sách Hán Nôm tàng trữ tại Thư viện Toà thánh Vatican mà Schurhammer còn bỏ sót. Trong danh mục bổ sung này, có những sách đáng chú ý như 1 bộ gồm 7 tập bằng chữ Nôm: Tội nhân giám, Hối tôi, Sửa lưỡi, Huyền diệu hoa viên, Thổi loa đánh thức kẻ mê ngủ, Ba vua đi lạy Đức Chúa Chi Thu; Bản tuyên ngôn của Giáo sĩ miền Bắc Việt Nam gửi Toà thánh năm 1772; Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ do Pigneauxde Béhaine soạn bằng chữ Nôm, in tại Quảng Đông, Trung Quốc, năm 1774; Phúc âm bản viết tay bằng chữ Nôm, do một viên Thừa sai thế kỷ XVIII soạnl; 1 tập thơ bằng chữ Nôm, do Linh mục Bỉnh soạn(5)…

Về sách Hán Nôm tại Pháp, cũng đã có một số công trình điều tra và giới thiệu. Đáng chú ý nhất là bài Girolamo Maiorica, ses oeuvre en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque nationale de Paris của Hoàng Xuân Hãn, đăng trên tạp chí Archivum Historium Societatis Jesu, tập 22, tr 203 - 214, phát hành tại Roma năm 1953; bài Quốc dân đồ thư quán sở tàng An Nam bản thư mục của Yamamoto (Sơn Bản Đạt Lang) người Nhật đăng trên Đông Dương học bác số 1, tập 36, tr. 78 - 107, phát hành tại Tokyo năm 1953; và bài Á Tế Á Hiệp hội Sở tàng An Nam bản thư mục cũng của Yamamoto, đăng trên Đông Dương văn hóa nghiên cứu sở kỷ yếu số 5, tr. 310 - 352, Tokyo, 1954. Bài của Hoàng Xuân Hãn chủ yếu là giới thiệu 14 trong tổng số khoảng 50 tác phẩm viết tay của Maiorica bằng chữ Nôm đang tàng trữ tại Thư viện Quốc gia Paris. ở đây có những bản Nôm đã xác định được niên đại, như Thiên chúa thánh giáo hối tội kinh, 108 trang, viết năm 1634; Thiên Chúa thánh mẫu gồm 2 tập, tập I dày 112 trang, tập II dày 182 trang, 1635; Ông thánh Inaxu truyện, trang 112 trang, 1646; Ông thánh Pkanixico Xaviê truyện, 38 trang, 1646; Chuyện Đức Chúa Chi Thu, 104 trang, 1668 v.v… Mỗi tài liệu như thế có thể xem là một cái mốc quan trọng để nghiên cứu sự phát triển của chữ Nôm, cũng như lịch sử tiếng Việt. Bài Quốc dân đồ thư quán sở tàng An Nam bản thư mục của Yamamoto nhằm mục đích trình bày số sách của Việt Nam, chủ yếu là sách Hán Nôm, hiện tàng trữ tại Thư viện Quốc gia Paris. Theo Yamamoto, ở đây có cả thảy 65 bản sách chữ Hán với ký hiệu A, và 108 bản sách chữ Nôm với ký hiệu B, trong đó bao gồm 14 tác phẩm chữ Nôm của Maioria mà Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu. Bài Á Tế Á Hiệp Hội sở tàng An nam bản thư mục của Yamamoto chủ yếu giới thiệu số sách Hán Nôm hiện có ở Thư viện Hiệp hội Châu Á. ở đây có khoảng 150 tác phẩm Hán Nôm do H.Maspéro hiến vào Thư viện Hiệp hội Châu Á, và khoảng 100 tác phẩm Hán Nôm đến từ các nguồn khác.

Ngoài các bản thư mục của Hoàng Xuân Hãn và Yamamoto, tập trung vào hai thư viện lớn tại Paris là Thư viện Quốc gia và Thư viện Hiệp hội Châu á, còn có thể kể những phát hiện tuy không lớn lắm nhưng khá lý thú của Nguyễn Khắc Xuyên và tiếp đến là Nguyễn Tài Cần cùng N.V Stankievich tại Văn khố của hội Thừa sai ngoại quốc Paris. Nguyễn Khắc Xuyên, vẫn trong bài Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu phẩm Nôm hoặc liên quan tới Nôm, đó là cuốn Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ của Pigneaux de Béhaine mà Nguyễn Khắc Xuyên từng thấy tại Thư viện Toà thánh Vatican, và cuốn Vocabularium Anmitico Latinum mà Nguyễn Khắc Xuyên chưa xác định được tác giả cũng như năm biên soạn(6). Còn Nguyễn Tài Cẩn và N.V Stankievich, với bài Về một số văn bản thế kỷ XVII - XVIII vừa phát hiện được ở một kho lưu trữ tại Pháp đăng trên báo Tổ quốc số Tết, 1983, đã giới thiệu khá tường tận tình hình tài liệu viết bằng chữ Quốc ngữ và chữ Nôm vào các thế kỷ XVII - XVIII hiện tàng trữ tại Văn khố của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris. Nhưng bài viết đã không nêu tên các tư liệu hoặc tác phẩm cụ thể.

Cuối năm 1984, nhân dịp sang công tác 2 tháng (15-9 - 15-11) tại Pháp, chúng tôi đã dành một số thì giờ để đi các thư viện, tiếp tục việc tìm hiểu tình hình thư tịch và tài liệu Hán Nôm hiện tàng trữ ở nước ngoài.

Tại Thư viện Quốc gia Paris (Bibliothèque Nationale, 58. Rue de Richelieu, 75002 Paris), số sách Hán Nôm hiện có đã vượt quá con số mà Yamamoto công bố trước đây. Theo Catalogue của Thư viện(7), số sách chữ Hán mang ký hiệu A hiện đã lên tới 75 cuốn so với 65 cuốn theo thư mục Yamamoto; và số sách chữ Nôm mang ký hiệu B hiện đã lên tới 131 cuốn so với 108 cuốn theo thư mục Yamamoto. Còn được biết thêm rằng sách Hán Nôm trong Thư viện Quốc gia chủ yếu do hai nguồn cung cấp: một là tủ sách gia đình của Pelliot, và hai là tủ sách gia đình của Madrolle.

Tại Thư viện Hiệp hội Châu Á (Société Asiatique, 22/ Avenue du Président - Wilson, 75116 Paris), chúng tôi thấy có một mảng sách Hán Nôm chưa có mặt trong Á Tế Á Hiệp hội sở tàng An Nam bản thư mục của Yamamoto. Mảng thư tịch này gồm trên dưới 80 tác phẩm nguyên là sách của Thư viện Demiéville đưa vào Hiệp hội châu á. ở đây có những tác phẩm thuộc loại quý hiếm mà Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay vẫn chưa có, như Đại Việt sử ký toàn thư (Nội các quan bản) gồm 1 sách, 19 quyển, có khả năng là bản in gần gủi nhất với bản Chính Hoà mười tám (1697); Tam thời lễ kính nghi Trai thời cung dưỡng quán tưởng nghi thức đều là sách in dưới thời Tây Sơn, Cảnh Thịnh thứ năm (1797); sách khảo sát phong tục, tập quán cùng những chuyện kỳ lạ ở một số địa phương như Bắc Ninh tỉnh khảo dị, Hà Đông tỉnh Hoài Đức phủ khảo dị, Dịch Vọng Tiền xã đệ niên tục lệ, Nam Định tỉnh khảo dị, Thanh Hóa tỉnh khảo dị, Thanh Hóa tỉnh tục lệ chí dị… phần nhiều được biên soạn dưới thời Khải Định. Tất cả 80 tác phẩm thuộc Thư viện Demiéville đưa vào Hiệp hội châu á đều chưa lên ký hiệu, và dường như vẫn giữ nguyên cách sắp xếp khi chúng còn ở tủ sách gia đình của Demiéville.

Tại Văn khố của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris (Séminaire des missions etrangères, 128. Rue du Bac, 75341 Paris), ngoài tình hình chung về tư liệu Hán Nôm mà những người đi trước đã cung cấp, chúng tôi còn có dịp tìm hiểu kỹ thêm hai bản thảo viết tay có liên quan tới chữ Hán, chữ Nôm của Pigneaux de Béhaine, tức Bá Đa Lộc. Trước hết, đó là cuốn từ điển Anamitico - Latinum, dày 752 trang (64 + 4 + 664), cỡ 34,5 x 24cm. Ngay đầu tập bản thảo có ghi dòng chữ bằng tiếng La tinh: “Vocabularium Anamitico - Latinum. Authore M.R.D. Petro -Josepho-Georgio Pigneau gallo e Seminario parisiensi Missionum ad Exteros, episcopo Adranensi, Vicario opostolico Cocineinae, Cambodinae et Ciampae qui obiit 9 Oetobris 1799” (Cuốn từ điển Việt - La tinh, tác giả là ông R.D. Petro -Josepho-Georgio Pigneaux, người của Chủng viện Paris thuộc Hội Truyền giáo nước ngoài khâm mạng Toà thánh nam Kỳ, Campuchia và Chàm, mất ngày 9 - 10- 1799). Người viết những dòng chữ này theo ông J.Guennou(8), là M.Boiret (1734 - 1813), đến miền Nam nước ta vào tháng 1-1765. Điều này khẳng định tác giả cuốn từ điển Anamitico - Latinum là Pigneaux de Béhaine, chứ không phải là ai khác. Cuốn tập bản thảo, lại có ghi dòng chữ cũng bằng tiếng La tinh: “Huic operi coepto septembri mense annimillesimi septingentesimi septuagesimi secundi extrema accessit manus mense junio insequentis anní” (Bộ từ điển được khởi thảo từ tháng 9-1772 đến tháng 6-1773 thì hoàn thành). Điều này cho thấy niên đại biên soạn tác phẩm là 1772 - 1773. Trong bức thư Pigneaux gửi Borgia ngày 15-5-1773 có đoạn đại ý nói: “Trong những ngày này, tôi đã hoàn thành một bộ từ điển bao gồm toàn bộ chữ Nôm Nam Kỳ với cách đọc La tinh và nghĩa La tinh của nó. Công việc này đã làm tôi bận rộn suốt 11 tháng, với sự cộng tác của 8 người Nam Kỳ”(9). Đây lại là một tư liệu nữa để xác định tác giả và niên đại cuốn từ điển Anamitico – Latinum. Tác phẩm thứ hai chúng tôi muốn đề cập tới là bộ sách Chinois -Annamite-Latin của Pigneaux, cũng ở dạng viết tay, dày 906 trang (852 + 16 + 38) khổ 28,5 x 19cm, thuộc loại từ điển đối chiếu giữa 3 thứ tiếng Trung Quốc, Việt Nam, và La tinh. Tiếng Việt ở đây được ghi bằng âm đọc La tinh mà ta quen gọi là chữ Quốc ngữ. Bức thư Pigneaux dẫn trên kia còn có đoạn đại ý nói: “Tôi đã dành trọn 7 năm qua để học tiếng Trung Quốc và tiếng Việt Nam, cả 2 thứ tiếng này bây giờ đối với tôi đã trở thành quen thuộc, khiến tôi đọc sách khá dễ dàng…”(10). Ta có thể nghĩ bộ sách Trung - Việt - La tinh được khởi thảo ngay sau khi cuốn từ điển Anamitico –Latinum hoàn thành.

Ngoài các thư viện kể trên, ở Pháp còn một số cơ sở khác nữa có tàng trữ sách Hán Nôm mà từ trước tới nay chưa mấy ai chú ý(11) như Trường Viễn đông Bác cổ, Trường Quốc gia Sinh ngữ và Văn minh phương Đông, Bảo tàng Guimet, Kho lưu trữ Hải ngoại ở Aixen Provence…

Tài Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (Ecole francaise d’ Extrême - Orient, 22. Avenue du Président - Wilson, 75116 Paris), ngoài số vi phim thực hiện trước khi trường này rút khỏi Hà Nội, còn có khoảng 60 tác phẩm Hán Nôm, trong đó có nhiều bản tuồng cổ chép tay và một số sách mà Thư viện Viện Hán Nôm hiện nay chưa có. Tuồng cổ chép tay nh Hoa Thiên Bảo diễn truyện, 4 hồi, 4 sách, 136 trang (46 + 40 + 28 + 22), 29 x 15cm; Lưỡng quốc trá hôn? 3 hồi, 3 sách 138 trang (48 + 46 + 44), 29 x 16cm; Lão bạng sinh châu diễn truyện, 2 hồi, 2 sách, 80 trang (38 + 42); 29 x 16cm; Từ hải đồng xuân diễn truyện, 60 trang, 32 x 21cm; Đinh Lưu Tú diễn truyện, 3 hồi, 3 sách, 109 trang (21 + 16 + 32); 29 x 15cm; Gia ngẫu diễn truyện, 11 hồi, 11 sách ; Đường chinh Tây diễn truyện, 23 hồi, 23 sách v.v… Sách Viện Hán Nôm hiện nay chưa có như Quế Dương, Mậu Hoà xã hương lệ, còn mang ký hiệu cũ của Trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội, (từ đây trở xuống viết tắt là TVĐBCHN) là A.736, 158 trang, 31 x 22cm; toàn Hán, chữ viết, biên soạn từ năm Chính Hòa đời Lê đến năm Thành Thái đời Nguyễn; Dương Liễu hương bạ, còn mang ký hiệu cũ của TVĐBCHN là A. 736, 50 trang, 33 x 22cm; toàn Hán, chữ viết, biên soạn từ năm Cảnh Hưng đời Lê đến năm Gia Long đời Nguyễn; Dương liễu Quế Dương, Mậu hoà tạo đình bi ký, còn mang ký hiệu cũ của TVĐBCHN là A. 737, 48 trang, 33 x 22cm, toàn Hán, chữ viết, biên soạn từ năm Chính Hoà đời Lê đến năm Tự Đức đời Nguyễn; Bắc Ninh tỉnh Tiên Du huyện Phù Đổng tổng các xã Phù Đổng, Phù Dực thần sắc, còn mang ký hiệu cũ của TVĐBCHN là Ada.7, 82 trang, 32 x 22cm, toàn Hán, chữ viết biên soạn dưới thời Lê - Tây Sơn. Phan Trần truyện trùng duyệt, còn mang ký hiệu cũ của TVĐBCHN là AB.418, 62 trang, 22 x 12 cm, vừa Hán vừa Nôm, chữ in; Hoài Nam ký của Hoàn Quang, 50 trang, 30 x 21 cm, vừa Hán vừa Nôm, chữ viết ; Điểm huyệt châm cứu, 180 trang, 24 x 14cm, toàn Nôm, chữ viết. Ngoài ra còn 2 bộ bản thảo Đại Nam thực lục chưa in, một bộ là Thực lục đệ lụckỷ phụ biên viết tay, 29 quyển, 13 sách, 1692 trang (114 + 76 + 120 + 148 + 152 + 162 + 122 + 138 + 118 + 138 + 124 + 142 + 138), 26 x 15 cm, do Hồ Đắc Trung cùng một số người khác ở Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm Khải Định bảy (1922); và một bộ là Thực lục đệ thất kỷ chính liên viết tay, 10 quyển, 10 sách, 1492 trang (204 + 196 + 112 + 134 + 142 + 130 + 138 + 156 + 138 + 142), 26 x 15cm, do Phạm Quỳnh và một số người khác cũng ở Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm Bảo Đại mười bốn (1939).

Tại trường Quốc gia Sinh ngữ và Văn minh phương Đông (Ins- đitut national des langues et civilisations orientaless, 4. Rue de Lille, 75007 Paris) có khoảng 70 tác phẩm Hán Nôm, trong đó phú Nôm và truyện thơ Nôm chiếm khối lượng nhiều. Cũng có những bản ngày nay đã trở thành quí hiếm như Chiêu Quân cống Hồ MN. VI, 14, Dương Ngọc cổ tích MN. VII.7, Địa tạng bản hạnh MN. IX . 5, Hải Nam tế văn MN. IX. 4, Hứa Sử tân thi MN. IX. 14, Kim Nhan từ tập MN. VI, 4 Lâm Sinh tân thi MN. VI. 14, Minh nghĩa giáo thiên MN. IX. 11, Nam Kinh Bắc Kinh truyện MN. VII. 55, Nữ Lưư tướng truyện MN. IX 4, Ngọc cam ngọc khổ thi MN. VI. 13, Ngọc Thoa cổ tích truyện MN. IX. 4 Ông Ninh cổ truyện MN. IX. 14, Quốc sắc thiện hương thi tập MN. IX .6, Sãi vãi thi tập MN. VII. 35, Tam nương thi tập MN. VI. Thuý Sơn Mộng ký MN. 13, Trinh thử truyện MN. IX. 12, Tống Tử Vưu truyện MN. VI, 13, Trương Ngáo truyện MN. VII.7, Trương Ngộ diễn ca MN. VII. 7, Tứ linh truyện MN. IX. 11 v.v…

Tại Bảo tàng Guimet (Musée Guimet, 6. Place d’Iéna, Paris 16 e) có khoảng 40 tác phẩm Hán Nôm mang ký hiệu M.G. Không có gì thật đặc biệt, ngoài phần lớn là sách giáo khoa, rồi đến các môn như sử, triết, địa lý, thơ văn, bói toán…

Tại kho lưu trữ Quốc gia, bộ phận Hải ngoại ở Aix en Provence thuộc miền Nam nước Pháp (Archives nationales, Section Oatre-Mer, Dépôt d’.Aix en Provence, Chemin du Testas, les Jenouillères 13100 Aix en Provence)(12), bước đầu tìm thấy một số tài liệu Hán Nôm trong 12 tập hồ sơ thuộc triều Thành Thái và 1 tập hồ sơ thuộc triều Duy Tân.

Hồ sơ thuộc triều Thành Thái gồm:

Tập 1 - Hà Nội: Báo cáo của các quan tỉnh gửi viên Kinh lược (Rapport des mandarins provinciaux au Kinh lược, 1890 - 1891), ký hiệu F. 68 (31), với khoảng 140 văn kiện soạn thảo bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, nội dung nói về tình hình trật tự trị an ở tỉnh Hà Nội trong các năm 1890 - 1891.

Tập 2 - Cao Bằng: báo cáo của các quan tình gửi viên Kinh lược với khoảng 15 văn kiện soạn thảo bằng chữ Hán, nội dung nói về tảo trừ “giặc giã”, “trộm cướp” ở một số nơi thuộc tỉnh Cao Bằng.

Tập 3 0 Hải Phòng: báo cáo của các nhà chức trách bản xứ gửi viên Kinh lược (Rapports des autorités indigènes au Kinh lược) ký hiệu F. 68 (30) - F. 6 (35), gồm một số tờ trình bằng chữ Hán, nói về việc trừng trị bọn cướp của giết người trong năm 1891 tại Hải Phòng.

Tập 4 - Chợ Bờ: Báo cáo của các nhà chức trách bản xứ gửi viên Kinh lược (Rapports des autorités indigènes au Kinh lược, 1891 - 1892), ký hiệu F. 68(30) - F. 6(34), gồm 3 văn kiện nói về việc giết Đốc Ngữ, đánh đuổi giặc Na Lựu, với viên Chánh tướng là Hồ, Phó tưởng là Hỷ.

Tập 5 - Lạng Sơn: Báo cáo của các nhà chức trách bản xứ gửi viên Kinh lược (Rapports des autorités indigènes au Kinh lược, 1891), ký hiệu F. 68 (32), gồm 2 văn kiện bằng chữ hán, nói về tình hình an ninh địa phương trong năm 1891.

Tập 6 - Quảng Yên: Tình hình cướp biển (Piraterie, 1891) ký hiệu F. 68 (33) - (38), gồm 44 văn kiện bằng chữ Hán, nói về tình hình đánh dẹp bọn cướp biển trong năm 1891 ở địa phương.

Tâp 7 - Công bố về tình hình cướp biển (Proclamations des Pirates, 1891) ký hiệu F . 68 (25), gồm 1 văn kiện bằng chữ Hán nói về giặc Khách. Báo cáo của Phiên sứ Dương Lâm.

Tập 8 - Một tập hồ sơ gồm 8 văn kiện bằng chữ Hán, ký hiệu F. 68 (26), trong đó, đáng chú ý là những tư liệu của phong trào Hoàng Thắng Lợi(13) - Nguyễn Triều Trung(14), với tờ Cáo thị đề năm Hàm Nghi thứ sáu (1891).

Tập 9 - Biên bản hỏi cung vụ Bạch Xỉ (Affaire Bacxi, interrogatoires, 1895 - 1899), ký hiệu F.68 (183) - (186) gồm 8 xấp tài liệu bằng chữ Hán và chữ Nôm có liên quan tới phong trào Bạch Xỉ.

Tập 10 - Tư pháp bản xứ. Những bản án (Jutice indigène. Jugements, 1897 - 1898), ký hiệu G.3 (32), gồm khoảng 20 xấp tài liệu bằng chữ Hán, báo cáo xử các vụ án từ năm 1897 đến năm 1898 ở các nơi như Hà nam, Thái Bình, Nam định, Ninh Bình, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang…

Tập 11 - Mưu đồ tấn công Hà Nội (Tentative d’attaque contre Hanoi, 1898 - 1899), ký hiệu F.6 (180) - F.68 (181) gồm khoảng 50 tập hồ sơ bằng chữ Hán và chữ Nôm, báo cáo các vụ nổi dậy chống Pháp ở tỉnh Hà Nội cũ. Đáng chú ý là phong trào Kỳ Đồng và một số thư nặc danh, một số đơn khiếu tố có liên quan.

Tập 12 - Sổ hộ tịch bản xứ (Registres de l’état civile indigène, 1905), ký hiệu D.81, tập sổ khai sinh và khai tử của tỉnh Nam Định trong năm 1905.

Ngoài các tập hồ sơ đời Thành Thái vừa nêu, còn có 1 tập hồ sơ thuộc đời Duy Tân, đó là:

Tập 13 - Đốc lệ và lính đệ (Doc-le et Linh-le, 1914) ký hiệu D.77, có một ít tài liệu bằng chữ Hán, nhưng không có gì thật đặc biệt.

Tất cả các tài liệu Hán Nôm đã tìm thấy ở Kho Lưu trữ Aixen Provence đều thuộc loại bản gốc; số tài liệu bằng chữ Hán nhiều hơn số tài liệu bằng chữ Nôm; và kèm theo mỗi tài liệu Hán hoặc Nôm đều có một bản dịch Việt, một bản dịch Pháp, hoặc một trong hai bản loại bản dịch đó.

Khoảng 300 tài liệu Hán Nôm vừa đề cập hẳn chưa phải là con số cuối cùng ở Kho lưu trữ Hải ngoại Aix en Provence. Với thời gian, hy vọng có thể còn phát hiện được nhiều hơn.

Theo một thoả thuận đã được ký kết trong chuyến công tác của chúng tôi tại Pháp, Trường Viễn Đông Bác cổ vào những năm tới sẽ có kế hoạch từng bước chụp tặng Viện Nghiên cứu Hán Nôm những tác phẩm quan trọng trong số các thư tịch và tài liệu giới thiệu trên(15).

CHÚ THÍCH

(1) Sách của Thư viện Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, Paris.

(2) Việt Kiệu thư: Sách do Lý Văn Phượng, người Trung Quốc, triều Minh soạn.

(3) Thanh Khâu Cao tiên sinh thi tập: sách do Cao Khải, người Trung Quốc, triều Minh, soạn; Kim Đàn, người Trung Quốc, triều Thanh, chú thích.

(4) (5) Xem bài Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu châu của Nguyễn Khắc Xuyên, Việt Nam khảo cổ tập san, số 1, Sài Gòn, 1960, tr. 139 - 149.

(6) Thực ra thì đây là bộ từ điển do Pigneaux de Béhaine soạn vào năm 1772 - 1773, như ta sẽ thấy bên dưới.

(7) Catalogue này đã được ông Hoàng Xuân Hãn góp phần quan trọng trong việc soạn thảo và hoàn chỉnh.

(8) Hiện là cán bộ lưu trữ của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris, thay ông J.Verinaud vừa về hưu.

(9) Xem Histoire de la mission de Cochinchine, Documents historiques, tập III, Paris, 1925, của A.Launay. Tài liệu do ông J.Guennou cung cấp.

(10) Xem Histoire de la mission de Cochinchine, Documents historiques, tập III, Paris, 1925, của A.Launay. Tài liệu do ông J.Guennou cung cấp.

(11) Riêng cuốn Guide de recherches sur le Vietnam (Hướng dẫn nghiên cứu về Việt Nam) do Chantal Descours-Gatin và Hugue Villiers biên soạn, Paris, 1983, có nói đến một số sách và tài liệu Hán Nôm hiện tàng trữ tại Thư viện Trường Viễn đông Bác cổ và Thư viện Trường Quốc gia Sinh ngữ và Văn minh phương Đông, nhưng không cho biết cụ thể số lượng cũng như nội dung các tư liệu này. Trong giới nghiên cứu Hán Nôm tại Pháp, ông Tạ Trọng hiệp và ông Trần Khánh Hạo cũng đã phát hiện và bước đầu làm thư mục số sách Hán Nôm Việt Nam hiện có tại các cơ sở trên đây, trừ Aixen Provence. Ông Hiệp và ông Hạo còn cho biết người Nhật vào những năm 50 có làm thư mục và giới thiệu trên tạp chí Nhật bản số sách Hán Nôm hiện có ở Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, nhưng hết sức sơ lược và không đầy đủ. Ông Hiệp và ông Hạo cũng là những người đã giúp chúng tôi một số tư liệu quan trọng để viết bài này. Nhân đây, xin có lời cảm ơn hai ông.

(12) Kho này được đưa về Pháp từ 1951 - 1955, gồm hơn 2.000 hòm tài liệu lưu trữ, nếu xếp các hòm nối tiếp nhau, sẽ có một độ dài khoảng 3.000 mét.

(13) Hoàng Thắng Lợi là Tống trấn Văn-Quý, kiêm Đề đốc Tam Tuyên.

(14) Nguyễn Triều Trung là Hiệp trấn, làm Phú Đề đốc Tam Tuyên, kiêm Tham tán.

(15) Bà Christiane Rageau, người trực tiếp phụ trách Thư viện Trường Viễn đông Bác cổ Paris, đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong việc liên hệ và tìm đọc các sách Hán Nôm hiện tàng trữ ở các Thư viện tại Pháp. Nhân đây xin có lời cảm ơn.

TB

LỚP NGHIÊN CỨU VĂN BẢN HỌC

NGÔ ĐỨC THỌ

Văn bản học là môn học có tính chất phương pháp luận, cần thiết cho nhiều ngành khoa học. Riêng đối với ngành Hán Nôm, đối tượng chủ yếu là các văn bản cổ xưa, thì hầu hết các khâu công tác từ sưu tầm, bảo quản đến khai thác, nghiên cứu, công bố tài liệu . v..v.. đều thường xuyên cần đến những kiến thức văn bản học. Vì vậy, có thể xác định đó là lĩnh vực chuyên môn hẹp của các cán bộ khoa học ngành Hán Nôm, phục vụ nhiệm vụ thừa kế di sản văn hoá dân tộc.

Ngày càng có nhiều người quan tâm đến những vấn đề văn bản học nói chung cũng như văn học Hán Nôm nói riêng. Nhưng vì sự mới mẻ và tính chất đặc thù của nó, cho đến nay còn quá ít những công trình lý luận lấy văn bản học làm đề tài trung tâm. Các cán bộ nghiên cứu trẻ và các trợ lý khoa học của Viện hoặc chưa được qua lớp văn bản học chính thức, hoặc chỉ được dự một ít giờ có tính chất “nhập môn” khi ở trường Đại học. Các cán bộ đã công tác lâu năm ở Viện, có nhiều thực tiễn xử lý văn bản Hán Nôm, nhưng thực tế cũng chưa có điều kiện đúc kết thực tiễn để nâng cao lý luận một cách có hệ thống

Lớp Nghiên cứư văn bản học được chuẩn bị về nội dung, chương trình từ năm 1983, do Viện Hán Nôm tổ chức, đã chính thức khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1984, với số học viên 44 người (chính thức 30, dự thính 14). Ngoài các cán bộ quản lý, nghiên cứu và trợ lý nghiên cứu (có lựa chọn) của Viện Hán Nôm, còn có một số học viên do các Viện bạn trong Uỷ ban Khoa học xã hội (như Viện Sử học, Viện Triết học, Viện Đông Nam á), trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Sở văn hoá thông tin Hà Nội… gửi đến học.

Sau 21 tuần học tập, với tổng số 210 giờ, lớp học đã hoàn thành một chương trình bồi dưỡng lý luận Văn bản học với ba phần chính, gồm 13 chuyên đề.

A.- Đại cương văn bản học: 1. Văn bản học Liên Xô (Giáo sư Lê Sơn, Viện Thông tin Khoa học xã hội, trình bày); 2. Khoa phê phan văn bản của Pháp (giáo sư Phan Ngọc, Viện Đông Nam Á); 3. Văn bản học Trung Quốc (Giáo sư Trần Nghĩa, Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

B- Các phương pháp văn bản học: 4. Biện nguỵ học (Giáo sư Trần Nghĩa); 5. Hiệu khám học (Đ/c Ngô Đức Thọ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm); 6. Huấn hỗ học (Giáo sư Trương Đình Nguyên, Trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà nội); 7. Kim thạch học (Đ/c Hoàng Văn Lâu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

C- Các chuyên đề tham khảo: 8 Tiếp xúc ngôn ngữ Đông Nam á (Giáo sư Phan Ngọc); 9. Lịch sử vấn đề nghiên cứu chữ Nôm (Phó tiến sĩ Nguyễn Ngọc San, Đại học sư phạm Hà Nội); 10. Văn bia Việt Nam (Đ/c Hoàng Lê, viện Nghiên cứu Hán Nôm_; 11. Tỵ huý học với văn bản học (Đ/C Ngô Đức Thọ); 12. Câu đối Việt Nam (Cụ Lê Xuân Hoà); 13. Vận dựng phương pháp tổng hợp trong việc nghiên cứu văn bản (Giáo sư Đặng Đức Siêu, Đại học sư phạm).

Chương trình trên đây mới thiết kế lần đầu, ít nhiều có tính chất thí điểm. Trong quá trình thực hiện nói chung được các giảng viên, học viên và một số nhà chuyên môn có quan tâm đến văn bản học nhận xét là tương đối hợp lý, có tác dụng thiết thực đối với cán bộ khoa học của Viện và của ngành Hán nôm, nhất là đối với những nghiên cứu viên và nghiên cứu sinh sẽ bảo vệ luận án khoa học trong thời gian sắp tới.

Kết thúc Lớp Nghiên cứu văn bản học, Viện Hán Nôm đã tổ chức thi mãn khoá cho các học viên chính thức, và sẽ cấp chứng chỉ cho các học viên dự thi đạt yêu cầu. Lớp Nghiên cứu đã làm lễ bế giảng ngày 8/2/1985.

TB

XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN "CƠ SỞ NGỮ VĂN HÁN NÔM" CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRONG CẢ NƯỚC

ĐẶNG ĐỨC SIÊU

Sau hai năm khẩn trương soạn thảo, bộ chương trình Ciư sở ngữ văn Hán Nôm của tổ bộ môn Ngữ văn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I đã hoàn thành và đã được Bộ giáo dục chính thức ban hành. Chương trình này được xây dựng trên cơ sở nhận thức mới về bản thân môn học cùng những kinh nghiệm - thành công cũng như không thành công - của việc giảng dạy bộ môn ngữ văn Hán Nôm trường Đại học trong nhiều năm qua.

Trước hết, về vị trí mục đích, yêu cầu…. của môn học, chương trình mới nêu rõ: Ngữ văn Hán nôm là một số môn cơ sở, nhằm góp phần xây dựng tiềm học văn hoá cho người giáo viên ngữ văn. Môn học có nhiệm vụ góp phấn giúp người giáo viên ngữ văn dạy tốt phần tiếng Việt và văn học Việt Nam ở các trường phổ thông trung học, góp phần cung cấp các kiến thức và kỹ năng cơ bản để người giáo viên ngữ văn có thể tiến tới tham gia công việc khai thác, kế thừa và phát huy những tinh hoa trong kho tàng di sản văn hoá thành văn của dân tộc.

Để đạt tới đích ấy, người học phải trải qua một quá trình tích luỹ tri thức và rèn luyện kỹ năng lâu dài. Chương trình môn Ngữ văn Hán Nôm ở bậc đại học được thiết kế trên cơ sở thoả mãn những yêu cầu về tích luỹ tri thức và rèn luyện kỹ năng ở cấp độ cơ sở, nhằm phục vụ trực tiếp việc giảng dạy ở trường Phổ thông trung học thêm để nâng cao và hoàn thiện sự hiểu biết của mình về Ngữ văn Hán Nôm, qua một hệ thống sách công cụ và tài liệu tham khảo chuyên dùng.

Về cơ cấu nội dung môn học, chương trình mới nêu rõ: Để chiếm lĩnh giá trị của các văn bản Hán Nôm tiêu biểu, nếu chỉ tích luỹ những tri thức về chữ Hán chữ Nôm không thôi thì rõ ràng là không đủ. Người học còn phải được trang bị những hiểu biết có tính chất lịch sử về những điều có liên quan gắn bó với các mặt bên trong và bên ngoài các văn bản đó. Vì vậy, cơ cấu nội dung của môn học do chương trình qui định bao gồm ba mảng chi thức găn bó chặt chẽ với nhau. Đó là: Ngôn ngữ văn tự Hán và văn bản Hán văn tiêu biểu ở Việt Nam và Trung Hoa cổ đại; chữ Nôm và văn bản Nôm tiêu biểu; tri thức bổ trợ về văn hoá sử và Ngữ văn học cổ điển. Trong 162 tiết khoá trình cơ bản, phần tìm hiểu học tập chữ nghĩa, văn bản chiếm khoảng trên 70%. 70 tiết chuyên đề được bố trí tiếp theo nhằm mục đích củng cố và nâng cao khả năng minh giải, bình giá băn bản cổ. Tính khuynh hướng và tính tư tưởng của môn học được đặc biệt chú trọng trong bộ phận này của khoá trình.

Về phương pháp dạy và học của bộ môn, phần giải thích và thuyết minh chung của chương trình mới nhấn mạnh vào yêu cầu phát huy năng lực suy nghĩ độc lập của người học, khuyến khích người học thận trọng tìm tòi tra cứu, so sánh đối chiếu để rút ra những nhận định, kết luận khoa học, có sức thuyết phục; chống việc nhồi nhét tri thức và hạn chế việc vận dụng trí nhớ một cách máy móc…

Là một chuyên ngành có đủ ba cấp đào tạo: Đại học, sau Đại học và trên Đại học, chương trình môn “Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm” ở đại học dành phần thích đáng để chuẩn bị cơ sở cho người học có thể tiếp tục vươn tới những cấp đào tạo cao hơn (dưới hình thức tự học, tại chức hoặc tập trung chính quy). Từng phần của chương trình mới này đều có những bộ phận tri thức tương ứng với những môn học chuyên sâu ở các cấp đào tạo sau Đại học, và trên Đại học (như Văn tự học, Văn bản học, Ngữ văn học, Văn hiến học…)

Cố nhiên ở chương trình đại học, những tri thức về mặt nói trên đều chỉ là những tri thức cơ sở, thiên về ứng dụng, thực hành. Còn ở chương trình sau Đại học phần lý thuyết và lịch sử của từng môn học được trình bày có hệ thống hơn. Riêng ở cấp đào tạo trên Đại học, trong chương trình bổ túc nâng cao kiến thức cho Nghiên cứu sinh, nội dung những môn học nói trên vẫn chiếm những địa vị then chốt, nhưng sẽ được triển khai sâu hơn trong mối liên hệ gắn bó với nhiều ngành khoa học hữu quan khác. Trên cơ sở này, các Nghiên cứu sinh sẽ được trang bị một vốn tri thức tương ứng nhằm vươn tới năm vững các phương pháp nghiên cứu chuyên biệt và liên ngành để đi sâu vào một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực khai thác, kế thừa và phát huyu cdi sản văn hóa thành văn của dân tộc - mục đích cao nhất và cuối cùng mà chương trình môn “Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm” ở Đại học đã đề ra.

TB

HỢP TÁC KHOA HỌC GIỮA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM VÀ SỞ VĂN HOÁ THÔNG TIN HÀ NỘI

TRỊNH KHẮC MẠNH

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày Giải phòng Thủ đô, ngành văn hoá Hà Nội đã triển khai một công việc rất có ý nghĩa: tiến hành khảo sát, lập hồ sơ các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh ở 4 quận nội thành Hà Nội.

Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội vốn có truyền thống ngàn năm văn vật, từ lâu giữ vai trò là trung tâm Kinh tế, Chính trị và Văn hoá của cả nước, là nơi tập trung nhiều di tích tiêu biểu của nền văn hoá dân tộc. Chùa Trấn Quốc xây dựng từ thời Lý Nam Đế (544-548) hiện còn tới 50 tấm bia, chùa Một Cột xây dựng từ thời Lý Thái tông (1028-1054) hiện còn 32 tấm bia, đình Thanh Hà tương truyền là xây dựng từ thần Trần, hiện còn 7 tấm bia, chùa Liên Phái (xưa có tên là Liên tông) xây dựng từ thời Lê Trịnh, còn 56 tấm bia, đèn Ngọc Sơn xây dựng từ đời Nguyễn, hiện còn 4 tấm bia… Ngoài ra ở mỗi di tích đều còn các di vật khác như chuông, khánh câu đối, hoành phi, thần phả thần sắc… phản ánh một số mặt về đời sống văn hoá quá khứ đáng được quan tâm nghiên cứu.

Nhân dân thủ đô có truyền thống bảo vệ nền văn hoá của dân tộc, từ bao đời nay đã trân trọng giữ gìn các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do chính bàn tay và khối óc mình xây dựng nên. Việc làm này của Sở Văn hoá thông tin Hà Nội đã thể hiện ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc của Thủ đô chúng ta. Công việc khảo sát và lập hồ sở các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của Hà nội do Sở Văn Hoá - thông tin Hà Nội hợp tác chặt chẽ với Viện Đại học Mĩ thuật, Trường Đại học văn hoá và một số cơ quan khác tiến hành, có sự giúp đỡ chỉ đạo của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội. Mỗi di tích sẽ được lập một hồ sơ gồm các mặt:

- Lịch sử di tích: Thời gian xây dựng và quá trình tu tạo, các nghi thức tế lễ…

- Sao chép, in chụp, rập thác bản toàn bộ các tài liệu chữ Hán, chữ Nôm hiện có ở các di tích như hoành phi, câu đối, bia, chuông khánh có ohiên âm dịch nghĩa chú giải toàn bộ các tài liệu này.

- Đo vẽ mặt bằng và vẽ phối cảnh

- Chụp ảnh toàn bộ và từng phần của khu di tích.

Sau khi hoàn thành, mỗi di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh sẽ có một hồ sơ khoa học, làm cơ sở cho việc bảo quản, sử dụng các di tích, đồng thời cung cấp tư liệu về nhiều mặt cho giới nghiên cứu

TB

HỢP TÁC KHOA HỌC GIỮA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM VÀ NHÀ BẢO TÀNG QUANG TRUNG - NGHĨA BÌNH

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Nhà bảo tàng Quang Trung được xây dựng trên mảnh đất Tâuy Sơn lịch sử, nơi đây lên cơn bão táp cách mạng rộng lớn nửa cuối thế kỷ XVIII đã quét sạch mọi thế lực phản động chia cắt đất nước cùng tất cả bọn xâm lược đến từ phương Bắc cũng như từ phương Nam. Nhà Bảo tàng được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều ngành từ Trung ương đến địa phương, đang được hoàn thiện và củng cố về mọi mặt để trở thành công trình kỷ niệm bất hủ đối với phong trào Tây Sơn vĩ đại và lãnh tụ kiệt xuất của phong trào, người anh hùng dân tộc, nhà quân sự chính trị thiên tài Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ năm 1982 đến nay, đã ký kết một số hợp đồng khoa học, nhằm giúp Nhà bảo tàng xây dựng một tủ sách tư liệu Hán Nôm có liên quan đến Quang Trung và phong trào Tây Sơn, sau còn trả thù man rợ của triều đình nhà Nguyễn đã bị tổn thất nghiêm trọng, nhưng cho đến nay, do công lao cất giữ, sưu tầm của nhiều thế hệ, vẫn còn một khối lượng đáng kể. Bước đầu, từ trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán nôm, 157 tên sách liên quan đã được lên danh mục và tóm tắt nội dung. Mặt khác, các tư liệu này đã được chọn lọc sao chụp trên loại giấy dó vừa bảo đảm kỹ thuật, vừa trang nhã, lại giữ giữ được phong cách cổ kính, thích hợp với đối tượng bảo tàng. Công việc phiên dịch, chú giải những tư liệu cần thiết cũng được thực hiện.

Hiện nay, công trình này vẫn đang được tiếp tục thực hiện theo hướng sưu tầm các tài liệu liên quan còn năm trong các bộ sưu tập văn thơ, các bộ địa phương chí, các tập thần tích, hương ước… ở kho sách Hán Nôm của Viện và các nơi khác, tiến tới xây dựng bộ Thư mục các tư liệu Hán Nôm về Quang Trung và phong trào Tây Sơn, đồng thời, từng bước sao chụp, phiên dịch, chú giải toàn bộ những tư liệu có giá trị.

Bộ sưu tập thư tịch và tư liệu Hán Nôm về Quang Trung và phong trào Tây Sơn cùng với những di vật khác của Nhà Bảo tàng sẽ giúp cho khách tham quan trong và ngoài nước hình dung được tầm vóc lịch sử vĩ đại của Quang Trung và cuộc cách mạng vang dội do các lãnh tụ Tây Sơn lãnh đạo.