TÌM HIỂU TƯ LIỆU VỀ TUỆ TĨNH
MAI HỒNG
Tuệ Tĩnh là một nhà y học lớn nước ta. Trước nay nhiều người cho rằng ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (Thế kỷ XIV)(1). Nhưng hiện có thuyết cho là ông sống thế kỷ XVII(2). Việc nghiên cứu về thời gian sống của Tuệ Tĩnh do vậy được đặt ra nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về con người và sự nghiệp của bậc danh y này.
Sau đây chúng tôi xin cung cấp thêm một số tư liệu có liên quan tới thời gian sống của Tụê Tĩnh để bạn đọc cùng tham khảo.
I. Tư liệu truyền thuyết và di tích ở địa phương
Chúng tôi, đã đến quê hương của Tuệ Tĩnh ở thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng để thu thập thêm tư liệu, tham khảo các di tích tại chỗ. Tại đền Thánh Thuốc Nam thờ Tuệ Tĩnh ở quê hương ông, còn có một đôi câu đối lưu truyền từ xưa:
“Danh khôi nhị thập giáp tiêu Trần giám.
Sứ mệnh thập toàn tỉnh Băc y”.
“Danh đầu nhị giáp, nêu gương khoa bảng đời Trần,
Sứ mệnh vẹn tròn, trổ tài y học đất Bắc.”
Tài liệu này ghi lại một phần sự nghiệp của ông.
Về tiểu sử của Tuệ Tĩnh, ngoài các tài liệu đã được công bố từ trước; ở địa phương còn có biên bản cuộc họp tại đền Thánh Thuốc Nam ngày 26-4-1979, giữa các đại Ty văn hoá Hải Hưng, tỉnh Hội đông y Hải Hưng, chính quyền hội Cẩm Bình, phòng văn hoá và phòng Y tế huyện, cùng đồng chí Bí thư Đảng bộ xã Cẩm Vũ và các cụ lương y cao tuổi trong xã, nội dung như sau:
Biên bản cuộc họp vể tiểu sử Tuệ Tĩnh tại Nghĩa Phú ngày 26 tháng 4-1979”
“Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, người ở địa phương và làm thuốc cứu dân. Theo truyền thuyết, Tuệ Tĩnh bị triệu đi sử sang Trung Quốc và ở lại bên ấy, không rõ chết năm nào. Có người đi Trung Quốc về nói rằng “Tuệ Tĩnh trước lúc mất, có ý trối lại muốn được đưa hài cốt về nước”. Đời sau tiến sĩ Nguyễn Danh Nho, người làng Nghĩa Phú, được cử sang Trung Quốc, đã đến viếng mộ và lập bia mộ của Tuệ Tĩnh đưa về nước, sau đó khắc lại một tấm bia và lập mộ giả để nhớ công ơn.
“Nguyên Danh Nho thời đó đã đề xướng với nhân dân địa phương xây lại đền thờ Tuệ Tĩnh và lập bia văn chỉ ghi lại các vị tiến sĩ của Nghĩa Phú, năm 1695, trong đó ghi về Tuệ Tĩnh như sau: “Trần triều tứ Tân Mão khoa đệ nhi giáp tiến sĩ xuất thân Nguyễn Bá Tĩnh, di tích và hương án nay vẫn còn thấy ở đền. Năm 1960, có kẻ giả mạo danh nghĩa “bài trừ di tích phong kiến”, đã phá huỷ tất cả các tấm bia trong xã để nung vôi, trong đó có cả tấm văn bia văn chỉ nói trên.
“Ngôi đền thì đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đã được trung tu lại, nhân lúc có phong trào nhân dân đến xin thuốc; ở đền hiện còn một đôi câu đối và một hoành phi 4 chữ “Xuân đài thọ vực” đề năm Tự Đức Kỷ Dậu (1849).
“Năm 1936 lại có phong trào các nơi đến xin thuốc ở đền này. Với tiền nhận cúng lữ vào quỹ đền, Nghĩa Phú đã làm thêm một Hạ đường gỗm 5 gian và xã Văn Thai cũng dựng lên ở đây 2 toà đền bia.”
Về trước tác của Tuệ Tĩnh. Cụ Thoa có đưa ra giới thiệu với hội nghị quyển Hồng Nghĩa giác tư y thư trong đó có Thập tam phương gia giảm, bằng chữ Hán và Phú thuốc nam, bản chữ hán có khác với bản chữ Nôm mới dịch ra(3).
Hội nghị nhất trí xác định quê hương Tuệ Tĩnh là ở Nghĩa Lư “Làng xưa”, nay là Nghĩa Phú; Tuệ Tĩnh sinh trưởng vào cuối đời Trần, đi tu và làm thuốc ở chùa An Trang(chùa Giám)
II. Tài liệu về khoa bảng của tuệ tĩnh
Tấm bia văn chỉ nói trên tuy không còn, nhưng ta vẫn có thể dựa vào các tài liệu sau đây để tìm hiểu về vấn đề khoa bảng của Tuệ Tĩnh.
- Đông y tùng báo số 1 ngày 1-8-1939. Trang 21, đăng Truyện Tuệ Tĩnh của Nguyễn Xuân Dương nói: “Năm Tân Mão niên hiệu Thiệu Phong (1351) ông Tuệ Tĩnh thi đỗ vào Hoàng Giáp.”
- Tap chí nhân thuật số 4, 5 tháng 2-3/1957, trang 4 đăng bài “Đi thăm đền thờ Tuệ Tĩnh” của Hồng Sơn viết “Trong đền không có một tấm bia nào, chỉ thấy mấy tấm ở văn chỉ cạnh đền. Một tấm ghi rõ 32 vị đại khoa trong làng Nghĩa Phú và tổng văn Thái, có ghi tên Tuệ Tĩnh đậu Hoàng Giáp năm Tân Mão (1351), tên ông Nguyễn Danh Nho đỗ Tiến Sỹ khoa Canh Tuất triều Lê (1670), chính ông tiến sĩ Ngyễn Danh Nho là người đã lập bia Văn chỉ từ năm Bính Tý là năm Chính Hoà thứ 17 đời Lê Hy Tông(1696).”
Cùng trong số tạp chí Nhân thuật nói trên, ở trang 6 duới đầu đề Tuệ Tĩnh ngừơi xây nền lắp móng cho y học Việt Nam Lê Huy Phác lại nói: “Tuệ Tĩnh đậu nhị giáp tý tức Hoàng Giáp dưới triều vua Trần Duệ Tông, năm thứ 3
Niên hiệu Long Khánh (1374).
Tra cứu Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:
- Dụ Tông Hoàng đế: ất Dậu năm thứ 5 (1345), mùa xuân tháng 3 thì thái học, phép thi dùng ám tả, cổ văn, kinh nghĩa, thi phú”.
- Duệ Tông Hoàng đế: Giáp Dần năm thứ 2(1374), Thượng ở cung Trùng Hoa, phủ Thiên Trường, thi đình các tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ Trạng Nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa, cho bọn La Tu đỗ hoàng giáp cập đệ, và đồng cập đệ; đều cho ăn yến và áo xếp, cho xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Dẫn 3 người đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ, Thái học sinh 7 năm 1 lần thi, lấy 50 người đỗ mà thôi. Thi Trạng nguyên thì không có định lệ, những thuộc quan ở tam quán, Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả(4).
Chúng tôi đã tham khảo bản Đăng khoa lục A.2752 của thư viện Khoa học xã hội in năm 1779, thì chỉ thấy chép 4 khoa thi dưới triều nhà Trần: 1247, 1250, 1274, 1304 từ đấy đến năm 1399 không thấy chép nữa. Như vậy Đăng khoa lục thiếu gần suốt thế kỷ XIV. Không riêng những khoa thi Thái học sinh cứ 7 năm một lần theo thường lệ mà sử không chép, các khoa thi sử có nói trên, như khoa Giáp Dần(1314) về triều Trần Duệ Tông cùng các khoa Tân Dậu (1381) khoa Giáp Tý(1384) về triều Phế Đế, khoa Kỷ Dậu(1393) triều Trần Thuận Tông đều thiếu cả.
Riêng quyển Đại Việt lịch triều đăng khoa lục do Võ Duy Đoán biên tập năm Thịnh Đức thứ 2 (1654) và Lê Nguyên Trung tục biên năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), tư liệu của Nam Phong sao lại (bản của Trần Duy Vôn ở Viện Hán Nôm)(5) có chép về khoa thi Giáp Dần niên hiệu Long Khánh như sau: Đệ nhất giáp 3 người: Đào Sư Tích, Trạng nguyên, Lê Hiến phủ bảng nhãn, Trần Đình Thâm Thám hoa. Đệ nhị giáp hữu sai: Nguyễn Bá Tĩnh, người Hải Đông, đi sứ bắc lam Điền hộ, nhà Minh giữ lại, đi tu lấy hiệu là Tuệ Tĩnh; La Tu, người Thạch Hà, Đệ Tam giáp Lê Hiến Tứ.
Như vậy, tuy bia của Nguyễn Danh Nho khắc năm 1699 như địa phương đã xác nhận, nhưng cũng đã được Nguyễn Xuân Dương dẫn lại trong Đông y tùng báo năm 1929 khi khẳng định Tuệ Tĩnh đậu khoa Tân Mão (1351). Còn Lê Huy Phác nói Nguyễn Tuệ tĩnh đậu khoa Tân Mão(1351). Còn Lê Huy Phách nói Nguyễn Bá Tĩnh đậu năm 1374 dưới triều Trần Duệ Tông chắc cũng đã dựa vào một tư liệu khác, có lẽ là Đại Việt lịch đại đăng khoa lục theo bản sao của Nam Phong. Vì các khoa thi thái học sinh như thường lệ, đều không ghi tên người đậu, và từ năm 1345 không được sử chép nữa, thì ta cũng có thể tìm được việc thi đậu của Tuệ Tĩnh vào khoa Tân Mão(1351). Hơn nữa những người đậu Thái học sinh được thi vào thi đình, thì Tuệ Tĩnh đã có tiêu chuẩn dự thi, Về đệ nhị giáp của khoa này, sử chỉ ghi La Tu mà không có Tuệ Tĩnh, cũng như đệ tam giáp Lê Hiến Tứ để khuyết, thì ta có thể hiểu rằng sử chỉ chép tên, những người được bổ dụ làm quan mà thôi. Như vậy, chúng tôi thấy có nhiều khả năng Tuệ Tĩnh đã đậu Thái học sinh 1351, và sau lại thi đậu Hoàng Giáp năm 1374, nhưng sau đó đi tu, không làm quan, nên sử đã không chép.
III. Tài liệu về việc đi sứ của Tuệ Tĩnh
Hiện nay, chúng ta chưa có đủ tài liệu để xác nhận việc đi sứ của Tuệ Tĩnh: Đại Việt sử ký toàn thư cũng như Việt sử thông giám cương mục chỉ chép những sự kiện sau đây:
1. Năm ất Sửu (1385) tháng 3, nước Minh sai sứ sang đòi 20 tăng nhân.
2. Năm ất Hợi (1395) nước Minh sai sứ sang đòi tăng nhân, đàn bà xoa bóp, người bị thiến, đều cho một vài người thôi.
Ngoài ra dưới triều thuộc thời Minh, trước sau Trương Phụ đã bắt trên 9000 người đủ các hạng nhân tài đưa về Trung Quốc.
Đối với việc bang giao của ta, những sự kiện trên có thể coi như việc lớn, mà sư sách chỉ chép khái quát, không có tên người thì ta cũng không hi vọng tìm được chi tiết về những người của ta đưa sang cho nhà Minh trong sử sách của họ. Trường hợp của Tuệ Tĩnh, dù đi vào dịp nào, thực sự cũng là đi cống như truyền thuyết, nên càng khó tìm được ghi chép trong chính sử.
Theo truyền thuyết, Tuệ Tĩnh đậu Hoàng Giáp năm 45 tuổi và 55 tuổi bị bắt cống, thì có nhiều khả năng ông đi vào dịp cống 20 năm tăng nhân năm 1385 nói trên.
Hơn nữa việc Tuệ Tĩnh mất ở Trung Quốc và Nguyễn Danh Nho đã rập bia mộ chí đưa về lập mộ giả để tưởng vọng ông với di tích “Đền bia” ghi lại đến nay, là một việc có thật, thì việc đi sứ của Tuệ Tĩnh không phải là một câu chuyện bịa đặt.
IV. Tác phẩm mang tên Tuệ Tĩnh
Về tác phẩm của Tuệ Tĩnh, Hải Duơng phong vật chí của Trần Đàm Trai, in năm 1811, đã chép như sau: Thầy thuốc Tuệ Tĩnh tiên sinh, người ở xã Nghĩa Phú, huyện Cầm Giàng chuyên lấy thuốc nam cứu người rất công hiệu, đã soạn các tập Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm lưu hành ở đời(6).
Nhưng hiện nay có 2 bộ sách mang tên Tuệ Tĩnh là Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư. Thấy tên sách không phù hợp với ghi chép của Đạm Trai, chúng tôi đã tìm hiểu nguồn gốc và nội dung 2 bộ sách này như sau:
1. Nam dược thần hiệu, gồm 9 bản sách in và 2 bản chép tay. Các bản sách in đều không gcó tên tác giả. Duy bản chép tay A. 1270 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) có đề: “Cẩm Giàng Tuệ Tĩnh tiên sinh soạn tập”. Đây là lời của người khác, chứ không phải lời của tác giả nên mới dùng hai chữ “tiên sinh”. Riên lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng nói tới Nam dược thần hiệu là của Tuệ Tĩnh. Theo lời tựa ở đầu sách in A. 3024 và A. 1664/1 thì Nam dược thần hiệu là do Hoà Thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc, phường Hoè Vệ, phủ Trung Đô (Thăng Long) đã quyên tiền khắc in 1761, sau khi đã biên tập và bổ sung thêm vào bản khắc cũ của Vương Thiện Trí Theo lời phàm lệ của Vương Thiện Trí nội dung sách đã được chỉnh lý theo Nội kinh về y lý, và theo Bản thảo cương mục để kê cứu các vị thuốc, lúc đó mới, lúc đó mới thu thập được độ 500 phương, nên đã để giấy trống sau mỗi bệnh để cho người sau chép thêm vào. Như vậy, Nam duợc thần hiệu không còn là nguyên sách của Tuệ Tĩnh nữa, và cũng không thể lấy nó làm cơ sở nhận định về thời đại của ông(7).
2. Hồng Nghĩa giác tư y thư hiện có các bản sau đây:
1) Nam dựơc chính bản, sách in do Sở Văn Hoá Hà Sơn Bình tàng trữ (số 229), mở đầu có lời tựa đề mùa hè năm Vĩnh Thịnh 13(1717), nói rằng mùa xuân năm Đinh Dậu, phường Sách Liễu Chàng đã dâng lên chúa Trịnh bản sách in của Tuệ Tĩnh, có nhiều sai sót, nên chua sai các y quan khảo duyệt đính chính rồi cho in lại, chia làm 2 quyển, đặt tên là Hồng Nghĩa giác tư y,thư sách hiện chỉ còn quyển thượng, trang đầu ghi: “Hồng Nghĩa Đường Tráng Tử Vô Dật, túc thiền Tuệ Tĩnh trước, Đông Quan Hoè Nhai, dật sĩ Lê Đức Toàn Pháp Thạch ở chùa Hoè Nha thành Đông quan sao chép”, sau bài Nam dược quốc ngữ phú còn chép thêm: = “Hữu phú cựu bản phả hữu thác mậu sai tự, tư dật sĩ tự Pháp Thạc chỉnh bút tra soạn”.(còn bài phú thuốc Nam cổ bên, chữ bị sai sót nhiều nên kẻ lánh đời tự là Pháp Thạch này phải chỉnh bút mà tra cứu, soạn lại).
Xem vâỵ thì, bài Nam dược quốc ngữ phú là do Tuệ Tĩnh biên soạn và Lê Đức Toàn ở Hoè Nhai, Đông Quan (tức Hà Nội thời thuộc Minh) sao chép và chỉnh lý thêm.
Nội dung bản sách, phần đầu gồm 65 tờ in. mỗi trang có 10 dòng...Có các mục:
- Nam dược quốc ngữ phú
- Trực giải chỉ nam dược tỉnh phú,
- Chư dược chủ bệnh
- Ngũ tạng lục phủ hình trạng
- 12 ngũ kinh mạch và thuốc ôn lương bổ tả thuộc mỗi kinh. Tiếp đến là 19 tờ in thêm, mỗi trang 11dòng với các mục:
- Như ý đơn, Hồi sinh đơn bằng ca Nôm (của Hành Thọ Đường soạn thêm).
- Bổ phụ âm đơn, (viết chữ to) kèm bài ca Nôm.
Sau dòng “ất tỵ niên ngũ nguyệt Thái y viện chiêm sự lịch khảo đính” là Hoàng triều Huệ Dân kinh nghiệm tuyền yếu thần hiệu tam thập thất phương, gồm 11tờ.
Theo 2 dòng cuối của bài tựa “thị nội phủ các quan tường gia khảo đính: Y viện các quan tái khảo gia tăng”( các quan trong phủ Thị nội si cũng phải khảo đính thêm cho rõ ràng, Các viên quan trông coi Y viện lại cũng phải khảo duyệt thêm) thì nội dung của bản sách này đã được Viện Thái Y bổ sung thêm.
2) Một bản Hồng Nghĩa giác tư y thư chép tay sao lại bản in năm 1717, quyển thượng giống như bản sách chính in nói trên và và quyển hạ là Thập tam phương giả giảm bằng chữ Hán.
Bản này do Nguyễn Lư Thoa ở Nghĩa Phú tàng trữ, nội dung gồm 13 phương thuốc chữa các bệnh ngoại cảm, nội thương với cách gia giảm các vị thuốc tùy theo chứng bệnh;
3) ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 1 bản Hồng Nghĩa giác tư y thư in năm 1723 tựa đề năm Bảo Thái thứ 4, nội dung cũng giống như bài tựa năm Vĩnh Thịnh 13 nói trên, có ghi thêm “Mùa Xuân năm Quý Mão phường Hồng Liễu khắc in lại”, gồm:
- Quyển thượng AB.238, nội dung như bản in năm 1717 nói trên và có thêm 2 mục y luận và tăng bô vạn kim nhất thống thuật tập, mục này giống như ở sách Ván bệnh hồi xuân.
- Quyển hạ AB. 306 gồm thập tam phương gia giảm bằng chữ Nôm thể lục bát, Chứng trị phương pháp bằng ca Nôm (do Lão Mai Am, Hoàng triều Huệ Dân kinh nghiệm tuyển yếu tam thập thất phương). Như ý đơn và Hồi sinh đơn (như ở quyển thượng).
4) Một bản Hồng Nghĩa giác tư y thư A. 162 chép tay toàn bộ quyển thượng và quyển hạ nói trên, và có thêm vào quyển hạ: Thương hàn tam thập thất chuỳ(8) do Lão Mai Am soạn bằng ca Nôm, với một bài tựa đề là Y đạo Tuệ Tĩnh trùng sang cẩn tự. Sau phần Thương hàn chi lệ mục lục có câu: “ Thượng cô lão thiền Hoàng Sưởng vô Trạch Tuệ Tĩnh soạn tập”, tờ (35a), tiếp đó, tờ 36b lại nhắc lại câu đó. Gọi Tuệ Tĩnh là “sư cụ Tuệ Tĩnh thời thượng cổ ” chứng tỏ thời đại Tuệ Tĩnh là cách xa thời đại Lão Mai Am hàng mấy thế kỷ.
Ở quyển thượng, tiếp sau bài “trực giải chỉ nam dược tỉnh phú” đã chép thêm một phú được tính 6 vần 212 câu bằng chữ Hán nói về dược tính 218 vị thuốc, giống như bài phú trong Thập tam phương gia giảm bằng chữ Hán sẽ nói ở dưới đây.
Ngoài ra, ở quyển thượng (tr.88-113) còn chép 87 phương thuốc, trong đó có 1 số bài trùng với thập nhị tam phương gia giám và quyển hạ (tr81_131) có chép 137 phương khác, đây là phần do đời sau thêm vào.
5) Như lời tựa sách Hồng Nghĩa giác tư y thư nói Tuệ Tĩnh là tự soạn bản thảo 630 vị thuốc bằng Quốc âm, sau lại lấy 13 phương chữa tạp bệnh và 37 chuỳ chữa thương hàn của ông dịch ra tiếng ta (phương ngôn), chép thành từng thiên, Sau đấy sách Hồng Nghĩa giác tư y thư do chúa Trịnh đặt tên, đã in gộp cả bài phú thuốc Nam là nguyên tắc của Tuệ Tĩnh, nên Hải Dương phong vật chí không nói tới Hồng Nghĩa giác tư y thư với nội dung hỗn tạp do sự bổ sung của người đời sau. Hiện nay, tập Thập tam phương gia giảm bằng chữ Hán do Tuệ Tĩnh soạn và Hồng Cẩm cư sĩ ở Sơn Nam sao lục còn được lưu truyền trong nhân dân, và ở thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm cũng có một số bản sao,Tác phẩm này, đã được diễn dịch thành ca Nôm in trong quyển hạ của Hồng Nghĩa giác tư y thư AB. 306 mà chúng tôi sẽ nói cụ thể ở mục sau.
Ngoài các trước tác y học, Tuệ Tĩnh đã giai nghĩa tập thiền tông khoá hư ngữ lục do Trần Thái Tông soạn mà Tuệ Duyên đại diện cho nhóm Tào Động thiền tông đã giới thiệu năm Long Đức thứ 3 (1734)(9) và ghi rõ “Thiền tử Thận Trai, pháp hiệu Tuệ Tĩnh, tự Vô Dật, giải nghĩa”
V. Về tên hiệu, địa danh và niên đại trong tác phẩm của Tuệ Tĩnh
Đọc qua các tác phẩm của Tuệ Tĩnh, chúng tôi đã nhận thức được cách viết của tác giả có khi không đề tên riêng, nhưng đã ngụ ý để tên hiệu của mình vào nội dung lời mở đầu hay kết. Ví dụ: Nam quốc dược ngữ phú, lời cuối viết “Sãi nay tráng tử còn hơi vụng, Vô Dật hoạ khi rồi, dọn Nam dược chép làm một phú”. Tráng Tử Vô Dật là biệt hiệu của tác giả, Thập tam phương gia giảm (bằng chữ Hán), mở đầu “Nam thiên cẩm tú, Hồng thuỷ trường lưu Bắc hạnh nghĩa viên, xuân phong Quảng Huệ”. Hai câu này đã hàm ý dùng để chỉ tên hiệu, và sinh quán, trú quán của tác giả. Sinh quán Hồng là Hồng Châu, hay lộ Hồng châu thượng Cẩm là huyện Dạ Cẩm, hay huyện Cẩm Giàng, nghĩa là Lư hay Nghĩa Phú. Trú quán: Nam là xứ Sơn Nam; thiên là phủ Thiên Trường; thuỷ là Huyện Giao Thuỷ, Tên hiệu là Huệ Tĩnh.
Các từ “Nam thiên” “Quảng Huệ” trong hai câu trên đây đã nhắc lại từ 4 từ cuối của bài Trực giải chỉ nam dược tích phú.
Về tên hiệu tác giả, Hải Dương Phong vật chí cũng như Thiền Tông khoa hư ngữ lục đều viết “Huệ Tĩnh” Duy hồng nghĩa giác tư này có thể thay thế cho nhau “Huệ? thông tác, Tuệ? cổ thông tuệ tư đe” (tr581) Tĩnh? (lập + thanh ) cũng như chữ “tĩnh? (thanh + tranh), đồng âm, và cùng có nghĩa là yên tĩnh(Tr1613)”
Tên hiệu của nhà y “Hồng nghĩa đường” chép ở Hồng Nghĩa giác tư y thư là tên quê hương tác giả vào đời Trần: tỉnh Hải Hưng ngày nay về đời Trần gọi là Hồng Châu và Khoái châu cho đến năm 1252 (Đại Việt sử ký), rồi chia làm lộ Hồng Châu Thượng và Hồng Châu Hạ; năm 1397 đổi làm trấn Hải Đông, năm 1466 nhà Lê đổi là thừa tuyên Hải Dương (đất nước Việt Nam qua các đời).
Người sao lục và đích chính bài Nam duợc Quốc ngữ phú quê ở Hoè Nhai huyện Đông Quan. Vào thế kỷ XV, Hoè Nha là trị sở của quân Minh tại thành Đông Quan, Điều này cho ta thấy được thời điểm xuất hiện tác phẩm Nam dược Quốc ngữ phú về đời Trần, trước năm 1397, và thời điểm sao lục, chỉnh lý của nó là vào khoảng từ 1407-1467)(10).
VI. Về từ ngữ và cách viết của nam dược quốc ngữ phú
Việc so sánh văn phong của các tác phẩm bằng chữ Hán khó có chuẩn đích. Ngay đối với các tác phẩm chữ Nôm cũng vậy; văn chương từ cú thanh hay thô, ngắn gọn hay rườm rà, trong sáng hay tối nghĩa, là tuỳ theo trình độ của từng người. Duy chỉ những từ ngữ và cách viết chữ Nôm thì căn cứ để nhân định về thời điểm qua sự đối chiếu với các tác phẩm khác. trong Nam duợc Quốc ngữ phú có nhiều từ cổ như “La đá” (tứ c là đá) ở những chỗ của La đá (cua đá) mưa la đá (mưa đá), “ốc” có nghĩa là “”gọi trong bài có đến 22 trường hợp “Meo (là mộc nhĩ), meo cây hoè) đời sau đều gọi là nấm, cũng như nấm đất. “Kê gà ông (là mào gà trống). Trái (là quả) “cái ”(là con: cái chim, cái đĩa, cái rùa), “Ngọ” (là cái tài) “Nớ” (là giống như), “Chín”(là thật hay chỉ). “cả” (là to)...
Cách viết chữ Nôm cũng mang nhiều viết tích cổ, như “Trăng” viết chữ( Ba+ lăng) “Trời” viết chữ công + lệ, ở Nam dược thần hiệu viết chữ Ba + lệ (đời sau viết đầu + lệ, rồi đến thiên + thượng). “Một” viết chữ miệt (đời sau viết chữ “Một ” là mất); “chịu viết chữ triệu là vời lại (đời sau thêm chữ thụ).” “trước” viết xa + lược, (đời sau viết: lược + tiên) “cả viết gia + khả (đời sau viết: đại + khả), “vui” viết “bôi + tư” ( đời sau viết trùng tâm + bôi) vv....
Đối chiếu với QATT của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) NDQNP được Lê Đức Toàn người cùng thời sao lục, ta thấy từ ngữ phần nhiều dùng giống nhau, như chỉn, ốc, ngọ, la đá, bà ngựa... lại có một số vị thuốc nói ở NDQNP cũng được thấy trong QATT, như “núc nác” QATT bài 10/3; “tả lòng thanh vỏ núc nác” “tổ ong tàng”, QATT 25/6; “của nhà bịn rịn tổ ong tàng” NDQNP có câu “hoè giác lúc khuỷu trái hoè”, “tả trái hoè khô” QATT bài 40/ 4 có câu “khúc khuỷu làm chi trái hoè”. NDQNP có câu “chép để đề kinh” QATT bài 1667 có câu: “chép câu kinh để” so sánh về cách viết chữ Nôm. thì NDQNP có nghĩa xưa hơn, QATT có nhiều chữ viết theo kiểu mới (âm với nghĩa) là do thời điểm biên soạn và khắc in của QATT đều muộn hơn NDQNP.
Trên đây là tình hình thực tế của tác phẩm, theo nguyên bản chữ Nôm in trong HNGTYT(11). Nhưng bản dịch của Viện Nghiên cứu Đông y in năm 1878 (tr7.741) đã thay thế các từ ngữ cổ bằng những từ ngữ ngày nay cho dễ hiểu, nên bài phú nay đã mất bản sắc nguyên tác, Thí dụ 33 từ trái đã được phiên là quả; các từ cái đều phiên là con; 21 từ ốc đã phiên là ấy; 1 từ ốc đã phiên là gọi; 47 từ hiệu đã dịch là gọi; 2 từ hiệu đã dịch là tên; 25 từ danh đã dịch tên; 7 từ danh đã dịch là gọi; tư mùa đã phiên là bốn mùa; vốn chưng đã phiên là vốn là; Đững xống đã phiên là đũng quần; Mưa la đá phiên là mưa đá; Cả thay củ sắn phiên to thay của sắn; thầy ngọ phiên là thầy giỏi...
Cách thay thế từ cũ thành từ mới như vậy, người đọc tưởng lầm là bài này mới được soạn gần đây.
VII. Về bài ca thập tam phương giả giảm
Bài ca thập tam phương gia giảm 1723 ở quyển hạ của HNGTYT AB.306 là diễn dịch từ nguyên bản chữ Hán ra, như lời tựa nói “dịch xuất phương ngôn”. Lời dẫn tập Ngoại cảm thông trị của Lãn Ông cũng nói là sách của Tuệ Tĩnh “tự uẩn” súc tích mà nay đem sửa sang lại và khắc in ra (trang cảo khắc hành).
Bài ca diền theo nội dung các bản chữ Hán sau đây:
1) Thiên Thập tam phương giảm(bản 1) ở quyển Hạ bản HNGTYT do Nguyễn Lư Thoa sao lại từ bản in của Cẩm Văn Đường, năm 1717. Bản này có lời kết sau 13 phương thuốc va đôi chỗ có phân tích nguyên nhân cũng như ý dược lý.
2) Thập tam phương gia giảm của Hồng Cẩm cư sĩ sao lục (bản 2) thì có lời tựa, 13 phương giả giảm, phụ bổ âm đơn và Dược tính phú viết bằng thể văn hiến ngẫu súc tích.
Bài diễn ca đã tham khảo cả 2 bản trên, có cả lời mở đầu và lời kết. Đại thể về phần 13 phương và các vị thuốc gia giảm thì diễn tương đối đúng, trừ một vài chi tiết. Nhưng về phần diễn đạt các câu văn thì không thật sát nguyên bản và có khi đã phát triển rộng ra, dẫn tới sai lệch với tính nguyên tác. Thí dụ: lời tựa, bản 2 có những những từ Hạnh viên, Xuân Phong thì các bài diễn là Hạnh đàn nhân thuở hồi xuân. Câu mẫn sinh dân chi yểi trát, trạch hiền triết chi phương thang thì diễn là Vâng lời đức thánh Phục Hy, thương chưng yểu trát bất thì kham ngu. Câu Cầu y bất nhược tu thân tế nhân bản năng tích phúc, Cố sự lịch khả thành hạnh viên dã, Chữ sư lịch đã được diễn là chỉn nay sư lịch tài hèn ở lời mở đầu, lại còn được diễn ở lời kết một lần nữa. Sãi nay sư lịch vốn hèn, thhuật trọng thượng cổ thánh hiền chép hiền chép chơi...
Về nội dung phương thuốc, như bài 9, Linh nghiệm đối kim, phương thuốc cả 2 bản đều chép Hậu Phác, Thương truật, Trần bì, Cam thảo, không bản nào ghi bắc Hậu phát, nhưng bài ca đã diễn Chọn hậu phác bắc mà dùng” là trái với quan điểm dùng thuốc của Tuệ Tĩnh: ở bài Nam Dược Quốc ngữ phú (vần 13 câu 6). Tác giả nói: “Trừ sơn lam chướng khí ấy, lấy hậu phác là vỏ vối de”. Sự trái ngược với đường hướng dùng thuốc của Tuệ Tĩnh “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt” đã chứng tỏ bài Thập tam phương gia giảm là do người đời sau diễn ca.
Đối chiếu với Nam dược Quốc ngữ phú, bài ca Thập tam phương gia giảm đã dùng các từ ngữ đời sau với cách viết chữ Nôm phần nhiều theo thể mới. Sự khác biệt vầ từ ngữ và thể chữ Nôm cũng cho ta thấy rõ thời gian xa cách khá dài, giữa 2 thời điểm xuất hiện NDQNP và bài ca Thập tam phương gia giảm.
VIII. Nhận định bứơc đầu về Tuệ tĩnh
Cùng trong tình hình chung của thư tịch cổ của nước ta, các tác phẩm của Tuệ tĩnh không còn thuần tuý là nguyên bản nữa, mà đã được lời sau bổ sung mãi, nhất là vào các dịp in lại năm 1717, 1723. Sự sửa đổi, bổ sung chỉnh lý nhiều lần đã làm sai suyễn bản sắc nguyên các và gây hoài nghi về niên đại của tác giả.
Việc phân tích những thành phần của quyển HNGTYT lại cho ta thấy những phần do Viện Thái y đời hậu Lê đã gia tăng khi in lại năm 1717 cùng là năm 1723 như Tăng bổ vạn kinh nhất thống thuật tập... Các phần do Hành Thọ Đường tự Tác Phúc và Chí Thiện Đường Lão Mai Am soạn thêm đã chép thêm tên rõ ràng như Thương Hàn tam thập thất chuỳ... Tuy lời tựa nói đã dịch ra, nhưng các bản sách AB.288 và AB, 306 năm 1723 vẫn chưa thấy in bài này. Câu Thượng cổ lão thiền Tuệ Tĩnh là do Lão Mai Am xưng hô cùng là lời tựa về việc khắc in thêm bài ấy đã bị tước bỏ không dich, cùng việc dịch thuật bài tựa HNGTYT và phiên âm bài NDQNP không sát nguyên văn lại làm cho việc nghiên cứu và thập định về thời đại của Tuệ Tĩnh trở nên khó khăn phức tạp hơn.
Tuy nhiên, riêng nhưng viết tích cổ trong NDQNP về địa danh và từ ngữ cũng đã đủ chúng minh thời điểm xuất hiện của các tác phẩm hay thời đại của tác giả là về nửa cuối thế kỷ XIV. Hơn nữa, công trình nghiên cứu thuốc nam của Nguyễn Văn Bách đăng trên tạp chí Đông y số 156 năm 1978 đã cho thấy hàng trăm vị thuốc trong NDQNP có tên gọi khác với Bản thảo cương mục cảu Lý Thời Trân thế kỳ XVI, mặc dù trong đó cũng có một ít vị thuốc trùng nhau ngầu nhiên, có thể do sự tham khảo chung một nguồn tư liệu.
Sau khi phân tích các mặt, chúng tôi nhận định tác phẩm NDQNP thuộc về nửa cuối thế kỷ. Còn bài ca Thập tam phương giả giảm và Bổ âm đơn đều thuộc văn Nôm khoảng cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII.
Tuệ Tĩnh tóm lại, là nhà y học lớn của nước ta đã ở thế kỷ XIV. Tác phẩm của ông trải qua nhiều biến động trong quá trình lưu truyền đặc biệt là hiện tượng thêm thắt, sửa chữa, điều này đã làm cho một số người ngộ nhận Tuệ Tĩnh là nhân vật của các thế kỷ về sau.
CHÚ THÍCH
(1) Đại Việt lịch đại đăng khoa lục - Bản chữ Hán, Võ Duy Đoán soạn (1654) KH.VHv 226. TVVNCHN. Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp, Nxb KHXH 1971 Hồng nghĩa giác tư u thư. Nguyễn Sĩ Lâm, Nxb Y học Hà Nội 1978.
(2) Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I The viện Quốc gia xuất bản năm 1970. Nguyễn Sĩ Lâm, Một số ý kiến về truyền thuyết tác phẩm của Tụe Tĩnh “Tạch chí Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam”. Số 194, năm 1985.
(3) Xem Hồng nghĩa giác tư y thư, Nxb Y học Hà Nội 1973.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb KHXH Hà Nội 1971, tr. 183.
(5) Việt Nam đại khoa từ điển, quyển trung, ký hiệu VHv. 20. ST tờ 13b.
(6) Xem Trần Đạm Trai Hải Dương phong vật chí, ký hiệu A. 882 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(7) Bản dịch Nam dược thần hiệu do Viện Đông y tái bản năm 1972, ghi Tuệ Tĩnh là tác giả.
(8) Nghĩa là 37 phương pháp chữa thương hàn, Chữ chuỳ nghĩa đen là quả cguỳ, ở đây nhấn mạnh tính hiệu nghiệm của phương thuốc. Có thể gọi là chuỳ pháp.
(9) Nguyên bản chú “Tân Mùi”, nhưng năm Long Đức thứ 3 là Giáp Dần. Nừu là năm Tân Mùi thì thuộc niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631).
(10) Vì đến năm 1467, nhà Lê bỏ tên Đông Quan, đặt phủ Trung Đô thuộc thành Thăng Long (Đất nước Việt Nam qua các đời).
(11) Từ đây trở đi tên các sách: Nam dược thần hiệu, Quốc âm thi tập, Nam dược quốc ngữ phú, Hồng nghĩa giác tư y thư, đều viét tắt là: NDTH, QATT, NDQNP, HNGTYT.
|