TB

CÙNG BẠN ĐỌC KÍNH MẾN

Di sản Hán Nôm, bao gồm toàn bộ thư tịch, tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm do người Việt Nam soạn thảo từ năm 1945 trở về trước, từ một nguồn tư liệu thành văn vô cùng quý giá của dân tộc Việt Nam.

Nguồn tư liệu này phần lớn đã được đưa vào các thư viện, các kho lưu trữ Nhà nước, nhưng cũng còn một bộ phận đáng kể hiện nằm trên thực địa, hoặc tản mát trong nhân dân, hoặc lưu lạc ở nước ngoài. Làm sao để trong một tương lai không xa, tất cả các tư liệu Hán Nôm được chuyển về một mối, do các cơ quan có chức năng của Nhà nước, trước hết là Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thống nhất lưu giữ, bảo vệ.

Nguồn tư liệu này là trí tuệ của dân tộc, là tâm huyết của cha ông, là kho trí thức và kinh nghiệm nhiều mặt của biết bao thế hệ được tích góp qua hàng nghìn năm lao động cần cù, đấu tranh không mệt mỏi, nhằm xầy dựng cơ ngơi, giành lấy cuộc sống yên bình, tự do, độc lập. Làm sao cho những cái hay, cái đẹp, cái chân lý trong di sản Hán Nôm sống dậy, hướng tới ngày nay, tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta trong công cuộc xây dựng nền văn minh tinh thần Việt Nam, nền tư tưởng mới, văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhưng muốn sưu tầm, bảo vệ, nghiên cứu, khai thác di sản Hán Nôm được kết quả, điều quan trọng là phải có cái nhìn đúng và phương pháp đúng. Làm sao để sớm hình thành, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lý luận chính xác, khoa học, có khả năng đưa mọi mặt công tác Hán Nôm đi nhanh lên phía trước.

Chính do các đòi hỏi trên đây mà sau nhiều năm phấn đấu, tờ TẠP CHÍ HÁN NÔM do Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ trương hôm nay được phép chính thức ra mắt bạn đọc.

Nhiệm vụ cụ thể của tờ Tạp chí là công bố các công trình nghiên cứu về di sản Hán Nôm, các tư liệu văn bản Hán Nôm mới phát hiện, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm về công tác sưu tầm, giám định, bảo tàng, chỉnh lý, dịch thuật các thu tịch, tư liệu Hán Nôm, thông tin các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm Hán Nôm trong và ngoài nước.

Đối tượng phục vụ của tờ Tạp chí là giới nghiên cứu, giảng dạy Hán Nôm ở các Viện Nghiên cứu, các Trường Đại học, Cao đẳng Su phạm, các cán bộ làm công tác nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội v.v.

Tạp chí Hán Nôm ra 6 tháng 1 kỳ, mỗi kỳ 3000 bản, đăng tải các bài viết theo những hướng sau đây:

1. Nghiên cứu về chữ Hán, chữ Nôm, thư tịch Hán Nôm, văn bản học Hán Nôm, kim thạch học Hán Nôm, sách công cụ Hán Nôm, văn hiến cổ Việt Nam, những vấn đề văn hiến cổ khu vực có liên quan tới Hán Nôm Việt Nam.

2. Phê bình, nhận xét, đánh giá các bản dịch chú sách chữ Hán và phiên chú sách chữ Nôm đã xuất bản. Khi cần thiết, cũng có thể đi sâu và cách dịch, cách phiên một số câu, chữ tiêu biểu, nhằm từ đó rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho công tác dịch thuật Hán Nôm từ nay về sau.

3. Giới thiệu các tư liệu mới, các văn bản Hán Nôm có giá trị, các tác giả Hán Nôm ưu tú mà lâu nay chưa ai phát hiện hoặc còn ít người biết đến.

4. Những kinh nghiệm về việc sưu tầm, bảo quản các thư tịch và tài liệu Hán Nôm, những ý kiến ngắn về công tác Hán Nôm, những mẩu tin về các hoạt động Hán Nôm trong và ngoài nước.

Khi cần, Tạp chí cũng có thể dành một số trang thích đáng để đăng những bài phát biểu tập trung vào một chủ đề nào đó.

Tạp chí Hán Nôm thành thật mong sự giúp đỡ, hợp tác và góp ý kiến của đông đảo các bạn trong giới Hán Nôm, các bạn quan tâm đến việc xây dựng một ngành Hán Nôm học Việt Nam.

Bài viết và thư từ xin gửi đến Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm 26 Lý Thường Kiệt, Hà Nội.

TẠP CHÍ HÁN NÔM

TB

DI SẢN HÁN NÔM VÀ TRÁCH NHIỆM LỊCH SỬ CỦA CHÚNG TA

VŨ KHIÊU

Lịch sử đang đặt lên vai chúng ta một trách nhiệm thiêng liêng mà chúng ta phải gánh chịu trước tổ tiên từ hàng ngàn năm, trước đồng bào cả nước hôm nay, trước con cháu mãi mãi sau này. Đó là vấn đề làm thế nào gìn giữ, khai thác, giới thiệu và nghiên cứu di sản cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong kho sách Hán Nôm.

Đây không chỉ là những cổ vật bằng giấy mực, mà là huyết hãn của cha ông, là nỗi lòng mà cha ông gửi gắm, là lẽ sống mà cha ông dặn dò, là kinh nghiệm máu xương từ bao đời dựng nước và giữ nước. Dù kẻ địch đã bao lần cướp phá, và thiên tai đã bao lần hủy hoại, nhưng báu vật này vẫn được nhân dân ta từ bao đời quý trọng như máu thịt của mình để đời trước trao gửi lại đời sau. Ngày nay, nếu như những báu vật ấy đến thời đại chúng ta lại bị rẻ rúng và thất tán, thì đó là một thiếu sót to lớn mà lịch sử không thể không lên án. Đây là nỗi lo âu mà đông đảo đồng bào đang cùng chia sẻ với chúng ta.

Hơn năm năm thi hành Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã sưu tầm v à thu thập được khá nhiều tư liệu. Tuy nhiên, tài sản quý báu này vẫn còn nằm rải rác trong dân gian, trong các đoàn thể, cơ quan Nhà nước và cả ở nước ngoài nữa.

Tình trạng tư liệu Hán Nôm còn phân tán trên mọi miền như thế đã tạo ra sự chia cách giữa tư liệu và người nghiên cứu. Người có tư liệu không có điều kiện khai thác đã để sức sống của dân tộc hàng ngàn năm trong các tư liệu đó trở thành một mớ giấy vụn trong tủ. Ngược lại, cán bộ nghiên cứu vì thiếu tư liệu đã bị hạn chế rất nhiều khi đánh giá lịch sử và luận chứng khoa học. Cho nên, vấn đề sưu tầm và tập trung tư liệu và Viện Nghiên cứu Hán Nôm không phải chỉ giản đơn là chuyển tư liệu ấy từ nơi này sang nơi khác, mà chính là tổ chức việc bảo quản và khai thác tư liệu ấy.

Chúng ta đang chứng kiến những hiện tượng rất đau lòng từ nhiều tư liệu vẫn bị đem bán làm giấy quạt, phất diều, làm đồ tùy táng, làm khuôn đúc nồi, làm trần nhà. Khá nhiều bia đá đã bị đem làm cối, làm cái kê cột nhà, làm vật liệu lát đường v.v. Tài sản vố giá này của đất nước đang tiếp tục tan biến đi trước con mắt của chính chúng ta.

Hiện nay có rất nhiều người nắm giữ tư liệu Hán Nôm, song không muốn trao cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm những tư liệu ấy. Có người sợ chúng ta không bảo quản nổi để mất mát những di vật quý báu của họ. Có người cần nghiên cứu nên giữ sách lại làm của riêng mình. Có người giữ sách chỉ để trang trí. Cũng có một số người coi tu liệu Hán Nôm như giá trị hàng hóa có thể đem buôn bán kiếm lời.

Tình hình nói trên đòi hỏi chúng ta bàn bạc, có những chính sách, biện pháp và hình thức thích hợp để sưu t ầm đầy đủ các sách Hán Nôm cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Sưu tầm không thề là mục đích tự thân. Sưu tầm chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho một mục đích cao hơn. Sưu tầm chỉ là điều kiện đầu tiên cho việc xử lý, nghiên cứu và khai thác những di sản ấy. Có sưu tầm và tập trung lại các sách cũ của cha ông, chúng ta mới có thể đối chiếu, cân nhắc, chọn lựa và mới xác định được tính chính xác của từng câu, từng chữ, để từ đó giới thiệu với độc giả những văn bản đáng tin cậy nhất.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm sách cũ không phải như sưu tầm những đồ cổ để triển lãm và thưởng ngoạn, mà chính là phát huy sức mạnh tinh thần và văn hóa của cha ông, để trực tiếp phục vụ cho sự nghiệp cách mạng ngày nay.

Khối lượng công tác cực kỳ to lớn và trọng yếu trên đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm không thể gánh vác một mình. Đây là trách nhiệm tập thể của đông đảo các nhà nghiên cứu, trước hết là những đọc giả uyên thâm về cổ học trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu và rải ra trên mọi miền của đất nước. Sự hợp tác chặt chẽ và thường xuyên của đội ngũ này là một đòi hỏi cấp bách của lịch sử.

Để đáp ứng yêu cầu tất yếu trên đây, Tạp chí Hán Nôm đã ra đời.

Tạp chí Hán Nôm là nơi gặp gỡ và trao đổi ý kiến của các bạn đồng nghiệp trong toàn quốc, từ các ngành Triết học, Kinh tế học, Xã hội học, Địa lý, Sử học, Khảo cổ học, Dân tộc học, Văn học, Ngôn ngữ học, Văn hóa học, Nghệ thuật học. Mỗi giới khoa học đi sâu vào những vấn đề chuyên biệt của mình. Nhưng tất cả sẽ vì lợi ích chung hợp tác chặt chẽ với Tạp chí Hán Nôm để cùng giải quyết rất nhiều vấn đế khoa học đang được đặt ra và sẽ được đặt ra trong quá trình nghiên cứu.

Sự đóng góp của đông đảo cộng tác viên từ các địa phương kể cả trong nước và ngoài nước sẽ dần dần cung cấp cho Viện Hán Nôm những văn bản khác nhau về cùng một tác phẩm. Chỉ có trên cơ sở đối chiếu, nghiên cứu và bàn bạc trên tạp chí mới đem lại những văn bản tương đối chính xác và gần nhất với nguyên bản của tác giả.

Dịch thuật và chú thích các văn bản Hán Nôm là một công việc đã được tiến hành lâu và cũng đã từng nhiều lần được làm đi làm lại. Nhưng bảo đảm được chính xác ý nghĩa và tình cảm của tác giả qua việc sử dụng một văn tự nước ngoài là một vấn đề rất tinh vi và phức tạp. Trao đổi ý kiến trên tạp chí sẽ là việc cần thiết để dần dần giới thiệu được những bản dịch có chất lượng cao nhất.

Tiếc rằng các tác phẩm Hán Nôm của cha ông chúng ta đã bị thiên tai và địch họa phá hoại quá nhiều. Nhưng trên 15.000 cuốn sách còn lại ở Viện Hán Nôm cũng là những tài sản vô cùng quý báu đối với đất nước chúng ta.

Tôi muốn nêu lên ở đây một số ý kiến về công việc khai thác di sản ấy.

Không thể trong một thời gian ngắn chỉnh lý, dịch thuật, chú thích, nghiên cứu và giới thiệu cả một kho tàng đồ sộ đó. Vấn đề đặt ra là phải chọn lọc để việc khai thác, đem lại những hiệu quả cao nhất. Giới nghiên cứu Hán Nôm không làm việc này một cách tùy tiện và tùy hứng. Trách nhiệm lịch sử đòi hỏi họ phải đãi cát lấy vàng, đem tinh hoa của quá khứ phục vụ cho yêu cầu của cách mạng hôm nay.

Tạp chí Hán Nôm ra đời giữa lúc toàn Đảng, toàn dân đang chào đón Đại hội Đảng lần thứ VI. Đại hội tập trung trí tuệ cao nhất của đất nước, sẽ khắc phục những khó khăn chồng chất của chặng đường đầu tiên này của thời kỳ quá độ.

Đại hội sẽ trên cơ sở phân tích khoa học tình hình và triển vọng về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa ở Việt Nam, đồng thời tiếp thu những thành tựu mới nhất của nhân loại để đề ra những chủ trương và chính sách thích hợp.

Trong sự nghiệp lớn lao này không những tương lai vẫy gọi chúng ta mà quá khứ rực rỡ của dân tộc vẫn tiếp tục đem lại cho chúng ta một nguồn sức mạnh vô tận từ tâm hồn phẩm chất, từ cách suy nghĩ, từ phương pháp hành động của con người Việt Nam qua bao nhiêu thế kỷ.

Những tác phẩm nổi tiếng mà giới nghiên cứu cổ học đã cùng nhau dịch thuật, chú thích nghiên cứu và giới thiệu, ngày càng chứng minh lời tuyên bố của Nguyễn Trãi về nền văn hiến lâu đời của dân tộc, về “phong tục riêng biệt” của chúng ta, về truyền thống lấy “Đại nghĩa thăng hung tàn, lấy chí nhân thay cường đạo”.

Trong kho tàng di sản Hán Nôm còn rất nhiều tác phẩm và rất nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu, khai thác. Chúng ta tin chắc chắn rằng: đi vào thế giới mênh mông này của quá khứ, nhiều tinh hoa, nhiều vấn đề khoa học lý thú sẽ nổi lên và lôi cuốn chúng ta trước những nét đặc sắc của cha ông ở tâm hồn cao cả, ở tài năng sáng tạo qua mỗi chặng đường lịch sử.

Các tác phẩm sử học sẽ tiếp tục nói lên ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và niềm tin thắng lợi của cả dân tộc trước những chuỗi dài thử thách.

Các tác phẩm văn học, triết học sẽ tiếp tục làm rõ hơn nữa tinh thần nhân đạo của con người Việt Nam không chỉ ở tình cảm sâu sắc đối với đất nước và đồng bào mà còn chứa đựng những tư tưởng tuyết vời bao trùm trên vận mệnh của cả nhân loại và của mỗi con người.

Các tác phẩm xã hội học, dân tộc học sẽ giới thiệu trước tinh thần hào hứng của chúng ta về đời sống trong gia đình, ngoài xã hội, từ thôn dã đến triều đình. Trong sự nghiệp của chúng ta hôm nay, những cách thức của cha ông trong quản lý kinh tế và xã hội trong việc xây dựng những thuần phong mỹ tục, những quy tắc về quan hệ giữa người và người, sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều bài học cả chính diện và phản diện.

Những tác phẩm rất quý giá của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú như Phủ biên Tạp lục, Lịch triều hiến chương loại chí đã khiến cho chúng ta suy nghĩ về cách thức mà cha ông chúng ta đã giải quyết các vấn đề về giá, lương, tiền trong xã hội cũ.

Chúng ta cũng từ di sản của Hán Nôm mà tìm hiểu nguồn gốc của chế độ quan liêu bao cấp không chỉ nảy sinh từ thời đại chúng ta mà có nguồn gốc từ hàng ngàn năm lịch sử. Đây là một xã hội đã được tổ chức tinh vi với những quy chế rất chặt chẽ thể hiện chế độ hai chiều: cống nạp từ bên dưới và cấp phát từ bên trên.

Về mặt kinh tế, chúng ta cũng hiểu thêm một xã hội mang nặng truyền thống như xã hội Việt Nam, sẽ gặp những thuận lợi gì và khó khăn gì trên con đường của xã hội hóa.

Chúng ta hiểu vì sao, chế độ ruộng công (công hữu về ruộng đất) đã tồn tại lâu đời ở Việt Nam, và bộ máy thống trị ở nông thôn cũng đã từng được tổ chức theo bầu cử, những kiểu “công hữu” và “dân chủ” ấy đã nhiều lúc biến thành một cơ chế bóc lột và và áp bức nhân dân. Điều đó càng khiến cho chúng ta hiểu sâu sắc rằng ngay trong xây dựng nông thôn, chúng ta sẽ không tránh được sai lầm nếu không “nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, đồng thời đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt”.

Đường lối trên đây của Đảng nói lên bản chất của chế độ ta. Nếu như bản chất này không được quán triệt thì nông thôn ta sẽ chẳng tiến về phía trước mà sẽ lùi lại đằng sau.

Trong di sản của cha ông không chỉ có những nhân tố tích cực mà còn đầy rẫy những nhân tố tiêu cực. Để phục vụ cho những nhu cấu cấp bách trước mắt, chúng ta lựa chọn và khai thác những tài liệu có ý nghĩa thiết thực nhất. Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ bỏ qua những tài liệu tiêu cực còn đầy rẫy những tư tưởng bảo thủ, sùng ngoại, mê tín, dị đoan. Những tài liệu này nhất thiết sẽ được phân tích. Đó là người thầy phản diện của chúng ta, giúp chúng ta tìm hiểu vì sao sự trì trệ về kinh tế - xã hội lại kéo dài hàng ngàn năm lịch sử, hạn chế chúng ta tiếp xúc nhanh chóng với những thành tựu của nhân loại để không ngừng đổi mới đất nước.

Với một vài nhận định trên đây, chúng tôi nghĩ rằng: đội ngũ nghiên cứu cổ học của chúng ta đang đi vào một vương quốc bao la với những nhiệm vụ vừa trọng đại vừa cấp thiết.

Tạp chí Hán Nôm của chúng ta sẽ tạo nên một sức mạnh tập thể có sự đóng góp ngày một đông đảo của một đội ngũ nghiên cứu từ các bộ môn khoa học, từ các vùng lãnh thổ, cả trong và ngoài nước.

Chính vì lẽ đó mà đi vào quá khứ, chúng ta lại thấy tương lai và những vấn đế cổ học sẽ trở thành hiện đại.

TB

TIẾNG HÁN TRONG THƠ HỒ CHÍ MINH

PHAN VĂN CÁC

Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng nhiều ngoại ngữ, nhưng tiếng Hán là ngoại ngữ duy nhất Người dùng để làm thơ. Khảo sát ngôn ngữ Hán trong thơ của Người chắc chắn sẽ rút tra được những bài học bổ ích.

Đối tượng khảo sát của chúng tôi là toàn bộ 144 bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh đã được công bố:

- 127 bài trong Nhật ký trong tù(1)

- 16 bài thơ chữ Hán trong Thơ Hồ Chí Minh(2)

- Bài, Vấn thoại vốn trong Ngục trung nhật ký, đã giới thiệu trên báo Nhân dân(3).

Câu hỏi đầu tiên thường đến với người nghiên cứu một cách rất tự nhiên là tại sao nhà thơ - lãnh tụ của chúng ta lại chọn Hán ngữ làm phương tiện biểu đạt trong trường hợp này.

Theo suy nghĩ của chúng tôi, câu trả lời cho vấn đề đặt ra trên đây có thể tìm thấy từ hai phía.

Một mặt, tiếng Hán ở Việt Nam là một ngoại ngữ đặc biệt. Đó là ngoại ngữ duy nhất mà người Việt Nam đã cấp cho hẳn một hệ thống ngữ âm riêng hoàn chỉnh hình thành trong lịch sử. Những đặc điểm loại hình học chung cho hai ngôn ngữ Việt, Hán (có thanh điệu, âm tiết tính…) giúp cho các thể loại thơ Trung Quốc, trước hết là thơ cổ phong và thơ Đường luật dễ dàng được người Việt Nam tiếp nhận và mau chóng trở thành những bộ phận của thi pháp Việt Nam. Thơ cổ phong và Đường luật dù viết bằng chữ Hán, nếu được đọc theo âm Hán - Việt thì xét riêng về âm vận, không có gì xa lạ với truyền thống cảm thụ nghệ thuật của người Việt Nam. Hơn thế, trong nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã sử dụng Hán tự như thứ chữ viết chính thức để sáng tạo nên nền văn học viết của mình với bao thành tựu rực rỡ từ Thơ đuổi giặc (Thoái lỗ thị) của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, từ rất nhiều thơ phú của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn cho đến Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền… Các tác phẩm ưu tú của nhiều thế hệ Việt Nam tuy viết bằng chữ Hán nhưng nội dung mang tính dân tộc sâu sắc chắc chắn đã thấm sâu vào tâm hồn Người, bên cạnh các kiệt tác Đường Tống đã trở thành vốn quý trong kho tàng thơ ca cổ điển của nhân loại.

Mặt khác, ở thế hệ của Người, trong truyền thống gia đình của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học làm thơ bằng chữ Hán từ rất sớm, nên những khi xúc cảnh sinh tình thốt lên lời thơ bằng chữ Hán là một điều dễ hiểu. Đặc biệt, là ngôn phong của Đường thi vốn hàm súc, nhiều tính ước lệ, gợi nhiều hơn tả, sở trường ở “ý tại ngôn ngoại”, nói chung rất hợp với nhu cầu giải bày tình cảm bằng một lượng chất liệu cực kỳ tiết kiệm. Tất nhiên, ngôn ngữ thơ chữ Hán Hồ Chí Minh vẫn có những đặc điểm riêng, khác với thơ Đường mà chúng tôi sẽ cố gắng phân tích ở dưới.

Ấn tượng mạnh đối với người đọc thơ chữ Hán Hồ Chí Minh là tác giả đã sử dụng một cách tinh xác và thoải mái cả hai hệ thống của chữ Hán: văn ngôn (văn ngôn văn) và bạch thoại (bạch thoại văn)(*)

Trên đại thể phần lớn các bài thơ trữ tình không hướng tới một đối tượng cụ thể thì Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bằng văn ngôn, còn những bài có tính chất thù tiếp xã giao trong thời gian đi thăm Trung Quốc, nói trực tiếp với nhân dân Trung Quốc thì Người dùng bạch thoại.

Đương nhiên, sự phân chia ấy cũng chỉ có tính chất tương đối.

Trong Ngục trung nhật ký và cả trong tập Thơ Hồ Chí Minh đều có rất nhiều bài viết theo lối văn ngôn chặt chẽ. Từ ngữ, cú pháp và cả thi pháp đều rất điển hình theo lối thơ Đường cổ điển.

Trong Ngục trung nhật ký, đó là các bài Khai quyển với các câu:

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngân thả đãi tự do thì.

Thế lộ nan:

Vô nại phong ba bình địa khởi,
Tống dư nhập ngục tác giai tân.

Trung thu (nhị)

Tâm tùy thu nguyệt cộng du du.

Dạ túc Long Tuyền

Cách lân hân thính hiểu canh đề

Điền đông

Tân như quế dã, mễ như châu…

Và rất nhiều bài khác: Nạn hữu xuy địch, Vọng nguyệt, Hoàng hôn, Tẩu lộ, M, Tảo giải, Dạ lãnh, Bán lộ đáp thuyền phó Ung, Thuỵ bát trước, Ức hữu, Lại sang, Chiết tự, Tảo tình, Thanh minh, Thu dạ, Tình thên, Khán (Thiên gia thi) hữu cảm, Tân xuất ngục học đăng sơn…

Đó cũng là hầu hết các bài trong tập Thơ Hồ Chí Minh. Ngôn ngữ các bài ấy mang đậm chất ngôn ngữ thơ Đường.

Ngược lại cú pháp bạch thoại rất rõ nét trong các kết cấu sau:

Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão.
Một nhân tống phạm hám da nương.
(Tù lương)

Dân gian đổ bác bị quan lại.
(Đổ)

Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
(Tự miễn)

Can tịnh tù lung hảo vệ sinh
(Long An Lưu sở trường).

Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy
Nhĩ yếu đa hoa kỉ khối tiền
(Lữ quán)

Sử nhân đỗ tử chiến căng căng
(Nam Ninh ngục)

Vẫn giai giải phược cấp tha thụy
(Mạc ban trướng)

Khả tích tha bào bán lí tử,
Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai.
(Tha tưởng đào)

Đặc điểm chung của các kết cấu này là tính chất khẩu ngữ. Đi vào câu thơ Đường luật, chúng có lúc vượt ra ngoài niêm luật bằng trắc. Một số người nghiên cứu khi phiên âm các bài thơ này đã điều chỉnh thanh điệu của âm chữ (môn>mão; bão>bào v.v…) nhằm gò chúng vào cái khuôn niêm luật. Thiết tưởng làm như vậy là không thỏa đáng. Đúng ra, những bài thơ như vậy, nhất là những câu đã dẫn, phải đọc bằng âm bạch thoại mới diễn đạt hết dụng ý của tác giả.

Điều đáng nói hơn, chính là ở những bài mà tác giả đã sử dụng tài tình cả hai hệ thống văn ngôn và bạch thoại kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, hài hòa.

Một vài thí dụ:

Khuyến quân thả ngật nhát cá bão
Bĩ cực chi thời tất thái lai
(Tảo,2)

Khẩu bát năng thuyết đích,
Chỉ lại nhãn truyền ngôn.
(Nạn hữu chi thê thám giam)

Các liên từ nhân vị, sở dĩ, hạch nhi trong bài Tứ cá nguyệt liễu cũng thuộc loại đó.

Ở đây, xin dừng lại chốc lát trên bài Chính trị bộ cấm bế thất để làm rõ đặc điểm này. Bài tứ tuyệt ấy như sau:

Nhị xích khoát hề tam xích trường,
Tứ nhân trú thử nhật bàng hoàng.
Yếu thân thân cước, dã bất khả,
Nhân vị nhân đa, thiểu địa phương.

Màu sắc văn ngôn nổi lên rất rõ ở hai câu đầu, với cú pháp nhắc đôi câu chen trợ từ ngữ khí “hề” đặc trưng của Sở từ, với trạng ngữ đơn viết Nhật đặt trước động từ song tiết bàng hoàng là một điệp vận.

Ngược lại ở hai câu sau, kiểu lặp lại động từ đơn tiết trước bổ ngữ trực tiếp thân thân cước, cách dùng phó từ (cũng), liên từ nhân vị và nhất là kết cấu thiểu địa phương đều đặc trưng cho cú pháp bạch thoại.

Sự đối lập về ngôn phong giữa hai câu đầu và hai câu sau làm bật lên cái ý vị mỉa mai châm biếm, miêu tả một cách tài tình cái phòng giam của Cục chính trị.

Xin lưu ý rằng các bản dịch đã có từ trước đến nay chưa chú ý đến đặc điểm ngôn phong này. Riêng bài trên, xin đề nghị một lời dịch như sau:

Ba thước dài chừ hai thước rộng,
Quanh quẩn bốn người sống ở trong.
Muốn duỗi cái chân, không duỗi được,
Bởi chưng đất chật, lại người đông.

Trái với tình hình trên đây, bài Công lí bi (Một cây số) cả bài được viết bằng hệ thống văn ngôn chặt chẽ, toát lên ý vị trang trọng ngợi ca. Bởi thế, trong cặp câu cuối bài:

Nhĩ công dã bất tiểu
Nhân nhân bất nhĩ vương (vong)

Cần lưu ý kết cấu cú pháp đại từ nhân xưng nhĩ làm tân ngữ của động từ vong trong câu phủ định (có phó từ bát) nên đặt trước động từ ấy. Đó là một kết cấu cú pháp điển hình cho tiếng Hán thời thượng cổ(4).

Trong tương quan ấy, chúng tôi cho rằng không nên hiểu là phó từ và dịch là “công anh cũng không nhỏ” mà nên coi là trợ từ ngữ khi ngắt sau chủ ngữ của câu.

Cũng như vậy, cú pháp đặc trưng văn ngôn trong bài Các báo: Hoan nghênh Ủy ki đại hội tô đậm sắc thái mỉa mai của cả bài, nhất là trong 4 câu cuối:

Đồng thị đại biểu dã,
Đãi ngộ hồ huyền thù ?
Nhân tình phân lãnh nhiệt,
Tự cổ thủy đông lưu.

Xét riêng trên bình diện sử dụng ngôn ngữ, việc kết hợp nhuần nhuyễn cả hai hệ thống văn ngôn và bạch thoại như vậy là một đặc điểm quan trọng khiến Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh chẳng những là sự tiếp nối cái mạch thơ chữ Hán của các thế hệ thi nhân Việt Nam trước kia mà còn đem đến cho thơ chữ Hán Việt Nam một chất lượng mới, phản ánh sự giao lưu và tiếp xúc ngôn ngữ Trung Quốc - Việt Nam trong thời hiện đại.

Đặc điểm thứ hai dễ nhận thấy là tính bình dị của ngôn ngữ. Thơ hay bao giờ cũng bình dị.

Bình dị trong cách dùng từ. Theo thống kê của chúng tôi, nhà thơ Hồ Chí Minh đã dùng vẻn vẹn 1330 chữ Hán trong tổng số ngót 5 vạn chữ Hán hiện có. Trừ một số rất ít chữ là tên riêng như Ung (Nam Ninh), Dụ (Thượng Hải)… hầu hết đều nằm trong bảng chữ Hán tối thiểu, thuộc số những chữ có tần số sử dụng cao nhất.

Bình dị cả trong cách đặt câu. Hầu như không có một câu nào rắc rối khó hiểu về mặt cú pháp.

Song song với tính bình dị là tính chính xác cao độ, đạt tới mức tinh xác.

Xin nêu một vài thí dụ.

“Quân cơ”, “quân sự” và “quân vụ” trong các câu:

Quân cơ quốc kế thương đàm liễu,
(Đối nguyệt: Vô đề)

Yêu ba thâm xứ đàm quân sự
(Nguyên tiêu)

Quân vụ nhưng mang vị tố thi
(Báo tiệp)

Các bài dịch đều chuyển sang tiếng Việt là “việc quân” (cũng khó dịch hơn được) nhưng những ai biết tiếng Hán đều hiểu được sự khác nhau giữa 3 từ trong nguyên tác:

Quân cơ chỉ việc cơ mật trong quân, quân vụ chỉ sự vụ của quân đội, còn quân sự là từ chung nhất chỉ mọi hoạt động của lực lượng vũ trang.

Cũng như vậy, các ngòi bút phiên dịch đều cảm thấy lúng túng trước các từ chính nhân hành nhân xuất hiện cạnh nhau trong chùm thơ Tảo giải:

Chính nhân di tại chính đồ thượng
(bài I)

Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
(bài II)

Đó cũng là trường hợp của Vĩnh và trường trong:

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
(Khai quyền)

Tố sự thung dung nhật nguyệt trường
(Thất cửu)

Càng ngẫm nghĩ càng thấm thía cái tinh tế tài tình của tác giả trong một chữ dùng, như chữ ma chẳng hạn, ở câu:

Yếu đáo ngục trung căn trước ma
(Tân Dương ngục trung bài)

Ma chứ không phải mẫu hoặc nương vì đây là lời của một em bé “vừa nửa tuổi”.

Các cụm từ thướng sơn đăng sơn đều dịch là “lên núi”. Nhưng trong sự tinh tế của từ vựng tiếng Hán thì đăng khác thướng ở chỗ đăng có hàm nghĩa “đi bộ lên”, còn thướng thì không quan tâm đến phương hướng (dĩ nhiên còn có sự đối lập bằng trắc trong thanh điệu).

Những thí dụ như vậy nhiều không kể xiết. Truyền thống thi pháp Trung Hoa đã từng có giai thoại “thôi xao” nổi tiếng, chính là trong ý nghĩa đó.

Thế đối lập ngữ nghĩa giữa ma đăng (dịch âm tiếng Anh modern) và hiện đại hiện ra chủ yếu là trên sắc thái biểu cảm.

Tự cung trong câu:
Tự cung thanh đạm tinh thần sảng
(Thất cửu)

dịch là “sống cách thanh đạm” thì cũng là tạm dịch vậy thôi, chứ đâu đã truyền đạt đến được hàm lượng ngữ nghĩa rất xác định của nó.

Những từ như xuất cung trong câu:

Xuất cung đã bị nhân chế tài
(Hạn chế)

rõ ràng đã được cân nhắc kỹ để tránh sự khiếm nhã mà bản dịch đã không tránh được (Đến buồn đi ta cũng không cho)

Thiên lượng - trong câu:

Tất cảnh tỉ đồ bộ phiêu lượng
(Tháp hỏa xa vãng Lai Tân)

cũng là một trường hợp khó tìm được từ thay thế trong nguyên tác.

Chỉ xin thêm một thí dụ về các đại từ nhân xưng. Đại từ nhân xưng (nói rộng ra là từ nhân xưng) vốn là một phạm trù khá phức tạp trong các ngôn ngữ tiếng Hán, tiếng Việt, nhất là tiếng Hán cổ.

Trong bài Trưng binh gia quyến, tác giả đã phân biệt rất tế nhị từ tự xưng thiếp trong quan hệ hô ứng với Lang quân ở hai câu đầu:

Lang quân nhất khứ bất hồi đầu,
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu;

với ở hai câu cuối trong quan hệ với đương cục và với người đối thoại.

Đương cục khả liên tịch mịch,
Thỉnh lai tạm trú lao tù.

Cũng như tiếng Việt, tiếng Hán là ngôn ngữ thanh điệu. Âm vận học là một ngành rất phát triển của ngôn ngữ học Trung Hoa. Thanh điệu được thi pháp Trung Hoa chú ý rất sớm. Với Đường luật, quy tắc phối hợp thanh điệu trong các câu thơ đã được ngiên cứu tỉ mỉ và chặt chẽ thành các mô hình bằng trắc nghiêm ngặt và các yếu quyết “nhất tam ngũ bát luận nhị tứ lục phân minh” v.v.

Nhưng, cũng như các thi nhân chân chính khác, nhà thơ Hồ Chí Minh không chịu để cho hình thức thể loại trói buộc khi hình thức ấy tỏ ra bất lực trước những cảm xúc mạnh mẽ, những suy nghĩ sâu sắc của mình.

Sự luân phiên bằng trắc vốn có tác dụng làm cho âm thanh trở nên êm ái, dịu ngọt. Nhưng khi cần thiết phục vụ nội dung. Người sẵn sàng hạ những câu toàn thanh trắc:

Lục nguyệt nhị thập tứ
(Thướng sơn)

hay:

Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ
(Phỏng Khúc Phụ)

Đường cong âm điệu của câu thơ như vậy thật hiếm trong lịch sử thơ ca, gợi lên cho trí tưởng tượng của người đọc những ấn tượng rất mạnh.

Ngược lại, Người cũng đã viết một câu thơ 7 chữ toàn thanh bằng:

Ô hô phu quân hề phu quân
(Dạ báo văn khốc phu)

nghe như một tiếng khóc than ai oán.

(Bản dịch năm 1983 của nhà xuất bản Văn học:

Than ôi, chàng ơi! Hỡi chàng ơi!

Chúng tôi đề nghị thay Hỡi bằng Hờ để giữ nguyên âm điệu 7 chữ toàn bằng của nguyên tác).

Sự tinh xác cũng được thể hiện trên cấp độ cú pháp.

Trong bài Vọng nguyệt chẳng hạn, cặp câu:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

với cú pháp sóng đôi chung một động từ khán làm vị ngữ, có sự hoán vị giữa “người” và “trăng” trong vai trò chủ ngữ và tân ngữ, đã thể hiện tài tình mối giao hòa tình cảm giữa một người tù vĩ đại, giàu cốt cách thi nhân với một thiên nhiên mĩ lệ đầy thi vị một mối giao hòa kỳ diệu mà song sắt nhà tù không thể nào ngăn chặn nổi.

Lại lấy một cặp khác làm thí dụ, cặp câu:

Thùy yếu tẩy diện, vật phanh trà,
Thùy yếu phanh trà, vật tẩy diện.
(Phân thủy)

Cùng một cú pháp, với cùng ngần ấy yếu tố từ vựng, chỉ có các cụm từ “rửa mặt” và “pha trà” đảo lên đảo xuống, gợi lên một cảm giác luẩn quẩn bế tắc. Thêm vào đó vần trắc, dấu nặng của tiện diện gieo vào tâm trí người nghe một ấn tượng nặng nề đến khó chịu.

Trên câu là cấp độ bản (exte). Nhà thơ của chúng ta dành vị trí ưu tiên tuyệt đối cho thể thất ngôn tứ tuyệt. Trong tổng số 44 bài thất ngôn tứ tuyệt chiếm 134 (93%). Trong một bài tứ tuyệt, người ta chỉ có 28 âm tiết để dựng lên một kiến trúc hoàn chỉnh hài hòa gắn bó hình thức với nội dung. Với thơ tứ tuyệt người ta đạt tới đỉnh cao của sự hàm súc, vốn là phẩm chất hàng đầu của ngôn ngữ thơ.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không đề cập ở đây bình diện văn tự, một bình diện độc đáo của tiếng Hán, nhất là tiếng Hán trong thơ ca.

Không phải ngẫu nhiên mà ở Trung Quốc, thư pháp (phép viết chữ) với tác dụng tôn thêm vẻ đẹp của văn tự biểu ý, đã thực sự trở thành một bộ môn nghệ thuật.

Quả thật là trong khuôn khổ của Hán ngữ, người ta có thể nói đến một dạng tu từ học văn tự (stylistique graphique) đặc biệt phát triển ngoài các dạng tu từ học ngữ âm, tu từ học từ vựng, tu từ học ngữ pháp như vẫn thường thấy ở mọi ngôn ngữ.

Do đặc điểm của chữ Hán, người ta phát minh một lối thơ độc đáo, thơ chiết tự.

Đây là một trò chơi trí tuệ khá thú vị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết một bài thơ chiết tự như sau:

Tù nhân xuất khức hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung.
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản xuất chân long.
(Chiết tự)

Ý nghĩa của bài thơ gắn sát với hoàn cảnh thực của tác giả lúc bấy giờ.

Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,
Qua cơn hoạn nạn mới rõ lòng trung thành.
Người biết lo lắng thì ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cái then tre, thì con rồng chân chính sẽ bay.

Nhưng cái thần tình của bài thơ lại phải theo phép chiết tự mà cảm thụ:

Chữ tù bỏ chữ nhân ra, thêm chữ hoặc vào, thành chữ quốc;

Chữ hoạn bớt phần đầu đi thành chữ trung. Thêm chữ Nhân (đứng) vào chữ ưu trong ưu sầu thành chữ ưu trong ưu điểm;

Chữ lung bỏ trúc đầu thành chữ long.

Trên đây có thể xem là mấy suy nghĩ bước đầu của chúng tôi trong nỗ lực nghiên cứu toàn diện thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

P.V.C

(1) Nhật ký trong tù, in lần thứ ba, Viện Văn học dịch - chỉnh lý - bổ sung, Nxb Văn học, H. 1983.

(2) Hồ Chí Minh - Thơ, in lần thứ ba, Nxb. Văn học, H. 1975.

(3) Báo “Nhân dân” 13-5-1978 công bố 7 bài thì 6 bài trong số đó sau này được in vào Nhật ký trong tù, bản đã dẫn.

(*) Văn ngôn hay “văn ngôn văn” là hệ thống ngôn ngữ sách vở trên cơ sở tiếng Hán cổ, thông dụng ở Trung Hoa trước cuộc Vận động Ngũ tứ (1919). Thoạt đầu, khoảng trước đời Tần, thư ngôn ngữ văn hóa này đương nhiên có mối quan hệ khắng khít với khẩu ngữ đương thời. Song do nhiều nguyên nhân trong và ngoài ngôn ngữ, trong đó phải đặc biệt kể đến chính sách độc quyền lũng đoạn văn hóa và tấm lý sùng cổ của giai cấp thống trị Trung Hoa, văn ngôn tách dần khỏi khẩu ngữ. Được coi là hình thức ngôn ngữ chính thống, “cao quý” trong một thời kỳ lịch sử kéo dài mấy ngàn năm, văn ngôn trở nên khó hiểu, xa lạ với hoạt động nói năng phổ thông của toàn dân. Người Trung Hoa, trừ những người được đào tạo chuyên, không dễ dàng gì hiểu nổi các thư tịch, văn bản viết bằng thứ ngôn ngữ sách vở cổ kính ấy. Hầu hết thư tịch Hán văn của ta cũng viết bằng văn ngôn mà đặc trưng ngữ pháp đã được cha ông ta khái quát bằng bốn chữ “chi, hồ, giả, dã” là những hư từ tiêu biểu.

Bạch thoại văn là hệ thống ngôn ngữ viết của tiếng Hán hiện đại. Nó được hình thành trên cơ sở khẩu ngữ từ thời Đường Tống (thế kỷ VII-XIII) đến nay, thoạt đầu chỉ thấy trong các tác phẩm văn học thông tục, đến sau phong trào Ngũ tứ mới được ứng dụng phổ biến trong xã hội.

(4) Theo Vương Lực, Hán ngữ sử cảo, T.2, Nxb. KHXH, H. 1958, tr.297-358.

TB

TÌM HIỂU MÔ HÌNH HÌNH THANH TRONG CẤU TRÚC CHỮ NÔM

NGUYỄN NGỌC SAN

Trong các loại văn tự hình khối như chữ Hán và chữ Ai Cập cổ đại có một mô hình chữ được cấu tạo bằng hai thành tố: một ghi âm và một ghi ý; thường được người Hán gọi là loại chữ hình thanh. Sự xuất hiện của loại mô hình chữ này đã làm cho số lượng chữ tăng vọt lên vì đó là một trong những phương pháp nảy sinh văn tự quan trọng nhất của loại văn tự hình khối. Ví dụ: chữ Hán thời giáp cốt và chung đỉnh (kim văn) chỉ bao gồm khoảng 1098 chữ, phần lớn cấu tạo theo các phép tượng hình, chỉ sự và hội ý. Năm 213 trước Công lịch, Lý Tư đời Tần đặt ra lối chữ tiểu triện thì chữ Hán cũng mới chỉ bao gồm khoảng 3.300 đơn vị. Đến khi có phép giả tá (thực chất là cách dùng chữ cũ ghi từ mới chứ không phải là cách tạo chữ mới) thì chữ Hán bắt đầu ngã sang xu hướng ghi âm nhưng lượng chữ không tăng. Đến đầu Công nguyên, khi phép hình thanh ra đời thì chỉ qua hai thế kỷ chữ Hán đã từ 7.380 đơn vị tăng lên đến ngót 40.000 đơn vị(1). Từ lúc này, chữ hình thanh chiếm một tỷ lệ áp đảo. Trong loại hình thanh, thành tố ghi ý gọi là bộ thủ, lúc đầu cũng là những đơn vị có ý nghĩa cụ thể; sau được trừu tượng hóa để trở thành một phạm trù nghĩa. Bộ thủ có từ thời Tiên Tần nhưng chia thành hệ thống hoàn chỉnh, đến bộ tự điển đầu tiên là Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán mới được liệt kê thành hệ thống, thời Ngụy Tân lại được chọn lựa và xếp thành 214 đơn vị, từ đó được coi là hệ thống ổn định và được sử dụng cho đến ngày nay. Bên cạnh hệ thống bộ thủ làm thành tố ghi ý, chữ hình thanh cũng sử dụng một hệ thống đơn vị ghi âm hạn chế mà P. Wieger (trong sách đã dẫn) đã liệt kê ra được 858 đơn vị. Sở dĩ chữ Hán có nhiều bộ thủ như vậy là vì tiếng Hán trong quá trình phát triển đã ngày càng bớt dần số lượng âm tiết do sự nhập một cách thanh mẫu, và sự triệt tiêu của một số âm cuối. Ví dụ tiếng Hán thượng cổ có các âm cuối g, d, r đã bị triệt tiêu trong tiếng Hán trung cổ(2). Vì vậy số lượng từ đồng âm (kể hoặc không kể thanh điệu) ngày càng lớn, có trường hợp có tới 27 từ đồng âm. Do thực trạng này người Hán có thể lợi dụng một âm có sẵn rồi thêm yếu tố khu biêt nghĩa (bộ thư) vào bên cạnh để tạo chữ mới.

Các nhà nghiên cứu chữ Nôm từ trước đến nay như Dương Quảng Nam, Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Nguyễn Tài Cần, Lê Văn Quân… đều cho rằng trong chữ Nôm cũng có mô hình cấu tạo hình thanh được xác lập bởi hai thành tố có quan hệ hình + thành hoặc âm + Ý. Vẽ tự dạng, loại này rõ ràng cũng bao gồm hai thành tố: một biểu âm và một biểu ý như hệt trong chữ Hán. Các nhà nghiên cứu cho rằng hai thành tố có giá trị ngang bằng nhau trong việc tham gia xác lập nên mã chữ, bộ thủ trong chữ Nôm cũng có giá trị tương đương như bộ thủ trong chữ Hán.

Thực ra nhìn toàn bộ quá trình phát triển ta thấy trong chữ Nôm có những đặc trưng riêng. Trước hết nó ít có tác dụng khu biệt từ dòng âm do chỗ số lượng âm tiết Việt khá phong phú nên số từ đồng âm ít hơn với tiếng Hán. Yêu cầu phân biệt các từ đồng âm trong tiếng Việt không phải không có nhưng nó không bức thiết như trong tiếng Hán, thiếu nó cũng không gây ra một sự rối loạn đáng kể nào. Trong chữ Nôm các từ đồng âm vẫn có thể ghi chung một chữ, ví dụ “Khôn” trong “khôn khéo”. “khôn” là khó và “khôn” trong “càn khôn” đều có thể ghi bằng chữ ( 坤 ). Muốn khảo sát mô hình này cần đi sâu tìm hiểu giá trị của từng thành tố, nhất là thành tố ghi ý.

Ta biết ngôn ngữ và văn tự là hai hệ thống tín hiệu liên quan mật thiết với nhau, song những diễn biến ở ngôn ngữ không tác động đều nhau vào trong lãnh vực văn tự, vì nói chung văn tự mang tính ổn định hơn. Tuy nhiên, ngôn ngữ vẫn có thể tác động vào một bộ phận nào đấy của văn tự, điều này thể hiện rất rõ trong chữ Nôm là thứ văn tự không có tính điển chế cao.

Nhìn lại quá trình phát triển của chữ Nôm ta thấy ở các văn bản Nôm buổi đầu, mô hình giả tá còn chiếm tỉ lệ cao. Ở mô hình hình thanh, bộ thủ chưa có tác dụng biểu ý rõ rệt mà nhiều khi còn được sử dụng một cách khá tùy tiện. Ví dụ trong sách Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh từ “mắng” là nghe khi thì viết là (khẩu + mãng), khi thì viết là (xa + mãng), từ “bảy” (số đếm) khi thì viết là bãi, khi thì viết là (thủ + bối); trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa từ “cháu” có thể viết là “chiều”, từ “siêng” có thể viết là (khẩu + sinh)… Các bộ thủ trong mô hình hình thanh lúc đầu còn phát triển một cách dè dặt. Số chữ Hán đọc chệch không mang kí hiệu nháy, cá vẫn chiếm tỉ lệ rất cao. Khi tỉ lệ số chữ đọc chệch không nháy, cá tăng lên tới một mức nào đó thì nó gây trở ngại cho người đọc và sự biến lượng này tạo ra sự biến chất. Ký hiệu nháy cá được tăng lên để giải quyết mối mâu thuẫn giữa âm đọc mới và hình thức văn tự cũ. Cùng với nháy, cá các bộ thủ cũng được sử dụng nhiều hơn nhưng lúc này nó mang tính chất trung gian, chưa có tác dụng biểu ý rõ ràng mà cũng chỉ mới có tính chất báo hiệu đọc chệch.

Theo sự thống kê cho biết, từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII số lượng chữ theo mô hình hình thanh trong chữ Nôm phát triển khá mạnh và ồ ạt. Nhìn hình thức thì có vẻ như chữ Nôm càng ngày càng thiên về xu hướng ghi ý, điều này trái với quy luật chung về sự phát triển của văn tự thế giới nói hcung cũng như của loại văn tự hình Khối nói riêng. Ví dụ chữ Hán lúc đầu cấu tạo theo các phép tượng hình, chỉ sự, hội ý là những phương pháp chỉ dựa vào nét vẽ hoặc biểu tượng (hyroglyphique và figuratif) sau này đến phép giả tá và hình thanh thì đã dựa vào âm. Theo G. Pauthiev(3) thì ở chữ Hán có 1827 đơn vị chỉ trỏ khái niệm không gợi âm, có 21000 đơn vị gợi âm, tượng hình thuần túy chỉ có khoảng 900 đơn vị chữ Hán - Nhật và Hán - Triều trong quá trình phát triển cũng phải đi dần vào xu hướng ghi âm và tạo ra nhữgn đơn vị phi Hán như lối chữ I-mun của Triều Tiên và lối hòa tự Ka-na trong chữ Nhật. Chữ Nôm chắc chắn cũng phải đi theo xu hướng ấy. Vậy thì giải thích thế nào về sự phát triển mạnh mẽ của các thành tố biểu ý của giai đoạn cuối ?

Như đã biết, các nhà nghiên cứu trước đây nói chung đều coi mô hình hình thanh trong chữ Nôm cũng giống như mô hình hình thanh chữ Hán vì nhìn bề ngoài cả hai loại đều chứa hai thành tố: một biểu âm và một biểu ý. Nhưng nếu ta đi sâu nghiên cứu theo mặt định chất các thành tố trên thì ta thấy chúng có những sự khác nhau cơ bản:

Ở loại hình thanh của chữ Hán âm của thành tố biểu âm và âm của toàn chữ thường trùng nhau. Ví dụ:

Ở chữ Hán:

( 迷 ) mí mê hoặc

( 謎 ) mí câu đố

( 醚 ) mí chất e te

( ) mi không mở được mắt…(4)

Ở đây ta thấy thành tố biểu ý nằm ngoài âm của chữ, không tham gia vào sự xác lập âm của chữ. Nó chỉ có tính chất nhấn ý, bổ sung ý cho các chữ đồng âm. Có thể biểu thị bằng sơ đồ sau:

Chúng tôi dùng chữ nhấn ý là vì theo lý thuyết thì ý nghĩa của chữ - dù là chữ hình khối chăng nữa - đã được thể hiện bằng cái vỏ vật chất âm thanh của nó. Toàn bộ khái niệm mà chữ biểu thị đã nằm. Do đó, thể kết hợp âm - ý trong chữ Hán và chữ Ai Cập cổ đã mang trong nó một mối quan hệ bổ sung. phần ý làm sáng tỏ thêm khái niệm của từ đã chứa sẵn trong hình ảnh âm thanh (image acoustique) được biểu thị bằng thành tố biểu âm. Vì vậy ở đây thành tố biểu ý nặng về tính chất thần văn (hiroglyphique). Tín hiệu ngôn ngữ nào cũng mang trong bản thân nó cả hai mặt: mặt hình ảnh âm thanh và mặt khái niệm. Sự phân tích mặt ý tách rời khỏi mặt âm hay ngược lại, chỉ có tính chất tạm thời khi đòi hỏi phải đi sâu cực đoan vào một trong hai mặt đó. Trong thực tế ngôn ngữ sinh động - khí cụ của giao tế - thì hai mặt trên thống nhất liền với nhau trong một tín hiệu ngôn ngữ - văn tự.

Ở chữ Nôm sự phân tích thể kết hợp âm - ý này từ trước đến nay vẫn mang tính chất logic hình thức. Nó tách rời hai mặt khỏi nhau và do định kiến của chữ Hán, nó cũng coi thành tố biểu ý như một yếu tố tự thân. Trong mô hình hình thanh của chữ Nôm, thành tố biểu âm trong nhiều trường hợp không thể hiện được âm của toàn chữ do đó cũng không thể nào biểu thị được khái niệm của từ. Lúc này thành tố biểu ý giữ vai trò quan trọng, nó bổ sung cho thiếu sót trên, nó bổ trợ cho thành tố biểu âm vươn tới được cái vỏ vật chất âm thanh của chữ và cũng từ dó mới biểu đạt được khái niệm của chữ. Ví dụ hình thức “bộ thủy + nặc” không đưa ra được một khái niệm rõ ràng nào cả nếu không từ âm “nặc” dùng khái niệm về “chất lỏng” để định hướng mà vươn tới được âm “nặc” (hình thức cổ của “nước”) có thể giải thích ngay được sự hiện diện của âm “nặc” và của cả bộ “thủy” nữa. Thành thử quan hệ âm ý ở đây là một mối quan hệ biện chứng, các yếu tố xâm nhập vào nhau và bổ khuyết cho nhau. Sự gợi ý làm vươn tới được âm của chữ và khái niệm mà âm này thể hiện lại giải thích được sự gợi ý ấy. Ta có thể mô tả mối quan hệ trên bằng sơ đồ sau:

Âm B được gợi ra do sự kết hợp của hai thành tố chứ không phải chỉ do thành tố biểu âm. Rõ ràng thành tố biểu ý đã tham gia vào việc xác lập nên âm B, nó đóng vai trò dẫn âm A chuyển sang âm B hay nói theo kiểu chúng tôi là nó có chức năng chính âm.

Do đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thành tố biểu ý từ cuối thế kỷ XVII là điều có thể giải thích được. Ta biết rằng đến thế kỷ XVII ngữ âm tiếng Việt đã trải qua nhiền biến chuyển lớn. Tiếng Việt ngay từ đầu thế kỷ XII đã có những biến đổi ngữ âm như sự xuất hiện sáu thanh điệu. Các âm đầu nổ điếc chuyển thành các âm tiền thanh hầu hóa, sự môi hóa của các âm này xảy ra sau đó, các sự biến đổi s>t ở thế kỷ XV, s>t ở thế kỷ XVI, b>v, tl>trong ở thế kỷ XVII v.v. Đến cuối thế kỷ XVII thì các quá trình biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt mới hoàn tất về cơ bản(5). Thêm nữa, về lí do lịch sử ta thấy đến thế kỷ XVIII địa bàn sinh sống của người Việt đã rất rộng. Các vùng đều có phương ngữ khác nhau và các phương ngữ này cũng phản ánh vào chữ Nôm sau thế kỷ XVII nhất là ở các thế kỷ XVIII, XIX làm cho sự so le giữa âm của thành tố biểu âm và âm của toàn chữ càng phức tạp hơn.

Vì thế, sự phát triển của các thành tố biểu ý ở các thế kỷ XVIII, XIX chính đã thể hiện sự bù đắp bằng hình thái văn tự trạng thái mất cân bằng giữa âm của thành tố biểu âm với âm của toàn chữ. Rõ ràng là các mã mang thành tố biểu ý lúc này lại có mục đích ghi âm được tốt hơn, tuy nhìn về hình thức người ta dễ có ấn tượng là nó đi thiên về xu hướng ghi ý. Cần có con mắt biện chứng mới phân biệt được rạch ròi sự xen kẽ giữa các thành tố âm, ý và thấy được bản chất của vấn đề.

Để có thể đọc được chữ Nôm, trong lúc này bộ thủ phải mất tính cách là một yếu tố báo hiệu chỉnh âm trước đó (thời Phật thuyết) mà phải có giá trị biểu ý, song nó vẫn chỉ mới tạo ra một luồng chỉnh âm dựa vào một trường nghĩa chung. Để bù đắp tốt hơn độ chênh ngày một lớn giữa âm của thành tố biểu âm và âm của toàn chữ, cái mô hình hình thành Hán gồm một trong 214 bộ thủ kết hợp với đơn vị ghi âm cũng không đủ đáp ứng được nhu cầu ghi chép của chữ Nôm lúc này. Chữ Nôm đã phá vỡ khuôn khổ và tạo ra cách ghi mới: dùng một đơn vị ghi âm kết hợp với một chữ Hán trỏ nghĩa cụ thể.

Khi xuất hiện các mã Nôm lấy chữ Hán làm thành tố biểu ý (lấy nghĩa chữ Hán làm nghĩa của chữ Nôm) thì trên đường phát triển chữ Nôm có tiến một bước mới. Nó không dừng lại ở việc biểu thị một vùng âm N mà có tính chất xác chí, nó giúp người đọc tìm ra một âm N cụ thể, có thể gọi là N1 chẳng hạn. Khi chữ Hán làm thành tố biểu ý quả đã phát sinh hiệu lực rồi thì nó tạo ra một xu hướng xác chỉ hóa làm cho bộ thủ được dùng một cáh chuẩn xác hơn, không tùy tiện như lúc đầu. Ở các văn bản Nôm thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX việc sử dụng bộ thủ đã rất chặt chẽ. Xu hướng xác chỉ hóa này tạo thành một áp lực làm cho một số ít các mã không có nhu cầu hcỉnh âm thực tế nhưng vẫn cùng bộ thủ. Đây là trường hợp mà chúng tôi gọi là chỉnh âm nhấn, ví dụ:

Sở dĩ gọi là chỉnh âm nhấn là vì tuy âm Hán Việt của thành tố biểu âm và âm của toàn chữ trùng khít nhau nhưng trong thực tế đọc chữ Nôm thì:

- Có thể có sự chỉnh âm giữa thành tố biểu âm với âm của chữ do người viết ảnh hưởng phương ngữ các miền khác nhau nhưng người đọc ở vùng Bắc có thể không chú ý đến, ví dụ: nhai ( 孡) đọc là nhơi (cuốn Bảng tra chữ Nôm ghi: Trâu nhơi cỏ) hoa ( 嵻 ) - đọc là huơ , như huơ chân múa tay.

- Trong trường hợp thành tố biểu âm có nhiều cách đọc theo âm Hán Việt chữ Nôm dùng thành tố biểu ý để xác định một cách đọc cụ thể tùy theo văn cảnh, ví dụ:

() đồn (đại) - vì ( 屯 ) có 2 âm là “đồn” và “truân” dùng bộ khẩu để loại trừ âm “truân” () mang (xách) - vì (芒) có 2 âm là “vong” (Từ nguyên phiên là “vô phòng thiết”) và “mang”, nên thêm bộ tài gẫy để loại trừ âm “vong”.

- Trong trường hợp thành tố biểu âm có nhiều khả năng đọc chuyển theo âm Nôm, có cách đọc khác nhau tạo thành khả năng và có tính kế thừa, vì vậy cũng phải dùng thành tố biểu ý để xác chỉ âm đọc của mã chữ, ví dụ:

( 妕) (con) cáo - vì (告) có các cách đọc Nôm như: ( 浩 ) cáu (bẩn); (@) cao; (告 ) Cáo.

Qua những điều trình bày sơ lược trên chúng ta có thẻ rút ra những nhận xét sau: hình thanh trong chữ Nôm không phải nhất thành bất biến như trong chữ Hán mà có sự phát triển theo từng thời kỳ một: Lúc đầu tỉ lệ chữ hình thanh còn ít và bộ thủ còn chưa có tác dụng biểu ý rõ rệt. Ở giai đoạn hậu kỳ của chữ Nôm tỉ lệ của nó tăng lên, bộ thủ có tác dụng biểu ý hơn, bên cạnh hộ thủ xuất hiện những chữ Hán làm thành tố biểu ý tạo ra một kiểu loại mô hình thanh riêng cho chữ Nôm có ý nghĩa xác chí.

Sự phát triển của mô hình hình thanh trong chữ Nôm nhằm đáp ứng và bắt kịp những biến đổi trong địa hạt ngôn ngữ, cụ thể là những biến đổi lịch sử của ngữ âm tiếng Việt.

- Chức năng chủ yếu của thành tố biểu ý trong mô hình hình thanh của chữ Nôm, xét cho cùng, cũng giống như nháy, cá hay các thành tố chỉnh âm đầu ba, cự, a… v.v. là nhằm lái thành tố biểu âm đọc cho đúng được âm của chữ, nói theo kiểu chúng tôi là chúng đều đồng quy vào một chức năng chung là chức năng chỉnh âm.

- Từ điển vừa trình bày trên có thể thấy rõ là thành tố biểu ý chỉ đóng vai trò một thành tố phụ giống như nháy, cá,… không nên coi thành tố biểu âm và thành tố biểu ý là những thành tố có chức năng và giá trị ngang bằng nhau. Ở đây thành tố biểu âm bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng hơn, nó là thành tố chính trong mã chữ.

- Cũng từ đó ta thấy rõ chữ Nôm có tính chất ghi âm rõ rệt hơn chữ Hán, tất nhiên là ghi âm theo kiểu riêng của nó, lấy các âm tiết Hán - Việt các đơn vị ghi âm của chữ Hán làm cơ sở.

CHÚ THÍCH

(1) Theo P. Wieger trong Caractères, 1916.

(2) Theo B. Kanlqren trong Gramataserike - Script and pionstics in chinose and Sino Japanes, The museum of Far Eastern antiquities, Buhotin No 12, Stockholm, 1940.

(3) Trong cuốn: Sinico, Eguptisca, Essai sur lòufine et la formation similaire des écritures figuratives chinoises et Eguptiênn, Paris,1942.

(4) Chúng tôi dựa vào hai đại bộ phận các trường hợp. Trong thực tế hiện nay có thể có một số chữ cùng thanh phù nhưng cách đọc khác nhau. Tuy nhiên, nếu xét ở thời điểm cấu tạo chữ Hán thì thanh phù này vẫn có một cách đọc thống nhất. Ví dụ 1 trong các chữ “giang”, “hồng”, “không” ở Thời thượng cổ có thể cùng một thanh mẫu.

(5) Căn cứ các công trình của H.Haudrricourt M.Ferlus, Maspéro, Nguyễn Tài Cẩn v.v.

TB

VỀ CÁCH GHI TỪ HÁN VIỆT TRONG
VĂN BẢN NÔM

NGUYỄN THỊ LÂM
NGUYỄN MINH TÂN

Thông thường, đối với loại từ Hán Việt thì trong văn bản Nôm phải ghi đúng như trong văn bản Hán, bởi lẽ đây là trường hợp vừa vay mượn văn tự vừa vay muôn ngôn ngữ. Điều này đã từng được một số nhà nghiên cứu khẳng định(1). Khi gặp những từ thuộc loại này như chữ “sơn” chữ “hà” trong một câu thơ bằng chữ Nôm: “Ba thu gánh vác sơn hà”(2) thì ta cũng viết, đọc và hiểu chúng như ở trong một câu bằng chữ Hán: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”(3). Song thực tế lại cho thấy rằng không phải lúc nào chúng ta cũng bắt gặp một sự trùng hợp hòan toàn như thế. Về điểm này, dường như từ trước tới nay mới chỉ có những gợi ý bước đầu(4), chứ chưa ai đặt thành vấn đề để đi sâu vào. Mục đích của bài này là khảo sát một số văn bản Nôm nhằm soi sáng cho vấn đề đang còn tồn tại đó.

Nhằm mục đích đã nêu, chúng tôi khảo sát 10 tác phẩm sau đây trong kho sách của Viện Hán Nôm:

1. Ức Trai Quốc âm thi tập, ký hiệu AB.139.

2. Xuất gia sa di Quốc âm thập giới, ký hiệu AB. 366.

3. Hành Tham quan gia huấn diễn âm, ký hiệu AB.108.

4. Dụ Am văn tập, ký hiệu VHv.1525.

5. Đại Nam quốc sử diễn ca, ký hiệu AB.1.

6. Kim Vân Kiều tân truyện, ký hiệu VNb.10.

7. Nhị độ mai diễn ca, ký hiệu VNb.22.

8. Song phượng kỳ duyên, ký hiệu AB.399.

9. Ngọc Hoa cổ tích truyện, ký hiệu AB.60.

10. Quan âm chú giải tân truyện, ký hiệu AB. 46 v.v..

Qua kết quả điều tra, chúng tôi nhận thấy rằng: Đúng như các nhà nghiên cứu đã khẳng định, trường hợp ghi đúng như trong văn bản Hán là chủ đạo và chiếm tỉ lệ cao nhất, nhưng những trường hợp đi ra ngoài nguyên tắc này cũng không phải là không đáng kể, nếu muốn đi sâu vào để thấy toàn bộ thực tế của loại từ Hán Việt trong văn bản Nôm.

Từ những trường hợp ngoại lệ này, nếu căn cứ vào cấu trúc của chữ thì có thể tạm chia chúng thành các trường hợp như sau:

a. Không dùng chữ Hán cần thiết có sẵn mà lại dùng chữ khác đồng âm. Ví dụ:

Từ gốc Hán Việt Được ghi bằng Xuất xứ
檀 Đàn (Bạch Đàn) · Chí cao chẳng bảo ai hay Vượt qua Ngô quốc lấy cây bạch đàn.
(Ngọc hoa cổ tích truyện, tr.7)
後 Hậu (Hậu đường) Viên ngoại nghe đẹp dạ danh, Hậu đường bàn bạc tống hành nữ nhi.
(Song phượng kỳ duyên, tr.15)

Trường hợp này chiếm khoảng 0,7%.

So sánh cách ghi trong văn bản Nôm với từ gốc Việt có sẵn thì ta thấy đặc điểm nổi bật ở trường hợp này là chỉ ghi đúng mặt âm mà không ghi đúng mặt nghĩa của chúng. Chẳng hạn chữ “đàn” () chỉ có nghĩa là “đàn tế lễ” chứ không liên quan gì đến khái niệm “cây bạch đàn” hoặc chữ “hậu” (厚) có nghĩa là “dày” thì lại được dùng để ghi “hậu đường” (nhà sau) v.v.

b. Không dùng đúng chữ Hán cần thiết có sẵn mà lại dùng chữ khác gần âm, ví dụ:

Từ gốc Hán Việt Được ghi bằng Xuất xứ
堂 堂 Đường đường 當 唐 Đương đường Nói rồi truyền gọi lại nha, Đường đường như hết nỗi xa lỗ gần
· Đinh ninh 丁 丁 Đinh đinh Đinh ninh một việc đồng sàng, Chuyện riêng lại phụ mấy hàng dặm sau. (Nhị độ mai diễn ca tr.5, và 82).

So sánh như ở trường hợp trên, chúng ta thấy ở đây mới chỉ ghi được gần đúng mặt âm tròn nghĩa thì cố nhiên là khác. Tuy nhiên, trong quá tình lĩnh hội ý tứ của văn bản, người đọc vẫn tìm ra cách phiên âm đúng. Chẳng hạn ở ví dụ trên mặc dù trong văn bản ghi bằng “đương đường” nhưng nếu đặt vào trong ngữ cảnh thì không có cách phiên âm nào khác ngoài “đường đường”. Chúng ta cũng có thể hiểu một cách tương tự như vậy ở một ví dụ khác: “Nghe rằng tại xứ Nam sang”. (Song phượng kỳ duyên tr.5). Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 1977, giải thích: “Đường đường: chững chạc và oai nghi: đường đường một đáng anh hào (K)… Đàng hoàng minh bạch, không có gì úp mở”.

Trong cuốn Nhị độ mai, Nxb. Văn học, H. 1972, các ông Lê Trí Viễn và Hoàng Ngọc Phách đã phiên đường đường đường đường, đinh đinh đinh ninh. Theo chúng tôi nghĩ, cách phiên âm như vậy là phù hợp với tính cách tâm tư và tình cảm của nhân vật trong truyện. Song có thể đặt câu hỏi: liệu cách ghi trong văn bản Nôm có thể hiện cách đọc ở một thời kỳ nào trước đây hay không ? “Đường đường” “đinh đinh”, có phải là tiền thân của “đường đường”, “đinh ninh” không? Xét trong các từ thư và từ điển chữ Nôm hiện có như Từ điển Việt - La tinh của Pigneau de Béhaine, Từ điển Việt Pháp của Genibrel, Đại nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, kể cả Từ điển Việt - Bồ Đào Nha La Tinh của A.de Rhodes trước đó, chúng tôi chưa tìm thấy được chứng cứ nào đó có thể chứng minh cho vấn đề này. Có chăng phải chờ đợi ở những công trình khảo cứu về ngữ âm lịch sử sau này…

c. Đã dùng đúng chữ Hán cần thiết nhưng rồi lại tự tạo những yếu tố mới. Ví dụ:

Từ gốc Hán Việt Được ghi bằng Xuất xứ
禀 bẩm (khẩu + bẩm) Hoặc mấy người riêng bẩm chí cao mà hay nỗ lực lập công, ắt lại chịu âm thưởng nay càng hậu. (Canh Xuân thân nghĩ diệu quận quân thứ Quốc âm hiểu văn, tr.20)(5)
呈 Trình (khẩu + trình) Cùng nhau bàn mảnh trong nhà Xuân Sinh mách lẻo trình bà phu nhân. (Nhị độ mai diễn ca, tr.89)

Trường hợp này chiếm khoảng 0.25%

Đặc điểm của trường hợp này là người viết chưa thỏa mãn với những từ gốc Hán Việt sẵn có (tuy đúng cả âm lẫn nghĩa) mà còn gia thêm một bộ phận biểu nghĩa nữa. Như trường hợp chữ “bẩm” đáng lẽ ghi đúng là ( ) thì được ghi là “khẩu + bẩm” hoặc chữ “trình” đáng lẽ ghi đúng là (呈 ) thì lại được ghi là “khẩu + trình” v.v. Chúng tôi sẽ đề cập tới ở phần sau.

Nhận xét:

Từ những cách ghi như đã nêu ở trên, chúng tôi nhận thấy: cho dù chúng tồn tại ở bất kỳ dạng nào thì người đọc chữ Nôm vẫn hiểu đúng khái niệm mà tác giả muốn nói. Mặt này được quyết định một phần bởi ý nghĩa logic của đoạn văn, đoạn thơ. Song điều đáng quan tâm ở đây là vì sao dẫn đến những cách ghi đó mà không dùng đúng những từ Hán Việt có sẵn?

Điều đầu tiên có thể gây ấn tượng đối với chúng ta là có thể do tri thức Hán học còn non kém nên trong lúc ghi nhanh có thể nhầm lẫn hoặc không nghĩ ngay ra được chữ cần thiết dúng như ý muốn, vì vậy đành phải ghi tạm bằng chữ khác(6). Khả năng này cũng có thể xảy ra, vì trong thực tế rất có thể có người viết văn bản Nôm mà trình độ Hán học không cao. Nhưng nếu cho đó là lý do duy nhất thì e rằng chưa đủ sức thuyết phục vì qua các văn bản đã đọc, văn bản nào cũng tồn tại những cách ghi không đúng như Hán Việt mà chúng chiếm một tỷ lệ nhất định ngay cả trong văn bản của những nhà học giả uyên bác như Nguyễn Trãi, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du… nếu như được phép tin rằng những truyền bản còn lại gần với bản nguyên tác. Chẳng hạn từ “phụ bạc” (負 薄) được ghi bằng “phù bạc” (浮 薄) trong câu “Nói điều phụ bạc bất nhân”(7). Đó là những người có học và đỗ đạt cao thì không thể cho rằng ghi như thế là vì trình dộ Hán học bị hạn chế, mặc dù những trường hợp đó chiếm một tỷ lệ rất ít (khoảng 0.5%). Từ đây, chúng ta có thể nghĩ rằng mức độ viết từ Hán Việt không đúng có thể thay đổi tùy theo trình độ Hán học của tác giả nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách quan trong văn bản. Để hiểu được vấn đề này, có lẽ phải đi tìm một hướng giải thích khác qua việc điều tra nhiều trường hợp cụ thể.

Xin trở lại các ví dụ ở trường hợp a. Về mặt số lượng thì chúng chiếm một tỉ lệ cao hơn nhiều so với hai trường hợp b và c như đã nêu. Chúng tôi thấy nổi lên một xu thế chung có tính chất quán xuyến sau đây: coi trọng mặt âm của tiếng cần ghi. Việc không dùng ngay chữ Hán tương ứng chính xác mà lại dùng chữ Hán chỉ tương ứng về âm đã xẩy ra với toàn bộ các chữ ở trường hợp a, là tác giả chỉ chú trọng ghi cho sát âm mà ít lưu tâm tới nguồn gốc của khái niệm mà mình đưa ra. Người đọc dễ nhận thấy rằng mặt từ nguyên gốc hơi bị coi nhẹ mà chỉ ghi đúng mặt âm (ở trường hợp a) hoặc gần đúng (ở trường hợp b). Điều đó nói lên một tình hình thực tế: trong chữ Nôm, mặt âm có vai trò quan trọng, nhu cầu ghi đúng âm có lúc được đặt ra trước hết, còn mặt từ nguyên - mặt ý nghĩa không phải là vấn đề đòi hỏi cấp bách. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng: gắn liền với vấn đề coi trọng mặt âm thường là có xu thế đơn giản hóa trong cách ghi những chữ thuộc các trường hợp này. Biểu hiện rõ nhất là người viết chọn những chữ ít nét và thông dụng để ghi những chữ vốn phức tạp hơn. Nếu chúng ta đem so sánh giữa cách ghi trong văn bản Nôm với các từ gốc Hán Việt có sẵn thì phần lớn chúng có xu thế gọn, đơn giản hơn. Mặt khác chúng ta biết rằng đã nói đến chữ Nôm là nói đến địa hạt văn tự. Bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng: viết như thế nào cho tiện lợi đơn giản và phản ánh chính xác âm, nghĩa của từ được ghi. Lịch sử chữ Nôm đã chứng minh có sự giản hóa, tất yếu cũng ảnh hưởng tới những trường hợp cụ thể này. Phải nói rằng chữ viết bớt rườm ra thì cũng thuận tiện cho việc in khắc (nhất là thời xưa văn tự không chỉ được in trên giấy mà còn được khắc trên gỗ, đá nữa và ngay việc in trên giấy cũng phải qua một công đoạn khắc gỗ đơn giản nét, tiện cho việc khắc). Một nguyên nhân nữa rất có thể ảnh hưởng đến những cách ghi ở các trường hợp a và ba này là sự Việt hóa của những từ gốc vốn là Hán Việt. Chúng ta biết rằng trong một văn bản Nôm bên cạnh từ Hán Việt dứt khoát phải có từ thuần Việt. Thế thì đối với những trường hợp tuy gốc gác là Hán Việt nhưng trong nhận thức của người Việt đã Việt hóa nhiều, thì nên xử lý như thế nào, quy về Hán Việt thì được uyên bác về từ nguyên, quy về thuần Việt thì dễ nhận diện khi đọc. Ngay trong tiếng Việt hiện nay nếu viết “xán lạn”, “thanh tích” thì phù hợp với từ nguyên nhưng vì sao có chỗ lại viết “sáng lạn”, “thành tích”? Viết như vậy tuy không dúng với từ nguyên, nhưng “sáng” dễ hiểu hơn “xán”, “thành tích” dễ hiểu hơn “thanh tích”. Rất có thể đối với những trường hợp đã nêu trên đây người viết đã coi chúng là một yếu tố nằm trong tiếng Việt và tìm cách thể hiện chúng cho chính xác, do đó dễ quên đi mặt từ nguyên gốc gác.

Đối với những chữ có cách ghi như ở trường hợp c thì chúng tôi nhận thấy ở đây không chỉ đơn thuần là coi trọng mặt âm mà còn nhấn mạnh cách hiểu mới của người Việt, từ đây đã làm biến đổi từ nguyên. Thêm vào một yếu tố chỉ nghĩa bên cạnh chữ Hán cần thiết, là dẫn đến xu thế phức tạp hóa cách ghi. Xem xét hiện tượng này, chúng tôi thấy ở đây có sự thể hiện dụng ý của người viết: cùng một lúc có thể nhận diện chúng bằng hai hướng: một dựa vào nội dung, còn một dựa vào dấu hiện về hình thức.

Tính chất đối lập của hai xu thế đơn giản hóa và phức tạp hóa biểu hiện ở chỗ: một đằng muốn tiết kiệm về hình thức thì phải hy sinh về nghĩa. Ngược lại, một đằng được lợi về mặt nội dung thì lại phải chấp nhận một hình thức phức tạp hơn. Tuy nhiên, điều chủ yếu cần nhấn mạnh ở đây là việc đơn giản hóa hay phức tạp hóa không chỉ được tiến hành một cách đơn thuần mà xen trong đó một ý thức tích cực của người đặt chữ - ý thức lợi dụng những điển đặc thù về tự dạng của chữ Hán nhằm giúp ích cho việc nhận diện. Và cũng như các trường hợp a và b, sự Việt hóa của những từ vốn gốc gác là Hán Việt không khỏi có ảnh hưởng trực tiếp đến những cách ghi trong trường hợp này. Như ta đã biết dưới áp lực của quy luật Việt hóa, các từ gốc Hán Việt tất yếu có thay đổi ít nhiều so với nguyên dạng. Chẳng hạn do chịu tác động của quy luật chuyển âm chuyển nghĩa cùng với sự chi phối chủ quan của người sử dụng ngôn ngữ thì các từ Hán Việt có thể mất đi một vài nét nghĩa vốn có nhưng cũng rất có thể được khoác thêm những sắc thái mới. Ví dụ như khi ta nói “trình bẩm” với nghĩa là “trình lên quan trên” nhưng vì vào tiếng Việt lâu ngày “trình” đã biến thành “chiềng” (chiềng làng chiềng chạ) và “bẩm” cũng giống như “thưa” lại gần với từ “lẩm bẩm” cho nên người ta dễ dàng đạt thêm một yếu tố phụ là chữ “khẩu” vào. Có thể mức độ Việt hóa càng cao thì xu thế xa rời cách viết gốc càng mạnh, hoặc có thể nghĩ rằng đối với những từ Hán Việt Việt hóa mà viết theo Hán Việt thì xa lạ với tình cảm và thói quen của người Việt hoặc khó đọc hơn cách viết mới…

Cuối cùng, chúng tôi tạm nhận định rằng: Những trường hợp dùng chữ Hán không đúng âm hoặc không đúng nghĩa thậm chí tự tạo ra những yếu tố mới là việc làm bắt nguồn từ những lý do thực tế, trong đó coi trọng mặt âm là một chủ trương quán xuyến. Bên cạnh đo, những cách ghi đơn giản hóa, phức tạp hóa hình thành như một xu thế phụ cũng góp phần khẳng định rằng người đặt chữ đã có ý thức tìm những biện pháp hữu hiệu giúp người đọc nhận diện vừa nhanh, vừa chính xác văn bản Nôm mà họ soạn thảo.

Trên đây, là một số trường hợp cụ thể và nhận xét bước đầu về loại từ Hán Việt trong văn bản Nôm. Đó là những hiện tượng tồn tại có tính chất khách quan mà người nghiên cứu chữ Nôm cần quan tâm đúng mức thì mới có thể giải quyết tốt vấn đề âm đọc và ý nghĩa của từ khi gặp các trường hợp tương tự như chúng tôi đã trình bày.

Bảng thống kê dưới đây có thể giúp chúng ta so sánh kết quả khảo sát một nửa trong số 10 tác phẩm đã nêu ở trên(*)

TT Tác phẩm và tổng số từ gốc Hán Việt Trường hợp
a
Trường hợp
b
Trường hợp
c
1 Ức Trai Quốc âm thi tập (2.3000) 10
Tỷ lệ 0.48%
2 Nhị độ mai diễn ca 5 4 3
Tỷ lệ 0.69% 0.55% 0.4%
3 Ngọc Hoa cổ tích truyện (438) 3 1
0.68% 0.2%
4 Quan âm chú giải tân truyện (540) 4 1 2
Tỷ lệ 0.7% 0.18% 0.36%
5 Kim Vân Kiều tân truyện (3.510) 21 1
Tỷ lệ 0.5% 0.02%

CHÚ THÍCH

(1) Đào Duy Anh, Chữ Nôm: nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975. Lê Quán, Vài nhận xét về phụ âm tiếng Việt cổ qua cấu tạo chữ Nôm, Ngôn ngữ số 3/1972 và Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. ĐH và THCN, H. 1981.

(2) Đại Nam quốc sử diễn ca, ký hiệu AB.1, Thư viện h, tr.11.

(3) Bài Nam quốc sơn hà trong Thơ văn Lý Trần, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.321.

(4) Nguyễn Tài Cẩn - N.V Xtankevích: Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm, Ngôn ngữ Số 2-3-1976. Nguyễn Tài Cẩn: Cấu tạo của chữ Nôm, một vài vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết, Tạp chí Khoa học, Số 1, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

(5) Dụ Am văn tập, Sđd.

(6) Ngoài ra còn có thể vì lý do kiêng húy, song chúng tôi nghĩ nếu có thì cũng chỉ có thể xảy ra với một vài trường hợp lẻ tẻ không ảnh hưởng gì đến hiện tượng chung ta đang xét.

(7) Hành tham quan gia huấn diễn âm. Sách đã dẫn.

(*) Bài viết này đã được Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và ông Nguyễn Tá Nhí đóng góp cho nhiều ý kiến quý báu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

TB

THỬ XÁC LẬP VĂN BẢN BÀI THƠ
"NAM QUỐC SƠN HÀ"

TRẦN NGHĨA

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” (NQSH) tuy vẻn vẹn có 4 câu, mỗi câu 7 chữ nhưng trước nay vẫn được nhiều người đánh giá cao và xem như là một tài liệu quan trọng để tìm hiểu chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam sau khi khôi phục nền độc lập tự chủ. Lịch sử Việt Nam tập I gọi đây là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của dân tộc ta sau hơn 1000 năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ. Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, từ góc độ khác khẳng định đây là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất đời Lý, đã “phản ánh được hiện thực sâu xa của lịch sử, biểu hiện được ý chí găng thép của dân tộc và nâng truyền thống yêu nước lên một trình độ cao”(2). Sự chú ý đối với bài thơ còn được thể hiện qua cuộc thảo luận sôi nổi trên các tạp chí văn học, Ngôn ngữ,… những năm qua về cách hiểu thế nào cho đúng các câu chữ của tác phẩm, đặc biệt là 2 câu thơ cuối(3). Nhưng có điều mà hầu như chưa mấy ai chú ý tới là tình trạng phức tạp về mặt văn bản của bài thơ. Chừng nào vấn đề văn bản chưa được giải quyết ổn thỏa, thì mọi phân tích, nhận định, đánh giá… đều không dễ tiếp cận sự thật.

Bài viết này sẽ cố gắng đi sâu vào cá nguồn tư liệu, mong qua đó xác lập một văn bản tin cậy, khả dĩ làm chỗ dựa tốt, có cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, lý giải bài thơ...

CÁC NGUỒN TƯ LIỆU

Theo khảo sát sơ bộ, bài thơ NQSH hiện được ghi chép trong 3 nhóm thư tịch Hán Nôm sau đây:

1. Việt điện u linh tập (VĐUL)

2. Lĩnh Nam chính quái (LNCQ)

3. Các sách khác.

Ở nhóm thứ nhất (VĐUL, sách của Lý Tế Xuyên, bài tựa của tác giả đề năm 13.9), bài thơ xuất hiện trong truyện Khước dịch thiện hưu trợ thuận đại vương; Uy dịch dũng cảm hiển thắng đại vương(4). Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện tàng chữ 7 bản VĐUL, trừ bản mang ký hiệu VHv.1503 chủ yếu là sách lược thuật, các bản còn lại gồm A.47, A.335, A.751, A.1919. A.2879 và VHv.1285 đều có chép đầy đủ 4 câu của bài thơ.

Ở nhóm thứ hai (LNCQ, sách của Vũ Quỳnh - Kiều Phú, bài tựa của Vũ Quỳnh đề năm 1492, bài bạt của Kiều Phú đề năm 1493) bài thơ xuất hiện trong Long Nhãn Như Nguyệt thị thần truyện(5). Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện tàng trữ 9 bản LNCQ mang các ký hiệu A.33, A.750, A.1200, A.1300, A.2107, A.2914 và VHv.1473, bản nào cũng có chép đầy đủ 4 câu của bài thơ. Riêng các bản A.33, A.1200 và A.2914 còn chép thêm 1 dị bản về 2 câu thơ cuối. Ngoài ra, Thư viện Viện Sử học cũng tàng trữ bản LNCQ mang ký hiệm VHv.483, trong đó có thể tìm thấy bài thơ mà chúng ta đang đề cập.

Ở nhóm thứ ba, bài thơ được ghi chủ yếu là trong các sách sau đây thuộc Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Đại Việt sử ký toàn thư A.3 (bài thơ được chép ở phần Bản kỷ toàn thư Q.3) Việt sử tiêu án A.11 (bài thơ được chép ở từ 98), Trương tôn thần sự tích VHv.1286 (bài thơ được chép ở từ 14b), Bằng trình thản bộ A.802 (bài thơ được chép ở phần cuối sách), Thiền Nam vân lục liệt truyện A.1442 (bài thơ được chép ở tờ 57-58), Việt sử tiệp kính A.143 (bài thơ được chép ở tờ 90b) và Việt dư phong vật tổng ca chú giải toàn tập A.1041 (bài thơ được dẫn để chú thích 2 câu thơ lục bát bằng chữ Hán: Thiên khai Nam Đế sơn hà; Đế cương vạn lý nhất gian hỗn đồng). Trừ Việt dự phong vật tổng ca chú giải toàn tập còn lại thuộc nhóm này đều sao lục đầy đủ cả 4 câu thơ.

Tổng hợp cả 3 nguồn tư liệu trên, ta có từ 24 đến 26 bản (exemplares) về bài thơ chiếm 10 bản (riêng 2 câu thơ cuối có 13 bản), nhóm 3 chiếm 7 bản (riêng 2 câu thơ đầu có 8 bản).

TÌNH HÌNH BIẾN ĐỌNG CỦA BÀI THƠ QUA CÁC NGUỒN TƯ LIỆU

Qua những thư tịch vừa điểm, ta thấy bài thơ NQSH không phải bao giờ cũng xuất hiện dưới một dạng nhất quán. Thậm chí có thể nói 24 hoặc 26 bản sưu tầm được, đồng thời cũng là 24 hoặc 26 dị bản (variantes) về bài thơ.

Để hình dung được những biến động trên phương diện văn bản của đối tượng mà ta đang khảo sát, có thể lập 5 bảng thống kê về các mặt sau đây:

1. Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn thứ nhất.

2. Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn thứ hai.

3. Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn thứ ba.

4. Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn thứ tư.

5. Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn thứ năm.

Để tiện trình bày và theo dõi các bảng thống kê, ta tạm gọi VĐUL là A (và do đó, gọi các bản VĐUL mang ký hiệu A.1919 là A1, A.47 là A.2, A.2879 là A3, VHv.1285 là A4, A.751 là A5, VHv.1503 là A6, A.335 là A7)(6); LNCQ là B (và do đó, gọi các bản LNCQ mang ký hiệu HV.486 là B1, VHv.1473 là B2, A.2914 là B3, A.83 là B4, A.750 là B5, A.1200 là B6, A.1752 là B7, A.2107 là B8, A.1266 là B9, A.1300 là B10)(7); Đại Việt sử ký toàn thư A.3 là C; Việt sử tiêu án A.11 là D; Trương tôn thần sự tích Vhv.1386 là E; Việt sử quốc âm AB.308 là G; Bằng trình thản bộ A.802 là H; Thiên Nam vân lục liệt truyện A.1442 là K; Việt sử tiệp kính A.1483 là L; Việt dư phong vật tổng ca chú giải toàn tập A.104 là M(8). Dưới đây là tình hình cụ thể.

Bảng thống kê thứ nhất
Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn

Nguồn tư liệu Thứ tự các dị bản CHỮ Ghi chú
1 2 3 4 5 6 7
A1
A2
A3
A4
A5
A6
A7
1
2
3
4
5
6
0
nam
nam
nam
nam
nam
nam
0
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
bắc
0
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
phong
0





cương
0
nam
nam
nam
nam
nam
các
0
đế
đế
đế
đế
đế
biệt
0






0






không chép
B1
B2
B3
B4
B5
B6
B7
B8
B9
B10
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
quốc
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn
sơn









nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
nam
đế
đế
đế
đế
đế
đế
đế
đế
đế
đế









C 17 nam quốc sơn nam đế
D 18 nam quốc sơn nam đế
E 19 nam quốc sơn nam đế
G 20 nam quốc sơn nam đế
H 21 nam quốc sơn nam đế
K 22 nam quốc sơn nam đế
L 23 nam quốc sơn nam đế
M 24 nam quốc sơn nam đế

Bảng thống kê thứ hai
Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn 2

Nguồn tư liệu Thứ tự các dị bản CHỮ Ghi chú
1 2 3 4 5 6 7
A1
A2
A3
A4
A5
A6
A7
1
2
3
4
5
6
0
tiệt
tiệt
tiệt
tiệt
tiệt
tinh
0
nhiên
nhiên
nhiên
nhiên
nhiên
phân
0
phân
phân
phân
phân
phân
dực
0
định
định
định
định
định
chẩn
0
tại
tại
tại
tại
tại
tại
0
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
0
thư
thư
thư
thư
thư
thư
0






không chép
B1
B2
B3
B4
B5
B6
B7
B8
B9
B10
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
tiệt
tiệt
hoàng
hoàng
tiệt
hoàng
hoàng
tiệt
tiệt
tiệt
nhiên
nhiên
thiên
thiên
nhiên
thiên
thiên
nhiên
nhiên
nhiên







phân
phân
phân
định
định
định
định
định
định
định
định
định
định
tại
tại
tại
tại
tại
tại
tại
thị
tại
m/chữ
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thiên
thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư









mất chữ thứ 5
C 17 tiệt nhiên phân định tại thiên thư
D 18 tiệt nhiên phân định tại thiên thư
E 19 hoàng thiên phân định tại thiên thư
G 20 hoàng thiên định tại thiên thư
H 21 hoàng thiên tiệt định tại thiên thư
K 22 đinh ninh định thị thiên thư
L 23 tiệt nhiên phân định tại thiên thư
M 24 tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Bảng thống kê thứ ba
Những biến động của các chữ trong câu thơ thất ngôn 3

Nguồn tư liệu Thứ tự các dị bản CHỮ Ghi chú
1 2 3 4 5 6 7
A1
A2
A3
A4
A5
A6
A7
1
2
3
4
5
6
0
như
như
như
như
như
kinh
0





thôn
0
nghịch
nghịch
nghịch
nghịch
nghịch
lang
0
lỗ
lỗ
lỗ
lỗ
lỗ
dục
0
lai
lai
lai
lai
lai
chân
0
xâm
xâm
xâm
xâm
xâm

0
phạm
phạm
phạm
phạm
phạm
yếm
0






không chép
B1
B2
B3

B4

B5
B6

B7
B8
B9
B10
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
như
như
như
như
như
như
như
như
như
như
như
như
như



kim

kim
kim

kim
kim


nghịch
nghịch
bắc
nghịch
bắc
nghịch
nghịch
bắc
nghịch
nghịch
nghịch
nghịch
nghịch
tặc
tặc
lỗ
tặc
lỗ
tặc
tặc
lỗ
tặc
tặc
lỗ
tặc
tặc
lai
lai
lai
lai
lai
lai
lai
xâm
thừa
lai
lai
lai
lai
xâm
xâm
xâm
công
xâm
công
xâm
nam
giang
công
xâm
xâm
xâm
phạm
phạm
phạm
kích
lược
kích
phạm
chỉ
hậu
kích
phạm
phạm
phạm


C 20 như nghịch lỗ lai xâm phạm
D 21 như nghịch lỗ lai xâm phạm
E 22 như nghịch lỗ lai xâm phạm
G 23 như bắc lỗ lai xâm phạm
H 24 như bắc lỗ lai xâm phạm
K 25 vị nghịch lỗ lai xâm phạm
L 26 như nghịch lỗ lai xâm phạm
M 0 0 0 0 0 0 0 0 không chép

Bảng thống kê thứ tư
Những biến động của các chữ trong thơ thất ngôn 4

Nguồn tư liệu Thứ tự các dị bản CHỮ Ghi chú
1 2 3 4 5 6 7
A1
A2
A3
A4
A5
A6
A7
1
2
3
4
5
6
0
nhữ
nhữ
nhữ
nhữ
nhữ
hội
0
đẳng
bối
đẳng
đẳng
đẳng
kiến
0
hành
hành
hành
hành
hành
trần
0
khan
khan
khan
khan
khan
thanh
0
thủ
thủ
thủ
thủ
thủ
tảo
0
bại
bại
bại
bại
bại
thái
0






0






không chép
B1
B2
B3

B4

B5
B6

B7
B8
B9
B10
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
nhữ
nhữ
hội
nhữ
bạch
nhữ
nhữ
bạch
nhữ
nhữ
nhữ
nhữ
nhữ
đẳng
đẳng
kiến
đẳng
nhẫn
đẳng
đẳng
nhẫn
đẳng
đẳng
đẳng
đẳng
đẳng
hành
hành
trần
hồi
phiên
hành
hành
phiên
hành
hành
hành
đồ
hành
khan
khan
tai
khan
thanh
khan
khan
thành
khan
khan
khan
khan
khan
thủ
thủ
tận
tặc
phá
phá
thủ
phá
phá
thủ
thủ
thủ
thủ
bại
bại
tảo
chúng
trúc
bại
bại
trúc
bại
bại
bại
bại
bại


trừ









C 20 nhữ đẳng hành khan thủ bại
D 21 nhữ đẳng hành khan thủ bại
E 22 nhất trận phong vân tận tảo trừ
G 23 hội kiến kinh trần tận tảo trừ
H 24 nhữ đẳng hành khan thủ bại
K 25 nhữ đẳng khô hài hạ táng thu chữ “hạ” có lẽ là chữ “bất”
L 26 nhữ đẳng hành khan thủ bại
M 0 0 0 0 0 0 0 0 không chép

Bảng thống kê thứ năm
Những biến động của các chữ trong thơ thất ngôn 5

Câu Chữ I số dị tự II Số dị tự III Số dị tự IV Số dị tự
1 nam 24* 0 tiệt 15 hoàng 8 đinh 1 2 như 24 vị 1 kinh 1 2 nhữ 19; nhĩ 1 hội 3; chất 1 bạch 2 4
2 quốc 23 bắc 1 1 nhiên 15 thiên 7 phân 1 ninh 1 3 hà 19 kim 6 thôn 1 2 đẳng 19; bối 1 kiến 3; trận 1
nhẫn 2
4
3 sơn 23 phong 1 1 phân 12; dực 1 dĩ 9; tiệt 1 định 1 4 nghịch 20 bắc 5 lang 1 2 hành 17; khô 1 phiên 2; đồ 1 trần 2; sinh 1 hồi 1; phong 1 7
4 hà 23 cương 1 1 định 22 phận 1 chẩn 1 2 lỗ 15 tặc 10 dục 1 2 khan 19; bại 1 thành 2; tai 1 thanh 1; vân
trần 1
6
5 nam 23 các 1 1 tại 24 0 lai 22; thừa 1; xâm 1; chân 1; phạm 1 4 thủ 16; tặc 1; phá 4; tảo 1; tận 3;
hạ 1
5
6 đế 23 biệt 1 1 thiên 24 0 xâm 20; giang 1; công 3; vô 1; nam 1 4 bại 18; thái 1; tảo 3; chứng 1; trúc 2;
táng 1
5
7 cư 24 0 thư 24 0 phạm 19; hậu 1; kích 3; chỉ 1; lược 1;
yếm 1
5 hư 20 trư 3 dư 2 thu 1 3
Cộng 5 11 21 34

* Những con số ghi sau các chữ, chỉ tần số xuất hiện của chữ ấy trong các nguồn tư liệu.

Từ các thống kê trên, ta có thể đi tới một số nhận xét:

1. Ở VĐUL, nguồn tư liệu mà thời gian ra đời tuyệt đối có thể nói là sớm nhất, sự biến động của bài thơ chủ yếu diễn ra ở câu thứ 2 (phân định ≠ định phận) và câu thứ tư (nhũ đẳng ≠ nhữ bối). Ở bản A6, bài thơ thậm chí còn được sáng tác lại hoàn toàn (Nam Bắc phong cương các biệt sư; Tình phân Dực Chẩn tại thiên thư. Kinh thôn lang dục chân vô yếm; Hội kiến trần thanh tảo thái hư).

2. Ở LNCQ, sự biến động của bài thơ diễn ra trong một khuôn khổ lớn hơn về số câu, số chữ và đa dạng hơn về số từ dùng. Nếu ở VĐUL, sự biến động chỉ xảy ra ở câu 2 và cả ở câu 3. Trong mỗi câu như vậy, thành phần biến động cũng rõ ràng nhiều hơn. Thí dụ ở câu 4 bản B3, ta thấy có 3 thành phần biến động: “Hội kiến/ trần tai/ tận tảo trừ”; “Nhữ đẳng/ hồi khan/ tặc chứng hư”. Cũng vậy, ở câu 4 bản B4 có 3 thành phần biến động: “Bạch nhẫn/ phiên thành/ phá trúc dư”; “Nhữ đẳng/hành khan/ phá hại hư”. v.v. Lại có những từ dùng mới như “hoàng thiên” (câu 3 bản B3, câu 2 bản B4…), “dĩ định” (câu 2 bản B1, câu 2 bản B2..), “nghịch tặc” (câu 3 bản B8, câu 3 bản B9…) “bắc lỗ” (câu 3 bản B3, câu 3 bản B4…), “lai công kích” (câu 3 bản B4, câu 3 bản B7…) “thừa giang hậu” (câu 3 bản B6), “hội kiến” (câu 4 bản B8), “bạch nhẫn” (câu 4 bản B4, câu 4 bản B6…), “trần tai” (câu 4 bản B3), “phiên thành” (câu 4 bản B4, câu 4 bản B6), “đồ khan” (câu 4 bản B9) v.v.

3. Ở các bản còn lại, trừ một ít chữ dùng mới như “đinh ninh” (câu 2 bản K), “tiệt định” (câu 2 bản H”, “vị hà” (câu 3 bản K), “kinh trần” (câu 4 bản G)… hoặc một vài câu lạ như “Nhất trận phong vân tận tảo trừ” (câu 4 bản E) “Nhữ đẳng khô hài hạ (đúng ra phải là bất) táng thu” (câu 4 bản K)… phần lớn các biến động khác không ra ngoài phạm vi VĐUL và LNCQ. Sở dĩ như thế là do các sách này, trừ Trương tôn thần sự tích (bản E) có thể có nguồn gốc khác, đều chép bài thơ NQSH và VĐUL hoặc LNCQ.

Tóm lại, trong đời sống xã hội của nó, bài thơ mà chúng ta đang theo dõi không ngừng được sửa sang, không ngừng được tái tạo… và chưa bao giờ thật sự định hình.

MỘT VĂN BẢN KHẢ DĨ XÁC LẬP

Có thể đạt tới một văn bản đáng tin cậy về bài thơ NQSH không?

Do đây là một bài thơ “thần”, lại lưu hành qua truyền thuyết, nên như trên kia đã thấy, thật khó mà tìm thấy một văn bản gốc, một “bộ mặt ban đầu” của bài thơ. Cái mà ta khả dĩ tiếp cận được là kết quả của sự sáng tác tập thể, sự chấp nhận theo thị hiếu số đông… Vậy chỉ có thể căn cứ vào sự sáng tác tập thể, sự chấp nhận của số đông có nghĩa là phương thức tồn tại, lưu truyền của bài thơ để xác lập một văn bản tiêu biểu về nó. Giải quyết theo phương hướng này, ta có thể thành lập bài thơ bằng phương pháp định lượng. Các chữ được chọn cho bài thơ sẽ là những chữ có tần số xuất hiện lớn nhất qua Bảng thống kê thứ năm. Văn bản đạt được sẽ là:

Nam (24/24) quốc (23/24) sơn (23/24) hà (23/24) Nam (23/24) đế (23/24) cư (24/24).

Tiệt (15/24) nhiên (15/24) phân (12/24) định (22/24) tại (24/24) thiên (24/24) thư (24/24).

Như (24/26) hà (19/26) nghịch (20/26) lỗ (15/26) lai (22/26) xâm (20/26) phạm (19/26).

Nhữ (19/26) đẳng (19/26) hành (17/26) khan (19/26) thủ (16/26) bại (18/26) hư (20/26).

Tiếp đến, hãy xét mối quan hệ giữa nội dung và xuất xứ của bài thơ. Theo các nguồn tư liệu cung cấp, đại để có hai thuyết khác nhau về xuất xứ bài thơ. Thuyết thứ nhất cho rằng đối tượng tác động chính của bài thơ là “quân ta”. Bản A1 chép: “Tương truyền vào triều Lý Nhân Tông, quân Tống sang cướp phá. Khi giặc tiến đến địa phương, bề trên sai Thái úy Lý Thường Kiệt dựng rào ven sông (Như Nguyệt, nay là sông Cầu, Hà Bắc) để cố thủ. Một đêm, quân sĩ (của Lý Thường Kiệt) bỗng nghe trong ngôi đền (thờ Trương Hống) có tiếng ngâm thơ lớn (…) Quả nhiên ứng nghiệm”. Các bản A, C, D, E, H đều ghi tương tự(1). Thuyết thứ hai lại có đối tượng tác động chính của bài thơ là “quân địch”. Bản B6 chép “Ngày 30 tháng 12 vào lúc canh ba, trời tối đen mưa to gió lớn nổi lên, quân Tống rụng rời sợ hãi. Bỗng có vị thần chập chờn hiện ra trên không, lớn tiếng ngâm rằng (…) Quân Tống nghe thấy, dẫm lên nhau mà chạy”. Bản K thậm chí còn ghi cụ t hể hơn: “Đêm chừng tiếng trống canh ba, bỗng nổi mưa to gió lớn, trời đất tối đen, giữa đám quân Tống có một người vươn thân to lớn, dõng dạc nói rằng (…). Tướng sĩ nhà Tống nghe thấy kinh hoàng vỡ chạy tán loạn”.

Sự quan niệm không giống nhau trên đây về đối tượng tác động của bài thơ đã dẫn tới những rối rắm trong nội dung một số văn bản. Ngay trong văn bản mà thực tế tư liệu chó thấy dường như được nhiều người ủng hộ nhất qua các đời, vẫn không thoát khỏi tình trạng lúng túng này, nhất là ở 2 câu thơ cuối. Nếu “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” là lời thần nói với “quân ta”, thì “Như đẳng hành khan thủ bại hư” lại là lời thần nói với “quân địch”! Độ ổn định của câu 3 và câu 4 do vậy cũng bị giảm sút rất nhiều so với câu 1 và câu 2 của bài thơ (Bảng thống kê thứ năm cho thấy trong khi câu 1 có 5 dị tự, câu 2 có 11 dị tự, thì câu 3 có 21 dị tự, câu 4 có 34 dị tự).

Để giải quyết những khó khăn vừa nêu, một số bản đã cố gắng điều chỉnh câu 3 và câu 4 theo hướng làm cho logic nội tại của tác phẩm khỏ bị phá vỡ. Chẳng hạn bản A6 dìmg 2 câu “Kình thôn lang dục chân vô yếm; Hội kiếm trần thanh tảo thái hư” (Lòng tham dục, hòng nuốt chửng người ta của lũ sói lang, cá mập thật không bao giờ chán; Rồi sẽ thấy bụi nhơ được quét sạch đến tận tầng không); Bản B4 dùng 2 câu “Như hà Bắc lỗ lai xâm lược; Bạch nhẫn phiên hành phá trúc dư” (Cơ sao giặc Bắc sang xâm lược; Dao sắc rồi đây sẽ chẻ tre); Bản E dùng 2 câu “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm; Nhất trận phong vân tận tảo trừ” (Cớ sao lũ giặc nghịch sang xâm phạm; Gió mây một trận quét tơi bời) v.v. Điều chỉnh như thế (hoặc biết đâu câu thơ vốn dĩ lại không phải là như thế?) sẽ đạt tới sự thống nhất trọn vẹn trong nội dung bài thơ được cất lên tại đền thờ Trương Hống trên bờ Nam sông Cầu, nơi quân sĩ của Lý Thường Kiệt đang chuẩn bị tinh thần để vượt sông samg bờ Bắc tổng công kích quân địch… Giữa các câu điều chỉnh trên, ta có thể chọn trường hợp thứ ba, tức bản E, làm 2 câu cuối cho văn bản mà ta đã sơ bộ xác lập trên kia bằng phương pháp định lượng. Lý do là 2 câu thơ này có nguồn gốc từ Trương vô thần sự tích tức thần phả chép về Trương Hống, vị “tôn thần” được “trao” nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh xuất quân thiêng liêng.

Nếu những suy nghĩ trên đây về cơ bản có thể chấp nhận được, thì văn bản khả dĩ xác lập cho bài thơ sẽ là:

Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư!
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhất trận phong vân tận tảo trừ!

Tạm dịch:

Non nước phương Nam, vua Nam quản,
Rành rành phân định tại sách trời!
Cớ sao giặc nghịch sang xâm phạm?
Gió mây một trận quét tơi bời!

Bài thơ vừa được xác lập có khác với bài thơ mà hiện nay chúng ta quen dùng ở hai điểm:

1. Câu thứ hai, “phân định” chứ không phải “định phân”, “định phận” tức dịch rõ về “tịnh phận” hay “phận dã” (có thể hiểu như vùng sao, vùng trời… theo quan niệm đất nào sao ấy!). Còn “phân định” là đã phân chia một cách ổn định, không nên thay đổi nữa. Chữ nào kể ra cũng đều có nghĩa, nhưng “phân định” thì hợp niêm luật bài thơ và âm điệu câu thơ đọc lên do đó cũng hay hơn.

2. Câu thứ tư, “Nhất trận phong vân tận tảo trừ” chứ không phải “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. “Nhữ đẳng hành khan…” thì nội dung bài thơ như trên kia đã nói đâm ra lủng củng. Còn “Nhất trận phong vân…” thì nghe có phần lạ tai, nhưng suy cho cùng đáng được chấp nhận hơn.

T.N

CHÚ THÍCH

(1) Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.182.

(2) Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, H. 1980, tr.192.

(3) Nguyễn Tài Cẩn: Thử tìm hiểu thêm về bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, Tạp chí Văn học số 4, 1979; Phan Văn Các: Trở lại câu cuối bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Ngôn ngữ số 2, 1981; Hoàng Xuân Nhị: Trở lại bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, Ngôn ngữ số 2, 1982.

(4) Xem VĐUL A.751, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Truyện này còn có các tên gọi khác như: Khước dịch, Ủy dịch nhị đại vương A.47, Nam Bình nhị Trương lục A.335, v.v.

(5) Xem LNCQ A.33, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Truyện này còn có các tên gọi khác như Trương tướng quân truyện Long Nhãn Như Nguyệt A.2107; Long Nhãn Như Nguyệt truyện A.1200, v.v.

(6) Các bản ở đây được xếp theo thứ tự độ tin cậy, xét về mặt văn bản học (tương đối).

(7) Các bản ở đây được xếp theo thứ tự độ tin cậy, xét về mặt văn bản học (tương đối).

(8) Các sách ở đây được xếp theo trật tự thời gian (tương đối).

(9) Riêng bản E (Trương tôn thần sự tích) tuy cũng chép đối tượng bài thơ là “quân ta”, nhưng lại cho rằng đây là quân sĩ của Lê Đại Hành, chứ không phải quân sĩ của Lý Thường Kiệt. Một vài bản khác như B1, B7, K… cũng chép như vậy. Thực ra thì Lê Hoàn (Lê Đại Hành) có đánh nhau với quân Tống năm 981, dụ bắt được tướng Tống là Hầu Nhân Bảo, nhưng sự việc này xảy ra ở sông Chi Lăng (Lạng Sơn) chứ không phải ở sông Cầu (Hà Bắc), nơi có đền thờ Trương Hống, được gán cho là tác giả của bài thơ NQSH (Xem Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, T.III, Bản diễn ca, do Nxb. Văn Sử Địa, H.1957, tr.234).

TB

ĐI TÌM NGUỒN GỐC VÀ NĂM XUẤT HIỆN CỦA VĂN BẢN BINH THƠ YẾU LƯỢC HIỆN CÓ

NGÔ ĐỨC THỌ

Văn bản Binh thư yếu lược (viết tắt: BTYL) chúng tôi nói đến trong bài này là bộ sách chữ Hán chép tai gồm 4 quyển đóng làm 2 tập, cộng 410 tờ (26x15cm, ký hiệu A.476/1-2 lưu tàng từ trước ở Thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ, hiện nay do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý, sách này là bản chính của một dịch phẩm do Nxb. KHXH xuất bản tại Hà Nội vào các năm 1970 và 1977(1). Ở Sài Gòn cũng có bản dịch BTYL do Nhà Khai Trí xuất bản(2). Do trong sách có những chỗ nói đến tướng nhà Minh Mộc Thạch, Liễu Thăng, vua Lê, Nguyễn Huệ (Bd, tr. 232, 213, 245) v.v cho nên rõ ràng không thể coi bản BTYL hiện có là di tác của Trần Hưng Đạo được. Tuy vậy, Lời giới thiệu Thuyết minh bản dịch của cả 2 lần xuất bản, ở mức độ dè dặt, vẫn kết luận rằng: “BTYL của Trần Quốc Tuấn đến đầu thế kỷ XIX đã được một nho sĩ am hiểu quân sự, yêu khoa học quân sự, sửa chữa và bổ sung nhiều” (tr.8), hoặc cho đó “là một bộ sách được biên soạn theo một phương pháp thời Trần (có thể đặc biệt là Hưng Đạo vương), thời Lê, thời Nguyễn tiếp tục nhau mà biên soạn” (tr.27). Vậy sự thực về văn bản BTYL ra sao? Chúng tôi nghĩ rằng vấn đề này cần được nghiên cứu để có thể nhận định tương đối chính xác giá trị văn bản, từ đó mới tránh được những suy diễn sai lầm, như từng có ý kiến dựa vào BTYL để mô tả cơ cấu Bộ tư lệnh và hệ thống quân đội đời Trần, cùng những vũ khí binh cụ của thời kỳ ấy v.v.(3).

1. Hai đầu mối: “Kỷ sự tân biên” và “Kim thang thập nhị trù”

Để giải đáp vấn đề nói trên, chúng tôi đã tìm đọc những sách Hán Nôm Trung Quốc cổ liên quan thuộc môn loại quân sự học. Nhưng đầu mối thực sự chỉ bắt đầu từ cuốn Kỷ sự tân biên: Sách chữ Hán do nhà tàng bản Trí Trung Đường, khắc in tại Hà Nội mùa hè năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869). Đầu sách có bài Tựa của Đặng Huy Trứ tước Hoàng Trung Tử, một sĩ phu yêu nước trước sau thuộc phái chủ chiến, khi ấy ông giữ chức Khâm phái Thượng biện Hà Nội tỉnh vụ. Đại ý bài Tựa nói: Mùa xuân năm Kỷ Mùi (1859) ông làm Tri huyện Thọ Xương (Hà Nội) gặp lúc Phú Lãng Sa (chỉ quân Pháp) gây sự ở Đà Nẵng, trong lòng phẫn uất muốn quét sách đi. Vì vậy ông muốn rộng tìm loại sách binh thư để phòng khi dùng đến nhưng tìm kiếm chưa được. Sau gặp Tú tài Lương Mộng Thiều người làng Phượng Lịch, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) bấy giờ đang làm Huấn đạo huyện Nông Cống, trong khi trò chuyện bàn đến môn học của binh gia, Lượng Mộng Thiều nhân đó đưa cho ông tập Kỷ sự tân biên (viết tắt: KSTB) do thân phụ đã quá cố của ông là Thận Trai tiên sinh soạn ra. Ông nhận sách đó mà đọc, hơn một tháng trời, bỏ sách xuống mà than rằng: “Tiên sinh là một trong Tứ hổ ở đất Thanh Hóa. Ông nghiên cứu thiên văn, địa lý, luật lịch, binh thư, bản đồ núi sông, không môn nào không học tới, mà soạn thuật ra chỉ một sách này. Cái chí của tiên sinh có lẽ cũng là lo trước cái lo của thiên hạ chăng?”. Đoạn sau tác giả bài Tựa cho biết: Ông trước đã biên tập sách Vũ kinh trích chú lại vừa cho khắc in sách Kim thang tá trợ, nay cho khắc ván in sách này để công bố với các bạn đồng chí, khiến cho cái học của Thận Trai tiên sinh đã không thi hành được ở đương thời thì sách của tiên sinh được truyền lại cho hậu thế. Tiếp theo là bàn Dẫn do con rể của Thận Trai là Cử nhân Đỗ Xuân Cát, tự Bá Trinh viết năm Thiệu Trị Bính ngọ (1846) cho biết: Thận Trai là tên hiệu của Lương Huy Bích tự Huyền Chương, người đời cuối Lê, thời Tây Sơn ở nhà dạy học đời Nguyễn có chiếu của Minh Mệnh triệu vào kinh nhưng cáo bệnh không đi, được ban tước Hàn lâm đãi chiếu, tước Ngô Giang Tử. Sau khi ông mất, con trai là Khanh và Huyền sợ để lâu ngày di thảo mai một, bèn đưa cho anh rể là Đỗ Xuân Cát hiệu đính. Tờ đầu sách đề: “Cổ Ái Lương Huy Bích Huyền Chương Phủ soạn định, năm Huy Khanh Mộng Thiều, tế Đỗ Xuân Cát Bá Trinh biên tập, Hậu học Đặng Huy Trứ Hoàng Trung hiệu chính. Sách gồm 5 quyển đóng làm 1 tập, cộng 202 tờ (25x15cm) ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: A. 684. Phương pháp làm sách đại thể là dẫn đầu mỗi chương mục đều có lời dẫn giải bình luận về chủ đề bàn đến, sau đó dẫn ý kiến của các nhà quân sự học Trung Quốc thời cổ, trích trong các sách binh pháp của Tôn Vũ, Ngô Khôi Hoàng Thạch Công, Lý Vệ Công v.v. tức là những sách thuộc hệ thống Vũ kinh thất thư được ban định năm Nguyên Phong (1078 - 1086) đời Tống. Ngoài ra còn trích dẫn các sách khác như Hổ kiềm tinh của Hứa Động đời Tống, Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang đời Minh v.v.

Đối chiếu KSTB với BTYT chúng tôi thấy có một khối lượng đáng kể các thoại(4) giống nhau khá có hệ thống, như ở chương Hành quân (BTYL, T.1, 159/Bd. tr.118-122) tiến phát giống với 16 điều ở mục Độ hiểm (vượt nơi hiểm yếu) trong KSTB (Q.3, tờ 10-12b); BTYL (T.1, tr.167/Bd. tr.125) chép riêng một mục Độ hiểm pháp chỉ gồm 1 thoại ở KSTB trích theo Liên châu hành doanh đảo quyên đồ. Ở chương Đồn trú, BTYL (T.1, 199/Bản diễn ca, tr.146-148) chép 12 quy định về việc đóng trại lần lượt tương ứng với các điều 5-7, 9-10, 13, 15-19 (cộng 12 điều) trong số 25 điều ở mục Thủ dinh ước thúc ở KSTB (Q.2, tờ 19-23) v.v. Các chương sau như Dạ doanh (phép đóng trại ban đêm). Ám doanh (đóng trại bí mật), Thại lương (chuyển lương) v.v cũng có nhiều thoại tương đồng giữa KSTB và BYTL.

Theo ý của bài Tựa, chúng tôi tìm đọc Kim thang tá trợ. Tên sách in ngoài bìa là Kim thang thập nhị trù (viết tắt KTTNT), nhưng tên đầy đủ là Kim thang tá trợ thập nhị trù. Sách cũng do Đặng Huy Trứ giao cho nhà Trí Trung Đường khắc in năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869), in vào mùa xuân, sớm hơn mấy tháng so với KSTB. Toàn bộ gồm 12 quyển đóng làm 3 tập, cộng 451 tờ (26x16), ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: AC.202/1-3. Sách của soạn giả Trung Quốc là Lý Bàn tự Tiên Hữu, có bài Dẫn của Hùng Ứng Cưu và bài Tựa của soạn giả. Tiếp theo là Tựa của Đặng Huy Trứ cho biết ông nhận được sách này do người quen là Dương Tuệ Khanh tặng nhân khi ông đi công cán ở Quảng Đông năm Mậu Thìn (1868). Ông nhận thấy so với Vũ kinh trích chú KSTB thì sách này đặc biệt giản yếu dễ hiểu, đúng là của báu của nhà tướng. Vì vậy, ông ngày đêm khảo đính để khắc ván ấn hành. Như vậy là cùng trong năm Kỷ Tị (1869), nghĩa là chưa đầy 2 năm sau khi thực dân Pháp thôn tính nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đang ráo riết chuẩn bị đánh ra Bắc Kỳ, Đặng Huy Trứ đã cho in 2 bộ binh thư khá có giá trị. Có lẽ đó là một trong những cách trả lời tốt nhất của một nhà nho trước nạn ngoại xâm đang đe dọa vận mệnh của đất nước.

Đối chiếu KSTB với KTTNT chúng ta dễ nhận ra có sự tương đồng ở một số chương mục, điều đó có thể hiểu được vì cả 2 sách đều thoát cảo từ Đặng Huy Trứ. Mà liên quan tới văn bản BTYL thì ở KTTNT còn ở mức độ nhiều hơn, như ở các mục thuộc chương Thủy chiến: Thuyền máy thần phi, thuyền mẹ con, thuyền liên hoàn, bè gỗ, áo lội nước (phi ba giáp), ngựa nước (thủy mã) v.v… BTYL, 2-261/Bd tr. 271-281; KTTNT. Q11, tờ 12-32b) (xem thêm ở mục sau).

2. BTYL VỚI KIM THANG THẬP NHỊ TRÙ

Mở rộng việc tìm kiếm xuất xứ các thoại trong BTYL chúng tôi tìm đến nguyên thư của tác phẩm được trích dẫn… Nói chung, những thoại nào có xuất xứ ở binh thư Trung Quốc, từ Tôn Tử (của Tôn Vũ). Ngô Tử (của Ngô Khởi), Lục thao, Tư Mã pháp, Tam lược, Uất Liệu Tử, Lý Vệ công vấn đôi (của Lý Tĩnh, cũng gọi là Vệ Công binh pháp), Hồ kiềm kinh (của Hứa Động), Kinh thể bát loại toàn biên (của Trần Nhân Tích), Vũ kinh tổng yếu (của nhóm Tăng Công Lượng). Kỷ hiệu tân thư (của Thích Kê Quang) v.v.. đều tìm được xuất xứ chính xác, chủ yếu dựa theo 2 bộ tùng thư Vũ kinh tổng yếu (P.1121) ở thư viện Viện Thông tin KHXH hoặc các sách riêng biệt (đơn hành ban) hiện có ở Thư viện Quốc gia.

Kết quả đối chiếu làm xuất hiện mấy điều đáng lưu ý sau đây:

a. Trong BTYL có 5 thoại ghi là trích sách Bảo giám (Bd, tr 39, 54, 55, 168) trong đó 2 thoại ở tr.54 và 168 (Bd) là của Tôn tử, còn 3 thoại khác là trích theo Vũ kinh tổng yếu.

Như vậy tại sao người làm sách BTYL lại không ghi xuất xứ ở sách Tôn Tử hoặc Vũ kinh (tức Vũ kinh tổng yếu) như nhiều trường hợp khác trong sách đã ghi? Xuất xứ thì tác giả có thể quên hoặc chép sót, nhưng tại sao lại ghi là Bảo giám? Qua tra cứu có thể khẳng định không có binh thư nào có tên chính hoặc tên gọi tắt là Bảo giám, cũng không thấy tên sách nào (Người dịch bản Nxb KHXH cũng đã từng ghi “Chúng tôi không tìm ra sách Bảo giám”, Bd, tr.39). Phải chăng người làm sách BTYL đã vô tình hay hữu ý đưa ra một tên sách mơ hồ? Điều đó có thể còn liên quan đến một tên sách mơ hồ khác sau đây:

b. Trong BTYL có 4 thoại ghi xuất xứ ở sách Binh lược (Bd, tr.65, 88, 213, 245). Cả 4 thoại này đều liên quan đến các sự việc của Việt Nam, không có xuất xứ nhiều tầng bậc trong các binh thư Trung Quốc. Những thông tin quá khứ không cho chúng ta biết sách nào gọi là Binh lược, mà tên sách gần giống với nó là Binh thư yếu lược thì chúng ta chỉ được biết đó là tên tác phẩm của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đời Trần và tên của bản chép BTYL hiện hành mà thôi.

Thoại ở tr.65 (Bd) có liên hệ một câu: “Liễu Thăng vào nước Nam ta vì chí kiêu mà đổ quân mất mạng”. Thoại ở tr.213 (Bd) nói đến quân năm Giáp Ngọ (chỉ quân Trịnh), quân năm Bính Ngọ (1786, chỉ quân Tây Sơn), và quân Bắc năm Kỷ Dậu (1789, chỉ quân Thanh) v.v. Thoại tr. 245 nói việc Nguyễn Huệ đem thủy quân đến sông Nhị Hà. Ba thoại này hiển nhiên là bằng chứng tự bác bỏ nguồn gốc tác phẩm đời Trần! Thoại tr.88 (Bd) nói về tên lửa (hỏa tiễn) ở trên đầu có dùng thuốc súng của người Hồi Hồi, lại nói xa xôi đến một thứ tên lửa ở phương Nam. Thoại này ở hầu hết các sách đã nêu trên đều không có, chỉ tìm thấy một xuất xứ duy nhất ở KTTNT (Q.11, tờ 33a). Đó là một dẫn chứng cho thấy có sự liên quan trực tiếp giữa văn bản KTTNT và BTYL.

c. Tiếp tục khảo sát quan hệ giữa KTTNT và BTYL có thể thấy thêm những hiện tượng sau đây:

Chương Thủy chiến trong BTYL bám sát theo mục Phụ khảo Thủy chiến trong KTTNT (Q.11, tờ 12b), sau mục Quạ già nước (Thủy lão nha, BTYL chép nhầm là Thủy nha lão!) đáng lẽ tới các mục: câu liên và một số binh cụ khác, người làm BTYL đã lược bỏ, đặt ra một mục Hỏa công, mở đầu bằng câu: “Đại phàm thủy chiến thường chuyên dùng hỏa công…”, minh họa bằng 4 câu thoại: Chu Du và Lưu Bị đánh Tào Tháo ở Xích Bích, Du Thông Hải đánh Trần Hữu Lượng ở Nam Xương, Âu Dương Ngột làm phản ở Lĩnh Nam (?), Hàn Thế Trung cầm cự với quân Kim ở Hoàng Thiên Đăng (BTYL, 2-217/Bd, tr. 277 - Bd thay Kim nhân bằng tên vua Kim, và nhầm Hoàng Thiên Đăng là tên người). 3 trong 4 thoại nói trên đều có trong KTTNT (Q.11, tờ 44-45), hợp thành một mục hoàn chỉnh nói về phép hỏa công trong thủy chiến. Có mấy thoại đó minh chứng rồi mới đi đến tiểu kết: “Dĩ thượng thủy chiến nhi chuyên dụng hỏa công giả dã”. Người làm BTYL lấy câu đó đem lên đầu làm thành tên một mục, đổi 2 chữ “Dĩ thượng…” thay bằng “Đại phàm…” và bỏ hai chữ sau (… giả dã). Thêm nữa thoại thứ 3 nói việc Âu Dương Ngột đóng quân ở Nhai khẩu cho chứa các đá vào lồng tre thả xuống sông để chặn thuyền của Chiêu Đạt, xét ra không ăn nhập gì với việc đánh hỏa công. Đúng ra đó là 1 thoại minh họa cho một mục khác “Dùng mưu cắt đường thủy” như đã thấy ở KTTNT (Q.11, tờ 49a).

Lại ở mục Thủy chiến kiêm dùng lục quân (BTYL T.2, tờ 172/Bd tr.279; KTTNT Q.11, tờ 46a) cũng thấy hiện tượng cắt câu nhằm mục như trên. Ở đây, KTTNT dẫn 1 thoại: Lưu Dụ sai quân đâo thủ đi thuyền nhẹ chặn đánh đoàn thuyền lớn của Lự Tuần, một mặt sai quân kỵ và quân bộ đi ở bờ tây để hỗ trợ. Thuyền của Lự Tuần không tiến được, cùng lúc lại bị quân cung nỏ trên bờ bắn xuống…, Lự Tuần cả thua phải chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ cho quân bắn tên lửa lông trĩ xuống làm cháy thuyền, giết được Lự Tuần. Do thoại ấy mới có tiểu kết “Dĩ thượng thủy chiến nhi kiêm dụng lực binh giả dã”. BTYL không có thoại ấy (bỏ sót) thì không có nội dung minh họa cho đề mục. Đã vậy lại tiếp theo bằng câu: “Thủy chiến lấy thuận gió là thế”, không ăn nhập gì với đề mục đã nêu. Câu này thực ra là một mục đồng đẳng tiếp theo: “Thủy chiến dĩ thuận phong vi thế” (KTTNT Q.11, tờ 46b), được thuyết minh bằng thoại Vương Lâm nhà Hậu Lương đi đánh quân của nhà Hậu Trần (không có trong BTYL). Còn thoại Vương Tuấn bị quân nước Ngô dùng xích sắt chặn ngang dòng sông, Tuấn biết trước sai dùng bè gỗ đẩy đi trước để phá, BTYL đã chép vào mục “… kim dùng lục quân”, thì lại cính là 1 trong 6 thoại dùng để minh họa cho mục “Dùng mưu cắt đường thủy” (KTTNT, Q.11, tờ 49a) v.v. Sai lầm móc xích như vậy còn kéo dài đến một số mục khác nữa. Đó là bằng chứng cho thấy người làm BTYL đã sử dụng tài liệu ở KTTNT mà vì sơ suất đã để lại những sai lầm.

3. Đầu mút: BTYL và Vũ bị chế thắng chí

Trong BTYL có nhiều thoại trích ở sách Võ bị chế thắng chí (viết tắt VBCTC) (Bd tr.1, 118, 148, 234, 283, 355). Tuy vậy, qua tìm kiếm xuất xứ chúng tôi phát hiện việc trích VBCTC đã diễn ra trên quy mô rộng lớn hơn nhiều. Có thể dẫn hàng loạt thoại mục như sau:

- Hạ doanh trạch địa pháp (chọn đất đóng dinh): BTYL 2-1, Bd, tr. 144-146/ / VBCTC, T.1, Q.3, tờ 58a.

- Dạ doanh (Đóng trại ban đêm) BTYL 1-259; Bd. tr.148-155/ /VBCTC, Q.6, tờ 16a.

- Ám doanh (Đóng trại bí mật): BTYL 1-258, Bd. tr.155-15 // VBCTC, T.1, Q.3, tờ 72b.

- Thủy chiến (phần nói về các đồ dùng trên thuyền) BTYL 2-258, Bd. tr.288-292 // VBCTC, T.4, Q.13, tờ 45b-57b.

- Đánh thành (các binh cụ: thang bay - Sào xa) BTYL, 2-261, Bd. Tr.316-320 // VBCTC, T.2, Q.5, tờ 54-76.

- Giữ thành (các dụng cụ: Cửa treo - giếng khơi) BTYL, 2-389, Bd. tr.365-368 // VBCTC, T.3, Q.10, tờ 19a v.v.

Mặt khác cũng có bằng chứng cho thấy việc trích dẫn các binh thư cổ Trung Quốc trong BTYL không phải trực tiếp từ nguyên thư mà một phần lớn thông qua trung gian VBCTC. Ví dụ: về “quật hào doanh giáp” (phép đào hào đóng trại), theo Vũ binh tổng yếu: “... hào đào xong thì tạm bắc cầu phao, khi gấp rút thì chặt đi ngay, cứ cách 20 bước thì đặt một chiếc lâu” (…đương giới nhị thập bộ trí nhất chiến lâu)… ở ngoài lại đào một hố sập ngựa rộng 25 bước (… ngoại quật hãm mã khanh nhất trùng, khoát nhị thập ngũ bộ) (Tân san Vũ kinh tổng yếu tiền tập, Q.6, tờ 12b - 13a). Thoại này ở KSTB (Q.2, tờ 17a) cũng trích đúng là 20 bước, và hố sập ngựa rộng 25 bước. VBCTC T.1, Q.1, tờ 28 nhầm nhị thập bộ thành nhi thiên bộ (2000 bước), và hố sập ngựa rộng 2 bước. BTYL (1-233) sao chép lại ở VBCTC, rốt cuộc nhầm “nhị thập bộ” thành “nhị thiên bộ” và “nhị thập ngũ bộ” thành “nhị bộ”!

Từ công việc điều tra văn bản trên đây có thể sơ bộ xác lập một lược đồ như sau(5):

Theo lược đồ trên đây thì thời điểm xuất hiện văn bản BTYL không thể sớm hơn năm Tự Đức Kỷ Tị (1869) là năm in KTTNT và KSTB, và cũng không thể sớm hơn năm xuất hiện của VBCTC.

Nhưng VBCTC là một bộ sách như thế nào?

Đó là một bộ sách khá dày, toàn bộ gồm 27 quyển, cộng 655 tờ (28x8), đóng làm 7 tập, ký hiệm từ thư viện của VĐBC cũ: AC.597/1-7. Sách chép tay, ở tờ mặt sách đề Trùng khắc Vũ bị chế thắng chí (Hai chữ Trùng khắc gợi liên tưởng một bản sao căn cứ theo một bản sách in). Đầu sách chép 1 bài Tựa của Tri phủ (?) Quảng Đông là Dương Bái Úy tự Nông Phủ (Tiến sĩ) đề năm Quý Mão niên hiệu Đạo Quang 23 (1843). Tác giả bài Tựa nói khi ông ta đến Việt Đông (tức Quảng Đông) thấy một hàng sách đang bắt đầu khắc ván in bộ Vũ bị chế thắng chí¸ bèn cầm lấy xem, thì thấy sách này “cũng tựa như một món trong loại sách viết về võ bị” (tự diệc vũ bị chí trung chi nhất luyến). Theo lời thỉnh cầu của nhà hàng, ông bèn viết vài lời đặt lên đầu sách để chất chính cùng các bậc quân tử. Đó là một bài Tựa khiến ta ngạc nhiên nhiều hơn thú vị. Đối với một bộ sách lớn mà ở quyển đầu có ghi rõ là tác phẩm do Mao Nguyên Nghi soạn, hầu hết mọi chương mục đều có một đoạn ngôn luận mở đầu bằng mấy chữ: “Mao Tử viết…” (Thầy Mao nói…), vậy mà việc đề tựa chỉ làm hầu như ngẫu nhiên, không một lời nào nhắc đến Mao Tử. Một điều băn khoăn khác: Quảng Đông là một tỉnh, quan chức đứng đầu tỉnh ấy là chức Tuần phủ, đây lại ghi là “Tri phủ”? Người dịch bản của Nxb KHXH trong khi điểm lướt các bộ binh thư cổ của Trung Quốc có ghi Mao Nguyên Nghi soạn bị chí, 19 quyển; lại có Vũ bị chế thắng chí do học trò của Mao Nguyên Nghi soạn, 31 quyển. Người dịch bản của nhà Khai Trí (Sài Gòn) thì lại kê Võ bị chí của Mao Nguyên Nghi, 240 quyển, mà không nói gì đến VBCTC. Chưa rõ hai dịch giả căn cứ vào đâu để ghi như trên, mà cũng không thấy nói qua điều gì về Mao Nguyên Nghi? Chúng tôi vì chưa đủ tư liệu nên chưa dám tin như vậy. Trong khi nghiên cứu văn bản BTYL lục tìm các binh thư Trung Quốc thì thấy hầu hết các sách liên quan đều có bản in ở Thư viện Viện Thông tin KHXH, các bản hiệu chú xuất bản sau 1949 cũng có khá đủ ở Thư viện Quốc gia, mà riêng VBCTC (hoặc rộng ra là sách của Mao Nguyên Nghi) thì chỉ có 1 bản chép tay AC.597 như đã nói mà thôi. Hai bộ từ điển: Trung Quốc nhân danh đại từ điển (tr.716) và Trung Quốc văn học gia đại từ điển (tr.1266) đều có ghi tiểu sử và tác phẩm của Mao Nguyên Nghi, nhưng không thấy tên sách nào là Vũ bị chí hoặc VBCTC. Sơ đồ của chúng tôi vì vậy tạm thời phải dừng lại với thời điểm xuất hiện bản chép tay VBCTC còn bỏ ngỏ. Tuy vậy, chúng tôi nghĩ đến khả năng bản chép VBCTC là bản sách được chép ra để bán lại cho thư viện của VĐ - BC có nghĩa là phải có sau năm 1900 là năm bộ sưu tập sách Trung Quốc cổ được bắt đầu thực hiện ở thư viện này. Với những dữ kiện như đã trình bày, thời điểm xuất hiện BTYL tất phải lùi muộn có thể đến 1, 2 thập kỷ sau năm nói trên.

Nói tóm lại, qua những cứ liệu trên đây, chúng ta nghĩ rằng có thể đi đến kết luận văn bản Binh thư yếu lược hiện có chẳng những không liên quan gì đến di tác của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mà cũng không phải là một bộ sách được biên soạn tiếp nối qua các đời Lê - Nguyễn như có ý kiến trước đây đã khẳng định.

CHÚ THÍCH

(1) Binh thư yếu lược. Phụ: Hồ trướng khu cơ Nguyễn Ngọc Tỉnh và Đỗ Mộng Khương dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Văn Tân giới thiệu, Nxb. KHXH. H. in lần thứ 1: 1970, 418 tr; lần thứ 2: 1977, 525 tr. Trong bài này khi dẫn bản dịch (Bd) chúng tôi ghi số tran lần in thứ 2.

(2) Binh thư yếu lược. Nguyễn Phước Hải, Mã Nguyên Lương, Lê Xuân Mai dịch. Sài Gòn Nhà sách Khai Trí, 1969, 162 tr. Bản dịch này chỉ dịch hết quyển 1, và không thấy ghi căn cứ theo bản chữ Hán nào. Nhưng đối chiếu nội dung thì có phần chắc là dịch giả đã sử dụng bản vi phim sao chụp lại bản A.476 từ Viện Viễn đông Bác cổ.

(3) Xem: Quản Hùng - Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Sài Gòn, Phương Đông, Số 11, tháng 5-1972, tr.357.

(4) Chúng tôi dùng chữ “thoại” để chỉ đoạn văn gồm một hoặc nhiều câu diễn đạt trọn vẹn một chủ ý của tác giả.

(5) Chúng tôi loại bỏ không thể hiện trong sơ đồ phần nội dung mà người làm ra văn bản BTYL đã lấy từ tác phẩm Hổ trướng khu cơ (của Đào Duy Từ).

TB

VỀ ĐÔI KIỂU NGẮT CÂU VÀ HIỂU Ý TRONG VĂN BẢN CỔ

QUANG HƯNG

Đối với công việc phiên dịch và chú giải những văn bản cổ viết bằng chữ Hán thì ngắt câu và hiểu ý câu là một cửa ải không ít chông gai. Người xưa, trong “mười năm đèn sách” đã tốn bao tinh lực cho cái học “tiểu học” mà một nội dung không nhỏ của nó là phép ngắt câu (cú đậu) và tìm ý. Các lớp người phiên dịch và chú giải văn bản cổ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về mặt này, để những dịch phẩm được công bố ngày càng đáng tin cậy hơn, đi tới hoàn thiện hơn. Dưới đây, chúng tôi cũng xin góp một chút “tư liệu”, mong đính chính đôi chỗ “mỹ trung bất túc” trong một số văn bản dịch.

Bài minh khắc trên vạc chùa Phổ Minh (Phổ Minh tự đỉnh minh) của Nguyễn Trung Ngạn lần đầu được cụ Trần Văn Giáp ngắt câu như sau:

“Chu chi đỉnh O Thần khí dã O Việt chi đỉnh O Phật khí dã O Thần dị biển O Phật thường lạc O Y O Hậu nhân mạc chú thác…”(1) và dịch là:

“Đỉnh của nhà Chu là Thần khí; đỉnh của nước Việt là Phật khí. Thần thì dễ biến đổi, Phật thì thường vui vẻ. Hỡi người sau chớ mắc lầm to”(2).

Cần nói thêm là hồi ấy, nhà thư tịch học chưa tách được bài minh ra khỏi văn bản có ghi chép cả phần “bổ sung” của người đời sau, do vậy, cụ cũng không thừa nhận Nguyễn Trung Ngạn là tác giả bài minh(3).

Phần Khảo luận văn bản trong thơ văn Lý Trần tập I đã tách bài minh của Nguyễn Trung Ngạn ra khỏi những lời “phê điểm” của Lý Tử Tấn và những ghi chú của người đầu đời Lê, đi tới nhận xét: “Sáu câu đầu là văn có vần, mỗi câu 3 chữ đều nhau… Câu thứ 7 của bài minh gần như một lời kết luận: Y O Hậu nhân mạc chú thác, than ôi! người sau chớ có đúc lầm”(4). Như thế là Thơ văn Lý Trần đã khôi phục được “bản lai diện mục” của bài minh, nhưng về cách ngắt câu thì về cơ bản vẫn là cách ngắt của Trần Văn Giáp(5). Nếu ngắt như trên sẽ gặp vào cái thế “lưỡng đao”: 1. Cho bài trên là văn xuôi thì không ổn, bởi lẽ cả bài có 7 câu, thì dùng liền tới 6 câu có 3 chữ đều nhau, lại gieo vần, không phù hợp với “thể chế” của lối văn xuôi cổ. 2. Cho bài minh trên là “thơ” cũng không xong, vì lối đặt 6 câu 3 chữ gắn với một câu 7 chữ chưa thấy có tiền lệ trọng thơ cổ, mà nghe ra lại có “hơi hướng” của thơ mới.

Theo chúng tôi, nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn viết bài minh khắc trên vạc chưa Phổ Minh bằng thể thơ 3 chữ. Toàn bài có 8 câu (chứ không phải 7 câu), gieo 2 vần trắc (đỉnh, đỉnh và lạc, thác):

Chu chí đỉnh,
Thần khí dã.
Việt chị đỉnh,
Phật khí dã.
Thần dị biến,
Phật thường lạc.
Y hậu nhân,
Mạc chú thác.

Xin tạm dịch là:

Vạc nhà Chu,
Lạc Thần khí.
Vạc nước Việt,
Là Phật khí.
Thần dễ đổi,
Phật luôn vui.
Hỡi người sau,
Chớ đúc lỗi.

Lối ngắt câu trên đây, có ảnh hưởng tới “ngữ điệu” bài minh, cũng chưa dẫn tới lầm lỗi nhiều về ý nghĩa. Thông thường, ngắt câu không “trúng” thì cách lý giải sẽ khác hẳn nguyên tác. Trường hợp đơn giản thì chức tước của người này bị gán cho người khác, như câu:

Nguyên văn: “Tân mùi nhị niên… dĩ Trương Ma Ni vi Tăng lục đạo sĩ Đặng Huyền Quang vi sùng chân uy nghi”(6).

Bản dịch: “Tân Mùi năm thứ 2/971/… cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi”(7).

Táng lục là chức quan trông coi Phật giáo, dưới chức Tăng thống. Đạo sĩ là chỉ chung những người tu hành Đạo giáo, không phải là chức quan, càng không phải là chức quan coi nhà chùa. Gắn Tăng lục với Đạo sĩ là không đúng. Dấu ngắt câu nên đặt giữa Tăng lục và Đạo sĩ, Đạo sĩ thuộc về câu sau, gắn với Đặng Huyền Quang. Sùng Chân uy nghi là chức quan trông coi Đạo giáo, trao chức đó cho “Đạo sĩ” Đặng Huyền Quang là phù hợp.

Câu vừa nêu là lẫn về “chức”, câu dưới đây là lầm về “nước”.

Nguyên văn: “Gia phong Lý triều Thái phó Phùng Tá Chu vi Hưng nhân vương quan nội hầu Phạm Kính Ân vi Thái phó phong Bảo trung quan nội hầu…” (Toàn thư, Bản kỷ, Q.V, tờ 8b).

Bản dịch: “Gia phong Thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng nhân vương, tước Quan nội hầu; cho Phạm Kính Ân làm Thái phó, phong Bảo trung Quan nội hầu”(8).

Hưng nhân vương là tước vương. Quan nội hầu là tước hầu, đều là “tước” cả. Nhưng tước “vương” thì cao hơn hẳn tước “hầu” một bực. Trước đó 8 năm, Phùng Tá Chu đã là Phụ quốc Thái úy, quyền Tri châu Nghệ An, “được quyền cho người tước phẩm từ Tá chức xá nhân trở xuống”(9), nay lại phong tước… hầu thì là “giáng” chứ không phải là “gia phong”. Vả lại, không không thể nào gia phong cho một người cùng một lúc cả tước vương lẫn tước hầu. Ở đây, Quan nội hầu là tước của Phạm Kính Ân, Phạm Kính Ân lần này được gia phong thêm hai chữ “Bảo Trung”, còn tước vẫn như cũ. Sai lầm trên còn lặp lại ở đoạn dưới đây:

Nguyên văn: “Gia phong Hưng nhân vương Phùng Tá Chu vi Đại vương Quan nội hầu Phạm Kính Ân vi Thái úy tứ đại vương quan phục” (Toàn thư, Bản kỷ Q.V, tờ 9b).

Bản dịch: “Gia phong Hưng nhân vương Phùng Tá Chu làm Đại vương, Quan nội hầu, Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo Đại vương” (Toàn thư, tập II, Sđd, tr.14).

Nên sửa là: “Gia phong Hưng nhân vương Phùng Tá Chu là Đại Vương; Quan nội hầu Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo Đại vương”.

Nắm vững chế độ quan chức các đời là bí quyết để dịch đúng các trường hợp trên. Tuy vậy, nhiều khi chức tước cũng thực rối rắm. Ví như chức quan của Lý Tế Xuyên, tác giả của Việt điện u linh tập có nhiều ghi chép khác nhau ở các văn bản và nhiều cách dịch khác nhau ở các bản dịch. Như bản A.2879 ghi là “Thủ Đại tạng kinh trung phẩm phụng ngự”; bản A.751 ghi là “Thủ Đại tạng thư hỏa chính chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ”; bản 1.1919 ghi là “Thủ Đại tạng thư văn chính chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lội chuyển vận sứ”; bản A.47 ghi là “Thủ Đại tạng thư văn chính chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ”…

Hoàng Xuân Hãn trong cuốn Lý Thường Kiệt dịch là “Giữ Kinh Đại tạng, Thư hỏa chính chưởng, Trung phẩm phụng ngự, Chuyển vận sứ An Tiêm lộ”(10). Lê Hữu Mục trong cuốn Việt điện u linh tập dịch là “Thủ - Đại - Tạng - Thư - Hỏa - Chính - Chưởng - Trung - Phẩm - Phụng - Ngự - An Tiêm - Lộ - Chuyển - Vận - Sứ”(11): Thư mục Hán Nôm, phần Mục lục tác giả dịch là: “Thủ đại tạng thư chính, chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ”(12). Chúng tôi nghiêng về phía cách dịch của Đinh Gia Khánh: “Thủ Đại tạng thư, hỏa chính chưởng, trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ”(13).

Có lẽ, hai chữ “Đại Tạng” đã gây mắc mứu cho nhiều thế hệ các nhà văn bản và dịch giả. Có người hiểu “Đại Tạng” như một bộ kinh Phật, bộ Đại Tạng kinh. Nhưng “Đại Tạng” còn có nghĩa là “kho tàng lớn”. “Đại Tạng thư” là “kho lưu trữ văn bản lớn” (Thủ Đại Tạng thư), Lý Tế Xuyên có điều kiện học nhiều thư tịch về lịch sử, các bản thần tích, ngọc phả để viết lên bộ Việt điện u linh tập. Trong tác phẩm của mình, không thấy Lý Tế Xuyên trích dẫn câu chữ của Đại Tạng kinh.

Trên đây là những ví dụ ngắt câu chưa ổn. Còn có những sai sót do “ngắt ý” trong câu.

Ví như:

Nguyên văn:

遺 童 子 杜 也 木 如 元
(Toàn thư, Bản kỷ, Q.V, tờ 33b)

Đây là một câu đơn giản; nhưng ý của câu lại không đơn giản. Vấn đề là lý giản quan hệ giữa “đồng tử” và “đỗ dã mộc”. Có hai cách hiểu: 1. Đó là quan hệ đồng vị ngữ: đồng tử Đỗ Dã Mộc (đứa trẻ con Đỗ Dã Mộc). 2. Đó là quan hệ song song: “Đồng tử và Đỗ Dã Mộc”. Bản dịch lý giải theo cách 1, đã dịch là “Sai đồng tử là Đỗ Dã Mộc sang nước Nguyên” (Toàn thư, Tập II, Sđd, tr.42).

Và chú là: “Nước Nguyên đòi ta cống cả trẻ con” (Toàn thư, Tập II, tr.290, chú thích 75).

Trẻ con (đồng tử) khó có thể là đối tượng để nhà vua sai khiến (khiển). Xét phần Kỷ nhà Trần, Toàn thư chỉ ghi tên người nhỏ tuổi (đồng tử) khi họ là hoàng tử(14). Việc sai người sang nước Nguyên, Toàn thư chỉ ghi tên 1 hoặc 2 người cầm đầu sứ bộ, những người này càng không thể là trẻ con. Ví như: Tháng giêng, năm 1258 “Sai Lệ Phụ Trần và Chu Bác Lãm sang Nguyên”. (Toàn thư, Tập II, Sđd, tr.30); Tháng Giêng năm 1263: “Sai Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang nước Nguyên” (Sđd, tr.35). Tháng 2 năm 1266 “Sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang thăm nhà Nguyên…” (Sđd, tr.38). Tháng 12 năm 1269 “Sai Lê Đà và Đinh Củng Viên sang nước Nguyên” (Sđd, tr.41)…

Về sự kiện sai người sang nước Nguyên lần này, An Nam chí lược, Q.14 chép: “Sai đại phu Đồng Tử Dã và Đỗ Mộc sang cống”(15).

Nguyên sử Q.209 cũng ghi việc Đồng Tử Dã và Lê Văn Ẩn vào cống năm Chí nguyên 11 (1274). Như vậy Đồng Tử ở câu trên là tên người, tức Đồng Tử Dã. Toàn thư chép có lẫn, nhưng người dịch lại lẫm lẫn hơn.

Câu dịch trên do “ngắt ý” sai, đã biến “người lớn” thành “trẻ con”. Còn câu dịch dưới đây thì biến “người sống” thành “người chết”:

Nguyên văn: “Nhâm Tý ngũ niên… Mệnh thân vương Từ Tề tương binh chinh Mường Lễ châu châu tù Đèo Cát Hãn tử Đèo Mạnh Vượng xuất hàng cư vu Đông kinh lập vi tư mã hậu niện sát chi” (Toàn thư, Bản kỷ, Q.X, tờ 73b, 74a).

Tổ hợp “Châu tù Đèo Cát Hãn tử Đèo Mạnh Vượng” có thể có 2 cách lý giải: 1. Đó là 1 tổ hợp chính phụ: Con của tù trưởng Đèo Cát Hãn là Đèo Mạnh Vượng. 2. Đó là một tổ hợp liên hợp: Tù trưởng Đèo Cát Hãn và con là Đèo Mạnh Vượng. Bản dịch lý giải theo cách 1, đã dịch là: “Nhâm Tý năm thứ 5 (1432)… Sai thân vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ. Đèo Mạnh Vượng là con tù trưởng Đèo Cát Hãn ra hàng, cho ở Đông kinh, lập làm Tư mã, tới năm sau giết chết” (Toàn thư, Tập II, Nxb. KHXH, H. 1972, tr.76).

Nghĩa là Đèo Mạnh Vượng ra hàng, ở Đông kinh, được lập làm Tư mã và… năm sau bị giết chết. Nếu không có “thượng, hạ văn” thì có khó khẳng định cách hiểu nào là đúng. Nhưng Toàn thư còn có đoạn ghi chép như sau:

“Ngày 14 tháng 2, năm Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 1 (tức 1434), mẹ đẻ của Đèo Mạnh Vượng (tức là vợ Đèo Cát Hãn) về hàng. Đèo Cát Hãn đã chết, con là Mạnh Vượng về đất cũ, mẹ một mình về hàng phục trước. Vua hỏi vì sao Mạnh Vượng không tự về. Trả lời “Vượng vì có em là Đạo Thu dẫn bọn Mường Lự đến đánh nên không dám bỏ đi xa, thiếp già này về vâng mệnh triều đình trước. Vua khiến bảo người mẹ về bảo cho Mạnh Vượng vào chầu” (Toàn thư, Tập III, Sđd, tr.84).

Hai năm sau sự kiện Tư Tề đi đánh châu Mường Lễ, Toàn thư đã nhắc lại chuyện cũ, khẳng định Đèo Cát Hãn “đã chết”. Đèo Mạnh Vượng về ở đất cũ”. Cũng sự kiện này, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn ghi: “Tháng 11, Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin hàng, được nhà vua tha tội. Cát Hãn tới kinh tạ tội, được phong chức Tư mã”(16). Như vậy, câu trên nên hiểu theo cách 2, và có thể dịch là: “… Tù trưởng Đèo Cát Hãn và con là Đèo Mạnh Vượng ra hàng. Cho ở Đông kinh, lập làm Tư mã, rồi năm sau giết chết”.

Đến như câu dịch dưới đây thì biến người thành năm tháng, biến tác giả thành tên sách:

Nguyên văn: “Vương Tử Niên Thập đi ký hữu vân Đông hải Viên Kiện sơn hữu băng tàm trường thất thốn hữu lân hữu dốc” Toàn thư Bản kỷ Q.XIII, tờ 36b).

Bản dịch: “Sách Nhâm Tý niên thập di có nói: “Núi Viên Kiệu ở biển Đông có giống tằm băng, dài 7 tấc, có vảy, có sừng…” (Toàn thư, Tập III, Sđd, tr.281).

Bộ sách được Toàn thư trích dẫn, chí ít cũng phải có tên trong Tổng mục(17). Nhưng Tổng mục và các bộ thư mục khác của Trung Quốc đều không thấy ghi sách nào có tên như thế cả. Vấn đề ở đây là lý giải quan hệ giữa Vương Tử Niên và Thập di ký. Bản dịch đã gắn Vương Tử Niên với Thập di làm thành tên sách, hiểu “ký” như một động từ. Lại thấy chữ “Vương” có hai nét ngang ở trên và ở dưới hơi nhỏ hơn nét giữa (theo bản A.3) (王), nên cho là chữ “nhầm” (壬 ). Kể cũng có lý, vì có năm Nhâm Tý (王 子), chứ không có năm “Vương tử” (壬 子 )! Sự thật thì “Vương tử Niên Thập di ký” là một tổ hợp chính phụ, trong đó, chỉ trung tâm ngữ Thập di ký mới là tên sách, còn Vương Tử Niên là tên tác giả. Tử Niên là tên tự của Vương gia, người An Dương, thời Tiền Tần(18). Bộ sách Thập di ký của Vương Tử Niêm sưu tập được rất nhiều “chuyện lạ” nổi tiếng một thời, đã được Toàn thư trích dẫn.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, H.1970, tr.49-50. Nguyên văn bằng chữ Hán, ở đây chúng tôi phiên âm. Dấu O là dấu ngắt câu trong sách.

(2) Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, H.1970, tr.49-50. Nguyên văn bằng chữ Hán, ở đây chúng tôi phiên âm. Dấu O là dấu ngắt câu trong sách.

(3) Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Tập I, Thư viện Quốc gia xuất bản, H. 1970, tr.49-50. Nguyên văn bằng chữ Hán, ở đây chúng tôi phiên âm. Dấu O là dấu ngắt câu trong sách.

(4) Thơ văn Lý Trần, Tập I, Nxb. KHXH, H. 1977, phần Khảo luận văn bản, tr.66.

(5) Cũng trong Thơ văn Lý Trần tập I, ở trang 45, còn có chỗ ngắt câu như sau: Chu chí đỉnh Thần khí dã O Việt chi đỉnh Phật khí dã O Thần dị biến O Phật thường lạc O Y O Hậu nhân mạc chú thác O (Nguyên văn bằng chữ Hán, ở đây chúng tôi phiên âm).

(6) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ Q.1, tờ 3b, Quốc Tử Giám tàng bản, ký hiệu A3, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Từ đây trở xuống ghi tắt là Toàn thư, Bản kỷ Q., tờ…

(7) Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. KHXH, H. 1967, tr.155. Dưới đây ghi tắt là Toàn thư, tập… Ví dụ này do giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện.

(8) Toàn thư, tập II, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.14.

(9) Sđd, tr.8.

(10) Dẫn theo Lê Hữu Mục, Việt điện u linh tập, Nhà sách Khai Trí Sài Gòn, 1961, phần Dẫn nhập, tr.17.

(11) Tài liệu đã dẫn, tr.9.

(12) Xem Thư mục Hán Nôm, phần Mục lục tác giả, bản in Rônêô, Ban Hán Nôm, H., 1977, tr.144.

(13) Xem Việt điện u linh, Nxb. Văn học, H. 1972.

(14) Ví dụ: Tháng 9, ngày 25 (1240), “Hoàng đích trưởng tử là Hoảng sinh…” (Toàn thư, Tập II, Sđd, tr.17). Tháng 10 (1241) “Hoàng tử thứ 3 là Quang Khải sinh…” (Sđd, tr.18). Tháng 4 (1255) “Hoàng tử thứ 6 là Nhật Duật sinh” (Sđd, tr.27). Ngày 11 tháng 11 (1258) “Hoàng trưởng tử Khẩm sinh” (Sđd, tr.31). Ngày 21 (tháng 8 năm 1300) “Hoàng tử Mạnh sinh” (Sđd, tr.95)… Ngoài ra, trong suốt kỷ nhà Trần, không thấy chép tên, hoặc sự kiện của “trẻ con” không phải là hoàng tử.

(15) Xem Lê Trắc An Nam chí lược, ký hiệu A.16, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Q.14, tờ 8b.

(16) Xem Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản KHXH, H. 1978, tr.94.

(17) Tức bộ Tứ khố toàn thư tổng hợp do nho thần đời Thanh soạn, Trung Hoa thư cục xuất bản, bản in lần thứ 2, năm 1981.

(18) Về sách Thập di ký và tác giả của nó là Vương Gia, xem thêm Tứ khố toàn thư tổng mục, Sđd, tr.1207.

TB

TÌM HIỂU NGHỀ IN CỦA TA QUA
KHO SÁCH HÁN NÔM

MAI HỒNG
NGUYỄN HỮU MÙI

Nghề in của ta có từ khá sớm. Có thuyết cho rằng, đất Luy Lâu xưa là một trung tâm Phật giáo lớn, suốt từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3(1) đã khắc in kinh Phật. Có thể đây là nơi in sách sớm nhất trong lịch sử ngành in nước ta. Sau này các thời Lý Trần đều nói đến việc in sách. Nhưng do sự phũ phàng của thời tiết, khí hậu, sự hủy hoại của chiến tranh, sự tàn phá có ý thức của các thế lực xâm lược, sách in ở nước ta bị mất mát nhiều. Hiện nay (trong kho sách Viện Hán Nôm chỉ còn giữ được các bản in từ đời Lê trở lại. Một số bản in của vài cơ sở in ra đời sớm và có tuổi thọ khá lâu như phương in Hồng Liễu 211 tuổi (1683 - 1904), Đa Bảo 216 tuổi (1665 - 1881), Vĩnh Khánh 157 tuổi (1750 -1907), Quốc Tử Giám 89 tuổi (1820 - 1909), Liễu Văn Đường 91 tuổi (1834 - 1925)(2)…

Theo thống kê ban đầu, có tới 318 “nhà in” hiện còn sách lưu trữ tại kho sách Hán Nôm. Có những có sở đã in nhiều bộ sách, nhiều cơ sở chỉ còn lại một bản in. Xét từ chủ nhân của những bản in này, ta có thể chia thành 3 khu vực: 1. Khu vực do Nhà nước phong kiến quản lý; 2. Khu vực do nhà chùa, từ, quan đảm nhận; 3. Khu vực của tư nhân tổ chức(3).

I. Khu vực do nhà nước quản lý

Các cơ sở do Nhà nước quản lý có điều kiện ưu việt về tài chính, kỹ thuật ấn loát, chỉ đạo… Ngoài các bộ quốc sử, các sách “kinh điển”, các tuyển tập văn thơ, các sách giáo dục… điều đáng chú ý là những cơ sở này còn khắc in một số sách y học và sách khoa học khác. Ví như, năm 1717, Trịnh Lương trực tiếp chỉ đạo khắc in bộ sách Hồng nghĩa Giác tư y thử của Tuệ Tĩnh(4). Triều đại Tây Sơn tồn tại một thời gian ngắn ngủi trong lịch sử nhưng cũng tổ chức khắc in những bộ sách có giá trị như Thi kinh giải âm(5) Đại Việt sử ký tiền biên(6).

Triều Nguyễn còn để lại nhiều bộ sách in đồ sộ, có giá trị, có bộ gồm tới mấy trăm quyển như Đại Nam thục lục(7), Khâm định Việt sử thông giám cương mục(8). Sách in gồm nhiều thể loại còn giữ được đến nay phần lớn thuộc giai đoạn này.

Năm đầu của thế kỷ này (1901) Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Française d’Extrême - Orient) thành lập, đây là một trung tâm nghiên cứu và thu thập các sách vở, tư liệu, trong đó có văn bản Hán Nôm. Cơ quan này, bên cạnh việc in hoạt bản cũng đã tổ chức in khắc văn như bộ Việt Nam Phật điển tùng san(9) gồm 4 bộ 27 sách. Trong số các cơ sở in ở khu vực này, nhà in Quốc Sử Quán (Huế) là khá tiêu biểu. Kho sách Viện Hán Nôm hiện còn giữ được 14 bộ sách do nhà in này ấn hành, rải rác từ năm 1820 đến năm 1903, do những người có tên tuổi như Trương Đăng Quế, Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng… trông coi. Nhiều bộ sách lớn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đăng khoa lục v.v. đã được in tại nhà in Quốc sử quán.

2. Khu vực do nhà chùa, từ, quán đảm nhận

Ngay từ đầu, khi các cơ sở in ấn của Nhà nước chưa có điều kiện triển khai, thì công việc ấn loát ở các nhà chùa đã xuất hiện do nhu cầu truyền giáo. Trải các triều đại và ngay cả đến thời cận đại, khu vực chùa đền vẫn giữ vai trò quan trọng trong lịch sử in ấn của nước ta với nhiều cơ sở khắc in nổi tiếng như chùa Xiển Pháp, chùa Liên Phái, chùa Linh Quang, chùa Hòe Nha (Hà Nội), đền Ngọc Sơn (Hà Nội) đền Tức Mặc, chùa Hộ Xá (Hà Nam Ninh) v.v. Theo một danh mục tên sách khắc in đề là Các tự kinh bản thiện thư lược sao(10) thì chỉ một số chùa thuộc 4 tỉnh Hà Nội, Hà Nam(11), Hải Dương(12) và Bắc Ninh(13) đã có tới 273 bộ sách được khắc in.

Các chùa, đền, từ, quán hiển nhiên là nơi tập trung in sách của Đạo giáo và Phật giáo(15). Nhưng số sách văn, sử, triết, y học cũng được in ở khu vực này khá nhiều, bởi lẽ, trước đây, các nhà tu hành đôi khi cũng là những trí thức có uy vọng, đỗ đạt cao. Một bộ “toàn tập” của danh y Lê Hữu Trác Hải thượng y tông tâm lĩnh gồm 62 quyển đã được in ở chùa Đông Nhân (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Một số sách Nôm cũng được in ở các chùa như Ngọc am chỉ nam, Tam thiên tự…

Hiện nay, kho sách Hán Nôm còn giữ được 3 bộ sách in ở chùa Đa Bảo (Hà Đông, Hà Sơn Bình). Sách Bách pháp minh môn luận trực giải (ký hiệu AC. 618) in năm 1665, sách Sa di luật nghĩa yếu lược tăng chú (ký hiệu AC.311) in năm 1881. Như thế, hoạt động của cơ sở in này ít nhất đã có 216 năm. Có lẽ, trong 216 năm ấy, chùa Đa Bảo không chỉ in có ba bộ sách. Có thể nghĩ rằng còn nhiều sách in khác của nhà in Đa Bảo nói riêng và nhiều nhà in khác nói chung mà hiện nay chúng ta chưa tập hợp lại được.

3. Khu vực của tư nhân tổ chức

Một số nhà trí thức, người làm quan… trước đây đã bỏ tiền khắc in sách, Lê Quý Đôn, Nguyễn Mậu Kiến (Thái Bình), Trần Công Hiển (Hải Hưng), Bùi Huy Bích, Nguyễn Văn Siêu (Hà Nội), Cao Xuân Dục (Nghệ Tĩnh)… là những tên tuổi tiêu biểu về mặt này.

Liễu Chàng là một phường in khá tiêu biểu ở Hải Dương (Hải Hưng). Trước đây, phường in này cùng với phường in Hồng Lục thỉng thoảng cũng được Nhà nước trưng dụng để in các loại sách có tầm cỡ quốc gia. Hai phường in này còn có tên gọi chung là Hồng - Liễu.

Kho sách Hán Nôm hiện còn giữ được 14 tác phẩm in ở hai phường này, với các tác phẩm đáng chú ý như cuốn Tứ đạo trường sách tường chú (ký hiệu A. 2835) in năm 1880’ cuốn Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm 1774. Bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 cũng được in ở một trong 2 cơ sở này(14).

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình xã hội Việt Nam biến chuyển dữ dội, kinh tế hàng hóa có xu hướng phát triển, nhu cầu về sách vở, về các tri thức khoa học trở nên bức thiết vì nhiều “hiệu” “đường” ra đời và cũng là thời kỳ nở rộ của nghề in sách. Một loạt các nhà in sách như Quan Văn Đường, Quảng Thịnh Đường, Thịnh Văn Đường, Hữu Văn Đường, Áng Hiên Hiệu, Đông Kinh (Hà Nội), Hải Học Đường, Hướng Thiện Đường (Hải Hưng), Ninh Phúc Đường (Hà Nam Ninh), Đắc Lập (Nghĩa Bình) v.v. không chỉ in sách văn học, sử học mà còn in địa lý, thiên văn, y học, pháp luật học, toán học… Nhiều nhà in để lại những tác phẩm có giá trị. Tuy vậy, tình hình cạnh trạnh cũng dẫn đến hiện tượng in sai, in ẩu…

Việc in ấn ở ba khu vực kể trên của nước ta đã có những đóng góp quan trọng trong việc phổ biến di sản văn hóa thành văn của dân tộc. Điều này được giáo sư A.B. Woodside khẳng định trong cuốn Mô hình Việt Nam và Trung Quốc rằng: “Công nghiệp in ấn ở Việt Nam đã để lại ấn tượng chuẩn mực của vùng Đông Nam Á…”. Vào thế kỷ XVII, những câu chuyện được kể vào sách rồi lại chép tay, sau đó được truyền miệng một cách không chính thức từ nhà này sang nhà khác, từ Hà Nội đến Hà Tiên… Các triều đại Việt Nam hơn bất cứ một xã hội cổ nào khác ở Đông Nam châu Á, họ đã cố gắng điều khiển công việc in ấn, tạo sự dễ dàng, tiện lợi cho họ và giữ nó làm nghề phổ cập trong xã hội”(15).

Tuy nhiên, bên cạnh đó, nghề in nước ta vẫn còn một số nhược điểm mà nguyên nhân:

1. Việc in ấn rất phức tạp và rất tốn kém. Duy chỉ có các tập đoàn, các phường hội, nhà nước mới có khả năng thực hiện việc in ấn. Nếu các tư nhân làm được thì cũng phải là những người có thế lực, làm quan hoặc giàu có. Cho nên, mặc dầu nghề in sách mộ bản của nước phát triển khá sớm và ở cả ba khu vực, nhưng hiện nay số sách in chỉ chiếm chưa đầy 30% tổng số sách lưu hành.

2. Do sự phong tỏa nghiêm ngặt của Nhà nước phong kiến, nói chung, nghề in ở nước ta ít phát triển. Thời Lý - Trần tuy việc in sách có được phát triển tự do hơn, nhưng chủ yếu ở khu vực nhà chùa. Lê Quý Đôn nhận xét trong Kiến văn tiểu lục rằng: “Mặc dầu nghề in bằng bản khắc gỗ (ở thời Lý - Trần) đã phổ biến, nhưng trừ sách danh điển của nhà chùa ra, nếu không được phép của triều đình thì (…) không được khắc ván in”(3). Sang thời Lê, nhất là cuối Lê (thế kỷ XVII - XVIII). Triều đình cấm dân chúng dùng gỗ làm ván khắc in kinh kệ của đạo Phật, đạo Lão, hoặc văn thơ trái với quan điểm chính thống của triều đình. Đến Triều Nguyễn, năm 1820, triều đình cho tập trung việc in ấn vào kinh đô Huế và di chuyển toàn bộ số ván khắc của các triều đại khác từ Văn Miếu (Hà Nội) về Văn Miếu (Huế). Ai muốn in tác phẩm nào thì phải gửi đơn từ và giấy mực lên Sử quán. Tình trạng này cản trở rất lớn đến việc in ấn thư tịch.

Từ hai nguyên nhân trên đưa đến một kết quả là hơn 70% số sách còn lại thuộc di sản Hán Nôm là sách chép tay. Đáng lưu ý rằng, trong số sách chép tay này có nhiều bộ quý hiếm do các tác gia nổi tiếng biên soạn như Lịch triều hiến chương loại chí(16) của Phan Huy Chú, Ngô gia văn phái(17) của các tác giả họ Ngô Thì… lại chưa được khắc in, mặc dầu được vua khen và tặng thưởng.

Dưới đây là những cơ sở in sách Hán Nôm do chúng tôi thống kê được qua sổ sách còn lưu giữ ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

STT Tên nhà in Niên đại Số lượng tác phẩm Thể loại tác phẨm
(1) (2) (3) (4) (5)
1 Am Tế Xuyên(18) ? - 1884 - ? 1 Sách Đạo giáo
2 An Khánh Tự ? - 1860 - ? 1 Kinh Phật
3 An Lạc Tự 1842-1919 2 Kinh Phật
4 An Ninh Tự ? - 1840 - ? 4 Kinh Phật
5 An Quang Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - ? 1 Sách Đạo giáo
6 An Thiện Đàn ? - 1909 - ? 1 Sách Đạo giáo
7 Áng Hiên Hiệu (Hà Nội) 1909 - 1923 5 Văn học, Luật học, Toán học
8 Ba Lỗ Tự ? - 1854 - ? 1 Kinh Phật
9 Bà Đá tự 1841 - 1929 3 Kinh Phật
10 Bắc Văn Đường ? - ? 1 Sách Đạo giáo
11 Bài Lính Tự ? - ? 1 Kinh Phật
12 Báo Âm Tự 1769 - 1848 3 Kinh Phật
13 Báo Quốc Tự ? - 1830 - ? 2 Kinh Phật
14 Bảo Am Tự (Thái Bình) ? - 1912 - ? 1 Kinh Phật
15 Bảo Khám Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) 1879 - 1929 4 Kinh Phật
16 Bảo Khánh Từ ? - 1924 - ? 1 Sách Đạo giáo
17 Bảo Phúc Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1840 - ? 1 Kinh Phật
18 Bảo Quang Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - ? 3 Kinh Phật
19 Bảo Thiện Đàn 1910 - 1924 2 Văn học
20 Bắc Thành Học Đường ? - 1860 - ? 2 Văn học, Quân sự
21 Biệt Thự Long Cương (Cao Xuân Dục, Nghệ Tĩnh) 1845 - 1851 5 Văn học, Sử học
22 Bình Thiện Đàn ? - 1914 - ? 1 Sách Đạo giáo
23 Càn Yên Tự (Hà Nội) ? - 1847 - ? 1 Kinh Phật
24 Cấn Trai Đường ? - 1881 - ? 1 Văn học
25 Cát Linh Tự (Hà Nội) ? - 1818 - ? 2 Kinh Phật
26 Cát Thành Hiệu ? - 1911 - ? 1 Sách Đạo giáo
27 Cẩm Văn Đường 1866 - 1904 6 Văn học, Kinh Phật, Đạo giáo
28 Công Thiện Đường 1826 - 1901 5 Văn học, Sử học
29 Châu Linh Từ ? - 1910 - ? 1 Sách Đạo giáo
30 Châu Long Tự (Sơn Tây, Hà Nội) ? - 1830 - ? 1 Kinh Phật
31 Châu Vân Tự (Thái Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
32 Chi Viên Tự ? - 1772 - ? 1 Kinh Phật
33 Chí Âu tự ? - 1881 - ? 2 Kinh Phật
34 Chí Thiện Đàn (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1909 - ? 2 Sách Đạo giáo
35 Chiêu Bái Đường ? - 1868 - ? 1 Sách Giáo dục
36 Chiên Thiền Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
37 Chiêu Văn Đường ? - 1888 - ? 1 Kinh Phật
38 Chính Tâm Đan (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1912 - ? 1 Sách Đạo giáo
39 Chính Thiện Đường (Bắc Giang, Hà Bắc ) ? - 1911 - ? 1 Sách Đạo giáo
40 Chu Thiện Đường (Sơn Tây, Hà Nội) ? - 1906 - ? 1 Sách Đạo giáo
41 Chú Phật Đường (Hà Nội) ? - 1936 - ? 1 Sách Đạo giáo
42 Chuyết Hiên Hiệu ? - 1873 - ? 1 Văn học
43 Chư Thiên Đàn (Thái Bình) ? - 1920 - ? 1 Sách Đạo giáo
44 Diên Khánh Tự (Hà Nội) ? - ? 1 Kinh Phật
45 Diên Linh Tự 1835 - 1853 2 Kinh Phật
46 Diên Phu Tự (Bắc Giang, Hà Bắc) ? - 1859 - ? 2 Kinh Phật
47 Diệu Đế Tự ? - 1772 - ? 3 Kinh Phật
48 Dụ Hợp Đường ? - 1836 - ? 1 Văn học
49 Duyên Minh Tự ? - 1817 - ? 1 Kinh Phật
50 Duyệt Thi Đường ? - 1850 - ? 1 Giáo dục
51 Dự Kinh Lầu ? - ? 1 Văn học
52 Dương Sơn ? - 1874 1 Địa lý
53 Đường Mông Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - 1822 1 Kinh Phật
54 Đa Bảo Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1665 - 1881 3 Kinh Phật
55 Đa Văn Đường (Hà Nội) 1946 - 1852 8 Văn học, Kinh điển
56 Đại Bí Tự 1792 - 1808 2 Kinh Phật
57 Đại Giác Tự ? - 1845 - ? 1 Kinh Phật
58 Đại Nguyên Tự ? - 1758 - ? 1 Kinh Phật
59 Đại Quang Tự (Bắc Giang, Hà Bắc) 1848 - 1857 4 Kinh Phật
60 Đại Tâm Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1897 - ? 2 Kinh Phật
61 Đại Thiện Bảo Chàng ? - ? 1 Kinh Phật
62 Đại Trứ Đường ? - 1875 - ? 2 Văn học
63 Đại Văn Từ ? - 1922 - ? 1 Kinh Đạo giáo
64 Đàm Học Đạo (Bắc Giang, Hà Bắc) ? - 1911 - ? 1 Kinh Đạo giáo
65 Đảm Bái Đường ? - 1861 - ? 1 Kinh điển học
66 Đắc Lập (Thừa Thiên - Nghĩa Bình) ? - 1922 - ? 2 Văn học, Sử học
67 Đắc Nhật Đường ? - ? 1 Kinh Đạo giáo
68 Đặng Tấn Ký (Hà Nội) 1868 - 1876 6 Văn học, Sử học
69 Địa Linh Tự 1860 - 1865 4 Kinh Phật
70 Đoan Nghiêm Tự (Hải Dương, Hải Hưng) 1763 - 1903 4 Kinh Phật
71 Đông Kinh (Hà Nội) 1902 - 1927 3 Văn học, Luật học
72 Đông Lạc Đàn (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - ? 1 Sách Đạo giáo
73 Đông Lạc Đường (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - ? 1 Sách Đạo giáo
74 Đông Cao Tự (Hải Dương, Hải Hưng) 1810 - 1829 1 Kinh Phật
75 Đồng Nhân Tự (Hải Dương, Hải Hưng) 1866 - 1891 3 Kinh Phật
76 Đồng Quang Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
77 Đồng Văn Đường (Hà Nội) 1826 - 1898 24 Văn học, Sử học
78 Đồng Văn Trai (Hà Nội) ? - 1851 - ? 1 Văn học
79 Đuốc Tuệ (Hà Nội) ? - 1939 - ? 1 Kinh Phật
80 Đức Tường (Hà Nội) ? - ? 1 Sách Đạo giáo
81 Gia Liễu Đường (Hà Nội) 1822 - 1924 13 Văn học, Kinh Phật
82 Giác Hoa Tự (Hà Nội) ? - 1898 - ? 1 Kinh Phật
83 Giảng Học Thư Đường (Hà Nội) ? - 1871 - ? 1 Sử học
84 Gio Nghĩa Đàn ? - 1912 - ? 1 Sách Đạo giáo
85 Hà Đinh ? - 1879 - ? 1 Luật học
86 Hà Khẩu Tự (Hà Nội) ? - 1825 - ? 1 Kinh Phật
87 Hà Lạc Thư Đường 1904 - 1911 3 Văn học, Kinh Phật
88 Hà Yên Tự 1900 - 1904 4 Kinh Phật
89 Hải Chàng Tự ? - ? 1 Kinh Phật
90 Hải Học Hội (Hà Nội) ? - 1779 - ? 1 Sử học
91 Hải Học Đường (Hải Dương, Hải Hưng) 1814 - 1881 11 Văn học
92 Hải Hội Tự (Hà Nội) ? - 1825 - ? 1 Kinh Phật
93 Hàm Long Tự (Hà Nội) 1857 - 1865 3 Kinh Phật
94 Hành Thiện Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - 1898 - ? 1 Kinh Phật
95 Hoa Am Tự ? - 1823 - ? 1 Kinh Phật
96 Hoa Lâm Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1839 - 1883 5 Kinh Phật
97 Hoa Sơn Luật Đường ? - ? 1 Văn học
98 Hoa Tâm Tự ? - 1901 - ? 1 Kinh Phật
99 Hoa Thiện Đàm ? - 1921 - ? 1 Văn học
100 Hoa Trung Tự ? - 1914 - ? 1 Kinh Phật
101 Hoàng Phúc Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1895 - ? 1 Sách Đạo giáo
102 Hộ Quốc Tự ? - 1803 - ? 1 Kinh Phật
103 Hội Thiện Đàn (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1912 - ? 2 Sách Đạo giáo
104 Hồng Lục (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1824 - ? 1 Văn học
105 Hồng Phúc Tử (Hà Nội) 1757 - 1898 5 Kinh Phật, Địa lý
106 Huyền Trân Quán 1876 - 1877 4 Y học, Sách Đạo giáo
107 Hưng Long Tự (Ninh Bình, Hà Nam Ninh) ? - 1926 - ? 2 Kinh Phật
108 Hưng Phúc Từ (Bắc Ninh, Hà Bắc) 1847 - 1906 8 Kinh Phật
109 Hưng Thiện Đàn 1907 - 1944 3 Văn học, Kinh Phật
110 Hương Sơn Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1904 - ? 1 Kinh Phật
111 Hương Trà Hội (Hải Phòng) ? - 1883 - ? 1 Văn học
112 Hướng Lạc Hợp Đường ? - 1911 - ? 2 Kinh Phật
113 Hướng Thiện Đường (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1908 - ? 1 Văn học
114 Hữu Văn Đường (Hà Nội0 1839 - 1952 13 Văn học, Sử học, Kinh Phật
115 Hy Quang Đường ? - 19 - ? 1 Kinh Phật
116 Hy Văn Đường ? - ? 1 Văn học
117 Kiền An Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1832 - 1846 4 Kinh Phật
118 Kiến An Hiệu (Hải Phòng) ? - 1910 - ? 1 Kinh Phật
119 Kim Liên Tự (Hà Nội) ? - 1878 - ? 2 Kinh Phật
120 Ký Văn Đường (Hà Nội) ? - ? 1 Văn học
121 Khai Thiện Đàn ? - 1910 1 Kinh Phật
122 Khánh Phúc Tự ? - 1840 - ? 1 Kinh Phật
123 Khánh Thiện Đàn ? - : 1 Văn học
124 Khế Thiện Đàn ? - 1908 - ? 1 Sách Đạo giáo
125 Khuyết Thiện Đàn (Nam Ninh, Hà Nam Ninh) 1901 - 1922 19 Kinh Phật, Đạo giáo
126 Lạc Đào Đaà ? - 1864 1 Sách Đạo giáo
127 Lạc Khuyến Đàn (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1909 - ? 1 Sách Đạo giáo
128 Lạc Tĩnh Viên Hiệu ? - 1914 - ? 1 Giáo dục
129 Lạc Thiện Đàn (Hải Dương, Hải Hưng) 1911 - 1915 3 Sách Đạo giáo
130 Lạc Thiện Hiệu ? - 1811 - ? 1 Sách Đạo giáo
131 Làng Quán Tứ (Vĩnh Phú) ? - 1876 1 Giáo dục
132 Làng Thọ Hà (?) ? - 1836 - ? 1 Văn học
133 Lão Hội Hiên Đường ? - 1875 1 Văn học
134 Lão Quân Quán ? - 1821 - ? 1 Sách Đạo giáo
135 Lân Động Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1765 - ? 1 Kinh Phật
136 Lân Trạch Tự ? - ? 1 Kinh Phật
137 Liên Hoa Tự 1745 - 1854 2 Kinh Phật
138 Liên Hợp Đường (Hà Nội) ? - 1826 - ? 1 Kinh Phật
139 Liên Phái Tự (Hà Nội) 1851 - 1949 7 Kinh Phật
140 Liên Tôn Tự ? - 1850 - ? 1 Kinh Phật
141 Liên Tông Tự (Hà Nội) 1745 - 1811 1 Kinh Phật
142 Liên Từ Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - 1935 - ? 2 Kinh Phật
143 Liên Trì Tự (Hà Nội) ? - 1848 - ? 1 Kinh Phật
144 Liên Vân Các ? - 1850 - ? 1 Sách Đạo giáo
145 Liễu Chàng (Hải Dương, Hải Hưng) 1683 - 1870 10 Văn học, Lịch sử, Y học, Kinh Phật
146 Liễu Trai Đường (Hà Nội) 1833 - 1923 7 Văn học, Kinh Phật
147 Liễu Văn Đường (Hà Nội) 1834 - 1925 57 Văn học, Lịch sử, Địa lý, Kinh Phật
148 Linh Bảo Tự ? - ? 1 Kinh Phật
149 Linh Quang Tự (Hà Nội) 1853 - 1905 12 Kinh Phật
150 Linh Sơn Tự (Hà Nội) 1829 - 1906 5 Kinh Phật
151 Linh Tử Đan ? - 1876 - ? 2 Y học
152 Linh Thông Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - ? 1 Kinh Phật
153 Linh Ứng Tự (Thái Bình) ? - 1814 - ? 1 Kinh Phật
154 Long Cung Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - ? 1 Kinh Phật
155 Long Đâu Tự ? - 1825 - ? 1 Kinh Phật
156 LOng Đội Sơn (Hà Nam Ninh) ? - 1816 - ? 1 Kinh Phật
157 Long Động Tự ? - 1863 - ? 1 Kinh Phật
158 Long Hòa Hiệu ? - 1902 - ? 2 Văn học
159 Đỗ Môn Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1880 - ? 1 Kinh Phật
160 Lương Ngọc Đường ? - ? 1 Kinh Phật
161 Lưu Thúy Sạn (Hà Nội) ? - ? 3 Kinh Phật
162 Lý Quốc Sư (Hà Nội) ? - 1904 - ? 2 Kinh Phật
163 Mạc Vân Sào (Hà Nội) 1857 - 1867 2 Văn học
164 Mật Da Tự ? - 1803 - ? 1 Kinh Phật
165 Miễn Thiên Đường ? - 1908 - ? 1 Kinh Phật
166 Minh Thiện Đàn (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - ? 1 Văn học
167 Mỹ Quang Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
168 Mỹ Văn Đường 1813 - 1844 7 Sử học, Văn học
169 Nam Kinh Đàn (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1908 - ? 1 Kinh Phật
170 Ninh Phúc Đường (Hà Nam Ninh) 1865 - 1911 6 Kinh Gia Tô giáo, Văn học
171 Ninh Phúc Tự (Bắc Ninh) ? - 1674 - ? 1 Kinh Phật
172 Ninh Thiện Đàn (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1703 - ? 2 Văn học
173 Nga My Tự 1816 - 1817 3 Kinh Phật
174 Ngọc Hồ Tự (Hà Nội) ? - 1910 - ? 1 Kinh Phật
175 Ngọc Ký Đường (Hà Nội) ? - 1839 - ? 1 Văn học
176 Ngọc Sơn Từ (Hà Nội) 1843 - 1921 80 Kinh Phật, Đạo giáo
177 Ngũ Văn Lầu 1835 - 1852 3 Văn học
178 Nguyễn Hanh (Hà Nội) ? - 1870 - ? 1 Văn học
179 Nguyễn Văn Đường (Hà Nội) 1811 - 1812 2 Văn học, Y học
180 Nguyệt Quang Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - 1806 2 Kinh Phật
181 Nghĩa Chí Tự ? - 1907 - ? 1 Kinh Phật
182 Nghĩa Lợi (Hà Nội) ? - 1918 - ? 1 Địa lý
183 Nhị Khê Đường ? - 1916 1 Sử học
184 Nhị Thanh Từ (Nam Định, Hà Nam Ninh) 1895 - 1901 4 Đạo giáo, Văn học
185 Phạm Trai ? - 1887 - ? 1
186 Pháp Vũ Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1908 - ? 1 Sách Đạo giáo
187 Phát Diệm Đường (Hà Nam Ninh) ? - 1907 - ? 1 Sách Tổng Hợp
188 Phản Tính Đường ? - 1910 - ? 1 Sách Đạo giáo
189 Phật Tích Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1772 - ? 1 Kinh Phật
190 Phố Hàng Đào (Hà Nội) ? - 1912 - ? 1 Sách Đạo giáo
191 Phổ Tế Đàn ? - 1908 - ? 1 Kinh Phật
192 Phổ Thiện Đàn ? - ? 1 Kinh Phật
193 Phúc An Đường (Hà Nội) 1918 - 1923 3 Văn học, Địa lý
194 Phúc An Hiệu ? - 1920 1 Kinh Phật
195 Phúc Khánh Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1813 - ? 2 Kinh Phật
196 Phúc Khê ? - 1868 - ? 1 Văn học
197 Phúc Long Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) 1839 - 1876 2 Kinh Phật
198 Phúc Long Tự (Hải Dương, Hải Hưng) 1857 - 1859 2 Kinh Phật
199 Phúc Quang Tự ? - ? 1 Kinh Phật
200 Phúc Thắng Tự ? - 1892 - ? 1 Địa lý
201 Phúc Diệu Đàn (Hưng Yên, Hải Hưng) ? - 1902 2 Văn học, Đạo giáo
202 Phúc Thọ Đường ? - 1880 1 Giáo dục
203 Phúc Trai Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1843 1 Kinh Phật
204 Phúc Văn Đường (Hà Nội) 1811 - 1842 28 Văn học, Sử học Địa lý, Y học
205 Phúc Viên Tự ? - 1904 1 Kinh Phật
206 Phương Lan Đàn (Phúc Yên, Vĩnh Phú) ? - ? 1 Sách Đạo giáo
207 Phương Xuân Đàn 1909 - 1910 2 Sách Đạo giáo
208 Quan Thánh Tự (Hà Nội) 1896 - 1911 3 Kinh Phật
209 Quan Thánh Tự (Hưng Yên, Hải Hưng) 1878 - 1922 6 Kinh Phật
210 Quan Văn Đường (Hà Nội) 1870 - 1922 19 Sử học, Văn học Địa lý, Kinh Phật
211 Quan Âm Tự 1726 - 1836 2 Kinh Phật
212 Quan Khánh Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1812 - 1818 3 Kinh Phật
213 Quang Minh Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1839 - ? 2 Kinh Phật
214 Quang Văn Đàn ? - 1905 - ? 1 Sử học
215 Quảng Đức Tự (Hưng Yên, Hải Hưng) ? - 1905 - ? 1 Kinh Phật
216 Quảng Thịnh Đường (Hà Nội) 1833 - 1914 17 Sử học, Văn học Địa lý, Sách Đạo giáo
217 Quảng Vô Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - 1898 - ? 1 Kinh Phật
218 Quế Phương Tự ? - 1930 - ? 2 Kinh Phật
219 Quy Hồn Tự ? - 1888 - ? 1 Kinh Phật
220 Quốc Âm Tự ? - 1832 4 Kinh Phật
221 Quốc sử Quán (Huế) 1820 - 1909 17 Sử học, Chính trị, Pháp luật
222 Quỳnh Lâm Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1700 - 1726 3 Kinh Phật
223 Rey và Curiol (Sài Gòn, Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh) ? - 1848 - ? 1 Kinh Phật
224 Số 22 Hàng Bè (Hà Nội) ? - 1911 - ? 1 Sách Giáo dục
225 Sơn Đinh Tự ? - 1810 - ? 1 Kinh Phật
226 Sùng Ân Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - ? 1 Kinh Phật
227 Sùng Phúc Tự 1776 - 1825 2 Kinh Phật
228 Sùng Quang Tự 1750 - 1848 2 Kinh Phật
229 Tác Tân Đường 1804 - 1827 3 Văn học, Sử học, Kinh Phật
230 Tam Thánh Từ (Nam Định, Hà Nam Ninh) 1900 - 1908 4 Sách Đạo giáo
231 Tam Thánh Tự (Hà Nội) 1802 - 1923 6 Kinh Phật
232 Tam Vọng Đình ? - 1880 - ? 1 Văn học
233 Tập Cổ Đường ? - 1826 - ? 1 Văn học
234 Tập Thiện Đường (Hà Nội) ? - 1906 - ? 1 Kinh Phật
235 Tập Thiên Đường (Phúc Yên, Vĩnh Phúc) ? - 1911 - ? 2 Kinh Phật, Đạo Giáo
236 Tập Văn Đường 1831 - 1852 5 Văn học
237 Tây Long Điện (Hà Nội) ? - ? 1 Kinh Phật
238 Tây Thiên Tự (Hà Nội) 1906 - 1929 2 Kinh Phật
239 Tề Xuyên Tự ? - 1880 - ? 1 Kinh Phật
240 Tiên Hoa Đình ? - 1908 - ? 2 Sách Đạo giáo
241 Tiên Hưng Tự (Thái Bình) ? - 1916 - ? 1 Kinh Phật
242 Tinh Thiện Đường (Hưng Yên, Hải Hưng) 1815 - 1925 3 Kinh Phật
243 Tịnh Minh Tự ? - ? 1 Kinh Phật
244 Tụ Văn Đường 1850 - 1922 20 Sử học, Địa lý, Văn học, Y học, Giáo dục
245 Tự Am tự (Bắc Giang, Hà Bắc) 1823 - 1879 2 Kinh Phật
246 Từ Khánh Tự (Hà Nội) 1875 - 1877 3 Kinh Phật
247 Tự Đàm Tự ? - ? 1 Kinh Phật
248 Từ Văn Đường (Hà Nội) 1879 - 1881 2 Văn học
249 Tức Mặc Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) 1905 - 1906 9 Kinh Phật
250 Tùng Thiên Đường (Thái Bình) ? - 1909 1 Kinh Phật
251 Tùng Viên Hiệu ? - ? 2 Đạo Đức
252 Thạch Trụ (Quảng Ngãi, Bình Trị Thiên) ? - 1898 - ? 1 Lịch sử
253 Thái Bình Dương (Hà Nội) ? - 1949 - ? 1 Kinh Phật
254 Thái Nguyên (Bắc Thái) ? - 1758 - ? 1 Kinh Phật
255 Thái Sinh Đường ? - ? 1 Đạo Đức
256 Thanh Trai 1851 - 1862 2 Sử học, Văn học
257 Thanh Chương Đường 1851 - 1862 4 Lịch sử, Văn học
258 Thanh Lợi Hiệu 1899 - 1901 2 Văn học, Giáo dục
259 Thánh Văn Đường (Hà Nội) ? - 1879 - ? 1 Y học
260 Thánh Chúa Tự (Hà Nội) ? - 1860 - ? 1 Kinh Phật
261 Thánh Đức Tự ? - ? 1 Kinh Phật
262 Thân Quang Tự (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - ? 1 Kinh Phật
263 Thiên Ân Tự ? - 1708 - ? 1 Kinh Phật
264 Thiên Hoa Đường 1908 - 1909 2 Kinh Phật
265 Thiên Hoa Tự ? - 1821 - ? 1 Kinh Phật
266 Thiên Hưng Tự (Thái Bình) 1754 - 1835 2 Kinh Phật
267 Thiên Phúc Tự 1860 - 1862 6 Kinh Phật
268 Thiên Thái Tự ? - 1874 - ? 1 Kinh Phật
269 Thiên Tâm Tự ? - 1839 - ? 1 Kinh Phật
270 Thiện Đình ? - 1902 - ? 1 Địa lý
271 Thiện Đường (Phúc Yên, Vĩnh Phú) ? - 1910 - ? 1 Kinh Phật
272 Thiện Quang Tự (Hà Nội) ? - ? 1 Kinh Phật
273 Thịnh Mỹ Đường 1843 - 1903 4 Văn học, Kinh Phật
274 Thịnh Nghĩa Đường 1879 - 1897 2 Kinh Phật
275 Thịnh Văn Đường (Hà Nội) 1842 - 1928 15 Văn học, Sử học Địa lý, Giáo dục
276 Thọ Xương Tự (Hà Nội) ? - 1848 - ? 1 Y học
277 Thúy Văn Đường ? - 1839 - ? 1 Văn học
278 Thụy Hợp Đường ? - 1884 - ? 1 Kinh Phật
279 Thụy Linh Tự ? - ? 1 Kinh Phật
280 Thu Lâu Hiệu ? - 1806 - ? 1 Sử học
281 Thư Thiện Đàn (Nam Định, Hà Nam Ninh) ? - 1908 - ? 1 Kinh Phật
282 Trần Ngọc Tự (Hải Dương, Hải Hưng) ? - ? 1 Kinh Phật
283 Trấn Quốc Tự 1792 - 1803 2 Kinh Phật
284 Trấn Võ Tự (Hà Nội) 1880 - 1926 4 Kinh Phật
285 Tri Trí Hội ? - 1898 - ? 1 Y học
286 Trí Trung Đường 1859 - 1871 5 Văn học, Sử học, Quân sự
287 Trình Trung Đàn ? - 1901 - ? 1 Văn học
288 Trung Thiện Đường (Bắc Giang, Hà Bắc) ? - 1911 - ? 2 Kinh Phật
289 Trung Nghiêm Tự (Bắc Giang, Hà Bắc) ? - 1911 - ? 1 Kinh Phật
290 Trường Thịnh Đường 1874 - 1902 2 Văn học
291 Trường Văn Đường 1831 - 1846 2 Văn học
292 Úc Văn Đường (Hà Nội) 1827 - 1847 10 Văn học, Đạo giáo
293 Vạn Tuế Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - 1845 - ? 2 Kinh Phật
294 Văn Chỉ 1846 - 1856 2 Kinh Phật
295 Văn Kinh Đường ? - 1892 - ? 1 Văn học
296 Văn Khánh Tự ? - 1858 - ? 1 Kinh Phật
297 Văn Miếu Tự (Hà Nội) ? - 1848 - ? 1 Kinh Phật
298 Văn Từ Xã (Hưng Yên, Hải Hưng) ? - 1924 - ? 1 Kinh Phật
299 Vân Đường 1864 - 1895 3 Kinh Phật, Giáo dục
300 Vân La Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
301 Vân Thủy Hiệu ? - 1876 - ? 1 Văn học
302 Vi Thiện Đàn (Phúc Yên, Vĩnh Phúc) ? - 1909 - ? 1 Kinh Phật
303 Vi Văn Đường ? - 1880 1 Giáo dục
304 Viên Giác Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1966 - ? 1 Kinh Phật
305 Viên Minh Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) ? - ? 1 Kinh Phật
306 Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội) ? - 1911 - ? 3 Kinh Phật, Sử học, Địa lý
307 Vĩnh Khánh Tự (Hà Đông, Hà Sơn Bình) 1750 - 1907 4 Kinh Phật
308 Vĩnh Long Đàn ? - 1909 - ? 2 Kinh Phật
309 Vĩnh Nghiêm Tự 1881 - 1932 7 Kinh Phật
310 Vĩnh Phúc Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) 1669 - 1894 2 Kinh Phật
311 Vũ Thanh Tự ? - ? 1 Kinh Phật
312 Xiển Nam Tự (Hà Nội) ? - ? 1 Kinh Phật
313 Xiển Pháp Tự (Hà Nội) 1882 - 1898 15 Kinh Phật
314 Xuân Hòa Đường ? - 1908 - ? 1 Văn học
315 Xuân Lôi Tự (Bắc Ninh, Hà Bắc) ? - 1892 - ? 1 Kinh Phật
316 Xuân Thọ Đường ? - 1922 - ? 1 Kinh Phật
317 Xướng Thiện Đàn (Hưng Yên, Hải Hưng) ? - 1908 - ? 1 Kinh Phật
318 Ý Văn Đường 1851 - 1852 2 Sử học, Văn học

CHÚ THÍCH

(1) Trí Văn trong bài Tìm hiểu kinh Pháp hoa. Đặc San Vu Lan 2, Tạp chí Hoằng Pháp, cơ quan hội Phật giáo Sài Gòn cũ xuất bản năm 1973.

(2) Tuổi của các nhà in ở đây là tương đối, chúng tôi căn cứ vào niên đại ghi trên sách để tính. Có thể xuất nhập ít nhiều so với thực tế.

(3) Xem thêm: Hoa Bằng trong bài Kỹ thuật ấn loát của ta ngày xưa Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 133, năm 1970.

(4) Hồng Nghĩa Giác tư y thư, Ký hiệu AB. 306; AB. 288 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, VNCHN.

(5) Thi kinh giải âm, Ký hiệu AB. 144/1-5, VNCHN.

(6) Đại Việt sử ký tiền biên, Ký hiệu A.2, VNCHN.

(7) Đại Nam thực lục, Ký hiệu A. 2772/1-67, VNCHN.

(8) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Ký hiệu A.1/1-9, VNCHN.

(9) Việt Nam Phật điển tùng san, Ký hiệu VHv. 1514, VNCHN.

(10) Sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ký hiệu A. 1116.

(11) Hà Nam: Nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh.

(12) Hải Dương: Nay thuộc tỉnh Hải Hưng.

(13) Bắc Ninh: Nay thuộc tỉnh Hà Bắc.

Theo Biệt Lam Trần Huy Bá, trong số 213 chùa thì có tới 132 chùa khắc kinh Phật. Có chùa như Liên Tong (Hà Nội) khắc tới 28 bộ kinh. Tài liệu dịch là Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng, ký hiệu D. 512, trang 61, Thư viện VNCHN.

(14) Xem Trần Nghĩa: Một bản Truyền kỳ mạn lục vừa tìm thấy, tập san nghiên cứu Hán Nôm. No.2-85.

(15) Mô hình Việt Nam và Trung Quốc chương V, phần “Giáo dục và thi cử ở Triều Nguyễn Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học Hán Vớt (Mỹ), 1971. Tài liệu dịch của Viện Hán Nôm, ký hiệu DT. 142.

(16) Bản dịch Kiến văn tiểu lục, Hà Nội, 1963, trang 196.

(17) Lịch triều hiến chương loại chí, ký hiệu A. 551, VNCHN.

(18) Ngô gia văn phái, Ký hiệu A.117, VNCHN.

(19) Tên nhà in xếp theo thứ tự A, B, C…

TB

NGỮ VĂN HỌC CỔ ĐIỂN - MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN VÀ THÂM NHẬP KHO TÀNG DI SẢN
HÁN NÔM

ĐẶNG ĐỨC SIÊU

Sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vật chất và tinh thần cực kỳ phong phú, trong đó, riêng về mặt văn hóa thành văn, phải kể đến kho tàng di sản Hán Nôm khá đồ sộ, bao gồm hàng chục nghìn đơn vị văn bản thư tịch có liên quan tới hầu hết các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, nghệ thuật… Như chúng ta đã biết di sản này đã hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử đặc thù, được lưu truyền qua hàng chục thế hệ và được bảo vệ giữ gìn bằng nhiều biện pháp khác nhau để cuối cùng đến được với chúng ta ngày nay, cố nhiên là sau khi đã phải chịu khá nhiều tổn thất. Nhờ có di sản này, cuộc sống văn hóa tinh thần của chúng ta thêm phần phong phú. Qua việc nghiên cứu tìm hiểu di sản này, chúng ta càng thêm gắn bó với truyền thống cao đẹp của nền văn hóa nghệ thuật lâu đời của dân tộc, một nền văn hóa nghệ thuật mà trong đó “mỗi tác giả với thiên tài của mình và giới hạn của thời đại, phản ánh một thời kỳ lịch sử, đánh dấu một bước tiến của dân tộc, làm giàu thêm cho tư tưởng, tình của và tiếng nói Việt Nam”(1).

2. Nhìn tổng quát, có thể nói rằng, kho tàng di sản Hán Nôm là tài sản tinh thần chung cho toàn dân, của cả xã hội. Tất cả chúng ta ai nấy đều có thể dựa vào di sản này để ôn duyệt lại quá khứ vinh quang của dân tộc, để rồi từ đó có thể nhìn hiện tại một cách tin tưởng hơn, bởi lẽ Việt Nam, “Quá khứ sống lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết trong bản anh hùng ca của hiện tại và hiện tại đang gieo giống quý báu cho những ngày mai tươi sáng”(2). Trên một phạm vi hạn hẹp hơn, đối với giới nghiên cứu của rất nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau, các nhà ngôn ngữ học, văn học, triết học, sử học, dân tộc học, văn hóa học, quân sự học, y dược học, kinh tế học v.v. đều có thể đi sâu nghiên cứu di sản này để từ đó rút ra những điều hết sức quý báu bổ ích cho công trình nghiên cứu của mình. Như vậy, kết quả là, chúng ta sẽ có thể có được những công trình nghiên cứu, tuy cũng đều xuất phát từ kho tàng di sản Hán Nôm, nhưng thuộc về từng chuyên ngành khoa học khác nhau. Trong các công trình như thế, di sản Hán Nôm hiện diện như những cứ liệu riêng lẻ (hoặc tập hợp cứ liệu) được khai thác và trình bày theo những mục đích yêu cầu đặc định, bằng những phương pháp chuyên biệt, nhằm phục vụ cho việc đi sâu nghiên cứu đối tượng riêng biệt của chuyên ngành. Đây là tình hình khá phổ biến hiện nay, phổ biến đến mức có người cho rằng chỉ có như vậy thì mới gọi là “nghiên cứu khoa học” có chuyên ngành, còn ngoài ra thì chỉ là cá hoạt động phục vụ cho việc “nghiên cứu khoa học” mà thôi. Sự thực, trong lĩnh vực khai thác di sản văn hóa thành văn của dân tộc nói riêng hoặc của dân tộc nói chung, còn một đường hướng tiếp cận và thâm nhập nghiên cứu khác nữa mà kinh nghiệm hoạt động khoa học của nhiều nước đã chứng minh là rất cần thiết, có khả năng đem lại những thành quả rất có giá trị với những nét đặc trưng tiêu biểu không thể thay thế, đó là hướng tiếp cận, thâm nhập nghiên cứu các di sản một cách tổng hợp và lịch sử theo con đường ngữ văn học - một khoa học mà, theo lời Viện sĩ N.S. Cônrát, “trong ý nghĩa vốn có của nó, ý nghĩa đã hình thành một cách lịch sử, là khoa học về tài liệu sách vở cổ xưa”(3).

3. Ngữ văn học (Philologie trong tiếng Pháp; philology trong tiếng Anh; Philologia trong t iếng Nga… đều bắt nguồn từ Philo logos trong tiếng Hy Lạp, với nghĩa: yêu thích mến chuộng ngôn từ) là ngành khoa học chuyên nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ của con người diễn ra dưới hình thức chữ viết, được lưu trữ bảo tồn dưới dạng văn bản thư tịch.

Có thể truy tìm cội nguồn của ngữ văn hóa từ trong những thế kỷ rất xa xưa. “Ngôn ngữ là một phương tiện quan trọng nhất trong sự giao thiệp giữa người với người”(4). Vì vậy, ngôn ngữ cũng là một trong những thực t hể được con người quan tâm tìm hiểu từ rất sớm. Ở Hy Lạp cổ đại, sự quan tâm đến ngôn ngữ đã thể hiện ra theo ba hướng, dẫn đến sự hình thành ba bộ môn khoa học khác biệt nhưng liên quan khăng khít với nhau, đó là:

- Sự suy ngẫm về bản chất hoạt đọng ngôn ngữ của con người dẫn đến những nhận thức phổ quát về ngôn ngữ, dẫn đến một triết lý về ngôn ngữ và dẫn đến sự miêu tả các ngôn ngữ riêng biệt. Đó là tiền đề đưa đến sự xuất hiện khoa học Ngôn ngữ học.

- Những cố gắng mong muốn cố định hóa ngôn ngữ trong một trạng thái được coi là “diễn nhã”, “trong sáng”, “mẫu mực” đã dẫn đến môn Ngữ pháp học có tính chất quy phạm.

- Mối quan tâm muốn minh giải một cách chính xác những văn bản thư tịch cổ (đương thời đã được tích lũy khá nhiều và nói chung là rất khó hiểu) và muốn bảo tồn chúng qua việc định hình hóa, cuối cùng đã dẫn đến sự hình thành khoa ngữ văn học.

Trong thế giới cổ đại, ngữ văn học xuất hiện vào giai đoạn phát triển rực rỡ của các nền văn minh chữ viết mà một trong những tiêu chí nổi bật là sự tích tụ với số lượng lớn các văn bản thuộc nhiều chủng loại khác nhau, đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa tinh thần. Sự xuất hiện của ngữ văn học không chỉ nói lên trình độ mà còn nói lên loại hình của các nền văn minh đó. Tình hình này không những chỉ diễn ra ở phương Tây cổ đại mà còn cả ở phương Đông cổ đại nữa. Những hoạt động ngữ văn học đầu tiên của thế giới nói chung đều xuất hiện trong quá trình sưu tập, khôi phục, chỉnh lý, định hình hoa, nghiên cứu, chú giải, các văn bản thư tịch cổ. Ở phương Tây đó là các văn bản thư tịch tiêu biểu thuộc giai đoạn cổ điển của Hy Lạp và La Mã. Ở phương Đông, đó là các văn bản kinh Vêda của Ấn Độ, các văn bản thư tịch Nho gia của Trung Hoa.

Qua các thời kỳ lịch sử, phạm vi các văn bản thư tịch được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu cho khoa ngữ văn học cũng dần dần được mở rộng thêm (như Văn bản Cơ đốc giáo; Văn bản Phật giáo; Văn bản Đạo giáo,…) Phương pháp chủ yếu của hoạt động ngữ văn học là đi sâu nghiên cứu phân tích ngôn từ và phong cách của văn bản trên cơ sở vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học nhân văn khác (ngôn ngữ học, văn bản học, thư tịch học, nghiên cứu văn học, lịch sử học, v.v…). Hình thức ứng dụng cổ điển của ngữ văn học là công bố các văn bản thư tịch, dưới nhiều dạng thức khác nhau, nhằm phục vụ các yêu cầu khác nhau của đời sống văn hóa tinh thần. Thực tiễn này cho chúng ta thấy “ngữ văn học thu vào tầm nhìn của mình toàn bộ chiều rộng và chiều sâu của cuộc sống con người, trước hết là cuộc sống tinh thần. Kết cấu bên trong của ngữ văn học có tính chất đối cực. Ở cực này, nó phục vụ văn bản một cách hết sức khiêm tốn, cố bám sát lấy văn bản, không tự cho phép tách khỏi tính cụ thể của văn bản. Ở cực kia đó là tính chất bao trùm, không thể vạch trước được giới hạn”(5). Trong quá trình phát triển, ở các giai đoạn sau, phạm vi, phương hướng và phương pháp nghiên cứu của ngữ văn học cũng có những đổi mới nhất định, nhưng “đối tượng của ngữ văn học trước sau vẫn là một: đó là những văn bản thư tịch của các thời đại quá khứ; và nội dung của ngữ văn học, trước sau là một: nghiên cứu các văn bản thư tịch đó... “và” việc nghiên cứu tính chân thực của các văn bản thư tịch cổ, giải thích chúng bằng cách này hay cách khác, đều gắn liền với những lợi ích của xã hội đương thời”(6).

4. Từ đây có thể nảy sinh một vấn đề, đó là: tính chất tổng hợp về mặt nội dung của đối tượng nghiên cứu của khoa học Ngữ văn học, liệu có ngăn cản công tác nghiên cứu vươn tới những thành quả rõ rệt, có ý nghĩa khoa học thực sự sâu sắc hay không? Thậm chí có người còn thắc mắc rằng, trong thời buổi hiện tại, một ngành nghiên cứu có tính chất “Bách khoa toàn thư” như vậy liệu có còn “đắt” để hoạt động hay không? Một mặt, chúng ta có thể dựa vào tình hình phát triển để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi như vậy. Đúng là trước mắt chúng ta hiện đang diễn ra hiện tượng chia nhỏ các chuyên ngành, lập ra nhiều chuyên ngành mới, nhung đồng thời trước mắt chúng ta cũng đang diễn ra quá trình liên kết nhiều chuyên ngành lại với nhau, hình thành những liên ngành thậm chí “cụm liên ngành”. Mặt khác, như đã nói ở trên, ngữ văn học lấy các văn bản thư tịch của thời đại quá khứ làm đối tượng nghiên cứu(7). Như vậy thì tính tổng hợp trong nội dung của các văn bản thư tịch này là một thực tế lịch sử hiển nhiên. Điều mà chúng thường gọi “Văn Sử Triết bất phân”, không phải chỉ là hiện tượng riêng biệt của văn bản thư tịch cổ Phương Đông; mà là một đặc điểm chung hết sức phổ biến trong các di sản văn hóa thành văn của một quốc gia dân tộc có lịch sử lâu đời, có nền văn minh chữ viết sớm phát triển.

Với đối tượng nghiên cứu như thế, cố nhiên các nhà ngữ văn học cũng phải rộng mở phạm vi hiểu biết của mình một cách tương ứng. Có thể nói, vốn tri thức của họ là một thể dung hợp những hiểu biết về lịch sử văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của dân tộc, của quốc gia, của khu vực được phản ánh qua cơ cấu ngôn từ của văn bản. Mức độ tích tụ và vận dụng các tri thức này, ít nhất cũng phải thỏa mãn được những yêu cầu của việc nắm vững cơ cấu hình thức - nội dung văn bản và truyền đạt lại đúng đắn thời đại, qua những bước công tác cụ thể như: chỉnh lý, định hình, giải thích, công bố văn bản thư tịch. Có thể coi đây là giai đoạn đầu của tiến trình nghiên cứu. Ở giai đoạn này, nên hoàn thành tốt các bước công tác nói trên, hoạt động ngữ văn học đã có thể thực thi được một nhiệm vụ hết sức quan trọng, đó là: chuyển vận những tinh hoa trong kho tàng di sản văn hóa thành văn của dân tộc, của nhân loại đến các thế hệ ngày nay, nhằm góp phần làm phong phú thêm những thành quả đạt được qua gia đoạn đầu của tiến trình nghiên cứu, hoạt động ngữ văn học (hoạt động của cả chuyên ngành hoặc của từng cá nhân nhà nghiên cứu) có thể triển khai nghiên cứu phân tích từng bộ phận, từng yếu tố tổ thành của cơ cấu hình thức - nội dung văn bản trong mối tương quan biện chứng và lịch sử giữa các đơn vị văn bản, các hệ thống văn bản trong kho tàng di sản thành văn của dân tộc và vẫn nhằm mục đích cuối cùng là chuyển vận một cách hoàn hảo nhất những nhân tố tiến bộ, những mặt hữu ích trong di sản này vào phục vụ xã hội. Với phương pháp đối chiếu so sánh, sự đi sâu nghiên cứu phân tích này có thể lấy các thực thể văn bản trong kho tàng di sản văn hóa thành văn của các quốc gia dân tộc khác làm đối tượng nghiên cứu đối sánh. Và đó chính là nội dung hoạt động chủ yếu của ngành ngữ văn học so sánh.

5. Nhìn chung ngữ văn học đặc biệt quan tâm đến những cái riêng biệt, những cái cụ thể trước khi đi vào cái chung cái khái quát. Sự quan tâm đến cái riêng biệt cái cụ thể của văn bản, từng yếu tố thuộc hình thức văn bản. Tuy nhiên, đối với ngữ văn học, nội dung của văn bản thư tịch vẫn là cái quan trọng hơn cả. Nếu các nhà ngữ văn học phải bắt tay vào xử lý các vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, văn thể… thì mục đích chủ yếu vẫn chỉ là nhằm đi tới chỗ có thể tiếp cận, thâm nhập minh giải và truyền đạt lại nội dung văn bản thư tịch (dưới nhiều hình thức khác nhau) một cách chính xác nhất trong phạm vi khả năng cho phép mà thôi. Một số dữ kiện hầu như nằm ngoài phạm vi quan tâm của các nhà ngôn ngữ học, nhưng lại là những điều mà các nhà ngữ văn học rất chú ý, thí dụ như: những chỉ dẫn chính xác về người tạo văn bản thư tịch, người sao chép lưu truyền văn bản thư tịch, những hoàn cảnh điều kiện trong đó văn bản thư tịch đã nảy sinh hoặc được phát hiện, và đặc biệt là hoàn cảnh thời đại gắn bó với sự hình thành, lưu chuyển của văn bản thư tịch. Tuy vậy, vẫn cần phải nhấn mạnh rằng, ngữ văn học hoạt động trong sự gắn bó với ngôn ngữ học, cổ tự học, văn bản học, thư tịch học, lịch sử học, văn học và việc nghiên cứu phân tích văn bản thư tịch của các nhà ngữ văn học cũng có thể dẫn đến những kết luận quý báu đối với một số chuyên ngành nghiên cứu khác. “Ngữ văn học không hoạt động như một khoa học tách biệt theo đối tượng của mình, ngân sách với ngôn ngữ học, lịch sử học, văn học v.v. Nó tồn tại và hoạt động như một hình thức nhận thức có quy luật riêng, và hình thức nhận thức này được xác định không chỉ bởi giới hạn của đối tượng, mà quan trọng hơn, bởi cách tiếp cận đối tượng(8).

6. Với những phương thức chuyên biệt được vận dụng thích ứng với từng bước của quá trình tiếp cận và thâm nhập nghiên cứu đối tượng, khoa ngữ văn học (cổ điển) có thể phát huy tác dụng mạnh mẽ, góp phần tích cực trong việc đưa các văn bản thư tịch Hán Nôm - những thực thể trong kho tàng di sản văn hóa thành văn của dân tộc - đi vào cuộc sống, phục vụ sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Xuất phát từ từng đơn vị ngôn từ để đi tới chính thể văn bản, rồi từ chính thể văn bản về toàn cảnh thời đại xã hội gắn bó với nó quay nhìn lại từng yếu tố, từng bộ phận tổ thành của văn bản, khoa ngữ văn học có thể đóng vai trò quan trọng trong việc công bố những văn bản Hán Nôm mang đầy đủ các phẩm chất “đích thực, trọn vẹn và tiếp nhận được”, góp phần miêu tả, giới thiệu một cách sinh động cuộc sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta trong quá khứ lịch sử.

Cũng xuất phát từ thực thể văn bản Hán Nôm, với những phương hướng và phương pháp tiếp cận thâm nhập nghiên cứu đối tượng của ngành ngữ văn học so sánh, chúng ta hy vọng rằng nhiều giá trị tinh thần và truyền thống cao đẹp của dân tộc được lưu trữ trong các văn bản đó sẽ được tiếp tục soi tỏ và nêu c ao trong mối tương quan tất yếu với các nền văn hóa khác cùng chung một khu vực địa lý và hoàn cảnh lịch sử.

CHÚ THÍCH

(1) Trường Chinh: Mấy vấn đề văn nghệ Việt Nam hiện nay (trích theo: Về văn hóa văn nghệ - Nxb Văn hóa. H. 1972 tr. 167).

(2) Phạm Văn Đồng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại.

(3) N.S Cônrát: Phương Đông và Phương Tây, M. 1966 (theo bản dịch của ĐHSPHNI).

(4) V.I. Lênin: Về quyền dân tộc tự quyết. (Xem V.I. Lênin toàn tập, Tập 25, Nxb. Tiến bộ, M. 1980 - tr.303)

(5) Xem Bách khoa toàn thư Liên Xô - Mục Ngữ văn học.

(6) M.S. Cônrát. Phương Đông và Phương Tây (Sđd).

(7) Ngữ văn học nói đến ở đây là ngữ văn học cổ điển. Ngữ văn học có thể lấy các văn bản đương đại làm đối tượng nghiên cứu. Đó là ngữ văn học mới, không nằm trong phạm vi bàn đến của bài này.

(8) Xem Bách khoa toàn thư Liên Xô, Mục “Ngữ văn học”, Sđd.

TB

TẤM BIA BÁC HỒ ĐỌC Ở CÔN SƠN

NGUYỄN TUẤN THỊNH

Ngày 15 tháng 2 năm 1965 Bác Hồ đã về thăm Côn Sơn, dãy núi năm đỉnh giữa vùng núi đồi trập trùng phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Côn Sơn vốn là phần đất của Chi Ngại, quê hương lâu đời của Nguyễn Trãi, với suối đàn, bóng trúc, lũng thông, chùa cổ và không gian tỉnh lặng đã gắn bó với đời sống và hồn thơ của Ức Trai Nguyễn Trãi(1).

Giữa Côn Sơn, Bác Hồ thăm cảnh chùa, xem tượng, đọc bia, nghỉ chân ở phiến đá bên bờ suối… Tấm ảnh Bác đọc bia là hình ảnh đẹp của chuyến Bác về thăm Côn Sơn, tưởng nhớ Nguyễn Trãi đồng thời cũng biểu hiện tấm lòng của Người đối với di sản Hán Nôm.

Tấm bia Bác Hồ đọc là Côn Sơn Tư Phúc tự bi (Bia chùa Côn Sơn). Đây là một trong số hơn chục bia còn lại ở chùa Côn Sơn). Đây là một trong số hơn chục bia còn lại ở chùa Côn Sơn; hiện để ở nhà bia phía vườn trước chùa, khối bia có sáu mặt, cao 1m20, rộng 0,35, mỗi mặt có 68 dòng, mỗi dòng có 15 đến 30 chữ; trán bia chạm hình rồng mây, sáu chữ tiêu đề bia được chạm to dưới trán. Diềm bia chạm hình dây leo cách điệu, có chóp rời chụp lên, và được chốt trên đá tảng hình lục lăng, sát chân bia có chạm hình cánh sen cách điệu.

Côn Sơn Tư Phúc tự bi dựng năm Hoằng Định thứ tám (1607) đời Lê Kính Tông, do Chiêm Đường Nguyễn Đức Minh soạn; Tạ Tuân tự Đạo Cao viết chữ, Lê Liễu người xã Kính Chủ khắc bia.

Bản rập tấm bia này tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang các ký hiệu liên tiếp từ số 18776 đến 18781. Các bản rập có một số chữ mờ, thiếu nét, nhưng bia tại chùa chữ còn rõ. Kết hợp các thác bản và bia hiện vật, chúng tôi giới thiệu tóm tắt nội dung các mặt bia như sau:

Mặt thứ nhất (số 18776) cho biết chùa Tư Phúc ở Côn Sơn có quy mô từ thời Trần. Là nơi trụ trì của Huyền Quang, Ma Hán tôn giả vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần Sư trụ trì chùa đương thời là Mai Như Bản (tức Mai Trí Bản theo chữ ở các mặt 4 và 6. Hai chữ Như Tri khắc nét chữ xiên có thể đọc lầm), tự Huệ Pháp, hiệu Pháp Nhẫn đứng ra lo liệu việc trùng tu; lại có các đệ tử đi khuyến giáo các quan viên, chức sắc, cung tần, thể nữ, cùng thiện nam, tín nữ các nơi góp đủ tiền mua được một số ruộng hưng công xây dựng nhà thiên hương, tiền đường, hậu đường, hai bên hành lang, cửa tam quan… tu sửa lại thượng điện, tô lại tượng Phật, san khắc sách kinh v.v.

Một số bia khác ở Chùa Côn Sơn cũng nhắc đến Mai Trí Bản và việc tu tạo mở mang chùa Côn Sơn lần này, hiện còn tượng thờ thiền sư ở góc phải nhà tổ. Tương truyền ông còn dùng lá rễ cây rừng chế ra thuốc trừ sâu giúp dân bảo vệ mùa màng.

Mặt thứ hai (số 18777 ) ghi tên các hội chủ và tín thí quê ở huyện thuộc phủ Khoái Châu.

Mặt thứ ba (số 18778) ghi riêng các tín thí ở làng Chi Ngại.

Mặt thứ tư (số 18779) ghi tên 4 nhà sư có tiếng khác đã giúp sức vào việc sửa chữ Côn Sơn là: Thiên sư Đạo Phái; Hòa thượng Trần Đạo An, tự Định Hương người xã Từ Quán, huyện Gia Thủy, phủ Thiên Trường trụ trì ở chùa Tịnh Quang, Từ Sơn; Hòa thượng Nguyễn Quỳnh Cư tự Huệ Quang trụ trì ở chùa Hoa Yên núi Yên Tử; Hòa thượng Vũ Văn Thông tự Huệ Hải hiệu Linh Không trụ trì ở chùa Vĩnh Nghiên, từng giữ chức Tăng chính trong Tăng hội; tên một số tăng người và tín thí khác… Cuối bia ghi vị trí 80 mẫu ruộng của nhà chùa….

Mặt thứ sáu (số 18781) ghi riêng họ tên của sư Mai Trí Bản quê ở xã Mai Đồ, huyện Quế Dương (tức Quế Võ, thuộc Hà Bắc ngày nay) cùng môn đệ như Tì khưu người Mai Ngọc Liên v.v. tất cả hơn 30 người đã tham gia công việc trùng tu chùa Côn Sơn.

Mặt thứ năm (số 18780), đúng ra là mặt cuối cùng, khắc bài minh gồm 32 câu, mỗi câu 4 chữ. Xin trích giới thiệu sau đây đoạn đầu của bài minh ca ngợi cảnh đẹp ở Côn Sơn.

Phiên âm:

Thiên khai Nam quốc,
Địa lịch Bắc Kinh.
Tráng tai huyện Phượng,
Hảo ta động Thanh!
Vi tam thiên giới,
Khoa đệ nhất hình.
An cao Đông trụ,
Bình nhiễu Tây thành.
Đinh sơn hậu trấn,
Hà thủy tiền nghênh.
Cảnh quang long cứ,
Nhật noãn hạc minh.
Châu đình bí vũ,
Diệu tướng Kim tinh.
Lâu dài nguyệt sắc,
Chung cổ phong thanh

Tạm dịch:

Trời mở nước Nam,
Đất xây Kinh Bắc(2).
Lớn thay huyện Phương(3),
Đẹp thay động Thanh(4).
Ba nghìn thế giới,
Khoe bậc nhất hình.
Yên Tử dựng trụ,
Bình Than ôm thành.
Núi sau trấn giữ,
Sông trước đón nghênh.
Hạc ca trời ấm,
Rồng cuộn đất lành.
Sân chùa châu ngọc,
Tượng Phật minh vàng.
Lâu đài trăng sáng,
Chuông trống gió vang…

Như vậy tấm bia Bác Hồ đọc là Côn Sơn Tư Phúc tự bi, một tư liệu quý về văn học, sử học, nhất là đối với việc nghiên cứu di tích Côn Sơn. Trước đây chưa rõ nội dung tấm bia này nên khi giới thiệu tấm ảnh Bác Hồ đọc bia, các sách báo ghi chú còn khác nhau đến nay chúng ta có thể thống nhất lời ghi cho tấm ảnh lịch sử này là: Bác Hồ đọc bia chùa Tư Phúc ở Côn Sơn tỉnh Hải Hưng.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Nguyễn Tuấn Thịnh: Nguyễn Trãi Côn Sơn. Hội Văn hóa - Nghệ thuật và Ty Văn hóa - Thông Tin Hải Hưng xuất bản, 1980.

(2) Côn Sơn xưa thuộc huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc.

(3) Côn Sơn xưa thuộc huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc.

(4) Động Thanh Hư là công trình kiến trúc kết hợp với cảnh thiên nhiên do Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi xây dựng năm 1384 giữa khe núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc (dãy núi phía Đông Bắc Côn Sơn). Năm 1385 Trần Nguyên Đán về hưu ở tại đây.

TB

HAI TẤM BIA VỀ NINH NGẠN VÀ CUỐN VŨ VU THIỂN THUYẾT CỦA ÔNG

HOÀNG LÊ

Trước nay, giới nghiên cứu còn rất dè dặt đối với Ninh Ngạn. Lược truyện các tác gia Việt Nam, (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971) cũng như Thư mục Hán Nôm (Thư viện Khoa học xã hội, 1969, in rônêô) không nhắc tới tác giả này. Gia phả giòng họ Ninh ở Ninh Bình có ghi nhận ông viết Vũ Vu thiển thuyết Phong vịnh tập. Nhưng cho tới nay, cả hai tác phẩm đó đều không còn văn bản.

Vào năm 1976, khi nghiên cứu biên dịch cuốn Thơ văn Ninh Tốn (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) chúng tôi đã chú ý đến nhân vật này, vì ông là thân sinh của Ninh Tốn. Khảo sát trên địa bàn huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh ngày nay (trước kia là huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) chúng tôi phát hiện được nhiều bia nói về họ Ninh(1). Trong số các bia đó, có 2 tấm bia rất đáng lưu ý: một là bia Dã Hiên tiên sinh mộ biểu, một bia khác là Vũ Vu thiển thuyết. Các bia này chưa có trong số 21.000 thác bản hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

1. Bia Dã Hiên tiên sinh mộ biểu tạo vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781) để ở từ đường họ Ninh, xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp; khổ bia 1x1,60m, chạm lưỡng long chầu nguyệt ở trán bia; 2 mặt bia đều khắc chữ, có 26 dòng từ 1 đến 37 chữ. Người soạn văn bia là Tiến sĩ Vũ Huy Đĩnh.

Qua bia này, chúng ta được biết khá chi tiết về Ninh Ngạn, hiệu Dã Hiên, Hy Tăng Cư Sĩ: Ông sinh năm Ất Mùi, Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), mất năm Tân Sửu, Cảnh Hưng thứ 42 (1781). Tổ 8 đời nguyên quán ở Ninh Xá, Vọng Doanh, đến khai hoang lập ấp ở Côi Trì, Yên Mô từ đời Lê Hồng Đức. Bốn đời trước chuyên nghề nông, sau đó mới có người học hành, thi đỗ, thông thạo nho, y, lý, số. Bố đỗ Hương cống, làm quan huyện ở Quảng Bình, được ấm thụ Đông các đại học sĩ do con trưởng đỗ Hoàng Giáp làm Thừa Chi.

Ông thông minh đĩnh ngộ, học hành và xử thế tốt, 24 tuổi vào trường Quốc học, đỗ Cử nhân năm 36 tuổi, thi Hội không đạt. Năm 45 tuổi được bổ làm Hiến phó tán chức do trước đó có công triệu tập hương dũng tiểu phỉ ở Bồ Xuyên giúp dân sống yên ổn. Sau nhiều lần thi Hội không đạt, ông về ẩn ở Vũ Vu, đem điều hiểu biết viết thành sách Vũ vu thiển thuyết Phong Vịnh tập. Ông tuy sống nơi thôn dã nhưng vẫn chú ý giáo dục học trò, đem điều nghĩa cổ vũ văn hội, đặt lệ nuôi các bậc kỳ lão, đề xuất việc khai hoang khẩn hóa, vạch rõ cương giới ruộng đồng, mở chợ để dân trao đổi nông sản và đoàn kết hương thôn. Dân trong vùng có điều gì mắc mớ đều đến hỏi ông, và răm rắp tuân theo lời răn bảo. Trong gia đình, khi người anh cả mất, ông nuôi dạy các em, thờ cha mẹ một niềm hiếu kính. Vợ chết, ông nuôi dạy con rất chu đáo cho đến khi thành người hữu ích cho xã hội. Ninh Tốn được tiến triều giữ chức Tri bình phiên thăng Hiến sứ Sơn Nam, ông có thư khuyên bảo con. Năm Canh Tý (1780) ông được thụ Hàn lâm viện Thị độc. Năm sau, biết mình sắp mất, ông làm câu đối tự viếng và gọi con cháu đến dặn dò. Thọ 67 tuổi.

2. Bia Vũ Vu thiển thuyết

Tạo năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781). Bia hiện để tại từ đường họ Ninh ở Yên Mỹ, Tam Điệp, Hà Nam Ninh. Khổ bia 1,20m x 1,60m, hai mặt khắc chữ. Mỗi mặt gồm 31 dòng, mỗi dòng trung bình từ 6 đến 53 chữ. Tổng cộng 2889 chữ. Trán bia chạm rồng và mặt trời. Nội dung bia có 3 phần:

+ Phần 1: Lời dẫn, Lời đề của Ninh Tốn giới thiệu tác giả Ninh Ngạn và tác phẩm Vũ Vu thiển thuyết, trong đó, có những đoạn như sau:

“… Tốn tôi vâng lời di huấn, thẹn nỗi chưa làm theo được hết, bèn tự tay chép sách của Người vào đá rồi thuê thợ khắc, để chỉ bảo cho những ai trong đám con cháu mà muốn cầu đạo” (Tốn phụng thừa di huấn, quý vị tận hành. Nãi thử tả kỳ thư vu thạch nhiên công khắc chi, dĩ thị tử tôn chi cầu đạo giả).

“… Cha ta phong tư cao mại, coi khinh giầu sang, chí bền chẳng đổi. Ở ẩn học đạo, làm thần thảnh thơi, điềm tĩnh tu dưỡng hơn 20 năm. Về già bỗng siêu ngộ: Đạo chứa trong thân, xử sự ứng vật thảy đều ở trong. Họ hàng làng mạc đều chịu ơn người, xa đến châu quận, gương lớn đều noi. Người đem tâm đắc viết sách, đặt lời, nhan đề Thiển thuyết để dạy cháu con rằng: “Ta bình sinh đem hết sức học nêu ở những điều này. Nếu làm được như lời ta dạy, cũng có thể không phải hổ thẹn”. Lời dạy của Người còn đó, ngày nào dám quên. Kính xét tập đó của Người có 45 chương. Anh em chúng ta đều phải lấy điều dạy sáng suốt đó mà giữ cho thân ta được trọn vẹn và cho các con cháu nữa”. (Duy ngã đại nhân cao mại chi tư, trần thị di tâm thái, trầm tiềm hàm dưỡng dư nhị thập tải, vẫn niên siêu ngộ: đạo tích quyết cung. Xử xự ứng vật tất do hồ trung. Tông tộc hương đảng hàm hóa kỳ đức, viễn cập châu quận mạc bất phi thức. Thường dĩ sở đắc trước thư lập ngôn, mệnh danh Thiển thuyết, lưu huấn nhi tôn viết: “Ngã bình sinh lực học tại thị. Năng hành ngô ngôn, diệc khả vô quý”. Di giáo tại nhĩ, hà nhật cảm vong. Cần án thi tập tứ thập ngũ chương. Phàm ngã huynh đệ, công thủ minh huấn, chu toàn thử sinh dĩ cập tự dân).

+ Phần 2: Khắc toàn văn bộ sách Vũ Vu thiển thuyết gồm quyển thượng, 24 chương và quyển hạ, 21 chương. Tổng cộng là 45 chương.

Dưới đây, xin tóm tắt nội dung của các chương như sau:

Chương 1 và 2: Bàn về chữ Hiếu, cách đánh giá, thế nào là hiếu, là bất hiếu.

Chương 3: Quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình.

Chương 4 và 5: Bàn về chữ Trung, nội dung và biểu hiện của lòng trung.

Chương 6 và 7: Bàn về quan hệ vợ chồng.

Chương 8: Bàn về điều Nhân.

Chương 9: Bàn về chữ Tín.

Chương 10: Bàn về đạo làm người.

Chương 11: Biện luận về “dục chướng” và “lý chướng”. Quan hệ giữ “Lý” và “Đạo”.

Chương 12: Giải thích về “bệnh thể” và “bệnh tâm”. Ba loại bệnh tâm là “giầu”, “sang”, “thọ”.

Chương 13: Coi điều thiện làm thầy. Ai có điều thiện, dầu là kẻ dưới, đều nên coi là thầy mà học.

Chương 14: Những biểu hiện khác nhau của Lý, áp dụng trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.

Chương 15: Người quân tử với điều nhân.

Chương 16: Cái lý trong Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Chương 17: Kinh và Quyền, hai mặt thống nhất giữa Kinh và Quyền.

Chương 18: Bàn về Đạo học của Tống Nho. Những hạn chế của nó.

Chương 19: Những hạn chế của danh thần đời Tống như Hàn Kỳ, Tư Mã Quang… là không biết nghe người dưới.

Chương 20: Quan hệ giữa Trí thông minh và Tâm cầu đạo.

Chương 21: Hành động theo quy luật tự nhiên.

Chương 22: Quan hệ giữa “Nghĩa” và “Lợi”.

Chương 23: Dùng khách quan để đối chiếu lại mình, sửa bệnh chủ quan.

Chương 24: Học không nệ cổ, không hùa theo tục.

Chương 25: Chuyên tâm làm điều thiện.

Chương 26: Những biểu hiện thiên hình vạn trạng của Lý, công hiệu của Lý.

Chương 27: Vấn đề “lập đức”.

Chương 28: Bàn về “liêm” và “trực”; “Bán liêm” và “Bán trực”.

Chương 29 và 30: Làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét lời nói và việc làm.

Chương 31 và 32: Vấn đề tu dưỡng đạo đức, lập thân, lập danh.

Chương 33 và 34: Những điều cần tránh: Rượu chè cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh suất.

Chương 35: Làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác.

Chương 36: Vấn đề thành kính trong tế lễ.

Chương 37 và 38: Bàn về xét mình, sửa mình, làm điều thiện, tránh điều ác.

Chương 39: Bàn về sống và chết.

Chương 40: Bàn về vinh và nhục.

Chương 41: Quan hệ giữa thân và đạo.

Chương 42: Bàn về “dụng tâm” và “vô tâm”, “cố kết” và “cảm hóa”.

Chương 43: Nhận xét về Thuấn, Cổ Tẩu và Tượng.

Chương 44: Quan hệ giữa giầu sang và nghèo hèn với Đạo.

Chương 45: Bàn về “khí”, về “âm dương” về “tri giác”. Những biểu hiện muôn vẻ của “khí”.

+ Phần 3: Lời bạt của tiến sĩ Chu Doãn Lệ, hiệu Hy Thích, người Dục Tú, Đông Ngàn (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đỗ cùng khoa với Ninh Tốn. Trong lời bạt, Chu Doãn Lệ nói rõ lai lịch của Vũ Vu thiển thuyết, động cơ của Ninh Ngạn khi viết tác phẩm, và đánh giá rất cao bộ sách: “Người đời nay học mà biết nói đến nghĩa lý quả là rất hiếm. Thảng hoặc có đi nữa thì cũng thường là người thiển cận, bị hạn chế ở chỗ đứng thấp. Người cao xa thì bị đắm đuối vào chỗ viển vông, người khéo léo thì cố đi vào gọt rũa mài đẽo, chứ chưa hề có ai nói gần mà chỉ được xa, lời không phiền toái rườm rà mà lý rất rõ như ở Vũ Vu thiển thuyết.

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu tóm tắt Ninh Ngạn và cuốn Vũ Vu thiển thuyết của ông qua hai tấm bia được lưu giữ trên 200 năm nay(2). Điều đáng chú ý là cả bộ sách gồm 2 quyển, với 45 chương được khắc vào bia đá, có cả lời dẫn, lời đề và lời bạt. Đây thật là loại bia hiếm thấy ở Việt Nam. Nhờ tấm bia này mà ngày nay chúng ta mới có cơ sở chắc chắn để phục hồi lại cuốn sách tưởng chừng như đã mất và hiểu thêm về một tác giả sống giữa giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thế kỷ XVIII.

CHÚ THÍCH

(1) Bia Hoàng giáp công bản truyện, Hoàng giáp công từ bi ký nói về Ninh Địch là bác của Ninh Tốn; Bia Dã Hiên tiên sinh mộ biểu nói về bố của Ninh Tốn v.v.

(2) Xem ảnh Vũ Vu thiển thuyết thượng Vũ Vu thiển thuyết hạ. Nhân đây xin cảm ơn ông Ninh Văn Cân đã bảo vệ 2 tấm bia này và tạo điều kiện cho chúng tôi khai thác, giới thiệu.

TB

QUỐC ÂM TÂN TỰ MỘT PHƯƠNG ÁN CHỮ VIỆT GHI ÂM THẾ KỶ 19

NGUYỄN QUANG HỒNG

Dân tộc Việt Nam, cũng như nhiều dân tộc khác ở phương Đông, vốn từ lâu đã tiếp xúc với văn minh chữ Hán, một thứ chữ viết theo ô vuông, ghi lại từng tiếng một trong ngôn ngữ. Tuy trong thành phần của khá nhiều chữ Hán có thể phân xuất ra bộ phận gọi là “âm phù”, song các âm phù như thế không bao giờ làm thành một hệ thống chặt chẽ như hệ thống chữ cái dùng để ghi âm, nên chữ Hán thực chất không phải là một lối chữ ghi âm. Tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập âm tiết tính như tiếng Hán. Cho nên, khi có nhu cầu đặt chữ viết cho tiếng Việt, thì ở thời đại của mình, ông cha chúng ta đã sẵn sàng dựa vào hình mẫu chữ Hán để tạo ra chữ Nôm. So với chữ Hán, nhìn chung chữ Nôm của ta có xu hướng phản ánh nhiều hơn mặt âm thanh của tín hiệu ngôn ngữ. Song về mặt loại hình chữ viết, chữ Nôm dẫu sao cũng vẫn như chữ Hán, không phải là một lối chữ ghi âm thực thụ, bởi vì các chữ Nôm được tạo ra không phải làm bằng cách phên ghép từ những chữ cái làm thành một danh sách khép kín đã được xác định trước.

Tuy nhiên, từ tình hình chung trên đây không thể đi đến kết luận cho rằng người Việt, cũng như người Hán, không có nhu cầu đặt chữ viết ghi âm, hay chỉ ít là nhu cầu phiên âm tiếng nói của mình trong những trường hợp nhất định. Ở Trung Quốc, không kể chép “phiên thiết” mà thực chất là cách phiên âm chữ Hán dựa vào âm đọc của những chữ Hán đã biết, vốn đã phổ biến từ lâu (chậm nhất là từ thế kỷ VI), đến đầu thế kỷ XX người ta đã sử dụng các nét bút cơ bản của chữ Hán để sáng chế ra một bộ chữ cái đặc biệt để phiên âm chữ Hán gọi là “phiên âm tự mẫu”, trước khi đi đến khẳng định một phương án phiên âm theo mẫu chữ Latinh như chúng ta đã biết. Còn ở Việt Nam, sau chữ Nôm, chúng ta đã có hệ thống chữ viết ghi âm được sáng tạo ra trên cơ sở các chữ cái Latinh, quen gọi là chữ Quốc ngữ và được sử dụng phổ biến từ đầu thế kỷ XX đến nay. Thê nhưng phải chăng trong lịch sử chữ viết của mình, người Việt Nam chúng ta đã để lại một khoảng trống từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, mà giữa đó không có một sự trăn trở nào hết và việc dùng nét bút chữ Hán để tạo nên một lối chữ ghi âm cho tiếng Việt, như người Trung Quốc đã làm để có “phiên âm tự mẫu”, hay như người Nhật đã làm để có bộ chữ Ka-na (từ thế kỷ VIII) chẳng hạn.

Gần đây, có dịp tiếp xúc với kho sách cổ thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội, chúng tôi may mắn bắt gặp một tác phẩm viết bằng Hán văn mà nội dung có liên quan trực tiếp với vấn đề đã nêu ở trên. Những dấu hiệu còn ghi lại trên một số trang sách cho thấy rằng tác phẩm này đã được đưa vào lưu trữ tại Thư Viện Trường Viễn đông bác cổ từ hơn nửa thế kỷ trước đây, và ngày nay nó vẫn được tiếp tục bảo quản khá tốt tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Đó là một tập sách mỏng, mang ký hiệu AB, 636, khổ 15x28cm, tất c ả gồm 8 tờ (16 trang), đóng gộp lại làm một hai bản chép tay của cùng một tác phẩm mang tên là Quốc âm tân tự (có nghĩa là chữ Quốc âm mới). Một trong hai bản có vẻ là bản sao lại từ bản kia, được đặt lên trước, còn bản cũ hơn thì đặt tiếp theo sau. Bản cũ này là bản gốc của tác giả hay cũng chỉ là bản sao, đó là điều chưa xác định được. Cả hai bản đều viết chữ khá to, chân phương, nhưng đều có đối chỗ sai sót trong khi sao chép. Mỗi bản đều gồm 4 tờ (8 trang), số chữ hoàn toàn như nhau, không có gì khác biệt đáng kể. Trong khi nghiên cứu tác phẩm này có thể sử dụng cả hai văn bản để đối chiếu nhau, giúp cho việc nhận diện một số chữ và ký hiệu mà tác giả đã dùng.

Trong sách Quốc âm tân tự (dưới đây sẽ viết tắt là: QÂTT) không ghi rõ năm tháng ra đời tác phẩm này. Nhưng căn cứ vào chữ húy Hoa (bỏ nét sổ cuối cùng) trong từ “Trung Hoa” ở bài tựa có thể đoán định rằng tác phẩm này được viết ra dưới thời Nhà Nguyễn, từ khoảng giửa đến cuối thế kỷ XIX(1). Cuối bài tựa có dòng chữ “Ngũ tinh tụ đẩu Nam thành cư sĩ nguyễn tử thư”. Dựa vào câu này có thể khẳng định rằngtg của QÂTT là một cư sĩ họ Nguyễn nào đó, có biệt hiệu là Ngũ Tinh Tụ Đẩu, sống ở thành Nam Định. Còn tên thật của ông là gì thì tạm thời chưa được rõ.

Trong bài tựa, tác giả QÂTT đã nhận xét như sau về chữ Nôm: “Nước ta ở kề Trung Hoa, ngày trước chỉ có quốc âm, chưa có quốc tự. Nhân đọc sách người Hoa, bèn mượn chữ của họ, rồi hoặc chú thêm âm, hoặc dịch ra nghĩa, tăng thêm nét bút mà làm chữ Nam ta, sự bỉ lậu bất thông của nó còn thậm tệ hơn cả chữ Hán ở thời nhà Tần vậy”. Tiếp đó, cư sĩ Nguyễn đề xuất một nguyên tắc mới đề đặt chữ: “Thiết nghĩ, trong việc tạo ra chữ viết, tất phải có một quy tắc giản đơn, mà âm thanh của tiếng nói không bị bỏ sót”. Ông đã tìm ra các quy tắc giản đơn ấy, xuất phát từ một nguyên lý trong Kinh Dịch mà ông gọi là “Tam dịch quái”: “Mọi sự khởi đầu là hai, sau thành bốn, sau nữa thành tám, nhân laên là thành sáu mươi tư, lại nhân lên nữa thì thành ra bốn nghìn lẻ chín mươi sáu…”. Nói một cách khác là chỉ cần dựa vào một số ký hiệu có hạn ban đầu rồi phiên ghép dần từng bước để có được một số lượng ký hiệu khá lớn, có thể bao quát và ghi chép được hết các âm thanh của tiếng nói. Đó chính là nguyên tắc cơ bản của chữ viết phiên âm, khác xa với lối tạo chữ theo phép ghi hình ghi ý và cả theo phép hình thanh như trong chữ Hán cũng như chữ Nôm.

Một khi đã hình thành được tư tưởng về một lối chữ phiên âm như thế, thì vấn đế tiếp theo được đặt ra là: dựa vào đâu, trên cơ sở những đường nét nào mà đặt ra những ký hiệu cơ bản cho lối chữ phiên âm đó. Tác giả QÂTT đã dựa vào nét bút của chữ Hán để là việc đó. Nếu giả định rằng tác giả của lối chữ mới này đã sống vào thời mà chữ Quốc ngữ (theo tự mẫu Latinh) đã được phổ biến và tác giả ít nhiều có biết đến nó, thì việc tiếp tục dựa vào nét bút chữ Hán để đặt ra chữ viết ghi âm như cư sĩ họ Nguyễn đã làm, rõ ràng là một sự lựa chọn có ý thức và biết đâu không ẩn ngầm trong đó một thái độ (có thể là bảo thủ) phản ứng lại lối chữ kiểu “tây” viết bằng bút chì. Nhưng nếu như cư sĩ họ Nguyễn là người chưa hề biết đến chữ Quốc ngữ, dù là dưới dạng sơ khai của nó, thì trong điều kiện vật chất lúc bấy giờ (trong tay chỉ có bút lông), dựa vào nét bút chữ Hán để tạo ký hiệu cho hệ thống chữ mới là một điều hết sức ngạc nhiên và dể hiểu. Cũng cần phải nói rằng, trong toàn bộ văn bản của QÂTT không hề tìm thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ tác giả đã chịu ảnh hưởng của bộ chữ “phiên âm tự mẫu” của người Trung Hoa (có phần chắc là QÂTT đã ra đời sớm hơn bộ chữ đó nhiều) hoặc đã tiếp xúc với bộ chữ Ka-na của Nhật. Ở QÂTT ta có một hệ thống ký hiệu chữ viết độc đáo, riêng biệt, so với hệ thống chữ viết nói trên, tuy rằng đều cùng sử dụng ngọn bút lông để vẽ nên.

Tác giả QÂTT đã đặt ra tất cả 132 ký hiệu đơn, trong đó gồm có 22 ký hiệu gốc (gọi là cán tự) và 110 ký hiệu nhánh (gọi là chi tự), phái sinh từ các ký hiệu gốc. Có 4 nét bút cơ bản được sử dụng để tạo ra tất cả ngần ấy ký hiệu đơn là: ngang, sổ, chấm và phẩy (với hai biến thể: sang trái và sang phải). Và mỗi ký hiệu đơn đều được tạo lập bằng một số lượng nét bút như nhau là 4 nét, không hơn không kém”(2).

Trước hết, tác giả phối hợp các nét bút ngang, sổ, chấm, phẩy theo những cách thức khác nhau để tạo thành 22 câu tự (xem ảnh 1)(3). Thí dụ, chữ gốc thứ hai dùng một chấm và ba nét ngang; chữ gốc thứ hai dùng một phảy, một nét ngang và hai nét sổ. Bên cạnh mỗi ký hiệu đều có dùng một chữ Nôm để chú âm đọc cho ký hiệu đó. Dựa theo các chữ Nôm này, ta có thể đọc âm tất cả 22 ký hiệu câu tự như sau:

(1) Ông (2) Ngông (3) Hông (4) Gông (5) Công (6) Lông (7)Trông (8) Đông (9) Nông (10) Tông (11) Thông (12) Nhông (13) Chông (14) Giông (15) Xông (16) Không (17) Sông (18) Rông (19) Mông (20) Bông (21) Vông (22) Phông.

Có thể nhận ra rằng 22 cán tự với âm đọc như thế rõ ràng là đại biểu cho 22 thủy âm mở đầu các âm tiết tiếng Việt, trong đó kẻ cả âm đầu zê-rô (cán tự Ông). So với hệ thống âm đầu mà chữ Quốc ngữ thể hiện, hệ thống cán tự của QÂTT ít hơn một đơn vị: nếu như trong chữ Quốc ngữ có sự phân biệt 3 âm đầu D-, GI-, và R-, thì ở QÂTT chúng được gộp lại làm 2 cán tự (Giông Rông), nghĩa là bỏ đi sự phân biệt D-/GI-. Song khác với âm Hà Nội hiện nay đã mất hẳn các âm đầu uốn lưỡi TR-, S- và R-, trong QÂTT các âm này vẫn được phản ánh đầy đủ qua các cán tự Trông, Sông Rông.

Mỗi một chữ gốc (cán tự) trên đây lại làm cơ sở để tạo ra 5 chữ nhánh (chi tự) bằng cách di chuyển nét bút đầu tiên của chữ gốc thành nét bút cuối cùng của chữ nhánh theo 5 vị trí khác nhau: hai vị trí còn lại phía bên trái và ba vị trí nữa phía bên phải của mỗi chữ gốc. Theo cách đó, từ 22 cán tự đã cho ta sẽ có tất cả là 22 x 5 = 110 chi tự (xem ảnh 1 ảnh 2)(4).

Cũng như đối với cán tự, bên cạnh mỗi chi tự đều có phụ chú một chữ Nôm để chỉ ra âm đọc của ký hiệu chi tự đó. Chẳng hạn, từ cán tự (1) là Ông, ta có 5 chi tự được chúng tôi đánh dấu là (1a), (1b), (1c), (1d), (1e) và lần lượt đọc là Oai, Ôn, Oan, Uy, Âm. Cũng vậy, từ cán tự (2) Ngông, ta sẽ có 5 chi tự khác là (2a) Nghe, (2b) Ngon, (2c) Ngan, (2d) Nghi, (2e) Ngâm v.v. Theo âm đọc của các ký hiệu chi tự chúng ta có thấy giả định rằng các chi tự được tác giả tạo ra là nhằm phản ánh phần vần trong cấu trúc các âm tiết tiếng Việt.

Thế nhưng, cần hết sức thận trọng trong khi muốn tìm mối liên hệ giữa một chi tự với một vần cái nào đó trong tiếng Việt mà hệ thống chữ viết QÂTT muốn phản ánh. Để giúp bạn đọc bước đầu có thể hình dung được vấn đề này, chúng tôi xin lưu ý mấy điểm sau đây:

1. Như đã phân tích ở trên, tác giả QÂTT khi tạo ra các ký hiệu chi tự đã thực hiện một thao tác làm việc rất triệt để theo logic hình thức. Ở đây các kí hiệu chỉ được sản sinh ra từ bản thân các ký hiệu cho trước theo khả năng tối đa có thể có được và kết quả thu được là hoàn toàn có thể dự đoán trước theo nguyên lý số học. Bởi vậy, sẽ là sai lầm nếu nghĩ một cách đơn giản rằng tương ứng với con số 110 chi tự của QÂTT là một số lượng y hệt như thế các vần cái được phát ra trong thực tế tiếng Việt thời bấy giờ. Sự xê xích giữa các chi tự và các vần tiếng Việt có thể nhận thấy rõ khi chúng ta khảo sát một số ký hiệu chi tự và âm đọc của chúng thể hiện qua chữ Nôm. Có nhiều chi tự được chú âm bằng những chữ Nôm khác nhau, nhưng lại cũng một vần cái. Thí dụ như chi tự (2b) đọc là Ngon trùng với chi tự (1b) ở trên đọc là On. Hoặc như chi tự (1e) đọc là Âm, chi tự (2e) đọc là Ngâm, chi tự (6e) đọc là Lâm, cả ba chi tự này đều có chung vần cái -âm.

Trong những trường hợp trùng lặp vần như thế, dường như tác giả có lưu ý đọc giả bằng cách đặt một dấu móc nhỏ vào dưới góc bên trái của chữ Nôm chua âm. Lại cá biệt trường hợp tác giả dùng cùng một chữ Nôm để chú âm cho hai ký hiệu chi tự khác nhau: chi tự (14d) và chi tự (18d) đều được chua âm bằng một mã chữ Nôm. Khó có thể khẳng định được rằng chữ này cần phải đọc thành hai âm khác nhau, hay chỉ đọc thống nhất một âm thôi, và đó là âm gì. Trong trường hợp sau, thì chẳng những có sự trùng lặp vần cái, mà còn lẫn lộn làm một cả âm đầu Giông Rông nữa.

2. Theo cách phân tích và trình bày của các nhà ngữ âm học hiện nay thì hệ thống vần cái của tiếng Việt bao gồm bốn loại xét theo cách kết thúc vần: mở (kết thúc bằng chính nguyên âm tạo đỉnh âm tiết), nửa mở (kết thúc bằng bán nguyên âm), nửa khép (kết thúc bằng phụ âm tắc - vô thanh). Thế nhưng các ký hiệu chi tự trong QÂTT hẳn là không trực tiếp liên quan các vần khép tắc - vô thanh. Sở dĩ như vậy là vì tác giả tuân theo cách xử lý truyền thống của âm vận học Trung Hoa, quy đặc trưng tắc - vô thanh của vần cho thanh điệu (thanh nhập) và gộp các vần khép với các vần nửa khép lại làm một. Mặt khác, qua đối chiếu một số trường hợp, như chi tự (1a) đọc Oai, chi tự (7c) đọc Trai và chi tự (11c) đọc Thai, chi tự (1c) đọc Oan và chi tự (2c) đọc Ngan, chi tự (1d) đọc Uy và chi tự (2d) đọc Nghi v.v. ta có thể nhận thấy rằng sự phân biệt giữa các vần mà các chi tự biểu hiện là bao trùm lên cả âm đầu vần -U- (-O-) tức là “âm đệm” trong cấu trúc chung của âm tiết tiếng Việt.

3. Một điều đáng lưu ý nữa là bản thân các chữ Nôm chú âm cho các chi tự không phải bao giờ cũng cho một âm đọc duy nhất. Thực ra, đây là tình hình chung của chữ Nôm: một chữ thường có thể đọc thành nhiều âm khác nhau, và một âm cũng có thể viết thành nhiều chữ khác nhau. Thông thường, ngữ cảnh giúp người đọc khá nhiều trong việc lựa chọn âm đọc chính xác của mỗi chữ. Vậy mà trong QÂTT các chữ Nôm được dùng một cách đơn lẻ để chú âm chứ không đặt chúng vào những ngữ cảnh có nghĩa, nên việc giải mã âm đọc của chúng gặp rất nhiều khó khăn. Kể ra, cách sắp xếp các chi tự cũng như cách dùng một số dấu phụ cho chữ Nôm mà tác giả nghĩ ra đã phần nào bù đắp lại những hạn chế nói trên. Như đã biết, tác giả QÂTT khi liệt kê các chi tự đã sắp xếp chúng theo từng hệ thống nhỏ, mỗi hệ thống nhỏ đó bao gồm 5 chi tự được tạo ra từ một chữ gốc, và do đó đều cùng được đọc với một thủy âm. Như vậy khó khăn chủ yếu vẫn là ở việc giải âm phần vần của các chữ Nôm. Xem xét kỹ các chữ Nôm mà tác giả viết ta thấy rằng dường như đối với những chi tự có vần na ná như nhau thì dùng những chữ Nôm có tự dạng gần giống nhau để biểu thị hoặc dùng dấu phụ khẩu để gợi ý đọc chệch ít nhiều so với chữ thường(7). Mặc dầu vậy, việc xác lập hệ thống vần cái của tiếng Việt thông qua 110 chữ Nôm ấy vẫn là một công việc không dễ dàng gì, tuy không phải là không thể thực hiện được.

Sang bảng kê các chi tự là mục hướng dẫn cách phân biệt thanh điệu trên chữ viết. Ở đây không có gì mới lạ so với những gì đã có trong âm vận học Trung Hoa. Trước hết các thanh điệu được chia thành 4 loại bình, thưởng, khứ, nhập (thanh nhập đối với các vần có kết thúc khép tắc - vô thanh). Mỗi loại lại phân biệt 2 bậc âm dương. Như vậy có cả thảy 8 thanh. Các thanh thuộc bậc âm thì dùng nửa vòng khuyên để ghi, còn các thanh thuộc bậc dương thì dùng nguyên một vòng khuyên để ghi. Cách ghi như sau: đặt dấu vào “chân trái” của chữ là bình, đặt dấu vào “vai trái” của chữ là thưởng, đặt dấu vào “vai phải” của chữ là khứ và đặt dấu vào “chân phải” của chữ là nhập (xem ảnh 2).

Như vậy là tác giả của phương án chữ mới QÂTT đã sáng tác xong hệ thống “chữ cái” và kí hiệu ghi thanh điệu để phiên âm tiếng Việt. Công việc tiếp theo là phải đề xuất một phương pháp phiên âm bằng hệ thống chữ cái đó.

Trước hết tác giả QÂTT nói đến “phản ánh bát thanh pháp” tức là đề cập đến cách đánh vần. Ở đây tác giả đã vận dụng một ít tri thức về vận thư và vận đồ để thuyết minh về “phép phiên” và “phép thiết”, tuy có phần rắc rối khó hiểu, nhưng thực chất không có gì khác với cách đánh vần thông thường mà chúng ta vẫn biét như: Đông + Oan ® Đoan, Ngông + Hoa ® Ngoa, Ông + Nghi ® Y v.v.

Trên cơ sở đó có thể viết ghép (tác giả gọi là “hợp thư”) một cán tự với một chi tự để biểu thị một tiếng (âm tiết). Thí dụ chữ Đoan là một chữ vuông gồm có cán tự (8) Đông (bên trái) ghép với chi tự (1c) Oan (bên phải) và góc dưới bên trái có dấu nửa vòng khuyên để ghi thanh điệu âm bình. Dường như tác giả cũng chấp nhận cả cách phiên ghép theo trật tự ngược lại: chi tự bên trái + cán tự bên phải. Thí dụ chữ Ông gồm: chi tự (1a) Oai + cán tự (1) Ông.

Ngoài ra, đối với những tiếng có cách cấu âm phức tạp, tác giả còn đề nghị dùng cách viết chồng (“tham thư”) để phiên âm: trên cơ sở một chữ ghép đã có, đặt thêm lên trên một ký hiệu chi tự nữa. Thí dụ, sau khi ghép chi tự: (1d) Uy + cán tự (1) Ông ta có chữ ghép Uông (?) chẳng hạn, lại đặt lên trên chữ ghép này chi tự (16c) Khoen (?) để thành một chữ mới, biểu thị cho một âm “đọc gấp, lưỡi uốn lại ở hàm, hai răng nhe ra hai môi chụm lại mà thành tiếng”. Có thể đó là âm tiết Oen hay Oeng chăng.

Cuối cùng, tác giả của phương án chữ quốc âm mới còn đưa ra con số các âm tiết tiếng Việt có thể ghi chép được bằng cách này hay cách khác thông qua hệ thống chữ viết của mình:

- Chỉ dùng riêng cán tự để ghi các âm tiết thì số lượng âm tiết được ghi sẽ là 176. Con số này hẳn là do 22 cán tự nhân với tám thanh mà ra(5).

- Chỉ dùng riêng chi tự để ghi tiếng thì số lượng âm tiết được ghi sẽ là 880. Con số này dường như cũng là do 110 chi tự nhân với tam thanh điệu mà ra. Nếu vậy thì không hẳn đã là chính xác, bởi vì trong số 110 chi tự có khá nhiều trường hợp là vần mở và nửa mở, là những vần vốn chỉ phân biệt 6 thanh và không liên can gì với 2 thanh nhập cả.

- Phiên ghép chi tự (bên trái) + cán tự (bên phải) sẽ có được 880 âm tiết khác (trong đó có 46 âm thuộc nhập thanh gần như trùng nhau). Con số này quá ít, vả lại lặp con số ở trên, phải chăng ở đây có sự nhầm lẫn khi sao chép.

- Phiên ghép cán tự (bên trái) + chi tự (bên phải) sẽ có được 18180 âm tiết (trong đó có 1932 âm tiết thuộc nhập thanh gần như là trùng nhau). Chưa do phép tính nào mà tác giả đã thu được những con số này.

Ngoài ra, còn một số âm tiết đặc biệt nữa sẽ được ghi chép bằng cách viết chống như đã nói ở trên.

Con số âm tiết mà tác giả QÂTT đưa ra tuy có thể chưa thật chính xác hoặc chưa rõ cách tính toán, song trên đại thể không cách xa mấy so với con số âm tiết tiếng Việt có thể có được trên lý thuyết và về cơ bản được phản ánh qua chữ Quốc ngữ hiện hành (theo thống kê của chúng tôi là 19.520 âm tiết). Điều này cho phép chúng ta nghĩ rằng hệ thống ngữ âm tiếng Việt mà QÂTT phản ánh là khá gần gũi với hệ thống ngữ âm được phản ánh qua chữ Quốc ngữ hiện hành.

Trước khi kết thúc bài viết này, chúng tôi thấy cần đặt ra và trả lời câu hỏi sau đây: Một phương án chữ viết phiên âm như tác giả QÂTT đã trình bày liệu có thể đem ra ứng dụng làm một thứ chữ viết mới để thay cho chữ Nôm được chăng. Trên thực tế, điều đó đã không xảy ra trong lịch sử chữ viết của nước ta. Phương án chữ mới của cư sĩ họ Nguyễn đã không gây nên tiếng vang nào cả. Có thể do nhiều nguyên nhân đã dẫn đến tình trạng đó. Trước hết, có thể do tác giả không hề có ý định đem nó ra thi thố với đời, mà chỉ coi là một thứ công cụ do chính mình làm ra để dùng riêng cho mình mà thôi, như chính tác giả đã nói như thế trong bài tựa. Cũng có thể là vào lúc bấy giờ và liền ngay sau đó, chữ Quốc ngữ theo mẫu Latinh đã được nhiều người biết đến, và nó tả ra có uy thế hơn nhiều trong việc truyền bá và tiện lợi hơn hẳn trong việc sử dụng, đã làm lu mờ ngay hình ảnh của QÂTT. Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng bản thân QÂTT với tư cách là một phương án chữ viết ghi âm còn mang nhiều nhược điểm đáng kể. Xét về mặt ký hiệu học, tác giả QÂTT đã tỏ ra khá nhất quan trong thao tác tạo ra các ký hiệu. Thế nhưng sự nhất quán và tiện lợi trong thao tác sản sinh ra ký hiệu đôi khi lại là gánh nặng trong việc phân biệt và tiếp nhận các ký hiệu. Như đã miêu tả ở trên, mọi kí hiệu được tạo ra theo phương pháp của tác giả sẽ không khu biệt với nhau về số lượng nét bút (mỗi chữ đơn đều gồm 4 nét, mỗi chữ ghép đều gồm 8 nét, mỗi chữ ghép chồng đều gồm 12 nét), mà chỉ tập trung sự khu biệt vào hình dáng và trật tự sắp xếp giữa các nét bút. Như vậy là bỏ mất đi một khả năng khu biệt và nhận diện các ký hiệu, mà đồng thời làm cho ký nào cũng rườm rà như nhau. Lại cũng do cứng nhắc theo một nguyên lý số học định trước, tác giả đề xuất một danh sách ký hiệu chi tự mang tính duy lý rõ rệt, khó làng sát hợp với thực tế ngữ âm. Các khả năng phiên ghép giữa các ký hiệu mà tác giả nêu ra là đấy đủ, song còn thiếu một sự quy định chặt chẽ hơn để tránh sử dụng tùy tiện có thể dẫn đến tình trạng lộn xộn khi phiên âm. Ngoài ra, để dễ hình dung khả năng ứng dụng thực tế của một phương án chữ viết phiên âm, người ta thường sử dụng ngay phương án đó để ghi lại một bài thơ, một đoạn văn quen thuộc và đưa ra làm hình mẫu. Rất tiếc là tác giả phương án chữ mới QÂTT đã không làm việc đó. Giá như có những hình mẫu như thế thì việc giải mã âm đọc các chữ đơn trong QÂTT sẽ thuận lợi hơn và độc giả sẽ có điều kiện lĩnh hội tác phẩm này một cách đầy đủ hơn.

Nếu như tất cả những nhận xét trên đây về khả năng ứng dụng thực tế của phương án chữ mới QÂTT là thỏa đáng, thì cũng không thể vì thế mà phủ nhận hết thảy mọi giá trị của tác phẩm này xét từ những phương diện khác. Quả thật, trong lịch sử chữ viết tiếng Việt, ở vào cuối thế kỷ XIX, hoàn toàn có thể chấp nhận và thậm chí là đáng hoan nghênh nữa sự ẩn mình kín đáo của một lối chữ phiên âm như QÂTT và để cho chữ Quốc ngữ trực tiếp thay thế dần chữ Nôm, và thực tế đã diễn ra như vậy. Thế nhưng, như đã đề cấp đến ở đầu bài viết này, giả thử trong tư duy khoa học, trong sáng tạo tinh thần của cha ông chúng ta thuở trước, vốn tiếp xúc lâu đời với văn minh chữ Hán, lại để vắng hẳn bóng dáng của một lối chữ ghi âm xây dựng từ những nét bút lông (như chính người Nhật và người Trung Hoa đã làm), thì đó chẳng phải là một điều khiếm khuyết đáng kể hay sao. Sự có mặt của QÂTT đã hoàn toàn phủ nhận sự khiếm khuyết đó. Mặt khác, như đã phân tích ở trên, là một phương án chữ viết ghi những nét cơ bản trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt đương thời. Bởi vậy đây còn là một tài liệu quý cần được chú ý đến trong khi nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt.

Vì tất cả những lẽ trên đây, QÂTT của Nam thành cư sĩ Nguyễn tiên sinh là một tác phẩm Hán Nôm rất đáng được trân trọng, nhất là đối với những ai quan tâm nghiên cứu những vấn đề về lịch sử chữ viết và lịch sử ngữ âm tiếng Việt, cũng như những vấn đề về tiếp xúc văn hóa ở khu vực Đông Nam Á nói chung.

CHÚ THÍCH

(1) Theo đồng chí Ngô Đức Thọ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cho biết: chữ Hoa là tên húy của một bà vợ vua Minh Mệnh, là bà Hồ Thị Hoa - mẹ vua Thiệu Trị (ở ngôi từ 1841 đến 1847).

(2) Trong văn bản, có 3 trong số 110 ký tự chỉ gồm 3 nét bút, có lẽ là do viết sót một nét.

(3) Ở ảnh 1, cũng như ảnh 2, để tiện thuyết minh và trình bày bài viết, chúng tôi đã ghi thêm vào các chữ số và chữ cái a,b,c…

(4) Khi liệt kê các chỉ tự, tác giả đã bỏ sót một ký hiệu phái sinh từ cán tự (16) Không, nên trong bảng thực tế chỉ có 109 ký hiệu chi tự.

(5) Trong bảng chi tự có cả thẩy 43 (trong số 110) chữ Nôm mang dấu phụ khẩu với dụng ý đó.

(6) Qua đây có thể thấy rằng các chữ đơn (cán tự và chi tự) có thể tự thân biểu thị những âm tiết nguyên vẹn.

TB

THÊM MỘT TÁC GIẢ ĐỜI TRẦN - NGUYỄN CHẾ NGHĨA

PHẠM TÚ CHÂU

Nguyễn Chế Nghĩa là một nhân vật lịch sử mà chúng ta biết đến còn rất ít. Về ông, chúng ta mới biết đôi điều sơ sài rằng ông “người xã Hội Xuyên (còn có tên là Cối Xuyên) huyện Gia Lộc, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. Ông là một danh tướng đời Trần, lập nhiều công trong lần chống quân Nguyên năm 1288. Cuối năm 1287, có tin quân Nguyên sắp sang đánh nước ta, ông thân đến hành dinh của Trần Hưng Đạo để xin được đi dẹp giặc. Hưng Đạo thử tài, rất vừa lòng, khen rằng: Người này chẳng kém gì Phạm Ngũ Lão, ta lại được thêm một tướng tài.

“Nguyễn Chế Nghĩa đã chiến đấu ở biên giới, ở Phả Lại, ở sông Bạch Đằng… Dẹp xong giặc Nguyên, ông được phong tước Nghĩa Xuyên công. Vợ ông là Công Chúa Ngọc Hoa, con vua Anh Tông…”(1).

Gần đây, chúng tôi tìm thêm được một tư liệu nữa ghi đầy đủ hơn về Nguyễn Chế Nghĩa: ông không chỉ là một danh tướng mà còn là một tác giả thơ. Tư liệu cho biết:

“Ông họ Nguyễn, tên chữ Chế Nghĩa, người xã Cối Xuyên, huyện Gia Lộc (tỉnh Hải Dương cũ). Dòng dõi một gia đình có danh vọng, ông sinh ra có sức khỏe lạ thường, giỏi cưỡi ngựa và sử dụng giáo dài: thiên văn, binh pháp đều tinh, lại thích ngâm vịnh. Ông từng có thơ rằng:

Đính thiên lập dịa trượng phu thân,
Chí khí đường đường mại đẳng luân.
Đàn giáp khẳng mi Tề sách sĩ,
Trước tiên tu hướng Tấn năng thần.
Cơ tàng Cử hỏa kiêm Hoài tuyết,
Tích trứ Đường yên dữ Hán vân.
Lưu đắc càn khôn trung nghĩa tiết,
Cao đàm thiên cổ nhất hoàn nhân.

(Thân trượng phu đội trời đạp đất,
Chí khí phải cao xa vượt người cùng lứa.
Võ kiếm không chịu bó buộc, như mưa sĩ nước Tề(2),
Ra roi, nên hướng theo bề tôi giỏi nước Tấn(3).
Cơ mưu dấu nơi lửa nước Cử, tuyết sông Hoài(4),
Công lao ghi rõ ở gác Lăng Yên, đài Vân Hán(5).
Để lại được tiết tháo trung nghĩa cùng trời đất,
Cho đời sau còn nói chuyện cao nhã về con người toàn vẹn nghìn xưa).

Thời Trần Anh Tông, giặc Nguyên lại gây hấn ở biên giới. Chiếu ban xuống tìm người làm tướng, ông vừa đến tuổi đội mũ(6) bèn xin ứng tuyển làm tiên phong. Ông theo Điện soái họ Phạm tiến lên phía Bắc, đóng quân sát cửa ải Chi Lăng. Ông có ngựa thần tên là Long Câu, lại tên là Long Đề, bên nhảy lên ngựa cầm giáo ra vào trong đám tám vạn quân giặc,chẳng kẻ nào là không rạp hết xuống, chúng đều sụp lạy gọi ông là thần tướng. Giặc dẹp xong, ông được trao chức Khống Bảo đại tướng quân, trấn thủ Lạng Sơn sáu năm, công lao lừng lẫy, nổi danh ngang với Điện soái Phạm Ngũ Lão.

Vua truyền cho con gái yêu là công chúa Ngọc Hoa lên lầu ném quả cầu xuống rồi gả cho ông, sau sinh được con trai là Sùng Phúc tính nết đoan nghiêm, năm 12 tuổi được phong Thượng vị hầu. Vua càng thêm yêu mến, cử ông làm Thái úy.

Ông tính trung hậu, thẳng thắn, không ngại phiền lao, khi vào là tâm phúc, khi ra là móng vuốt của triều đình. Một thân quan hệ tới điều khinh trọng trong thiên hạ, nhưng ông không lấy quyền vị làm vui, có ý giang hồ vạn dặm. Thường ngâm thơ của Sầm Lâu(7) rằng:

Xoa lạp Ngũ Hồ vinh bội ấn,
Tang ma ê dã thắng phong hầu

(Mang tơi đội nón rong chơi Ngũ Hồ vẻ vang hơn đeo ấn,
Ở nới đâu gai chep rợp đồng còn hơn được phong hầu).

Ông lại nói: “Đó là đạo tự giữ trọn mình của kẻ bề tôi”. Khi tuổi cao, ông dâng biểu xin từ chức, vua không cho. Ông bèn viện cớ thời đó các bậc công hầu đều có phủ đệ riêng để xin, vua phải chấp thuận. Ông về quê đãi khách, có người tặng thơ rằng:

Công hầu tâm phúc cánh can thành,
Vị trọng huân gia thế sở vinh.
Lại bả tướng tài mưu lộc nhĩ,
Nhàn huề tiên phối tổ phong tình.
Nghi hình hậu tự hoàn cao tiết,
Hưng khởi tha niên cưỡi nghĩa hinh.
Quốc thiện vinh danh, gia thích chí,
Nhất thân triều dã, nhất ban thanh.

(Là người tâm phúc trong số công hầu, lại là tướng giữ gìn đất nước,
Địa vị cao, công lao lớn, đó là điều người đời lấy làm vẻ vang.
Lười đem tài tướng mưu làm mồi câu lợi lộc,
Khi nhân dắt người vợ tiên tỏ bày tình cảm phong nhã.
Làm mẫu mực cho cháu con giữ trọn tiết cao cả,
Dấy lên cho mai sau lòng mộ tiếng nghĩa thơm tho.
Vẻ danh là người giỏi của nước mà nhà cũng thỏa chí,
Một thân khi tại t riều, lúc về quê đều trong sạch như nhau).

Lại có thơ tặng rằng:

Tích niên lang miếu tự thừa nhàn,
Kim nhật khưu viên luyến thảo bàn
Dĩ bién úy đồ thành lạc thú
Khẳng tương thanh tháo bạn trần phan.
Giang sơn phong vị tình tuy thích
Gia quốc thân huân mộng vị lan.
Thử khứ Thăng Long hoàn kỷ lý,
Cối Xuyên chỉ xích thị Trường An.

(Năm xưa ở chốn triều đình tự được nhàn,
Ngày nay về với vườn đồi vì nhớ bài thơ Khảo hàn(8)
Đã biến con đường đáng sợ thành thú vui,
Chẳng chịu ràng buộc tiết tháo trong sạch vào sự đời phồn tạp.
Phong vị núi sông tuy thỏa được tình cảm,
Nhưng giấc mộng đạt được công lớn cho nước cho người thân
hẳn chưa tàn.
Từ đây đến Thăng Long có mấy dặm đâu,
Cách Cối Xuyên gang tấc là Trường An).

… Ông đem dán hai bài thơ này lên vách để tự vui vì vốn có ý coi nhẹ công danh. Sau khi ông mất, vua sai chôn cất, tế theo lễ của bậc vương giả. Ít lâu sau, công chua đau buồn rồi cũng mất. Vua thương sót, chôn theo lễ vương hậu, rồi cho đòi công tử vào triều cho nhận chức cao, song công tử từ chối không nhận…”.

Tư liệu trên đây trích trong cuốn Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên, ký hiệu A.2382, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách in năm Canh Tý niên hiệu Thành Thái (1900), chép tiểu sử, gia thế, vợ con của Trần Quốc Tuấn, các trận phá giặc Nguyên do ông chỉ huy, các bộ tướng, gia thần của ông, cùng việc thờ phụng ông. Chữ “hiển thánh” dùng để chỉ Trần Quốc Tuấn do chỗ ông được các triều vua phong làm Thượng đẳng thần. Từ đền thờ ông ở thái ấp Vạn Kiếp, dân chúng ngưỡng mộ công lao dẹp giặc của ông, đã xin thờ ông ở nhiều nơi khác, và nơi nào cũng đưa vào các sách cổ mà chép kỹ lưỡng, rõ ràng về tiểu sử, gia thế, công lao của ông. Các gia thần hộ tướng thờ chung cũng được chép kỹ như thế: Nguyễn Chế Nghĩa là một trong số đó.

Như vậy là tiểu sử, công trạng, thơ của Nguyễn Chế Nghĩa, thơ của hai tác giả khuyết danh, bạn cùng thời với ông, không được ghi trong các sách sử hoặc các hợp tuyển thơ văn chính thức mà chỉ được chép trong loại sách thần phả thờ Trần Quốc Tuấn, hoặc thần phủ thờ ông làm Thánh hoàng xã Kiêu Kỵ(9) . Tuy nhiên, nhiều trường hợp tác giả và thơ văn xưa đã được bảo tồn qua thần phả, bia đá, chuông, khánh các đền thờ và chùa chiền, bổ sung đắc lực cho chính sử, cho văn học sử, được các nhà nghiên cứu đời nay thừa nhận. Vì vậy, dù chưa thể khẳng định quả quyết, chúng tôi cũng cho rằng phần ghi chép về Nguyễn Chế Nghĩa trong Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên và trong một vài quyển cùng loại(10) có phần chắc là dấu vết của một tư liệu, một sự thật xa xưa và người anh hùng, tác giả thơ Nguyễn Chế Nghĩa, người mà một đường phố của Thủ đô chúng ta hiện đang mang tên họ. Xin nêu lên để các bạn cùng tham khảo.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Nguyễn Vinh Phúc, Trần Huy Bá: Đường phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, 1979.

(2) Chỉ Phùng Hoan, người nước Tề, môn khách của Mạnh Thường Quân đã giúp cho Mạnh Thường Quân nổi tiếng và được làm Tể tướng nước Tề.

(3) Chỉ Lưu Côn và Tổ Địch, hai bề tôi giỏi của nước Tấn.

(4) Chưa rõ tác giả dùng điển nào ở sách nào.

(5) Gác Lăng Yên: do tiếng Hán Lăng Yên các (lầu gác cao vượt tầng mây khói). Lăng Yên các do Đường Thái Tông dựng lên để vẽ tượng các công thần. Đài Vân Hán: do tiếng Hán Vân đài, một tòa lâu đài do Hán Minh Đế dựng lên để treo tranh hai mươi tám người công thần nhà Hán. Trong văn học cổ dùng những từ này để chỉ sự vinh dự mà những kẻ bề tôi dưới thời phong kiến mong đạt tới.

(6) Tuổi đội mũ, tức khoảng 20 tuổi.

(7) Tức Trần Quốc Toại tôn thất nhà Trần, tác giả của Sầm Lâu tập.

(8) Khảo hàn: Tên một bài thơ trong Vệ phong, sách Kinh thi, ca ngợi người hiền về ở ẩn nơi suối khe.

(9) Theo Nguyễn Vinh Phúc, Đường phố Hà Nội. Sđd.

(10) Như cuốn Trần triều hiển thánh linh tích, sách chép tay, ký hiệu VHv.2653, chép lại một cuốn sách in năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái (1904).

TB

TÌM ĐƯỢC CUỐN
GIA PHẢ DÒNG HỌ TRỊNH KHẢ

NGUYỄN DOÃN TUÂN

Mới đây, trong dịp đi công tác ở huyện Từ Liêm, Hà Nội, chúng tôi có tìm được cuốn gia phả dòng họ Trịnh(1), trong đó nói khá chi tiết về tiểu sử của Trịnh Khả, một nhân vật đã đến với Lê Lợi từ những ngày đầu dựng cờ tụ nghĩa cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Cuốn gia phả không chỉ hệ thống hóa về gia tộc nội ngoại dòng họ Trịnh từ Trịnh Khả về sau, mà còn là một sưu tập của những tư liệu như văn bia, sắc phong, thơ, câu đối có giá trị.

Cuốn gia phả khổ 21x15cm, gồm 22 trang, trong đó 20 trang đầu cũng như tờ bia đều chép trên loại giấy dày màu vàng, có trang trí hình rồng phượng, thường vẫn dùng để chép sắc phong. Trang 21 và 22 dùng loại giấy học sinh có kẻ dòng. Chữ ở hai trang này không được già dặn, đẹp nét như 20 trang đầu. Phả không ghi rõ năm sao chép, nhưng có thể nhận ra đó là một bản sao, căn cứ theo một bản có niên đại biên soạn lần sau cùng (đời thứ 26) vào năm Cảnh Hưng 1 (1740). Đầu cuốn gia phả có bài tựa đề năm đầu niên hiệu Hồng Đức (1470), có đoạn viết: “Sự vật còn gốc huống chi người ta sinh ra trong trời đất, đội khí âm dương, có đầu có mắt, há lại không có gốc tổ tông. Tôi thẹn vì tư chất kém cỏi, may được sinh ra từ dòng họ quý phái, cảm ơn sâu nuôi dưỡng chưa một chút mảy may báo đáp: nghĩ đức lớn tổ tiên vun đắp, biển xanh khôn ví, bèn tham khảo tường tận ngọn ngành, nghiên cứu nguyên do, biên tập thành một cuốn gia phả…”. Cuối bài tựa có đề Trạng nguyên Lương Thế Vinh (1442 - ?). Hiện chưa rõ quan hệ giữa hai họ Lương - Trịnh như thế nào, có thể họ Trịnh là họ bên ngoại của Lương Thế Vinh chăng? Tiếp sau bài tựa là phần ghi về tiểu sử của Trịnh Khả. Toàn bộ trang 2 và phần hết trang 3 nói về quá trình Trịnh Khả từ quê mình là xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) đến với nghĩa quân Lam Sơn trong hoàn cảnh ông bị giặc minh theo dõi và đang tìm cách bắt giữ. Khi biết tin giặc Minh bắt được bố ông đem tẩm dầu thiêu đốt rồi ném xuống sông, Trịnh Khả đau xót trở về mai táng thi hài của thân phụ rồi tìm đường đến Lam Sơn theo Lê Lợi để cứu nước trả thù nhà. Từ cuối trang 3 ghi lại toàn văn lời thề Lam Sơn với đầu đề: Lam Sơn thệ văn. Bước đầu so sánh với các bản Lê Sát và Đỗ Bí do cụ Hoàng Xuân Hãn công bố, chúng tôi thấy các bản đã công bố đều đầu đề là: Lũng Nhai thệ văn(2) nhưng văn thề được chép ở bản gia phả do chúng tôi sưu tầm được lại có đầu đề là: Lam Sơn thệ văn. Các bản đã công bố đều có ghi Nguyễn Trãi xếp thứ 13 trong danh sách những người dự hội thề mà không có Nguyễn Khánh, nhưng ở văn bản này lại không có Nguyễn Trãi mà có Nguyễn Khánh xếp thứ 11, còn người thứ 13 là Trịnh Vô(3). Như vậy có phải là vì giữa chữ Trãi và chữ Khánh có sự gần giống nhau về tự dạng mà người viết đã nhầm chăng? Nếu quả thật Nguyễn Khánh chứ không phải Nguyễn Trãi thì Nguyễn Khánh là ai và tại sao lại không được ghi trong chính sử? Đây là một tư liệu giúp cho việc xác định Nguyễn Trãi có dự hội thề Lam Sơn hay không và ông đã đến với nghĩa quân Lam Sơn từ năm nào? Hai địa danh Lam Sơn Lũng Nhai, địa danh nào được dùng đích thực trong văn thề của Lê Lợi ? Các văn bản đã công bố đều ghi sách 18 người với Lê Lợi là 19, văn bản này cũng ghi Lê Lợi với 18 người (Lê Lợi dữ thập bát nhân) nhưng thực tế chỉ có tên 16 người với Lê Lợi là 17. Tại sao lại thiếu hai người? Hai người đó là những ai và liệu có Nguyễn Trãi trong số hai người đó hay không? v.v. Như vậy văn bản Lam Sơn thệ văn ở đây cung cấp thêm một dị bản giúp cho việc khôi phục nguyên tác lời thề của nghĩa quân Lam Sơn.

Phả tiếp tục chép hành trạng của Trịnh Khả (trang 5) có đoạn cho biết: Khi giặc Minh khai quật hài cốt bà mẹ của Lê Lợi treo ở bánh lái thuyền để ép buộc Lê Lợi ra hàng, vị lãnh tụ Lam Sơn đã ra lệnh cho nghĩa quân ai lấy được hài cốt về sẽ trọng thưởng. Trịnh Khả đã tình nguyện thực hiện nhiệm vụ ấy rồi lập kế đội một đám cỏ gai lội xuống nước bơi sát thuyền giặc. Nhân lúc quân giặc đang ngủ say, ông trèo lên thuyền lấy được hài cốt mang về giữa sự hân hoan vui mừng của nghĩa quân. Chi tiết này trong Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử đều không có.

Sau đó Trịnh Khả được giao nhiệm vụ chỉ huy cánh quân tiến đánh đồn giặc ở chợ Lê Hoa (tr.6), ông đã lập kế trá hàng rồi dâng một cái hòm chứa 100 con chim, khi mở hòm ra chim tung bay nhiều phía. Trong khi quân giặc chú ý xem chim bay, quân mai phục của ông đột nhập vào trại giặc. Đồn Lê Hoa bị hạ, giặc Minh bị giết và bắt sống trong trận đến hơn một vạn tên. Trong Đại Việt thông sử tờ 38a ghi là: “Hoàng đế sai Trần Hàn, Lê Sát và Lê Nhân Chú dẫn binh tượng (voi) tới phục tại ải Chi Lăng để đợi chống đạo binh từ Quảng Tây tới: sai Phạm Văn Xảo và Lê Khả (tức Trịnh Khả) dẫn binh tượng đóng giữ ải Lê Hoa thuộc Mông Tự để đợi chống viện binh từ Vân Nam tới”. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng chỉ ghi là quân của Xảo và Khả chém được hàng vạn giặc và tướng Mộc Thạch kinh hoàng bỏ chạy. Trang 7, phả chép một sự kiện khác liên quan đến Trịnh Khả: “Khi Quang Thục Hoàng thái hậu có mang 7 tháng, bị một kẻ vu cáo là bà đã tư thông với người khác, vì việc đó bà bị bắt giam ở vườn Khổn Hoa, sau đó nhờ có Trịnh Khả can gián mà thoát nạn. Về sau người con đó được nối ngôi tức là Lê Thánh Tông. Chi tiết này có thực hay không chưa rõ, nhưng chính sử thì không thấy ghi. Đoạn cuối tiểu sử của Trịnh Khả ở tr. 10-11 có chép 4 bài thơ ngự đề của Lê Thánh Tông. Trong 4 bài này, bài 1 và 3 đã có trong thơ văn Lê Thánh Tông(4) còn hai bài (ngự đề 2 và 4) thì không thấy có(5). Hai bài đó như sau(6):

Phiên âm:

Oanh oanh nghĩa khí mãn càn khôn,
Huyết thực vô cùng miếu mạo tôn.
Kế thế nguyên huân chung đỉnh trọng,
Cố gia kiều mộc đống lương tồn.
Đình tam lập kích tướng quân trạch,
Hạng ngũ suy gia tướng quốc môn.
Hỷ kiến công hầu chung nhược thủy,
Nhi tôn duy hữu tử nhi tôn.

Dịch:

Vang từng nghĩa khí khắp càn khôn,
Thờ cúng không ngừng miếu mạo tôn.
Bổng lộc công cao gương sáng mãi,
Cột rường cây cả gốc xua còn.
Tướng quân dựng giáo nền gia trạch,
Tướng quốc truyền đời cửa thế môn.
Mừng thấy công hầu sau với trước,
Giống nòi tiếp nói cháu cùng con.

(BÀI THỨ 4)

Phiên âm:

Long hình hổ nhãn thiện chinh tru,
Hựu giới cẩm hoăng khởi vũ phu.
Tặc kỵ binh da chung bất tử,
Sàm ngôn phụ thủ cánh nan ngu.

Dịch:

Mình rồng mắt hổ giỏi thao trường,
Biết chặn hoang chơi há phải thường.
Giặc sợ tiếp binh mà bất tử,
Gièm chi! Tay gái cũng khôn lường.

Cuối trang 11 chép một đôi câu đối bằng chữ Hán:

“Vạn lý quán thanh phong, thục bất tư công phục Việt.
Tứ phương giai hắc xỉ, thùng vô tưởng tích bình Ngô”.

Tạm dịch:

Gió mát tỏa muôn phương, ai chẳng nhớ công cứu Việt,
Răng đen đều khắp chốn, ai không đội đức bình Ngô.

Đoạn cuối gia phả chép quan tước, thụy, hiệu của Trịnh Khả: “Hiển thủy tổ Thái úy hệt quốc công Trịnh tướng công thụy Đại Thông, gia phong Hiển khánh đại vương” (tr.12) và ghi năm sinh năm mất: “Kỷ mùi niên chính nguyệt nhị thập lục nhật, Mão thời sinh, hưởng thọ thất thập tam tuế. Tân mùi niên thất nguyệt nhị thập lục nhật mệnh chung, táng tại Bằng Sơn xứ” (Sinh giờ Mão ngày 26 tháng giêng năm Kỷ Mùi, hưởng thọ 73 tuổi, mất ngày 26 tháng 7 năm Tân mùi, táng tại xứ Bàng Sơn). Như vậy Trịnh Khả sinh năm Kỷ Mùi (1379) mất năm Tân Mùi (1451) thọ 73 tuổi(7). Tiếp sau hành trạng của thủy tổ Trịnh Khả gia phả chép tiếp tóm tắt tiểu sử của các đời sau trong đó có Trịnh Hào tự Công Lại hàm đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ tả đô đốc; Trịnh Lệ tự Nghĩa Thái từng vâng mệnh đi sứ sang Trung Quốc; Trịnh Lộ đậu Trạng nguyên (?) phò mã; Trịnh Đán Binh bộ thượng thư v.v. Những dòng cuối cùng của Gia phả ghi đời thứ 26 là Trịnh Điẻu tự Thụy Ngọc(8). Như vậy Gia phả này giúp chúng ta lập được một bảng kê các thể thứ của dòng họ Trịnh Khả khá chi tiết. Ngoài ra ở trang 13 còn ghi tên vợ của Trịnh Khả là Lê Thị Kỷ, 13 con trai và 9 con gái của ông. Chi tiết này sẽ giúp ta hiểu được đầy đủ hơn về tiểu sử và hoàn cảnh của một danh nhân lịch sử mà chính sử không thể ghi hết được. Trong sắc phong ngày 21 tháng 7 năm Cảnh Hưng 1 (1740) cho thấy sự đánh giá cao của triều đình Hậu Lê về công lao của Trịnh Khả: “Tề thế an dân bảo quốc hựu dân” (Cứu đời yên tâm, giữ nước giúp dân).

Tóm lại, cuốn gia phả của dòng họ Trịnh Khả là một tài liệu có giá trị, nhất là đối với việc nghiên cứu tiểu sử hành trạng của Trịnh Khả, một nhân vật lịch sử có tên tuổi đã sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vả trở thành một vị tướng xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược hồi đầu thế kỷ XV.

CHÚ THÍCH

(1) Cuốn gia phả này do đòng chí Phạm Trường Nguyên, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Từ Liêm, Hà Nội cung cấp cho chúng tôi. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !

(2) Xem: Hoàng Xuân Hãn: Tập san khoa học xã hội, số 7 năm 1982.

(3) Các bản đã công bố, kể cả Đại Việt thông sử, đều có Nguyễn Trãi xếp thứ 13, không có Nguyễn Khánh, còn Trịnh Vô được xếp t hứ 15.

(4) Xem Toàn Việt thi lục, ký hiệu A. 1262, kho sách Viện Hán Nôm.

(5) Hai bài thơ này các sách chép thơ Lê Thánh Tông đều không có, ngay cả cuốn Toàn Việt Thi lục, ký hiệu A.1262, kho sách Viện Hán Nôm, chép tới hơn 300 bài thơ thời Hồng Đức, cũng không thấy có hai bài thơ này.

(6) Trong khi dịch hai bài thơ này chúng tôi được cụ Lê Xuân Hòa góp cho nhiều ý kiến và sửa giúp, chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

(7) Gia phả ghi Trịnh Khả mất năm Tân mùi (1451) tức năm Thái Hòa 9 đời Lê Nhân Tông, đúng như Toàn thư đã ghi: “Mùa thu tháng 7 ngày 26 giết Thái úy Lê Khả (tức Trịnh Khả) và con là Lê Quát (tức Trịnh Quát) (Xem bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb KHXH, 1968, trang 161). Còn về năm sinh thì Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn các bản chép tay ký hiệu A.13x9 tờ 141b, bản A.2759 và bản HV.76 (ở viện Sử học) đều chép là Trịnh Khả sinh năm Kỷ mùi, cũng phù hợp như Gia phả ghi ở đây. Tuy vậy Đại Việt thông sử có ghi câu chuyện năm 16 tuổi Trịnh Khả đi cày ruộng, gặp viên tướng nhà Minh dẫn về nuôi làm nô (Xem: Lê Quý Đôn toàn tập tập 3 Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, Nxb. KHXH. 1978, trang 207). Nếu Kỷ mùi là năm 1379, thì năm Trịnh Khả 16 tuổi (tức 1394) chưa thể có chuyện gặp tên tướng nhà Minh. Các bản Đại Việt thông sử đều chép Trịnh Khả tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khi còn trẻ (khoảng 16-18 tuổi). Nếu sinh năm Kỷ mùi là năm 1379 thì đến năm 1416 Trịnh Khả đã 38 tuổi. Vì lí do đó bản dịch Đại Việt thông sử đã đặt (dấu hỏi) sửa lại là Quý Mùi 1403. Nhưng như vậy thì đến khi chết (1451) lại không đúng là 73 tuổi như đã nói trong Gia phả. Xin ghi lại đây để chờ tra cứu thêm.

(8) Trong khi viết bài này, chúng tôi có đến tận nơi lưu giữ cuốn gia phả để tìm hiểu về lai lịch văn bản và đời thứ 26 được ghi trong Gia phả, nhưng người giữ Gia phả này không có liên quan đến họ Trịnh và cho biết: Gia phả do các cụ từ lâu để lại, không rõ nguồn gốc, xuất xứ như thế nào.

TB

BINH DÂN LUẬN TÁC PHẨM NGHỊ LUẬN NÔM CỦA NGÔ THÌ SĨ

NGUYỄN ĐĂNG

Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) tự là Thế Lộc, hiệu là Ngọ Phong, người làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam Thượng, nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Là một danh sĩ nổi tiếng của nước ta hồi thế kỷ 18, ông hay thơ, giỏi văn, đặc biệt sở trường về biên soạn và khảo cứu lịch sử. Quan điểm viết sử của ông được các học giả đời sau đánh giá rất cao. Bình sinh ông sáng tác, trước thuật rất nhiều, cả Nôm lẫn Hán, song bấy nay chúng ta dường như mới chỉ biết đến những tác phẩm của ông viết bằng Hán văn như Anh ngôn thi tập, Quan Lan thi tập, Nị Thanh động tập, Việt sử tiêu ân, Đại Việt sử ký tiền biên… Gần đây chúng tôi mới phát hiện được một bài khải Nôm của Ngô Thì Sĩ viết năm 1768 dân lên chúa Trịnh. Lúc bấy giờ ông đang giữ chức Hiến sát sứ Thanh Hóa, theo chỉ dụ của Phủ chúa, ông viết bài khải Binh dân luận bằng tiếng mẹ đẻ trình bày quan điểm của mình về việc xây dựng quân đội, chăm nom đời sống của nhân dân… Nguyên bản viết bằng chữ Nôm theo lối văn lục bát, hiện được bảo tồn trong tập Hoàng các di văn, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv. 1129. Bài khải dân lên, được chúa Trịnh ban thưởng, chính nhà Sử học Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã ghi nhận điều này: “Ông (chỉ Ngô Thì Sĩ) viết Binh dân luận, dâng lên được Chúa khen thưởng và nghe theo”.

Toàn văn tác phẩm Binh dân luận như sau:

“Ngày… tháng … năm Cảnh Hưng,

Thần là Ngô Thì Sĩ kính cẩn dâng khải trình bày sự việc: Nay đội ơn Thánh thượng rủ lòng thương đến binh dân, mở đường ngôn luận, cho thần dân được dâng lời bàn việc. Thần tuy kiến thức nông cạn kém cỏi, không đáng được bàn đến việc quốc gia đại sự, song đã được hỏi đến, há lại không gắng gỏi đem những điều ấp ủ trong lòng mà viết ra bài Binh dân luận Quốc ngữ để dâng lên hay sao? Cúi trông đức cả cao minh rủ lòng thu nạp, đó là điều thần mong mỏi lắm vậy.

Kính cẩn dâng khải

Vận lành Mậu tý (1768) đầu xuân
Xin dâng một truyện binh dân đương thì.
Trộm xem thánh chúa hữu vi,
Quảng khai ngôn lộ tình thùy binh dân .
Xin làm Quốc ngữ phơi trần,
Dẫi bề chân thực dám phần sai ngoa
Bình thì quốc chi trảo nha ,
Đêm ngày bảo vệ quốc gia vững bền.
Can qua súng ống cung tên,
Thân nghiêm hiệu lệnh tập rèn cho mình.
Gọi là phụ tử chi binh
Dĩ đối bất đình ngoại quốc nan đương .
Thời xưa Chu Vũ mở Thương
Đánh Trụ tác vạn, quân thường ba muôn .
Hoàn Công, Ngô Khởi, Vũ Tôn
Mở được các nước danh còn sử xanh.
Xem thì chẳng mấy vạn quân
Bởi chưng thất kế lại tinh điển mười .
Nghĩ trong Hữu Việt dĩ lai
Binh số thăng mười mã số tam thiên .
Danh tướng kể ngoài trăm viên
Giữ trong bản quốc chưa yên chưa giầu.
Còn nghe thử thiết cẩu thâu
Sơn giảo thủy phỉ quấy hầu biên phương.
Nghĩ rằng binh thế chưa cường
Cho nên ngụy đảng khiêu lương tung hoành.
Ví xây muôn dặm trường thành
Sao bằng sỗ tốt đồng lòng nhất tâm.
Binh dùng nhật phí thiên câm (kim)
No ăn thế khỏe thửa lâm vô tiền .
Chữ rằng dĩ thực vi tiên
Thiếu ăn chưa dễ khỏe bền được ru?
Tiết này binh thiếu số hư
Công sai nhiều việc sĩ sư lao cần.
Nắng mưa rét mướt nhọc nhằn
Một năm chưa dễ mấy lần nghỉ ngơi.
Lại thêm trời đất nắng nôi
Khẩu phần thì ít còn vui nỗi gì.
Việc quan kể bất cập kỳ
Lương nghiêm lương đém tiền thì những vay.
Cuối về nợ kể từng ngày
Lấy chi ăn rày giữ được việc quan
Trong nhau nào dám thở than
Đi về thì những kêu vang người nhà.
Kẻ thì kêu mẹ kêu cha
Kẻ thì nhắn vợ gửi ra ăn rày.
Phần thì gánh việc quan thầy
Gánh nước bổ củi cùng tày nô nhân .
Việc quan cậy đã có quân
Nhất nhất sự vụ để phần phó cho.
Nào hay quân đói quân no
Sai ra thì phạt thủ bò thủ trâu.
Khá ra thì lính quân triều
Quân ngoài thì cũng như nhau khác gì
Ngạn ngôn lính bắc thứ nhì
Dại khi lâm trận còn thì sức đâu.
Chữ lạc dùng đã bảo nhau
Chi ai chí nấy kết đầu lắng tai .
Lại nói đến chương thứ hai
Dân vi quốc bản chẳng sai tơ hào.
Cổ kim dân có khác nào,
Dục an dục tức ố lao thói thường
Dân Chu vốn là dân Thương
Tần, Hán, Tùy, Đường, Triệu Tống, Minh Thanh
Tuy rằng dịch tính cải danh
Song dân vốn giữ chữ lành là dân.
Nhược thiện thì chịu làm thần
Nhược bằng bất thiện phản thân vi thù .
Năng tải chu năng phúc chu
Thủy hành nghĩ vỗ dân ngu chi tình .
Tiết này hải nội tạm bình
Thánh vương cầu trị lệ tinh đêm ngày.
Dưới dân lạc nghiệp cấy cày
Một niềm mộ trị chẳng khuây khắc thì .
Quân khả vi thần khả vi
Miếu đường chẳng đấng Cao, Quỳ hay lên.
Muốn cho Nghiêu nhật Thuấn thiên
Tôn vinh đều hưởng phúc miên vô cùng.
Nhân sao tuế hạn niên hung
Trị chưng chưa đến thì ung thái hòa .
Nghĩ rằng tệ tập do đa
Dân tình uất kết ắt là khôn thông.
Trước xin kể việc dân nông
Một năm hai vụ tô dung thường liền.
Lại gia tô lại nộp tiền
Phần quan cai tạm khách trên trong làng.
Phần thì châu thổ tàm tang
Đình môn bắt lính, phần đường lộ đê.
Phần thì tiền dịch đi về
Quan ngang khách tạm bút kê khôn tường.
Sau lại kể nỗi dân thương
Bán buôn đồng chước mọi đường mọi khôn.
Ba khúc sông lại tuần đồn
Đốt chình ra mỡ dân buôn chau mày.
Nha môn biện lại những vây
Ai cắm sào rày kiện với tuần ty ?
Thuế nặng cũng phải nộp đi.
Buôn bán có chợ búa có phiên
Các nghề công cũng lòng phiền
Thế nào cũng phải lấy tiền mà giơ .
Việc quan kể khắc kể giờ
Lộ cho ép tác mới nhờ được lâu
Vắng thì lại phải thôi câu
Tổn công thiệt của vò đầu những van.
Vĩ chỉ là kẻ sĩ hàn
Ba năm đèn sách tân toan đêm ngày.
Khoa cầu hiền mở rộng thay
Dẫu sao cũng phải tiền này mới xong.
Ví dù đi khảo sao thông
Cũng hết hai ngạc mới cùng được tên.
Thứ thông nộp ba quan tiền
Tư cảm cầu hiền ích quốc phải chăng.
Cao đại đều phải nói năng
Còn trong tiểu kỷ chưa bằng lòng dân.
Huyện lệnh vi dân chi thân
Bổng nhậm công thần tử đệ cao lương .
Chữ dưỡng dân học chưa tường
Ròng có một đường cờ bạc muông săn.
Xúc điêu toa kiệm kiếm ăn
Trị dân những lấy thế thần mà giơ.
Trong thiện chính đã thờ ơ.
Làm dân cao kiệt bấy giờ mới thôi.
Vả thêm hoại lại khuấy khoi,
Ăn có một ngồi giữ tiệc bút đao.
Dân tình nào có hay sao
Gặp được nhà kiện như Lào thấy diêm
Hại dân đố quốc chẳng hiềm
Xâm ngơ há biết công liêm thế nào?
Bổng lộc dân chi dân cao
Trong mười sự nào quy một ở dân.
Cho nên dân phải cơ bần
Cốc diện ưng thần trà sắc thuyền tâm
Nhìn nhiều lâu chịu cát lầm
Trong dạ âm thầm chưa được nghỉ ngơi.
Đua nhau làm nát dân trời
Bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng.
Tống xưa thập thất cửu không
Thì nay cũng đồng chẳng kém mấy phân.
Tính rằng chẳng những một dân
Lại nan đến thần bắt nhặt bắt khoan.
Người thì ở trên dương gian
Biết thần mấy bước mà bàn mà suy?
Ví dù có tiếm hành nghi
Phó mặc thần kỳ chiếu thứ bắt nhau.
Vạn dân lòng muốn sang giầu
Muốn thọ quốc mạnh muốn cầu khang ninh.
Muốn thần tối tú tối linh
Trước hộ triều đình sau hộ vạn dân.
Chữ rằng thần đắc y nhân
Kính thần thần tại quy ân cho người.
Rày hiềm u mặc thẳm khơi
Chính kỳ thân nhiễu thần trời ngẩn ngơ.
Ngu dân sắm sửa đồ thờ
Rày đem phân hóa cột tờ long ngai
Hủy từ mủ áo cây đai
Dùi đồng, phủ việt, ống hài, roi son.
Phá từ tàn tán kiệu đòn
Bất thuận nhi mục dân còn ngán la.
Ngu dân còn sự thân tà
Tính làm thế ấy ắt là chẳng yên
Dam xin đội đức bề trên
Mới lên bảo vị thay quyền trị dân.
Thiên hạ khắp hết xa gần
Đều được ngóng cổ gội nhuần ân quang,
Nên tài Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang,
Muốn chư di với bát man lai thần
Ngửa xin cách cố đỉnh tân
Dưỡng dân vả lại vì dân vi tiền
Duyệt dân sau lại thuận thiên
“Thiên nhân nhất lý” thánh hiền thốt di
Trị di Nghiêu Thuấn tương kỳ
Đường Ngu bất cập ắt thì Thương Chu.
Tôi nay tài thiển trí ngu
Cảm trần nghĩ khốn đặt vu long đình
Kíp xin hưu dưỡng lấy binh
Binh cường sĩ lệ ắt bình man di
Tính tra các đội các cơ
Lương dân nào thiếu tức thì ban dân.
Quả thắng chúng vụ long ân
Quân nào khó nhọc gia phân cho tường
Chữ rằng thực túc binh cường
Tước nơi ngụ lộc tăng lương quân ngoài.
Cử truyền cho các quan cai,
Chăn quán thì chớ để hoài trong quân.
Việc quan thì cũng có ngần
Chẳng phải gia thần muốn vậy muốn sao.
Củi cây công lính tiếc nào
Thôi vườn lại bắt xuống ao tức thì
Tệ tập cũng phải trừ đi,
Dĩ thư binh lực kẻo thì chẳng hay.
Chư quân khó nhọc đã đầy
Dẹp Nam đánh Bắc kể rày mấy đông.
Tính từ Đồ Tế, Luân Bồng
Cống Từ, Cống Cảnh xứ động Họ Nành.
Ngân già, Sư Quan, Cống Anh
Cơm, Ngũ Phó, Quận Thành, Quận Tương,
Ninh Động, Quận Hoa, Quận Đường,
Kẻ chẳng xiết giặc cho tường làm chi.
Chúng đều kinh sự binh uy
Thế như lặp léo nhất thì phá hoang.
Vĩ Chi Nghịch Chất, Nghịch Hoàng
Tiễu trừ há chẳng có đường cho cam.
Xua binh vào chốn sơn lâm
Hưng sư đương tiết chính hàn mùa đông.
Đi không thì lại về không
Chịu những chướng khí nên công lênh gì
Dĩ man di công man di,
Nào trong chước ấy liệu thì vận ra.
Dám xin hưu dưỡng binh ta
Cùng sơn sách thú nữa mà bì lao
Đế vương dùng các chước nào
Vạn toàn chi thuật rất cao rất mầu
Cường binh chước có khó đâu
Dưỡng được dân giầu binh mới no ăn.
Đời xưa nhà Hán Hiếu văn
Lên ngôi dân cũng khó khăn có gì
Một niềm tiết kiệm vô vi
Vụ khuyến dân thì đại xá dân tô
Ngay sau nhà đủ người no
Quốc cấp dân phú kể cho vua hiền.
Ngửa xin trị giám ở tiền
Biết cơ trị loạn biết quyền hưng suy.
Gia tô gióng ắt triệt đi
Quy dân vụ bản về thì canh nông
Chính tô phú lệ đã xong
Ngoài tiền xin chước cho lòng dân vui.
Hoành chinh các việc nên thôi
Để dân phục hồi lập nghiệp làm ăn.
Dám xin cũn hoãn việc tuần
Thông hành buôn bán cứu lần dân cơ .
Tiết này dân rối như tơ
Đại đức bây giờ xin gỡ cho dân.
Cây khô đã được đức xuân
Ắt la đượm nhuần thôi lại rườm ra.
Thổ mộc công cũng nên tha
Thí sĩ ắt là phục cổ cho nghiêm
Huyện quan muốn trạch công liêm
Triều đình cứ phẩm cử lên từng người.
Việc tiến hiền chẳng phải chơi
Được mới trọng thưởng chẳng dời phép công.
Bất tiếu thì phạt chẳng không
Có như phép ấy mới dùng tuần lương
Ví dụ lại muốn cho tường,
Cấp dân chế lộc cho thường đủ ăn.
Các đường quân tệ cấm ngăn,
Ấy ai là chẳng hay chăn dân lành
Dân yên vốn tại quan thanh
Ngửa thông đại đức xin dành lộc đâu.
Hoạt lại chí vốn tham cầu,
Cổ kim đã bác biết đâu mà phòng.
Dám xin tỉnh bớt cho xong
Một nha môn để một người tả thư .
Với cho giữ lấy án từ
Nhất chi túc hĩ cấp nhiều làm chi.
Lại xin trong việc thần kỳ
Nhân thần tạp tử chính thì kham nên
Bề trên ngôi báu mới lên
Hạn can xích địa nguyên nguyên thán đồ
Ngửa xin kíp cứu dân tô
Việc ấy thửa hoãn kẻo đồ tổn dân
Việc binh dân đã cụ trần
Tồn dự xin lại thượng văn sinh tài
Quốc vô tài sĩ bất lai
Trong quân sấm đã chẳng sai đâu là.
Bắc nhân lý tài nước ta
Nhân sao chẳng biết để mà phòng nguy.
Nước Nam có thiếu vật chi
Thiếu một thuốc Bắc ấy thì phải mua
Còn trong phương vật chẳng th
Tùy kỳ tạo sản tình thô đủ dùng
Nó sang bòn lấy từng đồng
Tàu về bản quốc tiền dòng vạn thiên
Chẳng tin lấy một quan tiền
Còn mấy đồng cũ cho yên kẻo ngờ.
Thánh vương tức vị lúc sơ
Việc ấy xin trừ, kẻo hết tiền đi.
Trong thì thanh tĩnh vô vi
Cổ xưa Nghiêu Thuấn cựu quy thế nào
Xem người kiệm đức làm sao
Niêm trên ốc bích ra vào ngự soi.
Thành Thang trách đã sao khôi
Bào thư , nữ yết xin đòi tính tra.
Đủ dùng xin chớ quá xa
Dùng độ tước việt hóa ra hao tài.
Hán Văn mong lập một đai
Tiếc ngàn vàng lại thôi bài mộc công
Phu nhân yêu nhất trong cung
Y bất đệ địa tướng dùng vô văn
Tiền nong cho voi ngựa ăn
Trộm nghe cũng tồn ngợi phần tiện nghi
Một việc là một bớt đi
Ấy trong phủ khố mới thì thực sung
Lại xin thu các mỏ đồng
Chở về bắt thợ ra công đúc tiền
Lại ra những chốn hoang điền
Cùng sinh cốc thổ các bền phên ly
Dời dân khiến về khản đi
Làm cho kỹ lưỡng ấy thì canh vân
Du thủ du thực chi dân
Khiến về nam mẫu các cần canh nông
Đại thương trần túc phủ hồng
Kinh tiền lũy vạn tư công đều giầu.
Thế thì hưởng lộc dài lâu
Kể dư thiên tuế sách hầu Thương, Chu.
Tôi nay tài thiển thô phu
Trông lo nhất sự trần vu bệ rồng .
Phục vọng thánh đức cao thông
Thùy tình ngự lãm phó công ban hành.
Chữ rằng chước canh tắt canh
Sửa trong quốc chính ắt đành thuận thiên
Hạn can chuyển tác phong niên
Để trong thiên hạ được yên thái bình.

TB

ĐỌC "MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỮ NÔM" (*)

BÙI THANH HÙNG

Cuối năm 1985 vừa qua, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã cho in một tác phẩm với nhan đề Một số vấn đề về chữ Nôm của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.

Sách dày 286 trang, gồm 9 bài đã đăng rải rác ở tạp chí Ngôn ngữ, tạp chí Văn học, Nghiên cứu Hán Nôm, trong tập Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần của Viện Sử học và ở Thông báo khoa học của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ngoài ra sách còn thêm “Lời nói đầu”, phần “Thay lời kết luận” và đặc biệt, cuối sách còn có phần “Phụ lục” thống kê gần 800 chữ Nôm cổ xuất hiện ở những văn bản có niên đại chính xác từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVII. Đây là những tác phẩm mới được tác giả bổ sung.

Tác phẩm Một số vấn đề về chữ Nôm của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tuy phần lớn là những bài báo đã được đang rải rác từ 1971 đến nay và mặc dầu như tác giả đã viết là khi những bài báo này được tập hợp lại để cạnh nhau thành một cuốn sách thì sẽ không tránh khỏi gây ấn tượng trùng lặp và thiếu nhất quán, song chúng tôi vẫn cho rằng trong chừng mực nào đó có thể coi đây là một công trình nghiên cứu về chữ Nôm khá hoàn chỉnh và có giá trị khoa học cao. Nó không chỉ cung cấp cho chúng ta những kết quả khoa học mà tác giả đã dày công nghiên cứu, mà còn cung cấp cho chúng ta một cách nhìn, một phương pháp khoa học để tiếp cận và nghiên cứu những vấn đề về chữ Nôm.

Tất cả 9 bài báo được tập hợp trong sách đã phản ánh một cách khá toàn diện những vấn đề cơ bản nhất, mấu chốt nhất mà bất cứ công trình nghiên cứu về chữ Nôm nào cũng phải đề cập tới. Đó là: Phương thức cấu tạo chữ Nôm; Thời điểm xuất hiện của chữ Nôm; Quá trình diễn biến của chữ Nôm và Phương pháp đọc chữ Nôm. Nhưng khác với các nhà nghiên cứu chữ Nôm trước đây, tác giả những bài báo này đã vận dụng chủ yếu những tri thức ngôn ngữ học đặc biệt là những tri thức ngữ âm học lịch sử để làm sáng tỏ nhiều vấn đề rong nghiên cứu chữ Nôm.

Về vấn đề thời điểm xuất hiện của chữ Nôm, tác giả chủ yếu dựa vào thời điểm xuất hiện của cách đọc Hán Việt và chứng minh rằng âm Hán Việt tương ứng với âm Đường - Tống không phải tương ứng với âm thượng cổ, từ đó đi đến kết luận số chữ Nôm hiện nay không thể có từ thời Sĩ Nhiếp và không thể có sớm hơn giai đoạn Lý Trần. Trước đấy chỉ có thể là sự manh nha mà thôi. Kết luận này, theo tác giả, rất phù hợp với cứ liệu lịch sử, cứ liệu ngữ âm lịch sử trong nước và toàn vùng lúc bấy giờ, phương pháp sử dụng những tri thức về ngữ âm học lịch sử để xác định thời điểm xuất hiện của chữ Nôm của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn được giới học thuật ngày nay đánh giá cao và cho là phương pháp có hiệu lực nhất và đáng tin cậy nhất. Có thể nói tác giả là người có tri thức rất uyên bác về ngôn ngữ học đặc biệt là ngữ âm học lịch sử. Những kết luận tác giả rút ra trên đây đều đã trải qua quá trình nghiên cứu rất công phu và có sức thuyết phục khá lớn.

Về vấn đề cấu tạo chữ Nôm, tác giả đã không đi theo con đường lục thư cổ truyền mà đã tìm cho mình một hướng đi mới, căn cứ vào sự đối lập giữa loại chữ sẵn có và loại chữ sáng tạo, tác giả tiến hành phân loại nhỏ và xác định vị trí cụ thể của chúng trong từng loại ấy. Sau cùng tác giả nêu lên mối quan hệ giữ âm đọc của thanh phù với âm đọc của toàn chữ, hoặc có quan hệ với từng cách đọc của mỗi chữ. Tác giả đã gợi ý chúng ta phương pháp phân tích từng chữ Nôm một để từ đó có cơ sở tìm hiểu cách đọc của chúng. Chẳng hạn tác giả lưu ý phân tích loại chữ Nôm như chữ “đất”; “quơ” nếu không cẩn thận sẽ xếp nhầm chúng vào loại sẵn có, lý do là trong chữ Hán cũng có những chữ viết giống như vậy, và từ đó sẽ có nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu cách đọc của chúng. Về mặt ý nghĩa khi phân tích chữ Nôm tác giả đã lưu ý việc cần phải phân biệt thành tố nêu nghĩa khái quát và thành tố nêu nghĩa chính xác. Còn về mặt âm, tác giả đặc biệt lưu ý đến trường hợp chữ Nôm có thanh phù không thống nhất với cách đọc toàn chữ. Ở trường hợp này cần phải vận dụng ngữ âm học lịch sử.

Về vấn đề quá trình diễn biến của chữ Nôm bên cạnh phương pháp truyền thống, tác giả đã gợi ý một hướng nghiên cứu mới: hướng nghiên cứu dựa vào “các mô hình ngữ âm” trong mỗi chữ. Hướng này khá mới mẻ, nó giúp ta khắc phục được một số khó khăn về tài liệu, nhất là sự thiếu thốn quá nhiều về cứ liệu trước thế kỷ XV và sự quá ít ỏi những cứ liệu có niên đại chính xác. Theo tác giả hướng đi này còn có thể lợi dụng được nhiều nguồn cứ liệu khác nằm ngoại địa hạt chữ Nôm như cứ liệu ngữ âm lịch sử hoặc cứ liệu từ các văn bản Quốc ngữ cổ. Song song với phương pháp nghiên cứu các mô hình ngữ âm của chữ, tác giả rất chú ý đến phương pháp văn bản học. Tác giả coi việc tiếp tục truy tìm khai thác các văn bản cổ là không thể thiếu được. Vấn đề này cũng như những vấn đề trước đây, cái đóng góp lớn nhất của tác giả không chỉ là kết quả nghiên cứu mà còn là phương pháp nghiên cứu.

Về vấn đề cách đọc và phiên Nôm, tác giả đã nhấn mạnh sự cần thiết là phải phiên Nôm các tác phẩm cổ để phục vụ người đọc và trong việc làm này phải đặc biệt chú ý đến đối tượng phục vụ là đông đảo bạn đọc hay những nhà nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử. Ngoài ra tác giả còn chỉ ra phương pháp tìm âm đọc của những chữ Nôm cổ. Việc đầu tiên là phải lập luận dự kiến tất cả các khả năng đọc có thể chấp nhận về mặt lý thuyết rồi truy tìm qua các từ điển cổ, các lời chú thích cổ hoặc qua các phương ngữ để thử xem cách đọc nào là tối ưu, phù hợp nhất với văn cảnh. Lý thuyết này được tác giả vận dụng để nghiên cứu cách đọc Nôm hai chữ “song viết” xuất hiện trong văn bản Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và một số tác phẩm Nôm khác. Kết luận của tác giả về cách đọc hai chữ này có thể còn phải tiếp tục suy nghĩ nhưng theo chúng tôi phương pháp tiến hành như vậy là cần thiết.

Phần kết luận là phần được tác giả bổ sung khi 9 bài báo được tập hợp thành sách. Đây là những suy nghĩ mới của tác giả sau khi đã có thêm trong tay nhiều cứ liệu. Nhìn chung những luận điểm cơ bản vẫn được giữ nguyên như cũ, có điều tác giả muốn điều chỉnh lại một số điểm và có những điểm thấy cần phải làm sáng tỏ thêm. Chẳng hạn, về vấn đề phân loại chữ Nôm về mặt cấu tạo, tác giả thấy cần phải chú ý nhiều hơn đến mặt lịch đại và mặt âm của chữ. Về phần diễn biến của chữ Nôm tác giả thấy ở nhiều chữ Nôm có những phụ âm được ghi bằng một thanh phù vẫn chưa được giải thích hoặc giải thích qua loa. Địa hạt vận bộ vẫn đang ở giai đonạ mò mẫm. Vấn đề xác định thời điểm xuất hiện chữ Nôm, tác giả thấy về đề xuất đi ngược dòng lịch sử để truy tìm sự thống nhất cách đọc giữa thanh phù và toàn chữ đối với những chữ có sự trái ngược giữa cách đọc của thanh phù và toàn chữ trong cách đọc ngày nay cũng cần được tiếp tục nghiên cứu. Về việc nghiên cứu thời điểm xuất hiện của loại chữ Nôm có cách đọc thống nhất giữa thanh phù và toàn chữ từ xưa đến nay, theo tác giả, vẫn chưa đi sâu được chút nào. Cũng tương tự với chữ Nôm có nhiều cách viết, vấn đề làm thế nào để phân biệt được những cách ghi đẻ ra do sự linh động của người viết với cách ghi đẻ ra do sự diễn biến của lịch sử? Tìm lời giải đáp cho vấn đề này cần phải được tiến hành chu đáo.

Ngoài những vấn đề tác giả thấy cần bổ sung trên đây, vì khi đó tác giả mới chỉ nêu một số gợi ý về mặt định hướng, còn một số vấn đề cần phải làm nữa mà tác giả chưa có điều kiện làm, đó là sự quan tâm đến việc nghiên cứu phiên âm những từ lấp láy và những chữ Nôm địa phương. Cuối cùng tác giả chỉ ra phương hướng: muốn nghiên cứu chữ Nôm phải đặt nó trên bối cảnh chung của toàn vùng, phải đối chiếu với sự xuất hiện của chữ I-du Triều Tiên, chữ Ka-na Nhật Bản, phải nghĩ đến vai trò các nhà sư trong các chùa trước đây. Và muốn thấy được những nét riêng của chữ Nôm phải tiến hành so sánh nó với chữ Triều Tiên, Nhật Bản. Giới Hán Nôm cũng phải tìm cách đóng góp của mình vào việc làm sáng tỏ những nét chung của văn tự chữ Nôm với văn tự toàn vùng. Phải chăng đó là ảnh hưởng của Phật giáo? Tác giả thấy gần đây André Fable cũng có ý nghĩa như vậy.

Tóm lại lời kết luận của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một sự chỉ dẫn, một gợi ý về phương pháp nghiên cứu rất bổ ích cho giới nghiên cứu chữ Nôm.

Phần cuối sách là phụ lục gồm 800 chữ Nôm cổ được rút ra từ cac văn bản có niên đại chính xác từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVII. Đây là một cứ liệu quý đối với anh em sinh viên, đặc biệt là anh em nghiên cứu sinh và những người nghiên cứu Hán Nôm. Danh sách này xếp theo thứ tự A, B, C tiện cho việc tra cứu. Chắc là do điều kiện ấn loát bản danh sách này phải tách rời làm hai, giá như mỗi chữ Nôm được đặt ngay trước niên đại văn bản của nó chắc sẽ thuận lợi hơn.

Có thể nói Một số vấn đề về chữ Nôm của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một tác phẩm có giá trị khoa học cao, có tính chất phương pháp luận trong việc nghiên cứu các vấn đề về chữ Nô. Anh chị em sinh viên nghiên cứu sinh và giới nghiên cứu Hà Nội nói chung có thể coi đây là một cái chìa khóa để đi vào địa hạt chữ Nôm đang còn nhiều bí ẩn nhưng hết sức thú vị.

CHÚ THÍCH

(*) Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội, 1985.

TB

NHÌN LẠI 4 SỐ
"NGHIÊN CỨU HÁN NÔM" VỪA QUA

HOÀNG VĂN LÂU

Nghiên cứu Hán Nôm là tên gọi chung của loại ấn phẩm không định kỳ do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức xuất bản từ năm 1984 đến năm 1986. Xét từ mục đích, nội dung, đến hình thức thể hiện, có thể nói rằng Nghiên cứu Hán Nôm là bước quá độ, là “tiền thân” của Tạp chí Hán Nôm ngày nay. Nhân dịp số đầu tiên của Tạp chí ra mắt bạn đọc, chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt nội dung của chuyên mục của 4 số Nghiên cứu Hán Nôm đã qua, để bạn đọc theo dõi được liên tục.

Trong 4 số đã xuất bản(1) Nghiên cứu Hán Nôm tập hợp được tất cả 90 bài viết của 66 tác giả theo những nội dung sau đây:

I. SƯU TẦM GIỚI THIỆU VÀ CÔNG BỐ TƯ LIỆU MỚI

Nghiên cứu Hán Nôm số 1 dành một phân lượng có ý nghĩa cho một vấn đề đã trở nên bức thiết của toàn ngành Hán Nôm: sưu tầm và bảo vệ thư tịch và tư liệu Hán Nôm. Đồng chí Vũ Khiêm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam trong bài Vấn đề sưu tầm và bảo quản di sản Hán Nôm đã nêu lên mối quan hệ giữ sưu tầm, thống nhất tập trung tư liệu với việc khai thác và nghiên cứu trong lĩnh vực Hán Nôm. Đồng chí Phạm Huy Thông, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam lưu ý phải thu về một mối trách nhiệm đối với văn bản Hán Nôm đang tản mạn trong một số cơ quan ở rải rác trong cả nước, điều tra và lên bảng những tài liệu có thể biết ở nước ngoài và tìm kiếm trong dân gian để ra sức thu thập về. Đồng chí đề nghị “Phát động một cuộc vận động khẩn trương và không thời hạn nhằm sưu tầm tư liệu Hán Nôm”. Đồng chí Song Tùng giới thiệu cuối gia phả “ghi lại lịch sử 300 năm tham gia đánh giặc giữ nước của dòng họ Nguyễn Cảnh” mà dòng họ đã ủy thác đồng chí trao tặng cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đồng chí Trần Nghĩa trong bài Sưu tầm bảo vệ Thư tịch Hán Nôm, nêu rõ vị thế kho thư tịch Hán Nôm, tình hình sưu tầm, bảo vệ di sản Hán Nôm từ 1946 đến nay và những công việc trước mắt nhằm sưu tầm cho hết, bảo quản cho tốt tất cả di sản Hán Nôm hiện còn 3 bài Vài nét về công việc sưu tầm thư tịch Hán Nôm trong lịch sử (của Hoàng Lê), Vài nét về quá trình hình thành kho sách Hán Nôm hiện nay (của Dương Thái Minh) và Tổ chức bảo quản sưu tầm thư tịch và tư liệu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (của Mai Ngọc Hồng) phác họa quá trình sưu tầm, bảo vệ thư tịch Hán Nôm từ trong lịch sử và hiện nay. Phạm Hồng Toàn, Tăng Bá Hoành, Nguyễn Thanh Phúc, Đinh Khắc Thuần, Bùi Xuân Vỹ, Bùi Sỹ Uông, Ngô Quang Nam điểm tình hình sưu tầm và bảo quản thư tịch Hán Nôm ở các tỉnh Thái Bình, Hải Hưng, Hà Sơn Bình, Thanh Hóa, Bắc Thái và Vĩnh Phú. Nguyễn Đồng Chi, Bùi Văn Nguyên, Lê Hiệu, Trương Đình Nguyên và Bùi Huy Hồng nêu phương hướng và nhiều kinh nghiệm quý trong công tác sưu tầm tư liệu Hán Nôm. Văn Tân nhắc tới gia phả thần phá ngọc phả, một nguồn sử liệu quan trọng cần sưu tầm. Du Chi nhấn mạnh tầm quan trọng của loại hình văn bia. Lê Trần Đức đề nghị có kế hoạch sưu tầm và quản lý sách thuốc của cha ông. Vũ Tuấn Sán nhắc tới câu đối, một hình tư liệu Hà Nội đặc thù. Trần Lê Văn giới thiệu một số tài liệu Hán Nôm ở Hà Sơn Bình. Lục Văn Pảo trình bày một số suy nghĩ về việc thu thập tư liệu viết theo lối chữ Hán của các dân tộc ít người ở Việt Bắc.

Cũng trong số 1, Trần Nghĩa công bố bài Một bộ từ điển Việt - La tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được, giới thiệu bộ Từ điển Việt - La tinh viết tay của Pierre Pigneau de Béhaine (1741-1799) mà người ta tưởng đã mất từ lâu. Tập bản thảo tác phẩm này còn để tại Chủng viện Hội truyền giáo nước ngoài ở Paris Viện Nghiên cứu Hán Nôm có bản sao chụp do Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Đông Á hiện đại thuộc trường Đại học Nice nước Cộng hòa Pháp gửi tặng. Đây là cuốn từ điển song ngữ Tiếng Việt được ghi bằng hai thứ chữ Nôm và Quốc ngữ. Bộ từ điển này là kho tư liệu quý để nghiên cứu tiếng Việt. Còn là cứ liệu chắc chắn để nghiên cứu chữ Nôm thế kỷ XVIII là bằng chứng cho thấy tình trạng chữ Quốc ngữ cách đây vài trăm năm, khi nó đang trong thời kỳ xây dựng. Trong số 2, Phan Huy Lê, Dương Thị The và Nguyễn Thị Thoa giới thiệu Vài nét về bộ sử của vương triều Tây Sơn, Bộ Đại Việt sử kí tiền biên do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô Thì Nhậm hiệu đính, in lần đầu vào năm 1800. Đây là bộ “Quốc sử có giá trị, không những thể hiện được quan điểm viết sử tiến bộ, mà còn là bộ sử luận phong phú, có tính khoa học cao”, tập hợp được 467 lời bàn của nhiều sử gia như Lê Văn Hưu, Phu Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Nguyễn Nghiễm và của chính tác giả. Trong số 3, Vũ Thanh Hằng giới thiệu Bản in bộ Trùng san Lam Sơn thực lục nổi tiếng, do cụ Hoàng Xuân Hãn gửi tặng. Sách in năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676) mà ở trong nước đã vắng bóng từ lâu. Đây là một “cứ liệu tin cậy để duyệt xét tất cả các bản chép tay hiện có, nghiên cứu quá trình biến động về mặt văn bản của một tác phẩm lịch sử quan trọng”.

Cũng trong số 3, có bài Một bản truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy của Trần Nghĩa. Bài viết giới thiệu bản Truyền kỳ mạn lục “cựu biên” của Nguyễn Dữ, do Nguyễn Tự Tín phường Hồng Lục khắc in năm 1712, bản gốc để tại Đông Dương văn khố Tokyo Nhật Bản. Đây là bản in có niên hiệu sớm hơn tất cả các bản in TKML trong nước hiện biết đến một nửa thế kỷ, “có giá trị đặc biệt đối với việc nghiên cứu Cựu biện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”. Trong bài Dư địa chí - Truyền bản và thể loại (số 4), Trần Nghĩa giới thiệu 5 truyền bản (1 bản in, 4 bản chép tay) của Dư địa chí. Sau khi phác họa quá trình hình thành và lưu truyền của Dư địa chí tác giả có nhận xét: “Sau nhiều lần sao đi chép lại, bổ sung, bình luận, chú thích thêm và nhiều nguyên nhân khác nữa, sách đã không còn giữ nguyên bộ mặt ban đầu; Bản in Phúc Khê 1868 đã phản ánh toàn bộ con đường trải qua trên đây của Dư địa chí”. Cùng trong số 4, Phạm Văn Thắm có bài Giới thiệu Lê quý dật sử. Bài viết giải quyết vấn đề tác giả và giới giá trị sử liệu của tác phẩm. Theo bài viết, thì nguồn sử liệu trong Lê quý dật sử khá phong phú và đáng tin cậy.

Giới thiệu tác giả trên cơ sở những phát hiện mới về tư liệu cũng là một nội dung của Nghiên cứu Hán Nôm. Trong số 2, Công Việt có bài Bước đầu tìm hiểu về Nguyễn Trực, một tài năng nhiều mặt thế kỷ XV. Từ những tư liệu mới sưu tầm như bộ gia phả 21 đời của dòng họ Nguyễn Trực, kết hợp với tài liệu hiện có tại tại kho sách Hán Nôm, tác giả giới thiệu những nét chính về tài năng, phẩm chất, và tác phẩm của Nguyễn Trực, một danh nhân thế kỷ XV. Số 3 đăng bài Tìm hiểu tư liệu về Tuệ Tĩnh của Mai Hồng. Bài viết nghiên cứu tổng hợp nguồn tư liệu từ các mặt: truyền thuyết và di tích địa phương, ghi chép trong chính sử và các tác phẩm mang tên Tuệ Tĩnh, trên cơ sở đó đi đến nhận định: Tuệ Tĩnh sống ở nửa cuối thế kỷ XIV. Cũng trong số 3, Nguyễn Thị Thảo giới thiệu Bùi Dương Lịch (1757-1828). Tác giả chú ý khai thác ở Bùi Dương Lịch “nếp tư duy khá độc đáo”, “có những tư tưởng mang tính chất duy vật và biện chứng tự phát”. Bài viết đi sâu vào quá trình hình thành Nghệ An kí, tác phẩm đặc sắc nhất của Bùi Dương Lịch và liệt kê danh mục các tác phẩm của ông hiện còn giữ được.

Nghiên cứu Hán Nôm chú ý công bố kịp thời những tư liệu mới phát hiện: Số 2 công bố bài Hồng Nghệ An phú của đồng chí Lê Hồng Phong do Thạch Can sưu tầm. Đây là “một tác phẩm văn học có tính chất sử thi của một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng đã hy sinh trong lao tù đế quốc”. Cùng số này, Nguyễn Thị Phượng công bố một bài thơ Nôm độc đáo của Ngô Thì Nhậm. Trong số 3, Thùy Vinh công bố bút tích khắc trên núi Dục Thùy gồm 4 chữ đại tự của Ngô Thì Sĩ và một bài thơ của Ngô Thì Nhậm. Cũng số 3, Lê Xuân Quang giới thiệu 2 bài thơ của Ninh Ngạn do con ông là Ninh Tốn khắc trên bia mới phát hiện được. Số 4 công bố 16 bài thơ Nôm “trong sáng, bình dị ít điển cố” của Bùi Xương Tự (1656-1728) trong cuốn Bùi Thị Gia phả 1640. Cũng thuộc nội dung này, có bài Những tấm bia và đôi điều về họ Nguyễn họ Dương trên đất Nhị Khê của Ngọc Nhuận và Phạm Bằng (số 1) Sự tích Không Lộ và Minh Không qua quyển sách chữ Hán (cuốn Quốc sứ bảo cục) mới sưu tầm của Phạm Đức Quật (số 1), Thêm một số tư liệu về Ninh Tốn của Nguyễn Đăng (số 2). Bài Về cuốn thần phả làng Đào Xá của Bùi Xuân Đinh (số 2) công bố một bài thơ, có thể coi là dị bản nữa của bài Nam quốc sơn hà.

Có những cố gắng điều tra tổng hợp các nguồn tư liệu Hán Nôm trong và ngoài nước: Trong số 2, Nguyễn Doãn Tuân trong bài Vài thông tin ban đầu về văn bản Nôm Tày, sơ bộ giới thiệu diện mạo, nội dung văn bản và tình hình các nguồn tư liệu Nôm Tày. Trần Nghĩa có bài Sách Hán Nôm tại nước ngoài (số 2), nêu kết quả điều tra nguồn tài liệu Hán Nôm tại nước ngoài của những người đi trước, đồng thời giới thiệu sách vở và tư liệu Hán Nôm hiện lưu giữ tại một số cơ sở nghiên cứu và bảo tàng ở Pháp.

II. NGHIÊN CỨU VÀ TRAO ĐỔI Ý KIẾN

Nghiên cứu Hán Nôm số 2 đăng bài Công tác Hán Nôm dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác của Trần Nghĩa, vận dụng chủ nghĩa Mác và quan điểm của Đảng trong nghiên cứu Hán Nôm để đề xuất nội dung, phương pháp khai thác di sản Hán Nôm và nêu phương hướng xây dựng đội ngũ Hán Nôm. Cùng một hướng ấy có bài Tìm hiểu quan điểm của Đảng và Nhà nước về di sản Hán Nôm của Trịnh Khắc Mạnh (số 3). Đặng Đức Siêu trong bài Suy nghĩ bước đầu xung quanh vấn đề truyền đạt và tiếp nhận di sản Hán Nôm trong nhà trường (số 1) nêu phương hướng và nội dung truyền thụ tri thức Hán Nôm ở bậc Đại học.

Vấn đề chữ Nôm thu hút sự chú ý của nhiều tác giả: Số 1 Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Sankêvich trong bài Khảo sát quá trình diễn biến của chữ Nôm thông qua mô hình ngữ âm của chữ đã nêu một hướng nghiên cứu mới dựa vào “mô hình ngữ âm” trong mỗi chữ: “Đi theo hướng này, có thể hạn chế bớt những khó khăn do quá thiếu tư liệu về văn bản, lợi dụng được nhiều nguồn tư liệu nằm ngoài địa hạt chữ Nôm, có khả năng ấn định thời điểm xuất hiện của nhiều mô hình chữ Nôm”. Trong bài Một vài suy nghĩ xung quanh vấn đề học chữ Nôm, phiên Nôm, Nguyễn Tài Cẩn lưu ý cách xử lý vấn đề tiếng địa phương và từ cổ trong khi đọc và phiên âm các văn bản Nôm (Số 2) Nguyễn Tả Nhí tìm nguyên nhân dẫn tới việc xác định tính chuẩn xác âm đọc của một số từ có trong bài Mấy suy nghĩ về việc phiên âm chú giải từ cổ trong văn bản Nôm (số 2). Cũng trong số 2 có bài Hiện tượng ghi âm mang tính chất địa phương trong chữ Nôm của Nguyễn Thị Lâm. Lê Anh Tuấn trong bài Tình hình chữ Nôm có dấu phụ trong hệ thống cấu tạo chữ Nôm (số 4) đã nêu ra 4 loại dấu phụ cá, nháy, nhỏ, khấu, trong tiến trình phát triển của chữ Nôm.

Số 4 có bài Bước đầu nghiên cứu chữ Húy đời Trần của Ngô Đức Thọ. Bài viết trình bày luật lệnh, thể lệ và phương pháp viết chữ của đời Trần, nếu những nhận xét lý thú như “có cách viết kỵ Húy đặc biệt Việt Nam, không thấy có lệ chứng trong các công trình sưu tập nghiên cứu chữ húy của Trung Quốc, cũng chỉ riêng ở đời Trần”. Cũng số này có bài Thử tìm hiểu phương pháp sưu tầm chỉnh lý thư tịch của Lê Quý Đôn của Đinh Công Vĩ. Bài viết nêu cống hiến của Lê Quý Đôn trong lĩnh vực sưu tầm chỉnh lý thư tịch cổ và phương pháp sưu tầm chỉnh lý của ông.

Giám định văn bản là mục thường xuyên của Nghiên cứu Hán Nôm. Số 1 có bài Về bản chúc thư của viên quan lang Đinh Thế Thọ ở vùng Mường Thanh Sơn, Vĩnh Phú của Trịnh Khắc Mạnh. Tác giả nghiên cứu 5 văn bản hiện còn (2 bản lụa, 2 bản giấy, 1 bản đồng), khảo sát diễn biến văn bản, tìm nguyên nhân của sự sửa đổi văn bản của tờ chúc thư, Nguyễn Văn Nguyên trong bài Về hai nhóm văn bản Quân trung từ mệnh tập biên còn, đã khảo sát 7 văn bản của Quân trung từ mệnh tập, chia thành 2 nhóm có phương thức biên soạn và niên đại sao chép khác nhau, là nhóm Di tập và nhóm Di văn đời Lê. Nhóm Di văn đời Lê có giá trị tham khảo quan trọng nhưng trước nay chưa được chú trọng đúng mức. Số 4, Nguyễn Thị Hà đính chính văn bản bài thơ Gửi Nê Ru trong tập thơ Nhật kí trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản văn hóa xuất bản năm 1983. Cũng số này, có bài khảo về 2 bài thơ chữ Nôm khắc trên gỗ ở chùa Đậu (Hà Sơn Bình) của Đinh Khắc Thuân và bài nghiên cứu bản đồ kinh thành Thăng Long của 10 văn bản bộ Bản đồ Hồng Đức của Phạm Hân.

Về giám định tác giả và niên đại: Số 1 có bài Ai viết Gia huấn ca? của Hoàng Văn Lâu. Bài viết đi lời giải đáp cho câu hỏi được nêu từ kho thư tịch và tư liệu Hán Nôm, tìm ra Lý Văn Phức là một tác giả “đích thực” của phần đầu gồm 308 câu trong tổng số 796 câu của Gia huấn ca. Cũng chính Lý Văn Phức đã đặt cho tác phẩm của mình cái tên ban đầu là Phu châm. Số 2 có bài Bước đầu tìm hiểu thời điểm ra đời và tác giả của cuốn sách Lê triều ngự chế Quốc âm thi của Trương Đức Quả. Lê triều ngự chế Quốc âm thi được Nguyễn Văn Tố xếp vào thơ thời Hồng Đức. Trương Đức Quảng nghiên cứu các cứ liệu từ chữ húy, địa danh, văn bia, chữ Nôm, tìm ra tác giả của tác phẩm là Trịnh Cương, thời gian ra đời của tác phẩm vào những năm Vĩnh Thịnh (1700 - 1720). Trong số 3 Đinh Khắc Thuận giám định niên đại giả trên một số thác bản bia trong bài Đính chính niên đại giả trên một số thác bản bia tại kho bia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Về dịch thuật, số 2 có bài Từ hiểu sai, hiểu chưa hết, đến lơ đễnh dịch sai của Nguyễn Quảng Tuân. Bài viết nêu nhận xét tinh tế khi đính chính cách dịch đôi bài thơ Đường. Trong số 4, qua bài So sánh cách dịch danh từ của bản Nôm “Chinh phụ ngâm” hiện hành với ba bản dịch khác, Nguyễn Danh Đạt đã nêu nguyên nhân thành công của bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành. Nguyễn Cảnh Phức trong bài Góp một vài ý kiến nhỏ về bản dịch “Hịch tướng sĩ” hiện hành, đề nghị sửa đầu đề bài hịch là Bài hịch các tỳ tướng cho đúng với ghi chép của sử sách và nội dung tác phẩm.

Cũng thuộc lĩnh vực này, số 3 có bài Góp một cách hiểu bài thơ cổ của Hoàng Văn Lâu. Bài viết phân tích bài thơ Thôn xá thu châm của Nguyễn Trãi từ các mặt cấu tứ và sử dụng ngôn từ, nêu một cách hiểu khác với các bản dịch hiện hành. Số 4 đăng bài Nghiên cứu Hán Nôm nên mở rộng mục Trao đổi ý kiến. Đây là bức thư của nhà Hán học vừa quá cố Thạch Can gửi Ban biên tập Nghiên cứu Hán Nôm số 2. Trong thư, tác giả nói rõ thêm quá trình biên tập Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, và đính chính một số chỗ dịch chưa đúng trong đó. Cũng số 4 có bài Về bài thơ “Chu Công phụ thành Vương đồ” của Nguyễn Trãi của Hoàng Văn Lâu. Bài viết tìm hiểu bối cảnh của bài thơ, phân tích một số câu chữ trong bài, nêu cách hiểu khác với bản dịch của Nguyễn Trãi toàn tập.

Mục “chữ nghĩa”: Số 2 có bài Chữ “chớ” trong QÂTT của Nguyễn Trãi của Cao Hữu Lạng; số 3 có bài “Song nhật” chứ không phải là “song viết” của Nguyễn Quảng Tuân và bài “Bà ngựa” trong QÂTT của Nguyễn Trãi của Cao Hữu Lạng. Số 4 có bài Thử đọc lại số chữ trong bản Kiều Nôm của Trương Lệ Nga và bài Đính chính cho Tản Đà của Nguyễn Quảng Tuân.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC

Nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Ban Hán Nôm, tiền thân của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngày nay, cụ Phạm Thiều, người lãnh đạo đầu tiên của Ban Hán Nôm, viết bài Nhớ lại buổi đầu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (số3) bày tỏ niềm vui mừng trước sự trưởng thành nhanh chóng của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và niềm tin ở tương lai rộng mở của ngành Hán Nôm. Số 4 đăng Cáo phó về việc Đồng chí Trần Thạch Can, nhà hoạt động cách mạng, nhà Hán học lão thành từ trần và Điếu văn của Giáo sư Tiến sĩ Phạm Huy Thông, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đọc trong buổi tang lễ, nhan đề Vĩnh biệt đồng chí Trần Thạch Can, nhà cách mạng lão thành thân thiết của chúng ta.

Mục đọc sách: Số 3 có bài Thơ văn Ninh Tốn của Nguyễn Vũ Cư, nhận xét tập Thơ văn Ninh Tốn (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) là một công trình biên dịch có chất lượng. Số 4 có bài Đọc cuốn cơ sở ngữ văn Hán Nôm tập I của Phan Văn Các, đánh giá Cơ sở ngữ văn Hán Nôm tập I là một cống hiến cho bộ môn Hán Nôm học còn non trẻ, cũng là một tài liệu tham khảo bổ ích cho giới nghiên cứu Hán Nôm. Cũng thuộc mục này có thể kể đến bài Vài điểm bàn thêm nhân đọc sách Các trấn tổng xã danh bị lãm và bản dịch của Dương Thái Minh. Bài viết bàn thêm về văn bản, tác giả và quá trình hình thành Bị lãm, nêu nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của bản dịch.

Mục tin tức: Số 1 có bài Vài nét về công tác sưu tầm bảo quản tài liệu cổ quý tại Liên Xô của Trần Khang, giới thiệu kinh nghiệm sưu tầm và bảo quản thư tịch cổ của Liên Xô “có thể rút ra nhiều điều bổ ích đối với việc sưu tầm bảo quản thư tịch và tư liệu Hán Nôm của chúng ta”, bài Giới thiệu phòng kỹ thuật Viện Nghiên cứu Hán Nôm của Trương Lệ Nga và tin về Hội nghị sưu tầm và bảo vệ thư tịch và tư liệu Hán Nôm của P.V. Số 2 đưa tin về lớp nghiên cứu văn bản học (Ngô Đức Thọ) về xây dựng chương trình môn cơ sở học ngữ văn Hán Nôm (Đặng Đức Siêu), về sự Hợp tác khoa học giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm với Sở Văn hóa thông tin Hà Nội (Trịnh Khắc Mạnh); với nhà Bảo tàng Quang Trung Nghĩa Bình (Nguyễn Thị Phượng). Trong số 3, nhà giáo, nhà thơ Vũ Đình Liên đưa tin về lễ kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhà giáo, nhà hoạt động văn hóa nhiệt thành thuộc số những người đi hàng đầu trong lĩnh vực Hán Nôm, cụ Lê Thước (1891 - 1975). Cũng trong số này, Phạm Văn Thắm giới thiệu những hoạt động nghiên cứu Hán Nôm tại Pháp, P.V đưa tin Hội thảo về “Từ điển chữ Nôm”, DT đưa tin Hợp tác khoa học. Số 4 có bài tổng thuật Hội nghị khoa học về Nôm (ngày 20 tháng 11 năm 1985) của Cao Hữu Lang, tin Hợp tác khoa học của Nguyễn Doãn Tuân, tin đào tạo cán bộ ngành Hán Nôm của Nguyễn Thị Oanh.

CHÚ THÍCH

(1) Số 1 (1984); số 2 (1-1985); Số 3 (2-1985); số 4 (1-1986).

TB

HỆ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TẠI CHỨC Ở CÁC TỈNH PHÍA NAM VỚI VIỆC SƯU TẦM VÀ
NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

HỒ SỸ HIỆP

Từ sau ngày giải phóng (30/4/1975), các tỉnh thành ở phía Nam lần lượt mở đại học Sư phạm tại chức nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và giáo viên. Một trong những chương trình của ngành Ngữ văn là dạy và học môn Hán Nôm.

Đối tượng học khá đa dạng, có người trước giải phóng đã học Ban Việt Hán của các trường Đại học Văn khoa, Vạn Hạnh, biết chữ Hán, nhưng đại bộ phận lần đầu tiên tiếp xúc với môn Hán Nôm. Với tuổi đời từ 30 đến 40, số giờ học hạn chế, chương trình hoàn thành trong thời gian cấp tốc, nên việc xác định mục đích, yêu cầu và nội dung dạy và học môn Hán Nôm ở hệ tại chức Đại học Sư phạm là rất cần thiết.

Để đảm bảo chương trình tối thiểu của Bộ Giáo dục một cách thiết thực và có hiệu quả trong việc đào tạo, Tổ bộ môn Hán Nôm trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng. Một giáo trình Hán Nôm hệ Đại học tại chức Sư phạm các tỉnh phía Nam được hình thành và áp dụng. Các áng thơ văn Hán Nôm tiêu biểu của dân tộc được đưa vào chương trình giảng dạy với phương pháp chắt lọc, dễ hiểu và thiết thực. Đối với học viên các tỉnh phía Nam còn xa lạ với thơ văn truyền thống của dân tộc, những bài Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc Tuấn), Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và thơ văn chữ Hán của Hồ Chủ tịch đã mang đến những cảm xúc mới mẻ, hứng thú sâu sắc khi tiếp xúc trực tiếp với văn bản viết bằng chữ Hán.

Ngoài việc truyền thụ những kiến thức cơ bản của ngữ văn Hán Nôm, thông qua bộ môn, học viên nắm được khái niệm, đặc trưng và tính chất của các thể loại văn học “hịch”, “cáo”, “chiếu”, “biểu”, “phú”, các điển tích, từ Hán Việt thường dùng trong văn học cổ Việt Nam được tuyển chọn và trích giảng ở trong nhà trường. Bộ môn Hán Nôm không những giúp cho cán bộ quản lý giáo dục nắm chắc, hiểu kỹ và sử dụng đúng từ Hán Việt, hiểu được tác dụng và giá trị của văn bản Hán Nôm của ông cha ta xưa, mà đối với giáo viên ngữ văn ở phổ thông cơ sở cũng được trang bị những kiến thức tối thiểu về ngữ văn Hán Nôm, giải thích các điển tích, điển cố, thi liệu, văn liệu. Hiểu đúng để từ đó dạy đúng từ Hán Việt ở trong nhà trường và sử dụng ngoài xã hội.

Ngoài những kết quả thu được về chuyên môn, nghiệp vụ, việc dạy và học môn Hán Nôm ở các hệ Đại học Sư phạm tại chức ở các tỉnh phía Nam đã bước đầu gắn việc “học với hành”, nhà trường gắn liền với thực tế xã hội và “địa phương”. Hay nói một cách khác, vận dụng việc dạy và học bộ môn với việc sưu tầm, điều tra, nghiên cứu và xử lý những hiện tượng Hán Nôm ở các địa phương thuộc thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và 9 tỉnh ở đồng bằng sông Cửa Long với mức độ và khả năng có được.

Việc thực hành của bộ môn, trước hết là học viên tập chép, phiên âm (chưa yêu cầu dịch nghĩa) các câu đối, liễn, thi, phú Hán Nôm hiện có ở các đền, chùa; các di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh ở các địa phương Nam Bộ. Học viên sưu tầm, ghi chép và phát hiện nhiều bài thơ, văn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm lưu truyền ở các địa phương. Theo sự nghiên cứu bước đầu, thơ văn Hán Nôm hiện còn lưu truyền ở các địa phương Nam Bộ được xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII, XVIII theo hai nguồn: 1) từ các cuộc “di dân”, “Nam tiến” của những sĩ phu và nông dân Trung, Bắc vào Nam Bộ để lập nghiệp và việc truyền bá của những người “Minh hương”, Trung Quốc, vì bất mãn với triều đình nhà Thanh mà bỏ sang cư trú ở đất Đồng Nai, Gia định. 2) Những thơ văn Hán Nôm sưu tầm, ghi chép được phần lớn là thơ văn Hán Nôm của các lãnh tụ nghĩa quân, sĩ phu yêu nước và các nhà thơ trong phong trào yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ…

Học viên các lớp Đại học Sư phạm tại chức ở thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai. Sông Bé ghi chép, sưu tầm và cung cấp những thơ văn Hán Nôm của “Gia Định tam gia thi” (Ba nhà thơ ở đất Gia Định tam gia Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhã Tình), của nhóm “Bình Dương thi xa”. Những bài thơ chữ Hán có liên quan đến chùa Cây Mai, chầu Cẩm thảo, các bài phú Nôm về Đốc phủ Ca sưu tầm ở Hóc Môn v.v… Học viên tỉnh Long An góp phần đính chính những sai sót trong việc biên soạn thơ văn chữ Hán, xác định quê quán đích thực của Nguyễn Thông. Học viên tỉnh Tiền Giang bổ sung thêm tư liệu và khẳng định bài thơ chữ Hán Hãn mã là của Thủ Khoa Huân chứ không phải của Mai Xuân Thưởng (Mai Xuân Thưởng la sĩ phu yêu nước cuối thế kỷ XIX ở Bình Định, người huyện Bình Khê) như có tài liệu đã ghi chép. Học viên tỉnh Bến Tre - quê hương của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - tìm hiểu địa danh địa phương trong thơ văn của nhà thơ yêu nước lớn; ghi chép thơ văn viết bằng chữ Hán của Phan Thanh Giản. Học viên tỉnh Kiên Giang sưu tầm thơ văn Hán Nôm của nhóm “Chiêu Anh Các” (1736), nhất là thơ văn của Mạc Thiên Tích (1706 - 1780). Học viên còn ghi chép, phiên âm, và dịch nghĩa thơ, đối, liễn, văn bia viết bằng chữ Hán chép ở các đình, chùa, miếu, mộ của Khu Lăng Mạc Cửu (thuộc xã Mỹ Đức, huyện Hà Tiên); chép những bài thơ, câu đối bài văn viết bằng chữ Hán ở Thạch Động (một thắng cảnh ở huyện Hà Tiên). Mặt khác góp phần bổ sung tư liệu về Hà Tiên thập cảnh vịnh do Sở văn hóa - Thông tin Kiên Giang xuất bản năm 1986, nhân kỷ niệm 250 năm sáng lập Tao đàn “Chiêu anh các” (1736 -1986). Học viên cũng nêu lên những ý kiến quý báu về việc xác định vị trí của thơ văn Nôm trong Tao đàn “Chiêu Anh các”, nhất là 10 bài thơ Nôm vịnh cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích.

Trên nhiều cứ liệu cụ thể qua việc dạy và học Hán Nôm, học viên bước đầu tập dượt công việc khảo cứu, giám định văn bản và đính chính thơ văn cổ. Đây là vấn đề khoa học, yêu cầu có sự tổng hợp của nhiều ngành nghiên cứu, nhất là ngành văn bản học… Có nhiều học viên tỏ ra rất hứng thú đạt được những kết quả bước đầu khá tốt đẹp trong nghiên cứu. Học viên tỉnh Tây Ninh sưu tầm được những văn bản chữ Hán chép tay lưu truyền trong đồng bào theo đạo Cao Đài ở Khu vực Tòa thánh (thị xã Tây Ninh). Có học viên đã phát hiện bài thơ chữ Hán Chinh phụ thi mà các tài liệu xuất bản ở miền Nam trước ngày giải phóng nói là của nữ sĩ Sương Nguyệt Ánh (con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu) và Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1976) ghi là của Thái Thuận, chính gốc của nó là của Tô Huệ, người đời Tấn, chép trong sách Kim cổ kỳ quan. Thái Thuận (thế kỷ XV) và Sương Nguyệt Ánh (cuối thế kỷ XIX và đầu XX) chỉ dựa và thay đổi một ít từ ngữ mà thôi.

Một nội dung học tập có ý nghĩa đối với các lớp Đại học Sư phạm tại chức ở các tỉnh thành phía Nam là tập giải thích những từ Hán Việt thường dùng và dùng chưa đúng ở miền Nam trước đây và hiện nay (như từ diễu hành diễn hành; ý đồ ý định; chung cư chúng cư…) giải thích tên các địa danh Hán Việt ở các địa phương đất Lục Tỉnh mà Trịnh Hoài Đức có ghi trong Gia đình thành thông chí…

Người xưa nói “Thập niên đăng hỏa” mới có thể thành đạt đối với người học chữ Hán. Nhưng sau hơn 10 năm giải phóng và 10 năm dạy học môn Hán Nôm ở hệ Đại học Sư phạm tại chức các tỉnh, thành phía Nam chúng ta đã đạt được những kết quả đáng kể. Dẫu sao cũng chỉ mới là “cưỡi ngựa xem hoa” trong vườn hoa Hán Nôm phong phú của ông cha ta để lại. Nhờ xác định được mục tiêu đào tạo, thay đổi cách dạy và học, nên việc dạy và học Hán Nôm mang lại kết quả thiết thực, nhất là ý nghĩa thực tế của nó, trong đó, có sự đóng góp vào việc xử lý những trường hợp Hán Nôm ở các tỉnh, thành phía Nam, đặt cơ sở bước đầu cho việc nghiên cứu Hán Nôm ở miền Nam. Chúng tôi tin rằng được Viện Nghiên cứu Hán Nôm giúp đỡ, Viện Văn học, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, cùng các cơ quan địa phương hỗ trợ, và với sự nỗ lực của cán bộ giảng dạy Hán Nôm trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, việc xử lý hiện tượng Hán Nôm ở hệ Đại học Sư phạm tại chức thuộc các tỉnh phía nam sẽ đạt kết quả cao hơn.

TB

MỘT VÀI SỐ LIỆU QUA ĐỢT TỔNG KIỂM KÊ SƯU TẦM TƯ LIỆU HÁN NÔM Ở HUYỆN
TỪ LIÊM

NGUYỄN ĐỨC BẠCH
NGUYỄN DOÃN TUÂN

Huyện Từ Liêm là mảnh đất nằm ở phía Tây bắc của kinh thành Thăng Long xưa kia, kề sát với Trường trung tâm quốc học Văn Miếu - nơi đã đào tạo ra khá nhiều danh nhân có công đức với nước với dân. Theo cuốn Từ Liêm đăng khoa chí(1) mà chúng tôi vừa sưu tầm được thì trên địa phận huyện Từ Liêm cũ, từ thời Lê đến thời Nguyễn Thành Thái có tới 1550 vị đăng khoa, trong đó có nhiều vị đỗ cao, được phong tước lớn như: Tô Hiến Thành, Đỗ Kính Tu, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Lý Trần Quán, Nguyễn Quý Kính, Đỗ Thế Giai, Nguyễn Đạo An… Với con số ấy, với những tên tuổi ấy, chúng ta có thể nghĩ rằng nơi thắng địa này đã đóng góp đáng kể vào kho tàng văn hóa của dân tộc ta. Chưa có điều kiện thống kê toàn bộ số sách có trong kho sách Hán Nôm và các kho sách khác, chưa có điều kiện kiểm tổng kiểm kê số tài liệu lưu trữ ở các kho sách tư nhân, chỉ nói về số lượng tài liệu Hán Nôm ở các di tích đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ họ… trên địa bàn 24 xã, 3 thị trấn trong huyện hiện nay, cũgn cho thấy những con số đáng kể. Qua đợt tổng kiểm kê sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm kết hợp với Phòng Bảo tồn bảo tàng Sở Văn hóa Thông tin Hán Nôm tiến hành vào mùa hè năm 1986, có thể biết được những con số sau đây: 1164 mặt bia, 522 mặt chuông; 36 mặt khánh; 1130 câu đối; 650 hoành phi; 630 đạo sác; 68 cuốn thần phả và 58 bài thơ.

Nếu không dừng lại ở con số thống kê trên mà thử đi vào việc phân loại, đánh giá thì bước đầu chúng tôi thấy rằng mảng tài liệu này có những đặc điểm đáng được chú ý.

Về Văn bia: Có niên đại từ thời Lê đến thời Bảo Đại, với những hình thức trình bày, khuôn khổ và nội dung khác nhau, nhưng trên đại thể, có thể phân làm hai loại là bia trùng tu và bia hậu. Bia trùng tu thường có đầu đề là Trùng tu bi kí, hoặc lấy tên của di tích làm đầu đề của bia như: Thụy Phương bi kí; Phúc Lâm bi kí(2) v.v… và thường được dựng ở trước sân của di tích. Loại bia này thường do những cây bút chắc tay, có khi là cây bút đại gia viết. Nội dung văn bia khá phong phú: khi thì nói về lai lịch việc dựng đình, đền, chùa; khi thì nói về công lao, hành trạng, sự linh ứng của vị thần thờ ở đây; khi thì ca ngợi cảnh đẹp, sự trang nghiêm khi được tu sửa. Nhìn chung, bia trùng tu viết bằng văn chương chữ Hán khá nhuần nhuyễn mang tính bác học. Loại bia hậu thường có đầu đề là Hậu Phật bi kí; Kí kị bi kí và thường dựng ở hai bên tường trong nhà tam bảo. Loại bia phổ biến là do các tác giả bình dân viết như thầy đồ, thầy cúng, hay một số người có hiểu biết nhất định về chữ Hán, chữ Nôm, trong số đó có những bia người soạn tỏ ra có trình độ chữ Hán khá cao, lập luận khúc triết, dùng nhiều điển cố Kinh Thi, Kinh Thư v.v… Loại bia này thường nói về lý do đóng góp tiền của và công sức của những người có hằng sản, hằng tâm vào việc công đức và ghi lại tên tuổi, ngày giỗ của họ. Ở loại bia này thường xuất hiện những chữ Nôm ghi tên người, tên địa phương, tên đơn vị đo lường… Đây là nguồn tư liệu quý giúp cho việc nghiên cứu ở những chuyên ngành khác nhau.

Về Chuông: Cũng có nhiều hình thức thể hiện ở những thời đại khác nhau. Nội dung văn chương khác với văn bia là không ghi lại việc gửi giỗ, chỉ ghi lại tên họ những người có đóng góp vào việc tạo đúc chuông, ca ngợi cái hay và tác dụng của tiếng chuông, qua đó nhằm nói lên sự linh ứng của vị thần ở đình, hay đức từ bi quảng đại của nhà chùa. Trên văn chuông cũng thường xuất hiện những chữ Nôm ghi tên riêng và có một đặc điểm nổi bật là chữ ở trên chuông thường khá nhỏ hơn chữ ở bia.

Về Khánh: Cũng có nhiều khuôn khổ và nội dung khác nhau. Có loại khánh chỉ ghi lại tên tuổi của những người có công đức trong việc tạo đúc khánh; có khánh giải thích quá trình ra đời và những cái hay, cái đẹp của khánh.

Số lượng khánh không nhiều, những trong số đó có nhiều khánh thời Lê tạo đúc cầu kỳ, văn chương trau chuốt, như khánh ở chùa Thiên Chúc xã Mễ Trĩ, khánh chũ Hưng Khánh ở xã Tây Tựu v.v. Sưu tập được tất cả số khánh trong huyện cũng là nguồn tư liệu có giá trị giúp cho việc đánh giá, phân loại và nghiên cứu một loại hình văn hóa của địa phương, của dân tộc.

Về hai loại hoành phi, và câu đối: thường được trình bày theo một kết cấu liên đới từ cổng vào đến bên trong hậu cung của di tích. Hoành phi nào câu đối ấy. Hoành phi trình bày ở trên, theo chiều ngang mỗi hoành phi thường có từ 3, 4 đến 5 chữ. Hai về câu đối trình bày dọc hai bên của hoành phi, mỗi vế có từ 7, 8 đến 16 chữ theo những luật đối nhất định. Hoành phi câu đối cũng do nhiều tác giả sáng tác, có cả các văn nhân nổi tiếng. Chẳng hạn, như cặp hoành phi câu đối ở hàng cột trước tam bảo đình Chèm xã Thụy Phương thờ Lý Ông Trọng do Nguyễn Quý Thích sáng tác như sau:

- Hoành phi: Càn khôn chung tú(3)

Nghĩa là: Trời đất đúc tinh anh.

- Câu đối:

- Hà nhạc dục tinh anh, khoáng thế tuyệt luân thần di uyển từ Âu Việt sử;

- Quốc gia long hưởng tự, đồng tôn hợp kính linh thanh hiển hách Thụy Hương từ.

Tạm dịch:

- Sông núi đúc tinh anh, đời rộng tuyệt vời, thần lạ vững bền Âu Việt sử.

- Nước nhà hằng tế lễ, cùng tôn hiệp kính, tiếng thiêng lững lẫy Thụy Hương từ.

Hay đôi câu đối của Nguyễn Hợp Cảnh khoa Đồng Tiến sĩ, cáo thọ gia nghi đại phu, Bố chánh sử lĩnh Hà Nội Tuần phủ Thanh Trì bái tên như sau:

- Lục hợp tiêu binh, tưởng kiên hùng uy kinh tuyệt vực;

- Thêm thu di miếu, ngực nhiên chính khí trướng cuồng lan.

Tạm dịch:

- Sáu cõi tan quân, tưởng thấy hùng oai kinh hết chốn;

- Nghìn thu để miếu, ngát thay chính khí chấn công cuồng.

Nội dung hoành phi câu đối thường về vịnh cảnh đẹp của di tích, ca ngợi công trạng, sự linh thiêng của vị thần. Số chữ trong câu đối không nhiều, nhưng chở một lượng thông tin lớn, nên được gọt dũa kỹ càng và đảm bảo việc đối xứng về chữ, về nghĩa, về thanh. Bởi vậy, sưu tập được những hoành phi câu đối không chỉ giúp cho việc nghiên cứu về văn hóa, văn minh nói chung, mà con trực tiếp giúp cho việc nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học.

Về Sắc phong: Cũng bao gồm nhiều loại do nhiều đời vua ban phong Văn phong, kết cấu và cách trình bày của sắc phong đời Lê khác sắc phong đời Nguyễn. Qua sắc phong, ta không chỉ biết được sự đánh giá của các vị vua ở các thời đối với một danh nhân, mà có khi còn hiểu rõ thêm về lai lịch của danh nhân đó. Chẳng hạn như sắc phong ở nhà thờ Đỗ Thế Giai xã Đông Ngạc như sau:

“Sắc cho Đỗ Hữu Vị trung thư gián hoa văn học sinh, người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, vì là ông nội của Đỗ Thế Giai là Thi Hậu, Nghiêm Hậu đội hành binh nghiêm tham dự quân vụ cơ mật, thập thị thiêm sai kiêm hửu tạp ngôn đồng tri huyện trung hầu, nên được dự phong tặng. Đã có chỉ cho chức Tham chính, tước Bá lại tặng phong Đặc tiên kim tứ Vinh lộc đại phu Tán thị thừa chính sứ cá sứ Lạng Sơn, Hoành bá Khuông mỹ thiếu doãn, Nay ban!

Ngày 26 tháng 11 năm Cảnh Hưng thứ mười (1749)”.

Do vậy, sắc phong là nguồn tư liệu khá tin cậy trong việc nghiên cứu, đánh giá một danh nhân trong lịch sử.

Về thần phả ngọc phả: Có khá nhiều cuốn có giá trị. Trong số 68 cuốn, có 1 cuốn viết bằng chữ Nôm ở đình Phú Mỹ, xã Mỹ Đình. Cuốn sách này nói về sự tích việc dựng đình. Văn chương chữ Nôm mang tính bình dân mộc mạc, nhưng lại có khá nhiều chữ Nôm bình dân, cần được thu thập nghiên cứu Tại nhà cụ Phách, xóm 17, xã Cổ Nhuế, còn giữ được một thần phả làng khá hay. Nội dung cuốn sách này nói về người con thứ tư của vua Lý đem quân đi đánh giặc Tống ở Lạng Sơn. Khi qua đất Cổ Nhuế, dân làng mang thức ăn ra nghênh đón và xin đầu quân. Khi thắng lợi trở về, dân làng lại kéo ra đón tiếp. Vị tướng này về tâu xin vua và vua đã cho ông lấy nơi này làm thực ấp, nên đã trở thành vị thành hoàng của làng này. Đền họ Nguyễn cũng ở xã Cổ Nhuế, thờ một ông thầy lang chữa khỏi bệnh cho vợ vua, được phong là Ngự y triều, và vua đã ban tiền cho dựng đền ông, điều này cũng được nói rõ trong thần phả. Đình Chèm xã Thụy Phương thờ Lý Ông Trọng, còn giữ được 4 cuốn thần phả nói khá chi tiết về vị thần này. Trong số đó có cuốn Sự tích Lý Ông Trọng viết theo Việt điện U linh nhưng có khá nhiều chi tiết mà Việt điện U linh không có. Nhìn chung, số thần phả hiện còn ở các di tích không nhiều lắm, vì đã có một đợt thu thập trước đây của Viện Viễn đông bác cổ mà hiện nay số tài liệu sưu tầm này Viện Hán Nôm vẫn còn lưu trữ. Thần phả, ngọc phả là những tư liệu có giá trị trong việc nghiên cứu danh nhân và giá trị di tích.

Về thơ: Thường lbà các bài thơ Đường luật khắc trên các biển gỗ treo ở khu tam bảo. Những bài thơ này đều vịnh về công lao, sự nghiệp của vị thần. Ví dụ như hai bài thơ ở hai biển gỗ trong đình Chèm như sau:

Biển gỗ bên trái:

Tướng mạo đường đường cổ nhất nhân
Bắc Nam vô địa bất danh văn
Qua dương viễn kinh thanh triên xuệ,
Vòng táp Hàn Giangtiết giới tân.
Uy trấn Hàm cung tân nhĩ mục,
Mộng kinh Đường diện gác tinh thần.
Niên niên thắng hội dư linh tạt,
Thụy Khánh hưởng phong ủng pháp luân.

Tạm dịch:

Tướng mạo đường đường người thủa xưa,
Bắc Nam nổi tiếng khắp bên bờ.
Gươm khua quân giặc tan tành hết,
Lướt thả sông Hàn sạch tàn nhơ.
Oai trấn Nam cung tươi vẻ mới,
Mộng tan Đường diện tỉnh hồn mơ.
Năm năm hội lớn thiêng còn mãi,
Gió Thụy thơm hương xe pháp đưa.
(Lê Triều Thiệu Thiên, quan thú Đông Ngạc Phạm Khắc Gia bái đề).

Biển gỗ bên phải:

Viễn ủng viên phong khống Nhị hà,
Tư Liêm cố quận huyện duyệt sương hoa.
Lạc đô Vĩnh diện sơn hà tráng,
Mã sử trường lưu tự tính hoa.
Vạn lý ngọa quan đồng hữu ảnh,
Thiên tầm thiết võng thủy vô ba.
Dư linh bàng bạc di Nam Bắc,
Xuất thổ thời triêm vũ lộ ba.

Tạm dịch:

Xa núi Tản Viên gần Nhị Hà,
Từ Liêm quận cũ trải sương hoa.
Lạc đô bền vững non sông mạnh,
Mã sử đài ghi tên tuổi hoa.
Muôn dặm ải vàng đồng có tượng,
Nghìn năm lưới sắt nước không pha.
Oai thừa man mát, người Nam Bắc,
Khắp chốn dài ơn mưa móc sa.
(Hà Thành Y lân đường Trát Như Phủ bát đề, Lê triều khoa Quý Mão, hương cống xã Vân Canh Trần Mại soạn).

Còn khá nhiều bài thơ hay: đình Phú Mỹ, xã Mỹ Đình có 2 bài thơ; chùa Đa Phú xã Dịch Vọng có 4 bài; đền Sóc xã Xuân Đình có 1 bài v.v… Những bài thơ ở các di tích này cũgn là những tư liệu văn học có giá trị.

Tóm lại, ở các di tích văn hóa huyện Từ Liêm còn lưu giữ được những tài liệu Hán Nôm đáng kể. Đợt tổng kiểm kê sưu tầm vưa qua giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Phòng Bảo tồn Bảo tàng Sở Văn hóa thông tin Hà Nội đã thu nhặt được những gương mặt mới với nhiều sắc vẻ, làm phong phú thêm kho di sản văn hóa của cha ông.

Có được kết quả thực tế nêu trên, phải chăng là do một chủ trương đúng, một sự hợp tác cần thiết, và sự hợp tác ấy cần được tiếp tục để sớm hoàn thành việc sưu tầm, thu thập nguồn tư liệu Hán Nôm hiện có ở các di tích văn hóa trên địa bàn thủ đô nghìn năm văn hiến, cũng như trong phạm vi cả nước.

CHÚ THÍCH

(1) Từ Liêm đăng khoa chí do Bùi Xuân Nghi, Á Nguyên, Đốc học, Hàn lâm thị giảng, người xã Văn Canh, huyện Hoài Đức, nay là xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, biên tập. Mã Đảm Khanh chép. So với cuốn Từ Liêm huyện đăng khoa chí, ký hiệu A. 507, kho sách Hán Nôm, có một số chi tiết khác nhau. Cuốn sách này kê cứu khá chi tiết tên tuổi, hình trạng của các vị đăng khoa ở từng xã trong huyện.

(2) Thụy Phương: Tên chùa Thụy Phương ở xã Thụy Phương. Phúc Lâm: tên chùa Phúc Lâm xã Đại Mỗ.

(3) Do điều kiện ấn loát khó khăn, chúng tôi không đưa chữ Hán vào bài viết.

TB

KHỞI CÔNG XÂY DỰNG KHO SÁCH
HÁN NÔM

Sách và các tài liệu bằng Hán, chữ Nôm do nhiều thế hệ ông cha ta kế tiếp nhau soạn thảo và truyền lại đến ngày nay là di sản văn hóa vô giá của dân tộc. Do đã tồn tại hàng trăm, hàng nghìn năm nay, lại không có điều kiện bảo quản tốt, sổ sách và tài liệu đã thu thập về Viện Nghiên cứu Hán Nôm nếu không được bảo quản tốt, sẽ bị mục nát nhanh; số còn nằm trong dân gian nếu không được đưa về kho Nhà nước kịp thời, sẽ bị thất tán ngày càng nhiều.

Trước tình hình đó, Nghị quyết số 51/HĐBT ngày 17-5-1983 của Hội đồng Bộ trưởng đã chỉ thị phải khẩn trương xây dựng kho sách Hán Nôm để có điều kiện nhanh chóng thu thập sổ sách còn nằm rải rác trong nhân dân, bảo quản lâu dài sổ sách đã thu thập về được.

Thi hành Nghị quyết trên, sau một thời gian lựa chọn địa điểm, sau lấp nền và giải quyết các thủ tục có liên quan, công trình xây dựng kho sách Hán Nôm do Nhà nước đài thọ vốn, Viện Thiết kế nhà ở và công trình công cộng, Viện Khoa học kỹ thuật xây dựng thuộc Bộ Xây dựng thiết kế Đoàn 69, H. 16 thuộc Bộ Nội vụ nhận thầu xây lắp, đã được chính thức khởi công xây dựng ngày 27/8/1986 tại thành phố Hà Nội (dự kiến đến tháng 6/1988 sẽ khánh thành và bàn giao), với tổng số vốn đầu tư dự toán ban đầu là 15,5 triệu đồng.

Công trình được thiết kế liền khối, có tổng diện tích sử dụng là 1370m2, chia làm 2 bộ phận chính: nhà kho 3 tầng, nhà làm việc 2 tầng.

Bộ phận nhà kho có diện tích sử dụng là 825m2, có thể xếp 120.000 tập sách trên giá sách thư viện, chia làm nhiều phân kho để có thể bảo quản các loại sách, tài liệu khác nhau, với nhiệt độ, độ ấm khác nhau. Trong diện tích nhà kho, còn có phòng lắp đặt máy điều hòa không khí và các thiết bị kỹ thuật bảo quản khác, phòng sao chụp, nhân bản, phòng tu bổ, phục chế, phòng vệ sinh khác…

Bộ phận nhà làm việc có diện tích sử dụng là 518m2, trong đó có các phòng làm việc cho khoảng 70, 80 cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, phòng đọc tổng hợp, phòng đọc hạn chế, phòng trưng bày sách… được bố trí theo yêu cầu dây truyền phục vụ 30 cán bộ khoa học ngoài Viện đến nghiên cứu, khai thác các tài liệu Hán Nôm.

Toàn bộ công trình có cốt nền cao 0,50m so với mức ngập nước cao nhất tại địa phương trong nạn lụt năm 1984.

Về mặt kiến trúc, công trình kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc và tính hiện đại, có dáng một nhà bảo tàng. Bố trí nội thất công trình có tính tới yêu cầu khi cần thì chỉ cải tạo nhỏ, có thể chuyển thành nhà bảo tàng sách Hán Nôm, không phải xây dựng nhà bảo tàng mới.

Trong điều kiện kinh tế, đời sống còn nhiều khó khăn, nhiều công trình xây dựng phải tạm đình hoãn, mà công trình xây dựng kho sách Hán Nôm vẫn được phép thi công xây dựng, điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với di sản văn hóa này của dân tộc.

Đoàn 69, H.16 Bộ Nội vụ đã khắc phục nhiều khó khăn về vốn, vật tư, khởi công xây dựng công trình sau ngày ký hợp đồng xây lắp chưa đầy 3 tháng. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn.

Mong rằng, các ngành có liên quan, nhất là ngân hàng và cơ quan cấp phát vật tư tiếp tục có sự quan tâm, giúp đỡ thích đáng, để công trình kho sách Hán Nôm được thi công theo đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng của nó.

Riêng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đồng thời với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chủ đầu tư công trình, đã triển khai một số công tác liên quan, trong đó có việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật bảo quản, phục chế tài liệu, để sau khi nhận bàn giao, có thể thực hiện tốt, tức thời, các nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu và khai thác các tài liệu Hán Nôm đã đặt ra trong mục đích xây dựng công trình này.

TB

HỘI NGHỊ CỘNG TÁC VIÊN
TẠP CHÍ HÁN NÔM

Vừa qua, tại Hà Nội, Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức hội nghị cộng tác viên lần thứ nhất. Đông đảo chuyên gia, cán bộ nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm cùng các vị quan tâm đã tham dự hội nghị.

Giáo sư Trần Nghĩa, Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tổng biên tập Tạp chí Hán Nôm đã trình bày tổn chỉ, mục đích và nội dung của tạp chí, cùng hướng cố gắng nhằm quán triệt những tôn chỉ, mục đích và nội dung đó. Đồng chí Tổng biên tập cũng nêu rõ những yêu cầu và nội dung cụ thể của số Tạp chí Hán Nôm đầu tiên ra đúng dịp Đại hội lần thứ VI của Đảng quang vinh và các số của năm 1987.

Giáo sư Vũ Khiêu, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, nhiệt liệt hoan nghênh các vị đại biểu tham dự hội nghị, tỏ lòng hy vọng vào sự hợp tác bền chặt và lâu dài của đông đảo cộng tác viên trong và ngoài Ủy ban Khoa học xã hội đối với Tạp chí Hán Nôm, giáo sư nhắc nhở phải chú ý cả sưu tầm và khai thác. Trong khai thác phải coi trọng việc đề xuất những lý giải mới trên cơ sở các văn bản được sưu tầm và cả việc phát hiện những cái mới trong các văn bản cũ.

Các tham luận trong hội nghị đều bày tỏ niềm vui mừng trước sự ra đời của Tạp chí Hán Nôm, coi đó là sự thể hiện thái độ trân trọng đối với di sản Hán Nôm và chính sách kế thừa văn hóa truyền thống đúng đắn của Đảng ta. Hội nghị coi Tạp chí Hán Nôm là cơ quan ngôn luận, là diễn đàn chung của cả ngành Hán Nôm.

Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn lưu ý tới vấn đề chiến lược khoa học của Ngành Hán Nôm và Tạp chí Hán Nôm, nêu các mối quan hệ giữa tư liệu và lý luận, giữa trung ương và địa phương, giữa trong nước và quốc tế thể hiện trên Tạp chí. Giáo sư đề nghị Tạp chí Hán Nôm chú ý hướng dẫn cán bộ trẻ, giúp họ nâng cao dần trình độ Hán Nôm và viết tốt các bài nghiên cứu khoa học.

Giáo sư Đặng Đức Siêu cho rằng một hướng của ngành khoa học Hán Nôm là ngữ văn học lịch sử. Tạp chí Hán Nôm nên chăng nhận lấy trách nhiệm phổ biến tri thức Hán Nôm cho một đối tượng rộng lớn gồm 14 triệu học sinh, chuẩn bị cho họ tiếp cận với di sản văn hóa truyền thống.

Cụ Ngô Linh Ngọc cảm thấy khi tiếp xúc với văn bản Hán Nôm là tìm lại tư duy của tổ tiên. Theo cụ Tạp chí Hán Nôm có thể định tỷ lệ thích đáng giữa các vấn đề về Hán và Nôm, chú ý khai thác lớp chuyên gia đã có tuổi. Tạp chí Hán Nôm nên có mục giới thiệu các danh nhân Hán Nôm như Cao Xuân Huy, Phạm Phú Tiết… để khích lệ lớp cán bộ trẻ ngày đêm miệt mài làm việc với kho tàng di sản Hán Nôm.

Giáo sư Phan Huy Lê nêu mối quan hệ giữa Tạp chí Hán Nôm với các tạp chí khác, nhất là các tạp chí khoa học xã hội. Theo giáo sư, sách vở và tư liệu Hán Nôm là di sản văn hóa vô giá, có liên quan đến tất cả các ngành văn hóa. Tạp chí Hán Nôm do đó là Tạp chí của tất cả ngành khoa học xã hội và một số ngaàn khoa học tự nhiên. Giáo sư cho rằng đối với các chuyên mục của Tạp chí Hán Nôm nên có sự linh hoạt, không nên vạch một ranh giới tuyệt đối giữa các khung bài. Giáo sư đề nghị Tạp chí Hán Nôm nên tổ chức thảo luận khoa học một cách bình đẳng, trên cơ sở khoa học, có động cơ vì khoa học, lấy chân lý làm mục tiêu cao nhất.

Đồng chí Thái Thị Mai, chuyên viên Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương, bày tỏ niềm vui trước sự ra đời của Tạp chí Hán Nôm. Tạp chí Hán Nôm ra đời phù hợp với nguyện vọng chung của các giới khoa học, do Ủy ban khoa học xã hội rất quyết tâm, do sự ủng hộ nhiệt tình của các giới khoa học, cũng do các giới, các ngành khoa học và văn hóa có yêu cầu. từ nay, giới Hán Nôm có diễn đàn chung. Muốn trở thành tiếng nói chung, Tạp chí Hán Nôm phải đại diện được và tập hợp được trí tuệ của cả giới Hán Nôm. Đồng chí lưu ý Tạp chí Hán Nôm phải nuôi dưỡng thật bền bỉ sự ủng hộ của giới khoa học. Tạp chí nên quan tâm đến đối tượng toàn quốc, tạo nên sự thống nhất trong khoa học. Cán bộ tạp chí cần nhậy cảm chính trị. Trong tình hình hiện nay, ngoài chuyên môn, tạp chí cũng phải quan tâm tới bối cảnh chung trong nước và quốc tế.

Trong lời tổng kết hội nghị, đồng chí Tổng biên tập chân thành cảm ơn sự có mặt và sự đóng góp của các đại biểu cho Tạp chí Hán Nôm. Đồng chí tỏ ý tin rằng, Tạp chí Hán Nôm được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Tuyên huấn, Ban Khoa giáo Trung ương và của cấp lãnh đạo của Ủy ban Khoa học xã hội, được sự hợp tác rộng rãi, bền chặt, của đông đảo cộng tác viện trong và ngoài ngành Hán Nôm, nhất định hoàn thành nhiệm vụ chính trị và khoa học của mình, ngày càng xứng đáng với sự tin yêu của đông đảo bạn đọc.

TB

THỂ LỆ VIẾT BÀI CHO
TẠP CHÍ HÁN NÔM

1. Bản thảo viết hoặc đánh máy trên khổ giấy thông thường, viết một mặt, rõ ràng, không viết tháu, không viết tắt, không viết ra ngoài lề, chữ sạch sẽ.

2. Chính tả: Theo Từ điển chính tả Từ điển tiếng Việt. Các trường hợp viết hoa cả: - Tên người (viết hoa cả tên tự, tên hiệu): Ức Trai Nguyễn Trãi - Tên đất: Trấn Kính Bắc - Tên niên hiệu: Năm Thuận Thiên thứ 1 - Tên năm can chi: Năm Giáp Tý.

Tên tác phẩm, hoặc câu chữ cần nhấn mạnh thì gạch dưới để in nghiêng.

3. Chú thích xuất xứ:

Thứ tự chú thích ghi liên tục từ 1 đến hết. Số thứ tự đặt trong ngoặc đơn ( ), ở cuối bài viết

Xuất xứ ghi theo thứ tự như sau: Tên tác giả (nguyên ngữ) hai chấm: Tên tác phẩm (nguyên ngữ, in nghiêng) phẩy, Nhà xuất bản, Nơi xuất bản, Năm xuất bản, Tập, Quyển, trang.

4. Bài giới thiệu hoặc công bố tác phẩm và tư liệu mới cần nói rõ:

- Chủ nhân của văn bản, nơi lưu giữ văn bản hiện nay, đặc điểm chữ, những ghi chép về tác giả và năm soạn, năm sao chép văn bản, hoặc những cứ liệu để đoán dịch tác giả và niên đại của tác phẩm. Nếu là sách in, nói rõ năm in, nơi in.

- Nếu có bản chụp xin gửi kèm theo một, hai tờ tiêu biểu nhất làm minh họa.

5. Bài nghiên cứu, bài giới thiệu và công bố văn bản đều viết thêm từ 5 đến 10 dòng tóm lược về nội dung. Nếu có thể, xin dịch phần tóm lược ra tiếng Anh.

6. Bài đồng thời gửi cho Tạp chí khác, xin cho biết.

7. Bài đề nghị không sửa chữa, xin cho biết.

8. Bài viết ghi rõ họ tên và địa chỉ để tiện liên lạc.

9. Bài không đăng, không trả lại bản thảo.

10. Thư từ và bài viết xin gửi về:

TẠP CHÍ HÁN NÔM
183 Đặng Tiến Đông, quận Đống Đa, Hà Nội