|
BÀI THƠ VÀ BÀI PHÚ CA NGỢI CẢNH HỒ TÂY CỦA NGUYỄN HY LƯỢNG
VŨ THANH HẰNG
Vào ngày Hạ chí (khoảng 21, hoặc 22 tháng 6 năm âm lịch) năm Tân dậu (1801), vua Bảo Hưng triều Tây Sơn có tổ chức lễ tế trời đất tại Hồ Tây, Hà Nội. Trong dịp này, Nguyễn Huy Lượng được lệnh soạn 1 bài thơ và 1 bài phú bằng chữ Nôm nói về cảnh Tây Hồ.
Bài thơ cho tới nay vẫn ít ai biết tới. Riêng bài phú tuy có được giới thiệu trên một vài cuốn sách, báo (*), những chưa hề kinh qua giám định về mặt văn bản học.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu ngày một đầy đủ, chính xác thơ văn thời Tây Sơn, dưới đây chúng tôi giới thiệu bài thơ và đặc biệt bài phú ca ngợi cảnh Hồ Tây mà thực chất ca ngợi sự nghiệp cũng như công lao to lớn của triều đại Tây Sơn đối với dân với nước.
Hiện có tất cả 2 dị bản về bài thơ và 4 dị bản về bài phú nói trên được chép trong các sách sau đây.
1. Phong cảnh biệt chí, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN), ký hiẹu AB.377, chúng tôi gọi là bản A. Bản này có đủ cả bài thơ lẫn bài phú.
2. Tây Hồ phú, sách của VNCHN, ký hiệu AB.299, chúng tôi gọi là bản B. Bản này có đủ cả bài thơ lẫn bài phú. Ở bài phú, rải rác xó xen những dòng chú thích bằng chữ Hán. Cuối bài phú, có dòng ghi “Kiến Phúc Giáp thân chi niêm, Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đình Băng Mã lão phu bút thảo” (Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đinh Băng Mã lão phu chép lại vào năm Giáp thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc).
3. Tây Hồ cảnh tụng, sách của VNCHN, ký hiệu VNv. 184, chúng tôi gọi là bản C. Bản này chỉ có bài phú, rải rác cũng có những dòng chú thích bằng chữ Hán.
4. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, (TK. XVIII - giữa TK. XIX), chúng tôi gọi là bản D. Bản này cũng chí có bài phú in ở các trang 155 - 162, theo bản Phú Việt Nam cổ và kim.
Trong việc khảo dị, chúng tôi lấy bản A làm bản nền, với lý do đây là bản chép đầy đủ và rõ ràng nhất. Các bản còn lại sẽ được dùng để đối chiếu với bản A. Nơi nào mà Bản A tối nghĩa, chúng tôi thay vào bằng chữ có nghĩa ở bản khác. Các chữ khảo dị được đánh số thứ tự bằng chữ số Ả Rập.
Trong việc chú thích, có chú thích của nguyên bản (chủ yếu là Bản B và Bản C, người chú thích cũng có thể là chính tác giả, mà cũng có thể một ai đó về sau) và chú thích bổ sung của chúng tôi. Chú thích của nguyên bản sẽ được ghi rõ là “Nguyên chú”. Các chú thích được đánh số thứ tự bằng chữ số A Rập đặt giữa hai ngoặc đơn.
Phiên âm:
PHONG CẢNH BIỆT CHI1
Hà Nội, Tây Hồ phong cảnh.
Hạ chí tiết, hành hạ chi lễ. Hoàng triều Bảo Hưng Tân dậu niên, ngự tế Phương Trạch đàn tại Tây Hồ, nhưng mệnh Lê triều Hương cống Hành Lễ bộ phụng nghị quan. Chương lĩnh hầu soạn thi, phú các nhất thể, phụng ngự ban bao thưởng thanh tiền nhị thập quán 2.
(Phong cảnh Hồ Tây ở Hà Nội.
Tiết hạ chí (1), làm lễ tế mùa hè. Năm Tân dậu (1801) triều Bảo Hưng, nhà vua đến tế ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây (2), sai quan Phụng nghị bộ Lễ, đỗ hương cống triều Lê, là Chương lĩnh hầu (3) soan thơ và phú, mỗi thứ một bài, được vua khen thưởng, ban cho 2 quan tiền đồng).
THƠ
Thuận nghịch cảnh 3 (4)
Đầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ,
Trước bởi khôn thiêng khéo vẽ 4 đồ.
Mây lẫn đuốc xanh màu đuốc ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu.
Cây lá tán rợp tầng cao thấp,
Sóng gảy cầm tâu nhịp 5 nhỏ to.
Vầy chốn chốn 6 tiên (5) non nước đủ,
Tây Hồ gía ấy 7 dẽ đâu so.
PHÚ VÂN 8
Xinh 9 thay cảnh Tây Hồ!
Lạ thay cảnh Tây Hồ!
Trôm nhớ thủa đất chia 10 chín cõi (6),
Nghe rằng đầy đá mọc một gò (7).
Trước bạch hổ về 11 ở đất 12 làm hang, Long quân 13 trổ lên vùng đại trạch
(8)
Sau kim ngưu chạy 14 về 15 đây hóa vực 16,
Cao vương doanh tảm 17 mạch hoàng đô (9).
Danh 18 nghe gọi rằng đầm 19 Lãng Bạc (10),
Cảnh nhắm in tình chử, băng 20 hồ (11).
Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ 21 động binh dẫy 22 lên dòng lẻo
lẻo,
Hình lượn lượn uốn vòm câu 23 bạc, tưởng vầng Ngân rơi xuống mảnh thò thò
24 (12)
Dư nghìn mẫu nước trời lẫ sắc,
Trải bốn 25 bên hoa cỏ quyến 26 mùa.
Áng đất gò 27 mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt (13).
Vũng nước vẩn 28 hàm rồng chẳng cạn, người 29 gọi trản 30 trung tô 31
(14),
Tòa thạch tháp nọ nơi tiên để báu (15).
Chốn 32 thổ đôi kia lỗ 33 khách chôn bùa (16).
Đền 34 Mục lang hương khói 35 chẳng rời (17), tay lưỡi phép hãi 36 ghi công bắt
hổ (18).
Quán Trấn Vũ nắng sương 37 nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để dấu 38 chém
39 rùa (19).
Kề bên nọ, quán Thiên Niên (20) lợp xợp 40,
Cánh ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo (21) nhấp nhô.
Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn
(22).
Hàng cổ thụ (23) gió dồn 41 bóng nước 42, trường Phụng Thiên (24) nhận sẵn
thú 43 Nghi Vu (25).
Dấu Bố Cái (26) rêu 44 xây 45 nền 46 miếu 47,
Cảnh Bà Đanh (27) hoa khép 48 cửu chùa.
Trông mơ màng dường Lĩnh 49 Thứu (28) nơi kia, ba 50 tổ thước cuối làng kêu
chích chích (29).
Nghe phảng phất ngỡ động hoa 52 mái nọ, mấy tiéng gà 53 trong trại trúc 54 o o
(30),
Lò Thạch khôi (31) khói tuôn 55 nghi ngút,
Ghềnh Nhật Chiêu (32) sóng dậy 56 ì ồ.
Rập rềnh gót 57 bãi Đuôi nheo 58, thuyêng thương khách 59 chen buồng bươm
bướm.
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa (33), tháp cao tăng 60 hé cửa tò vò.
Chày 61 Yên Thái (34) nện trong sương lãng đãng 62,
Đó 63 (35) Nghi Tàm (36) ngăn ngon nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai 64 phường dệt gấm 65
(37),
Sen vũng nọ nẩy tiền 66 xanh (38) lác đác, lửa đóm ghen 67 năm xã gây lò.
Cầm ve gẩy lầu thư ảnh ói,
Mõ quốc đưa 63 án kệ rì rù.
Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ (39) thẳng kề 69 bên khóm 70
trúc,
Non Phục Tượng (40) buổi 71 vầng trăng hé nửa, tiếng hàm châm ghe cánh đới
72 sông Tô (41).
Người ngoạn cảnh ngẩn ngơ 73 đói chốn 74,
Khách thâu nhàn rả rác 75 từng khu.
Mảnh áo tơi 77 cày lợp xợp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến 78 đàn trâu gã Nịnh
(42),
Con thuyền trúc chở lờ 79 đờ 80 trước gió, khúc Thương 81 Lương đưa gánh củi
chàng Chu (43).
Vầy cuộc ẩn, mọi nghề nào 82 thiếu,
Mượn thú vui, bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn (44) chưa gác cuộc cờ, lòng thơ 83 đã bồi hồi ban lãnh thố
(45).
Làng Võng Thị còn đang 84 tiệp rượu (46), tiếng 85 đâu 86 não ruột buổi tà
ô.
Khách Ngô ngạn 87 (47) chợ Tây ngồi san sát,
Người Hy Hoàng (48) song bắc ngáy pho pho 88.
Bến giặt 89 tơ người quẩy 90 nước còn khuya, gương thiềm (49) đựng trên 91 tay
lấp lánh92.
Vườn hái 93 nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi dạ rơi dưới gót thơm tho,
Ngang thành thị kể 94 yêu hà nào 95 thú.
Dọc 96 phố phường chen 97 phong nguyệt đội 98 pho 99,
Gió hiu hiu dòng Nhị Thuỷ (50) đưa lên, lồng hơi mát tới trùm 100 hoa khóm
liễu 101.
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn (51) rọi xuống, ngậm 102 bóng trăng 103 từ lũ cá,
đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều hơn thắng lãm 104,
Triều đời xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựu quán 105 hoa đặt nẻo 106 quan ngư, kìa đới Hưng Khánh (52).
Đè tay 107 sóng đem bầy 108 dụ tượng, nọ thuở Càn Phu (53),
Trải Trầm trước cũng 109 nhiều phen xe ngựa (54),
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù (55).
Lạm thấy 110 thiên bát vinh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy Phúng
(56).
Trạnh nhớ 111 khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm dường thoả ý giao du
112.
Toả đá nọ 113 ghi câu danh 114 họa,
Dòng nước kia 115 nổi chén tạc thù.
Năm sau từ lầy 116 bụi tiêu tường (57) ba thước nước không cầm mầu 117 hạo
khiết (58).
Buổi ấy lại 118 góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khổ.
Hình cây, đá mưa dầu nắng giãi 119,
Sắc 120 hoa, chim, tuyết 121 vẩn sương mù.
Chốn tri đường 122 làm bợ vẻ 123 thanh quang, xuôi ngược những về 124 đuôi
khoá 125 đẩu (59).
Nơi viện 126 vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang sao mặc bóng 127 tri thù
(60).
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo,
Đèn viễn thôn mấy ngọn lù đù 128.
Kênh đâu đâu từ chảy xuống 129 trung sa, lầu túc điểm (61) gió còn sớm quét
130.
Sen chốn chốn 131 bay về 132 tây vực, bóng 133 du ngư (62) nguyệt hãy hom
134 mò.
Kêu trị, loạn, đau lòng 135 đỗ vũ (63),
Gọi công, tử, mỏi miệng 136 hà mô (64)!
Lũ cầy mây lần tưởng bóng nghê (65), thơ Thất Nguyệt thở than cùng mục thụ
(66):
Khách điếu nguyệt (67) biếng nhìn 137 tăm cá, chữ Tam mô 138 bàn bạc với tiều
phu (68).
Nghe xóm nọ rì rầm 139 ve sẻ 140 (69),
Ngắm vùng 141 kia cao thấp 142 trai cò (70).
Thú 143 cao lưu (71) lệch lạc 144 thế cờ, người nhạo thuỷ (72) cuốn 145 cầm
khi giãi 146 quế (73).
Mầu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu (74). Khách đăng đài gác bút buổi bay ngô
(75),
Chiều phong 147 vật nghe 148dương quạnh quẽ,
Dấu danh lăng 149 ngắm hay mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mông mênh 150 đường xưa 151 đua ngựa.
Trên thành trí đá xây lởm chởm 152, bến cũ gọi đò.
Trước cố cùng treo 153 nửa 154 mảnh gương 155 loan, vầng trăng xế xế
156.
Lầu 157 cổ tự gửi mấy 158 phong da ngựa, ánh 159 cỏ lù lù 160.
Lớp hoán dịch 161 ngày 162 xưa man mác,
Vẻ tiêu 163 lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn trêu 164 người, người trải khi vật đổi sao dời, cảnh
cũng 165 phải 166 chiều người buổi ấy.
Lúc 167 thanh nhàn 168 có người còn đoái 169 cảnh, cảnh vốn 170 sẵn nước
trong trăng sáng 171, người nào 172 nên phụ cảnh nào ru?
Vầng 173 trăng nọ buổi tròn buổi khuyết.
Ngọn nước kia khi đục khi lờ 174,
Tới Mậu thân (76) từ 175 rõ vẻ tường vân, sông núi hiệp 176 nhờ công đãng địch
(77).
Qua Nhâm 177 tuất (78) lại tưới cơn thời vũ, cỏ 178 cây đều gội đức triêm 179
nhu (79).
Vùng 180 trì chiểu nước dần dần sáng 181,
Áng đình đài 182 hoa phơi phới đua.
Chốn bảy cây (80) còn mấy gốc lăng sương 183, chẳng tùng bách cũng khoe hình
thương lão.
Nơi một bến đã đông đoàn hý thuỷ (81), khắp âu diên 184 (82) đều thỏa tính
trầm phù,
Vẻ 185 hoa thạch 186 châu thêu 187 gấm dệt.
Tiếng cầm trùng 188 ngọc cất 189 vàng 190 khua.
Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã nhiều 191 người ca ngợi (83).
Làn sóng phẳng 192 kinh trầm, ngạc lặn, ao,
Hán nào mấy kẻ 193 reo hò (84).
Mặt đất đùn này thóc, ấy 194 rau, rầu lòng Cô trúc (85),
Dòng 195 nước chảy kia ghềnh 196, nọ bến, mặc thích 197 Sào, Do (86).
Cây miếu 198 kia còn đứng đậy uy thần 199, đoàn 200 Mán tới dám khoe lời Tây
hữu (87).
Sen chùa nọ lại bay về 201 cảnh Phật 202, lũ Ngô về từng 203 niệm chữ Nam
vô.
Dấu linh khí 204 rành rành tỏ 205 sáng,
Mạch hậu 206 nhân dằng dặc bao so 207.
Mặt 208 thành xưa đem lại thế kim thang (88) mây che phảng phất 209, cánh hân
(89) cũ sửa ra hình chỉ trụ (90), đá quảy 210 xô bờ.
Nghé vùng danh, áng 211 lợi bấy lâu, cảnh tuy dường tiện 212.
So 213 nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã gì 214 thua,
Trải mấy thu từng tựa bóng thắm 215 xanh may 216 cảnh đã vào trong vũ
trụ.
Vì 217 ngàn dặm hãy khơi 218 với bệ tía 219 song 220 cảnh còn gọi chốn biên
ngung,
Tuỳ thú vị đã giãi bầy ra đó,
Nhưng 221 thanh dung nào 222 trang điểm đến cho 223.
Mừng nay 224:
Trời phù 225 chính thống,
Nước 226 mở hoành mô (91).
Cơ 227 hóa thấm 228 vào trong động tác,
Khi càn khôn vận 229 lại thủa 230 đô du (92).
Chốn 231 hoàng thành đặt vững 232 Long Biên (93), ngôi Bắc cực muôn dân
đều cùng hướng 233.
Đàn 234 Trung 235 trạch xây lên 236 Ngưu chử (94), cảnh Tây Hồ trăm thức lại
thơm tho 237
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm,
Áng hồng 238 vân đã 239 cánh độ tua rua (95).
Ngắm nguyệt xem từ cấu 240 tượng một 241 hào (96), trời kia đành 242 quét
bụi,
Nom 243 tuế luật đến 244 Di 245 tân bảy tấc, đất nọ 246 mới bay tro (97).
Cơ phục văng 247 lạnh thôi lại 248 ấm.
Lê doanh hư 249 bớt lại thời 250 bù,
Dưới ngũ dương 251 vừa sinh khí nhất âm, muôn 252 phần đã nhờ ơn khôn
tạo.
Trên 253 cửu bệ 254 lại tầy ngôi thất chính (98), bốn màu đều thưo hướng đẩu
khu,
Hương 255 khâm kính xông với 256 hạo đăng (99).
Rượu chay 257 kiềm thấm cõi linh u (100),
Rỡ 258 năm mây bầy ngọc thạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca ông Thang, Vũ.
Vang chín 259 bệ trỗi 260 tiêu thiều mấy trập 261, điểu thú đều 262 múa 263
đức Đường Ngu,
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức,
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong (101) nghe 264 phảng phất cung đàn, làn 265 thâm 266 thủy
muốn vin lên 267 ngũ bái.
Dưới tuệ 268 nhật (102) thấy 269 vang từng tiếng chức, hình viễn sơn dường 270
rạp xuống tam hô.
Lệ nhạc ấy nghìn năm 271 ít thấy,
Phong Quang 272 này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, giọt 273 khánh tửu 274 tưới 275
hàng uyên lộ.
Xa gần 276 cùng bờ cõi 277 non sông một mối, tấm kiềm 278 thành (103) dung
279 hiệp 280 lũ nghiêu sô (104).
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo,
Khi 281 tường quang tuôn trước ngọn gió huyền lô.
Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên răn đàn 282 hồng nhạn (105).
Ca cuối vũng kẻ 283 ngâm 284 câu tại chử, ghẹo 285 lũ ê phề (106).
Lời 286 ngợi tưởng nằm 287 trong Chu Nhã (107).
Điệu ngâm nga 288 đứng giữa Nghiêu cù (108).
Ngẫm đây 289 đà vui thú tạc canh (109), đành chốn chốn cũng ca đồng múa lão
290 (110).
Xem đó 291 đã an 292 loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt thử 293, êm hồ
(111).
Mừng 294 tấu 295 lệnh tiết đã trình 296 điềm thái lãng (112).
Xin thánh nhân càng cẩn thuở 297 dự du (113).
Ngọn nguồn tuôn lai láng 298 mái kia ghềnh, đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh, Vị
(114).
Chòm cỏ mọc lơ thơ 299 bên nọ miếu, trống thôi hoa chia rẽ 300 huân 301 do
(115).
Nhìn 302 dã 303 sắc, xét dân phong cần nọa (116).
Ngắm thủy 304 quang soi vật tính tham ô (117).
Chốn chiều đài xem cá lạc chim 305 bay, thấu sĩ 306 lộ nơi thông nơi trệ.
Miền thôn ổ lắng muông 307 kêu gà gáy, lượng dân gian đâu hao, đâu 308
trù.
Tình u uẩn 309 hiệp 310 bày 311 trên thị thính.
Hiệu trị bình đành kíp 312 dưới tề tu.
Nội 313 mạch kia dân cậy 314 lấy làm giờ, hang chuột ẩn há ngừa 315 nơi cỏ
khuất.
Bờ liễu nọ kẻ xây đã 316 vững đất, lỗ kiến đùn tua cẩn 317 buổi nguồn xô.
Đêm phong cảnh 318 một hồ tuy tiều 319.
Mở thái bình ra bốn bể mới to.
Tối nay 320 này:
Hồ 321 mình thiểu luậ,
Đại tính 322 sơ trần 323.
Dư một kỷ yên bề hu lịch (118).
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang 324 du (119).
Trước phương đàn dám 325 sánh hàng uyển 326 góp 327 hồ cảnh tiến một
chương quốc 328 ngữ.
Bên ngự 329 đạo ngửa trông 330 vừng nhật 331 tiếp 332 sơ thanh 333 mừng
muôn kỷ dao đồ (120).
Khảo dị:
1. Tây Hồ phú (B), Tây Hồ cảnh tụng (C), không có (D) - 2. Tiết Hạ chí, làm lễ tế mùa hạ, nhà vua đến tế ở đàn Phương Trạch tại Hồ Tây vào năm Tân dậu triều Bản Hưng, sai quan Phụng nghị bộ lễ, đỗ Hương cống triều Lê là Chương lĩnh hầu soạn bài phú (B), không có (C, D) - 3. Nhà vua khen thưởng cho bài thơ - đọc xuôi, ngược (B), không có (C, D) - 4. họa (B) - 5. trập (B) - 6. quế quế (A) - 7. dẫy (B) - 8. Tây Hồ phú (B), Tây Hồ cảnh tụng (C), Tụng Tây Hồ phú (D) - 9. Yên (C), Lạ (D) - 10. vừa (C) - 11.vào (D) - 12. đó (D) - 13. vương (D) - 14. dò (D) - 15. vào (B, C, D) - 16.dấu (C) - 17. doanh (B, C), đào chặn (D) - 18. Tiếng (D) - 19.Dâm đàm (B, C, D) - 20. thuỷ (C) - 21. nghĩ (C) - 22. hãy (C), nổi (D) - 23. trăng (D) - 24. nhò nhò (D) - 25. tứ (C) - 26. nhiều (D) - 27. phơi (D) - 28. hút (D) - 29. cảnh (C) - 30. thành (C) - 31. hồ (C) - 32. đống (C) - 33.chỗ (D) - 34. thờ (A), chùa (D) - 35. lửa (C, D) - 36. một (C), còn (D) - 37. mưa (D) - 38. tích (D) - 39. giam (B, C, D) - 40.lớp lớp (D) - 41. rung (D) - 42. lục (D) - 43. không có (C) - 44. sau chữ “rêu” còn có chữ “in” (C, D) - 45. không có (D) - 46. nặng (B) - 47. phủ (D) - 48. sau chữ “khép” còn có chữ “đóng” (C) - 49. đỉnh (D) - 50. vài (B, D) - 51. hoa (A, B, C) - 52. tiên (C), đào (D) - 53. chim (C) - 54. gáy (A, B, D) - 55. bật (C) - 56. giật (D) - 57. cuối (D) - 58. hàm (C) - 59. sau chữ “khách” còn có chữ “hãy” (C, D) - 60. sau chữ “tăng” còn có chữ “còn” (C, D) - 61. Chùa (C) - 62. chểnh choảng (D) - 63. lưới (C, D) - 64. đôi (C) - 65. cửi (A) - 66. tàn (B), chồi (C) - 67. xôn (B, C) - 68. khua (D) - 69. thấy mô (C) - 70. chòm (C), mái (D) - 71. lúc (D) - 72. mái (C) - 73. dải (D) - 73. thẩn thơ (D) - 74. đoạn (D) - 75. lai láng (D) - 76. không có cả câu này (C) - 77. thu lu (C) - 78. tiếng (C) - 79. giãi dàn (C), lân la (D) - 80. không có (D) - 81. thanh (C) - 82. chẳng (D) - 83. sau chữ “thơ” còn có chữ “nọ” (B) - 84. đông (C, D) - 85. sau chữ “tiếng” còn có chữ “cầm” (B, D) - 86. đà (C, D), sau chữ “đâu” còn có chữ “vừa” (B) - 87. Sỏ (D) - 88. phi pho (D) - 89. giặc (D) - 90. vốc (D) - 91. trong (D) - 92. lóng láng (D) - 93. mai (A, B, C) - 94. đưa (C) - 95. một (B, C) - 96. sau chữ “dọc” còn có chữ “làng” (B) - 97. túi (B) - 98. hai (C, D) - 99. kho (D) - 100. chòm (B, C) - 101. trúc (C, D) - 102. đớp (D) - 103. trong (B,D) - 104. khái (C) - 105. bóng (C, D) -106. quán (C, D) - 107. mặt (C, D) - 108. đường (C, D) - 109. đã (D) - 110. Trộm nhớ (D) - 111. Trạnh tưởng (C) - 112. phu (D) - 113. sau chữ “nọ” còn có chữ “hãy” (C) - 114. mặc (C) - 115. sau chữ “kia” còn có chữ “còn” (B), còn có chữ “dường” (C) - 116. nổi (D) - 117. cơn (C) - 118. cũng (B, C, D) - 119. dầu gió giãi (B), dầu gió giạt (C), trôi gió giạt (D) - 120. Mấy (C) - 121. ráng (C), mây (D) - 122. đàm (D) - 123. bạn với (C) - 124. vì (C), vẫy (D) - 125. giải (C) - 126. phạm (D) - 127. trao mắc võng (B) - 128. mù (D) - 129. đều chạy xuống (D) - 130. rằng (C), quạt (D) - 131. sau chữ “”chốn còn có chữ “đã” (B, D), còn có chữ “lại” (C) - 132. vào (C) - 133. vũng (C, D) - 134. khuya (C), tối (D) - 135. sau chữ “lòng” còn có chữ “con” (D) - 136. sau chữ “miệng” còn có chữ “cái” (D) - 137. nhận (C), tìm (D) - 138. quyền (A, B, C) - 139. rù rì (C, D) - 140. nhặng (D) - 141. duyềnh (C), ghềnh (D) - 142. thấp thoáng (C, D) - 143. giục (C) - 144. chếch mác (D) - 145. ôm (C, D) - 146. rọi (C), rạng (D) - 147. thanh (C) - 148. vị xem (D) - 149. đồ thư (D) - 150. mênh mang (C), mênh mông (D) - 151. ao (C) - 152. chớm chở (B) hởm chởm (D) - 153. không có (C) - 154. còn (C) - 155. bóng (C) - 156. he hé (D) - 157. sau (B, D) - 158. không có (C) - 159 . đám (D) - 160. lù rù (D) - 161. che sương (B), canh định (C, D) - 162. người (C, D) - 163. đơn (C) - 164. phô (B, C, D) 165. vì (C), không có (D) - 166. cũng (C) - 167. thời (B, C, D) - 168. lẵng (B, D) lãnh (C) - 169. mến (C, D) - 170. có (D) - 171. bạc (C) - 172. không có (D) - 173. Ngắm (C) - 174. nơi tắc nơi lờ (B), nơi hoắn nơi nhô (C, D) - 175. Không có (C) - 176. cùng (C), khắc (D) - 177. Canh (B, C, D) - 178. sau chữ “cỏ” còn có chữ “khô” (C) - 179. tiệm (C) - 180. Vũng (D) - 181. lặng (D) - 182. chốn thơ đình (C), nơi đình đài (D) - 183. vân (D) - 184. tới uyên ương (C, D) - 185. mùi (C) - 186. cỏ (C) - 187. ken (B), ghen (C) - 188. trùng cầm (B) - 189. gõ (C, D) - 190. trấn (B) - 191. lắm (D) - 192. sóng nổi (C), nước phẳng (D) - 193. trẻ (C, D) - 194. này (D) - 195. Mặt (D) - 196. nọ dòng (D) - 197. chí (C, D) - 198. quán (C, D) - 199. thần uy (D) - 200. loài (C) - 201. vào (C) - 202. Phật cảnh (D) - 203. còn (C) - 204. dị (C, D) - 205. hãy (C), vẫn (D) - 206. nguyên (C) - 207. thẳng đồ (C), bao rò (D) - 208. Mặc (D) - 209. đá xây phảng phất (B), đất xây phẳng phắn (C), đất xây phẳng lặng (D) - 210. xếp (D) - 211. nẻo (D) - 212. rằng kém (C), rằng nhỏ (D) - 213. Song (D) - 214. chi (C, D) - 215. mảnh (C), tàn (D) - 216. thâu (C, D) - 217. Và (B), song (C, D) - 218. hãy xa (C), đã xa (D) - 219. tử thiện (A) - 220. thiệt (B, C) - 221. Song (D) - 222. còn (D) - 223. thả mùi (D), lại cho (D) - 224. Nay mừng (C, D) - 225. chi (C) - 226. đất (C, D) - 227. May (C), quyền (D), sau chữ này còn có chữ “tạo” (B, C) - 228. tóm (D) - 229. đưa (C) - 230. trước (C, D) - 231. nhưỡng (C), nền (D) - 232. vũng đặt (C) - 233. phương (C, D) - 234. nền (D) - 235. đức (C), bắc (D) - 236. kê (D) - 237. phương phu (B, C, D) - 238. tướng (D) - 239. đà (C, D) - 240. Cấn (D) - 241. bốn (D) - 242. ống âm dương đành (C), ống âm dương đà (D) - 243. Xem (D) - 244. vả (C) - 245. nhị (A, B, C) - 246. lò thiên địa (C, D) - 247. vãng phục (B, C, D) - 248. thì (C) - 249. hư doanh (C) - 250. đã lại (B, C, D) - 251. lục dương (C), lục âm (D) - 252. dương, vạn (D) - 253. lê (D) - 254. đạo (C, D), sau chữ này còn có chữ “đã” (B) - 255. gương (A) - 256. miền (C, D) - 257. cung (D) - 258. Ngời (C), Áng (D) - 259. cửa (B) - 260. nổi (D) - 261. khúc (D) - 262. còn (C) - 263. vù (D) - 264. không có (D) - 265. loài (S, B,C) - 266. lương (C) - 267. cuộn lên (C), vái lên (D) - 268. ngọ (B, C, D) - 269 đã (C), không có (D) - 270. đều (C), mong (D) - 271. thu (D) - 272. cảnh (C, D) - 273. sau chữ “rọt” còn có chữ “rượu” (C) - 274. vũ lộ (D) - 275. sau chữ này còn có chữ “đôi” (B, C, D) - 276. Gần xa (D) - 277. cõi bờ (D) - 278. hoa (C), đan (D) - 279. không có (C) - 280. khắp (D) - 281. Áng (D) - 282. loài (C, D) - 283.vụng đem (C) - 284. không có (C) - 285. nhủ (C, D) - 286. sau chữ này còn có chữ “ca” (C, D) - 287. ngồi (D) - 288. sau chữ này còn có chữ “nghe” (C, D) - 289. nay (D) - 290. vũ lão (C), vũ tẩu (D) - 291. Xem nọ (C), Nhớ trước (D) - 292. thoả (D) - 293. quỷ (D) - 294. tưởng (C), nay (D) - 295. không có (B, C , D) - 296. tin (D) - 297. cẳn chữ (C), nghin chữ (D) - 298. ràn rụa (D) - 299. tần vần (B, C, D) - 300. rẽ giạy (B), rẽ thẻ (C), rẽ khóm (D) - 301. lan (A, B, C) - 302. nhận (C, D) - 303. giá (D) - 304. phong (D) - 305. lội diều (B), lội hạc (C), nhảy chim (B) - 306. hóa (C) - 307. chim (D) - 308. đâu chi đâu (C), nơi chi nơi (D) - 309. sau chữ này còn có chữ “đã” (C) - 310. khắp (D) - 311. không có (C) - 312. sắp (D) - 313. Nơi (D) - 314. tựa (D) - 315. chừa (D) - 316. đà (C, D) - 317. càng cẩn (C), khôn chuyển (D) - 318. sau chữ này còn có chữ “lại” (B, C, D) - 319. hồ tuy nhỏ (B, C), bầu chi nhỏ (D) - 320. không có (B, C, D) - 321. Hư (C) - 322. trí (D) - 323. thô (C, D) - 324. thói tầm (C) - 325. đứng (D) - 326. loan (D) - 327. Trông (D) - 328. ngẫu (C), ly (D) - 329. Vệ (C) - 330. trong (B) - 331. nguyệt (C) - 322. nổi (C, D) - 33. thanh sơn (D).
CHÚ THÍCH
(*) Đinh Minh Phấn: Tụng Tây Hồ phú, Nam phong số 113, 1927.
Vũ Khắc Tiệp: Phú Nôm, Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1931.
Phong Châu, Nguyễn Văn Phú: Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb. Văn hóa, H. 1962.
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (TK. XVIII - TK XIX), Nxb. Văn hóa, H. 1963.
(1) Hạ chí: tên một trong số 24 tiết khí của năm, thường rơi vào ngày 21 hoặc 22 tháng 6 âm lịch. Ở ngày này, mặt trời đi qua điểm hạ chí, phía bắc bán cầu ngày trở lên dài nhất, đêm trở lên ngắn nhất, còn ở nam bán cầu thì ngược lại.
(2) Hồ Tây: nay thuộc huyện Từ Liêm, nằm trên vùng ranh giữa huyện Từ Liêm và quận Ba Đình, Hà Nội.
(3) Chương Lĩnh hầu: tức Nguyễn Huy Lượng (có nơi còn chép là Phạm Hữu Lượng), nguyên quán xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, đỗ Hương cống đời Lê dưới triều Tây Sơn giữ chức Hưu thị Lang Bộ Hộ, quen gọi là Hữu Hộ Lượng, tước Chương Lĩnh hầu.
(4) Bìa thơ đọc xuôi từ đầu đến cuối, hoặc dọc ngược từ cuối đến đầu đều được cả, vẫn đảm bảo niên luật và ý nghĩa.
(5) Vầy chốn chốn tiên: ý nói gồm đủ các cảnh đẹp mắt như cõi tiên vậy.
(6) Đất chia chín cõi: Chức phương thị sớ trong sách Chu Lễ chép: “Từ đời Thần Nông trở lên, đất có chín cõi lớn” (Tự Thần Nông dĩ thượng hữu đại cửu chân). Đây ý nói từ lúc khởi thuỷ.
(7) Đá mọc một gò: Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Xưa ở tây thành Thăng Long có một núi đá nhỏ, nằm ghếch đầu lên sông Lô ở phía đông”.
(8) Nguyên chú: “Theo Bạch hồ truyện, Hồ Tây xưa có núi đá nhỏ, trong hang có con Bạch Hồ tinh. Sau Long Quân đem loài thuỷ tộc lên vây bắt Bạch Hồ tinh, nơi đây liền hóa thành một cái chằm lớn, tức Hồ Tây ngày nay”.
Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Dưới chân núi đá phía tây thành Thăng Long có một cái hang sâu, trong có con cáo chín đuôi sống hơn nghìn năm, thường đi khắp dân gian tác yêu tác quái. Long Quân bèn ra lệnh cho sáu đạo quân thuỷ phủ dâng nước lên phá hang Bắt cáo mà ăn. Núi đá từ đó sụp lở thành cũng nước sâu, gọi là đầm xác cáo”.
(9) Nguyên chú: “Theo Kim ngưu ký, Cao Biền đuổi con trâu vàng tới Hồ Tây thì trâu mất tích, biết đây là nơi nhiều vượng khí, bèn lập kinh đô và khai mở Hồ Tây để tẩm mạch Bắc quốc”.
Truyện Hồ tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép: “Lập miếu Kim Ngưu (trâu vàng) tại Hồ Tây để trấn yểm yêu quái”.
(10) Nguyên chú: “Tây Hồ xưa tên là Lãng Bạc, sau đổi thành Dâm Đàm, triều nhà Trịnh đổi làm Đoài Hồ, Diêm Hồ, Liêm Đàm”.
(11) Tinh chử, băng hồ: bến sao, bình băng. Ý nói Hồ Tây cảnh đẹp, ban đêm như bến sau, ban ngày như bình nước trong vắt.
(12) Vầng ngân rơi xuống mảnh thò thò: dải Ngân Hà rơi xuống hồ, từng mảnh thấp thoáng.
(13) Nguyên chú: “Xưa giữa hồ có gò đất, khi thì gọi là “mỏ chim phượng” (phượng thuỷ), khi thì gọi là “trăng lên đài” (đài thượng nguyệt)”.
(14) Nguyên chú: “Trong hồ có một nơi tục gọi là Hàm Rồng, bên dưới có huyệt quý. Cao Biền cảo chép: “khi nước lên thì huyệt bị che lấp, khi nước xuống thì huyệt hiện ra, giống như sữa trong chén (trản trung tô) vậy”. Huyệt này nổi tiếng khắp kinh đô”.
(15) Nguyên chú: “Trên hồ có một toà thạch tháp (giường đá) tương truyền là nơi tiên để báu vật”.
(16) Nguyên chú: “Ở phường Quảng Bá ven hồ có một gò đất (thổ đôi), tương truyền là nơi Cao Vương (Cao Biền) chôn bùa để yểm mạch Kim Ngưu”.
(17) Đền Mục Lang: đền thờ Mục Thuận.
(18) Nguyên chú: “Lý Nhân Tông dạo chơi Hồ Tây, Lê Văn Trịnh đi theo hộ giá, dùng yêu thuật hóa thành hổ, núp dưới mạn thuyền, may nhờ người thuyền chài là Mục công phát hiện được, dùng phép thuật “hóa võng” quăng lưới bắt được Thịnh. Vua nhân đó ban thưởng Hồ Tây cho Mục công làm thực ấp, nay ở hai phường Võng Thị và Trích Sài còn có đền thờ, hương lửa quanh năm”.
(19) Nguyên chú: “Tục truyền Trấn Vũ Đế Quân bị đầy xuống cõi đời, đã trút bỏ lốt trần tục vào trong hồ, sau hóa thành rùa, rắn gây tác hai cho dân. Một hôm Đế Quân hiển thánh, lấy kiếm long tuyền mà tấn yểm. Nay trước tượng thần bằng đồng, chiếc kiếm thàn vẫn còn đó”.
(20) Nguyên chú: “Trên bờ hồ, thuộc địa phận phường Trích Sái, có quán Thiên Niên”.
(21) Nguyên chú: “Hồ về phía đông tiếp giáp với bãi Vạn Bảo ở giữa sông Nhị Hà”.
(22) Nguyên chú: “Hai chùa Nghi Tàm và Trấn Bắc bốn mặt đều là hồ” Tĩnh phạm là cảnh Phật yên tĩnh.
(23) Nguyên chú: “Điện Nhật Chiêu có bảy cây hoa gạo”.
(24) Nguyên chú: “Xưa ở Phụng Thiên, thi hương tổ chức tại địa phận phường Quảng Bá”.
(25) Nghị, Vu: sách Luận ngữ có câu: “Tắm mát ở sông Nghi, hóng mát ở nền Vũ Vu” (Dục hồ Nghi, Phong hồ Vũ Vu).
(26) Bố cái: tức Bố cái đại vương chỉ Phùng Hưng.
(27) Bà Đanh: tên một công chúa triều Lý, người dựng ngôi chùa ở làng Thụy Chương, nhân dân gọi là chùa Bà Đanh.
(28) Lĩnh Thức: tức Tức Lĩnh hay Thức Sơn, Linh Thứu, một ngọn núi đẹp có hình con chim ó (Thứu) ở miền trung Ấn Độ, nơi Phật Như Lai giảng kinh Pháp Hoa, đời sau thường dùng từ này để chỉ miền phong cảnh.
(29 Nguyên chú: “Phía bắc hồ là phường Yên Thái có chùa, cây trong chùa có những tổ chim thước.
(30) Nguyên chú: “Phía nam hồ là vườn Bố Cầm cũ, thường gọi là vườn trúc”.
(31) Thạch Khối: chỉ làng Thạch Khối ở cạnh sông Nhị Hà, chuyên làm nghề nung vôi.
(32) Nhật Chiêu: nay gọi là Nhật Tân.
(33) Hồ Cổ Ngựa: ở phía nam hồ Trúc Bạch ngày nay, Trên hồ có chùa Linh Sơn.
(34) Chày Yên Thái: làng Yên Thái ở phía bắc Hồ Tây, chuyên sản xuất giấy. Nguyên chú: “Phường Yên Thái giáp sông Tô Lịch, tiếng chày giã giấy thường sáng sáng vang lên”.
(35) Đó: dụng cụ dùng để đơm bắt cá.
(36) Nghi Tàm: tên làng, nằm cạnh Hồ Tây, chuyên nghề đánh cá và nuôi tằm. Nguyên chú: “Ao Hàm Rồng tại địa phận Nghi Tàm”.
(37) Nguyên chú: “Các cô gái ở hai phường Trích Sái và Bán Ân chuyên nghề dệt lụa”.
(38) Chỉ lá sen.
(39) Nguyên chú: “Ở hậu đình (trạm quan sát thời tiết) Thụy Anh có bố trí việc theo dõi giờ giấc bằng đồng hồ”.
(40) Nguyên chú: “Phục Tượng ở phía nam hồ Liễu Giai”.
(41) Tiếng hàm châm nghe cánh đới sông Tô: tiếng đá vỗ vải nghe từ dòng Tô Lịch vọng tới.
(42) Ca thanh thảo quyết đàn trâu gã Nịnh: “Ca thanh thảo” lấy từ ý nghĩ câu hát cổ Trung Quốc “thiên lý thảo hà thanh thanh” (cỏ xanh rờn nghìn dặm). “Gã Nịnh” tức Nịnh Thích đời Chiếu Quốc, nguyên làm nghề chăn trâu, sau làm quan nước Tề.
(43) Khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu: “Khúc Thương Lương” chỉ câu hát của người thuyền chài nước Sỏ, nguyên văn là “Thương Lương chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương Lương chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương Lương trong thì có thể giặt dải mũ của ta, nước sông Thương Lương đục thì có thể rửa chân của ta) (Mạnh Tử, ly lâu). “Chàng Chu” chỉ Chu Mãi Thần, người đời Hán, sống về nghề kiếm củi, sau làm quan.
(44) Khán Sơn: nay còn di tích tại vườn Bách thảo Hà Nội.
(45) Lãnh thố: thỏ lạnh, chỉ mặt trăng. Tương truyền trong trăng có con thỏ giã thuốc tiên.
(46) Làng Võng Thị còn đang tiệp rượu: làng Võng Thị ở phía bắc Hồ Tây, có truyền thống nấu rượu.
(47) Khách Ngô ngạn: có lẽ chỉ khách trú, người Việt gốc Hoa.
(48) Người Huy Hoàng: người sống vào thời Phục Hy, tương truyền là rất hạnh phúc, không phải lo nghĩ gì cả.
(49) Gương thiền: chỉ mặt trăng. Tương truyền trên trằng có con thiền thừ là Hằng Nga hóa thân, sau khi uống thuốc tiên.
(50) Nhị Thủy: chỉ sông Nhị, tức sông Hồng nằm về phía đông bắc Hà Nội ngày nay.
(51) Tam Sơn: núi này nguyên ở gần Cửa Bắc Hà Nội, nay không còn dấu tích.
(52) Nguyên chú: “Hưng Khách là niên hiệu của Lý Thái Tổ. Vua Nhân Tông có lần hành chung xem cá (quan ngự) tại giữa hồ”.
Người chú thích có chỗ lầm: Hưng Khánh (1407 - 1409) là niên hiệu của Trần Giả Định, chứ không phải là của Lý Thái Tông (1027 - 1054).
(53) Nguyên chú: “Càn Phù (1039 - 1041) là niên hiệu của Lý Thái Tông. Thái Tông bày chuồng ở giữa hồ đẻ dụ bắt vui rừng”.
(54) Việt Nam: “Trần Thái Tông chơi Hồ Tây có dựng hành cung để xem cá và xem cảnh hồ”.
(55) Nguyên chú: “Thơ của Tiểu Thánh Vương làm khi dạo chơi Hồ Tây, toàn là mớ câu bỡn cợt”.
(56) Nguyên chú: “Nguyễn Mộng Tiến dạo chơi trên hồ, có làm 8 bài thơ vịnh, ngụ ý cùng vui cái vui của dân” (dữ dân đồng lạc).
(57) Lầy bụi tiêu tường: bụi bặm ngay trong nhà, đây chỉ sự lục đục, mâu thuẫn giữa Đặng Thị Huệ là vợ yêu của Trịnh Sâm, với Trịnh Khải là con lớn của Trịnh Sâm.
(58) Hạo khiết: trong sạch.
(59) Khoa đầu: con nòng nọc.
(60) Tri phù: con nhện.
(61) Túc điều: chim ngủ.
(62) Du ngư: cá bơi.
(63) Đỗ vũ: con cuốc, Thiên thục chí ở sách Hoa DƯơng quốc chí chép rằng vua Vọng Đế nước Thục nhường ngôi đi sống ẩn, sau khi chết hóa thành con đỗ vũ.
(64) Hà Mộ: con ếch ương Tấn Huệ đế nổi tiếng ngu đần, mọt hôm nghe: Ễnh ương kêu như vậy là vì việc công hay việc tư.
(65) Lũ cầy mây lầm tưởng bóng nghệ: những người cây dưới bóng cây mong tưởng đến cầu vồng, ý nói nắng lâu mong mưa, trong loạn lạc ao ước cảnh thái bình.
(66) Thơ thất nguyệt thở than cùng mục thụ: “Thất nguyệt” là tên một bài thơ trong phần Mâu phong của Kinh Thi, người xưa cho đây là thơ của Chu Công nói về cơ nghiệp nhà Chu khó nhọc. “Mục thụ” là kẻ chăn trâu. Cả câu ý nói tầng lớp dưới của xã hội cũng lo lắng về cơ đồ của dân tộc.
(67) Khách điếu nguyệt: người câu cá dưới trăng.
(68) Chữ tam mô bàn bạc với tiều phu: “Tam mô” là 3 thiên sách trong Kim Thư, gồm: Vũ mô, Cao Dao mô, và Ích tắc mô, đều nói về việc trị nước. Cả câu ý nói đem việc chính trị bàn với người kiếm củi.
(69) Ve sẻ: “ve” là con ve ve, đây có nghĩa là lời ong tiếng ve, “sẻ” là con chim sẻ, xưa thường dùng với ý soi mói, bới móc… Ý nói dư luận xì xào.
(70) Trai cò: nhắc chuyện con trai và con cò giằng co nhau, không bên nào chịu bên nào (bạng duật tương trì)
(71) Thú cao lưu: thú cao sơn, lưu thuỷ, đây chỉ việc thưởng thức âm nhạc.
(72) Người nhạo thủy: người thích cái vẻ uyển chuyển, năng động của nước, đây chỉ đám thức giả.
(73) Giải quế: chơi dưới bóng trăng. Người xưa cho rằng trong trăng có cây quế, và thường gọi mặt trăng là cây quế.
(74) Lý Bạch từng nói mùa xuân đem cảnh đẹp (yên cảnh) để mời ta (Dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh).
(75) Văn cổ có câu “một lá ngô đồng bay giữa nhân gian” (nhân gian nhất diệp ngô đông phiêu), ý nói cảnh thu rất nên thơ.
(76) Mậu Thân: tức 1788, năm Nguyên Huệ lên làm vua.
(77) Đăng định: tẩy trừ, đây có nghĩa là dẹp loạn.
(78) Nhâm tuất: tức năm 1802.
(79) Triêm nhu: đượm thấm nước mưa, đây có nghĩa là ơn vua.
(80) Bảy cây: tức bảy cây hoa gạo (xem chú thích 23).
(81) Hí thuỷ: bơi đùa trên nước.
(82) Âu diêm: đây chỉ là chim hoặc gia cầm biết bơi lội.
(83) Đời Chu Vũ Vương: trâu ngựa đều thả rong trên đồng nội (nội Chu) không phải dùng vào việc chiến tranh nữa, đây chỉ cảnh thái bình.
(84) Trẻ con nghịch áo giáp và vũ khí trong ao nhà Hán, ý nói giặc dã đã hết (điểm lất ở Hán sử, trích lời Cung Toại).
(85) Cô trúc: tổ quốc của Bá Di và Thúc Tề.
(86) Sào do: tức Sào Phủ và Hứa Do, hai nhà sống ẩn thời vua Nghiêu, theo truyền thuyết Trung Quốc.
(87) Hán sứ có câu: “Tây vực hữu thần, kỳ danh viết Phật” (cõi Tây có vị thần tên là Phật).
(88) Kim thang: ý nói thành vàng ao nóng (kim thành thang trì), thành trì kiên cố.
(89) Cánh hàm: chỗ hàn khẩu sau khi đất bị lở.
(90) Chi trụ: cột đá chống đỡ.
(91) Hoành mô: quy mô to lớn.
(92) Đô du: khen là phải, tiếng dùng thời Nghiêu, Thuấn.
(93) Long Biên: tên đất Hà Nội thời cổ.
(94) Ngưu chử: bến trâu, chỉ Hồ Tây (xem chú thích 9).
(95) Cánh độ tua rua: quá độ sao tua rua mọc, tức ngoài tháng 4.
(96) Cấu tượng một hào: khí âm (một hào) của quẻ Cấu trong Kinh Dịch ý nói thời tiết đã chuyển sang tháng 5.
(97) Ở Trung Quốc vào thời cổ, người ta làm ống luật bằng đồng hoặc bằng trúc để đo khí hậu từng tháng một trong năm. “Di tân” là ống luật dài bảy tấc (đơn vị do lường cũ), dùng để đo khí hậu tháng 5. Ống luật cắm xuống đất mà thấy bay tro, tức đúng vào ngày Hạ chỉ.
(98) Trất chính: làm cho mặt trăng, mặt trời và các vì sao kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ (thất tinh) lưu chuyển đều đặn (Kinh thư: dĩ tề thất chính).
(99) Ý nói tế trời (hạo đãng).
(100) Ý nói tế các thần linh (linh u).
(101) Huân phong: gió ấm.
(102) Tuệ nhật: mặt trời sánh rỡ.
(103) Kiều hành: lòng thực thà thành kính.
(104) Lũ nghiêu sô: hạng người kiếm củi hái rau, ý nói người dân bình thường.
(105) Thơ Hồng nhạn trong Kinh Thi có câu. “Dân chúng phiêu bạt hay trở về đắp tường, làm nhà (vu viên), giống như chim hồng chim nhạn bay đi, nay lại về chốn cũ”.
(106) Thơ Phù ê trong phần Đại Nhã của Kinh Thi nói về người quân tử thời bình có thể sống một cánh đầy đủ, làm cho thần linh, tông tổ cũng được yên vui.
(107) Chu Nhã: gồm Đại Nhã và Tiểu Nhã trong Kinh Thi, phần nhiều là thơ ca ngợi cảnh thái bình đời nhà Chu.
(108) Nghiêu cù: đường đi thời vua Nghiêu tương truyền trên đó có nhiều người già vừa đi vừa nghêu ngao hát.
(109) Tạc canh: ý từ câu “đào giếng mà uống, cầy ruộng mà ăn” (tạc tỉnh nhi ẩn, canh điều nhi thực), ca ngợi cuộc sống tự cung tự cấp không phải phụ thuộc vào ai.
(110) Ca đồng múa lão: trẻ em thì hát, người già thì múa.
(111) Bặt thử, êm hồ: chuột (thử) hết quấy phá, cáo (hồ) cũng nằm yên không hoạt động nữa.
(112) Thái lãng: yên ổn, sáng sủa.
(113) Dự du: vui chơi.
(114) Đèn chiếu thủy chia dòng Kinh, Vị: “Đèn chiếu thủy”: đời Tấn, Ôn Kiện đốt sừng tê soi thấy các loài ở dưới nước. “Kinh, Vị”: tên hai con sông ở Trung Quốc, một trong (Vị), một đục (Kinh).
(115) Trống thôi hoa chia rẽ huân do: “Trống thôi hoa” vua Đường Minh Hoàng sai đánh một hồi trống thúc giục các hoa đều nở. “Huấn, do” cở thơm (huấn) và cỏ hôi (do).
(116) Cần, noạ: người chăm chỉ và kẻ lười biếng.
(117) Thanh, ô: trong sạch và nhơ bẩn.
(118) Dư một kỷ yên bề hu lịch: hơm 10 năm (một kỷ) yên bề vụng hên như cây hu, cây lịch.
(119) Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du: ngoài 50 tuổi (năm tuần) thẹn với tuổi già như cây dâu, cây du.
(120) Dao cổ: cơ nghiệp quý như ngọc dao vậy.
(Xem phụ trương tư liệu về Quang Trung số 4)
|