|
VĂN BẢN VÀ GIÁ TRỊ HỌC THUẬT CỦA HOAN CHÂU KÝ
TRẦN NGHĨA
HOAN CHÂU KÝ (viết tắt HCK) từ vòng tay nâng niu gìn giữ của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh suốt mấy trăm năm giờ đây lần đầu tiên đến cùng chúng ta với những đặc điểm nổi bật làm nên giá trị lâu bền của nó: một bộ tiểu thuyết chương hồi thuộc loại cổ nhất, một tập sử tư nhân viết về chặng Lê Trung hưng, một cuốn phổ ký mang nhiều nét khác lạ... Nhưng HCK đồng thời cũng chứa đựng những phức tạp về mặt văn bản mà nếu không giải quyết tốt, việc đánh giá tác phẩm chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Vậy thì để mở đường cho việc đi sâu tìm hiểu giá trị HCK, trước hết hãy làm rõ một số vấn đề có tính chất văn bản học.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC HOAN CHÂU KÝ
1. Soạn niên:
HCK không ghi rõ năm thành sách. Nhưng dựa vào các cứ liệu do chính ngay văn bản cung cấp, vẫn có thể xác định được trước hết một cái khung thời gian trong đó HCK được soạn thảo. Lời bạt sách có đoạn viết “Truyện kể ra đây khởi đầu từ năm Bính Tuất triều Nhuận Hồ, đến năm Bính Ngọ thuộc niên hiệu Vĩnh Trị của bản triều cộng cả thảy 273 năm sự tích”. “Vĩnh Trị” như ta biết là niên hiệu của Lê Hy Tông (1676 - 1705). Năm “Bính Ngọ” thuộc niên hiệu Vĩnh Trị tương đương với năm 1678 công lịch. Đây là thời điểm câu chuyện trong tác phẩm kết thúc, cũng có nghĩa là HCK không thể thành sách trước cái mốc thời gian này. Một chi tiết nữa cũng khá quan trọng trong đoạn văn vừa trích, đó là hai chữ “bản triều” tức triều Lê chấm dứt vào năm 1788. HCK cũng không thể thành sách sau cái mốc thời gian này, vì từ sau đó, đất nước đã chuyển sang một triều đại khác, triều Tây Sơn. Tóm lại, tác phẩm mà ta đang nói chỉ có thể được thực hiện trong khoảng thời gian từ 1678 đến 1788 thuộc giai đoạn cuối Lê. Các ghi chép liên quan khác trong HCK đều trùng hợp với điều vừa nhận định và không có bất cứ một trường hợp nào ngoại lệ.
Tiến thêm bước nữa, có thể vạch chỉ một soạn niên cụ thể hơn không cho HCK trong khoảng thời gian từ 1689 đến 1788? Người viết lời bạt cũng chính là tác giả HCK kể lại với chúng ta rằng: “Ngu tôi hồi còn bé từng lùng sục nơi bạn hữu được cuốn Thường quốc nam chinh ký và cuốn Phan thị trường biên, mỗi cuốn chỉ còn vài mươi tờ, độ một phần ba tác phẩm. Giấy thì mọt ăn, chữ thì rơi rụng. Đến mùa đông năm Bính Tý sưu tầm thêm được cuốn Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký còn lưu giữ tại Đông Lương thì lời văn vụng về, chữ nghĩa sai lạc, tam sao thất bản, không thể nói là không đáng tiếc. Vậy là nhân lúc rỗi rãi, tôi đem ba tập trên đúc lại thành một tập”. Cái dịp mà tác giả HCK đem ba tập sách sưu tầm được đúc lại thành một tập hẳn không xa mấy với năm Bính tý là thời điểm tìm thấy tập tư liệu cuối cùng. Năm “Bính Tý” lời bạt nhắc tới ở đây có thể là năm 1696, mười tám năm sau khi câu chuyện chép trong HCK kết thúc. Mà cũng có thể là năm 1756, muộn hơn năm Bính Tý 1696 một hoa giáp nữa. Cả hai năm Bính Tý này, cộng với một độ xê dịch vừa phải ước lượng cho thời điểm sáng tác, đều nằm gọn trong cái khung thời gian 1678 - 1788 đã xác định trên kia.
Vấn đề còn lại bây giờ là thử xét xem năm nào trong số những năm Bính Tý được liệt kê có khả năng giúp vào việc đoán định soạn niên cụ thể của HCK. Lời bạt cho biết lý do ra đời của tác phẩm một là nhằm bổ sung sự tích các công thần thời Lê Trung hưng mà “quốc sử” hoặc bỏ sót hoặc ghi chép còn sơ lược; hai là nhằm đính chính lại một số sự kiện “quốc sử” ghi chưa thật chính xác. “Quốc sử” mà lời bạt nói ở đây và trong chính văn HCK thỉnh thoảng cũng có nhắc tới trước hết là Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt ĐVSKTT, phần Bản kỷ tục biên BKTB) được thực hiện dưới các triều Lê Huyền Tông (1663 - 1671; viết từ Trang Tông Dụ hoàng đế đến Thần Tông Uyên hoàng đế) và Lê Hy Tông (1676 - 1705, viết từ Huyền Tông Mục hoàng đế đến Gia Tông Mỹ hoàng đế). Thứ đến là Trung hưng thực lục còn có tên là Trung hưng lục, hoặc Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục (viết tắt THTL), do Hồ Sĩ Dương cùng một số người khác biên soạn theo sắc lệnh Nhà nước. Trong cả hai bộ sử, hình ảnh các công thần thuộc dòng họ Nguyễn Cảnh hoặc chỉ được ghi chép một cách hết sức mờ nhạt như ở BKTB, hoặc thậm chí không được đả động gì tới như ở THTL. Nếu quả thật đây là lý do đã khiến người trong dòng họ Nguyễn Cảnh viết HCK, thì soạn niên cụ thể của tác phẩm phải tiếp cận với soạn niên hai bộ sử nói trên THTL ấn hành năm 1676. BKTB cùng các phần khác trong ĐVSKTT ấn hành năm 1697. Vậy HCK rất có thể đã được viết ít lâu sau cái năm Bính Tý thứ nhất 1696, sát cận với năm công bố THTL và ĐVSKTT mà chẳng phải chờ đến năm Bính Tý thứ hai 1756, khi nỗi “bất bình” của dòng họ Nguyễn Cảnh đối với “quốc sử” đã lùi sâu vào dĩ vãng.
2. Tác giả:
HCK không ghi rõ tên tác giả, mặc dù trong lời bạt cũng như trong chính văn, người viết truyện luôn luôn có mặt để đàm đạo cùng chúng ta.
Trong lời bạt, tác giả HCK tự xưng là “ngu tôi”, là “chức quan mọn này”. Trong chính văn, lúc thì xuất hiện dưới cái tên “ký giả”, như “Tấn quận công thân đốc các thuộc tưởng gồm (...) Trịnh quận công, Bảng quận công, Thắng quận công (ký giả không biết họ tên ba người vừa nêu)...” (Hồi hai, Tiết thứ nhất); “Quan quân chấn chỉnh đội ngũ trở về Kinh, triều đình bàn việc khen thưởng, ở đây ký giả xin khỏi nhắc tới” (Hồi bốn, tiết thứ hai); “còn như việc Nhạc quận công sau khi vào chầu mệnh hệ như thế nào, ký giả không được rõ, không dám ghi chép tùy tiện” (Hồi bốn, tiết thứ ba) ... Lúc thì dấu mình đấy, nhưng người đọc vẫn chứng kiến có một tác giả cụ thể, chỉ thiếu mỗi một cái tên gọi: “Dựa vào các bản cựu ký soạn nên thiên truyện này. Mong người xem đính chính cho, may ra khỏi bị cười chê” (Hồi bốn, tiết thứ tư).
Rốt cục người viết HCK là ai? Có thể hé thấy một phần câu giải đáp qua việc so sánh cách ghi thế thứ trong HCK mà ta tạm gọi là bản B (ứng với mọi gia phổ của dòng họ Nguyễn Cảnh viết theo dạng tiểu thuyết chương hồi), với cách ghi thế thứ trong một vài cuốn gia phổ khác cũng của dòng họ Nguyễn Cảnh mà ta tạm gọi là Bản A2 và Bản A3 (A ứng với loại gia phổ của dòng họ Nguyễn Cảnh không viết theo dạng tiểu thuyết chương hồi)(1) sau đây:
Chỗ giống nhau giữa ba bản phổ ký là đều ghi chép đầy đủ 6 thế hệ đầu của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh, từ Nguyễn Cảnh Lữ đến Nguyễn Cảnh Tiên. Riêng bản A3 và bản B còn ghi chép giống nhau đến Nguyễn Cảnh Hà. Phần khác nhau trong từng cuốn gia phổ do vậy sẽ trở thành tiêu chí tự nhiên để phân biệt gia phổ của chi họ này với gia phổ của chi họ khác trong dòng họ Nguyễn Cảnh Nghệ Tĩnh nói chung, Bản A2 bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh ất, ta có thể gọi đây là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh ất. Bản A3 bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh Cái, ta có thể gọi đây là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Cái. Cũng vậy, Bản B tức loại gia phổ tiếp theo dạng tiểu thuyết chương hồi như HCK bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh Quế, ta có thể gọi đây là loại gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Quế.
HCK là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Quế, điều đó có nghĩa tác giả HCK là người trực tiếp liên quan đến chi họ này. Khi HCK hoàn thành vào khoảng ít lâu sau 1697, Liêu quận công Nguyễn Cảnh Quế đã mất trên dưới 30 năm. Có thể nghĩ người soạn HCK nếu không phải anh em, thì cũng là thế hệ tiếp ngay sau Nguyễn Cảnh Quế.
Có điều, hình như tác giả HCK không thích xuất đầu lộ diện. Người soạn sách chỉ muốn xem tác phẩm của mình như là món quà chung của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiến dâng cho cả nước. Nói cách khác, tác giả HCK là “Nguyễn Cảnh Thị” (ở Hoan Châu).
3. Tên sách:
Dễ dàng phát hiện trong HCK một số tên gọi khác nhau về sách. Đầu Hồi ba, có ghi: “Thiên Nam liệt truyện quyển đệ lục, Nam Đường phiếm thoại tứ hồi tam, Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” (Nam liệt Thiên truyện, quyển thứ VI; Nam Đường phiếm thoại, hồi thứ III trên tổng số 4 hồi; Hoan Châu ký của họ Nguyễn Cảnh). Đầu Hồi bốn, cũng có ghi: “Thiên Nam liệt truyện quyển đệ thất, Nam Đường phiếm thoại tứ hồi tứ, Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” (Thiên Nam liệt truyện, quyển thứ VII; Nam Đường phiếm thoại, hồi thứ IV trên tổng số 4 hồi; Hoan Châu ký của họ Nguyễn Cảnh). Có thể nghĩ đây là cách ghi nhất quán trước mỗi hồi sách lúc ban đầu, nhưng về sau, trong quá trình sao đi chép lại, người nhân bản đã tự ý tước bỏ hoặc đánh mất các tiêu đề này ở các hồi, trừ Hồi ba và Hồi bốn.
Vấn đề đặt ra là trong số các tên gọi trên - Hoan Châu ký, Nam Đường phiếm thoại, Thiên Nam liệt truyện - đâu là tên gọi hợp lý của bộ sách ?
Trước hết, hãy nói về “Thiên Nam liệt truyện”. Sách hiểu khái niệm “Thiên Nam” theo hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Rộng, chỉ nước Việt Nam, như trong câu nói sau của Phan Ngạn, một nhân vật trong HCK: “Vậy mà nay khi đất Thiên Nam dần dần ổn định, Chúa thượng lại đem dạ nghi ngờ, trừng trị ráo riết bọn bề tôi” (Hồi ba, tiết thứ ba). Hẹp, chỉ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, như trong bài văn bia do Lưu Đình Chất soạn cho chùa Bụt Đà ở Đô Lương hiện còn giữ lại trong HCK: “Châu Thiên Nam từ xưa có ngôi chùa Phật nổi tiếng ở Bụt Đà” (Hồi bốn, tiết thứ nhất). “Thiên Nam liệt truyện” do vậy có thể hiểu như là tên một tập sách bao gồm sự tích các nhân vật nổi tiếng vung Thanh - Nghệ - Tĩnh, căn cứ địa của nhà Lê Trung hưng, hay nói rộng ra, trên địa bàn Việt Nam nói chung dưới triều Lê. Thiên Nam liệt truyện là một tổng tập gồm nhiều quyển, trong đó các quyển 4, 5, 6 và 7 dành cho HCK.
Tiếp đến là “Nam Đường phiếm thoại”. “Nam Đường”, nơi phát tích của dòng họ Nguyễn Cảnh, là tên một huyện thuộc Nghệ An thời Lê. Tác giả HCK giải thích lý do sử dụng chữ “Nam Đường phiếm thoại” như sau: “Đã nói là sách của dòng họ Nguyễn Cảnh, lẽ ra chỉ chép về một gia tộc thôi. Đằng này lại có nhiều đoạn dính íu tới quốc sự, nhiều chứng cứ viện dẫn từ sách cổ, không thể không cài thêm vào nhan đề mấy chữ “Nam Đường phiếm thoại”. Chữ “thoại” ở đây không đề riêng cho dòng họ Tấn quốc công mà đề chung cho truyện phiếm “Nam Đường” (Lời bạt). Thế có nghĩa là “Nam Đường phiếm thoại” cần được hiểu như một định ngữ nói lên tính chất “vượt khỏi khuôn khổ gia phổ” của HCK.
Cuối cùng là các chữ “Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký”, cái tên soạn giả đã sử dụng để mệnh danh tác phẩm của mình, như Lời bạt HCK cho biết. “Hoan Châu” tức Nghệ An xưa. “Hoan Châu ký” là tập truyện viết về Nghệ An, lấy “dòng họ Tấn quốc công” làm chủ thể. “Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” vì vậy có thể hiểu như là tập truyện ký viết về dòng họ Tấn quốc công ở Nghệ An, do dòng họ Nguyễn Cảnh thực hiện. “Hoan Châu ký” là tên hợp lý của tác phẩm “Nguyễn Cảnh Thị” vừa là trung tâm câu chuyện, vừa là tác giả bộ sách.
4. Nguồn tư liệu để viết sách:
HCK, theo lời bạt, được soạn thảo trên cơ sở các cuốn sách đã có sẵn như Thường quốc nam chinh ký, Phan thị trường biên, Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký.
Hai tác phẩm đầu nay đều chưa tìm thấy, nhưng vẫn có thể phác qua đôi nét về diện mạo và nội dung của chúng, dựa vào các cứ liệu do chính HCK cung cấp.
Thường quốc nam chinh k ý (viết tắt TQNCK) viết về cuộc mang quân đi đánh nhà Lê Trung hưng ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh của danh tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện, tước Thường quốc công, con của Trạng nguyên Nguyễn Thuyến, người làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình. Tác phẩm dày độ vài ba trăm trang, được biên soạn dưới sự chỉ đạo của tư tưởng “phò Mạc diệt Lê”, ngược với quan điểm HCK.
Phan thị trường biên (viết tắt PTTB) viết về cuộc đời và sự nghiệp “phò Lê diệt Mạc” của Phan Công Tích, tước Lai quận công, người Thái Xá Đông Thành, nay thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ Tĩnh. Tuy gọi là “trường biên”, nhưng trên thực tế, sách cũng chỉ dày khoảng vài ba trăm trang, xấp xỉ TQNCK.
Riêng Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký (viết tắt HCNCK) nay còn có thể thấy bóng dáng qua một số tập phổ ký do dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiện lưu giữ, trong đó, đáng chú ý nhất là tập phổ ký của chi họ Nguyễn Cảnh Cái (còn đọc là Hạp, con của Thiếu phó Tả tư mã Phò mã Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà, tức bản A3 mà trên kia đã đề cập. Tập phổ ký này gồm khoảng trên 100 tờ giấy bản gấp lại, khổ 16x14cm. Mỗi tờ được viết lên cả 2 mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 7 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 24 chữ, dòng ngắn 22 chữ, dòng dài 26 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú (lưỡng cước) với loại chữ cỡ nhỏ bằng một nửa chữ bình thường. Sách chép bằng chữ lông mực tàu, nết chữ chân phương. Góc trên và góc dưới của sách đều bị sờn nát, mất chữ. Sách không có bìa. Thiếu một số tờ đầu và tờ cuối. Điều đặc biệt là sách còn giữ được bài tựa nhan đề Hoan Châu Nguyễn Cảnh gia phổ dẫn , soạn vào năm 1672, toàn văn như sau:
“Dòng chảy xuất tự nguồn, giống cây truyền nơi hạt. Huống chi tộc họ này cành lá sum suê, cháu con đông đúc, có thể nào không dõi lại gốc gác của mình chăng?
Tổ tiên ta vốn từ Đông Lĩnh đi ngụ Hoan Châu, lấy từ tâm mở lối, lấy nhân ái khơi dòng. Con cháu kế thừa gia nghiệp cha ông, khiến tộc họ ngày càng khấm khá rồi cầm vũ khí tham gia cần vương, có công với nước. Từ đấy cửa nhà được hiển vinh, con cháu được ưu đãi, miếu đường cúng tế, để phúc đời sau. Đám hậu duệ chúng ta sở dĩ được vẻ vang như ngày nay là nhờ tiên tổ giàu lòng đạo đức, tích góp trung nghĩa, đây không thể là kết quả của một ngày.
Ta tham khảo các cuốn gia ký cũ như...(2) ký Phan Thi trường biên (chép về Lai quận công), lược bớt chỗ văn hoa, giữ lấy phần chắc thực, soạn thành một tập gia ký, lưu lại cho con cháu đời sau, mong qua đây thấy nguồn đạo đức không cạn, hạt giống nghĩa còn truyền, thế cũng là cách khuyên nhau sống trung hiếu vậy. Nay làm bài tựa.
Ngày tốt, thượng tuần tháng hai, năm Nhâm tý, Hoàng triều Dương Đức I (1672)”(3).
Rất có thể bài tựa trên cũng chính là bài tựa HCNCK, tức bản A1. Nếu điều đoán định này là đúng, thì HCNCK, tập gia phổ mà HCK đã nhắc tới như một trong số các nguồn tư liệu, phải ra đời trước 1672, tức 27 năm sau khi Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà mất vào 1645, theo HCK cho biết. Tập gia phổ do vậy có khả năng ghi chép từ Nguyễn Cảnh Lữ đến Nguyễn Cảnh Hà và người soạn HCNCK không ai khác hơn là thế hệ con của Thắng quận công.
Mặc dù HCK gọi TQNCK là sách của kẻ “phản thần nối giáo cho giặc”, gọi PTTB là sách của hạng “bất tài đời sau, chỉ biết bo bo giữ mình”, gọi HCNCK là sách “lời văn vụng về, chữ nghĩa sai lạc, tam sao thất bản”, nhưng chắc chắn không phải vì vậy mà chúng không mang một ý nghĩa nào đó, ít ra là về phương diện tư liệu, giúp tác giả HCK “đúc lại” thành tác phẩm có tính chất tổng kết của mình.
Ngoài các sách lời bạt cho biết trên, HCK trong phần chính văn còn đề cập tới một số nguồn tư liệu khác nữa.
Nói đến nhiều nhất là một cuốn “sử” hoặc “chính sử” nào đó. Ở Hồi một, tiết thứ tư, khi viết về Lương quận công, HCK có chú thích “Sử để khuyết họ tên”. Ở Hồi hai, tiết thứ nhất, sau khi thuật lại cái chết của Phan Công Tích, HCK có dòng cước chú: “Đoạn này ở chính sử nói rằng Nguyễn Quyện ngụy trang, đặt quân mai phục, bắt được Công Tích đem về. Còn ở sách của ta thì chỉ để Nguyễn Quyện lấy một tí ruột thôi”. Ở Hồi hai, tiết thứ ba, khi đề cập đến Trọng Giang hầu, có ghi thêm: “ Sử không rõ họ tên” v.v... Đối chiếu với sách đương thời, ta thấy “sử” hay “chính sử” được nêu lên ở đây, như trên kia có nói, tức ĐVSKTT, phần BKTB. Chính BKTB đã để khuyết họ tên của Lương quận công, Trọng Giang hầu và cũng đã chép: “Tháng ấy, sai bọn Thái phó An quận công Lại Thế Khanh, Tấn quận công Trịnh Mô, Lai quận công Phan Công Tích đem quân đi cứu Nghệ An, cùng với tướng Mạc là Nguyễn Quyện đánh mãi không được. Quyện đem kỳ binh phục sẵn để đợi, đánh thắng luôn, bắt được Công Tích đem về” (ĐVSKTT, BKTB, Q.XVII).
Tiếp theo là cuốn THTL, HCK Hồi ba, tiết thứ hai, khi đề cập tới châu Tinh thần (chữ tinh một bên bộ mễ, một bên chữ thanh), có chú thích “Trung hưng lục chép chữ tinh trên trúc đầu, dưới thanh”.
Một nguồn tư liệu nữa cũng được HCK đề cập và trích dẫn, đó là cuốn Sử ký dã biên (viết tắt SKDB) của Đăng Bính. HCK Hồi ba, tiết thứ hai chép: “Đây là ngày có thể nhìn thấy cõi bờ thống nhất đất nước trùng hưng. Về sau Đăng Bính soạn cuốn SKDB, có bài thơ sau đây để làm chứng:
Lê xã trùng hưng cựu vật hồi,
Lam Sơn phục kiến cựu lâu đài.
Quân thần bạo tận tư vi mỹ,
Chính trị hân quan vạn quốc khôi.
(Xã tắc nhà Lê buổi phục hồi,
Lam Sơn được thấy lại lâu đài.
Quân thần trọn đạo, ngời gương tốt,
Chính trị, bang giao vẹn cả hai).
ĐVSKTT, phần BKTB, Q.XV cũng có chép bài thơ này chỉ khác một vài chữ (câu 1, chữ thứ 2 chép là tộ; câu 3, chữ thứ 4 chép là hợp) và cũng nói là của Đăng Bính, nhưng không ghi cụ thể nơi dẫn trích là SKDB như HCK.
Có thể thấy BKTB, THTL, SKDB đã được sử dụng như là những tài liệu tham chiếu khi viết HCK.
Đến đây, ta có sơ đồ về nguồn gốc HCK như sau:
Tất nhiên để viết được HCK, còn cần nhiều điều kiện khác nữa, trong đó có sự hiểu biết dồi dào của tác giả về dòng họ Nguyễn Cảnh, về đất nước và con người, cùng những tri thức sâu rộng về Hán học mà tác giả đã dày công tích luỹ qua nhiều năm đèn sách.
5. Các thế hệ văn bản
Như trên kia đã nói, HCK có thể được viết ra ít lâu sau năm Bính Tí 1696 thuộc niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Vậy ta gọi đây là bản Chính Hòa.
Bản Chính Hòa nay chưa tìm thấy. Một số sách HCK do dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiện giữ chỉ là những bản chép tay, sao đi chép lại từ bản Chính Hòa. Vậy ta gọi đây là những dị bản của bản gốc Chính Hòa.
Trong số các dị bản của bản gốc Chính Hòa, có 2 bản tiêu biểu hơn cả. Ta gọi bản thứ nhất là B2 và bản thứ hai là B3 (B1 là bản Chính Hòa).
Bản B2 nguyên là sách do ông Nguyễn Cảnh Chỉnh lưu giữ, ông Nguyễn Song Tùng năm 1983 theo nguyện vọng của dòng họ đem tặng lại cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách nay mang ký hiệu VHv. 4. 99 và là bản HCK cổ nhất hiện biết. Bản B2 có các đặc điểm như sau:
Sách gồm 156 tờ giấy bản gấp lại, đã ngả sang màu vàng xỉn, khổ 23x14cm. Mỗi tờ được viết lên cả 2 mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 7 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 20 chữ, dòng ngắn 17 chữ, dòng dài 23 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú với loại chữ cỡ nhỏ, bằng một nửa chữ bình thường của sách.
Tác phẩm viết bằng bút lông mực tàu, nét chữ đẹp, nửa chân nửa thảo. Có nhiều chữ mang lối viết khác lạ. Thường gặp nhất là trường hợp sau đây: (Xem biểu số 1 cuối bài)
Có thể nói đây là lối viết chữ Hán khá độc đáo, ít thấy xuất hiện trong các bảng viết tay về sau. Sách bị mất nhiều chỗ. Cụ thể là:
a. Hồi một Tiết thứ nhất: mất các tờ 1, 2 và 3, tức từ câu mở đầu “Trời chuyển đất rung” (Thiên chi chuyển giã, địa chi chấn giã) đến câu “...đưa gói mộc qua tán bảo hòa với rượu cho bệnh nhân uống. Lại bảo đem đậu đen...” (hứa dĩ mộc qua tán lệnh hòa tửu quân ẩm chi. Hựu lệnh dĩ hắc”.
b. Hồi hai, Tiết thứ ba: mất tờ 69, tức từ câu “Trung nghĩa cương liệt, đời hiếm có, sau đây ắt sẽ là một vị thần lớn” (Trung nghĩa cương liệt, thế sở hãn hữu, hậu tất thành đại thần) đến câu “Nay ủy cho triều đình bàn bạc, gia phong tước trật để nêu cao khí tiết: Thật là ...” (Kim ủy trư triều quan thiêm nghị, bao gia phong tặng tước trật, dĩ chương đại tiết. Chính thị).
c. Hồi bốn, Tiết thứ nhất và tiết thứ hai: mất các tờ từ 121 đến 133, tức từ câu “... về đến Kinh sư, Vương cùng đại thần văn võ trăm quan chuẩn bị đầy đủ xa giá đi rước” (phát hành tri Kinh sư, Vương cập đại thần văn vũ bách quan bị pháp giá phụng nghênh) ở Tiết thứ nhất, đến câu “Lại sai quan quân binh lính thủy bộ cùng 15 chiếc thuyền đưa linh cữu Thư quận công về bản quán, an táng...” (Hựu sai quan quân thủy bộ quân nhân tinh thuyền thập ngũ chích hộ tải Thư quận công linh nhi nghênh hồi bản quán, táng) ở Tiết thứ hai.
d. Hồi bốn, Tiết thứ tư: mất tờ 149, tức từ câu “... triều dự bàn chính sự, cấp cho quân bốn nghìn, dân bốn huyện...” (triều dự nghị chính sự, hứa cấp binh tứ thiên, dân tứ huyện) đến câu “Dương vũ uy dũng dực vận tán trị công thần” (idem).
e. Hồi bốn, Tiết thứ tư, Lời bạt: mất tờ 155b và tờ 156, tức từ câu “ Cho nên mới đặt tên sách là Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký” (Cố nhân kỳ thư viết Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký) đến câu “Sau này có ai muốn biết chuyện cổ xưa hằng theo đây mà đọc, cố nhiên sẽ được điều khuyên giới” (Hậu hữu độc yêu quan trung cổ ký tái phương khả tòng thử phi lãm, tựu hữu khuyến giới tại hổ kỳ trung vân).
Về niên đại bản sao, mặc dù sách không ghi chép, ta cũng có thể đoán định được qua các chữ viết kiêng húy tìm thấy trong văn bản.
Trước hết là chữ “đề” được viết thành trên có ba nét gãy thường gọi là bộ tòng, dưới là chữ “đề” với nghĩa mang xách, được viết đảo bộ, xuất hiện trong các câu “gia thăng Đề đốc” ở tờ 27a dòng 1; "quan chí đề đốc" ở tờ 151b dòng 3. Đây là chữ húy đời Lê. Đến năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) ta thấy chữ “đề” không còn được nêu trong danh mục 34 chữ húy công bố (xem Đoạn từ thể thức, sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1983, tờ 19)
Thứ hai là chữ “chủng” được viết thành “trọng” 重 nép vào phía bên phải của dòng, để khuyết bộ “hòa” là lúa, hay bộ “túc” là chân ở phía bên trái của dòng, xuất hiện trong các câu “lão ông viết thử chủng nhân tâm” ở tờ 4b dòng 1; “canh chủng lập nghiệp” ở tờ 4b dòng 3; “hữu nhất tiểu đồng chủng hậu” ở câu 4b dòng 4; “lão ông thính bãi tâm chủng ưu nghi” ở tờ 5b dòng 4; “chủng kỳ thuận tắc thiên mệnh” ở tờ 9a dòng 2; “canh chủng lập nghiệp” ở tờ 10b dòng 5. Đây là tên húy của Gia Long, được chính thức áp dụng từ năm1807 là năm triều đình nhà Nguyễn bắt đầu quy định cách đọc và viết những chữ kỵ húy (Đại nam hội điển sự lệ Q.261, Cấm điều) trở đi. Đáng chú ý là trong danh mục các chữ húy triều đình nhà Nguyễn về sau, chữ “chủng” thường được thay bằng chữ “loại” hoặc “sự”. Kiểu “chủng” viết thành “trọng” có thể xếp vào loại chữ kiêng húy tảo kỳ của triều Nguyễn và được sử dụng ít lâu nữa sau đó. Lại thấy các chữ “đảm” (tên của Thiệu Trị), “nhậm” (tên của Tự Đức) và một số chữ khác thường được viết kiêng húy từ đời Tự Đức về sau như “tông” (viết thành tôn), “thời” (viết thành thì) v.v... sách đều viết bình thường.
Các hiện tượng trên đây, kết hợp với độ cũ nát, “bờn nục” của văn bản, cho phép ta đoán định bản B2 được sao chép vào thời Gia Long. Chữ “đề” viết húy có ý nghĩa như một biểu hiện trung thành với bản gốc, tức bản Chính Hòa B1 trong quá trình sao chép. Bản B2 do vậy còn có thể gọi là bản Gia Long.
Việc kiêng húy ở bản Gia Long thực ra cũng rất tương đối. Chứng cớ là ở một số nơi khác trong bản B2, chữ “đề” (ở các tờ 29a/1, 30a/4, 34b/1, 39a/5, 50b/5, 71b/4, 83a/7, 135b/4...), chữ “chủng” (ở các tờ 15a/5, 16a/7, 58b/1, 60b/4, 111a/7, 111b/2...) đều được viết bình thường.
Bản B3 nguyên cũng là sách so dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh lưu giữ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có một bản photocopy mang ký hiệu Vv. 400. Nguyên bản có các đặc điểm như:
Sách gồm 194 tờ giấy bản gấp lại, đã ngả sang màu vàng, khổ 25x17cm. Mỗi tờ được viết lên cả hai mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 6 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 17 chữ, dòng ngắn 15 chữ, dòng dài 18 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú với loại chữ cỡ nhỏ, bằng một nửa chữ bình thường của sách.
Tác phẩm chép bằng bút lông mực tàu, nét chữ chân phương, dễ đọc, hoàn toàn khác với chữ viết ở bản B2.
Đầu sách, tờ 1a có dòng chữ “Thành Thái lục niên lục nguyệt sơ cửu nhật Nguyễn Cảnh Thăng phụng sao Gia phổ đại toàn nhất quyển” (Nguyễn Cảnh thăng phụng sao cuốn Gia phổ đại toàn vào ngày mồng 9 tháng 6 năm Thành Thái thứ VI, 1894). Tiếp đến là phần chính văn. Cuối sách, tờ 194a có dòng chữ “Cộng nhất bách cửu thập nhị trang” (tổng cộng 192 tờ - Đúng ra phải là 194 tờ - TN). Tờ 194b có dòng chữ “ Thành Thái Giáp Ngọ niên thất nguyệt thập cửu nhật nhi tôn Nguyễn Cảnh Thăng cẩn thuật” (cháu xa đời là Nguyễn Cảnh Thăng kính chép xong vào ngày 19 tháng 7 năm Giáp Ngọ 1894, niên hiệu Thành Thái).
Bản B3 húy các chữ “tông” (viết thành tôn, như ở các tờ 9b/4; 12b/1...); “thực” (viết trên bộ miền, dưới chữ thị là đúng, như ở các tờ 8a/3, 11b/6...); “nhậm” (hoặc viết bớt nét, như ở tờ 181a/6; hoặc đổi thành chữ dụng, như ở tờ 185a/5...); “thời” (viết thành thì, như ở tờ 1b/3; 4a/3...); “chiêu” (viết bên bộ hỏa, bên chữ triệu như ở tờ 187a/1..) v.v... Việc kiêng húy này một lần nữa xác nhận bản B3 được sao chép vào năm Thành Thái và do vậy có thể gọi bản B3 là bản Thành Thái.
Vấn đề đặt ra là bản B3 chép theo nguồn nào. Đối chiếu phần chính văn, ta thấy bản B3 chép theo và mô phỏng rất sát bản B2, ngay cả đến những tiêu chí đặc biệt như chữ viết sai, viết lẫn. Xem bảng so sánh các trường hợp sai lẫn sau đây trong bản B2 và bản B3 (xem biểu số 2 ở cuối bài).
Tất nhiên cũng có những trường hợp bản B3 trong quá trình sao chép đã phát hiện và đính chính lại các sai sót của bản B2. Chẳng hạn ở bản B2 tờ 10a/2, chữ “tán trị công thần” chép nhầm thành “công thần tán trị”, đến bản B3 tờ 12a/5 đã chép đúng trở lại; bản B2 tờ 12b/1 trong câu “huy chúng nghênh địch”, chép sót chữ “chúng”, đến bản B3 tờ 15b/5 đã được bổ sung; bản B2 tờ 14a/7 , trong câu “hà dĩ vi bất ỷ, bất như”, chép sót chữ “bất” thứ hai, đến bản B3 tờ 18b/1 đã được bổ sung; bản B2 tờ 65a/4, chữ “nga” viết nhầm thành chữ “ngã”, đến bản B3 tờ 85a/5 đã được viết đúng trở lại; bản B2 tờ 99a/5, chữ “tạc tịch” viết nhầm thành “sạ tịch”, đến bản B3 tờ 126b/6 đã được viết đúng trở lại; bản B2 tờ 100a/7, câu “tiên ngôn bất khả bất ký” chép sót chữ “bất” thứ hai, đến bản B3 tờ 128a/5 đã được bổ sung v.v...
Nhưng bên cạnh việc phát hiện và đính chính một số sai sót của bản B2, bản B3 tư cách là một bản sao chép lại, đến lượt nó vẫn vấp phải những hạn chế về hiện tượng “tam sao thất bản” mà bản B2 đã không tránh khỏi. Có tất cả 36 trường hợp bản B2 chép đúng mà bản B3 lại chép sai, hoặc chép sót, căn cứ theo phần sách hiện còn của bản B2 (xem biểu đồ số 3 cuối bài).
Có điều, dù sai sót thế nào chăng nữa thì bản B3 vẫn là bản toàn vẹn nhất hiện còn mà nhìn vào đấy ta có thể hình dung dạng đầy đủ của bản B2 được coi như đối tượng để bản B3 sao chép và mô phỏng.
Những phân tích trên cho phép đi tới một sơ đồ như sau về các thế hệ văn bản Hoan Châu ký:
Sơ đồ này sẽ chỉ dẫn cho ta cách chỉnh lý văn bản mà ta đang khảo sát.
6. Chỉnh lý văn bản
Để có một bản HCK chính xác, khả dĩ làm chỗ dựa cho việc nghiên cứu hoặc phiên chuyển tác phẩm sang tiếng Việt hiện đại, không thể không qua khâu chỉnh lý văn bản. Bởi lẽ các bản HCK hiện có, kể cả bản Thành Thái chưa mất tờ nào, vẫn chứa đựng bên trong nhiều biến động về mặt văn bản mà nổi rõ nhất là vấn đề chữ nghĩa và vấn đề phân chương mục.
Về mặt chữ nghĩa, công việc tương đối đơn giản: nhận diện những chữ viết lạ, chữa lại những chữ viết sai, thêm vào những chữ viết sót... Điều này trên thực tế đã được giải quyết khi tiến hành lập các bảng chữ viết lạ, viết sai, viết sót trên kia.
Nhưng đến vấn đề thứ hai - phân chương mục - thì tình hình có phần phức tạp. Trong HCK thỉnh thoảng có những đề mục phụ như “tứ hồi tam” (hồi thứ ba trong tổng số 4 hồi), “tứ hồi tứ” (hồi thứ tư trong tổng số 4 hồi), song trên thực tế cả hai bản Gia Long và Thành Thái đều theo nhau chép liền một mạch từ đầu chí cuối, không chia tách chương mục, thậm chí gộp cả phần chính văn với phần lời bạt.
May sao chìa khóa vẫn còn nằm trong tác phẩm.
Cuối sách có đoạn viết nguyên văn như sau: “Bằng chư cựu ký, trước thử phiếm biên, quan giả chính chi, thứ mông vật tiếu. Hữu truyện khởi tự Việt Hồ triều Bính Tuất tuế, chí bản triều Vĩnh Trị Mậu Ngọ niên, phàm nhị bách thất thập tam niên sự tích”. Chữ “hữu truyện” trong đoạn văn vừa trích dẫn có nghĩa là “chuyện kể phía bên phải”, tính theo cách viết chữ Hán từ phải sang trái ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, “hữu truyện” là “chuyện kể bên trên”, “chuyện kể ra đây”... Chữ “hữu truyện” vì vậy có thể xem như tiêu chí để chia tách lời bạt với chính văn. Từ “quan giả, chính chi, thứ mông vật tiếu” trở về trước là phần cuối của chính văn. Từ “hữu truyện khởi tự Việt Hồ Bính Tuất tuế” trở về sau là phần đầu của lời bạt.
Trong phần chính văn, ta thường gặp những câu chuyển tiếp kiểu “Dục thức thùy vi hùng bi khí tướng, tu khán hạ văn tiện kiến” (Muốn biết người nào có tướng mạo hùng bi, chờ xem hạ văn sẽ rõ). Hoặc “bất tri Anh Tông thiên bá hà như, tu khán hạ hồi phân giải” (Không biết Anh Tông xiêu giạt ra sao, chờ xem hạ hồi phân giải).
Theo thông lệ của tiếu thuyết chương hồi, mỗi câu như vậy có giá trị như một dấu kết thúc chương hoặc hồi đang trình bày, trước khi chuyển sang một chương hồi mới. HCK có tất cả 15 câu chuyển tiếp, trong đó 3 câu mang chữ “hạ hồi” (hồi sau) và 12 câu mang chữ “hạ văn” (tiết sau). “Hạ hồi” báo hiệu cho hồi sẽ tới; 3 “hạ hồi” cộng với hồi đang kể, vị chi 4 hồi. “Hạ văn” báo hiệu cho tiết sẽ tới; 12 “hạ văn” cộng với 3 tiết đang kể ở đầu mỗi hồi, vị chi 16 tiết. Như vậy HCK có cả thảy 4 hồi, 16 tiết. Xem bảng kê sau đây (số từ ghi theo bản Thành Thái):
|