TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU CÁC KHO SÁCH HÁN NÔM VÀ LỊCH SỬ THƯ MỤC HỌC HÁN NÔM

TRẦN NGHĨA

CÁC KHO SÁCH HÁN NÔM

Để góp phần xây dựng nền văn hóa chính thức và thành văn, cha ông ta đã trải 2000 năm sử dụng chữ Hán (trong đó có khoảng 1000 năm chữ Hán được sử dụng dưới thời độc lập tự chủ) và hơn 1000 năm sử dụng chữ Nôm(1).

Cùng với việc dùng chữ Hán và chữ Nôm các kho sách Hán Nôm lần lượt được thành lập. Hiện chưa biết được gì về tình hình thư viện ở Việt Nam trong khoảng 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng từ thế kỷ XI trở về sau, các kho thư tịch Hán Nôm, công cũng như tư xuất hiện mỗi lúc một nhiều, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về học tập, tra cứu, phát triển văn hóa, lưu trữ thông tin… Có thể chia các kho sách Hán Nôm hiện biết thành 3 loại lớn:

I. CÁC KHO SÁCH HÁN NÔM TẠI VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ

Tương đối nổi tiếng có:

1. Nhà bát giác chứa kinh: thành lập năm Tân Dậu (1021) triều Lý Thái Tổ (Đại Việt sử ký toàn thư(2), Bản kỷ toàn thư, Q.2). Chưa rõ số lượng sách tàng trữ.

2. Kho Đại Hưng: năm Quý Hợi (1023). Lý Thái Tổ sai chép kinh Tam tạng (gồm Kinh tạng chép các lời Phật nói, Luật tạng chép các điều răn cấm. Luật tạng chép những thuyết minh giảng giải của các nhà sư về kinh Phật) cất vào kho Đại Hưng (ĐVSKTT, Bản kỷ toàn thư, Q.2). Chưa rõ số lượng sách tàng trữ.

3. Kho Trùng Hưng: năm Bính Tý (1036) Lý Thái Tông sai chép kinh Đại tạng (gồm những bản dịch kinh Phật ra chữ Hán và những sách bàn về đạo Phật do các nhà sư Phương Động soạn thảo) cất vào kho Trùng Hưng (ĐVSKTT, Bản kỷ toàn thư, Q.2). Chưa rõ số lượng sách tàng trữ.

4. Kho kinh Phật ở Thiên Trường (Nam Định, Hà Nam Ninh): Năm Ất Mùi (1295), sứ nhà Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang, Trần Anh Tông sai Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo nhận được bộ kinh Đại tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành (ĐVSKTT, Bản kỷ toàn thư, Q.6).

5. Điện Bảo Hòa: một thư viện lớn của nhà Trần làm trên núi Lạn Kha (tức núi Phật Tích, nay thuộc Tiên Sơn, Hà Bắc), do Trần Tôn làm Viện trưởng. Năm Quý Hợi (1383), Trần Nghệ Tông đã tới đây cùng một số bề tôi như Nguyễn Mậu Tiên, Phan Nghĩa, Vũ Hiến hầu để soạn bộ sách Bảo Hòa điện đư bút gồm 8 quyển (ĐVSKTT, Bản kỷ toàn thư, Q.8). Chưa rõ số lượng sách tàng trữ.

6. Thư viện Bồng Lai: thành lập vào đời Lê (Thượng Kinh phong vật chí, dẫn theo Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984, tr.16).

7. Thư viện Sùng Chính: thành lập năm Quang Trung IV (1791) tại làng Nam Hoa (nay là Nam Kim, Thanh Chương, Nghệ Tĩnh), do Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng. Đây vừa là nơi để sách, vừa là nơi dịch chú các sách kinh điển chữ Hán (La Sơn phu tử, Nxb Minh Tân, 1952, tr.148). Chưa rõ số lượng sách tàng trữ.

8. Thư viện Tụ Khuê: thành lập vào đời Minh Mạng (1820-1840). Theo một tổng kiểm kê vào năm Thành Thái XIV (1902), số sách lúc bấy giờ tàng trữ tại thư viện gồm 3970 bộ cùng 8531 bản sách rời; trong đó Bản quốc thư 232 bộ cùng 703 bản sách rời; Kinh 776 bộ cùng 69 bản sách rời; Sử 712 bộ cùng 173 bản sách rời; Tử 1081 bộ cùng 216 bản sách rời; Tập 1089 bộ cùng 84 bản sách rời, Tây thư 77 bộ cùng 16 bản sách rời; sách ở Đông các 7190 bản (Tu khuê thư viện tổng mục thủ sách, A.111).

9. Thư viện Sử quán: thành lập năm Thiệu Trị I (1841). Theo một tổng kiểm kê vào năm Duy Tân I (1907), số sách lúc bấy giờ tàng trữ tại thư viện là 169 bộ, gồm thực lục, ngọc điệp, thơ văn những người thuộc tông thất nhà vua, di chiếu, hòa ước, thương ước… (Sử quán thủ sách, A (1025)).

10. Thư viện gia đình Lê Nguyên Trung: có bài ký soạn năm Bính Ngọ (1846) đời Thiệu Trị cho biết sách ở thư viện tư nhân này được xếp thành 7 loại khác nhau gồm Kinh, Thư, Sử, Tử, Tập, Cử nghệ, Tạp trứ. Chưa rõ số lượng sách tàng trữ (Bi ký biểu văn tạp lục A.1470, tờ 16 và 17).

11. Thư viện Nội các: theo một tổng kiểm kê vào năm Duy Tân II (1908), số sách lúc bấy giờ tàng trữ tại thư viện gồm 271 tên sách thuộc triều Nguyễn, 344 tên sách thuộc Kinh bộ, 406 tên sách thuộc Sử bộ, 861 tên sách thuộc Tử bộ, 642 trên sách thuộc Tập bộ (Nội các thư mục, A.113/1-2).

12. Thư viện Trường Viễn dông Bác cổ Pháp tại Hà Nội (École française d’Extrême - Orient): thành lập năm 1901. Theo một báo cáo vào năm 1951, số thư tịch và tài liệu Hán Nôm lúc bấy giờ tàng trữ tại thư viện (không kể sách Trung Quốc cổ) gồm khoảng 3500 đầu sách, 25.000 bản rập văn bia; 1.800 tập điều tra thần tích, địa bạ, phong tục; 457 tập thần phả; 132 tập thần sắc… (Tạp chí Asie số 67, năm 1951).

13. Tân thư viện: thành lập vào đời Duy Tân (1907-1916). Theo một tổng kiểm kê vào năm 1912, số sách hiện có tại thư viện lúc này là 2640 bộ; trong đó có 7996 bản thuộc Kinh bộ; 15.935 bản thuộc Sử bộ; 15.297 bản thuộc Tử bộ; 5.342 bản thuộc Tập bộ; 6.801 bản xếp lộn xộn gồm sách Việt Nam, Trung Quốc, Anh, Mỹ (Tân thư viện thủ sách A. 1024).

14. Thư viện Viện Cổ học: thành lập năm 1922.Theo một tổng kiểm kê năm 1924 -1925, số sách hiện có tại thư viện lúc này là 2.818 bộ; trong đó có 262 bộ thuộc Tân thư; 306 bộ thuộc kho Kinh; 430 bộ thuộc kho Sử; 655 bộ thuộc kho Tử; 362 bộ thuộc kho Tập, 603 bộ thuộc kho Quốc thư (Cổ học viện thư tịch thủ sách, A.2601/1-10).

II. CÁC PHÔNG SÁCH HÁN NÔM Ở NƯỚC NGOÀI

Sách Hán Nôm Việt Nam, những thư tịch và tài liệu bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm chủ yếu do người Việt Nam soạn thảo từ 1945 trở về trước, vì nhiều nguyên nhân phức tạp, một bộ phận đã tản lạc ra nước ngoài, hình thành các phông Hán Nôm lớn nhỏ tồn tại bên ngoài lãnh thổ Việt Nam như:

1. Ở Nhật, có phông Hán Nôm Việt Nam đặt tại Đông Dương văn khố. Theo một bản thư mục công bố năm 1939, phông này có 104 tên sách xếp theo Kinh, Sử, Tử, Tập (Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục, in liền ngay sau bản thư mục Triều Tiên: Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, xuất bản tại Nhật Bản năm Chiêu Hòa XIV, tức 1939).

2. Ở Ý, có phông Nôm - Quốc ngữ gồm khoảng 30 tác phẩm, trong đó có một số sách Nôm do người Việt Nam soạn, đặt tại thư viện Tòa thánh Vatican (Annamitische Xaverius Literatur in trong tạp chí Mission - swissenschaftlische Studien, 1951, tr.300-314; Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu Châu in trong Việt Nam khảo cổ tạp san số 1, Sài Gòn, 1960, tr.139-149.

3. Ở Pháp, hiện có các phông Hán Nôm được biết tới như:

a. Phông Hán Nôm đặt tại Thư viện Quốc gia Paris (Bibliothèque Nationale, 58. Rue de Richelieu, 75002 Paris): gồm 75 tên sách Hán mang ký hiệu A và 131 tên sách Nôm mang ký hiệu B phần nhiều là sách do gia đình Pelliot và gia đình Madrolle cung hiến.

b. Phông Hán Nôm đặt tại thư viện Hiệp hội Châu Á (Société Asiatique, Avenue du Président - Wilson, 75116, Paris): gồm khoảng 330 tên sách, trong đó có khoảng 150 tác phẩm do gia đình Maspéro cung hiến, 80 tác phẩm do gia đình Demiéville cung hiến và 100 tác phẩm đến từ các nguồn khác.

c. Phông Hán Nôm đặt tại Văn khố của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris (Sémineire des missions étrangères, 129 Rue du Bac, 75341, Paris): số sách hiện chưa thống kê đầy đủ, trong đó có những tác phẩm đáng chú ý như bản thảo viết tay của 2 bộ từ điển Annamitico-Latinum Chinois - Annamite – Latin của Pigneau de Béhaine.

d. Phông Hán Nôm đặt tại Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (École fransçaise d’Extrême - Orient, 22.Avenue du Président - Wilson, 75116 Paris): gồm 66 tên sách Hán Nôm, trong đó có những tác phẩm đáng chú ý như các tập bản thảo chưa in của sách Đại Nam thực lục. Đó là Thực lục đệ lục kỷ phụ biên hoàn tất vào năm 1922, và Thực lục đệ nhất kỷ chính biên khởi thảo vào năm 1939, hoàn tất vào năm 1940.

e. Phông Hán Nôm đặt tại trường các sinh ngữ phương Đông (École des langues orien-tales, 4. Rue de Litle, 75007 Paris): gồm khoảng 70 tên sách Hán Nôm, trong đó Phú Nôm và thơ Nôm chiếm khối lượng lớn nhất.

g. Phông Hán Nôm đặt tại Bảo tàng Guimet (Musée Guimet, 6. Place d’léna, Paris 16e): có khoảng 40 tên sách Hán Nôm mang ký hiệu MG, không có gì đặc biệt.

h. Tại Kho lưu trữ Quốc gia, bộ phận Hải ngoại ở Aix en Provence thuộc miền Nam nước Pháp (Archives nationales, Section Outre-Mer, Dépôt d’Aix en Provence, Chemin du Testa, les Jenouil-lères 13100 Aix en Provence): bước đầu tìm thấy khoảng 300 văn bản Hán Nôm trong 12 tập hồ sơ thuộc triều Thành Thái (1889-1907) và 1 tập hồ sơ thuộc Triều Duy Tân (1907-1916).

4. Ở Anh, tại Thư viện nước Anh (British Library), Luân Đôn, hiện tàng trữ 52 bản tuồng cổ Việt Nam. Số tuồng này nguyên là một phần trong tủ sách gia đình của Antonin Landes, người Pháp, từng làm việc ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX.

5. Ở Thái Lan, tại chùa Kiểng Phước, một ngôi chùa do Việt Kiều dựng lên tại thủ đô Băng Cốc, hiện tàng trữ trên 300 văn bản Hán Nôm, trong đó có 26 văn bản Nôm liên quan tới Phật.

III. KHO SÁCH HÁN NÔM THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

Kho sách Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm ra đời ít lâu sau năm thành lập Viện 1979, là trung tâm tàng trữ thư t ịch và tài liệu Hán Nôm lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.

1. Về nguồn gốc: Kho sách Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm do nhiều nguồn cung cấp. Trước hết là sách do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội trao lại vào năm 1958, hình thành phân kho A, với các ký hiệu A, AB, AC, AD, AE, AF, AG, AH, AJ trong tổng kho của Viện. Thứ đến là sách tiếp nhận thêm trong khoảng thời gian 1958-1979 từ Thư viện Long Cương, Thư viện Hoàng Xuân Hãn, thư viện Hội Khai Tri tiến đức, thư viện văn Miếu, thư viện Khoa học Trung ương, Vụ Bảo tồn bảo tàng, Ty Văn hóa Hà Đông, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bộ Giáo dục… cộng với số sách mới sưu tầm được trong dân, hình thành phân kho V với các ký hiệu VHb, VHv, VHt, VNb, VNv, trong tổng kho của Viện.

2. Về loại hình văn bản: Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu giữ 4.808 đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu.

4.808 đầu sách, bao gồm 16.164 cuốn sách đóng rời, có thể chia thành các loại như sau:

a. Sách viết bằng chữ Hán:

Ký hiệu A: 4.063 cuốn

Ký hiệu VHb: 356 cuốn (khổ bé)

Ký hiệu VHv: 5.599 cuốn (khổ vừa)

Trong đó có 635 cuốn mới nhập kho

Ký hiệu VHt: 117 cuốn (khổ to)

Trong đó có 38 cuốn mới nhập kho.

b. Sách viết bằng chữ Nôm

Ký hiệu AB: 593 cuốn

Ký hiệu VNb: 146 (khổ bé)

Trong đó có 82 cuốn mới nhập kho

Ký hiệu VNv: 634 cuốn (khổ vừa)

Trong đó có 101 cuốn mới nhập kho.

c. Sách sao chép hoặc in lại của Trung Quốc:

Ký hiệu AC: 1.426 cuốn

Ký hiệu HVv: 215 cuốn (khổ vừa)

d. Thần sắc:

Ký hiệu AD: 404 cuốn

e. Thần tích:

Ký hiệu AE: 535 cuốn

g. Tục lệ:

Ký hiệu AF: 732 cuốn

h. Địa bạ:

Ký hiệu AG: 503 cuốn

i. Xã chí:

Ký hiệu AH: 16 cuốn

k. Cổ chí:

Ký hiệu AJ: 96 cuốn

Ngoài số trên đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm vừa sưu tầm thêm được 729 cuốn sách nữa, tính đến cuối năm 1987, trong đó có cả sách Hán và sách Nôm, đều chưa lên ký hiệu.

Về tài liệu, khoảng 30.000 đơn vị tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng có thể chia thành các loại như phim, kính, ảnh, vi phim, bản rập các bài văn khắc trên bia đá, chuông đồng, khánh đá, cột mốc, biển gỗ…

Riêng về phim có 2.286 đơn vị, trong đó có 1.047 đơn vị chụp tác phẩm Hán Nôm (ký hiệu A có 448 tác phẩm; ký hiệu AB có 251 tác phẩm; ký hiệu @ có 23 tác phẩm; ký VHb có 10 tác phẩm; ký hiệu VHv có 315 tác phẩm) và 1.239 đon vị chụp các mặt đựng của tài liệu thuộc loại quý và hiếm trong di sản Hán Nôm hiện nay.

Thác bản văn bia có khoảng 22.000 đơn vị, trong đó 20.979 đơn vị do Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp chuyển giao, số còn lại là mới rập được từ 1958 trở lại đây.

3. Về tính chất học thuật: Trong số 4.0808 đầu sách nói trên, có khoảng:

2.500 tác phẩm liên quan tới Văn học;

1.000 tác phẩm liên quan tới Sử học;

600 tác phẩm liên quan tới Tôn giáo;

450 tác phẩm liên quan tới Văn hóa giáo dục;

350 tác phẩm thuộc lĩnh vực Chính trị xã hội;

300 tác phẩm thuộc lĩnh vực Y dược, Vệ sinh;

300 tác phẩm thuộc lĩnh vực Địa lý;

250 tác phẩm thuộc lĩnh vực Pháp chế;

80 tác phẩm thuộc lĩnh vực Nghệ thuật;

70 tác phẩm thuộc lĩnh vực Kinh tế;

60 tác phẩm thuộc lĩnh vực Ngôn ngữ, Văn tự;

50 tác phẩm thuộc lĩnh vực Toán lý;

40 tác phẩm thuộc lĩnh vực Quân sự, Quốc phòng, cùng một số lượng ít hơn bàn về Kiến trúc, Nông nghiệp, Tiểu thủ công, hoặc mang tính tổng hợp (Trong các thống kê trên, một đầu sách có thể được tính ở nhiều chỗ, nếu tác phẩm ấy có liên quan tới nhiều ngành khác nhau).

Là hiện thân của văn hiến mấy nghìn năm, kho sách Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm cùng với các phong Hán Nôm ở nước ngoài trở thành nguồn tư liệu gốc mang tính tổng hợp tiềm tàng đối với việc tìm hiểu nhiều mặt quá khứ của dân tộc Việt Nam.

LỊCH SỬ THƯ MỤC HỌC HÁN NÔM

I. CÁC CÔNG TRÌNH THƯ MỤC HÁN NÔM

Nếu như việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm đã dẫn tới sự hình thành các kho sách Hán Nôm, thì đến lượt nó, các kho sách Hán Nôm lại tạo điều kiện cho những công trình thư mục Hán Nôm ra đời và phát triển.

Sau đây là bảng liệt kê các công trình thư mục Hán Nôm được biết tới cho đến nay

TT Tác giả Công trình hoặc bài viết Cơ quan công bố hoặc nơi xuất hiện Năm công bố
(1) (2) (3) (4) (5)
1 Lý Tế Xuyên - Việt điện u linh tự - Việt điện u linh 1329
2 Vũ Quỳnh - Lĩnh Nam chích quái hiệu chính tự - Lĩnh Nam chính quái liệt truyện 1492
3 Kiều Phú - Lĩnh Nam chích quái hậu tự - Lĩnh Nam chích quái liệt truyện 1493
4 Lê Quý Đôn - Nghệ văn chí - Lê Triều thông sử 1759
5 ? - Hoàng Lê tứ khố thư mục - Minh Đô sử ?
6 Phan Huy Chú - Văn tịch chí - Lịch triều hiến chương loại chí 1821
7 ? - Phật thuyết Đại tạng tổng kinh mục lục (Huế) Thời Minh Mạng
8 An Thiền - Phụng chiếu cầu pháp - Đạo giáo nguyên lưu A.2675 1845
9 An Thiền - Bản quốc thiền môn kinh bản - Đạo giáo nguyên lưu A.2675 1845
10 Lê Nguyên Trung - Lê Thị Tích thư ký - Bi ký biểu văn tạp lục A.1470 1846
11 ? - Đại tạng kinh tổng mục (Hà Nội) 1893
12 Sử quán triều Nguyễn - Sử quán thủ sách A.1025 - Sử quán triều Nguyễn 1901
13 Phạm Doãn Địch, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Huyễn - Tử Khuê thư viện tổng mục sách A.110/1-3: A.111 - Triều đình Huế 1902
14 L.Cadière và P.Pelliot - Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’Annam - BEFEO tháng 7 - tháng 9 1904
15 Trương Quang Đản, Nguyễn Thuật - Sử quán thư mục A.112 - Sử quán triều Nguyễn 1907
16 ? - Tàng thư lâu bạ tịch A.968 1907
17 Nội các Huế - Nội các thư mục A.113/1-2 - Nội các Huế 1908
18 Nguyễn Tính Ngũ Hoàng Hữu Khải, Nguyễn Khắc Nho - Tân thư viện thủ sách A.1024; A.2645 1912
19 Trần Trinh Hợp - Nội các thủ sách - Nội các Huế 1914
20 ? - Các tự kinh bản: Ngọc Sơn thiện thư lược sao mục lục A.1116 1915?
21 ? - Bắc thư: Nam thư VHv.551 1916
22 Lê Trọng Hàm (chủ biên) - Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục - Minh Đô sử 1922
23 Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Tiến Khiêm, Lê Doãn Thăng - Cổ học viện thư tịch thủ sách A.2601/1-10 - Triều đình Huế 1925
24 Phùng Thừa Quân - An Nam thư lục - Bắc kinh đồ thư quán san, Q.6 kỳ 1 (Bắc Kinh) 1932
25 Matsumoto Nobuhiro - Sách Hán Nôm ở Thư viện triều đình Huế - Shigaku XIII/4, tr.117 - 204 1934
26 E.Gaspardone - Bibliographie annamite - BEFEO, t.34, tr.1-172 1934
27 Trần Văn Giáp - Les chapitres bibliogra-phiques de Phan Huy Chú - BSEI, XIII, I (1938) tr.1-214 1938
28 Trần Duy Vôn - Nam thư mục lục 1938
29 Yamamoto Tatsuro - Sách Hán Nôm ở EFEO - Shigaku XV/4, tr.73 - 130 1938
30 ? - Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục - (Tokyo) 1939
31 Trần Văn Giáp - Hà Nội Viễn đông khảo cổ học viện hiện tàng Việt Nam Phật điển lược biên - Quốc tế Phật giáo hiệp hội (Tokyo) 1943
32 Schurhammer và Trần Văn Huy - Annamitissche Xaverius literafur - Mission - swissensch - aftliche Studion 1951
33 Hoàng Xuân Hãn - Girolamo Maiorica, sesoeuvres en langue vietnamienne conservées à la bibliothèque nationale de Paris - Archivum his-torium societatis Jesu, t.22 (Roma) 1953
34 Yamaoto Tatsuro - Quốc dân đồ thư quan sở tàng An Nam bản thư mục - Tokyo gakuho XXXVi/1, tr.87-107 1953
35 Yamaoto Tatsuro - Á Tế Á Hiệp hội sở tàng An nam bản thư mục - Tokyo Bunka Kenkyujo, số 5, tr.310-352 1954
36 Nguyễn Khắc Xuyên - Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu châu - Việt Nam khảo cổ tạp san, số 1, Sài Gòn 1960
37 Trần Văn Giáp - Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - Thư viện Quốc gia Hà Nội 1970
38 Thư viện Khoa học xã hội - Thư mục Hán Nôm (in ronéo) - Thư viện Khoa học xã hội, Hà Nội 1969 1972 1977
39 Sakurai Yumio - Tại Thái Kinh Việt Nam tự viện Kiểng Phước tự sở tàng Hán tịch chữ Nôm bản mục lục - Đông Á lịch sử và Văn hóa, số 8 (Tokyo) 1979
40 Nguyễn Tài Cẩn và N.V.Stankievích - Về một số văn bản thế kỷ 17-18 vừa phát hiện được ở một kho lưu trữ tại Pháp - Báo Tổ quốc số Tết 1983
41 Trần Nghĩa - Sách Hán Nôm tại nước ngoài - Nghiên cứu Hán Nôm số 1 1985
42 Tạ Trọng Hiệp - Les fonds de livres en Hán Nôm hors du Viet Nam: éléments d’inven-taires, Introduction - BEFEO, LXXV, Paris, tr.267-269 1986
43 Trương Đình Hòe - Fonds Hán Nôm de L’EFEO (Paris) - BEFEO, LXXV, Paris, tr.270-293 1986

II. CÁC KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THƯ MỤC HỌC HÁN NÔM

Căn cứ vào nội dung, có thể chia các công trình thư mục Hán Nôm nói trên thành 2 cụm lớn: thư mục chuyên đề và thư mục tổng hợp.

Thư mục chuyên đề chỉ các công trình hoặc bài viết nhằm kiểm kê, giới thiệu tình hình sách, tài liệu thuộc một lĩnh vực chuyên biệt nào đó, tại một nơi tàng trữ nào đó, vào một thời điểm nào đó. Ở đây gồm Việt điện u linh tự (1329), Lĩnh Nam chính quái hiệu chính tự (1492), Bản quốc thiều môn kinh bản (1845), Đại tạng kinh tổng mục (1893), v.v…

Thư mục tổng hợp chỉ các công trình hoặc bài viết nhằm kiểm kê, giới thiệu tình hình sách, tài liệu nói chung tại một nơi tàng trữ nhất định, vào một thời điểm nhất đinh. Ở đây gồm Nghệ văn chí (1759), Tụ khuê thư viện tổng mục sách (1902), Cổ học viện thư tịch thủ sách (1924-1925), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (1970), Thư mục Hán Nôm (1969-1972), v.v…

Riêng số thư mục tổng hợp, nếu dựa vào đặc điểm phân loại và miêu thuật sách, lại còn có thể chia thành 5 cụm nhỏ nữa:

1. Phân loại và miêu thuật sách theo kiểu Việt Nam, dựa vào tình hình thư tịch cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn, như Nghệ Văn chí, Văn tịch chí…

2. Phân loại và miêu thuật sách theo kiểu “Tứ khố toàn thư”, như Tụ khuê thư viện tổng mục sách, Nội các thư viện thủ sách…

3. Phân loại và miêu t huật sách theo kiểu “Tứ khố toàn thư”, nhưng có châm chước cho phù hợp với tình hình thư tịch Việt Nam, như Lê Thị tích thư ký, Cổ học viện thư tịch thủ sách…

4. Phân loại và miêu thuật sách theo kiểu kết hợp giữa cũ và mới, như Tìm hiểu kho sách Hán Nôm…

5. Phân loại và miêu thuật sách theo kiểu mới, như Thư mục Hán Nôm…

6. Sắp xếp sách theo địa vị xã hội của tác giả hoặc chỉ liệt kê tên sách đơn thuần, không phân loại, không miêu thuật, như Sử quán thư mục, Nam thư mục lục…

Dưới đây sẽ giới thiệu một số bản thư mục điển hình để có một ý niệm chung về các khuynh hướng phát triển của thư mục học Hán Nôm.

1. “Viện hiện u linh tự”, “Lĩnh Nam chích quái hiệu chính tự”, những bản thư mục chuyên đề sớm nhất của Việt Nam

Việt điện u linh là một sưu tập gồm 26 truyện của các vị thần “thông minh chính trực (…) công lao hiển hách, ngầm giúp sinh linh”, được thờ cúng tại các đền miếu Việt Nam thời Trần, do Lý Tế Xuyên giữ chức Thủ Đại tạng, Thư hỏa chính chưởng trung phẩm phụng ngự, An Tiêm lộ Chuyển vận sứ, biên soạn. Bài tựa sách có đoạn: “Trong nước Hoàng Việt ta, các vị thần được thờ cúng xưa nay rất nhiều, song số thần công lao hiển hách, ngầm giúp sinh linh có được mấy đâu? Do lại, phân loại không đồng đều. Có vị là tinh hoa của sông núi, có vị là nhân vật kiệt linh, khí thế hừng hực buổi đương thời, anh linh lan xa về mai hậu. Nếu không cứ thực mà ghi chép, thì mầu đỏ mầu tía khó phân biệt”. Lý Tế Xuyên, người viết bài tựa, đã đem các truyện sưu tập được chia thành 2 loại lớn, một là Sơn xuyên tinh túy tức tinh hoa của sông núi; và hai là Nhân vật kiệt linh tức những con người sống xuất chúng, chết linh thiêng (theo Phan Huy Chú thì tác giả bài tựa Việt điện u linh đã chia các vị thần ra làm 3 loại: Lịch đại nhân quân tức vua các đời: Lịch đại nhân thần tức bề tôi các đời; và Hạo khí anh linh tức những anh linh chính khí – Xem Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí, Truyện ký loại, Việt điện u linh tập).

Cùng thể loại với Việt điện u linh, Lĩnh Nam chính quái là một sưu tập gồm 22 truyện thần kỳ do các bậc “tài cao học rộng” đời Lý Trần viết ra và Vũ Quỳnh đời Lê đã sửa sang, biên tập lại. Bài tựa Lĩnh Nam chích quái hiệu chính có đoạn: “Những truyện chép ở đây là sử đấy ư? Không rõ bắt đầu có tự bao giờ, do ai soạn thảo, tên họ đều để khuyết, không được ghi lại. Theo ý riêng thì sách này là do các bậc tài cao học rộng đời Lý Trần viết ra, những bậc quân tử hiếu cổ bác nhã đời nay nhuận sắc. Ngu tôi xin trình bày nguồn gốc và thuyết minh ý đồ làm truyện như sau…”. Vũ Quỳnh, người viết bài tựa, chẳng những đã hệ thống hóa các tác phẩm tuyển chọn thành 2 loại lớn - Nhân chi hào kiệt (người hào kiệt) và Sự chi thần dị (việc thần kỳ), mà còn giới thiệu cả lai lịch và chủ đề của từng truyện hoặc từng nhóm truyện. Thí dụ về Truyện trầu cau, bài tựa viết: “Đồ sinh lễ quý nhất nước Nam không gì bằng trầu cau, cũng lấy đó mà biểu dương nghĩa vợ chồng tình huynh đệ”. Về Truyện sông Tô Lịch, Truyện Mộc Tinh, bài tựa viết: “Tô Lịch là thần đất Long Đỗ; Xương Cuồng là tinh cây chiên đàn. Một đằng thì lập đền thờ, một đằng thì dùng phép thuật để trừ yểm, nhân dân nhờ đó mà thoát khỏi tai vạ”.

Cả hai bài tựa đền tiến hành những thao tác có tính chất thư mục học như phân loại, xếp sắp, miêu thuật, đánh giá các văn bản trong sưu tập, nhằm giúp người đọc nhanh chóng chiếm lĩnh những thông tin quan trọng của sách. Do vậy, có thể xem Việt điện u linh tự Lĩnh Nam chích quái hiệu chính tự như là những bản thư mục chuyên đề sớm nhất của Việt Nam. Từ bài tựa thứ nhất đến bài tựa thứ hai có một bước tiến về thư mục học. Sau hai bài tựa bốn năm thế kỷ, Bản quốc thiền môn kinh bản, Đại tạng kinh tổng mục… cũng là những thư mục chuyên đề, nhưng nội dung lại hướng sang kinh Phật.

2. Nghệ văn chí, Văn tịch chí, những bản thư mục tổng hợp sớm nhất, được phân loại và miêu thuật theo kiểu Việt Nam

Nghệ văn chí là một trong sách Lê triều thống sử, còn gọi là Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn (1726-1784), một cuốn sử viết theo thể kỷ truyện, “chép theo sự loại, chia ra từng điều và toám lại một lối, lại phụ thêm những lời bình luận theo ý riêng của mình”. (Tựa Lê triều thông sử).

Nghệ văn chí chia làm 2 phần: phần đầu là Lời tựa và phần sau là Thư mục.

Ở phần Lời tựa, Lê Quý Đôn trước hết trình bày tầm quan trọng của sách, nhất là sách kinh điển và nghiên cứu kinh điển, đối với việc mở rộng kiến thức, tăng thêm sự hiểu biết của con người. Tiếp đó, tác giả nói về tình trạng thư tịch Việt Nam bị thất lạc, lịch sử, do thiếu kinh nghiệm trong việc cất giữ, do tai họa chiến tranh… Cuối cùng là phạm vi bao quát và quy cách biên soạn bản thư mục của tác giả.

Ở phần sau, tức Thư mục, Lê Quý Đôn chia toàn bộ 115 tác phẩm Hán Nôm thu thập được thành 4 loại:

1. Hiến chương: 16 bộ

2. Thi văn: 66 bộ

3. Truyện ký: 19 bộ

4. Phương kỹ: 14 bộ

“Hiến chương” dành cho các tác phẩm thuộc pháp chế Nhà nước. “Thi văn” dành cho các tác phẩm thuộc văn học. “Truyện ký” gồm các sách về lịch sử, giáo dục, thần tích, phật thoại, truyền kỳ, bình thư, địa chí “Phương kỹ” gồm các sách Phật, toán, phong thủy.

Trong từng loại như trên, các đơn vị thư mục được miêu thuật theo các yếu tố tên sách, số quyển, soạn niên, tác giả, nội dung sách, tình trạng và lời nhận xét của người làm thư mục.

Lê Quý Đôn có nói ông từng tham khảo các thiên Nghệ văn chí trong sử các đời Hán. Tùy, Đường, Tống khi biên soạn bản thư mục của mình (tựa Nghệ văn chí). Nhưng trên thực tế, ta thấy Lê Quý Đôn không rập khuôn nước ngoài, mà cố gắng xây dựng một kiểu thư mục sát hợp với tình hình sách vở Việt Nam vào giai đoạn tác giả đang sống. Trong lúc Hán thư của Ban Cố chia sách làm Lục nghệ, Chư tử, Thi phú, Binh thư, Số thuật, Phương kỹ tất cả 6 loại lớn (gọi là lược); Tùy thư của Ngụy Trưng chia sách làm Kinh, Sử, Tử, Tập tất cả 4 loại lớn (gọi là bộ); Tống sử của A Lỗ Đồ và Thác Khắc Thác chia sách làm Kinh, Sử, Tử, Tập tất cả 4 loại lớn (gọi là bộ)… thì Lê Quý Đôn lại chia sách Việt Nam thành Hiến, chương, Thi văn, Truyện ký, Phương kỹ tất cả 4 loại như trên kia đã thấy. Chính tình trạng sách vở vừa ít, vừa lỗ mỗ của Việt Nam vào thời Hậu Lê đã quy định cách làm thư mục của Lê Quý Đôn.

Văn tịch chí vốn là một thiên trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840), một tác phẩm mang tính bách khoa.

Cũng giống Nghệ văn chí, Văn tịch chí gồm một Lời tựa và một bản Thư mục.

Lời tựa, Phan Huy Chú nêu lên ý nghĩa của văn chương, sách vở: “Xem văn chương để hiểu thấu đường đời. Văn minh của loài người đều chứa trong sách vở”. Thứ đến, là tình trạng sách vở bị mất mát nghiêm trọng của Việt Nam từ cuối đời Trần đến đời Lê trung hưng. Sau cùng là lý do và quy cách biên soạn bộ thư mục của tác giả.

Ở phần Thư mục, Phan Huy Chú chia số sách sưu tầm được gồm 213 tác phẩm, nhiều hơn Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn những 99 tác phẩm, thành 4 loại:

1. Hiến chương: 26 bộ

2. Kinh sử: 27 bộ

3. Thi văn: 106 bộ

4. Truyện ký: 54 bộ

Đầu mỗi loại có một tựa đề nhỏ nói lên phạm vi bao quát của loại đó. “Hiến chương” gồm các sách như điệp phả, điển lễ, hình luật, quan chế, cùng các tập bản đồ, văn kiện ngoại giao liên quan đến quốc sự. “Kinh sử” gồm các sách kinh điển hoặc chú giải kinh điển của giới Nho học, cùng các công trình biên soạn, giới thiệu về sử Việt Nam và sử Trung Quốc. “Thi văn” gồm văn thơ của vua chúa, công khanh, cùng tác phẩm các nhà văn thơ các đời. “Truyện ký” gồm các sách thực lục, tạp ký, phương thuật.

Trong từng loại như trên, các đơn vị thư mục được miêu thuật theo các yếu tố tên sách, số quyển, soạn niên, tác giả, nội dung sách, tình trạng sách và lời nhận xét của người làm thư mục.

Nếu so sánh với bản thư mục Lê Quý Đôn ta thấy bản Phan Huy Chú có mặt kế thừa có mặt sửa đổi.

Về phân loại, Phan Huy Chú vẫn chia thư tịch Việt Nam thành 4 nhóm, vẫn giữ lại các tên gọi như Hiến chương, Thi văn, Truyện ký và vẫn xếp Hiến chương lên đầu, coi như phần quan trọng nhất. Nhưng đồng thời Phan Huy Chú đã thay thế Phương kỹ trong Nghệ văn chí bằng Kinh sử trong Văn tịch chí và xếp sắp 3 loại còn lại, trừ Hiến chương, theo trật tự Kinh sử, Thi văn, Truyện ký khác hẳn với lối sắp xếp, Thi văn, Truyện ký, Phương kỹ của Lê Quý Đôn.

Về miêu thuật, Phan Huy Chú vẫn bám sát các yếu tố do Lê Quý Đôn thiết kế nhưng đồng thời đã đưa vào phần giới thiệu nội dung sách nhiều trích đoạn về tựa bạt, những câu thơ hay những tài liệu quý liên quan tới mặt này mặt khác của tác phẩm v.v… Chính khía cạnh vừa nêu, đã vạch ra sự khác biệt dễ thấy giữa Văn tịch chí Nghệ văn chí.

Nguyên nhân dẫn tới các cải tiến về biên mục cũng như phân loại trên đây của Phan Huy Chú có thể tìm thấy trước hết ở khối lượng sách phong phú mà tác giả Văn tịch chí khả dĩ nắm trong tay, và sau nữa dung lượng một bộ bách khoa thư như Lịch triều hiến trương loại chí dù sao vẫn cho phép người ta trình bầy vấn đề tỉ mỉ hơn, tường tận hơn là ở một bộ sử súc tích như Lê triều thống sử.

Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn cùng Văn tịch chí của Phan Huy Chú có thể nói là những bản mục lục tổng hợp sớm nhất được phân loại và miêu thuật theo kiểu Việt Nam. Chính Bibliogrophie annamite (thư mục An Nam) của E.Gaspardone sau này đã chịu nhiều ảnh hưởng ở phương pháp phân loại và miêu thuật của Lê Quý Đôn cũng như Phan Huy Chú.

3. “Tụ khuê thư việc tổng mục sách” và những cố gắng tiếp cận thư mục học toàn vùng

Thư viện Tụ Khuê được thành lập tại Huế vào thời Minh Mạng (1820 - 1840). Tụ Khuê thư viện tổng mục sách là bản thư mục do Phạm Doãn Địch, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Huyễn v.v… biên soạn năm Thành Thái mười bốn (1902), nhân dịp tổng kiểm kê sách vở Việt Nam và nước ngoài đang tàng trữ tại thư viện hồi này.

Thư mục gồm 2 phần lớn: phần thư tịch của người trong nước (Bản quốc thư, A.111) và phân thư tịch của người nước ngoài (Trung Quốc và Phương Tây, A.110/1-3).

Về mặt phân loại, sách của Trung Quốc được chia thành Bộ; dưới bộ là Loại; dưới loại là Thuộc. Sách của Việt Nam chỉ được chia đến Bộ. Sách của Phương Tây chỉ có Loại mà thôi.

Dưới đây là bảng phân loại số sách của Trung Quốc, cũng là mảng thư tịch lớn nhất và được phân loại kỹ nhất trong Tụ khuê thư viện tổng mục sách:

BẢNG PHÂN LOẠI SÁCH TRUNG QUỐC TRONG “TỤ KHUÊ THƯ VIỆN TỔNG MỤC SÁCH”

BỘ LOẠI THUỘC
(I) Kinh 1. Dịch
2. Thư
3. Thi
4. Lễ……………………….





5. Xuân thu
6. Hiếu kinh
7. Ngũ kinh tổng nghĩa
8. Tứ thư
9. Nhạc
10. Tiểu học……………….





a. Chu lễ
b. Nghi lễ
c. Lễ ký
d. Tam lễ tổng nghĩa
e. Thông lễ
g. Tạp lễ thư





a. Huấn hỗ
b. Tự thư
c. Vận thư
d. Phụ lục
(II) Sử 1. Địa lý…………………...








2. Chức quan……………..

3. Chính thư………………





4. Mục lục………………..

5. Sử bình
6. Chính sử
7. Biên niên
8. Kỷ sự bản mại
9. Biệt sử
10. Tạp sử
11. Chiếu lệnh, tấu nghị
12. Truyện ký……………...




13. Sử sao
14. Tái ký
15. Thời lệnh
a. Cung điện bạ
b. Tổng chí
c. Đô hội quận huyện
d. Hà cừ
e. Biên phòng
g. Sơn thủy
h. Cổ tích
i. Tạp ký
l. Ngoại kỷ
a. Quan chế
b. Quan châm
a. Thông chế
b. Nghi chế
c. Bang kế
d. Quân chính
e. Pháp lệnh
g. Khảo công
a. Kinh tịch
b. Kim thạch







a. Thánh hiền
b. Danh nhân
c. Tổng mục
d. Tạp lục
e. Biệt lục
(III) Tử 1. Nho gia
2. Binh gia
3. Pháp gia
4. Nông gia
5. Y gia
6. Thiên văn toán pháp……

7. Thuật số………………...





8. Nghệ thuật……………...



9. Phả lục………………….


10. Tạp gia………………...





11. Loại thư
12. Tiểu thuyết…………….


13. Thích gia
14. Đạo gia





a. Suy bộ
b. Toán thư
a. Số học
b. Chiêm hậu
c. Tướng trạch tướng mộ
d. Chiêm bốc
e. Mệnh thư tướng thư
g. Âm dương ngũ hành
a. Thư họa
b. Cầm phá
c. Triệu khắc
d. Tạp kỹ
a. Khí vận
b. Ẩm soạn
c. Thảo mộc cầm ngư
a. Tạp học
b. Tạp khảo
c. Tạp thuyết
d. Tạp phẩm
e. Tạp toàn
g. Tạp biên

a. Tạp sự
b. Dị đồng
c. Tỏa ngữ
(IV) Tập 1. Sở từ
2. Biệt tập…………………





3. Tổng tập
4. Thi văn bình
5. Từ khúc…………………

a. Hán đến Ngũ đại
b. Bắc Tống Kiến Long đến Tĩnh Khang
c. Nam Tống Kiến Viên đến Đức Hựu
d. Kinh nguyên
e. Minh Hồng Vũ đến Sùng Trinh
g. Thanh


a. Từ tập
b. Từ tuyển
c. Từ thoại
d. Từ phả, từ vận
e. Nam bắc khúc

Cách phân loại sách Trung Quốc trên đây đại thể phỏng theo cách phân loại Tứ khố toàn thư của nhà Thanh. Nhưng cũng có chỗ khác là trong cách phân loại của nhà Thanh, các mục từ Chính sử đến Thời lệnh trong bộ Sử được xếp lên đầu, chứ không đặt xuống phía dưới như ở Tụ khuê thư viện tổng mục sách.

Riêng phần thư tịch Việt Nam, Tụ khuê thư viện tổng mục sách chỉ phân loại đến Bộ, gồm Kinh, Sử, Tử, Tập cùng một bản thư mục về Quốc triều sự điển và một bản thư mục về Quốc triều khâm định. Sách phương Tây được chia thành 4 loại là Sử chí, Y thuật, Toán học, Nghệ thuật. Các kiểu phân loại như vừa nêu lệ thuộc không ít vào thực trạng sách vở của Việt Nam cũng như ở Phương Tây hiện có tại thư viện Tụ Khuê lúc bấy giờ.

Về mặt miêu thuật, các đơn vị thư mục trong Tụ khuê thư viện tổng mục sách được trình bày theo các yếu tố tên sách, số bộ, số bản, tác giả, tình trạng sách, nguồn cấp sách…

Như chúng ta biết, Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, một bộ thư mục cỡ lớn của nhà Thanh sau khi ra đời vào năm 1795, đã gây nhiều ảnh hưởng đối với thư mục học Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản… Có thể xem Tự khuê thư viện tổng mục sách như là một cố gắng tiếp cận thư mục học toàn vùng.

Tiếp sau “Tụ khuê thư viện tổng mục sách” còn có Nội các thư mục Tân thư viện thủ sách, đều theo phương pháp làm thư mục của Tứ khố toàn thư.

4. “Cổ học viện thư tịch thủ sách”, một kết hợp giữa thư mục học Trung Quốc và thư mục học Việt Nam

1. Tân thư thủ sách, gồm 4 nguồn sách hợp thành: sách nguyên có tại thư viện, sách mới mua thêm, sách của Học bộ chuyển giao và sách tư nhân hiến tặng.

2. Kinh khố thủ sách, gồm 3 loại: Chư kinh thư tịch, Kinh truyện thư tịch và Kinh truyện loại điển.

3. Sử khố thủ sách, gồm 6 loại: Kỷ sự, Biên niên, Bình luận, Truyện ký, Địa dư và Chính trị.

4. Tử khố thủ sách, gồm 17 loại: Nho lưu, Loại thư, Pháp gia, Vũ bị, Nông tang, Y thuật, Đạo pháp, Thiên văn, Toán học, Tinh học, Bốc phệ, Địa lý, Cầm học, Ký học, Thư pháp, Họa pháp và Tiểu thuyết.

5. Tập khố thủ sách: gồm 8 loại: Thi loại, từ loại, Phú loại, Văn loại, Chế nghĩa loại, Biểu loại, Sách loại và Thi văn tổng loại.

6. Quốc thư thủ sách, gồm 16 loại: Ngự chế thư, Pháp học khoa, Quốc sử khoa, Địa học khoa, Văn học khoa, Văn chương khoa, Quốc âm thư, Báo khoa, Truyện ký thư, Diễn truyện, Y học, Bắc Kinh học khoa, Bắc Sử học khoa, Bắc Văn học khoa, Thuật học khoa và Thi quyển.

Về mặt miêu thuật, các đơn vị thư mục trong Cổ học viện thư tịch thủ sách được trình bày theo các yếu tố:

1. Tên sách, số bộ, đủ hoặc thiếu.

2. Nội dung sách (tóm lược)

3. Người biên soạn

4. Số quyển nguyên có.

5. Số quyển hiện đóng.

6. Ký hiệu sách (số mục đăng ký ở Viện Cổ học).

7. Khắc in hoặc sao chép và lai lịch sách.

8. Cách đóng của sách (lối cũ, lối mới, đóng thành hộp,…).

Có thể thấy trong miêu thuật, nhất là trong phân loại. Cổ học viện thư tịch thủ sách một mặt tiếp thu các nhân tố hợp lý của Tứ khố toàn thư, như vẫn dùng lối “tứ phân” Kinh, Sử, Tử, Tập,… nhưng mặt khác, cũng đã cải tiến, đổi mới cách phân loại sao cho phù hợp với tình hình sách vở và sự phân ngành trong học thuật đương thời. Chẳng hạn bản thư mục đã chia Kinh làm 3 loại, chia Sử làm 6 loại, chia Tử làm 17 loại, chia Tập làm 8 loại, trong khi Tứ khố toàn thư, như ta đã biết chia Kinh làm 10 loại, chưa Sử làm 15 loại, chia Tử làm 14 loại, chia Tập làm 5 loại. Riêng phần Quốc thư thủ sách được chia thành 16 loại, với các tên gọi mang hơi hướng của khoa học hiện đại. Rõ ràng những người biên soạn Cổ học viện thư tịch thủ sách đã chú ý kết hợp thư mục học Trung Quốc với thư mục học Việt Nam.

Vào thế kỷ trước đó, Lê Thị tích thư ký đã chia sách thành 7 loại Kinh, Thư, Sử, Tử, Tập, Cử nghệ, Tạp trứ, có thể xem như là một báo hiệu cho sự xuất hiện của Cổ học viện thư mục thủ sách về sau.

5). “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm”, chiếc cầu nối giữa thư mục học cổ đại và thư mục học hiện đại

Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập I của Trần Văn Giáp do Thư viện Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1970. Tập II đang chuẩn bị ra mắt bạn đọc.

Về lý do làm sách, tác giả nói: “… chúng tôi đã học tập các vị tiền bối, kiên trì soạn tập, nghiên cứu một số bộ sách Hán, Nôm, phân tích và phê phán từng điểm cần thiết cốt sao cho được tương đối chính xác (…) nhằm góp phần giúp ích các bạn trong công trình nghiên cứu về các ngành học thuật Việt Nam” (Mở đầu).

Về dung lượng, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm đã giới thiệu tất cả 421 tác phẩm (Tập I: 212 tác phẩm; Tập II: 209 tác phẩm), trong đó có những bộ sách từng được Nghệ văn chí Văn tịch chí đề cập; số còn lại là những sách do Trần Văn Giáp tuyển chọn thêm.

Về mặt phân loại, 421 bộ sách trong Tìm hiểu kho Hán Nôm được xếp theo 7 chuyên ngành học thuật khác nhau như lịch sử, địa lý, kỹ thuật, ngôn ngữ, văn học, tôn giáo, triết học và phần sách tổng hợp. Ở một số chuyên ngành thư tịch còn được chia thành nhiều mảng nhỏ. Ngành lịch sử có: lịch sử nói chung, khảo cổ, tổ chức nhà nước, pháp lý, quân sự, giáo dục, truyện ký: phả lục. Ngành địa lý có: dư địa chí, sơn xuyên, lý lộ, địa phương chí. Ngành văn học có: hợp tuyển thơ văn, Thi văn tập, Văn học dân gian.

Về mặt nghệ thuật, các đơn vị thư mục trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm được tác giả xem như “một bài nghiên cứu” gồm 3 phần sau đây:

1. Miêu tả: Giới thiệu tên sách, tên tác giả, số quyển, cỡ sách, số tờ (hay trang), năm xuất bản (hay chép tay), nơi xuất bản, tên nhà xuất bản.

2. Nội dung: Phân tích, phê phán, nói rõ sách thuộc môn loại nào, có những thiên, mục gì. Khi cần, cũng trích lục nguyên văn và dịch ra tiếng Việt hiện đại một số bài Tựa, Bạt, Dẫn,… đề cập tới mục đích và nội dung của sách. Có thể có cả những chỉ dẫn về các nguồn tư liệu liên quan, cũng những nhận xét về tính chất chân thật hoặc ngụy tạo của tác phẩm đang bàn.

3. Tiểu thuyết: giới thiệu tác giả sách, gồm năm sinh, năm mất và sự nghiệp sáng tác của họ.

Trong phần Mở đầu cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của mình, Trần Văn Giáp có nói ông “lấy hai thiên kinh tịch chí của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú làm gốc”. Nhưng trên thực tế, ta thấy tác giả Tìm hiểu kho sách Hán Nôm chỉ thiếp thu ở Nghệ văn chí Văn tịch chí, những hoa quả đầu mùa của thư mục học truyền thống Việt Nam, về cách miêu thuật sách. Còn về phương pháp phân loại, Trần Văn Giáp rõ ràng đã nghiêng hẳn sang sự phân ngành của học thuật Việt Nam vào những năm 60, nhằm hướng công trình “Thư tịch chí” của ông tới các nhu cầu của khoa học hiện đại.

Tìm hiểu kho sách Hán Nôm là chiếc cầu nối giữa hai nền thư mục học cũ và mới.

6). “Thư mục Hán Nôm”, một thử nghiệm mới về phương diện thư mục học

Năm 1960, sau khi tập trung sách Hán Nôm từ nhiều nơi về một mối, Thư viện Khoa học Trung ương đã tổ chức biên soạn bộ Thư mục Hán Nôm nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giới thiệu các truyền thống tốt đẹp trong di sản văn hóa thành văn của dân tộc. Tham gia công việc buồi đầu gồm 20 người sau đây, phần lớn là các vị túc nho: Lê Tư Thực, Đỗ Trần Sức, Ngô Ngọc Can, Lã Xuân Mai, Trần Ngọc Oánh, Nguyễn Khắc Xương, Hoàng Xuân Yêm, Phạm Mạnh Sinh, Quan Vĩnh Chần, Phạm Hữu Chính, Hà Huy Chương, Hà Huy Bá, Nguyễn Xuân Lâm, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Tấn Minh, Cụ Ngôn, Cụ Bách, Cụ Vỹ, Cụ Chức, Nguyễn An Tâm. Đến năm 1965, do hoàn cảnh chiển tranh, công việc biên soạn phải tạm dừng với hàng nghìn phiếu thư mục đang ở dạng phác thảo. Năm 1968, bộ Thư mục Hán Nôm lại được tiếp tục thực hiện bởi một tổ biên soạn mới gồm 10 người sau đây thuộc Thư viện Khoa học xã hội mà tiền thân là một phần của Thư viện Trung ương: Cao Hữu Lạng, Nguyễn An Tâm, Nguyễn Kim Hưng, Vũ Thanh Hằng, Dương Thái Minh, Nguyễn Cẩm Thúy, Đỗ Thị Hảo, Nguyễn Thị Xuân, Phạm Đức Duật, Ngô Thế Long. Từ năm 1969 đến năm 1977, bộ thư mục đã được hoàn thành dần từng phần và được cho in ronéo để đưa vào sử dụng.

Về cấu tạo, bộ thư mục gồm 2 mảng lớn: mảng thư mục và mảng tra cứu. Mảng thư mục có Phần I, Phần II Phần phụ lục. Phần I, gồm các tập 1 và tập 2, tổng cộng 370 trang, giới thiệu 1415 đơn vị thư mục xếp theo trật tự tên sách từ A đến Y, hoàn thành vào năm 1969. Phần II gồm các tập 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7, tổng cộng 1331 trang, giới thiệu 4140 đơn vị thư mục xếp theo trật tự tên sách từ A đến Y, hoàn thành vào những năm 1970 (T.1, T.2, T.3) và 1971 (T.4, T.5, T.6, T.7). Phần phụ lục (đặt ở cuối tập 7) gồm những sách chưa kịp đưa vào Phần I, hoặc Phần II, cũng được xếp theo trật tự tên tác phẩm từ A đến Y. Mảng tra cứu có Tổng mục lục, Mục lục phân loại Mục lục tác giả. Tổng mục lục dày 162 trang, gồm 5555 tên sách được xếp theo thứ tự A, B, C hoàn thành vào năm 1971. Mục lục phân loại dày 203 trang, sách được xếp theo khung phân loại trung tiểu hình, gồm 21 mục, hoàn thành vào năm 1972. Mục lục tác giả dày 427 trang, các tác giả được xếp theo thứ tự A, B, C, hoàn thành vào năm 1977. Phần Mục lục tác giả do Ban Hán Nôm thực hiện. Các phần khác do Thư viện Khoa học xã hội thực hiện.

Về phạm vi bao quát, bộ thư mục đã thu thập hầu hết các sách Hán Nôm hiện có tại Thư viện Khoa học xã hội lúc bấy giờ, gồm “một phần do Vụ Bảo tồn bảo tàng trao lại, một số do gia đình của các nhà khoa bảng trước tặng thư viện một phần tiếp thu của Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp và một số lớn do Thư viện sưu tầm bổ sung sau này” (Lời giới thiệu).

Về cách thức biên soạn, mỗi đơn vị sách trong bộ thư mục được giới thiệu thành 2 phần: Phần hình thức “ghi tên sách bằng chữ Hán, chữ Nôm, dưới có một dòng viết bằng chữ Việt. Rồi đến tên tác giả, người biên tập hay sao chép. Kế đến là nơi in, năm xuất bản, hoặc chữ viết nếu là bản chép tay. Về năm tháng (…) ghi như trang sách: năm can chi, triều đại, cạnh có ghi năm dương lịch. Cuối cùng là ký hiệu sách trong kho”. Phần nội dung “được giới thiệu những nét khái quát nhất, có dẫn chứng vài tên bài cụ thể (…). Những sách truyện thì ghi tóm tắt câu chuyện với những chi tiết cần thiết” (Lời giới thiệu).

Có thể nói bộ Thư mục Hán Nôm do Thư viện Khoa học xã hội và một phần nhỏ do Ban Hán Nôm thực hiện đã vượt lên trên các bản thư mục ra đời trước đó cả về dung lượng lẫn kỹ thuật trình bày. Còn có thể nghĩ đây là một thử nghiệm mới về phương diện thư mục học.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt thành công, bộ thư mục cũng để lộ nhiều hạn chế.

Trước hết, việc chia thư mục làm 3 bộ phận tách biệt Phần I, Phần II Phần phụ lục, hình thành 3 đơn vị tra cứu khác nhau - đã gây không ít khó khăn khi sử dụng bộ thư mục. Để bù lại, những người biên soạn có làm thêm một Tổng mục lục, nhưng kết quả vẫn không giảm bớt được mấy phần toái mỗi khi cần tìm đọc một mục sách cụ thể.

Hai là trong bộ thư mục, những sách của người nước ngoài do ta sao chép hoặc in lại lẽ ra cần được tập trung vào một chỗ thì lại bị xếp lẫn lộn với sách Việt Nam, cho dù có các ký hiệu AC hoặc Hán Việt làm tiêu chí, vẫn dễ dẫn tới những ngộ nhận không cần thiết.

Ba là có một số phần Phụ chép trong các sách, được những người biên soạn tự ý lấy ra thành một đơn vị thư mục riêng, khiến một đầu sách bỗng dưng biến thành 2 hoặc nhiều đầu sách, vừa gây nhiễu, vừa làm tăng độ dư thừa thông tin.

Ngoài ra, bộ thư mục còn chứa đựng những mục sách trùng lặp, những miêu tả thiếu chính xác, những “tách” hoặc “gộp” một số ký hiệu chưa thật hợp lý.

Trường hợp trùng lặp như các mục sách 1405 (Phần I), tập 2, và 3678 (Phần II, tập 7); 3418 (Phần II, tập 6) và 3420 (Phần II, tập 6); 2833 (Phần II, tập 6) và 3630 (phần II, tập 7), v.v… Mục sách 1405 là Vương Kim truyện quốc âm Vương Kim truyện diễn tự, ký hiệu AB. 234; mục sách 3678 cũng là Vương Kim truyện quốc âm Vương Kim truyện diễn tự, ký hiệu AB. 234. Mục sách 3418 là Trướng đối tạp sao, ký hiệu VHv. 567; mục sách 3120 không rõ dựa vào đâu đã ghi thành Trướng đối thi văn ai văn tập, mà kỳ thực thì vẫn là Trướng đối tạp sao, ký hiệu VHv. 567. Mục sách 2833 là Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí, ký hiệu VHv. 1371/ a, b; mục sách 3630 đã ghi thành Vĩnh Lộc huyện phong thổ chí lược, ký hiệu vẫn là VHv. 1371/ a, b.

Trường hợp miêu tả thiếu chính xác như mục sách 3247 (Phần II, tập 6): 368 trang viết thành 348 trang; mục sách 3274 (Phần II, tập 6): 55 tờ, tương đương với 110 trang, đã viết thành 46 trang; mục sách 3274 (Phần II, tập 6): chỉ có Q2 và Q4, nhưng khi miêu tả đã bỏ qua không nói tới; mục sách 3284 (Phần II, tập 6): tên sách nguyên là Phụng sai Trấn thủ Nghệ An xứ kiêm Bố Chính châu đốc suất quan đã bị viết thành Trấn thủ Nghệ An xứ kiêm Bố Chính châu đốc suất hiểu; mục sách 3527 (Phần II, tập 7): tên sách nguyên là Văn Khê y thư yếu lục đã bị viết nhầm một số chữ thành Vân Hán y lý yếu lục v.v…

Trường hợp tách hoặc gộp một số ký hiệu chưa hợp lý như mục sách 3338 (Phần II, tập 6): ký hiệu A.267/1 - 2 lẽ ra không nên xếp gộp chung với ký hiệu A.914, vì một đằng là Lịch đại niên biểu Quảng Nam tỉnh chí lược Cẩm Khê huyện phong tục chí, còn một đằng là Trúc Đình văn tập; mục sách 3775 (Phần II, tập 7): Y truyền chỉ yếu tập và mục sách 3776 (Phần II tập 7): Y truyền yếu chỉ lẽ ra Quyển 1 và một đằng là Quyển 2 của cùng một bộ sách thống nhất, v.v và v.v…

Chính vì các nhược điểm trên đây mà nhiều người đã mong ước có một bộ thư mục mới đầy đủ hơn, chính xác hơn, khoa học hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu di sản Hán Nôm đang đề ra ngày một bức thiết trước mắt.

CHÚ THÍCH

(1) Xem thêm Trần Nghĩa: “Giữ gìn và nghiên cứu di sản Hán Nôm”, Tạp chí Hán Nôm số 2-1987, tr.3-4

(2) Từ đây trở xuống, viết tắtt là ĐVSKTT.

TB

VỀ BỘ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC
VỪA BIÊN SOẠN XONG

HOÀNG LÊ

Từ mấy ngàn năm nay cha ông ta đã để lại một kho tàng những di sản văn hóa tinh thần rất quý giá. Các thế hệ cháu con đã không ngừng tìm cách gìn giữ, khai thác và giới thiệu kho di sản cực kỳ quý báu đó. Trong di sản văn hóa nói chung của dân tộc, kho sách Hán Nôm và kho thác bản văn bia chiếm một vị trí quan trọng(1). Đặc biệt kho thác bản văn bia, với 20.979 mặt bia được rập, tương ứng với 11.651 bia, là một khối lượng đáng kể. Tuy nhiên, so với thực tế đã được khảo sát trong nhiều năm nay, con số trên mới chỉ chiếm có 50%.

Đây là mảng tư liệu ít biến động nhất, bởi nó được khắc chạm kỳ công trên những chất liệu khá bền vững như đồng, đá,… lại thường đặt ở những chốn tôn nghiêm và nơi nhân dân thường qua lại hội họp… Bia còn là một loại cứ liệu có nhiều nét quý về mặt chứng tích lịch sử, có niên đại chính xác, chứa đựng những thông tin phong phú, đa dạng về quá khứ của văn hóa dân tộc, như: ca ngợi danh nhân trong lịch sử, phản ánh chế độ giáo dục thi cử, truyền thống tôn sư trọng đạo, văn nghệ, ca hát danh lam thắng cảnh, các nghề thủ công, các tôn giáo, các phong tục hương ước, các chế độ ruộng đất ở từng địa phương, những tệ nạn xã hội cần ngăn chặn ở mỗi thời, v.v. và v.v. Có thể nói “bia Việt Nam là một nguồn cứ liệu rất quan trọng mà ngành khoa học xã hội nào cũng có thể khai thác được. Nhưng muốn sử dụng được bia cũng có những khó khăn nhất định: số lượng quá lớn, phân bổ rải rác khắp mọi miền đất nước, được viết chủ yếu bằng Hán Nôm. Vì vậy, muốn viết đi vào “rừng văn bia”, rất cần sự chỉ dẫn tổng quan cũng như rất cần những sự giới thiệu bước đầu”(2).

Do nhu cầu nghiên cứu, khai thác để phục vụ nhiều lĩnh vực khoa học như lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng ngôn ngữ, nghệ thuật,… nên năm 1970, sau khi thành lập Ban Hán Nôm, đã bắt tay vào biên soạn bộ Thư mục bia Việt Nam. Tổ nghiên cứu bia lúc này chỉ có 7 cán bộ trẻ mới vào ngành(3) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cụ Bùi Thanh Ba và sự dìu dắt, chỉ bảo thêm của các cụ Trần Duy Vôn, Thái Văn Liễn, Nguyễn Thúc Linh. 10 cán bộ trẻ già, vừa làm vừa học, cặm cụi ngày đêm, tháng này qua tháng khác “đánh vật” với từng bản rập bia, trong hoàn cảnh cuộc chiến đấu chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trên cả 2 miền của đất nước. Đến năm 1975, bộ Thư mục bia Việt Nam được hình thành về cơ bản với 21 tập thư mục và 4 tập sách dẫn (Sách dẫn tên bia, Sách dẫn tác gia. Sách dẫn niên đại, Sách dẫn địa phương).

Bộ thư mục này lần đầu tiên khai phá “rừng thác bản bia” được lưu trữ tại Thư viện Khoa học xã hội(4) với các yếu tố cần thiết lấy từ trong mỗi đơn vị văn bản bia, cùng những nhận xét về văn bản, về người tạo dựng văn bản đó.

Tuy nhiên, bộ Thư mục bia Việt Nam sơ thảo kể trên còn bị những hạn chế nhất định. Về mặt trình độ biên soạn, các tri thức khoa học khác như văn bản học, kim thạch học, xã hội học, phong tục học, kinh tế học, chưa được vận dụng đều tay. Về mặt phương pháp thì những quy tắc sắp xếp, lấy hoặc bỏ các yếu tố chưa đồng đều giữa các đơn vị mô tả. Một số thông tin còn bị bỏ sót, một số phiếu còn rườm rà do sự tham lam tùy thích ở người biên soạn. Những tồn nghi về niên đại cũng chưa được quan tâm xử lý đầy đủ.

Do tình hình trên, Viện nghiên cứu Hán Nôm đã giao cho Ban nghiên cứu thư tịch Hán Cận đại biên soạn lại, trên cơ sở của bộ thư mục cũ, một bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC. Đây không chỉ là đặt lại tên cho sát hợp nội dung, mà thực tế là biên soạn lại với tinh thần và phương pháp khoa học nghiêm túc, bố cục hợp lý và trình bày gọn rõ hơn.

Bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC được biên soạn từ năm 1984 đến cuối năm 1986, với 12 cán bộ nghiên cứu(5) có người đã từng tham gia biên soạn bộ thư mục cũ. Có thể nói: “Đây là một công trình khoa học công phu, kết quả của một quá trình lao động khoa học, bền bỉ, kiên nhẫn, thầm lặng. Công sức của nhóm biên soạn bỏ ra rất lớn, nhưng sẽ có tác dụng làm giảm đi biết bao công sức của những nhà khoa học muốn khai thác kho văn bia quý giá này”(6).

Bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC vừa biên soạn xong gồm 30 tập, mỗi tập trên dưới 300 trang đánh máy. Cụ thể có 21 tập về mô tả từng bia, 9 tập sách dẫn (về tác giả: 2 tập; về niên đại: 2 tập; về tên đất: 4 tập; về đương sự được đề cập tới trong mỗi bia: 1 tập):

1) Về phạm vi bao quát, bộ thư mục này cũng như bộ thư mục trước phản ánh trung thực kho thác bản bia hiện có (trừ số lượng bia mới thu thập từ 1985 lại đây, chưa lên ký hiệu xong). Trên hai vạn mặt bia được rập từ nhiều nơi của 36 tỉnh (theo đơn vị hành chính trước 1954). Ta thấy trong đó có bia từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XX. Văn khắc của mười ba thế kỷ được bảo tồn, phản ánh nhiều nội dung khác nhau mang tính văn hóa, lịch sử, gắn chặt với nhiều mặt hoạt động xã hội trong thời phong kiến.

- Về niên đại : 1 bia đời Bắc thuộc, 8 bia đời Lý, 16 bia đời Trần, 5729 bia đời Lê, 134 bia đời Mạc, 412 bia đời Tây Sơn, 3972 bia đời Nguyễn. Còn lại là những bia chỉ ghi năm can chi, hoặc bị mờ, hoặc không có niên đại.

- Về tác giả: Đa số là các nhà học giả có khoa bảng, các bực “đại gia, đại bút” như trạng nguyên Vũ Duệ, Trịnh Tĩnh Tâm; bảng nhãn Lữu Hưng Hiếu, Nguyễn Văn Bích, Lê Quế Đường, Vũ Duy Thanh; thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Gia Môn, Nguyễn Nho, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Thọ Xuân, Giang Văn Minh, Quách Giai, Nguyễn Đức Đạt, Mai Anh Tuấn; hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Dụng, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Duy Thì, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Tông Khuê, Trần Bá Lãm, Trần Danh Án, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Tư Giản,…; 331 tiến sĩ; 92 cử nhân, hương cống; 171 sinh đồ, tú tài; 97 giám sinh. Ngoài ra có tác giả là vua, quan, là dật sĩ, sư tăng và các sắc mục ở hương thôn.

- Về thể loại: Từ lệnh chỉ của vua chúa đến các khoán ước của xã thôn; từ mộ chi, bi ký đến thơ văn đề vịnh; và cả chuông, khánh, cột hương v.v…

2) Về cách thức biên soạn, đại thể có 2 phần: phần miêu tả và phần sách dẫn.

Trong phần miêu tả, mỗi đơn vị bia trong bộ thư mục được giới thiệu (theo thứ tự ký hiệu đăng ký của Thư viện) gồm 8 yếu tố chính:

1. Tên gọi văn bản ghi bằng chữ quốc ngữ.

2. Tên gọi văn bản ghi bằng chữ Hán, Nôm.

3. Ký hiệu thư viện của văn bản: bằng chữ số Ả rập.

4. Tên người soạn, người nhuận sắc văn bản hoặc cả người viết chữ, người khắc chữ (nếu có). Có khi thêm cả học vị đỗ đạt, khoa đỗ, chú thích năm dương lịch để trong ngoặc đơn, và chức tước nếu có.

5. Năm tạo lập bia: ghi theo niên hiệu và chú thích năm dương lịch. Đối với niên đại giả(7) thì đánh dấu hỏi (?) bên cạnh rồi chú thích ở cuối.

6. Nơi để: ghi theo đơn vị hnàh chính thời kỳ rập bia (trước 1945). Và có chú thêm nay thuộc địa phương nào (nếu biết).

7. Hình thức: ghi rõ 1 hay 2, 3, 4 mặt bia, khổ bia ngang dọc, số dòng chữ và số chữ ít nhất, nhiều nhất trong dòng chữ, tình trạng bản rập và hoa văn gì được chạm khắc.

8. Nội dung lược thuật sự kiện được ghi trong bản văn (chú ý ngắn gọn, không bỏ sót các chi tiết cần thiết như tê người, tên đất, quan chức, sự kiện, ruộng đất, tiền bạc, lễ nghi, phong tục, mục đích động cơ của việc làm được đề cập tới trong bia).

Trong phần sách dẫn, có sách dẫn tác gia, sách dẫn niên đại, sách dẫn tên đất, sách dẫn về đương sự. Tất cả 4 loại sách dẫn đều có chung một mục tiêu giúp độc giả tiếp cận với văn bản bằng nhiều đường nhiều cửa. Từ đó có thể nghiên cứu cụ thể hoặc tổng hợp dễ dàng, nhanh chóng.

- Sách dẫn tác gia, nhằm giúp bạn đọc tìm các văn bản có ghi tên tác giả. Tên các tác giả được xếp theo thứ tự ABC. Mỗi tác giả còn được ghi rõ thêm học vị gì, năm đỗ đạt, chức tước và là người soạn hay nhuận, viết hay khắc… Đó là điểm mới so với sách dẫn đã làm trước, đều để trong ngoặc đơn, với dụng ý phân biệt sự trùng lặp tên hiệu vẫn thường có. Cũng có tác giả ghi tên thực hoặc tên hiệu như Phạm Khiêm Ích - Phạm Kinh Trai, Phạm Văn Nghị - Phạm Nghĩa Trai, Dương Danh Lập - Dương Đức Hiên, Nguyên Tông Khuê - Nguyễn Thư Hiên, Phạm Nguyễn Du - Phạm Vĩ Khiêm, v.v… đều mở ngoặc chú thích. Ví như: Phan Cảnh (tức Phan Quý Dương, Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1743), Đông các đại học sĩ, soạn). Sau những yếu tố trên là đến ký hiệu các bia của tác giả đó.

- Sách dẫn niên đại, được xếp sắp theo thứ tự thác bản bia có niên đại sớm nhất đến niên đại muộn nhất, gồm bốn yếu tố: thứ tự, niên đại (có chua năm DL), tên bia và số ký hiệu bia.

Lấy niên hiệu làm gốc rồi đổi sang dương lịch ghi trong ngoặc đơn bên cạnh. Trong một niên hiệu có nhiều năm được ghi theo thứ tự năm. Có những năm tồn tại 2 niên hiệu vua trước - sau, thậm chí 2 niên hiệu song song tồn tại như trong giai đoạn Lê - Mạc đều ghi như thực tại lịch sử.

Ví như: Quang Hưng đời Lê Thế Tông (1578 - 1593) // Diên Thành, Đoan Thái, Hưng Trị, Hồng Ninh đời Mạc Hậu Hợp. Sách dẫn này sẽ ghi đan chen, nhưng năm dương lịch vẫn giữ theo trình tự, như Quang Hưng 14 (1591) rồi Hồng Ninh 1 (1591). Với niên đại thay đổi tạm gọi là “giả” dùng dấu hỏi chấm ở bên cạnh nếu có tồn nghi, và ghi tắt chữ G trong ngoặc đơn rồi ghi tiếp niên đại đã xác minh.

Ví như:

Chính Hòa 14 (G) Tự Đức 18…

Vĩnh Trị 1 (G) Thành Thái 1…

Sách dẫn cũ dừng lại ở chỗ tồn nghi mà chưa đi sâu vào khoa văn bản học để xác minh về niên đại thật.

Về ký hiệu bia: có trường hợp bia nhiều mặt nên có nhiều bản rập; nếu số ký hiệu liên tục thì từ ký hiệu thứ 2 trở đi, chỉ ghi số hàng đơn vị, như 17653 - 17654 - 17655 được ghi là 17653 - 4 - 5. Nếu số ký hiệu trên thác bản bia không liên tục thì được để nguyên như 2356 - 7652 - 9763.

- Sách dẫn tên đất, ghi theo tên gọi lúc rập bia (từ 1920 đến 1945)(8), riêng một số bia ở Hà Nội có trường hợp theo tên phố hồi Pháp tạm chiếm (1947 - 1954). Sách dẫn này được xếp theo thứ tự ABC của tỉnh, rồi huyện trong tỉnh, xã trong huyện và nơi dựng bia chùa hay đình, đền, điếm, miếu, núi,… Cái mới trong sách dẫn này là dưới tên tỉnh, huyện, phần lớn có chung tên gọi hiện nay (1982), riêng Hà Nội được xếp theo quận, huyện mới, và bên cạnh phố, phường, xã, có chú tên gọi hiện nay. Tham vọng của người biên soạn muốn chú thích tên mới tất cả, nhưng còn gặp nhiều khó khăn nên mới làm được Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang (cũ). Sách dẫn này gồm 4 yếu tố: Tên đất, địa điểm dựng bia, tên bia và ký hiệu bia.

- Sách dẫn về đương sự được đề cập tới trong từng văn bản bia, là một gợi ý cho các nhà nghiên cứu tìm tòi dễ dàng về một nhân vật nào đó mà mình quan tâm, hoặc về hành trạng của một nhân vật trong từng thời điểm nhất định. Sách dẫn này cho ta biết được nhiều danh nhân văn hóa, văn học, lịch sử, chính trị, kinh tế, giáo dục… Có người là quan của triều đình, có người chỉ là dân bình thường…

Sách dẫn này xếp theo ABC, gồm 6 yếu tố: họ tên, tự hiệu, chức vụ (nếu có), nghề nghiệp, đương sự (ghi tắt là ĐS), số ký hiệu bia. Ví như Nguyễn Nghiễm tự H1 Tư, hiệu Nghi Hiên, biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ, Phụng sai Thanh Hóa đạo đốc lãnh binh đặc tướng quân hữu dực cơ cai quan nhập thị bồi tụng ngự sử dài, phó đô ngự sử, tước Xuân lãnh hầu, ĐS, 20966. Hoặc có trường hợp đương sự không rõ ràng như Lê quận công được chỉ xem Nguyễn Khiêm Tố tướng quân, ĐS, 14527, 14528, 14529, 14533, 14535. Bộ Thư mục cũ không có sách dẫn này.

Tóm lại, Bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC là một bộ sách công cụ cần thiết và bổ ích cho nhiều ngành khoa học xã hội. Nó đã được chuẩn bị công phu, được đầu tư nhiều công sức và trí tuệ của một tập thể cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong hàng chục năm. Nó cô đúc hơn 2 vạn thác bản bia để thành những điều chỉ dẫn hữu ích. Với một khối lượng lớn như trên và nội dung đa dạng của kho thác bản bia được phản ánh trong bộ thư mục vừa biên soạn xong, từ lâu công trình này đã hấp dẫn các nhà nghiên cứu về tính hiện thực sâu sắc, cả mặt chân xác của các sự kiện trong lịch sử xã hội… Tin rằng bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC sẽ góp phần đáng kể trong việc phục vụ ba cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và là nguồn tài liệu có giá trị đối với các nhà khoa học(9).

Chúng tôi đang mong muốn một ngày gần đây bộ thư mục trên được in ấn và phát hành rộng rãi, hoặc ít ra là ở mỗi thư viện của các tỉnh huyện hay các Viện nghiên cứu khoa học xã hội, các trường Đại học… đều có trong tay một bộ THƯ MỤC BIA GIẢN LƯỢC để đáp ứng kịp thời yêu cầu của Khoa học và cách mạng.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Trần Nghĩa: Giữ gìn và nghiên cứu di sản Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1987.

(2)Ý kiến của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn phát biểu trong dịp UBKHXH Việt Nam tổ chức nghiệm thu công trình Thư mục bia giản lược.

(3) Các cán bộ đó là: Đỗ Thị Hảo, Nguyễn Kim Hưng, Ngô Thế Long, Dương Thái Minh, Trương Lệ Nga, Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Thị Xuân.

(4) Kho thác bản bia này, nguyên là của trường Viễn đông Bác cổ (VĐBC) thuê rập từ 1920 đến 1945. Năm 1958, Bộ giáo dục tiếp quản, sau chuyển giao cho Thư viện KHXH (nay là Viện thông tin KHXH). Từ 1979, kho này lại được chuyển giao lại Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý theo quyết định số 311/CP.

(5) Danh sách cán bộ tham gia biên soạn công trình này xếp theo ABC: Hoàng Giáp, Hoàng Lê, Ngô Thế Long, Nguyễn Thúy Nga, Lê Thị Viết Nga, Nguyễn Thị Ngân, Nguyễn Thị Phượng, Nguyễn Hữu Tưởng, Dương Thị The, Phạm Thị Thoa, Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Huy Thức. Ngoài ra có một số các cụ là cộng tác viên. Chủ biên là Hoàng Lê.

(6) Ý kiến của Giáo sư Phan Huy Lê phát biểu trong dạp nghiệm thu công trình “Thư mục bia giản lược”.

(7) Qua việc biên soạn cũng như qua việc đi khảo sát thực địa, chúng tôi thấy có hiện tượng làm thác bản bia (tức bản rập) có niên đại giả. Nguyên do từ việc đánh giá của người phụ trách thuê rập bia của trường VĐBC, bia cổ thì giá thuê được trả cao nên không ít bia đời Nguyễn đẩy lùi lên đời Lê như Thành Thái ra Bảo Thái hay Phúc Thái. Tự Đức thành Thịnh Đức hay Long Đức, Thiệu Trị thành Vĩnh Trị. Chúng tôi đã đính chính được trên 100 bia mà bộ thư mục cũ đã bỏ qua.

(8) Vì thời gian rập bia kéo dài trong vòng 25 năm như vậy nên có tình trạng cùng một tạm bia lại mang nhiều địa danh khác nhau, do được rập qua nhiều lần khác nhau tại một địa phương có sự thay đổi địa danh. Điều này tạo ra không ít phức tạp cho người làm sách dẫn.

(9) Xin đơn cử vài thí dụ: Phó Tiến sĩ Lê Văn Quán trong Nghiên cứu về chữ Nôm (Nxb. KHXH, H. 1981) đã cho biết có 1205 thác bản bia có chữ Nôm. Nhà nghiên cứu mĩ thuật Nguyễn Du Chi trong Nghiên cứu Hán Nôm 1984 đã viết: Trong số hơn 2 vạn thác bản bia hiện có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì đã có gần 5000 thác bản cung cấp những tư liệu thiết thực cho việc nghiên cứu mĩ thuật cổ. Tỉ lệ đó tự nó cũng đã nói lên vai trò quan trọng rồi.

TB

ĐÁ, THỢ KHẮC VÀ ĐẶC TRƯNG BIA THẾ KỶ XVI

ĐINH KHẮC THUÂN

Bia thế kỷ XVI gồm phần lớn bia mang niên hiệu nhà Mạc, số khác mang niên hiệu nhà Lê. Mỗi loại có đặc trưng riêng. Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã tạo nên những đặc trưng đó và đó là những đặc trưng như thế nào? Với bài viết này, chúng tôi bước đầu lý giải vấn đề trên từ cạnh khía “kỹ thuật”: đá và thợ khắc bia.

1. Vài nét chung:

Chế độ phong kiến nhà Lê trải qua thời kỳ cực thịnh dưới triều Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), bước sang giai đoạn suy thoái của các đời vua Lê ở những năm đầu thể kỷ XVI. Nội triều xảy ra nhiều biến loạn và xuất hiện những cuộc hỗn chiến phong kiến. Kết cục vương triều Lê bị vương triều Mạc thay thế vào năm 1527. Nhà Mạc tuy lên ngôi, nhưng quyền thống trị còn vẫn yếu trên miền đất từ Thanh Hóa trở vào. Năm 1533 nhà Lê dựng lại sự nghiệp, nắm vững vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An. Từ đó tồn tại đồng thời hai vương triều Lê - Mạc và liên tiếp xảy ra xung đột. Năm 1592 nhà Mạc thất bại, phải rút khỏi Thăng Long. Sau đó có kéo dài thêm ít năm ở Cao Bằng, song vai trò nhà Mạc chủ yếu là ở giai đoạn thế kỷ XVI, trên các vùng đất xung quanh Thăng Long từ Ninh Bình trở ra.

Bia thế kỷ XVI hiện biết đều xuất hiện từ Thanh Hóa. Nghệ An trở ra. Trong đó bia mang niên hiệu Lê tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa, đất phát tích và trung hưng của nhà Lê. Bia mang niên hiệu Mạc tập trung ở Kiến An, Hải Dương và các vùng phụ cận Thăng Long. Cả thẩy gồm 201 chiếc(1) . Trong đó có 17 bia thần tích mang niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572) có vấn đề về văn bản. Chúng được khắc sau thế kỷ XVIII, dựa theo thần tích do đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và Quản giám bách thần Nguyễn Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu 3 (1737). Số còn lại 138 bia Mạc và 43 bia Lê có niên đại đích thực nhưdc ghi trên bia. Trong số 43 bia Lê có 27 bia ở giai đoạn đầu thế kỷ trước khi có bia Mạc và 16 bia ở giai đoạn đồng thời với bia Mạc. Bia Mạc xuất hiện liên tục từ năm 1529 đến năm 1592. Tất cả được phân bố như sau(2) :

Bia Lê giai đoạn đầu thế kỷ gồm: Thanh Hóa (10 chiếc), Nghệ An (3), Kiến An (1), Hải Dương (2), Hà Đông (3), Hà Nội (2), Hưng Yên (1), Sơn Tây (2), Nam Định (3).

Bia Lê (giai đoạn đồng thời với bia Mạc) gồm: Thanh Hóa (12), Nghệ An (1), Hải Dương (1), Hà Đông (1) và Ninh Bình (1).

Bia Mạc gồm: Kiến An (21), Hải Dương (29), Hà Đông (17), Hà Nội (3), Hưng Yên (11), Sơn Tây (6), Nam Định (11), Ninh Bình (9), Thái Bình (5), Bắc Ninh (11), Bắc Giang (2), Vĩnh Yên (7), Phú Thọ (3) và Quảng Yên (3).

2. Đá và thợ khắc bia:

a ) Nguồn đá:

Bia thế kỷ XVI có một số ít khắc trên vách đá tự nhiên và sử dụng nguồn đá có sẵn ở địa phương. Số còn lại đều được tạo tác từ các nguồn đá chuyên dùng khắc bia. Trong đó chủ yếu là ở trung tâm khai thác đá An Hoạch và Kinh Chủ.

An Hoạch nằm ở phía tây nam huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Núi cao, thoải, Đá mịn, tiếng kêu trong, có thể dùng làm bia, làm khánh cùng các vật dụng khác.

Đời Tấn bên Trung Quốc, quan Thái Thú Dự châu họ Ninh thường sai người lấy đá ở đây đem về làm khánh…(3) .

Kính Chủ có núi Dương Nham nằm ở phía Bắc huyện Giáp Sơn nay là huyện Chí Linh tỉnh Hải Hưng, liền với núi Yên Phụ cao 160 trượng(4) . Năm Thiệu Bình 4 (1430) vua Lê theo lời tâu của Nguyễn Trãi đã sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ làm khánh(5) .

Như vậy đá An Hoạch và Kính Chủ làm khánh làm bia tốt, đã được khai thác từ lâu. Đây là hai nguồn đá chính làm bia thế kỷ XVI.

b) Thợ khắc bia:

Thợ khắc bia thế kỷ XVI gồm thợ nhà nước, thợ dân gian chuyên nghiệp và thợ nghiệp dư ở địa phương.

Thợ nhà nước gồm những người làm trong cơ quan nhà nước chuyên san khắc đá của triều đình. Họ có chức vụ và nơi làm việc cụ thể. Chẳng hạn “Cẩn sự lang, ngự dụng giám san thư cục, Cục chính Phạm Bảo”, hoặc “Tiến công lang, khí giới doanh tạo sở ngọc thạch tượng, Tượng phó Hoàng Công Đào…(6) ”.

Thợ dân gian chuyên nghiệp gồm các phường thợ chuyên khắc đá trong dân gian. Trong số đó, nổi bật nhất là hai phường thợ An Hoạch và Kính Chủ. Thợ An Hoạch có truyền thống lâu đời: “Hiện nay, trong ấp còn có dòng họ Bạt Thạch”(7) . Vì lý do lịch sử, hiệp thợ này trong thế kỷ XVI chủ yếu hoạt động ở Thanh Hóa, Nghệ An và vài nơi thuộc Nam Định, Hà Đông(8) .

Thợ Kính Chủ từng nổi tiếng trong việc san khắc bia, được giao cho san khắc bia tiến sĩ ở nhà quốc học. Dân ở Kính Chủ từng được triều đình ban lệnh chỉ miễn phu phen tạp dịch để lo san khắc bia(9) . San khắc bia thế kỷ XVI, ngoài hai phường thợ trên, còn có khá nhiều phường thợ dân gian khác ở Hải Dương như thợ Hồng Lục, Gia Đức (huyện Kinh Môn), thợ Tứ Kỳ (huyện Tứ Kỳ)… Họ hoạt động khá rộng, đảm nhiệm phần lớn việc san khắc bia Mạc ở các vùng xung quanh Thăng Long.

Thợ nghiệp dư ở các địa phương cũng tham gia khắc một số bia thế kỷ XVI. Họ hành nghề không chuyên và chủ yếu khắc một số bia của làng xã họ.

Mỗi hiệp thợ khác nhau, có dụng cụ chạm khắc khác nhau, tay nghề khác nhau và quy trình san khắc cũng khác nhau. Có thể phết nước nâu lên mặt bia, chia hàng cột, kẻ vẽ, viết chữ lên rồi theo đó mà chạm. Chạm khắc xong, đánh nhẵn lại mặt bia, nước nâu mất, đường kẻ, ô cột mất, chỉ còn những hàng chữ hằn sâu trong bia(10) . Có thể viết bài văn bia trên giấy vừa với khuôn khổ bia. Dán giấy đó lên bia, rồi theo đó mà chạm. Cũng có thể trực tiếp đọc văn bản mà khắc thẳng lên bia.

Những bia được khắc theo hai quy trình đầu thường công phu hơn, đẹp và không bị lỗi. Ngược lại, ở trường hợp thứ ba, bia được khắc không cân đối, đôi khi khắc thiếu, phải khắc thêm chữ nhỏ ở bên, thậm chí khắc lầm, phải đục đi khắc lại. Trường hợp này thường là bia do thợ nghiệp dư khắc.

3. Các loại bia và đặc trưng của chúng

Như trên đã nêu, bia được làm từ các nguồn đá khác nhau, do những phường thợ với dụng cụ và quy trình chạm khắc khác nhau đã tạo nên các loại bia khác nhau và quy định đặc trưng của chúng. Kết quả đó được khái quát qua bảng sau:

Thợ khắc bia
Nguồn đá tạo bia
Thợ chuyên nghiệp dân gian Thợ nghiệp dư
địa phương
1. Vách đá tự nhiên
2. Đá chuyên dùng
3. Đá địa phương
x
x
x
x
x
x
Kết quả tạo bia Bia cung đình Bia dân gian
vừa cung đình
vừa dân gian
dân gian thuần túy

Qua bảng này, bia thế kỷ XVI hình thành 3 cụm:

- Bia vách đá do các hiệp thợ khắc.

- Bia dùng nguồn đá chuyên dùng do thợ nhà nước và thợ chuyên nghiệp dân gian khắc.

- Bia dùng đá sẵn có ở địa phương, do thợ nghiệp dư địa phương khắc.

Cụm 1:

Bia vách đá do các loại thợ khác nhau, khắc, đều được gọi là bia ma nhai(11) . Chúng có đặc điểm chung là khuôn khổ bia không bị hạn chế bởi vật liệu mà tùy thuộc vào độ dài, ngắn của bài văn bia. Phần lớn bia không có hình trang trí, không có trán bia, chân bia mà chỉ được đóng khung bằng đường viền xung quanh.

a) Bia ma nhai do thợ nhà nước khắc: Thường là những bài thơ, bài văn ngẫu hứng trước cảnh thiên nhiên, trước sự việc mà vua quan khi đi tuần thú, chinh phạt hoặc vãn cảnh đề tặng. Chẳng hạn bài “Ngự chế đề Long Quang động” của vua Lê Hiến Tông khắc năm Cảnh Thống 3 (1500) trên vách hang Mắt Rồng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa nhân lúc vua đi bái yết sơn lăng về(12) .

b) Bia ma nhai do thợ chuyên nghiệp dân gian khắc: Bia này thường gắn với di tích hang động như một số bia ở vách đá chùa thầy (Hà Sơn Bình)(13) . Bài văn bia phần lớn do các nhà sư có tiếng hoặc các bậc khoa bảng soạn. Bố cục và nội dung văn bia tương tự loại bia khắc trên đá chuyên dùng (sẽ nói ở sau), nói về danh lam, thắng tích.

c) Bia ma nhai do thợ nghiệp dư khắc: Bia này thường ghi về ranh giới ruộng đất các làng xã. Chữ khắc không đều.

Cụm 2:

Bia do thợ nhà nước và thợ chuyên nghiệp dân gian khắc trên đá chuyên dùng:

a) Bia do thợ nhà nước khắc: Chủ yếu là bia Lê ở giai đoạn đầu thế kỷ, bao gồm bia lăng mộ, bia vua quan và tầng lớp quý tộc nhà Lê, cùng bia tiến sĩ ở nhà Quốc học. Nguồn đá chính là đá Kính Chủ. Đây là bia “nhà nước” nên cách thức và nội dung văn bia đều tuân thủ theo quy chế chặt chẽ của triều đình. Bia nhìn chung rất hoành tráng, có màu xanh, đá mịn. Trán bia khá lớn, trung bình là 1,40x 0,70m, có bia cỡ 2,50x 1,60m, như bia lăng Túc Tông ở Lam Kinh. Đề tài trang trí trên bia phổ biến là đề tài rồng, phượng và hoa dây hình sin xen kẽ hoa lá đối xứng.

Thời Lê Sơ, nho giáo độc tôn. Rồng cũng được xem là hình mẫu tượng trưng của vương quyền. Do đó rồng nhất thiết được trang trí ở vị trí quan trọng nhất của tấm bia và được thể hiện rất trang nghiêm. Cùng với rồng là phượng. Nếu rồng là tượng trưng cho vua thì phượng là tượng trưng cho hoàng hậu. Và trong thẩm mỹ cổ truyền, rồng và phượng là hai đề tài được dùng như một cặp đối xứng: vua - hoàng hậu, dương - âm, mặt trước - mặt sau… Vì thế tất cả mặt trước bia lăng mộ vua quan nhà Lê đều sử dụng đề tài rồng. Nếu có đề tài phượng thì lại trang trí ở mặt bia sau. Ngược lại những bia về hoàng hậu, công chúa nhà Lê, đề tài phượng được trang trí ở mặt trước bia. Còn mặt sau nếu có thì phải sử dụng đề tài khác không phải là đề tài rồng, thường là đề tài mặt nguyệt hoa mây.

Tên bia được khắc to, theo hàng ngang dưới trán bia. Chữ khắc theo lối khải là phổ biến. Bên cạnh đó, có không ít bia được khắc lối chữ triện. Bố cục bài văn bai thường gồm hai phần: bài ký và bài minh. Bài ký khá dài, trung bình 400 - 500 chữ. Bài minh cũng lớn, chừng 30 - 40 câu. Văn bia đều do các bậc đại bút soạn. Ngôn từ được gọt giũa theo văn phong cung đình.

Hình thức và nội dung văn bia loại này được ấn định bởi công trạng của người được dựng bia, mức độ sự kiện dựng bia. Phù hợp với nó là loại đá làm bia, kích cỡ bia, người ónạ văn bia và thợ khắc bia… Chẳng thế, bia Lê Lợi phải do Nguyễn Trãi soạn, và các bia lăng mộ nhà Lê ở Lam Kinh đều bề thế hơn bia tiến sĩ ở nhà quốc học và các bia khác đương thời.

b. Bia do thợ chuyên nghiệp dân gian khắc:

Loại này gồm phần lớn là bia Mạc, còn lại là một số bia Lê ở giai đoạn đầu và cuối kỷ XVI.

- Bia nhà Mạc:

Vì lý do lịch sử, nhà Mạc không có bia lăng miếu như nhà Lê. Duy có một số bia về hoàng thân nhà Mạc nằm ở các di tích dân gian. Bia này cùng với bia tiến sĩ ở Văn miếu có thể xem là bia “nhà nước”: trang trọng hơn, quy mô hơn. Song so với cùng loại bia này thời Lê thì nó có cách thức không thật chặt chẽ theo lối cung đình, và nếu so với các loại bia khác cùng thời, thì hầu như không có sự khác biệt lớn.

Nguồn đá làm bia Mạc chủ yếu là đá chuyên dùng Kính Chủ. Mặc dù đá An Hoạch lớn, song bia Mạc không tận dụng được, bởi Thanh Hóa thuộc đất cai quản của nhà Lê. Thợ khắc bia không phải là thợ nhà nước mà hoàn toàn là thợ chuyên nghiệp dân gian. Bia Mạc thường có màu ngà, mặt bia bóng. Kích cỡ bia không lớn, trung bình 0,80x 0,50m. Bia mỏng, thấp: chiều cao so với chiều ngang không chênh lệch nhiều như bia Lê. Thậm chí có bia cơ hồ như hình vuông. Trán bia và điểm bia cũng nhỏ. Hình trang trí phổ biến được khắc chìm, nét khắc mảnh, mềm mại. Đề tài khá thống nhất song không bị gò ép cứng nhắc.

Đề tài truyền thống cung đình là rồng trên bia Mạc không chiếm ưu thế, chỉ có 41/110, chưa đạt 50%. Ngược lại đề tài mặt nguyệt hoa mây chiếm đa số: 66/110, trên 50%. Thời Mạc, rồng không có ý nghĩa tượng trưng cho vương quyền, nên không được thể hiện oai nghiêm như rồng Lê sơ. Hình rồng dân gian thời Lý, thời Trần cơ hồ bị vắng bóng ở thời Lê sơ thì lại được tái hiệnở đây. Rồng Mạc thể hiện theo ba dạng sau:

+ Dạng thân nhỏ, mình trơn, mang dáng dấp rồng truyền thống thời Lý.

+ Dạng thân mập có vẩy, đuôi dài uốn nhiều khúc là hình ảnh rồng cuối Trần. Hình rồng này khá phổ biến trên trang trí gốm Mạc, được gọi là rồng “yên ngựa”.

+ Rồng hình thú, thân ngắn, tiếp nối rồng Lê sơ. Tuy nhiên dáng thú ở đây được thể hiện cụ thể hơn, đa dạng hơn, có khi như hình cá sấu đầu rồng, có khi như đầu trâu(14) .

Trang trí trên diềm bia Mạc phổ biến là dây leo và hoa văn xoắn tựa tay mướp. Đôi chỗ xen kẽ bông hoa năm cánh hoặc hoa văn hình chữ S. Bố cục bài văn bia Mạc thường gồm ba phần: bài ký, bài minh và tên người công đức. Bài ký ngắn chừng 200 - 300 chữ, bài minh không dài, khoảng 12 - 15 câu. Văn bia hầu hết do các vị khoa bảng soạn. Chữ được khắc chìm , nét nông, mềm mại, nét móc và nét mác đôi khi vượt ra khỏi khuôn khổ ô vuông. Nội dung phản ánh trong bia Mạc chủ yếu là về chùa Phật (98/138 bia) sau đó là về Đạo giáo (8 bia) và về ruộng đất, chợ búa, cầu cống. Đặc biệt bắt đầu xuất hiện bia đình, bia bầu hậu. Số ít khác nói về đền miếu, lăng mộ, tiến sĩ…

Nếu trung tâm bia Lê ở Thanh Hóa, chủ yếu gồm bia về lăng mộ nhà Lê, thì trung tâm bia Mạc ở Kiến An, Hải Dương, phổ biến là bia về chùa Phật. Chúng được tạo bởi nguồn đá Kính Chủ do các thợ chuyên nghiệp dân gian ở Hải Dương khắc.

- Bia mang niên hiệu Lê:

Loại này chủ yếu gồm những bia nằm trong giai đoạn nhà Mạc ở Thanh Hóa và số ít ở vùng nhà mạc cai quản. Bia được tạo tác từ nguồn đá chuyên dùng An Hoạch và Kính Chủ do các thợ chuyên nghiệp dân gian khắc. Chúng cùng một phong cách với bia Mạc vừa nói ở trên: kích cỡ vừa phải, kỹ thuật khắc chìm, đề tài trang trí không chịu khuôn mẫu ngặt nghèo của triều đình.

Cụm 3:

Bia do thợ nghiệp dư địa phương khắc trên nguồn đá sẵn có nơi sở tại. Loại bia này không nhiều, chủ yếu nằm ở vùng gần núi đá như Ninh Bình, Vĩnh Yên… Bia hầu như không có hình trang trí, chữ khắc không đẹp. Bia thường màu xám, mặt bia không phẳng, mịn. Đối tượng dựng bia là dân thường và những sự việc thường ngày ở làng xã như việc gửi giỗ, mua bán ruộng đất… Văn bia do người địa phương soạn.

Từ ba cụm bia trên, có thể chia bia thế kỷ XVI thành hai loại chính: bia cung đình và bia dân gian. Bia cung đình gồm bia do thợ nhà nước khắc trên vách đá tự nhiên và các nguồn đá chuyên dùng. Cụ thể là một số bia lăng mộ, tiến sĩ, đề tặng của thời Lê sơ. Bia dân gian gồm bia do thợ chuyên nghiệp dân gian và thợ nghiệp dư khắc trên mọi nguồn đá. Trong đó có loại dân gian thuần túy, gồm bia do thợ nghiệp dư khắc trên nguồn đá sẵn có dở địa phương. Cụ thể là bia gửi giỗ, ruộng đất của làng xã. Số còn lại là bia vừa có tính dân gian, vừa có tính cung đình, bao gồm bia do thợ chuyên nghiệp dân gian khắc trên vách đá tự nhiên và nguồn đá chuyên dùng. Tính dân gian của chúng ở chỗ không chịu sự gò ép bởi khuôn mẫu ngặt nghèo. Tuy nhiên chúng đều do các bậc khoa bảng soạn, được các hiệp thợ có tay nghề cao khắc, đối tượng dựng bia đôi khi cũng là quan lại, hoàng thân của triều đình. Cho nên cũng thường sử dụng những mô típ trang trọng theo cung đình.

Tóm lại, bia thế kỷ XVI do thợ nhà nước, thợ chuyên nghiệp dân gian và thợ nghiệp dư khắc trên các vách đá tự nhiên, các nguồn đá chuyên dùng hoặc vật liệu sẵn có của địa phương. Do nguồn đá và thợ khắc bia với cách thức và quy trình san khắc khác nhau, đã hình thành nên từng loại bia, bao gồm bia cung đình và bia dân gian, trong đó bia dân gian là phổ biến. Bia dân gian thế kỷ XVI đã tiếp thu truyền thống dân gian của bia các thế kỷ trước, làm cơ sở cho bước phát triển đến tột đỉnh phong cách dân gian trên bia thế kỷ XVII sau này.

CHÚ THÍCH

(1) Thống kê này dựa chủ yếu vào kho thác bản văn khắc của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngoài ra có bổ sung một số tư liệu điền dã gần đây.

(2) Đơn vị hành chính dùng theo thời gian rập bia trước năm 1945 được ghi trên bản rập.

(3) Theo Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Thanh Hóa, quyển thượng, Bộ Quốc gia Giáo dục, xb năm 1960, tr.53.

(4) Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Hải Dương, Sđd, tr.46.

(5) Đại Viết sử ký toàn thư, Tập III, Nxb. KHXH, H. 1968, tr.113.

(6) Xem thác bản bia 13483 “Hàm hoàng quang đại chi bi” và 17924 “Đại Việt Túc Tông kính lăng bi”.

(7) Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Thanh Hóa, Sđd, tr.53.

(8) Trong giai đoạn một, có 2 bia ở Hà Đông và 1 bia ở Ninh Bình do Thợ An Hoạch khắc. Trong đó có 1 bia mang niên hiệu Lê.

(9) Xem bia “Tục lệ bi” ở xã Kính Chủ, số thác bản 12005.

(10) Xem Tăng Bá Hoành: Nghề cổ truyền, Ban nghiên cứu lịch số Hải Hưng, năm 1984.

(11) Ma nhai: Nghĩa gốc là mài lên vách đá.

Xem Chu Kiếm Tâm: Kim Thạch học. Văn vật xuất bản xã, Bắc Kinh 1981, trang 180.

(12) Ký hiệu thác bản: 17346.

- Thời Trần có bia ma nhai nổi tiếng là “Ma nhai kỉ công văn” do vua Trần Minh Tông sai Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn soạn năm Khai Hựu 7 (1335) khắc trên sườn núi Trầm Hương (Nghệ An) ghi chiến công thắng giặc Bồng man (Số ký hiệu 13444).

- Bia “Thác Bờ son bi” khắc bài thơ của Lê Lợi ở sườn núi Thác Bờ, huyện Đà Bắc (Hà Sơn Bình) năm Thuận Thiên 5 (1432) trên đường chinh phạt Thị tù đèo Cát Hãn. (Số ký hiệu 1234).

(13) Bia ma nhai chùa Thày:

- “Hiển Thụy am bi”, khắc năm Cảnh Thống 3 (1500) trên vách động Thanh Hóa (số ký hiệu 1223).

- “Thủy các bổ kinh bi”, khắc năm Đại Chính 9 (1533) trên vách đá chùa Thượng (số 1224).

- “Bối am tự bi”, khắc năm Sùng Khang 7 (1572) trên vách đá chùa Bối Am (số 20146).

- “Hiển động am bi”, khắc năm Hồng Ninh 2 (1592) trên vách đá chùa Bối Am (số 1222).

(14) Xem bia “Kim Lâu tự” dựng năm Hưng Trị 2 (1589) ở xã Đông Ninh, huyện Tiên Lãng (Kiến An) (số bia 9894).

(15) Duy có một văn bia được khắc nổi toàn bộ. Đó là bia của Thái hoàng, Thái hậu nhà Mạc mua ruộng cúng vào chùa ở Hải Dương, xem “Hoạch Trạch xã bi ký” (số ký hiệu 4340).

TB

MỘT CUỐN SÁCH ĐỒNG Ở HÀ NỘI

DƯƠNG THỊ THE

Sách bằng đồng là loại sách quý hiếm ở nước ta. Loại sách này không thấy có trong kho sách thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Hiện nay ở làng Đông Lao, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội, có một cuốn sách bằng đồng. Ở một vài nơi như Vĩnh Phú, Lạng Sơn, Nghệ Tĩnh cũng lác đác còn giữ được một vài cuốn(1) .

Gần đây, chúng tôi có dịp về công tác tại làng Mai Phúc, xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, có phát hiện thêm một cuốn sách bằng đồng nữa.

Cuốn sách này gồm 12 lá đồng, khổ 18 x 34 cm, được đóng lại bằng dây đồng. Sách nặng ≈ 1 kg, không có trang trí. Trên các lá đồng có khắc chữ Hán, và đánh số trang từ 1 đến 12 ở góc trên phía trái sách. Mỗi trang có 7 đến 8 dòng, mỗi dòng từ 5 đến 25 chữ; chữ khắc chìm, chân phương, bố trí theo cột dọc từ trái sang phải.

Xem nội dung, thấy đây là cuốn thần phả của đình làng kể về 2 vị thần triều nhà Đinh. Một vị là Xuân Vinh đại vương và em gái là Luân Nương công chúa. Đây là 2 vị tường tài có công dẹp loạn 12 sứ quân.

Phần đầu của sách, tác giả điểm lại lịch sử nước nhà từ thời Hùng Vương đến sau cuộc dẹp loạn 12 sứ quân, Vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi.

Phần thứ hai, tác giả kể về lai lịch 2 vị thần; tên cha mẹ, quê quán, ngày sinh tháng đẻ của 2 vị thần.

Sách viết: “Kỳ tiên tổ, bản thị Bố Chánh châu, nhân tị loạn, cư trú ư Mai Động trang, chi công ư tam đại hĩ… Chi Giáp dần niên xuân thiên chính nguyệt thập nhị nhật, Dẫu thời khắc sinh hạ nhất nam… nãi mệnh danh vi Xuân Vinh… Chi kỳ mãn nguyệt, sinh hạ đăc nhất nữ, nhan sắc phương phi… mãi mệnh danh Luân Nương” (Tổ tiên ông vốn là người châu Bố Chánh, chạy loạn đến ở trang Mai Động, đến ông là đời thứ 3… Vào giờ Dần ngày 12 tháng giêng sinh hạ 1 trai… bèn đặt tên là Xuân Vinh… Đến kỳ sinh nở, bà sinh được 1 gái, nhan sắc phương phi… đặt tên là Luân Nương).

Tiếp đến phần ba: sách nói về tài ba, trí thông minh, lòng dũng cảm và công lao của 2 anh em vị thần. Sách viết “Thần hữu Ngô sứ quân danh viết Nguyễn Khoan cứ Tế Giang, văn công huynh muội giai thị anh tài, mưu trí. Toại mệnh gia thần lai dụ, công bất khẳng đáp, thư thư khinh mạn. Sứ thần đại nộ, đề tương binh mã lai công. Huynh muội dữ binh sĩ cộng Mai Động trang nhân dân, dữ Ngô sứ quân cự chiến. Ngô quân đại bại, bất cảm xâm nhiễm… Đinh Hoàng kiếm Vinh công tướng mạo đường đường, uy dũng lẫm lẫm, thân trường bát xích, lực địch vạn nhân, nãi bái vi Xuân Vinh đại phu, đốc lĩnh tiên phong sứ, kích Ngô sứ quân danh Kiều Công Hãn vu Phong Châu. Công phụng mệnh, đãi hồi Mai Động, dữ thân muội Luân Nương trực để Phong Châu dữ Công Hãn đại chiến nhất trận. Công huynh muội trảm Công Hãn vu trận tiền. Ngô binh đại bại, hội tán, truy trảm vô số” (Lúc ấy có Ngô sứ quân tên là Nguyễn Viết Khoan cát cứ vùng Tế Giang, nghe tin anh em ông là bậc anh tài, mưu trí, bèn sai gian thần đến dụ, ông không theo còn trả lời rất khinh mạn. Sứ thần bực tức mang binh mã đến đánh anh em ông. Anh em ông cùng nhân dân Mai Động chống trả, Ngô sứ quân thua chạy. Từ đó không dám quấy nhiễu nữa. Đinh Tiên Hoàng thấy Vinh công tướng mạo oai phong lẫm lẫm, thân dài 8 thước, sức địch vạn người, bèn tôn ông là Xuân Vinh đại phu, cho làm tiên phong sứ đi đánh Ngô sứ quân là Kiều Công Hãn ở Phong Châu. Ông nhận mệnh trở về Mai Động cùng em gái là Luân Nương tiến thẳng đến Phong Châu đánh Kiều Công Hãn. Tại trận anh em ông đã chém được Kiều Công Hãn. Quân Ngô thua to. Quân sót lại chạy toán loạn, ông đuổi chém được vô số).

Phần tiếp theo sách chép ngày hoá của 2 vị thần và lễ tế thần của dân Mai Động.

Cuối cùng ghi năm làm bản sách đồng: “Khải Định ngũ thiên, thập nguyệt, cát nhật, Mai Phúc xá tu đồng bản” (ngày lành tháng 10 năm Khai Định thứ 5 (1920) xã Mai Phúc làm bản đồng).

Hiện nay sách đồng này vẫn được các cụ trong Ban khánh tiết đình Mai Phúc giữ gìn rất cẩn thận và trân trọng. Song như ta biết loại sách ấy còn cần được bảo vệ tốt hơn nữa, bởi lẽ đây là văn bản quý hiếm. Chất liệu văn bản đã là quý, nội dung văn bản càng có ý nghĩa không nhỏ. Dưới lớp vỏ huyền thoại, câu chuyện kể lai trong cuốn sách sẽ gợi cho nhiều nhà nghiên cứu sử học, xã hội học, khảo cổ học về nhiều vấn đề. Trong chính sử những đoạn miêu tả, tỉ mỉ, đầy đủ về 1 vị tướng dẹp 12 sứ quân chưa có nhiều. Thì đây, cuốn phả đồng này phải chăng là một tư liệu quý, có thể bổ sung cho chính sử? Một điều cần lưu ý nữa là sự tích truyền miệng do các cụ già kể, câu đối, sắc phong hiện còn với nội dung cuốn phả hoàn toàn phù hợp. Ngoài giá trị trên, chúng ta có thể tìm hiểu, khai thác về nhiều khía cạnh như: sự quan tâm đến việc thống nhất đất nước, đến đời sống nhân dân, lệ kiêng huý, lệ thờ cúng thần của địa phương, sự thay đổi tên gọi của địa phương v.v…

Để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu toàn văn cuốn sách đồng vừa sưu tầm được tại làng Mai Phúc, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

PHẢ ĐÌNH MAI PHÚC, XÃ GIA THỤY HUYỆN GIA LÂM

Ngọc phả ghi về 2 vị công thần triều nhà Đinh, một vị đại vương, 1 vị công chúa.

Cấn chi, bộ thứ 3, hạng trung, bản chính tại bộ lễ quốc triều(2) .

Xưa.

Hùng Vương sơn vốn là thánh tổ trời Nam, xưa gọi là Việt Thường. Kinh Dương Vương thừa nhận mệnh cha, đến nhận chức ở nước Việt ta, truyền mấy đời, xưng là Lạc Long quân. Xem ra nước Việt ta, hình thế núi sông tiện lợi, biền châu thắng địa, xây dựng kinh đô, củng cố vùng Nga Lĩnh sửa sang miêu điện, cha truyền con nối hơn 2000 năm đều lấy Hùng Vương làm hiệu.

Đến Tấn Vương đóng đô ở Việt Trì, không có người nối dõi nhường cho Thục An Dương Vương.

Dương Vương lấy được nước 50 năm thì có người ở Chân Đình họ Triệu tên là Đà đem quân đến xâm lược, thế là nước Thục mất. Triệu Đà lấy được nước, cha truyền con nối làm vua được 5 đời. Tiếp đó nước ta bị thuộc về Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề,, Lương gồm 349 năm. Đến Tiền Lý, Hậu Lý, 12 sứ quân cát cứ chia se, nước Việt ta bị tàn phá, sinh dân lầm than. May thay lòng người chán loạn, ý trời muốn mở cho họ Đinh, nên có người ở miền đất rộng động Hoa Lư họ Đinh tên là Bộ Lĩnh ngầm nổi binh ở động Hoa Lư, cùng với đại tướng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc chiêu tìm anh tài hào kiệt, dự trữ lương thực, chờ thời nổi dậy. Lúc đó ở trang Mai Động, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An(3) có 1 người biết cư xử với đời, hiếu đễ với nhà, họ Lê tên là Cự. Tổ tiên vốn là người châu Bố Chánh(4) lánh loạn Nhiễu Dương Tư, cư trú ở trang Mai Động, đến ông đã là đời thứ 3 rồi, lấy người ở Nga Bá tên là Hoàng Thị Tuyết, gia thế vốn hoà cường. Vợ chồng sống rất trung hậu. Lúc ấy, ông đã ngoài 40 mà chưa có con. Vì thế ông chí hết gia tài, chuẩn cấp cho người ngèo, chỉ cầu mong có con nỗi dõi. Phàm là đền thờ thần, chúa thờ phật, không nơi nào ông không đến cầu khấn. Một hôm nghe nói có chùa ở núi Yên Tử, đạo Hải Dương(5) có đền thờ rất linh ứng, cầu gì được nấy. Ngay hôm đó, vợ chồng ông đem tiền, hương tiến cúng và khấn rằng: Thần ở trần thế, của cải nào có thiếu, nhưng lại chẳng có con, dám xin ngài rộng lòng từ bi xét tới lòng thành, cho một điều phúc, vợ chồng tì thần nhận được, xin đội ơn mãi mãi, phật chứng minh cho.

Khấn xong, đêm hôm đó, vợ chồng ông nằm ở trước án ngủ thiếp đi, bỗng mộng thấy trong chùa sáng bừng, hương khói thơm nức, kim đồng ngọc nữ cầm đàn sáo hát, vàng bạc châu báu vô số, ở phía trong điện chính có một vị quan áo tím ngồi ở trên tuyên chiến với vợ chồng ông rằng: Nhà ngươi đã tích đức 3, 4 đời cho tới nay chưa mảy may làm điều gì ác. Giờ đây một bên là tiền của, một bên là tiên đồng, ngươi muốn lấy vật gì ta cũng cho. Vợ chồng mơ màng ngước về phía tiên đồng, ở đó có một đứa con trai rất kháu. Vợ chồng vui sướng cầu xin. Quan mặc áo tím bèn chuyền cho vị sứ mặc áo xanh chọn đứa bé. Theo mộng đó ắt là có điềm lành. Hôm sau, ông bà làm lễ bãi tạ rồi về. Từ đó, bà có mang. Được 12 tháng, đến giờ Dần ngày 12 tháng giêng mùa xuân năm Giáp dần sinh hạ được một con trai. Thần sắc hiên ngang, cao khác người thường, cha mẹ đặt tên là Xuân Vinh. Năm 12 tuổi, cậu bắt đầu học ở nhà họ Dương tiên sinh. Học ở vài năm, văn chương thông thái, thiên sử bách gia, không gì không thuộc, từ thiên văn đến địa lý, không gì không biết, không vật gì không hiểu. Lại ham cung tên, thích binh pháp. Mỗi khi bàn luận nói chuyện thì từ cha mẹ đến bạn bè, không ai không kinh sợ bái phục.

Năm ấy Hoàng Thị Tuyết trong mộng còn thấy một ông lão tóc bạc phơ, ban cho một bông hoa mai thế là bà có thai. Đến kỳ sinh nở, bà sinh được một cô con gái nhan sắc tuyệt trần, phong tư yểu điệu, môi đỏ mặt phấn, tuyệt thế giai nhân. Cha mẹ đặt tên là Luân Nương (nàng Luân). Đến năm 3 tuổi cha mẹ đều mất. Cô ở với anh trai. Năm 15 tuổi, theo anh học rất giỏi, lại kiêm lục giác(6) , không gì không tinh xảo. Thực là một kỳ tài trong giới nữ. Anh em khảng khái, có chí lớn. Anh em thường nghĩ: nước Việt ta tại sao không có người dẹp loạn 12 sứ quân? Thế là kết thành một đảng, dự trữ lương, rèn quân tinh nhuệ, âm mưu làm việc lớn. Hào kiệt các huyện bên, phần lớn kéo về, không hô hào kêu gọi mà xa gần đều biết tên. Lúc đấy có sứ quân tên Nguyễn Viết Khoa(7) cát cứ vùng Tế Giang(8) , nghe tài anh em ông là bậc anh tài mưu trí bèn sai gia thần đến dụ. Ông không chịu, trả lời rất khinh mạn. Sứ thần bực tức đem binh đến mà đánh anh em ông. Anh em ông cùng dân binh Mai Động chống lại. Ngô sứ quân thua chạy, không dám quấy nhiễu. Biên cương Mai Động nhờ anh em ông mà được yên ổn. Từ đó tiếng tăm càng lẫy lừng trong thiên hạ. Thời kỳ đó Đinh Tiên Hoàng sai quan văn là Đinh Điền ban chiếu mời anh em ông đến yến ẩm họp mặt. Ở nhà, ông uống say, ngủ thiếp đi. Bỗng trong mơ hiện lên một ông lão mặc áo trắng đội mũ chỉnh tề, đoàng hoàng xuống thẳng chỗ ông nằm. Ông liền hỏi ở đâu mà dám đường đột như vậy. Lão ông cười rồi ngâm:

Lại nhật Điền nhân đáo nhữ gia,
Đinh Hoàng chính thống nhất sơn hà.
Quân thần cộng hợp bình Ngô tặc,
Thiên dĩ định chi, khởi hữu ngoa.

Dịch nghĩa

Đinh Điền sẽ đến nhà ngươi,
Tiên Hoàng là người có chí thống nhất sơn hà.
Vua tôi hãy hợp sức dẹp giặc Ngô.
Trời đã định rồi há phải ngoa.

Ngâm xong ông lão vút lên không biến mất. Tỉnh dậy, ông biết mình mơ. Lúc bấy giờ trời đã sáng. Ba bốn khắc(9) đã thấy một cánh quân khí giới người ngựa tinh nhuệ tiến đến đồn sở. Anh em ông tưởng là tướng giặc Ngô bèn bài binh bố trận, lên ngựa chỉ vào đám quân mà mắng rằng: mày là quân Ngô đến xâm lấn bờ cõi của ta, không tự giữ, ta quyết đánh mày, mày sẽ bị bại.. Rồi thấy một người cưỡi ngựa ô, cầm binh khí tiến thẳng đến nói rằng: ta là tướng phụ của Tiên Hoàng, họ Đinh tên Điền, vâng mệnh Đinh Tiên Hoàng, đến cùng Vinh công đồng tâm báo quốc tiễu trừ giặc Ngô, lấy lại bình yên, cùng hưởng niềm vui mãi mãi. Ông nghe vậy, nghĩ ngay đến lời báo mộng của thần. Điền nhân tức là chữ điền vậy. Ai nấy gác đao, bắt tay vui vẻ đón Điền vào đồn sở, mở tiệc khao quân. Xong việc, chiêu mộ được 3000 người khoẻ mạnh lên đường đánh giặc, còn đồn sở giao cho em gái trông giữ. Từ khi ông cùng Đinh Điền yết kiến Đinh Tiên Hoàng, Tiên Hoàng thấy Vinh Xuân công tướng mạo oai phong lẫm lẫm, thân dài 8 thước(10) , sức có thể địch được vạn người, bèn tôn là Vinh Xuân đại phu, giao cho làm tiên phong sứ đi đánh Ngô sứ quân là Kiều Công Hãn(11) ở Phong Châu(12) . Ông vâng mệnh trở về Mai Động cùng em gái là Luân Nương tiến thẳng đến Phong Châu, đánh nhau với Kiều Công Hãn. Anh em ông trong một trận chém được Công Hãn. Quân Ngô đại bại, chạy toán loạn, ông lại đuổi, chém được vô số. Còn lại 11 sứ quân, Đinh Điều, Nguyễn Bắc chia ra các đạo và dẹp được hết. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua ở Hoa Lư, mổ châu bò khao tướng sĩ. Các công thần lớn nhỏ đều phong đại vương, phong Xuân Vinh là “Xuân Vinh đại vương”, Luân Nương được Phong là “Luân Nương công chúa”.

Có công với dân tất được dân nhớ tới mà thờ cúng. Ông dâng biểu xin vua cho trang Mai Động miễn đi lính, các thuế dung, tô(13) mà tạp dịch để anh em ông trăm tuổi về sau có nơi thần hưởng. Vua cho phép. Ngay hôm đó anh em bái tạ, rước sắc vua ban cho đại vương về trang Mai Động làm lễ mừng. Hôm ấy, nhân dân trang Mai Động làm lễ mừng. Bổng lộc được hưởng, ông chia hết cho nhân dân Mai Động. Lại biết nhân nghĩa đoàn kết nhân tâm để cùng vui, còn làm lễ khuyến học, nông tang, trừ hại. Nhân dân già trẻ trang Mai Động rất mến ông. Ông nhìn trong ấp có một giải đất, sông uốn quanh như rồng lượn, đó là mạch nước nhỏ, cảnh sơn thuỷ hữu tình, bèn truyền cho binh sĩ nhân dân lập một ngôi đền thờ sống, hướng nam. Tháng 3 thì xây xong. Ông lại ban cho dân 3 hốt vàng để sau chi dùng trong các tiết lễ và ngày sóc vọng hàng năm. Ông về chầu vua, chầu xong lại về đền cung Mai Động. Một hôm anh em đương ngồi ở cung đền, tả hữu, nhân dân đứng hầu, bỗng thấy trời đất tối sầm, gió mưa ập đến. Lúc đó ở trong cung như có tiếng người ngâm rằng:

Mai Động nhân hề, Mai Động nhân,
Ngô thừa sắc chỉ báo ư dân:
Kim chiếu Vinh, Luân hồi tiên cảnh,
Tâu vi huyết thực nhã nhân thần.

Nghĩa là:

Người Mai Động, hỡi người Mai Động
Ta vâng sắc chỉ báo với dân rằng:
Có chiếu vàng gọi Vinh, Luân về tiên cảnh,
Sau này làm thần hưởng ở đây.

Đọc xong, thì trời quang mây tạnh, mọi người nhìn lên trên tòa thì không thấy 2 anh em đâu nữa, mà chỉ còn lại áo mũ ở đó. Lúc bấy giờ là ngày 25 tháng 12. Nhân dân đều rất sợ, làm lễ tâu với triều đình. Đinh Tiên Hoàng nghe nói, nhớ đến công lao của 2 anh em, bèn gia phong mỹ tự “Vạn sứ thần” và cho sửa sang xây dựng miếu vũ, cho phép dân Mai Động được làm dân hộ nhi(14) để thờ phụng. Bốn mùa hương khói, mãi mãi cùng đất nước hưởng điều lành.

Phong ông là “Vinh Xuân hộ quốc tán trị linh đức đại vương”, cho phép trang Mai Động được thờ phụng.

Phong đức vua bà la “Luân Nương trịnh thục từ hòa công chúa”, cho phép trang Mai Động được thờ phụng. Từ đó về sau trải các triều Lê, Lý, Trần, Lê thường giúp nước, giúp dân rất linh ứng, cho lên nhiều lần gia phong mỹ từ, để ức năm được hưởng còn mãi cùng trời đất.

Phụng khai: Vinh, Luân là chữ húy, cấm dùng.

Mặc sắc phục hai màu hồng vàng làm lễ. Cấm dân dùng màu đỏ.

Ngày sinh của thần đại vương: lễ dùng lợn đen, xôi rượu, trầu cau, vàng mã, ca hát 5 ngày. Sinh nhật thần công chúa ngày 12 tháng 2. Lễ trên, dùng cỗ chay, dưới dùng lợn đen, xôi rượu. Ngày hoá của đại vương, công chúa… lễ trên dùng lễ chay, dưới, dùng lợn đen, xôi, rượu, trầu, vàng. Mã…(15) .

Lễ mừng ngày 10 tháng 10, lễ dùng lợn đen, xôi, trầu, rượu, ca hát 1 ngày.

Ngày lành đầu xuân năm Hồng Phúc (1572).

Hàn lâm viện, đông các đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng soạn.

Ngày lành tháng giữa đông năm Vĩnh Hựu 3 (1737). Quản giám bách thần trị diện Hùng lĩnh thiếu khanh thần Nguyễn Hiền tôn cựu chính bản.

Ngày lành tháng 10 năm Khải Định 5 (1920)

Xã Mai Phúc làm bản đồng.

CHÚ THÍCH

(1) Quốc triều: Triều nhà Lê. lịch số

(2) Thuận An: thuộc trấn Kinh Bắc, nay là huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

(3) Bộ Chánh: thuộc tỉnh Quảng Bình cũ

(4) Núi Yên tử, đạo Hải Dương: nay thuộc về tỉnh Quảng Ninh.

(5) Lục Giáp: pháp thuật sai khiến quỷ thần.

(6) Nguyễn Viết Khoan còn gọi là Nguyễn Thái Bình.

(7) Tế Giang: thuộc lộ Bắc Giang, tức vùng Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng sau này.

(8) Khắc là đơn vị đo thời gian. Một khắc tương ứng với 1 phút

(9) 8 thước: Cánh nói thậm xưng, để chỉ một con người có tạm thước cao lớn.

(10) Kiều Công Hãn: cháu nội của Kiều Công Tiễn, xưng là Kiều Tam Chữ, giả miền Phong Châu.

(110 Phong Châu: Phía Nam Bạch Hạc. Nơi đây còn dấu thành xưa ở làng Phú Lâm huyện Bạch Hạc.

(12) Dung, tô: Thuế thân và thuế ruộng.

(13) Dân hộ nhi: dân được miễn sưu dịch để trông nom đến chùa.

(14) Chữ chấm lửng “…” là chữ mờ, không đọc được, nên ở đây không dịch.

TB

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC MỘT ẤN TRIỆN TRIỀU NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

ẤN TRIỆN - loại hình ta thường thấy xuất hiện không ít trên công văn, sắc, chiếu, sách. bằng khuôn cỡ, bố cục, chữ triện khác nhau: loại hình mà người làm công tác nghiên cứu văn bản Hán Nôm, khảo cổ, lưu trữ, bảo tàng đều thấy đó là đề tài cần tìm hiểu và giải mã.

Ngoài số ấn triện bằng hiện vật còn nằm ở một số nơi thuộc các cơ quan bảo tàng, văn hóa và rải rác ở các địa phương, trong dân gian, dấu ấn còn giữ lại được nhiều trong thư tịch sắc phong ở các thư viện, kho lưu trữ, trong các chùa đền. Bước đầu chúng tôi xin giới thiệu ấn triện triều Nguyễn với những loại hình có tên gọi khác nhau, quy định được dùng ấn ở một số cấp ngành, có liên quan đến vấn đề quan chức chế đầu đời Nguyễn.

Với chủ trương xây dựng một chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay nhà vua. Ấn và kiếm là biểu thị quyền lực tối cao của đấng thiên tử, nên ấn của vua được đặc biệt coi trọng. Bao giờ ấn của vua cũng được làm to hơn cấp dưới, trên ấn thường chạm trổ hình tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng), nét khắc rất công phu: mặt dưới thường làm theo hình vuông, hoặc hình tròn. Chất liệu, nếu có ngọc lớn thì đóng chữ Ngọc tỷ hoặc chữ tỷ. Khi không có ngọc lớn thì đúc ấn bằng vàng và khắc chữ Tỷ, như dấu “Đại ham hoàng đế chi tỷ”(1) của vua Minh Mệnh.

Việc đúc ấn của vua diễn ra với những nghi thức hết sức long trọng. Đại Nam hội điển toát yếu (2) ghi rõ “Phàm khi có đúc ấn bằng vàng, thì trước đó Bộ (3) tư cho Khâm Thiên giá (4) chọn ngày tốt, phủ Thừa Thiên sắm sửa lễ vật. Đến ngày đã định, hữu ty kính cáo với thần Tư Công (5) rồi Bộ hội đồng với Vũ khố (6), phủ Nội vụ (7) kính cẩn giám thị, theo quy thức chế tạo, khi đúc xong dâng lên”.

Ấn của vua được dùng nhiều nhất là chữ BẢO 寶, chữ Bảo được dùng với nhiều dạng dấu khác nhau. Loại trực tiếp vua dùng như dấu “Hoàng đế chi bảo” (8) hoặc gián tiếp quần thần thay mệnh vua đóng, loại lớn như “Quốc gia tức bảo”, kiềm bảo nhỏ như “Ngự tiền chi bảo” (9) v.v.

Không phải tất cả ấn có chữ Bảo đều làm bằng vàng, mà những dấu do bộ trực, văn phòng quản lý, thay mặt vua đóng vào văn bản khi đã được “chân phê” hoặc “châu điểm”, cũng chỉ được làm bằng ngà. Xin giới thiệu quả ấn bằng ngà có dòng chữ Bảo, còn giữ được ở viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Ấn có ký hiệu LSb.62 - 78, ngoại hình mặt trên chạm trổ hình con lân ở thế đứng, không ghi niên đại. Dấu hình tròn có đường kính 10.8 cm; viền vòng ngoài để rộng 1.5cm khắc hình 2 con rồng uốn dài châu đầu vào hình cầu bốc lửa phía dưới, hai bên hình cầu có những đám mây. Vòng trong gồm 12 chữ triện khắc rõ nét xếp theo chiều dọc 4 hàng, 8 chữ ở 2 hàng giữa và 4 chữ xếp 2 hàng bên để cân đối với dấu hình tròn. Đó là 12 chữ “Hoan phụng ngũ đại đồng đường nhất thống Thiệu Trị chi bảo”.

Như vậy niên đại của ấn đã được xác định tương đối rõ, ấn được làm trong khoảng đời Thiệu Trị (từ 1841 đến 1847).

Trên văn bản, Bảo thường thấy nhiều nhất ở sắc phong, ngoài số sắc phong có ở Thư viện ra, còn nằm rất nhiều trong dân gian (chùa, đền, miếu)… Ở sắc con dấu có cỡ khá lớn, thường là dấu hình vuông, cỡ 13 x 13 cm, có khi còn lớn hơn với 4 chữ triện vuông vức “Sắc mệnh chi bảo” được đóng rõ nét với màu son đỏ, chỗ ghi niên đại ngày tháng.

Ấn mang chữ Bảo có từ lâu đời, suốt trong thời kỳ phong kiến nước ta, qua mỗi triều đại không thấy có sự đổi thay, và duy trì cho đến khi nhà Nguyễn chấm dứt.

Ở các cấp các ngành việc dùng ấn cũng có quy định rõ ràng. Từ cơ quan ở các bộ, khoa, đạo v.v… xuống tới các địa phương cấp huyện dùng ấn có chữ Ấn 印 . Ở đây ta phải phân biệt từ “ấn” một loại danh từ chung chỉ tất cả những loại ấn khác nhau; một loại là danh từ riêng chỉ loại hình ấn lớn của cơ quan, ấn ở đây cũng như Tỷ, Bảo là chữ cuối cùng ở dòng chữ trong dấu. Số lượng ấn cơ quan tương đối nhiều, chiếm phần lớn trong toàn tổng số ấn triện. Ấn có cỡ lớn thường là ấn cơ quan bộ, hoặc là những chức phẩm hàm ngang bộ bên quân đội, ví như ấn bộ Hộ: “ Hộ bộ chi ấn” (10), cũng như ấn các bộ khác, ấn này có kích thước 9,2 x 9,2 cm.

Ấn lớn của cơ quan được quy định về kích thước cho mỗi cấp, ngành và bao giờ cũng làm theo hình vuông. Đại nam điển lệ ghi rõ, trong mục “Ấn triệu các quan chức: “Lệ năm Minh Mệnh 13 (11) (1832) định, các quan Tổng đốc Tuần phủ ở các tỉnh (12)… Các quan Bố chánh, Án sát ở các đạo ấn vuông 1 tấc 8 phân… Ấn các quan phủ vuông 1 tấc 6 phân 2 ly. Ấn các quan huyện quan châu vuông 1 tấc 4 phân…”. Như vậy ta thấy rõ cấp bậc rõ hơn thì dùng ấn nhỏ hơn. Dấu Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi “Quảng Ngãi bố chính sứ ti chi ấn” (13) đóng năm Thiệu Trị thứ 7 (1874) có cỡ 7,5x7,5cm so với dấu “Hộ bộ chi ấn” trên thì dấu này cỡ nhỏ hơn hẳn.

Giới thiệu tiếp một ấn cơ quan cấp huyện có ở viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Ấn có ký hiệu L.Sh 2523, chất liệu bằng đồng, ngoại hình có cán chuôi, cao 5,5cm và dầy 1,5cm. Mặt trên không ghi rõ niên đại và nơi sản xuất, chỉ ghi trọng lượng 15 lượng. Dấu hình vuông cỡ 6x6cm, viền ngoài để đậm 0,5 cm; 4 chữ triện xếp theo chiều dọc 2 hàng, nét chữ mềm cong, bố cục chữ xếp không được đều, nét chữ thiếu ngay ngắn. Đó là 4 chữ “Văn chấn huyện ấn” (Xem ảnh 2). Đây là dấu cơ quan huyện Văn Chấn, đồng thời cũng là dấu lớn nhất cấp huyện do Tri huyện Văn Chấn quản. Đời Gia Long, Văn Chấn thuộc phủ Quy Hóa, trấn Hưng Hóa, đến Minh Mệnh 13 (1832) đổi thành tỉnh Hưng Hóa (14).

Xét về kích thước dấu có cỡ bằng tất cả mọi dấu cơ quan cấp huyện (Tri huyện) như lệ Minh Mệnh 13 (1832) đã định. Nét chữ triện giống với chữ của những dấu đời Nguyễn, cộng với phần ngoại hình ấn, chúng tôi khẳng định đây là ấn triều Nguyễn.

Để tập trung quyền hành, các vua Nguyễn trực tiếp bổ nhiệm quan chức từ trên xuống tận cấp huyện (Tri huyện). Mọi quy chế đầu đời Nguyễn rất được chú trọng, nên ngay cả những ấn dấu cấp thấp thời nay cũng phải được làm nghiêm túc, bố cục cân đối, nét chữ đều đặn, ngay ngắn, thường có khắc niên đại trên ấn. Đời Gia Long quy chế còn giảm được, nhưng chữ triện trong dấu vuông vức gần với thời Lê - Trịnh hơn. Đến các vua đời sau này có kém đi, lại thấy trong Đại nam điển lệ ghi rõ: “Lệ Đồng Khánh năm đầu định rằng các ấn, kiềm, đồ ký ở các tỉnh hạt xứ Bắc kỳ, nếu có thất lạc cái nào, tâu lên nha kinh lược, sẽ theo kiểu mà chế tạo cái mới cấp cho. Việc làm xong, nha kinh lược phải đệ cái kiểu ấy về bộ để lưu chiểu” (15). Qua những điểm trên cộng với việc so sánh những con dấu đồng hạng cấp huyện ở các đời Nguyễn, chúng tôi cho rằng ấn có ký hiệu LSb 2523 là ấn được làm mới sau này bổ sung cho cái cũ bị thất lạc, vào khoảng đời Đồng Khánh.

Ngoài ấn lớn của cơ quan, còn có một loại hình ấn được làm với kích thước khá nhỏ, đơn giản mà triều Nguyễn gọi là KIỀM. Ở đây kiềm không phải là chữ cuối cùng trong dấu mà danh từ chung chỉ loại ấn nhỏ này: có thể dịch nghĩa kiềm là ấn nhỏ của cơ quan. Ở mỗi cơ quan dù là cấp bộ hay ở cấp huyện, châu, bên cạnh ấn lớn bao giờ cũnh có một kiềm con đi kèm. Như bộ Lại với ấn lớn: (Lại bộ chi ấn) và 1 kiềm con đóng 2 chữ “Lại bộ” (16).

Trên văn bản số lượng dấu kiềm bao giờ cũng xuất hiệu nhiều hơn những dấu khác. Ví dụ trên 1 bản lục (bản phải hoàn về nha môn gốc) ấn lớn của bộ đóng 1 dấu ở trang cuối, thì kiềm nhỏ của bộ đóng nhiều nơi trên mặt chữ và chỗ giáp trang trên nhiều trang giấy. Điều này cũng chứng tỏ vai trò khi nghiên cứu văn bản Hán Nôm.

Đơn cử 1 kiềm nhỏ cấp huyện còn ở viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Kiềm có ký hiệu LSb 2519, chất liệu bằng đồng. Ngoại hình theo kiểu hình thang, cao 2,2 cm, mặt trên cỡ 1,3 x x1,3 cm, đặt dấu hình vuông cỡ 1,9 x 1,9 cm. Hình dấu là 2 chữ triện xếp theo chiều ngang từ phải sang trái. Đó là 2 chữ “Văn Chấn”. Đây là kiềm nhỏ cấp huyện, bên cạnh ấn lớn huyện Văn Chấn “Văn Chấn huyện ấn” mô tả ở trên. Với bố cục chữ trong dấu không cân đối, nét chữ giống như dấu lớn “Văn Chấn huyện ấn”, cộng với việc xác định niên đại của ấn lớn huyện Văn Chấn đã nói, chúng tôi cho rằng kiềm nhỏ này có cùng niên đại với ấn LSb 2523, tức là vào khoảng đời Đồng Khánh.

Danh từ ta thường thấy đi liền với ấn là CHƯƠNG 章 , nên ấn triện còn có tên gọi nữa là ấn chương. Triều Nguyễn ấn có chữ “Chương” chỉ xuất hiện và tồn tại trong thời Gia Long và đầu đời Minh Mệnh. Do mối liên hệ giữa ấn chương và quan chế triều Nguyễn, buộc chúng ta phải trở lại tìm hiểu về sự phân chia khu vực hành chính toàn lãnh thổ Việt Nam đầu đời Nguyễn. Từ khi lên ngôi, Gia Long chia nước thành ba khu vực Bắc, Trung và Nam. Bắc thành ở phái bắc, quản 11 trấn và các đạo, phủ lẻ; Gia Định thành ở phía nam, quản 5 trấn. Những đơn vị (trấn) ở 2 khu vực này dùng ấn đóng chữ “Ấn” kể cả Tổng trấn và trấn như “Bắc Thành tổng trấn chi ấn” (17) “Nam Định trấn ấn” (18).

Ở trung phần từ Thanh Hóa trở vào đến Bình Thuận, gồm 3 trấn và 9 doanh thì trực thuộc thẳng triều đình (kinh đô Huế); Những đơn vị này dùng ấn đóng chữ “Chương”. Ví dụ 1 dấu có chữ “Chương” áp trên văn bản tập “Công văn cựu chỉ” (19). Dấu hình vuông cỡ 8,4x8,4cm, viền ngoài để đậm 1cm, 6 chữ triện xếp theo chiều dọc 3 hàng. Kiểu chữ khắc vuông vức gần với tự dạng dấu thời Lê - Trịnh. Đó là 6 chữ “Thanh Hoá trấn thủ chi chương”, chỉ rõ đây là dấu của quan trấn thủ trấn Thanh Hóa (20). Điều đáng chú ý là dấu được áp trên văn bản có ghi niên đại ngày tháng. Xem ảnh 4 ta thấy rõ dòng chữ “Gia Long tam niên tam nguyệt thập bát nhật” viết giữa trang giấy từ trên xuống dưới. Dấu được đóng phía dưới, phần trên dấu dính vào chữ “nhật”. Như vậy dấu này được đóng vào ngày 18 tháng 3 năm Gia Long thứ 3 (1804). Trong văn bản ghi rõ chức quan có con dấu này là Khâm sai chưởng Hữu Doanh Đô thống chế Lãnh Thanh Hoa trấn. Thời Gia Long cho đến đầu Minh Mệnh, đứng đầu các tỉnh vẫn là những quan võ, bên cạnh có các chức khác nhau như Khâm sai phó trấn, Hiệp trấn, Tham hiệp, Cai bạ phụ giúp.

Sang đầu đời Minh Mệnh có những thay đổi dần dần về tổ chức đơn vị hành chính, dẫn đến việc ấn triện cũng có sự thay đổi. Những trấn do triều đình quản như Thanh Hoa, Nghệ An dùng ấn này thay chữ “chương” bằng chữ “ấn” như dấu các trấn ở Bắc Kỳ. Như dấu trấn Thanh Hoa đóng năm Minh Mệnh 7 (1826) là “Thanh Hoa trấn ấn (21). Con dấu này có khác “chương” của Thanh Hoa cũ về viền ngoài dấu nhỏ hơn, cỡ 0,7cm; tự dạng cũng khác, vì dấu có 4 chữ nên viết khuôn theo hình vuông.

Những quy chế thay đổi như vậy của ấn dễ gây nhầm lẫn trong khi nghiên cứu. Xin dẫn ra trường hợp gây nhầm lẫn khó hiểu giữa ấn và chương. Trên cùng một tập công văn có cùng dạng văn bản như nhau, niên đại ghi cùng 1 thời gian, có cấp đơn vị ngang nhau, ở cùng 1 khu vực (Trung kỳ), lại xuất hiện 2 con dấu khác nhau hoàn toàn về tên cấp đơn vị và tên ấn, mà trước đó không lâu chúng có tên đơn vị và tên ấn như sau:

Hai dấu “Quảng Nam doanh chi chương” và “Bình Định trấn ấn” cùng đóng 1 tập Chư bộ nha 18 (22) với cùng niên đại ghi trên văn bản là Minh Mệnh 7. Nếu theo quy định cũ, Bình Định vẫn là doanh thuộc Trung kỳ như Quảnh Nam. Sự thay đổi Doanh thành Trấn phải được tiến hành đồng bộ cùng một lúc? Việc dùng ấn, đổi ấn cũng phải được thực hiện cùng một lúc?

Nhưng trên thực tế lúc này - năm Minh Mệnh 7 (1826), vua Minh Mệnh đang tiến hành phân chia lại khu vực, thay đổi điều chỉnh phẩm cấp quan chức, tên gọi các cấp. Thực chất mới tiến hành sơ bộ bước đầu vài ba nơi, chưa thật hoàn thiện để thành văn bản chính thức, nên tạm thời cùng một lúc công nhận 2 loại ấn triện trên. Đến năm Minh Mệnh 8 (1827) mọi quy chế mới được ban hành và thực thi, Doanh được đổi làm Trấn và tất cả những ấn triện có dòng chữ “Chương” được bộ Lễ thu hồi, mang hủy không dùng nữa. Tới năm Minh Mệnh 12 (1831) ở miền Bắc và năm Minh Mệnh 13 (1832) ở miền Nam, bãi bỏ cấp Thành (Tổng trấn) và các trấn được đổi làm tỉnh trực thuộc thẳng triều đình.

Công việc tiếp xúc với văn bản đã giúp cho chúng ta hiểu thêm rằng đời Gia Long mọi quy chế chưa được ổn định, và Đại nam điển lệ sau này cũng không nói tới. Ngoài Chương ra, ấn còn có tên gọi nữa là TÍN CHƯƠNG. Tín chương là ấn của quan cấp thấp hơn quan trấn thủ, những quan với tính chất Khâm sai lâm thời biệt phái, quyền nhiếp, quyền thự. Quản đạo được dùng dấu “Tín chương”, là chức quan đứng đầu một đạo; đạo thường nhỏ hơn một trấn và đứng trên cấp phủ, huyện. Thời Gia Long, chức năng cùng quyền hạn của Quản đạo gần như chức Bố chính sứ sau này. Về sau Minh Mệnh điều chỉnh thang quan chế chức năng và quyền hạn của Quản đạo có khác trước, phẩm hàng cũng kém hơn, mang hàm Tòng tứ phẩm, thấp hơn cả Án sát sứ một trật.

Giới thiệu một dấu Tín chương áp trên văn bản - Tập Công văn cựu chỉ (23). Dấu hình vuông cỡ 7,4 x 7,4 cm, viền ngoài đậm 1cm, chữ triện khắc vuông vức kiểu đời Lê - Trịnh với 4 chữ “Khâm mệnh tín chương”. Dấu được đóng phía dưới về bên ngoài dòng ghi niên đại ngày tháng: “Gia Long thập tứ niên tam nguyệt sơ tứ nhật” (Xem ảnh 5).

Như vậy niên đại của dấu đã được xác định, nó được đóng vào ngày mồng 4 tháng 3 năm Gia Long 14 (1815). Trong văn bản ghi rõ chức quan có con dấu này, đó là Quản đạo Đạo Thanh Bình (24) Thành Tín hầu trong công văn về phủ Thiên quan (25). Cũng như Chương, Tín Chương chỉ tồn tại đến đầu Minh Mệnh. Sự phân chia khu vực đổi tên các đơn vị hành chính, thay đổi thang quan chế bước đầu của vua Minh Mệnh đã đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình; Dấu Tín Chương đã được đổi làm ấn. Trên văn bản ngay từ Minh Mệnh 8 (1827) đã thấy dấu “Ninh Bình đạo ấn” (26) với cỡ dấu bằng dấu “Khâm mệnh tín chương”. Xét hình thức tên gọi, chữ trong dấu Tín chương, quy định đóng trên văn bản cũng khác (đóng trên chữ Nguyệt chỗ dòng ghi niên đại). Nhưng thực chất đây là dấu thay thế dấu cũ, tính chất giá trị chẳng khác gì nhau.

Chương và Tín chương là 2 loại hình ấn xuất hiện và tồn tại trong khoảng thời gian ngắn so với những loại hình ấn khác; Nhất là nó lại ở thời kỳ đầu triều Nguyễn, lúc mà mọi quy chế chưa ổn định, do vậy việc tìm hiểu chúng gặp không ít khó khăn. Cùng với những loại hình cố định như Tỷ, Bảo, Ấn, Kiềm, bước đầu chúng tôi chỉ mới giới thiệu Chương và Tín Chương với tính chất sơ lược như vậy. Vì điều kiện không cho phép, việc giới thiệu tiếp về ấn “Quan phòng”, “Đồ ký”, “Tín ký”. Triện, xin dành cho bài viết sau.

CHÚ THÍCH

(1) Bản chụp nguyên bản hình ấn và dấu “Đại Nam hoàng đế chi tỷ” và “Hoàng đế chi bảo” trong “Bulletin de la Soclélé Indocchinoises” Tập 22, số 1937. Thư viện Khoa học xã hội (Bản tiếng Pháp).

(2) Đại Nam hội điển toát yếu …Tập II, tr.115, bản dịch của Ngô Thế Long - Thư viện Hán Nôm, LA.13.

(3) Ở đây chỉ bộ Lễ, chịu trách nhiệm về việc tế lễ, tôn phong, khánh hạ, triều hội v.v. Khâm thiên giám cung chịu lệnh của bộ Lễ.

(4) Cơ quan nghiên cứu khí tượng, chiêm tinh, làm lịch số, giảng như nha khí tượng ngày nay.

(5) Theo truyền thuyết là vị thần Tổ sư nghề thủ công.

(6) Kho binh trượng, chứa giữ, sắm sửa nghi lễ cho triều đình. Đây là nơi sản xuất ra nhiều ấn triện đại Nguyễn. Trên nhiều ấn đồng thường khắc chữ “Vũ khố phụng tạo”.

(7) Giữ việc phục sức của vua, giữ đồ dùng phẩm vật các nơi cống, giữ đồ dùng ban thưởng cho các quan.

(8) Xem lại chú thích (42).

(9) Những dấu này đóng ở Châu bản triều Nguyễn quyển 2 và 8. Chữ bộ Nha. Gia Long 2 đến 18 - Kho lưu trữ trung ương II Thành phố Hồ Chí Minh.

(10) Dấu “Hộ bộ chi ấn” trong “Đồng Xuân tổng các thôn phường địa bạ”. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.629.

(11)Các quan Tổng Đốc Tuần phủ ở các tỉnh dùng ấn quan phòng, số nói ở phần sau.

(12) Đại nam điển lệ, mục 194, trang 337. Nguyễn Sĩ Giác phiên âm dịch nghĩa. Nhà in Tôn Thất Lê, Sài Gòn, 1962. Bản này có in kèm chữ Hán, nhưng lại thiếu mất chữ “thập” nên dịch là Minh Mệnh 3. Thực ra là Minh Mệnh 13. Qua tiếp xúc với nhiều văn bản có đóng dấu và ghi niên đại, cộng với bản dịch Đại Nam hội điển toát yếu của Ngô Thế Long, thì đến năm Minh Mệnh 13 (1832) mới đổi hết trấn làm tỉnh và những quan Tổng đốc Tuần phủ mới được bộ nhiệm vụ các tỉnh trong những năm này (1832).

(13) Dấu “Quảng Ngãi bộ chính sứ ty ấn” đóng ở Châu bản triều Nguyễn chi bộ nha – Tập 46, Thiệu Trị 7, kho lưu trữ trung ương II, Thành phố Hồ Chí Minh.

(140 Huyện Văn Chấn nay thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.

(15) Đại Nam điển lệ mục 194, Sđd, trang 338.

(160 Những dấu này trong Công văn cựu chỉ ký hiệu A. 2918. Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(17) Dấu “Bắc thành tổng trấn chi ấn” đóng ở Chư bộ Nha quyển 2, Gia Long 18, kho lưu trữ trung ương 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

(18) “Nam Định trấn ấn ” ở “Công văn cổ chỉ” KH. A.3086. Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(19) “Thanh Hóa trấn thủ chi chương” sao chụp ở Công văn cựu chỉ, Tập 4. KH.A.3032, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Con dấu này còn thấy đóng ở Chư bộ nha. Q.2. Gia Long 18, Kho lưu trữ Trung ương II, Tp. Hồ Chí Minh.

(20) Thanh Hoa tức Thanh Hóa ngoại trấn - là 1 trong 3 trấn thuộc trung phần do triều đình quản nay là tỉnh Thanh Hóa.

(21) Dấu “Thanh Hoa trấn ấn” đóng ở châu bản triều Nguyễn, chư bộ nha 18 - Minh Mệnh 7. Kho lưu trữ trung ương II, Tp. Hồ Chí Minh.

(22) Hai dấu này cùng đóng ở tập Chư bộ nha 18 Minh Mệnh 7 (Dấu Quảng Nam ở trang 78 và dấu Bình Định ở trang 86).Châu bản triều Nguyễn. Kho lưu trữ Trung ương II, Tp. Hồ Chí Minh.

(23) Dấu “Khâm mệnh tín chương” sao chụp ở tập 1 Công văn cựu chỉ, ký hiệu A.3032, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(24) Đạo Thanh Bình gồm 2 phủ, 6 huyện, 41 tổng, 271 xã, thôn, trang trại. Năm Minh Mệnh đổi là đạo Ninh Bình, nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh.

(25) Đời Gia Long, Phủ Thiên Quan là một trong hai phủ của đạo Thanh Bình, quản 3 huyện Yên Hóa, Phụng Hóa, Lạc Thổ. Trong văn bản cũng nói về những địa phương này. Sau để làm phủ Nho Quan thuộc Ninh Bình.

(26) Dấu “Ninh Bình đạo ấn” - Đóng ở Công văn cựu chỉ Tập 4, ký hiệu A.3032, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Dấu được áp trên văn bản có ghi niên đại “Minh Mệnh bát niên nhị nguyệt nhị thập cửu nhật” Ngày 29 tháng 2 năm Minh Mệnh thứ 8.

TB

VẤN ĐỀ MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG THƠ CA CỔ VIỆT NAM

PHẠM KHÁNH CAO

Miêu tả thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam là vấn đề cần nghiên cứu trong hệ thống thơ ca Hán Nôm. Hiện nay thơ ca cổ Việt Nam được nhiều người và nhiều ngành quan tâm. Bài viết cuối cùng của nhà thơ Xuân Diệu(1) với các nhà thơ trẻ càng làm cho nhiều người nhất là giới trẻ trong các trường đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp xúc động. Đang có ý thức mới (theo yêu cầu cuối cùng của Xuân Diệu) là đi tìm cái đẹp, cái hay trong thơ ca cổ Việt Nam, từ đó bồi dưỡng khả năng thẩm mỹ mang tính chất dân tộc sâu sắc. Nhiều trường đại học, số lượng sinh viên đăng ký làm luận văn, khoá luận về văn thơ cổ Việt Nam với tỷ lệ chiếm 80%(2) . Qua quá trình nghỉên cứu thơ ca cổ Việt Nam, một trong những mắc mứu là bằng lý luận và thực tế tác phẩm, làm sao giải quyết những vấn đề cơ bản trong văn học viết Hán Nôm như từ nguyên, điển cố, xuất xứ… Một trong những vấn đề có tính thẩm mỹ cao, có sức hấp dẫn, có khả năng giải quyết những vấn đề cụ thể về xã hội học, khả năng thẩm mỹ, v. v… là miêu tả thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam.

Có 4 yêu cầu cần giải quyết có tính lý luận lẫn nhận thức các tác phẩm, tình tiết cụ thể:

1. Phải chăng trong thơ ca cổ, thiên nhiên chỉ giữ vai trò chức năng? Yếu tố bản năng không có chỗ đướng trong thiên nhiên thơ ca cổ Việt Nam? Nên hiểu thế nào là “chức năng” và thế nào là “bản năng” trong miêu tả thiên nhiên? Từ thực tế tác phẩm, tình tiết làm sáng tỏ vấn đề trên.

2. Vì sao khi miêu tả thiên nhiên, các tác giả thơ ca cổ Việt Nam thường lồng vào hoặc tiếp nối bằng các ý niệm, bằng câu có tính triết luận? Phải chăng đó là một trong những yếu tố đặc sắc trong thơ ca cổ Việt Nam, đặc biệt là thơ ca bằng chữ Hán.

3. Làm sao để hiểu và dịch ý, đặc biệt là dịch thơ cho sát đúng, trung thành không những với ý tưởng nhà thơ mà còn thể hiện chính xác giá trị thẩm mỹ trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên? Điều cần lưu ý là cảnh tượng thiên nhiên làm sao phù hợp với ý niệm triết luận thể hiện cốt cánh phong độ của nhà thơ?

4. Cũng cần điểm lại một cánh khách quan, khoa học những công trình tiêu biểu như thơ văn Lý - Trần, tập 1, tập 3; một số giáo trình, tài liệu tham khảo ở các trường đại học, một số tư liệu dịch của các nhà nghiên cứu v.v… về mặt tuyển dịch, nghiên cứu giới thiệu thơ ca cổ miêu tả thiên nhiên .

Dưới đây là một vài ý kiến của chúng tôi liên quan đến các vấn đề trên, chưa phải là đề cập tới cả bốn yêu cầu nêu ra.

1. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam không phải là hiện tượng đặc biệt nằm ngoài quy luật chung trong nghệ thuật miêu tả. Thiên nhiên bao giờ cũng là thực tế tồn tại ngoài chủ quan của tác giả. Vẻ đẹp thiên nhiên bao giờ cũng độc lập tồn tại ngoài nhận thức chủ quan của nhà thơ. Chúng đẹp vì có cảnh riêng biệt, có sự biến đổi không ngừng theo không gian, thời gian (chỗ đứng nhìn, thời gian sáng tối…). Thiên nhiên Việt Nam, do thực tế địa lý nên có nhiều cảnh ngoạn mục độc đáo, tạo nhiều vẻ đẹp riêng biệt. Những đoạn thơ miêu tả thiên nhiên đẹp bao giờ cũng có cảnh riêng biệt không thể nào lẫn với cảnh khác. Cảnh sông Bạch Đằng trong bài thơ Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông khác với bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi. Cánh sử dụng đường nét, màu sắc ánh sáng khác nhau do chỗ đứng nhìn viễn cảnh của của Trần Minh Tông khác với chỗ đứng cận cảnh của Nguyễn Trãi. Cách nhìn nông thôn giữa trưa của Dương Không Lộ trong bài Ngư nhà (Nhất thông tang giá, nhất thôn yên) khác với cách nhìn nông thôn trong cảnh hoàng hôn của vua Trần trong bài Thiên Trường vãn vọng (Thôn hậu, thôn tiền đạm yên; Bán vô, bán hữu tịch dương biên)…Tuy nhiên cảnh vật chỉ là cảnh vật, là cấu tạo của vật chất. Thiên nhiên chỉ trở thành văn học nghệ thuật khi đã qua cảm quan của con người. Thông qua cảm xúc, suy nghĩ, tưởng tưởng của nhà văn, của nghệ sĩ, thiên nhiên không thể trở thành văn học, nghệ thuật. Cảm quan của nhà thơ lại còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, ở nghề nghiệp, thói quen, sở trường, sở đoản của họ. Trở lại cách miêu tả sông Bạch Đằng của hai tác giả. Dù ở xa hay gần, dù ở hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Trần Minh Tông và Nguyễn Trãi có chung ý niệm về vẻ đẹp thiên nhiên trong cảnh vật. Bạch Đằng là con sông từng trải qua nhiều chiến công oai hùng chống xâm lược. Là nơi để lại kỷ niệm lịch sử đời đời không phai nhạt. Bạch Đằng đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, quyết định những đường lối chiến lược đúng đắn, quyết định vận mệnh sống còn của dân tộc ta, của nhân dân ta. Mặc dù có chung ý niệm sâu sắc về Bạch Đằng giang, cách miêu tả của hai tác giả khác nhau làm cho thiên nhiên trong hai bài thơ có màu sắc độc đáo riêng biệt có cảnh riêng biệt.

Cách miêu tả của Trần Minh Tông thiên về ngưỡng mộ. Khẩu khí của một nhà vua hướng về hai trận đánh oanh liệt vừa qua tạo nên vẻ đẹp có tính chất hoành tráng, một vẻ đẹp ung dung vừa trang trọng, vừa oanh liệt (Vãn vân kiếm kích, bích toàn ngoan; Hải thẩn thôn triều quyết tuyết lan). Vừa oai liệt, vừa lẫm liệt, sông Bạch Đằng hiện ra với “Núi biếc cao vút tua tủa như gươm giáo, kéo lấy tầng mây” (Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên dịch). Và đây là cách nhìn của ông vua “Giao Long nuốt thuỷ triều, cuồn cuộn làn sóng bạc”. Trong khi đó, với tâm hồn nhà thơ lớn, Nguyễn Trãi miêu tả: “Khi biển hơi mây thổi lạnh rùng, Bạch Đằng quy của nhẹ buồm dong” (Bản dịch của viện sử học). Cho đến câu (Ngạc đoạn, kinh phầu, sơn khúc khúc; Qua trấn kích chiết ngạn tầng tầng) “Chòm chòm núi đá kinh nơi đoạn, lớp lớp bờ lau kiếm nút chồng” thì đúng là cánh nhìn xa và tả của một vị tướng đã từng xông pha trận địa. Kết thúc bài Bạch Đằng giang, bằng hình tượng cô đọng, với đường nét màu sắc cụ thể tượng trưng mà sinh động: “Trông thấy nước dòng sông dọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối. Lầm tưởng máu người chết trận vẫn chưa khô” (Đ.G.K. - B.V.N dịch) rõ ràng Trần Minh Tông có cách miêu tả thiên nhiên Việt Nam không chỉ bằng tượng trưng mà bằng trí tưởng tượng giàu có. Thiên nhiên trong hai trường hợp của hai tác giả trên không chỉ là chức năng. Người đời xưa tuỳ theo hoàn cảnh sống đã có cánh nhìn nhận, quan sát và miêu tả thiên nhiên chân thục thông qua cảnh quan riêng mang dấu ấn của thế giới quan và nhân sinh quan của mình. Thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam đã thể hiện bản năng cao quý và lớn lao của cha ông ta. Đó là bản năng yêu nước và nhân đạo cao cả. Trong chừng mực nào đó có thể cái để diễn đạt tức là chữ Hán và thơ có những luận lệ khắt khe (biền ngẫu, niên luật) buộc cảnh vật thiên nhiên của nhà thơ phải “chịu phép” khuôn vào đó, song tư tưởng tình cảm dồi dào của nhà thơ không hạn hẹp trong quá trình thể hiện yếu tố thiên nhiên trong thơ ca.

Khẳng định vai trò chức năng của yếu tố thiên nhiên trong thơ ca cổ cũng có phần đúng. Phải chăng nói đến vai trò chức năng là nói tới giới hạn, mức độ phản ánh hiện thực thiên nhiên trong thơ ca cổ? Thông qua Hán văn, thật khó có điều kiện pha màu hoặc đưa lên những đường nét uyển chuyển trong nghệ thuật miêu tả. Phải chăng nói đến vai trò chức năng… tức là nói đến biểu tượng hay nghệ thuật tượng trưng trong miêu tả thiên nhiên? Quả thật sau này do sự phát triển của văn Nôm, Chinh phụ ngâm, Truyện kiều,… có những đoạn tả cảnh tự nhiên, thoải mái hơn. Đường nét, màu sắc, ánh sáng, âm thanh, hình khối,… trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên thoáng đạt, phong phú hơn. Đó cũng là quy luật trong sự phát triển ngôn ngữ, văn tự; trong qúa trình phát triển của tiếng Việt. Chữ Hán chắc chắn có những hạn chế không tránh khỏi trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên Việt - Nam.

Cũng vì vậy, có sự nhầm lẫn đáng tiếc. Ở bài Thiên Trường vãn vọng có hiện tượng nhầm chữ tự (giống) sang chữ tử (màu đỏ tía). Câu: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên. Có người nhầm là đạm tử yên. Cho rằng tử ở đây là màu đỏ tía, người giảng phát triển yếu tố màu sắc vốn không có trong bài thơ. Nguyên văn đạm tự yên, đạm: nhạt: yên: khói, có nhiều khói nhạt dần. Cho là đạm tử yên, sẽ hiểu là khói nhạt màu đỏ tía trong cảnh hoàng hôn (gắn với câu sau. Mới nghe thấy hay và có lý, song, thơ cổ chữ Hán làm sao có nhận thức và pha trộn màu sắc như vậy? Vấn đề này không đơn giản. Cần có sự can thiệp của văn bản và văn bản học. Bản dịch của Ngô Tất Tố là đạm tự yên. Lời giới thiệu của giáo sư Đặng Thai Mai ở Văn thơ Lý - Trần, t.1, cũng in là đạm tự yên, vậy thì chỉ cần người giảng cho xem văn bản nào in là đạm tử yên. Nếu cần cái “hay” mà không cần văn bản thì chúng ta nên yêu cầu đặt nặng về văn bản và văn bản học. Từ thực tế này, trong văn thơ cổ hay trong thơ văn Hán Nôm, chúng ta cần biết bao vấn đề phải giải quyết! Riêng lĩnh vực phản ánh hiện thực thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam cũng không thể dùng lại đây.

2. Thiên nhiên được miêu tả trong Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông là một khối thống nhất. Tác giả mở đầu bằng “Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan” và kết thúc bằng một hình tượng miêu tả bi tráng “Giang thuỷ đình hàm tản nhật ảnh, Thác nghi chiến huyết vị tằng can”. Ở Nguyễn Trãi, bài Bạch Đằng khải khẩu, mở đầu bằng cảnh đi qua cửa Bạch Đằng (Sóc phong suy hải…). Tiếp theo là cảnh núi bị chặt khúc, cá bị phanh thây; bờ sông là cảnh gươm giáo gẫy nát chất chồng. Rồi đến cảnh hiểm yếu bằng một điểm cố khá phổ biến, lấy từ sự tích “hai chọi một trăm” so với địa thế biên giới nước Tần (Quan hà bách nhị do thiên thiết…). Kết thúc bài thơ không phải bằng một cảnh trí miêu tả, mà bằng một câu triết luận mang tâm trạng của Nguyễn Trãi “Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ; Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng” (Quay đầu xem việc cũ; ôi xong rồi! Cúi xuống dòng mò bóng, ý khôn nói xiết). Hóa ra nhà thơ miêu tả cảnh vật để tìm trong đó, gửi gắm vào đó tâm trạng chua xót của mình. Trong 91 bài ở tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi (Viện sử học - Nxb KHXH - 1976 - Nguyễn Trãi toàn tập) thì có hơn 60 bài tả cảnh ban đêm (trong văn học Việt Nam cũng như văn học thế giới, tả cảnh thiên nhiên thì nhiều, tả cảnh thiên nhiên ban đêm rất hiếm). Nhiều bài tả cảnh của Nguyễn Trãi như Đêm thu khách cảm, Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng, Đêm thu cùng ngâm với Hoàng giang Nguyễn Nhược Thuỷ, Cảm đêm thu ở đất khách… đặc biệt bài Qua cửa biển Thần Phù là những bài tả cảnh ban đêm tuyệt đẹp.

Điều cần lưu ý là cảnh càng đẹp thì nỗi niềm tâm sự, giá trị thiết luận trong thơ Nguyễn Trãi càng cao. Trong bài Qua cửa biển Thần phù, trăng sáng, đêm thanh, gió mát, trăng trong biết mấy tình! Sát bờ, nhìn ngọn núi bày như búp măng ngọc (chú ý cảnh đêm). Giữa dòng, một đường nước chạy như một con rắn xanh (Nguyên văn; Thần Phù hải khẩu dạ trung qua, Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà. Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn; Trung lưu nhất thuỷ tẩu thanh xà…). Trước cảnh đẹp thiên nhiên ban đêm tuyệt mỹ đó, tác giả hai cấu thơ:

Giang sơn như tạc anh hùng thệ,
Thiên địa vô tình sự biến đa!

(Non sông như chạm trổ mà anh hùng đã mất,
Trời đất thật vô tình, sinh ra sự biết nhiều).

Phải chăng, cảnh đẹp thiên nhiên Việt Nam đã khêu gợi những nỗi niềm và trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước, thời cuộc? Cảnh càng đẹp, nỗi niềm, trách nhiệm càng sâu lặng. Vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên Việt Nam biết bao lần đã nhắc nhở, nung nấu ý chí, tâm hồn con người trước bao thảm họa ngoại xâm và trước sự biến của đất nước? Thiên nhiên Việt Nam là tài sản vô giá của con người. Đi vào văn học nghệ thuật thiên nhiên Việt Nam càng vô giá. Tâm hồn, phẩm chất, phong độ người Việt Nam không thể tách rời thiên nhiên Việt Nam. Thơ ca Việt Nam càng không thể tách rời vể đẹp diệu kỳ, tuyệt mỹ của thiên nhiên Việt Nam.

Cao hơn nữa, nhiều lúc tính triết luận nằm ngay trong nghệ thuật miêu tả. Từ bài Quan hải nổi tiếng của Nguyễn Trãi, sự thất bại nặng nề, cay đắng của cha con Hồ Quý Ly cùng nguyên nhân của nó thật rõ ràng sâu sắc, trước cảnh biến hùng vĩ với hàng cọc trùng trùng bằng gỗ chắc (thung mộc trùng trùng hải lãng tiền), trước công trạng ghê gớm của chiến thuật Hồ Quý Ly trong sự sai lầm về chiến lược, Nguyễn Trãi trách họ Hồ không biết dựa vào sức dân (Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ). Từ đó rút ra bài học triết luận cho lịch sử:

Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hậu kỷ thiên niên.

(Họa phúc có mầm không phải chỉ một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau)

Từ cảnh biển được đọng lại bởi hàng cọc gỗ dầy, chắc, sóng biển xô không lay chuyển, xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi (Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên), Nguyễn Trãi khám phá, phát hiện thực tại chua xót, một thất bại đắng cay lịch sử do không có một đường lối chiến lược đúng, thất bại để hận mấy nghìn năm!

Yếu tố triết luận trong thơ ca bắt nguồn từ một nhận thức thẩm mỹ cao, từ ý thức dân tộc và nhân dân đã định hình, từ thực tế cuộc sống mà nhà thơ đã từng trải. Với những tâm hồn lớn lao như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… yếu tố triết luận trong văn thơ thâm uyên, đẹp đẽ. Càng thâm uyên, đẹp đẽ khi nó gắn liền với yếu tố thiên nhiên trong nghệ thuật miêu tả của từng tác giả, từng bài thơ.

CHÚ THÍCH

(1) Xuân Diệu: Sự uyên bác trong việc làm thơ, Tạp chí Văn học số 1, 1986.

(2) Riêng môn văn Việt Nam.

TB

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CÓ 20
HAY 22 TRUYỆN?

NGUYỄN ĐĂNG NA

Về số lượng truyện trong Truyền kỳ mạn lục (gọi tắt là Mạn lục) sách Lịch triều hiến chương loại chí các bản chép khác nhau: 20, 21 và 22. Trên thực tế chúng ta chỉ thấy Mạn lụ c khắc in 20 truyện mà chưa gặp bản khắc in nào 21 hoặc 22 truyện (1). Dựa vào hiện tượng này, người ta dễ dàng chấp nhận, bản ghi 20 bản là bản chính xác nhất vì nó vừa phù hợp với thực tế, vừa có số bản chiếm tỷ lệ cao 3/5 (2), còn các bản ghi 21 (3) và 22 (4) vừa không đúng với hiện thực, vừa có số bản chiếm tỉ lệ thấp 1/5.

Nếu chấp nhận như vậy, ta sẽ lý giải sao cho thỏa đáng vấn đề, các bản Mạn lục khắc in năm 1764 và năm 1773 đều mang tên: Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Tăng bổ giải âm tập chú có thể ngắt câu theo 4 kiểu do vậy cũng có 4 cách hiểu khác nhau:

1. Tăng bổ giải âm tập chú gồm 2 mệnh đề, trong đó, ở mệnh đề 2, giải âm là vị ngữ còn tập chú là tân ngữ. Song, sách Mạn lục không hề giải âm phần tập chú. Bởi vậy không thể ngắt câu và hiểu theo cách này được.

2. Tăng bổ giải âm tập chú gồm 2 mệnh đề. Mệnh đề 1: tăng bổ giữ chức năng vị ngữ, còn giải âm giữ chức năng bổ ngữ trực tiếp. Tăng bổ giải âm nói lên rằng, phần giải âm vốn có từ trước, nay được bổ sung thêm cho hoàn chỉnh. Nhưng mỗi một mệnh đề, mỗi một cụm từ của Mạn lục đã được giải âm trọn vẹn, không thể thêm vào. Ta không tìm thấy phần bổ của giải âm. Như vậy cũng không thể ngắt câu và hiểu theo cánh thứ 2 này được. Hơn nữa, như chúng ta biết, Nguyễn Thế Nghi giải âm Mạn lục, Nguyễn Thế Nghi là bạn thân của Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Dung sinh năm 1483. Nguyễn Thế Nghi có thể hơn kém Mạc Đặng Dung 15 tuổi, có nghĩa là, khi Hà Thiện Hán viết Tựa cho Mạn lục năm 1554 thì Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi đã khoảng 66 đến 76 tuổi rồi. Từ đó cho phép ta suy luận rằng. Đại Hưng hầu diễn âm Mạn lục có lẽ trước khi Hà Thiện Hán viết bài Tựa, cũng có nghĩa là phần diễn âm có từ lâu lắm rồi, không cần đợi đến đời sau tăng thêm vào.

3. Tăng bổ giải âm tập chú là một mênh đề, trong đó tăng bổ đóng vai trò vị ngữ với 2 bổ ngữ trực tiếp là giải âm và tập chú. Rất có khả năng tăng bổ phần tập chú, nhưng tăng bổ phần giải âm thì, như trường hợp thứ 2 trên kia chúng ta đã phân tích.

4. Tăng bổ giải âm tập chú gồm 3 mệnh và mỗi mệnh đề chỉ có 1 vị ngữ. Thế thì tăng bổ ở đây sẽ là tăng bổ cái gì? Phải chăng, ngoài 20 truyện chính, Mạn lục còn có thêm 1 số truyện khác được bổ sung thêm vào tác phẩm? Nếu vậy thì, thật ngữ tăng bổ ít ra cũng là tín hiệu cho hay, con số 21 hoặc 22 trong tác phẩm của Phan Huy Chú chưa hẳn chỉ là sự nhầm lẫn do “tam sao thất bản” gây nên, cũng như con số 20 nọ chưa hẳn mang tính chính xác tuyệt đối. Trên cơ sở suy nghĩ trên, chúng tôi lần tìm những ghi chép còn lại của Mạn lục.

Trong các sách viết về Mạn lục Sơn cư tạp thuật (gọi tắt là Tạp thuật). Tạp thuật do Đan Sơn viết(5) . Đan sơn chịu sự ảnh hưởng khá sâu sắc của Huấn đạo Lê Dĩnh - người Duyên Thượng, Yên Định, Thanh Hóa và Đốc đồng Vũ Phương Đề, người Mộ Trạch, Đường An, Hải Dương. Với quan điểm “thuật nhi bất tác”, Đan Sơn đã nghi lại khá trung thực những điều mắt thấy tai nghe cũng như những sở đắc của mình khi đọc sách. Trong Tạp thuật có một số truyện được tác giải rút ra từ các sách Tiệp ký, Tục Tiệp ký, Diễn Trai tập, Lam Điền hương ước, Nhất thống chí, Kiên biều tập, Nam sử quảng kiến, An Quảng hương thí lục, Việt chí v. v… Một số truyện chúng ta có thể đối chiếu được với nguyên bản những tác phẩm mà tác giả đã rút ra, Trong 145 bài của Tạp thuật có hai truyện cần đặc biệt lưu tâm. Đó là truyện Bắc sứ Yên Tử sơn tự tăng. Tác giả cho biết, truyện thứ nhất do ông lấy từ Bổ truyền kỳ còn truyện thứ hai lấy từ Phụ truyền kỳ (từ đây gọi tắt 2 truyện đó là Bổ Phụ). Vấn đề là phải xem chúng được rút từ tập Truyền kỳ nào.

Ở ta có 3 tập Truyền kỳ: Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả (gọi tắt là Tân phả) Tân truyền kỳ lục (gọi tắt là Tân lục).

Tân lục được sáng tác đồng thời với Tạp thuật. Hơn nữa, Hoa Đường tiên sinh “viết sách này riêng cho gia đình mình chứ không muốn để người khác biết” (6) nên Đan Sơn có thể được đọc tác phẩm ấy. Tuy nhiên đấy không phải là lý do chính để ta khẳng định Đan Sơn không rút 2 truyện kia từ tác phẩm của Hoa Đường. Tân lục gồm 3 truyện: Bần gia nghĩa khuyển truyện, Vũ trùng giác thắng ký và Miêu khuyển đối thoại. Cả 3 truyện trên đều là loại ngụ ngôn viết về loài vật với mục đích là, Phạm Quý Thích “lấy làm xấu hổ khi thấy các vị tiến sĩ cũ của triều Lê phần nhiều đổi mặt thay lòng, tham sống, bán nước (7), nên nhân đó mượn truyện này để tự trào(1)”. Hai truyện Bổ Phụ không cùng mạch chủ đề cũng như hệ thống thi pháp với Tân lục, nên chúng khó có thể là một bộ phận của tác phẩm này.

Tân phả viết về những sự kiện xảy ra dưới triều Lê, chúng hoặc mang tính ngụ ngôn như Long hổ dấu kỳ ký, Tùng bách thuyết thoại, hoặc mang tính thần tiên như Bích câu kỳ ngộ ký, Vân cát thần nữ truyện, hoặc viết về liệt nữ như Hải khẩu linh từ lục, An ấp liệt nữ lục. Hai truyện Bổ Phụ xảy ra dưới triều Trần và xa lạ với hệ chủ đề cũng như hệ thi pháp của Tân phả, nên chúng khó có khả năng làm nhiệm vụ Bổ hoặc Phụ cho tác phẩm.

Truyện trong Mạn lục phần nhiều không dài và về cơ bản kể lại những việc xảy ra dưới triều Trần - Hồ: 17/20 truyện (và 1 truyện về thời Lý, 2 truyện về thời Lê sơ). Hai truyện Bộ Phụ khá ngắn, nói về sự kiện thời Trần Minh Tông (1314 - 1329). Thơ xen vào văn xuôi là một trong những đặc điểm của Mạn lục cũng như Bổ Phụ (Dĩ nhiên Tân Phả Tân Lục cũng có hiện tượng ấy, nhưng ở Mạn lục có mức độ hơn). Quan hệ trai gái hầu như nhuốm màu nhục cảm in khá đậm trong Mạn lục. Điều ấy có ở trong Bổ Phụ.

Tóm lại, xét về phương diện chủ đề cũng như những đặc trưng thẩm mỹ - xã hội, truyện Bổ Phụ có nhiều nét gần gũi với Mạn lục. Từ đó có thể nghĩ rằng, chúng chính là 2 truyện Tăng Bổ trong Truyền kỳ mạn lục chăng ? Vậy thì con số 21 và 22 mà các bản Lịch triều hiến chương loại chí ghi nhận kia có ý nghĩa riêng của nó. Tuy nhiên, để đi đến khẳng định rằng, truyện Bổ Phụ chắc chắn của Mạn lục thì cần phải thêm tư liệu và nghiên cứu một cách tỷ mỉ hơn.

Trên đây chúng tôi chỉ nêu ra những suy nghĩ, những so sánh mang tính cung cấp tư liệu cho một hướng nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục. Dĩ nhiên, 2 truyện Tăng Bổ, ấy có phải do Nguyễn Dữ viết hay không lại là một vấn đề khác mà trong bài này chúng tôi không bàn đến.

Sau đây chúng tôi xin dịch 2 truyện Bổ Phụ truyền kỳ để bạn đọc tham khảo.

SỨ GIẢ PHƯƠNG BẮC

Bổ truyền kỳ ghi rằng:

Đời vua Trần Minh Tông (8) Bắc Nam hai nước giảng hòa, sứ giả đôi bên đi lại không ngớt. Lúc đó Hoàng Thường sứ giả phương Bắc có tiếng là người thanh cao trong sạch được đặc phái cử sang nước ta. Triều đình nhà Trần thù tiếp hết sức ưu ái, cung cấp cho sứ bộ không thiếu thứ gì. Quan lễ tân của ta theo lệnh vua mang trăm lạng vàng tới và nói với Hoàng Thường:

Đức vua tôi sai tôi đến tạ ơn Bắc triều đã không quên tình giao hiếu của các đấng tiên vương, khiến ngài phải lặn lội vạn dặm tới đây vì hạ cố đến nước tôi. Song, nước tôi bé nhỏ không có gì đáp lại, gọi có chút quà mọn này, đức vua sai tôi xin dâng biếu ngài.

Hoàng Thường khước từ:

- Sứ thần tôi đã có lộc của triều đình. Nay tôi lạm giữ chút việc đi sứ, chứ đâu dám không nhận.

Quan lễ tân lấy mệnh vua để nài ép đến vài ba lần, nhưng Hoàng Thường vẫn chối từ. Ông đành về tâu lại với nhà vua. Khi ấy có viên triều thần tâu:

- Thần nghe nói, kẻ thư sinh phần nhiều tham dục mà ít ý chí cứng rắn. Nay xin hãy thử họ xem sao. Vua theo lời, cho một cô gái đẹp, tên gọi là Hồng, truyền quan lễ tân dẫn tới chỗ Hoàng Thường. Quan lễ tân nói:

- Đức vua sai tôi đến tạ ơn ngài đã không quên tình hòa hảo giữa hai nước, phải khó nhọc đến đây mà chẳng có người hầu hạ bên mình để cùng ngài hàn huyên sớm tối. Đấy là điều lo lắng nhất của đức vua tôi. Nay có một cô gái kém cỏi này, xin hiến để hầu hạ ngài khăn lược.

Hoàng Thường lấy lời lẽ khiêm nhường để từ chối. Quan lễ tân cố ép nài mãi Thường mới chịu nhận, nhưng lại để cô ở quán ngoài, khoảng mươi hôm sau mới cho vào ở bên trong.

Một hôm, vào khoảng nửa đêm, Hồng buồn bã ngâm:

Quán quạnh, đêm dài tựa ba đông,
Trăng tàn nửa mảnh giữa thinh không!
Tri âm luống hận đời sao vắng,
Như ở Bưu đình, trông ngóng trông!

Hoàng Thường là trang thanh niên trẻ trung và nhạy cảm. Vả lại, chàng tự nén lòng mình đã lâu, giờ đây thấy xốn xang, tình dâng dào dạt. Chẳng dằn được lòng nữa, chàng sang ngay phòng của Hồng. Từ đó, tình cảm giữa hai người ngày càng nồng đượm. Thường hỏi đùa Hồng.

- Nàng thấy bây giờ đã hơn ở Bưu đình chưa?

Ngày tháng đưa thoi, thấm thoát đã hết kỳ đi sứ, Hoàng Thường về nước, Hồng khóc.

- Chàng ở phương Bắc, thiếp nơi bể Nam, đường xa cách trở, há còn đâu đêm vui vầy này? Cuộc gặp gỡ nồng thắm, nỗi ân ái chưa thỏa mà ngày tháng thì trôi nhanh. Đã đến lúc phải chia phôi rồi.

Nói xong, nàng khóc thảm thiết hồi lâu. Thường cũng khóc theo và nói với Hồng:

- Kiếp phù sinh còn biết tính làm sao? Một sớm rẽ chia đôi ngả, nói sao hết lời, canh khuya sương sớm, đèn lạnh gối đơn, lấy gì làm nguôi ngoai nỗi quạnh quẽ ? Ta muốn tặng nàng bài thơ để nàng ngâm nga cho vơi bớt nỗi sầu tương tư.

Nói rồi, Thường đề bài thơ lên quạt tặng:

Mai sớm thuyền tiên giã Nhĩ Hà
Đêm nay ân ái há từ đa?
Sau này kể nỗi tương tư ấy
Vọng chốn Hành dương vạn dặm xa.

Hồng trân trọng cất bài thơ ấy và đáp lại bằng một bài thơ khác:

Tình chàng gửi núi Lĩnh,
Lệ thiếp theo Tương Giang,
Bắc - Nam còn hòa hảo,
Thiếp còn năng gặp chàng!

Thường cũng cảm động về sự hậu ý của Hồng, sáng hôm sau tiễn biệt, quan lễ tân đưa sứ đến Quảng Đình. Lúc đầu Hồng không để lộ một chút tình riêng, rồi sau đó, nàng tặng Hoàng Thường một bài thơ. Mọi người đua nhau chép lại. Người sau có thơ rằng:

Thuyền sứ gió đưa đến Quảng Đình.
Lòng như băng tuyết - ngọc hồ thanh,
Trời Nam một cánh hoa mai nở,
Tan nát lòng ai một mốí tình .(9)

NHÀ SƯ CHÙA NÚI YÊN TỬ(*)

Phụ truyền kỳ ghi rằng:

Huyền Quang, pháp sư chùa Hoa Yên, họ Lý, tên gọi Đạo Tái. Sư vốn nổi tiếng là người đức hạnh cao. Vua Trần Minh Tông cũng kính trọng; người đã từng ban tặng cho sư mười lạng vàng. Nhưng rồi đức vua lại sai một cung nữ của mình là nàng Nguyễn Thị Bích đến thử thách Huyền Quang.

Khi Thị Bích lên đường, đức vua dặn dò;

- Hãy lấy số vàng ta ban tặng nhà sư trước đây để về làm tin.

Thị Bích vâng lời ra đi.

Khoảng chập choạng tối, nàng đã đến được phòng ở của Huyền Quang. Nàng xin nhà sư cho trọ lại một đêm. Tuy không biết nàng là cung nữ của đức vua. Huyền Quang vẫn khước từ một cánh gay gắt. Thị Bích dịu dàng lựa lời cầu khẩn đến vài ba lần, bất đắc dĩ, Huyền Quang phải để nàng trọ lại, nhưng bắt ở mé ngoài tăng phòng.

Đêm đó, vào quãng canh ba, trăng vằng vặc chiếu, gió thông lùa bức rèm lay động. Lúc đấy Huyền Quang chưa ngủ, Nhà sư dạo gót ngoài thềm, thì chợt thấy Thị Bích, quần lụa trễ xuống gần nửa, để lộ thịt da tuyết trắng. Chẳng nỡ lòng nhìn, Huyền Quang bỏ đi.

Trăng tàn lặn dần xuống thấp, bóng trúc che khuất cửa. Huyền Quang quay về tăng phòng. Nhưng khi tới cửa thì, nhà sư nhìn thấy quần hồng của Thị Bích đã tụt hẳn xuống. Thế là lòng thiền dao động, không thể kìm giữ được Huyền Quang ứng khẩu đọc một bài thơ tuyệt cú, trong đó có câu nói rằng, đến Thích Ca Mâu Ni cũng chưa thể đoạn tuyệt với tình dục. Xong, Huyền Quang đến gần Thị Bích để trêu ghẹo nàng. Thị Bích không ghe, cương quyết cự lại. Lửa dục trong lòng Huyền Quang bùng lên dữ dội, chàng bèn lấy cả số vàng nhà vua tặng đưa cho Thị Bích, rồi thông dâm cùng nàng.

Hôm sau Thị Bích về triều, đem hết sự việc và số vàng đó tâu lại đức vua. Minh Tông lập tức sai mở hội đàn tràng, Quanh đàn tràng, từ giải vũ vào trong đều căng màn trướng nhưng dùng toàn lụa vàng. Nhà sư được mời lên đàn làm lễ, khi thấy khắp nơi chăng lụa vàng, Huyền Quang kinh ngạc hỏi:

- Lục trắng nhuộm màu vàng là chỉ vào ta đó (10)

Đức vua sai đem bài thơ quốc ngữ của Huyền Quang ra để làm chứng cho hành vi “tham thiền” của nhà sư, Huyền Quang ứng khẩu đọc luôn:

Ba sáu bản kinh, làu làu thuộc,
Sự tình này, nên khóc hay cười?
Ba điều khó bỏ ở đời:
Rượu ngon, gái đẹp, thịt tươi béo ròn.

Người sau có thơ rằng:

Giảng đường chuông lắng đêm tịnh mịnh,
Ai biết mày ngài khuấy động ra,
Sắc dục nơi đâu bùng ngụt cháy?
Rừng thiền một khắc hóa thành tro!

Sau lại có bài nữa là:

Trần dục nhiều, nên náu cửa thiền,
Một mình tu ở núi Hoa Yên.
Lụa trắng nay đà đem sắc nhuộm (11)
Tào khê đâu nước tẩy hoàng quyền ?(12)

CHÚ THÍCH

(1) Các bản khắc in năm Cảnh Hưng 35 (1764) và Cảnh Hưng 44 (1773), cùng bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) - bản do Giáo sư Trần Nghĩa đem từ Pari đều chữ có 20 truyện.

Xem thêm: Trần Nghĩa: Một bản “Truyền kì mạn lục” in năm 1712 vừa tìm Thấy, N.C. Hán Nôm số 2/1985.

(2) Đó là các bản VHv.1262; A.2124 và bản của Viện Sử học HV.438.

(3) Bản A.1551.

(4) Bản HV.153 của Viện Sử học.

(5) Tên của Đan Sơn là gì ? đến nay chúng tôi chưa tìm ra. Dựa vào Tạp thuật chúng tôi về tận Thanh Hóa - quê hương của tác giả để điều tra và được biết một số về tác giả như sau: Đan Sơn nguyên là địa danh nơi tác giả ngụ cư. Tác giả lấy địa danh đó làm tên hiệu cho mình. Ông còn có một biết hiệu nữa là Tùng Kinh (松 徑 ). Đan Sơn quê ở làng Lam Kiều (Cạnh làng Bột Thượng quê của Trạng Quỳnh) Hoằng Hóa, Thanh Hóa sinh vào Thời Vĩnh Thịnh nhà Lê (1735 - 1740) không làm quan dưới Thời Lê – Trịnh. Khi Tây Sơn ra Bắc dẹp Trịnh, tác giả đang ở Đan Sơn, rồi nhân đó ẩn cư tại đấy. Trong thời kì này, ông viết Tạp thuật. Trước đấy ngót chục năm, Đan Dơn đã hoàn thành sách Tham khảo tạp kí. Ngoài ra ông còn biên soạn những tác phẩm gì nữa chúng ta chưa rõ. Lâu nay người ta nhầm Đan Sơn là Đan Loan Tế Tửu Phạm Đình Hổ. Trong Hành Nam diện đối ký bản A.1813, khi nhà vua Minh Mệnh hỏi tại sao tác giả tên là Hổ và Hổ có ý nghĩa gì, thì ông đáp: Hổ là Hổ phách (琥 珀) do vậy hiệu là Tùng Niên (松 年).

Bởi tưởng Đan Sơn là Phạm Đình Hổ nên người ta cho rằng Tham khảo tạp ký do Phạm Đình Hổ soạn: Thực ra, trong sách ghi rõ năm hoàn thành “Hoàng triều Cảnh Hưng, Đinh Dậu”, nghĩa là Thác khảo tạp ký hoàn thành năm 1777, lúc đấy Phạm Đình Hổ mới 9 tuổi, còn Đan Sơn đã trên dưới 40 tuổi.

(6) Tựa Tân truyền kì lục, bản A.2315.

(7) Ý câu này ám chỉ những vị Tiến sĩ triều Lê đi theo Tây Sơn.

(8) Trần Minh Tông làm vua những năm 1314 - 1329.

(9) Các bài thơ trong truyện nguyên văn bằng tiếng Hán, ở đây chúng tôi tạm dịch thẳng thành thơ.

(*) Truyện này mang chủ đề hoàn toàn khác với Tô gia Thực lục, Thiền uyển tập anh, Truyền đăng lục…

(10) Lụa vàng đọc âm Hán - Viết là “Hoàng quyên”, lái lại Huyền Quang tên của nhà sư. Hơn nữa lụa vốn trắng, nay nhuộm vàng, ý nói nhà sư không còn thanh khiết nữa, ám chỉ về việc Huyện Quang thông dâm với Thị Bích.

(11) Sắc là màu sắc – lục vàng, song đồng âm sắc trong sắc dục, sắc giới, chữ việc Huyền Quang với Thị Bích.

(12) Bài thơ này nguyên văn chữ Hán theo thể tứ tuyệt, chúng tôi tạm dịch như trên.

TB

ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG,
MỘT BÀI THƠ NÔM THỜI HỒNG ĐỨC

NGUYỄN ĐĂNG

Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề ghi chép về Bảng nhãn Nguyễn Toàn An, có đoạn viết: Ồng người làng Thời Cử, huyện Đường An (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng), thuở hàn vi phải sung làm lính cắt cỏ nuôi ngựa trong cấm cung. Một đêm trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng quần thần hội họp trước sân điện đón trăng. Chẳng ngờ đêm ấy trăng thu không tỏ, nhà vua bèn ra đề: “Đêm thu vô nguyệt” (Đêm trung thu không trăng), sai các quan ngâm vịnh. Bữa ấy Nguyễn Toàn An đến phiên hầu tiệc, ông cảm xúc nảy nở ra tứ thơ, bèn mạnh dạn dâng lên. Bài thơ có hai câu thơ kết là:

“Mạc bả kim phiên nhàn kiến nguyệt.
Lai thu vọng nguyệt, nguyệt di cao”.

Phần cuối tác giả cho biết, bài thơ nguyên làm bằng quốc âm, ở đây dịch ra Hán văn.

Nguyên văn là:

“Chớ thấy phen này mà rẻ nguyệt.
Thu sau trông nguyệt, nguyệt càng cao”.

Nhờ bài thơ này Nguyễn Toàn An được vua ban thưởng cho rất hậu, lại cho giải ngũ về nhà theo việc đèn sách. Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) ông thi đỗ Bảng nhãn. Các sách biên soạn đời sau như Liệt huyệt đăng khoa lục, Hải Dương phong vật chí, Tam khôi bị lục, Giai thoại văn học Việt Nam… đều chép theo như vậy.

Gần đây chúng tôi mới tìm thấy trong gia phả họ Bùi (Bùi thị gia phả) ở làng Thịnh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội có chép đầy đủ bài thơ này, và ghi rõ tác giả là Bùi Xương Trạch. Bùi thị gia phả(1) là cuốn gia phả do Bùi Xương Tự (1656 - 1728) biên soạn, bài tựa viết năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất (1676). Sau này đến đời Cảnh Hưng, cháu nội ông là Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tiến hành hiệu đính và viết thêm phần Bổ di. Trong phần Bổ di, Bùi Huy Bích cho biết rằng ông đã khảo cứu kỹ lưỡng trong quốc sử (có lẽ chỉ bộ Đại Việt sử ký toàn thư) thấy chép đêm 16 tháng 8 năm Bích Thiên niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1476) có nguyệt thực toàn phần và đoán định bài thơ được sáng tác vào dịch này. Chúng tôi cũng đã tiến hành kiểm tra lại sách Đại Việt sử ký toàn thư, thấy đúng là năm Hồng Đức thứ 7 có nguyệt thực vào dịp trung thu. Các niên hiệu Hồng Đức trước đó, từ 1470 đến 1475, không thấy Toàn thư chép có nguyệt thực vào dịp trung thu. Nguyễn Toàn An đã đỗ vào năm Hồng Đức thứ 3 (1472), còn Bùi Xương Trạch thì đỗ tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 9 (1478). Bốn năm sau khi Nguyễn Toàn An thi đỗ, mới thấy có nguyệt thực vào trung thu, vậy thì theo logíc câu chuyện, Bùi Xương Trạch có nhiều khả năng là tác giả của bài thơ nôm này. Bùi thị gia phả là sách ghi chép riềng sự tích của một dòng họ, chỉ lưu hành trong phạm vi rất hẹp, còn Công dư tiệp ký tuy ra đời muộn hơn do tính chất của tác phẩm như chính tác giả đã xác nhận trong bài tựa viết năm 1755: “Trong phần ghi chép có ngụ ý răn dậy, cũng là để xem chơi lúc thư nhàn…”, Lên được lưu truyền phổ biến hơn. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Toàn An được nhiều người ghi nhận là tác giả bài thơ “Đêm trung thu không trăng” này, còn Bùi Xương Trạch thì ít được biết đến.

Về tác giả bài thơ có thể còn tiếp tục nghiên cứu để khẳng định thêm. Song dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể xác nhận, đây là một bài thơ nôm được sáng tác dưới thời Hồng Đức (1470 - 1497). Hiện nay chúng ta đang tiến hành sưu tập, giám định, chỉnh lý để còn có được một sưu tập thơ nôm thời Hồng Đức chính xác đầy đủ, thì bài thơ nôm Đêm trung thu không trăng này xứng đáng được tuyểt chọn đưa vào.

Toàn bài là:

Lề la vặc vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ sao?
Nhân bởi hắc vân(2) ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ(3) hèn sao.
Hằng nga(4) chiếm lấy làm song viết(5)
Thục tế tuồng n(6)i dám ước ao,
Mựa dắng(7) đêm nay trăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế(8) càng cao.

CHÚ THÍCH

(1) Hiện ở Thư viện Hán Nôm có bản chép tay, ký hiệu A.640

(2) Hắc vân: mây đen.

(3) Ngọc Thỏ: Chỉ một trăng. Tương truyền trên cung trăng có con thỏ ngọc giã thuốc, nên thơ văn cổ thường dùng hình tượng con thỏ để chỉ mặt trăng.

(4) Hằng nga: Tên nhân vật trong truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc. Tương truyền Hậu Nghệ, chồng của Hằng nga được tiên cho viên thuốc trường sinh bất lão, dự định sẽ cùng vợ chia hưởng. Chẳng dè, một hôm Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lấy trộm thuốc của chàng uống vào rồi bay lên cung trăng.

(5) Song viết: Chưa rõ nghĩa. Ở đây là phiên âm Hán Việt theo một chữ.

(6) Thục đế tuồng ni: nguyên bản viết là 蜀 帝 從 尼 chúng tôi chưa rõ là nói về điều gì, tạm phiên theo mặt chữ.

(7) Mựa dắng: Tiếng cổ có nghĩa là “chớ nên bảo rằng”.

(8) Quế: Chỉ mặt trăng./.

TB

BÀI THƠ NÔM NÚI NGỌC NỮ

NGUYỄN THỊ THẢO

Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có bài thơ nhan đề Quả Sơn. Khi phiên âm giới thiệu tác phẩm này, các soạn giả giải thích “Quả Sơn” là biểu thị người đàn bà góa bụa, chưa biết đích xác núi Quả Sơn nằm ở đâu(1) . Nguyên văn bài thơ như sau:

Hòn đá ai đem đặt giữa đồng,
Mỹ miều thiếu nữ lựa người trông.
Da giồi phấn tuyết nhuần nhan sắc,
Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng.
Ngày ngắm gương ô(2) đáy nước,
Đêm cài lược thỏ(3) trên không.
Tới nay tuổi đã bao nhiêu cá,
Chành chạnh bền gan chẳng lấy chồng.

Thực ra, theo Từ nguyên, “quả” không chỉ có nghĩa là người đàn bà góa, mà còn được hiểu là: người đàn bà chưa chồng. Câu kết trong bài “… bền gan chẳng lấy chồng” có lẽ được hiểu theo nghĩa thứ hai.

Tìm hiểu trong kho sách Hán Nôm, chúng tôi thấy bản Thanh Hóa kỷ thắng (ký hiệu CHv, 1242) của Vương Duy Trình viết về núi Ngọc Nữ ở huyện Đồng Sơn, Thanh Hóa có chép một bài thơ Nôm của Lê Tháng Tồng rất giống bài Quả Sơn này. Nguyên văn như sau:

Tòa núi ai đem dặt giữa đông,
Vẽ hình thiếu nữ đướng mà trông.
Phau phau da đá pha màu phấn,
Phơi phới mưa xuân phủi bụi hồng.
Ngày ngắm gương ô xem đáy nước,
Tối cười hang thỏ chói trên không.
Xuân thu ướm hỏi bao nhiêu tá,
Chành chạnh bền gan chả lấy chồng.

Vương Duy Trình là người làng Phú Diễn, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 23 (1870), từng làm quan Bố chánh ở Thanh Hóa, sau tăng dần lên chức Tổng đốc Thanh Hóa. Ông rất giỏi thơ văn, lại hay lịnh lãm đây đó, nên hiểu biết rất tường tận vùng đất Thanh Hóa. Ngoài những sáng tác thơ văn ra, ông còn biên soạn các sách Thanh Hóa quan phong, Thanh Hóa kỷ thắng v.v…

Thanh Hóa kỷ thắng, là tập bút ký viết về những danh lam thắng cảnh của tỉnh Thanh Hóa, hiện ở Viện nghiên cứu Hán Nôm còn dữ được một bản in năm Giáp thìn (1901), niên hiệu Thành Thái. Vương Duy Trinh viết về núi Ngọc Nữ cho biết, đây là ngọn núi nằm trong dãy núi Kỳ lâm, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trên đỉnh núi có một tảng đá nom giống hình người, quay mặt về phương nam, người địa phương gọi là núi Ngọc Nữ.

Bài thơ Quả Sơn trong Hồng Đức quốc âm thi tập và bài thơ Ngọc Nữ trong Thanh Hóa kỷ thắng giống nhau cả về vần điệu, lẫn nội dung, chỉ khác nhau đôi chữ. Vương Duy Trinh là một nhà văn có trình độ hiểu biết, lại rất chịu khó tìm tòi các truyền thuyết trong dân gian, nên những ghi nhận của ông rất đáng tin cậy. Do vậy, có thể xác nhận rằng bài thơ Quả Sơn trong Hồng Đức âm thi tập có tên là Ngọc Nữ sơn mới đúng.

Thế nhưng, trong Hồng Đức quốc âm thi tập lại có một bài thơ viết về núi Ngọc Nữ khác rằng:

Trấn Nam Minh nẻo thuở xưa,
Xuân thu đã mấy có chồng chưa.
Giồi thức bạc khi sương rụng,
Thoảng mùi hoa thuở gió đưa.
Gương mượn trăng soi màn lại tỏ,
Tóc khoe mây vén nhặt thì chưa.
Dấu thiên lượng rộng kiền khôn gộp,
Ngọc đá bao nhiêu chứa chẳng từ.

Các soạn giả khi chú giải bài thơ này, dựa theo sách Đại nhất thống chí, cho rằng bài thơ này nói về núi Ngọc Nữ ở huyênh Đông Sơn, Thanh Hóa. Như vậy tại núi Ngọc Nữ ở Đông Sơn, Thanh Hóa, có thể có hai bài thơ của Lê Thánh Tồng vịnh về ngọn núi này chăng?

Tìm hiểu các tài liệu viết về Thanh Hóa của người xưa, chúng tôi thấy trong sách Thiên Nam bình thắng minh lượng di mặc lục(4) có một đoạn nói về núi Ngọc Nữ: “Núi nằm ở địa phận làng Bố Vệ, huyện Quảng Điều, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Xét quốc sử làng Bố Vệ là quê mẹ của vua Trung Tông Tuấn hoàng đế (1519 - 1556) đời vua Lê. Vua sinh trưởng ở đây, cho nên từ đời Trung Hưng trở về sau, vùng quê này xây dựng miếu điện thờ phụng, giống như đất Lam Sơn. Phía tây cầu, gần bến sông có ngọn núi đá nhô lên cao vót, từ xa giống như hình người đội khăn, tục là núi Ngọc Nữ. Đến đời vua Thần Tông (1619 - 1662) đi tuần phương nam qua đây, sai thợ khắc đá đề bài thơ quốc âm rằng:

Trấn mé Nam phương nẻo thuở xưa,
Xuân thu đã mấy có chồng chưa?
Lay lay thức bạc khi sương rụng,
Thoang thoang mùi hoa buổi gió đưa.

Tiếc rằng bài thơ này chỉ chép được 4 câu, song đem so sánh với 4 câu đầu của bài thơ Ngọc Nữ sơn trong Hồng Đức quốc âm thi tập, thì thấy hai bài cũng giống nhau từ vần điệu cho đến nội dung. Như vậy có thể đoán dịch rằng: bài thơ vịnh núi Ngọc Nữ trong Hồng Đức Quốc âm thi tập này có thể là bài viết về núi Ngọc Nữ ở huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa mà tác giả là Lê Thánh Tông.

CHÚ THÍCH

(1) Hồng Đức quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên phiên âm và chú giải, in lần thứ 2, Nxb. Văn học, 1982.

(2) Gương ô: chỉ mặt trời.

(3) Lược thỏ: chỉ mặt trăng.

(4) Sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản chép tay A.952.

TB

TỪ NGỮ HÌNH TƯỢNG VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI TRÊN VĂN BẢN THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

NGUYỄN THẠCH GIANG

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU luôn luôn sống trong lòng nhân dân, cảm nhận tất cả những gì xảy ra trong xã hội nhân quần. Ông viết ra những điều đã được cảm nhận đó. Cho dù là nói chuyện hư cấu từ một sứ sở đâu đâu, hay từ một cõi tiên cõi Phật nào khác… chung quy vẫn là câu chuyện nhân gian.

Do đó, ngữ loại hình tượng về cuộc đời va con người trong các tác phẩm của ông rất phong phú. Mọi cái đều bám chặt vào xã hội con người. Chỉ về cuộc đời con người đang sống, chúng ta thấy có nhân gian, dương thế là khi ông muốn gợi ra một đối ý về âm phủ. Khi cần hướng tới một đối cảm về tiên, ông lại dùng dương trần. Còn dương gian là khi trong ý nghĩ thiên về một đối nghịch sự sống và sự chết. Điều này được toát ra từ văn cảnh trong tác phẩm của ông, chứ không phải được suy ra từ các dạng biến cách của từ ngữ.

Về Tổ quốc, có: Nước nhà, bờ cõi là nói với thái độ trung tính (neutre), khi nghĩ về đất nước. Còn như khi muốn gợi về một hình ảnh cụ thể hiện tình đất nước bấy giờ, thì cụ Đồ dùng non Nam hay non Thổ, Nam Trung. Trong tác phẩm của ông, từ non sông bao giờ cũng để chỉ về núi sông cụ thể, muốn gợi cái ý thiết tha, chua xót, là biểu hiện cụ thể của tâm lý ấy. Từ non nước cũng vậy.

Khi đất nước đang trong tình trạng suy vi, ông dùng: nước tối, đời suy. Buổi đạo cùng là nói đất nước chìm ngập trong cảnh tối tăm, loạn lạc không lối thoát. Đời thúc quý là chỉ đời suy sắp đến chỗ diệt vong. Buổi thái bình là sống trong biển lặng.

Khi muốn chỉ về một tình thế nào đó nhằm gợi ý tổng quát về không gian, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng các từ: bầu hồ lô, bầu hồ linh, bầu trời, bốn phương, bốn biển, chín trời …Một nhận xét thú vị có thẻ đưa ra ở đây là Nguyễn Đình Chiểu không bao giờ dùng từ thiên hạ. Phải chăng dân tộc ta không quen tư duy với khái niệm này cho nên ý thức về đất nước, về quốc gian đã hình thành và phát huy tác dụng. Và, Nguyễn Đình Chiểu đã cảm nhận được điều đó mà tránh không dùng trong khi muốn nhấn mạnh cho mọi người ý thức về một hình tượng của xứ ở ta đương sống mà chỉ dùng bất nhiêu từ ngữ trên đây.

Khi nói về xã hội, về cuộc đời thực, có: cõi người ta là nói một cánh hững hờ (indifférent) như là một sự thật hiển nhiên không cần chứng minh. Còn như nói cuộc đời phũ phàng, con người phải chịu bao nỗi vất vả của thiên nhiên và của chính cuộc đời, thì có: cỡi gió mưa, cỡi mây mưa, Chốn phong trần là nơi nói với ý nhấn mạnh về cái vất vả, lam lũ của con người phải chịu là do các dục vọng bên trong. Trong trường hợp này, ông còn dùng cõi phàm, biển bụi. Ngoài ra còn có: miền gió trăng là nói cái cảnh tượng trai gái tình tự buông tuồng.

Nguyễn Đình Chiểu cũng như các tác gia trước ông, đều sử dụng các từ ngữ có sẵn như là những điều cố gợi lên hình ảnh của xã hội biến động, như: bể dâu, tang thương là nói cuộc đời vô thường, oái oăm, làm cho con người phải chịu biết bao đau xót. Vật đổi sao dời (sao dời vật đổi) thường là nói về sự đổi thay tự nhiên thường tình, thì với Nguyễn Đình Chiểu nó cũng hàm một ý chua xót ấy. Xã hội bấy giờ, hàng ngày phơi bầy những điều chướng tai gai mắt, cuộc đời là một hí trường mai mỉa. Nguyễn Đình Chiểu gọi nó đó là trường khối lỗi, tuồng đời, nhằm chỉ vào hiện thực thời cuộc đảo điên bấy giờ.

Cuộc đời nói theo quan điểm của nhà Phật, thì có: cõi trần duyên, biển khổ, biển nghiệt, cuộc phù sinh. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng những từ ngữ này hầu như không có sự phân biệt, xem chúng như những danh từ chung, dùng nó xuất phát từ thực trạng của cuộc đời hơn là quan niệm về đường giáo lý.

Tóm lại, tất cả những từ ngữ trên kia đều là những khái niệm thực chỉ hiện tình của đất nước và bản thân ông. Cho lên bấy nhiêu từ ngữ là bấy nhiêu tâm tình chu xót, toát lên một cánh nhìn thương yêu, xót xa.

Muôn mối trong trời đất do đâu mà có? Do từ tạo hóa mà ra tất cả. Gọi tạo hóa, ngoài những từ ngữ có sẵn cùng với những sắc thái khác nhau của chúng, Nguyễn Đình Chiểu không có nét độc đáo riêng ở đây. Song, ông đã tạo ra và đã quen dùng một số từ ngữ mới: con tạo, thợ trời, máy tạo, máy trời, máy thần, máy u vi, máy trời đất, máy hành tàng, máy khôn, máy linh, máy móc, lò đại tạo là những từ ngữ mang tính ít nhiều không khí của thời đại.

Đối với Nguyễn Đình Chiểu, tạo hóa đã cụ thể hơn, không còn mang tính chất huyền bí như những tác giả trước ông. Bây giờ, ông đã thiên về máy móc hơn, tức là thiên về những lực vật chất nào đó đã tạo ra muôn vật, hay thiên về quy luật vậy lý hẳn hoi, ngay cả đối với những từ ngữ Hán có sẵn:

Hóa công máy móc ở đâu mà
(Dương Từ Hà Mậu. XVII)

Thợ hóa công đúc nặn nhiều loại
(Thơ văn tế. XIII)

Hóa công mấy thợ một pho ngữ hàng
(Ngư tiều vấn đáp. 406)

Đối lập với khái niệm Dương thế, dương trần… đê chỉ cõi người sống, là những khái niệm của người đã khuất ở dương gian, nhưng hồn còn hoạt động ở thế giới khác. Thế giới đó là: âm cung, âm ty, âm phủ, ẩm trù, âm đài, địa phủ. Bấy nhiêu từ ngữ gợi cho ta một ý niệm rất rõ về sự chết, thế giới của những người đã khuất. Còn như dạ đài, ông dùng với sắc thái từ nghĩa khác hơn. Dạ đài chỉ một thế giới, một nơi chốn nào đó mà người sống sẽ về khi không còn sống ở cõi trần. Như vậy, chết mà vẫn sống, hai thế giới cho hai quá trình của một con người. Khi Nguyệt Nga nói:

Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn
dạ đài gặp nhau,

Hay khi Nguyễn Đình Chiểu viết trong bài thơ điếu Phan Tòng:

E nỗi dạ đài quan lớn hỏi:
Cớ sao xếu mếu cảnh Ba Trì?

Ông không dùng những từ kia là ý ông muốn nhấn mạnh đến sắc thái tu từ đó.

Còn như khi muốn nói văn vẻ hơn, cũng là sự chết, cũng là thế giới của những người đã khuất, những nghe mà không có cảm giác ghê rợn lạnh lẽo chút nào. Đó là những từ: suối vang, hoang tuyền, cửu tuyền, chín suối mặc dù có cả Diêm la, Diêm vương nơi đó.

Toàn là những từ ngữ cũ. Nhưng thế giới của lớp từ này, Nguyễn Đình Chiểu mô tả như là một thế giới có thật, tổ chức của những sự trừng phạt và ngục hình những người có tội ở trần gian, tức là những người lúc sống đã phạm vào những quan điểm đạo đức ông đã nêu ra về đạo thường, về nhân luân… có hại cho sự tiến bộ của xã hội. Thật chăng? Không, Nguyễn Đình Chiểu mô tả một cánh tỉ mỉ và rùng rợn những nhục hình ở âm ty là có một dụng ý rõ rệt để răn người đời, khuyên họ lúc sống đừng làm bậy. Tôn giáo đối với ông như là một phương tiện để giáo dục, răn cấm con người trong văn chương của ông.

Trong thế gian, mọi cái đều biến dịch, thông thường, suy tàn, ngang trái. Chỉ khái niệm đó, Nguyễn Đình Chiểu dùng các từ ngữ cố định gần như thành ngữ: Nước chẩy hao trôi, nước trôi hoa tàn là nói cái thế phải chịu không cưỡng lại được, gợi ý chua xót về sự mất mát hoàn toàn. Nước sao trăng lờ, mây nổi hoa tàn là nói về sự không lâu bền, có đó rồi không đó như mây nổi, như hoa sớm nở chiều tàn. Nước sao bèo dạt chỉ ý tan tác về đâu, bất định. Còn như cỏ úa hoa tàn bóng xế cành xuân cũng chỉ sự suy bại nói chung.

Lớp từ này rất nghèo. Điều này biểu hiện một chiều hướng tư tưởng ngược lại. Nguyễn Đình Chiểu là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, dùng ngòi bút là vũ khí chiến đấu với quân thù và bè lũ tay sai của chúng. Trong hoàn cảnh bi đát của đất nước và của bản thân, ông vẫn hăm hở với nhiệm vụ tham gia chống giặc cứu nước - nói như Tùng Thiện Vương: “chỉ cánh thư sinh không bút trận”, tham gia đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của con người, nêu cao đạo đức nhân nghĩa truyền thống của dân tộc.

Đó là lòng đạo và chính lòng đạo này đã tạo lên sự nghiệp vẻ vang của ông, một nhà thơ có một lòng tin mạnh mẽ vào lực lượng của quần chúng nhân dân, vào cuộc đời, vào tiền đồ của dân tộc. Thơ văn ông đi vào lòng quần chúng với niềm lạc quan tin tưởng ấy. Đó là điều khác hẳn với bất kỳ một nhà thơ nhà văn nào trước ông.

Bây giờ xin nói đến lớp từ ngữ xung quanh đời sống của nhân dân, phần đông là những người hèn kẻ khó. Một loại từ ngữ mới của dân gian được Nguyễn Đình Chiểu dùng để mô tả cuộc sống của người dân: đãy cơm bầu nước, tương chua cơm hẩm, bữa cháo bữa cơm, no đói ránh lành, mai cơm chiều chác, quan tiền chén gạo, màn trời chiếu đất, đế nệm cây mùng, no lòng ám cật, gặp nàn trũi đẫy… Ngay khi tả hạng người khá giả, ngôn ngữ của ông cũng vẫn mang cái vẻ ngèo mộc mạc của dân gian, như: trà ve rượu bầu, khay trầu chén rượu, chiếc bông gối dựa, thuốc là ướp ngâu, quần đôi áo cặp, quần nhiễu áo sô, ăn ngon mặc lành. Còn như: Khô lân chả phụng, trà vo điểm tuyết, rượu bầu cúc hương cùng với những lầu son gác tía… nói trên kia, thực ra chỉ là những từ ngữ có tính chất ước lệ, những sáo ngữ thông thường để nói lên sự khác biệt của hạng giầu sang mà ông chưa hề sống với nó.

Nói về lòng dạ, tâm địa của con người, ta thường gặp trong tác phẩm của ông: linh đài là nói cái tâm của con người ta. Khi diên tả lòng trung dạ sắt, thì nói gan trung dạ sắt, lòng son, lòng vàng, lòng vàng đá, lòng hằng là chỉ lòng bền chặt, không thay đỏi dù cho gặp trăm ngàn trắc trở. Chỉ lòng tốt, chất phát, hiền lành thì nói lòng thành, lòng lành dạ thảo ngay. Lòng xuân thu là lòng lo việc trị yên đời loạn, khôi phục chính đạo. Đây là một từ mới. Lòng gắm nhiễu là nói về tài thơ phú. Trái với lòng công lòng tư. Người đi tu lo giữa gìn trai giới thì gọi là lòng trai. Lòng mong được tình nhân là dạ thỏ. Con người hiểm độc có dạ gươm đao, lòng lang dạ sói. Và lòng trời cũng được nhân cánh hóa có tâm địa ghét thói gian tham như con người ta vậy.

Trong tất cả các tấm lòng, Nguyễn Đình Chiểu chú ý nhất có một, ấy là lòng đạo - lòng đạo xin tròn một tấm gương. Lòng đạo là lòng ông đã hiểu và thể nghiệm được nghĩa lý của đạo. Trong từ ngữ của Dịch truyền người ta gọi cái nhờ đó mọi vật cứng được cứng là cái đạo cứng. Đạo cứng ấy là tách roài với cái cứng của cái vật hữu hình, nó làm thành nột cái lý siêu hình hữu danh. Đạo như vậy rất nhiều, như đạo vua tôi, đạo cha con. Đó là những gì mà ông vua, bề tôi, người cha, đứa con phải thế. Mỗi đạo ấy được biểu thị bằng một cái danh, và mỗi người phải hành động một cánh lý tưởng hợp với những danh khác. Lòng đạo của Nguyễn Đình Chiểu là thuộc phạm trù của Dịch truyện nói đây. Và, theo ông, lòng đạo tức lòng nhân nghĩa truyền thống đạo đức Việt Nam. Như vậy, lòng đạo là một danh từ tổng quát mà các lòng nói trên kia là thuộc tính của lòng đạo bao quát này.

Từ những từ hình tượng văn học về cuộc đời và con người trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta thấy biết bao yêu thương khi rút ra từ đây là một ý niệm rõ ràng và cụ thể về ông: một nhà thơ, một chiến sĩ văn hóa của nhân dân. Mọi cái ở ông được biểu hiện ra đều bắt nguồn từ quần chúng. Và, sự gắn bó đó đã tạo nên cái vĩ đại của ông: một nhà thơ đã dùng tiếng nói của thời đại để nói về cuộc đời, về con người. Chỉ nhìn vào cái vốn từ ngữ của ông mà cũng đã thấy được dấu ấn của cả một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng oanh liệt của dân tộc, cảm nhận được hơi thở của thực tế xã hội đương thời.

TB

GENIBREL ĐÃ HIỂU LỤC VÂN TIÊN
NHƯ THẾ NÀO?

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Trong bài trước đăng ở Tạp chí Hán nôm số 2 - 87, chúng tôi đã nêu lên một số sai lầm của giáo sĩ Génibrel khi dịch các câu trích trong Truyện Kiều sang tiếng Pháp.

Trong bài này chùng tôi sẽ nêu ra một số sai lầm khác mà Génibrel đã mắc phải khi dịch gần 400 câu trích trong quyển chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu sang tiếng Pháp.

Cũng như đối với trường hợp Truyện Kiều, chúng tôi xin chia ra làm năm mục như sau:

I. CÁC CHỮ DỊCH SAI VÌ KHÔNG HIỂU ĐƯỢC TIẾNG ĐỒNG ÂM

1. Chữ NGHÈO trong câu 38:

Chẳng may mà gặp lúc nghèo(1)

Génibrel vì hiểu lầm lên đã dịch sai là: Si, par malheur en venait à tomber dans lamisère. (Nếu chẳng may người ta bị rơi vào cảnh nghèo túng).

Thực ra chữ NGHÈO ở câu 38 trong Lục Vân Tiên phải hiểu là hiểm nghèo và phải dịch là danger mới đúng.

2. Chữ TRƯA trong câu 993:

E khi trậm bước tới trưa

Génibrel vì hiểu lầm lên đã dịch sai là: Craindre d'arriver (à midi) trop tard puor avoir marché lentement. (E sợ đến trễ (vào lúc buổi chưa) vì đã đi chậm).

Thực ta chữ TRƯA ở đây không chỉ buổi trưa mà lại có nghĩa là chậm trễ. Nếu dịch tới trưa thì phải viết là arriver tard mới đúng.

3. Chữ TỬ trong câu 424:

Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.

Génibrel vì hiểu lầm chữ TỬ là con nên đã dịch sai câu thơ trên như sau:

Sembladles à despils d' Immortels j'ouis - sant d'unrepos sans sup les mont Bồng Lai. (Giống như những người con của các vị tiên hưởng một cuộc sống an nhàn bất tận trên núi Bồng Lai).

Thực ra chữ TỬ ở đây chỉ có nghĩa là người nên dùng TIÊN TỬ phải dịch là Immortel mới đúng. Và câu 424 có thể dịch là:

Aussi avaient - ils I'impression d'être des Immortels sur les monts Bồng Lai (le séjour dse bienheureux).

4. Chữ TỜ trong câu 937:

Đêm khuya lặng lẽ như tờ.

Génibrel đã dịch câu ấy như sau:

La nuit est avanceé (la mer) est calme comme un miroir. (Đêm đã khuya, biển yên lặng pgẳng như một tấm gương). Dịch như vậy thì không đúng nghĩa của chữ TỜ. Thông thường ta vẫn hiểu chữ ấy theo hai cánh:

- TỜ là tờ giấy, ý nói sự yện lặng ở một nơi nào đó làm cho ta nghĩ đến mặt phẳng của một tờ giấy nằm im lìm không có tiếng động.

- TỜ là do chữ TỬ đọc chạnh ra, nó có nghĩa làm một cái đền mà cảnh vật chung quanh thường lúc nào cũng yên tĩnh.

Theo hai cánh giải thích ấy, nghĩa thứ nhất thích hợp hơn nếu câu 937 có thể dịch là:

La nuit était avacée, le silence, parfait.

5. Chữ CHẲNG HAY trong câu 916:

Chẳng hay người táng huyệt này là ai.

Génibrel đã dịch chữ CHẲNG HAY là ignorer (không biết).

Dịch như vậy thì sai vi đã không hiểu chữ CHẲNG HAY ở đây nó đã được dùng theo lối nghi vấn. Câu ấy phải được dịch như sau mới đúng với lời Tiểu đồng hỏi những người dân trong làng đứng bên nấm mộ mới chôn một xác chết:

Sevez - vous qui est I'honme enterré sous eette tombe?

II. CÁC CHỮ DỊCH SAI KHÔNG HIỂU ĐƯỢC NGIÃ ĐENCỦA CÁC CHỮ ẤY.

1. Chữ THANH KHÂM trong câu 318:

Đặng cỏn trả nợ thanh khâm cho rồi.

Génibrel đã dịch chữ thanh khâm la: laytte. Au. Fig. Bienfaits. (Tã lót, Nghĩa bóng: Công ơn). Ý hẳn giáo sư Génibrel cho rằng con cái phải chịu ơn cha mẹ nuôi nấng từ lúc còn nhỏ thay lót tã đến khi khôn lớn.

Nhưng chữ THANH KHÂM đã không có nghĩa như vậy mà lại có nghĩa là cổ áo xanh (Thanh: xanh; Khâm: cổ áo, dùng để tượng trưng cho cái áo).

Ngày xưa bên Trung Quốc, học trò thường mặc áo xanh nên chữ THANH KHÂM có bóng là người học trò. Nợ thanh khâm vì vậy có nghĩa là nợ sách đèn của người học trò phải trả và cả câu 318 có thể dịch là:

Laissez - moi le soin de m'acquitter de ma dette de collet bleu. (dette d'étudiant. Càd. Reússir aux examens).

2. Chữ NÂNG KHĂN trong câu 1246:

Lỡ bề sửa trắp, lỡ bề nâng khăn.

Génibrel đã dịch chữ nâng khăn la Présen - ter le bonnet et le mettre. (Đưa cái mũ bo - nê và đội lên đầu nó).

Giáo sĩ đã không hiểu được ý nghĩa của chữ sửa túi nâng khăn hoặc sửa cháp nâng khăn, nó được dùng để chỉ công việc của người vợ săn sóc cho chồng. Mỗi khi người chồng đi đâu thì người vợ lại kính đưa cho cái khăn và thu sếp lại cái túi hay cái trắp để kẻ hầu mang theo.

Nâng khăn như vậy nếu có dịch sang tiếng Pháp phải viết là Présenter le turban (on mari) và phải hiểu là chức phận của người vợ (la condition d'une épeuse).

3. Chữ CUNG QUẾ trong câu 409.

Chàng dầu cung quế xuyên dương.

Génibrel đã chép là Cung quế bắn dương và đã dịch sai là: Avee I'are de camelier Frapper là Feuille de saule. (Với cái cung bằng gỗ cây quế bắn vào lá cây dương). Nhưng cung quế không phải là cái cung bằng gỗ cây quế mà là cái cung trăng trong đó có trồng cây quế.

Xưa Hán, Vũ đế (140 - 89tr cn) có cho làm một cái cung gọi là CUNG QUẾ để nàng Trương Lệ Hoa ở, cửa tròn như mặt trăng, có lồng kính và ở giữa sân có trồng một cây quế.

Từ Hán có chữ “chiết quế” chỉ việc thi đậu. Văn nôm cũng có chữ “bẻ quế”: “Lăm le giựt giải thanh vân, trèo trăng bẻ quế gọi xuân mở đường”. Riêng về chữ “xuyên dương” thì cũng có điểm tích chép trong Tả truyện: Dưỡng Do Cơ thời Xuân Thu, quan đại, phu nước Sở nổi tiếng bắn trăm phát trúng cả trăm.

Thơ Trần Nguyên Lão (đời Đường): Chiết quế nhất chi tiêu Hưa ngã, Xuyên dương tam tiễn tận kinh nhân (Bẻ quế một nhánh nhường ta trước, xuyên dương ba phát tên bắn làm kinh sợ cả mọi người).

Giáo sĩ Génibrel có thể vì đã không biết đến các điểm tích trên, nên đã hiểu sai cung quế là cây cung làm bằng gỗ của cây quế.

4. Chữ MẮT PHỤNG trong câu 349:

Mày tằm, mắt phụng, môi son.

Génibrel đã dịch mắt phụng là regarl d'aigel (mắt vọ) thì sai.

Đúng ra mắt phụng phải dịch là Yeux de phènex. Génibrel đã dịch sai cả câu 339 sang tiếng Pháp là: Litt. Aux sourcils de ver à soie, au regard d'aigle, aux lèvres de minium.Càd. Aux soureils fardés, au regarl effronté, aux lèvres teintes de rouge. Une courtisane. (Nghĩa đen: Mày ngài, mắt vọ, môi son. Nghĩa bóng là Mày vẽ phấn, mắt trâng tráo, môi tô son đỏ. Một kỹ nữ).

Hiểu như vậy thì quá sai vì câu thơ ấy tả Lục Vân Tiên chứ không phải là tả một kỹ nữ, một cô gái giang hồ, một người đàn bà đáng điếm.

Nguyễn Đình Chiểu đã có ý tả tướng mạo của Lục Vân Tiên như tướng mạo của Quan Vân Trường trong Tam quốc chí: “Thần nhược đồ chi, đan phụng nhãn, ngoạ tàng mi, tướng mạo đường đường, uy phong lẫm liệt” (Môi hồng như son tô, mắt phụng mày tằm, tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt).

5. Chữ CẦY MÂY, CUỐC NGUYỆT trong câu 518.

Cầy mây cuốc nguyệt tả tơi áo cầu.

Génibrel đã dịch mấy chữ cầy mây, cuốc nguyệt là Faire de bonnes ouevres (Làm những công việc tối).

Dịch như vậy thì xa hẳn nghĩa của mấy chữ trên vì cầy mây, cuôc nguyệt chỉ có nghĩa là cầy ruộng và câu cá. Hai chữ “mây” “nguyệt” chỉ được thêm vào để nói đến cảnh ẩn dật: đi cày ở chân núi trên cao có mây phủ và câu ở dòng sông bóng trăng lồng dước nước.

6. Chữ MINH LINH trong câu 1552.

Ngày nay lại gặp minh linh phước trời.

Génibrel đã dịch MINH LINH phước trời là Insigne faveur céleste (biểu hiện của phước trời).

Dịch chữ MINH LINH là insigne (biểu hiện) thì sai hoàn toàn vì Génibrel đã không biết đến điểm tích của của chữ ấy trong Kinh thi.

Thiên Tiểu Nhã, bài Tiểu Uyển trong Kinh thi có câu:

“Minh linh hữu tử, Quả lã phụ chi, Giáo hối nhi tử, Thức cốc (tự) dĩ chi” (Nghĩa là: Minh Linh có con, tò vò bắt con minh linh con ấy, dậy dỗ như con của mình, dùng điều lành mà dậy thì đứa con ấy sẽ giống theo).

Trong văn chương xưa, chữ MINH LINH thường được dùng để chỉ con nuôi (enfant adoptif) chứ không phải là biểu hiện (insigne) như Génibrel đã hiểu lầm.

III. CÁC CHỮ DỊCH SAI HOẶC CÁC CÂU HIỂU SAI VÌ KHÔNG BIẾT ĐƯỢC NGHĨA BÓNG

Các trường hợp này thì rất nhiều, chúng tôi chỉ xin nêu ra mấy thí dụ sau đây:

1. Chữ TÁCH trong câu 492.

Ba mươi mốt tuổi tách đường công danh.

Génibrel đã hiểu sai nghĩa bóng chữ tách khi dịch “Tách đường công danh” là Marcher tuot droit sur le chemin de la gloire. (Đi thẳng tới trên con đường vinh quang).

Đúng ra câu 492 phai được dịch là Sur le chemin de la gloire, il mourut à I'âge de trente et un ans.

Tách đường công danh như vậy có nghĩa là chết lúc đang theo đuổi con đường công danh.

Génibrel hẳn đã không biết rằng Nhan Tử chết sớm, khi đang theo đuổi con đường công danh, lúc mới 13 tuổi.

2. Chữ LONG VÂN trong câu 19:

Nay đã gặp hội long vân.

Génibrel đã dịch sai ở hai chỗ khác nhau:

a) Chữ LONG: Génibrel đã dấn thí dụ: Long vân thế hội và đã dịch ra là le dragon et les nuages s'unissent; Càd, liaisonintime(Con rồng và những đám mây hợp lại với nhau) của con rồng, nghĩa là sự quan hệ mật thiết, sự giao du thân mật.

b) Chữ GẶP: Génibrel đã dẫn thí dụ Gặp hội long vân và đã dịch là Rencontrer le nuage heureuse (Gặp mây (bóng) của con rồng, nghĩa là: Có được dịp may, sung sướng).

Thực ra long vân không phải là giao du thân mật hoặc có được dịp may sung sướng mà chữ ấy có sẵn nghĩa lấy từ Kinh Dịch: “Vân tòng long, phong tòng hổ” (mây theo rồng, gió theo hổ ý nói sự gặp gỡ tốt làng, may mắn để lập công danh.

Ta thường nói long vân hoặc phong vân để chỉ nghĩa như trên.

Nếu dịch sang tiếng Pháp thì hai câu thơ:

Nay đà gặp hội long vân,
Ai mà chẳng lập thân buổi này.

Có thể viết là:

Maintenant qu'une occasion propice presenete, Et que mond le mondo en profile pour en faire une sitution

3. Chữ GIÓ TRĂNG trong câu 1846:

Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng.

Génibrel đã dịch Lánh miền gió trăng là Êviter la région du vent et de la lune. Càd. Eviter la compagnie des trompeurs et des perfides. Se séperer de ce monde trompeur (Tránh miền có gió và có trăng. Nghĩa là tránh giao du với phường lừa đảo và phản trắc. Xa cánh hẳn cõi đời lường gạt nàng).

Dịch như vậy là sai hẳn nghĩa của chữ GIÓ TRĂNG nó thực ra đã được dùng để chỉ sự tình của người con trai và con gái vì trai gái thường hẹn hò nhau, thề thốt với nhau ở dưới cảnh trăng thanh gió mát.

Lánh miền gió trăng như vậy có nghĩa là xa hẳn chỗ yêu đương, vòng tình ái để giữ tron niềm chung thuỷ.

4. Chữ NGUỒN trong câu 1701:

Tưởng bề nguồn nước cội cây.

Génibrel đã dịch sai mấy chữ nguồn nước cội cây là les causes et leurs suites (những nguyên nhân và các hậu quả của nó) thì không sát nghĩa gì cả.

Theo câu này thì, nghĩa bóng, ý nói đến việc Vân Tiên nhắc lại công ơn của mẹ mình:

Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bề nguồn nước cội cây.

Nếu dịch sang tiếng Pháp thì câu 1701 có thể viết là “A mes yeux, vous êtes comme la source a donné naissnce à un arbre”.

5. Chữ PHAI trong câu 1330.

Thương người quân tử biết ngày nào phai.

Génibrel đã dịch câu trên là: “Quand j'aimaisce grand homme, savais - je I'époque où il se décolorerait? Càd, où son étoile pâlirait? ” (Khi tôi yêu người quân tử ấy, tôi có biết chăng đến thời kỳ mà mà người ấy bị phai mờ đi không? Nghĩa là thời kỳ mà thế lực của người ấy bị sút kém đi không?)

Génibrel đã không hiểu rõ nghĩa bóng của chữ PHAI nên đã dịch sai hẳn đi vậy.

Chữ phai ở đây có nghĩa là tình cảm bớt phần thắm thiết đi, bị giảm đi.

Nếu dịch sang tiếng Pháp câu ấy có thể viết là: Mais quand s' apaisera la compassion que je nourris pour mon cher lettré.

IV. NHỮNG CÂU DỊCH SAI VÀ ĐÃ VIẾT THEO HOẶC VIẾT SAI MỘT CHỮ

1. Câu 1584.

Mười hai bến nước gửi mình vào đâu.

Génibrel đã chép thiếu một chữ thành là:

Hai bến nước gửi mình vào đâu?

Và đã dịch sai là:

Me voici en face de deux débbareadères ququel aborderai-je? Fig, Ne pas savoir prendre ume décision (Này đây tôi ở trước hai bến nước mà tôi chưa biết phải ghé vào quán nào? Nghĩa bóng: không biết quyết định ra sao).

Chép thiếu như vậy hẳn Génobrel đã không biết đến câu tục ngữ: “Con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu”.

Mười hai bến nước là chỉ mười hai hạng người trong xã hội ta ngày xưa con gái có thể phải đi lấy làm chồng: sĩ, nông, công, thương, ngư, tiều, canh, mục, công, hầu, khanh, tướng. Nếu dịch sang tiếng Pháp hai câu:

Lênh đênh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước gửi mình vào đâu?

Thì có thể viết lại là:

Errant toule seulu, la brque de I' amuor ne sait à quel rivoge elle va s'arrêter?

2. Câu 1069.

Oan gia nọ đã khéo gây.

Génibrel đã chép sai chữ NỌ thành chữ NỢ nên đã dịch sai hẳn câu thơ là:

On a été habile à combiner la dette du malheur immérité.Càd. le ciel habilement a combiné cette expiation (Người ta đã khéo léo bầy đặt ra cái nợ của của sự rủi ro không đáng phải chịu: Nghĩa là: ông trời đã khéo bầy đặt ra cái lễ chuộc tội ấy).

Nếu chép đúng chữ NỌ thì câu 1069 phải dịch là: Ce malheur immérité, qui donc I'asuscité?

3. Câu 774:

Ngồi gươm đứng giáo mở đường thiên hoang.

Génibrel đã chép THIÊN HOANG là THIÊN OAN và đã dịch là: Litt. Ouvrir le chemin de changer les malheurs immérités.Càd. Guérir la manadie en la changeant par la santé. (Nghĩa đen: Mở đường để thay bỏ các sự thống khổ oan uổng. Nghĩa bóng: chữa khỏi bệnh để đổi lấy sức khoẻ).

Chép là THIÊN OAN và dịch như trên thì không hợp lý vì mấy chữ MỞ ĐƯỜNG THIÊN HOANG có nguồn gốc từ thành ngữ PHÁ THIÊN HOANG trong sách Ấu học.

Phá thiên hoang có nghĩa đen là khai phá một vùng đất khô cằn, nghĩa bóng là chỉ một người mới nổi tiếng, xuất thân từ chỗ không có nhân tài, nơi chưa có ai đỗ đạt.

Theo điểm cũ đời Đường, các vị cử nhân đất Kinh Châu, một vùng đất mới khai hóa đã nhiều lần về kinh đo thi Hội nhưng chưa có ai đậu được (nên gọi Kinh Châu là chỗ thiên hoang).

Về sau. Lưu Thế là người Kinh Châu đầu tiên đã đậu kỳ thi Hội nên ông được mẹnh danh là người phá thiên hoang. Nguyễn Đình Chiểu nói mở đường thiên hoang là nói với ý nghĩa của điểm tích trên.

Câu thơ: Ngồi gươm đứng giáo mở đường thiên hoang như vậy có thể hiểu là: Thầy pháp khoe tài có thể vượt mọi nguy hiểm (chữ ngồi gươm đứng giáo) làm được những việc khó khăn mà từ xưa đến nay chưa hề có ai làm được (tức là sẽ chữa khỏi mắt cho Vân Tiên).

4. Câu 1017:

Một lời gắn giúp keo sơn.

Génibrel đã viết sai chữ GẮN thành GẮNG(2) và đã dịch sai là:

“Par une parole il s'effaires” (Bằng một lời nói ông ta(ngư ông) cố gắng dán sơn keo cho dính lại, nghĩa là thu xếp mọi việc).

Thực ra thì câu này nói đến việc ngư ông khi đưa Vân Tiên lại nhà Võ Công đã có lời bóng gió mượn chuyện xưa tích cũ về đường nghĩa nhân để xin Võ Công đừng có phụ bạc Vân Tiên là kẻ mắc nạn.

Ngư ông như vậy đã dùng lời nói của mình để mong gắn lại mối nhân duyên của Vân Tiên với Thể Loan cho được bền chặt như keo sơn.

Chữ GẮN đã bị viết sai thành GẮNG lên Génibrel đã dịch sai là “il s'efforce de”.

Ta thường nói gắn keo sơn. Keo sơn là dịch ở chữ Hán tất giao.

Truyện Kiều cũng có câu:

Một lời vừa gắn tất giao.

Thơ xưa cũng có câu: Di giao đầu tất trung, thuỳ năng biệt ly thử (Lấy keo mà bỏ vào trong sơn, ai làm sao chia rẽ cho được nữa).

Lại nữa, chính Génibrel cũng có trích dẫn ở phần chữ SƠN câu 76 trong Lục Vân Tiên:

Trăm năm xin gắng keo sơn một lời.

Trong câu thơ này Génibrel cũng đã viết sai chữ GẮN thành GẮNG.

Nhưng sự sai lầm về chính tả này đã làm cho các câu thơ thay đổi hẳn ý nghĩa.

Như câu 1117:

Gắng mà uống cho yêu.

Génibrel, ở câu thơ này đã viết sai chữ GẮNG thành GẮN và đã dịch sai cả câu là:

Allons, mangez, buvez en paix.

(Nào hãy ăn, hãy uống êm ả, bình yên).

Dịch như vậy thì không rõ nghĩa chữ GẮNG (s'efforcer de) và chữ en paix cũng không đúng với chữ yên.

Yên ở đây có nghĩa là mau được khỏi bệnh, sớm được bình phục sức khỏe, giảm được các cơn đau.

Câu 1117 nếu dịch sang tiếng Pháp cho đúng nghĩa thì có thể viết là:

Mangez et buvez à satiété pour apaiser vos souffances.

5. Câu 748.

Vì chung ma quỷ lộ trình rất thiêng.

Génibrel đã viết sai chữ THIÊNG thành THIÊN (Abel des Michels trong bản Nôm quyển Lục Vân Tiên cũng viết sai chữ THIÊNG là THIÊN), và đã dịch chữ thiêng là méchant (độc ác).

Đúng ra chữ THIÊNG phải dịch là pouroir surnaturel, lieu particulièrement hanté par les esprits et où ils manifestent leur puissance tì mới đúng.

V. NHỮNG CÂU DỊCH SAI VÌ KHÔNG HIỂU PHONG TỤC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM.

1. Chữ LÀM CHAY trong câu 1348.

Làm chay bẩy bữa tron cùng Vân Tiên.

Giáo sĩ Génibrel đã dịch Làm chay bảy bữa là Faire le jeune de sept jours. À la fin du troisième anniversaire de la mort d' un parent, les parents observent un jeune de sept jours peadant lesquels ils invitent les bonzes à venir réciter des formules de prières, et faire des sacrifices pour la rèmession des péchés du defunt, sa délivrance des peines du Tartare et son entrée daus la sein du Bunddha. (Nhịn ăn bảy ngày, Nghĩa là: Đến lần giỗ thứ ba của người chết, các người thân trong họ nhịn ăn bảy ngày; trong thời gian đó họ mời các nhà sư lại tụng kinh cầu nguyện và cúng lễ cho người chết được xá tội, khỏi bị đầy vào Địa ngục mà được lên Niết bàn chầu Phật).

Hiểu như vậy là sai vào giáo sĩ Génibrel kể như không am tường về tôn giáo Việt Nam theo Phật giáo.

Đúng ra thì người ta làm chay cho người chết cứ bảy ngày một lần cúng, kể từ ngày mất đến ngày thứ 49 (7x7), ngày cúng tuần thứ bảy tức chung thất.

Người ta ăn chay, ăn lạt chứ không nhịn ăn. Génibrel dùng chữ jeune (nhịn ăn) là sai.

Việc Kiều Nguyệt Nga làm chay cho Vân Tiên, cúng một tuần bảy ngày, trước khi lên đường đi cống Hồ là để bầy tỏ tấm lòng chung thuỷ của mình và cũng để cầu cho linh hồn của Vân Tiên sớm được lên Niết bàn với đức Phật.

Vậy hai câu 1437 - 1438:

Con xin sang lậy Lục ông
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.

Có thể dịch sang tiếng Pháp là:

Je demande done la permission d'aller présenter mes saluts à Lục ông.

Et de célébrer une cérémonie expiatoire pendant sept juors afin de témoigner ma gratitude envers Vân Tiên.

2. Câu 385:

Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì.

Câu này có hai chữ ĐẠi KHOA và TIỂU KHOA.

Génibrel có dịch:

Đại khoa: grand examen triennal

Tiểu khoa: pelit examen qui a lieu dans chaque province deux fois par an.

Nếu áp dụng nghĩa của hai chữ ấy vào câu thơ trên thì không đúng vì đại khoa ở đây chỉ việc thi đậu, còn tiểu khoa là chỉ việc cưới vợ.

Vân Tiên qua câu nói ấy, muốn thưa với Võ công rằng nếu mình thi đậu khoa này thì sẽ lo đến việc vưới vợ là Võ Thể Loan. Còn nói riêng về việc thi cử thì Génivrel cũng hiểu sai chữ TIỂU KHOA khi bảo rằng đó là một kỳ thi nhỏ được tổ chức ở mỗi tỉnh một năm hai lần.

Đúng ra thì, theo chế độ khoa cử của nước ta xưa, thì đỗ tú tài gọi là tiểu khoa, thi đỗ cử nhân gọi là trung khoa, thi đỗ Phó bảng, tiến sĩ gọi là đại khoa.

Giáo sĩ J.P.M. Génibrel, khi soạn cuốn Từ điển Việt Pháp, đã muốn làm công phu hơn các quyển từ điển in từ trước bằng cánh dẫn thêm các thí dụ trích từ các tập thơ văn cổ.

Ông đã viết trong phần mở đầu:

“Nous avons parcouru attentivement un bon nombre d'ouorages annamites en prose et en vers, pour y recueillir des exemples, et rendre ainsi ce travail à la fois plus sérieux et plus intéressant”.

(Chúng tôi đã đọc cận thận một số lớn các tác phẩm tiếng Nam viết bằng văn xuôi và văn vần để lượm lặt từ đó ra các thí dụ, và làm cho quyển sách của chúng tôi biên soạn được đứng đắn và thích thú hơn).

Nhưng qua những câu trích dẫn trên đây, có thể thấy cuốn Từ điển của ông tồn tại khá nhiều sai lầm và thiếu sót. ĐIều này nhắc nhở chúng ta, khi sử dụng cuốn Từ điển cũng như các cuốn Từ điển tiếng Việt khác do người nước ngoài biên soạn, cần có thái độ thận trọng đúng mức.

CHÚ THÍCH

(1) Tra từ điển Génibrel ở chữ CHẲNG trang 108

(2) Chữ này nhiều bản Lục Vân Tiên cũng viết sai chính tả.

TB

THÊM MỘT SỐ THƠ VĂN CỦA
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

CAO TỰ THANH

Kể từ khi bản Lục Vân Tiên do G.Janeau phiên âm xuất bản ở Sài Gòn năm 1867 tới nay, hầu hết những bài thơ văn quan trọng của Nguyễn Đình Chiểu đều đã được sưu tầm và công bố trên sách báo bằng chữ quốc ngữ la-tinh. Tuy nhiên, rải rác đây đó vẫn còn có những thơ văn khác của ông, hoặc được lưu truyền qua lời truyền khẩu trong dân gian, hoặc đươc sao chép trong các tập Hán Nôm chép tay mà vì nhiều lý do, chưa được sưu tầm, phát hiện và công bố. Dưới đây là một số thơ văn loại đó của Nguyễn Đình Chiểu tìm thấy ở hai tỉnh Bến Tre và Long An từ tháng 03.1982 tới nay.

Theo một số người lớn tuổi ở xã Mỹ Nhơn huyện Ba Trì, tương truyền khi đã về ở Bến Tre, Nguyễn Đình Chiểu có một vài câu đối như sau viết về sân khấu hát bội:

1. Lục nễ vị trần, dĩ kiến động phòng hoa chúc; Ngũ kinh bất độc, toàn văn chiếm bảng ngao đầu.

(Cưới hỏi chưa bày, đã thấy động phòng hoa chúc;
Sử kinh chẳng đọc, rốt nghe chiếm bảng ngao đầu).

2. Điện tiền văn võ tam tứ nhân, tựu vị bá quan triều sĩ; Trận thượng tung hoành bát cửu cá, khả kham vạn đội hùng binh.

(Ba bốn người văn võ trước đền; góp gọi ba quan triều sĩ; Tám chín mạng tung hoành trên trận, khá ngang muôn đội hùng binh).

3. Thiết yếm diên khao thưởng quần thần, thống ẩm không hồ mộc trảm; Chấp lịch kỳ chỉ huy chúng tướng, hư trương bạch nhận kim đao.

(Bày tiệp khao thưởng quần thần, rối rít bầu không chén gỗ; Cầm cờ chỉ huy các tướng, lăng xăng gươm bén đao vàng).

Nói cho đúng, ngôn ngữ mộc mạc và ý tứ trung lặp (đều chỉ đề cập tới tính ước lệ của nghệ thuật hát bội) nơi các câu đối trên khiến người ta phải nghĩ rằng chưa chắc gì chúng của Nguyễn Đình Chiểu; mà giả như có câu nào đúng là của ông đi nữa thì việc xác định văn bản nguyên tác cũng là vấn đề cần được đặt ra. Tuy nhiên, ít nhất thì những câu đối truyền là của Nguyễn Đình Chiểu này cũng cho thấy các công trình biên soạn thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trước nay đều đã bỏ qua một phần tác phẩm có phải không thể là không quan trọng chẳng hạn có hay không những câu đối của nhà thơ mù Gia Định điếu Trương Định, Phan Ngọc Tòng hay Nguyênc Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân…? Cân nhắc lại rằng cánh đây hơn 80 năm, có người đã giới thiệu một đôi câu đối Tết “Tối ba mươi, rờ nên của Tết; Sáng mồng một, nghe pháo nẩy xuân” và chú rõ là “của ông Đồ Chiểu đặt khi mang bịnh rồi”(1) .

Năm 1982, chúng tôi tìm được ở Thanh Ba - quê vợ Nguyễn Đình Chiểu (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) một hợp tập thơ văn Hán Nôm chép tay, nhan đề Thi vận tập thành(2) . Tập thơ này có chép một số bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu, trong đó có một bài nhan đề Tú tìa Chiểu tự thuật trước nay chưa thấy công bố, nguyên văn như sau:

Đã đành trôi nổi tấm thân bèo,
Mình nghĩ lòng mình dám nói leo.
Đánh xé sau khi cò mổ vọp,
Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu.
Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm,
Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu.
Chén rược xóm riềng cho cũng uổng,
No sau xin để mặt ăn heo.

Căn cứ vào những bài thơ khác của Nguyễn Đình Chiểu được chép trong Thi vận tập thành, có thể nghĩ rằng bài thơ trên là đáng tin cậy về mặt văn bản. Và căn cứ vào hành trạng của Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nghĩ rằng bài thơ này đã được ông sáng tác lúc về ngụ ở quê vợ sau khi quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (2-1859) và trước khi Đại Đồn thất thủ (2-1961). Có lẽ trong hoàn cảnh giằng co “Đánh xé đang khi cò mổ vọp” giữa quân triều đình và quân xâm lược ấy, nhà thơ mù đã chạnh lòng về thân thế “trôi nổi tấm thân bèo” của mình cũng như ưu tư về thời cuộc “Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu”… và phải chăng giữa những phiền muộn ấy mà bữa rượu của nhà hàng xóm tốt bụng nào đó mời ông đã trở lên mất ngon, khi ông liên tưởng tới những kẻ vô trách nhiệm vẫn hỉ hả hưởng lạc một cánh vô lo “chỉ biết ăn như heo” giữa lúc nước nhà lắm việc “no say lên để mặt ăn heo”?

Trong một tập Hán Nôm chép do Phòng Bảo tồn Bảo tàng Sở Văn hóa và Thông tin Long An sưu tầm được năm 1985 có một bài tế rất đáng chú ý. Chép giữa nhiều bài văn tế khác nhau. Chúng nứ tế mẫu văn,. Em tế chị văn, Đệ tế huynh văn, Chúng tử tế phụ văn, Thứ thê tế đích thê vă… bài này, có nhan đề Chúng tử tế mẫu văn và ghi thêm ba chữ “Tú Chiểu soạn”. Sau đây là nguyên văn phần phiêm âm, có địa danh có liên quan đến việc tìm hiểu văn bản, chúng tôi không chú thích về ngôn ngữ và điểm cố vì phần lớn dẽ hiểu đối với người đọc bình thường.

Hỡi ôi!

1. Dấu hạc xa miền; Tiếng quyên não tức.

2. Sách nói hoa phút bay thời nước cũng chảy, đổi dời theo phận, máy trời đất khéo xoay; Ai rằng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, ngơ ngác nỗi mình, tình mẹ con vội đứt.

Nhớ linh xưa:

3. Trọn đạo tam tòng; Giữ phần tứ đức.

4. Ở ruộng nương theo nghề ruộng, dư lúa dư tiền; Lấy chồng lo việc nhà chồng, hết lòng hết sức.

5. Khi(3) tuổi trẻ cười cay nói đắng, mấy lần sinh sản, đám dây dưa rậm rạp trước sân; Lối mình già đứt thúng vỡ chình, chút phận quả sương, chiếu thuyền bách linh đình giữa vực.

6. Ngàn muôn việc nhọc nhằn đã lắm nỗi, nhắm bề ăn ở ước ngỡ lâu còn; Bẩy mươi năm sung sướng đã mấy hồi, coi chứng bịnh đau ai dè vội mất.

7. Hốt thuốc thương hàm hay lắm, thầy Hương có thầy ba cũng có, trên giường thiếp thiếp, lẽ hơn thua chưa trối lại vài lời; Nghe tin báo bổ trông hoài, con trai xa con gái cũng(4) xa(5) , hơi thở chừng chừng, lòng thương nhớ thẩy đều trong một giấc.

8. Những tưởng mất cha còn mẹ, lúc nghiêng nghèo cho trẻ đặng nhở hơi; Há đành bỏ cháu giã(6) con đi, cơn ly loạn sao già đành nhắm mắt.

9. Nào thủa trước miệng nhai cơm, lưỡi lừa cá chắt chiu bé lớn, đều nuôi cho nên vóc nên vai; Đến bây giờ đầu đội vải, lưng vấn rơm, kêu khóc trong ngoài, biết đâu đặng thấy mày thấy mặt.

10. Cám là cám ba năm bồng ẵm, công so bốn bể chứa đầy; Thương là thương mười tháng cưu mang, ơn vì năm non đè chặt. Nghĩ lại:

11. Nhau rún còn chôn làng Long Đức(7) , Mẹ về đâu mà lá cỏ ngọn cây rầu rầu; Xương thịt đành gửi đất Thanh Ba(8) mẹ về đâu mà tiếng gió tiếng trăng vặc vặc.

12. Cậu còn đó, dì còn đó, bà con bên ngoại đều còn đó, mẹ đi đâu mà nhà sau cửa trước quạnh hiu; Chú ở đây, cô ở đây, họ hàng bên nội cũng ở đây, mẹ đi đâu(9) mà chiếu trải giường thờ lạnh ngắt.

13. Cháu nội có, cháu ngoại có, bầy chát cũng có, hết trông bà miếng ngon miếng ngọt dành cho; Dâu lớn kia, dâu nhỏ kia, mấy rể còn kia, hết trông mẹ bề dại bề khôn vẻ nhắc.

14. Muốn tron thảo dâng cơm dâng nước, ôi mẹ ôi rày còn chi nữa của sắm mà nuôi; Những trông khi nương cửa nương nhà, ý cha chả nói tới chừng nào ruột đau như cắt.

15. Đội mũ mẫn than thân là gái, lấy chi đền(10) chín chữ cù lao; Chống gậy vông tủi phận là trai, lấy chi trả một câu võng cực.

16. Đã biết không trở lại, âm dương hai ngả, mẹ lìa con vọi vọi chín tầng trời; Phần thương mất cũng như còn, hiếu kính một lòng, con xa mẹ sùn sùn ba thước đất.

17. Sống gặp nhà nghèo; Thác nhằm buổi giặc.

18. Mơ màng phách quế lúc năm canh; Thấp thoáng hồn hoa cơn sáu khắc.

19. Từ đây rồi(11) phận trai đứa theo làng đứa theo lính, bơ vơ non Dĩ sương tản khói tan; Từ rồi đây phận gái đứa theo chồng đứa theo con, vắng vẻ nhà huyên đèn lờ hương tắt.

20. Ba câu điện tửu, gọi là bầy nghĩa báo thân; Một tiệp sơ ngu, ngõ đặng nhờ ơn âm chất.

Hỡi ôi thương thay! Có linh xin hưởng!

Cũng như bài Tự thuật trên kia, bài văn tế này đã được Nguyễn Đình Chiểu soạn trong thời gian ông về ngụ ở quê vợ trước Hòa ước 1862: Câu 11 đã nói rõ địa chỉ của người quá cố (Thanh Ba) đồng thời các câu 17, 19 cũng ít nhiều cho thấy thời gian bài văn tế ra đời (buổi giặc, đứa theo làng, đứa theo lính). Đáng tiếc là văn bản không ghi rõ quan hệ giữa Nguyễn Đình Chiểu với người quá cố, mặt khác hiện cũng chưa có tài liệu nào cho biết đích xác về nguyên quán và năm mất của mẹ vợ ông; nếu có nhiều khả năng đây chỉ là bài văn tế ông làm hộ ai đó. Tuy nhiên, dù sao thì Nguyễn Đình Chiểu cũng đã không viết bài văn tế này với thái độ của một kẻ bàng quan hay thương vay khóc mướn. Những câu như câu 7 trách móc bọn lang băm và than thở về phút lâm chung cô đơn của người quá cố hay các câu 9, 19 với âm điệu day dứt, nhức nhối về sự cô độc của người quá cố trong một gia đình ở đó đám con cái bị cuộc sống và thời buổi buộc phải chia lìa… hẳn không phải chỉ được viết ra với một tài năng mà còn cả với một tấm lòng - niềm cảm thông và lòng thương mến. Trên phương diện tìm hiểu tư tưởng và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, bài Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc mà những câu “Trăm năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn mà danh nổi tợ phao”, “Côi cút làm ăn; Toan lo nghèo khó”, “Bát cơm manh áo của đời, mác mớ chi ông cho nó”… đã đánh dấu một bước phát triển của ý thức nhân dân nơi ông.

CHÚ THÍCH

(1) Theo Nam Sang (San - Sơn?) thị, Xuân liễu tạp thành, báo Nông cổ mín đàm, số 29 ngày 13-3-1902.

(2) Do ông Lê Công Cẩn (1854-1939), người làng Thanh Ba chép vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và hiện do ông Lê Minh Chí, cháu cố của ông Cẩn giữ.

(3) Nguyên bản chép là ca, có lẽ lầm từ chữ khi. Đây tạm đính lại như trên.

(4) Nguyên bản có chữ ở chỗ này, đây tạm lược.

(5) Nguyên bản có chữ tấc ở chữ này, đây tạm lược.

(6) Nguyên bản không có chữ này, đây tạm thêm vào.

(7) Tên làng, nay thuộc xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc.

(8) Tên làng này thuộc xa Mỹ Lộc huyện Cần Giuộc, quê vợ Nguyễn Đình Chiểu.

(9) Nguyên bản không có ba chữ này, đây tạm thêm vào.

(10) Nguyên bản không có chữ này, đây tạm thêm vào.

(11) Nguyên bản không có chữ thời ở chữ này, đây tạm lược.

TB

TƯ LIỆU VỀ QUANG TRUNG VÀ
CHIẾN THẮNG XUÂN KỶ DẬU (1789)

L.T.S: Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại hơn 20 năm, nhưng triều đại này, đặc biệt lãnh tụ kiệt xuất của nó là Quang Trung đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Những chiến công vĩ đại bảo vệ thống nhất đất nước, những thành quả ban đầu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, mãi mãi là nguồn hứng thú, là đề tài hấp dẫn cho nhiều thế hệ nghiên cứu xưa nay.

Đáng tiếc, do nhiều nguyên nhân, những tư liệu gốc về giai đoạn lịch sử Tây Sơn đã bị mất mát phần lớn. Tuy vậy, một số tư liệu quan trọng về giai đoạn này vẫn còn giữ được. Chẳng hạn, riêng kho sách Hán Nôm thuộc Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 160 tác phẩm viết về phong trào Tây Sơn và Quang Trung. Tình hình tư liệu còn khả quan hơn nếu tìm ở các nguồn bia, chuông, gia phả, địa chí… lưu giữ trong dân gian.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 200 ngày chiến thắng xuân Kỷ dậu (1789), chúng tôi trân trọng giới thiệu một số tư liệu mới về Quang Trung và chiến thắng xuân Kỷ dậu (1789). Những tư liệu này phần lớn trích trong Sưu tập tư liệu của Viện nghiên cứu Hán Nôm, gồm:

1. Lịnh triều tạp kỷ (Quyển 6)

Lịch triều tạp kỷ là gọi tắt của Hậu Lê Lịch triều tạp kỷ, do Cao Lãng, tức Ngô Cao Lăng hay Lê Cao Lăng biên soạn, Xiển Trai, con tác giả bổ sung.

Lê cao Lãng, tự là Lệnh Phủ, hiệu là Viên Trai, người xã Nguyệt Viên, huyện Hằng Hóa, Tỉnh Thanh Hóa, đỗ hương cống khoa Đinh mão (1870) trường Sơn Tây, làm đến Tri phủ. Ông là người học rộng, hiểu biết nhiều, có sở trường viết sử

Lịch triều tạp kỷ chép sử theo lối biên niên, từ Lê Gia Tông, Dương Đức năm thứ 1 (1672) đến Lê Mẫn Đế, Chiêu Thống năm thứ 3 (1789). Phần cuối sách, có phụ lục Tây Sơn vương, ghi chép về chiến thắng xuân Kỷ dậu 1789 của Quang Trung và công cuộc vận động ngoại giao sau đó. Bộ sách đã được dịch và công bố năm 1975, nhưng mới được 2 tập, gồm các quyển 1,2,3,4.

Hiện nay, kho sách Hán Nôm còn giữ được 2 bản sách chép tay: Bản A.15, gồm Q.4 và Q.6; bản VHv. 1312 gồm các quyển1,3 và 6.

Phần giới thiệu trong số tạp chí này là trích ở Quyển 6 (chưa xuất bản), trong đó có nhiều chi tiết lịch sử khác với những tư liệu đã được công bố trước nay.

2. Bắc hành tùng ký: Sách chép tay, Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.4 Q3, Lê Quýnh biên soạn.

Lê Quýnh (1750 - 1805) người xã Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc), xuất thân nhà nho, 17 tuổi được bổ làm Nho sinh ở Chiêu văn quán, tước Hiểu cung đại phu. Năm 1787 được phong tước Trường phái hầu, theo Chiêu Thống lo việc khôi phục cơ đồ nhà Lê, sau thất bại của Tôn Sĩ Nghị vào mùa xuân năm 1789. Lê Quýnh chạy sang Trung Quốc. Vì không chịu cạo đầu tróc bím tóc theo phong tục người Thanh, Quýnh bị bắt giam. Năm 1804 được thả về nước.

Bắc hành tùng ký là tập tự thuật của nhân vật quan trọng theo phái Lê Chiêu Thống. Lập trường của Lê Quýnh là cố sức bảo vệ Chiêu Thống, chống lại Tây Sơn. Nhưng do là người trong cuộc, nên Bắc hành tùng ký cũng cung cấp cho chúng ta nhiều chi tiết lịch sử khá thú vị

3. Lịch đại biểu chương khánh lục: Sách chép tay, ký hiệu A.1722. Đây là một bộ sưu tập các bài biểu khải, sách, văn tế, nhạc chương, câu đối dưới triều Lê Cảnh Hưng, triều Tây Sơn và triều Nguyễn.

Phần được giới thiệu ở đây là bài biểu của Ngô Thị Nhậm tạ ơn Quang Trung, qua đó, có thể thấy uy tín của Quang Trung và cánh dùng người của ông.

4. Bài văn bia hội Tư văn của thôn Thuỵ Hương, xã Phú Cường huyện Sóc Sơn: bia có chi tiết nói tới Ngô Chân Lưu, một danh nhân lịch sử thế kỷ X và tình hình giáo dục thời Quang Trung.

5. Tụng Tây hồ phú của Nguyễn Huy Lượng: bài phú đã được công bố từ lâu, nhưng chưa hề kinh qua việc giám định văn bản. Lần này bài phú được giới thiệu lại, có kèm theo bản khảo dị công phu

Ngoài ra, có bài giới thiệu về niên đại pho tượng đồng ở đền Trấn Vũ, một công trình văn hóa độc đáo thời Tây Sơn

TB

VỀ CHIẾN THẮNG KỶ DẬU (1789)

HOÀNG VĂN LÂU

Kỷ Dậu, chiếu thống năm thứ 4 (1789) (Thanh Cao Tôn Càn Long năm thứ 54, Tây Sơn vương Nguyễn Văn Nhạc Thái Đức năm thứ 12, Nguyễn Văn Huệ Quang Trung năm thứ 2), Mùa xuân, tháng giêng, quân của Bắc Bình Vương Nguyễn Văn Huệ ra đến Thanh Hoa. Khi ấy, Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã thu phục được đô thành Thăng Long, tự cho là xong xuôi mọi việc, giữ quân ở Tây Long không có ý ngó ngàng tới phương Nam nữa. Các thần dân ứng nghĩa của bốn trấn Thanh Nghệ hàng ngày tới trước cửa quan doanh xin cho tiến vào Nam, đều bị Nghị bỏ qua không đếm xỉa tới. Vua Chiêu Thống ngày đêm van xin, Nghị cũng nói khéo để thoái thác. Vừa lúc ấy, có chiếu của vua Thanh đưa đến ra lệnh cho Nghị phải tiến hành tiến đánh và thu phục toàn bộ đất đai của vua Lê mới được đưa quân về, nhưng Nghị vẫn cứ ở lại Thăng Long để chỉ huy điều động.

Nguyễn Văn Huệ đóng quân ở châu Thọ Hạc, huyện Đông Sơn để lấy thêm quân và lo sắm lương thực. Huệ trước hết gửi thư cho Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, giả vờ nhún mình nhận tội, và nói rằng không biết thiên triều có chịu xá tội cho không, nên chưa dám sai sứ di xin tha tội, rằng thần vốn là dòng dõi của quốc vương Chiêm Thành, cha ông bị mất nước phải trốn đến Tây Sơn, ấn của bạc triều trước sách phong cho vẫn còn đó. Trước đây vì họ Trịnh nước An Nam ăn hiếp vua Lê, nên đã cất quân hỏi tội, sau khi diệt họ Trịnh, liền đem nước đó trao trả vua Lê mà rút về, sau lại được tin Nguyễn Hữu Chỉnh trước đó theo vết xe đổ của họ Trịnh, thần lại phải đem quân ra lần nữa. Lê vương không hiẻu lòng thần, bỏ nước chạy trốn, trong nước không có chủ, kẻ bề tôi có tội nay phải để lại viên bộ tướng tạm giữ nước đó, rồi đưa quân trở về để đợi Lê vương trở lại. Nay tôn đại nhân kính vâng mệnh lệnh của đại hoàng đế, cho là thần đuổi chủ cướp nước, sang đây hỏi tội thần. Thần bắt giác run sợ. Lần này ra, chỉ là tới gần để nghe xét xử, chứ không dám chống mệnh. Sĩ [2b] Nghị nhận được thư của Huệ liền sai chạy hịch báo cho Huệ phải rút quân về Thuận Hóa để chờ nghe xét xử, không được liều lĩnh, làm càn, mà chuộc tội vạ. Huệ không nghe, liền chỉnh đốn binh tượng, làm lễ ra quân ở Thọ Hạc. Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng: “Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết hết lũ chó Ngô. Nếu không muốn đánh hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy vạn mạng người cho coi, không phải là nói khoác đâu”. Nói xong các quân đầu dạ ran như sấm, núi non rung động, chiêng trống ầm ầm, hành quân tiến gấp. Khi tới đầu địa giới trấn Sơn Nam, Huệ gửi thư mắng Tôn tổng đốc là “Tôn điên”. Sĩ Nghị liền sai đề đốc Hứa Thế Hanh (có sách ghi là Hanh Thế) đem quân Tứ dực đi trước, chia quân đóng giữ các đường hiểm yếu của Thượng Phúc và Thanh Trì (tên hai huyện) bể bảo vệ Thăng Long. Nghị dự định đến ngày mùng 5 tháng ấy sẽ đích thân đem đại quân đến tiếp. Ngày mồng 5 tháng ấy quân của Huệ tiến đến chợ Bình Vọng (chợ ở xã Bình Vọng, huyện Thượng Phúc) [3a] gặp quân Thanh ở đó, hễ đánh là thua. Bấy giờ, bọn thân thuộc của vua Chiêu Thống là Lê Duy Chí, Phan Khải Đức, Trần Quang Châu đều đem quân bộ thuộc của mình đến tiếp chiến, cũng chém giết và bắt sống được quân lính của Huệ. Tôn tổng đốc cho là giặc chẳng đáng phải lo. Không ngờ, hôm ấy, khi trời chưa sáng. Văn Huệ tự mình đốc chiến, dùng hơn 100 thớt voi hùng dũng đi đầu, quân tinh nhuệ tiến theo sau, đánh nhau to hồi lâu, những con ngựa của quân kỵ và tướng soái nhà Thanh trông thấy voi thì đều hí vang rồi quay đầu chạy lui. Lính bộ quân Thanh bị voi dầy xéo, liền chạy cả vào trong hàng rào, bắn súng lớn liều chết cố thủ. Huệ và các thuộc tướng gấp rút sai xua voi sông pha tên đạn, nhổ rào lũy mà tiến vào. Bọn Đề đốc Hứa Thế Hanh, tướng tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy Thăng liều chết cố đánh, đều bị tử trận. Quân Thanh tan vỡ. Buổi sớm hôm đó. Tôn tổng đốc đích thân chỉ huy binh mã cảu Trung quân, vội vã tiến đánh. Vua Chiêu Thống đến tiến ngay trên đường. Tôn tổng [3b] đốc nghe tin bọn hộ tướng Hanh, Long, Thăng đã tử trận, liền lui quân trở về đồn Tây Long, vội vàng sai làm cầu phao qua sông Nhị Hà chạy về Bắc. Vua Chiêu Thống cũng vội vã cưới ngựa chạy theo Tôn Tổng đốc về Bắc. Bấy giờ, quân Thanh kinh hãi tan vỡ, chen chúc tranh nhau qua sông, cầu phao bị đứt, chết đến mấy trăm người. Chỉ còn Tri phủ Điền Châu Sâm Nghi Đống vẫn đem quân mình giữ đồn lũy trơ trọi chỗ Đống Đa phía tây thành, gần trường đấu võ cũ là chưa biết việc đó, nên chưa chịu rút bỏ. Hôm ấy, Nguyễn Văn Huệ thừa cơ tiến thẳng vào nội thành Thăng Long, mọi người đều kinh hãi chạy trốn. Bấy giờ, cầu phao đã đứt, thuyền bè đều không có, những người theo lối khác mà qua sông Nhị Hà phần lớn đều bị quân của Huệ đuổi bắt. Huệ nghe tin quân Thanh còn đóng ở Đống Đa chống cự lại, liền sai một cánh quân đến đánh [4a], quân Thanh bị chết quá nửa, viên tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống tự liệu đường cùng, viện tuyệt, liền buộc dây thắt cổ chết ở Loa Sơn. Quan quân theo Đống, cũng có tới hơn trăm đứa tự thắt cổ chết, còn lại đều tan chay, bị quân Huệ đuổi bắt và đều bị chém chết cả.

Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị và vua Chiêu Thống đều về đến tỉnh thành Quế Lâm tỉnh Quảng Tây lưu lại đó, Nghị làm tờ biểu sai chạy về tâu với vua Thanh, đại ý nói Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ chống lại thiên binh, tướng sĩ dưới quyền tử chiến, nên đã phải rút quân về đóng ở Quế Lâm, có An Nam quốc vương Lê Duy Kỳ đem thân thuộc đi theo, kính xin nghi lại các nguyên do để tâu lên, kính cẩn chờ đợi thánh chỉ.

Trước đó, quân của Sĩ Nghị thua trận, vội vã tháo chạy, vua Chiêu Thống cũng cưỡi ngựa cùng vượt sông và chạy về Bắc với Sĩ Nghị, bề tôi của vua chỉ có Viết Triệu cầm cương theo hầu, còn thì đều ở lại bờ sông. Vua Chiêu Thống ngầm sai bề tôi tin cậy là Hoàng Ích Hiển cấp tấp quay về trong điện, cùng với hoàng đệ Lê Duy Chi đưa mẹ con, và phi tần của vua ra sông Nhị Hà vội vã vượt sông, tìm đường đi gắp để đuổi kịp vua. Nhưng cầu phao bắc qua sông Nhị Hà đã bị đứt, không ai qua được sông Chi liền trốn lên miền Tây. Vua Chiêu Thống và Sĩ Nghị chạy tới cửa Lạng Sơn, nghỉ một hồi. Hôm sau, mẹ và con của vua cùng thân thích và bọn bề tôi Hoàng Ích Hiểu (phiên mục Cao Bằng, tước Định quận công), Nguyễn Quốc Đống (người xã Tì Bà, huyện Lương Tài), Phạm Như Tùng (người Thư Trì làm quan Đề Lĩnh), Lê Hân (người Nộm Liễu, huyện Nam Đường), Phạm Đình Thiện (người xã Bác Trạch, huyện Châu Định, là con của Viên quận công Phạm Đình Sĩ, làm quan tới Hiệp lý quân vụ), Lê Văn Trương (người xã Nghĩa Đồng, hyện Nam Đường, quyền lắm tượng binh), Lê Quý Thích (người xã Đồng Bàng, huyện An Định coi tứ bảo)… gồm 18 người lục tục kéo đến. Vua Chiêu Thống cáo từ Tôn Sĩ Nghị rằng: “Tôi làm mất xã tắc, nhục nhã nhờ Tôn đại phu sang cứu, xiết bao cảm kích. Nay ngài bỏ đi, không dám lài xin nữa. Cúi xin trở về triều được mọi điều may mắn. Tôi xin trở lại giữ đất nước tôi, thu thập dân, lính để lo một phen nữa. Nếu mà thành công được thì đó đều là do quan thượng hiến ban cho, nếu chẳng thành công, thì lại theo xe thượng hiến để chờ xin che chở. Nghị nghe đến đấy, lấy tay viết vào tấm gỗ rằng “Nguyễn Quang Binh (tức Nguyễn Văn Huệ) không bị diệt thì quyết không thôi. Tôi đã viết biểu tâu xin thêm quân một ngày kia đại quân sẽ tới. Đất Lạng Sơn gần kề quân giặc, lương ít, khí độc, không tiện ở lại, hãy tạm vào yên nghỉ ở đất Nam Ninh để chờ chiếu chỉ của thiên triều”. Vua Chiêu Thống vâng mệnh, liền mang mẹ. con và bọn bề tôi đi theo Tôn Sĩ Nghị vào cả phủ Nam Ninh ở nội địa. Đến phủ lỵ Nam Ninh, Nghị lại mời vua Chiêu Thống mang me, con và bề tôi vào cả tỉnh thành Quế Lâm, cho vua Chiêu Thông cùng bọn đi theo được cùng ở tại công quán ở ngoài thanh…”

Trích lịch Triều Tạp Kỷ

(Xem phụ trương tư liệu về Quang Trung

HOÀNG VĂN LÂU dịch

TB

VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO SAU CHIẾN THẮNG XUÂN KỶ DẬU 1789

HOÀNG VĂN LÂU

Tháng 2 (1789), vua Thanh tiếp được biểu văn của Tôn Sĩ Nghị, đùng đùng nổi giận, lập tức xuống chiếu chỉ nói rằng giặc Tây Sơn Nguyễn [6a] Bình tội không thể tha được, đặc sai Ngự tiền nghị chính đại thần, kinh diêm giảng quan, thái tử thái bảo. Lịa bộ thượng thư kiêm Binh bộ thượng thư, Đô sát viện hữu đô ngự sử, Tổng đốc Quảng Đông, Quảng Tây các xứ, kiêm lý lương hướng diêm khóa, nhất đẳng Gia Dũng Công Phúc Khang An, người Mãn Châu, xuất thân từ chân ấm sinh cờ vàng (vào nội các) chỉ huy binh mã các tỉnh Lưỡng Quảng), Vân Quý sang An Nam đánh Nguyễn Quang Bình (trước tên là Văn Huệ, sau khi xưng Đế mới đổi là Quang Bình) và triệu Tôn Sĩ Nghị về kinh đô đợi lệnh. An Nam quốc vương Lê Duy Kỳ cùng bọn thân thuộc thì cho ở lại Quế Lâm, tất cả do Phúc An Khang tuỳ nghi xử trí.

Các tiến sĩ triều Lê như Ngô Thị Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và bọn cống sĩ văn chức Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Đào Xuân Lãng lần lượt về hàng, Nguyễn Quang Bình trao quan chức cho từng người, cho tham gia vào việc thảo từ lệnh bang giao [6b]. Nguyễn Quang Bình bàn định nộp cống cầu phong, liền sai thảo bức thư trình bầy tình hình vua Lê chúa Trịnh của nước An Nam, và các duyên do khiến Quang Bình nổi dậy đánh dẹp, xin nhận tội và đầu hàng. Trước sai người đến cửa Lạng Sơn trao cho Quảng Tây phân tuần Tả giang binh bị đao Tổng lý biên vụ Thang Hồng Nghiệp (Hồng có sách chép là Hùng) dặn xin chuyền đạt chu tất, để thành việc hòa giải.

Hành tướng Tây Sơn là Ngụy thái bảo Tham âm mưu làm phản, việc bị phát giác, bị chúa Nguyễn giết.

Tháng 3, Nguyễn Quang Bình từ Thăng Long trở về Phú Xuân để lo liệu việc nước, sai bọn đại Đô đốc Phan Văn Luân, đô đốc Nguyễn Văn Danh, Đặng Văn Trực, Nguyễn Văn Dụng chi nhau dẫn các quân thuỷ bộ, cùng ở lại giữa 11 trấn là thành Thăng Long, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam, Tuyên [Quang], Hưng [Hóa], Lạng [Sơn], Thái [Nguyên], Yên Quảng, Cao Bằng. Mọi việc quân, việc dân, đều do bọn Phan Văn Luân trông coi. Đô đốc Tuân Nhuận hầu trấn thủ Kinh Bắc, Giảng Hòa hầu làm Hiệp trấn. Đô đốc Đinh Công Thái trấn thủ Lạng Sơn, Nguyễn Ninh Trực làm hiệp trấn, Quang Bình đến Thanh Hoa, sai đô đốc Tuấn Đức hầu quản lĩnh biền binh của Nam khuông đạo, Miêu trường hầu quân lĩnh biền binh của Nam khuông đạo ở lại trấn thủ Thanh Hoa.

Quảng Tây Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp tiếp được Thư của Nguyên Quang Bình, nhận sẽ lo cho xong chuyện, phi báo trả lời, bảo Quang Bình cho một viên quan tới cửa quan để chờ xét. Quân của Tổng đốc Phúc An Khang đến thành Quế Lâm tỉnh Quảng Tây, Tôn Sĩ Nghị nói với An Khang rằng: “Giặc Tây Sơn Quang Bình chống cự lại, tội ấy không thể dung tha. Nhưng nơi man đạo hoang vu, lam trướng độc hại, rất khó công thủ, chi bằng chiêu dụ là hơn. Khang An cũng ngại dùng binh, liền đóng quân ở Quế Lâm, sai truyền hịch dụ Quang Bình trước, để xem ý tứ của Quang Bình ra sao”.

Nguyễn Quang Bình trở về đến Phú Xuân, chuyên chú việc sửa lễ cống xin phong vương. Mọi thư từ trao đổi với nội địa, đều trao cho bọn Ngô Thị Nhậm, Phan Huy Ích sạon thảo thi hành, Lại sai Nội hầu Đại tướng quân Chấn quận công Phan Văn Lân tuỳ nghi lo liệu mọi việc bang giao. Sai quan trấn thủ Lạng Sơn chuẩn bị sắm lễ vật tiếp kiến (hai con trâu, một gánh gạo) đợi có lúc dùng đến, lại sai chau ruột là Nguyễn Quang Hiển và bồi thần là bọn Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn kính đem một đạo biểu văn, hai tờ bẩm, tới cửa Nam Quan trấn Lạng Sơn chuyển giao cho quan Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp, xin chuyền đạt trước, vẫn ở lại cửa quan để chờ khi Tổng đốc Gia Dũng công đến cửa quan, thì thay Quang Bình làm lễ yết kiến, và trình bầy tình hình trong nước, khẩn thiết xin đề đạt cho.

Ngày 20, Nguyễn Qung Bình viết thư cho quan Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp nói: “Nay nghe đại hoàng đế mới sai đại thần là Gia Dũng công làm tổng đốc Lưỡng Quảng. Tôi ở nơi xa xôi hẻo lánh, vẫn nghe tiếng Gia Dũng công lòng như biển cả dung, uy vọng cao như vì sao Bắc Đẩu, rất được đại hoàng đế tin yêu. Nay ngià lại sắp có việc ở nước Việt, tới cửa Nam Quan, nhất định có thể theo lòng nhân nuôi dưỡng của đại hoàng đế để vỗ yên chốn hạ ấp này. Lòng thành kính của tôi xưa nay chưa diễn đạt được, hẳn sẽ được một phen bộc bạch. Cũng định tự mình lên ngay cửa quan, khấn đầu khẩn thiết, để xin đợi lênh quan thừa hiến. Nhưng vì nước vừa xây dựng, không được một phút rảnh tay, hiện nay chưa thể rời xa đô thành. Vậy xin soạn tờ bẩm, sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển tới cửa quan thay tôi thân hành làm lễ, đợi mệnh ngài phán xét. Việc đổi thay ở nước tôi, có rất nhiều rắc rối ở trong, cùng với lòng thành sợ trời, thờ nước lớn của tôi, hẳn ngài cũng đã rõ cả. Cúi mong ngài cố sức cho được vẹn toàn, chuyển bẩm lên quan thượng hiến. Đồng thời chỉ bảo cho bọn bồi thần nước tôi các nghi lễ yết kiến quan trên. Và cánh trình bầy tình hình trong nước, may mà được phép tâu lên trên và được dựa vào uy sủng của thiên triều, được liệt vào hàng phiêu thần, thì thực hân hoan xiết kể”. Nguyễn Quang Bình ra lện sai hiệp trấn Lạng Sơn Nguyễn Ninh Trực cùng với Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn đều đến đợi lệnh ở cửa quan. Sai Tô Xuyên hầu Lê Doãn Điều thay làm hiệp trấn.

Tổng đốc Phúc An Khang biết Nguyễn Quang Bình có ý xin hàng, liền đích thân đem đại quân binh mã đến thẳng trấn Nam Quan đóng quân và chỉ huy chung. Bấy giờ người trong nước là bọ Lê Duy An (chú của Duy Kỳ, tước trung Quận công), Đinh Nhạ Hành, Đinh Lệnh Dẫn (đều là thân thuộc của Nhưỡng quận công ở Hàm Giang), Đồng Dịch, Lê Doãn (đều là quan xuất nạp của Lê Duy kỳ), Trần Huy Lâm (người huyện Nam Trực, là quan nội hàm của Lê Duy Kỳ), Lê Hạo (vốn quản lĩnh hậu kính kỳ bình) Phan Khải Đức (người An ấp, Hương Sơn, khi Nguyễn Quang Bình đánh ra Bắc, lấy làm trấn thủ Lạng Sơn. Quân Thanh sang, lại đầu hàng nhà Lê), Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Hổ (đều là phiên mục Cao Bằng) đến từ các cửa ải chạy trốn vào Trung Quốc (An thì vào từ cửa Du, Hành, Dẫn và hơn 10 bộ thuộc thì vào từ cửa Khẩu Thuỷ ở Long Châu; bọn Lâm, Hoãn, Hạo, Đức vào từ cửa Nam Quan, Lạng Sơn; bọn Cung, Hổ vào từ cửa Cao Bằng) lục tục đến cửa quan ải. Khang An cấp lương ăn cho từng người, tạm đặt Phan Khải Đức làm Liễu Châu đô ty, Đình Nhạ Hành làm thủ bị Tuyên Châu, Bế Nguyễn Hổ làm chức Bách tổng, những người còn lại đều bố trí cho về các nơi, duy có An cùng Lâm, Doãn và Hạo thì cho vào Quế Lâm theo Lê Duy kỳ.

Phúc An Khang lại hịch văn dụ Nguyễn Quang Bình đến quan ải xin tạ tội, giao cho quan Tả đạo chạy đưa. Tháng ấy, ngày 29 hịch đó tới trấn Lạng Sơn, quan đợi lệnh là Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn, Nguyên Ninh Trực sai người từ dịch trạm chuyển về Phú Xuân đệ trình.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 6, Nguyễn Quang Hiển đến Lạng Sơn. Trước hết, đem biểu văn, tờ bẩm và các lễ vật đệ trình quan Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp xin chuyển lên cho Chế hiến đại nhân, cho phép định ngày cho qua cửa ải để làm lễ yết kiến. Hôm đó, hầu mệnh quan là bọn Nguyễn Hữu Trù phúc bẩm quan Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp đại ý nói: Quốc trưởng nước tôi đã xem thư và những lời thân dụ, biết thịnh tình chiếu cố của đại nhân, quả là chân thực, cũng định dích thân đến ngay quan ải, để trược tiếp đợi lệnh của quan thừa hiến, nhưng vì nước mới dựng lên phải chăm lo vỗ yên, không có lúc nào được nghỉ, chưa thể xa rời đô thành. Vừa rồi đã sai thân thuộc là Nguyễn Quang Hiển tới quan ải để thay mặt cử hành lễ yết kiến, sau trước một lòng không hề có ý đắn đo cân nhắc. Nhưng vì dọc đường nhiều khe suối, mùa nước lên đi lại khó khăn, nên thế nào cũng có bị chậm lỡ. Đại để trong ngày 15 hoặc 16 tháng này sẽ tới trấn thành Lạng Sơn, vậy xin bẩm trước.

Bề tôi nhà Lê là bọn Trường phái hầu Lê Doãn Quýnh, hiệp trấn Mậu Nghệ, chỉ huy Siêu Lĩnh hầu Lê Trị, Hàm lâm Lý Bỉnh Đạo (Đạo có sách nghi là Tạo, có sách nghi là Lý Gia Du), tri phủ Nguyễn Trù, Trịnh Hiến… đi lại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, chiêu dụ thổ hào để lo việc khôi phục nước cũ. Nhưng mưu đồ không thành, bèn trốn cả sang nội địa (Trung Quốc) tới chỗ cụ lớn Tống là quan Hưu giang đạo xin được gặp quốc quân. Cụ lớn Tống giữ họ lại ly sở, rồi bẩm lên đốc phủ bộ viện.

Ngày 19, Phúc An Khang cho phép bon Nguyễn Quang Hiển, Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Ninh Trực qua cửa quan để làm lễ yết kiến. Khang An thăm hỏi chu tất, nhận biểu của Nguyễn Quang Bình, cho chạy tâu giúp. Còn lễ cống thì hãy tạm để ở cửa quan đợi khi có lệnh, sẽ báo để đệ trình. Khang An trực tiếp dụ bảo bọn Hiển, Trù biết rằng: Quốc trưởng các người lên tới trước cửa ải để yết kiến. Còn cống vật thì phải thêm 4 hoặc 2 con voi đã thuần dưỡng để sẵn sàng dâng nộp. Ngày 20, Khang An đặt tiệp khoản đãi bọn Hiển, Trù. Lại ban cho các hạng tơ lụa và thẻ bài bạc, bảo trở về kinh thành chờ đợi. Hôm sau, Nguyễn Quang Hiển nghe biết Phúc An Khang có ngày mừng sinh nhật, liền sai hiệp trấn Lạng Sơn Nguyễn Ninh Trực đưa tặng lễ mừng thọ và tờ bẩm tới hành dinh của Khang An chúc Mạn lục mùng. Tờ bẩm có đoạn viết: Cúi xét: Quan Thượng hiến Tôn đại nhân dòng dõi nhà vua cao quý, đời đời làm quan rường cột, giúp rập triều đình, kiêm cả quan võ quan văn, vừa có đức vọng, vừa có tài trí, đã nhiều phen trải gác vàng, phiên trấn. Bên ngoài là bề tôi can thành, bên trong là người tâm phúc. Danh tiếng lừng lẫy khắp nơi; phúc lớn tựa trời lớp lớp. Cõi Man vừa vung cờ soái, tiết đương xuân gặp buổi giáng linh, ngay hạ ngưỡng vọng thọ tinh, học thức đỉnh Hoa Sơn cao mãi.

lại nói, bọn Nguyễn Quang Hiển có tờ bẩm trần tạ đệ trình Phúc Khang An. Tờ bẩm đại ý nói: Cúi xét, Thượng hiến đại nhân, văn võ gồm hai, nổi danh tài lược. Ngọc thụ liên hương, thân tại buồng phổi nhà trời; hoàng phi tế mĩ, đức là ruột gan đế thất. Tả hữu trăm bề giúp rập, sớm khuya thoả chí gần xa. Là chỗ dựa đã trải qua thử thách, vạch mưu mô kiêm chất ngọc vị cao. Là bảo khí ngăn giữ nguy nan, nguyện kế tiếp công lao to lớn. Nơi nơi vui thấy chim phượng sao trời, chốn chốn đều nhìn Thái Sơn, Kiều mộc. Đóng giữ đất Mân đã vang khúc hát bóng Cam đường, chuyển xe cõi Việt lại trải mưa xuân nhuần mầm nẩy. Bọn tôi ở cõi xa xăm hẻo lánh, đã từ lâu hâm mộ danh cao. Gõ cửa quan mà ngưỡng vọng đức uy, may được thấy ánh trời soi xét tới. Lạm dự tiệp được hưởng no nhân nghĩa, lại ơn sâu tắm gội vẻ vang. Chẳng những là nỗi mùng của kẻ hèn kém này, mà thực là tăng thêm danh giá cho hạ quốc. Kính xin trình bầy cảm tạ.

Bọn Nguyễn Quang Hiển ở cửa ải viết sẵn bài khải, sai bồi thần Vũ Huy Tấn theo đường dịch chạm chuyển về Phú Xuân báo cho Nguyễn Quang Bình, và kể rõ các khoản trong lời dụ của Phúc Khang An.

Nội hầu Chấn quận công sai thủ dịch là cai cơ mưu lược hầu đem tờ giấy kê danh mục các thứ bạc, lụa, hương, sáp, hồ tiêu, quạt ngà voi, quạt trúc, gấm vàng, giấy tiên, cùng bút mực giao ở Lạng Sơn. Quan trấn thủ chiểu theo số lĩnh nhận đẻ sửa sang bang giao.

Bạc: 70 dật, lụa 100 tấn; hồ tiêu 30 cân; quạt ngà 30 chiếc, quạt trúc 200 chiếc, sợi tơ trắng 3000 cuộn, sáp hương 100 lọ, kim tiêu 10 tờ, gấm Bắc 1 bức, giấy gấm 150 tờ, giấy hội 100 tờ, giấy Quảng 500 tờ; giấy tinh khiết 30 tờ; bút 50 chiếc, mực 50 thỏi, thuốc lá 30 cuộn.

Ngày 25 Nguyễn Quang Bình nhận được tờ khải của Nguyễn Quang Hiển kể rõ các khoản, liền sai soạn thảo bức thư cảm ơn quan Tả giàn đạo Thang Hồng Nghiệp. bức thư đại ý nói: Tâm sự trước nay của tôi, bỗng đâu ngang trái, đang phấp phổng kinh hãi, chưa biết bộc bạch ra sao, may nhờ ân công như sừng tê soi bóng nước, nên nỗi lòng thầm kín mới được xét tới. Ngài đã vì tôi mở một con đường cho sữa lỗi theo mới, lại vì tôi tác thành cho mọi việc tốt đẹp, lo cho vẹn toàn trước ngài chế hiến đại nhân: đem ngọc quý thay cho giáp binh, khiến nước nhỏ được nhờ ơn ban tới. Kính nghĩa: có lượng cả mênh mông như biển lớn, có tài cao xoay chuyển khắp 8 phương, lại đem lòng thành mà giúp đỡ cho, thì đến Đỗ Nguyễn Khai coi khinh áo cừu, Quách Phần Dương cởi bỏ giáp trụ cũng không hơn thế! Không chỉ một mình tôi xúc động vui mừng mà thực là cả nước ai ai cũng khắc nghi mãi mãi. Vậy nên từ chốn xa xăm, kính tỏ lòng cảm tạ.

Phúc An Khang rút quân về Quế Lâm, bãi hết quân lĩnh các tỉnh, cho họ trở về quê quán. Khang An mở tiệp lớn, mời Lê Duy Kỳ tới dưới trướng cho ngồi dự tiệp, bảo kỳ rằng: “Mùa hè nóng bức, không có lợi cho việc đánh dẹp phương Nam. Hãy tạm nghỉ quân đợi tới màu thu mát mẻ sẽ điều động”. Tiệp xong, lại bảo Duy Kỳ: “Ngày ra quân không còn xa nữa, vương lên dẫn bề tôi của mình đi tiền đạo. Nhưng ăn mặc theo lối người An Nam thì trước đã bị quân Tây Sơn làm nhục. Trước đây Tôn Sĩ Nghị thua quân chính vì thế. Chi bằng gọt tóc đổi áo quần cho giống người Trung Quốc để quân Tây Sơn trông thấy không thể phân biệt được, chỉ thấy là nhung phục của tiên triều, lòng dạ kinh hãi, bấy giờ ta thừa cơ tiến đánh, thì công lớn có thể thành được. Sau khi thu phục được nước rồi, lại vẫn theo về tục cũ. Đó là mưu kế dùng binh, xin vương suy nghĩ cho”. Duy Kỳ tin là thực, trả lời: “Tôi bỏ mất xã tắc, được thiên triều thương mà cứu cho, cả nước rất cảm phục, ăn mặc theo lối Bắc cũng xin tuân lệnh, điều đó có gì đáng ngại”. Thế rồi cùng với những người đi theo đều gọt tóc, đổi áo quần, y như người Thanh vậy. Khanh An rất mừng vì kế của mình đã thành, để cho họ ở với nhau tại biệt quán ngoài thành, đem tiền bạc ban cho rất hậu, ân cần khoản tiếp. Nhưng lại ngầm sai người mang tờ biểu tâu với vua Thanh, nói là Lê Duy Kỳ tự nguyện yên tâm ở lại đất Trung Quốc, không có ý định xin viện binh nữa. Ông ta và những người cùng đi đều đã gọt tóc đổi y phục rồi. Bấy giờ Khang An chủ ý muốn chiêu dụ Quang Bình hơn là dùng binh. Quang Bình nhòm biết được ý định ấy, thường sai Ngô Thị Nhậm viết thư, dùng lời nói khéo, đem lợi để nhử, thác cớ quanh co, cốt cho mình được phục vụ thiên triều, sửa lễ nạp cống, cầu mong ân mệnh. Phúc An Khang vốn đã nhận rồi, nay Quang Bình lại viết thư và chuẩn bị lễ vật, đem gửi cho quan nội các Trung đường Hòa Khôn (Hòa Khôn từ Chánh hoàng kỳ giám sinh vào làm quan nội các, ban đầu cùng với Phúc An Khang coi giữ các phiêu viện) để cho trong ngoài phối hợp, khuyến vua bãi quân Nam chinh, đừng gây hấn khích ở biên cương nữa, để cho thành việc xin theo mệnh thiên triều của Quang Bình, Duy Kỳ chỉ nóng lòng lo phục quốc, ban đầu chưa biết chuyện đó lên bị họ lqà dối.

Tháng đó, Phúc An Khang gửi trát đòi bộ thuộc của Lê Duy Kỳ là bọn Lê Doãn Quýnh từ tựu ở Quế Lâm, để cùng họ bàn việc phục quốc. Bọn Quýnh vào, thây Khang An không hề nói tới chuyện phục quốc ra sao, chỉ dụ họ mỗi điều là gọt tóc đổi y phục. Quýnh biết mình bị lừa, nói thẳng trước mặt Phúc An Khang rằng: “Bọn tôi đầu có thể cắt, chứ tóc không thể cắt được!” Khang An nổi giận, lại giao Quýnh cho quan Hữu giang đạo Tống lão gia an trí tại Địa Nghiêm, châu Minh Ninh (để quản thúc)…

(Trích lịch triều tạp ký)

HOÀNG VĂN LÂN dịch

TB

THƯ QUANG TRUNG GỬI
THANG HỒNG NGHIỆP

HOÀNG VĂN LÂU

Sơ tuần tháng 5 (1789), Nguyễn Quang Bình gửi thư cho Tả giang đạo Thang Hồng Nghiệp. Bức thư viết: “Càn Long năm thứ 54, tháng 4 ngày 28, gặp được bồi thần nước tôi là Vũ Huy Tấn từ quan ải về đến kinh thành kể rõ những điều dụ bảo trực tiếp của ân công”:

1. Tôi phải đến cửa quan ải yết kiến ngài Phúc công.

2. Sức cho nước tôi lo lễ vật yiến cống, phải thêm 4 hoặc 2 con voi, không cần thứ voi đánh trận, chỉ cần thứ voi đã thuần dưỡng để sẵn sàng dâng lên.

Tự nghĩ chư hầu trong bốn cõi, phải hẹn nơi mà yết kiến, đó là lễ; dâng hiến phương vật tới triều đình, đó cũng là lễ. Hai điều dụ tới, thực là ân công đã vì hạ quốc lo cho chu toàn, muốn cho lời lẽ và thực tình đều được thoả đáng, nghi thức và lễ vật đều được đưa tới để xin ân mệnh của đại hoàng đế. Đáp lại tấm thịnh tình của ngài chế hiến tôn đại nhân, tôi thực không có ý gì khác, chỉ vì hiện nay nước nhỏ chúng tôi vừa mới được yên, binh lính và dân chúng vừa được nghỉ ngơi, dọc đường tới cửa quan đều là đường núi, phải 5,6 ngày mới tới được sông Phú Lương. Sau cuộc binh hoả, bụi rậm um tùm, nếu tôi lên quan ải lại phải mang nhiều binh lính đi hộ vệ, gặp núi thì mở đường, qua sông phai bắc cầu, như vậy sức dân cũng rất vất vả. Hơn nữa dọc đường sai phái, bắt cung cấp những thứ cần dùng cũng phiền nhiễu. Đó chính là duyên cớ tôi phải xin cầu ân phong. Trèo đèo lội suối, phí tổn rất nhiều của cải sức lực của dân, trong lòng tôi có chỗ rất áy náy không yên tâm. Ân công nhìn thấu lòng này, hãy vì nước tôi xin tha cho nỗi vất vả cực nhọc ấy. Vả lại, việc gõ cửa quan xin trình bầy sự tình, thì đã sai cháu ruột tôi là Nguyên Quang Hiển thay tôi làm lễ, mang theo biểu văn vào chầu rồi. Có lẽ tấm lòng cung kính xin quy thuận của tôi đã rất thiết tha thành thực, tuy tôi chưa đến được nhưng cháu tôi cũng là thân tôi đó, chứ không phải trong lòng có chút nghi ngại gì. Nếu được các quan đại phu có lòng ưu ái thì tôi sẽ lấy lòng chí thành thờ đại hoàng đế như trời, dẫu xa xôi vạn dặm, uy nhan cũng không bao giờ xa trong gang tấc. Ôi, được lượng trời biển của ngài Phúc công, được tấm lòng chiếu cố của ân công, đối với nước tôi thực là một phen tái tạo, chỉ vì chưa tới được trước cửa quan àm yết kiến, trong lòng tôi rất đỗi băn khoăn.

Những điều trần tình trên đây, đều xuất phát từ lòng chí thành, không dám có ý kiêu căng ngạo mạn mà dùng lời lẽ để chống chế. Còn như voi chiến, đã được ngài thể tất tình trạng trong nước mà không bắt cống. Đến voi thuần dưỡng cũng là sản vật thường thấy ở phương Nam. Ân công vì tôi tác thành việc tốt đẹp, sau đấy được dự vào các vương trong kỳ đại hội chư hầu, thì dẫu ngọc dạ quang, vải chịu lửa những gì có thể tìm kiếm được, tôi cũng dốc lòng gắng sức mà tìm. Còn voi thuần dưỡng là lễ vật bé nhỏ, là thứ cống vật bình thường, ở các nước Miến Điện, Nam Chưởng còn có, lẽ nào chỉ một nước tôi không có được? Duy voi nước tôi, phần lớn sinh sản tại núi rừng phía Tây nam, các man Lao, Phàm, Cao, Hợp thì có. Nước tôi trước đây có dùng tới voi, cũng đều tìm mua ở những nơi ấy. Từ khi binh hoả đến nay, cõi man rối ren luôn, không được yen ổn. Những con voi mà tôi nuôi để đánh nhau, đều là chuồng voi của họ Trịnh, họ Nguyễn để lại, con số cũng chẳng được là bao nhiêu, tính nết của những con voi này lại rất ngoan ngạnh hung dữ, phải dùng người man làm tượng nô, sử dụng bùa chú của nơi man mọi thì mới có thể chế phục được chúng. Những con voi này hiện nay đều đã xua vào biên thùy phương Nam để chế ngự các man. Tôi đã đưa nước mình nội thuộc [voà thượng quốc] thì nước tôi là phen dậu của thiên triều, như vậy, có thể nộp voi chiến, chúng ở nước tôi, cũng như là ở thượng quốc. Còn voi thuần dưỡng là loài voi không giỏi đánh nhau. Người Man dụ dỗ rồi thuần dưỡng được. Hiện nay các bộ lạc người Man, như các tù trưởng Cát Xà kiều, Cát Xà Đông, Thiều Phả Mang, Lộc Quần… đang đánh lộn lẫn nhau. Nước tôi vừa mới dựng lên, việc trong nhà còn đang phải xét xử. Đợi khi nào trong cõi tạm được yên, dựa vào uy đước của Thiên Triều, sẽ xin đi kinh lý các man bảo họ bỏ tranh chấp mà quy thuận thì có thể bắt họ tìm mua rồi kính chuyển lên để tiến cống. Không thể tự nhiên bỏ đô thành mà trèo non vượt núi, để đánh tới các động. Phải vỗ yên được các man thì rồi mới lấy voi của họ được. Muốn coa voi thuần dưỡng, thực không thể có chuyện dẽ dãi nóng vội được. Còn nhục quế Ái Chân từ khi trong nước loạn lạc, các bộ khai thác quế không khai thác nữa. Xin sức xuống cho các trấn, lệnh cho dân man nơi đó, tận lực tìm kiếm quế tốt vào loại thượng hạng. Đại để vào các tháng hạ, có thể kiếm được một số cân, kính xin dâng trước quan Thượng hiến để tỏ lòng thành kính. Trước kia, bậc Đại hiền Mạnh Tử đã dùng hình ảnh cắp núi Thái Sơn nhảy qua Bắc Hải để so sánh với việc cố gắng một chút nhằm vừa lòng người trưởng giả, nói rất chí lý về sự khác nhau giữa việc khó làm và việc dễ làm. Tôi đối với các điều bên trên chưa thể làm vừa lòng trưởng giả, vậy mà gần đây ân công đã tốn công lo chạy cho công việc, thực đã làm chuyện cắp núi vượt biển rồi. Tôi thực rất hổ thẹn, rất cảm khích. Chỉ biết cúi xin bầy tỏ chí tình, khắc nghi vào buồng phổi, cho nên có điều gì trở ngại, không dám không trình bầy để đề đạt lên quan trên. Kính trông ở sự soi sáng như sao đẩu sao khuê. Đốt hương kính viết thư này dám xin xét rõ mọi việc là điều may mắn cho tôi.

(Trích lịnh triều tạp ký)

HOÀNG VĂN LÂU dịch

TB

THƯ CỦA QUANG TRUNG GỬI
TỔNG ĐỐC LƯỠNG QUẢNG PHÚC KHANG AN

HOÀNG VĂN LÂU

[Tháng 8,1789]… Lại trình với Tổng đốc Lưỡng Quảng Gia Dũng công đại ý như sau: Nay kính nhận ân mệnh đặc ban sắc thư cùng bài thơ ngự chế, được chế hiến tôn đại nhân cử hai vị quan phụng sứ mang sang An Nam tuyên thị. Tiểu phiên kính nhận ân lệnh tốt lành, xiết bao vui nừng cảm kính. Nhưng vì từ đầu mùa thu, tôi phải thân hành vào dựng ấp ở đất Nghệ An, nhận được thư báo của gia tướng Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Danh, liền định ngày 28 tháng 8 sẽ từ Nghệ An tiến ra Thăng Long lạy đón sắc thư và thơ ngự chế để thoả lòng mong đợi bấy nay. Nhưng đứng ngày 28 tháng này, nhận được tin báo của tướng lĩnh tuần tiễu ngoài biển, nói là trên mặt biển có một đoàn thuyền, ước chừng hơn 100 chiếc, từ Hải Đông tiến thẳng vào biển Biên Sơn ở Nghệ An, rồi kéo vào các cửa biển Nhật Lệ, Tư Khách ở Thuận Hóa. Cờ xí, khí giới trên tàu, đều là hình ảnh của nội địa. Đoàn thuyền này cướp bóc các vùng ven biển, cư dân rất đỗi khốn khổ. Tiểu phiên đương sửa soạn lên đường, bỗng nghe được tin này, không biết những tàu biển này vì duyên cớ gì mà xâm phạm? Có phải là tàu của bọn phỉ Tề Nguy bên nội địa, tháng trước đã chặn cướp ở các xứ như đảo Bạch Long Vĩ ở biển đông, núi Thanh Long, núi Quan Lan ở biển đông; núi Chuột Lớn, Chuột Nhỏ, núi Đầu Chó hoa ở Ô Nang, bị viên Thực tả dực Thuận Lâm phó tướng của Thiên triều vây bắt chạy trốn tới đây, hay là quan quân hải đạo nhân đuổi bắt hải phỉ, vượt biển sang đây cũng chưa biết chừng. Nhưng xét lần trước đuổi đánh tàu thuyền của bọn phỉ, đã được quan Tổng trấn phủ Lưu, Đề đốc quân môn Thủy, Lục toàn tỉnh Quảng Yên nước tôi tiến hành tầm nã ráo riết, thì không có lẽ nào quan quân đi qua lại xứ này lại không có một đạo công văn nào. Những việc ở ngoài biển, thật khó phỏng đoán. Thiết nghĩ, tiểu phiên từ ngày nộp khoản đầu hàng tới nay, kính được Đại hoàng đế cưu mang vỗ về, nhờ ơn chế hiến tôn đại nhân thịnh tình che chở dung nạp, nên có được cuộc hội ngộ ngày nay. Nay nước tôi đã vâng mệnh nội thuộc, tức là phên dậu của thiên triều, quân đó là quân nào, đâu dám điền nhiêm phó mặc? Nếu cắt sai gia tướng xuất dương, đánh giữ, lỡ ra đó là quan quân tuần tra ngoài biển tiện đường qua đây, trong lúc giao phong, sẽ vi phạm nghiêm trọng hiến lệnh của Thiên triều, run sợ không xiết. Nếu mặc chúng hoành hành ngang ngược, chẳng ai biết chúng là bọn nào, thì hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam là đất nền móng ban đầu, là nơi căn bản của tiểu phiên. Sân cổng nhà mình, không cho phép vi phạm! Do vậy, ngày 27 tháng này, tiểu phiên đã từ ấp mới ở thành Nghệ An đã hỏa tốc tìm đường trở về thành Phú Xuân ở Thuận Hóa chuẩn bị ngăn chống. Xin cử con trai tôi là Nguyễn Quang Thùy, vũ thần thân tín là Ngô Văn Sở, văn thần thân tín là bọn Loan Hồi Đại, Ngô Thị Nhậm ra thành Thăng Long đón các quan ngự sứ. Xin phái bộ dừng ngựa ở cổng quán Gia Quất bên bờ sông Phú Lương. Xin chế hiến tôn đại nhân giải thích rõ những tầu thuyền ăn cướp trên mặt biển đó có phải là thuyền tuần tra trấn thủy, hay là tàu của bọn Tề Ngụy phải tiến hành vây bắt? Xin kính chờ quan chế hiến tuỳ nghi phân xử để mặt biển yên lành. Quân cơ quan trọng, suy nghĩ nông cạn, chưa biết thế nào cho phải, kính mong chế hiến tôn đại nhân thể tất lòng thành kính quy thuận của tiểu phiên, ban xuống cho lời dậy bảo. May mà nhờ được uy linh ân sủng cảu thiên triều, khu sử việc nước cho chóng xong để tô đại điểm tuyệt phong, kính nhận vinh quang, xiết bao đội ân cảm đước!

(Trích lịnh triều tạp ký)

HOÀNG VĂN LÂU dịch

TB

BÀI TỰ THUẬT CỦA LÊ QUÝNH,
TÁC GIẢ BẮC HÀNH TÙNG KÝ

NGÔ ĐỨC THỌ

Tôi họ Lê, tên là Quýnh, người huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, Giang Bắc(1) . Gia đình tôi nhiều đời theo nho học. Năm tôi 21 tuổi được bổ làm Nho sinh ở Chiêu Văn Quán, nhờ phúc ấm của cha, được ban tước Hiển cung đại phu. Năm 25 tuổi có tang cha. Bấy giờ trong nước xẩy nhiều biến cố, tôi bèn ở nhà nuôi mẹ(2) .

Năm Binh Ngọ (1786) Nguyễn Chỉnh(3) rước quân Tây Sơn ở Quảng Nam(4) ra Bắc, lấy tiếng là dẹp nội nạn, vào thẳng tới kinh thành của nhà Lê. Chủ súy Trịnh vương(5) tử nạn. Lê Quýnh tôi đem gia thuộc 300 người vào cung bảo vệ. Bấy giờ tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ (Lại có tên là Quang Bình) lấy công chúa [Ngọc Hân] đem về đất phiên (thời cổ là đất Ô Châu). Chưa bao lâu tì vua Lê băng hà. Cháu vua nối ngôi trị nước. Lê Quýnh tôi vần lệnh vỗ về miền Giang bắc, cắt đặt các công việc. Khi xong việc về kinh được phong tước bá, bấy giờ 37 tuổi.

Năm Đinh mùi (1787) Nguyễn Huệ tiếm hiệu là Quang Trung, sai tì tướng là Nguyễn Văn Nhậm(6) xâm phạm cung khuyết. Lê Quýnh tôi vâng lênh theo giúp binh khâm tướng quân Đinh Nhạ Hành đem quân kỳ binh(7) đi chống giặc. Bấy giờ quân các đạo đều tan vỡ, duy có một đội quân của kỳ đạo đồn trú cững được ở Vũ Châu, trấn Sơn Nam, tuy đồn luỹ tro trọi mà hàng tháng, hơn 30 trận đánh lớn nhỏ quân Tây Sơn không dám đến gần. Tỳ tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm bèn chia quân theo đường khác tiến bức kinh thành nhà Lê. Hoàng tự tôn phải lánh về mạng bắc sông Phú Lương(8) Lê Quýnh tôi được tin đem gia đình đuổi theo, gặp được ở chỗ vua dừng nghỉ tại Văn Phong. Lại giúp vua chuyển sang thế chiến, khi tiến về phía đông, khi tiến về phía nam. Cựu thần, thế tộc, phiên mục, thổ bào tụ họp đông nghịt ở nơi hành tại, các quân thuỷ bộ tất cả được hơn 4 vạn người, chiến thuyền lớn nhỏ hơn 500 chiếc. Lại có viên hiệp quản ở Long Môn tỉnh Quảng Đông (Ttrung Quốc) đi lùng bắt bọn cướp biển, đến đây để làm thanh viện. Nhờ đó thanh thế quân lính có phần được chấn phát. Lê Quýnh tôi vâng mệnh được phong tước Trường Phái hầu. Lúc này quốc mẫn cùng nguyên phi và nguyên tử đều còn ở đất Thái Nguyên bên Giang bắc cho đưa thư đến, vương tự tôn(9) lấy làm lo buồn. Tự tôn bèn sai Quýnh tôi cùng với Nguyễn Quốc Đống làm Khôn nghi cung tả hữu hộ (tr.3) vệ sứ. Khi đến đất Thái Nguyên thì thấy ít quân thiếu tướng, lại bị quân Tây Sơn đuổi gấp, bèn phải đi sang đất Bắc (Trung Quốc)(10) .

Năm Mậu thân, niên hiệu Chiêu Thống thứ 2 (1788) Càn Long năm thứ 53, tháng giêng, vương tự tôn nhà Lê ở đất Giang Bắc; tháng ba ở vùng Vị Hoàng, trấn Sơn Nam. Bấy giờ quốc mẫu, Nguyên phi và nguyên tử đều ở Thái Nguyên. Lê Quýnh tôi vâng lẹnh bảo vệ đưa sang Bắc quốc. Tháng 4, đến Thái Nguyên, thấy quân thì ít mà thế thì bức bách bèn phải phò tá từ cung lên Cao Bằng, dừng nghỉ ở trấn Mục Mã. Tháng 5, quân Tây Sơn rốt cuộc đã lên Cao Bằng.

Phiêu mục(11) là Hoàng Ích Hiểu được đốc trấn xứ ấy là Nguyễn Huy Túc ủy thác việc dùng thuyền buồm chở quốc mẫu(12) xuôi theo dòng sông đến của quan Thủy Khẩu, tạm nghỉ ở cồn cát nhỏ giữa sông Phất Mê. Ngày mồng 9, quân Tây Sơn ập đến rất đông, Lê Quýnh cùng Hoàng Ích Hiểu chi quân cùng chống cự. Đốc đồng Cao Bằng Nguyễn Huy Túc, Phượng Thái hầu Nguyễn Quốc Đống, Trường Xa hầu Phạm Đình Hoan v.v. đưa quốc mẫu sang sông, theo cửa ải Đẩu Áo mà đi vào nội địa(13) .

Chập tối hôm ấy, Lê Quýnh cùng Hoàng Ích Hiểu lui về giữ cồn đất giữa sông thì quân định đã vây ở phía tây nam, lính gác cửa ải của nội địa (tức Trung Quốc) chặn giữ phía đông bắc. Tiến thoái hết đường, chỉ còn cách tử chiến. Đến chập tối gặp mưa to gió lớn, trời đất mù mịt, bèn thừa lúc có ánh chớp mà vượt qua sông, tìm được một lối đi nhỏ trong vùng núi sâu để qua ải Đẩu Áo vào nội địa (Trung Quốc), người nhà đi theo nay chỉ còn bẩy người. Tảng sáng thì thấy quốc mẫu, nguyên tử ở trong động núi. Thức ăn hết sạch, tìm được mấy bắp ngô đem dâng, còn hơn 60 người khác đều lấy rễ cây cốt toái bổ để tười và quả rừng mà ăn cho đỡ đói. Người nhà tôi là Nguyễn Chẩm bị bệnh chướng đã mê sảng, không ngờ sau khi ăn rễ cây cốt toái bổ liền khỏi bệnh. Cách mấy hôm thì quan giữ ải nội địa là Hoàng Thanh Phượng chuyển báo cho quan huyện Long Châu là bọn Thông phán họ Trần (tên là Tùng), hỏi rõ họ tên lai lịch từng người rồi dẫn về Long Châu chuyển trình lên Tri phủ phủ Thái Bình là cụ lớn họ Lực (tên Nhân). Lại chuyển trình lên cai quan án sát bố chính đốc phủ sở tại, sau khi được phép mới được dừng nghỉ lại ở phủ Nam Ninh.

Tháng 6, Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn đại nhân (tên Sĩ Nghị) xét kỹ sự tình trước sau. Lê Quýnh và Nguyễn Huy Túc trả lời đầy đủ. Lại xin cho quốc mẫu được lưu trú ở nội địa, đê có nơi nương tựa. Còn Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc, Nguyễn Quốc Đống xin trở về theo vua để lo tính việc khôi phục. Quan đốc trấn tâu việc về kinh, vâng mệnh được đại hoàng đé (nhà Thanh) động lòng thương đến, cho phát binh cứu viện để tỏ rõ đại nghĩa trong thiên hạ, giúp gìn giữ cương thường ở nước phiên thuộc. Bọn Lê Quýnh đươc thưởng 500 lạng bạc và vải vóc các loại, đồng thời được phép trở về nước tìm kiếm tin tức của tự hoàng.

Tháng 7, Lê Quýnh cùng với Nguyễn Quốc tự Quảng Đông theo đường biển về nước.

Tháng 9, gặp Vương tử ở xứ Hải Dương, Lê Quýnh vâng mệnh cùng với Hàn lâm thị độc Hướng phái hầu Lê Đản, Hàn lâm hiểu Lý Đinh Nhạc bá Trần Danh Án theo đường tắt sang nội địa báo tin và tạ ơn.

Tháng 10, yết kiến tổng đốc Tôn đại nhân ở phủ Thái Bình, lúc ấy đại nhân đã được tập trung tháng ấy, ngày 24 lên đường. Mồng 1 tháng 11 quân ra khỏi Trấn Nam (Trấn Nam quan) thẳng tới thành Lạng Sơn nước An Nam. Tham đốc của Ngụy(14) là Phan Khải Đức đầu hàng. Quan đốc phủ(15) sai Khải Đức đem lính địa phương(16) đi dẫn đường, Lê Quýnh, Lê Đản đi ở trong quân làm cố vấn. Đại quân thẳng tiến huyện Bảo Lộc đất Giang Bắc, ba lần đánh thắng, bắt được đô đốc của Ngụy là Hoán Nghĩa hầu, chém chết.

Tôn đại nhân bảo Lê Quýnh rằng: “Bản bộ đường(17) ra khỏi cửa ải đã tám trăm dặm, sao chưa thấy vương tự tôn có động tĩnh gì?”. Lê Quýnh đáp là vì đường xá cánh trở, rồi xin một mình một ngựa đi (trước) tìm vua, [Tôn] chuẩn cho. Trước khi đi, Lê Quýnh bàn riêng với Lê Đản rằng: “Nay quân địch mấy phen bị thua, tất sẽ đóng quân ở núi Cầu(18) , cánh sông mà chống cự. Nhưng bon chúng dùng binh chỉ biết mặt tiền mà thường không chú ý tới mặt hậu. Ta nên dùng kỳ binh đánh úp, tất phá được. Đồn [Thị] Cầu đã thua khi kinh thành nhà Lê chiếm lại dễ như chơi thôi! Đến khi đại quân tới gần sông, dàn trận, Lê Đản trình bầy mưu kế ấy, Tôn đại nhân nghe theo. Ngày 20 tiến đánh phá được đồn Thị Cầu, tiến đến bờ Bắc sông Phú Lương, quân Tây Sơn bỏ chạy. Ngày 21, Vương tự tôn đến yết kiến quan đốc phủ ở bên bờ bắc sông. Ngày 22, thu phục được kinh thành nhà Lê”.

Tin thắng trận báo về, đại hoàng đế thiên triều sắc phong cho vương tự tôn làm An Nam quốc vương; ban cho Lê Quýnh làm Tổng binh Đỉnh đái(19) , Phan Khải Đức làm Đô ti Đỉnh đái.

Ngày mồng 2 tháng 12, quốc vương sai Lê Quýnh giữ việc tổng quản binh lương, hạn ngày tiến quân đánh dẹp. Nhưng Tôn đại nhân muốn dùng kế dụ địch đến, giục quốc vương thu hồi lại ấn kiếm, đổi [chức vụ của Quýnh] làm Đồng binh chương sự.

Bấy giờ bệnh sốt rét của Lê Quýnh tôi rất nguy kịch, bèn xin về nhà nghỉ để thuốc men điều trị. Ngày 27, Nguyễn Quốc Đống, Lê Trị vâng mệnh rước quốc mẫu từ Nam Ninh trở về.

Năm [Càn Long] thứ 54 kỷ dậu (1789) tháng riêng vua Lê chạt lánh nan lên phía bắc. Tháng 2, Lê Quýnh hơi gượng dậy được, bấy giờ mới biết Tôn đại nhân đã rút quân về nước, quốc vương lánh sang Bắc quốc. Ngước mắt nhìn cảnh núi sông tan nát, luống hận với hoài bảo bất hủ cùng trời đất, những muốn vung tay chiêu tập các quân tướng đã tan chạy lánh trốn, nhưng thế lực thật khó chống đỡ nổ ngói tan đất lở. Tự nghĩ rằng: thế nước đến nông nỗi này thì làm sao mà khôi phục được! Nhưng bề tôi phải có phận sự thờ vua, phải dốc hết sức vào những việc đáng làm mà thôi. Thế là lại tụ họp các bạn đồng chí để đợi quân nhà vua.

Tháng 9, gặp người anh họ tên là Lê Huy Lý vâng mệnh Tổng đốc Quảng Tây là quan lớn họ Phúc (tên là Khang An) sai về gọi Lê Quýnh lên cửa ải hỏi chuyện. Lúc ấy những việc mưu tính còn chưa xong, bệnh cũng chưa khỏi hẳn. Đến tháng 7 mới lên đường đến cửa Nam quan đợi lệnh, có làm bài “Cảm tác khi qua núi Công Mẫn” như sau:

Phiên âm:

Sang phong tuất trĩ uyển phân nao
Biệt xưởng càn khôn tối thúy tào
Ống uất xuân huyện phan trinh mậu
Lân tuân hồ dĩ ngưỡng dị cao.
Nghênh phong hoa vũ ban lan tuyệt.
Bộc bố toàn xi chỉ mỹ dao.
Sứ viễn du nhân chiêm vọng xứ.
Giải tượng trúc thạch cảm cù lao.

Dịch thơ:

Núi cao đôi ngọn chỗ phân mao(20)
Đây đất trời riêng thật thẳm sâu.
Trùm tỏa thông huyền đều tươi tốt,
Lớp tầng hồ, dĩ(21) ngóng càng cao.
Múa hoa đón gió làn non đẹp,
Suối róc ghềnh tuôn vị ngọt ngào.
Đây chốn người đi còn ngóng lại,
Hay chăng tre đá cảm cù lao.

(Trích Bắc hành tùng ký)

Xem phụ trương tư liệu về Quang Trung số 2

NGÔ ĐỨC THỌ dịch

CHÚ THÍCH

(1) Tức trấn Kinh Bắc đời Lê (huyện Siêu Loại nay thuộc tỉnh Hà Bắc).

(2) Nguyên văn: dưỡng thân. Ở trên đã nói cha mất, ở đây chúng tôi dịch thẳng là hầu mẹ.

(3) Tức Nguyễn Hữu Chỉnh.

(4) Người Bắc hà đương thời thường dùng tên Quảng Nam để chỉ chung các tỉnh phía nam Trung bộ.

(5) Các chúa Trịnh đều được phong chức Đại nguyên súy. Ở dưới dịch là Chúa Trịnh, Chúa Trịnh nói đây là Đoan Vương Trịnh Khải.

(6) Ở dưới đều chép là Vũ Văn Nhậm.

(7) Chỉ quân tinh nhuệ.

(8) Tức sông Hồng ngày nay.

(9) Chỉ mẹ, vợ và con trai của Chiêu Thống.

(10) Nguyên văn: “toại hữu Bắc hành chi sự” (cho nên mới có việc đi sang Bắc).

(11) Chỉ các quan chức địa phương.

(12) Đoàn người nhà của Chiêu Thống (gồm mẹ, vợ và con) trong tài liệu này có khi chỉ ghi quốc mẫu mà không kể đủ cả 3 người. Trước sau cũng đều chỉ có 3 người đó.

(13) Tức lãnh thổ nhà Thanh (Trung Quốc).

(14) Tác giả tập hồi ký này theo quan điểm của vua tôi Chiêu Thống, gọi người của Tây Sơn là Ngụy (giặc). Trong bản dịch chúng tôi cứ dịch theo nguyên văn để tiện tham khảo.

(15) Chỉ Tôn Sĩ Nghị.

(16) Nguyên văn: Thổ binh, tức là quân dưới quyền (cũ) của Phan Khải Đức.

(17) Tôn Sĩ Nghị tự xưng.

(18) nguyên văn: Cầu Sơn, tức Thị Cầu (đã nói rõ ở câu sau).

(19) Đỉnh đái là người đứng đầu, thuộc hàng đại thần được đeo đai hạng nhất.

(20) Chỉ chỗ núi phân cách địa giới hai nước (Người xưa cho rằng những nơi ranh giới tự nhiên đó ngọn cỏ tranh ngả về hai phía khác nhau).

(21) Tên 2 ngọn núi nói đến trong Kinh Thi, chỉ ý thương cha mẹ.

TB

BIỂU NGÔ THÌ NHẬM TẠ ƠN ĐƯỢC PHONG CHỨC BINH BỘ THƯỢNG THƯ

VĂN HƯNG

Nay kính vâng sắc chỉ ban cho thần chức Binh bộ thượng thư, lại kính vâng chiếu chỉ cho thần được trông coi quân dân bản quán. Ân bân lớp lớp, trời đất cao dầy.

Trộm nghĩ: Thần, một chút hồn tàn nơi góc bể, một kẻ vong mệnh phải chạy dài, ngẩng đầu vọng chốn chân mây, may gặp phen hưởng ánh trời hội ngộ. Dẫu vụng về rong ruổi, chưa một chút công lao, mà ân khác thường đã ban, thực vượt phận mình vốn có. Thần kính đội ơn quyến sủng, cảm kích thánh ân. Chín tầng trời cửa lớn truyền ban, cung kính vâng mệnh dậy; Đêm năm canh nhạc Thiều vào mộng, chắp tay đón phúc trao. Kính nghĩ: Đức rồng chính giữa, điểm rõ điềm mưa móc thấm nhuần. Ân lớn rộng ban, đón lòng nhân xuân nuôi biển chứa, Bưng chiếu thư mà xúc động tâm can; vọng ngôi báu mà hồn bay muôn dặm.

Kính nghĩ: Hoàng thượng, lòng nhân dào dạt tựa vua Nghiêm, đức sáng ngời ngời như Hạ Vũ. Lượng chuyển vần sâu sắc, lấy điều nghĩa tỏ tấc thành muôn vật, dùng lòng nhân mà thể tất vọng loài, thể dụng đều là đạo lý hoàng vương; sức nuôi chứa bao la, xem xét người thì tường tận chu toàn, dùng nhân tài thì trước sau như một, chở che mở độ tầm trời đất. trong nhạc khúc nhận cả ống quản, mũi tên; dưới đuốc soi không bỏ rau phong, rau phỉ, văn chương đẹp gồm một nhà hội lớn.

Thần lạm lên ban thượng khanh, coi việc giảng hòa với phương Bắc, dựa vào mưu lớn chốn bệ rồng. Thần dám dự hanhg kẻ sĩ từ chương, không bị coi là tài vặt tầm thường, bao lần được vinh thăng rạng rỡ. Chiếu thư ánh ngọc huy hoàng, thăng thần chức lan sảnh thanh tao, thân hèn mọn mà hưởng ân đã cực. Cho thần chốn quê ăn lộc thuế, phận đẩu thăng ân huệ thực nhiều. Ơn tạo hóa không quên cả hoa hèn cỏ lạc; đức cao đầy chưa báo đáp chút mảy may. Thần dám đâu không lạm vâng theo mệnh cả, tuân theo phép tắc làm quan. Theo lời dậy mà bôn tẩu thực lòng, lo báo đáp đức sáng soi tựa đôi vầng nhật nguyệt. Hưởng ưu ái mà tôn thần không mỏi, mong hưởng phúc dài lâu như sông núi đời đời.

(Trích lịch đại biểu chương khánh lục)

(Xem Phụ trương tư liệu về Quang Trung số 3)

VĂN HƯNG dịch

TB

BÀI KÝ KHẮC TRÊN BIA CỦA THÔN NHÀ DỰNG VÀO NĂM NHÂM TÝ (Bản thôn tạo thạch bi ký, Nhâm tý niêm chế)(1)

HOÀNG VĂN LÂU

Những người có chân khoa trường là Nguyễn Đăng Dụng, Nguyễn Cao Tuấn, Nguyễn Đình Quý; những người dự giáp tư văn là Nguyễn Phú, Ngô Vĩ, Nguyễn Nghị, Nguyễn Duy Vân; hội trưởng là Nguyễn Chính; xã trưởng là Nguyễn Trần Ngôn cùng toàn dân thôn Đoài, xã Da Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà dựng bia, lập lệ. Nội dung như sau:

Nghe rằng: Tư văn dựng hay bỏ, liên quan tới thế đạo; phong tục sấu hay tốt, gắn liền với lòng người, Ấp tá trước đây văn vận rất hành thông, các bậc chân nho nối nhau ra đời. Có người quyền to như quốc sư Khuông Việt(2) cổ vũ phong hóa ở kinh đô(3) ; có người chức trọng như vị chỉ huy nho học, tưới nhuần mưa giáo nơi thôn xóm(4) . Có người làm thái thú giúp vua, có người cai trị nơi phiên trấn, cũng có người coi dân nơi phủ huyện. Trong triều, ngoài nội cùng lúc được dùng; cha con , anh em nối nhau đỗ đạt. Dùng trong một nước thì chính sự hoàn thành, dùng ở một làng thì phong tục thuần mỹ. Chẳng những văn vật tốt đẹp, mà cũng là dân phong hưng thịnh vậy.

Gần đây đời đổi vật dời, nhân tài chẳng được như xưa. Nay định chấn chỉnh tư văn ủy mị, vãn hồi thuần phong thủa xưa, người người đáng gương kẻ sĩ, đời đời nối tiếp khoa danh. Mọi nhà theo Khổng, Mạnh(5) , khắp hộ học Trình, Chu(6) , mỗi người đều trở thành ông Tắc, ông Tiết(7) , đất quê phải trở thành nước lỗ, nước Trâu(8) . Nay định thành lệ, có điều thì theo lệ cũ, có điều thì sửa đổi lại, quí ở chỗ thích hợp. Tất cả các điều kê ở dưới đây:

Điều 1: Hàng năm, làm lễ tế vào ngày Đinh sau 2 kỳ xuân, thu. Lễ xong, quan trường, tư văn ngồi ăn uống theo thứ bậc. Lệ kính biếu đã khắc ở bia cũ, phải kính cẩn tuân theo, không được lấn vượt.

Điều 2: Xưa nay, những người đỗ sinh đồ, làm lễ yết và khao vọng hoặc nạp trừ càn tiền(9) đều khắc ở bia cũ. Vừa rồi, thôn nhà bầu tư văn khác nhiều, mà chưa có khao vọng. Như thế là chưa phân biệt được kẻ kinh người trọng phải sửa đổi điều không hay này. Nay quy định lại: Nếu có người thi đỗ thì lễ yết kiến cứ theo như lệ cũ. Còn việc khao vọng thi nên cho châm chước. Sau này nếu lại bầu tư văn thì những ai ít nhiều thông văn lý mới được dự vào, còn việc yết lễ và khao vọng thì cứ theo lệ cũ. Nếu có ai mong được chức quyền mà vào giáp tư văn thì họ phải nạp 12 quan tiền cổ khao vọng cho tư văn, nạp 6 quan tiền yết lễ cho bản thôn.

Điều 3: Việc tế lễ ở đình miếu, lấy người ưu tú có chân khoa trưởng làm văn. Tế xong, nọng trâu, bò chia đôi: 1 phần biếu khoa trưởng làm văn, 1 phần biếu những người làm lễ.

Điều 4: Họ nào có việc hiếu thì mời tư văn làm lễ. Lễ xong, sỏ lợn chia đôi: 1 phần biếu khoa trưởng, 1 phần biếu những người làm lễ, làm văn tế. Riêng trường hợp đưa đám thì nọng lợn chia đôi: 1 phần biếu người khoa trưởng làm văn, 1 phần biếu các viên làm lễ. Những quy định về biếu này, khoa trưởng chia đều, người làm văn được ưu đãi 1 phần.

Điều 5: Họ nào có việc hiếu, có cơi trầu mời hội tư văn làm lễ thì kính lễ tiên sư mâm cố mặn. Lễ xong, một mâm chia đôi: 1 phần biếu khoa trưởng, 1 phàn biếu người làm lẽ.

Điều 6: Các lễ thành phục, đưa đám, tiểu tường… trong việc hiếu của họ, thì tuỳ gia cảnh giầu ngèo, có được bao nhiêu, sẽ mời các viên hành lẽ và bản giáp ăn uống, không được quen thói cũ, đòi hỏi rượu thịt. họ nào chỉ có hằng tâm, không có hằng sản(10) , không thể mời khắp, biếu khắp thì người nao giúp việc tế lẽ nhiều mới được ăn. Nếu họ nào có việc hiếu, những trong nhà không đủ lực, không lo được tang lễ thì cho phép nộp cho bản giáp 2 quan 4 mạch. Nếu viên nào ngồi thứ chưa đến bàn 3 thì không thuộc điều quy định này, chỉ cho nạp 6 mạch tiền cổ.

Điều 7: Nếu tế tự ở đình miếu, thì các viên tư văn mũ áo chỉnh tề làm lễ. Cố mặn được hưởng thì tư văn 6 mâm, thôn trưởng 3 mâm. Riêng khoa trưởng, xã trưởng, văn nhân tuổi đến từ 60 trở lên có chân trong giác tứ văn, nếu co ai gặp việc mà vội vàng chưa kịp hành lễ, thì gặp dịch vẫn được dự ăn uống. Ngoài ra, những người khác không thuộc quy định này.

Điều 8: Do đồng ruộng thôn nhà xưa nay nhiều người tham lợi, tự tiện tháo nước bắt cá để lúa má khô cằn, việc này phải đình chỉ. Từ nay về sau, khi lúa đã chín chỉ có người có ruộng mới được tháo nước và đều phải có đơn trình cho giáp trưởng đương nhiệm làm bằng cứ, không được tự tiện. Việc tháo nước nên làm vào ban ngày. Nếu không có đơn trình, ban đêm tháo nước thì bản thôn phải phạt 1 quan tiền cổ.

Điều 9: Thôn nhà có một khoảng đầm, trước đây xã thôn trưởng nhiều kẻ mượn tiếng làm việc công, tự tiện mua bán. Từ nay về sau, thôn ta sẽ giữ lại. Nếu trong thôn xã, người nào tự ý viết giấy, liên danh ký tên, điểm chỉ, bán cho người trong thôn hay người xã thôn khác, hoặc người nào tự ý bán đầm này thì quỉ thần soi xét, đánh chết nó đi.

Điều 10: Nếu có học trò nào chuyên cần học tập, thì được miễn mọi việc cánh, võng và và các việc lựu dịch khác để trọng đạo Nho. Những người vừa cầy vừa học, nửa chừng bỏ dở thì không theo quy định này.

Điều 11: Hằng năm xuân, thu nhị kỷ, vào đám ca hát, đám đánh vật, thì sửa hai cỗ sôi gà, kính biếu quan viên 1 cỗ, bản giáp 1 cỗ.

Điều 12: Người thôn nhà nếu có ai chưa có con trai, lấy vợ, cầu tự, từ 40 tuổi trở lên, cho nộp tiền bản giáp. Con gái lan giai(11) nộp 3 mạch tiền cổ, còn bản hạng lan giai thì một mạch tiền cổ.

Ngày lành tháng 12 năm Quang Trung thứ năm (1792).

Sinh đồ thôn nhà là Nguyễn Đặng Dung soạn văn.

Đệ tử Nguyễn Đức Mậu viết chữ.

Thợ đá Nguyễn Thời Trang khắc bia.

HOÀNG VĂN LÂU dịch

CHÚ THÍCH

(1) Bia hiện đặt ở chùa thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

(2) Quốc sư Khuông Việt: họ tên thực là Ngô Chân Lưu. Thuở nhỏ, ông học Nho; lớn lên, theo Phật, trụ trì chùa Khai Quốc; 45 tuổi, tiếng tăm lừng lẫy, được Đinh Tiên Hoàng mời làm Tăng Thống, rồi phong làm Khuông Việt Đại sư. Đến đời Lê Đại Hành, Ngô Chân Lưu có làm một bài thơ tiễn sứ nhà Tống. Ông một vào năm Thuận Thiên thứ hai (1011) đời Lý Thái Tổ.

(3) Nguyên văn là “hoa hạ”, trong bài này được dùng với nghĩa là kinh đô, trung tâm văn hóa…

(4) Nguyên văn là “lý nhân”, nơi ở của người có nhân (Luận ngữ - Lý nhân); trong bài bày được dùng với nghĩa là Hương thôn.

(5) Khổng Tử và Mạnh Tử, những ông tổ của Nho học.

(6) Trình Di, Trình Hiệu và Chu Hy, những nhà nho thuộc phái lý học đời Tống.

(7) Ông Tắc, ông Tiết: tức Hậu Tắc, một bề tôi giỏi giang của vua Nghiêu; và Tiết, một bề tôi có tài của vua Thuấn.

(8) Nước Trâu, nước Lỗ: “Trâu” là quê hương của Mạnh Tử; “Lỗ” là quê hương của Khổng Tử.

(9) Càn tiền: chưa rõ là loại tiền gì.

(10) Ý nói chỉ có tình nhưng mà không có của.

(11) Chưa rõ nghĩa là gì. Theo văn cảnh, có thể hiểu là người con gái đi lấy chồng phải nạp cho làng 3 mạch tiền cổ; nhưng nếu chồng là người cùng ngõ thì chỉ phải nộp 1 mạch thôi.

TB

BÀI THƠ VÀ BÀI PHÚ CA NGỢI CẢNH HỒ TÂY CỦA NGUYỄN HY LƯỢNG

VŨ THANH HẰNG

Vào ngày Hạ chí (khoảng 21, hoặc 22 tháng 6 năm âm lịch) năm Tân dậu (1801), vua Bảo Hưng triều Tây Sơn có tổ chức lễ tế trời đất tại Hồ Tây, Hà Nội. Trong dịp này, Nguyễn Huy Lượng được lệnh soạn 1 bài thơ và 1 bài phú bằng chữ Nôm nói về cảnh Tây Hồ.

Bài thơ cho tới nay vẫn ít ai biết tới. Riêng bài phú tuy có được giới thiệu trên một vài cuốn sách, báo (*), những chưa hề kinh qua giám định về mặt văn bản học.

Để phục vụ cho việc nghiên cứu ngày một đầy đủ, chính xác thơ văn thời Tây Sơn, dưới đây chúng tôi giới thiệu bài thơ và đặc biệt bài phú ca ngợi cảnh Hồ Tây mà thực chất ca ngợi sự nghiệp cũng như công lao to lớn của triều đại Tây Sơn đối với dân với nước.

Hiện có tất cả 2 dị bản về bài thơ và 4 dị bản về bài phú nói trên được chép trong các sách sau đây.

1. Phong cảnh biệt chí, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN), ký hiẹu AB.377, chúng tôi gọi là bản A. Bản này có đủ cả bài thơ lẫn bài phú.

2. Tây Hồ phú, sách của VNCHN, ký hiệu AB.299, chúng tôi gọi là bản B. Bản này có đủ cả bài thơ lẫn bài phú. Ở bài phú, rải rác xó xen những dòng chú thích bằng chữ Hán. Cuối bài phú, có dòng ghi “Kiến Phúc Giáp thân chi niêm, Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đình Băng Mã lão phu bút thảo” (Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đinh Băng Mã lão phu chép lại vào năm Giáp thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc).

3. Tây Hồ cảnh tụng, sách của VNCHN, ký hiệu VNv. 184, chúng tôi gọi là bản C. Bản này chỉ có bài phú, rải rác cũng có những dòng chú thích bằng chữ Hán.

4. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, (TK. XVIII - giữa TK. XIX), chúng tôi gọi là bản D. Bản này cũng chí có bài phú in ở các trang 155 - 162, theo bản Phú Việt Nam cổ và kim.

Trong việc khảo dị, chúng tôi lấy bản A làm bản nền, với lý do đây là bản chép đầy đủ và rõ ràng nhất. Các bản còn lại sẽ được dùng để đối chiếu với bản A. Nơi nào mà Bản A tối nghĩa, chúng tôi thay vào bằng chữ có nghĩa ở bản khác. Các chữ khảo dị được đánh số thứ tự bằng chữ số Ả Rập.

Trong việc chú thích, có chú thích của nguyên bản (chủ yếu là Bản B và Bản C, người chú thích cũng có thể là chính tác giả, mà cũng có thể một ai đó về sau) và chú thích bổ sung của chúng tôi. Chú thích của nguyên bản sẽ được ghi rõ là “Nguyên chú”. Các chú thích được đánh số thứ tự bằng chữ số A Rập đặt giữa hai ngoặc đơn.

Phiên âm:

PHONG CẢNH BIỆT CHI1

Hà Nội, Tây Hồ phong cảnh.

Hạ chí tiết, hành hạ chi lễ. Hoàng triều Bảo Hưng Tân dậu niên, ngự tế Phương Trạch đàn tại Tây Hồ, nhưng mệnh Lê triều Hương cống Hành Lễ bộ phụng nghị quan. Chương lĩnh hầu soạn thi, phú các nhất thể, phụng ngự ban bao thưởng thanh tiền nhị thập quán 2.

(Phong cảnh Hồ Tây ở Hà Nội.

Tiết hạ chí (1), làm lễ tế mùa hè. Năm Tân dậu (1801) triều Bảo Hưng, nhà vua đến tế ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây (2), sai quan Phụng nghị bộ Lễ, đỗ hương cống triều Lê, là Chương lĩnh hầu (3) soan thơ và phú, mỗi thứ một bài, được vua khen thưởng, ban cho 2 quan tiền đồng).

THƠ

Thuận nghịch cảnh 3 (4)
Đầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ,
Trước bởi khôn thiêng khéo vẽ 4 đồ.
Mây lẫn đuốc xanh màu đuốc ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu.
Cây lá tán rợp tầng cao thấp,
Sóng gảy cầm tâu nhịp 5 nhỏ to.
Vầy chốn chốn 6 tiên (5) non nước đủ,
Tây Hồ gía ấy 7 dẽ đâu so.
PHÚ VÂN 8
Xinh 9 thay cảnh Tây Hồ!
Lạ thay cảnh Tây Hồ!
Trôm nhớ thủa đất chia 10 chín cõi (6),
Nghe rằng đầy đá mọc một gò (7).
Trước bạch hổ về 11 ở đất 12 làm hang, Long quân 13 trổ lên vùng đại trạch (8)
Sau kim ngưu chạy 14 về 15 đây hóa vực 16,
Cao vương doanh tảm 17 mạch hoàng đô (9).
Danh 18 nghe gọi rằng đầm 19 Lãng Bạc (10),
Cảnh nhắm in tình chử, băng 20 hồ (11).
Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ 21 động binh dẫy 22 lên dòng lẻo lẻo,
Hình lượn lượn uốn vòm câu 23 bạc, tưởng vầng Ngân rơi xuống mảnh thò thò 24 (12)
Dư nghìn mẫu nước trời lẫ sắc,
Trải bốn 25 bên hoa cỏ quyến 26 mùa.
Áng đất gò 27 mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt (13).
Vũng nước vẩn 28 hàm rồng chẳng cạn, người 29 gọi trản 30 trung tô 31 (14),
Tòa thạch tháp nọ nơi tiên để báu (15).
Chốn 32 thổ đôi kia lỗ 33 khách chôn bùa (16).
Đền 34 Mục lang hương khói 35 chẳng rời (17), tay lưỡi phép hãi 36 ghi công bắt hổ (18).
Quán Trấn Vũ nắng sương 37 nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để dấu 38 chém 39 rùa (19).
Kề bên nọ, quán Thiên Niên (20) lợp xợp 40,
Cánh ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo (21) nhấp nhô.
Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn (22).
Hàng cổ thụ (23) gió dồn 41 bóng nước 42, trường Phụng Thiên (24) nhận sẵn thú 43 Nghi Vu (25).
Dấu Bố Cái (26) rêu 44 xây 45 nền 46 miếu 47,
Cảnh Bà Đanh (27) hoa khép 48 cửu chùa.
Trông mơ màng dường Lĩnh 49 Thứu (28) nơi kia, ba 50 tổ thước cuối làng kêu chích chích (29).
Nghe phảng phất ngỡ động hoa 52 mái nọ, mấy tiéng gà 53 trong trại trúc 54 o o (30),
Lò Thạch khôi (31) khói tuôn 55 nghi ngút,
Ghềnh Nhật Chiêu (32) sóng dậy 56 ì ồ.
Rập rềnh gót 57 bãi Đuôi nheo 58, thuyêng thương khách 59 chen buồng bươm bướm.
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa (33), tháp cao tăng 60 hé cửa tò vò.
Chày 61 Yên Thái (34) nện trong sương lãng đãng 62,
Đó 63 (35) Nghi Tàm (36) ngăn ngon nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai 64 phường dệt gấm 65 (37),
Sen vũng nọ nẩy tiền 66 xanh (38) lác đác, lửa đóm ghen 67 năm xã gây lò.
Cầm ve gẩy lầu thư ảnh ói,
Mõ quốc đưa 63 án kệ rì rù.
Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ (39) thẳng kề 69 bên khóm 70 trúc,
Non Phục Tượng (40) buổi 71 vầng trăng hé nửa, tiếng hàm châm ghe cánh đới 72 sông Tô (41).
Người ngoạn cảnh ngẩn ngơ 73 đói chốn 74,
Khách thâu nhàn rả rác 75 từng khu.
Mảnh áo tơi 77 cày lợp xợp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến 78 đàn trâu gã Nịnh (42),
Con thuyền trúc chở lờ 79 đờ 80 trước gió, khúc Thương 81 Lương đưa gánh củi chàng Chu (43).
Vầy cuộc ẩn, mọi nghề nào 82 thiếu,
Mượn thú vui, bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn (44) chưa gác cuộc cờ, lòng thơ 83 đã bồi hồi ban lãnh thố (45).
Làng Võng Thị còn đang 84 tiệp rượu (46), tiếng 85 đâu 86 não ruột buổi tà ô.
Khách Ngô ngạn 87 (47) chợ Tây ngồi san sát,
Người Hy Hoàng (48) song bắc ngáy pho pho 88.
Bến giặt 89 tơ người quẩy 90 nước còn khuya, gương thiềm (49) đựng trên 91 tay lấp lánh92.
Vườn hái 93 nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi dạ rơi dưới gót thơm tho,
Ngang thành thị kể 94 yêu hà nào 95 thú.
Dọc 96 phố phường chen 97 phong nguyệt đội 98 pho 99,
Gió hiu hiu dòng Nhị Thuỷ (50) đưa lên, lồng hơi mát tới trùm 100 hoa khóm liễu 101.
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn (51) rọi xuống, ngậm 102 bóng trăng 103 từ lũ cá, đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều hơn thắng lãm 104,
Triều đời xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựu quán 105 hoa đặt nẻo 106 quan ngư, kìa đới Hưng Khánh (52).
Đè tay 107 sóng đem bầy 108 dụ tượng, nọ thuở Càn Phu (53),
Trải Trầm trước cũng 109 nhiều phen xe ngựa (54),
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù (55).
Lạm thấy 110 thiên bát vinh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy Phúng (56).
Trạnh nhớ 111 khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm dường thoả ý giao du 112.
Toả đá nọ 113 ghi câu danh 114 họa,
Dòng nước kia 115 nổi chén tạc thù.
Năm sau từ lầy 116 bụi tiêu tường (57) ba thước nước không cầm mầu 117 hạo khiết (58).
Buổi ấy lại 118 góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khổ.
Hình cây, đá mưa dầu nắng giãi 119,
Sắc 120 hoa, chim, tuyết 121 vẩn sương mù.
Chốn tri đường 122 làm bợ vẻ 123 thanh quang, xuôi ngược những về 124 đuôi khoá 125 đẩu (59).
Nơi viện 126 vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang sao mặc bóng 127 tri thù (60).
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo,
Đèn viễn thôn mấy ngọn lù đù 128.
Kênh đâu đâu từ chảy xuống 129 trung sa, lầu túc điểm (61) gió còn sớm quét 130.
Sen chốn chốn 131 bay về 132 tây vực, bóng 133 du ngư (62) nguyệt hãy hom 134 mò.
Kêu trị, loạn, đau lòng 135 đỗ vũ (63),
Gọi công, tử, mỏi miệng 136 hà mô (64)!
Lũ cầy mây lần tưởng bóng nghê (65), thơ Thất Nguyệt thở than cùng mục thụ (66):
Khách điếu nguyệt (67) biếng nhìn 137 tăm cá, chữ Tam mô 138 bàn bạc với tiều phu (68).
Nghe xóm nọ rì rầm 139 ve sẻ 140 (69),
Ngắm vùng 141 kia cao thấp 142 trai cò (70).
Thú 143 cao lưu (71) lệch lạc 144 thế cờ, người nhạo thuỷ (72) cuốn 145 cầm khi giãi 146 quế (73).
Mầu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu (74). Khách đăng đài gác bút buổi bay ngô (75),
Chiều phong 147 vật nghe 148dương quạnh quẽ,
Dấu danh lăng 149 ngắm hay mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mông mênh 150 đường xưa 151 đua ngựa.
Trên thành trí đá xây lởm chởm 152, bến cũ gọi đò.
Trước cố cùng treo 153 nửa 154 mảnh gương 155 loan, vầng trăng xế xế 156.
Lầu 157 cổ tự gửi mấy 158 phong da ngựa, ánh 159 cỏ lù lù 160.
Lớp hoán dịch 161 ngày 162 xưa man mác,
Vẻ tiêu 163 lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn trêu 164 người, người trải khi vật đổi sao dời, cảnh cũng 165 phải 166 chiều người buổi ấy.
Lúc 167 thanh nhàn 168 có người còn đoái 169 cảnh, cảnh vốn 170 sẵn nước trong trăng sáng 171, người nào 172 nên phụ cảnh nào ru?
Vầng 173 trăng nọ buổi tròn buổi khuyết.
Ngọn nước kia khi đục khi lờ 174,
Tới Mậu thân (76) từ 175 rõ vẻ tường vân, sông núi hiệp 176 nhờ công đãng địch (77).
Qua Nhâm 177 tuất (78) lại tưới cơn thời vũ, cỏ 178 cây đều gội đức triêm 179 nhu (79).
Vùng 180 trì chiểu nước dần dần sáng 181,
Áng đình đài 182 hoa phơi phới đua.
Chốn bảy cây (80) còn mấy gốc lăng sương 183, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão.
Nơi một bến đã đông đoàn hý thuỷ (81), khắp âu diên 184 (82) đều thỏa tính trầm phù,
Vẻ 185 hoa thạch 186 châu thêu 187 gấm dệt.
Tiếng cầm trùng 188 ngọc cất 189 vàng 190 khua.
Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã nhiều 191 người ca ngợi (83).
Làn sóng phẳng 192 kinh trầm, ngạc lặn, ao,
Hán nào mấy kẻ 193 reo hò (84).
Mặt đất đùn này thóc, ấy 194 rau, rầu lòng Cô trúc (85),
Dòng 195 nước chảy kia ghềnh 196, nọ bến, mặc thích 197 Sào, Do (86).
Cây miếu 198 kia còn đứng đậy uy thần 199, đoàn 200 Mán tới dám khoe lời Tây hữu (87).
Sen chùa nọ lại bay về 201 cảnh Phật 202, lũ Ngô về từng 203 niệm chữ Nam vô.
Dấu linh khí 204 rành rành tỏ 205 sáng,
Mạch hậu 206 nhân dằng dặc bao so 207.
Mặt 208 thành xưa đem lại thế kim thang (88) mây che phảng phất 209, cánh hân (89) cũ sửa ra hình chỉ trụ (90), đá quảy 210 xô bờ.
Nghé vùng danh, áng 211 lợi bấy lâu, cảnh tuy dường tiện 212.
So 213 nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã gì 214 thua,
Trải mấy thu từng tựa bóng thắm 215 xanh may 216 cảnh đã vào trong vũ trụ.
Vì 217 ngàn dặm hãy khơi 218 với bệ tía 219 song 220 cảnh còn gọi chốn biên ngung,
Tuỳ thú vị đã giãi bầy ra đó,
Nhưng 221 thanh dung nào 222 trang điểm đến cho 223.
Mừng nay 224:
Trời phù 225 chính thống,
Nước 226 mở hoành mô (91).
Cơ 227 hóa thấm 228 vào trong động tác,
Khi càn khôn vận 229 lại thủa 230 đô du (92).
Chốn 231 hoàng thành đặt vững 232 Long Biên (93), ngôi Bắc cực muôn dân đều cùng hướng 233.
Đàn 234 Trung 235 trạch xây lên 236 Ngưu chử (94), cảnh Tây Hồ trăm thức lại thơm tho 237
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm,
Áng hồng 238 vân đã 239 cánh độ tua rua (95).
Ngắm nguyệt xem từ cấu 240 tượng một 241 hào (96), trời kia đành 242 quét bụi,
Nom 243 tuế luật đến 244 Di 245 tân bảy tấc, đất nọ 246 mới bay tro (97).
Cơ phục văng 247 lạnh thôi lại 248 ấm.
Lê doanh hư 249 bớt lại thời 250 bù,
Dưới ngũ dương 251 vừa sinh khí nhất âm, muôn 252 phần đã nhờ ơn khôn tạo.
Trên 253 cửu bệ 254 lại tầy ngôi thất chính (98), bốn màu đều thưo hướng đẩu khu,
Hương 255 khâm kính xông với 256 hạo đăng (99).
Rượu chay 257 kiềm thấm cõi linh u (100),
Rỡ 258 năm mây bầy ngọc thạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca ông Thang, Vũ.
Vang chín 259 bệ trỗi 260 tiêu thiều mấy trập 261, điểu thú đều 262 múa 263 đức Đường Ngu,
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức,
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong (101) nghe 264 phảng phất cung đàn, làn 265 thâm 266 thủy muốn vin lên 267 ngũ bái.
Dưới tuệ 268 nhật (102) thấy 269 vang từng tiếng chức, hình viễn sơn dường 270 rạp xuống tam hô.
Lệ nhạc ấy nghìn năm 271 ít thấy,
Phong Quang 272 này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, giọt 273 khánh tửu 274 tưới 275 hàng uyên lộ.
Xa gần 276 cùng bờ cõi 277 non sông một mối, tấm kiềm 278 thành (103) dung 279 hiệp 280 lũ nghiêu sô (104).
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo,
Khi 281 tường quang tuôn trước ngọn gió huyền lô.
Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên răn đàn 282 hồng nhạn (105).
Ca cuối vũng kẻ 283 ngâm 284 câu tại chử, ghẹo 285 lũ ê phề (106).
Lời 286 ngợi tưởng nằm 287 trong Chu Nhã (107).
Điệu ngâm nga 288 đứng giữa Nghiêu cù (108).
Ngẫm đây 289 đà vui thú tạc canh (109), đành chốn chốn cũng ca đồng múa lão 290 (110).
Xem đó 291 đã an 292 loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt thử 293, êm hồ (111).
Mừng 294 tấu 295 lệnh tiết đã trình 296 điềm thái lãng (112).
Xin thánh nhân càng cẩn thuở 297 dự du (113).
Ngọn nguồn tuôn lai láng 298 mái kia ghềnh, đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh, Vị (114).
Chòm cỏ mọc lơ thơ 299 bên nọ miếu, trống thôi hoa chia rẽ 300 huân 301 do (115).
Nhìn 302 dã 303 sắc, xét dân phong cần nọa (116).
Ngắm thủy 304 quang soi vật tính tham ô (117).
Chốn chiều đài xem cá lạc chim 305 bay, thấu sĩ 306 lộ nơi thông nơi trệ.
Miền thôn ổ lắng muông 307 kêu gà gáy, lượng dân gian đâu hao, đâu 308 trù.
Tình u uẩn 309 hiệp 310 bày 311 trên thị thính.
Hiệu trị bình đành kíp 312 dưới tề tu.
Nội 313 mạch kia dân cậy 314 lấy làm giờ, hang chuột ẩn há ngừa 315 nơi cỏ khuất.
Bờ liễu nọ kẻ xây đã 316 vững đất, lỗ kiến đùn tua cẩn 317 buổi nguồn xô.
Đêm phong cảnh 318 một hồ tuy tiều 319.
Mở thái bình ra bốn bể mới to.
Tối nay 320 này:
Hồ 321 mình thiểu luậ,
Đại tính 322 sơ trần 323.
Dư một kỷ yên bề hu lịch (118).
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang 324 du (119).
Trước phương đàn dám 325 sánh hàng uyển 326 góp 327 hồ cảnh tiến một chương quốc 328 ngữ.
Bên ngự 329 đạo ngửa trông 330 vừng nhật 331 tiếp 332 sơ thanh 333 mừng muôn kỷ dao đồ (120).

Khảo dị:

1. Tây Hồ phú (B), Tây Hồ cảnh tụng (C), không có (D) - 2. Tiết Hạ chí, làm lễ tế mùa hạ, nhà vua đến tế ở đàn Phương Trạch tại Hồ Tây vào năm Tân dậu triều Bản Hưng, sai quan Phụng nghị bộ lễ, đỗ Hương cống triều Lê là Chương lĩnh hầu soạn bài phú (B), không có (C, D) - 3. Nhà vua khen thưởng cho bài thơ - đọc xuôi, ngược (B), không có (C, D) - 4. họa (B) - 5. trập (B) - 6. quế quế (A) - 7. dẫy (B) - 8. Tây Hồ phú (B), Tây Hồ cảnh tụng (C), Tụng Tây Hồ phú (D) - 9. Yên (C), Lạ (D) - 10. vừa (C) - 11.vào (D) - 12. đó (D) - 13. vương (D) - 14. dò (D) - 15. vào (B, C, D) - 16.dấu (C) - 17. doanh (B, C), đào chặn (D) - 18. Tiếng (D) - 19.Dâm đàm (B, C, D) - 20. thuỷ (C) - 21. nghĩ (C) - 22. hãy (C), nổi (D) - 23. trăng (D) - 24. nhò nhò (D) - 25. tứ (C) - 26. nhiều (D) - 27. phơi (D) - 28. hút (D) - 29. cảnh (C) - 30. thành (C) - 31. hồ (C) - 32. đống (C) - 33.chỗ (D) - 34. thờ (A), chùa (D) - 35. lửa (C, D) - 36. một (C), còn (D) - 37. mưa (D) - 38. tích (D) - 39. giam (B, C, D) - 40.lớp lớp (D) - 41. rung (D) - 42. lục (D) - 43. không có (C) - 44. sau chữ “rêu” còn có chữ “in” (C, D) - 45. không có (D) - 46. nặng (B) - 47. phủ (D) - 48. sau chữ “khép” còn có chữ “đóng” (C) - 49. đỉnh (D) - 50. vài (B, D) - 51. hoa (A, B, C) - 52. tiên (C), đào (D) - 53. chim (C) - 54. gáy (A, B, D) - 55. bật (C) - 56. giật (D) - 57. cuối (D) - 58. hàm (C) - 59. sau chữ “khách” còn có chữ “hãy” (C, D) - 60. sau chữ “tăng” còn có chữ “còn” (C, D) - 61. Chùa (C) - 62. chểnh choảng (D) - 63. lưới (C, D) - 64. đôi (C) - 65. cửi (A) - 66. tàn (B), chồi (C) - 67. xôn (B, C) - 68. khua (D) - 69. thấy mô (C) - 70. chòm (C), mái (D) - 71. lúc (D) - 72. mái (C) - 73. dải (D) - 73. thẩn thơ (D) - 74. đoạn (D) - 75. lai láng (D) - 76. không có cả câu này (C) - 77. thu lu (C) - 78. tiếng (C) - 79. giãi dàn (C), lân la (D) - 80. không có (D) - 81. thanh (C) - 82. chẳng (D) - 83. sau chữ “thơ” còn có chữ “nọ” (B) - 84. đông (C, D) - 85. sau chữ “tiếng” còn có chữ “cầm” (B, D) - 86. đà (C, D), sau chữ “đâu” còn có chữ “vừa” (B) - 87. Sỏ (D) - 88. phi pho (D) - 89. giặc (D) - 90. vốc (D) - 91. trong (D) - 92. lóng láng (D) - 93. mai (A, B, C) - 94. đưa (C) - 95. một (B, C) - 96. sau chữ “dọc” còn có chữ “làng” (B) - 97. túi (B) - 98. hai (C, D) - 99. kho (D) - 100. chòm (B, C) - 101. trúc (C, D) - 102. đớp (D) - 103. trong (B,D) - 104. khái (C) - 105. bóng (C, D) -106. quán (C, D) - 107. mặt (C, D) - 108. đường (C, D) - 109. đã (D) - 110. Trộm nhớ (D) - 111. Trạnh tưởng (C) - 112. phu (D) - 113. sau chữ “nọ” còn có chữ “hãy” (C) - 114. mặc (C) - 115. sau chữ “kia” còn có chữ “còn” (B), còn có chữ “dường” (C) - 116. nổi (D) - 117. cơn (C) - 118. cũng (B, C, D) - 119. dầu gió giãi (B), dầu gió giạt (C), trôi gió giạt (D) - 120. Mấy (C) - 121. ráng (C), mây (D) - 122. đàm (D) - 123. bạn với (C) - 124. vì (C), vẫy (D) - 125. giải (C) - 126. phạm (D) - 127. trao mắc võng (B) - 128. mù (D) - 129. đều chạy xuống (D) - 130. rằng (C), quạt (D) - 131. sau chữ “”chốn còn có chữ “đã” (B, D), còn có chữ “lại” (C) - 132. vào (C) - 133. vũng (C, D) - 134. khuya (C), tối (D) - 135. sau chữ “lòng” còn có chữ “con” (D) - 136. sau chữ “miệng” còn có chữ “cái” (D) - 137. nhận (C), tìm (D) - 138. quyền (A, B, C) - 139. rù rì (C, D) - 140. nhặng (D) - 141. duyềnh (C), ghềnh (D) - 142. thấp thoáng (C, D) - 143. giục (C) - 144. chếch mác (D) - 145. ôm (C, D) - 146. rọi (C), rạng (D) - 147. thanh (C) - 148. vị xem (D) - 149. đồ thư (D) - 150. mênh mang (C), mênh mông (D) - 151. ao (C) - 152. chớm chở (B) hởm chởm (D) - 153. không có (C) - 154. còn (C) - 155. bóng (C) - 156. he hé (D) - 157. sau (B, D) - 158. không có (C) - 159 . đám (D) - 160. lù rù (D) - 161. che sương (B), canh định (C, D) - 162. người (C, D) - 163. đơn (C) - 164. phô (B, C, D) 165. vì (C), không có (D) - 166. cũng (C) - 167. thời (B, C, D) - 168. lẵng (B, D) lãnh (C) - 169. mến (C, D) - 170. có (D) - 171. bạc (C) - 172. không có (D) - 173. Ngắm (C) - 174. nơi tắc nơi lờ (B), nơi hoắn nơi nhô (C, D) - 175. Không có (C) - 176. cùng (C), khắc (D) - 177. Canh (B, C, D) - 178. sau chữ “cỏ” còn có chữ “khô” (C) - 179. tiệm (C) - 180. Vũng (D) - 181. lặng (D) - 182. chốn thơ đình (C), nơi đình đài (D) - 183. vân (D) - 184. tới uyên ương (C, D) - 185. mùi (C) - 186. cỏ (C) - 187. ken (B), ghen (C) - 188. trùng cầm (B) - 189. gõ (C, D) - 190. trấn (B) - 191. lắm (D) - 192. sóng nổi (C), nước phẳng (D) - 193. trẻ (C, D) - 194. này (D) - 195. Mặt (D) - 196. nọ dòng (D) - 197. chí (C, D) - 198. quán (C, D) - 199. thần uy (D) - 200. loài (C) - 201. vào (C) - 202. Phật cảnh (D) - 203. còn (C) - 204. dị (C, D) - 205. hãy (C), vẫn (D) - 206. nguyên (C) - 207. thẳng đồ (C), bao rò (D) - 208. Mặc (D) - 209. đá xây phảng phất (B), đất xây phẳng phắn (C), đất xây phẳng lặng (D) - 210. xếp (D) - 211. nẻo (D) - 212. rằng kém (C), rằng nhỏ (D) - 213. Song (D) - 214. chi (C, D) - 215. mảnh (C), tàn (D) - 216. thâu (C, D) - 217. Và (B), song (C, D) - 218. hãy xa (C), đã xa (D) - 219. tử thiện (A) - 220. thiệt (B, C) - 221. Song (D) - 222. còn (D) - 223. thả mùi (D), lại cho (D) - 224. Nay mừng (C, D) - 225. chi (C) - 226. đất (C, D) - 227. May (C), quyền (D), sau chữ này còn có chữ “tạo” (B, C) - 228. tóm (D) - 229. đưa (C) - 230. trước (C, D) - 231. nhưỡng (C), nền (D) - 232. vũng đặt (C) - 233. phương (C, D) - 234. nền (D) - 235. đức (C), bắc (D) - 236. kê (D) - 237. phương phu (B, C, D) - 238. tướng (D) - 239. đà (C, D) - 240. Cấn (D) - 241. bốn (D) - 242. ống âm dương đành (C), ống âm dương đà (D) - 243. Xem (D) - 244. vả (C) - 245. nhị (A, B, C) - 246. lò thiên địa (C, D) - 247. vãng phục (B, C, D) - 248. thì (C) - 249. hư doanh (C) - 250. đã lại (B, C, D) - 251. lục dương (C), lục âm (D) - 252. dương, vạn (D) - 253. lê (D) - 254. đạo (C, D), sau chữ này còn có chữ “đã” (B) - 255. gương (A) - 256. miền (C, D) - 257. cung (D) - 258. Ngời (C), Áng (D) - 259. cửa (B) - 260. nổi (D) - 261. khúc (D) - 262. còn (C) - 263. vù (D) - 264. không có (D) - 265. loài (S, B,C) - 266. lương (C) - 267. cuộn lên (C), vái lên (D) - 268. ngọ (B, C, D) - 269 đã (C), không có (D) - 270. đều (C), mong (D) - 271. thu (D) - 272. cảnh (C, D) - 273. sau chữ “rọt” còn có chữ “rượu” (C) - 274. vũ lộ (D) - 275. sau chữ này còn có chữ “đôi” (B, C, D) - 276. Gần xa (D) - 277. cõi bờ (D) - 278. hoa (C), đan (D) - 279. không có (C) - 280. khắp (D) - 281. Áng (D) - 282. loài (C, D) - 283.vụng đem (C) - 284. không có (C) - 285. nhủ (C, D) - 286. sau chữ này còn có chữ “ca” (C, D) - 287. ngồi (D) - 288. sau chữ này còn có chữ “nghe” (C, D) - 289. nay (D) - 290. vũ lão (C), vũ tẩu (D) - 291. Xem nọ (C), Nhớ trước (D) - 292. thoả (D) - 293. quỷ (D) - 294. tưởng (C), nay (D) - 295. không có (B, C , D) - 296. tin (D) - 297. cẳn chữ (C), nghin chữ (D) - 298. ràn rụa (D) - 299. tần vần (B, C, D) - 300. rẽ giạy (B), rẽ thẻ (C), rẽ khóm (D) - 301. lan (A, B, C) - 302. nhận (C, D) - 303. giá (D) - 304. phong (D) - 305. lội diều (B), lội hạc (C), nhảy chim (B) - 306. hóa (C) - 307. chim (D) - 308. đâu chi đâu (C), nơi chi nơi (D) - 309. sau chữ này còn có chữ “đã” (C) - 310. khắp (D) - 311. không có (C) - 312. sắp (D) - 313. Nơi (D) - 314. tựa (D) - 315. chừa (D) - 316. đà (C, D) - 317. càng cẩn (C), khôn chuyển (D) - 318. sau chữ này còn có chữ “lại” (B, C, D) - 319. hồ tuy nhỏ (B, C), bầu chi nhỏ (D) - 320. không có (B, C, D) - 321. Hư (C) - 322. trí (D) - 323. thô (C, D) - 324. thói tầm (C) - 325. đứng (D) - 326. loan (D) - 327. Trông (D) - 328. ngẫu (C), ly (D) - 329. Vệ (C) - 330. trong (B) - 331. nguyệt (C) - 322. nổi (C, D) - 33. thanh sơn (D).

CHÚ THÍCH

(*) Đinh Minh Phấn: Tụng Tây Hồ phú, Nam phong số 113, 1927.

Vũ Khắc Tiệp: Phú Nôm, Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1931.

Phong Châu, Nguyễn Văn Phú: Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb. Văn hóa, H. 1962.

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (TK. XVIII - TK XIX), Nxb. Văn hóa, H. 1963.

(1) Hạ chí: tên một trong số 24 tiết khí của năm, thường rơi vào ngày 21 hoặc 22 tháng 6 âm lịch. Ở ngày này, mặt trời đi qua điểm hạ chí, phía bắc bán cầu ngày trở lên dài nhất, đêm trở lên ngắn nhất, còn ở nam bán cầu thì ngược lại.

(2) Hồ Tây: nay thuộc huyện Từ Liêm, nằm trên vùng ranh giữa huyện Từ Liêm và quận Ba Đình, Hà Nội.

(3) Chương Lĩnh hầu: tức Nguyễn Huy Lượng (có nơi còn chép là Phạm Hữu Lượng), nguyên quán xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, đỗ Hương cống đời Lê dưới triều Tây Sơn giữ chức Hưu thị Lang Bộ Hộ, quen gọi là Hữu Hộ Lượng, tước Chương Lĩnh hầu.

(4) Bìa thơ đọc xuôi từ đầu đến cuối, hoặc dọc ngược từ cuối đến đầu đều được cả, vẫn đảm bảo niên luật và ý nghĩa.

(5) Vầy chốn chốn tiên: ý nói gồm đủ các cảnh đẹp mắt như cõi tiên vậy.

(6) Đất chia chín cõi: Chức phương thị sớ trong sách Chu Lễ chép: “Từ đời Thần Nông trở lên, đất có chín cõi lớn” (Tự Thần Nông dĩ thượng hữu đại cửu chân). Đây ý nói từ lúc khởi thuỷ.

(7) Đá mọc một gò: Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Xưa ở tây thành Thăng Long có một núi đá nhỏ, nằm ghếch đầu lên sông Lô ở phía đông”.

(8) Nguyên chú: “Theo Bạch hồ truyện, Hồ Tây xưa có núi đá nhỏ, trong hang có con Bạch Hồ tinh. Sau Long Quân đem loài thuỷ tộc lên vây bắt Bạch Hồ tinh, nơi đây liền hóa thành một cái chằm lớn, tức Hồ Tây ngày nay”.

Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Dưới chân núi đá phía tây thành Thăng Long có một cái hang sâu, trong có con cáo chín đuôi sống hơn nghìn năm, thường đi khắp dân gian tác yêu tác quái. Long Quân bèn ra lệnh cho sáu đạo quân thuỷ phủ dâng nước lên phá hang Bắt cáo mà ăn. Núi đá từ đó sụp lở thành cũng nước sâu, gọi là đầm xác cáo”.

(9) Nguyên chú: “Theo Kim ngưu ký, Cao Biền đuổi con trâu vàng tới Hồ Tây thì trâu mất tích, biết đây là nơi nhiều vượng khí, bèn lập kinh đô và khai mở Hồ Tây để tẩm mạch Bắc quốc”.

Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Lập miếu Kim Ngưu (trâu vàng) tại Hồ Tây để trấn yểm yêu quái”.

(10) Nguyên chú: “Tây Hồ xưa tên là Lãng Bạc, sau đổi thành Dâm Đàm, triều nhà Trịnh đổi làm Đoài Hồ, Diêm Hồ, Liêm Đàm”.

(11) Tinh chử, băng hồ: bến sao, bình băng. Ý nói Hồ Tây cảnh đẹp, ban đêm như bến sau, ban ngày như bình nước trong vắt.

(12) Vầng ngân rơi xuống mảnh thò thò: dải Ngân Hà rơi xuống hồ, từng mảnh thấp thoáng.

(13) Nguyên chú: “Xưa giữa hồ có gò đất, khi thì gọi là “mỏ chim phượng” (phượng thuỷ), khi thì gọi là “trăng lên đài” (đài thượng nguyệt)”.

(14) Nguyên chú: “Trong hồ có một nơi tục gọi là Hàm Rồng, bên dưới có huyệt quý. Cao Biền cảo chép: “khi nước lên thì huyệt bị che lấp, khi nước xuống thì huyệt hiện ra, giống như sữa trong chén (trản trung tô) vậy”. Huyệt này nổi tiếng khắp kinh đô”.

(15) Nguyên chú: “Trên hồ có một toà thạch tháp (giường đá) tương truyền là nơi tiên để báu vật”.

(16) Nguyên chú: “Ở phường Quảng Bá ven hồ có một gò đất (thổ đôi), tương truyền là nơi Cao Vương (Cao Biền) chôn bùa để yểm mạch Kim Ngưu”.

(17) Đền Mục Lang: đền thờ Mục Thuận.

(18) Nguyên chú: “Lý Nhân Tông dạo chơi Hồ Tây, Lê Văn Trịnh đi theo hộ giá, dùng yêu thuật hóa thành hổ, núp dưới mạn thuyền, may nhờ người thuyền chài là Mục công phát hiện được, dùng phép thuật “hóa võng” quăng lưới bắt được Thịnh. Vua nhân đó ban thưởng Hồ Tây cho Mục công làm thực ấp, nay ở hai phường Võng Thị và Trích Sài còn có đền thờ, hương lửa quanh năm”.

(19) Nguyên chú: “Tục truyền Trấn Vũ Đế Quân bị đầy xuống cõi đời, đã trút bỏ lốt trần tục vào trong hồ, sau hóa thành rùa, rắn gây tác hai cho dân. Một hôm Đế Quân hiển thánh, lấy kiếm long tuyền mà tấn yểm. Nay trước tượng thần bằng đồng, chiếc kiếm thàn vẫn còn đó”.

(20) Nguyên chú: “Trên bờ hồ, thuộc địa phận phường Trích Sái, có quán Thiên Niên”.

(21) Nguyên chú: “Hồ về phía đông tiếp giáp với bãi Vạn Bảo ở giữa sông Nhị Hà”.

(22) Nguyên chú: “Hai chùa Nghi Tàm và Trấn Bắc bốn mặt đều là hồ” Tĩnh phạm là cảnh Phật yên tĩnh.

(23) Nguyên chú: “Điện Nhật Chiêu có bảy cây hoa gạo”.

(24) Nguyên chú: “Xưa ở Phụng Thiên, thi hương tổ chức tại địa phận phường Quảng Bá”.

(25) Nghị, Vu: sách Luận ngữ có câu: “Tắm mát ở sông Nghi, hóng mát ở nền Vũ Vu” (Dục hồ Nghi, Phong hồ Vũ Vu).

(26) Bố cái: tức Bố cái đại vương chỉ Phùng Hưng.

(27) Bà Đanh: tên một công chúa triều Lý, người dựng ngôi chùa ở làng Thụy Chương, nhân dân gọi là chùa Bà Đanh.

(28) Lĩnh Thức: tức Tức Lĩnh hay Thức Sơn, Linh Thứu, một ngọn núi đẹp có hình con chim ó (Thứu) ở miền trung Ấn Độ, nơi Phật Như Lai giảng kinh Pháp Hoa, đời sau thường dùng từ này để chỉ miền phong cảnh.

(29 Nguyên chú: “Phía bắc hồ là phường Yên Thái có chùa, cây trong chùa có những tổ chim thước.

(30) Nguyên chú: “Phía nam hồ là vườn Bố Cầm cũ, thường gọi là vườn trúc”.

(31) Thạch Khối: chỉ làng Thạch Khối ở cạnh sông Nhị Hà, chuyên làm nghề nung vôi.

(32) Nhật Chiêu: nay gọi là Nhật Tân.

(33) Hồ Cổ Ngựa: ở phía nam hồ Trúc Bạch ngày nay, Trên hồ có chùa Linh Sơn.

(34) Chày Yên Thái: làng Yên Thái ở phía bắc Hồ Tây, chuyên sản xuất giấy. Nguyên chú: “Phường Yên Thái giáp sông Tô Lịch, tiếng chày giã giấy thường sáng sáng vang lên”.

(35) Đó: dụng cụ dùng để đơm bắt cá.

(36) Nghi Tàm: tên làng, nằm cạnh Hồ Tây, chuyên nghề đánh cá và nuôi tằm. Nguyên chú: “Ao Hàm Rồng tại địa phận Nghi Tàm”.

(37) Nguyên chú: “Các cô gái ở hai phường Trích Sái và Bán Ân chuyên nghề dệt lụa”.

(38) Chỉ lá sen.

(39) Nguyên chú: “Ở hậu đình (trạm quan sát thời tiết) Thụy Anh có bố trí việc theo dõi giờ giấc bằng đồng hồ”.

(40) Nguyên chú: “Phục Tượng ở phía nam hồ Liễu Giai”.

(41) Tiếng hàm châm nghe cánh đới sông Tô: tiếng đá vỗ vải nghe từ dòng Tô Lịch vọng tới.

(42) Ca thanh thảo quyết đàn trâu gã Nịnh: “Ca thanh thảo” lấy từ ý nghĩ câu hát cổ Trung Quốc “thiên lý thảo hà thanh thanh” (cỏ xanh rờn nghìn dặm). “Gã Nịnh” tức Nịnh Thích đời Chiếu Quốc, nguyên làm nghề chăn trâu, sau làm quan nước Tề.

(43) Khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu: “Khúc Thương Lương” chỉ câu hát của người thuyền chài nước Sỏ, nguyên văn là “Thương Lương chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương Lương chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương Lương trong thì có thể giặt dải mũ của ta, nước sông Thương Lương đục thì có thể rửa chân của ta) (Mạnh Tử, ly lâu). “Chàng Chu” chỉ Chu Mãi Thần, người đời Hán, sống về nghề kiếm củi, sau làm quan.

(44) Khán Sơn: nay còn di tích tại vườn Bách thảo Hà Nội.

(45) Lãnh thố: thỏ lạnh, chỉ mặt trăng. Tương truyền trong trăng có con thỏ giã thuốc tiên.

(46) Làng Võng Thị còn đang tiệp rượu: làng Võng Thị ở phía bắc Hồ Tây, có truyền thống nấu rượu.

(47) Khách Ngô ngạn: có lẽ chỉ khách trú, người Việt gốc Hoa.

(48) Người Huy Hoàng: người sống vào thời Phục Hy, tương truyền là rất hạnh phúc, không phải lo nghĩ gì cả.

(49) Gương thiền: chỉ mặt trăng. Tương truyền trên trằng có con thiền thừ là Hằng Nga hóa thân, sau khi uống thuốc tiên.

(50) Nhị Thủy: chỉ sông Nhị, tức sông Hồng nằm về phía đông bắc Hà Nội ngày nay.

(51) Tam Sơn: núi này nguyên ở gần Cửa Bắc Hà Nội, nay không còn dấu tích.

(52) Nguyên chú: “Hưng Khách là niên hiệu của Lý Thái Tổ. Vua Nhân Tông có lần hành chung xem cá (quan ngự) tại giữa hồ”.

Người chú thích có chỗ lầm: Hưng Khánh (1407 - 1409) là niên hiệu của Trần Giả Định, chứ không phải là của Lý Thái Tông (1027 - 1054).

(53) Nguyên chú: “Càn Phù (1039 - 1041) là niên hiệu của Lý Thái Tông. Thái Tông bày chuồng ở giữa hồ đẻ dụ bắt vui rừng”.

(54) Việt Nam: “Trần Thái Tông chơi Hồ Tây có dựng hành cung để xem cá và xem cảnh hồ”.

(55) Nguyên chú: “Thơ của Tiểu Thánh Vương làm khi dạo chơi Hồ Tây, toàn là mớ câu bỡn cợt”.

(56) Nguyên chú: “Nguyễn Mộng Tiến dạo chơi trên hồ, có làm 8 bài thơ vịnh, ngụ ý cùng vui cái vui của dân” (dữ dân đồng lạc).

(57) Lầy bụi tiêu tường: bụi bặm ngay trong nhà, đây chỉ sự lục đục, mâu thuẫn giữa Đặng Thị Huệ là vợ yêu của Trịnh Sâm, với Trịnh Khải là con lớn của Trịnh Sâm.

(58) Hạo khiết: trong sạch.

(59) Khoa đầu: con nòng nọc.

(60) Tri phù: con nhện.

(61) Túc điều: chim ngủ.

(62) Du ngư: cá bơi.

(63) Đỗ vũ: con cuốc, Thiên thục chí ở sách Hoa DƯơng quốc chí chép rằng vua Vọng Đế nước Thục nhường ngôi đi sống ẩn, sau khi chết hóa thành con đỗ vũ.

(64) Hà Mộ: con ếch ương Tấn Huệ đế nổi tiếng ngu đần, mọt hôm nghe: Ễnh ương kêu như vậy là vì việc công hay việc tư.

(65) Lũ cầy mây lầm tưởng bóng nghệ: những người cây dưới bóng cây mong tưởng đến cầu vồng, ý nói nắng lâu mong mưa, trong loạn lạc ao ước cảnh thái bình.

(66) Thơ thất nguyệt thở than cùng mục thụ: “Thất nguyệt” là tên một bài thơ trong phần Mâu phong của Kinh Thi, người xưa cho đây là thơ của Chu Công nói về cơ nghiệp nhà Chu khó nhọc. “Mục thụ” là kẻ chăn trâu. Cả câu ý nói tầng lớp dưới của xã hội cũng lo lắng về cơ đồ của dân tộc.

(67) Khách điếu nguyệt: người câu cá dưới trăng.

(68) Chữ tam mô bàn bạc với tiều phu: “Tam mô” là 3 thiên sách trong Kim Thư, gồm: Vũ mô, Cao Dao mô, Ích tắc mô, đều nói về việc trị nước. Cả câu ý nói đem việc chính trị bàn với người kiếm củi.

(69) Ve sẻ: “ve” là con ve ve, đây có nghĩa là lời ong tiếng ve, “sẻ” là con chim sẻ, xưa thường dùng với ý soi mói, bới móc… Ý nói dư luận xì xào.

(70) Trai cò: nhắc chuyện con trai và con cò giằng co nhau, không bên nào chịu bên nào (bạng duật tương trì)

(71) Thú cao lưu: thú cao sơn, lưu thuỷ, đây chỉ việc thưởng thức âm nhạc.

(72) Người nhạo thủy: người thích cái vẻ uyển chuyển, năng động của nước, đây chỉ đám thức giả.

(73) Giải quế: chơi dưới bóng trăng. Người xưa cho rằng trong trăng có cây quế, và thường gọi mặt trăng là cây quế.

(74) Lý Bạch từng nói mùa xuân đem cảnh đẹp (yên cảnh) để mời ta (Dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh).

(75) Văn cổ có câu “một lá ngô đồng bay giữa nhân gian” (nhân gian nhất diệp ngô đông phiêu), ý nói cảnh thu rất nên thơ.

(76) Mậu Thân: tức 1788, năm Nguyên Huệ lên làm vua.

(77) Đăng định: tẩy trừ, đây có nghĩa là dẹp loạn.

(78) Nhâm tuất: tức năm 1802.

(79) Triêm nhu: đượm thấm nước mưa, đây có nghĩa là ơn vua.

(80) Bảy cây: tức bảy cây hoa gạo (xem chú thích 23).

(81) Hí thuỷ: bơi đùa trên nước.

(82) Âu diêm: đây chỉ là chim hoặc gia cầm biết bơi lội.

(83) Đời Chu Vũ Vương: trâu ngựa đều thả rong trên đồng nội (nội Chu) không phải dùng vào việc chiến tranh nữa, đây chỉ cảnh thái bình.

(84) Trẻ con nghịch áo giáp và vũ khí trong ao nhà Hán, ý nói giặc dã đã hết (điểm lất ở Hán sử, trích lời Cung Toại).

(85) Cô trúc: tổ quốc của Bá Di và Thúc Tề.

(86) Sào do: tức Sào Phủ và Hứa Do, hai nhà sống ẩn thời vua Nghiêu, theo truyền thuyết Trung Quốc.

(87) Hán sứ có câu: “Tây vực hữu thần, kỳ danh viết Phật” (cõi Tây có vị thần tên là Phật).

(88) Kim thang: ý nói thành vàng ao nóng (kim thành thang trì), thành trì kiên cố.

(89) Cánh hàm: chỗ hàn khẩu sau khi đất bị lở.

(90) Chi trụ: cột đá chống đỡ.

(91) Hoành mô: quy mô to lớn.

(92) Đô du: khen là phải, tiếng dùng thời Nghiêu, Thuấn.

(93) Long Biên: tên đất Hà Nội thời cổ.

(94) Ngưu chử: bến trâu, chỉ Hồ Tây (xem chú thích 9).

(95) Cánh độ tua rua: quá độ sao tua rua mọc, tức ngoài tháng 4.

(96) Cấu tượng một hào: khí âm (một hào) của quẻ Cấu trong Kinh Dịch ý nói thời tiết đã chuyển sang tháng 5.

(97) Ở Trung Quốc vào thời cổ, người ta làm ống luật bằng đồng hoặc bằng trúc để đo khí hậu từng tháng một trong năm. “Di tân” là ống luật dài bảy tấc (đơn vị do lường cũ), dùng để đo khí hậu tháng 5. Ống luật cắm xuống đất mà thấy bay tro, tức đúng vào ngày Hạ chỉ.

(98) Trất chính: làm cho mặt trăng, mặt trời và các vì sao kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ (thất tinh) lưu chuyển đều đặn (Kinh thư: dĩ tề thất chính).

(99) Ý nói tế trời (hạo đãng).

(100) Ý nói tế các thần linh (linh u).

(101) Huân phong: gió ấm.

(102) Tuệ nhật: mặt trời sánh rỡ.

(103) Kiều hành: lòng thực thà thành kính.

(104) Lũ nghiêu sô: hạng người kiếm củi hái rau, ý nói người dân bình thường.

(105) Thơ Hồng nhạn trong Kinh Thi có câu. “Dân chúng phiêu bạt hay trở về đắp tường, làm nhà (vu viên), giống như chim hồng chim nhạn bay đi, nay lại về chốn cũ”.

(106) Thơ Phù ê trong phần Đại Nhã của Kinh Thi nói về người quân tử thời bình có thể sống một cánh đầy đủ, làm cho thần linh, tông tổ cũng được yên vui.

(107) Chu Nhã: gồm Đại Nhã Tiểu Nhã trong Kinh Thi, phần nhiều là thơ ca ngợi cảnh thái bình đời nhà Chu.

(108) Nghiêu cù: đường đi thời vua Nghiêu tương truyền trên đó có nhiều người già vừa đi vừa nghêu ngao hát.

(109) Tạc canh: ý từ câu “đào giếng mà uống, cầy ruộng mà ăn” (tạc tỉnh nhi ẩn, canh điều nhi thực), ca ngợi cuộc sống tự cung tự cấp không phải phụ thuộc vào ai.

(110) Ca đồng múa lão: trẻ em thì hát, người già thì múa.

(111) Bặt thử, êm hồ: chuột (thử) hết quấy phá, cáo (hồ) cũng nằm yên không hoạt động nữa.

(112) Thái lãng: yên ổn, sáng sủa.

(113) Dự du: vui chơi.

(114) Đèn chiếu thủy chia dòng Kinh, Vị: “Đèn chiếu thủy”: đời Tấn, Ôn Kiện đốt sừng tê soi thấy các loài ở dưới nước. “Kinh, Vị”: tên hai con sông ở Trung Quốc, một trong (Vị), một đục (Kinh).

(115) Trống thôi hoa chia rẽ huân do: “Trống thôi hoa” vua Đường Minh Hoàng sai đánh một hồi trống thúc giục các hoa đều nở. “Huấn, do” cở thơm (huấn) và cỏ hôi (do).

(116) Cần, noạ: người chăm chỉ và kẻ lười biếng.

(117) Thanh, ô: trong sạch và nhơ bẩn.

(118) Dư một kỷ yên bề hu lịch: hơm 10 năm (một kỷ) yên bề vụng hên như cây hu, cây lịch.

(119) Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du: ngoài 50 tuổi (năm tuần) thẹn với tuổi già như cây dâu, cây du.

(120) Dao cổ: cơ nghiệp quý như ngọc dao vậy.

(Xem phụ trương tư liệu về Quang Trung số 4)

TB

VỀ NIÊN ĐẠI PHO TƯỢNG ĐỒNG LỚN Ở ĐỀN TRẤN VÕ, HUYỆN GIA LÂM

NGUYỄN THỊ OANH

Đền Trấn Võ xưa thuộc xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Theo truyền thuyết, vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng chân nơi đây, được Thánh Tổ ứng mộng, bèn cho lập đền thờ và khắc gỗ tạc tượng. Hiện nay đều còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị như các đồ tế khí thời Lê, các bức tượng đá, câu đối, sắc phong, trong đó tượng đồng Trấn Võ là di vật không những có giá trị về mặt lịch sử mà còn là công trình nghệ thuật độc đáo.

Tượng cao 3m 80, chi vi gần 8m, nặng khoảng 4 tấn, đúc bằng loại đồng tổng hợp. Tượng ngồi oai nghiêm, mắt nhìn thẳng, đầu đội mũ, mình mặc áo giáp, đi chân không, tay trái xoè ngón trỏ giơ lên trước ngực để bắt quyết, tay phải chống gươm lên lưng rùa. Thanh gươm có rắn quấn. Tượng được đặt chính giữa hậu cung ngôi đền. Hai bên tả hữu có 12 bức tượng đất (thập nhị sứ quân) đứng hầu hai bên, sau tượng có bàn thờ, trên có đặt bài vị vàng ghi dòng chữ : “Hiển linh Trấn Võ quán”(1) .

Tượng đồng Trấn Võ là công trình nghệ thuật cổ xuất sắc đã làm súc động biết bao du khách qua lại. Song rất ít ai biết được tượng được đúc năm nào. Theo truyền thuyết thì tượng được đưa từ nơi khác đến. Cũng có thuyết nói rằng tượng được đúc tại chỗ. Gần đây nhân dịp đi công tác ở xã Thạch Bàn chúng tôi phát hiện ra tấm bia Trấn Vũ điện bi ký gắn vào bệ thờ, sau lưng bức tượng. Qua tìm hiểu nội dung văn bản chúng tôi mới biết rằng: Tượng đồng Trấn Võ trước kia bằng gỗ, sau đến năm Cảnh Hưng Đinh sửu (1757), các quan viên hương lão cùng toàn dân thôn Cựu Linh sáng chế tượng đồng, nhưng mỗi lần đến chiêm ngưỡng thần tượng. cứ muốn cho to cao hơn nữa. Cho đến hết tiết chí năm Mậu thân (1788), tượng Trấn Võ mới được đúc lại, trải qua 14 năm quyên đồng, dựng khuôn, xây lò, mộ thợ, đến năm 1802 bức tượng mới hoàn thành.

Sau khi nhà Nguyễn lên cầm quyền, đã có hàng loạt hành động trả thù đối với triều Tây Sơn. Để tránh sự khủng bố của nhà Nguyễn, tất cả những gì liên quan tới việc đúc bức tượng đều được giấu kín, và người ta đã dựng lên thuyết tượng được đưa từ nơi khác đến. Cho đến năm Canh Thìn, năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (1820) mới dựng bia, dựa vào lời văn cũ để ghi lại quá trình đức tượng được tiến hành vào thời Tây Sơn (1788 - 1822).

Tượng đồng Trấn Võ Gia Lâm cùng với tượng Trấn Võ ở Quán Thánh Hà Nội, tượng Phật ở chùa Ngũ Xá Hà Nội đã đạt tới kỷ lục các bức tượng lớn ở nước ta, mãi mãi trở thành nguồn đề tài hấp dẫn cho nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật.

Xin được trân trọng giới thiệu tấm bia nói trên cùng bức ảnh tượng Trấn Võ Gia Lâm Hà Nội.

Dịch nghĩa:

Bài ký trên bia điện Trấn Võ.

Quan viên hương lão cùng toàn dân trên dưới thôn Ngọc Trì, xã Cựu Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, Trấn Kinh Bắc.

Từng nghe: Ghi lại việc ngàn năm về trước để lại cho ngàn vạn năm sau, tất phải nhờ bia đá ấy. Ấp ta mạch chính thiên nhiên, đất có thế quy xà hợp lại, là một trong thắng tích của miền Bắc Giang, Lê Hoàng ngự tới, Thánh Tổ ứng mộng, xúc động trong lòng bèn lập đền thờ ở đây. Trong đền có tượng gỗ, trước tượng có bài vị vàng, trên mặt có ghi; “Hiển linh chân vũ quán” đặc ban cho ruộng cúng tế và người quét dọn, bốn mùa thờ cúng cùng với Xuân Lợi, Tây Hồ là ba thắng cảnh. Trong khoảng thời gian đó, ghi chép là thơ, thờ cúng bỏ phế lâu ngày tượng gỗ dần dần bị rạn nứt. Đến năm Cảnh Hưng Đinh sửu (1757) Quan viên hương lão cùng toàn dân trên dưới trong thôn, sáng chế tượng đồng, có đủ quan trong triều soạn bìa văn. Mỗi lần chiêm ngưỡng thần tượng cú muốn được to lớn hơn, nên đến tiết đông chí năm Mậu thân (1788) khởi công đúc lại tượng đồng, lòng thành u tối được chứng giám. Hai bên hợp nhau lại, của cải, sức dân, vật dùng khôn kể. Đến tháng 8 năm Nhâm tuất (1802) nọi người tới họp mặt thấy vàng bao bọc ngoài tượng lấp lánh, chất ngọc rực rỡ, xét thấy có thể lưu truyền vẻ lẫm liệt muôn đời, thoả lòng mong đợi của dân khắp nơi, song do bấy giờ gặp nhiều sự cố, không kịp khắc bia. Nay đến tháng giêng nâm Canh Thìn (1820) bèn thuật lời văn cũ cho khắc vào đá để ghi bằng lời mới, lưu truyền mãi mãi.

Ngày lành hàng tháng Mạnh Xuân (tháng giêng) năm đầu niên hiệu hoàng triều Minh Mệnh (1820)

CHÚ THÍCH

(1) Chữ Trấn (đè) viết thiếu bộ Kim.

TB

NHỮNG GHI CHÉP VỀ ĐÔNG NAM Á TRONG ĐẠI THANH THỰC LỤC

MOKESHIRO MOMOI

Đại Thanh thực lục trung Đông Nam Á quan hệ kí sự, Hội đọc thư tịch Hán văn ở Kanshi thuộc Hội sử học Đông Nam Á (Nhật Bản) xuất bản, Kyoto, 1984, 1985, 1986.

Mấy năm gần đây Nhật Bản đã lần lượt giới thiệu với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bộ sưu tập “Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục” .(1)

Vào những năm đầu của thập kỷ 80 này, một số học giả ở Kanshi thuộc Hội lịch sử Đông Nam Á của Nhật Bản dưới sự chỉ đạo của hai nhà học giả Chuson Kashi và Togen Richiro đã lập ra Hội đọc thư tịch Hán văn nhằm thu thập một cánh hệ thống tài liệu chữ Hán để phục vụ đề tài “Nghiên cứu tổng hợp về sự hình thành nhà nước ở Đông Nam Á trên cơ sở tài liệu lịch sử Trung Quốc”. Sau đó, trên cơ sở của đề tài này, đã rút ra một phần và biên tập thành bộ sưu tập mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc sau này.

Bộ sưu tập Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục đã được các nhà Hán học ở Nhật Bản đọc, tuyển chọn sắp xếp và biên tập lại, trên cơ sở tư liệu của bộ Đại Thanh lịch triều thực lục của Đài Loan, in chụp từ năm dân quốc thứ 53 (1963), là một bộ sách gồm nhiều tập, thu thập tư liệu từ đời vua Càn Long (nhà Thanh) về sau.

Hội sử học Đông Nam Á Nhật Bản đã lần lượt gửi biếu Viện Đông Nam Á thuộc uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam bộ sưu tập đó. Đến nay, Viện này đã nhận được 2 tập trong bộ Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục xuất bản ở kyoto từ năm 1984, 1985, 1986.

Tập I sưu tập những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục thuộc đời vua CànLong (1735 - 1795) do Momoi Mokeshiro biên soạn, gồm 4 quyển.

- Quyển 1, Càn Long (I) từ Ung Chính năm thứ 13 đến Càn Long năm thứ 30, xuất bản năm 1984, dày 204 trang (từ trang 1 đến trang 204)

- Quyển 2, Càn Long (II), từ Càn Long năm 30 đến năm thứ 33, xuất bản năm 1985, dày 369 trang (từ trang 205 đến trang 573).

- Quyển 3, Càn Long (II) từ Càn Long 36 đến Càn Long thứ 37, xuất bản năm 1985, dày 324 trang (từ trang 575 - 899).

- Quyển 4, Càn Long (IV) từ Càn Long 38 đến Càn Long thứ 53, xuất bản năm 1985, dày 302 trang (từ trang 900 - 1202).

- Quyển 5, Càn Long (V) từ Càn Long 54 đến Gia Khánh năm thứ 4, xuất bản năm 1985, dày 305 trang (từ trang 1203 - 1508).

Tập II sưu tập những sự việc ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục, thuộc đời Gia Khánh năm thứ 26 (1795 - 1820), do Yao TaKao biên soạn, xuất bản năm 1986, gồm 1 quyển.

Các nước trong khu vực Đông Nan Á được đề cập trong bộ sưu tập Những ghi chép về Đông Nam Á gồm 10 nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Philippin, Malaysia, Xinhgapo, Brunây và Inđonêxia. Song, sưu tập cũng tôn trọng tính lịch sử của các tên gọi các nươc trong lịch sử của khu vực. Ví như Việt Nam xưa kia trong tài liệu thư tịch cổ Trung Quốc gọi là An Nam, Giao Chỉ, Nam Việt; Thái Lan xưa kai là Xiêm La, Miếu Điện xưa kia gọi là Miến. Tên nước, Luzon và Cebu xưa kia, nay gọi là Philippin… Sưu tập khi trích dẫn vẫn dùng tên gọi trong nguyên bản của Đại Thanh thực lục, nhưng phần chỉ dẫn ở khu vực trên đầu các trang đều dùng tên nước hiện nay của các nước ở Đông Nam Á để độc giả tiện tra cứu.

Ngoài tên 10 nước kể trên ở Đông Nam Á, trong bộ sưu tập, các tác giả Nhật Bản còn đề cập tới những vùng đất hiện nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc nhưng có những sự kiện dính líu tới Đông Nam Á như 3 tỉnh ở miền nam Trung Quốc: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Đảo Lưu Cầu (Nhật Bản) cũng được đề cập tới. Đối với những sự kiện trùng lặp và còn đang tranh chấp ở biên giới 2 nước, người sưu tập ghi cả tên những nước có liên quan ở Đông Nam Á và Trung Quốc. Điều này có thể hiện lập trường tương đối khách quan của người sưu tập.

Các sự kiện được kể ra trong bộ sưu tập Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục, vẫn tuân thủ việc ghi chép trong Đại Thanh thực lục. Mỗi tờ của sưu tập chỉ in chụp một mặt giấy trắng; mỗi trang in chia làm hai khung (trên và dưới) mỗi khung chia ra bên trái và bên phải phù hợp với tờ trích trong Đại Thanh thực lục. Trên mỗi khung (tờ) từ trái sang phải được ghi theo thứ tự: số quyển (của Đại Thanh thực lục); năm, tháng, ngày (theo lịch can chi) rồi đến tên khu vực tên nước ở Đông Nam Á, 3 tỉnh 2 đảo của Trung Quốc và đảo Lưu Cầu của Nhật Bản. Cuối trang in là số trang của bộ sưu tập.

Phương pháp biên soạn này vừa đảm bảo tính khoa học (trích dẫn theo nguyên bản), nhưng sắp xếp theo chủ định của người sưu tập. Khiến cho người đọc tra cứu nhanh và tiện lợi, nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác ghi trong nguyên bản.

Trong những tài liệu viết về lịch sử Đông Nam Á, bao gồm cả những tư liệu tiếng phương tây, tư liệu tiếng bản địa ở Đông Nam Á ngày cành tỏ ra quan trọng. Song những tài liệu lịch sử Hán cổ viết về Đông Nam Á vẫn giữ vai trò quan trọng của nó. Bộ sưu tập Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại Thanh thực lục của các học giả Nhật Bản gần đây được thực hiện công phu với cánh biên soạn mới, giúp những người nghiên cứu lịch sử quan hệ Trung Quốc và Đông Nam Á có thể tra cứu tiện lợi, bảo đảm tính khách quan và chính xác của nguồn sử liệu.

Thế Tăng

CHÚ THÍCH

(1 Bộ Đại Thanh lịch triều thực lục, gọi tắt là Đại Thanh thực lục là một bộ biên niên số của nhà Thanh ở Trung Quốc. Hiện nay ở Việt Nam có bản in Nhật Bản Đại Thanh thực lục của Khánh Quế (Thanh). Các tác giả của bộ sưu tập mà chúng tôi giải thiệu ở đây, đã dựa vào bộ Đại Thanh lịch triều thực lục do Hoa văn thư cục của Đài Loan in chụp lại từ năm dân quốc thứ 53 (1963).

TB

TIN ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM

Ngày 26 tháng 8 năm 1988, bộ môn Hán Nôm thuộc khoa ngữ văn trường Đại học tổng hợp Hà Nội đã tổ chức cho sinh viên ngành Hán Nôm khoá học 1983 - 1988 bảo vệ luận văn tốt nghiệp, 5 luận văn tốt nghiệp với các đề tài sau đây đã được trình bầy:

1. Phạm Đức Toàn - Bước đầu tìm hiểu thể loại cân đối Việt Nam. Qua việc phân tích về thể loại, cấu trúc, hình thức thể hiện, nội dung các câu đối với những đặc điểm, chung và riêng, tác giả luận văn đã đưa ra nhận xét: câu đối là một thể loại văn học đặc biệt và đề xuất mô hình nghiên cứu câu đối ở hai phương diện cấu trúc và nội dung.

2. Nguyễn Thị Tú Uyên - Tìm hiểu cấu trúc chữ Hán Nôm qua tác phẩm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu.

Sau khi giám định các văn bản nôm hiện có, tác giả đã chọn được một bản nền để tiến hành khảo sát. Việc lập bảng thống kê chữ Nôm theo các loại chữ hình thanh, chữ giả tá chữ đọc theo âm địa phương cho thấy: loại chữ hình thanh chiếm 51,33%, loại giả tá 37,67%, loại chữ đọc theo âm địa phương chiếm 15%, đặc biệt là không có loại chữ ghép âm + âm. Những kiến giải bước đầu của tác giả về tỉ lệ xuất hiện các loại cấu trúc chữ nôm trong tác phẩm tuy chưa đủ thuyết phục nhưng có thể coi là những giả thiết cần thiết trong việc xác định âm đọc đúng của chữ nôm, một cửa ải không dễ vượt qua.

3. Vũ Văn Thành - Sơ bộ tìm hiểu điểm cố trong văn học Lý Trần. Qua việc tìm hiểu ý nghĩa của điểm cố, tác giả đã phân loại và sắp xép theo thứ tự ABC của 150 điểm cố được sử dụng trong văn học thời Lý Trần, từ đó rút ra những nhận xét về nguồn gốc và phương pháp dùng điểm cố có tính truyền thống trong văn học giai đoạn này. Việc dùng các điểm cố chữ Hán trong sáng tác văn học không chỉ là thủ pháp nghệ thuật àm còn thể hiện trình độ uyên bác của tác giả.

4. Phạm Hồng Quân - Bước đầu tìm hiểu thời kỳ xuất hiện của văn bản “Sài Sơn thi lục”. Tác giả đã giới thiệu khá kỹ diện mạo của hai văn bản in hiện có trong kho sách Viện Hán Nôm và một văn bản do tác giả luận văn mới sưu tầm được. Từ việc tìm hiểu các yếu tố nhân danh, địa danh, quan chức, chữ huý, ngôn ngữ, văn phong v.v… có đối chiếu với một số văn bản thời Lê và Nguyễn, tác giả đã đi đến nhận xét: Văn bản Sài Sơn thi lục xuất hiện vào thời Nguyễn. Phần phụ lục luận văn có phiên âm và dịch nghĩa 50 bài thơ chữ Hán và chữ Nôm.

5. Nguyễn Thị Tuyết Liên - Tìm hiểu phong cánh chính luận của Phan Bội Châu qua tác phẩm “Thiên hồ! Đế hồ!”. Qua việc tìm hiểu phương pháp sử dụng từ ngữ, đặc biệt là cánh dùng từ nhân xưng (như: ngô, ngã, dư, bỉ) bằng nhiều phương thức khác nhau: khi thì dùng đơn (ngô, ngã, dư) lúc lại dùng ghép (ngô nhân, ngã nhân, dư nhân v.v… ) cùng với việc tìm hiểu cánh diễn đạt đại chúng, lập luật chặt chẽ, khúc chiết, tác giả luận văn đã rút ra nhận xét về tính chất độc đáo của văn chính luận Phan Bội Châu. Phần cuối luận văn có bản thống kê tần số xuất hiện của các loại từ nhân xưng và hư từ trong tác phẩm.

Hội đồng giám khảo đã khẳng định sự cố gắng của các sinh viên Hán Nôm khoá này trong bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu khoa học, thể hiện qua kết quả của 5 luận văn tốt nghiệp đã được trình bày, Đồng thời Hội đồng giám khảo cũng rút được những kinh nghiệm bổ ích trong công tác hướng dẫn sinh viên ngành học Hán Nôm tập sự nghiên cứu qua các đề tài luận văn tốt nghiệp.