TB

VỀ BẢN ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ IN VÁN GỖ CỦA PHẠM CÔNG TRỨ, MỚI TÌM THẤY

NGÔ THẾ LONG

Bài viết này gồm hai phần: Phần một, giới thiệu sách, xác định tác giả và niên đại; Phần hai, những tư liệu mới do bản PHẠM CÔNG TRỨ đem lại.

Phần I: GIỚI THIỆU SÁCH, XÁC ĐỊNH TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI

TRONG khi đi tìm các dị bản của bộ Đại Việt sử ký tục biên chép sử biên niên về giai đoạn cuối thời Lê (từ 1676 đến 1789)(1), chúng tôi đã tìm thấy ở gia đình cụ Nguyễn Văn Huyên (cố Bộ trưởng Bộ giáo dục Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ) một cuốn Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên in ván gỗ, giấy cũ đã ngả màu và đã bị mủn nát một phần nề dưới, lém vào một số chữ... Được phép của gia đình cụ, chúng tôi đã nghiên cứu, photocopy lại, và khôi phục được một số chữ bị mờ, bị mất do giấy nát. Kết quả giám định cho thấy đây là đoạn cuối của bộ Đại Việt sử ký toàn thư do nhóm Phạm Công Trứ biên soạn, đã khắc in ra, theo lời tựa đề, vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665)(2).

Dưới đây chúng tôi xin trình bày vắn tắt những căn cứ và kết quả nghiên cứu giám định đó.

A. Hình thức và nội dung của sách:

1. Hình thức: Tên sách ở gáy bìa ngoài: Việt sử tục biên (bìa phất cậy, nhưng mới làm lại, tên sách cũng mới được viết lại gần đây).

- Tên sách ở dòng đầu quyển 20 và 21 (được in cùng lúc với toàn sách): Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập... nhị thập nhất (xin xem ảnh chụp in kèm).

- Số tờ: quyển 20 có 23 tờ; quyển 21 có 26 tờ, kể cả tờ số 18 của quyển 22 đóng lộn vào vị trí ấy của quyển 21. Như vậy là: quyển 21 thiếu 1 tờ, quyển 22 có 1 tờ độc nhất mang số 18.

- Khổ giấy đã gấp: 17x28cm. Khung in 14x21cm

- Mỗi tờ 2tr, tr.9 dòng, dòng 18-19 chữ.

- Dạng chữ: thuộc dạng chữ khắc in đời Lê, phong cách Liễu chàng(3).

2. Nội dung: Cả hai quyển chép sử theo lối biên niên, giống như Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) do nhóm Lê Hi tập đại thành mà ta đã biết. Giai đoạn phản ánh của 2 quyển này là: Q.20 triều vua Lê Kính Tông (1600 - 1619), Q.21 triều vua Lê Thần Tông ở ngôi lần thứ nhất (1620 - 1643). Nếu không bị thiếu quyển 22 và quyển 23 thì sử liệu sẽ có đủ đến hết năm 1662 là năm cuối của đời Lê Thần Tông.

So với bộ ĐVSKTT do Lê Hi tập đại thành thì hai quyển 20 và 21 ở sách này chỉ tương ứng với nửa đầu của quyển 18, bản Lê Hi.

B. Những căn cứ chứng tỏ rằng bản mới phát hiện được ở gia đình cụ Nguyễn Văn Huyên (dưới đây gọi là bản NVH) là một phần của bản Phạm Công Trứ.

I. Tên sách, bố cục, nội dung của bản NVH đúng với lời tựa của Phạm Công Trứ.

Lời tựa của Phạm Công Trứ(4) cho biết:

1. Toàn thể bộ sách do nhóm ông làm, kể cả phần sửa lại sử cũ của các tác giả đi trước, kể cả phần nhóm ông mới chép thêm bao gồm từ thời Hồng Bàng (năm 2879 TCN) đến hết đời vua Lê Thần Tông (1662) cộng 23 quyển.

2. Riêng phần do nhóm ông mới chép thêm, là sử từ thời Lê Trang Tông đến Lê Thần Tông (từ 1533 đến 1662) được đặt tên là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên(5).

Vậy mà bản NVH cũng mang tên là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên, đánh số quyển 20, 21 và có một tờ ở quyển số 22. Nội dung chép sử từ Lê Kính Tông đến Lê Thần Tông (bao gồm: năm dương lịch từ 1600 đến 1656 - theo như tờ 18 quyển 22). Đoạn trước 1600 và sau 1656 thì bị mất. Đoạn sau 1656 bị mất đó, ước chừng vừa một quyển số 23 nữa.

Như vậy, nếu ta coi lời tựa của Phạm Công Trứ giống như một bản “thiết kế” thì bản NVH có kết cấu hiện trạng phù hợp với thiết kế đó.

II. Một số chi tiết nằm trong bản Lê Hi(6) cũng chứng tỏ rằng bản NVH chính là bản Phạm Công Trứ

1. Trong bài tựa, Lê Hi nói: Ông được giao “khảo đính sử cũ” để biên soạn ra bộ quốc sử mới. Tuy không nói rõ tên sử cũ là cuốn nào, nhưng ông lại nhắc tên các sử gia đời trước, và trong sách của mình, phần cuối ông vẫn giữ tên sách là “Bản kỷ tục biên”. Vậy nếu phân tích từng đoạn sử do ai chép (như GS. Phan Huy Lê đã làm ở trang 37, bản dịch Tập 1 sách ĐVSKTT) thì ta thấy đoạn sử từ 1600 đến 1656 thuộc đoạn Phạm Công Trứ chép mới, chứ không phải chỉnh lý của người trước. Vậy bản “sử cũ” mà Lê Hi khảo đính (đoạn từ 1600 đến 1656) chỉ duy nhất là bản Phạm Công Trứ đã được in ra.

2. Phương pháp ghi chép, cách phản ánh các sự kiện ở bản Lê Hi giống với bản NVH:

Cũng là biên niên sử, tuân theo nghiêm ngặt trật tự thời gian. Cách viết “đài”, cách ghi năm can chi, niên hiệu giống nhau. Cùng đề cao Lê Trịnh, phê phán Mạc, Nguyễn. Sự giống nhau giữa hai bản (NVH và Lê Hi) làm cho ta có cảm tưởng chung là tổng lượng thông tin về cùng giai đoạn phản ánh ở hai bản là tương đương nhau (về các việc chính).

Đặc biết cách “viết đài” của sách này (để miếu hiệu các chúa Trịnh cao ngang với miếu hiệu các vua Lê ở ngay đầu quyển 20 và 21) chứng tỏ nó được khắc thời Lê Trịnh, chứ không phải dưới thời Tây Sơn hay thời Nguyễn.

3. Đã gọi là “khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì sửa”. Vậy tất nhiên bản Lê Hi có khác với “sử cũ”. So sánh bản NVH với Lê Hi ta thấy có một số chỗ khác nhau. Nhưng sự khác nhau đó có mấy đặc điểm sau:

a. Một số điều bản NVH sai (so với chân lý), còn bản Lê Hi đúng. Đó là các chi tiết về lịch pháp thiên văn (ví dụ bản NVH chép ngày rằm tháng 5 năm Quý Sửu (1613 có nhật thực, thì Lê Hi chép là nguyệt thực(7). Điều này chứng tỏ rằng bản Lê Hi đã sửa sai và bản NVH chưa được sửa.

b. Bản NVH dung lượng chữ và số “đầu việc” có nhiều hơn bản Lê Hi. Điều này chứng tỏ bản NVH có trước còn bản Lê Hi có sau(8). Vì hai lẽ:

- Thứ nhất là sự “cô gọn”: ở bản Lê Hi, lời văn nhiều khi được “cô gọn” hơn ở bản NVH (cùng một sự việc, nhưng bản NVH chép rải ra nhiều đoạn, vì các chi tiết diễn ra trong thời gian dài, xen kẽ với các việc khác). Người chép sau thường sắp xếp và thu lại cho gọn(9).

- Thứ hai là sự cắt bỏ hẳn một số đầu việc (gián hoặc cũng có một số đầu việc, bản NVH không chép, mà bản Lê Hi có chép thêm. Nhưng tựu chung, số thêm thì ít, còn số bớt thì rất nhiều).

Hai hiện tượng cô gọn và cắt bỏ là thao tác thông thường của người biên soạn sau.

Nhưng đó là những việc biệt lập. Còn những sự việc có liên quan hô ứng đến sử văn của đoạn khác, nếu cắt bỏ không khéo thì lại sinh ra mâu thuẫn, khó hiểu.

Chúng tôi xin nêu hai dẫn chứng sau đây:

a. Năm Tân Sửu (1601), bản Lê Hi chép việc Trịnh Tùng đem quân đi đánh Nguỵ Nam Dương hầu nhà Mạc. Cuối cùng đã bêu đầu Nam quận công và bắt được em Nam quận. Người đọc không hiểu được quan hệ giữa hai danh hiệu nhân vật Nam Dương hầu và Nam quận là như thế nào... Khi đưa đoạn số 13 năm Canh Tý (1600) ở bản NVH đặt vào cạnh đó (đoạn này nói rõ “con Nguyễn Miễn là Nam Dương hầu, Nguyễn Nhậm tự xưng là Nam quận công...” ) thì sự việc sáng rõ ngay.

b. Năm Quý Hợi (1623) bản Lê Hi chép việc Trịnh Xuân (con Trịnh Tùng) nổi loạn, đem quân tấn công vương phủ rồi đốt phá Kinh thành Thăng Long, khiến Trịnh Tùng phải chạy ra Hồng Mai, rồi sau chết ở Thanh Xuân... Người đọc không thể hiểu được tại sao lại như thế. Vì trước đó chính bản Lê Hi chép vào năm Kỷ Mùi (1619), sau khi ám sát hụt cha đẻ là Trịnh Tùng thì Trịnh Xuân đã bị phát hiện, bị bắt giam, bị tước hết binh quyền, chờ xét xử... Thế thì làm sao còn có khả năng gây ra vụ việc năm 1623?

Đọc lại bản NVH ta lại thấy có hai đoạn mà bản Lê Hi lược bỏ: đó là vào năm Canh Thân (1620) Trịnh Tùng đã tha tội cho Trịnh Xuân, trả lại nguyên chức tước; và năm Tân Dậu (1621) lại sai Trịnh Xuân đi đánh Cao Bằng. Lúc đó Trịnh Xuân đã hục hặc tranh công với anh là Trịnh Tráng... Do đó, đến năm 1623 khi Trịnh Tùng ốm nặng, muốn truyền ngôi chúa cho Trịnh Tráng, thì nổ ra vụ bạo loạn của Trịnh Xuân, thật là hợp lôgíc.

Qua hai dẫn chứng trên, ta thấy Lê Hi đã lược bỏ một số chi tiết mà không chú thích nên gây ra sự thiếu hoàn chỉnh, thiếu nhất quán, khó hiểu. Nếu ta đem các chi tiết đó ở bản NVH mà “lắp vào đúng chỗ” thì bản Lê Hi trở nên hoàn chỉnh, rõ ràng.

Điều này lại chứng minh rằng Lê Hi đã trực tiếp lấy ý và trích văn ở bản NVH.

Tóm lại:

1. Xét về hình thức văn bản, bản NVH là bản được khắc in đời Lê. Theo sử biên niên, đời Lê chỉ khắc in có hai bản ĐVSKTT: Một là bản của Phạm Công Trứ, được khắc in đầu tiên năm 1665 mới in được khoảng 5, 6 phần 10. Hai là bản Lê Hi được khắc in toàn bộ năm 1697. Bản NVH là bản in đời Lê, lại khác bản Lê Hi, vậy chỉ có thể là bản Phạm Công Trứ.

2. Xét về cơ cấu, tên sách., số quyển thì bản NVH phù hợp với lời đề tựa của Phạm Công Trứ là người đã làm ra nó (bài tựa còn lưu lại sớm nhất ở bản Lê Hi).

3. So sánh hai bản cho ta thấy:

a. Lê Hi đã chỉnh lý bản Phạm Công Trứ (để làm ra bản của mình).

b. Bản NVH là bản in của bản Phạm Công Trứ, loại văn bản mà Lê Hi đã từng đem ra chỉnh lý, sửa chữa.

Những căn trên cho phép ta kết luận rằng bản NVH là một phần của bản Phạm Công Trứ. Còn được bảo lưu đến nay.

Phần II: NHỮNG TƯ LIỆU MỚI DO BẢN PHẠM CÔNG TRỨ ĐEM LẠI

Nhờ so sánh kỹ bản Phạm Công Trứ với bản Lê Hi, chúng tôi đã thấy được những sử liệu mà Lê Hi lược bỏ hẳn, hoặc chép sơ lược, xin nêu sơ qua ra đây để độc giả tiện sử dụng và kiểm tra (chúng tôi chỉ nêu năm và số đầu việc theo thứ tự đã ghi ở bản dịch - phần phụ lục).

1. Những trận đánh với nhà Nguyễn ở Thuận Quảng.

- Năm Đinh Mão 1627, việc số 1, 2.

- Năm Quý Dậu 1633, việc số 4, 11, 12.

- Năm Giáp Tuất 1634, việc số 1, 2.

- Năm Canh Thìn 1640, việc số 3.

- Năm Quý Mùi 1643, việc số 1, 9.

2. Những trận đánh nhà Mạc ở Cao Bằng:

- Năm Tân Dậu 1621, việc số 4.

- Năm Mậu Dần 1638, việc số 5.

- Năm Kỷ Mão 1639, việc số 3, 5, 6.

- Năm Quý Mùi 1643, việc số 7.

3. Những cuộc bổ nhiệm quan chức, thăng phong, ghi công cho quan lại, bản Lê Hi bỏ đi (chúng tôi nêu sơ lược tên người, không nói rõ chi tiết thăng bổ ra sao - xin độc giả tự xem ở 2 bản).

- Năm Canh Tý 1600: việc số 4, 7, 12, 25, liên quan đến Bùi Khắc Nhất, Lê Bách, Lương Trí và nhiều người khác.

- Năm Nhâm Dần 1602: việc số 2, 7, 9: Nguyễn Khải, Lê Trạc Tú...

- Năm Giáp Thìn 1604: việc số 2: Ngô Trí Hòa...

- Năm Bính Ngọ 1606: số 3: con Hoàng Đình ái...

- Năm Mậu Thân 1608: sổ 3: Ngô Trí Hòa...

- Năm Canh Tuất 1610: số 3: Nguyễn Thực.

- Năm Tân Hợi 1611: số 1: Hà Mỹ Hiền.

- Năm Nhâm Tý 1612: số 1: Trịnh Tráng.

- Năm Bính Thìn 1616: số 5: Trịnh Lâm.

- Năm Đinh Tỵ 1617: số 4: Trịnh Vĩnh Thiệu.

- Năm Mậu Ngọ 1618: số 13: Nguyễn Danh Thế...

- Năm Canh Thân 1620: số 3: Lê Dật Tứ..

- Năm Quý Hợi 1623: số 11, 12, 13, 14: Trịnh Vân, Ngô Trí Hòa...

- Năm ất Sửu 1625: số 6: Nguyễn Gia, Nguyễn Duy Thì...

- Năm Bính Dần 1626: số 1, 2, 3...: Nguyễn Danh Thế, Trịnh Đỗ.

- Năm Đinh Mão 1627: số 5, 10, 11: Nguyễn Thực...

- Năm Kỷ Tỵ 1629: số 4: nhiều người.

- Năm Tân Mùi 1631: số 18: Nguyễn Thực.

- Năm Giáp Tuất 1634: số 6, 7: Đinh Thế Diên, Nguyễn Thực.

- Năm Mậu Dần 1638: số 3: Trần Hữu Lễ.

(Dưới đây chúng tôi sẽ chỉ nêu năm dương lịch, không nêu can chi, trừ trường hợp thật cần)

4. Những dịp ra đời hay từ trần của vua chúa và các quan to.

- Trịnh Tạc ra đời năm: 1606 (số 2)

- Vua Thần Tông Lê Duy Kỳ ra đời: 1607 (số 3)

- Nguyễn Hoàng mất: 1613 (số 4)

- Hoàng Đình ái mất: 1608 (số 2)

- Phùng Khắc Khoan mất: 1613 (số 7)

- Bùi Bỉnh Uyên mất: 1614 (số 1)

- Nguyễn Phúc Hải mất: 1616 (số 7)

- Trịnh Lâm mất: 1619 (số 6)

- Ngô Trí Hòa mất: 1625 (số 5)

- Nguyễn Lễ mất: 1625 (số 7)

- Lưu Đình Chất mất: 1627 (số 3)

- Trịnh Lâm được truy tặng: 1630 (số 11)

- Mạc Kính Khoan mất: 1638 (số 1)

- Trịnh Vân mất: 1642 (số 2)

- Doãn Hy mất: 1643 (số 8a)

- Trần Hữu Lễ mất: 1643 ( ố 14)

- Bùi Sĩ Lâm mất: 1643 (số 15)

5. Nhờ bản Phạm Công Trứ mà ta xác định đúng một địa điểm xảy ra một trận đánh lớn giữa quân Lê Trịnh với quân Mạc: năm 1600 (số 17) nhà Trịnh “sai quân đánh úp, phá được ngụy Tây đạo là Nhai quận công, Cao quân công ở Nhật Chiêu thuộc Bạch Hạc (Bạch Hạc chi Nhật Chiêu) bắt được 40 chiếc thuyền và 7 con voi”. Bản Lê Hi bỏ chữ “Bạch Hạc chi”, chỉ chép “Nhật Chiêu” khiến ta dễ hiểu lầm, vì ở ngay cửa ô Yên Phụ ở Thăng Long cũng có địa danh Nhật Chiêu.

6. Một số chính sách thuế phú quan trọng, có ảnh hưởng lớn trong xã hội, bản Phạm Công Trứ có chép mà Lê Hi lược bỏ, đó là quy định về tiền và gạo các tổng xã phải nộp cho nhà vua, nhà chúa mỗi dịp lễ sắm tết, lễ cơm mới v.v.. mỗi xã bao nhiêu. Các hạng dân thường cho đến sinh đồ, tướng thần, xã trưởng, hạng lão, thông lại, nhà sư, giáo phường, giáo sinh, lão nhiêu, đàn bà góa phải nộp bao nhiêu. Thuế thân của từng hạng trên thu bao nhiêu. Thuế ruộng công, ruộng tư, đất bãi dâu, đầm ao, thuế ở điện (do nhà nước quản lý)... tổ chức thu nộp như thế nào. Phạm Công Trứ đưa cả vào mục “định bình trị quy mô” ở năm ất Sửu 1625 (mà chúng tôi đánh số 3).

7. Quy định về chế độ làm việc của bách quan ở triều đường (tức là bên cung vua, mà sách cũng gọi là Nội điện) và phủ đường (tức phủ chúa Trịnh) được chép khá tỉ mỉ vào năm Tân Mùi 1631 (việc số 13). Xem đây ta có thể hình dung được phần nào chế độ làm theo việc theo sự chỉ huy của “hai cái đầu” dưới thời vua Lê chúa Trịnh.

8. Quy định về đánh giá xét hạch quan lại tham hay liêm, mẫn cán hay chây lười để thăng, truất; Cấm quan lại nhiễu dân, tự tiện bắt giam và đánh người... được Phạm Công Trứ ghi đủ ở năm Tân Mùi (1631) (việc số 14, 15), còn Lê Hi thì lược bỏ.

Thu nhặt thêm được chi tiết vừa kể ở các mục trên, và những chi tiết về bổ nhiệm quan lại (mà bản Lê Hi lược bỏ khá nhiều) ta có thể có được một số tư liệu giúp hiểu rõ hơn tình hình lại trị trong giai đoạn ấy.

9. Về đối ngoại: ta thấy được đầy đủ hơn số lần triều đình Lê Trịnh sai sứ sang nhà Minh mang lễ cống hàng năm. Còn nhà Minh, đối với họ Lê họ Trịnh cũng có một sự thay đổi trong cách đối xử. Hai lần họ Trịnh sai người sang xin phong vương nhưng nhà Minh từ chối không cho (năm Bính Tý 1636, số 1, và năm Kỷ Mão 1639, số 4a). Rồi nhà Minh lại quy định lệnh mới là: sứ nhà Minh chỉ đưa sắc thư sang tới cửa Nam quan, còn quan của Lê Trịnh phải lên tận đó mà lĩnh sắc thư, chứ sứ thần không sang tới Thăng Long, lệ đó thi hành từ năm ất Mão 1615 (việc số 4)... Những chi tiết về ngoại giao này khá quan trọng, nhưng Lê Hi cũng lược bỏ.

10. Về tình hình nội bộ giữa các tập đoàn phong kiến Lê Trịnh, Nguyễn, Mạc:

Thời Lê “trung hưng” mà ta đang xem xét là thời kỳ đất nước bị sâu xé bởi các tập đoàn phong kiến. Trong đó giai đoạn lịch sử mà Phạm Công Trứ biên chép ở quyển 20 và 21 là giai đoạn tắt dần của cuộc chiến tranh Lê - Mạc, và mở đầu của cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn; và cũng lớn dần cái mâu thuẫn nội tại Lê - Trịnh. Đọc các nguồn sử liệu khác cũng có thể cho ta cái nhìn chung như thế. Nhưng từng sự kiện cụ thể, nếu có sử liệu tin cậy soi sáng thêm, thì ta hiểu rõ hơn về động cơ, lý do của mỗi sự biến động lịch sử cụ thể. ở đây xin nêu một vài sự kiện, tư liệu mới do bản Phạm Công Trứ đem lại:

a. Về quan hệ Trịnh - Nguyễn trong giai đoạn này: Mâu thuẫn đã có nhưng chưa gay gắt: Nguyễn Hoàng bỏ trốn về Nam, gây cho phe Lê Trịnh một tổn thất lớn về lực lượng, “làm cho lòng người dao động”. Họ Trịnh phải đưa vua Lê từ Thăng Long về Thanh Hóa để cố thủ. Dòng dõi nhà Mạc trước đã phải chạy về Cao Bằng, lúc này có cơ hội lấn xuống “lấp lỗ trống” ở đồng bằng Bắc Bộ. Tuy Nguyễn Hoàng về Nam nhưng chỗ đứng ở đó chưa vững nên vẫn giữ quan hệ lệ thuộc với họ Lê họ Trịnh: Hoàng để ba người con ở lại làm “con tin”, được họ Trịnh trọng dụng. Hoàng gả con gái cho Trịnh Tráng (Tên là Nguyễn Thị Ngọc Tú). Tú đẻ ra Trịnh Kiều lúc đó được Tráng cho là tiết chế (tổng tư lệnh). Tú cũng sinh ra Trịnh Thị Ngọc Trúc là hoàng hậu của Lê Thần Tông (ông này ở ngôi hai lần, lâu tới 38 năm). Với quan hệ hôn nhân chằng chịt như thế, lúc này họ Trịnh chưa thể thẳng tay với họ Nguyễn. Chỉ sau khi Nguyễn Hoàng chết, Nguyễn Phúc Nguyên (là con Nguyễn Hoàng) suýt bị hai người em định làm nội ứng cho họ Trịnh lật đổ, bấy giờ quan hệ Trịnh - Nguyễn mới trở nên căng thẳng. Cộng thêm một Đào Duy Từ có tài, bất đắc dĩ trốn vào Nam tăng cường ý chí cát cứ cho Nguyễn Phúc Nguyên. Đào Duy Từ giúp Nguyễn Phúc Nguyên xây thành đắp lũy chia cắt non sông, gây ra cuộc chiến tranh “nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn” suốt mấy trăm năm... Những chi tiết về Nguyễn Thị Ngọc Tú có thể thấy chép ở năm Canh Ngọ 1630(1) cũng đoạn ấy cho ta biết thêm về vua Lê Thần Tông và Trịnh Thị Ngọc Trúc là hoàng hậu của vua ấy: Bà Trúc trước đã có chồng là Lê Trụ, người bác họ vua, can tội bắc thang trèo vào nội điện mưu việc phản nghịch, phải hạ ngục và chết trong ngục. Bà đã sinh 4 con với Lê Trụ. Sau khi Lê Trụ chết, Chúa Trịnh Tráng là bố đẻ bà, đem gả bà cho vua Lê Thần Tông. Quan tể phụ can ngăn nhưng vua không nghe, cứ lấy bà... Những sự việc trên, Lê Hi lược bỏ cả, nhưng Phạm Công Trứ ghi đủ, như thế mới làm cho ta hiểu được lời sử thần Lê Hi phê bình vua Lê Thần Tông là “chốn cung vi chẳng còn chế độ, đó là chỗ kém!”... còn Phạm Công Trứ thì lại nhìn dưới góc độ khác, nên ca ngợi vua này là “đối với nhà Chúa rất là hòa mục, ung dung hưởng lộc trời dài lâu...há chẳng tốt sao?”. Qua đây ta cũng biết rõ thêm Lê Trụ bị tội gì, chứ bản thân Lê Hi chỉ chép: “Khi ấy Lê Trụ bị giam trong ngục” thì câu chuyện dường như chưa hợp tình hợp lý lắm. Việc Lê Trụ chưa ngấp nghé ngôi vua có thể xem thấy ở năm Kỷ Mùi (1619) (việc số 4), việc này Lê Hi cũng lược bỏ.

b. Dòng dõi nhà Mạc:

Tuy nhiều lần thua to, vẫn dựa vào nhà Minh, chiếm giữ đất Cao Bằng, tạo thành cái thế rình rập ở phía Bắc, hễ quân Lê - Trịnh sơ hở là tràn xuống, khiến cho họ Lê, họ Trịnh và họ Nguyễn phải mất nhiều công sức đánh dẹp. Nhưng cũng có lúc họ Mạc bị kiệt quệ nguy khốn. Lẽ ra họ Trịnh có thể diệt hết được du đãng nhà Mạc. Thế nhưng họ Trịnh lại phải chiêu hàng, phong cho Mạc Kính Quan tước Thông Quốc công, cho trú ở Cao Bằng, đó là vào năm Giáp Tý 1624 (việc số 3)... Trong chiến dịch do Trịnh Kiều chỉ huy tấn công vào Cao Bằng từ hai phía, tháng 11 năm 1624, Trịnh Kiều giành thắng lớn, bắt sống được Mạc Kính Quan đem về Kinh đô giết chết. Nhưng gần cuối chiến dịch thì tướng Nguyễn Khắc là cháu nội Nguyễn Hoàng đã bỏ về nên cánh quân Thái Nguyên phải rút, Trịnh Kiều phải bãi binh nửa chừng... Một nguyên nhân làm cho dòng dõi họ Mạc còn tồn tại kéo dài rõ ràng là do mâu thuẫn nội bộ Trịnh - Nguyễn. Đó là một ý mới do sử liệu Phạm Công Trứ ghi lại.

c. Nội bộ Lê và Trịnh:

Hai lần nổi loạn của Trịnh Xuân con trai Trịnh Tùng vào năm 1619 và 1623 đã gây ra những tổn thất lớn cho triều đình Lê Trịnh, khiến lực lượng và khí thế của họ yếu hẳn đi, họ phải lánh về Thanh Hóa, cũng giống như lúc Nguyễn Hoàng bỏ trốn. Họ Mạc thừa cơ tràn xuống đồng bằng. Điều đó các đoạn trên đã có nói qua. ở đây cần nói thêm là: những chi tiết mà bản Phạm Công Trứ ghi chép giúp ta hiểu rõ từng sự kiện xảy ra thực như thế nào. Bản Phạm Công Trứ chép: "Trong cuộc nổi loạn lần thứ nhất vào năm 1619, Xuân có liên kết với vua Lê Kính Tông là con rể Trịnh Tùng, Xuân sai quân mai phục ở ngã ba đón đường lúc Trịnh Tùng đi xem đua thuyền về, bắn đúng vào con voi do ông cưỡi. Nhưng may mắn hôm đó Trịnh Tùng lại thay đổi thói quen, cho voi và nghị trượng trở về trước, còn mình thì ngồi kiệu đi sau, nhờ thế mà thoát nạn... Sau đó điều tra ra sự việc, Trịnh Tùng biết vua Lê Kính Tông có dự mưu này, nhưng Trịnh Tùng chỉ tố cáo điều đó trước cuộc họp của bá quan. Mọi người đồng ý phế truất vua, và chưa nỡ giết vua. Nhưng rõ vua xấu hổ tự thắt cổ chết. Sau đó triều đình chưa vội đặt tên thụy, mà tạm gọi là Giản Huy đế, tang lễ vua cũng bị cắt giảm... Những việc đó, cùng sự việc con gái Trịnh Tùng kêu khóc, xin lập chính con của bà và vua Lê Kính Tông tức Thần Tông lên ngôi, với lý do “bố nó có tội chứ con có tội gì”. Và Trịnh Tùng chấp nhận, tỏ ra hợp lý và gần sự thực. Sự việc này Lê Hi tóm gọn chỉ còn khoảng một phần ba số chữ, và nói chính Trịnh Tùng ép vua thắt cổ, như vậy có hơi khác.

Cuộc bạo loạn lần thứ hai của Trịnh Xuân có mầm mống từ sự tranh công với anh ruột là Trịnh Tráng trong chiến dịch đi đánh Cao Bằng năm 1620 (chỉ bản Phạm Công Trứ chết ) đã nói ở trên. ở đay xin nêu thêm một số tình tiết mà bản Phạm Công Trứ chép đầy đủ hơn bản Lê Hi. Đó là: khi quân của Xuân vào phá phủ thì Trịnh Tùng đang ốm nặng, ông vẫn gắng ngồi dậy, lấy giáo đâm loạn quân, mọi người sợ, chạy giạt ra. Ông lên võng ra cửa phủ, gặp Xuân, ông còn quát mắng. Xuân rút quân ra, nhưng lại cho quân cướp phá và cướp đô thành... Rồi đến đoạn sau, khi mọi người dụ được Xuân vào, nói dối là để trao binh quyền, ở nơi tạm trú tại Hồng Mai, Trịnh Tùng mắng nhiếc Trịnh Xuân, nhưng chưa nỡ giết. Chỉ sai quân cùm lại, để đợi giao luận tội. Nhưng lập tức Trịnh Đỗ sai võ sĩ chặt chân Trịnh Xuân cho chết đi. Điều này cũng khác với bản Lê Hi (nói Trịnh Tùng bảo Sĩ Lâm sai người chặt chân cho Xuân chết)... Sau đó bản Phạm Công Trứ còn chép đầy đủ danh sách 19 người con của Trịnh Tùng. Những chi tiết đó tỏ ra bản Phạm Công Trứ chép việc kỹ và phong phú hơn bản Lê Hi. Và do đó, nó cũng chứng tỏ rằng người chép sử trước sống gần thời kỳ xảy ra sự việc hơn.

Xét thấy đây là một bản sách in Đại Việt sử ký toàn thư cổ nhất; và như trên cho thấy, chỉ trong khoảng vài chục trang, mà bản sách đã cho ta thêm nhiều sử liệu quý giá như vậy, cho nên chúng tôi thấy cần công bố cả bản chữ Hán để bảo tồn theo lối nhân bản, và dịch ra để nhiều nhà nghiên cứu có dịp so sánh, tìm hiểu, thấy rõ cách các nhà sử học xưa của ta đã kế thừa, chỉnh lý, biên soạn sử đời trước như thế nào. Nhân dịp này chúng tôi cũng tỏ lòng cảm ơn gia đình cụ Nguyễn Văn Huyên đã cho chúng tôi được nghiên cứu, sao chụp để công bố và đưa tài liệu mới sưu tầm được vào kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

CHÚ THÍCH

(1) Có bản dịch của Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng, tập 1 đã được Nxb. KHXH xuất bản năm 1982 dưới nhan đề Đại Việt sử ký toàn thư phần tiếp.

(2) Phạm Công Trứ (1599 - 1675), đỗ Tiến sĩ năm 1628, làm quan đến Tể tướng, chủ biên cuốn Đại Việt sử ký toàn thư chép việc từ đời Hồng Bàng đến hết đời Lê Thần Tông (năm 1662). Sách gồm 23 quyển được khắc in năm 1665. Nay “đã mất”.

(3) Chúng tôi căn cứ trên sự so sánh các chữ dị dạng ở bản ĐVSKTT niên hiệu Chính Hòa với các sách khác, khắc in đời Nguyễn. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ có chuyên luận riêng.

(4) Xem ĐVSKTT, Sđd, bản dịch tập 1, tr.78.

(5) Việc này cũng được Lê Hi xác nhận lại trong lời tựa cả ông (Xem Sđd, tr.74 đoạn nói về việc làm của Phạm Công Trứ. Đại ý như sau... a) Phạm Công Trứ chép thêm từ Lê Trang Tông đến Lê Thần Tông (1533 - 1662), đặt tên là “Bản kỷ tục biên” b) Đã khắc in ra (mười phần mới khắc in được 5, 6).

(6) Lê Hi (sinh năm 1648 mất năm 1702) đỗ Tiến sĩ năm 1667. Có đi sứ, làm quan tới Thượng thư bộ binh; tập đại thành Bộ ĐVSKTT chép việc từ Hồng Bàng đến Gia Tông (1675) khắc in năm 1697, nay vẫn còn truyền bản.

(7) Theo cách tính của âm lịch thì ngày giữa tháng chỉ có thể có nguyệt thực còn nhật thực chỉ có thể xảy ra đầu tháng hay cuối tháng.

(8) Thống kê sơ lược cho thấy bản NVH có khoảng 15.500 chữ, với 291 “đầu việt”; còn bản Lê Hi, giai đoạn tương ứng chỉ có khoảng 11.600 chữ, với 198 “đầu việc”.

(9) Xem việc năm 1633: chúa Trịnh đem quân đi đánh Thuận Quảng. Bản NVH chép làm 5 đoạn, cộng hàng trăm chữ. Bản Lê Hi chỉ có một câu. Hoặc việc viên Hiến sát phó sứ Thanh Hoa trở về với triều đình Lê Trịnh năm 1631, cũng thấy bản Lê Hi chép gọn như vậy./.

TB

VĂN BẢN VÀ GIÁ TRỊ HỌC THUẬT CỦA HOAN CHÂU KÝ

TRẦN NGHĨA

HOAN CHÂU KÝ (viết tắt HCK) từ vòng tay nâng niu gìn giữ của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh suốt mấy trăm năm giờ đây lần đầu tiên đến cùng chúng ta với những đặc điểm nổi bật làm nên giá trị lâu bền của nó: một bộ tiểu thuyết chương hồi thuộc loại cổ nhất, một tập sử tư nhân viết về chặng Lê Trung hưng, một cuốn phổ ký mang nhiều nét khác lạ... Nhưng HCK đồng thời cũng chứa đựng những phức tạp về mặt văn bản mà nếu không giải quyết tốt, việc đánh giá tác phẩm chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Vậy thì để mở đường cho việc đi sâu tìm hiểu giá trị HCK, trước hết hãy làm rõ một số vấn đề có tính chất văn bản học.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC HOAN CHÂU KÝ

1. Soạn niên:

HCK không ghi rõ năm thành sách. Nhưng dựa vào các cứ liệu do chính ngay văn bản cung cấp, vẫn có thể xác định được trước hết một cái khung thời gian trong đó HCK được soạn thảo. Lời bạt sách có đoạn viết “Truyện kể ra đây khởi đầu từ năm Bính Tuất triều Nhuận Hồ, đến năm Bính Ngọ thuộc niên hiệu Vĩnh Trị của bản triều cộng cả thảy 273 năm sự tích”. “Vĩnh Trị” như ta biết là niên hiệu của Lê Hy Tông (1676 - 1705). Năm “Bính Ngọ” thuộc niên hiệu Vĩnh Trị tương đương với năm 1678 công lịch. Đây là thời điểm câu chuyện trong tác phẩm kết thúc, cũng có nghĩa là HCK không thể thành sách trước cái mốc thời gian này. Một chi tiết nữa cũng khá quan trọng trong đoạn văn vừa trích, đó là hai chữ “bản triều” tức triều Lê chấm dứt vào năm 1788. HCK cũng không thể thành sách sau cái mốc thời gian này, vì từ sau đó, đất nước đã chuyển sang một triều đại khác, triều Tây Sơn. Tóm lại, tác phẩm mà ta đang nói chỉ có thể được thực hiện trong khoảng thời gian từ 1678 đến 1788 thuộc giai đoạn cuối Lê. Các ghi chép liên quan khác trong HCK đều trùng hợp với điều vừa nhận định và không có bất cứ một trường hợp nào ngoại lệ.

Tiến thêm bước nữa, có thể vạch chỉ một soạn niên cụ thể hơn không cho HCK trong khoảng thời gian từ 1689 đến 1788? Người viết lời bạt cũng chính là tác giả HCK kể lại với chúng ta rằng: “Ngu tôi hồi còn bé từng lùng sục nơi bạn hữu được cuốn Thường quốc nam chinh ký và cuốn Phan thị trường biên, mỗi cuốn chỉ còn vài mươi tờ, độ một phần ba tác phẩm. Giấy thì mọt ăn, chữ thì rơi rụng. Đến mùa đông năm Bính Tý sưu tầm thêm được cuốn Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký còn lưu giữ tại Đông Lương thì lời văn vụng về, chữ nghĩa sai lạc, tam sao thất bản, không thể nói là không đáng tiếc. Vậy là nhân lúc rỗi rãi, tôi đem ba tập trên đúc lại thành một tập”. Cái dịp mà tác giả HCK đem ba tập sách sưu tầm được đúc lại thành một tập hẳn không xa mấy với năm Bính tý là thời điểm tìm thấy tập tư liệu cuối cùng. Năm “Bính Tý” lời bạt nhắc tới ở đây có thể là năm 1696, mười tám năm sau khi câu chuyện chép trong HCK kết thúc. Mà cũng có thể là năm 1756, muộn hơn năm Bính Tý 1696 một hoa giáp nữa. Cả hai năm Bính Tý này, cộng với một độ xê dịch vừa phải ước lượng cho thời điểm sáng tác, đều nằm gọn trong cái khung thời gian 1678 - 1788 đã xác định trên kia.

Vấn đề còn lại bây giờ là thử xét xem năm nào trong số những năm Bính Tý được liệt kê có khả năng giúp vào việc đoán định soạn niên cụ thể của HCK. Lời bạt cho biết lý do ra đời của tác phẩm một là nhằm bổ sung sự tích các công thần thời Lê Trung hưng mà “quốc sử” hoặc bỏ sót hoặc ghi chép còn sơ lược; hai là nhằm đính chính lại một số sự kiện “quốc sử” ghi chưa thật chính xác. “Quốc sử” mà lời bạt nói ở đây và trong chính văn HCK thỉnh thoảng cũng có nhắc tới trước hết là Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt ĐVSKTT, phần Bản kỷ tục biên BKTB) được thực hiện dưới các triều Lê Huyền Tông (1663 - 1671; viết từ Trang Tông Dụ hoàng đế đến Thần Tông Uyên hoàng đế) và Lê Hy Tông (1676 - 1705, viết từ Huyền Tông Mục hoàng đế đến Gia Tông Mỹ hoàng đế). Thứ đến là Trung hưng thực lục còn có tên là Trung hưng lục, hoặc Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục (viết tắt THTL), do Hồ Sĩ Dương cùng một số người khác biên soạn theo sắc lệnh Nhà nước. Trong cả hai bộ sử, hình ảnh các công thần thuộc dòng họ Nguyễn Cảnh hoặc chỉ được ghi chép một cách hết sức mờ nhạt như ở BKTB, hoặc thậm chí không được đả động gì tới như ở THTL. Nếu quả thật đây là lý do đã khiến người trong dòng họ Nguyễn Cảnh viết HCK, thì soạn niên cụ thể của tác phẩm phải tiếp cận với soạn niên hai bộ sử nói trên THTL ấn hành năm 1676. BKTB cùng các phần khác trong ĐVSKTT ấn hành năm 1697. Vậy HCK rất có thể đã được viết ít lâu sau cái năm Bính Tý thứ nhất 1696, sát cận với năm công bố THTL và ĐVSKTT mà chẳng phải chờ đến năm Bính Tý thứ hai 1756, khi nỗi “bất bình” của dòng họ Nguyễn Cảnh đối với “quốc sử” đã lùi sâu vào dĩ vãng.

2. Tác giả:

HCK không ghi rõ tên tác giả, mặc dù trong lời bạt cũng như trong chính văn, người viết truyện luôn luôn có mặt để đàm đạo cùng chúng ta.

Trong lời bạt, tác giả HCK tự xưng là “ngu tôi”, là “chức quan mọn này”. Trong chính văn, lúc thì xuất hiện dưới cái tên “ký giả”, như “Tấn quận công thân đốc các thuộc tưởng gồm (...) Trịnh quận công, Bảng quận công, Thắng quận công (ký giả không biết họ tên ba người vừa nêu)...” (Hồi hai, Tiết thứ nhất); “Quan quân chấn chỉnh đội ngũ trở về Kinh, triều đình bàn việc khen thưởng, ở đây ký giả xin khỏi nhắc tới” (Hồi bốn, tiết thứ hai); “còn như việc Nhạc quận công sau khi vào chầu mệnh hệ như thế nào, ký giả không được rõ, không dám ghi chép tùy tiện” (Hồi bốn, tiết thứ ba) ... Lúc thì dấu mình đấy, nhưng người đọc vẫn chứng kiến có một tác giả cụ thể, chỉ thiếu mỗi một cái tên gọi: “Dựa vào các bản cựu ký soạn nên thiên truyện này. Mong người xem đính chính cho, may ra khỏi bị cười chê” (Hồi bốn, tiết thứ tư).

Rốt cục người viết HCK là ai? Có thể hé thấy một phần câu giải đáp qua việc so sánh cách ghi thế thứ trong HCK mà ta tạm gọi là bản B (ứng với mọi gia phổ của dòng họ Nguyễn Cảnh viết theo dạng tiểu thuyết chương hồi), với cách ghi thế thứ trong một vài cuốn gia phổ khác cũng của dòng họ Nguyễn Cảnh mà ta tạm gọi là Bản A2 và Bản A3 (A ứng với loại gia phổ của dòng họ Nguyễn Cảnh không viết theo dạng tiểu thuyết chương hồi)(1) sau đây:

Chỗ giống nhau giữa ba bản phổ ký là đều ghi chép đầy đủ 6 thế hệ đầu của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh, từ Nguyễn Cảnh Lữ đến Nguyễn Cảnh Tiên. Riêng bản A3 và bản B còn ghi chép giống nhau đến Nguyễn Cảnh Hà. Phần khác nhau trong từng cuốn gia phổ do vậy sẽ trở thành tiêu chí tự nhiên để phân biệt gia phổ của chi họ này với gia phổ của chi họ khác trong dòng họ Nguyễn Cảnh Nghệ Tĩnh nói chung, Bản A2 bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh ất, ta có thể gọi đây là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh ất. Bản A3 bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh Cái, ta có thể gọi đây là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Cái. Cũng vậy, Bản B tức loại gia phổ tiếp theo dạng tiểu thuyết chương hồi như HCK bắt đầu ghi khác nhau từ Nguyễn Cảnh Quế, ta có thể gọi đây là loại gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Quế.

HCK là gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh Quế, điều đó có nghĩa tác giả HCK là người trực tiếp liên quan đến chi họ này. Khi HCK hoàn thành vào khoảng ít lâu sau 1697, Liêu quận công Nguyễn Cảnh Quế đã mất trên dưới 30 năm. Có thể nghĩ người soạn HCK nếu không phải anh em, thì cũng là thế hệ tiếp ngay sau Nguyễn Cảnh Quế.

Có điều, hình như tác giả HCK không thích xuất đầu lộ diện. Người soạn sách chỉ muốn xem tác phẩm của mình như là món quà chung của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiến dâng cho cả nước. Nói cách khác, tác giả HCK là “Nguyễn Cảnh Thị” (ở Hoan Châu).

3. Tên sách:

Dễ dàng phát hiện trong HCK một số tên gọi khác nhau về sách. Đầu Hồi ba, có ghi: “Thiên Nam liệt truyện quyển đệ lục, Nam Đường phiếm thoại tứ hồi tam, Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” (Nam liệt Thiên truyện, quyển thứ VI; Nam Đường phiếm thoại, hồi thứ III trên tổng số 4 hồi; Hoan Châu ký của họ Nguyễn Cảnh). Đầu Hồi bốn, cũng có ghi: “Thiên Nam liệt truyện quyển đệ thất, Nam Đường phiếm thoại tứ hồi tứ, Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” (Thiên Nam liệt truyện, quyển thứ VII; Nam Đường phiếm thoại, hồi thứ IV trên tổng số 4 hồi; Hoan Châu ký của họ Nguyễn Cảnh). Có thể nghĩ đây là cách ghi nhất quán trước mỗi hồi sách lúc ban đầu, nhưng về sau, trong quá trình sao đi chép lại, người nhân bản đã tự ý tước bỏ hoặc đánh mất các tiêu đề này ở các hồi, trừ Hồi ba Hồi bốn.

Vấn đề đặt ra là trong số các tên gọi trên - Hoan Châu ký, Nam Đường phiếm thoại, Thiên Nam liệt truyện - đâu là tên gọi hợp lý của bộ sách ?

Trước hết, hãy nói về “Thiên Nam liệt truyện”. Sách hiểu khái niệm “Thiên Nam” theo hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Rộng, chỉ nước Việt Nam, như trong câu nói sau của Phan Ngạn, một nhân vật trong HCK: “Vậy mà nay khi đất Thiên Nam dần dần ổn định, Chúa thượng lại đem dạ nghi ngờ, trừng trị ráo riết bọn bề tôi” (Hồi ba, tiết thứ ba). Hẹp, chỉ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, như trong bài văn bia do Lưu Đình Chất soạn cho chùa Bụt Đà ở Đô Lương hiện còn giữ lại trong HCK: “Châu Thiên Nam từ xưa có ngôi chùa Phật nổi tiếng ở Bụt Đà” (Hồi bốn, tiết thứ nhất). “Thiên Nam liệt truyện” do vậy có thể hiểu như là tên một tập sách bao gồm sự tích các nhân vật nổi tiếng vung Thanh - Nghệ - Tĩnh, căn cứ địa của nhà Lê Trung hưng, hay nói rộng ra, trên địa bàn Việt Nam nói chung dưới triều Lê. Thiên Nam liệt truyện là một tổng tập gồm nhiều quyển, trong đó các quyển 4, 5, 6 và 7 dành cho HCK.

Tiếp đến là “Nam Đường phiếm thoại”. “Nam Đường”, nơi phát tích của dòng họ Nguyễn Cảnh, là tên một huyện thuộc Nghệ An thời Lê. Tác giả HCK giải thích lý do sử dụng chữ “Nam Đường phiếm thoại” như sau: “Đã nói là sách của dòng họ Nguyễn Cảnh, lẽ ra chỉ chép về một gia tộc thôi. Đằng này lại có nhiều đoạn dính íu tới quốc sự, nhiều chứng cứ viện dẫn từ sách cổ, không thể không cài thêm vào nhan đề mấy chữ “Nam Đường phiếm thoại”. Chữ “thoại” ở đây không đề riêng cho dòng họ Tấn quốc công mà đề chung cho truyện phiếm “Nam Đường” (Lời bạt). Thế có nghĩa là “Nam Đường phiếm thoại” cần được hiểu như một định ngữ nói lên tính chất “vượt khỏi khuôn khổ gia phổ” của HCK.

Cuối cùng là các chữ “Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký”, cái tên soạn giả đã sử dụng để mệnh danh tác phẩm của mình, như Lời bạt HCK cho biết. “Hoan Châu” tức Nghệ An xưa. “Hoan Châu ký” là tập truyện viết về Nghệ An, lấy “dòng họ Tấn quốc công” làm chủ thể. “Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký” vì vậy có thể hiểu như là tập truyện ký viết về dòng họ Tấn quốc công ở Nghệ An, do dòng họ Nguyễn Cảnh thực hiện. “Hoan Châu ký” là tên hợp lý của tác phẩm “Nguyễn Cảnh Thị” vừa là trung tâm câu chuyện, vừa là tác giả bộ sách.

4. Nguồn tư liệu để viết sách:

HCK, theo lời bạt, được soạn thảo trên cơ sở các cuốn sách đã có sẵn như Thường quốc nam chinh ký, Phan thị trường biên, Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký.

Hai tác phẩm đầu nay đều chưa tìm thấy, nhưng vẫn có thể phác qua đôi nét về diện mạo và nội dung của chúng, dựa vào các cứ liệu do chính HCK cung cấp.

Thường quốc nam chinh k ý (viết tắt TQNCK) viết về cuộc mang quân đi đánh nhà Lê Trung hưng ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh của danh tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện, tước Thường quốc công, con của Trạng nguyên Nguyễn Thuyến, người làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình. Tác phẩm dày độ vài ba trăm trang, được biên soạn dưới sự chỉ đạo của tư tưởng “phò Mạc diệt Lê”, ngược với quan điểm HCK.

Phan thị trường biên (viết tắt PTTB) viết về cuộc đời và sự nghiệp “phò Lê diệt Mạc” của Phan Công Tích, tước Lai quận công, người Thái Xá Đông Thành, nay thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ Tĩnh. Tuy gọi là “trường biên”, nhưng trên thực tế, sách cũng chỉ dày khoảng vài ba trăm trang, xấp xỉ TQNCK.

Riêng Hoan Châu Nguyễn Cảnh ký (viết tắt HCNCK) nay còn có thể thấy bóng dáng qua một số tập phổ ký do dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiện lưu giữ, trong đó, đáng chú ý nhất là tập phổ ký của chi họ Nguyễn Cảnh Cái (còn đọc là Hạp, con của Thiếu phó Tả tư mã Phò mã Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà, tức bản A3 mà trên kia đã đề cập. Tập phổ ký này gồm khoảng trên 100 tờ giấy bản gấp lại, khổ 16x14cm. Mỗi tờ được viết lên cả 2 mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 7 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 24 chữ, dòng ngắn 22 chữ, dòng dài 26 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú (lưỡng cước) với loại chữ cỡ nhỏ bằng một nửa chữ bình thường. Sách chép bằng chữ lông mực tàu, nết chữ chân phương. Góc trên và góc dưới của sách đều bị sờn nát, mất chữ. Sách không có bìa. Thiếu một số tờ đầu và tờ cuối. Điều đặc biệt là sách còn giữ được bài tựa nhan đề Hoan Châu Nguyễn Cảnh gia phổ dẫn , soạn vào năm 1672, toàn văn như sau:

“Dòng chảy xuất tự nguồn, giống cây truyền nơi hạt. Huống chi tộc họ này cành lá sum suê, cháu con đông đúc, có thể nào không dõi lại gốc gác của mình chăng?

Tổ tiên ta vốn từ Đông Lĩnh đi ngụ Hoan Châu, lấy từ tâm mở lối, lấy nhân ái khơi dòng. Con cháu kế thừa gia nghiệp cha ông, khiến tộc họ ngày càng khấm khá rồi cầm vũ khí tham gia cần vương, có công với nước. Từ đấy cửa nhà được hiển vinh, con cháu được ưu đãi, miếu đường cúng tế, để phúc đời sau. Đám hậu duệ chúng ta sở dĩ được vẻ vang như ngày nay là nhờ tiên tổ giàu lòng đạo đức, tích góp trung nghĩa, đây không thể là kết quả của một ngày.

Ta tham khảo các cuốn gia ký cũ như...(2) ký Phan Thi trường biên (chép về Lai quận công), lược bớt chỗ văn hoa, giữ lấy phần chắc thực, soạn thành một tập gia ký, lưu lại cho con cháu đời sau, mong qua đây thấy nguồn đạo đức không cạn, hạt giống nghĩa còn truyền, thế cũng là cách khuyên nhau sống trung hiếu vậy. Nay làm bài tựa.

Ngày tốt, thượng tuần tháng hai, năm Nhâm tý, Hoàng triều Dương Đức I (1672)”(3).

Rất có thể bài tựa trên cũng chính là bài tựa HCNCK, tức bản A1. Nếu điều đoán định này là đúng, thì HCNCK, tập gia phổ mà HCK đã nhắc tới như một trong số các nguồn tư liệu, phải ra đời trước 1672, tức 27 năm sau khi Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà mất vào 1645, theo HCK cho biết. Tập gia phổ do vậy có khả năng ghi chép từ Nguyễn Cảnh Lữ đến Nguyễn Cảnh Hà và người soạn HCNCK không ai khác hơn là thế hệ con của Thắng quận công.

Mặc dù HCK gọi TQNCK là sách của kẻ “phản thần nối giáo cho giặc”, gọi PTTB là sách của hạng “bất tài đời sau, chỉ biết bo bo giữ mình”, gọi HCNCK là sách “lời văn vụng về, chữ nghĩa sai lạc, tam sao thất bản”, nhưng chắc chắn không phải vì vậy mà chúng không mang một ý nghĩa nào đó, ít ra là về phương diện tư liệu, giúp tác giả HCK “đúc lại” thành tác phẩm có tính chất tổng kết của mình.

Ngoài các sách lời bạt cho biết trên, HCK trong phần chính văn còn đề cập tới một số nguồn tư liệu khác nữa.

Nói đến nhiều nhất là một cuốn “sử” hoặc “chính sử” nào đó. Ở Hồi một, tiết thứ tư, khi viết về Lương quận công, HCK có chú thích “Sử để khuyết họ tên”. Ở Hồi hai, tiết thứ nhất, sau khi thuật lại cái chết của Phan Công Tích, HCK có dòng cước chú: “Đoạn này ở chính sử nói rằng Nguyễn Quyện ngụy trang, đặt quân mai phục, bắt được Công Tích đem về. Còn ở sách của ta thì chỉ để Nguyễn Quyện lấy một tí ruột thôi”. Ở Hồi hai, tiết thứ ba, khi đề cập đến Trọng Giang hầu, có ghi thêm: “ Sử không rõ họ tên” v.v... Đối chiếu với sách đương thời, ta thấy “sử” hay “chính sử” được nêu lên ở đây, như trên kia có nói, tức ĐVSKTT, phần BKTB. Chính BKTB đã để khuyết họ tên của Lương quận công, Trọng Giang hầu và cũng đã chép: “Tháng ấy, sai bọn Thái phó An quận công Lại Thế Khanh, Tấn quận công Trịnh Mô, Lai quận công Phan Công Tích đem quân đi cứu Nghệ An, cùng với tướng Mạc là Nguyễn Quyện đánh mãi không được. Quyện đem kỳ binh phục sẵn để đợi, đánh thắng luôn, bắt được Công Tích đem về” (ĐVSKTT, BKTB, Q.XVII).

Tiếp theo là cuốn THTL, HCK Hồi ba, tiết thứ hai, khi đề cập tới châu Tinh thần (chữ tinh một bên bộ mễ, một bên chữ thanh), có chú thích “Trung hưng lục chép chữ tinh trên trúc đầu, dưới thanh”.

Một nguồn tư liệu nữa cũng được HCK đề cập và trích dẫn, đó là cuốn Sử ký dã biên (viết tắt SKDB) của Đăng Bính. HCK Hồi ba, tiết thứ hai chép: “Đây là ngày có thể nhìn thấy cõi bờ thống nhất đất nước trùng hưng. Về sau Đăng Bính soạn cuốn SKDB, có bài thơ sau đây để làm chứng:

Lê xã trùng hưng cựu vật hồi,
Lam Sơn phục kiến cựu lâu đài.
Quân thần bạo tận tư vi mỹ,
Chính trị hân quan vạn quốc khôi.

(Xã tắc nhà Lê buổi phục hồi,
Lam Sơn được thấy lại lâu đài.
Quân thần trọn đạo, ngời gương tốt,
Chính trị, bang giao vẹn cả hai).

ĐVSKTT, phần BKTB, Q.XV cũng có chép bài thơ này chỉ khác một vài chữ (câu 1, chữ thứ 2 chép là tộ; câu 3, chữ thứ 4 chép là hợp) và cũng nói là của Đăng Bính, nhưng không ghi cụ thể nơi dẫn trích là SKDB như HCK.

Có thể thấy BKTB, THTL, SKDB đã được sử dụng như là những tài liệu tham chiếu khi viết HCK.

Đến đây, ta có sơ đồ về nguồn gốc HCK như sau:

Tất nhiên để viết được HCK, còn cần nhiều điều kiện khác nữa, trong đó có sự hiểu biết dồi dào của tác giả về dòng họ Nguyễn Cảnh, về đất nước và con người, cùng những tri thức sâu rộng về Hán học mà tác giả đã dày công tích luỹ qua nhiều năm đèn sách.

5. Các thế hệ văn bản

Như trên kia đã nói, HCK có thể được viết ra ít lâu sau năm Bính Tí 1696 thuộc niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Vậy ta gọi đây là bản Chính Hòa.

Bản Chính Hòa nay chưa tìm thấy. Một số sách HCK do dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh hiện giữ chỉ là những bản chép tay, sao đi chép lại từ bản Chính Hòa. Vậy ta gọi đây là những dị bản của bản gốc Chính Hòa.

Trong số các dị bản của bản gốc Chính Hòa, có 2 bản tiêu biểu hơn cả. Ta gọi bản thứ nhất là B2 và bản thứ hai là B3 (B1 là bản Chính Hòa).

Bản B2 nguyên là sách do ông Nguyễn Cảnh Chỉnh lưu giữ, ông Nguyễn Song Tùng năm 1983 theo nguyện vọng của dòng họ đem tặng lại cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách nay mang ký hiệu VHv. 4. 99 và là bản HCK cổ nhất hiện biết. Bản B2 có các đặc điểm như sau:

Sách gồm 156 tờ giấy bản gấp lại, đã ngả sang màu vàng xỉn, khổ 23x14cm. Mỗi tờ được viết lên cả 2 mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 7 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 20 chữ, dòng ngắn 17 chữ, dòng dài 23 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú với loại chữ cỡ nhỏ, bằng một nửa chữ bình thường của sách.

Tác phẩm viết bằng bút lông mực tàu, nét chữ đẹp, nửa chân nửa thảo. Có nhiều chữ mang lối viết khác lạ. Thường gặp nhất là trường hợp sau đây: (Xem biểu số 1 cuối bài)

Có thể nói đây là lối viết chữ Hán khá độc đáo, ít thấy xuất hiện trong các bảng viết tay về sau. Sách bị mất nhiều chỗ. Cụ thể là:

a. Hồi một Tiết thứ nhất: mất các tờ 1, 2 và 3, tức từ câu mở đầu “Trời chuyển đất rung” (Thiên chi chuyển giã, địa chi chấn giã) đến câu “...đưa gói mộc qua tán bảo hòa với rượu cho bệnh nhân uống. Lại bảo đem đậu đen...” (hứa dĩ mộc qua tán lệnh hòa tửu quân ẩm chi. Hựu lệnh dĩ hắc”.

b. Hồi hai, Tiết thứ ba: mất tờ 69, tức từ câu “Trung nghĩa cương liệt, đời hiếm có, sau đây ắt sẽ là một vị thần lớn” (Trung nghĩa cương liệt, thế sở hãn hữu, hậu tất thành đại thần) đến câu “Nay ủy cho triều đình bàn bạc, gia phong tước trật để nêu cao khí tiết: Thật là ...” (Kim ủy trư triều quan thiêm nghị, bao gia phong tặng tước trật, dĩ chương đại tiết. Chính thị).

c. Hồi bốn, Tiết thứ nhất và tiết thứ hai: mất các tờ từ 121 đến 133, tức từ câu “... về đến Kinh sư, Vương cùng đại thần văn võ trăm quan chuẩn bị đầy đủ xa giá đi rước” (phát hành tri Kinh sư, Vương cập đại thần văn vũ bách quan bị pháp giá phụng nghênh) ở Tiết thứ nhất, đến câu “Lại sai quan quân binh lính thủy bộ cùng 15 chiếc thuyền đưa linh cữu Thư quận công về bản quán, an táng...” (Hựu sai quan quân thủy bộ quân nhân tinh thuyền thập ngũ chích hộ tải Thư quận công linh nhi nghênh hồi bản quán, táng) ở Tiết thứ hai.

d. Hồi bốn, Tiết thứ tư: mất tờ 149, tức từ câu “... triều dự bàn chính sự, cấp cho quân bốn nghìn, dân bốn huyện...” (triều dự nghị chính sự, hứa cấp binh tứ thiên, dân tứ huyện) đến câu “Dương vũ uy dũng dực vận tán trị công thần” (idem).

e. Hồi bốn, Tiết thứ tư, Lời bạt: mất tờ 155b và tờ 156, tức từ câu “ Cho nên mới đặt tên sách là Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký” (Cố nhân kỳ thư viết Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký) đến câu “Sau này có ai muốn biết chuyện cổ xưa hằng theo đây mà đọc, cố nhiên sẽ được điều khuyên giới” (Hậu hữu độc yêu quan trung cổ ký tái phương khả tòng thử phi lãm, tựu hữu khuyến giới tại hổ kỳ trung vân).

Về niên đại bản sao, mặc dù sách không ghi chép, ta cũng có thể đoán định được qua các chữ viết kiêng húy tìm thấy trong văn bản.

Trước hết là chữ “đề” được viết thành trên có ba nét gãy thường gọi là bộ tòng, dưới là chữ “đề” với nghĩa mang xách, được viết đảo bộ, xuất hiện trong các câu “gia thăng Đề đốc” ở tờ 27a dòng 1; "quan chí đề đốc" ở tờ 151b dòng 3. Đây là chữ húy đời Lê. Đến năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) ta thấy chữ “đề” không còn được nêu trong danh mục 34 chữ húy công bố (xem Đoạn từ thể thức, sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1983, tờ 19)

Thứ hai là chữ “chủng” được viết thành “trọng” 重 nép vào phía bên phải của dòng, để khuyết bộ “hòa” là lúa, hay bộ “túc” là chân ở phía bên trái của dòng, xuất hiện trong các câu “lão ông viết thử chủng nhân tâm” ở tờ 4b dòng 1; “canh chủng lập nghiệp” ở tờ 4b dòng 3; “hữu nhất tiểu đồng chủng hậu” ở câu 4b dòng 4; “lão ông thính bãi tâm chủng ưu nghi” ở tờ 5b dòng 4; “chủng kỳ thuận tắc thiên mệnh” ở tờ 9a dòng 2; “canh chủng lập nghiệp” ở tờ 10b dòng 5. Đây là tên húy của Gia Long, được chính thức áp dụng từ năm1807 là năm triều đình nhà Nguyễn bắt đầu quy định cách đọc và viết những chữ kỵ húy (Đại nam hội điển sự lệ Q.261, Cấm điều) trở đi. Đáng chú ý là trong danh mục các chữ húy triều đình nhà Nguyễn về sau, chữ “chủng” thường được thay bằng chữ “loại” hoặc “sự”. Kiểu “chủng” viết thành “trọng” có thể xếp vào loại chữ kiêng húy tảo kỳ của triều Nguyễn và được sử dụng ít lâu nữa sau đó. Lại thấy các chữ “đảm” (tên của Thiệu Trị), “nhậm” (tên của Tự Đức) và một số chữ khác thường được viết kiêng húy từ đời Tự Đức về sau như “tông” (viết thành tôn), “thời” (viết thành thì) v.v... sách đều viết bình thường.

Các hiện tượng trên đây, kết hợp với độ cũ nát, “bờn nục” của văn bản, cho phép ta đoán định bản B2 được sao chép vào thời Gia Long. Chữ “đề” viết húy có ý nghĩa như một biểu hiện trung thành với bản gốc, tức bản Chính Hòa B1 trong quá trình sao chép. Bản B2 do vậy còn có thể gọi là bản Gia Long.

Việc kiêng húy ở bản Gia Long thực ra cũng rất tương đối. Chứng cớ là ở một số nơi khác trong bản B2, chữ “đề” (ở các tờ 29a/1, 30a/4, 34b/1, 39a/5, 50b/5, 71b/4, 83a/7, 135b/4...), chữ “chủng” (ở các tờ 15a/5, 16a/7, 58b/1, 60b/4, 111a/7, 111b/2...) đều được viết bình thường.

Bản B3 nguyên cũng là sách so dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh lưu giữ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có một bản photocopy mang ký hiệu Vv. 400. Nguyên bản có các đặc điểm như:

Sách gồm 194 tờ giấy bản gấp lại, đã ngả sang màu vàng, khổ 25x17cm. Mỗi tờ được viết lên cả hai mặt a và b, từ phải sang trái; mỗi mặt 6 dòng, viết từ trên xuống dưới; mỗi dòng có trung bình 17 chữ, dòng ngắn 15 chữ, dòng dài 18 chữ. Thỉnh thoảng có những dòng cước chú với loại chữ cỡ nhỏ, bằng một nửa chữ bình thường của sách.

Tác phẩm chép bằng bút lông mực tàu, nét chữ chân phương, dễ đọc, hoàn toàn khác với chữ viết ở bản B2.

Đầu sách, tờ 1a có dòng chữ “Thành Thái lục niên lục nguyệt sơ cửu nhật Nguyễn Cảnh Thăng phụng sao Gia phổ đại toàn nhất quyển” (Nguyễn Cảnh thăng phụng sao cuốn Gia phổ đại toàn vào ngày mồng 9 tháng 6 năm Thành Thái thứ VI, 1894). Tiếp đến là phần chính văn. Cuối sách, tờ 194a có dòng chữ “Cộng nhất bách cửu thập nhị trang” (tổng cộng 192 tờ - Đúng ra phải là 194 tờ - TN). Tờ 194b có dòng chữ “ Thành Thái Giáp Ngọ niên thất nguyệt thập cửu nhật nhi tôn Nguyễn Cảnh Thăng cẩn thuật” (cháu xa đời là Nguyễn Cảnh Thăng kính chép xong vào ngày 19 tháng 7 năm Giáp Ngọ 1894, niên hiệu Thành Thái).

Bản B3 húy các chữ “tông” (viết thành tôn, như ở các tờ 9b/4; 12b/1...); “thực” (viết trên bộ miền, dưới chữ thị là đúng, như ở các tờ 8a/3, 11b/6...); “nhậm” (hoặc viết bớt nét, như ở tờ 181a/6; hoặc đổi thành chữ dụng, như ở tờ 185a/5...); “thời” (viết thành thì, như ở tờ 1b/3; 4a/3...); “chiêu” (viết bên bộ hỏa, bên chữ triệu như ở tờ 187a/1..) v.v... Việc kiêng húy này một lần nữa xác nhận bản B3 được sao chép vào năm Thành Thái và do vậy có thể gọi bản B3 là bản Thành Thái.

Vấn đề đặt ra là bản B3 chép theo nguồn nào. Đối chiếu phần chính văn, ta thấy bản B3 chép theo và mô phỏng rất sát bản B2, ngay cả đến những tiêu chí đặc biệt như chữ viết sai, viết lẫn. Xem bảng so sánh các trường hợp sai lẫn sau đây trong bản B2 và bản B3 (xem biểu số 2 ở cuối bài).

Tất nhiên cũng có những trường hợp bản B3 trong quá trình sao chép đã phát hiện và đính chính lại các sai sót của bản B2. Chẳng hạn ở bản B2 tờ 10a/2, chữ “tán trị công thần” chép nhầm thành “công thần tán trị”, đến bản B3 tờ 12a/5 đã chép đúng trở lại; bản B2 tờ 12b/1 trong câu “huy chúng nghênh địch”, chép sót chữ “chúng”, đến bản B3 tờ 15b/5 đã được bổ sung; bản B2 tờ 14a/7 , trong câu “hà dĩ vi bất ỷ, bất như”, chép sót chữ “bất” thứ hai, đến bản B3 tờ 18b/1 đã được bổ sung; bản B2 tờ 65a/4, chữ “nga” viết nhầm thành chữ “ngã”, đến bản B3 tờ 85a/5 đã được viết đúng trở lại; bản B2 tờ 99a/5, chữ “tạc tịch” viết nhầm thành “sạ tịch”, đến bản B3 tờ 126b/6 đã được viết đúng trở lại; bản B2 tờ 100a/7, câu “tiên ngôn bất khả bất ký” chép sót chữ “bất” thứ hai, đến bản B3 tờ 128a/5 đã được bổ sung v.v...

Nhưng bên cạnh việc phát hiện và đính chính một số sai sót của bản B2, bản B3 tư cách là một bản sao chép lại, đến lượt nó vẫn vấp phải những hạn chế về hiện tượng “tam sao thất bản” mà bản B2 đã không tránh khỏi. Có tất cả 36 trường hợp bản B2 chép đúng mà bản B3 lại chép sai, hoặc chép sót, căn cứ theo phần sách hiện còn của bản B2 (xem biểu đồ số 3 cuối bài).

Có điều, dù sai sót thế nào chăng nữa thì bản B3 vẫn là bản toàn vẹn nhất hiện còn mà nhìn vào đấy ta có thể hình dung dạng đầy đủ của bản B2 được coi như đối tượng để bản B3 sao chép và mô phỏng.

Những phân tích trên cho phép đi tới một sơ đồ như sau về các thế hệ văn bản Hoan Châu ký:

Sơ đồ này sẽ chỉ dẫn cho ta cách chỉnh lý văn bản mà ta đang khảo sát.

6. Chỉnh lý văn bản

Để có một bản HCK chính xác, khả dĩ làm chỗ dựa cho việc nghiên cứu hoặc phiên chuyển tác phẩm sang tiếng Việt hiện đại, không thể không qua khâu chỉnh lý văn bản. Bởi lẽ các bản HCK hiện có, kể cả bản Thành Thái chưa mất tờ nào, vẫn chứa đựng bên trong nhiều biến động về mặt văn bản mà nổi rõ nhất là vấn đề chữ nghĩa và vấn đề phân chương mục.

Về mặt chữ nghĩa, công việc tương đối đơn giản: nhận diện những chữ viết lạ, chữa lại những chữ viết sai, thêm vào những chữ viết sót... Điều này trên thực tế đã được giải quyết khi tiến hành lập các bảng chữ viết lạ, viết sai, viết sót trên kia.

Nhưng đến vấn đề thứ hai - phân chương mục - thì tình hình có phần phức tạp. Trong HCK thỉnh thoảng có những đề mục phụ như “tứ hồi tam” (hồi thứ ba trong tổng số 4 hồi), “tứ hồi tứ” (hồi thứ tư trong tổng số 4 hồi), song trên thực tế cả hai bản Gia Long và Thành Thái đều theo nhau chép liền một mạch từ đầu chí cuối, không chia tách chương mục, thậm chí gộp cả phần chính văn với phần lời bạt.

May sao chìa khóa vẫn còn nằm trong tác phẩm.

Cuối sách có đoạn viết nguyên văn như sau: “Bằng chư cựu ký, trước thử phiếm biên, quan giả chính chi, thứ mông vật tiếu. Hữu truyện khởi tự Việt Hồ triều Bính Tuất tuế, chí bản triều Vĩnh Trị Mậu Ngọ niên, phàm nhị bách thất thập tam niên sự tích”. Chữ “hữu truyện” trong đoạn văn vừa trích dẫn có nghĩa là “chuyện kể phía bên phải”, tính theo cách viết chữ Hán từ phải sang trái ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, “hữu truyện” là “chuyện kể bên trên”, “chuyện kể ra đây”... Chữ “hữu truyện” vì vậy có thể xem như tiêu chí để chia tách lời bạt với chính văn. Từ “quan giả, chính chi, thứ mông vật tiếu” trở về trước là phần cuối của chính văn. Từ “hữu truyện khởi tự Việt Hồ Bính Tuất tuế” trở về sau là phần đầu của lời bạt.

Trong phần chính văn, ta thường gặp những câu chuyển tiếp kiểu “Dục thức thùy vi hùng bi khí tướng, tu khán hạ văn tiện kiến” (Muốn biết người nào có tướng mạo hùng bi, chờ xem hạ văn sẽ rõ). Hoặc “bất tri Anh Tông thiên bá hà như, tu khán hạ hồi phân giải” (Không biết Anh Tông xiêu giạt ra sao, chờ xem hạ hồi phân giải).

Theo thông lệ của tiếu thuyết chương hồi, mỗi câu như vậy có giá trị như một dấu kết thúc chương hoặc hồi đang trình bày, trước khi chuyển sang một chương hồi mới. HCK có tất cả 15 câu chuyển tiếp, trong đó 3 câu mang chữ “hạ hồi” (hồi sau) và 12 câu mang chữ “hạ văn” (tiết sau). “Hạ hồi” báo hiệu cho hồi sẽ tới; 3 “hạ hồi” cộng với hồi đang kể, vị chi 4 hồi. “Hạ văn” báo hiệu cho tiết sẽ tới; 12 “hạ văn” cộng với 3 tiết đang kể ở đầu mỗi hồi, vị chi 16 tiết. Như vậy HCK có cả thảy 4 hồi, 16 tiết. Xem bảng kê sau đây (số từ ghi theo bản Thành Thái):

HỒI TIẾT Tờ (bản B3) CÂU CHUYỂN TIẾP
I 1 2 3 4 1a/3 - 12b/6 13a/1 - 23b/4 23b/5 - 36b/5 36b/6 - 51b/3 Dục thức thùy vi hùng bi khi tướng tu khán Hạ VĂN tiện kiến. Dục tri Thượng giá khởi phát như hà tu khán Hạ VĂN phân giải kiến. Tranh bá đồ vương như hà, dẫn mục Hạ VĂN tiện kiến. Bất tri Anh Tôn thiên bá như hà, tu khán Hạ Hồi phân giải.
II 1 2 3 4 51b/4 - 66b/1 66b/2 - 78b/6 79a/1 - 91b/1 91b/2 - 101b/1 Bất tri nhị đạo tịnh tiến như hà, cô khán Hạ VĂN đô năng phân giải. Bất tri hầu mệnh như hà, tu khán HạVĂN phân giải. Bất tri tặng phẩm như hà, thả khán Hạ VĂN tiện kiến. Bất tri hậu quy như hà, thả khán Hạ Hồi phân giải.
III 1 2 3 4 102a/1 - 112a/4 112a/5 - 123b/2 123b/3 - 135b/1 135b/2 - 149b/1 Bất tri chủ soái tài quyết như hà, tu khán Hạ VĂN minh bạch khả kiến. Bất tri sính hội như hà, tu khán Hạ VĂN tiện kiến. Bất tri bị dụng xuất quân như hà, tu khán Hạ VĂN tiện kiến. Bất tri triều đình trù vận tiến thảo như hà, thả khán Hạ HồiI phân giải.
IV 1 2 3 4 149b/2 - 158b/6 159a/1 - 169b/1 169b/2 - 181b/1 181b/2 - 191a/3 Bất tri Lại bộ tặng chế như hà, tu đãi Hạ VĂN địch mục tiện kiến. Bất tri triết vương bôn bá hà tại, tiện khán Hạ VĂN biện bạch khả tri. Bất tri Thượng ý như hà, tu khán Hạ VĂN tiện kiến. Bằng chư cựu ký trước thử phiếm biên, quan giả chính chi, thứ móng vật tiến.

Bảng kê trên đây hoàn toàn phù hợp với điều ghi trong lời bạt HCK: “Nay tập truyện đã thành, lẽ đâu lại dung dị cắt xén câu này câu nọ. Cứ tạm để nguyên như vậy, cả thảy bốn hồi, mỗi hồi bốn tiết, bốn lần bốn mười sáu, tổng cộng mười sáu tiết”.

S II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HOAN CHÂU KÝ

1. Một bộ tiểu thuyết chương hồi thuộc loại cổ nhất nước ta:

HCK kể chuyện vào cuối thời nhà Hồ, quân Minh sang xâm chiếm nước ta, gây đau thương tang tóc. ở Đông Triều có người tên là Nguyễn Cảnh Lữ sống không nổi, phải lìa bỏ xứ sở, lần hồi đi vào phương Nam, cuối cùng dừng lại dưới chân rú Nguộc ở Hoan Châu làm nghề chèo đò. Con của Lữ là Luật nổi tiếng về châm cứu, không may bị hổ giết hại. Con của Luật là Cảnh làm thuốc nam, sau chuyển sang nghề nông. Cảnh tốt bụng, nhân hậu, được một thuật sĩ tìm cho ngôi đất phát ngay tại quê nhà. Sau khi Cảnh mất, thi hài táng vào ngôi đất phát, dòng họ Nguyễn Cảnh từ đấy có một bước ngoặt thực sự... Họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, đám cựu thần không phục, giặc cướp nổi dậy. Người con trai thứ năm của Cảnh là Huy đứng ra tổ chức nhân dân đánh giặc giữ làng. Nguyễn Kim dựng triều Lê Trung hưng ở Sầm Châu, Huy và con là Hoan đến yết kiến, được thu dụng. Vua Lê về hành tại Vạn Lại, bị viên cận thần Nguyễn Tử Nha thông đồng với nhà Mạc là Lê Bá Ly và Nguyễn Thuyến do bất mãn, đã chạy vào Thanh Hoa đón quân Lê ra đánh Thăng Long. Chúa Mạc bỏ chạy khỏi kinh thành. Hoan lập nhiều chiến công, được ban tên Trịnh Mô. Phan Công Tích tử tiết tại lèn Hai Vai. Hoan đã phá quân Mạc do Nguyễn Quyện chỉ huy. Vì sơ suất, Hoan bị Quyện bắt cóc đua về Thăng Long. Con của Hoan là Kiên đánh lui quân của Quyện. Hoan bị giết tại Kinh đô, thi hài được chuyển về chôn ở quê nhà. Quân Mạc lại cướp vào Thanh Hoa. Trịnh Tùng tiến đánh Thăng Long. Vua tôi nhà Mạc rút về giữ Hà Bắc. Tướng Mạc là Bùi Văn Khuê đem quân hàng nhà Lê. Vua Lê về Thăng Long. Phùng Khắc Khoan đi sứ Trung Quốc. Trịnh Tùng được vua Lê phong tước Bình An Vương. Nguyễn Hoàng lập mưu vào xây dựng cơ ngơi riêng ở Thuận Hóa. Trịnh Tùng ra lệnh chặt bỏ cây quái ỏ lèn Hai Vai. Chúa Mạc lui giữ Kim Thành. Nguyễn Cảnh Hà, con Nguyễn Cảnh Kiên kết hôn với quận chúa. Trịnh Tùng mộng thấy Nguyễn Cảnh Hoan. Nguyễn Cảnh Hà tu tạo chùa Bụt Đà để cầu tự. Con của Trịnh Tùng là Trịnh Xuân tranh ngôi chúa. Tùng dùng kế giết Xuân. Vua Lê phong Trịnh Tráng làm Vương thế tử. Tráng mang đại quân dẹp họ Mạc ở Cao Bằng. Nguyễn Cảnh Hà được nhà chúa ban tên Trịnh Tông. Nhà Mạc hoàn toàn thất bại. Công cuộc trung hưng của nhà Lê đi tới thành công. Đất nước thanh bình, nhân dân yên sống.

Những nội dung chính trên đây đã được trình bày bằng văn xuôi, thỉnh thoảng cũng pha phách một số văn biền ngẫu (thư, chế, sắc, câu đối) hoặc văn vần (thơ, tán), trong nhiều hồi, nhiều tiết. Mở đầu mỗi hồi hoặc mỗi tiết đều có hai câu đối ngẫu khái quát nội dung sắp kể của hồi đó, tiết đó. Kết thúc mỗi hồi hoặc mỗi tiết, đều có những chữ “chính thị”, kèm theo hai câu đối ngẫu mang tính chất chuyển chiết, nhằm tóm tắt những ý lớn vừa trình bày, đồng thời báo trước nội dung sẽ truyền đạt trong phần tiếp theo.

Về nhân vât, ta thấy xuất hiện trong HCK hầu khắp các chính khách cùng những nhà quân sự có tên tuổi trong xã hội nước ta các thế kỷ XVI, XVII. Thuộc giới cầm quyền Lê Trịnh, có các vua Lê từ Trang Tông đến Hy Tông; các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tráng. Thuộc hàng tướng lĩnh Lê Trịnh, có Nhân quốc công Vũ Công Kỷ, Tấn quốc công Nguyễn Cảnh Hoan, Đoan quận công Nguyễn Hoàng, Xuân quận công Nguyễn Tử Nha, Lai quận công Phan Công Tích, Vinh quận công Hoàng Đình ái... An quận công Lại Thế Khanh, Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên, Phấn Vũ hầu Đỗ Liêu, Tuấn Đức hầu Trịnh Cối, Quảng Phúc hầu Nguyễn Cảnh Hà, Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Thiết Sơn bá Trần Chân... Thuộc giới cầm quyền nhà Mạc có các vua từ Thái Tổ Mạc Đăng Dung đến Mạc Kính Vũ. Thuộc hàng tướng lĩnh nhà Mạc có Phụng quốc công Lê Bá Ly, Trạng nguyên Thư quận công Nguyễn Thuyến, Tây quận công Nguyễn Kính, Thạch quận công Nguyễn Quyện, Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi, Phù hưng hầu Nguyễn Miễn...

Về biến cố và tình huống, HCK đã ghi nhận đầy đủ các sự kiện quan trọng xảy ra trên đất Việt Nam hồi bấy giờ: nhà Lê với sự giúp đỡ của triều thần, giành lại chính quyền trong tay nhà Mạc; mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực Lê - Mạc. Lê - Trịnh, Trịnh - Nguyễn, Trịnh - Trịnh; thái độ vô trách nhiệm của giai cấp thống trị đối với nhân dân; cuộc sống cay cực của số đông trong chiến tranh Lê - Mạc v.v... Qua việc mô tả sự biến, tác phẩm cũng phản ánh một số vấn đề mới đặt ra cho lịch sử đương thời. Chẳng hạn vấn đề cơ chế lãnh đạo nhà nước phong kiến các thế kỷ XVI, XVII. Nền kinh tế nông - thương nghiệp lúc này đã có nhiều khởi sắc so với giai đoạn trước: các trung tâm quân sự, chính trị chuyển dần về phía Nam, khuynh hướng đòi hỏi dân chủ, mở cửa, giao lưu ngày càng rõ rệt, việc quản lý đất nước do vậy không thể cứ tiếp tục như cũ. Chuyện nhà Mạc thay thế nhà Lê không thêm vào phương trình lịch sử dân tộc bất cứ nhân tố nào mới nên cuối cùng đã thất bại. Nhưng cái công thức “có vua, có chúa”, dù rằng ở đây vua chỉ làm vì, chúa mới là người cầm cân nảy mực, tỏ ra tạm thời thích hợp, được ủng hộ và đã trụ lại được một thời gian. HCK đã thể hiện điều này qua việc tập đoàn thống trị liên danh Lê - Trịnh, chứ không phải đơn nhất hoặc Mạc, hoặc Lê, hoặc Trịnh đã đoàn kết được cả nước, tập hợp được lực lượng, kết thúc được chiến tranh, đưa cuộc sống trở lại yên bình tạm thời, dân tộc tiếp tục phát triển. Đây là căn nguyên sâu xa đã phá vỡ luận điểm “tôi ngay không thờ hai chúa” quá xơ cứng và chật hẹp của đạo Nho. Một hiện tượng nữa cũng có thể xem là mới, được miêu tả trong HCK, đó là sự sinh sôi nảy nở dưới nhiều dạng vẻ của tư tưởng thực dụng. Một nhà nho vào loại cỡ như Phùng Khắc Khoan đã sẵn sàng quay lưng lại đạo thống, khuyên Nguyễn Hoàng trốn vào Nam lập vương quốc riêng, “Hoành sơn một dải có thể dung thân; biển cả là hào có thể vạn toàn” (Hồi ba, Tiết thứ ba). Một vị đại tướng như Nguyễn Quyện không quản ngại từ bỏ con đường phụ thân đã đi, quay sang phục vụ cho “ngụy triều”, miễn được chức cao quyền trọng (Hồi một, Tiết thứ tư). Ngay như các chúa Trịnh cũng là những con người hết sức thực dụng. HCK cho thấy họ luôn luôn chơi con bài vua Lê trên tay. Khi nào còn bài mất giá hoặc không còn thích hợp nữa, họ vất ngay vào sọt rác không thương tiếc, và phủ lên nó nhiều nhãn hiệu màu mè. Bên cạnh tư tưởng thực dụng, chủ nghĩa cơ hội cũng có đất để phát triển. Điều này bộc lộ trong cách lựa chọn “ai mạnh thì theo” thường bắt gặp trong các cuộc dụ hàng: Nguyễn Tử Nha hàng Nguyễn Kính (Hồi một, Tiết thứ ba), Tống Đức Tín (Vị) hàng Nguyễn Quyện (Hồi hai, Tiết thứ nhất), Lâm quận công hàng Nguyễn Quyện (Hồi hai, Tiết thứ ba)...

Về cách diễn tả, bằng ngòi bút trung thành với hiện thực, HCK không lẩn tránh việc phơi bày những lục đục, thối nát trong nội bộ tập đoàn thống trị Lê - Trịnh, phía mà tác giả thuộc dòng họ Nguyễn Cảnh hồi đó vẫn tôn thờ: những rắc rối, ngờ vực giữa Lê Duy Bang và Trịnh Tùng (Hồi một, Tiết thứ tư); việc tranh ngôi chúa, dẫn đến cái chết thảm khốc của Trịnh Xuân (Hồi bốn, Tiết thứ ba)... Ngay cả những chuyện đau lòng trong nội bộ dòng họ Nguyễn Cảnh - việc Thụy Trung hầu Cảnh Hải nhân lúc ốm nặng, đã lấy trộm hài cốt Nguyễn Cảnh Hoan cải táng nơi khác, mang hài cốt giả chôn vào nơi cũ (Hồi hai, Tiết thứ tư); việc Nguyễn Cảnh Kiên bị những người em ruột tố cáo với triều dình là có đi lại với Nguyễn Hoàng, khiến Trịnh Tùng phải tổ chức hội thề để xóa bỏ mọi nghi kỵ trong hàng tướng lĩnh (Hồi ba, Tiết thứ tư) - HCK cũng không hề im lặng.

Về mặt văn chương, HCK có những thành công nhất định trong nghệ thuật sử dụng tiếng Hán cổ, dùng khá đắt một số điển tích Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ và trong một số trường hợp, cũng xây dựng được những cuộc đối thoại với nội dung sinh động, hấp dẫn. Chẳng hạn cuộc đấu tranh tư tưởng nảy lửa nhưng lịch sự giữa Nguyễn Cảnh Hoan và Nguyễn Quyện (Hồi hai, Tiết thứ ba); các cuộc “rỉ tai” đầy khích động giữa Nguyễn Hoàng với Trịnh Tùng, với Phan Ngạn, với Ngô Đình Nga (Hồi ba, Tiết thứ ba). Lấy cuộc đối thoại giữa Thạch quận công Nguyễn Quyện với Tấn quận công Nguyễn Cảnh Hoan làm thí dụ, HCK chép:

“Lại nói Tấn quận công bị giam giữ lâu ngày, sầu đau day dứt. Một hôm thấy Thạch quận công Quyện từ ngoài bước vào thăm hỏi, Quyện lại sai bày tiệc rượu để khoản đãi Tấn công, nhân đó hỏi Tấn công có cần nói thêm gì nữa không. Tấn công đáp: “Số phận của Mô đã được định đoạt, chỉ mong có chết mà thôi”. Thạch quận nói: “Hoàng triều không hám giết người, hà tất phải cầu chết”. Tấn công rằng: “Ta thờ vua Lê chúa Trịnh, chỉ nghĩ tới trung hiếu, muốn để lại tiếng thơm đến muôn đời. Không may đến nước này, sống gửi thác về, có gì mà phải sợ!”. Nguyễn Quyện vờ cười nói: “Ta nghe ở thôn quê có câu sấm truyền rằng: “Mô là cây của Mạc, nếu không được Mạc dùng, ắt sẽ thành tro dưới mồ thôi”. ý giả sấm truyền cũng muốn nhắc nhở Tấn công đấy, thế mà Tấn công lại một mực không tỉnh ngộ”. Tấn công cũng vờ bảo Quyện rằng: “Cảm ơn hậu ý của ông đã giải thích cho nghe câu sấm ngữ, ta há chẳng suy nghĩ sao? Song thuở bình sinh khi qua chơi nhà ông, ta thấy thân sinh của ông bảo ông tuy thông minh nhưng lười học, nên mới đặt tên cho ông là Quyện, nhốt ông trong thư phòng, có câu văn rằng: “Quyện là người của sách, vì quay lưng lại sách, quả nhiên bị cái nhục cầm tù”.Sao ông không nghĩ suy về điều đó! Người đọc sách không thể làm trái với sách. Trong sách có nói: “Tôi ngay không thờ hai chúa”, sao ông làm trái lời đó vậy? Họ Mạc kia giết vua, làm nước, tiếm xưng đế vị, lẽ ra ông không nên phục vụ chúng mới phải. Đằng này ông Thạch quận lại phản bội chúa của mình, đi phụng thờ kẻ phản nghịch tức họ Mạc. Tuy có được họ Mạc khen ngợi đấy, nhưng đến đời sau, con cháu họ Thạch sẽ chịu tiếng xấu như loài chó lợn, khiến muôn đời chê cười. Còn Tấn quận này dù một ngày kia có bị giam đến chết khô, vẫn thì được hoàng ân phong tặng hiển hiệu, cả nước tôn thờ, đền miếu của Tấn quận ở Nghệ An sẽ được cúng tế, phúc ấm để lại cho con cháu mãi mãi là công thần, rạng rỡ cùng đất nước. Nền phúc thật to dày, vậy thì ta phải việc gì theo ông đi làm phản?” Thạch quận công nói: “Đại trượng phu không thờ hai vua, thế là trung! Quyện này nếu về với chủ cũ sẽ thất trung”. Nói xong liền đứng phắt dậy, phủi áo bước ra”.

Những nỗ lực của HCK về văn chương như trên là có thật, và điều này đã vạch ra một ranh giới nghệ thuật giữa HCK với các tác phẩm tiền thân của nó như HCNCK, TQNCK và PTTB, trong đó HCNCK bị tác giả HCK chê là “lời văn vụng về” (Lời bạt), có những chữ dùng chưa đắt, những câu văn kém điêu luyện, những đoạn miêu tả trùng lặp, lòng thòng...

Tất cả các hiện tượng trên đây về văn thể, kết cấu, nhân vật, biến cố, tình huống, bút pháp, văn chương... đều nói lên rằng HCK đáng được nhìn nhận và đối xử trước hết như là một bộ tiểu thuyết chương hồi, với nghĩa đầy đủ của từ này.

Trước HCK, lịch sử tiểu thuyết cổ Việt Nam từng chứng kiến sự thành công trên nhiều chừng mực khác nhau của thể loại truyện ngắn văn xuôi viết theo kiểu truyền kỳ, với các tác phẩm tiêu biểu như Việt điện u linh tập (TK.XIV), Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (TK.XV), Nam ông mộng lục (TK.XV), Thánh Tông di thảo (TK.XV), Truyền kỳ mạn lục (TK.XVI)... trong đó Truyền kỳ mạn lục có thể xem như là đỉnh cao nhất mà thể loại truyện ngắn văn xuôi có thể vươn tới dưới thời phong kiến. Còn thể loại truyện dài văn xuôi viết theo kiểu chương hồi trong lịch sử tiểu thuyết cổ Việt Nam thì phải đợi đến thế kỷ XVII mới được chính thức thành lập với sự xuất hiện của HCK.

Mỗi nền tiểu thuyết thường đi tới, trước hai tác động chính: một hối thúc từ bên trong, do sự vận động nội tại của bản thân nền tiểu thuyết đó, và một kích thích từ bên ngoài, do giao lưu văn học mà thành. Con đường đi lên của tiểu thuyết cổ Việt Nam không ngoài thông lệ ấy. Truyền kỳ mạn lục không chỉ ra đời trên cơ sở thành tựu đạt được của truyền kỳ Việt Nam từ thế kỷ XVI trở về trước, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tiễn đăng tân thoại, một kiệt tác trong truyền kỳ phương Đông. Cũng vậy, HCK đã xuất hiện như một thể nghiệm ban đầu của truyện chương hồi Việt Nam, trên nền tảng mà những gì mà tiểu thuyết cổ Việt Nam đã tạo dựng, và đặc biệt là sự gợi ý trực tiếp của Tam quốc diễn nghĩa, một tác phẩm mà nội dung từng được HCK nhắc tới nhiều lần. Mối quan hệ giữa HCK và Tam quốc diễn nghĩa được xác lập bởi những nét tương đồng về đối tượng mà chúng miêu tả: xã hội “tam phân” (Thục - Ngụy - Ngô so với Lê - Trịnh (hay Nguyễn) - Mạc); ý đồ “nhất thống” (dưới ngọn cờ nhà Hán so với dưới ngọn cờ nàh Lê) v.v... Điều này cho thấy tiểu thuyết chương hồi Việt Nam không thể ra đời sớm hơn thế kỷ XVII, khi mà điều kiện bên trong cũng như bên ngoài của nó chưa đủ chín mùi.

HCK, tóm lại, đã mang thêm đến cho tiểu thuyết cổ Việt Nam một loại hình mới bên cạnh loại hình truyền kỳ đã có, trước khi tiểu thuyết chương hồi nước ta phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX trở về sau, với nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó Hoàng Lê nhất thống chrí là một đỉnh cao rạng rỡ.

2. Một tập sử tư nhân viết về chặng Lê Trung hưng:

Lời bạt HCK có đoạn viết: “Đã nói là sách của dòng họ Nguyễn Cảnh, lẽ ra chỉ chép về một gia tộc thôi. Đằng này lại có nhiều đoạn dính lưu tới quốc sự, nhiều chứng cứ viện dẫn từ sách cổ, không thể không cài thêm vào nhan đề mấy chữ Nam Đường phiếm thoại”. Rõ ràng người soạn HCK muốn tác phẩm của mình còn được nhìn nhận như là một “phiếm thoại”, một cuốn dã sử, một tập sử tư nhân bên cạnh chính sử, sách quan phương, sách triều đình. Một chỗ khác trong Lời bạt cũng từng dùng chữ “Tì quan dã sử” (tập dã sử của chức quan mọn) càng khẳng định tính chất “sử tư nhân” của HCK.

Giá trị thật sự của tập sử tư nhân này là ở chỗ nào?

Như trên kia từng nói, đã có những bộ quốc sử như BKTB, THTL chép về giai đoạn Lê Trung hưng theo chỉ dụ triều đình, do các sử quan thực hiện. Chỗ hạn chế lớn nhất của các bộ sử vừa đề cập có phần đúng như lời nhận xét trong Đại Nam văn uyển thống biên Q.15, tờ 14b: “Đến giai đoạn từ Lê Trung hưng trở về sau, họ Trịnh nắm thực quyền, vua Lê ngồi lấy vị. Những điều chép trong Bản kỷ tục biên do vậy đều đề cao họ Trịnh, hạ thấp vua Lê, thậm chí những chỗ họ Trịnh phản lại vua Lê, sách cũng chép xuyên tạc để ca ngợi. Hiện tượng mũ giầy đảo lộn chưa bao giờ tồi tệ như lúc này. Những người làm sử đều là những người đứng về phía họ Trịnh, các điều ghi chép trong sách không phải là theo công luận”. HCK ra đời như là một nỗ lực góp phần điều chỉnh các thiên kiến kiểu trên của quốc sử. Các vua Lê thời Trung hưng, trong cách nhìn của HCK, vị tất đều là những con người không có chút tài cán gì. Chẳng qua họ bị họ Trịnh áp chế, không phát huy được năng lực. HCK không nỡ viết như BKTB về tội nợ của Lê Anh Tông: “Bấy giờ Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: Tả tướng quốc binh quyền thế lực đều to, bệ hạ khó lòng cùng đứng được. Vua nghe nói như vậy vừa sợ vừa ngờ, bèn đang đêm chạy ra ngoài, mang theo 4 hoàng tử đến thành Nghệ An đóng ở đấy” (Q.16, Lê kỷ, 1572, mùa đông, tháng 11). Sách của dòng họ Nguyễn Cảnh chỉ ghi lướt qua nỗi bất hạnh này của vua Lê bằng một câu gọn lỏn: “vào đêm Mậu Dần, 26 tháng 12, Anh Tông ra khỏi cung đi tuần thú phương Nam, đóng lại ở Nghệ An. Rạng sáng ngày Kỷ Mão, trăm quan mới biết vua đã chạy ra ngoài (Hồi một, Tiết thứ tư). BKTB còn chép rõ Lê Anh Tông bị giết như thế nào: “Bấy giờ Hồng Phúc hoàng đế xiêu giạt ở Nghệ An, các hoàng tử Bách, Lựu, Ngạnh, Tùng đều theo đi. Tả tướng Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Hữu Liêu tiến quân đến thành. Vua tránh ra ruộng mía. Bọn Hữu Liêu quỳ lạy ở ruộng nói rằng: “Xin bệ hạ chóng về cung để yên lòng mong ngóng của thần dân trong nước, bọn thần không có ý gì khác cả”. Bèn đem 4 con voi đón vua về, sai bọn Bảng quận công Tống Đức Vị (Tín) theo hầu, ngày đêm cùng đi. Ngày 22, về đến huyện Lôi Dương. Hôm ấy vua băng. Bấy giờ Tả tướng Trịnh Tùng sai Tống Đức Vị (Tín) ngầm giết, phao tin là vua tự thắt cổ” (Q.17, Lê kỷ, 1573). Trong khi HCK vẫn với thái độ xem đây như là một chuyện nữa chẳng hay hớm gì, chép ít chừng nào tốt chừng ấy để khỏi làm cái việc đi thanh minh cho hành động tàn bạo của chúa Trịnh như BKTB: “Đến ngày Quí Mão 22, ngự giá về đến Lôi Dương, Bảng quận công Tống Đức Tín (Vị) vào chầu. Vua mất. Việc này thôi không nhắc tới ở đây nữa” (Hồi hai, Tiết thứ nhất). Các chúa Trịnh, theo con mắt HCK, cũng chẳng phải cái gì toàn bích. Tập “sử tư nhân” của dòng họ Nguyễn Cảnh đã mượn lời Nguyễn Quyện để gián tiếp phê phán sự chuyên quyền độc đoán quỷ quyệt gian trá của Trịnh Tùng qua bức thư Thạch quận công gửi đến Tấn quận công (Hồi hai, Tiết thứ ba). Đặc biệt những chuyện do đời trong nhà họ Trịnh, cái mà BKTB cố tình né tránh thì HCk lại “đại thư”, “cực tả”. Chẳng hạn chuyện Trịnh Xuân tranh ngôi chúa với Trịnh Tráng, dẫn tới hậu quả cung thành náo động, Trịnh Tùng phải xiêu dạt, vua Lê phải xuất bôn... trong khi BKTB lược chép chưa đầy vài mươi dòng (Q.18, Lê kỷ, 1623, mùa hạ, tháng 6), thì HCK lại phanh phui dễ chừng đến mấy trang sách (Hồi bốn, Tiết thứ ba).

Mặt khác, HCK còn lưu giữ nhiều sử liệu quý mà sách vở đương thời cũng như đời sau ít khi đề cập. Thử so sánh HCK với BKTB. Có những chi tiết, những tư liệu, những sự kiện HCK có, trong khi BKTB lại thiếu vắng. Chẳng hạn BKTB, Q.18, Lê kỷ, khi chép các sự việc xảy ra trong năm Quý Hợi (1623), có dẫn bài kim sách truy phong Bình An vương Trịnh Tùng. Nếu đối chiếu với cũng bài kim sách này trong HCK, ta sẽ thấy bài kim sách ở HCK tiếp ngay sau câu “tấn phong vi nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô vương” (tấn phong làm Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô vương) còn có thêm 2 câu nữa mà BKTB đã bỏ xót: “Viên tứ quan miện quyền phục, nhưng tích khuê toản thổ điền” (Ban cho áo mũ phẩm phục, thưởng cho châu ngọc ruộng nương) (Hồi bốn, Tiết thứ ba). Một thí dụ khác: chiến dịch đánh họ Mạc ở Cao Bằng năm 1626, được ghi lại trong HCK như sau: “Lại nói tháng 7, mùa thu năm Vĩnh Tộ thứ tám, Bính Dần (1626), Thanh Đô vương cho rằng họ Mạc còn chiếm cứ Cao Bằng, nay nhân dịp nước thu lên to, truyền lệnh lợi dụng nước thủy triều đem thủy quân tiến đánh. Tháng ấy quan quân rầm rộ lên đường, lấy Đô đốc đồng tri Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà làm tiên phong. Tới Cao Bằng, quan quân dàn trận nhạn quyết chiến (...). Lúc này Cảnh Hà đốc thúc quân lính xông lên phá lũy, đốt cháy doanh trại ngụy Mạc. Quân Mạc ai nấy đều bỏ sào huyệt chạy trốn. Quân vương thắng lớn khải hoàn, kể rõ thành tích tâu lên. Vua xuống chiếu phàm những ai thuộc cơ đội các doanh có công trong đợt tiến đánh Cao Bằng, diệt trừ giặc Mạc, đều được gia tăng chức tước” (Hồi bốn, Tiết thứ tư). Sự kiện này BKTB đã bỏ sót, chứ không phải vì cho là nhỏ nhặt mà không chép. Bởi lẽ khi liệt kê các sự việc xảy ra trong năm Kỷ Tỵ (1629), BKTB có ghi: “Mùa hạ, tháng tư (...) xuống chiếu chỉ rằng: Phàm các dinh, cơ đội nào đi theo đánh giặc Mạc ở Cao Bằng có công, nên gia thăng chức tước” (Q.18, Lê kỷ). Một số văn kiện hành chính thuộc cấp Nhà nước không thấy chép trong BKTB, nhưng lại xuất hiện ở HCK: tờ biểu Lê Bá Ly xin vua Lê đem quân ra Bắc đánh Thăng Long (Hồi một, Tiết thứ tư), tờ biểu Phùng Khắc Khoan gửi vua Minh năm 1597 khiếu nại về cái chức “An Nam Đô thống sứ” (Hồi ba, Tiết thứ hai), bức thư mật của Trịnh Tùng dụ con là Trịnh Xuân vào chầu (Hồi bốn, Tiết thứ ba), sắc văn và chế văn của triều đình ban phong chức tước cho những người có công trong dòng họ Nguyễn Cảnh (Hồi bốn, Tiết thứ ba Tiết thứ tư) v.v... Không hẳn số văn kiện vừa nêu đều mang tính hư cấu. Chứng cớ là tờ biểu Phùng Khắc Khoan gửi vua Minh tuy không được chép trong BKTB, nhưng lại có mặt ở Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Q.30, lời văn so với HCK chỉ khác vài chữ.

Lại có những sự kiện HCK chép đầy đủ, tỉ mỉ hơn Chính sử. Thí dụ việc Trịnh Kiểm sai hàng tướng nhà Mạc là Lê Bá Ly cùng với bọn Vũ Văn Mật tiến đánh Thăng Long năm 1551 (BKTB, Q.16, Lê kỷ; HCK, Hồi một, Tiết thứ tư); danh sách những người đòi phế truất Trịnh Cối, cử Trịnh Tùng thay lĩnh binh quyền năm 1570 (BKTB, Q.16, Lê kỷ; HCK, Hồi một, Tiết thứ tư); việc bắt Mạc Hồng Ninh tại chùa Mô Khuê ở Phượng Nhỡn năm 1601 (THTL, Q.2; HCK, Hồi bốn, Tiết thứ nhất) v.v... Đến như các đóng góp không nhỏ của dòng họ Nguyễn Cảnh vào sự nghiệp Trung hưng thì BKTB chỉ chép sơ sài, còn THTL thì hầu như không đả động gì tới.

Cuối cùng, HCK trên một vài phương diện ghi chép có khác với chính sử. Thí dụ chung quanh cái chết Phan Công Tích, trong khi BKTB nói Nguyễn Quyện dùng kỳ binh phục bắt được Tích giải đi (Q.17, Lê kỷ), thì HCK lại nói Tích lấy dao rạch bụng moi ruột ra mà bảo với Quyện rằng: “Ruột gan ta đây, ngươi hãy xem cho biết”, voi Tích cưỡi đã mang xác chủ trở về (Hồi hai, Tiết thứ nhất). Những chi tiết chênh lệch như thế này giữa HCK và chính sử còn có thể tìm thấy trong cách tính thế hệ thứ Lê Duy Bang (BKTB, Q.16, Lê kỷ nói là “cháu bốn đời” của Lê Trừ; HCK, Hồi một, Tiết thứ tư nói là “cháu năm đời” của Lê Trừ), hoặc trong việc xác định thời điểm “bộ ba” Lại Thế Khanh, Nguyễn Cảnh Hoan, Phan Công Tích đem quân đi cứu Nghệ An (BKTB, Q. 16, Lê kỷ nói là vào tháng 9 năm 1572, HCK, Hồi một, Tiết thứ tư nói là vào tháng 7 năm 1572, muộn hơn BKTB, 2 tháng) v.v... Thật khó nói trong các trường hợp trên, HCK đúng hay chính sử đúng. Lời bạt HCK từng gợi ý rằng nếu thấy tập sử tư nhân có gì khác với quốc sử, “hư thực thế nào” phải đợi tra cứu thêm các nguồn tư liệu khác. Đáng tiếc là cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có đủ tư liệu tin cậy để xác minh.

3. Một cuốn phổ ký mang nhiều nét khác lạ

Ngoài tính chất một bộ tiểu thuyết, một tập dã sử, HCK còn là một cuốn gia phổ.

HCK trước hết cho thấy các thế hệ của dòng họ Nguyễn Cảnh từ thủy tổ là Nguyễn Cảnh Lữ đến thế hệ thứ tám là con cái của Nguyễn Cảnh Hà.

Trong mỗi thế hệ, sách giới thiệu từng người, với các chi tiết như tên húy, tên chữ (nếu có), tên hiệu (nếu có), biệt hiệu (nếu có), tên mẹ (có cả thân sinh, tộc họ, quê quán... của mẹ, nếu biết được), tên vợ (có cả thân sinh, tộc họ, quê quán... của vợ, nếu biết được). Những chức quan mà người ấy đã kinh qua (nếu có), những tước vị mà người ấy được phong tặng qua các triều đại (nếu có) v.v...

Đối với những người tiêu biểu thuộc từng thế hệ - đời thứ nhất có Nguyễn Cảnh Lữ, đời thứ hai có Nguyễn Cảnh Luật, đời thứ ba có Nguyễn Cảnh Cảnh, đời thứ tư có Nguyễn Cảnh Huy, đời thứ năm có Nguyễn Cảnh Hoan, đời thứ sáu có Nguyễn Cảnh Kiên, đời thứ bảy có Nguyễn Cảnh Hà, đời thứ tám có Nguyễn Cảnh Quế - HCK đều trình bày, trong chừng mực có thể, sự tích của họ, ngày sinh, ngày mất, mồ mả, con cái của họ, cùng với những giá trị mà họ đánh đổi được bằng cả cuộc đời mình, góp phần làm rạng rỡ bộ mặt chung của toàn tộc. Những giá trị ấy, theo tác giả HCK, chính là “tám đời nhân nghĩa” (Lời bạt).

Riêng Nguyễn Cảnh Hoan, Nguyễn Cảnh Kiên, Nguyễn Cảnh Hà, Nguyễn Cảnh Quế, những công thần thời Trung hưng, đặc biệt là Nguyễn Cảnh Hoan, HCK dành nhiều trang để viết về họ, biểu dương lòng yêu nước, yêu dân và tinh thần làm việc hăng say của họ, gọi là “bốn lớp trung cần” (Lời bạt).

“Tám đời trung nghĩa, bốn lớp trung cần” trở thành chủ đề bao trùm của HCK trong tư cách là một gia phổ, một tộc phổ.

Từ các mặt phân tích trên, có thể nói HCK mang đầy đủ đặc trưng của loại hình gia phổ và không hề thua kém bất cứ một cuốn phổ ký chuyên biệt nào hiện còn, như các bản A2, A3 trên kia, trong việc chép về tám thế hệ đầu của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh. Chẳng những không thua kém, HCK còn có một số mặt mạnh mà các cuốn gia phổ kia không có. Thí dụ đã gắn cái riêng với cái chung, lồng “lịch sử” của một dòng họ trong lịch sử bao quát của dân tộc. Hay nói như, HCK: “Đò là đò của kẻ khác, nhưng họ không chỉ chở bản thân họ, mà còn mời khách quý của họ cùng qua sông để con đò có thêm sức nặng. Sách là sách của người khác, nhưng họ không chỉ chép về bản thân họ, mà còn chép cả về sự việc của đất nước để tập sách trở thành phong phú hơn”. (Lời bạt) Các nội dung trên đây lại được truyền đạt bằng tiếng nói hình tượng của văn học, thông qua thể loại tiểu thuyết chương hồi, nhằm đạt đến hiệu quả dễ đọc, dễ nhớ, dễ cuốn hút... Tóm lại, HCK đã "dựa vào sự thực mà diễn thành văn, ngang qua thế cuộc, chép đủ tám đời”, điều này đã tự phân biệt nó với các cuốn gia phổ ký khác cho đến nay được biết.

Tất nhiên HCK cũng có những hạn chế nhất định, xét về mặt gia phổ học. Vì ham gửi gắm các “truyện tích cổ kim” (Lời Bạt), tính chất “sử” của dòng họ ít nhiều có bị loãng. Do khuynh hướng tiểu thuyết hóa, một số chi tiết đã hư cấu, ảnh hưởng đến độ tin cậy của phổ ký...

Mặc dù có một số nhược điểm về nội dung cũng như về văn bản, những đóng góp của HCK trên các lĩnh vực văn học, sử học, gia phổ học văn rất đáng ghi nhận. Do vậy mong tác phẩm sớm được chỉnh lý và phiên chuyển sang tiếng Việt hiện đại để phục vụ bạn đọc rộng rãi.

CHÚ THÍCH

(*) Tác phẩm viết bằng chữ Hán, do cụ Nguyễn Song Tùng thay mặt các vị phụ lão trong dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ Tĩnh tặng lại viện NCHN vào năm 1983. Xem Nguyễn Song Tùng: “Vì sao các vị phụ lão ủy thác tôi tặng lại Viện NCHN cuốn gia phả của dòng họ mình”. Nghiên cứu Hán Nôm, 1981, tr.21-22. Các đoạn trích về HCK trong bài viết này đều do Nguyễn Thị Thảo dịch.

(1) Những cuốn gia phổ A2 và A3 này đều do cụ Nguyễn Song Tùng cho chúng tôi mượn đọc. Nhân đây xin có lời cảm ơn. Theo bảng A2, gia phổ của chi họ Nguyễn Cảnh ất, trong đó có phần phụ lục sự tích Liêu quận công, thì Nguyễn Cảnh Quế sinh năm ất Mão (1615), mất lúc 53 tuổi, tức khoảng 1668 hoặc 1669.

(2) Chỗ này nguyên văn mất 2 chữ.

(3) Bài tựa chép ở tờ 15a và 15b tập phổ ký chi họ Nguyễn Cảnh Cái./.

Biếu số 1

Biếu số 3

Biếu số 2

TB

THÂN NHÂN TRUNG - CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM (*)

LÂM GIANG

THÂN NHÂN TRUNG, tự là Hậu Phủ, người Yên Ninh (tục gọi là làng Nếch), xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc(2).

Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Thân Nhân Trung thi đậu Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân(3). Khoa thi năm ấy, có tất cả 22 người đỗ, không có Đệ nhất giáp Tiến sĩ, chỉ có hai người đỗ Nhị giáp Tiến sĩ là Phan Phiên (người xã Phác Xuyên, huyện Tân Minh - nay là Nam Sách, tỉnh Hải Hưng), và Nguyễn Như Uyên (người xã Hạ An Quyết, huyện Từ Liêm - nay thuộc Hà Nội). Cùng đỗ khoa ấy còn có Nguyễn Xang Xác (xếp sau Thân Nhân Trung một người), sau này cũng tham gia Hội Tao Đàn.

Không rõ Thân Nhân Trung đích thực sinh và mất năm nào, nhưng theo những dữ kiện của các sách Đăng khoa lục thì ông sinh khoảng năm 1418 và mất khoảng năm 1499(4).

Thân Nhân Trung đỗ muộn, nhưng ông làm quan cho đến cuối đời. Con đường làm quan của ông khá bằng phẳng. Dưới thời Lê Thánh Tông, ngay sau khi thi đỗ Hội nguyên, ông liền được bổ làm Hàn lâm viện thị độc, sau thăng Hàn lâm viện thừa chỉ, kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám tế tửu.

Năm Hồng Đức thứ 6 (1475) Thân Nhân Trung được cử đi tiễn sứ giả nhà Minh là Quách Cảnh về nước. Cảnh đường đột sang nước ta qua đường sông Thao, lấy cớ là đuổi bắt những kẻ chạy trốn ? Tiễn Cảnh lần ấy có: Thái phó Lê Niệm, Lại bộ thượng thư Đào Tuấn, Hàn lâm viện thị độc, kiêm Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo...(5).

Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận được Lê Thánh Tông đánh giá rất cao về tài năng. Nhiều lần ông được cử làm độc quyển cho các cuộc thi Đình như: Khoa thi năm ất Mùi Hồng Đức thứ 6 (1475); Khoa thi năm Canh Tuất Hồng Đức thứ 21 (1490); Khoa thi năm Quý Sửu Hồng Đức thứ 24 (1493); Khoa thi năm Bính Thìn Hồng Đức thứ 27 (1469)(6).

Khoa thi năm Tân Sửu Hồng Đức thứ 12 (1481), con trai thứ của ông là Thân Nhân Vũ, 38 tuổi đỗ Tiến sĩ. Nhân Vũ là em Nhân Tíu, cùng đỗ khoa ấy có Lưu Hưng Hiếu, Ngô Văn Cảnh, Nguyễn Tôn Miệt, Nguyễn Nhân Bi(7), sau này đều tham gia Hội Tao Đàn.

Khoa thi năm Đinh Mùi Hồng Đức thứ 18 (1487) cháu nội ông là Thân Cảnh Vân, 25 tuổi đỗ Tiến sĩ. Cảnh Vân là con trai Nhân Tín. Cùng đỗ khoa ấy có Nguyễn Đức Huấn, Ngô Hoan, Đỗ Thuần Thông(8) sau này đều tham gia Hội Tao Đàn.

Khoa thi năm Canh Tuất Hồng Đức thứ 21 (1490), con trai đầu của ông là Nhân Thân Tín, 52 tuổi đỗ Tiến sĩ. Như thế, Nhân Tín đỗ sau con trai mình (Cảnh Vân) một khoa (3 năm). Cùng đỗ khoa ấy có Đàm Thuận Huy, Ngô Hoán, Lưu Thư Ngạn, Dương Trực Nguyên, Lưu Dịch, Phạm Đạo Phú(9) sau này đều tham gia Hội Tao Đàn.

Như vậy, cha con, ông cháu Thân Nhân Trung, trước sau có tới 4 người đỗ đại khoa và làm quan cùng triều. Trước cảnh thịnh đạt ấy của gia đình họ Thân, Lê Thánh Tông từng ca ngợi:

Thập Trịnh đệ huynh liên quí hiển,
Nhị Thân phụ tử mộc ân vinh.
(Mười anh em nhà họ Trịnh nối nhau quí hiển,
Hai cha con nhà họ Thân tắm gội ân vinh)(10).

Năm Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông sai Thân Nhân Trung, lúc đó làm Hàn lâm viện Thừa Chỉ, Đông các đại học sĩ, cùng với Ngự sử đài phó đô ngự sử, kiêm Tả xuân phường tả trung doãn Quách Đình Bảo, Đông các hiệu thư Đào Cử, Hàn lâm viện thị thư Đàm Văn Lễ, bắt đầu soạn bộ sách Thiên Nam dư hạ(11) Thân chinh ký sự. Sau khi soạn xong, Lê Thánh Tông đề vào bản thảo bài tựa Thiên Nam dư hạ của Thân Nhân Trung rằng:

Hỏa thử thiên đoan bố,
Băng tàm ngũ sắc ty.
Cánh cầu vô địch thủ,
Tài tác cổn long y.

(Vải dệt lông chuột lửa,
Lụa năm sắc tằm băng.
Lại tìm tay vô địch,
Cắt may áo cổn rồng)(12)

Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), dựng văn bia ở Văn Miếu, bắt đầu từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông (1442) trở đi. Lê Thánh Tông sai bọn Từ thần là Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện thị độc Đông các hiệu thư Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Ngô Luân, Hàn lâm viện thị thư kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Đôn Hậu, Hàn lâm viện thị thư kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục tư huấn Lương Thế Vinh, Đông các hiệu thư Lê Tuấn Ngạn, Hàn lâm viện thị độc kiêm tú lâm cục tư huấn Nguyễn Xung Xác, chia nhau soạn bài văn bia(13).

Thân Nhân Trung đã soạn bài văn bia “Đề tên Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất” năm Đại Bảo thứ 3 (1448). Đây, có thể coi là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, dựng ngày 15 tháng 8 năm Hồng Đức thứ 15 (1484)(14).

Năm Hồng Đức thứ 26 (1495), Lê Thánh Tông lập hội thơ Tao Đàn, tự xưng là Tao Đàn đô nguyên súy, Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận được cử làm Tao Đàn phó đô nguyên súy. Tác phẩm tiêu biểu của hội Tao Đàn là Quỳnh uyển cửu ca(15) trong đó, Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận đóng góp phần đáng kể. Người đương thời gọi hai ông là bậc “danh nho trùm đời”(16).

Thân Nhân Trung luôn luôn được Lê Thánh Tông tin yêu, thường cho đi theo tuần du, cùng làm thơ xướng họa, như ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần Hồng Đức nguyên niên (1470), theo Lê Thánh Tông Tây chinh. Ngày 16 tháng 2 năm Tân Mão Hồng Đức thứ 2 (1471), ông cùng vua xướng họa bài Tư gia tướng sĩ (tướng sĩ nhớ nhà). Ngày 27 tháng ấy lại cùng vua xướng họa bài Lục Vân động (Động Lục Vân)(17).

Ngày 9 tháng 2 năm Hồng Đức thứ 22 (1491), ông theo thuyền vua đến Lam Sơn thăm điện Thánh Tổ. Ngày 11 tháng 2 năm ấy theo xa giá đến thăm điện Quang Đức. Ngày 27 tháng ấy lại cùng vua họa thơ ở Kiến Thụy Đường(18)...

Năm Hồng Đức thứ 27 (1496), Lê Thánh Tông soạn tập Cổ kim cung từ thi tính tự, sai Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, hiệu thư Ngô Luân phụng bình. Cũng năm ấy, Thân Nhân Trung được cử làm độc quyển cho khoa thi cuối cùng của triều Hồng Đức. Khoa ấy, có cả thảy 7 người làm độc quyển, trong đó 5 người là hội viên Hội Tao đàn: Thân Nhân Trung, Lưu Hưng Hiếu, Ngô Luân, Ngô Hoán, Ngô Thầm(19).

Ngày 27 tháng 11 năm Hồng Đức thứ 27 (1496), Lê Thánh Tông mắc chứng phong thũng, đến ngày 30 tháng giêng năm Hồng Đức thứ 28 (1497) thì qua đời, thọ 55 tuổi. Thương tiếc đấng minh quân sáng suốt, toàn tài, đồng thời cũng là người bạn thơ tri kỷ qua đời, Thân Nhân Trung viết bài văn dài 48 câu trong đó có đoạn (dịch):

Đức vua Thánh Tông,
Nghiệp lớn thừa kế.
Lịch số về mình,
Thần dân thỏa chí.
.............................
Triệu dân vỗ yên,
Trăm việc chấn chỉnh.
Văn giáo rộng ban,
Vũ công đại định... (20).

Lê Thánh Tông qua đời, Hiến Tông lên nối ngôi, lấy niên hiệu Cảnh Thống. Ngày 8 tháng 1 năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) Cảnh Thống làm lễ an táng vua cha bên trái Vĩnh Lăng ở Lam Sơn, gọi là Chiêu Lăng. Sai Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu Thân Nhân Trung, cùng với Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Đông các học sĩ Lưu Hưng Hiếu soạn văn bia(21).

Dưới thời Cảnh Thống, Thân Nhân Trung vẫn được tin dùng và kiêm các chức như cũ.

Theo Toàn thư và thác bản bia số 13478(22). Thân Nhân Trung được giữ các chức Hàn lâm viện thừa chỉ, kiêm Đông các đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám tế tửu. Nhưng theo các sách Đăng khoa lục (A.2752, A.2040...) và Địa dư chí (A.2338, A.2889...) thì Thân Nhân Trung còn giữ chức Lại bộ thượng thư, nhập nội phụ chính. Còn theo Nguyễn Phi Khanh thi tập (phụ lục) A.198 Thân Nhân Trung còn tham gia Thị mật tham cơ chính sự (tờ 68b).

Theo Lê Quý Đôn - Toàn Việt thi lục (A.132/2), Thân Nhân Trung tham gia Nội các giữ chức Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, Quốc tử giám tế tửu, kiêm Lễ bộ thượng thư chưởng Hàn lâm viện sự, Thị cận mật tham cơ chính, hơn 10 năm. Các sách vở, giấy tờ hiệu lệnh của triều đình đều qua tay ông xét duyệt.

Tài năng và đức độ của Thân Nhân Trung không những được người đương thời khâm phục mà còn được người đời sau đánh giá cao. Hà Nhậm Đại (1526 - ?) người xã Bình Sơn, huyện Lập Thạch (Vĩnh Phú), Tiến sĩ năm Mạc Sùng Khang 7 (1574) từng ca ngợi ông:

Thiên hà hiền tá vị chu sinh,

Độc thiện Tao Đàn đệ nhất danh.

Cái thế văn chương chân đại thủ,

Nhất môn phụ tử bội ân vinh (23).

(Người giỏi giúp rập như anh lái đò vượt sông Ngân,

Riêng mình đứng tên thứ nhất trong hội Tao Đàn.

Văn chương trùm đời, quả là tay đại bút, Cha con một nhà, ơn được hiển vinh).

Thân Nhân Trung sáng tác nhiều, nhưng đến ngày nay đã bị thất truyền nhiều, không thấy còn lại một tác phẩm hoàn chỉnh nào. Các sáng tác hiện nằm rải rác, khiến người đời sau nắm bắt một cách không hệ thống và chính xác. Bước đầu tìm hiểu thấy rằng, một số tác phẩm của ông nằm trong các văn bản sau đây:

- Minh lương cẩm tú A.254, VHv.94, A.1413

- Lê triều thi tập VHv.826

- Cúc đường bách vịnh A.1168

- Hoàng Việt văn tuyể n A.3.63

- Cổ tâm bách vịnh A.702

- Toàn Việt thi lục A.1232, A.3200, A.132

- Hoàng Việt thi tuyển VHv.608, VHv.1451

- Thịnh Lê thi tập VHv.1455

- Nguyễn Phi Khanh thi tập A.198

- Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế thi VHv.1010

- Thiên Nam dư hạ A.334, VHv.1313

- Đại Việt sử ký toàn thư A.3

- Lê triều danh nhân thi tập VHv.152

- Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký A.109

- Quang Thục Trinh huệ khiêm tiết hòa xung nhân thánh Hoàng thái hậu bi, 13478.

Sau khi so sánh đối chiếu các văn bản trên, thấy Thân Nhân Trung có những sáng tác sau:

1. Thiên Nam dư hạ: Đồng soạn giả.

2. Bài văn bia: Đại Bảo tam niên Tiến sĩ đề danh bi ký Đề tên Tiến sĩ năm Đại Bảo thứ 3 (1442).

3. Bài văn bia: Hồng Đức thập bát niên Tiến sĩ đề danh bi ký. (Đề tên Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 18 (1487).

4. Bài văn bia: Chiêu Lăng thần đạo bi. Đồng tác giả.

5. Quỳnh uyển cửu ca: Đồng tác giả. Trong đó, có 9 bài thơ họa và 9 đoạn văn bình thơ Lê Thánh Tông.

6. Một số bài thơ khác chép rải rác trong các văn bản trên, trong đó, tập trung nhất ở Toàn Việt thi lục A.1322 và Minh lương cẩm tú A.251. Đó là những bài:

- Họa Ngự chế Tư gia tường sĩ.

- Họa Ngự chế Anh tài tử.

- Họa Ngự chế Lục Vân động.

- Họa Ngự chế Giao Thủy giang.

- Họa Ngự chế Bái yết Sơn lăng cảm thành.

- Họa Ngự chế Hánh kiến Thụy đường.

- Họa Ngự chế Trú Thúy ái châu.

- Họa Ngự chế Truy hoài Thánh tổ huân nghiệp.

- Họa Ngự chế Quang Đức điện thượng cảm thành.

- Thứ vận Tống chánh sứ hiệu thư Vân lễ.

- Vãn Nhân Thánh Hoàng Thái hậu.

- Vãn Thánh Tông Thuần Hoàng đế.

Cả thảy 13 bài + 9 bài trong Quỳnh uyển cửu ca là 22 bài thơ thất ngôn bát cú và ngũ ngôn. Ngoài ra còn một số đoạn văn bình hoặc “cẩn ngôn” cho những bài thơ của Lê Thánh Tông (xem bảng thống kê ở cuối bài viết này).

Về sáng tác bằng quốc âm, như đã biết, thời Hồng Đức có tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập chép trên 300 bài thơ Nôm, trong đó, ngoài số thơ của Lê Thánh Tông ra, chắc chắn còn có một số bài thơ của các văn thần, nhất là văn thần tham gia Hội Tao đàn. Với cương vị là Tao Đàn phó nguyên súy, chắc Thân Nhân Trung cũng có thơ Nôm đóng góp trong đó.

Ngoài ra Thân Nhân Trung còn có một bài thơ Nôm. Để thay cho phần kết luận bài viết này, xin kể một giai thoại về việc sáng tác bài thơ đó của ông:

Vua Lê Thánh Tông khi ra thăm trường Quốc Tử giám, đã qua cửa chùa Bà Đanh thoáng nghe thấy sư ni đọc bài kệ, tiếng trong văng vẳng lên tới từng mây! Lúc xa giá trở về, vua ghé vào chùa, sư ni trông thấy bèn đề mấy câu lên vách, rồi lui vào nhà trong Đề rằng(24).

Tới đây thấy cảnh thấy thầy
Tuy vui đạo bụt chửa khuây lòng người.

Vua thấy câu kệ trên tường, bèn ra lệnh cho 28 vị học sĩ ứng chế một bài thơ, vị nào cũng chối không làm nổi. Tao đàn phó nguyên súy Thân Nhân Trung liền đề rằng:

Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười,
Sắc không tuy bụt hỡi lòng người,
Chày kình một tiếng tan niềm tục,
Hồn bướm ba canh lẫn sự đời,
Bể ái ngàn tầm mong tắt cạn,
Sóng ân muôn trượng chửa khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu nữa?
Cực lạc là đây chín gấp mười.

Thơ làm xong, Thân Nhân Trung dâng lên, Lê Thánh Tông sai vị sư ni nọ ngâm. Sư ni ngâm xong, bèn phê rằng: Hai câu thực (câu 3, 6) còn thiếu tả cảnh, xin chữa lại như sau:

Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời.

Nhà vua lấy làm vừa ý, hạ lệnh cho chở sư ni về cung, nhưng khi về đến cửa Đại Hưng bỗng nhiên biến mất ! Nhà vua cho là sự lạ, bèn sai dựng lều Vọng. Hiện nay ở trước cửa để ghi việc đó (Theo Vũ Phương Đề - Công dư tiệp k ý và Lịch đại danh thần sự trang A.264).

BẢNG THỐNG KÊ CÁC ĐOẠN VĂN BÌNH CỦA THÂN NHÂN TRUNG

TT Tác phẩm của
Lê Thánh Tông
Tờ Tên
bài thơ bình
Số chữ bình Ghi chú
1 Cổ tâm bách vịnh









Cổ tâm bách vịnh
chép trong “Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế (VHv.1010)
23a
13b
14a
14b
16b
19a
19b

20a
20b

14a
15b
18b
Lê môn
Bát trận (1)
Bát trận (2)
Phú Bình tân
Hứa Xương
Phong Thành
--- nt ---

Ba viên
--- nt ---

Tào thành giang bi
Nghĩa hưng
Tử trạch
30
25
25
20
110
150
20

16
30

30
30
40
(chữ)





Cùng bình với Đào Cử.

--- nt ---
2 Minh lương cẩm tú
(A.1413)
Minh lương cẩm tú
(H.254)
4b
8a
11a
41a
50b
56a
Tư gia tướng sĩ
Lục Vân Động
Anh tài tử
Truy hoài Thánh Tông
Hạnh kiến Thụy đường
Trú Thúy ái châu
50
40
50
80
90
70
3 Quỳnh uyển cửu ca chép trong “Minh lương cẩm tú”
(A.1413)
Sửu Dần phong đăng...

Quân đạo
Thần tiết
Dư tĩnh tọa ...
--- nt ---
Dư độc thư ...
Kỳ khí
Thư thảo hý thành
Văn nhân thi
Mai hoa
1500

750
750
1000
1000
1000
1000
500
100
1250
Cùng bình với
Đỗ Nhuận.


--- nt ---
Lời “Cần ngôn”

Cùng bình với
Đỗ Nhuận

4 Cổ kim cung từ thi Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Thân Nhân Trung có lời bình, hiện chưa thấy sách này.

CHÚ THÍCH

(1) Bài viết này nằm trong chuyên đề nghiên cứu “Hội Tao Đàn - tác giả, văn bản tác phẩm”. Xin xem Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1987.

(2) Trong đợt đi khảo sát thực địa tại làng Yên Ninh năm 1987, chúng tôi được biết rằng: Họ Thân trong làng Yên Ninh trước đây chia ra làm nhiều chi, chi Giáp trông coi nhà thờ họ. Người trông coi cuối cùng thuộc chi Giáp ấy không có con. Năm 1949, Pháp đánh lên Bắc Giang, vợ chồng ông này tản cư lên phía Bắc, rồi không trở về nữa. Vì thế, nhà thờ họ không ai trông coi, dần dần đổ nát. Tấm bia đá trong nhà thờ đến nay cũng không còn nữa. Gia phả, hoành phi, câu đối... trong nhà thờ đều mất. Do tình hình trên đây, việc giới thiệu về tiểu sử Thân Nhân Trung bị hạn chế khá nhiều.

(3) Đăng khoa lục A.2752 tờ 16a, Văn Khắc năm Cảnh Hưng 40 (1779).

(4) Theo Đăng khoa lục A.2752, Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục A.2040, thì Thân Nhân Tín, con trai đầu Thân Nhân Trung, 52 tuổi đậu Tiến sĩ, khoa Canh Tuất Hồng Đức thứ 21 (1490). Còn Thân Nhân Trung thì các sách Đăng Khoa lục và Địa Phương chí chỉ chép đỗ năm Quang Thuận thứ 1 (1469) không nói rõ ông đỗ năm bao nhiêu tuổi. Có thể suy ra rằng: Con (Nhân Tín) đỗ sau cha (Nhân Trung) là 21 năm (1490 - 1469 = 21). Năm cha đỗ Tiến sĩ thì con đầu lòng, thì năm của cha đỗ Tiến sĩ khoảng 51 tuổi (31 tuổi + 21 tuổi = 51 tuổi); Năm đó là năm 1469, vậy năm sinh của người cha là khoảng năm 1418 (1469 - 51 tuổi = 1418).

Lại theo Dư địa chí (A.2338, tờ 45b), Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí (A.2889, tờ 4a), Địa dư chí (A.1939, tờ 5a) chép Thân Nhân Trung thọ ngoài 80 tuổi. Vậy thì ông mất khoảng năm 1499 (1418 + 81 tuổi = 1499).

Cụ Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Văn hóa Hà Nội, 1984, trang 229, dựa vào sách Đăng khoa lục bị khảo nói rằng Thân Nhân Trung đậu Tiến sĩ năm 1469 khi ông ngoài 50 tuổi, từ đó suy ra ông sinh năm 1418 (1469 - 51) và thọ hơn 80 tuổi, ông mất năm 1499 (1499 - 1418 = 81 tuổi). Hiện chúng tôi chưa thấy sách này.

(5) Đại Việt sử ký toàn thư (Gọi tắt là Toàn thư), KHXH, H. 1986, Tập II, các tr.466; 467; 511; 518.

(6) Toàn thư , KHXH, H. 1986, Tập II tr.466; 467; 511; 518.

(7) Đăng khoa lục A.2752, tờ 28a.

(8) Đăng khoa lục: Sách đã dẫn, tờ 32a.

(9) Đăng khoa lục: Sdd, tờ 39a.

(10) Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục A.2040, tờ 16b.

Mười anh em nhà họ Trịnh: Trịnh Khả là một trong những khai quốc công thần của Lê Lợi. Ông có 13 con trai, 9 con gái. Trong đó, 10 người con trai là công thần nhà Lê (Xem thêm: Lê Quí Đôn - Đại Việt thông sử, KHXH, H. 1978, tr.207)

Hai cha con nhà họ Thân, tức chỉ cha con Nhân Trung và Nhân Vũ; Nhân Tín và Cảnh Vân. Đúng ra là hai cặp cha con họ Thân.

(11) Toàn thư: Sđd, tr.490.

Trong lời bàn của sử thần Vũ Quỳnh ( Toàn thư, Sđd, tr.528) tham gia soạn Thiên Nam dư hạ còn có thêm Nguyễn Trực, Vũ Vĩnh Mô.

(12) Theo bản dịch Toàn thư Sđd, tr.490, xem thêm nguyên văn ở Địa dư chí A.2339, tờ 45b.

(13) Toàn thư Sđd, tr.494.

(14) Xem Tuyển tập văn bia Hà Nội, Quyển 1, KHXH, 1978, tr.63.

(15) Xem thêm: Lâm Giang - Bước đầu tìm hiểu về Hội Tao đàn, Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1987.

(16) Theo Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục A.2040, tờ 46b. Nguyên văn: “Thời, vị Thân Đỗ cái thế thượng danh nho”.

(17) Theo Thiên Nam dư hạ VHv.1313 tờ 51a, 61a, 72b.

(18) Theo Hoàng Việt thi tuyển VHv.1451, tờ 2, 4 , 9.

(19) Toàn thư Sđd, tr.518.

(20) Theo bản dịch Toàn thư Sđd, tr.518.

(21) Toàn thư KHXH, Hà Nội, 197, in lần 2, Tập IV, tr.7.

(22) Thác bản văn bia số 13478, khắc 37 bài thơ viếng Quang Thục Hoàng Thái hậu (Ngô Thị Ngọc Dao mẹ Lê Thánh Tông). Bà mất tháng 2 nhuận năm 1496. Theo Toàn thư Đại Việt thông sử) đến tháng giêng năm Cảnh Thống nguyên niên (1498) mới dựng bia. Mở đầu là bài thơ của Cảnh Thống, tiếp theo là thơ Thân Nhân Trung. Sau bài thơ đó có khắc: Quang Kiến đại phu Hàn lâm viện, thừa chỉ Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu, thần Thân Nhân Trung phụng soạn. Xem thêm: Đinh Khắc Thuân - Lâm Giang; Bia Quang Thục Hoàng Thái hậu ở Lam Kinh; Những phát hiện mới về Khảo cổ học; Viện Khảo cổ học, tr.183.

(23) Lê triều danh nhân thi tập Vv.152, tờ 37a.

(24) Chỗ này Lịch đại danh thần sự trạng kể khác: Vua Lê Thánh Tông đi thăm Quốc tử giám khi qua chùa Bà Đanh, nghe tiếng đọc kệ rất trong trẻo, xa giá đến chùa, nhà vua trông thấy ni cô, bèn đề lên vách rằng:...

TB

MỘT SỐ BÀI THƠ NÔM KHẮC Ở
VÁCH ĐÁ TRONG HANG TRẦM

HIỀN LƯƠNG
BẠCH VĂN LUYẾN

Ở thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức ngoại thành Hà Nội có một dãy núi, đá vôi cao chót vót nổi lên giữa đồng bằng với chu vi hơn 3000 mét và ngọn núi cao nhất tới hơn 400 mét. Núi này từ lâu người ta vẫn quen gọi là núi Trầm (hay Tử Trầm). Trên núi còn dấu tích của những ngôi chùa cổ và trong lòng núi có những hang động to rộng. Bên ngoài có dòng suối ngự uốn lượn quanh tạo nên cảnh “Sơn thủy hữu tình”.

Hang Trầm (động Long Tiên) là một động to đẹp ở dưới chân núi đá do hai mỏm đá lớn ngang sườn núi chầu vào nhau để hở một chỗ thông thiên ở trên đỉnh. Bởi vậy trong hang luôn có một khoảng sáng tự nhiên chiếu vào chính giữa làm cho những mảng tối ở xung quanh và tượng Phật hiện lên mờ ảo. Cách bài trí ở trong hang cũng theo tầng lớp giống như một tòa tam bảo mà ta vẫn gặp, nhưng điều độc đáo của chùa hang là tất cả đồ khí đều bằng đá. Vừa là hang động, vừa là ngôi chùa thờ Phật được thế ưu đãi tuyệt đối của thiên nhiên, nơi đây đã từng là điểm tham quan hội tụ của những mặc khách tao nhân. Tấm bia dựng năm Chính Hòa thứ 17 (1696) ở trong hang cho thấy vua Lê chúa Trịnh đã từng dựng cung điện và ở hẳn tại đây. Dấu xưa xe ngựa vết cũ còn đây, biết bao thi nhân đã từng đến vãn cảnh, vịnh thơ khắc vào vách đá. Ngoài các bài văn thơ trong các sách nói về hang Trầm động Long Tiên thì trong lòng hang rải rác trước cửa hang có những bài thơ Nôm tồn tại dưới dạng ma nham đã bị rêu phong cỏ cây phủ kín. Người ta không dựng thành bia, ngoài một vài bia như tấm bia dựng năm Tự Đức ở ngang sườn núi nói về việc công đức của tín vãi thập phương và dân làng xung quanh còn các bài văn thơ đều được khắc trực tiếp vào vách đá. Người ta bạt đá cho phẳng một khoảng hình chữ nhật rồi khắc chữ trực tiếp chứ không trang trí hoa văn. Duy có một chiếc khánh đá trên đó khắc một bài thơ và một bài ca trù là có trình bày hoa văn theo kiểu một chiếc khánh thông thường. Hầu hết những bài văn, bài thơ ở đây đều viết bằng chữ Nôm nên có người đã gọi núi Trầm là núi thơ Nôm. Ngoài một bài văn Nôm giới thiệu về hang Trầm, động Long Tiên được khắc ở ngay vách đá gần cửa động thì toàn là thơ Nôm theo kiểu lục bát, tứ tuyệt và Đường luật. Tác giả của những bài thơ này thuộc nhiều thành phần ở nhiều địa phương khác nhau, do vậy mà lối viết chữ Nôm cũng có những điểm không giống nhau. Nhìn chung thì chữ Nôm ở các bài thơ này đều có diện mạo của chữ Nôm đời Nguyễn. Để giúp các bạn có thêm tư liệu tìm hiểu di tích hang Trầm, dưới đây chúng tôi chỉ xin phiên âm giới thiệu một số bài thơ văn Nôm được khắc trong lòng động.

BÀI VĂN NÔM GẦN CỬA ĐỘNG

Người ta sinh ra ở trên đời thú chơi có hai cảnh, một là phồn hoa, một là tịch mịch. Phồn hoa thì phải ở thành thị, tịch mịch thì phải ở lâm tuyền, nhưng ở phồn hoa mãi thì chán, ở tịch mịch mãi thì buồn. Vì thế phải làm cách cho thành thị lâm tuyền thông với nhau, trước là giải lấy trí khôn, sau là thanh lấy niềm tục. Cách tỉnh Hà Đông không xa có bãi đồng bằng, bên hữu thì dãy rừng ngang, bên tả thì dòng sông Hát, trong có một tòa núi đá nổi lên gọi là núi Tử Trầm. Trong núi có động, trong động có hang thông thiên, ngoài động có chùa, dưới chùa có đầm quanh núi. Núi Bút Sơn, bề mặt trước chùa Vô Vi đứng một bên, thực là cảnh lâm tuyền thứ nhất. Trước hai trăm năm nay chúa Trịnh đã lâm cung ở đó. Nơi mắc võng, nơi chèo thuyền dấu cũ đến bây giờ chưa mất. Thế chẳng phải là chốn phồn hoa mà tìm nơi tịch mịch ru ? Tiếc vì cây cỏ rậm rạp, đường sá chưa thông, cho nên lên Lạn Kha tìm khách đánh cờ, vào Dục Thúy thăm ông câu cá, chẳng qua mấy kẻ cao nhân dật sĩ mà thôi. Ta nhân khi thong thả tới cảnh chạnh niềm, kia như núi Đạo Hạnh, chùa Quan Âm, động Hồ Công, hàng Từ Thức cũng chỉ vì người trước có công tìm kiếm mà làm cho người sau có thú vui chơi. Thế thì núi này cũng là cảnh bụt, bầu trời đâu có lẽ phó mặc bóng tà cỏ ấy. Vậy thì theo cảnh tự nhiên thêm công tu bổ. Đường càng gần thì người đi càng tiện, cảnh càng đẹp thì khách càng đông. Từ nay mà đi kẻ lại người qua, dẫu tịch mịch cũng không lấy làm buồn, dẫu phồn hoa cũng không lấy làm chán. Than ôi! Khuất tà quy chính là trách nhiệm kẻ sư nho, hậu lạc tiên ưu là chí khí kẻ quân tử. Có phải cầu tiên cầu phật đem thiên hạ lấy sự hoang đường, muốn cho có cảnh có người, chưng thiên hạ lấy sự lạc lợi. Sách có chữ rằng núi không cần chi thấp mới cao, có tiên thì nổi tiếng, nước không cần chi sâu mới cạn, có rồng thì nên thiêng. Vậy ta lấy tiên rồng mà đặt tên cho động.

BÀI HÁT CA TRÙ TRÊN KHÁNH ĐÁ
Cảnh Long Châu danh lam đệ nhất
Động Long Tiên non nước thật là xinh
Bút kích thiên độc lập chênh vênh
Nguồn đào(1) chảy nước xanh dòng nước biếc
Tạo hóa hữu tình kim tự tích(2)
Giang Sơn bất lão tích như kim(3)
Bầu Lưu Linh(4) vui thú bạn tri âm
Thơ Lý Bạch(5) ca ngâm tình quyến luyến
Thiên bất yếm hề nhân bất yếm(6)
Cảnh thiên nhiên muốn chiếm để riêng chơi
Lại e thay phong cách của trời
Âu là để cùng người chơi cùng thú
Nay ướm hỏi đinh công động chủ
Chẳng thần tiên cũng đủ thú Bồng Lai
Từ lang(7) âu cũng thế này.
NGUYỄN BÁ GIAO ở Liên Trì kính đề

Bài số 1

Núi đá chon von đứng giữa trời
Tử Trầm tên gọi trải bao đời
Tòa sen bụt ốc quanh rêu bám
Nước biếc thuyền rồng vẳng tiếng bày
Hoa cỏ mặc dầu đưa đón khách
Chủ trương hồ dễ(8) mấy dăm người
Trời Nam xoay khéo từ đâu lại
Mặc sức sau này săn thú chơi
Hồng Lô tự khanh Thượng thẩm tòa án sát sứ Tiến sĩ Nguyễn Văn Bân cung đề.

Bài số 2

Cung Trầm văng vẳng cánh mây sa
Tô điểm non xanh lại đậm đà
Chữ mới Long Tiên đề cửa Phật
Cảnh xưa Lê Trịnh để phần ta
Mở hàng thiên thị cho người họp
Sửa núi Nga tô đón khách qua
Sẵn thú thiên nhiên nên tạc lấy
Khi chơi danh thắng lúc phồn hoa.
Hồng Lô tự khanh Thượng thẩm tòa án sát sứ Tiến sĩ Nguyễn Văn Bân cung đề

Bài số 3

Chòm đá chon von động hẹp hòi
Mặc dầu nước chảy với hoa trôi
Đầy kho trăng gió luôn luôn mãi
Mấy cuộc thương tang thế thế thôi
Dưới núi vắng teo người hái thuốc
Trên chùa nhạt nhẽo khách ăn xôi
Mỉa mai con tạo xoay vần lại
Mở mặt non xanh thử ngó coi.
TRẦN MÝ án sát Hà Đông cung đề

Bài số 4

Kìa cảnh Bồng Lai nổi giữa đồng
Tử Trầm chốn ấy phải hay không
Động Tiên hương ngất lồng mây tỏa
Bia Trịnh rêu phong lẩn đá chồng
Vui thú liên đài riêng vũ trụ
Mặc trò tang hải với non sông
Nhờ ai tô điểm nên linh tích
Nức tiếng danh nghiêm cõi Lạc Hồng.
DƯƠNG QUANG cung đề

Bài số 5

Mấy cuộc tang thương luống não nùng
Từ Trầm riêng một thú non bồng
Văn minh đã nhiễm mùi Âu á
Phong cảnh còn in dấu Lạc Hồng
Núi tốt duyên thay, mây đỏ chói
Phật đa tình nhỉ, nước xanh trong
Giang sơn nào lại anh hùng ấy.
Mặc truyện thần tiên có có không.
Tuần phủ Thái Bình
PHẠM VĂN THỤ bái đề

Bài số 6

Cảnh đâu đưa đón đất Hà Đông
Động Tử Trầm đây có phải không...(9)
Nước non bốn mặt dấu vua Hùng
Chùa quanh một lối hang liền lũy
Bụt trải bao năm đá lạnh lùng
Danh thắng khen ai tô điểm khéo
Bầu trời khép lại thú chơi chung.
TRẦN TẤN BÌNH cung đề

Bài số 7

Cung Trầm hương ngạt khắp đòi nơi
Cửa động thiên nhiên rộng thảnh thơi
Cảnh lạ vòng quanh ba mặt nước
Thú vui riêng chiếm mộ bầu trời
Giang sơn ai gánh từ đâu lại
Cung điện bền xây mấy thủa rồi
Mô phật mừng nay tô điểm khéo
Rầy xem dạo cảnh biết bao người,
NGUYỄN TRỌNG LÃ Niết tỷ bát phẩm tỉnh Hà Đông cung đề
Mùa đông năm Giáp Dần niên hiệu Duy Tân 8 (1914)

Bài số 8

Dừng bước mây xanh khách nghỉ ngơi
Thoát trông thấy núi, núi ôm trời
Chùa nguyên bụt cũ vừa trang phấn
Đá trải lò nung chửa hóa vôi
Xe phượng dấu in vầng cỏ mọc
Cung thềm nền rạng bóng trăng soi
Xưa sao vắng vẻ rầy đông đúc
Tô điểm non sông cũng tại người.
Nguyên án sát tỉnh Lạng Sơn, Tiến sĩ
Khoa ất Mùi NGHIÊM XUÂN QUẢNG kính đề, ngày 1 tháng 11 năm thứ 9 Duy Tân (1615).

Bài số 9

Ngày xuân chơi động Long Tiên
Người xưa dấu cũ biết tìm nơi nao
Có tiên nào kể non cao
Có rồng nào kể nước sâu mới là
Hương Trầm thoang thoảng gần xa
ấy ai áo tía lướt qua bụi hồng
Muôn thu nước cũ Lạc Hồng
Cảnh vui chung cả con rồng cháu tiên
Đất bằng một thú thiên nhiên.
Cử nhân...(10)
Mùa xuân năm Quý Hợi Khải Định (1923)

Bài số 10

Danh thắng thiên nhiên cảnh vẫn còn
Tử Trầm cao ngất núi chon von
Hang rồng lớp lớp mây như cuốn
Bụt đá trơ trơ sắc chửa mòn
Lối ngự rêu in mầu lẩn biếc
Cửa trời hà vẩn(11) bóng thu tròn
Trụ trì âu cũng là sinh Phật
Chắc có duyên gì với nước non.
TRẦN MÝ TÂN kính đề
Mùa xuân năm Giáp Tý niên hiệu Khải Định (1924)

Bài số 11

Bước tới chùa Trầm nhận dấu xưa
Long Tiên động cũ cảnh bây giờ
Hương thôn đèn sáng năm tòa Phật
Gió táp mưa sa một vách thơ
Nét bút bia Lê còn ngấn rõ.
Vết xe cung Trịnh đã rêu mờ
Non xanh tô điểm nhờ ai đó
Nào khách qua chơi nghĩ đến chưa.
NGUYễN VĂN CƠ Tri phủ Nghĩa viên phủ Thường Tín kính đề.
Mùa xuân năm thứ 4 Bảo Đại (1929)

Bài số 12

Cơ tạo riêng ai thú thảnh thơi
Cỏ hoa hợp lại một bầu vơi
Ra tòa chỉnh chiện tiên hay phật
Một dải long lanh nước lộn trời (12)
Luồng gió cửa hang đưa đón khách
Mảng trăng sườn núi lạ quen người
Nào ai giữ bụt rầy đâu nhỉ
Hỏi đá trơ trơ nỏ giả lời(13)

CHÚ THÍCH

(1) Nguồn đào: suối hoa đào, chỉ nơi có cuộc sống thanh bình sung sướng.

(2) (3) Hai câu thơ chữ Hán nghĩa là: tạo hóa hữu tình nay cũng như xưa, giang sơn tươi đẹp mãi xưa cũng như nay.

(4) Lưu Linh: Người đời Tấn tính thích uống rượu

(5) Lý Bạch: nhà thơ nổi tiếng đời Đường, tính phóng khoáng, rất hay uống rượu.

(6) Câu chữ Hán nghĩa là: trời có che dấu đâu, người có che dấu đâu.

(7) Từ Lang: tức Từ Thức.

(8) Hồ dễ: đâu phải dễ.

(9) Câu thơ thứ ba do đá bị xước không còn rõ nét nên không đọc đựơc.

(10) Những chữ ghi tên tác giả bị vỡ nên không các định được.

(11) Hà vẩn: ráng mây lởn vởn.

(12) Nước lộn trời: nước trong in (soi) bóng trời ở dưới đáy nước.

(13) Bài thơ không ghi tác giả và năm khắc.

TB

TỰ ĐỨC KHIÊM CUNG KÝ VÀ LỊCH SỬ

PHAN HỨA THUỴ

Sau khi được Tự Đức chuẩn định, lăng Vạn Niên bắt đầu được thi công vào mùa Đông tháng 11 năm Giáp Tý niên hiệu Tự Đức thứ 17 (1864), sau hơn 3 năm thì hoàn thành, nhưng mãi đến năm 1871 Tự Đức mới thân hành soạn bài văn bia cho mình và đến năm 1875 mới tự chép mẫu giao cho thợ khắc vào đá.

Khác với văn bia của Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, tức là văn bia của vua cha là do vua con soạn, thường là ca ngợi tính tình, đức độ và công nghiệp của vua cha, Khiêm cung ký do Tự Đức tự soạn lấy, vì Tự Đức không có con. Bia lăng Tự Đức là tấm bia có kích thước đồ sộ, đặt trong một nhà bia (bi đình) chót vót nguy nga, tương xứng với sự kỳ vĩ của toàn bộ Khiêm lăng. Mặt khác, sự to lớn của tấm bia chứa ngót 5000 chữ trên hai mặt là để Tự Đức tỏ bày cùng thiên hạ nhiều việc, những việc xảy ra trong quá trình làm vua của mình.

Viết về người khác, lại là người đã chết thường là dễ viết hơn tự viết về mình. Thiệu Trị là người như thế nào, nhưng văn bia ở Xương lăng - tức lăng Thiệu Trị - Tự Đức vẫn viết: Đức hóa sáng khắp sáu cõi, điềm lành ứng cả mười phần, trị nước bảy năm, hiệu quả cả trăm đời, đức thịnh nghiệp lớn thực đã quá vậy(1). Tự Đức không thể viết về mình như vậy. Có thể do nhiều lý do, nhưng điều rõ ràng nhất là thời Tự Đức làm vua, đất nước có nhiều sự kiện trọng đại mà chính Tự Đức đã không giải quyết nổi, cuối cùng chỉ biết tìm cách bảo vệ cho được chiếc ngai vàng của mình mà thôi.

Có thể nói Khiêm cung ký là một bài văn bia đặc biệt trong số văn bia các vua nhà Nguyễn, vì đây là “lời tâm sự” của một ông vua, mục đích là cố tình thanh minh cho những việc làm của mình đã từng bị thiên hạ lên án.

Trước hết, trong Khiêm Cung ký, Tự Đức đã dành một phần đáng kể để nói đến việc lên ngôi của mình, việc mà xưa nay từng gây nhiều dư luận. Ai cũng biết Tự Đức tức Hồng Nhậm là con thứ hai của Thiệu Trị. Con trưởng - anh của Tự Đức - là Hồng Bảo đã được phong tước Kiến Phong công, sau đổi là An Phong công. Trong chế độ phong kiến, việc bỏ trưởng lập thứ là một điều không bình thường và thường gây nhiều thắc mắc ngay trong nội bộ giai cấp thống trị lẫn ngoài dân gian. Do đó Tự Đức lên ngôi sau khi Thiệu Trị chết đã làm cho nhiều người nghi ngờ. Có phải tờ chiếu truyền ngôi cho Tự Đức là ý của Thiệu Trị hay do cố mệnh thần Trương Đăng Quế soạn sau khi Thiệu Trị tắt thở như dư luận của một thời ?

Tất nhiên sử nhà Nguyễn đều cho việc Tự Đức lên ngôi là hợp lý, vì “Phước Tuy công Hồng Nhậm thông mẫn ham học, rất giống ta, đáng nối ngôi vua”(2), còn “Hồng Bảo tuy lớn nhưng vì thứ xuất, ngu độn ít học, chỉ ham vui chơi, không thể nối nghiệp lớn được”(3). Tuy vậy, những dòng chính sử này vẫn không dập tắt được sự ngờ vực của nhiều người. Chưa kể người trong nước, một số người nước ngoài thời đó cũng có cái thắc mắc như vậy. Theo họ việc phế trưởng lập thứ này là “do sự dèm pha của bà Từ Dũ, nhất là của hai vị đại thần có thế lực(4) trong triều là Nguyễn Tri Phương và Trương Đăng Quế mà có” Galy trong một bức thư đề ngày 15-01-1852 thì quả quyết “chính Hồng Bảo cũng cho sự phế lập ấy là do Trương Đăng Quế chủ mưu, nên ông thường nói ông muốn làm vua dù chỉ một ngày để moi gan ông Quế cho hả dạ”(5) đó là chưa kể có kẻ còn cho rằng Tự Đức không phải là con của Thiệu Trị mà là kết quả sự thông dâm giữa bậc mẫu nghi thiên hạ tức Từ Dũ - với Trương Đăng Quế.

Dù sao việc Hồng Bảo không được nối ngôi cũng đã gây ra mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ triều đình phong kiến nhà Nguyễn ngay khi Tự Đức mới ngồi lên ngai vàng. Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện của Giá Sơn Kiều Oánh Mậu đã mô tả lại buổi tuyên đọc di chiếu của Thiệu Trị và lễ đăng quang của Tự Đức ở điện Cần Chánh một cách bi thảm: “Di chiếu đọc chưa dứt, An Phong công (tức Hồng Bảo) phẫn uất thổ huyết hơn một đấu, nằm vật vã giữa điện đình, lúc làm lễ đăng quang, mấy người phải đỡ ông dậy nghi lễ mới hoàn tất”(6).

Cho đến nay mối nghi ngờ ấy chưa hẳn đã hết. Đúng hay không cũng chẳng phải là cái gì quá ư cần thiết giải quyết, nhưng rõ ràng trong suốt ba mươi mấy năm làm vua, Tự Đức vẫn cứ phải băn khoăn. Trong Khiêm cung ký nỗi băn khoăn kia càng thể hiện rõ trong cách cố chứng minh việc lên ngôi của mình là chính đáng. Tự Đức kể lại chi li những ân tứ của Thiệu Trị ban cho ông, như: cho theo hầu khi ngự giá đi bắn, cho hầu bữa ăn, cho cùng tham dự việc duyệt án, cho dự vào việc soạn thảo các văn kiện quan trọng, cho cùng xướng họa thơ văn, ban cho đồ ăn, cho dùng đồ ngự dụng, thưởng cho chiếc nhẫn vàng mặt ngọc vì đã làm được bài thơ hay, ban cho sách Chỉ thiện đường hội tập... và rất nhiều việc khác nữa, nghĩa là Tự Đức đã được Thiệu Trị ưu đãi yêu thương và đã có ngầm ý cho nối ngôi mà chính ông cũng không ngờ. Tự Đức viết trong Khiêm cung ký: “Lòng thánh nhân vốn rất sâu xa, kẻ hời hợt khá dễ lường được. Ta cũng xem đó là điều tự nhiên, chưa hề biết có kẻ ghen ghét. Nếu nghe có ai khuyên hãy vào Nội”, các luyện tập việc chính, ta thường trả lời: có anh ta đấy”. Và tỏ vẻ ngạc nhiên khi được cho nối ngôi: “Nghe tuyên triệu mà hồn bất phụ thể, kíp theo sứ vào chầu, tất cả đều là bổn phận, đương nhiên ta chẳng từng để ý, chỉ mong có ngày sức khoẻ Hoàng khảo (tức Thiệu Trị) chóng ổn để được nghe dạy bảo dài lâu, nào ngờ trời chẳng đoái thương vội giao cho kẻ nhỏ mọn nầy công việc lớn lao và khó khăn. Than ôi, đau đớn thay !”.

Vì không được làm vua, Hồng Bảo âm thầm kết bè đảng tìm cơ hội lật đổ Tự Đức, tất nhiên động cơ và phương tiện của Hồng Bảo cũng chẳng đẹp đẽ gì. Bức thư của Galy cho biết Hồng Bảo đã cấu kết với các giáo sĩ phương Tây, ông hứa sẽ biến nước Nam thành một vương quốc Thiên chúa giáo nếu họ chịu giúp ông, rồi Hồng Bảo chuẩn bị đi Tân-gia-ba để cầu cứu người Anh. Cuối cùng âm mưu ấy không thành, Hồng Bảo đã phải trở lại đầu thú Tự Đức mà kết quả đã chết một cách mờ ám ở trong ngục (1854). Con Hồng Bảo đều phải đổi qua họ mẹ và bị tống giam, về sau để tránh tiếng, Tự Đức cho ra học ở Quốc tử giám nhưng thực ra là một hình thức quản thúc. Năm 1866, nhân vụ nổi dậy của dân công binh lính Vạn Niên do Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo, Tự Đức lấy cớ giết hết con cháu Hồng Bảo. Tờ dụ đề ngày 11 tháng 8 năm Tự Đức thứ 19 (9-9-1866) về việc xử án này, Tự Đức đã nhấn mạnh: “Trừ ác thần phải trừ cho tiêu tận, sự nên đoạn tuyệt phải đoạn tuyệt” chứng tỏ Tự Đức đã mượn danh nghĩa “Vì kế hoạch bảo toàn quốc gia được vĩnh viễn” để trừ đối thủ của mình dù đó là anh ruột, cháu ruột một cách tàn bạo. Nhưng trong Khiêm cung ký về việc ấy, Tự Đức đã khéo đánh lừa bằng những câu lập lờ úp mở: “Sao ta vội vàng tự quyết đoán đến nỗi như vậy? Nhất thời cũng khó mà giãi bày hết được, trăm năm đã có sử xanh, ta nỡ nào!”. Đành rằng sự ân hận ấy có thực, nhưng Tự Đức vẫn không coi đó là việc làm sai, ông vẫn cho đó là “vì xã tắc phải làm cho rõ nghĩa lớn”. Xã tắc và nghĩa lớn ở đây tưởng chúng ta có thể hiểu được! Thật hổ thẹn nếu Tự Đức đọc lại bài thơ nói Trần Thái Tông hòa giải với anh là An Sinh vương của Trần Anh Tông, bài thơ còn so sánh với sự trả thù tàn bạo của Đường Thái Tông đối với anh là Kiến Thành để nói lên tình thương yêu đoàn kết, một truyền thống lớn của dân tộc ta (7).

Đến như việc thực dân Pháp nổ súng mở màn cuộc xâm lược của chúng ở Đà Nẵng, Tự Đức đã thể hiện sự nhu nhược cầu an của mình một cách rõ rệt. Vì chiếc ngai vàng, vì không có bản lĩnh, Tự Đức đã đánh giá tình hình đất nước lúc đó sai lầm một cách nghiêm trọng. Năm 1858 Pháp nổ súng ở Đà Nẵng không phải là điều bỗng nhiên như Tự Đức nói, mà đó là một việc đương nhiên, giai cấp phong kiến không phải không biết điều đó, bởi vì từ khi đang bị quân Tây Sơn tiến công, Nguyễn ánh đã nhờ Bá Đa Lộc thay mặt mình cùng với bá tước Montmorin ký hiệp ước Véc-Xây gồm 10 khoản, trong đó Nguyễn ánh đã nhượng cho Pháp Hội An và Côn Lôn. Cuộc cách mạng 1789 ở Pháp nổ ra nên hiệp ước ấy chưa thực hiện được, có nghĩa là ý đồ xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã có từ trước, không phải như Tự Đức hiểu trong Khiêm cung ký: “Người châu Âu xa cách trùng dương ngoài vạn dặm chẳng có quan hệ gì, mà nước Pháp vốn là nơi quen biết cũ, bỗng nhiên đưa quân lính thuyền bè, bỏ tình hòa hiếu tìm cách xâm lấn bờ cõi, chúng cậy thuyền bền, súng tốt dày xéo cố nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định”.

Tại Đà Nẵng, thực dân Pháp đã gặp phải sức chống cự mãnh liệt của quân và dân ta, tổng thống quân vụ Lê Đình Lý tử thương, Nguyễn Tri Phương từ Lục Tỉnh được điều ngay về làm tổng thống quân thứ Quảng Nam, quân dân lấp sông Vĩnh Điện ngăn tàu giặc, đẩy lui giặc trên sông Hàn... Có thể nói một cách khách quan rằng buổi đầu triều đình Huế , cụ thể là Tự Đức đã có kế hoạch phản công thiết thực, nhưng dần dần giữa tiếng súng của giặc ở trước mặt và chiếc ngai vàng sau lưng, Tự Đức đã chùn chân lại, lại còn trở mặt làm trái. Tự Đức đã không tin vào lực lượng kháng chiến, đánh giá thấp phong trào yêu nước. Ông viết: “Canh thành giữ chốt nào được mấy người, đất nước đầy trộm cướp, trong gian ngoài giặc, chúng lén lút cấu kết ngày càng tràn lan, đến đâu thì tàn hại như gió bão, biết lấy ai để giữ gìn bờ cõi của ta huống gì là bảo vệ dân ta ? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện”.

Viết đoạn này rõ ràng Tự Đức cố tình quên tên những lãnh tụ phong trào chống Pháp và hàng vạn dũng sĩ có mặt ở chiến trường từ khi mới nghe súng giặc. Tự Đức lại còn ra dụ cấm dân nổi dậy và ra lệnh cho quan địa phương bắt được nghĩa quân thì giao nộp cho Pháp, giúp giặc dập tắt và truy lùng những người kháng chiến. Đoàn sứ do Phan Thanh Giản cầm đầu quân sang Pháp chỉ là mang thịt tới miệng hổ đói và họ Phan mượn chén thuốc độc kết thúc đời mình cũng chỉ là kết quả bi thảm của một chính sách sai lầm mà đứng đầu là Tự Đức, thế nhưng Tự Đức đổ hết lỗi cho Phan Thanh Giản bằng cách ra lệnh cắt hết chức tước và đục tên ra khỏi bia Tiến sĩ sau khi Phan chết. Cũng vẫn giọng úp mở, Tự Đức đặt một câu hỏi lơ lửng để tự che cho mình: “Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hòa ta đành phải sai sứ cùng chúng hội ước, các bậc lão nho lương thần đều bùi ngùi xin đi, chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi trong lúc thương thuyết mà trở về, các triều trước đã gian nan để mở đất họp dân, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa nhỏ, dùng cái chết để khỏi nhục mệnh vua, quả như thế chăng ?”.

Và ít nhất là đến năm cho khắc bài Khiêm cung ký (1875) sau hai hòa ước 1862 và 1872, Tự Đức có đá nhẹ đến những lỗi lầm của mình một cách khéo léo nhưng cũng không che nổi tư tưởng bảo thủ của mình. Ông viết: “Ôi, nếu bỏ mà có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho là tội, thì bỏ sao gọi là công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ kia làm mất mà ta có thể thu lại được mới gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất ta lại hùa theo mà bỏ luôn, ôi, công sao? Sao trái đến như vậy mà gọi là trí? Dối trá như thế mà cho là công?... Nhưng không sáng suốt trong việc biết người là tội của ta, dùng người không đúng chỗ là tội của ta, hàng trăm việc không làm được đều là tội của ta cả”.

Tự Đức, càng sai lầm khi chọn hình ảnh thời Xuân Thu bên Trung Quốc và sự thất bại của nhà Thanh trước nạn xâm lược của người Anh để biện bạch cho mình. Ông viết: “Thật hơn cả thời Xuân Thu Chiến Quốc, dẫu Khổng Mạnh có sống lại cũng chưa chắc đã làm gì được. Ôi cứ xem nước Đại Thanh mà cũng chẳng tự cường được còn nói gì đến các nước khác”. Câu vẫn nặng mùi bảo thủ nhưng vô hình chung nói lên một thực trạng là tư tưởng Nho giáo, chỗ dựa của triều đình phong kiến nhà Nguyễn nhất là thời Tự Đức, đang bị chao đảo mạnh, đề cao đạo Nho nhưng cũng bắt đầu thấy cái mình đề cao không còn hợp thời nữa.

Từ cách nhìn nhận như vậy, Tự Đức quay về lo cho cuộc sống riêng tư của mình, dựng Vạn niên cơ nằm trong ý đồ đó, Khiêm lăng là tên gọi sau khi Tự Đức đã chết, vốn trước gọi là Khiêm cung, đó là nhà riêng của Tự Đức, là nhà riêng nhưng thật sự là một tòa gồm nhiều cung điện, thành trì, lầu gác, đình viện, nhà mát hành lang, hồ đảo... như Tự Đức mô tả trong Khiêm cung ký. Công việc xây dựng Khiêm lăng vô cùng cực nhọc, tốn kém, cuộc nổi dậy của công nhân công trường Vạn Niên từng xâm phạm đến đế khuyết năm 1866 đã nói lên điều đó. Thế nhưng Tự Đức vẫn cho việc xây dựng ấy là do “ý quần thần, chứ với ta ta đâu nghĩ đến”. Và thật trớ trêu khi Tự Đức viết: “Vả lại ta làm cung này vì nghĩ theo lệ thì ta phải có miếu riêng, có lăng tẩm, nếu không chuẩn bị trước thì ngày sau tôi con cứ theo phép cũ khó tránh khỏi gặp nơi cách trở xa xôi, phiền hà mệt nhọc, nên thực lòng là muốn tiết giảm và thuận lợi”. Lý do chọn Vạn Niên cơ, Tự Đức cho biết: “ở đây núi và nguồn lại thấp, rất gần với các lăng trước, đất nước lại hiền lành, chẳng phải nơi núi cao cây tốt rất dễ thi công”. Mặt khác theo cách nhìn của Tự Đức thì Khiêm cung nằm ở một vị trí đặc biệt “đủ rõ cái chí binh sinh”, bởi vì trước mặt là đàn Nam Giao, sau lưng là chùa Linh Mụ, bên phải là Xương Lăng và bên trái là Văn Miếu, Tự Đức quên rằng đất này thửa đó cũng nổi tiếng là nơi lam chướng như Đoàn Hữu Trung cho thấy trong tác phẩm Trung nghĩa ca của ông:

Tới thăm công sở Vạn Niên
Lùa quân trèo ngược đầy miền núi non.

Và để có đất làm lăng, một phần dân làng Dương Xuân đã bị đuổi đi nơi khác, họ đã kéo nhau xuôi dòng sông Hương về cửa bể lập nên một làng mới và đặt tên là Dương Xuân Hạ như vừa để nhớ nơi chôn nhau cắt rốn của mình và vừa như thách thức với chế độ.

Cái mâu thuẫn trong Khiêm cung ký là một mặt Tự Đức tỏ ra rất tiết kiệm trong việc xây dựng Khiêm cung như ông viết: “Điệu vũ tuy nhiều nhưng đặc biệt chỉ có Hòa khiêm, Lương khiêm và Di khiêm là làm bằng gỗ mới, còn lại đều nhặt nhạnh từ những ngôi nhà cũ, đem chỗ nọ bỏ chỗ kia, nhưng cùng lúc ông cũng kể ra bao nhiêu đền đài đình tạ, cầu kỳ, hồ đảo... cho đến núi đá bao quanh, cỏ cây râm mát, làm bậc đá, làm hang động, làm rừng núi chim bay thú chạy, xem đó là đủ biết Khiêm cung là nơi đủ tiện nghi nhất trên đời phục vụ cho việc ăn chơi xa xỉ của một ông vua. Chỉ tính việc hàng chục chiếc thuyền, hàng trăm lính mang hàng vạn bạc sang Giang Tây mua đồ sành sứ về đập vỡ ra để trang trí ở Khiêm cung cũng đủ biết “tinh thần tiết kiệm” của Tự Đức!

Sự xa hoa và vô trách nhiệm của Tự Đức không chỉ bị nhân dân lên án mà ngay cả thuộc hạ của ông cũng không thể chấp nhận. Năm 1866, công trường Vạn Niên đang lỡ dở, dân phu công trường lại nổi dậy, Tổng đốc Bình Phú (tức Bình Định - Phú Yên) là Thân Văn Nhiếp gởi sớ cho Tự Đức với vẻ trách móc oán hận. Sớ viết: “Chính sự của ta hay dở các nước láng giềng đều biết cả, họ chỉ rình chỗ hở của ta, làm ta lo, thật đáng sợ. Mối thù ấy, sự hổ thẹn ấy xin hoàng thượng đừng một phút nào quên... Ngồi trên chín lần cung điện nguy nga, nên nghĩ đến nhà cửa của dân Nam Kỳ đang bị đốt phá; ngắm lâu đài lộng lẫy ở Vạn Niên cơ, nên nghĩ đến một phần mộ của dân Nam Kỳ đang bị bỏ hoang; ăn uống của ngon vật lạ, nên nghĩ đến sản vật đất Nam Kỳ nay còn gì; úy lạc dân nghèo ở Kinh đô, nên nghĩ đến dân Nam Kỳ có ai thương xót?” (8)

Nhưng Tự Đức vẫn không lay chuyển ý đồ của mình, ông trả lời Thân Văn Nhiếp: “Những điều ngươi chỉ trích đều là lỗi của trẫm. Nhưng trẫm nay nhiều việc, người lại hay đau, nếu cứ khắt khe với những việc nhỏ ấy e thân này không còn sức đâu nữa mà làm việc!”(9).

Đã thế Tự Đức lại còn dùng chữ Khiêm làm chữ đầu đặt tên cho cả công trình sinh phần của mình lẫn những bộ phận nhỏ trong công trình ấy. Ông giải thích: “Khiêm là kính, là nhường, có địa vị mà không ở uốn mình xuống ngang với mọi vật. Ta mang chịu ô nhục và tội lỗi như thế thì còn nhường gì hơn, còn uốn mình gì hơn? Tài năng công đức gì mà không khiêm?” Nhưng nếu đem đối chiếu giữa con người và việc làm của Tự Đức với lịch sử thì chữ Khiêm kia không khỏi mang tính chất ngụy biện. Chữ Khiêm đã trở thành tấm bình phong che cho bao tội lỗi sai lầm của Tự Đức chỉ tính riêng có đến 45 bộ phận mang tên Khiêm trong toàn bộ công trình Khiêm cung cũng đủ thấy cái Khiêm của Tự Đức là không thực.

Tuy vậy, Tự Đức lúc nào cũng mong làm được ông vua giản dị, siêng năng và nhân đức, giữa công danh và nhân đức thì Tự Đức muốn được tiếng là nhân đức. Khiêm cung ký có đoạn viết: “Trải qua các đời vua, chẳng thiếu gì kẻ hay người dở, nhưng lấy công danh mà nói thì Hán Văn không bằng Đường Thái, lấy nhân đức mà nói thì Đường Thái kém xa Hán Văn... Ta đâu dám coi nhẹ Đường Thái chỉ thầm ước bắt chước Hán Văn”. Nhưng không ngờ ước mơ bằng cách ví von khiên cưỡng ấy đã bị Thân Văn Nhiếp cật vấn và chê trách trong tờ sớ thứ hai gởi Tự Đức năm 1868: “Ngày xưa Hán Văn Đế tiếc trăm đồng vàng mà không làm Lộ đài, ông còn nói: ta ở nhà của tiên đế còn sợ xấu hổ, đài mà làm gì? Hoàng thượng vốn hằng mong được như Hán Văn mà nay việc làm lại trái ngược nhau rất xa là tại làm sao? Hoàng thượng chỉ biết lấy việc khổ nhọc của người làm thích, tiêu phí của cải làm vui, sống xa xỉ làm khuôn cho đời sau bắt chước, muốn ăn chơi mãi như vậy cho trọn tuổi đời”(10).

Lời tâu của họ Thân đã đánh đúng nhược điểm của Tự Đức và đã vô hiệu hóa chữ Khiêm mà Tự Đức dùng với ý đồ đánh sòng con mắt thiên hạ.

Bị chê trách quá nhiều nên Khiêm cung ký cũng dành một phần đáng kể để thổ lộ nỗi băn khoăn về những sai lầm của mình, có điều nguyên nhân của chúng phần lớn là do hoàn cảnh khách quan tạo ra, Tự Đức viết: “Điều ta vẫn băn khoăn là việc học chưa thành, chí chưa thỏa, hư danh chẳng xứng với thực tội, thể chất yếu đuối không đủ sức đảm đương việc lớn. Như nay, ngoài thì bờ cõi bị mất chưa giành lại, trong thì giặc giã hoạn nạn chưa yên, việc nối dõi lại chậm chạp khó khăn, gây kiếm được người thì biết lấy ai đảm đương công việc”.

Đặc biệt Tự Đức luôn luôn viện lẽ thân thể yếu đuối và buồn vì không có con để thanh minh với công luận, nó như một điệp khúc lặp lại nhiều lần trong Khiêm cung ký, nhưng thực chất là sự nhu nhược, cầu an của Tự Đức.

Viết Khiêm cung ký, Tự Đức cố đem cái sở đắc về văn chương chữ nghĩa của mình để biện bạch chừng nào thì nghi ngờ và dư luận càng tăng. Nhưng dù sao trong Khiêm cung ký Tự Đức vẫn ít nhiều thú nhận việc làm sai lầm của mình và bày tỏ nỗi khổ tâm của một kẻ làm vua không mang lại gì cho đất nước. Phải khách quan mà nói rằng Tự Đức lên ngôi khi chế độ phong kiến Việt Nam đang rệu rã, bên trong thì nông dân khởi nghĩa rầm rộ, kẻ xấu thừa cơ phá phách, bên ngoài gặp lúc chủ nghĩa thực dân bành trướng mạnh. Tư tưởng Tống Nho, cái xương sống của chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã hết sức lỗi thời và phản động, Tự Đức dù có bắt chước được cái nhập thế hành đạo của Nho gia chăng nữa nhưng với bản chất yếu đuối, thiếu bản lĩnh, thiếu lập trường của mình thì cũng không tài nào xoay sở được. Từ đó Tự Đức đâm ra hoang mang khiếp đảm mà cuối cùng là cắt đất đầu hàng để được yên thân trong khi vẫn ao ước làm được một ông vua giỏi (1). Cái mâu thuẫn giữa ước mơ và thực lực, giữa lý tưởng và thực tế đã khiến Tự Đức chút nào thấy chua chát, thôi thúc ông viết những dòng tự thú: “Vì ta chưa đủ sức để cảm hóa thói tục, chưa đủ tài để giáo hóa con người. Chí lớn mà hiểu biết nhỏ, muốn nặng mà được nhẹ”.

Cho nên, có thể nói Tự Đức có phần nào nhận ra được chính mình, hiểu mình, nhưng hiểu để mà hiểu, để an phận chứ không dám lấy đó làm kinh nghiệm để có cách nghĩ cách làm tốt hơn trong lúc thời gian (từ năm viết Khiêm cung ký cho đến khi chết 1871 - 1883) và hoàn cảnh đủ để thể hiện điều đó.

Với lịch sử thì Khiêm cung ký chỉ là một bản thanh minh ngụy biện, với Tự Đức thì rõ ràng là một tác phẩm thể hiện rõ nét tính cách và con người nhu nhược của ông và cũng là lời tự thú về sự bất lực của một triều đại trước lịch sử. Nhưng lạ thay, một ông vua tàn bạo như Tự Đức, sẵn sàng giết anh, giết cháu, cắt đất hàng giặc để bảo toàn chiếc ngai vàng, nhưng cũng dễ dàng tiếp thu những lời chỉ trích phê bình của thuộc hạ mà không hề có một hành động trả thù nào.

CHÚ THÍCH

(1) Tự Đức: văn bia Thiệu Trị, chúng tôi tạm dịch những dòng trích từ Khiêm cung ký bên dưới cũng là do chúng tôi tạm dịch.

(2), (3) Đại Nam Thực lục chính biên, Đệ tam kỷ, Q.72, tờ 14a - b.

(4) Cap.Ch.Gonselin L’Empire d’Annam, Librarie Académ que Didier Paris, 1904, tr.181.

(5) Dẫn theo L.Cadiere.B.A.V.II số 3 tháng 7 - 9 - 1904, tr.205.

(6) Giá Sơn Kiều Oánh Mậu: Bản triều bạn nghịch liệt truyện, bản dịch Bộ QGGD, Sài Gòn, 1936, tr.183.

(7) Nguyên văn:

Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông.
Đường xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong.
Kiên Thanh tru tử, An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.

(8) Quốc siêu Chính biên toát yếu, Q.5

(9) Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỷ, Q.35

(10) Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỷ, Q.73./.

TB

VỀ BỘ SƯU TẬP VĂN CHƯƠNG
HÀN CÁC TÙNG ĐÀM

HOÀNG VĂN LÂU

HÀN CÁC TÙNG ĐÀM là một sưu tập văn xuôi, hiện lưu giữ tại kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.768, 1 - 2. Sách gồm 2 tập (tập I, 152 tờ; tập II 161 tờ) khổ 29x20cm, mỗi tờ viết 2 trang, mỗi trang 9 dòng, mỗi dòng 20 chữ. Sách do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp thuê chép lại khoảng nửa đầu thế kỷ này.

Những thông tin đầu tiên về bộ sách này được ghi trong bộ Thư mục Hán Nôm (in rônêô), Phần I, tập 1, Thư viện KHXH, Hà Nội, 1969, tr.157, số sách 589. Lời tóm tắt nội dung sách ghi: “Các bài ký, bia, chiếu, biểu...”, tiếp đó, nêu tên 4 bài ký, 6 bài văn bia, 6 bài biểu, 6 bài văn, 3 bài chiếu, 3 bài chí, 1 bài tiểu sử, 3 bài phú, 2 bài tự của Việt Nam và 6 bài chiếu của Trung Quốc là ví dụ. Ngoài ra, không có một chỉ báo gì gợi ý cho người đọc về tác giả và lai lịch sách.

Bộ sách ghi được nhiều tác phẩm hay trong lịch sử như Chiếu đời Lý, phú đời Trần, chế, chiếu, biểu đời Lê sơ... Nhưng vì không ghi tên tác giả và niên đại biên soạn, nên khi đánh giá và sử dụng tư liệu trong đó, người đọc không khỏi dè dặt, phân vân. Bài viết này là cố gắng bước đầu trong việc tìm tác giả và niên đại biên soạn, cùng một vài đặc điểm biên tập sách.

Nếu không kể 17 bài chiếu các đời Hán, Đường, Tống của Trung Quốc ghi phụ ở phía sau sách và những bài sao chép trùng lặp, thì cả bộ sách có 170 bài văn thuộc nhiều thể loại. Bài có niên đại sớm nhất là Thiên đô chiếu(1) (Chiếu dời đô) của Lý Thái Tổ công bố năm 1010. Bài có niên đại vào loại muộn nhất là Văn tế Trần Huy San, chết năm Giáp Tý, niên hiệu Tự Đức thứ 17 (1864), văn tế Nguyễn Văn Lý, chết năm 1868. Mặt khác, cả bộ sách do 2 người sao chép (mỗi người chép 1 tập) nhưng cả hai tập đều thấy viết theo lối kiêng húy đời Tự Đức rất chặt chẽ(2). Từ đó, có thể ước đoán niên đại biên tập sách vào khoảng các năm 1868 - 1883.

Những ghi chú trong sách cung cấp những thông tin quan trọng.

Thí dụ: Bài Quảng văn đình ký, có những dòng chú như sau: “Tổ ta là ngài Thượng thư, nắm việc Bộ, họ Bùi, tên Xương Trạch” (Ngô tổ Thượng thư chưởng bộ công, tính Bùi, húy Xương Trạch). Bài Cai quốc tấu bản ghi chú: Tổ họ ta là Tiên quận công, chức Thượng thư, họ Bùi, tên là Bỉnh Uyên (Ngô tổ Tiên quận Thượng thư, tính Bùi, húy Bỉnh Uyên).

Bùi Xương Trạch đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 9 (1478) làm Thượng thư coi việc 6 bộ, tước Quảng quận công. Bùi Bỉnh Uyên tục gọi là Nho Sét, làm Thái bảo, tước Tiên Quận công. Cả hai người đều thuộc họ Bùi Huy Bích ở Thanh Trì, nay thuộc ngoại thành Hà Nội(3). Từ những lời chú này có thể thấy tác giả của bộ sách thuộc dòng họ Bùi ở Thanh Trì.

Họ Bùi ở Thanh Trì là một dòng họ lớn, nối đời đỗ đạt cao, có nhiều chính khách tao nhân nổi tiếng. Trong số họ, ai là tác giả của bộ sưu tập văn chương đáng lưu ý này ?

Xét về tính chất, có thể thấy Hàn các tàng đàm là 1 tuyển tập văn chương. Trong số 170 bài được chọn tuyển, có 2 bài thuộc đời Lý (Thiên đô chiếu của Lý Công Uẩn, Di chiếu của Lý Nhân Tông), 8 bài thuộc đời Trần (Ma nhai kỷ công văn của Nguyễn Trung Ngạn, Thanh hư động ký của Nguyễn Phi Khanh, Nghệ tông ngự chế bi minh của Trần Phủ, Dự chư tì tướng hịch của Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi; Bạch Đằng giang phú Khai nghiêm tự bi ký của Trương Hán Siêu, Thiên Hưng trấn phú của Nguyễn Bá Thông). Số bài văn thời Lê chiếm phần lớn, khoảng 100 bài(4), bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Chiếu, chế, sách văn, biểu, khải, công văn, ký, minh, văn tế, trướng, tự, phú... Văn đời Nguyễn có khoảng 50 bài(5), chỉ có văn tế và trướng mừng, ghi vào cuối tập I, thành một phần khá riêng biệt.

Ở ngay bài đầu tiên của tập I, bài Ma nhai kỷ công văn của Nguyễn Trung Ngạn, có lời chú ở đầu bài, và lời "án" ở cuối bài. Lời “án” như sau: “Bài này khắc trên vách đá”. Hồi ta làm Tham hiệp Nghệ An vâng mệnh cùng tướng hiệu bản đạo cứu viện Trấn Ninh đóng quân ở đó, nên mới được thấy!”(Thử văn tại huyền nhai thượng, dư vi Nghệ An tham hiệp thì, phụng mệnh dữ bản đạo tướng hiệu viện Trấn Ninh thích đồn thú vu thử, thủy đắc kiến chi”.

Bài Đề Bạch ty sơn thần quân chí lược bạt có lời chú: “Năm trước ta làm Hiệp Trấn Nghệ An...” (tạc tuế ngô hiệp trấn Nghệ An...). Đề Bạch ty sơn thần quân chí lược bạt là tác phẩm của Bùi Huy Bích. Điều này được chính Bùi Huy Bích khẳng định trong bộ Hoàng Việt văn tuyển đã khắc in của ông. Nhiều tư liệu lịch sử xác nhận Bùi Huy Bích có thời gian là Tham hiệp Nghệ An. Sự kiện cứu viện Trấn Ninh xảy ra khoảng năm 1769 - 1770 khi Bùi Huy Bích nhận lệnh phối hợp với tướng lĩnh ở Nghệ An đánh quân Lê Duy Mật.

Từ những cứ liệu trên, có thể đi tới nhận định là: Phần cơ bản (bao gồm các bài văn đời Lý, Trần, Lê) của bộ sách Hàn các tùng đàm là do Bùi Huy Bích tuyển chọn và biên tập thành sách. Phần văn tế, trướng mừng (khoảng 50 bài) thời Nguyễn là do người sau bổ sung. Sách được chép lại vào những năm niên hiệu Tự Đức (1848 - 1883).

Nếu tách 50 bài văn tế và trướng mừng thuộc đời Nguyễn ra, thì Hàn các tùng đàm hiện diện như là một “dị bản” của bộ Hoàng Việt văn tuyển đã được khắc in năm 1825. Đối chiếu hai bộ sách này, ta thấy:

Về số lượng: Bộ Hàn các tùng đàm có 120 bài văn đời Lý, Trần, Lê. Bộ Hoàng Việt văn tuyển có 111 bài. Hai bộ trùng hợp nhau tới 93 bài. Bộ Hàn các tùng đàm không có các bài Phóng cuồng ca của Trần Tùng(6) và Dục Thúy sơn linh tế tháp ký của Trương Hán Siêu là hai tác phẩm đời Trần, cùng 16 bài khác thuộc đời Lê (1 bài phú, 2 bài ký, 2 bài minh, 5 bài văn tế, 3 bài sách văn, 3 bài tản văn) như ở Hoàng Việt văn tuyển. Nhưng Hàn các tùng đàm lại có bài Nghệ Tông ngự chế bi minh của Trần Phủ, Bình Ngô tấu cáo văn ghi năm Thiên Khánh thứ 2 (niên hiệu của Trần Cảo) cùng 6 bài chiếu khác đời Lê Lợi; bài văn bia Đỉnh tạo lục kiều công đức bi, Sỷ vương từ bị ký, Biểu tạ ơn của Trạng nguyên Nguyễn Thực, Nguyễn Nghiêm Tư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký... mà Hoàng Việt văn tuyể n không tuyển chọn.

Về cách sắp xếp: Hoàng Việt văn tuyển sắp xếp theo thể loại, chia thành 10 mục như sau: Cổ phú (15 bài); Ký (15 bài); Minh (9 bài); Văn tế (8 bài); Chiếu văn (6 bài); Chế văn (9 bài); Sách văn (10 bài); Biểu, tạ; khải (22 bài); Tản văn (11 bài); Biểu tấu, công văn (6 bài).

Trong Hàn các tùng đàm thì chưa có sự sắp xếp phân loại rõ ràng như vậy: ở tập 1: Bài đầu tiên là Ma nhai kỷ công văn (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục thứ 9: Tản Văn). Bài thứ 2 là Quảng văn đình ký, Bài thứ 3 là Chu Văn Trinh công miếu bi (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục thứ 2: ký). Bài thứ 4 là Trung tân quán bi minh tính tự (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục thứ 3: Minh) Bài thứ 5 là Cai Quốc tấu bản (Hoàng Việt văn tuyể xếp vào mục thứ 10: biểu tấu công văn)...

Ở tập 2: Bài đầu là Tượng đầu đoạn tụng ký (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục thứ 2: ký). Bài thứ 2 là Nghệ An xứ đốc suất Đoan nghiêm hầu Bùi Thế Đạt thăng quận tước chế (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục thứ 6: chế) Bài thứ 3 là Nghĩ Bắc triều hoàng đế phi tư lại vấn ngã quốc tuế phong dân ninh như hà ngã quốc tạ biểu (Hoàng Việt văn tuyển xếp vào mục 10: Biểu tấu công văn)...

Lại nữa, ở Hàn các tùng đàm, 2 bài chiếu đời Lý xếp ở tập 2, trong khi 7 bài chiếu của Lê Lợi xếp ở tập 1. Bài Dụ chương tỳ tướng hịch của Trần Hưng Đạo xếp vào cụm các bài chiếu thì Hoàng Việt văn tuyển vào mục Tản văn.

Từ cách sắp xếp, có thể thấy Hàn các tùng đàm còn giữ lại dạng sưu tập ban đầu của tác phẩm. Các bài văn tuyển chọn mới đặt gần nhau thành cụm, có tính đến yếu tố thời gian, mà chưa sắp xếp theo thể loại đã cố định như trong bản in Hoàng Việt văn tuyển sau này.

Về đầu đề bài văn tuyển chọn: Đầu đề các bài văn trong Hàn các tùng đàm thường dài hơn, chi tiết hơn, hàm ẩn những thông tin đáng lưu ý. Ví dụ: Bài văn tấu cáo thái miếu của Nhữ Đình Toản, trong Hàn các tùng đàm có đầu đề là Chủ soái Minh vương (hậu truy tôn An vương miếu hiệu Nghị tổ chinh tây tấu cáo thái miếu văn. Hoàng Việt văn tuyển đã rút gọn là Phụng nghĩ chinh Tây cáo Thái miếu văn. Bài Phật Tích sơn Thiên Phúc tự Hiển Thụy am bi minh tính tự trong Hàn các tùng đàm thì ở Hoàng Việt văn tuyển có tên là Phật Tích sơn Hiển Thụy am bi minh. Có thể thấy, khi biên tập để khắc in, các đầu đề đã được rút gọn lại.

Về chú thích Hàn các tùng đàm chưa có phần chú âm và chú nghĩa. Phần chú giải về xuất xứ tác phẩm có nhiều chỗ ghi về dòng họ Bùi, về kinh lịch của người biên soạn. Ví như lời chú: “Tổ ta là... họ Bùi, húy...” đã dẫn ở trên; hoặc như lời “án” trong bài Ma nhai kỷ công văn ghi rõ hoàn cảnh sưu tầm được bài văn của người biên soạn. Những lời chú liên quan đến dòng họ và bản thân người biên soạn sách như trên, đến Hoàng Việt văn tuyển đều bị lược bỏ. Nhưng Hoàng Việt văn tuyển vẫn giữ lại những lời chú xuất xứ tác phẩm, giúp hiểu rõ tác phẩm, tác giả, cũng gợi cho thấy phương pháp sưu tập tác phẩm. Ví như lời chú về xuất xứ bài Ma nhai kỷ công văn ghi: “Ma nhai kỷ công văn ở thôn Trầm Hương, phủ Trà Lân, xứ Nghệ An. Kỷ Trần Hiến Tông, Thái thượng hoàng cầm quân đi đánh Ai Lao xuống chiếu sai Nguyễn Trung Ngạn mài đá khắc chiến công. Nay xét thấy niên đại ghi trong văn bia khác với trong sách sử. Đó là do sách sử chép lầm”. Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Quyển VII, tờ 6a) chép vào năm Giáp Tuất, niên hiệu Khai Hựu năm thứ 6 (1334). Nhờ điều tra “thực địa” (xem lời “án” đã dẫn ở trên). Bùi Huy Bích đã đính chính được sai lầm trong sách sử: Văn bia ghi “khắc đá vào ngày tháng 12 nhuận, mùa đông năm ất Hợi, niên hiệu Khai Hựu thứ 7 (1337)” (Thời Khai Hựu thất niên ất Hợi đông nhuận thập nhi nguyệt nhật lặc thạch). Bộ sử của triều Nguyễn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, (Chính biên, quyển 9) biên soạn sau này cũng ghi theo văn bia là năm ất Hợi. Lời chú trên đây cùng với lời “án” đã dẫn, cho thấy khi sưu tập văn chương làm quyển tập, họ Bùi đã “đi đến nơi, tìm đến chốn” chứ không phải ngồi một chỗ mà “dọn” lại tác phẩm của người khác!

Từ những điều trình bày ở trên, có thể đi tới nhận xét: Hàn các tùng đàm thuộc dạng bản ban đầu của bộ Hoàng Việt văn tuyển đã được khắc in. Bộ sách giữ được một số bài chưa đưa vào Hoàng Việt văn tuyển, việc sắp xếp chưa rõ ràng theo thể loại hay thời gian, chú giải chưa gọn, nhưng còn giữ được một số chỉ dẫn cần thiết về tác giả và tác phẩm. Sau khi tác giả mất, nhà họ Bùi vẫn giữ được bản Hàn các tùng đàm chép tay. Sách được sao đi chép lại, mỗi lần sao chép, người ta đã “bổ sung” thêm. Bản A768/1 - 2 giới thiệu trên đây sao chép lại từ một bản “biên tập lại” của nhà họ Bùi những năm 1868 - 1883.

Có một điều cũng cần tìm hiểu thêm là, Bùi Huy Bích đã “rút” các tác phẩm từ nguồn nào để làm nên bộ tuyển tập văn chương Hàn các tùng đàm hay Hoàng Việt văn tuyển của ông? Có phải ông đã “dọn” lại bộ sách Hoàng Việt văn hải của Lê Quí Đôn; rút lấy một phần rất ít để tạo thành cuốn văn tuyển “sơ giản” của ông như có người đã nói(7) ?

Lời chú, nhất là lời “án” bài Ma nhai kỷ công văn cho thấy Bùi Huy Bích đã “rút” bài văn này ngay tại vách núi thôn Hương Trầm, Nghệ An chứ không phải từ trong sách của Lê Quí Đôn. Các tác phẩm của Bùi Xương Trạch, Bùi Bỉnh Uyên và cha ông Bùi Huy Bích thì hẳn là ông “rút” từ ghi chép của dòng họ mình. Một số lớn chiếu, chế, biểu, khải, sách vắn, công văn đời Lê... ông lấy từ bộ sưu tập các văn kiện đời Lê, bộ Hoàng các di văn do chính Bùi Huy Bích tổ chức sắp xếp, phân loại và biên tập, từ kho lưu trữ văn kiện trong Hoàng các khi ông giữ chức Tể tướng đứng đầu Hoàng các triều Lê(8). Còn chính tác phẩm của Bùi Huy Bích hoặc các tác phẩm xuất hiện sau khi Lê Quí Đôn đã mất mà họ Bùi đã đưa vào “văn tuyển” của mình, thì hẳn là ông không rút từ trong sách của thầy học!

CHÚ THÍCH

(1) Trong sách ghi là Tỷ đô chiếu.

(2) Ví dụ: Chữ “Nhiệm” viết bớt nét, chữ “Thì” viết đảo nét...

(3) Xem: Thanh Trì Bùi thị gia phả A.640; Đại tông Bùi thị gia phả A.958; Thịnh Liệt Đông ấp, Bùi Thị Giáp chi liệt tổ hành trạng A.942...

(4) và (5) Có một số bài chưa giám định được niên đại.

(6 ) Hoàng Việt văn tuyển ghi là của Trần Quốc Tảng.

(7) Thơ văn Lý Trần. Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr.135.

(8) Xem: Hoàng các di văn - Một bộ sưu tập các văn kiện đời Lê có giá trị; Tạp chí Hàn Nôm, số 1, năm 1987./.

TB

TÌM HIỂU CÁC VĂN BẢN BỘ SÁCH
NGÔ GIA VĂN PHÁI

TRẦN THỊ BĂNG THANH

NGÔ GIA VĂN PHÁI là một tên sách đã trở thành quen thuộc không những đối với giới nghiên cứu mà còn cả với nhiều bạn đọc ưa thích văn học cổ lâu nay. Tuy nhiên diện mạo, lai lịch của bộ sách ra sao cũng đang còn là vấn đề cần được quan tâm khảo sát. Công việc đó sẽ không chỉ có ý nghĩa đối với ngành nghiên cứu văn học sử mà trên lĩnh vực lý luận văn học nó cũng có thể đem đến nhiều bổ ích, lý thú, ví như những quan niệm về văn, văn phái, thể loại, tác phẩm, tác giả, khuynh hướng... Vấn đề rất phong phú và cũng đòi hỏi nhiều công phu. Trong bài này chúng tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu hai vấn đề nhỏ: quá trình hình thành và tình trạng văn bản hiện nay của bộ sách Ngô gia văn phái. Song trước hết có lẽ cũng cần trình bày đôi nét về văn phái họ Ngô.

1. Khái niệm “văn phái” và bộ sách “Ngô gia văn phái”.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, trước khi xuất hiện bộ Ngô gia văn phái, chưa thấy hai chữ “văn phái” được sử dụng như một thuật ngữ văn học. Vào khoảng những thế kỷ XIV, XV người ta mới chỉ quen dùng từ (trong thi xã, như thi xã Bích Động của Trần Quang Triều), từ đàn (trong tao đàn như Hội tao đàn của Lê Thánh Tông). Tiếp sau đó nhiều nhà khảo cứu nhấn mạnh đến vai trò tác gia với những định nghĩa khá rạch ròi và có lý luận. Tiêu biểu là ý kiến của Ngô Thì Nhậm: “Xưa nay, sáng tác văn chương được gọi là tác gia đã khó. Được gọi là đại tác gia càng khó. Đại tác gia phải là những người (tạo nên) khuôn thước trong nghề thì mới gọi được. Có loại, làm khuôn thước cho gấm thêu. Có loại, làm khuôn thước cho vải vóc. Trong dòng văn chương gấm thêu, cũng có kẻ đi đến trơn tru, bóng mượt. Trong dòng văn chương vải vóc, cũng có kẻ đi đến phô phác, vụng về. Những người như thế, có thể gọi là tác gia, chứ không thể gọi là đại tác gia” (Đề tựa tập thơ “Tinh sà kỷ hành”).

Riêng những người tham gia sưu tập Ngô gia văn phái thì trên cơ sở từ gia muốn chứng thực thành tựu của một họ, một phái. Họ cũng đã đưa ra giới thuyết về vấn đề này. Ngô Thì Trí định nghĩa: “Phàm gọi tên là văn phái là để chỉ cái ơn của thi thư cuồn cuộn như nước chảy không cùng” (Ngô gia văn phái tự)

Phan Huy Ích thì nói rõ hơn. Ông phân biệt gia phái. Thành được nhà đã khó: “Văn mà thành được nhà là khó. Các thế gia hoàn thành được những việc tốt đẹp, dòng phái xa dài. Riêng đối với tác phẩm kiệt xuất của văn chương thì những kẻ rong ruổi trong rừng nghệ thuật, cầm chén nhặt từ không thiếu, những người có được tâm linh kỳ cốt thì vắng hiếm. Nếu chẳng phải là khí làm nát được vàng đá, thanh hòa với âm nhạc, khuôn mẫu từ chương phát ra ở văn thì không thể thành nhà” (Ngô gia văn phái tự). Nhưng thành được phái (văn phái) còn khó hơn. Chẳng những các nhà văn phải đạt tới cái đặc sắc, khuôn khổ riêng của mỗi nhà mà còn phải có sự nối tiếp giữa các thế hệ cùng một dòng họ.

“Trộm nghĩ rằng gốc sâu thì ngọn tốt, sức chứa lớn thì tiếng kêu to. Có cái đức truyền nối trăm năm thì sẽ phát ra ở nét văn của con người các thế hệ nối tiếp. Tinh hoa chất chứa thì tràn đầy ở văn chương còn bản lĩnh thì quy về đạo lý. Khí cách của đại gia rực rỡ, tụ họp mùi thơm, nối dài nét đẹp. Cái đáng nêu lên ở văn phái là hòa hợp cùng mọi người mà không riêng” (Phan Huy ích - Lđd).

Như vậy Phan Huy ích đã nhấn mạnh đến tính nhất quán trong các tác gia của văn phái. Nhưng xét cho kỹ thì ông cũng như Ngô Thì Trí vẫn chưa hề nghĩ đến một nhóm hay một tập hợp các nhà văn có một khuynh hướng tư tưởng nhất quán hoặc cùng một phong cách, một phương pháp sáng tác, hoặc cao hơn còn có cả tổ chức, tuyên ngôn như khái niệm văn đoàn, văn phái sau này. Các ông vẫn giữ quan niệm truyền thống của Nho gia. Văn phái chỉ là những người có học hành, có tài năng viết sách, bất kể là sách gì, thuộc các thế hệ nối tiếp của cùng một dòng họ chứ không thể là người họ khác; do dòng họ có cái đức lớn và có truyền thống học hành nên trong một thời kỳ dài, họ ấy vẫn sản sinh ra được các nhà có tài học và viết được sách vở. Còn khuynh hướng tư tưởng của các nhà văn ấy có khác nhau hay không thì không quan trọng: “Ông cháu, cha con trong khoảng trăm năm nối nhau tích tụ, bơi lội trong bể học bờ thánh. Bởi vì nguồn xa thì dòng dài, cái chứa lớn thì tưới nhuần lớn. Đã có đức ấy thì ắt có lời ấy, thế thì lời sẽ thể hiện ra ngoài mà có nền văn chương ấy” (Ngô Thì Trí - Lđd).

“Nền văn chương ấy” sẽ được coi là vật gia bảo, là ơn huệ thi thư mà con cháu phải trân trọng giữ gìn. Vì lẽ đó tiêu chuẩn để sưu tập tác phẩm của văn phái họ Ngô chủ yếu lại là huyết thống, gia tộc chứ không phải khuynh hướng sáng tác. Và Ngô gia văn phái vẫn chỉ là bộ tùng thư thu thập toàn bộ tác phẩm của tất cả những ai thuộc dòng họ Ngô Thì mà thôi ! Đến như Phan Huy ích gắn bó với gia đình này là thế, quan niệm của ông và Ngô Thì Nhậm trong thơ văn cũng như trong cuộc đời nhất trí là thế, vậy mà tác phẩm của ông cũng không được đưa vào đây một bài nào. Đương nhiên giữa các tác gia trong dòng họ Ngô cũng đạt được đến sự thống nhất nào đó trên một số phạm trù rất chung, như quan niệm về sự hòa kính trong gia đình, nghĩa vụ của con cháu đối với gia tộc, thái độ trước một cuộc sống thanh cao, quan niệm về vị trí nghề nông... Song nét nổi lên dễ nhận thấy hơn ở Ngô gia văn phái là sự phân hóa trong hàng ngũ tác giả. Điều đó cũng tất nhiên, bởi lẽ từ những năm 80 của thế kỷ XVIII, tình hình Bắc Hà rất rối ren. Sự xuất hiện của Quang Trung ở Thăng Long năm 1786 rồi trận đại thắng quân Thanh hai năm sau đó, đã hoàn toàn phá vỡ thế bùng nhùng của cục diện chính trị đương thời. Các nho sĩ bị đặt giữa ngã ba đường và buộc lòng phải chọn một hướng đi dứt khoát. Sự phân hóa của gia đình họ Ngô cũng nằm trong tình hình chung đó của giới nho sĩ đương thời. Mặt khác, trong một thời kỳ ngắn, ba triều đại đổi thay nhau và tiêu diệt lẫn nhau (1). Các nhà văn nối tiếp của một dòng họ, phục vụ cho các triều đại thế tất phải có các tư tưởng khác nhau. Cho nên mặc dù họ vẫn tôn trọng thứ bực trong gia tộc, vẫn gắng giữ tình cảm ruột thịt anh em chú bác, cố gắng duy trì nền nếp thống nhất nhưng thực chất giữa họ đã có những quan niệm rất khác nhau thậm chí đối lập trên nhiều vấn đề quan trọng. Và không thể tránh được sự hình thành những khuynh hướng khác nhau về quan điểm chính trị trên cơ sở đó hình thành các nhóm. Do vậy bộ sách được gọi là Ngô gia văn phái mới chỉ dừng lại ở mức độ một tập hợp tác phẩm của những nhà văn khác nhau trong dòng họ Ngô mà thôi.

2. Sự hình thành bộ sách “Ngô gia văn phái”.

Ngô gia văn phái là một sách phong phú, tác giả đông, tác phẩm nhiều và thể loại đa dạng. Khảo sát tình trạng văn bản hiện nay ta có thể hình dung thấy bộ sách không phải được hoàn thành ngay trong một lần sưu tập, mà đã trải qua ba thời kỳ:

- Thời kỳ đầu là những sưu tập rải rác về từng tác gia như: Nam trình lên vịnh của Ngô Thì ức do Ngô Thì Sĩ sưu tập; Nghi vịnh thi tập gồm toàn bộ tác phẩm của Ngô Thì ức do Ngô Thì Nhậm sưu tập để khắc in; Ngọ Phong thi tập được thu thập sau khi Ngô Thì Sĩ mất và đã hoàn thành từ năm Quý Mão (1783). Ngoài ra một số tác giả đã tự hoàn chỉnh những sáng tác của mình thành từng tập, mỗi tập gồm những tác phẩm sáng tác trong một thời gian nhất định, như Ngô Thì Nhậm có: Hào mân ai lục, Bang giao hảo thoại, Thủy vân nhàn vịnh, Cúc hoa thi trận v.v..., Ngô Thì Chí có: Học Phi văn tập, Học Phi thi tập, Hào mân khoa sớ v.v...

- Thời kỳ thứ hai: sưu tập để xây dựng thành Ngô gia văn phái. Hiện nay chưa rõ công việc được bắt đầu và hoàn thành vào năm nào. Chỉ biết rằng người khởi xướng là Ngô Thì Trí, nhưng người thực hiện chính và hoàn thành lại là Ngô Thì Điển, con trai cả Ngô Thì Nhậm. Trong lời đề tựa, Ngô Thì Trí nói rõ: “Tôi tài đức đều kém, học hành lỗ mãng, thường vẫn muốn soạn định thành sách, trên là để làm sáng tỏ công đức của cha ông, dưới là để có đủ sách thông khảo cho gia đình. Nhưng rồi công việc bề bộn chưa làm được như nguyện. Sách này là do con trai anh trưởng tôi nối chí, tập hợp văn của vài bốn đời mà biên chép lại, phân mục quy lại. Tập hợp xong, bàn với tôi, đặt tên sách là “Ngô gia văn phái” (Ngô gia văn phái tự).

Trong một lời đề tựa khác, Phan Huy ích nói rõ hơn:

“Toàn tập gồm hơn 20 quyển, gần đây lưu truyền trong cõi, người ta tranh nhau truyền tụng. Nay con em trong nhà muốn khắc in, bảo tôi đề tựa. Tôi già rồi, yếu lại lười, từ lâu không cầm đến bút mực, sao đủ sức để tán dương một dòng họ lừng lẫy. Nhớ lại 50 năm trước, được nghe lời dạy bảo của cha vợ tôi, đã lĩnh hội được khuôn phạm văn gia. Đến giữa chừng gặp sự đổi thay, tôi cùng anh vợ ứng thế, kẻ phác thảo, người nhuận sắc, hình hài và tinh thần nương dựa nhau. Thế mà nay biển dâu biến đổi, chợt nhớ lại ngày trước, mơ hồ như một giấc mộng...” (Ngô gia văn phái tự).

Phan Huy ích không đề ngày tháng viết bài tựa, nhưng năm 1768, Ngô Thì Sĩ làm Hiến sát Thanh Hoa, Phan về quê thi có rẽ vào thăm bố vợ, thi xong lại đến đó ở một năm để học. Như vậy có thể thời gian ông “được nghe lời dạy dỗ”, lĩnh hội được khuôn phạm văn gia là khoảng mùa thu 1768 đến mùa thu 1769. Thế thì thời gian Phan Huy ích viết lời tựa cho Ngô gia văn phái có thể ức đoán vào khoảng năm 1819. Cũng theo ông, lúc này bộ sách đã được người ta “tranh nhau truyền tụng”, tức là nó đã hoàn thành trước đó một thời gian. Từ những chi tiết trên, có thể đi đến kết luận rằng: Ngô gia văn phái đã được hoàn thành trong khoảng từ 1815 đến 1819. Bộ sách mới chỉ gồm hơn 20 quyển, sưu tập những trước tác trên vòng 100 năm của ba bốn thế hệ, tức là từ Ngô Thì ức đến thế hệ Ngô Thì Điển.

- Thời kỳ thứ ba: chủ yếu là sự bổ sung, sao chép và sắp xếp lại ở các thế hệ sau. Hiện nay trong số các bản Ngô gia văn phái, có bản chép riêng tác phẩm của Thì Giai (1818 - 1881) và một người nữa là Tuân Phủ công, chưa rõ tên thật. Việc làm này có ưu điểm làm cho bộ cách phong phú thêm, bổ sung thêm được những tác phẩm mà Ngô Thì Điển còn chưa biết hoặc chưa sưu tầm hết. Nhưng nó cũng phá vỡ khuôn khổ ban đầu của bộ sách, khiến cho ngày nay rất khó xác định cách thức sắp xếp, các hệ thống chú thích, biên khảo... của nguyên bản Ngô Thì Điển.

3. Tình trạng hiện nay của các bản “Ngô gia văn phái”.

Hiện nay, theo sự thống kê của nhà thư mục học Trần Văn Giáp (Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Thư viện Quốc gia, 1971) và nhóm tuyển dịch Ngô gia văn phái (Ty Văn hóa Hà Sơn Bình xuất bản, 1980) thì ở Hà Nội, kể cả các thư viện công và tư, có đến khoảng gần 20 bộ Ngô gia văn phái. Riêng Thư Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 18 bộ. Tất cả đều là sách chép tay, nội dung không thống nhất, cách sắp xếp tác phẩm cũng không nhất quán; có thể nói không bộ nào có kết cấu giống bộ nào. Tuy nhiên cũng có thể tạm chia làm hai loại:

a. Loại lẻ bộ, gồm các bản:

A.117b gồm 4 quyển ghi rõ “Đích tôn Ngô Thì Điển biên tập”, nhưng việc biên chép có nhiều nhầm lẫn và lộn xộn. Kết cấu của sách không hoàn toàn theo nguyên tắc thể loại cũng không theo trật tự thời gian. Chẳng hạn Quyển I chép văn loại của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, thì phần cuối lại chép tập thơ Mai dịch thú dư (của Ngô Thì Hương) trong khi đó Quyển IV chép thi loại (gồm Nghi vịnh thi tập của Ngô Thì Ức và Anh ngôn thi tập của Ngô Thì Sĩ) thì phần cuối lại chép một phần của Ngọ phong văn tập. Mặt khác tên đăng ký của Thư viện cũng không đúng với tên ghi trên trang đầu quyển sách; Chẳng hạn như: Quyển III tên đăng ký là Ngô gia văn phái A.117b/3 nhưng bên trong, sách gồm rất nhiều quyển: Ngô gia văn phái Quyển 20, 21, 22, 23, 24, 30, 31, 32; các quyển từ 19 trở về trước và từ 25 đến 29 không thấy. Quyển IV (A.117b/4) phần chép thơ thì gồm Ngô gia văn phái từ quyển 1 đến quyển 4 nhưng sang phần văn lại có tên là Ngô gia văn phái Quyển thượng.

Như vậy rõ ràng bản này là một bộ thu góp nhiều bộ khác nhau nhưng không bộ nào hoàn chỉnh, do đó số lượng tác phẩm của mỗi tác gia đều bị thiếu hụt. Chắc chắn đây không phải bản gốc của Ngô Thì Điển.

A.117/c gồm 3 quyển và A.117/d gồm 3 quyển, chỉ chép riêng thơ Ngô Thì Nhậm.

A.117/d chỉ có 1 quyển chép tác phẩm của Ngô Thì Giai và một người nữa là Tuân Phủ Công.

VHv.807 gồm 6 quyển, chỉ chép riêng Xuân thu quản kiến của Ngô Thì Nhậm.

A1330: 1 quyển, chép tác phẩm của năm tác giả Ngô Thì Trí, Ngô Thì Du, Ngô Thì Điển, Ngô Thì Hiệu, Ngô Thì Lữ.

b. Loại tương đối đủ bộ.

Loại này không nhiều, cũng chỉ có vài bộ nhưng không bộ nào hoàn chỉnh. Tình hình cụ thể như sau:

VHv.16 gồm 13 quyển, chép tác phẩm của 7 tác giả. Sách này chép cẩn thận, chữ tốt, cách phân loại rành rọt, là bản bổ sung tốt cho A.117a.

VHv.1743 gồm 36 quyển. Nhìn qua có thể nghĩ rằng bộ này đầy đủ và gần với bản gốc hơn cả. Song xem xét kỹ thì không phải thế. Mặc dầu số trang số quyển rất đồ sộ, nhưng sách chỉ chép được sáu tác giả và tác phẩm cũng không được sưu tập đầy đủ. Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Chí không có thơ, Ngô Thì Nhậm không có Xuân thu quản kiến. Các tác giả: Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hoàng, Ngô Thì Điển... đều không được chép. Trong khi đó có đến hơn mười quyển chép trùng lặp; có tác phẩm chép đi chép lại đến ba lần. Đó là các quyển: 1, 3 và 6, 35, 8; 2 và 7; 4 và 9, 34; 5 và 10, 34; 13, 14 và 29, 30; 26, 27 và 21; 28 và 19, 21, 26, 27; 34 và 4, 5, 11, 12.

Tóm lại VHv.1743 cũng không phải là một bộ sách có kết cấu hoàn chỉnh, nó cũng nhập thêm những quyển lẻ; cách sắp xếp thì không hoàn toàn theo thể loại. Vì vậy nội dung vừa thừa vừa thiếu, lại có hiện tượng lầm lẫn, lộn xộn, không thể tin cậy hoàn toàn được.

A.117a: gồm 30 quyển. Bản này do Trường Viễn Đông bác cổ thuê chép, là bản hoàn chỉnh, biên tập có nguyên tắc nhất quán và tương đối hợp lý. Bản này sắp xếp riêng từng tác giả và trong mỗi tác giả, tác phẩm chủ yếu sắp xếp theo thể loại. Nói chủ yếu là vì cũng có những tác phẩm được giữ nguyên, mặc dù tác phẩm đó bao gồm nhiều thể loại, như trường hợp Khuê ai lục của Ngô Thì Sĩ.

Theo cụ Trần Văn Giáp (Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Sđd) thì bản này được sao chép từ một bản gốc nhà họ Ngô và là bản tốt nhất. Tuy nhiên, hiện nay chưa tìm thấy bản gốc hay một bản nào gần gũi với A117a. So với các bản khác A117a có nhiều ưu điểm: số lượng tác giả, tác phẩm phong phú, đầy đủ hơn, chữ viết rõ ràng, ghi chú rành mạch, biên tập có quy tắc nên dễ theo dõi, và có thể dễ dàng tìm được ngay tác gia mình cần. Song A.117a cũng còn nhiều nhược điểm: Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn học giá trị bậc nhất của Ngô gia văn phái thì không hiểu vì sao những người sao chép lại bỏ sót? Bên cạnh đó sự nhầm lẫn vẫn không thể tránh được. Các quyển 18, 19, 20 và 23 đã chép trùng tác phẩm của các tác giả: Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí và Ngô Thì Hoàng. Trong đó quyển 18 mang nhan đề Học Phi thi tập nhưng lại chép cả Sóc Nam hành kính của Ngô Thì Trí và Thạch ổ di chương của Ngô Thì Hoàng (những tác phẩm này được chép lại ở hai quyển 19, 20). Điều nguy hại là các phần Sóc Nam hành kính, Thạch ổ di chương ở quyển 18 không đề tên tác giả, có thể khiến bạn đọc nhầm tưởng Ngô Thì Chí cũng là tác giả của hai tập này. Ngoài ra, mặc dù sách được chép cùng một khổ giấy, một cách đóng, một loại bìa và chúng được đánh số từ quyển 1 đến quyển 30, nhưng bên trong một số quyển lại mang những phụ đề chứng tỏ nó thuộc một hệ thống khác. Ví như tất cả các quyển chép tác phẩm của Ngô Thì Nhậm đều mang phụ đề Ngô gia văn phái tuyển và có một hệ thống ghi số riêng chứng tỏ nó là phần IV, mà tác phẩm của Ngô Thì Chí là phần V, của một bộ hoàn chỉnh nào đó, nhưng ở đây chỉ tuyển một phần (của Ngô Thì Nhậm từ “tứ chi lục” đến “tứ chi thập tứ” rồi sau đó là “tứ chi thập cửu” đến “tứ chi nhị thập ngũ” tức là từ quyển 6 đến quyển 14 của phần 4 và từ quyển 19 đến quyển 25 của phần 4. Phần của Ngô Thì Chí từ “Ngũ chi nhất” đến “ngũ chi tam” tức là từ quyển 1 đến quyển 3 của phần 5).

Căn cứ vào lời tựa ở đầu bộ sách và đối chiếu với nội dung bên trong có thể nghĩ rằng A.117a chủ yếu đã giữ được kết cấu ban đầu của Ngô gia văn phái. Bản này sưu tập khá kỹ tác phẩm của bốn thế hệ tính từ Ngô Thì Điển trở lên đến Ngô Thì ức. Tuy nhiên A.117a cũng không phải được sao từ một bản gốc. Số quyển đã tăng lên so với lời ghi của Phan Huy ích (từ hơn 20 quyển lên 30 quyển); những phụ đề không nhất quán, lời ghi chú dưới quyển 21 Dưỡng Chuyết thi văn của Ngô Thì Điển (Dĩnh trai công di tảo)... chứng tỏ bộ sách đã có sự tham hgia bổ sung, sửa đổi, kết hợp nhiều bản và có thể cả việc kết cấu lại của thế hệ sau Ngô Thì Điển. So sánh với VHv.1743 thì trong việc phân loại, sắp xếp tác phẩm, A.117a đã kết hợp được hai nguyên tắc: thể loại và tác giả khiến cho sự tra cứu dễ dàng hơn, kết cấu của bộ sách cũng đỡ rối hơn. Cho dù vẫn còn thiếu nhiều tác phẩm quan trọng, như toàn bộ thơ Ngô Thì Nhậm, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt sử tiêu án, A.117a vẫn là bản tốt đáng tin cậy hơn cả trong số những bản Ngô gia văn phái còn lại hiện nay trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tóm lại Ngô gia văn phái là một bộ tùng thư sưu tập tác phẩm của dòng họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai, Bộ sách được hoàn thành từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XIX. Sau đó nó được sao chép lại nhiều lần, và trong quá trình đó tác phẩm được bổ sung, quy cách sắp xếp, biên soạn cũng có thay đổi. Trong các bản ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay không thấy có một bản gốc hoàn chỉnh nào, trái lại ở mỗi bản đều có thể nhận ra dấu vết biến dạng của bộ sách sau những lần sao chép. Ví như A.117a, VHv.1743, là bản có bổ sung, nhập vào một số bản khác nhau; A.117b là bản bổ sung tác phẩm tác giả mới; A.117c, A.117d, VHv.801... là những bản chỉ tách ra một số tác phẩm nào đó theo yêu cầu riêng của người sao chép; A.117b, VHv.16 là những bản đang sao chép dở dang. Điều đáng tiếc nữa là mặc dù những người soạn Ngô gia văn phái định khắc in nhưng ý đồ đó chưa được thực hiện vì vậy rất có thể trong bộ sách còn lẫn những tác phẩm của tác giả ngoài Ngô gia mà hiện nay chưa có điều kiện xác định. Tuy nhiên, từ bản đầy đủ nhất là A.117a bổ sung thêm bằng các bản VHv.16, VHv.1734, A.117c, A.117d ... người nghiên cứu cũng có gần đủ tài liệu để tìm hiểu các tác gia cũng như những vấn đề mà mình quan tâm.

CHÚ THÍCH

(1) Ba triều đại là: Lê Trịnh, Tây Sơn rồi Nguyễn./.

TB

KHẢO SÁT THÊM VỀ ỨC TRAI DI TẬP

NGUYỄN VĂN NGUYÊN

Ngày nay khi đề cập đến văn bản thơ Nguyễn Trãi, chúng ta không thể không nhắc tới bộ Ức Trai di tập (1). Đây là bộ sách được biên tập vào thế kỷ thứ XIX, nội dung thu thập một số lượng tư liệu khá phong phú, nhờ đó trở thành văn bản quan trọng nhất lưu truyền cho đời sau nhiều trước tác thuộc các lĩnh vực của Nguyễn Trãi. Đáng quí nữa là sách đã được khắc in, nhờ đó càng làm tăng thêm độ tin cậy của văn bản. Nhưng bên cạnh bản in và vài bản sao in lại nguyên bản in này, hiện cũng còn nhiều bản chép tay khác cũng liên quan đến sách ƯTDT. Mặt khác hầu hết những bản chép tay này đều tỏ ra tàn khuyết, thiếu hoàn chỉnh, đồng thời không thể tránh khỏi lỗi về sao chép thông thường, nhưng mặt khác trong chúng lại có chứa nhiều điểm khác biệt cả về hình thức lẫn nội dung so với bản in, khiến ta phải nhìn nhận chúng với tư cách là những dị bản (chứ không phải bản sao đơn thuần). Cá biệt còn có những dấu hiệu cho thấy niên đại sao chép của chúng còn lớn hơn bản in nhiều năm. Biên tập, chỉnh lý sách ƯTDT là một quá trình kéo dài hàng mấy chục năm, kể từ khi thu thập tài liệu cho đến lúc khắc ván in. Muốn đi sâu tìm hiểu về quá trình đó cần phải xem xét một cách toàn diện tất cả các văn bản hiện còn.

1. Tình trạng văn bản:

Văn bản ƯTDT lưu tàng ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Sử học hiện tất cả có 20 bản, có thể phân làm 3 nhóm như sau:

a) Bản in Ức Trai di tập, do Phúc Khê tàng bản, khắc in mùa Thu năm Tự Đức Mậu Thìn (1868), gồm 7 quyển: 1) Thi loại. 2) Phụ lục thơ văn Nguyễn Phi Khanh. 3) Văn loại. 4) Quân trung từ mệnh tập. 5) Sự trạng bình luận. 6) Dư địa chí. 7) Quốc âm thi tập. Ký hiệu các quyển của bản này A.139 (91-96); VHv.1772/1-3 (9.1-9.6); A.26/6(94); VHv.697/1-2 (9.3-9.6); VHv.5 (9.7); VHv.57(2) (9.3, 95, 9.6); VHv.23/1-3 (9.1 - 9.6).

b) Bản sao lại bản in; các ký hiệu: A.31/98 (9.4-9.6) VHv.1498 (9.1-9.6); A.139 (9.7); VHv.143 (9.7).

c) Các bản chép tay khác:

1. Bản sao của Phạm Lí: gồm đề ƯTDT kí hiệu VHv.2159; Hành trạng khảo (9.1), Thi loại (9.2), Văn loại, Quân trung từ mệnh.

2. ƯTDT, kí hiệu A.1753, gồm: Văn loại, Dư địa chí, Bình luận chư thuyết.

3. Bản sao của Diệp (Xuân) Huyên ƯTDT, kí hiệu A.131 gồm: Hành trạng khảo; Văn loại; Ức Trai di tập (Thơ chữ Hán); Nguyễn Phi Khanh thi tập.

4. ƯTDT, kí hiệu VHv.179, gồm: Hành trang khảo, 9.1; Thi loại, chia ra Thượng: thơ chữ Hán, Hạ: thơ chữ Nôm; Dư địa chí; Quân trung từ mệnh tập; Văn loại; Thơ văn Nguyễn Phi Khanh.

5. ƯTDT, kí hiệu VHv.462, gồm: Hành trạng; Văn loại - Quân trung từ mệnh tập; Văn loại.

6. ƯTDT, kí hiệu A.206, gồm: Sự Trạng; Bình luận; 9.2: Dư địa chí; 9.3: Văn loại.

7. Ức Trai tập, kí hiệu A.110, gồm: Hành trạng khảo; Quân trung từ mệnh tập; Văn loại; Ức Trai thi tập.

8. Ức Trai tiên sinh thi tập, kí hiệu là VHv.106, gồm: Thi loạ i (thơ chữ Hán).

9. Ức Trai thi văn, kí hiệu VHv.466, gồm: Hình trạng khảo; Thi loại; Văn loại - Quân trung từ mệnh; Văn loại; Thơ văn Nguyễn Phi Khanh.

Tổng cộng có tất cả 29 bản mang kí hiệu khác nhau, trong đó bản in 7 bản, bản sao lại bản in 4 bản và các bản chép tay khác 9 bản.

2. Những thông tin trực tiếp về quá trình biên tập sách ƯTDT:

Điều may mắn là trong ƯTDT còn giữ lại khá đầy đủ các bài Tựa, Chí của những nhân vật liên quan đến sự hình thành bộ sách. Căn cứ vào đó ta có thể dựng lại tương đối chi tiết từng bước công việc biên tập sách.

Người có công đầu trong việc biên tập nên sách ƯTDT là Dương Bá Cung (1791 - 1868). Ông cũng là người làng Nhị Khê, vốn yêu mến văn thơ Nguyễn Trãi từ lâu, xót xa trước tình trạng thất tán của chúng nên trong nhiều năm trời, khi đi du lịch khắp trong nam ngoài bắc, ông luôn để tâm dò hỏi, thu thập di văn của Nguyễn Trãi mang về, rồi theo loại mà sắp thành một tập(3). Đến đầu những năm 30 thế kỉ XIX, lúc tài liệu thu thập đã tương đối phong phú, Dương Bá Cung mới mang đến cho Nguyễn Năng Tĩnh xem. Trong lời tựa đề năm Minh Mệnh thứ 14 (1833). Nguyễn Năng Tĩnh viết: “Người đồng hương với ức Trai là ông lệnh doãn Gia Binh họ Dương Bá Cung đem đến cho tôi xem những trước tác của tiên sinh ức Trai và của vị thân sinh là Nguyễn Phi Khanh, cùng với các tờ báo sắc phong tặng qua các đời, ghi chép trong gia phả và những lời bàn luận về ức Trai mà ông hàng ngày thu thập được, rồi yêu cầu tôi biên soạn, sắp xếp, phê bình kiểm duyệt và đề lời tựa. Về thơ văn so với thơ của ức Trai chép trong các sách Việt âm thi tập Hoàng Việt văn tuyển thì có phần đủ hơn. Về Quân trung từ mệnh Dư địa chí đã thấy được nói đến và ghi tên trong sử sách. Tôi nhân đó xếp thành 4 quyển, ở cuối lại phụ chép thơ văn Nguyễn Phi Khanh làm quyển 5, rồi lấy nhan đề là Ức Trai di tập.

Qua đây ta biết rằng sưu tập của Dương Bá Cung lúc này gồm 3 phần chính: thơ văn Nguyễn Trãi, các tài liệu về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Trãi (lấy từ các cáo sắc, gia phả, bình luận...) và thơ văn Nguyễn Phi Khanh. Có lẽ đó mới chỉ là một bản thảo tập hợp những hồ sơ, tư liệu mà Dương Bá Cung đã thu thập được, qua sơ bộ “phân loại mà gom thành tập”(5). Có thể hiểu việc phân loại là đem trước tác Nguyễn Trãi chia ra hai loại Văn và Thơ, trong đó lại dựa theo tên những tập sách đã từng được biên tập từ đời trước nhưng đã thất truyền như Ức Trai di tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí... mà xếp theo tập. Ghi nhận công lao của Dương Bá Cung, lời Chí của Diệp Xuân Huyên cũng chỉ nói “Kẻ hậu học, đồng hương với tiên sinh ức Trai là Dương Bá Cung ra sức sưu tầm tập hợp thơ văn của tiên sinh được một số loại”...(6). Như vậy tập bản thảo lúc này vẫn chưa thể coi là định hình. Chính từ cơ sở đó theo yêu cầu của Dương Bá Cung, Nguyễn Năng Tĩnh đã biên tập thành bộ 5 quyển, đặt tên là ƯTDT, đồng thời tiến hành hiệu duyệt, bình chú và đề tựa.

Năm Giáp Ngọ (1834), Dương Bá Cung đến thăm Ngô Thế Vinh (1802 - 1856) mang theo tập sách. Kết quả sự hợp tác với Nguyễn Năng Tĩnh. Bài của Ngô Thế Vinh đề tựa tập sách ấy ghi năm Minh Mệnh Đinh Dậu (1837) có đoạn nói: “Mùa xuân năm Giáp Ngọ được gặp người bạn học là Dương Bá Cung ở Gia Bình. Ông Dương vốn là đồng hương với tiên sinh ức Trai, tay trao cho tôi sách này, gồm có 4 quyển, và bảo tôi đề tựa cho sách”.

Tại sao ở đây Ngô Thế Vinh lại nói sách chỉ có 4 quyển ? Điều này được Phạm Lí giải thích trong lời Chí đề năm Tự Đức Bính Thìn (1856) như sau:

“Xét tập sách này tức ƯTDT là do ngài Dương Bá Cung biên tập, gồm có 5 quyển, trong đó 4 quyển là thơ văn của tiên sinh Ức Trai, quyển cuối cùng phụ chép trước tác của thân phụ Nguyễn Phi Khanh.... Nay ông Dương Đình Ngô Thế Vinh của tôi viết lời Tựa chỉ nêu có 4 quyển, và không để lại lời bình chú ở phần thơ văn của cụ Phi Khanh không phải là không có ý riêng, không có dấu tích phê bình văn ông Phi Khanh và trong lời Tựa chỉ nêu có 4 quyển, ấy chính là muốn chỉ bàn riêng về văn của Tế Văn Hầu Nguyễn Trãi mà thôi (7).

Như vậy ƯTDT đến tay Ngô Thế Vinh gồm 5 quyển như Nguyễn Năng Tĩnh đã sắp xếp. Có thể đoán định 5 quyển đó là: 1) Thi loại; 2) Văn loại; 3) Quân trung từ mệnh; 4) Dư địa chí; 5) Phụ thơ văn Nguyễn Phi Khanh. Yêu cầu của Dương Bá Cung được Ngô Thế Vinh chấp nhận(8). Thực tế ông đã để lại một bài tựa và hơn nữa, ở một số bản còn lưu lại nhiều đoạn bình của ông cùng Nguyễn Năng Tĩnh chứng tỏ Ngô Thế Vinh có đóng góp nhiều vào việc hiệu đính, bình chú. Có lẽ vào lúc này Ngô Thế Vinh đã viết lời Văn chí gửi Dương Bá Cung, đại ý nói: Sách đáng để lưu hành ở đời đã khó thấy , người được sách ấy mà biết đem công bố ra ngoài càng khó thấy hơn. Nay ngài đã cất công lên rừng xuống bể góp nhặt ngọc châu cho khỏi đắm chìm trong sương khói, lẫn lộn ở bụi gai, thực gắng sức cần cù biết bao. Nhưng nếu trong sách mà còn những chỗ chép sai chép lộn thì dẫu có được lưu hành cũng chưa thể coi là toàn bích. Ngài vốn đã thận trọng, nay càng mong sửa chữa thêm cho sáng tỏ những chỗ đó, chớ ngại rườm rà. Vậy có mấy lời, may mà được ngài lưu ý cho(9).

Theo gợi ý đó, Dương Bá Cung trở về chỉnh lại sách, và đến năm Bính Thân (1836) lại đem tới cho Ngô Thế Vinh xem lại. Lần này tập sách đã được “biên soạn sắp xếp rõ ràng hoàn chỉnh hơn hẳn lần trước, đủ thấy tấm lòng và công sức của họ Dương như Ngô Thế Vinh đã viết. Rồi hai ông bàn nhau đem công bố sách ấy cho mọi người cùng biết. Nhưng phải mãi đến năm Tự Đức thứ 21 (1868) dự định ấy mới được thực hiện khi bản in Phúc khê ra đời.

Hơn ba chục năm ấy là quãng thời gian để Dương Bá Cung và những người khác tiếp tục tu bổ chỉnh lí ƯTDT, đồng thời cũng là thời gian sách đựơc truyền nhau sao chép ra nhiều bản chép tay khác nhau. Hai trong số những bản chép tay hiện còn có ghi rõ xuất xứ và niên đại sao chép văn bản: Bản thứ nhất là từ bản A.131 do Diệp (Xuân) Huyên, tự Cổ Hiên, hiệu Di Nhiên Phủ sao chép Lời Chí đề tháng 4 năm Thiệu Trị thứ 5 (1844) có đoạn nói: “Tôi tìm được sách này ở nhà ông Trọng Phu (Ngô Thế Vinh)”(10). Lời Chí thứ hai là của Phạm Lý tự Nhã Chi hiệu An Phong đề năm Tự Đức Bính Thìn (1856) chép nối sau lời Tựa của Ngô Thế Vinh ở bản VHv.2159. Sau khi giải thích việc Ngô Thế Vinh đề Tựa và phê bình tập sách ƯTDT, Phạm Lý viết: “Lý tôi kính sao chép lại nguyên bản cất giữ ở nhà tiên sinh (Ngô Thế Vinh)”(11). Qua đó ta thấy, bản gốc dùng cho sao chép lúc ấy ngoài phần sưu tập của Dương Bá Cung, ít nhất còn một nguồn cung cấp nữa là kho sách nhà Ngô Thế Vinh. Chỉ sau khi bản in Phúc Khê xuất hiện, do có thể được ấn hành với số lượng đáng kể, hơn nữa sách in tỏ ra có kết cấu chặt chẽ hoàn chỉnh hơn thì việc sao chép mới dừng lại, hoặc nếu còn thì hầu như đều dựa theo bản in đó của nhà Phúc Khê.

3. Liên hệ giữa các văn bản:

Trên cơ sở phân tích lai lịch văn bản đã nói ở trên, có thể thấy quá trình hình thành các văn bản như sau:

Trước hết bản in Phúc Khê (1868) là văn bản hoàn chỉnh cuối cùng của ƯTDT. Bản này có đầy đủ 3 bài tựa của Nguyễn Năng Tĩnh (1833), Ngô Thế Vinh (1837) và Dương Bá Cung (1868). Kết cấu 7 quyển (tức là có chênh lệch số quyển so với hồi đầu Nguyễn Năng Tĩnh sắp xếp). Hai quyển dôi ra là Sự trạng bình luận Quốc âm thi tập. Riêng quyển Sự trạng bình luận, mặc dù nội dung của nó đã thấy được đề cập đến trong các Lời tựa trước đó, nhưng xem kỹ quyển này có thể tìm được những bằng chứng khá chắc chắn cho thấy có sự thay đổi, bổ sung cả trong nội dung. Ví dụ đạo sắc của triều đình phong tặng danh hiệu: “Tuấn mại Cương trung Trung đẳng thần” cho vị thần “Tuyên Linh Diên Khánh” (thần hiệu của Nguyễn Trãi) và cho phép dân chúng Vùng hậu duệ của Nguyễn Trãi thôn Hạ xã Nhị Khê được tiếp tục thờ cúng như cũ. Sắc đề ngày 14 tháng Giêng năm Tự Đức thứ 6 (1853), tức nhiều nhất là 15 năm trước khi khắc ván in nó đã được đưa vào sách, nối tiếp ngay sau đạo sắc đời Minh Mạng. Qua đó có thể nhận định rằng sau khi ƯTDT được hình thành và chỉnh lý từ những năm 1833 - 1837 trở về sau, nội dung và hình thức của sách vẫn được tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện, kể cả việc bổ sung tài liệu mới. Những sự thay đổi sẽ tiếp tục được chỉ ra khi đối chiếu với các văn bản chép tay khác.

Hai bản chép tay của Diệp (Xuân) Huyên và Phạm Lý đều ghi nhận nguồn gốc sao chép từ nhà Ngô Thế Vinh và cho biết niên đại sao chép tương đối là trước năm 1844 và 1856. Hai bản này mới chỉ có bài Tựa của Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô Thế Vinh mà chưa có Tựa của Dương Bá Cung. Cũng chưa có cả đạo sắc phong năm Tự Đức 5 (1853) mặc dù bản Phạm Lý được chép sau khi đã ban bố đạo sắc này. Qua đối chiếu với bản in có thể nhận thấy hai điểm đáng chú ý. Thứ nhất, ở hai bản này, phần Hành trạng khảo được gộp với các bài Tựa trở nên phần phụ mở đầu sách mà chưa tách thành quyển riêng. Thứ hai là tiêu đề quyển 2 ở bản Phạm Lý được viết khá đặc biệt là Văn loại - Quân trung từ mệnh. Xem nội dung thì quyển này không phải gộp chung hai quyển Văn loại và Quân trung từ mệnh ở bản in mà thực tế chỉ tương đương quyển Quân trung từ mệnh mà thôi. Tuy nhiên đây không phải sự nhầm lẫn, bởi vì tiêu đề đặc biệt này còn thấy xuất hiện ở một bản khác là bản VHv.462(12). Bản này bị tàn khuyết hầu hết, chỉ còn nguyên vẹn được một quyển Văn loại - Quân trung từ mệnh. So sánh quyển này với bản Phạm Lý thì thấy chúng giống nhau gần như hoàn toàn: Các văn kiện ở đây và 40 văn kiện đầu của bản Phạm Lý(13) trùng khớp nhau cả về số lượng, thứ tự sắp xếp và nội dung sao chép, đồng thời cùng giữ được những lời bình của họ Nguyễn, họ Ngô và một số câu ghi chú đặc thù khác. ỏ bản VSH này, sau 40 văn kiện của Văn loại - Quân trung từ mệnh là đến quyển Văn loại chỉ còn sót lại 2 văn kiện. Vậy thì tại sao có quyển Văn loại rồi lại còn Văn loại - Quân trung từ mệnh? Cách đặt tiêu này có thể giải thích như là kết quả dung hòa giữa hai phương thức biên tập sách ƯTDT đã nêu ở trên. Đó là cách chia theo thể loại thơ và văn, và cách xếp theo tên những sách đã được biên soạn từ đời trước. Theo đó thì những thơ từ do Nguyễn Trãi soạn thảo thuộc loại Văn, nhưng đồng thời chúng đã được Trần Khắc Kiệm biên tập thành Quân trung từ mệnh từ đời Hồng Đức, do đó chúng được gộp thành một quyển với tiêu đề kép là Văn loại - Quân trung từ mệnh. Còn đối với những bài văn riêng lẻ khác như biểu, tấu cáo, văn bia v.v... thì dành lại gọi chung là Văn loại. Theo đó mà suy thì quyển Dư địa chí ắt phải mang tiêu đề Văn loại Dư địa chí? Quả như vậy, ở một bản ƯTDT khác mang ký hiệu A.1753 có chép phần Dư địa chí, và phần này đúng là mang tiêu đề Văn loại Dư địa chí. Từ cách đặt tiêu đề đặc biệt theo một phương thức nhất quán của 3 văn bản trên, cộng với một số đặc điểm chung khác cho phép đi tới nhận định rằng chúng là những phần có nguồn gốc chung từ một bản nào đó cất giữ ở nhà Ngô Thế Vinh. Cùng nguồn gốc trên còn có bản chép của Diệu (Xuân) Huyên mang ký hiệu A.131. Bản này cấu tạo bởi hai phần có kiểu chữ khác nhau ghép lại, trong đó, qua giám định, thì thấy chỉ có phần chép kiểu chữ chân ở 50 trang đầu là thuộc phần sao chép của Diệp Xuân Huyên mà thôi(14). Đến đây, từ những phần riêng lẻ còn lại trong 4 bản: Phạm Lý, VSI, A.131 và A1753 ta có thể ghép lại để dựng nên kết cấu của một bản có nguồn gốc ở nhà Ngô Thế Vinh đại để gồm:

Phần mở đầu:

- Tựa của Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô Thế Vinh (Bản Phạm Lý và A.131). - Hành trạng khảo (Phạm Lý, A.131, VSH).

Thân sách:

- q.1. Thi loại (Phạm Lý).

- q.2. Văn loại Quân trung từ mệnh (Phạm Lý, VSH).

- q.3. Văn loại (A131, VSH).

- q.4. Văn loại Dư địa chí (A. 1753).

Phụ lục: Bình luận chư thuyết (A. 1753).

Ngoài ra, có thể bổ sung vào nội dung trên ở phần Phụ lục quyển Thơ Văn Nguyễn Phi Khanh, vì trong lời Chí của Phạm Lý nói rõ bản nhà Ngô Thế Vinh vốn đã có quyển này nhưng khi chép ông lược bỏ đi (15). Thêm nữa, ở đầu quyển 1 Thi loại bản Phạm Lý có lời chú: “Về thơ Nôm Quốc âm có một tập gồm 69 bài, phụ chép ở tập cuối”(16). Như vậy bản nhà Ngô Thế Vinh cũng còn phần thơ Nôm (Quốc âm thi tập) nhưng vì 4 bản hiện nay không bản nào còn nguyên vẹn đến cuối nên ta không thấy có phần này trên thực tế.

Nhìn vào văn bản vừa được xác lập (dưới đây tạm gọi tắt là bản Ngô Thế Vinh: NTV) ta nhận thấy văn bản này tỏ ra gần gũi với kết cấu 5 quyển do Nguyễn Năng Tĩnh sắp xếp hơn là 7 quyển của bản in Phúc Khê. Đối chiếu tỉ mỉ hơn thấy có nhiều dị đồng lớn nhỏ khác cả hình thức lẫn nội dung giữa bản NTV này với bản in. Cụ thể một số dị đồng chính ở các quyển như sau:

Thị loại: Bản NTV còn giữ lại các lời phê bình cuả Ngô, Nguyễn bên cạnh chính văn mà không thấy có ở bản in, ngược lại bản NTV lại không phụ chép mấy bài thơ tặng đáp như bản in. Ngoài ra còn thấy một số tiểu dẫn có ít nhiều sai khác hoặc đảo lộn vị trí.

Văn loại: ở bản NTV, quyển này tuy không còn trọn vẹn nhưng có thể nhận định văn kiện chép ở đây có số lượng ít hơn và có xáo trộn vị trí.

Văn loại Dư địa chí: Bản NTV có thêm đoạn cuối “Trúc Am Sử thị viết...”, trong khi không có tất cả các lời Cẩn án ghi ở cuối mỗi phần viết về một đơn vị hành chính của bản in.

Hành trạng khảo: Bản NTV không có 5 đoạn tư liệu: Trích Thông sử, Tài liệu về năm Quang Thuận thứ II Kỷ Dậu, năm Vĩnh Trị II đời Hi Tông, năm Vĩnh Thục V đời ý Tông và năm Tự Đức 6.

Bình luận: Bản NTV có thêm đoạn dẫn thơ Hà Nhậm Đại triều Mạc nhưng lại thiếu toàn bộ đoạn cuối trích từ các sách Kiến văn lục, Nhân vật chí, Thiên Nam thực lục, Tang thương ngẫu lục, Lại thi phong thủy chí, Văn thần Lê Trãi thi tự và Huân hiền Nguyễn Trãi truyện.

Quốc âm thi tập: Bản NTV nói chỉ có 69 bài thơ Nôm trong khi ở bản in số bài lên tới 254 bài, chênh lệch 185 bài.

Văn loại Quân trung từ mệnh: Theo mục lục, số lượng văn kiện ở bản in là 42, trong khi ở bản NTV là 40. Nhưng sự chênh lệch 2 văn kiện ở đây không phải do bản NTV chép thiếu mà chỉ bởi có sự xáo trộn, thay đổi vị trí văn kiện giữa hai quyển Văn loại Quân Trung từ mệnh và quyển Văn loại. Cụ thể là ba văn kiện Biểu cầu phong số 21(17). Văn tấu cáo 22 Tấu cầu phong 44 vốn có ở quyển Quân trung từ mệnh bản in được bản NTV chép sang quyển Văn loại, bản in lại được tách ra đem về quyển Văn loại Quân trung từ mệnh của bản NTV. Rõ ràng việc thay đổi vị trí trên không phải do sao chép tùy tiện mà là được tiến hành có chủ định, bởi nhờ thế mà văn kiện ở quyển Văn loại Quân trung từ mệnh trở nên thuần nhất: tất cả 40 văn kiện đều là thư đấu tranh ngoại giao và thư dụ hàng gửi quân tướng giặc Minh.

Có thể đặt câu hỏi: Tất cả những thay đổi, thêm bớt làm cho bản NTV khác với bản in như đã trình bày trên là của bản thân bản này hay chỉ là sao chép lại theo một bản có trước nó? Chúng ta chú ý đến một câu chú thích nhỏ nhưng quan trọng ở bản Phạm Lý: Trong quyển Văn loại Quân trung từ mệnh bản này, sau tiêu đề thư cho Vương Thông của văn kiện số 42 có chú rằng: “Thử thiên Dương bản nguyên tải tại đệ tam quyển Văn loại trung, Trình tình tạ tội biểu văn chi thượng kinh dĩ thư loại tịnh lục vu thử”. Dịch: “Bức thư này ở bản Dương (Bá Cung) vốn được chép trong quyển 3 Văn loại nằm trên Biểu trần tình tạ tội. Nay vì (thấy nó cũng thuộc về) loại thư từ nên chép cùng vào đây”.

Lời chú thích trên cho biết khi chép bản này người ta đã dựa vào một văn bản gọi là bản Dương (Bá Cung). Người sao chép đã tỏ ra không thụ động, mà khi thấy có sự bất hợp lý đã mạnh dạn tiến hành những sửa chữa cần thiết, đồng thời còn thận trọng lưu lại lời chú thích rõ về sự thay đổi đó. Bên trên qua đối chiếu cho thấy, ngoài trường hợp văn kiện 42 này, Văn loại Quân trung từ mệnh bản NTV còn có sự đổi vị trí 3 văn kiện khác nữa. Dò tìm trong quyển này, ta thấy được đầy đủ cả 3 lời chú liên quan. Đó là:

- Trước văn kiện 10 Thư gửi Hoa đại nhân, có chú: “Thượng hữu cầu phong biểu”, tức là “Trước (thư này) có Biểu Câu phong”;

- Sau văn kiện 20 Lai thư cho Sơn thọ, chú: “Hạ hữu Tấu cáo văn” tức là “Sau (thư này) có Văn tấu cáo”

- Trước văn kiện 43 Lai thư cho Vương Thông, chú: “Thượng hữu cầu phong biểu văn”, tức là “Trước (thư này) có Biểu cầu phong”.

Ý nghĩa của mấy câu chú thích này là tại vị trí xảy ra sự thay đổi, người sao chép đã lưu lại thông tin về thực trạng của nguyên bản trước khi tiến hành sự thay đổi đó. Nếu vậy ta có thể sử dụng mấy câu chú này, kết hợp với câu chú về tập thơ Nôm Quốc âm thi tập ở đầu quyển Thi loại để làm chìa khóa xác định ra nguyên bản được gọi là “Dương bản” là bản nào. Liệu nó có giống như bản in không? Theo sự chỉ dẫn của những câu chú thích, chúng tôi đã đối chiếu với vị trí tương ứng ở bản in Phúc Khê thì thấy hầu như không phù hợp. ở bản in, trước văn kiện 10 Thư gửi Hoa đại nhân không có Biểu cầu phong; sau văn kiện 20 Lại thư cho Sơn Thọ không phải Văn tấu cáo; trước văn kiện 43 Thư cho Vương Thông đúng là có Biểu (hay Tấu) cầu phong. Còn bức thư 42 Thư cho Vương Thông tuy đúng là ở quyển 3 Văn loại nhưng lại đặt dưới Biểu trần tình tạ tội. Và như đã biết, Quốc âm thi tập ở đây có những 254 bài. Rõ ràng “Dương bản” chắc chắn có trước bản in, như vậy đây lại thêm bằng chứng cho thấy cho tới lúc in, ƯTDT đã được sửa chữa thay đổi so với tiền thân của nó.

Cũng như cách làm như đối với bản in, khi tiếp tục đem đối chiếu với bản Hv.179(18) thì thấy kết quả rất phù hợp với các chú thích. Ba văn kiện Biểu, Cáo, Tấu ở quyển Quân trung từ mệnh hoàn toàn nằm đúng vị trí được chỉ ra. Số lượng thơ Nôm ở phần Thi loại hạ khớp đúng với con số 69 bài. Chỉ tiếc rằng phần đầu quyển Văn loại bản này bị để trống một đoạn nên không thể đối chiếu vị trí văn kiện số 42 được. Nhưng như thế cũng là đủ để xác định bản VSI này có khả năng mang nội dung của “Dương bản” được nhắc tới trong bản Phạm Lý.

Bản VSI là bản có nội dung đầy đủ nhất trong các bản chép tay. Tuy các bộ phận trong sách không đề rõ đủ quyển trật, nhưng vẫn có thể nhận ra kết cấu của nó gồm 5 quyển và phần mở đầu sách. Đặc biệt là bản này mới chỉ có một bài Tựa của Nguyễn Năng Tĩnh năm 1833 mà chưa có Tựa của Ngô Thế Vinh hoặc Dương Bá Cung. Đây có thể coi là chi tiết xác nhận niên đại sớm của nó so với các bản. Phần Hành trạng khảo Lịch đại thế biên (tức Bình luận chư thuyết) ở đầu sách đều còn sơ sài, ít tài liệu hơn bản in và bản NTV. Quyển1 được đặc biệt chia ra hai phần: Thi loại, thượng chép thơ chữ Hán và Thi loại, hạ chép 69 bài thơ Nôm. Quyển Dư địa chí chép sơ sài, và giống như bản NTV, không có các phần Cẩn án. Quyển Quân trung từ mệnh có số lượng văn kiện là 42, bằng bản in nhưng thứ tự có sai khác như đã nêu trên. Số lượng văn kiện phần Văn loại bản này ít hơn nhiều so với bản in (có thể còn do nguyên nhân sao chép), nhưng đặc biệt lại có chép thêm 5 văn kiện mà bản in và nhiều bản khác không có. Đó là:

- Tế Dạ Trạch từ văn (ở văn kiện này có dòng chữ son “(bài văn) trên là do người đời sau phụ hội đặt ra, nên cắt bỏ đi”)

- Cầu phong biểu văn, mang tên Trần Cảo.

- An chỉ đối: trả lời vua Lê Thái Tông về việc xử chém 7 tên tội phạm.

- Định nhại thời sở thượng trát tử: tờ trát dâng vua khi tham gia định âm nhạc.

- Định nhạc thời hặc hoạn quan trát tử: tờ trát hặc tội quan lại khi tham gia định âm nhạc.

Từ những đặc điểm vừa giống với bản in vừa tương tự với bản NTV của bản VSI thấy được qua so sánh trên cho phép ta nghĩ rằng nội dung một “Dương bản” chứa trong bản VSI chính là nguồn gốc chung của cả hai bản in Phúc Khê và bản NTV. Việc sửa chữa “Dương bản” ban đầu ấy thành bản NTV theo chúng tôi, chỉ có thể do chính Ngô Thế Vinh tiến hành. Người ta đã tìm và sao lại các văn bản NTV từ kho sách trong nhà ông. Ngô Thế Vinh chủ yếu chỉ sắp xếp lại các quyển trong sách hoặc thay đổi vị trí các tài liệu của từng quyển ở những chỗ ông cho là chưa hợp lý, chứ không có sự bổ sung tài liệu mới như Dương Bá Cung. Rõ ràng, Ngô Thế Vinh đã tiến hành một cách độc lập với Dương Bá Cung. Vì thế nhiều sự thay đổi của bản NTV vẫn giữ nguyên như cũ ở bản in của Dương Bá Cung, ngược lại, những tài liệu nội dung mới được Dương Bá Cung bổ sung vẫn không xuất hiện ở bản NTV. Tình hình văn bản cũng chứng tỏ rằng, việc sửa chữa của Ngô Thế Vinh không phải là hoàn thành trong một lúc, mà thực tế được tiến hành sửa chữa từng bước một. Hiện còn những bản mà nội dung của nó có tính chất trung gian giữa “Dương bản” và bản NTV, như các bản HV.466 và A.140. Hai bản này về cơ bản đã gần tương tự như bản sao của Phạm Lý và Diệp Xuân Huyên, 3 tờ biểu, tấu đã được tách ra khỏi phần Quân trung từ mệnh, nhưng phần Văn loại còn sót bức Thư gửi Vương Thông chép trước tờ Biểu trần tình tạ tội. Hoặc như ở quyển Văn loại bản HV.466, bài Văn tế đền Dạ Trạch đã bị cắt bỏ theo lời chú son ở bản VSI, nhưng ở đây vẫn còn chép bài Nguyễn Trãi trả lời Lê Thái Tông (bản này gọi là Nhân nghĩa pháp lệnh luận) và 2 tờ trát làm khi đặt định âm nhạc. Tới bản A.140, cả bốn văn kiện này đều bị lược bỏ. Nếu tiếp tục so sánh các văn bản trên ta sẽ có thể tìm hiểu chi tiết, cụ thể hơn quá trình sửa chữa của Ngô Thế Vinh.

Cuối cùng, còn một vấn đề khá quan trọng cũng liên quan đến quá trình hình thành ƯTDT cần phải làm sáng tỏ. Qua khảo sát ở trên cho thấy, gắn liền với quá trình đó là tên tuổi của các ông Dương Bá Cung, Ngô Thế Vinh và Nguyễn Năng Tĩnh. Ba vị này đã có đóng góp vào việc biên tập, hiệu duyệt, sửa chữa hoàn chỉnh bộ UTDT và đều để lại lời tựa, lời bình chú và nhiều dấu vết khác trên văn bản. Nhưng trong một số sách vở tài liệu của ta hiện nay còn nêu thêm tên một người nữa là Nguyễn Văn Siêu, ghi nhận ông cũng tham gia bình duyệt phần QTTM của bộ sách. Xuất phát của vấn đề này có lẽ là từ Trần Văn Giáp, khi cụ nghiên cứu dòng chữ ghi ở đầu quyển VL. QTTM của bản Phạm Lý.

“Hậu học, Thượng Phúc Nhị Khê Dương Bá Cung biên tập, Hà thành Phương Đình Nguyễn Tị Ban (sửa là Tốn Ban) châu bình. Khúc giang Ngô Dương Đình Thế Vinh mặc bình”.

Tuy nhiên cần chú ý rằng câu viết tương tự như trên không chỉ xuất hiện riêng ở quyển VL QTTM của bản Phạm Lý, mà còn được ghi ở đầu các quyển trong một số văn bản khác(19). Do đó nếu coi đây là căn cứ ghi nhận Nguyễn Văn Siêu phê bình QTTM thì lại phải xét lại về tác giả những lời phê mực son ở một số quyển khác trong sách. Nhưng như ta đã thấy, Nguyễn Năng Tĩnh là người đầu tiên được Dương Bá Cung tin tưởng và yêu cầu cùng biên tập bộ ƯTDT từ khi nó mới chỉ là tập hồ sơ bản thảo vừa sưu tập được. Chính ông là người đầu tiên đề tựa cho sách. Vậy nếu ta thừa nhận ông đã phụ trách bình chú bằng mực son hầu hết các quyển của sách, thì vì cớ gì riêng đối với QTTM ông lại chừa ra cho người khác làm. Trong khi đó, bản thân ƯTDT cũng như các tài liệu liên quan khác, không ở đâu đề cập trực tiếp đến Nguyễn Văn Siêu. Do vậy, nếu chỉ dựa vào lời chú có ghi họ, tên tự, tên hiệu, quê quán trùng hợp với Nguyễn Văn Siêu ở một quyển riêng rẽ, trong một văn bản riêng rẽ để kết luận Nguyễn Văn Siêu đã phê bình quyển QTTM thì e rằng chưa đủ sức thuyết phục. Ta hãy so sánh câu ghi chú này ở các văn bản:

- Quyển Thi loại: VHv.2159; Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh Châu bình.

VHv.106: Hậu học Hà Thành Phương Đình Nguyên Năng Tĩnh Tốn Ban châu bình.

Hv.466: Hà Thành Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh Tốn Ban châu bình.

- Quyển VLDĐC: A.1753: Hậu học Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh Tốn Ban châu bình duyệt.

- Quyển VLQTTM: VHv.2159: Hà Thành Phương Đình Nguyễn Tị Ban châu bình.

Hv.462: Hà Nội Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh Tốn Ban châu bình duyệt.

Như vậy là chỉ trừ ở quyển VLQTTM của bản VHv.2159 ra, còn các bản khác đều ghi đích danh Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh, đặc biệt trong số đó có cả quyển VLQTTM của bản Hv 462 là bản đã được chứng minh có cùng nguồn gốc với bản VHv.2159. Như vậy người phê bình bằng mực son đối với quyển QTTM cũng như các quyển khác của ƯTDT chỉ là Nguyễn Năng Tĩnh mà thôi. Có sự nhầm lẫn ghi Nguyễn Văn Siêu phải chăng chỉ vì hai ông đều có tên hiệu là Phương Đình (với 2 chữ Phương đồng âm nhưng khác nghĩa)(20).

4. Thay phần kết luận:

Ngay từ thời Hồng Đức, sau khi vụ án Nguyễn Trãi được minh oan, thơ văn của ông đã được Trần Khắc Kiệm sưu tầm, biên tập lại. Nhưng rồi những công trình biên tập của Trần Khắc Kiệm do chưa được khắc in nên truyền bản của nó trở nên hiếm hoi và bị tan lạc mất. Đời sau chỉ còn biết được chúng qua những điều mô tả trong sách của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú mà thôi. Ngoài ra, rải rác ở một số sách vở khác cũng có chép thơ văn Nguyễn Trãi, trong đó một số thơ chữ Hán được đưa vào các tuyển tập thơ lớn nhỏ như Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương, Tịnh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích v.v... Nhiều bài văn thư, từ lệnh, chiếu, cáo... thì được lưu giữ trong các sách như Hoàng Việt văn tuyển, An Nam Vũ cống, Hoàng Lê Hoàng các di văn, Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập, Bang giao lục v.v... Tuy nhiên đến đầu thế kỷ XIX, nhìn chung có thể nói tác phẩm của Nguyễn Trãi vẫn chưa được tập hợp lại trong một bộ sưu tập hoàn chỉnh. Tình trạng phân tán về mặt văn bản trước tác của một danh nhân đất nước như vậy đã đặt ra cho các nhà nho đầu triều Nguyễn nhiệm vụ cần phải tập hợp chúng lại trong một bộ sách mang tính toàn tập về Nguyễn Trãi. Dương Bá Cung là người có công đầu trong công việc đó, từ khâu thu thập tư liệu ban đầu cho đến những chỉnh lý về sau. Đồng thời trong quá trình đó còn có sự tham gia tích cực của Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô Thế Vinh. Hai ông không chỉ đóng góp những lời bình chú và đề tựa giới thiệu bộ sách mà còn trực tiếp chỉnh lý sắp xếp tư liệu và tiến hành những sửa chữa, bổ sung nhằm hoàn chỉnh bộ sách. Quá trình đó phần nào đã thể hiện ra trên các văn bản hiện còn. Việc khảo sát văn bản như đã trình bày ở các phần trên không những làm sáng tỏ quá trình diễn biến, sửa chữa đó mà quan trọng hơn, theo chúng tôi, nó còn mang những ý nghĩa thực tiễn trong việc xử lý vấn đề văn bản học của các tác phẩm Nguyễn Trãi sau đây:

1. Một lần nữa khẳng định giá trị của bản in Phúc Khê. Bản này đã kết thúc quá trình hình thành của ƯTDT, nó đã tổng hợp trí tuệ, công sức của những người tham gia biên tập và hoàn chỉnh bộ sách, trong đó nhất là công sức trong nhiều năm của Dương Bá Cung. Vì thế nó có kết cấu hoàn chỉnh nhất, nội dung phong phú nhất, và đôi khi là hợp lý nhất (như việc gộp hai phần Sự trạng khảo Bình luận chư thuyết, hay tách phần Quốc âm thi tập thành quyển riêng v.v...).Bản này còn được bổ sung thêm nhiều tư liệu, đặc biệt là nhờ đó số lượng thơ Nôm tăng gấp bội so với bản khác.

2. Từ những văn bản liên quan đến sự sửa chữa, biên tập lại của Ngô Thế Vinh có thể thấy được một số quan điểm riêng của ông trong việc biên tập một bộ sách mang tính toàn tập về Nguyễn Trãi cũng như đối với nội dung kết cấu của từng quyển trong sách đó. Ví dụ như cách xử lý đối với phần thơ Nguyễn Phi Khanh; hoặc sự phân biệt rõ ràng giữa những văn kiện thuộc QTTMT và văn kiện thoại Văn loại, một vấn đề mà cho tới ngày nay vẫn chưa phải là đã ngã ngũ trong giới nghiên cứu. Xem ra những quan điểm này của ông cũng mang tính khoa học nhất định đáng để tham khảo.

3. Thông qua khảo sát, bản VSH (Hv.179) được xác định là mang nội dung của bản cơ sở cho những chỉnh lý sửa chữa về sau, đồng thời cũng là bản chép tay còn giữ được hoàn chỉnh nhất. Do đó bản này phải được coi là văn bản quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất sau bản in trong việc xử lý hiệu khám, phiên dịch thơ Nguyễn Trãi, trong đó đặc biệt cần thay đổi cách đáng giá đối với 69 bài thơ Nôm chép ở bản này như trước đây quan niệm rằng chỉ có tác dụng là “nhờ vào nó để có chỗ đối chiếu cho một số bài thơ”(21) mà thôi.

4. So sánh đối chiếu những văn bản đã được xác định ở những vị trí khác nhau trong quá trình diễn biến văn bản ƯTDT sẽ giúp ta hiểu được khá cụ thể những thêm bớt, thay đổi các phần nội dung của sách, từ đó xác định cách xử lý cho từng trường hợp. Ví dụ, những lời “Cẩn án” được coi là của Nguyễn Thiên Tích in trong quyển Dự địa chí bản Phúc Khê hoàn toàn không thấy có ở bản VSI và cả bản NTV. Như vậy có thể khẳng định chúng là phần được Dương Bá Cung bổ sung vào đời Tự Đức, từ đó ta sẽ không còn băn khoăn trước những địa danh vốn chỉ xuất hiện sau thời Lê sơ ghi ở phần này như phủ Phụng Thiên, các huyện Sơn Minh, Phụ Dực, Nam Chân, Vũ Giang Tiên Phúc v.v... Ngược lại với một số tài liệu bị loại bỏ trong quá trình sửa chữa trường hợp mất mấy bài văn dôi thêm ở quyển Văn loại bản VSI ta cũng cần đặt vấn đề xem xét lại một cách nghiêm túc về tính chân thực của nó, để tránh làm mất mát thêm những trước tác của Nguyễn Trãi vốn đã bị tàn khuyết nghiêm trọng trong quá trình lịch sử.

CHÚ THÍCH

(1) Ức Trai di tập: dưới đây viết tắt là ƯTDT

(2) Trong bài, sách mang kí hiệu Hv là của Thư viện Viện sử học. Các ký hiệu khác đều là sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(3) Tóm lược ý trong lời Tựa của Dương Bá Cung đề năm Tự Đức thứ 21 (1863). Để cho ngắn gọn trong bài chỉ trích phiên âm và dịch những chỗ thấy là quan trọng và cần thiết.

(4) Bài Tựa này ở bản in Phúc Khê bị thiếu sót. Đây trích theo bản VHv.2159 và A.131.

(5) Trích lời Tựa của Dương Bá Cung, nguyên văn là “Vựng dĩ thành tập”.

(6) Trích theo bản A.131. Nguyên văn: “Tiên sinh đồng ấp hậu học Dương tử Bá Cung cực lực sưu nhi tu chi, đắc nhược can loại”.

(7) Trích theo bản VHv.2159.

(8) Bài Tựa của Ngô Thế Vinh ở bản in lại viết là Ngô Thế Vinh từ chối mãi (“mỗi từ chi”) đối với lời yêu cầu của Dương Bá Cung, là không phù hợp với thực tế. Các bản chép khác đều không có cả những chữ này.

(9) Lược dịch lời văn chỉ của Ngô Thế Vinh chép ở bản A.131.

(10) Trích lời Chí của Diệp Xuân Huyên ở bản A.131. Nguyên văn: “Thị tập dư đắc chi Trọng Phu thị”.

(11) Nguyên văn: “Lý Phụng sao tiên sinh gia tàng nguyên bản”, bản VHv.2159 dưới đây gọi là bản Phạm Lý.

(12) Bản VHv.462 của Thư viện Viện Sử học, dưới đây viết tắt là VSH (Viện Sử).

(13) Mấy văn kiên cuối quyển Văn loại - Quân trung từ mệnh bản Phạm Lý được chứng minh là không thuộc vào sách ƯTDT. Xem Nguyễn Văn Nguyên: "Về hai nhóm văn bản Quân trung từ mệnh hiện còn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm", Nghiên cứu Hán Nôm, số 2 - 1985, tr.16.

(14) Gần 10 trang cuối bản A.131 chép bằng đá thảo không thể do Diệp Xuân Huyên sao chép vì nội dung phần này mâu thuẫn nghiêm trọng với lời Chí của ông: ở đây có lời Tựa của Dương Bá Cung viết sau thời gian sao chép của Diệp Xuân Huyên hơn hai chục năm. Phần này lại có cả ƯTDT trong khi Diệp Xuân Huyên đề chí nói rõ: “Còn về tập thơ của tiên sinh Ức Trai do đã có đầy đủ trong Toàn Việt thi lục nổi lên không chép lại ở đây nữa”. Qua đối chiếu, có thể thấy phần chữ thảo này được chép lại từ bản in Phúc Khê.

(15) Phần thơ của Nguyễn Phi Khanh chép ở bản A.131 thuộc phần chữ thảo nên không coi là thuộc bản nhà Ngô Thế Vinh.

(16) Nguyên văn: “Kì quốc ngữ thi thất tập, lục thập cửu thủ, phụ chi mạt tập”.

(17) Khi so sánh, số thứ tự văn kiện được lấy thống nhất theo phần Quân trung từ mệnh tập của sách Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb. KHXH, H. 1969).

(18) Bản Hv.179 của Thư viện Viện Sử học viết tắt là VSH.

(19) Ví dụ: quyển Văn loại Dư địa chí bản A.1753, VLQTTM bản VSH, Thi loại bản VHv.106 và Hv.466 v.v...

(20) Phương Đình Nguyễn Văn Siêu với chữ Phương là vuông, Phương Đình Nguyễn Năng Tĩnh với chữ phương là thơm.

(21) Trích Lời dẫn phần Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi toàn tập. Sđd, tr.376./.

TB

VẤN ĐỀ VĂN BẢN TRONG THƠ
ĐỖ NHUẬN

NGUYỄN TUẤN LƯƠNG

ĐỖ NHUẬN sinh năm 1446, năm mất chưa rõ. Ông là người làng Kim Hoa, huyện Kim Hoa, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội). Ông đỗ đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất, triều Lê Quang Thuận thứ 7 (1466). Sau thăng Lại Bộ Thượng thư, Tao đàn phó nguyên súy kiêm Hàn lâm Đông các Đại học sĩ, hội viên trong Hội Tao đàn của Lê Thánh Tông. Mùa thu năm Mậu Tí (1468), vua Lê Thánh Tông viễn du Lam Kinh, ông cùng với Quách Đình Bảo đi hộ giá, đã vâng mệnh vua họa thơ trong tập Hiếu tự anh hoa thi tập(1). Mùa Đông năm Quý Mão (1483) ông cùng Thân Nhân Trung soạn Thiên Nam dư hạ tập, dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông. Mùa Thu năm Giáp Thìn (1484), khi triều đình dựng bia Tiến sĩ, ông cùng Thân Nhân Trung vâng mệnh soạn bài ký. Ông đã cùng Thân Nhân Trung bình luận thơ văn của vua quan trong triều Lê Thánh Tông...

Khuôn khổ bài viết nhỏ này chỉ bàn đến: Vấn đề văn bản trong thơ Đỗ Nhuận.

Đỗ Nhuận còn để lại 13 bài thơ, tất cả đều là thơ “phụng họa” những bài thơ “xướng” của Lê Thánh Tông. Mười ba bài thơ đã được chép trong mười văn bản của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà theo ý chúng tôi, người chép cũng như giấy mực thuộc triều Nguyễn (Gia Long). Không có một bộ nào là sách gốc từ đời Lê để lại.

Trong mười văn bản có chép thơ của Đỗ Nhuận kể trên, không có một văn bản nào chép đủ 13 bài thơ của họ Đỗ. Bốn bản chép đủ nhất mỗi bản được 12 bài, bản chép ít nhất có 1 bài(2). Sau đây là bản thống kê các bài thơ của Đỗ Nhuận trong 10 văn bản đó:

Chúng tôi sẽ lần lượt khảo cứu văn bản 13 bài thơ trên của Đỗ Nhuận. Trước hết, xin khảo về bài thơ thứ 13 của ông.

I. Bài thơ thứ 13 (xem bản thống kê trên) có thực là của Đỗ Nhuận không? Muốn vậy, phải định lại giá trị của 6 văn bản Minh Lương cẩm tú; bởi lẽ, bài thơ “Ngự chế Trú Giao thủy giang” này chỉ được chép trong một văn bản Minh Lương cẩm tú - ký hiệu A.254 thôi, còn 12 bài kia đều đã thấy xuất hiện trong 6 văn bản trở lên .

Theo Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, thì Minh Lương cẩm tú (MLCT) đã được các từ thần biên tập khoảng đời Hồng Đức (1470 - 1497), gồm thơ của nhà vua và thơ của bề tôi họa lại(3). Theo Giáo sư Bùi Văn Nguyên trong Lịch sử văn học Việt Nam (4) thì: “MLCT lấy 13 cửa biển nước nhà làm đề tài, với mục đích vừa ca tụng lòng tự hào dân tộc, vừa làm khuây khỏa nỗi tướng sĩ nhớ nhà. Tập thơ này ra đời năm 1470 (?) trong cuộc đi Chiêm Thành. Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có đặt vấn đề nghi ngờ một số bài thơ ở đây không phải là giọng thơ của Lê Thánh Tông. Bùi Duy Tân cũng có nhận xét tương tự như thế(5). Nếu không có thơ xướng của vua Lê, thì làm sao lại có thơ họa lại “một số bài thơ trên” của quần thần, trong đó có thơ họa của Đỗ Nhuận?

Trong bài này, chúng tôi sẽ được khảo MLCT ở 6 văn bản, trong đó, có 1 bản phụ chép trong Cúc đường bách vịnh để định giá từng văn bản, mong gạt ra ngoài những bài thơ không phải của họ Đỗ.

1. Văn bản MLCT- A.1413(6).

Đó là văn bản do EFEO sưu tầm. Sách này chép sai nhiều chỗ: từ tên người (cùng một tên người mà nơi thì Phạm Cẩn Trực, nơi lại Nguyễn, chỗ thì lại Khiêm Trực...), đến câu chữ (một câu thơ được chép lại y nguyên của nhiều tác giả trong hội Tao Đàn; Ví dụ câu “Thiên túng đa năng ngộ thánh nhân”), đến nhiều cụm từ trùng lặp ở nhiều bài thơ của nhiều tác giả... Là một văn bản mới được chép gần đây, không kiêng húy triều đại nào cả. Tổng số thơ của họ Đỗ ở đây chỉ có 10 bài (xem bảng thống kê).

2. MLCT - VHv.94(7).

Bản này không có dấu của BeFeO, là sách sưu tầm được trước đây. Bản này có kiêng húy triều Nguyễn [thời = thần, Hoa, Tông, Nhậm viết bớt nét]. Có lẽ nó được sao chép lại từ một văn bản ở thế kỷ trước triều Nguyễn. Bản này có chép 12 bài thơ của Đỗ Nhuận (trừ bài số 13).

3. MLCT - VHv. 127(8).

Bản này đã tuyển chép 3 bài thơ của họ Đỗ, văn bản tương đối tin cậy, song lại chép xen kẽ nhiều bài văn thơ khác ngoài phạm vi xướng họa như: Giới tửu thi, Giới sắc thi, một số văn bia... Văn bản kiêng húy tên Tự Đức (Thời = Thần), có lối chữ đá thảo. Cuối văn bản có ghi rõ: “Thái Hòa thập nhất niên, Quý Dậu hạ, Hàn lâm viện Trực học sĩ Trình Văn Huy phụng soạn”. (Đó là năm 1453 Dương lịch, đời Lê Nhân Tông - Bang Cơ). Vậy là bản này đã sao chép lại từ một văn bản có từ năm 1453, gồm thơ Tao Đàn và một số thơ văn khác nữa ở triều đại sau Tao Đàn, có thể là của triều đại của chính người chép.

4. MLCT - VHv 826(9).

Văn bản này có chép 10 bài thơ của Đỗ Nhuận. Đây là một văn bản có giấy bản khá mới, chỉ mới được chép vài chục năm lại đây thôi. Nội dung của nó có “xuất nhập” các văn bản trên, song đã chép sót và sai nhiều chỗ.

5. MLCT - A. 534(10) có dấu “EFEO” và dấu “1967”. Đây là loại văn bản do eFeO thuê chép từ nhiều văn bản khác nhau. Người chép chỉ chép có ba bài thơ của Đỗ Nhuận đã có trong văn bản VHv.127, sau đó ghép thêm cho họ Đỗ “Bài thơ thứ 13” (Phụng họa ngự chế Giao Thủy giang) nữa. Bài này chưa hề thấy xuất hiện ở bất kỳ một văn bản nào! Giọng thơ của bài này “ướt át”, lại lắm điển cố khác những bài thơ của họ Đỗ sáng tác, có lẽ không phải là thơ của Đỗ Nhuận.

6. Cúc đường bách vịnh thi tập - A. 1168 đã chép đủ 12 bài thơ chính của họ Đỗ, không có bài thơ thứ 13 (11).

Đây là một văn bản mới sưu tầm được. Nó gồm 2 phần: Phần I: Cúc đường bách vịnh thi tập; chép chân tả, đáng tin cậy hơn phần sau. Phần II: Nét chữ người khác, đá thảo, gồm MLCT và Quỳnh Uyển cửu ca. Phần này chép sai nhiều chỗ khi so với Toàn Việt thi lục (TVTL) và Hoàng Việt thi tuyển (HVTT).

Tóm lại, với 6 văn bản MLCT đã lược khảo ở trên, chúng tôi cũng tán thành cách nhìn của Lê Quý Đôn trước kia và Bùi Văn Nguyên, Bùi Duy Tân mới đây, cho rằng: MLCT đã bị chép lẫn một số thơ người khác vào, hoặc chép không chuẩn xác từng bài, nhất là đối với bài số 13, thơ họa thơ vua Lê của Đỗ Nhuận, mà chúng tôi cho là không đúng. Trong 6 văn bản MLCT kể trên, bản MLCT - VHv.94 đáng để chúng ta lưu ý hơn cả. Chúng tôi đã dựa vào hai tác phẩm lớn: TVTL và HVTT làm cơ sở để khảo sát thơ của Đỗ Nhuận nói riêng và thơ văn Hội Tao Đàn nói chung. Sau đây chúng tôi khảo cứu tiếp về hai tác phẩm đó, cùng với việc làm sáng tỏ 12 bài thơ chính của Đỗ Nhuận.

II. Về 12 bài thơ của Đỗ Nhuận với những văn bản còn lại.

1. Trước hết, Thiên Nam dư hạ tập, tập 7 (A.334/7): một văn bản có chép đủ 12 bài thơ chính của Đỗ Nhuận:

Sách có khổ to 32x22cm do BeFeO thuê chép sau này. Sách chép sai chữ khá nhiều, đăc biệt là những chữ Hán đồng âm dị nghĩa.

Tất cả 12 bài thơ họa thơ vua Lê của họ Đỗ ở đây đã bị chép sai nhiều chữ mà trong phần biên dịch và khảo dị từng bài chúng tôi đã chú thích kỹ. Đặc biệt có 4 bài thơ họa của Đỗ Nhuận (từ bài số 9 đến bài số 12) đã bộc lộ nhiều điều đáng “nghi vấn”, chúng tôi xin nói kỹ ở phần sau. Văn bản này nên dùng để tham khảo.

2. Cùng với xêri sách khổ to 32x22cm do BEFEO thuê chép nói trên, ngoài A.254 (MLCT) và TNDHT - A.334/7, chúng ta còn có bản Toàn Việt thi lục A.3200/2, Văn bản này cũng đã chép đủ 12 bài thơ họa của Đỗ Nhuận. Chúng tôi sẽ so sánh 12 bài đó với các văn bản còn lại mà chúng tôi tin tưởng hơn: đó là các văn bản Toàn Việt thi lục (TVTL) - A.1262/4 và Hoàng Việt thi tuyển (HVTT) - A.608.

3. Về văn bản TVTL - A.1262/4:

Đây là một văn bản cũ được sưu tầm từ triều Nguyễn. Nếu xét kỹ về chất giấy, chất mực, khổ sách, bìa, chữ viết và kiêng húy triều Nguyễn v.v..., thì bản này có trước bản TVTL - A.3200/2 ít nhất là nửa thế kỷ. Bốn bài thơ của Đỗ Nhuận được tuyển chép ở đây có độ chính xác hơn bốn bài đó ở văn bản cùng tên, mang ký hiệu A.3200/2. Bốn bài đó là: Phụng họa ngự chế: Anh tài tử, Tư gia tướng sĩ, Du lục vân động và Bách cốc phong đăng.

4. Bốn bài thơ của họ Đỗ đã xuất hiện trong TVTL - A.1262/4 kể trên cũng xuất hiện gần như nguyên vẹn trong Hoàng Việt thi tuyển - A.608, trong một tổng số 8 bài HVTT - A.608 này đã được Bùi Huy Bích biên soạn và khắc in năm 1825(12) cách ta 162 năm. Do vậy, tám bài thơ của Đỗ Nhuận họa thơ Lê Thánh Tông xuất hiện ở đây thật đáng tin. Đó là những bài: Phụng họa ngự chế: Anh tài tử, Tư gia tướng sĩ, Du lục vân động, Bách cốc phong đăng, Quân đạo, Thần tiết, Thư thảo hí thành, Mai hoa). Khi tiến hành biên dịch 8 bài thơ trên, chúng tôi đã chú ý chọn bản A.608 này làm bản nền, trong số 10 bản mà chúng tôi đã có trong tay.

Xét một mặt khác, tám bài thơ của họ Đỗ được ghi nhận trong bản in HVTT - A.608 này đã thể hiện thống nhất một văn phong của Đỗ Nhuận: ý thanh thoát mà sâu sắc, ít điển cố; câu thơ giàu hình tượng, chữ dùng giản dị chân thực...

Bảy bài còn lại của Đỗ Nhuận đã được chép trong văn bản in - A.608 này cũng thống nhất một văn phong như vậy. Không nghi ngờ gì nữa: Tám bài đó chắc chắn là thơ của họ Đỗ.

Vậy thì một vấn đề được đặt ra: 4 bài thơ còn lại kia là như thế nào, và của ai ? Bốn bài đó là những bài số: 9, 10, 11 và 12 (trong bảng thống kê 13 bài trên kia). Nó đã được chép trong các văn bản A.3200/2, A.334/7, A.1413 (thiếu 2 bài), VHv.94, VHv.826 (thiếu 2 bài) và A.1168.

“Của ai” thì chúng tôi chưa đủ cứ liệu để kết luận. Còn “như thế nào”, thì 4 bài thơ sau cùng đó đã thể hiện một văn phong khác lạ với 8 bài trên, trong bản in A.608. Bốn bài đó (Giao tưởng anh hiền, Kỳ khí, Văn nhân, Pháp cung ngẫu thành) dùng nhiều điển cố, trúc trắc khó hiểu. Ví như bài “Phụng họa Pháp cung ngẫu thành” sau đây:

“Hách hách Ân Thương điếu phạt danh,
Nguy nguy thịnh trị ngưỡng Chu thành.
Bái Trung ân vận tư Tam Kiệt;
Cảo Thượng cư an cật Ngũ nhung.
Long hổ phong vân trường hội họp;
Sơn hà đới lệ biểu tôn vinh.
Hoàng hoàng đế hậu ưng đa phúc,
Vạn cổ thiên nam hưởng thái bình!”

Dịch nghĩa:

Kính họa bài thơ Pháp cung của Đức vua.

Cuộc điếu phạt của vua Thành Thang nhà Thương rất hiển hách - Đời thịnh trị Thành vương nhà Chu cao vòi vọi - [Bái công] gặp vận lớn Chốn Bái Trung là nhờ ba vị hào kiệt - Khi đã an cư ở đất Cảo Thượng vẫn phải luyện rèn kiếm kích - Như rồng gặp mây, hổ gặp gió, sẽ tụ hội mãi mãi - Lời thề sông cạn núi mòn tỏ rõ sự tôn quí vẻ vang. Nhà vua nhận được nhiều phúc rức rỡ - Mãi mãi trời Nam được hưởng thái bình.

Một bài thơ có 56 chữ mà đã phải chú thích gần 10 điển cố (nào là: Pháp cung, Bái công, Tam kiệt, Cảo Thượng, Ngũ nhung, phong vân, long hổ, lời thề “sơn hà đới lệ” v.v... ý thơ cũng lại đã lặp lại thơ xưa.

So với 8 bài thơ trước (từ bài số 1 đến bài số 8) thì bốn bài còn lại mỗi bài có ít nhất từ bốn , năm điển cố trở lên; ý thơ lại khô khan, thiếu bình dị... như thế cả. Cũng có thể là họ Đỗ cầm bút không đều tay, cảm hứng bài này có khác bài kia là lẽ thường tình, song chúng tôi vẫn đặt vấn đề nghi vấn về 4 bài thơ sau (bài số 9 đến bài số 12) xem có thực là của Đỗ Nhuận hay không, để các bạn cùng suy ngẫm; tất nhiên là loại trừ cả bài số 13, một bài chỉ nên đưa vào phần “phụ lục” khi biên soạn thơ Đỗ Nhuận ! Bởi lẽ, chúng tôi quan niệm rằng: người càng thông tuệ tài năng đức độ, thì văn thơ của họ càng giản dị trong sáng, ít chữ nhiều ý, đượm đà tình đời, chải chuốt và sáng tạo!

Việc chép lẫn lộn thơ của nhiều người khác cùng thời và sau thời vua Lê Thánh Tông, khi họ hoạ thơ nhà vua - Chánh nguyên súy Tao Đàn - này, mà người chép cách người sáng tác từ 200 đến 500 năm, thì sự chép lẫn lộn ấy, là lẽ thường tình của sách cổ Hán Nôm Việt Nam ta.

Trên đây, là biện chân ngụy trong tổng số 13 bài thơ của họ Đỗ trong 10 văn bản mà chúng tôi đã có được, để đi tới kết luận: chắc chắn nhất chỉ có 8 bài là của Đỗ Nhuận thôi, và văn bản đáng tin cậy nhất là bản in HVTT - A.608. Sau đây là phần biện chân ngụy từng câu, chữ của từng bài thơ.

III. Giám định câu, chữ trong 12 bài thơ của Đỗ Nhuận (trừ bài số 13, chỉ có 1 bản chép nên không cần “khảo dị”).

Về mặt này, thì ở bài nào ta cũng đã gặp phải những “hạt sạn”, gặp phải nhiều chỗ phải bàn. ở đây chỉ xin nêu vài lệ chứng:

Trong bài “Phụng họa ngự chế Lục Vân Động”, bản A.602, câu 2, ba chữ “nhãn giới khoan” sẽ đúng hơn là “cảnh giới khoan” ở bản A.3200/2 và một số bản khác; bởi lẽ: câu tiếp theo là “Cảnh hữu thanh phong”. Một cây đại bút như Đỗ Nhuận không bao giờ lại dùng hai chữ “cảnh” liền nhau thế trong một bài Đường luật!

Ở bài số 4 “Bách cốc phong đăng”, ngay câu đầu: “Thiên điền hiệp triệu thánh kim năng” được chép trong hai văn bản A.608 và 1262 là đúng hơn trong văn bản A.3200/2 (và một số bản khác) đã chép là “Thiên điền thôn triệu thánh kim năng”, bởi lẽ chữ “thôn” thì rất vô nghĩa, khi câu tiếp là “Trường phố gia hòa tuế lũ đăng”. Cả hai câu có nghĩa là: “Trời và đất hợp sức cùng với ơn vua mới được mùa. Vườn ruộng xanh tốt nhiều năm bội thu”.

Tiếp theo, ở bài số 5: “Phụng họa ngự chế quân đạo”, thì trong câu thứ 3, bản A.608 đã ghi: “Giá bảo vĩnh hoài vô dật huấn”. Chữ “huấn” đúng chỗ hơn là chữ “gián” trong bản A3200/2 (và một số bản khác). Và câu thơ trên có nghĩa là “Vun trồng cái quý giá (đại Đạo), luôn nhớ lời dạy chớ nhàn rỗi!”.

Ở bài số 6 “Phụng họa ngự chế. Thần tiết”, hai câu thực ở bản A.608 đã ghi: “Duy ốc mưu mô tam thốn thiệt, Gia đình thanh bạch tứ tri câm (kim)”. “Đem ba tấc lưỡi bàn mưu mô trong trướng gấm - gia đình thanh bạch không nhận bạc vàng đút lót”. Còn bản A3200/2 thì ngay hai chữ mở đầu của hai câu đã ghi khác: “Duy vận” và “gia truyền”. Chúng tôi cho rằng ở câu trên “Duy ốc” mới đối với “gia đình” ở câu dưới. Hơn nữa, đã “vận” rồi, thì không một vị túc nho nào lại dùng “mưu mô” nữa...

Tóm lại, qua 10 văn bản chép thơ Đỗ Nhuận, trong đó có 6 văn bản MLCT, 1 bản HVTT, 1 bản TNDHT, chúng tôi có thể nhận thấy văn bản MLVT - VHv.94 là đáng để chúng ta lưu ý. Còn những bản do EFeO thuê chép sau này, kể cả bản TVTL - 3200/2 là ít gần nguyên tác nhất. Đáng tin nhất là bản in ở triều Nguyễn 1825, bản HVTT - A.608 (có 8 bài thơ họ Đỗ); thứ đến là bản viết thảo TVTL - A.1262/4 (có 4 bài thơ họ Đỗ).

Đỗ Nhuận có 8 bài thơ họa thơ vua Lê Thánh Tông là đáng tin nhất. Bốn bài thơ kia (bài số 9 đến bài số 11) là đã để cho ta phải nghi vấn. Còn bài số 13 chỉ thấy ở một văn bản MLCT - A.254 chép, nên nó đáng để chúng ta tham khảo thôi.

Với tầm nhìn có hạn của mình, chúng tôi đã thử đi tìm những điều hợp lý trong toàn bộ 13 bài thơ mà các văn bản đã chép là của Đỗ Nhuận. Chúng tôi cũng tự biết rằng: đây chỉ là sự thể nghiệm bước đầu; và “thời gian sẽ còn ủng hộ chúng ta” - những người quan tâm đến cổ thi văn Hán Việt.

BẢN THỐNG KÊ 13 BÀI THƠ CỦA ĐỖ NHUẬN TRONG 10 VĂN BẢN

TÊN BÀI THƠ 1
A32002
2
A334
3
A.608
4
A12624
5
A1413
6
VHv. 94
7
VHv. 127
8
VHv. 826
9
A. 254
10
A. 1163
Bị chú Số văn bản chép từng bài thơ
1. Phụng họa ngự chế Anh tài tử + + + + + + + + + + 10 bản chép
2. Phụng họa ngự chế Tư gia tướng sĩ + + + + + + + + + 9 bản chép
3. Phụng họa ngự chế Du Lục Vân động + + + + + + + + + + 10 bản chép
4. Phụng họa ngự chế Bách cốc phong đăng + + + + + + + 7 bản chép
5. Phụng họa ngự chế Quân đạo + + + + + + + 7 bản chép
6. Phụng họa ngự chế Thần tiết + + + + + + 6 bản chép
7. Phụng họa ngự chế Thư thảo hí thành + + + + + + 6 bản chép
8. Phụng họa ngự chế Mai hoa + + + + + + + 7 bản chép
9. Phụng họa ngự chế Giao tưởng anh hiền + + + + + + 6 bản chép
10. Phụng họa ngự chế Kỳ khí + + + + + + 6 bản chép
11. Phụng họa ngự chế Văn nhân + + + + + + 6 bản chép
12. Phụng họa ngự chế Pháp cung ngẫu thành + + + + + + 6 bản chép
13. Phụng họa ngự chế Trú Giao thủy Giang + 1 bản chép

CHÚ THÍCH

(1) Nay không còn lưu lại.

(2) Toàn Việt thi lục - A.3200; Toàn Việt thi lục A.1242; Thiên Nam dư hạ tậ p - A.334; Hoàng Việt thi tuyển. A.608; Minh Lương cẩm tú A.1413, VHv.94, VHv.127, VHv.826, A.254 và Cúc Đường bách vịnh (có phụ chép Minh Lương cẩm tú) - A.1168.

(3) Theo Đại Việt thông sử, Nxb. KHXH, 1978, tr.108 và Lịch triều hiến chương loại chí, Sài Gòn, 1974, t.9, tr.105.

(4) Nxb. Giáo dục, H. 1971, tr.174.

(5) Trong Từ điển văn học, Nxb. KHXH, H. 1983.

(6) Khổ sách 17x25cm, giấy bản cuối triều Nguyễn.

(7) Khổ sách 17x25 cm, giấy mực cũ hơn A.1413, bìa phết cậy, gáy bôi mực đỏ.

(8) Khổ sách 17x25cm, giấy “Long Cương” của triều Nguyễn.

(9) Có khổ giấy 17x25 cm.

(10) Có khổ giấy 22x32cm, bìa giấy Tây, giấy bản vàng dày, chép chính tả, do eFeO thuê chép sau này. Loại văn bản có khổ trên trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đều như thế cả.

(11) Có khổ 17x25cm, giấy bản triều Nguyễn, bìa phết sơn nâu, mép bôi mực nâu tươi.

(12) Trang 3 HVTT - A.608 ghi: “Hoàng triều Minh mệnh vạn niên chi lục niên tuế ất Dậu, nhị nguyệt, cốc nhật, Sơn Nam trấn, Đốc học Tập trung bá, Nguyễn Tập tự”.

TB

VỀ VĂN BẢN THƠ NGUYỄN ĐỀ

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

NGUYỄN ĐỀ, tên thật là Nễ, tự Nhất Quế, hiệu Quế Hiên, sau đổi là Đề, tự Tiến Phủ, hiệu Tỉnh Hiên, biệt hiệu Văn Thôn cư sĩ, sinh ngày 13 tháng 2 năm Tân Tỵ (19-3-1761) tại phường Bích Câu, Hà Nội. Ông vốn quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (nay là Nghệ Tĩnh). Cha là quận công Nguyễn Nghiễm (1707-1775), Tiến sĩ triều Lê, làm quan đến chức Đại tư đồ, tước Xuân quận công. Mẹ là Trần Thị Tần (1740-1778), người Kinh Bắc (nay là Hà Bắc). Năm 7 tuổi ông được tập ấm là Hoằng Tín đại phu... tước Khuê Nhạc bá. Ông ham học, mấy lần đi thi đều đỗ. Năm 1786 ông được vời ra làm quan, giữ các chức Thị nội văn chức, coi việc giảng học; Phó tri Thị nội thư tả lại phiên; Thiêm thư khu mật viện sự. Năm 1789, sau khi Tây Sơn đại thắng quân Thanh, ông được vời ra giúp viện từ hàn, giữ chức Hàn lâm viện thị thư, sung làm Phó sứ trong đoàn sứ bộ đi Yên Kinh (Bắc Kinh) năm 1789. Đi sứ về, ông được thăng Đông các Đại học sĩ, gia thăng Thái sử thứ tả nghị lang, tước Nghi Thành hầu. Năm 1793, ông coi việc văn thư ở Cơ mật viện, năm 1794 được thăng chức Tả phụng nghị bộ Binh (chính tam phẩm), giữ chức Hiệp tán nhung vụ thành Quy Nhơn. Năm 1794 ông đi sứ lần thứ hai, trở về được thăng chức Tả đồng nghi trung thư sảnh... Sau được ban sắc ấn về trấn xứ Nghệ An. Ông mất ngày 11 tháng 7 năm ất Sửu (tức ngày 3-9-1805), thọ 45 tuổi(1).

Nguyễn Đề xuất thân trong một gia đình phong kiến quý tộc, dòng dõi quan lại. Cha ông là một trong những người đứng đầu các hàng quan triều Lê. Trong gia đình còn nhiều người đỗ đạt làm quan to như Nguyễn Khản, Nguyễn Ức, em ruột ông là Nguyễn Du (1765-1820), tác giả của Truyện Kiều nổi tiếng. Gia đình ông nhiều người làm quan, duy có Nguyễn Đề làm quan trong triều đại Tây Sơn, đảm nhận việc bang giao(2).

Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ giới thiệu về vấn đề văn bản tác phẩm thơ Nguyễn Đề.

Gia phả ghi lại rằng Nguyễn Đề còn để lại hai tác phẩm:

- Hoa trình tiêu khiển tiền hậu tập.

- Quế Hiên giáp ất tập (3)

Hiện nay chúng tôi mới tìm được 4 dị bản của tác phẩm đầu:

Tên sách Ký hiệu Nội tàng trữ Ghi chú
- Hoa trình tiêu khiển tập

- Hoa trình tiêu khiển hậu tập

- Hoa trình thi tập
- Hoa trình tiêu khiển hậu tập
A.1316

VHv.149

HN 360
số 308
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Thư viện Viện Văn học
Nhà bảo tàng Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân-Nghệ Tĩnh
Viện TT KHXH microfilm số 1513



Viện TT KHXH microfilm số 2244

Sau đây là những nét cơ bản về các dị bản trên.

1. Bản A.1361 Hoa trình tiêu khiển tập, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, khổ 32x26cm, 84 tờ, đóng bìa giấy tây mầu hồng, gáy quét sơn màu gạch, giấy bản trắng, chữ viết tay, dễ đọc, có đóng dấu của Trường Viễn đông Bác cổ, microfilm số 1513 (ngày 14-6-1963). Tổng số gồm 323 bài thơ của tác giả.

Sách chia làm hai phần:

Hoa trình tiêu khiển tập, từ tờ 1 đến tờ 29, gồm 115 bài thơ, tờ đầu chép bài tựa của người cháu là Nguyễn Vinh, viết tháng 2 năm Kỷ Tị (1799)(4).

Phần tiền tập sáng tác trong thời kỳ đi sứ lần thứ 1, khi ông bắt đầu ra làm quan cho Tây Sơn và được cử làm Phó sứ năm 1789-1790, lúc ông 35 tuổi(5).

Hoa trình tiêu khiển hậu tập: từ tờ 30 đến tờ 84 gồm 208 bài thơ, bài tựa khoảng 500 chữ của cháu là Nguyễn Đạm(6) viết vào mùa đông năm Cảnh Thịnh 4 (1797), đây là lời tựa riêng cho phần hậu tập. Trong lời tựa có đoạn “Những sáng tác về thắng cảnh trên đường đi và những bài thơ ứng chế tặng đáp được sao chép lại gọi là Hoa trình tiêu khiển hậu tập. Sau bài tựa, tờ đầu phần thơ ghi tên tác giả, tên những người phẩm bình(7).

Phần hậu tập sáng tác vào thời kỳ đi sứ lần thứ 2, khi đó ông được cử làm Chánh sứ sang chúc mừng vua Thanh làm lễ nhường ngôi năm 1795-1796(8). Ngoài thơ ông, còn có 9 bài thơ của những người khác xướng họa với ông.

2. Bản VHv.149 Hoa trình tiêu khiển hậu tập, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, khổ 21x13cm, gồm 64 tờ(9). Sách đóng bìa màu đen, giấy bản cũ, chữ viết thảo khó đọc. Sách gồm 184 bài thơ và 9 bài phụ chép.

Sách chép gần giống phần hậu tập bản A.1361, nhưng thứ tự có đảo lộn đôi chút và không đầy đủ bằng. So với bản A.1361 thì bản VHv.149 thiếu 28 bài, nhưng lại có thêm 4 bài mà bản A.1361 không có. Đặc biệt sách có chấm sơn đỏ và ghi lời bình bằng mực đỏ và đen ngay cạnh câu thơ(10).

3. Bản HN.360 Hoa trình thi tập, hiện có ở Thư viện Viện Văn học, sách đóng bìa màu đen, giấy kẻ học sinh mầu trắng. Trang đầu ghi tên sách Hoa trình thi tập, trang hai ghi Nguyễn Đề thi tập. Sách chia làm ba phần gồm 276 bài thơ.

Hoa trình tiêu khiển tiền tập, từ tờ 1 đến tờ 18 có một bài tựa của Nguyễn Vinh(11) và 62 bài thơ (60 bài từ số 1 đến số 60 giống phần tiền tập bản A.1361).

Hoa trình hậu tập, từ tờ 18 đến tờ 67, có một bài tựa của Nguyễn Đạm và 169 bài thơ.

Quế Hiên thi cảo, từ tờ 67 đến tờ 156, có 15 bài thơ (1 bài trường thiên 62 câu). Tập thơ này được sáng tác vào khoảng thời gian giữa hai lần đi sứ, khi ông làm quan cho Tây Sơn ở Phú Xuân (1790-1794).

4. Bảng 308, mang tên Hoa trình hậu tập, hiện ở nhà Bảo tàng lưu niệm Nguyễn Du, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh(12). Sách có một bài tựa của Nguyễn Đạm ghi rõ năm đề tựa là Cảnh Hưng thứ 4 (1797), có 118 bài thơ. Sách gồm những bài thơ giống phần hậu tập bản A.1361 (từ bài 116 đên 223). So với bản VHv.149 thì bản 308 có 90 bài giống, nhưng thêm 28 bài mà bản VHv.149 không có.

Sau khi xem xét, so sánh số lượng thơ giữa các dị bản hiện có, ta thấy số thơ của Nguyễn Đề còn lại là:

- Hoa trình tiêu khiển tiền tập: 117 bài thơ.

- Hoa trình tiêu khiển hậu tập: 212 bài thơ.

- Quế Hiên thi cảo: 45 bài thơ.

Trên cơ sở phân tích các văn bản ở trên chúng tôi rút ra một số nhận định về tình hình văn bản thơ Nguyễn Đề như sau:

- Tất cả các văn bản còn lại đều không phải là thủ cảo của tác giả. Số lượng thơ ở các bản không giống nhau.

- Bản A. 1361 là bản có số bài thơ đầy đủ nhất (323 bài); so với các bản khác, phần tiền tập thiếu 2 bài, phần hậu tập thiếu 4 bài. Cách sắp xếp các bài thơ trong bản A.1361 hợp lý hơn bản VHv.149 về trình tự thời gian, không gian.

- Thứ tự sắp xếp các bài thơ phần hậu tập ở các bản HN.360 và 308 (ở Bảo tàng Nguyễn Du) tương tự bản A.1361, nhưng số lượng ít hơn.

Bản HN.360 có thêm phần Quế Hiên thi cảo mà các bản khác đều không có, phần này có thể được chép lại từ bản Quế Hiên Giáp Ất tập mà gia phả đã nói đến.

Niên đại các bản khác nhau và được sao chép từ nhiều nguồn.

- Bản A. 1361 do Trường Viễn Đông bác cổ thuê chép lại có lẽ là dựa theo một bản có từ đời Tự Đức về sau vì tất cả các chữ “thời” đều được chép thành chữ “thần”(13).

- Bản VHv.149 gần với nguyên bản nhất và được sao chép khá trung thành. Sách không có bài tựa của Nguyễn Đạm viết vào mùa đông năm 1797 như các sách khác, có thể được chép từ bản có trước lúc Nguyễn Đạm viết tựa, khoảng 1796-1797. Sách có dấu chấm, dấu khuyên bằng mực đỏ, có lời bình bằng mực đen, mực đỏ viết ngay cạnh câu thơ, nhưng xét thấy phần chính văn và lời bình cùng một nét chữ. Trong vài bài thơ người bình có nghi ngờ về chữ nghĩa. Thí dụ: Bài Xuân dạ ngẫu ngâm ở tờ 56, câu thơ cuối cùng “Trung hạ liên khai sách mã thi” có đề thêm hai chữ “nghi tiên”, nghĩa là ngờ chữ “thi” là chữ “tiên”(14). Cuối sách này có phần thơ phú không phải của tác giả. Xem xét một số yếu tố trên, chúng tôi cho rằng bản này không phải là thủ cảo của tác giả, nhưng rất gần với nguyên bản.

- Bản HN.360 của Viện Văn học ghi rõ được sao chép vào tháng 7 năm 1960, nhưng cũng không ghi xuất xứ. Phần tiền tập có thêm 2 bài mà bản A.1361 không có, phần hậu tập, cuối bài tựa ghi rõ thời gian viết tựa là năm Cảnh Thịnh 4 (1797), các bản khác đều không có, phần Quế Hiên thi cảo là chép từ tập thơ riêng khác(15).

Như vậy bản gốc của hai tác phẩm thơ của Nguyễn Đề hiện nay không rõ còn hay mất, những bản hiện hành chỉ là những bản sao chép từ các nguồn khác nhau. So với các nhà văn đương thời như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích... thì Nguyễn Đề ít được các nhà nghiên cứu chú ý đến, những tư liệu lịch sử, tư liệu văn học viết về ông cũng rất ít. Song, như phần đầu bài viết đã nêu, Nguyễn Đề là một quan chức thời Tây Sơn, có đóng góp cho công tác bang giao của nhà Tây Sơn; trong gia đình, ông là người duy nhất tham gia công việc ngoại giao của triều đình, mặt khác toàn bộ thơ ông để lại đều là thơ sáng tác trong thời kỳ làm quan cho Tây Sơn. Thơ của ông bình dị dễ hiểu, những bài miêu tả cảnh vật thiên nhiên rất trong sáng, tuyệt đẹp(16). Có bài diễn tả tâm trạng tác giả trước mọi biến đổi thời cuộc(17), văn phong ông thể hiện tính cách hào hoa phóng khoáng đầy tự tin(18). Thơ ông còn thể hiện tình cảm quê hương thiết tha thấm thía(19) như tính cách con người ông sống chân thành, không hám công danh(20),...

Nguyễn Đề cùng toàn bộ tác phẩm của ông rất đáng được nghiên cứu cẩn thận, nhằm góp thêm hương sắc cho dòng văn học Tây Sơn mà hiện nay do tư liệu hạn chế, chúng ta biết được vẫn chưa nhiều.

CHÚ THÍCH

(1) Gia phả dòng họ này ghi là vì một chuyện rắc rối trong làng, ông đã bị Tri phủ Nguyễn Văn Chiểu bức bách, phẫn chí mà chết.

(2) Bài tựa của cháu ông là Nguyễn Vinh, đề năm Kỷ Tị (1799): “Sứ thần cũng ngang như Tể tướng, đời đời nhà ông đều làm tướng văn, tướng võ, còn ông lại đảm nhận việc đi sứ, há không phải là kiêm hết vinh hạnh ở cõi người sao?”

(3) Nguyễn tộc gia phả, ký hiệu VHv.149, tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(4) Bài tựa chép ở phần Tiền tập, nhưng nội dung lại nói về lần đi sứ thứ 2.

(5) Nguyễn tộc gia phả, sách đã dẫn.

(6) Nguyễn Đạm, con trai Nguyễn Điều, anh thứ hai cùng cha khác mẹ với Nguyễn Đề, người cháu cùng thi đỗ với ông.

(7) Tên những người phẩm bình:

- Canh đệ Tĩnh Trai Trương tuần phủ.

- Nghi đệ Học Đình Nhữ thao phủ.

- Thế Trai Dương Xuyên Trần Mật Trai.

Nhưng trong văn bản này lại không giữ lại một lời bình nào.

(8) Nguyễn tộc gia phả, sách đã dẫn.

(9) Từ tờ 54 đến tờ 64 chép một số bài phú chưa rõ của ai.

(10) Xem bài số 99 tờ 56b, bài 122 tờ 69a, bản VHv.149.

(11) Trong gia phả dòng họ Nguyễn Đề, không thấy ghi người cháu ruột nào là Nguyễn Vinh (Xem Hoan Châu Nghi Tiêu Nguyễn gia thế phả VHv.1852).

(12) Sách này chúng tôi đã xem được vào năm 1981, tai nhà Bảo tàng.

(13) Xem bản A.1361, tờ 1b.

(14) Xem bản VHv.149, tờ 56.

(15) Tập thơ này hiện nay không rõ ở đâu.

(16) Trong bài: Xuân dạ ngẫu ngâm người bình đã ghi “thiên nhiên diệu thi” (thơ thiên nhiên tuyệt diệu).

(17) Đọc câu:

Chuyển xoay máy tạo guồng vô định,

Tươi héo đời người lệ chẳng chung.

Việc cũ đau lòng trăng bến tỏ,

Kéo sương nào chốn viếng anh hùng.

(Ngô Linh Ngọc dịch)

trong Nguyệt Đức giang hữu cảm bài số 3, A.1361.

(18) Đọc câu:

Lòng ta trung tín khinh gian hiểm,

Tay áo xênh xang nhẹ khứ hoàn.

(Ngô Linh Ngọc dịch)

trong Quá Qủy Môn quan bài số 8, A.1361.

(19) Đọc câu:

Tình quê thao thức khôn nguôi lạnh

Một tiếng khèn kêu gió trúc ca

(Ngô Linh Ngọc dịch)

trong bài Tịch dương sơn hành túc cảnh, bài số 5, A.1361.

- Đọc câu: Sớm muộn xe về xong việc nước

Quê nhà sé rộn khúc hoàn ca

(Ngô Linh Ngọc dịch)

trong Hiểu phiếm nhị Hà, bài số 2, A.1361.

(20) Đọc câu:

Phú dư thính bỉ thương

Danh lợi hưu trì trục

Dịch nghĩa:

Phú cho thế nào ta nghe theo trời thế,

Đường danh lợi thôi đừng theo đuổi.

trong An phận ngâm, bài số 12 - Quế Hiên thi cảo, HN.360.

TB

CÁI "THẦN" VÀ CÁI "NHÃ" TRONG
VẤN ĐỀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN

NGÔ LINH NGỌC

TRƯỚC Cách mạng Tháng 8 khá lâu, nước ta có nhiều dịch giả thơ chữ Hán nổi tiếng để lại nhiều bản dịch rất hay như Tản Đà, Ngô Tất Tố, Trúc Khê v.v... Ngoài các vị đó còn có khá nhiều anh em trẻ thích dịch thơ và dịch cũng giỏi như Thâm Tâm, Nguyễn Bính v.v... Hai câu thơ dưới đây nay tôi không nhớ người dịch là ai nữa là do lớp anh em trẻ nói trên dịch (Tôi mang máng nhớ là của Nguyễn Bính)

Hữu ước bất lai qua dạ bán
Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.

Dịch thơ:

Nửa đêm cái hẹn sai rồi
Con cờ gõ nhảm cho rơi hoa đèn.

Cụ Sở Bảo Doãn Kế Thiện nghe hai câu thơ dịch đó nắc nỏm khen người dịch nắm được cái “thần” của nguyên tác, chữ “cho” dùng rất giỏi. Cụ Cử Đỗ Thúc Phách nói chuyện với tôi về thơ và dịch thơ cũng nhấn mạnh phải “nắm cái thần”. Trong một buổi về thăm cụ Trúc Khê, ngồi nói chuyện dưới chân ngọn Ngô Sơn (núi đất do cụ Trúc Khê đắp trong sân nhà cụ), tôi tỏ ý khâm phục cụ dịch bài thơ của Cao Bá Quát họa thơ Nguyễn Công Trứ làm nhân dịp cụ Trứ lên lão bảy mươi tuổi. Cụ Trúc Khê mỉm cười bảo tôi: “Cụ Trứ lên lão bảy mươi mà cụ Quát bảo: Văn đạo Hồng phong dục hồi thủ, khởi ưng lục thập cửu niên phi. Cái “thần” của cả bài là chữ phi, dịch thế nào cho đúng, tôi còn đang nghĩ tiếp”. Sau này tôi được đọc bản dịch bài đó in ra thành sách. Cụ Trúc Khê dịch hai câu thơ đó là:

Nghe nói non Hồng sắp trở lại
Lẽ nào lầm cả những năm qua!

Đúng là người dịch đã lột được cái “thần” của nguyên tác. Cụ Trứ một đời làm quan với nhà Nguyễn, 70 tuổi rồi mà 69 năm đã qua đều có thể là “lầm lỡ” cả! Và cái chữ “sắp” (nguyên tác là dục) càng khẳng định cụ Trứ nhất định phải về hưu, về ẩn cho nhẹ mình, đừng “đo đắn” ước mong gì nữa! Chữ “sắp” dùng xuất quy (lẽ ra phải “bằng” thì lại dùng “trắc”), có tác dụng như một tiếng kêu phẫn uất, càng lột tả thêm tâm trạng ông Kinh Doãn Nguyễn Công Trứ 70 tuổi chán ngấy công danh, thế lợi!

Trước thời đại chúng ta, dịch thơ chữ Hán phần lớn chỉ là hứng thú cá nhân, thích thì dịch chơi, không có gì bó buộc. Phần lớn các nhà khoa bảng, các vị biết nhiều chữ Hán khi có hứng thú thì làm thơ chữ Hán để thuật ý, thuật chí của mình, ít khi nghĩ đến dịch thơ người khác. Ví dụ như cụ Phạm Phú Tiết hiện còn để lại trên ba trăm bài thơ chữ Hán chưa có người dịch (ở nông thôn nước ta hiện nay còn rất nhiều tập thơ chữ Hán của các nhà Nho học như cụ Tiết).

Về lý luận dịch thơ, thời đó, các cụ chỉ nói một câu ngắn gọn: “nắm lấy cái thần và dịch cho hay”. Năm tôi mười ba tuổi, tập tọng dịch ít bài thơ Đường. Bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch (Sàng tiền khán nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương, Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương), tôi dịch là:

Trước giường đón ánh trăng trong
Tưởng chừng mặt đất sương phong đầm đìa;
Ngẩng đầu ngắm bóng trăng khuya
Cúi đầu lòng đã gửi về cố hương.

Tôi dịch còn non nớt, nhưng cụ Cử Phạm Khải - thầy dạy tôi chữ Hán - cho là được và khen chữ “đã” (lòng đã gửi về...) của tôi dùng như thế là nắm được cái “thần” của bài nguyên tác.

Cái “thần” là gì mà quan trọng đến như vậy? Các cụ bảo đó là cái dụng ý gửi tình sâu nhất, cao nhất của tác giả bài thơ, nắm được cái “thần” là hiểu được tác giả, là trung thành nhất với nguyên bài mình dịch.

Ngày nay, được nghe biết về nhiều lý thuyết dịch thuật nói chung, dịch thơ nói riêng, tôi đọc lại các bài thơ dịch chữ Hán cổ kim, vẫn thấy lý luận của các cụ ta xưa là đúng. Như trên đã nói, từ sớm, chúng ta đã có nhiều bài thơ dịch rất hay, vì vừa lột được hết tinh thần sâu đọng nhất của bài nguyên tác vừa đúng là thơ với trình độ tu từ và nghệ thuật thơ rất cao. Ví dụ như bài Hành quân cửu nhật tư Trường An cố viên của Sầm Tham (Cưỡng dục đăng cao khứ, Vô nhân tống tửu lai, Dao lân cố viên cúc, ủng bạng chiến trường khai) dịch giả K.D dịch là:

Đã toan cố gượng lên cao,
Nhưng còn hũ rượu ai nào đưa lên
Đoái thương đám cúc cố viên,
Thu này e cũng nở bên chiến trường!

Thật là tuyệt diệu! Từng chữ, từng lời thơ dịch đi sâu vào tâm tư tác giả. Chữ tửu mà dịch là hũ rượu thì tài quá, vì các loại bầu, chai, be, đối với việc cần uống thật nhiều rượu của nhà thơ lữ thứ Sầm Tham lúc này đều là bí quá! Nắm được cái “thần” của bài thơ chính là như thế.

Người dịch nhập vào tác giả, chung vui, chung buồn với tác giả đến mức hầu như nghĩ điều tác giả nghĩ, nói cách tác giả nói, được như thế là đã thành công một nửa trong việc dịch. Tản Đà dịch Kinh Thi với nhiều chất ca dao Việt Nam. Nhiều dịch giả dịch Đỗ Phủ làm rất sống hình ảnh và tâm hồn Đỗ Phủ. Trúc Khê dịch Lý Bạch, vẽ lại phong cách hào hùng và nồng ấm tình người của nhà thơ từng là hiệp khách này:

Dĩ kiều ta đến đó,
Tưởng mến người anh hùng,
Chỉ thấy dòng nước biếc,
Nào đâu Hoàng Thạch công
Chao ôi người ấy đi
Từ, Tứ thành trống không!
(Kinh Hạ Bình, Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng)

Đến thời chúng ta, cũng không thiếu bài dịch hay, người dịch giỏi. Nhiều bài thơ dịch trong các sách đã xuất bản như Nhật ký trong tù, Thơ văn Lê Thánh Tông, Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Văn học Tây Sơn v.v... rất đạt về cả hai mặt “lột được cái thần” và đảm bảo được cả chất thơ. Tuy chưa có được nhiều bài dịch hay đến mức làm quên cả tác giả đi như bài Đoàn Tư Thuật dịch Tựa truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh, nhưng nhìn chung, trình độ dịch thơ chữ Hán của thời đại chúng ta ngày nay đã tiến bộ rất nhiều, trước hết là về lý luận và phương pháp. Đã mất hẳn lối dịch quá mức tự do, không những không bám lời, bám ý của tác giả mà còn tùy tiện thêm bớt, làm giảm khí lực của bài nguyên tác đi rất nhiều. Ví dụ như Tản Đà dịch Kinh thi với ý định lộ rõ ra là ca dao hóa các bài dịch của mình. Đó là ý đồ rất đáng quý! Nhưng bắt tay vào thực hành thì có nhiều bài cụ không thành công vì thêm lời, thêm ý quá nhiều, làm mất cái “thần” của nguyên tác đi. Chẳng hạn như bài “Quan thư” (Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu, Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu) Cụ dịch là:

Quan quan cái con thư cưu,
Con sống, con mái cùng nhau bãi ngoài,
Dịu dàng thục nữ như ai,
Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng.

Thật rườm rà mà chất thơ cũng mất mát hẳn đi không ít! Đó là trường hợp thêm vào. Lại còn trường hợp bớt đi như N.T dịch bài Tiễn Vi Phúng của Đỗ Phủ: Vạn phương ai ngao ngao, Thập tải cung quân thực, đã bỏ mất ý ngao nga o (rên xiết) và thập tải (mười năm), chỉ dịch là:

Trăm họ khổ nheo nhóc,
Quân lương cung đốn hoài.

Rõ ràng là nắm được cái “thần” của bài nguyên tác nhưng tùy tiện quá, không bám lấy lời và ý của tác giả thì thơ dịch bị giảm sức truyền đạt rất nhiều.

Đó là không kể còn có nhiều trường hợp vì quá bị gò bó vào thể thơ, số chữ, phép nối vần, người dịch đành chịu bỏ mất cái “thần” một cách thật đáng tiếc. Ví dụ như á Nam Trần Tuấn Khải dịch bài Hữu sở tư của Lô Hồng, hai câu Hàm sầu cánh tấu Lục ỷ cầm; Diệu cao, huyền tuyệt vô tri âm, Cụ dịch:

Ôm cầm dạo khúc khuây khoa,
Điệu cao, dây đứt ai là tình thân!

Lục ỷ cầm là cây đàn của Tư Mã Tương Như gảy cho Trác Văn Quân nghe. Thơ tương tư mà nhắc đến đàn Lục ỷ là hợp lắm, chỉ dịch là “ôm cầm” thôi thì thật là bỏ mất cái “thần”. Hai chữ tri âm đành dịch là “tình thân” để bắt vần với câu dưới “Mỹ nhân này hỡi mỹ nhân”, thì thật quá gượng ép và có phần nào dung tục.

Đến đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để trình bày một nét đặc biệt trong lịch sử dịch thuật của nước ta, vẫn xung quanh vấn đề nắm cái “thần” và phương pháp dịch thơ, dịch văn để thể hiện cái “thần” đó. Đó là cách dịch Chinh phụ ngâm khúc của bà Đoàn Thị Điểm. Ông Đặng Trần Côn còn ít tuổi đến xin gặp Hồng Hà nữ sĩ không được bà cho gặp. Ông tức khí về học thêm rồi viết bản Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Hán. Bà Điểm xem xong, tự ý dịch thành thơ quốc âm. Như vậy hẳn là bà phải nắm rất chắc cái “thần” của bài nguyên tác. Bà dịch rất hay đến nỗi nếu không có bản Chinh phụ ngâm khúc diễn ra thơ Việt của bà thì có lẽ ngày nay không còn ai nhớ đến Chinh phụ ngâm khúc chữ Hán của ông Côn nữa. Nhưng thật là thú vị: bản dịch của bà Điểm ngắn hơn bản nguyên tác chữ Hán hàng chục câu thơ, vì có nhiều đoạn thơ khá dài của ông, bà đã tóm gọn lại chỉ trong mấy câu gắn gọn !

Khoảng đầu thế kỷ này, cũng có một trường hợp dịch thuật có lẽ còn đặc biệt hơn thế nữa. Đó là trường hợp cụ Đầu xứ Lê Đại dịch bài Hải ngoại huyết thư viết bằng chữ Hán của cụ Phan Bội Châu từ nước ngoài gửi về. Bài nguyên tác của cụ Phan đã là cả một thiên hùng văn kiệt tác. Đông Kinh nghĩa thục đem in lên báo kèm theo cả bản dịch ra thơ Việt của cụ Lê Đại in bằng cả chữ Nôm lẫn chữ Quốc ngữ. Cụ Phan Bội Châu đánh giá rất cao bản dịch này vì nó đã rất hay về mặt nghệ thuật lại là quốc âm nên tác động rất lớn đến tâm hồn yêu nước, căm thù giặc của nhân dân ta thời ấy.

Sự thật đúng là như vậy. Nhưng nếu đem so hai bản Hải ngoại huyết thư chữ Hán và tiếng Việt thì thấy rõ là cụ Lê Đại chỉ cốt lột lấy cái thần, còn cách làm thì có đoạn chỉ tóm ý viết gọn lại, có đoạn dịch đúng theo nguyên tác nhưng cũng không hoàn toàn bám từ, nệ chữ. Xin đơn cử một ví dụ: Đoạn mở đầu phần II của Hải ngoại huyết thư chữ Hán cụ Phan Bội Châu viết:

"Quốc nhân tứ Hải ngoại huyết thư, thư hành hữu nhật hỹ. Đãn giác Âu phong. Mỹ vân, thích kích tâm não như ngô quốc hồn dã mang liễu liễu, vô thiên khả vấn, vô địa khả truy. Sơn yên hải đào, cứu mục kinh nhĩ."

Cụ Lê Đại dịch là:

Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chưa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ.
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Không tìm đường dò nhắn hỏi han;
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau.

Rõ ràng là tóm lược lời văn chữ Hán mà viết lại không phải là thơ dịch. Cứ một lối vừa dịch vừa tóm ý viết lại như thế trong suốt bản Hải ngoại huyết thư tiếng Việt dài trên năm trăm câu thơ lục bát. Thú vị nhất là hai bản Hán, Việt in liền cạnh nhau mà người đọc đều hoan nghênh cả hai. Không hề phân biệt, và cuối cùng thì đồng bào cả nước ta chỉ thuộc lòng bản tiếng Việt, coi luôn nó là thơ sáng tác của cụ Phan, ít ai nhớ đến dịch giả của nó là Từ Long Lê Đại nữa.

Tôi không dám bàn luận gì về lối dịch kể trên của bà Điểm và cụ Lê Đại vì ngày nay chúng ta không thể làm như thế và cũng không có trường hợp nào cần phải làm như thế. Xin nói sang vấn đề “nhã”, cái vế thứ hai của phép dịch thơ mà các cụ thời trước đề ra. “Nhã” là gì ? Như nhiều cuộc bàn bạc trước đây đã thống nhất định nghĩa: “nhã” là đảm bảo bài dịch có tính nghệ thuật cao, sức truyền cảm lớn, hoặc nói cho gọn hơn nữa là một bài thơ hay “Nhân đôi một công trình nghệ thuật từ góc độ bài thơ”. Giáo sư Vũ Khiêu đã nói về yêu cầu dịch thơ như vậy là rất đúng.

“Thần” và “Nhã” có mối liên quan hết sức chặt chẽ với nhau. “Thần” mà không nắm được thì “Nhã” đến mấy cũng là vô vị. Ngược lại, nắm được “Thần” mà “Nhã” kém thì bài dịch không hấp dẫn, không truyền cảm được cho người đọc. Đến đây phải quay lại một chút với vấn đề nắm vững cái “thần” và cũng xin lấy cụ Tản Đà làm ví dụ. Cụ Tản Đà là một nhà dịch thơ rất tinh tế và có độ “Nhã” rất cao. Sầu kiến chu hành phong hựu khởi, Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân (Bạch Cư Dị - Lâm giang tống Hạ Chiêm) mà cụ dịch là:

“Buồn trông trận gió theo thuyền nổi
Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu!”

thì thật là tuyệt bút: chữ “theo” giải quyết chữ “hựu” như một nghiệp chướng đuổi theo mãi kiếp người luân lạc; chữ “quanh” trùm hết đợt sóng này đến đợt sóng khác lên cái đầu bạc của con người. Nhưng cũng có trường hợp con mắt tinh tế nhìn nhận cái “thần” của cụ Tản Đà bị lầm lẫn như với bài Phong kiều dạ bạc của Trương Kế. Trước cảnh xã hội nhà Đường ngày thêm mục nát, Trương Kế cũng như nhiều trí giả, sĩ phu khác rất chán nản tìm gửi mình vào Đạo. Ông đến thăm chùa Hàn Sơn ở ngoài thành Cô Tô, một nơi ăn chơi, cờ bạc, điếm đàng nổi tiếng thời đó. Cái thần của bài thơ là cuộc đời đã chán ngắt mà người đời vẫn u mê, lầm lạc, lao đầu vào Cô Tô như những con thiêu thân tội nghiệp, nửa đêm tiếng chuông chùa đã tìm đến con thuyền của khách để cảnh tỉnh con người:

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại, Hàn sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Cụ Tản Đà dịch là:

Trăng tà cái quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Dịch như vậy là đã biến một bài thơ Đạo thành một bài thơ tả cảnh rất xa nguyên tắc với những chữ “giấc hồ” không đúng là sầu miên và chữ “nghe” làm mất hẳn chữ đáo tràn ngập tinh thần từ bi quảng đại của tiếng chuông chùa.

Chữ “nhã” trong việc dịch thơ (kể cả dịch phú) còn gặp một trở ngại lớn nữa là sự khác biệt của hai ngôn ngữ. Ví dụ như các từ: thô, sơ ngu trong bài Nhàn vịnh của Cao Bá Quát: Độc hậu ư nhân đắc khí thô Khẳng tương danh lợi dịch sơ ngu. Thô sơ ngu cũng có nghĩa như chữ chuyết (vụng về) mà các cụ hay dùng. Nó chính là cái tính ban đầu của con người, chất phác, tự nhiên, quý lắm. Vì vậy tác giả mới nói là độc hậu (hậu hĩ riêng đối với ta). Người dịch bài thơ này cũng dễ dàng hiểu cái ý dưỡng chuyết, “đắc thô” như thế, nhưng dịch cho gọn ra tiếng ta mà lại là dịch ra thơ thì khó quá. Vì vậy, ông đã dịch gượng: “Được cái hơn người tính khí thô” và “Há ham danh lợi chịu ngây ngô” (Thơ chữ Hán Cao Bá Quát - Nxb Văn học) thì làm sao mà “nhã” được! Ngoài ra, lại còn không ít trường hợp địa danh chữ nghĩa, tên nhân vật lịch sử không rõ ràng trong thơ chữ Hán của nước ta thời xưa nữa. Ví dụ các cụ hay nói “Phùng tý” (cánh tay họ Phùng) thì là Phùng nào, Phùng Đạo hay Phùng Dĩ, Đại thụ tướng quân thời Hán? Thơ Đường in nhiều rồi, mà bài Phù Dung lâu tống Tân Tiệm của Dương Xương Linh cũng còn có nhiều vấn đề phải bàn đi bàn lại: Bình minh tống khách Sở sơn cô thì chữ “cô” này là trơ trọi, đơn độc, hay là tên hai rặng núi “Đại Cô sơn, Tiểu Cô sơn” nước Sở ? Ngay việc dịch thơ Bác Hồ của chúng ta cũng phải đâu là chuyện dễ. Bác rất sâu về Hán học. Tính Bác lại rất vui, hay chơi chữ. Câu thơ Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng của Bác nghe rất cổ kính: ngôi nhà lầu trên núi, tiếng chuông từ xa vọng đến làm kinh động giấc mơ thu, nghe hay quá, “Đường” quá! Nhưng câu thơ tiếp theo sau câu đó mới làm cho chính người dịch thơ Bác bừng tỉnh lại: Chính thị Liên khu báo tiệp thì! à, thế ra sơn lâu là cái nhà sàn của Bác, chung hưởng không phải là tiếng chuông chùa ở đâu vọng đến, mà chính là tiếng chuông điện thoại ngay nơi Bác làm việc, dồn dập báo tin toàn Liên khu thắng giặc. Quả thật là khó dịch!

Anh Tào Mạt, nhà nghệ sĩ sáng tác bộ ba chèo “lịch sử” “Bài ca giữ nước” nổi tiếng, có lần nghe tôi kể những cái “oái oăm” trong việc dịch thơ mà tôi thường gặp. Anh lắc đầu, chép miệng: “Khó quá! Khó quá! Dịch cho đúng đã khó, dịch cho hay càng khó!”. Đúng là khó như thế đấy, nhưng tôi tin rằng trong thời đại chúng ta hiện nay, dịch thuật nói chung, dịch thơ chữ Hán của ông cha ta nói riêng, đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng, chúng ta làm việc có mục đích hẳn hoi, lại được học thêm, hiểu thêm rất nhiều do có đầy đủ các ngành, các bạn để nhờ góp ý, việc nắm cái “thần” của bản chữ Hán có thể làm tốt được, việc đảm bảo cái “nhã” cũng có điều kiện để cố gắng nâng cao thêm. Nhất định chúng ta sẽ làm được điều mà chúng ta hằng mơ ước: có được những bài thơ dịch tốt cùng sống lâu dài với nguyên tác, hoặc nói rõ hơn nữa với mục đích truyền đạt lại những tư tưởng, tình cảm của ông cha ta là sẽ có được những bài thơ dịch tốt, qua đó, các nhà thơ chữ Hán thời xưa của nước ta trực tiếp nói chuyện với con cháu thời nay và mai sau bằng ngôn ngữ thơ hiện đại của đất nước chúng ta. Có phải thế không các bạn ?

TB

VỀ MỘT SỐ CHỖ HIỆU ĐÍNH CỦA NGUYỄN THẠCH GIANG TRONG TRUYỆN KIỀU

MAI LỆ

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang đã khảo đính và chú thích Truyện Kiều và được Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản và tái bản nhiều lần với số lượng khá lớn. Tôi được đọc cuốn tái bản năm 1976. Theo Nhà xuất bản nói trên (trong lần tái bản thứ sáu) thì văn bản như vậy là đã tương đối ổn định, những lần tái bản sau không sửa đổi gì mấy.

Thế nhưng theo tôi, kể cả phần khảo đính lẫn phần chú thích đều còn nhiều, rất nhiều chỗ còn phải nghiên cứu tiếp: Người hiệu đính đã sửa đổi tùy hứng với những lý giải không mấy thuyết phục; phần chú thích cũng tùy tiện, có nhiều chỗ giải thích không chính xác.

Là một người yêu Kiều, mến Nguyễn Du, tôi thấy có trách nhiệm phát hiện và nêu lên những chỗ còn tồn tại đó. Song vì điều kiện eo hẹp về thời gian, tôi không thể nêu hết những điểm mình phát hiện, mà chỉ xin nêu trước ở đây một số trường hợp điển hình.

1. Về câu 1879 - 1880:

Nhẹ như bấc nặng như chì,
Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên.

Theo Nguyễn Thạch Giang (trong sách đã dẫn), thì bản Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim và bản của Nhà xuất bản Văn học (1965) đề là “ra nữa”; còn các bản của Kiều Oánh Mậu, Aben đê Misen (quốc ngữ), Phạm Kim Chi, Tản Đà đề là “ra nợ”.

Nguyễn Thạch Giang đề là “ra nợ” và lý giải: “ra nữa nghĩa là gì? Không thông!

Theo tôi, lại phải là “nữa” chứ không thể là “nợ”:

Thơ lục bát có âm luật, để khi đọc hay ngâm lên có âm điệu:

O B O T O B

O B O T O B O B

Trong đó, những âm chẵn mới theo luật bằng (B) trắc (T); còn các âm lẻ không cần luật bằng trắc (O): Nhất, tam, ngũ, thất bất luận.

Khi đọc hay ngâm, trọng âm rơi vào âm có luật (âm chẵn). Vì vậy, thông thường người ta đọc hai âm một:

Dưới cầu/nước chảy/trong veo,
Bên cầu/tơ liễu/bóng chiều/thướt tha.

Thế nhưng, cũng có câu, phải đọc ba âm liền mới có nghĩa.

Ví dụ: Làn thu thủy/nét xuân sơn.

Trường hợp này, tôi tạm gọi là “nghịch phách”, vì trọng âm rơi vào âm lẻ, ở cuối chỗ ngắt đoạn. Chẳng những hiện tượng nghịch phách có ở câu sáu, mà có cả ở câu tám.

Ví dụ: Biết duyên mình/biết phận mình thế thôi

Và: Rành rành Chiêu ấn am/ba chữ bài.

(Ngoài ra còn nhiều kiểu nghịch phách khác, tôi không nói ở đây. Vì bài này không nghiên cứu về nghịch phách trong thơ lục bát. Mặt khác, nghịch phách không phải là bên cách: Biến cách là có biến đổi về luật thơ (âm luật); còn nghịch phách giữ nguyên luật, mà thay đổi cách buông trọng âm khi ngâm).

Ở câu nghịch phách, mà đọc hay ngâm như câu thường, thì không... ra nghĩa. Chính hai câu 1879-1880 nói trên đều nghịch phách:

Nhẹ như bấc/nặng như chì,
Gỡ cho ra/nữa còn gì là duyên.

Chứ không phải:

Nhẹ như bấc/nặng như chì,
Gỡ cho/ra nữa/còn gì là duyên.

Như vậy là đã khá rõ: không phải “ra nợ” hay “ra nữa” mà là “ra (phết) nữa”. Nữa ở đây có nghĩa như “rồi” hay “rồi thì” (Gỡ cho ra, rồi còn gì là duyên).

Và như vậy, ý hai câu này (với chữ “nữa”) rất đắt: Với cách đánh ghen của Hoạn Thư, Kiều lo lắng: Nhẹ nhàng như vậy đấy mà cực kỳ sâu sắc, tới lúc thoát ra được hoàn cảnh này, thì già rồi còn gì là duyên.

Trong Kiều còn một số chữ “nữa” với nghĩa tương tự, mà Nguyễn Thach Giang không thắc mắc như chữ “nữa” này, vì nó nằm ở câu... không nghịch phách.

Ví dụ:

844 Mà ta bất động, nữa người sinh nghi

1969 Nữa khi giông tố phũ phòng

Tôi đã thống kê (chưa đầy đủ), trong Kiều có khoảng trên bốn chục “câu sáu” nghịch phách ở âm thứ ba như câu 1879 và trên năm chục “câu tám” nghịch phách ở âm thứ ba như câu 1880. Ví dụ:

Câu sáu:

Mai cốt cách/tuyết tinh thần

Tình duyên ấy/hợp tan này

Bắt phong trần/phải phong trần

Câu tám:

Vẻ non xa/tấm trăng gần ở chung

Đĩa dầu vơi/nước mắt đầy năm canh

Cũng vì không lưu ý đến những câu nghịch phách như trên, nên Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim đã sửa văn của Nguyễn Du (với thành thói):

Trời xanh/quen thói/má hồng/đánh ghen

Nguyễn Thạch Giang đã chấp nhận (trang 122 sách đã dẫn).

Thực ra câu đó, các bản trước đó đều viết là:

Trời xanh quen/với má hồng đánh ghen.

Cũng như các câu:

354 Giỡ kim hoàn/với khăn hồng trao tay.

386 Đã cam tệ/với tri âm bấy chầy.

Nếu câu nói trên diễn cho xuôi ra sẽ là:

Trời xanh quen đánh ghen với má hồng

Chứ không phải:

Trời xanh quen thói đánh ghen... má hồng.

Dùng chữ “quen thói” thì “êm tai” hơn, nhưng lại sai về ngữ pháp: thiếu giới từ “với”. Và nhất là ... Nguyễn Du không viết như vậy. Chẳng qua là người hiệu đính muốn sửa cho .. “êm tai hơn” mà thôi.

2. Cũng vì không lưu ý đến những chỗ nghịch phách, Nguyễn Thạch Giang đã sửa câu 1092 theo ý mình và trở thành người đầu tiên sửa chữ này:

Cũ là: Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Sửa là: Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.

Theo Nguyễn Thạch Giang (trong sách đã dẫn), tất cả bản Nôm và Quốc ngữ dùng làm bản hiệu đính, kể cả bản Kiều Oánh Mậu đều để là “ngậm trăng”, Nguyễn Thạch Giang sửa là “ngậm gương”, với những lập luận:

- Lê Văn Hòe đã nêu trong lời chú giải của ông: “Câu này tả cảnh chiều tối. Ngày 21 mới chập tối đã có trăng ư?”

- Nguyễn Văn Vĩnh bẻ Nguyễn Du: “Tác giả tả cảnh sai ? Hay là trăng ở vùng Lâm Truy mọc không đúng giờ giấc ở nước ta?”

Nguyễn Thạch Giang cho rằng Nguyễn Văn Vĩnh bẻ đúng, do đó không thể là “ngậm trăng” mà phải là “ngậm gương”,vân vân...

Tôi xin bẻ một chỗ nữa cho... vui: “Sở Khanh đến không đúng giờ! Hẹn... “người ta” giờ tuất mà mới chập tối đã lò dò đến!” Lắm sai sót như vậy, Nguyễn Du còn gì là một đại văn hào nữa?

Thực ra không phải như vậy, hoàn toàn không như vậy. Câu 1092 là câu nghịch phách. Không phải là “ngậm trăng”, cũng chẳng phải là “ngậm gương”, mà là “ngậm (phết) trăng”:

1091 Chim hôm thoi thót về rừng,

1092 Đóa trà mi đã ngậm, trăng nửa vành.

Đây là hai trong những câu tuyệt hay của Nguyễn Du, cả về ý và về lời, cả về nội dung và nghệ thuật, chứ không sai chỗ nào cả.

Tôi nghĩ, chúng ta hiểu sai, một phần vì trong chữ Nôm không có dấu ngắt đoạn. Cứ như tôi, hai dấu phẩy ở hai câu trên là hai dấu chấm thì càng hay:

“Chim hôm thoi thót về rừng. Đóa trà mi đã ngậm. Trăng nửa vành.”

Đây là “ba câu” tả cảnh... “động” về thời gian:

- Chim hôm thoi thót về rừng: Chập tối, còn lâu (6 âm: chậm)

- Đóa trà mi đã ngậm: tối rồi, còn lâu (5 âm: nhanh hơn)

- Trăng nửa vành: tối lâu rồi, đã đến giờ hẹn (3 âm: nhanh nhất)

Nguyễn Du đã nói lên được tấm lòng khắc khoải chờ mong, hồi hộp đếm từng giờ của Kiều, vừa mong mà vừa sợ đến giờ hẹn.

Ở đoạn cuối cùng, Nguyễn Du buông ba tiếng: “Trăng nửa vành”. Tôi có cảm giác “lạnh xương sống” và hình dung thấy Kiều giật mình đánh thót một cái. Tuyệt diệu! Đây là một “câu thần” chứ không phải chỉ là một “câu tuyệt hay”! Xin cùng rung cảm với Nguyễn Du và Kiều! Không được sửa gì cả!

3. Trong sách đã dẫn, Nguyễn Thạch Giang đã viết: “Ngoài ra, còn hai câu, chúng tôi đã hiệu đính lại cho hợp lý” (trang 145). Đó là câu 1092 đã nói trên, và câu 1448 mà chúng tôi xin nói tới sau đây.

Các bản in trước nay đều viết: thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Nay Nguyễn Thạch Giang sửa lại: Kém gì cô quả, kém gì bá vương.

Lý lẽ biện minh cho việc sửa đổi này, Nguyễn Thạch Giang dựa vào Tản Đà, như sau:

Bản Tản Đà cũng đã chú: hai chữ “thiếu”, các bản quốc văn và các bản chữ Nôm hiện nay đều để cả như vậy; trong bản đây (tức là bản của Tản Đà), cũng là theo phần công chúng mà không dám khác hẳn tự theo ý mình (tức là Tản Đà cũng không dám sửa).

Tản Đà chỉ dám bàn thêm: “Song phần riêng tôi nhớ từ năm đã lâu, được nom thấy ở một bản in chữ Nôm hai chữ này để là “kiếm” (lưỡi gươm) cho nên có người đọc là “hiếm”, có người đọc là “kém”. Chữ “hiếm” thời nghĩa cũng như chữ “thiếu”; còn chữ “kém” thời nghĩa lại khác”.

Tản Đà muốn sửa là “kém”, vì cho rằng như vậy mới hợp văn lý (nhưng chưa dám sửa). Tản Đà “hiểu Kiều” và lý giải như sau:

“Nếu Từ Hải khi đó đã xưng đế, thời chữ “thiếu” trong câu đây mới có nghĩa. Vì bá vương tức là hạng chư hầu vương mà có ý hùng cường, cô quả (tức chữ quả nhân) thời là những tiếng tự xưng của hạng bá vương ấy. Cho nên trong câu đây mà hai chữ ấy là “thiếu”, thời phải nhận nghĩa rằng: dưới Từ, hay trong cái cung đình của Từ, không thiếu gì những người là cô quả, bá vương vậy. Nay cứ ở Minh sử, Từ Hải chỉ là một kẻ có tên trong bọn giặc bể; mà xem trong văn Kiều như câu “Đại vương tên Hải họ Từ” thời hai chữ “đại vương” đủ là tiếng tôn xưng của Từ. Cho nên lấy sự thực xét với văn lý, thời chữ “kém” phải nghĩa hơn, nghĩa là cũng cô quả, cũng bá vương không kém gì ai vậy” (các trang 145 - 146 sách đã dẫn).

Tất nhiên, Nguyễn Thạch Giang “hiểu Kiều” như Tản Đà và tán thành cách lý giải của Tản Đà, nên sửa chữa “thiếu” thành chữ “kém”, sau khi đã lý giải thêm:

“Xét về dạng kết cấu chữ Nôm, thì chữ “thiếu” được ghi lại trong các bản Kiều Nôm có hiện nay, thực chất là dấu vết của chữ “hiếm” và chữ “kiếm” cũng chỉ là biến dạng của chữ “kém” vốn ban đầu được dùng chữ “kiếm” trong Hán văn để ghi”.

Tóm lại, Tản Đà vì “văn lý” nhiều hơn là vì “mã chữ”, mà muốn sửa Kiều. Nhưng không dám sửa, vì còn thận trọng (theo phần công chúng mà không dám khác hẳn tự theo ý riêng).

Còn, Nguyễn Thạch Giang, chịu ảnh hưởng cách lý giải của Tản Đà về văn lý, nên cố gò mã chữ vào một cách gượng ép, để sửa Kiều một cách thiếu thận trọng.

Ở giác độ nghiên cứu, tôi xin đặt vấn đề: Nguyễn Thạch Giang căn cứ vào đâu, hay chỉ căn cứ vào lời Tản Đà (nhớ từ năm đã lâu (?)được nom thấy một bản chữ in Nôm (?) hai chữ này để là “kiếm”), mà khẳng định rằng bản của Tản Đà “được nom thấy” ra đời trước các bản Nôm thông dụng (dùng chữ “thiếu”) và từ đó khẳng định rằng chữ “thiếu” của tất cả các bản Nôm khác... “vốn ban đầu được dùng chữ kiếm...”?

Điều khẳng định này thiếu cơ sở khoa học.

Mặt khác, xin đặt vấn đề: Nguyễn Thạch Giang căn cứ vào đâu để khẳng định chữ “kiếm” (có hai cách đọc) phải đọc là “kém” chứ không đọc là “hiếm”?

Tất nhiên, vấn đề thứ hai này, Nguyễn Thạch Giang căn cứ vào văn lý và “hiểu Kiều” theo cách “hiểu’ của Tản Đà.

Tôi “hiểu Kiều” khác, nên bác bỏ cách hiểu của Nguyễn Thạch Giang và đương nhiên là của Tản Đà, mặc dù yêu mến và kính trọng hai người.

Tản Đà (và cả Nguyễn Thạch Giang) cho rằng: Kém gì cô quả, kém gì bá vương nghĩa là cũng cô quả cũng bá vương... như ai (không kém gì ai vậy).

Đó là cách suy nghĩ của một kẻ tầm thường, Từ Hải và Nguyễn Du không nghĩ vậy. Nguyễn Du suy nghĩ và cho Từ Hải suy nghĩ cao đẹp hơn, sâu sắc hơn. Nguyễn Du thể hiện quan điểm của mình khá rõ nét trong đoạn này:

Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì.
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Nghĩa là:

Từ Hải xuất thân từ tầng lớp bình dân, có sức có tài thì cũng làm vương làm tướng được, chứ đâu phải:

Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Tầng lớp bình dân họ quan niệm:
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.

Nhưng:

Bao giờ dân nổi can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.

Hoặc là:

Được làm vua, thua làm giặc.

Với “một thanh gươm thôi”, Từ Hải sá gì loài giá áo túi cơm (tức là bè lũ vua quan phong kiến), vẫn có thể nghênh ngang một cõi biên thùy được. Và như vậy thì thiếu gì kẻ có thể xưng cô xưng quả, xưng bá xưng vương; đâu phải điều đó chỉ dành cho giai cấp quý tộc phong kiến.

Nguyễn Du đã nói lên ý nghĩ của tầng lớp bình dân, đứng về phía tầng lớp bình dân mà bác bỏ quan điểm phong kiến cho rằng: Vua thì phải thuộc tầng lớp quý phái, cha truyền con nối; Vua thì phải là người... chân mệnh đế vương. Đó là mặt tiến bộ của Nguyễn Du.

Tôi “hiểu Kiều” như vậy, hiểu Nguyễn Du như vậy. Và như vậy, hai chữ “thiếu” ở đây chẳng những hợp “văn lý”, mà còn là ... rất đắt.

Chỉ sửa một chữ thôi, cũng có thể làm sai lạc hẳn tư tưởng của một nhà đại văn hào của cả dân tộc.

Xin hãy trân trọng hơn nữa với di sản vô giá mà Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta: Kiều! (1)

CHÚ THÍCH

(1) Trong những câu Kiều tôi trích dẫn ở đây, có một vài chữ tôi thấy... chưa ổn. Tôi để nguyên như sách đã dẫn của Nguyễn Thạch Giang, không bàn tới ở đây./.

TB

HIỆU ĐÍNH MỘT SỐ NGÀY THÁNG CÓ TRONG BẢN DỊCH CUỐN ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, PHẦN TIẾP, TẬP I - BẢN KỶ TỤC BIÊN

LÊ THÀNH LÂN

VIỆC ghi chú thêm ngày tháng năm dương lịch khi gặp các ngày tháng âm lịch và nhất là các ngày ghi theo can chi khi dịch các cuốn cổ sử rất tiện lợi cho người đọc và làm tăng giá trị của bản dịch lên nhiều, vì vậy rất đáng được khuyến khích và hoan nghênh. Gần đây nhiều người dịch đã cố gắng làm như vậy, nhưng thường mới chỉ tập trung ghi chú cho các ngày can chi, còn việc ghi chú đối với các ngày tháng âm lịch chưa được chú ý lắm.

Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, phần tiếp, Tập 1, Bản kỷ tục biên (viết tắt là BKTB)(1) này là kết quả của việc khảo chứng rồi dịch từ 9 dị bản chép tay. Vấn đề ngày tháng cũng được khảo dị cẩn thận và ghi chú theo dương lịch. Nhưng do không biết lịch Việt Nam thời Lê - Trịnh khác lịch nhà Thanh nên đã dùng một cuốn lịch Trung Quốc để đổi. Bởi vậy, tất nhiên nhiều chỗ bị sai. Có thể cuốn lịch Trung Quốc này có cách trình bày không được thuận tiện cho việc tra cứu nên nhiều ngày tháng được đổi sang dương lịch nhầm, ngay cả khi lịch 2 nước trùng nhau. Cũng có chỗ, chẳng hạn một số nhật thực và nguyệt thực, việc hiệu khảo chưa được chặt chẽ, dẫn đến những sai sót về thiên văn và lịch pháp.

Ở đây chúng tôi không bàn đến các khía cạnh khác của bản dịch, mà chỉ hạn chế bài viết của mình vào việc bàn về các lỗi về tính đổi lịch; xem như một bài viết tiếp để vận dụng các kết quả nghiên cứu ở bài Lịch thời Lê - Trịnh(2) vào khảo cứu cuốn BKTB này.

Trước hết chúng ta khảo sát các vấn đề có liên quan đến sự khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc.

1. Các tháng nhuận ở bản dịch cần được khảo đính lại. Trong bài Lịch thời Lê - Trịnh, chúng tôi đã lưu ý đến 2 trường hợp này, nay xin bàn kỹ hơn (Xem Bảng 1).

- Ở trang 63 của BKTB có in: Tháng ba nhuận, ngày mồng một là ngày Tân Tỵ (24-4-1697) nhật thực, lại còn ghi chú thêm ở cuối trang rằng: sách chép nhầm là Tân Dậu.

Chúng tôi xem tờ 18a, bản A.1515(3) thấy ghi đúng là Tân Tỵ, chứ không nhầm. Còn chữ nhuận vốn không có trong cột chữ chính mà được ghi thêm về sau ở bên cạnh.

Theo kết quả khảo cứu của chúng tôi trong bài Lịch thời Lê - Trịnh thì năm Đinh Sửu (1697) này, lịch Việt Nam nhuận vào tháng 2, còn lịch Trung Quốc nhuận vào tháng 3.

Rõ ràng chữ “nhuận” được thêm vào sau ở bản A.1415 là sai, có thể không phải do tác giả viết mà do một người nào đó đã so với lịch Trung Quốc mà thêm vào. Ngoài ra ở bản dịch việc chú thích ngày dương lịch cũng sai.

Bởi vậy, cần sửa lại là: “Tháng ba, ngày mồng một là ngày Tân Tỵ (21-4-1697) nhật thực”.

- Trường hợp 2: ở trang 163 của BKTB in là Tháng bảy nhuận, sai quan... và chú thích ở cuối trang là theo A.1210(4) còn nếu theo A.1189(5) thì là mùa thu tháng tám.

Lịch thời Lê - Trịnh cho biết năm Kỷ Dậu (1749) lịch Việt Nam nhuận tháng 8, lịch Trung Quốc nhuận tháng 7.

Chắc bản dịch được căn cứ vào lịch Trung Quốc nên chọn theo A.1210. Đúng ra phải theo bản A.1189.

Vậy xin sửa lại là Mùa thu, tháng tám, sai quan...

2. Các tháng nhuận có trong BKTB

Để xác nhận việc hiệu đính cho 2 trường hợp trên, dựa vào lịch Việt Nam là đúng, chúng tôi xin liệt kê các tháng nhuận có trong BKTB, bên cạnh ghi các tháng nhuận của năm đó theo lịch Việt Nam (theo bài Lịch thời Lê - Trịnh) và theo lịch Trung Quốc (theo bài trên hoặc theo cuốn Lưỡng thiên niên Trung Tây lịch đối chiếu biểu (6) vào bảng 2 (xem Bảng 2 ).

Sự trùng hợp hoàn toàn giữa các tháng nhuận ở BKTB và lịch Việt Nam trong bảng này cho thấy các tác giả BKTB biết và rất có ý thức biên soạn lịch sử theo lịch Viêt Nam. Nhận xét này chúng tôi đã nêu trong bài Lịch thời Lê - Trịnh.

3. Các lỗi do dùng lịch Trung Quốc để đổi ngày tháng:

Do không biết lịch Lê khác lịch Thanh, nên người ghi chú đã lúng túng và đổi sai mấy trường hợp sau (xem Bảng 3)

- Trường hợp 1 và 2: năm Canh Thân (1680) (trang 26). Năm Canh Thân này lịch Việt Nam nhuận tháng 10, lịch Trung Quốc nhuận tháng 8 (xem bài Lịch thời Lê - Trịnh)

Khi dùng lịch Trung Quốc, người đổi lịch thấy tháng 10 không có ngày Kỷ Tỵ, cũng như ngày Canh Ngọ (theo chú thích 4a - lấy theo Việt sử thông giám cương mục) nên luận rằng đó là tháng 11, rồi đổi sai.

- Chúng tôi nhất trí với người dịch trong trường hợp 2, lấy theo Việt sử thông giám cương mục, tức là sửa thành ngày Canh Ngọ. Theo lịch Việt Nam quả là tháng 10 có ngày Kỷ Tỵ và ngày Canh Ngọ, và ta đổi sang dương lịch như ở Bảng 3.

- Trường hợp 3: Năm Đinh Mùi (1727) (trang 151). Chú ý là lịch Việt Nam có nhuận vào tháng 12 năm Bính Ngọ (1726), còn lịch Trung Quốc nhuận vào tháng 3 năm Đinh Mùi (1727) (bài đd), khiến cho lịch 2 nước khác nhau trong 4 tháng. Trường hợp 3 này rơi vào khoảng thời gian đó.

Dòng 9 BKTB ghi mùa xuân tháng giêng, dòng 16 ghi ngày Ất Mão và chú thích cho biết người dịch theo bản A6(7) và A.2089(8). Trong khi đó bản trục A.1415 chép là tháng 2, cách chọn này cũng sai do dùng lịch Trung Quốc.

Dùng lịch Việt Nam, chúng tôi thấy bản trục A.1415 đúng. Vậy dòng 9 sửa là tháng 2 và dòng 16 cần sửa lại như ở Bảng 3.

- Trường hợp 4 đến 7: Năm ất Mão (1735) (trang 218, 219). Năm ất Mão này lịch Việt Nam nhuận tháng 3, Trung Quốc nhuận tháng 4. Các ngày này nằm trong khoảng thời gian hai lịch khác nhau.

Tất nhiên người dịch không biết lịch Việt Nam để dùng, nhưng đến khi đổi dường như cũng không theo lịch Trung Quốc, nên sai không theo một quy luật nào. Chúng tôi theo lịch Việt Nam mà hiệu đính như ở Bảng 3.

- Trường hợp 8: Năm Tân Hợi (1731) (trang 176).

Theo bài đã dẫn, ta biết năm Tân Hợi (1731) này có sóc (mùng 1) tháng 5 ở 2 lịch khác nhau. Lịch Việt Nam có tháng 4 thiếu, tháng 5 đủ, còn lịch Trung Quốc có tháng 4 đủ, tháng 5 thiếu. Cả tháng 5 ở 2 lịch luôn lệch nhau một ngày, nên đổi đúng thì như cột sửa ở Bảng 3.

Tiếp theo, chúng ta khảo cứu các vấn đề có liên quan đến nhật thực và nguyệt thực (thiên văn).

Các nhật thực chỉ có thể xuất hiện vào ngày sóc (mùng 1 âm lịch), còn nguyệt thực chỉ có thể xuất hiện vào ngày 15 (vọng, rằm) hay 16 âm lịch. Trái với điều đó là sai, người khảo đính nên ghi chú và luận giải cho rõ ràng. Hiện nay chúng ta chưa có một bảng liệt kê các nhật thực và nguyệt thực thấy được ở Thăng Long (Hà Nội) vào thế kỷ XVII, XVIII để làm căn cứ tra cứu. Bởi vậy dưới đây chúng tôi chỉ dựa vào quy luật nêu trên rồi kiến nghị cách sửa mà theo chúng tôi là tạm có thể chấp nhận được.

4. Những sai sót về nhật thực và nguyệt thực ở bản chữ Hán.

Có hai trường hợp ở bản trục A.1415 ghi là nhật thực, nhưng khi đổi sang âm lịch lại là ngày rằm, vậy chỉ có thể coi là nguyệt thực bị viết nhầm thành nhật thực. Đó là:

- Trường hợp 1, Bảng 4: trang 171, dòng 17, BKTB hay là tờ 4a, Q.22, A.1415 ghi là: “Ngày Nhâm Tý (15, 29-7-1730) lại nhật thực”.

Một tháng không thể có hai lần nhật thực (ở dòng 14 đã ghi ngày mồng 1 nhật thực). Vả lại đây là rằm nên chỉ có thể là nguyệt thực, nên sửa lại như ở Bảng 4 (xem Bảng 4).

- Trường hợp 2, Bảng 4: trang 202, BKTB (Xem tờ 21a, Q.22, A.1415) ghi: “Tháng 4 nhuận, ngày rằm là ngày Tân Mùi (8-6-1732) nhật thực”.

Như đã viết trên, ngày rằm chỉ có thể là nguyệt thực, không thể là nhật thực được. ở đây đổi sang dương lịch cũng sai. Có lẽ nên sửa là: “(7-6-1732) nguyệt thực”.

5. Những sai sót về can chi của ngày ở bản chữ Hán.

Những ngày cho theo can chi này khi đổi sang năm âm không vào ngày sóc hay ngày rằm, nên không thể coi là đúng được, đành phải sửa chữa tùy theo ngày đó là nhật thực hay nguyệt thực.

- Trường hợp 3, Bảng 4: trang 205, dòng 16, BKTB (Xem tờ 22b, Q.22, A.1415) ghi: “Mùa đông tháng 10, ngày Mậu Thìn là ngày rằm (2-12-1732) nguyệt thực”.

Nguyệt thực vào ngày rằm là đúng, nhưng ngày Mậu Thìn là ngày 14. Ngày rằm phải là ngày Kỷ Tỵ ứng với ngày 2-12-1732.

- Trường hợp 4, Bảng 4: trang 225, dòng 22, BKTB (Xem tờ 35b, Q.22, A.1415) ghi: “Mùa xuân tháng giêng, ngày Giáp Tuất, nhật thực”.

Nhật thực chỉ có thể vào ngày mồng 1 và như vậy phải là ngày Canh Dần và tương ứng là 31-1-1737.

6. Đổi sang âm lịch sai, như trường hợp 5, Bảng 4: trang 231, dòng 14, BKTB (Xem tờ 38a, A.1415): Mồng 3 tháng 6 (Mồng 3 không thể có nguyệt thực). “Lục nguyệt, Canh Dần nguyệt thực”. Đổi đúng sẽ là 15-6, tức là 20-7-1739.

Cuối cùng chúng ta bàn đến các lỗi khác.

7. Các lỗi do đổi nhầm ngày tháng.

Chúng tôi đã phát hiện 14 trường hợp đổi nhầm ngày tháng kể ở Bảng 5, chữ N là chỉ tháng nhuận (Xem Bảng 5).

Các lỗi 12, 13 có thể vừa in nhầm tháng vừa đổi nhầm ngày.

Các lỗi 5, 6, 7, 11, 12 và 13 khi đổi sang dương lịch đều sai tăng lên 1 ngày. Điều này khiến chúng tôi phỏng đoán rằng người đổi lịch đã dùng một cuốn lịch Trung Quốc có cách trình bày giống cuốn Niên biểu Việt Nam(9). Ở đó, khi đổi từ âm lịch sang dương lịch luôn phải làm thêm một phép trừ đi 1. Rất có thể lỗi đã xuất hiện do người đổi quên làm phép trừ này.

Ở các lỗi 2 và 8 thì ngày dương lịch sai tăng lên 2 ngày. Rất có thể đáng lẽ phải trừ đi 1 thì người đó lại làm phép cộng 1. Theo hướng dẫn cách tính ở cuốn Niên biểu Việt Nam thì phép cộng 1 phải làm khi đổi từ dương sang âm.

Các lỗi 9 và 10 phạm phải là do người đổi dùng lịch của năm kế sau, tức là dùng lịch năm Nhâm Tý (1732), trong khi đáng lẽ phải dùng lịch Tân Hợi (1731). ở ghi chú 25a lại viết nhầm thành năm 1973.

8. In nhầm: Bảng 6 kể ra 2 chỗ in nhầm tháng và 1 chỗ in nhầm năm (Xem Bảng 6).

9. Chưa đổi sang âm và dương lịch: Có 2 chỗ chưa đổi sang âm và dương lịch, chúng tôi đổi tiếp ở Bảng 7 (Xem Bảng 7).

Trên đây chúng tôi đã mạo muội đính chính lại một số sai sót liên quan đến việc đổi ngày tháng ở bản dịch cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, Phần tiếp, Tập 1, Bản kỷ tục biên, mong góp một phần nhỏ làm tăng thêm giá trị sử dụng của bản dịch và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho độc giả khi dùng sách.

Bảng 1: Sửa tháng nhuận

TT Trang Dòng Năm Tháng
In là Sửa thành
1
2
63
163
18
14
1697 Đinh Sửu
1729 Kỷ Dậu
ba nhuận
bẩy nhuận
ba
tám

Bảng 2: Các tháng nhuận

TT Trang Năm Tháng nhuận
BKTB Việt Nam Trung Quốc
1
2
3
4
5
6
76
81
106
119
140
202
1702 Nhâm Ngọ
1705 ất Dậu
1718 Mậu Tuất
1721 Tân Sửu
1724 Giáp Thìn
1732 Nhâm Tý
7
3
10
7
4
4
7
3
10
7
4
4
6
4
8
6
4
5

Bảng 3: Các lỗi do dùng lịch Trung Quốc

TT Trg In là VN TQ Sửa chữa
Năm Thg Ngày Âm Dương Nhuận Âm Dương
1
2
3
4
5
6
7
8


9

26
26
151

218
218
218
219


176
Canh Thân
Canh Thân
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Ất Mão
Ất Mão
Ất Mão
Ất Mão


Tân Hợi
10
20

1
4
4
4
4


5
Kỷ Tỵ
Canh Thân

ất Mão
Giáp Thân
Giáp Ngọ
Bính Thân
Bính Thân
14-11
8-11

28-1
15-4
15-4
27-4



25-5
3-1-1819
25-12-1680

12-2-1727
6-6-1735
9-6-1735
18-6-1735
18-6-1735


29-6-1731
10
10
12

3
3
3
3
-----
thiếu
4T
8
8

3
4
4
4
4
-----
đủ

5T
14-10
15-10

28-2
15-4
25-4
27-4
27-4


25-5
14-11-1680
5-11-1680

10-4-1727
5-6-1735
15-6-1735
17-6-1735
17-6-1735


28-6-1731

Bảng 4: Các lỗi về nhật thực và nguyệt thực

TT Trang Dòng In là Sửa thành
1
2
3
4

5
171
7
16
22

14
17
7
16
22

14
Nhật thực
(8-6-1732) nhật thực
Ngày Mậu Thìn
Ngày Giáp Tuất
(3, tức 8-7-1739)
Nguyệt thực
(7-6-1732) nguyệt thực
Ngày Kỷ Tỵ
Ngày Canh Dần là ngày mùng 1 (31-1-1737) (15, tức 20-7-1739)

Bảng 5: Các lỗi đổi lịch

TT Trang In là Sửa thành
Năm Tháng Ngày Âm Dương Âm Dương
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
40
69
88
97
102
164
164
175
198
198
202
215
215
231
Ất Sửu
Kỷ Mão
Kỷ Sửu
Giáp Ngọ
Đinh Dậu
Kỷ Dậu
Kỷ Dậu
Tân Hợi
Tân Hợi
Tân Hợi
Nhâm Tý
Giáp Dần
Giáp Dần
Kỷ Mùi
12
2
5
9
4
11
11
1
11
12
4N
9
9
6
Quý Tỵ
Ất Mão
Mậu Tý
Bính Thìn
Giáp Ngọ
Giáp Ngọ
Mậu Tuất
ất Dậu
Giáp Tuất
Canh Dần



Canh Dần
7-11

18-5


24-11
28-11
23-1


15-4N
10-9
18-9
3-6
31-12-1685
18-3-1699
18-6-1709
15-10-1714
21-5-1717
13-1-1730
17-1-1730
29-2-1731
1-12-1732
6-1-1733
8-6-1732
7-11-1734
15-11-1734
8-7-1739
7-12
15-2
18-5
18-9
10-4
24-11
28-11
21-1
15-1
1-12
15-4N
10-9
18-9
15-6
1-1-1686
16-3-1699
25-6-1709
25-10-1714
20-5-1717
12-1-1730
16-1-1730
27-2-1731
13-2-1731
29-12-1731
7-6-1732
6-10-1734
14-10-1734
20-7-1739

Bảng 6: Lỗi in

TT Trang Dòng In là Sửa thành
1
2
3
37
59
162
2
12
4d1
9-4-1684
28-10-1685
17-5-1727
9-9-1684
28-8-1695
17-5-1729

Bảng 7: Đổi tiếp

TT Trang Dòng In là Thêm vào
Năm Tháng Ngày Âm Dương
1
2
174
227
10
9
Canh Tuất
Đinh Tỵ
6
9
Quý Sửu
Mậu Tý
16-6
3-9
30-7-1730
26-9-1737

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Bản kỷ tục biên (1676 - 1740), Nxb KHXH, 1982.

(2) Lê Thành Lân: Lịch thời Lê - Trịnh, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 21, 9-1987, tr.18 - 31.

(3) Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên, A.1415, ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(4) Đại Việt sử ký tục biên, A.1210.

(5) nt - A.1189 (đều ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

(6) Tiết Trọng Tam, Âu Dương Di: Lưỡng thiên niên Trung Tây lịch đối chiếu biểu; Bắc Kinh; 1959.

(7) Việt sử tục biên A 6, Kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(8) Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên A.2089, kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(9)Vụ Bảo tồn bảo tàng: Niên biểu Việt Nam, Nxb KHXH, 1984.

TB

"ÊM NỀM" VÀ "LẮM THĂN"

NGUYỄN QUANG HỒNG

TRƯỚC khi bắt tay biên soạn công trình Từ diển Truyện Kiều (TĐTK)(2), cụ Đào Duy Anh đã tiến hành khảo chứng văn bản cuốn truyện trên cơ sỏ đối chiếu hàng loạt các bản Nôm và bản quốc ngữ hiện có, đi tới xác lập một văn bản phiên âm mới sao cho sát hợp và chính xác hơn so với nguyên văn các bản Nôm. Toàn bộ bản phiên âm quốc ngữ mà Cụ Đào đề nghị được Cụ cho in vào phần Phụ lục cuốn TĐTK và làm cơ sở cho việc xây dựng các mục từ trong từ điển(3).

Trong bản Truyện Kiều do cụ Đào khảo chứng và phiên âm, chúng ta bắt gặp khá nhiều những trường hợp mới mẻ và độc đáo, gây ít nhiều ngỡ ngàng và hứng thú cho bạn đọc, những ai quan tâm đến Truyện Kiều, đến công việc phiên đọc chữ Nôm trong các tác phẩm cổ điển. ở đây tôi chỉ xin đề cập đến một vài trường hợp như đã nêu lên ở đầu đề bài viết, để cùng bạn đọc đi sâu tìm hiểu thêm kiến giải và cách xử lý của cụ Đào, qua đó góp phần làm sáng tỏ một vài khía cạnh về phương pháp phiên đọc chữ Nôm.

Êm đềm trướng rủ màn che...

Chúng ta vẫn quen nghe và quen đọc như vậy, và hầu như không hề băn khoăn gì về phương diện chữ nghĩa trong câu này cả. Cho nên chúng ta không khỏi cảm thấy bất ngờ, khi đọc trong văn bản phiên âm của cụ Đào: “Êm nềm trướng rủ màn che” (TĐTK, tr.454).

Trước hết, xin hãy đọc kỹ những dòng cụ Đào viết cho mục từ “êm đềm” và “êm nềm” trong phần từ điển:

“Êm đềm: Êm dụ, yên ổn. X. Êm nềm” “Êm nềm: Tức là êm đềm. Vd. “Êm nềm trướng rủ màn che” (TĐTK, tr.144).

Tiếp theo, trong ngoặc đơn, cụ Đào giải thích: “Các bản Nôm đều viết 淹 念 hay . Nếu là êm đềm thì chữ đềm phải viết là 恬 (điềm) chứ không lẽ nào các bản đều viết như trên. Chúng tôi cho rằng xưa vốn là từ êm nềm cho nên viết thế, rồi sau do sự biến hóa của ngữ âm, êm nềm biến thành êm đềm, nhưng các bản chữ Nôm chép lẫn nhau vẫn ghi chữ (Sđd, tr.144).

Như vậy là dựa vào mỗi chữ Nôm có mặt trong các bản Nôm hiện có, cụ Đào đã khôi phục lại hình thức ngữ âm cổ hơn của từ “êm đềm” là êm nềm.

Hẳn có bạn sẽ nghĩ rằng: đối với chữ Nôm, thường có sự xê dịch trong cách đọc, theo mặt chữ lẽ ra phải đọc thế này, nhưng thực tế phải đọc “trại” thành thế kia mới “xuôi”, hà tất cứ phải khư khư bám lấy mặt chữ! Đã đành là như vậy. Bất kỳ một ai đã ít nhiều làm quen với chữ Nôm, đều biết có hiện tượng “xê dịch” ấy, và cụ Đào thì càng biết rõ hơn ai hết. Nhưng đâu có phải tùy tiện muốn đọc trại đọc trẹo thế nào cũng được! Dù sự thể có phức tạp đến đâu thì sự chuyển đọc âm này thành âm kia dẫu sao vẫn diễn ra theo những quy luật chuyển đổi nhất định. Và do đó, một trong những thao tác không thể bỏ qua trong công việc phiên đọc chữ Nôm, là phải “lập danh sách các khả năng đọc có thể chấp nhận được về mặt lý thuyết” như Gs Nguyễn Tài Cẩn khẳng định(4), cho dù danh sách này được lập ra một cách hiển ngôn hay chỉ ẩn ngầm trong tiềm thức theo kinh nghiệm của người phiên đọc. Thông thường là ẩn ngầm, nhưng khi gặp những trường hợp khúc mắc và phức tạp, thì tốt hơn hết là hãy xác lập danh sách ấy một cách hiển ngôn (nói ra, hoặc viết ra) để tiện bề rà xét, kiểm tra.

Qua lời giải thích của cụ Đào về cách đọc mấy chữ Nôm đã dẫn ra chứng tỏ tác giả không chấp nhận có khả năng âm đầu N (nềm) đọc thành âm đầu Đ (đềm). Sự loại trừ này trước hết là do kinh nghiệm. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy ở cụ Đào một sự chứng minh hiển nhiên cho sự loại trừ này, trong một công trình khác của Cụ, dành riêng cho sự khảo cứu về nguồn gốc, cấu tạo và diễn biến của chữ Nôm(5).

Trong cuốn sách này, tác giả đã liệt kê một danh sách các khả năng chuyển đọc từ âm đầu Hán Việt N chỉ cho phép đọc “trại” thành âm Việt là Nh, chứ không cho khả năng đọc thành Đ. Ngay cả trong bản kê của Sơn-bản-Đạt-lang (Nhật) mà cụ Đào dẫn lại (Sđd, tr.112), cũng không hề có quy tắc chuyển đọc âm Hán - Việt N thành âm Nôm Đ.

Như vậy là, vào cái thời nào đó, khi mà người ta lần đầu tiên ghi lại tiếng thứ hai trong các từ mà ta đang xem xét bằng chữ Hán với âm NIệM thì tiếng đó chỉ có thể là nềm chứ không đọc đềm, đúng như cụ Đào đã xác lập.

Nhưng thời ấy là thời nào? Và người ấy phải chăng chính là tác giả Truyện Kiều? Thật không dễ gì trả lời ngay được cho những câu hỏi này. Giả dụ như các bản Nôm chép tay và khắc in Truyện Kiều tuyệt đối trung thành với nguyên cảo của nhà thơ, chí ít là đối với các chữ Nôm đang xét, thì điều này cũng chưa đủ để khẳng định rằng câu chữ này được tạo ra bởi Nguyễn Du hay bởi những người cùng thời với nhà thơ. Vẫn không loại trừ khả năng là Nguyễn Du chỉ viết theo chữ đã có sẵn từ trước rồi. Dẫu thế nào, mặc lòng, ở đây có hai khả năng đặt ra để suy xét:

a. Ở thời Nguyễn Du, từ đang xét đọc là êm nềm, và nhà thơ đã viết đúng với hình thức ngữ âm này. Hoặc là:

b. Ở thời ấy, từ này đã chuyển âm thành êm đềm rồi, nhưng nhà thơ vẫn tiếp tục viết theo mã chữ đã có sẵn từ trước.

Muốn biết đích xác khả năng nào là hiện thực, có lẽ phải cất công khảo chứng trên nhiều văn bản chữ Nôm (và cả chữ quốc ngữ) ra đời vào thời đại Nguyễn Du, cũng như trước và sau đó. Và một khi chưa xác định được khả năng nào là hiện thực thì cũng không nên khẳng định ngay rằng êm nềm (chứ không phải êm đềm) mới chính là dạng thức từ ngữ của Nguyễn Du và của thời đại ông.

Song cứ giả thử rằng khả năng thứ nhất (a) nêu ra trên đây là hiện thực, và có thể sẽ được chứng minh,(6) thì một vấn đề khác lại đặt ra: Đành rằng âm cổ của từ ấy ở thời Nguyễn Du đọc là êm nềm, song phải chăng là thỏa đáng nếu đòi hỏi độc giả ngày nay cũng phải đọc đúng như vậy, trong khi dạng thức êm đềm đã rất phổ biến ? ở đây có hai công việc khác nhau về nguyên tắc. Một là khôi phục, tái lập dạng thức âm cổ của từ ngữ (và cả hệ thống ngữ âm cổ). Đây là công việc khoa học thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học lịch sử, nhằm mục đích nhận thức đối tượng ngôn ngữ theo sự phát triển lịch sử của nó. Hai là phiên đọc, chuyển mã từ hình thức văn tự mới - Công việc này tuy có liên quan với sự tái lập âm cổ (và lấy đó làm cơ sở khoa học cho nó) song nó mang tính thực tiễn rõ rệt, nhằm mục đích phiên chuyển văn bản từ dạng chữ cổ sang dạng chữ mới sao cho người đọc hiện đại có thể tiếp nhận được một cách tốt nhất tác phẩm cổ điển.

Chính là xuất phát từ nhận thức có tính nguyên tắc này, GS. Nguyễn Tài Cẩn đã chỉ ra một loạt các trường hợp cụ thể cần phải phân biệt xử lý trong khi tiến hành phiên đọc chữ Nôm, trong đó có trường hợp “một từ xưa có, nay còn giữ lại được, nhưng đã đọc khác xưa” (Bđd, tr.40). Nếu phân tích kỹ hơn thì trường hợp này có thể chia thành hai nhóm:

a. Âm cổ của từ có cấu trúc ngữ âm không còn phù hợp với cấu trúc ngữ âm của ngôn ngữ hiện đại. Vd. Blăng (trăng) mlạt (nhạt) tlươc (trước) v.v...

b. Âm cổ của từ có cấu trúc ngữ âm phù hợp với cấu trúc hiện thời. Vd. Bó ngựa (vó ngựa), đấu (dấu, vết), v.v... Thuộc vào nhóm này chính là âm cổ êm nềm hay ứng với âm hiện đại êm đềm mà chúng ta đang xem xét.

Đối với nhóm (a) không có gì phải ngần ngại, nếu ta chuyển hẳn cách viết và cách đọc theo cấu trúc âm và chữ hiện thời. Đối với nhóm (b), nói chung cũng phiên đọc theo âm hiện thời, chỉ trừ một đôi khi cách đọc cổ có khả năng biểu đạt một giá trị nào đó. Đấy là vấn đề đặt ra với chữ thăn mà dưới đây chúng ta sẽ bàn đến.

Chữ 申 xuất hiện ở phần lớn các bản Kiều Nôm sau tiếng lắm trong câu bát sau đây:

Nàng rằng: “Nghề mọn riêng tây,
Làm chi cho bận lòng này lắm... (?)”
So dần dây vũ dây văn....

Theo đúng mặt chữ thì có thể đọc và phiên âm là thân, như hầu hết các bản Kiều quốc ngữ đã làm. Song giải nghĩa thân ở đây là gì, thì nhiều người tỏ ra lúng túng và không khỏi có phần gượng ép. Riêng cụ Đào Duy Anh đã đề xuất cách đọc mới: thăn, và cụ giải thích: “THĂN: chính là thay, vì hiệp vần mà nói chệch theo câu xưa là thăn” (TĐTK, tr.387).

Phải khẳng định ngay rằng kiến giải này của cụ Đào Duy Anh là hoàn toàn có cơ sở. Vần Hán - Việt ÂN đọc thành âm Nôm ĂN là chuyện thường, không phải bàn cãi gi (Vd 巾 Cân - Khăn y + chân → chăn, v.v...) Tính hiện thực của sự chuyển đổi từ vần ĂN cổ sang AY hiện đại có thể được minh chứng bởi sự tồn tại cách phát âm các từ cày, cấy ở một số thổ âm miền Trung là cằn, cấn v.v... Để hỗ trợ cho kiến giải của cụ Đào, còn có thể dẫn ra đây một trường hợp tương tự trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu(7):

Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
Ai dè còn thấy bổn quan...

Ở đây cũng vậy, hoàn toàn phù hợp với tất cả những gì mà cụ Đào đã xác lập đối với chữ thăn trong Truyện Kiều, và theo đó, ta có thể ghi chú cho chữ ngằn của Nguyễn Đình Chiểu một cách tương tự: NGẮN chính là từ ngày vì hiệp vần mà đọc chệch theo câu cổ là ngằn. Trong các bản Nôm Lục Vân Tiên chữ ngằn được ghi là 垠 (âm Hán Việt đọc là ngân), còn ở những văn cảnh khác, vẫn ghi là và đọc ngày như thường lệ. Ở Truyện Kiều từ thay (thăn) trong ý nghĩa ấy hầu như chỉ xuất hiện một lần ở đấy mà thôi.

Như vậy là đềm (êm đềm) và thay (lắm thay) đều được cụ Đào Duy Anh tái lập một cách chính xác thức âm cổ của chúng là nềm thăn. Cả hai tiếng cổ này đều thuộc vào nhóm (b) của trường hợp những từ xưa đã có, nay còn giữ lại được, nhưng câu đọc đã đổi khác. Tuy nhiên, trong việc phiên đọc các chữ ấy, thì cần phải có sự phân biệt xử lý cụ thể, khôi phục lại âm nềm thay cho đềm trong câu “Êm đềm trướng rủ màn che” chẳng những không làm câu thơ sáng sủa và chính xác hơn lên, mà ngược lại, có thể gây cho người đọc ngày nay một cảm giác “cồm cộm” lạ tai, nếu không nói là “ngọng ngịu”, trở ngại cho việc tiếp nhận câu thơ một cách tự nhiên thanh thoát. Trong khi ấy thì dẫu thế nào mặc lòng, sau phát hiện của cụ Đào là thay = thăn, chúng ta vẫn không thể để âm thay vào vị trí cuối câu “Làm chi cho bận...”, vì như vậy câu thơ sau sẽ lạc vận, một điều không thể chấp nhận được đối với Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Dường như tất cả những điều tế nhị trên đây nên thực tế đã được cụ Đào Duy Anh suy xét đến. Không phải ngẫu nhiên mà sau Từ điển Truyện Kiều (1974), cụ đã có cách xử lý hơi khác đối với mấy chữ đang xét khi cụ công tác với Nhà xuất bản Văn học để cho in Truyện Kiều (1979)(8). Trong bản Kiều này, ta đọc:

- Êm đềm trướng rủ màn che

- Làm chi cho bận lòng này lắm thân.

Cả hai chữ đều trở lại với những tiếng quen thuộc. Đối với êm đềm thì đã rõ và ở phần chú giải, cụ Đào không muốn ghi chú gì thêm cho chữ này. Nhưng đối với lắm thân thì có khác. Có lẽ các tiếng thăn dẫu sao nghe vẫn lạ tai, bắt người đọc người nghe thắc mắc dừng lại, không mơ hồ trôi đi nhẹ nhàng như tiếng thân ở đây, nên ít được các nhà thơ (tham gia hiệu đính) “cảm tình”, mặc dù vẫn thừa nhận rằng tiếng thăn ấy là chính xác. Chấp nhận để tiếng thân mơ hồ kia ở lại câu thơ này, cụ Đào thấy cần thiết phải ghi ở phần chú giải để đảm bảo sự chân xác của hiện tượng: “Lắm thân: tức là lắm thay, lắm thăn. Từ thân, thăn là hình thức cổ của từ thay” (Sđd, tr.197). Xử lý mọi chuyện như vậy là thỏa đáng.

Nềm (đềm) thăn (thay) - từ những tế bào nhỏ nhoi như thế của Tiếng Việt, Nguyễn Du đã làm nên Truyện Kiều bất hủ. Và nhà ngữ văn học của thế kỷ của chúng ta - cụ Đào Duy Anh, đã phát hiện ra những tế bào ngôn ngữ ấy, góp phần dẫn dắt chúng ta đi sâu vào tìm hiểu lâu đài ngôn ngữ của Nguyễn Du, và nói chung là tiếng nói và chữ viết của cha ông ta xưa trong mối liên hệ với tiếng nói và chữ viết của thế hệ chúng ta hôm nay.

CHÚ THÍCH

(1) Đêm 1-4-1988 khi tôi vừa viết xong bài này thì bỗng nhận được tin buồn: Cụ Đào Duy Anh đã từ trần ngay chiều hôm ấy!

Tôi bùi ngùi xúc động, không ngờ trong khi tôi đang mải mê với những chữ những nghĩa do cụ Đào khám phá và gợi mở ra kia, thì cũng là lúc Cụ từ biệt tất cả chúng ta!

Để tưởng niệm Cụ Đào, tôi xin được ghi thêm mấy dòng này lên đầu bài viết và coi đây như một chút kỷ niệm của tấm lòng một kẻ hậu sinh đối với Cụ - bậc học giả tiền bối, nhà sử học và Ngữ văn học uyên bác mà cuộc đời lao động khoa học hơn nửa thế kỷ qua đã để lại những công trình vô giá cho thế hệ chúng ta và cả mai sau.

(2) Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều, Nxb. KHXH, H. 1974.

(3) Đây cũng là vưn bản cơ sở đề Nxb Văn học xuất bản vào năm 1979 cuốn Truyện Kiều với sự tham gia hiệu đính của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Hoài Thanh, Tuấn Đô. Phần chú giải trong sách này vẫn do Cụ Đào Duy Anh viết. Xem Nguyễn Du: Truyện Kiều, Nxb. Văn học, H. 1979.

(4) Nguyễn Tài Cẩn: Một vài suy nghĩ chung quanh vấn đề đọc Nôm, phiên Nôm. Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, 1985, N01, tr.46.

(5) Đào Duy Anh: Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. Nxb. KHXH, H. 1975.

(6) Chúng tôi đã thử kiểm tra tình hình hiện diện các chữ (và âm) ê (*), (**) nệm cùng các tổ hợp có liên quan êm nềm (êm đềm) qua phiên chú Nôm rút từ các truyện Nôm Nhị độ mai (NĐM, ký hiệu VNb. 28), Phan Trần (PT, ký hiệu AP. 37) và Sơ kính tân trang (SKTT, ký hiệu A. 1390) là những tác phẩm gần như cùng thời với Truyện Kiều, rồi so sánh với tình hình đó trong Truyện Kiều (TK, theo bản cụ Đào trong TĐTK), thì thấy rằng:

- Chữ (*) êm có mặt trong tất cả các tác phẩm kể trên: NĐM - 1, PT - 3, SKTT - 3, và TK- 5.

- Chữ (**) nệm chỉ xuất hiện một lần trong NĐM (Truyền đem gối nệm nghỉ mình trong khoang), 1 lần trong TK tổ hợp êm nềm đang xét. Chữ này hoàn toàn vắng mặt trong PT và SKTT.

- Tổ hợp êm nềm (êm đềm) chỉ xuất hiện 1 lần trong TK và vắng mặt trong tất cả các tác phẩm kia.

Trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (Sài Gòn, 1895 - 1896) và cả trong Từ điển VIỆT – PHÁP của J.F.M Genibrel (Sài Gòn, 1898) đều có chữ (và âm) êm, nệm, nhưng hoàn toàn vắng mặt tổ hợp êm nềm (và êm đềm).

Như vậy, bước đầu tìm hiểu có thể rút ra nhận xét là ở thời Nguyễn Du và thậm chí sau đó hàng thế kỷ, từ êm đềm chưa được sử dụng rộng rãi, và hình thức sơ thủy của từ này hẳn là do sự ghép chặt hai tiếng đơn êm + nệm rồi biến âm dần qua thời gian mà thành: êm nệm → êm nềm → êm đềm.

(7) Xem Nguyễn đình Chiểu toàn tập, T.1 Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải, Nxb. ĐH và THCN, H. 1980, tr.174.

(8) Xem Chú thích (2).

(*) 淹; (**)

TB

MỘT GIẢ THUYẾT VỀ
TỪ NGUYÊN CỦA TỪ "NÔM"

TRẦN XUÂN NGỌC LAN

“NÔM” là gì?

Từ trước đến nay có những cách giải thích khác nhau. Cách hiểu phổ biến nhất là: “Nôm” bắt nguồn từ “Nam”. Về âm, Nam chuyển sang Nôm là điều thường gặp. Ta có Nam chuyển thành Nôm trong gió Nam chuyển thành gió Nồm. Về nghĩa, Nam đối lập với Bắc. Bắc là phương Bắc - chỉ Trung Quốc. Nam là phương Nam - chỉ Việt Nam. Và do đó chữ Nôm là chữ của phương Nam - của Việt Nam, đối lập với chữ Hán của phương Bắc - của Trung Quốc.

Một cách giải thích khác: Nôm là nôm na, mộc mạc, xuề xòa, dễ dãi không câu nệ, thô thiển, không nhất quán, không cố định, tùy tiện. Nôm chính là cái tên được định danh theo đặc điểm tính chất của loại văn tự này.

Hai cách giải thích trên đây chưa hẳn đã đủ sức thuyết phục về sự chuyển biến của âm cũng như sự hình thành ý nghĩa. Hơn nữa quan điểm cho rằng Nôm là loại văn tự nôm na, tùy tiện... là một quan điểm rất sai lầm, đã từng bị học giả Maspéro phê phán. Ông nói: “... ở đây tôi không bàn về sự sai lầm quá phổ biến cho rằng chữ viết này không qui tắc, không cố định gì hết đến nỗi mỗi người đặt những chữ riêng cho mình. Sự thực thì ta có một chính tả bị quy định hoàn toàn cho những chữ thường dùng. Và nếu đôi khi hai chữ viết được dùng để chỉ một từ, hay một chữ được dùng để chỉ hai từ thì ta không thể đòi hỏi một sự cố định hơn đối với văn tự Việt hơn là văn tự Hán mà những trường hợp như thế cũng khá nhiều. Chỉ cần so sánh các chữ viết ở bia Ninh Bình và các chữ viết các sách in thế kỷ XVII, XVIII với các chữ viết hiện nay đủ nhận thấy rằng nó không khác nhau bao nhiêu và nó được cố định hơn nhiều so với điều người ta vẫn nói”(1).

Vậy “Nôm” bắt nguồn từ đâu, và vì sao lại trở thành tên gọi của một loại văn tự cổ ở nước ta?

Theo sự nghiên cứu của chúng tôi, “Nôm” bắt nguồn từ đôm/dom/ - một từ gần như là chung trong các ngôn ngữ Môn - Khmer, và trong các ngôn ngữ Mã Lai đa đảo lục địa. Hãy so sánh:

Tiếng Kơho đôm/dom/ nói, thổ ngữ

- Churu đơm /dom/ nói

- Pana đôm/dom/ nói

- Chăm đôm/dom/ nói

- Êđê đôm/dom/ nói

- Giarai đôm/dom/ nói

- Raglai đôp/dop/ nói, thổ ngữ.

với tiếng Việt thế kỷ XVII(2) nôm/nom/, với nghĩa là:

1. Phương ngữ thông dụng trong xứ và trong đại chúng.

2. Chữ dùng để viết phương ngữ thông dụng đó.

Về hình thức ngữ âm, chúng ta thấy không có sự đồng nhất hoàn toàn ở phụ âm đầu.

Trong tiếng Việt, phụ âm đầu là một âm mũi/n/, còn trong các ngôn ngữ kia là phụ âm bán hữu thanh/d/. Nhưng sự không đồng nhất này là kết quả của một qui luật ngữ âm lịch sử đã được học giả Maspéro chứng minh trong công trình nêu trên.

Hãy xem những so sánh sau đây của tiếng Việt với tiếng Mường và với các tiếng Môn - Khmer và các tiếng Thái.

So sánh giữa tiếng Việt và tiếng Mường.

nai năm năm nước nuôi nắng nít nếp nện no
Thạch Bi
Vân Mông
Mỹ Sơn
Ngọc Lặc
Như Xuân
Lâm La
Lày Lỡ
Hạ Sữu
Nguồn
Ủy Lô
Thái Thịnh
Hung
Không Khai
Sok
day
-
zay
day
zay
đai
đe
đay
nay
đê
đay
đê
đê
đi
đăm
đăm
zăm
đăm
zăm
đăm
đam
đăm
năm
đăm
đăm
đam

đăm
nắm




đơm
đơm
-
-
đơm
đơm
-
-
-
đak
đak
zak
đak
zak
đak
đak
đak
nak
đak
đak
đak
đak
đak



đnôy
zuôy
đuay
đuay
đuay


đuay
đẳn
đẳn
zẳn


đẳn
đẳn
đẳn
nẳn
đon
đăn
dêt
det
ziêt


đit
đet
đet
net
đet
đet
đit
điet
dêp
-
ziep
zêp
-
đêp
đêp
đep
đêp
đep
đep
dễn
đễn
ziẽn
dễn
zên
đên
dển
đên
-
đển
đển
đển
đo
đo
zo


đo
đo
đo
-
đo
đo
đo

So sánh giữa tiếng Việt và các tiếng Môn – Khmer

Việt Môn Khmer Bana Stiêng Rơngao
năm (năm, 5)
nuok (nước)
non (nón)

đak
pram
đik
pơ - đăm
đak
đưn
pơ - đăm
đak
bơ - đăm
đak

So sánh giữa tiếng Việt và các tiếng Thái

Việt Thái Lan Lào Shan Ahom Thái trắng Coi
nĩo (ninh)
non (nong)
nom (nom)
noy (noi)
nuy (núi)
nut (nút)
-
kădon
đom
đôy
-
đuđ
-
đôn

-
doy
đuđ
-
lon

lon
luy
lut
-

đăm
đoin
đoy
đuđ
đin
đon

-
-
đuđ
-
đon
đom
-
đôy
đot

Từ công việc so sánh trên, ông đưa ra nhận định: các âm mũi /n/... Việt tương ứng cả với các âm mũi /n/ và âm tắc bán hữu thanh Mường /d/. Và ta cũng bắt gặp đúng những sự kiện này khi so sánh tiếng Việt với các tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái(3).

Về nội dung ý nghĩa chúng ta thấy, cũng không có sự đồng nhất hoàn toàn. Tuy nhiên dẫn đến những khác biệt về nghĩa trong tiếng Việt là những lý do mà chúng ta có thể giải thích được:

Trong tiếng Việt, từ thế kỷ XVII đến nay từ “Nôm” vẫn có hai nghĩa:

1. Phương ngữ thông dụng trong xứ và trong đại chúng.

2. Chữ dùng để viết phương ngữ thông dụng đó.

Vậy là so với các ngôn ngữ khác, tiếng Việt đã bỏ đi mất một nghĩa, giữ lại một nghĩa và phát triển thêm một nghĩa.

Nghĩa mất đi (ký hiệu 1.) và nghĩa biểu thị hành vi sử dụng âm thanh để tiến hành giao tiếp - Nói.

Nghĩa giữ lại (2.) là nghĩa biểu thị một phương tiện giao tiếp bằng nét bút thông dụng trong một vùng - Chữ viết.

Nghĩa (1.) rơi rụng có lẽ vì lúc đó trong tiếng Việt đã có nhiều từ biểu thị hành vi này, như “trăm”, “thốt” “rằng” tạo thành loạt từ đồng nghĩa (1.) là thừa và do đó nó đã bị đào thải.

Nghĩa (2.) được giữ lại trong tiếng Việt ở thế kỷ XVII và ở hai ngôn ngữ Kơho và Haglai là hai ngôn ngữ được xem là còn giữ được nhiều nét cổ trong các ngôn ngữ Môn - Khmer và Mã Lai đa đảo lục địa.

Nghĩa (3.) có những nét rất giống với nghĩa (2.). Do đó người ta dùng tên gọi của nghĩa (2.) để định danh cho nghĩa (3.). Đó là điều thường xảy ra: là cách định danh theo phép ẩn dụ.

Trở lên là những mối liên hệ có tính tất yếu về âm thanh và ý nghĩa giữa từ “Nôm” và từ “Đôm” mà chúng tôi nhận thấy để trên cơ sở đó đưa ra giả thuyết: Từ “Nôm” trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ “Đôm” - một từ chung của các ngôn ngữ Môn - Khmer và Nalayopônêsia lục địa.

Tiếp theo còn một vấn đề cuối cùng nữa cần làm sáng tỏ. Đó là thời điểm xuất hiện của từ “Nôm”. Điều này liên quan đến sự xuất hiện của phụ âm mũi tắc/n/trong tiếng Việt. Cũng trong công trình đã dẫn, Maspéro có nói đến thời điểm xuất hiện của /n/ trong tiếng Việt. Ông cho rằng: Sự xuất hiện này chắc chắn phải nằm trong thời kỳ Việt nguyên thủy hay chậm nhất là đầu thời kỳ Việt cổ(4). Ông nêu hai sự kiện như sau để xác nhận cho ý kiến đó. Một là tiếng Mường không chịu ảnh hưởng này. Do đó không thể đi ngược đến thời tiền Việt. Hai là chữ Nôm dùng để viết các từ Việt với thủy âm mũi không có phân biệt gì giữa đ và n. Và bao giờ cũng dùng những từ Hán có thủy âm n(5).

Như vậy từ “Nôm” phải xuất hiện trong giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn Tiền Việt sang giai đoạn Việt cổ (thế kỷ X). Và thời điểm xuất hiện này hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với các giả thuyết từ trước đến nay về thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm.

CHÚ THÍCH

(1) Henri Maspéro: études sur la phonétique historique de la langue annamite: les initiales - BEFEO, TK.XII, N0 1, Paris - Hanoi, 1912 - (Khảo sát về ngữ âm lịch sử tiếng Việt: các thủy âm, tr. 7 - 63, Chú thích: 11. Xem bản dịch ra tiếng Việt của Phan Ngọc).

(2) A. de Rhodes: Từ điển Việt - Bồ - La. Bản dịch của Thanh Lãng - Hoàng Xuân Việt, Ban Ngôn ngữ Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh, tr 403.

(3) Tài liệu đã dẫn, tr.63 - 66.

(4) Tài liệu đã dẫn, tr.66.

(5) Tuy người ta vẫn còn tìm thấy những lệ ngoại mà trong đó chữ Nôm dùng để viết các từ Việt với thủy âm mũi /n/ bằng thủy âm /đ/ Hán Việt. Ví dụ: Nát viết bằng chữ Đột; Nọc viết bằng chữ Độc v.v... Nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến nhận định đúng đắn của Henri Maspéro./.

TB

TÌM HIỂU NGHĨA CỦA TỪ "MỖ"

NGUYỄN TÁ NHÍ

Từ “Mỗ” trong các văn bản Nôm được viết là 某 (mỗ) có thể xếp vào loại chữ Nôm mượn nguyên hình và âm của chữ Hán. Đây là một từ Việt cổ được sử dụng khá phổ biến trong các tác phẩm Nôm từ thế kỷ XVIII trở về trước, ví dụ như: Cư trần lạc đạo phú, Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm, Thiên Nam ngữ lục, Lê triều ngự chế quốc âm thi... Còn các tác phẩm ra đời muộn hơn, thì không thấy sử dụng, ví dụ như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Vị thành giai các tập biên v.v... Có thể vì lẽ đó mà tuy xuất hiện nhiều lần ở nhiều văn bản khác nhau, song việc xác định âm đọc và nghĩa của chữ này còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trong bài viết này chúng tôi xin nêu ra một số cứ liệu và kiến giải, góp phần làm sáng tỏ nghĩa của từ “mỗ”, qua ba tác phẩm đã được phiên âm giới thiệu, gồm: Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp phiên âm giới thiệu, Nxb. Văn - Sử - Địa 1956; Đào Duy Anh phiên âm chú giải, Nxb. KHXH, H. 1976. Viết tắt là NP); Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên phiên âm giới thiệu, Nxb. Văn học, 1982. Viết tắt là HĐ); Thiên Nam ngữ lục (Nguyễn Lương Ngọc, Đinh Gia Khánh phiên âm giới thiệu, Nxb. Văn hóa, 1958. Viết tắt là TNNL)(1).

Trong các bản phiên âm cũ, chữ “mỗ” được phiên âm theo nhiều cách khác nhau. Có bản phiên là “mỗ” và giải thích là “từ phiếm chỉ”; Có bản phiên là “mấy”, “lấy”. Lại có trường hợp cho là viết sai hoặc để tòa nghi. Chúng tôi thấy rằng, các cách lý giải trên nếu đem tận dụng vào từng trường hợp cụ thể, thì vẫn còn nhiều chỗ chưa thật thỏa đáng. Chẳng hạn:

- Trong NT, ở bài Ngôn chí 4, với câu:

“Trúc thông hiên vắng trong khi ấy,
Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm”

Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm chú thích: “mỗ, tiếng chỉ trống không”. Phần dưới hễ gặp lại từ này, các soạn giả lại mách bảo xem chú thích này. Đến bài Báo kính cảnh giới 40 “Lỗi thác vì bi mỗ chút nao”, không thấy giải thích gì cả. Nếu theo thông lệ hiểu là “tiếng chỉ trống không” thì cũng không ổn. Bởi lẽ “chút nao” đã có ý chỉ trống không rồi, vậy “mỗ chút nao” nên giải thích như thế nào?

- Trong TNNL, chữ “mỗ” xuất hiện lần đầu tiên ở câu 25b:

“Lớn sao chẳng lớn mỗ phân,
Chẳng ngồi chẳng nói hòa ăn hòa nằm”.

Các soạn giả chú thích: “mỗ là từ phiếm chỉ, có nghĩa là cái ấy, một chút”. Tra cứu các từ điển chữ Hán, chúng tôi chỉ thấy, “mỗ” có nghĩa là “nào đấy”, chứ không thấy có nghĩa “một chút”. Có lẽ các soạn giả thấy “mỗ” trong văn cảnh này có nghĩa như vậy, nên tự thêm vào cho rõ. Đến câu 812:

“Xương chu giồng ắt nở lên
Năm sau nàng thị mỗ liền có thai”.

Thấy nghĩa “nào đấy, một chút”, không đủ để giải thích nữa, các soạn giả lại chú thích thêm: “mỗ, tiếng phiếm chỉ, dùng để đưa đẩy câu văn, ở đây có nghĩa như bèn”. Vậy là “mỗ” lại có thêm nghĩa mới là “bèn” để đưa đẩy câu văn. Thế nhưng đến câu 5056, lại đưa đẩy không thông, soạn giả đành phải Chú thích: “Câu này để tồn nghi hai chữ “mỗ ly”.

- Với cách đọc “mấy” cũng không thật phù hợp với mọi ngữ cảnh. Chính soạn giả Đào Duy Anh cũng xác nhận điều này, nên ở bài Mạn thuật 7, lại đổi đọc là “lấy”, hoặc như ở bài Ngôn chí 21, lại theo một bản chép tay khác mà sửa lại là “vọ”. “Mỗ” được nhiều tác giả sử dụng như thế, chắc chắn nó phải là một từ có ý nghĩa rõ ràng. Để làm sáng tỏ điều này, chúng ta hãy xem xét nó ở một vài góc độ khác nhau.

1. Khả năng kết hợp của “mỗ” trong các văn bản

a. Trong cụm từ ngữ: “mỗ” có khả năng kết hợp với các từ khác tạo thành các cụm từ:

- Cụm danh từ: Mỗ sơn tăng, mỗ danh, mỗ vật, mỗ thôn, mỗ thế, mỗ dứa, mỗ phân, mỗ hào, mỗ phần, mỗ phút, mỗ bề, mỗ bộ, mỗ mùi, mỗ dóa, mỗ thập, mỗ chén, mỗ giờ, mỗ lời, mỗ ly.

Đây là khả năng kết hợp nhiều nhất của “mỗ” trong số 47 văn cảnh ở ba tác phẩm nêu trên (Xem bản liệt kê ở dưới), có tới 31 trường hợp tạo thành cụm danh từ. Trong tiếng Việt, những thành phần làm định tố ở cụm danh từ mà đứng trước danh từ trung tâm, có thể là danh từ đơn vị. Trường hợp danh từ trung tâm lại chính là danh từ đơn vị, thì thành phần định tố đứng trước nó phải là số từ. Xem xét ở đây, “mỗ” có nhiều tính chất giống với số từ.

- Cụm động từ, cụm tính từ: Mỗ nên hữ, mỗ nên xuôi, mỗ để, mỗ hơi hơi... (gồm 16 trường hợp).

b. Trong cấu trúc câu: “mỗ” cũng có khả năng kết hợp với các từ khác, tạo ra các cấu trúc câu, biểu thị những ý nghĩa xác thực.

Ví dụ:

Từ phủ định + Động từ + Mỗ + Danh từ

(Chẳng, chớ, chưa)

Chẳng cho bén mỗ hào
(NT. Thuật hứng 7)

Chẳng cầu an mỗ phận
(NT. Báo Kính cảnh giới 30)

Chẳng lớn mỗ phân
(TNNL. Câu 253)

Chẳng có mỗ lời
(TNNL. Câu 1525)

Chẳng khỏi mỗ ly
(TNNL. Câu 5056)

Chẳng đa mang mỗ phần
(TNNL. Câu 6028)

Chẳng khỏi tay mỗ giờ
(TNNL. Câu 6930)

Chẳng lo mỗ phần
(TNNL. Câu 7726)

Chưa hề đặng mỗ phân
(NT. Trần tình 1)

Chớ hề tiết lậu mỗ phân
(TNNL. Câu 3066).

Trong câu “Chẳng cho bén mỗ hào” có thể đảo kết cấu thành: “mỗ hào chẳng cho bén”. Thay “mỗ” bằng các từ chỉ số lượng khác như: một, nửa, chút ta có:

Một hào chẳng cho bén

Nửa hào chẳng cho bén

Chút hào chẳng cho bén

Nhận xét: Hào là đơn vị độ dài rất ngắn (trọng, xích, thốn, phân, ly, hào), một, nửa, chút là các từ chỉ số lượng. Nếu như từ chỉ số lượng càng bé, ngữ khí của câu càng mạnh. Do vậy có thể đoán định rằng “mỗ” là từ chỉ số lượng nhỏ.

2. Khả năng thay thế “mỗ” với các từ khác

Chúng tôi còn tìm thấy trong ba tác phẩm trên có một số văn cảnh mà từ “mỗ” có giá trị tương đương với từ chỉ số lượng “một”. Ví dụ:

a. Trong NT

Năng mỗ sơn tăng làm bẹn ngâm
(Ngôn chí 4)

Năng một ông này đẹp thú này
(Ngôn chí 10)

b. Trong TNNL

- Trong sông coi thấy mở cờ
Quay chẳng mỗ giờ thuyền nó tháo lui
(Câu 6462)

Bá linh cùng Tuấn giao phong
Quay nhau đôi gã chẳng thông một giờ
(Câu 6306)

- Đem về tam phủ đêm ngày
Giấc nâng chốc chẳng khỏi tay mỗ giờ
(Câu 6930)

Giấc nàng trả nghĩa trên tay
Một giờ chẳng khỏi, một ngày chẳng thông
(Câu 6624)

Câu 253: “Lớn sao chẳng lớn mỗ phân” trong TNNL, được Nguyễn Văn Bình(2) lắp lại gần như trọn vẹn trong sách Phù Đổng Thiên vương sự tích diễn âm, thành “nhớn sao chẳng nhớn một phân”, chỉ khác nhau đôi chút là từ “lớn” đổi thành “nhớn”, từ “mỗ” đổi thành “một”.

Các ví dụ trên cho thấy nghĩa của từ “mỗ” dường như đồng nhất với “một”.

3. So sánh “mỗ” với các từ Hán Việt tương đương trong sách Hán diễn Nôm.

Trong các bản dịch Hán văn cũ, mà lâu nay nhiều người vẫn quen gọi là loại sách Hán diễn Nôm, nhờ có phần chữ Hán kèm theo, nên nghĩa của từ dễ nhận biết hơn.

Ví dụ:

- Bất khả tu du li dã
(Chẳng khả mỗ phút khỏi vậy)

“Tu du”, có nghĩa là “chốc lát”, chỉ khoảng thời gian ngắn, được giải âm là “mỗ phút”. “Phút” là đơn vị đo thời gian, vậy “mỗ” phải là từ chỉ một số lượng ít.

- Bất thuấn tức gian, hốt nhiên đại vũ
(Chẳng mỗ phút hơi, xẩy vậy cả mưa)
(Cổ châu Pháp Văn phật bản hạnh)

“Thuấn tức”, cũng có nghĩa là “chốc lát”, ở đây cũng được giải âm là “mỗ phút” giống như trường hợp trên.

- Lương hồi khách mộng thanh, sơn phòng vô cá sự (Khi mát về chiêm bao khách êm, chốn sơn phòng chẳng có mỗ việc).

(Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm) Trong tiếng Hán, “cá” là lượng từ chỉ đơn vị cá thể, đứng trước nó thường là từ chỉ số lượng. Trường hợp từ số lượng là “một”, thì không nhất thiết phải dùng. Do vậy “cá sự” có thể hiểu là “nhất cá cự”, có nghĩa là “một việc”, ở đây được giải âm là “mỗ việc”, thế thì “mỗ” phải là từ chỉ số lượng.

Qua các cứ liệu phân tích trình bày ở trên, có thể đoán định “mỗ” là từ chỉ một số lượng ít, nghĩa tương đương với: một, chút, chút ít. Với nghĩa này, từ “mỗ” có thể thích hợp với tất cả các ngữ cảnh mà nó xuất hiện trong ba tác phẩm kể trên.

Dưới đây chúng tôi xin liệt kê các ngữ cảnh có từ “mỗ” xuất hiện:

- Trong NT, xuất hiện 30 lần:

1. Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mỗ(3) sơn tăng làm bạn ngâm
(Ngôn chí 4)

2. Trường ốc ba thu uổng ~ danh
Chẳng từ đâu xứng chức tiên sinh
(Ngôn chí 6)

3. Phú quý chẳng tham thanh tựa nước
Lòng nào vậy ~ hơi hơi
(Ngôn chí 21)

4. Thủy chung ~ vật đều nhờ chúa
Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.
(Mạn thuật 3)

5. Chim kêu cá lội an đòi phận
Câu quạnh cày nhàn dưỡng ~ thân
(Mạn thuật 7)

6. Nhà có thi lễ âu chi ngặt
Đời phạp văn chương uổng mỗ danh
(Mạn thuật 9)

7. ở thế những hiềm qua ~ thế
>Có thân thì cóc sá chưng thân
(Mạn thuật 11)

8. Miệt bả hài giai khăn cóc
Xênh xang làm ~ đứa thôn nhân
(Mạn thuật 11)

9. Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ
Có lòng bằng trúc ~ nên hư
(Mạn thuật 12)

10. Từ ngày gặp hội phong vân
Lổ báo chưa hề đặng ~ phân
(Trần tình 1)

11. Bảy tám mươi bằng một bát tay
Người sinh ở thế ~ nhàn thay
(Trần tình 9)

12. Văn này ngâm thấy ~ thon von
Thương hải hay khao thiết thạch mòn
(Thuật hứng 4)

13. Con lều mọn mọn đẹp sao
Trần thế chăng cho bén ~ hào
(Thuật hứng 7)

14. Ta quản tiêu dao qua ~ thế
Ai từng phú quý mấy trăm đời
(Thuật hứng 14)

15. Chấn chạy cánh bay an ~ phận
Thiên công nào có thửa tư che
(Tự thán 7)

16. Thoi nhật nguyệt đưa qua ~ phút
Áng phồn hoa hợp mấy trăm đời
(Tự thán 15)

17. Đầu kết lăng nhăng những hổ
Thân nhàn lục cục ~ già
(Tự thán24)

18. Khó ngặt qua ngày xin sổng
Xin làm đời trị ~ thái bình<
(Tự thán 28)

19. Xin làm ~ bộ quản giang sơn
Có biết đâu là sự thế gian
(Tự thán 25)

20. Ơn vua luống nhiều phần đội
Việc nước nào ích ~ b
(Tự thán 30)

21. Sự thế đã hay thì vậy
Có ai cóc được ~ cười cười
(Tự thán 34)

22. Uổng có thân hàn chẳng thửa nuôi
Ghe đường dại dột ~ nên xuôi
(Tự thán 36)

23. Vẫn sinh lẩn thẩn ~ già
Mọi sự đều thì thuấn nhã đa
(Tự thuật 3)

24. Khó khăn là của thế gian yêm
Huống ~ già dại dột thêm
(Tự thuật 4)

25. Văn đạt chăng cầu an ~ phận
Ba gian lều cỏ đất Nam Dương
(Báo kính cảnh giới 30)

26. Vũ Tử lui tuy chịu dại
Bá Di lánh ~ nên thanh
(Báo kính cảnh giới 39)

27. Làm người biết máy khôn sao<
Lỗi thác vì ai ~ chút nao
(Báo kính cảnh giới 40)

28. Chẳng hổ thân già tuổi tác hư
Khó khăn dại dột ~ lư cư
(Báo kính cảnh giới 53)

29. Khó khăn phú quý học Tô Tần
Miễn đức hơn tài được ~ phân
(Báo kính cảnh giới 60)

30. Dầu thấy xuân lan cùng lọn được

(Cúc)

- Trong HĐ, từ mỗ được dùng 4 lần:

1. Mưa nói giang hồ yên ~ thú
Chạnh lòng nguy khuyết tiếng chuông xưa
(Sổ hàng hồng liễu nhất ngư chu)

2. ~ đóa xuân sơ bông bạc chiêng
Đòi chùm thu muộn khóm vàng pha
(Hoa)

3. ~ thập phong tao châu lẫn ngọc
Tấc lòng ưu ái tóc cùng tơ
(Thi)

4. Đòi mùi dìu dặt Ngao trừ tướng
~ chén khôn thai Tống cởi binh
(Tửu)

- Trong TNNL, “mỗ” được dùng 13 lần:

1. Lớn sao chẳng lớn ~ phân
Chẳng ngồi chẳng nói hòa ăn hòa nằm
(Câu 253)

2. Kíp chầy sứ lại đem vào
Bổ loài Ân tặc xem sao ~ giờ
(Câu 320)

3. Xương chu giồng ắt nở lên
Năm sau nàng thị ~ liền có thai
(Câu 812)

4. Sách rằng: Chẳng có ~ lời
Những sự nghe người bắt bọ bỏ tai
(Câu 1525)

5. Ngoài ba trăm năm đế vương
Mệnh quan Thái thú ~ sang Nam Thành
(Câu 2792)

6. Trước sau cặn kẽ vân vân
Chớ bề tiết lậu ~ phân điều gì
(Câu 3066)

7. ~ từ lưu lạc bấy chầy
Nhớ đến nhau rày trong dạ còn đau
(Câu 3987)

8. Nên lòng mộ vũ triêu vân
Khách Sở nàng Tần chẳng khỏi ~ li
(Câu 5056)

9. Quốc Tuấn mình giữ phụ tang
Tóc tơ chẳng dám đa mang ~ phần
(Câu 6028)

10. Trong sông coi thấy mở cờ
Quay chẳng ~ giờ thuyền nó tháo lui
(Câu 6462)

11. Đem về tam phủ đêm ngày
Giấc nâng chút chẳng khỏi tay ~ giờ
(Câu 6930)

12. Nhọc nhằn biết mấy mươi thu
Hàm Dương Phùng Dị chẳng lo ~ phần
(Câu 7726)

13. Nguyễn Đặng xui cùng chư quân
Sự thù ~ để mười phân vào lòng
(Câu 7756)

CHÚ THÍCH

(1) Xem bảng liệt kê các ngữ cảnh có từ “mỗ” xuất hiện, ở cuối bài.

(2) Nguyễn Văn Bình: Người làng Sĩ Quý, huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng, thi đỗ Cử nhân năm Duy Tân 3 (1909), từng biên soạn một số sách Hán Nôm.

(3) Để tiện trình bày, từ “mỗ” trong các câu tiếp theo được nhất loạt thay bằng dấu ~.

TB

NGƯỜI VIỆT VÀ HỌ NGUYỄN

DIỆP ĐÌNH HOA

Dân tộc là một khái niệm mới, trước đây cũng chung một nội hàm, chúng ta đã sử dụng các khái niệm: người, dân tộc Người Việt cũng có nghĩa là dân Việt, tộc Việt, hay dân tộc Việt. Người Việt cũng được gọi là người Keo, người Kinh và cả người Doan (Nguyễn).

Đối với người Việt, họ trong tên người là một hiện tượng văn hóa ngoại lai, đã trải qua một quá trình đồng hoá, tiếp biến lâu dài trong lịch sử. ở người Việt cổ, gốc Lạc Việt và Âu Việt, sự phân biệt về huyết thống trên tên người theo công thức ngôn ngữ học là CCVC (C là phụ âm, V là nguyên âm). Hiện tượng này còn có thể khảo sát ở một số dân tộc bản địa vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Ngoài phạm vi người Cơho (Lâm Đồng) tên K’Chon, hai phụ âm đầu là K và Ch, mang ý nghĩa phân biệt về tộc thuộc, nguyên âm O và phụ âm N mới chính là tên riêng của người ấy. Cái gọi là “họ” ở đây thuần túy mang tính tộc người.

Từ Bình Trị Thiên trở ra có thể ghi nhận được 192 trường hợp đơn vị tổ chức cơ sở dùng họ làm tên làng(1). Riêng trường hợp họ Nguyễn, theo tư liệu của Viện Hán Nôm đã công bố, xuất hiện đến 35 lần(2). Thực tế đều đã cho thấy số lượng này là 42. Nhiều làng chỉ có một họ, nhưng trên hình thức không phải là làng họ, ngược lại nhiều làng họ nhưng người trong làng không có họ nào mang tên làng. Hiện tượng này cho thấy tính chất dân tộc, tính xã hội đã lấn át tính tộc người. Điều này xét về mặt lịch sử cũng có nguyên nhân của nó tạm gọi là lý do lịch sử - xã hội.

Các triều đại phong kiến ở nước ta tuy sao phỏng những cung cách quản lý của phong kiến Trung Quốc, song quá trình tiếp biến văn hóa vẫn nẩy ra những điều khác biệt. Trong trường hợp mà chúng ta đương quan tâm ở đây, có thể thấy ở Trung Quốc, họ của người cầm quyền và hiệu của triều đại có khác nhau. Họ Lý lập nên nhà Đường, họ Chu lập nên nhà Minh v.v... Người thời Đường gọi là Đường nhân; người Đường, hiện vẫn còn nhiều ở vùng Trung á. Người thời Minh gọi là Minh nhân; người Minh còn nhiều ở vùng Đông Nam Á. Còn ở Việt Nam thì gọi các triều đại theo họ của người cầm quyền: Nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần v.v... Dân của triều Nguyễn thành dân của nhà Nguyễn, thành dân Nguyễn.

Khía cạnh chữ viết cũng đã góp phần không nhỏ vào việc ghi nhận hiện tượng đã nêu ỏ trên. Các làng Việt cổ đều có tên riêng bằng âm Nôm, nhưng khi cần ghi chép, do sự không phù hợp giữa ký hiệu và âm bản địa cho nên đã xảy ra sự biến dạng. Tên làng cổ vẫn tồn tại vững chắc trong lòng dân gian, độc lập với tên gọi theo chủ nghĩa ghi trong các thư tịch. Dân ở địa phương hoặc những người am hiểu tình hình cụ thể sẽ không bao giờ đọc sai, nhưng đối với số đông, ở phạm vi rộng người địa phương thì tình hình lại diễn biến theo quy luật khác của ngôn ngữ. Ký hiệu Nguyễn theo tư liệu của Viện Ngôn ngữ học có bốn âm là: Nguyễn, Ngán, Ngôn, Ngoãn(3); làng Ngoãn, làng Ngón, làng Ngán đều mặc nhiên trở thành làng Nguyễn. Điều này đã được thực tế điền dã ghi nhận. Cũng có lúc bên cạnh chữ Nguyễn người ta thêm vào các bộ khác như: bộ thủ, bộ thảo, hoặc kết hợp hai bộ này. Tính xã hội của tính chất dân tộc Việt Nam cũng góp phần vào sự biến dạng từ, nên ở đây có thể xem như là nguyên nhân ngôn ngữ - xã hội, làng Ngoạn ở Thanh Hóa có ký hiệu Nguyễn với bộ vương bên cạnh vì Thanh Hóa vốn là đất đế vương cũ. Khi thành thôn Thanh Nguyễn, ký hiệu Nguyễn không còn bộ vương nữa. Làng Nguộn ở Quỳnh Phụ, Thái Bình cũng như làng Nguộn ở Lục Yên, Hà Bắc thì tên chữ là Nguyễn, do đó hiện nay tên Nôm của làng là làng Nguyễn, còn tên chữ là Nguyễn Xá. Làng Ngòi Từ Sơn, Hà Bắc viết chữ là Nguyễn, cho nên tên chữ là Nguyễn Xá. Làng Ngón chữ Nguyễn có bộ thảo, nhưng có nơi lại là ký hiệu của làng Ngọn. Cũng có nơi từ nghĩa ngọn, ký hiệu này được dùng để phiên âm cho làng Nguồn. Nguồn thời Lê cũng đã từng là một đơn vị cơ sở mang tính chất pháp nhân(4). Nguồn cũng trở thành tộc danh của một số dân tộc thiểu số trên đất nước ta. Làng Ngoãn cũng được ký âm là Nguyễn có thêm bộ Khẩu. Về mặt ngôn ngữ học, chúng ta thấy rằng để giải quyết vấn đề đặc thù của âm Việt người ta đã tăng thêm việc ghép bộ vào ký hiệu Nguyễn. Sự rắc rối của chữ Nôm nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến, nhưng cũng có lợi về mặt dân tộc học. Quá trình đơn giản hóa, giản lược hóa, trừu tượng hóa, khái quát hóa đã khẳng định tính bản địa của họ Nguyễn: từ những âm Việt khác nhau thành một sự thống nhất, phản ảnh của một quá trình tiếp biến văn hóa sâu sắc (Tóm tắt theo bảng 1).

Về mặt nguồn gốc, Nguyễn là vùng đất ở Thiểm Tây, Trung Quốc. Thời Ân (1401 - 1122 TCN) chưa có khái niệm quốc là nước. Người Ân gọi các vùng xung quanh mình là phương. “Nguyễn phương” đã xuất hiện trong văn giáp cốt, có nghĩa là vùng đất Nguyễn, sau này trở thành họ của những người cư trú ở đây. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (5) thì trước thời Lý cũng đã có ghi chép một số nhân vật mang họ Nguyễn. Nhà Trần thay nhà Lý, nhiều người họ Lý đổi sang thành họ Nguyễn. Sự phổ biến của họ Nguyễn mang một màu sắc chính trị - xã hội. Thời Lê Mạc, nhà Mạc thất thế, nhiều người mang họ Mạc vùng Hà Bắc - Hải Hưng - Thái Bình đã đổi thành họ Lều, họ Trại, tức những người ở lều, những người ở trại, từ dân ngụ cư biến dần thành dân gốc. Họ Lều còn giữ lại được đến ngày nay, nhưng họ Trại thì đổi sang họ khác. Họ Trại ở Nguyên Xá, Đông Hưng, Thái Bình đổi sang họ Nguyễn Hữu. Trong 16 họ Nguyễn ở xã Xuân Hy thuộc Hà Nam Ninh, có họ Đào, khi theo quân Tây Sơn mới đổi sang họ Nguyễn.

Tính xã hội cũng được phản ánh qua các mặt kinh tế hay tâm lý. Trong xã hội có giai cấp trước kia, những kẻ ngụ cư hoặc những cố nông, bần nông không có đất hoặc ít đất thường phải đổi theo các họ tiên hiền, hậu hiền để tiện bề lĩnh canh, làm thuê. Một số người nghèo chịu thân phận đi ở rể, phải đổi sang họ vợ để được thừa tự. Hiện tượng này phổ biến ở nhiều nơi. Đối với lý do tâm lý thì còn nhiều điều chưa rõ ràng lắm. ở Xuân Hy thuộc Hà Nam Ninh có họ Phan từ nơi khác đến từ 10 đời. Khi về Xuân Hy thì từ họ Phan chuyển sang họ Nguyễn, chưa rõ vì sao? Có phải là vì số đông cư dân trong làng mang họ Nguyễn, cho nên cũng theo đời, đổi sang họ Nguyễn chăng? Khó trả lời chính xác. Họ ông Nguyễn Uẩn, 8 đời theo gia phả, gần 200 năm, chỉ biết cụ thể từ nơi khác đến đây sinh cơ lập nghiệp, không rõ họ gì. Làng Nguyễn ở Đông Hưng, Thái Bình có 46 họ Nguyễn: các họ Trương, Thái, Triệu v.v... về đây cư trú, đều thêm vào trước họ mình một chữ Nguyễn thành: Nguyễn Hoàng...; Nguyễn Xuân...; Nguyễn Hữu...; Nguyễn Văn...; Nguyễn Đình...; Nguyễn Như...; Nguyễn Quang...; Nguyễn Bùi...; Nguyễn Trường...; Nguyễn Thái...; Nguyễn Triệu...; Có khi cả làng đổi tên, như Phong Xá, Hà Bắc đổi thành Nguyễn Xá. Tên ghép nhiều, có khi dùng ngay tên mới là Nguyễn Xá, như trường hợp 3 làng: Kiến, Hội, Nha ở Vũ Thư, Thái Bình. Có lẽ điều này cũng xuất phát từ tâm lý của người Việt, không thích những gì đột xuất, gây nên những ấn tượng lạ.

Tuy tính xã hội lấn át tính tộc người trong tính chất dân tộc, nhưng trên quan điểm xử lý hệ thống tổng thể, tính dân tộc vẫn có vai trò và tác dụng của nó. Những sự lấn át của tính xã hội trình bày ở trên một phần cũng là do tính tộc người của dân tộc Việt quyết định. “Cái tộc người trong cái xã hội - đó chủ yếu là ngôn ngữ, lãnh thổ và những đặc điểm (nhưng không phải tất cả nội dung) của nền văn hóa, đời sống, tín ngưỡng, truyền thống, ý thức và tâm lý, được hình thành dưới ảnh hưởng của môi trường địa lý, của sự cùng có chung một nguồn gốc và sự phát triển lịch sử trong suốt nhiều thế kỷ, nhiều khi còn trong những điều kiện của chế độ bộ lạc, thị tộc”(6). Nhiều làng Nguyễn đã là di tích từ thời nền văn minh Đông Sơn, cư trú liên tục cho đến tận ngày nay. Nguyên Xá nay là thôn Nguyễn Xá xã Phương Tứ, ứng Hòa, Hà Sơn Bình là nơi phát hiện ra trống Phương Tú(7) loại I Hêgơ (hay cũng gọi là trống Đông Sơn(8)). Làng Nguyễn là tên Nôm, Nguyễn Xá là tên chữ, một xã ở Đông Hưng, Thái Bình Nguyễn đọc thành Nguyên, chưa có một ví dụ nào về mặt ngôn ngữ học. Hiện tượng này không theo quy luật ngôn ngữ học mà theo quy luật dân tộc học. Làng và kẻ là những tổ chức cơ sở của người Việt cổ(9). Kẻ tuy có ký hiệu Nôm, nhưng cũng có cả ký hiệu bị Hán hoá. Người làng thì thủy chung vẫn giữ được bản sắc văn hóa qua ký hiệu Nôm. ở Nguyễn Xá, Nguyễn là chuyện chữ nghĩa, còn trong nội bộ nhân dân âm nôm na của họ Nguyễn lại là họ Kênh, họ Cầu, họ Trại v.v... Họ Kênh là họ đầu tiên về sinh cơ lập nghiệp cho nên để lại dấu ấn của mình trên mọi cảnh quan: đường Kênh, ngõ Kênh, đình Kênh... Kênh về mặt ngôn ngữ có hai ký hiệu Nôm, nhưng họ Kênh âm của ký hiệu Nguyễn lại là một hiện tượng dân tộc học. Khảo sát về các bi ký còn lưu lại trong xã, có thể giả thiết rằng lúc đầu Kênh được ký hiệu là Cang 亢 từ thời Lê. Sau đó nét chấm được thay bằng nét ngang, thành Nguyên 元 (yuan), thời Nguyễn, thế kỷ XIX thêm bộ phù hay liễu thành Nguyễn, nhưng vẫn giữ âm nguyên. Nguyễn cũng như Kênh, Ngòi, Nguồn, v.v... là những người làm ruộng trồng lúa nước sống hòa nhập với môi trường và cảnh quan nghề nghiệp.

Bên cạnh đó xuất phát từ lập trường giai cấp thống trị coi khinh những kẻ nghèo hèn không tấc đất cắm dùi, cũng là người Việt cả, nhưng ở vùng núi thì bị miệt thị là mọi, ở vùng hải đảo thì bị khinh thị là mọi biển. Người Nguồn, người Ngòi, khi viết thành Nguyễn, phía trái có ghi thêm bộ trùng (sâu) hay bộ cẩu (chó).

Những điều ghi nhận qua họ Nguyễn mang tính quy luật. Sự phổ biến của những quy luật giao tiếp, tiếp biến, đồng hóa cũng có thể khảo sát đối với các họ khác, chỉ trừ một điều: sự khái quát mang tính tộc người không có đối với các họ khác. Bởi vì điều này liên quan đến yếu tố nhà nước, tức họ của triều vua đương thời.

Tóm tắt:

Họ hiện đang sử dụng là một hiện tượng văn hóa ngoại lai. Quá trình tiếp biến văn hóa đã làm nảy sinh ra trường hợp ở nước ta nhiều đơn vị tổ chức cơ sở dùng họ để đặt tên làng. Từ Bình Trị Thiên trở ra có gần 200 trường hợp, trong đó trường hợp họ Nguyễn được dùng để đặt tên cho gần 50 đơn vị. Việc khảo sát chúng đã cho thấy, Nguyễn chỉ là cái vỏ hình thức của cả một quá trình tích hợp tên cơ tầng bản địa vững chắc. Có thể như họ Kênh (tên Nôm) thành Nguyễn (tên chữ) là trường hợp những người sống theo các nguồn nước để làm ruộng trồng lúa. Mối quan hệ biện chứng giữa tính xã hội và tính tộc người trong tính chất dân tộc chỉ có thể khảo sát được qua sự liên kết giữa ngôn ngữ học và dân tộc học. Sự thay đổi được diễn ra theo các sức ép của các yếu tố chính trị - xã hội, lịch sử - xã hội, cùng những yếu tố tâm lý, văn hóa, kinh tế, ngôn ngữ, dân tộc. Tính chất phổ biến của những quy luật này có thể khảo sát đối với hàng loạt các họ khác.

Số T.T Âm Nôm của tên làng Việt Ký hiệu Nôm của tên làng Việt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Làng Nguyễn
Làng Nguộn
Làng Ngòi
Làng Ngán
Làng Ngàn
Làng Ngoạn
Làng Nguồn
Làng Ngọn
Làng Ngón
Làng Nguyên
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+



+
+




+
+





+
+
+
+







+
+







+
+







+

Chú thích:

(1) Phạm Diệp: Gia phả học và một số vấn đề về làng Nguyễn, Nghiên cứu lịch sử, số 5 (230); IX - X 1986; tr.59 - 67.

(2) Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra); Nxb. KHXH, H. 1981.

(3) Viện Ngôn ngữ học: Bảng tra chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1976; ký hiệu số 848.

(4) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H. 1969, 190.

(5) Đại Việt sử ký toàn thư tập I, Nxb. KHXH, H. 1983. Trong 12 Sứ quân chép ở sách này, ta thấy có: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thư Tiệp, Nguyễn Siêu; Thời Đinh có Nguyễn Bặc v.v...

(6) An-phô-rét Cô-sin-gô: Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay; Nxb. Thông tin lý luận; H. 1985. tr.103.

(7) Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam: Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, H. 1975. tr.73.

(8) Phạm Minh Huyền và các tác giả: Trống Đông Sơn, Nxb. KHXH, H. 1987.

(9) Huyền Nam: Làng và kẻ trong hệ thống tên tổ chức cơ sở cổ truyền, Ngôn ngữ; 3-1981, tr.44-51./.

TB

VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH PHÂN BỐ TÀI LIỆU HÁN NÔM Ở 4 HUYỆN PHÍA BẮC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC BẠCH
NGUYỄN DOÃN TUÂN

Bốn huyện ngoại thành Hà Nội - Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn và Mê Linh - là cửa ngõ phía Bắc của cố đô, nơi đã từng diễn ra những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Những di tích, những tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm tồn tại dưới nhiều hình thức như bia, chuông, khánh, câu đối, hoành phi, sắc phong, thơ, thần phả... hiện còn ở các di tích trên các địa bàn này có thể giúp ích khá nhiều cho công tác nghiên cứu. Dưới đây, chúng tôi xin nêu một vài số liệu qua đợt tổng kiểm kê sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội và điểm qua tình hình phân bố tư liệu ở các di tích thuộc 4 huyện để bạn đọc tham khảo.

Số liệu thu thập được của 4 huyện như sau:

Huyện Số xã Số di tích Số bia Chuông Khánh Câu đối Hoành phi Sắc phong Thơ Thần phi
GIA LÂM 31 186 1107 540 16 740 462 566 35 55
SÓC SƠN 25 83 520 140 18 304 125 190 43 35
ĐÔNG ANH 22 117 404 232 3 220 192 335 5 45
MÊ LINH 23 78 210 180 6 159 146 172 54 57

Nhìn vào bảng thống kê ta thấy số lượng tài liệu của mỗi huyện nhiều ít khác nhau, còn về nội dung và sự phân bố thì ở mỗi nơi cũng mang theo những đặc điểm riêng.

Huyện Mê Linh giáp với vùng đất tổ Vĩnh Phú là ranh giới cuối cùng của Hà Nội về phía Tây Bắc. So với các huyện khác, số tài liệu của Mê Linh có ít hơn, song mảnh đất miền trung du này vẫn lưu giữ được những tư liệu quý. Mê Linh có phải là đô kỳ thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa nghĩa hay không đang còn là vấn đề phải bàn, nhưng những tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm nói về các danh tướng của Hai Bà ở thành Vượn xã Tam Đồng, đình Phú Mỹ xã Phú Mỹ và đền thờ Hai Bà ở Mê Linh còn in đậm nét thời kỳ võ công oanh liệt này cần được nghiên cứu kỹ. Những cuốn thần phả, ngọc phả ở đây hầu hết là chép tay và đã mang yếu tố dân gian hóa, thần thành hóa, nhưng nếu loại ra các yếu tố đó, có thể thấy được Mê Linh đã từng là căn cứ địa mà các tướng lĩnh của Hai Bà cất quân dẹp Tô Định. Đền Xuân Mai xã Phúc Thắng và đền Thiên Nộn xã Tiền Châu đền thờ người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt đều có biển gỗ khắc chữ sơn son thiếp vàng bài thơ NAM QUốC SƠN HÀ. Câu chữ bài thơ ở hai nơi có khác nhau chút ít.

- Biển gỗ ở đền Xuân Mai ghi:

Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà bắc lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

- Biển gỗ ở đền Thiên Nộn ghi:

Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên định phận tại thiên thư.
Hà như nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhất trận phong lôi tận tảo trừ.

Bài thơ này đã có nhiều dị bản nhưng thiết nghĩ hai bản nêu trên ở ngay đền thờ của tác giả bài thơ cũng cần được thu thập và coi là những gương mặt trong các hàng dị bản. ở đền Xuân Mai còn có một bài thơ ca ngợi địa thế của ngôi đền, tuy không ghi rõ tác giả, nhưng qua dòng lạc khoản (ghi là “Thành Thái Kỷ Hợi đông, kinh lục thánh thi vu tả” nghĩa là mùa đông năm Kỷ Hợi niên hiệu Thành Thái 1899, kính cẩn chép thơ của bậc thánh như sau) cho phép ta nghĩ rằng bài thơ này có thể là của vua Thành Thái. Bài thơ như sau:

Khu dân tuy tiểu địa đồ cường,
Tử cố sơn hà nhập ngã đường.
Thiên địa như tại, quốc gia tại,
Thử doanh vận cổ thế lưu phương.

Tạm dịch:

Vùng dân tuy nhỏ nhưng địa thế mạnh,
Bốn mặt núi sông chầu về ngôi đền này.
Nếu trời đất còn thì quốc gia còn,
Đền này muôn thủa lưu tiếng thơm.

Địa bàn tuy không rộng, tài liệu tuy không nhiều nhưng ở xã nào cũng còn giữ được một ngôi đình với một vài cuốn thần phả, một ít đạo sắc. Qua các cuốn thần phả, sắc phong cho thấy Thành hoàng ở đây là những nhân vật lịch sử ở nhiều thời đại khác nhau, như xã Chu Phan thờ 8 người con của Lạc Long Quân; xã Nam Viêm thờ Cao Sơn, Cốt Trung, Trương Hống, Trương Hát; xã Cao Minh thờ Xa Lai và Thanh Lam v.v... Số văn bia cũng không nhiều nhưng phân bố khá đều ở các địa phương, mỗi nơi mỗi vẻ. ở chùa Báo Ân, thuộc thị xã Phúc Yên có một tấm bia dựng năm 1210, đến nay chữ vẫn còn khá rõ. Tấm bia không chỉ cho biết về ngôi chùa này đã được dựng từ lâu mà còn cho thấy một số địa phương danh cổ được ghi bằng chữ Nôm thời kỳ đó(1). ở xã Tiền Phong có một tấm bia ghi tên một số loại lúa đã được cấy ở vùng này v.v... Số bia thu thập được hầu hết bằng chữ Hán vừa phong phú về nội dung vừa đa đạng về hình thức. Cũng như thần phả, sắc phong, chuông, khánh, văn bia là nguồn tư liệu có giá trị nhiều mặt trong việc tìm hiểu vùng đất cổ Mê Linh.

Huyện Đông Anh nằm giữa địa phận 3 huyện Sóc Sơn, Mê Linh và Gia Lâm. Tư liệu ở đây còn giữ được khá nhiều.

1. Các xã còn giữ được nhiều tài liệu là: Cổ Loa, Vân Canh, Võng La, Việt Hùng, Thụy Lâm, Đông Hội, Vân Hà, Dục Tú, Nam Hồng, Mai Lâm, Xuân Nộn.

2. Các xã có ít tài liệu là: Bắc Hồng, Tàm Xá, Liên Hà, Tiên Dương, Kim Nỗ, Hải Bối, Kim Chung, Đại Mạch, Vĩnh Ngọc, Uy Nỗ và thị trấn Đông Anh.

3. Xã không còn gì là Nguyên Khê.

Trong số các xã còn nhiều tư liệu thì nhiều nhất là xã Cổ Loa. ở đây còn dấu vết các vòng thành đất thời An Dương Vương và toàn bộ khu di tích kiến trúc thế kỷ XVII - XIX. Khu vực này còn đủ các loại tài liệu bia, chuông, sắc phong, câu đối tập trung nói về sự tích An Dương Vương xây thành Cổ Loa chống quân xâm lược Triệu Đà. Xã Mai Lâm có lăng Đào Kỳ và một tấm bia khá cổ tạo vào năm đầu niên hiệu Thuận Thiên(2) nói về sự tích của Đào Kỳ mà hiện nay đang được thờ làm Thành hoàng ở địa phương. Cũng như xã Thụy Lâm, Mai Lâm có khá nhiều nhà thờ họ và qua các tài liệu còn có thể tìm hiểu thêm về một số dòng họ và danh nhân địa phương. Chẳng hạn ở Mai Lâm có nhà thờ họ Nguyễn, dòng họ của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890), ở Thụy Lâm có nhà thờ Tiến sĩ Lê Tuấn Mậu hay đền Sái thờ Trấn Vũ v.v... ở xã Đông Hội còn giữ được bản hương ước thôn Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh trước kia. Làng Lại Đà có một cuốn điều lệ bằng chữ Nôm ghi 8 điều quy ước về các lễ tiết ở đình, chùa và việc lên lão của các cụ trong làng. Trong các xã còn ít tài liệu thì Liên Hà, Đại Mạch và Bắc Hồng là những xã có tư liệu quý. Đình thôn Đông, xã Liên Hà có những đạo sắc phong khá sớm: 9 đạo thời Đức Long, 6 đạo thời Dương Hòa, 6 đạo thời Phúc Thái và 26 đạo từ thời Khánh Đức đến Khải Định. Liên Hà còn có đình thờ 3 vị tướng của Hai Bà Trưng và vị tổ sư nghề hát. Xã Đại Mạch có đình Súng Đông thờ con gái vua Triệu Việt Vương là Hồng Nghi đã có công dạy dân làng làm ăn, và một cuốn ngọc phả khá tốt. ở đây còn lưu những huyền thoại về 3 con rắn xanh có công đánh giặc Ân thời Thánh Gióng. Xã Bắc Hồng cũng còn những cuốn sách chép tay nói về sự tích các vị Thành hoàng. Trên đại thể so với Mê Linh thì Đông Anh có nhiều nhà thờ họ hơn và tài liệu Hán Nôm thường tập trung ở điểm hơn là điện. Thu thập được các tài liệu này có thể là nguồn tư tham khảo tốt cho việc nghiên cứu khu vực thành Cổ Loa cũng như văn hóa huyện Đông Anh trong quá khứ.

Huyện Sóc Sơn nằm sát với tỉnh Bắc Thái là biên giới phía Bắc của Hà Nội. Tài liệu Hán Nôm thường tập trung ở một số di tích lớn như: đền Sóc xã Phù Ninh là danh thắng thờ Thánh Gióng hiện còn 20 tấm bia; đình Hoàng Dương xã Mai Đình còn 57 bia, đình xóm Bến xã Đông Xuân còn 26 bia, đền Hương Gia xã Phú Cường thờ Lê Phụng Hiểu còn 14 bia v.v... Các tài liệu ở đây phản ánh một tình hình thực tế sinh hoạt của vùng đất nửa đồng bằng nửa đồi núi. Đền thờ xã Minh Trí có cuốn ngọc phả nói về ông họ Lý đã có công khai khẩn đất hoang. Đền Bắc Hạ xã Quang Tiến có tấm bia nói về việc đào giếng nước ăn cho bản thôn. Đình, đền ở địa bàn Sóc Sơn phần nhiều để tưởng nhớ anh em Trương Hống, Trương Hát, các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng và Thánh Gióng. Điều đáng lưu ý là Sóc Sơn có nhiều câu đối hay vịnh về cảnh sơn thủy hữu tình, về thế mạnh của đồi núi xen đồng bằng. Sự phân bố tài liệu không phân tán ở Sóc Sơn đã giúp cho người làm công việc sưu tầm, nghiên cứu, khoanh vùng, đánh giá tư liệu ở các địa phương.

Huyện Gia Lâm nằm kề sát với thành phố Hà Nội lấy con sông Hồng làm ranh giới. Địa bàn vừa rộng, số tài liệu trên các địa bàn cũng nhiều hơn so với các huyện kể trên. Xã Yên Thường có 13 di tích với 143 bia, 2 quả chuông, 44 đôi câu đối, 30 bức hoành phi, 20 đạo sắc và 3 cuốn thần tích, là nơi có nhiều tư liệu hơn cả. Hai xã Văn Đức và Yên Viên mỗi xã chỉ có một cuốn thần phả, là nơi ít tư liệu hơn cả. Cuốn thần tích ở xã Yên Thường nói khá kỹ về Đoàn Thượng người Hải Dương là nhân vật lịch sử quan trọng thời Lý Trần. Xã Kiêu Kỵ tuy tài liệu không nhiều, nhưng số di tích có tới 15, trong đó có 6 đình, 5 chùa, 3 đền và 1 văn chỉ. Đình Thổ Khối xã Cự Khối có 67 đạo sắc phong của 14 triều đại từ năm Vĩnh Khánh 2 (1730) đến năm Bảo Đại 15 (1940), cho biết ngôi đình này đã có từ lâu, thờ 5 vị Thành hoàng là: Diệu Hoa công chúa, Bạch Đa công chúa, Cao Sơn đại vương, Linh Lang đại vương, Bố Cái đại vương. Số câu đối ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng có tới 167 đôi. Số bia thời Quang Trung có nhiều nhất ở các Xã Đình Xuyên và Ninh Hiệp. Đáng chú ý là trong số 44 bia ở xã Bồ Đề, có tấm bia mang tên Trùng cấu thiên sơn tự bi ký ở trong chùa Bồ Đề dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614). Tác giả bài văn bia chưa rõ là ai, nhưng cuối bài văn bia còn dòng chữ ghi là: Tứ Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hình bộ thượng thư kiêm Đông các học sĩ Quốc Tử Giám tế tửu... Nội dung tấm bia ca ngợi cảnh đẹp sầm uất của làng xóm xung quanh Bồ Đề, và việc trùng tu lại chùa.

Qua việc sưu tầm tài liệu Hán Nôm ở 4 huyện phía Bắc ngoại thành Hà Nội, có thể rút ra những nhận xét như sau:

1. Các tài liệu Hán Nôm thường tập trung nhiều ở những di tích là danh thắng, những đình chùa lớn, những vùng đất cổ, những nơi gần thị trấn xã, những nơi là quê hương của các danh nhân.

2. Cùng với sự biến động lịch sử và phát triển xã hội, các tài liệu Hán Nôm cũng bị phân tán, mất mát dần cho nên việc sưu tầm, thu thập cần phải có kế hoạch khoanh vùng và đi sâu vào trong ngõ ngoài làng.

3. Những tài liệu Hán Nôm thu thập được là di sản văn hóa thành văn do nhiều tác giả có trình độ khác nhau thuộc nhiều thế hệ tạo ra, do đó các tài liệu này phản ánh tính phong phú đa dạng của các loại hình văn bản, văn tịch và văn tự của nhiều thời đại.

4. Bốn huyện phía Bắc ngoại thành Hà Nội còn giữ được một số lượng tài liệu Hán Nôm đáng kể, qua các tài liệu này có thể hình dung được phần nào truyền thống lịch sử địa phương.

CHÚ THÍCH

(1) Tấm bia đã được cụ Đào Duy Anh giới thiệu trong cuốn Chữ Nôm nguồn gốc cấu tạo diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975, từ tr.14 đến tr.18.

(2) Tấm bia có tên: Đào Tướng công sự tích bi ký, ghi năm đầu Thuận Thiên không rõ là năm 1010 hay là năm 1428./.

TB

VÀI NÉT VỀ NHỮNG SÁCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THƯ PHÁP TRONG KHO SÁCH HÁN NÔM

PHAN ĐÌNH ỨNG

Trong kho sách Hán Nôm (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), Hà Nội, có một số sách và tài liệu nói về Thư pháp. ở đây chúng tôi xin điểm qua một số đầu sách tiêu biểu cho các loại được tạm phân chia như sau:

I. CÁC SÁCH HƯỚNG DẪN VIẾT CHỮ

Đây là loại sách căn bản của Thư pháp. Thuộc loại này có các sách như:

1. Tứ thể thư pháp: Ký hiệu VHv.1526, 100tr, khổ 12x22cm khắc in tại Thịnh Văn Đường, năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), Triệu Mạnh Dĩnh đề bạt năm Bính Dần; nội dung dạy cách viết 4 lối chữ chân, thảo, triện, lệ.

2 . Tam Hy Đường pháp thiếp: Ký hiệu VHv.25/1-3, 264tr, khổ 19x30cm, chữ khắc in, có 2 bài bạt, 2 bài chỉ và các trang mẫu cho lối chữ nhân, hành và thảo; có kiểu chữ to, mỗi trang chỉ 2 chữ (kiểu đại tự). Bộ này gồm 3 sách. Riêng sách mang ký hiệu VHv.25/1, có các bài mẫu mang tính chất tổng hợp chân, hành, thảo của các danh nhân từ đời Tấn đến Đường, Tống.

3. Tam Hy Đường pháp thiếp: Ký hiệu AC.593, 360tr, khổ 19x27cm, và ký hiệu VHt 26/1-2, 68 tr, khổ 19x30cm. Đây là sách tổng hợp các lối chân, thảo, cỡ chữ lớn, vừa và nhỏ, cũng của các danh nhân đời Tấn, Đường, Tống.

4. Tập thư tự thức: Ký hiệu VHV.1509, 24tr, khổ 15x25cm, giấy bản trắng tốt, chữ viết tay, không ghi tác giả và niên đại, gồm các bài mẫu dạy viết lối chữ chân cho đẹp.

5. Tứ thể bát thức: Ký hiệu AB.90, 31tr, khổ 15x20cm, khắc in tại Liễu Văn Đường, năm Tự Đức thứ 22 (1869). Phần đầu giới thiệu kích thước cây bút nho; rồi quy cách cầm bút, cách đặt các ngón tay đúng vị trí; vai trò từng ngón tay khi thao tác. Phần sau gồm 3 bài mẫu cho lối viết chân; 1 bài mẫu cho lối viết hành; 1 bài mẫu cho lối viết thảo; 1 bài mẫu cho lối viết triện; 1 bài mẫu cho lối viết lệ.

6. Tứ thể tự pháp: Ký hiệu AC. 688/1-2, 328tr, khắc in tại Mỹ Văn Đường, năm Tự Đức nguyên niên (1848). Người khắc là Thanh Chiến Trai, theo bản thời Gia Khánh thứ 18, Quí Dậu. Cũng dạy cách viết chân, thảo, triện, lệ. Riêng phần chữ chân có toàn văn các bài phú, luận, để làm mẫu - Giới thiệu 8 nét cơ bản và từ 8 nét đó biến hóa ra gần 100 nét khác nhau.

7. Tự thể toàn thư: Ký hiệu AC. 267, 56tr, khổ 18x26cm, khắc in tại Phúc Văn Đường mùa xuân năm Giáp Tuất, không thấy tên tác giả. Nội dung cũng dạy cách viết các kiểu chân, thảo, triện, lệ. Giới thiệu sơ lược 8 nét chấm, hất ngang, lược, sổ, phẩy, móc và mác.

8. Tam diệu pháp thiếp: Ký hiệu AC.365, 72tr, khổ 17x23cm khắc in năm Tự Đức thứ 3 (1850). Giới thiệu các bản mẫu chữ thảo. Sau bản mẫu cuối cùng, thấy có tên Đổng Kỳ Xương.

Có thể nêu ra một vài nhận xét về những sách vừa giới thiệu trên đây như sau:

a. Các sách trên đây ít nói về lý luận thư pháp, mà chỉ giới thiệu cách tạo nét chữ sao cho đúng với chuẩn mực và thanh thoát đẹp đẽ. Trong những đầu sách vừa nói, có 2 sách giới thiệu cách thao tác (Tứ thể bát thức ký hiệu AB.90, phần đầu); một sách nói sơ lược lịch sử tạo chữ (Tứ thể toàn thư, AC.267, phần đầu); 2 sách giới thiệu các nét chữ cơ bản (Tứ thể tự pháp AC.688/1-2, trang 46 và Tứ thể toàn thư, AC.267). Còn phần lớn các sách khác đều là các bản mẫu chữ để thực hành là chủ yếu. Tuy nhiên ở đây cũng có điều đáng lưu ý:

Các nhà thư pháp Hán Nôm của ta ngày xưa đã sử dụng các lối viết chữ theo hệ chữ vuông Hán nhưng không bắt chước hoàn toàn theo lối phân chia của họ. Chẳng hạn cách phân loại các kiểu chữ của Trung Quốc đời Thanh là Tiểu triện, Đại triện, Lệ thư, Bát phân, Kim thảo, Chân thư, Hành thư, v.v... Nhưng ở đây, thường thấy có 4 loại: chân, thảo, triện, lệ là chủ yếu. Ngoài ra bên cạnh lối thảo còn có lối đá thảo tương tự lối hành thư.

b. ở các bài mẫu, lời văn tuy có khác nhau, nhưng các kiểu chữ - chân, thảo, triện, lệ - đều thống nhất như nhau về cách thức và dạng vẻ.

c. Các bản mẫu ở các sách trên được tạo theo dạng viết tay, được khắc in nhiều lần nhưng vẫn đảm bảo tính chuẩn mực của nó (trừ một sách mang tên Tập thư tư thức, ký hiệu VHv.1509, chữ viết tay chưa được khắc in, thì cũng có thể dùng để tham khảo).

II. CÁC SÁCH LIÊN QUAN ĐẤN NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP HÁN NÔM

Thuộc loại này có các sách sau đây:

1. Bách thọ triện tự: Ký hiệu VHt. 7/1-2, khổ 25x30cm, gồm 2 tập, có 408tr, dấu đỏ của Thư viện HDAKG - Thùy Chi (?). Sách không ghi niên đại và tác giả. Chữ viết theo lối triện, có 100 cách viết khác nhau (mỗi trang 1 chữ, mỗi chữ cao khoảng 25,00 cm, vừa đúng khổ trang giấy) để mừng thọ. Ví dụ như chữ: Vạn thọ, Vương tử, Long trảo, Đông đẩu, Ngũ nhạc v.v... Các hàng chữ chua, chú đề tài bằng nét chân cũng rất đẹp.

2. Bách thọ toàn đồ: Ký hiệu VHv.2693, khổ 13x30cm. Sách không đề niên đại và tác giả. Bìa cứng bọc vải lụa vàng, in rồng vàng bằng nhũ thẩm, giấy bên trong thuộc loại cứng dày, mầu vàng, cũng in hình rồng mây bằng nhữ vàng thẩm. Cả cuốn sách được tạo thành bởi một băng giấy cứng kéo dài ra 15 mét. Chữ màu đỏ cờ, viết tay. Mỗi chữ cao khoảng 25 cm, lối chữ triện. Các câu dẫn đề cũng màu đỏ chữ viết tay.

3. Cảm ứng thiền đồ thuyết: Ký hiệu A.3104đ, khổ 22x30cm, dày 460tr, có nhiều hình vẽ (khắc in), vẽ các chân dung và hình bản để minh họa việc cảm ứng (làm việc thiện được phúc, làm điều ác bị tai họa). Thường các tranh vẽ có ghi vài ba dòng chữ, ngoài ý thuyết minh nội dung, còn có tác dụng tô cho bức tranh thêm sinh động. ở đây rất tiếc người in tranh dường như cố ý không in các dòng chữ ấy. Thỉnh thoảng gặp ít dòng sót lại thì thường bị mất quá 1/2 số chữ (ví dụ trang 20, 24, 39, 40, 41...) nên không biết niên đại nào và tác giả là ai.

4. Ngự chế minh văn cổ khí đồ: Ký hiệu A.147, dày 72tr. Tác giả Minh Mệnh. Sách được in trên giấy tốt, có nhiều hình bản, 1 bài bạt, 33 bài minh của Minh Mệnh làm đề và 33 loại đổ cổ như: đỉnh, chén, bầu, vò, xe, chim, thủ trâu... được cách điệu hóa thành đồ dùng hàng ngày. Kèm các hình vẽ là các bài minh khuyên răn việc đời. Chữ lối chân rất trang trọng.

5. Các kiểu vẽ cũ ở Kinh (chữ Nôm): Ký hiệu VHv.56, dày 39tr, khổ 17x23cm. Không rõ tác giả và niên hiệu. Nét vẽ tay bằng mực nho đánh bóng bằng chì. Dùng ngòi bút lông để tạo các tranh bằng lối chữ triện: dùng kiểu chữ trang trí đỉnh lâu đài, dinh thự; làm hoa văn song cửa, bình phong v.v...

6. Hội đồ trùng tập: Ký hiệu A.3104/d, dày 38 tr, sách khắc in. Nội dung là các tập tranh thường treo ở chùa: cờ phướn lọng, xe rồng, kiệu hạc, sư tử, kỳ lân v.v... Mỗi tranh có câu dẫn viết bằng lối chân. Phụ bản có bản bùa giữ nhà ở chùa Hương Tích. Sách cũng không đề niên đại và tác giả. Riêng bức tranh thứ 5, mặt sau, có dòng chữ: “Tuế thứ Mậu Dần niên mạnh thu nguyệt cát nhật đệ tử phụng tuyển”.

7. Trần Triều lăng tẩm đồ mạn ký: VHv.1755, dày 8tr. Chữ viết tay bằng lối chân. Bài ký này là của Nguyễn Tư Giản mô tả công trình kiến trúc các lăng tẩm, được giao lại năm Minh Mệnh thứ 21 (1840). Phụ bản có bài thơ của Phạm Sư Mạnh chữ đẹp.

8. Trần Triều Thánh Tổ các xứ địa đồ: Ký hiệu A.3108, khổ 18x27cm, 30tr, do Lương Quang Bảo sao chép năm Bảo Đại thứ 17 (1942). Nội dung: những bức vẽ cảnh chùa, lăng, bia, điện An Bình, núi Ngọc Thành. Chữ đề dẫn theo lối chân, cũng đẹp.

9. Thức danh đồ thuyết: Ký hiệu A.850, khổ 15x24cm, 117tr. Bìa màu vàng, in rồng bằng nhũ vàng thẩm. Do Lê Thúc Hoạch biên tập năm Thành Thái thứ 14 (1902). Có nhiều hình bản, chữ viết, giới thiệu tên các loài động vật, thực vật. Ví dụ bên cạnh chữ “Lộ” có vẽ con cò, bên cạnh chữ “Tước” có vẽ con chim sẻ v.v...

10. Đạm Trai thi khóa: Ký hiệu A.2263, khổ 13x24cm, dày 264tr. Tự Đức năm thứ 3 (1850), Canh Tuất, tháng 2 ngày Đinh Mão. Chữ viết tay đẹp, bài dẫn có nói về phương pháp viết chữ.

11. Cao Chu Thần di cảo: Ký hiệu VHv.1434/1-2 và A.2762. Sách dày 761 tr, gồm 2 phần thơ và văn. Nội dung sách ít liên quan đến thư pháp nhưng chúng tôi muốn ghi vào đây để qua đó mà tìm tới các di cảo khác của cụ Cao Bá Quát, người nổi tiếng viết chữ đẹp. (Theo chúng tôi được biết, cách đây trên 10 năm, Phòng lưu trữ Bộ Văn hóa còn giữ được bản viết - bút tích - về lối chân, thảo của cụ Cao).

Những sách có liên quan đến nghệ thuật thư pháp còn nhiều, chúng tôi tạm dừng tại đây và xin có vài nhận xét về loại sách vừa mới kể trên:

a. Những sách này xứng đáng được xếp vào lĩnh vực nghệ thuật. Dùng các kiểu chữ để làm vật trang trí, cho dù người không biết chữ nhìn vào cũng có những gợi cảm thẩm mỹ nhất định.

b. Đây là lĩnh vực nghệ thuật thư pháp ứng dụng, phần nhiều để trang trí nơi cung đình, hoặc nơi đình chùa, lăng tẩm. Song không phải chỉ dành riêng cho thú thưởng ngoạn của giới quý tộc, mà đôi khi cũng có tính dân tộc và đại chúng. Xin lấy tác phẩm của Minh Mệnh - một ông vua - làm ví dụ: Cuốn Ngự chế minh văn cổ khí đồ. Các bài Minh viết lối chân rất trang trọng, dễ đọc. Nội dung khuyên răn việc đời, các đồ dùng hàng ngày của người bình dân như chén, bầu, vò, thủ trâu, chim muông bằng sứ đất nung, được cách điệu hóa, không cầu kỳ tỉ mỉ như lối trình bày của Trung Quốc, mà cũng không phải bay bổng như lối trình bày của Nhật Bản.

Để kết thúc bài viết này chúng tôi muốn nêu một vài suy nghĩ bước đầu về ý nghĩa các sách vở thư pháp Hán Nôm đối với một số lĩnh vực khoa học và nghệ thuật.

A. Đối với lãnh vực nghiên cứu văn bản Hán Nôm:

Loại sách vở và tài liệu về thư pháp Hán Nôm có thể mách bảo chúng ta nhiều dữ kiện để xác minh văn bản. Chẳng hạn trong những bia ký ở cuối thế kỷ XVIII có rất nhiều loại chữ giản nét, gần giống với lối chữ mà hiện nay người Trung Quốc hiện nay đang sử dụng, nhưng các bia thời Nguyễn lại trở về lối phồn thể. Hoặc thông qua dạng chữ chúng ta có thể sơ bộ đoán định được đó là chữ đời Lê hay chữ đời Trần. Hoặc ở thời này thích lối chữ chân, thời kia thích lối chữ thảo. Địa phương này xuất hiện nhiều lối triện, lệ; Địa phương kia xuất hiện toàn lối thảo, chân. Hoặc có người thích viết giản tự, người khác thích lối phồn thể, đặc biệt có cụ cứ thích mô phỏng các lối chữ của cổ nhân để lại. Nếu đi sâu nghiên cứu và nắm được vững chắc những hiện tượng đó chúng ta có thể tin rằng: thư pháp là một phương tiện quan trọng cho việc giám định văn bản, giám định thời đại, địa phương và cá biệt, thậm chí từng tác giả lớn.

B. Đối với lĩnh vực mỹ thuật:

Trong các ngành như mỹ thuật đồ họa, thêu, khảm, khắc, chạm, gốm, sứ v.v... đều có thể ứng dụng được thư pháp Hán Nôm. Ví dụ ngày xưa đã dùng chữ phúc, thọ để trổ hoa tai bằng vàng. Các bức thêu, khảm đã sử dụng các nét chữ Hán Nôm để trang trí rất đẹp mắt. Ngày nay cũng dùng các chữ cái tương tự trang trí trên khuy, thắt lưng, giày, mũ, quần áo v.v... đang rất thịnh hành. Trong ngành đúc chữ in hiện đại của Việt Nam thực tế đã sử dụng những nét chữ Hán Nôm cổ - hất, móc, phẩy - để thiết kế ra nhiều kiểu chữ mới mang tên “Rô Nôm” (tức kết hợp kiểu chữ Rô manh hiện ta đang dùng trên trang in, tạp chí này với chữ Nôm cổ) rất đẹp mắt(1). Trong kiến trúc, ngày xưa các nhà kiến trúc cổ cũng đã dùng dạng chữ Hán Nôm để thiết kế ra nhà kiểu chữ Môn, nhà kiểu chữ Đinh v.v...

Tóm lại mảng sách vở tài liệu về thư pháp Hán Nôm hiện có trong kho sách Hán Nôm, không những không lỗi thời mà còn nhiều tiềm năng để khai thác, sử dụng.

CHÚ THÍCH

(1) Xem bìa sách mang tên “ả sim”, Nxb. Văn hóa, 1957. Một kiểu chữ vừa mang phong cách nét bút nho, vừa giữ cốt cách khắc gỗ; hoặc bìa sách mang tên “Thủy hử” Nxb. Văn hóa, H. 1958, dòng chữ vừa mang phong cách nét bút nho “hất phẩy, móc vừa có cốt cách của kiểu chữ Gôtích hiện đại” (Xem Nguyễn Việt Chấn, tìm hiểu dáng chữ in gốc Latinh, tập 2, Nxb. Hà Nội, 1974)

TB

HOA NGA ĐẠI TỪ ĐIỂN, MỘT THÀNH TỰU MỚI CỦA NỀN HÁN NGỮ HỌC XÔ VIẾT

PHAN VĂN CÁC

Trong các năm 1983-1984, Nhà xuất bản Khoa học Mát-xcơ-va đã hoàn thành việc xuất bản bộ Hoa Nga đại từ điển (Bol-shoj Kitajsko-russkij slovar, dưới đây viết tắt HNĐTĐ).

Đó là công trình tập thể của 33 nhà Hán ngữ học Xô-viết dưới sự lãnh đạo của giáo sư I.M O-sa-nin, nhà Hán học lão thành nổi tiếng, chủ biên công trình.

HNĐTĐ gồm 4 tập lớn, cộng ngót 4000 trang khổ to (20x25cm) mỗi trang chia làm ba cột, thu thập gần 16.000 chữ Hán (chính văn gồm 15.505 chữ và phần bổ sung 176 chữ) với hơn 250.000 từ phái sinh và từ tổ. Bảng từ, như Lời nói đầu cho biết, hình thành trên cơ sở bảng từ các từ điển Trung Quốc là Quốc ngữ từ điển, Hiện đại Hán ngữ từ điển, Từ Hải, một số công trình từ vựng học khác đã công bố ở Trung Quốc và trên thế giới cho đến năm 1979, cùng những tư liệu của bản thảo Hán Nga từ điển chưa xuất bản, được xây dựng trong những năm 1938 - 1950 bởi một tập thể các nhà Hán ngữ học Xô-viết dưới sự lãnh đạo của viện sĩ V.M Alếc-xê-ép và những hộp phiếu cá nhân thực hiện bởi các tác giả - soạn giả HNĐTĐ cùng các cộng tác viên khác của Viện Đông phương học.

Công dụng chính của nó, như các soạn giả tuyên bố, là phục vụ cho công tác thực hành với các văn bản Hán văn cũng như cho các công trình nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực lịch sử, văn học và ngôn ngữ Trung Quốc.

Có thể khẳng định ngay rằng đây là một thành tựu mới của giới Hán ngữ học Xô-viết, không chỉ vì quy mô đồ sộ của công trình mà còn vì trình độ khoa học và kỹ thuật từ điển đạt được trong phương pháp nghiên cứu và thể lệ biên soạn.

Số liệu thống kê các đơn vị đã được thu nhập của HNĐTĐ so sánh với một số từ điển tiếng Hán thường dùng dưới đây cho thấy ưu điểm lớn đầu tiên của công trình. Với chữ Yi (nhất) chẳng hạn, HNĐTĐ đã thu thập 1075 từ ghép và từ tổ so với 220 của Hiện đại Hán ngữ từ điển và 298 của Từ hải (cũ).

Có thể dễ dàng nhận thấy đặc điểm lớn cũng là ưu điểm thứ hai của bộ sách này là sự phù hợp với đối tượng: từ điển đối chiếu hai ngôn ngữ Hán - Nga phục vụ cho người nói tiếng Nga đọc văn bản Hán văn. Cách sắp xếp triệt để tuân theo nguyên hình chữ, căn cứ vào nét chữ ở góc dưới bên phải trong hình chữ khối vuông đã thành truyền thống trong giới Hán ngữ học Xô-viết, có lẽ là cách sắp xếp thích hợp nhất cho những từ điển đối chiếu lấy tiếng Hán làm ngôn ngữ thứ nhất (Với người Trung Quốc, cách sắp xếp theo âm và nhất là phương án phiên âm latin có thể có lợi vì người dùng có thể từ âm đọc đi tìm chữ và nghĩa).

Mỗi mục từ đều được tách nghĩa khá tỉ mỉ. Do đối chiếu với tiếng Nga, có những từ được tách còn tỉ mỉ và tinh tế hơn cả trong Hiện đại Hán ngữ từ điển. Có thể lấy thí dụ chữ bă (bả) ở tập IV trang 353 - 354. Mỗi nghĩa có kèm theo những chú dẫn ngữ pháp cần thiết. Đó có thể xem là ưu điểm thứ ba.

Không thể không nhắc đến ưu điểm quan trọng nữa về mặt kỹ thuật là trình bày đẹp, rõ và sáng, khá tiện lợi cho tra cứu: mỗi mục chữ đều có đánh số thứ tự, in đậm trong khung khác màu, kèm theo các cách ghi âm thông dụng.

Đương nhiên, bộ sách chưa phải là hoàn hảo. Dưới đây xin nêu một đôi điều mà chúng tôi cho là chưa thỏa đáng, mong trao đổi với các tác giả.

Về bảng từ có trường hợp chưa thật khoa học. Chẳng hạn như từ 佳 兵 (tập II, trang 108). Thật ra jiabing (giai binh) vừa không có tư cách moóc-phem hay từ mà cũng vừa không phải từ tổ đích thực. Nó vốn có xuất xứ trong sách Lão tử, chương 31, ở câu “Phù giai binh giả, bất tường chi khí”. Theo sự khảo chứng của Vương Niệm Tôn (đời Thanh), ghi trong Độc thư tạp chí quyển 16 - Dư biên, thì chữ giai đó chính là chữ duy nay viết 唯 hư từ mở đầu câu, cũng có công năng ngữ pháp như chữ phù 夫. Hơn nữa, trong ngữ cảnh này, duy còn là chữ chép thừa. Người ta đã khảo chứng trên một bản Lão Tử bằng lụa phát hiện về sau, và nhận thấy vốn không có chữ giai hay duy, câu văn trên đúng ra là Phù binh giả, bất tường chi khí (Binh khí là vật chẳng lành). Bởi thế, các cách dịch nghĩa của HNĐTĐ:

1. Khoroshee orujie

2. Liubit pribegat k orujiu, okhotno voevat, đều không khỏi mắc phải sai lầm của những từ điển Trung Hoa trước kia là bám theo mặt chữ một cách máy móc (Từ hải bản mới đã có sự phân tích tỉ mỉ, xử lý thỏa đáng, dựa trên kết quả khảo chứng của Vương Niệm Tôn, đáng được tham khảo).

Với HNĐTĐ, theo chúng tôi, cách xử lí thích hợp có thể loại bỏ mục này trong bảng từ, hoặc giả có thể thu vào nhưng chỉ để dẫn giải sự khảo chứng trên đây mà kết luận hợp logic là phủ nhận kết hợp giai binh đã nêu ra.

Ngoài ra, cá biệt một số trường hợp mắc lỗi về kĩ thuật như sai dấu thanh điệu, chẳng hạn trong bàn tú bán yàn (tập II, trang 863) đúng ra là bàn tú bàn yàn, hoặc in nhầm con số, thí dụ mục 2316 trỏ tìm 2113, đúng ra là 2313...

Một vài thiếu sót nhỏ trên đây thật ra cũng khó lòng tránh khỏi trong quá trình thực hiện một công trình đồ sộ như vậy.

Các nhà Hán ngữ học Việt Nam nồng nhiệt chào đón và chúc mừng thành tựu mới này của các đồng nghiệp Xô-viết./.

TB

NGUYÊN EVELYNE - DIVINATION ET MAGIE DANS UN ROMAN CHINOIS LE FENG-SHEN YANYI (Bói toán và ma thuật trong một tiểu thuyết Trung Quốc: Phong thần diễn nghĩa) Trường Đại học Bordeaux III - Ban Văn tự và Văn hóa Trung Quốc - Công trình nghiên cứu và sưu tầm năm 1985 - 1986, 173 trang,
khổ 21x29 cm.

TẢO TRANG

Sách trên (trong bài này viết tắt là BTMT) do một nữ tác giả người Việt sống ở Pháp viết. Đây là luận án thi lấy bằng “Maitrise”, học vị giữa Cử nhân và Tiến sĩ, tương đương với phó Tiến sĩ của ta.

Ở “Lời nói đầu”, tác giả có nói về lý do chọn đề tài: Bói toán và ma thuật trình bày trong Phong thần diễn nghĩa (trong bài này viết tắt là PTDN) gắn liền với chính sách cai trị của xã hội phong kiến Trung Quốc xưa, và mặt khác cho phép hiểu thêm Kinh Dịch vì PTDN nói nhiều tới Văn Vương, người đã diễn tám quẻ (bát quái) của Thục Di thành 64 quẻ trong Kinh Dịch (tr.4 - 5).

Sách chia làm 5 chương, ngoài phần “Lời nói đầu” và “Kết luận”.

Chương 1: Cuốn sách đặt PTDN vào lịch sử văn học Trung Quốc. Để xác định thời điểm viết, tác giả đã dựa vào chi tiết trong truyện có nhiều đoạn nói về tiền giấy “bảo sao”, và sự kiện lịch sử về tiền giấy được sử dụng nhiều dưới triều Minh để khẳng định PNDT là một tác phẩm thời Minh (tr.13). Về tác giả PTDN, sách BTMT dành nhiều trang để trình bày về hai nhân vật: Hứa Trọng Lâm, ức đoán sống cuối đời Nguyên đầu đời Minh, được ghi ở nhiều bản in PTDN, và Lục Tây Tinh (1520 - 1601) có đời sống rõ nét hơn, từng chú giải kinh Nam Hoa của Trang Tử “sau hơn 10 năm sưu tầm chứng cứ, người ta tin chắc rằng Lục Tây Tinh là tác giả (tr.16). Nhưng cuối cùng Nguyên Evelyne vẫn để có 2 khả năng, không dứt khoát nghiêng về thuyết nào (tr.18). Chúng ta đã biết từ điển Trung Quốc như Từ hải, Trung văn đại từ diễn dưới mục “Phong thần truyện” (tức PTD) đều có ghi tác phẩm của thời Minh và tên tác giả Hứa Trọng Lâm. Cái mới của BTMT là đưa thêm tên Lục Tây Tinh, dựa vào phát hiện gần đây của giới nghiên cứu Trung Quốc Trung Quốc danh nhân đại từ điển Trung văn đại từ điển không có mục “Hứa Trọng Lâm”, có mục “Lục Tây Tinh”, với tác phẩm Nam Hoa kinh phó mặc, nhưng ghi “Phương Hồ ngoại sử” là tên hiệu, không phải là tên tác phẩm như BTMT khẳng định (tr.17).

Chương 2: Sơ lược về bói toán và ma thuật thời cổ Trung Quốc. Dựa vào Phương thuật liệt truyện trong Hậu Hán thư, tác giả đã ghi rất vắn tắt 8 phép bói (chiêm), và 8 loại ma thuật (tr.19-21); sau đó nói rõ thêm về phép bói mai rùa (bốc), phép bói cỏ thi (phệ) và phép bói Dịch (tr.21-23), và sự hình thành Kinh Dịch.

Chương này chỉ trình bày sơ lược. Nhưng có lẽ dù chỉ là sơ lược; cũng không nên bỏ qua một số chi tiết cần thiết cho việc nhận hiểu. Thí dụ nói về phép bói thứ 3: “lục nhật thất phân”, BTMT chỉ ghi: “Sáu ngày bảy phân” phép bói dựa vào kinh Dịch: quan sát gió mưa, lạnh nóng liên can đến những quẻ trong kinh Dịch để xác định xấu tốt”. Vì có tên gọi “6 ngày 7 phân”, nên có lẽ cần giải thích thêm: “đây là cách tính chia thời gian một năm cho 64 quẻ kinh Dịch. “6 ngày 7 phân (phân = 180 của ngày) là thương số kết quả việc chia 1 năm, tức 365 thêm 1/4 ngày cho 64 quẻ “6 ngày 7 phân” tượng trưng cho mối liên hệ giữa thời gian một năm với 64 quẻ, do đó dùng để chỉ cách bói toán dựa vào tương quan giữa hệ thống can chi của năm tháng ngày giờ với 64 quẻ kinh Dịch. (X. cách tính về ý nghĩa trong mục “lục nhật thất phân” ở các từ điển Từ hải Trung văn đại từ điển).

Ngoài ra, bên cạnh 8 cách bói kể trong sách, chính truyện PTDN đã nêu một cách bói khác: tự tay người xem bói bốc một “thẻ bói” (quái thiếp) đưa cho người đoán (X. hồi 20 PTDN, cách Khương Tử Nha xem bói cho Lưu Cần, BTMT tr.115 chụp hình tr.149 của sách PTDN chữ Trung Quốc).

Chương 3: Tóm tắt truyện PTDN. Vua Trụ - vua cuối cùng của nhà Thương - đến thăm đền Nữ Oa đề thơ xúc phạm nữ thần khiến thần phái 3 nữ yêu xuống trần trừng phạt. Trong số này có nữ hồ tinh chín đuôi hóa thành Đát Kỷ, khéo dùng sắc đẹp và tài nghệ lọt vào cung làm mê hoặc vua Trụ, mở đầu một triều đại tham tàn bạo ngược, khiến mọi người oán giận, dẫn tới việc một chư hầu là Vũ vương nổi dậy chống lại. Hai phần ba truyện PTDN miêu tả những trận chiến đấu giữa quân của vua Trụ (nhà Thương) với quân vua Vũ (nhà Chu). Mới đầu là quân vua Trụ “hỏi tội” Vũ vương (hồi 35 - 66), sau là giai đoạn Vũ vương phản công (hồi 57 - 100). Cả hai bên đều có những thần linh giúp sức, có những nhân vật lịch sử như Khương Tử Nha (tức Lã Vọng) được tiểu thuyết hóa bên cạnh những nhân vật huyền thoại như Lý Tịnh, Na Tra... và cả một hệ thống những thần tiên đạo sĩ yêu ma. Cuối cùng Vũ vương đã thắng, kéo quân đến kinh đô, Trụ vương tự thiêu chết, Đát Kỷ bị thần Nữ Oa bắt và Khương Tử Nha sai đem chém. Vũ vương lên ngôi, nhà Chu thay nhà Thương, Khương Tử Nha “phong thần” ở Kỳ Sơn (BTMT, tr.26 - 33).

Chương 4: Lược dịch và tóm tắt một số đoạn liên can đến bói toán và ma thuật trong PTDN. Tuần tự từng hồi, từ hồi 6 đến hồi 81, sách đã được dịch và tóm tắt đại ý những đoạn nói về bói toán và ma thuật trong PTDN, mỗi đoạn có ghi rõ hồi thứ mấy và trang bao nhiêu để có thể kiểm tra dễ dàng qua nguyên bản Trung văn được sao chụp in ở khoảng cuối sách. Người đọc làm quen với nhiều chi tiết bất ngờ trong PTDN, không những về bói toán và ma thuật mà cả nhiều địa hạt khác, như kiểu hành hình man rợ “bào lọc” của vua Trụ nghe theo sự bày đặt của Đát Kỷ: bắt người trói vào một cột đồng lớn rỗng ruột rồi đốt bên trong cho cột cháy đỏ nướng sống người can phạm (tr.34). Hoặc chuyện vua Trụ giết Bá ấp Khảo con trai Văn Vương đang bị giam ở Dữu Lý, Văn Vương gieo quẻ biết chuyện nhưng vẫn phải coi như không hay mà ăn, để tránh sự bị giết hại vì tội trái mệnh vua, và cũng để tỏ rằng mình không phải là bậc thánh nên không đáng e sợ, nhằm tránh sự ghen ghét hãm hại của bọn quyền thần. Nói chung việc trích đoạn, lược dịch và tóm tắt đại ý làm khá tốt, sát với chủ đề (BTMT tr.34 - 51).

Chương 5: Bình luận. Dựa vào những đoạn trích dẫn tóm tắt và lược dịch ở trên, tác giả đưa ra một số nhận xét:

- Về tính cách của truyện PTDN: chủ yếu là tiểu thuyết tưởng tượng, quái đản và đầy yêu thuật, xây dựng theo một khung sườn sự thực lịch sử: cuộc chinh phạt của Vũ Vương đối với vua Trụ. Truyện phản ánh sự xung đột giữa hai phái trong nội bộ những thần linh Đạo giáo, phái Xiển giáo giúp Khương Tử Nha, phò Vũ vương, và phái Tiệt giáo giúp Văn Thái sư và Thân Công Báo, phò vua Trụ. Cuối cùng phe Xiển giáo đã thắng vì hợp với “mệnh trời” đã chuyển từ nhà Thương với chính sách tàn bạo của vua Trụ, sang Vũ vương nhà Chu.

- Về ý nghĩa những con số, nền tảng của bói toán và pháp thuật và được coi như biểu hiện lý uyên thâm của vũ trụ: số “không”, lẽ hư vô của đạo Lão, có trước sự hình thành mọi vật, nguyên lý đầu tiên không thể biểu hiện bằng lời nói thông thường; số 2 làm cơ sở cho sự phân chia và tạo thành muôn vật (âm dương); số 3 “cho phép sự sáng tạo”, thí dụ số 2 là Đất và Trời, thêm Người thành “tam tài”; số 4 “điều kiện hình thành cuộc sống”, Tây và Đông đều công nhận 4 thể đầu tiên là trời, đất, nước, lửa; số 5 “sự xuất hiện của cuộc sống” với “ngũ hành” - “5 từ vận hành chủ yếu cho phép trời và đất ảnh hưởng tới con người”. (tr.61).

- Về nội dung PTDN ghi lại cuộc chiến đấu giữa quân nhà Thương và quân nhà Chu đồng thời cũng là cuộc chiến đấu giữa 2 lực lượng: một bên là Phật giáo và Xiển giáo (giúp nhà Chu), một bên là Tiệt giáo - cùng với Xiển giáo là một trong 2 phái của Đạo giáo - (giúp nhà Thương).

- Về so sánh truyện PTDN và truyện Tây du ký, có nhiều nhân vật xuất hiện ở cả hai tác phẩm như Lý Tĩnh, Na Tra, Dương Tiễn, Tây Vương mẫu v.v... (tr.51 - 67).

- Về cách tả nhân vật PTDN đã có những chi tiết “phong phú” đúng ra là quái đản, như nói về diện mạo (Na Tra 3 mặt 8 tay, Dương Nhâm có 2 mắt ở 2 bàn tay mọc ở hõm mắt ra...), về vật cưỡi (Nữ Oa cưỡi chim, Văn Thù cưỡi sư tử, Văn Thái sư cưỡi lân đen...), về dụng cụ pháp bảo (Thái cực đồ của Lão Tử, vòng càn khôn của Na Tra, gương chiếu yêu của Vân Trung Tử v.v...).

- Về cách bói toán, BTMT phân biệt 3 cách trong PTDN: của các tiên dùng lối tính trên ngón tay; của Khương Tử Nha dùng đủ mọi loại như thiên văn, địa lý, ma thuật, tướng số, bói Dịch...; của Văn Vương dùng đồng tiền gieo quẻ, dựa vào Kinh Dịch (tác giả dành 3 trang nói về Kinh Dịch, về Lạc thư và Hà đồ kèm bản vẽ).

- Về nội dung PTDN, ngoài những chiến trận mang nhiều tính cách yêu ma kỳ quái, còn chứa đựng rất nhiều bài học về “luân lý đạo đức” (tr.75), không những phổ biến dưới dạng tiểu thuyết những kiến thức về lịch sử thời thượng cổ, đời Hạ Thượng Chu, mà còn nhắc nhở nhiều điểm mấu chốt của nền luân lý cổ truyền: đạo vua tôi (tôi trung với vua, vua phải “thay trời trị dân”, nếu vua hại bỏ dân thì bề tôi có thể tìm người xứng đáng hơn, được mệnh trời, trừ loạn cứu dân), đạo bè bạn, vợ chồng, đức khiêm nhường v.v..., (tr.51 - 78).

Cuối cùng là phần “Kết luận”, tác giả BTMT đưa ra 2 ý chính:

1. Truyện PTDN thể hiện quan điểm truyền thống của tư tưởng Trung Hoa thời cổ: “Trời, Đất, Người (tức “tam tài”: thiên, địa, nhân) gắn bó mật thiết với nhau; nguyên tắc căn bản của nền cai trị là biết tuân theo mệnh trời, thuận theo sự vận hành của vũ trụ để đảm bảo hạnh phúc cho dân.

2. Để biết ý trời, cần theo phép bói toán. Khổng Tử “từng tin chắc việc “bốc phệ” “biểu lộ được ý trời cho người”. Với thời gian, bói toán và ma thuật đã phát triển. Hiện tại cả Đông và Tây chắc chắn mọi người đều nghe nói tới “như hàng ngày, người ta đọc những quảng cáo trên báo”. Và tác giả đã nhận thấy chính là lý do của việc lựa chọn đề tài “bói toán và ma thuật” ở thời đại tiến bộ khoa học “đưa những phi công vũ trụ lên mặt trăng và lại dẫn trở về an toàn” (tr.79-82).

Tiếp theo là Danh mục những tên chủ yếu Trung văn xếp theo ABC. Đây là bảng tra tên đất, tên người, thêm một số từ triết học tôn giáo (như hồn, phách, Xiển giáo, Tiệt giáo), xếp theo âm Trung văn la-tinh hóa, kèm theo chữ Hán. Mỗi từ đều được giải thích ngắn gọn đủ ý, đôi khi khá cặn kẽ như dưới mục Daji (Đát Kỷ), Biyou gong (Bích Du cung) (tr.83-98).

Sách dành một phần quan trọng (tr.99-166) trích in nguyên bản Trung văn những phần đã được dịch và tóm tắt ở trên, cho phép người đọc có khả năng tiếp xúc với truyện PTDN sâu hơn.

Ngoài ra sách còn in nhiều tranh khá hấp dẫn về những nhân vật hoặc những sự kiện trong PTDN lấy ở những bản in cũ (truyện “diễn nghĩa” Trung Quốc thường kèm bản vẽ về các nhân vật hoặc sự tích từng hồi) và cả những sách “tranh liên hoàn” về truyện Phong Thần xuất hiện gần đây.

Cuối cùng là phần thư mục: những sách tham khảo Trung văn và tiếng Pháp tiếng Anh, cùng những sách Trung Quốc cung cấp những bức vẽ in trong sách.

Tác phẩm BTMT có một số ưu điểm đáng chú ý:

1. Tác giả đã chọn đề tài “bói toán và ma thuật”, những hoạt động thịnh hành trong xã hội tư bản, mà như chính trong sách đã viết “bị lạc lõng trong một thế giới mông mênh quá tầm cỡ của mình, con người tìm cách tăng gấp bội những điểm tựa để có chỗ bấu víu. Và bói toán, ma thuật tưởng chừng có khả năng cung cấp cho họ những hiểu biết vững chắc về vận mệnh mình, những hiểu biết họ không ngừng tìm kiếm mà vẫn chưa thấy... Cuối cùng khá đông những người đủ mọi cỡ loại đáng chú ý tới những vấn đề này ngày càng nhiều” (tr.81).

Phương pháp phân tích, đánh giá tác phẩm PTDN nói chung thỏa đáng, nêu được thời điểm viết, tác giả và nội dung chủ yếu. Đặc biệt về tác giả PTDN, Nguyên Evelene đã dựa vào thành quả mới nhất của giới nghiên cứu Trung Quốc đưa ra tên tác giả Lu Xi Xing (Lục Tây Tinh), khác với tên tác giả cổ truyền là Xu Zhon Lin (Hứa Trọng Lâm), hầu như đã được công nhận rộng rãi vì đã được ghi trong các từ điển Trung Quốc thông dụng (Từ nguyên, Từ hải, Trung văn đại từ điển) là tác giả PTDN.

2. Phân tích bói toán và ma thuật, tác giả đã chú ý đặt nó vào bối cảnh hệ thống tư tưởng Trung Hoa cổ đại, với quan niệm chủ chốt: vũ trụ với con người gắn bó chặt chẽ với nhau, có tác động qua lại. Vua được mệnh trời để cai trị dân, nhưng nếu mất đức sẽ mất mệnh trời. Giá trị giáo dục của PTDN cũng được đề cập tới, không chỉ đơn thuần có tác dụng giải trí, mà còn nhắc nhở một số kiến thức lịch sử, những bài học về đạo vua tôi, chồng vợ, bạn bè và đức tính khiêm nhường.

3. Tác giả thận trọng cho in lại nguyên văn những đoạn trong PTDN để được dịch và tóm tắt ở chương 4 trong sách. Phần này rất bổ ích đối với những ai không sẵn truyện PTDN ở tầm tay để kiểm tra những điểm lý luận được khẳng định trong sách.

4. Sách trình bày đẹp. Bên cạnh những từ Trung văn la-tinh hóa có in kèm theo chữ Hán viết tay. Những bức tranh được lựa chọn tốt, nhiều bức có giá trị nghệ thuật, nói chung thể hiện được nét đặc sắc của nền hội họa Trung Quốc, ở mảng minh họa những tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Tây du...

Bên cạnh những ưu điểm trên, có một số khía cạnh mà người đọc khó tính có thể đòi hỏi thêm:

1. Một số chữ Hán viết tay kèm theo những từ Trung văn phiên âm cần sửa lại cho chính xác. Thí dụ:

- tr.2, chữ Di trong Trình Di, tr.25, chữ Cơ trong Cơ Đán.

- tr.16, chữ Truyện trong Truyền kỳ vựng khảo. Cũng chữ này (đọc là truyện) đã viết sai nét ở tr.17 (gần cuối trang) trong Liệt quốc chí truyện, tr.19 trong Phương thuật liệt truyện.

- tr.26(c, t.1) Chữ Pàn trong “Pàn Canh” (trên bộ mãnh, phải là chữ “ban”, không phải chữ thuyền).

- tr.28 chữ Yang (dương) trong Yang Jian (Dương Tiễn): sửa dương (bên bộ “mộc” là chữ “dương”, thay chữ “dị”). Do sai nét tương tự, cần sửa chữ Yang trong Ziyang (Tử dương) ở tr.92 (mục Qingxu dao de Zhenren) trong Yangdi (ct.1 tr.16) chữ Yang tr.55 với thích nghĩa “hình tượng mặt trời trên đường chân trời, tạo thành một chuyển động không đều như những lá cờ nhỏ lay động trước gió”. Chữ viết đã thiếu nét ngang biểu hiện đường chân trời dưới chữ nhật là mặt trời.

- tr.28 và tr.97, chữ Zheng trong Zheng Lun (Trịnh Luân).

- tr.29 và 91: Lu trong Lu Yue (Lữ Nhạc).

-tr.87 Huàng trong Hoàng di (Hoàng đế) (“Hoàng Đế” trong “tam hoàng ngũ đế” viết với chữ “hoàng” là “vàng”, không phải với chữ “hoàng” là “lớn”).

- tr.21 (dòng 1) chữ shi trong Shuyi.

2. Cách dịch Trung văn có mấy chỗ cần bàn lại để đảm bảo sát nghĩa hơn:

- tr.14, ở đầu quyển 2, sách Tân khắc Chung Bá Kính tiên sinh phê bình PTDN có lời đề tặng (dédicace) sau đây: “Tặng người biên tập về hưu Hứa Trọng Lâm ở Chung Sơn” câu này kèm dòng chữ Hán viết tay: “Chung Sơn dật tẩu Hứa Trọng Lâm biên tập”.

Câu chữ Hán vốn có nghĩa: “Hứa Trọng Lâm, ông già ẩn dật ở Trung Sơn biên tập”. Đây là câu ghi tên người biên tập sách, không phải lời “đề tặng”.

- tr.39 dịch câu đối Khương Tử Nha treo ở gian nhà ông vừa đặt bàn ngồi bói toán “ống tay áo bọc trời và đất” và “Vò chứa đựng mặt trời mặt trăng”. Nguyên văn câu đối ở hồi 16 PTDN, được in lại ở tr.115: “Tụ lý càn khôn đại; Hồ trung nhật nguyệt trường” (“Nơi ống tay, đất trời rộng lớn; trong vò ngày tháng dài lâu”) câu chính đã bỏ sót không dịch chữ “đại” và chữ “trường”. ở vế 2 “nhật nguyệt” có thể hiểu là “mặt trời mặt trăng” nhưng hiểu là “ngày tháng” sát hơn, và ý “rộng lớn, lâu dài” cho thấy vế trên nói về không gian, vế dưới nói về thời gian. Chính Khương Tử Nha cũng giảng vế dưới bao hàm ý “có thuật trường sinh bất tử” (hữu trường sinh tất tử chi thuật), nhấn mạnh yếu tố thời gian đối với vế trên có nghĩa “viết việc đã qua việc chưa tới, bao gồm muôn hiện tượng” (tri quá khứ vị lai, bao la vạn tượng) (X. nguyên bản hồi 16 tr.149, in lại ở tr.115 BTMT).

- tr.64 khi nói tới Tong tian jicozhu (Thông thiên giáo chủ), có ghi liền sau dấu ngoặc đơn “vị giáo chủ nhìn thấy khắp nơi” (“Ie grand maitre qui voit partout”). Những thông “có nghĩa thiếu rõ, thuận theo”. “Thông thiên” tức “hiểu rõ lẽ trời, thuận theo lẽ trời”.

- tr.83, mục Biyou gong (Bích du cung), ghi câu đối ở đồng: “Khẩn bế động môn, tình tụng “Hoàng đình” tam lương quyển: “Thôn đầu Tây thổ, “Phong thần đài” thượng hữu danh nhân” dịch ra tiếng Pháp, dịch lại như sau: “ở kín trong hang và đọc kinh “Lâu đài vàng”: tiến gần đến chỗ hoàn mỹ; Xuống thành Tây Kỳ: tên ghi trên bảng Phong thần”.

Chữ “đình” trong “Hoàng đình” có nghĩa là sân, không phải chữ “đình” với nghĩa một nhà nhỏ biệt lập. “Hoàng đình” là từ của Đạo giáo chỉ bộ phân ở giữa não, giữa tim, giữa tỳ (lá lách). “Hoàng” là “vàng” sắc của chính giữa; “đình” là sân coi như trung tâm của bốn phương. Đạo giáo coi 3 bộ phận trên là trung tâm của sự sống nên gọi là Hoàng đình. Hoàng đình kinh là tên một bộ kinh của Đạo giáo, dạy phép dưỡng sinh (X. Trung văn đài từ điển). ở vế sau, “hữu danh nhân” có nghĩa “có người được ghi tên”, vì khá nhiều người không được “vinh dự” đó. Bích du cung là nơi ở của Thông thiên giáo chủ, cầm đầu phái Tiệt giáo. Nghĩa đúng của câu đối trên: “Đóng chặt cửa hang, tĩnh lặng đọc vài ba quyển kinh Hoàng đình; Dấn thân xuống đất miền Tây, có người được ghi tên trên đài Phong thần”.

- tr.20: Sau từ “magie” tiếng Pháp ghi kèm sau 2 chữ trung văn “ma thuật”. Dịch “magie” là “ma thuật” là đúng. Nhưng khi phân tích những “hành vi” ma thuật, ở điểm 4 (tr.21): “sai khiến quỷ thần” (sử dịch quỷ thần), thì dùng từ “ma thuật” không hợp, vì “ma” không thể điều khiển được “quỷ thần”, vẫn được coi là ở cấp bậc cao hơn. ở đây nên dùng từ “pháp thuật” hơn “ma thuật”. Và PTDN nói nhiều đến “pháp thuật”, khi kể những pháp thuật diệu kỳ của “chân nhân” các “thiên tôn như Nguyên thủy thiên tôn, Hồng quân đạo nhân, Lão Tử” v.v... và của cả những nhân vật huyền thoại sau này sẽ có mặt trong hệ thống phụng thờ của đạo Phật như Phổ Hiền đạo nhân cưỡi voi, sau này thành Phật Phổ Hiền cũng cưỡi voi. Từ Hàng đạo nhân sau này sẽ thành Phật Quan Âm. Đây cũng là một điểm đặc biệt của cuốn tiểu thuyết mang nhiều sắc thái hoang đường này liên can đến một sự kiện lịch sử trước Phật Thích Ca, 6 thế kỷ, đã nói tới những nhân vật Phật giáo, như “tam muội” (hồi 17 nguyên văn in lại ở BTMT tr.118) Khương Tử Nha đã thiêu cháy yêu tinh Tỳ Bà, bằng cách dùng “tam muội chân hỏa” “từ mắt, mũi, miệng phóng ra”, đó là “tinh, khí, thần luyện thành ta muội”. Từ “tam muội” không còn là dịch âm tiếng Pháp “sanodhi” (có nghĩa là: chính định, lẽ huyền diệu) mà có nghĩa là “3 thứ diệu kỳ”! Đó cũng là một đặc điểm của ma thuật (hay pháp thuật) trong PTDN (1).

CHÚ THÍCH

(1) Người viết chân thành cảm tạ Ông Bà Lê Biêu đã cho mượn bản luận văn của Nguyên Evelyne nói trong bài này./.

TB

TRI THỨC NGỮ VĂN HỌC ĐẠI CƯƠNG

Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10-1987, vào các buổi sáng thứ bảy hàng tuần, tại trụ sở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Quang Hồng đã trình bày trước đông đảo cán bộ nghiên cứu trong Viện chuyên đề TRI THỨC NGỮ VĂN HỌC ĐẬI CƯƠNG.

Nội dung chuyên đề được thể hiện qua các phần chính như sau:

- Dẫn luận:

Ngữ văn và ngữ văn học

- Chương 1:

Ngôn từ nói miệng

- Chương 2:

Ngôn từ viết tay

- Chương 3:

Ngôn từ in ấn

- Chương 4:

Ngôn từ truyền thống

- Kết luận:

Hình thái lịch sử - xã hội và hình thái ngôn từ - văn bản

Tiếp thu và phát triển những quan điểm ngữ văn học hiện đại của các học giả Xô-viết, đặc biệt là của giáo sư - Tiến sĩ Ju. V. Rozhdestvenski (Trường Đại học Tổng hợp Mat-xcơ-va), liên hệ với thực tiễn phát triển ngữ văn ở nước ta, nhất là với di sản các ngôn từ thành văn Hán Nôm của ông cha ta để lại, giáo sư Nguyễn Quang Hồng đã cung cấp cho người nghe những tri thức cơ bản về ngữ văn và ngữ văn học, về phương thức định hình và các hình thái ngôn từ - văn bản khác nhau, về các cách tiếp cận phổ quát đối với toàn bộ các hoạt động ngữ văn và các tác phẩm ngôn từ, trong đó có các văn bản Hán Nôm của dân tộc Việt Nam trong mối liên hệ xa gần với các nền văn hiến phương Tây và phương Đông.

Các bài viết thu hoạch bước đầu của những người dự chuyên đề cho thấy qua chuyên đề người nghe thu nhận được nhiều điều mới mẻ và bổ ích cho tư duy khoa học và cho công việc cụ thể của mình trên các tư liệu ngữ văn Việt Nam nói chung, và các tư liệu thành văn Hán Nôm nói riêng.

P.V