TB

GÓP PHẦN XÁC ĐỊNH TÁC GIẢ MỘT SỐ BÀI THƠ CHƯA RÕ LÀ CỦA NGUYỄN TRÃI HAY CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

LÃ NHÂM THÌN

Xác định những bài thơ chưa rõ của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chất là công việc của khoa văn bản học. Có nhiều cách giám định văn bản: hoặc dựa vào chữ viết húy, tự dạng văn bản hoặc dựa vào lối viết dài… và gần đây có người dùng phương pháp loại hình thể loại(1) hoặc trên cơ sở tần số xuất hiện những tín hiệu từ ngữ, những kết cấu cú pháp(2)… mà giám định văn bản. Thi pháp học cũng có khả năng mở ra hướng xác định văn bản. Để tiến tới giải quyết vấn đề 30 bài thơ Nôm Đường luật hiện chưa rõ tác giả là ai, Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp thi pháp học.

Thi pháp học tác phẩm đòi hỏi phải đặc biệt lưu tâm tới tính hệ thống, tính chỉnh thể, tính quy luật của các yếu tố nội dung và hình thức tác phẩm, mà trước hết là biểu hiện ở sự lặp lại của chúng. Vì vậy, khi tìm hiểu thi pháp của Quốc âm thi tập (viết tắt QATT) và Bạch vân quốc ngữ thi tập (viết tắt BVQNTT)(3), chúng tôi đặc biệt chú ý tới hệ thống cấu trúc mang tính thi pháp của câu thơ 6 chữ trong QATT và BVQNTT. Trước hết chúng tôi thống kê, phân loại những câu thơ 6 chữ trong cả 2 tác phẩm về số lượng, vị trí, nhịp điệu và nội dung biểu đạt. Khi thống kê, phân loại, chúng tôi tạm thời để 30 bài thơ chưa rõ tác giả là ai ra ngoài và từ đó rút ra những đặc điểm riêng thuộc hình thức và nội dung những câu thơ 6 chữ của từng tác giả. Những đặc điểm này được xác định bởi tính lặp lại có quy luật của các yếu tố nội dung và hình thức của chúng, làm ta nhận diện được đặc trưng Nguyễn Trãi khác Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những phương diện nào, đồng thời cho phép ta tìm ra quy luật hình thành và phát triển thơ Nôm Đường luật thế kỷ XV - XVI.

Tiến hành khảo sát theo trình tự trên bước đầu cho chúng ta một số kết quả đáng chú ý như sau:

1. Về số lượng câu thơ 6 chữ: Số lượng bài có câu thơ 6 chữ(4) và số lượng câu thơ 6 chữ trong một bài giảm dần từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, bài có câu thơ 6 chữ ở QATT là 127/180 đạt tỷ lệ 70,6%, còn ở BVQNTT là 14/127 giảm tỷ lệ xuống còn 11,9%. Ở QATT số bài có 5 câu thơ 6 chữ trở lên nhiều hơn, đáng kể so với BVQNTT. Nếu QATT là 14/127 bài, tỷ lệ 11% thì BVQNTT là 1/76 bài, tỷ lệ chỉ còn 1,3%. Đặc biệt số bài có 5 câu 6 chữ ở QATT là 9, bài có 7 câu 6 chữ ở QATT là 1, trong khi đó ở BVQNTT hoàn toàn không có loại bài này.

Khi so sánh các dị bản những bài thơ chưa rõ tác giả từ bản QATT đến bản BVQNTT, chiều hướng chung nổi bật là, giảm số lượng những bài thơ có câu 6 chữ và số lượng câu thơ 6 chữ trong một bài cũng giảm(5). Bảng thống kê 12 bài thơ có hai dị bản - một trong QATT, một trong BVQNTT sẽ cho chúng ta hình dung kết luận trên một cách rõ ràng hơn:

TT QATT BVQNTT Mức độ giảm
Bài số Số lượng
câu thơ 6 chữ
Bài số Số lượng
câu thơ 6 chữ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
20
56
91
65
80
161
40
66
69
78
51
70
1
2
3
2
3
2
3
3
3
4
4
5
75
52
60
140
129
6
54
44
128
91
115
126
0
0
0
1
1
1
2
2
2
2
2
3
1 câu
2 câu
3 câu
1 câu
2 câu
1 câu
1 câu
1 câu
1 câu
2 câu
2 câu
2 câu
TS 12 bài 35 câu 12 bài 16 câu 19 câu

Bảng thống kê trên cho chúng ta thấy rằng 3 bài trong QATT có câu thơ 6 chữ nhưng ở BVQNTT 3 bài ấy không còn câu thơ 6 chữ nào. Từ QATT đến BVQNTT có 6 bài giảm 1 câu thơ 6 chữ, 5 bài giảm 2 câu thơ 6 chữ và 1 bài giảm 3 câu thơ 6 chữ.

Kết quả trên phản ánh quy luật của quá trình Việt hóa thơ Nôm Đường luật từ Nguyễn Trãi trở về sau: hiện tượng không theo quy cách thơ Đường giảm dần và quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật đi từ thể chưa ổn định tới ổn định. Như vậy các bài thơ chưa rõ tác giả là ai, xét về số lượng câu thơ 6 chữ, những bài thơ nào có từ 5 câu trở lên thì có nhiều khả năng của Nguyễn Trãi. Đó là các bài 67 QATT (67 BVQNTT) bài 70 QATT (126 BVQNTT). Riêng bài 67 QATT (67 BVQNTT) có tới 7 câu thơ 6 chữ:

Chụm tự nhiên một tấm lều,
Qua ngày tháng lấy đâu nhiều.
Gió tin rèm thay chổi quét,
Trăng kể cửa kéo đèn khêu.
Cơm ăn chẳng quản dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu.
Tựa gốc cây ngồi hóng mát,
Lều hưu ta hãy một lều hưu.

Bài thơ trên chắc chắn của Nguyễn Trãi.

2. Về cách ngắt nhịp câu thơ 6 chữ: Nguyễn Trãi sử dụng hầu hết cách ngắt nhịp có thể có đối với câu thơ 6 chữ.

Đó là những cách ngắt nhịp 2/2/2, 1/5, 2/4, 3/3, 4/2, 5/3, 6/0. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm có những cách ngắt nhịp tác giả ít sử dụng hoặc không sử dụng. Trong các cách ngắt nhịp nói trên, đáng lưu ý là nhịp 2/2/2. Nguyễn Trãi 5 lần sử dụng nhịp này trong câu thơ 6 chữ, tỷ lệ là 5/314 câu = 1,6%. Thí dụ:

- Bít bả/ hài gai/ khăn cóc
(Bài số 33 QATT)

- Non lạ/ nước thanh/ làm dấu
Đất phàm/ cõi tục/ cách xa
(Bài số 54 QATT)

- Dầu phải/ dầu chăng/ mặc thế
(Bài số 165 QATT)

- Làm biếng/ hay ăn/ lở non
(Dạy con trai QATT)

Trong khi đó Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu như không sử dụng lối ngắt nhịp này. Điều đó cũng phù hợp với quá trình diễn tiến của thơ Nôm Đường luật: Giai đoạn đầu tiên, mọi thành tố tạo nên hình thức đều được đưa vào thử nghiệm. Kết quả so sánh trên cho phép chúng ta kết luận: bài có câu thơ 6 chữ ngắt nhịp 2/2/2 chắc là của Nguyễn Trãi. Trong các bài thơ chưa rõ tác giả, bài số 6 BVQNTT (Bài 161 QATT) có câu “lòng người/ sự thế/ lâng lâng” rơi vào trường hợp trên. Theo chúng tôi, bài này có thể cho là của Nguyễn Trãi.

3. Về nội dung biểu đạt của câu thơ 6 chữ:

Câu thơ 6 chữ của Nguyển Trãi chuyển tải tất cả những nội dung mà tác giả cần thông báo: tình yêu thiên nhiên, vẻ đẹp của phong cảnh, nhân tình và thế sự, đạo đức và phẩm chất người quân tử, đời sống cá nhân và thời cuộc xã hội… Những câu thơ 6 chữ trong BVQNTT thì không hẳn như vậy. Có những nội dung câu thơ 6 chữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không đề cập đến, ngược lại, có những nội dung câu thơ 6 chữ của ông nói tới khá nhiều. Thí dụ ở nội dung câu thơ ánh thiên nhiên thế sự. Ở những câu thơ 6 chữ phản ánh thiên nhiên ở Nguyễn Trãi là 76/318 chiếm tỷ lệ 23,8%. Nguyễn Trãi rất hay sử dụng câu thơ 6 chữ để nói về thiên nhiên. Thí dụ:

Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu
Khói chim thủy quốc quyến phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
(Bài số 14 QATT)

Dấu người đi là đá mòn
Đường hoa vướng vắt trúc luồn
Cửa song dãi xâm hơi nắng
Tiếng vượn vang kêu cách non
Cây rợp tán che am mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn
(Bài số 21 QATT)

v.v…

Trong khi đó ở BVQNTT chỉ có 5 câu nói về thiên nhiên thì cả 5 câu này đều nằm trong số những bài chưa rõ tác giả. Hơn nữa những câu thơ 6 chữ mang nội dung thế sự ở Nguyễn Trãi chỉ có 15/318, chiếm 4,7% nhưng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm con số này lớn hơn: 12/182 bằng 6,5%. Vậy thì trong số các bài thơ chưa rõ tác giả, bài có những câu thơ 6 chữ nói về thiên nhiên, khả năng là của Nguyễn Trãi. Đó là 5 bài: bài 27 QATT (87 BVQNTT), 51 QATT (115 BVQNTT), 56 QATT (52 BVQNTT), 69 QATT (128 BVQNTT), 70 QATT (126 BVQNTT). Đồng thời những bài có nhiều câu thơ 6 chữ nói về thế sự có lẽ là của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là 5 bài: bài 53 QATT (51 BVQNTT), 80 QATT (129 BVQNTT), 91 QATT (60 BVQNTT), 147 QATT (77 BVQNTT), 135 QATT (58 BVQNTT).

Để tránh sai lầm là chỉ căn cứ vào một vài đặc điểm, một số hiện tượng mà kết luận tác giả các bài thơ, chúng tôi đã tổng hợp những số liệu khảo sát ở nhiều phương diện khác nhau về hình thức và nội dung câu thơ 6 chữ và có thể rút ra một số kết luận như sau:

Trong số 30 bài thơ chưa rõ tác giả là ai thì có 10 bài nghiêng về Nguyễn Trãi là bài số 67 QATT (67 BVQNTT), 70 QATT (26 BVQNTT), 161 QATT (6 BVQNTT), 27 QATT (87 BVQNTT), 51 QATT (115 BVQNTT), 56 QATT (52 BVQNTT), 69 QATT (128 BVQNTT), 58 QATT (13 BVQNTT), 78 QATT (91 BVQNTT), 85 QATT (48 BVQNTT).

Và có 6 bài nghiêng về Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài 51 BVQNTT (53 QATT), 129 BVQNTT (80 QATT), 60 BVQNTT (91 QATT), 77 BVQNTT (147 QATT), 58 BVQNTT (135 QATT), 56 BVQNTT (38 QATT).

11 bài còn lại tạm thời chưa đủ điều kiện đoán định tác giả. Tuy nhiên điều lý thú là bằng con đường thi pháp học, những kết luận mà chúng tôi rút ra ở trên ngẫu nhiên có sự gặp gỡ với những kết luận của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, mặc dù giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đi theo con đường ngôn ngữ học. Hóa ra có nhiều con đường dẫn tới một kết luận khoa học, và càng bằng nhiều con đường của các khoa học khác nhau mà đều đi đến một kết luận thì chắc chắn rằng, kết luận ấy có độ tin cậy cao. Đương nhiên việc làm của chúng tôi mới là bước đầu, mong được góp phần giải quyết một vấn đề vốn phức tạp và vượt quá trình độ của chúng tôi.

L.N.T

CHÚ THÍCH

(1) Xin xem: Nguyễn Đăng Na: Tìm hiểu quan điểm biên soạn và phương pháp biên soạn Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, TCVH, số 1 - 1986.

(2) Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn: Thử tìm cách xác định tác giả một số bài thơ Nôm hiện chưa rõ là của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm, TCVH, số 3 - 1986.

(3) Khi so sánh câu thơ 6 chữ trong QATT với câu thơ 6 chữ trong BVQNTT, chúng tôi đánh số bài theo Nguyễn Trãi toàn tập (NTTT), Nxb. KHXH, H. 1976 và Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (TVNBK), Nxb. Văn học, 1983.

(4) Trong số 30 bài thơ chưa rõ tác giả, có 3 bài không có câu thơ 6 chữ, nên chúng tôi chưa khảo sát.

(5) Chỉ có 3 bài thơ số lượng câu 6 chữ tăng từ bản QATT đến bản BVQNTT. Ba bài thơ này tăng câu thơ 6 chữ là có lý do. Ở đây chúng tôi chưa có điều kiện bàn tới./.

TB

AI VIẾT HAI PHẦN CỔ TÍCH VÀ NHÂN PHẨM TRONG MẪN HIÊN THUYẾT LOẠI

HOÀNG VĂN LÂU

Về tác phẩm Mẫn Hiên thuyết loại, trong bài Về văn bản và tác giả Mẫn Hiên thuyết loại, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số trước (1 - 1989), chúng tôi đã có dịp miêu tả văn bản, giới thiệu nội dung, và từ những chứng cứ trong nội dung văn bản, đã đi tới khẳng định Phần I, gồm 10 thiên truyện ký, là những sáng tác đích thực của Cao Bá Quát(1). Cũng trong bài đó, chúng tôi đã nêu nhận xét là: hai phần còn lại, Phần II Cổ tích và phần III Nhân phẩm là do một người khác viết và đây cũng là vấn đề mà bài viết này sẽ đi sâu.

Phần Nhân phẩm trong Mẫn Hiên thuyết loại, có 45 đơn vị, đề cập tới nhiều nhân vật lịch sử từ đời Trần, đến Triều Tự Đức đời Nguyễn. Trong số đó, chúng tôi chú ý tới các truyện viết về nhân vật cùng thời với tác giả, đặc biệt các nhân vật có quan hệ trực tiếp với tác giả, mà nổi bật nhất là hai truyện viết về Lê Nguyên Trung và Trương Minh Giảng.

Lê Nguyên Trung, tự Chỉ Trai, người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An (nay thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh), đỗ Cử nhân năm Gia Long thứ 12 (1813)(2). Khi viết về Lê Nguyên Trung trong phần Nhân phẩm, tác giả có ghi lại một kỷ niệm với ông này, khi còn làm Hiệp lý hộ tào thành Gia Định và tác giả làm Tri phủ Tân Bình. Tác giả đã ghi lại sự kiện Lê Nguyên Trung làm Bố chính Quảng Ngãi như sau: “Lê (tức Lê Nguyên Trung) làm Bố chính Quảng Ngãi, sau vì có chuyện ở Bình Thuận, bị đổi đi. Hơn tháng sau, tôi qua Quảng Ngãi, quan lại và dân chúng ở đó nhiều người vẫn gửi lời thăm ông. Nhắc tới ông, mọi người đều rơi nước mắt”(3).

Về sự kiện này, Đại Nam thực lục. Phần Chính biên, Đệ nhị kỷ, Năm Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 18 (1837) tháng 2 có ghi:

“Vua bèn cho… Lê Nguyên Trung làm Tri châu châu Lương Chánh. Trung trước làm Bố chính Quảng Ngãi có lỗi phải cách chức, phải phục vụ trong quân thứ…(4) Chứng tỏ khi viết về các nhân vật lịch sử tác giả chú ý ghi lại các sự kiện có thực và chúng ta có thể từ những ghi chép ấy đi tìm tác giả của nó.

Trong truyện viết về Trương Minh Giảng, có đoạn: “Năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mạng (1837) tôi làm Án sát Quảng Ngãi, Bá (tức Trương Minh Giảng) tới Kinh chầu hầu. Khi trở về gặp tôi, tôi giữ lại nghỉ, ông nói với tôi: “Trấn Tây sẽ phải chia thành nhiều lộ”. Tôi đáp: “Không biết người Man có chịu phục không!”. Bá nói: “Dựa vào uy đức của triều đình, lo gì không xong. Nay chia thành nhiều lộ để cai trị, mỗi người chuyên sức vào công việc của mình và ràng buộc lẫn nhau, chả hơn là một người nắm giữ binh quyền lớn quá, được đằng nọ hỏng đằng kia hay sao”(5).

Về sự kiện Trương Minh Giảng về Kinh chầu hầu, sử có ghi:

“Tháng 7 (1837) triệu Trấn Tây tướng quân lãnh Tổng đốc An Giang, Hà Tiên là Trương Minh Giảng về chầu…”

“Tháng 9 (1837) tướng quân Trấn Tây là Trương Minh Giảng đến Kinh bệ kiến. Vua khen và an ủi mãi”.

“Tháng 12 (1837) Tướng quân Trấn Tây Trương Minh Giảng vào bệ kiến xin trở về lỵ sở…”(6)

Như vậy là Trương Minh Giảng có lệnh triệu về Kinh tháng 7, tháng 9 được yết kiến vua (Minh Mạng) và tháng 12 trở về nơi làm việc. Trên đường về, Trương Minh Giảng gặp “tác giả” (tôi) của bài viết, đúng như ghi chép của người viết. Trong truyện này, người viết nói rõ “Năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mạng (1837) tôi làm Án sát Quảng Ngãi”. Vậy ai làm Án sát Quảng Ngãi năm Đinh Dậu 1837 ấy?

Cũng bộ Thực lục của triều Nguyễn có ghi: “Tháng giêng, năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 (1837) Án sát Quảng Ngãi là Đặng Kim Giám phải tội miễn chức. Vua cho Thự lang, trung bộ Hộ là Trương Quốc Dụng thụ Án sát Quảng Ngãi…”(7)

Tháng 7 (1837) bổ thụ Trương Quốc Dụng làm Án sát Quảng Ngãi…(8)

Cũng từ tháng 7 năm 1837, không thấy sử ghi chép về sự thuyên chuyển chức Án sát Quảng Ngãi nữa. Có thể nghĩ rằng: Từ tháng giêng năm 1837, Trương Quốc Dụng thay Đặng Kim Giám làm Án sát Quảng Ngãi, đến cuối năm ấy, Trương Quốc Dụng gặp Trương Minh Giảng đang trên đường từ kinh đô Huế trở về lỵ sở của mình. Và tác giả của thiên truyện ký viết về Trương Minh Giảng là Trương Quốc Dụng.

Trương Quốc Dụng là ai ?

Trương Quốc Dụng, tên cũ là Khánh, tự là Dĩ Hành, sinh năm 1797 ở xã Phong Phú, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Tiến sỹ năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) trải nhiều chức như Thự lang trung bộ Hộ, Án sát Quảng Ngãi, Tri phủ Tân Bình, Thượng Thư bộ Hình, Tổng tài Quốc sử quán, mất năm 1864.

Vấn đề đặt ra là: Có đúng Trương Quốc Dụng viết toàn bộ hai phần Cổ tích Nhân phẩm trong Mẫn Hiên thuyết loại hay chỉ viết một thiên về Trương Minh Giảng?

Để giải đáp câu hỏi này, chúng tôi đã tìm đọc bộ sưu tập các tác phẩm của Trương Quốc Dụng. Sau đây là kết quả giám định:

Trương Quốc Dụng sáng tác và chủ biên nhiều công trình khảo cứu lịch sử và văn chương, trong đó, liên quan nhiều nhất tới chủ đề chúng ta đang xem xét là bộ sưu tập Công hạ ký văn của ông. Hiện nay, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ lại được 2 văn bản chép tay của bộ Công hạ ký văn (còn có một tên gọi khác là Thoái thực ký văn) mang các ký hiệu VHv.4 và A.1499. Trong đó, bản A.1499 là một bản sao chép lại bản VHv.4 do Trường Viễn đông Bác cổ Pháp chủ trương.

Bản VHv có 125 tờ, khổ sách 32x22cm. Sách đã cũ nát và đã được bồi vá nhiều chỗ. Trang đầu sách ghi Công hạ ký văn, Hình bộ thương thư Trương Quốc Dụng soạn. Tiếp đó, là nội dung sách, gồm các phần: Chế độ - Phong vực - Trưng kỳ - Tạp sự - Nhân phẩm - Cổ tích - Vật loại.

Nếu đối chiếu, ta thấy ngay phần Cổ tích Nhân phẩm trong Mẫn Hiên thuyết loại, chỉ là một dị bản của phần Cổ tích Nhân phẩm trong Công hạ ký văn.

Chẳng hạn, số truyện và cách sắp xếp, các truyện trong phần Nhân phẩm ở hai sách Mẫn Hiên thuyết loại Công hạ ký văn không chênh lệch nhau nhiều.

Phần Cổ tích của hai sách có một số xuất nhập về cách sắp xếp. Ví như, trong Mẫn Hiên thuyết loại cách sắp xếp chủ yếu theo địa dư. Trong khi đó, ở Công hạ ký văn ngoài cách sắp xếp theo địa dư, còn sắp xếp theo chuyên mục như Núi lớn, Sông to, Đầm rộng, Đê ở Bắc kỳ... Nhưng nội dung của từng đơn vị thì không sai khắc nhau nhiều. Tuy nhiên, hai phần Cổ tích Nhân phẩm ở sách Mẫn Hiên thuyết loại không phải là sao chép từ Công hạ ký văn. Có nhiều dấu hiệu cho thấy các đơn vị ghi chép trong hai phần Cổ tích Nhân phẩm Mẫn Hiên thuyết loại có thể là dạng bản có trước của các đơn vị tương ứng trong Công hạ ký văn(9).

Điều này cho thấy giá trị văn bản của hai phần Cổ tích Nhân phẩm trong Mẫn Hiên thuyết loại. Mẫn Hiên thuyết loại vừa là một văn bản duy nhất hiện được biết, ghi lại 10 thiên truyện ký của Cao Bá Quát, vừa là một dị bản có giá trị trong việc đối chiếu và hiệu đính hai phần Cổ tích Nhân phẩm trong Công hạ ký văn của Trương Quốc Dụng.

Tóm lại, trong tình hình tư liệu hiện nay chúng ta có thể đi tới kết luận: Mẫn Hiên thuyết loại, bản A.1072 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) là một bộ sưu tập, sao chép tác phẩm của 2 tác giả là Cao Bá Quát và Trương Quốc Dụng:

Phần I gồm 10 thiên truyện ký, mỗi thiên có đầu đề riêng: 1. Kê tử đạo án (Vụ án ăn trộm trứng gà); 2. Từ Sơn mệnh báo (Vụ án mạng ở Từ Sơn); 3. Trịnh thượng thư di sự (truyện cũ về ông thượng thư họ Trịnh); 4. Phương Am tiên sinh di sự (truyện cũ về Phương Am tiên sinh); 5. Nguyễn Bá phụ tử (Cha con Nguyễn Bá); 6. Trần tiến sỹ phụng sứ (ông tiến sỹ họ Trần vâng mệnh đi sứ); 7. Bách Tam lang trung nghĩa (Bách Tam lang trung nghĩa); 8. Ngô Lâm mạ tặc (Ngô Lâm chửi giặc); 9. Trạm Điền Vũ tộc (Họ Vũ ở Trạm Điền); 10. Phan Văn Phụng huynh đệ (Anh em Phan Văn Phụng) là do Cao Bá Quát viết. Phần II có tiêu đề chung là Cổ tích và phần III có tiêu đề chung là Nhân phẩm ghi chép 180 đơn vị núi sông, đầm, phú, đình, chùa, quán miếu, danh lam cổ tích và gần 50 đơn vị về các nhân vật lịch sử, là do Trương Quốc Dụng biên soạn.

H.V.L

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Về văn bản và tác giả của Mẫn Hiên thuyết loại, Tạp chí Hán Nôm, số 1- 1989.

(2) Xem Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.79. Thư mục Hán Nôm, Mục lục tác gia, Ban Hán Nôm, H. 1977 (Bản in Rônêô), tr.119.

(3) Mẫn Hiên thuyết loại, Phần Nhân phẩm, đoạn nói về Lê Nguyên Trung.

(4) Đại Nam thực lục chính biên, tập XIX, Nxb. KHXH, 1968, tr.46.

(5) Mẫn Hiên thuyết loại, phần Nhân phẩm, tờ 82b.

(6) Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, các tr.205, 311.

(7) Đại Nam thực lục chính biên, tập XIX, Sđd, tr.17 và tr.196-197.

(8) Đại Nam thực lục chính biên, tập XIX, Sđd, tr.17 và tr.196-197.

(9) Chúng tôi sẽ công bố kết quả hiệu

TB

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ BẢN "NỘI CÁC QUAN BẢN" KHÔNG PHẢI KHÔNG CÓ KIÊNG HUÝ

TRẦN NGHĨA

Đầu năm 1989, nhân chuyến công tác tại Pháp, tôi có đến Thư viện Hội Châu Á (Société asiatique) ở 22 Av. Président Wilson, Paris, để xem lại bộ Đại Việt sử ký toàn thư bản “Nội các quan bản” (ĐVSKTT - NCQB) mà 5 năm về trước, cũng tại đây tôi đã có lần xem nhưng chưa kỹ. Chủ đích của lần xem thứ hai này là trực tiếp quan sát bằng mắt những gì có thể quan sát được trên “văn bản gốc”(1), nhằm cung cấp thêm thông tin cho việc nghiên cứu về niên đại NCQB của ĐVSKTT. Trong khi lật trừng trang sách, chăm chú theo dõi các dấu vết đặc biệt, tôi tình cờ phát hiện một điều khác hẳn với nhận định của giới nghiên cứu lâu nay: hóa ra ĐVSKTT - NCQB không phải không có kiêng húy.

Nhưng trước khi trình bày vấn đề kiêng húy, có lẽ nên nói một chút về những gì tôi đã tìm thấy trên bản gốc bộ sách, không chỉ vì đây là điều đã lôi cuốn tôi đến thư viện, mà còn bởi chính chúng đã trở thành nghi vấn khi thảo luận về niên đại NCQB của ĐVSKTT(2).

Sách gồm 15 tập, tổng cộng 1244 tờ, khổ 27,5x17,5cm, mang ký hiệu PD.2310(3). Các tập đều đã được đóng lại rất cẩn thận theo kiểu đục lỗ xâu chỉ thường thấy của sách cổ phương Đông. Cách chia tập ở đây cụ thể như sau:

Tập một:

Quyển thủ: Ngoại kỷ toàn thư(4).

Quyển chi nhất: Hồng Bàng thị kỷ. Thục kỷ.

Tập hai:

Quyển chi nhị: Triệu kỷ.

Quyển chi tam: Thuộc Tây Hán kỷ.

Quyển chi tứ: Thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương Kỷ.

Quyển chi ngũ: Thuộc Tùy, Đường kỷ.

Tập ba:

Quyển chi nhất: Đinh kỷ.

Quyển chi nhị: Lý kỷ.

Tập bốn:

Quyển chi tam chí quyển chi tứ: Lý kỷ.

Tập năm:

Quyển chi ngũ: Trần kỷ.

Tập sáu:

Quyển chi lục chí quyển chi thất: Trần kỷ.

Tập bảy:

Quyển chi bát: Trần kỷ.

Quyển chi cửu: Hậu Trần kỷ.

Tập tám:

Quyển chi thập: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập chín:

Quyển chi thập nhất: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười:

Quyển chi thập nhị: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười một:

Quyển chi thập tam: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười hai:

Quyển chi thập tứ: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười ba:

Quyển chi thập ngũ: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười bốn:

Quyển chi thập lục chí quyển chi thập thất: Lê Hoàng triều kỷ.

Tập mười lăm:

Quyển chi thập bát chí quyển chi thập cửu: Lê Hoàng triều kỷ.

Bìa ngoài các tập sách (bìa mới thêm vào khi tu bổ sách)(5) là một tấm giấy dày màu xanh đen gấp lại, trong lồng hai tờ giấy bản. Trên bìa có đính hai nhãn bằng giấy trắng: nhãn trên bên trái đề tên sách (Đại Việt sử ký toàn thư), quyển, đề mục: nhãn dưới bên phải ghi ký hiệu và tập sách (xem ảnh A).

Bìa trong (bìa vốn có ở đầu Tập 1 của bộ sách)(6) được kẻ thành 4 ô hình chữ nhật: 1 ô ngang, 3 ô dọc. Ô ngang nằm bên trên, với dòng chữ “Nội các quan bản”, đọc từ phải sang trái. Các ô dọc nằm bên dưới: ô giữa rộng nhất, mang dòng chữ “Đại Việt sử ký toàn thư” đọc từ trên xuống: ô bên phải và ô bên trái bằng nhau một bên đề “Vựng lịch triều chi sự tích”, một bên đề “Công vạn thế chi giám hành”, cũng đều đọc từ trên xuống.

Điều đáng nói là ở ô ngang nằm bên trên, về sau có thêm vào một số chi tiết phụ:

- 2 dấu ấn trang trí hình rồng đối xứng nhau, 1 dấu đóng ở bên phải và 1 dấu đóng ở bên trái dòng chữ “Nội các quan bản”(7).

- 1 dấu ấn bên trong có các chữ “Société asiatique” và 1 dấu ấn bên trong có các chữ “Lees Paul Demiéville” đóng ở phía trên dòng chữ “Nội các quan bản” (xem ảnh B).

Sau các tấm bìa là những tờ sách in bằng giấy dó đã ngả sang màu vàng, có nhiều tờ sờn mục ở Tập một: nhiều tờ rách lỗ chỗ ở các tập còn lại. Tập một, Q.1 bị mất tờ 5; Tập mười, Q.12 bị mất tờ 47. Các tờ mất này đều đã được bổ sung bằng những tờ giấy đánh máy (papier pelure) trên viết bút bi. Giữa các tờ sách đều được lồng 2 tờ giấy bản trắng, mới.

Trên các tờ sách, có dấu hiệu điểm bằng mực son, hoặc để chữa những chữ in sai hoặc để ngắt câu, đánh dấu tên người, tên đất. Tất nhiên đây là công việc về sau, do người đọc sách thực hiện.

Ở phần trên cùng mỗi tờ sách(8), thường thấy có những dòng chú thích được đóng khung viền, in cùng lúc với sách và những dòng chú thích không có khung viền, do người đọc sách về sau ghi vào.

Khung viền ở các tờ sách rõ ràng là không thống nhất. Đại để có 3 loại khung viền được sử dụng: khung viền đơn thanh, khung viền đơn thô và khung viền kép. Sau đây là tình hình thay đổi khung viền trong từng quyển, từng tập:

Tổng số độ dày: 1244 tờ.

Số tờ có khung viền đơn: 448; chiếm 37% tổng số.

Số tờ có khung viền kép:796; chiếm 63% tổng số.

Nhưng đáng chú ý hơn cả là ĐVSKTT - NCQB có hiện tượng kiêng húy. Đấy là chữ “Trừ” xuất hiện trong dòng chú thích “niên thâm trừ dụng” được đóng khung viền, ở phần trên cùng của tờ 48b, Q.14, Tập mười hai (xem ảnh C). Và đây cũng là trường hợp kiêng húy duy nhất mà chúng tôi tìm thấy ở ĐVSKTT, bản NCQB.

Vì nằm trong dòng chú thích được đóng khung viền, nên có thể khẳng định đây là chữ kiêng húy vốn có của bản in, chứ không phải do người đời sau đưa vào. Chữ húy được viết đảo bộ ( bên trái, liễu leo bên phải), phía trên thêm 4 chữ nhân (còn gọi là 4 nháy, hoặc 2 tòng đầu). Đây là lối viết húy phổ biến của người đời Lê.

“Trừ” tức Lam Quốc công Lê Trừ, người anh thứ hai của Lê Lợi. Chữ này về lý mà nói, chỉ có thể được viết húy kể từ sau ngày Anh Tông Duy Bang là cháu 5 đời của Lê Trừ lên ngôi vua (1557). Thế nhưng các sách in đời Lê Trung hưng còn lại đến ngày nay như Trùng san Lam Sơn thực lục, Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục cùng do Quốc sử quán đời Lê Hy Tông xuất bản và cùng mang tựa đề năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676), trong khi có kiêng húy chữ “Tân”, chữ “Đề”, chữ “Bang”, thì lại bỏ qua chữ “Trừ”. Có thể thấy việc kiêng húy chữ “Trừ” ở ĐVSKTT - NCQB là hiện tượng độc đáo, nếu không nói là sớm nhất về mặt sử tịch mà ngày nay còn có thể quan sát được.

Từ các thông tin trên, có thể đi tới một vài nhận định:

1. Khác với quan niệm của nhiều người(9), ĐVSKTT-NCQB thực ra cũng có kiêng húy. Có điều, sự kiêng húy không diễn ra đều khắp, cơ hồ như dấu vết còn sót lại của một cao trào đã qua, hoặc một thói quen chưa hoàn toàn từ bỏ. Đây là tình trạng mà ta cũng bắt gặp ở một số bản in thời Hậu Lê như Trùng san Lam Sơn thực lục (chỉ có 2 chữ viết húy), Lê triều đế vương Trung hưng công nghiệp thực lục (chỉ có 1 chữ viết húy).

2. Chữ được viết húy là “Trừ”, xuất hiện ở Tập mười hai, quyển 14, tờ 48b, trong khung chú thích phía trên trang sách. Nếu xem đây như là một tiêu chí thì ta có thể chia 10 bản ĐVSKTT hiện biết ra làm 2 loại lớn, loại có chữ “Trừ” ở tờ 48b, quyển 14 viết húy, và loại có chữ “Trừ” cũng ở tờ ấy, quyển ấy nhưng không viết húy:

a) Loại có chữ “Trừ” viết húy, bao gồm các bản ĐVSKTT in gỗ mang ký hiệu sau đây:

1) PD.2310 (tức ĐVSKTT-NCQB).

2) VHv.2330-2336 (TV. Viện NCHN).

3) VS.4 (TV. Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh. Bản này được đề rõ nơi in là “Thăng Long Quốc tử giám tàng bản”. Riêng Q.16 và Q.17 phần Bản kỷ, có kiêng húy triều Nguyễn, là phần mới bổ sung về sau, cốt cho đủ bộ).

b) Loại có chữ “Trừ” không viết húy, bao gồm các bản ĐVSKTT in gỗ mang ký hiệu sau đây:

4) A.3/1-4 (TV. Viện NCHN).

5) VHv.179 (TV. Viện NCHN).

6) HV.118 (TV. Viện Sử học).

7) A.2694 (TV. Viện NCHN).

8) VHv.1499 (TV. Viện NVHN).

c) Ngoài 8 bản trên, còn 2 bản nữa, 1 bản in ở trong nước, 1 bản in ở nước ngoài, đều hiện có tại Tp. Hồ Chí Minh mà chúng tôi chưa có điều kiện trực tiếp khảo sát tình hình kiêng húy về chữ “Trừ”:

9) HV.9597 - L.72 - T.1 - 12 (TV. Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh).

10) VS.9/1-2 (TV. Viện KHXH tại Tp. HCM. Bản này gồm 25 quyển, 10 tập (sách), do Dẫn Điền Lợi Chương người Nhật Bản hiệu điểm và tổ chức in lại vào năm Minh Trị thứ 17, 1885)(10).

Loại có chữ “Trừ” viết húy thì không kiêng húy các vua triều Nguyễn, nên cũng có thể gọi là loại bản chỉ kiêng húy triều Lê.

Loại có chữ “Trừ” không viết húy thì lại kiêng húy các vua triều Nguyễn, nên cũng có thể gọi là loại bản chỉ kiêng húy triều Nguyễn.

Tóm lại, trong số 8 bản mà chúng tôi đã trực tiếp khảo sát không có bất cứ một bản nào là không xuất hiện ít nhất 1 trường hợp kiêng húy.

3. Trong số các bản kiêng húy đời Lê, lại có thể chia thành 2 loại nhỏ, nếu căn cứ vào đặc điểm khung viền và tự dạng của chúng. Lấy ngay tờ sách có mang chữ “Trừ” viết húy làm thí dụ. Xem bảng so sánh sau đây:

Bản Khung viền Dòng 4, chữ 7 Dòng 9, chữ 16
PD.2310 (NCQB) đơn kế 继 nghị
VHv.2330 - 2336 (Mất Q.Thủ và Phần Ngoại kỷ) kép kế 繼 nghị 議
VS.4 (Thăng Long Quốc tử giám tàng bản) id* id* id*

* Theo sự khảo sát của GS. Phan Huy Lê thì bản VS.4 cũng thuộc một hệ thống mộc bản với VHv.2330-2336. Xem ĐVSKTT, Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1983, tr.47.

Vậy là PD.2310 thuộc hệ thống văn khắc (hoặc có 1 bộ phận thuộc một hệ thống văn khắc) khác với VHv.2330-2336 và VS.1.

Giữa PD.2310 và VHv.2330-2336, có thể biết chắc loại nào xuất hiện trước, loại nào xuất hiện sau không? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và sắp xếp theo thứ tự thay đổi khung viền từ nhiều đến ít ở các bản ĐVSKTT hiện có, kết quả như sau:

Bản sách Tỷ lệ khung viền kép Tỷ lệ khung viền đơn
PD.2310 37% 63%
VHv.1499 10% 90%
VHv.179 5% 95%
HV.148 1% 99%
VHv.2330-2336 0 100%
VS.4 0 100%
A.3/1-4 0 100%
A.2694 0 100%

Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy PD.2310 có sự thay đổi khung viền nhiều nhất: số tờ mang khung viền đơn cũng chiếm tỷ lệ cao nhất so với các bản còn lại. Trong khi đó thì VHv.2330-2336, về cơ bản, có thể nói không có sự thay đổi khung viền: số tờ mang khung viền kép chiếm tỷ lệ 100%.

Phải chăng khung viền đơn là tiêu chí của loại bản in sớm ? Không hẳn thế. Trước thời Chính Hòa (1680 - 1705), ấn bản Trùng san Lam Sơn thực lục (in năm Vĩnh Trị nguyên niên, 1676) trừ 1 tờ mang khung viền đơn, còn thì hầu hết là khung viền kép. Sau thời Chính Hòa, các ấn bản Cựu biên Truyền kỳ mạn lục (in năm VĩnhTrị thứ tám, 1712), Thiền tông bản hạnh (in năm Cảnh Hưng thứ sáu, 1745), Thánh giáo yếu lý quốc ngữ (in năm Cảnh Hưng bốn mươi ba, 1782), Tam thì lễ kính nghi Tì ni nhật dụng lục (in năm Cảnh Thịnh ngũ niên,1797) v.v... mà chúng tôi có dịp tận mắt xem, đều mang khung viền kép cả, họa hoằn lắm mới thấy một vài tờ mang khung viền đơn. Muốn tìm hiểu giữa PD.2310 và VHv.2330-2336 loại nào có trước loại nào, có lẽ còn phải dựa vào nhiều thông tin khác nữa mới mong đi đến một kết luận thỏa đáng.

Riêng tôi, tôi vẫn nghĩ khung viền đơn mang tính tạm thời, thường gắn với việc khắc những ván in bổ sung cho một hệ văn khắc đã có từ trước, nay cần đem ra in thêm. Ở PD.2310, hiện tượng khắc ván bổ sung diễn ra hơi nhiều nếu không nói là nhiều nhất so với các bản ĐVSKTT khác mà trong đó, không ít bản được in toàn bằng những ván khắc mới.

Về niên đại ấn bản PD.2310, tôi chưa thấy có gì để thay đổi quan niệm của tôi trước đây rằng bản ĐVSKTT này rất có thể được in ra trong khoảng thời gian từ 1802 đến 1827 tại Hà Nội (Thăng Long cũ)(9).

T.N

CHÚ THÍCH

(1) Chỉ nguyên bản ĐVSKTT - NCQB của Thư viện Hội Châu Á, nhằm phân biệt với bản vi phim và bản sao chụp cũng của bộ sách trên hiện có trong nước mà lâu nay chúng ta vẫn sử dụng (Bản vi phim hiện để tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm; bản sao chụp hiện để tại Nxb. KHXH)

(2) Xem Nghiên cứu lịch sử: Chuyên san về niên đại sách ĐVSKTT, bản NCQB, số 5 + 6/1988, các tr.5, 19, 20...

(3) PD.2310: “PD” là Paul Demiéville, người đã hiến Thư viện gia đình của mình, trong đó có bộ ĐVSKTT - NCQB, vào Thư viện Hội Châu Á, “2310” là số thứ tự sách xếp giá.

(4) Theo tiêu đề ghi trên bìa ngoài, khi sách được tu bổ. Bên dưới cũng thế. Những tiêu đề này không phải lúc nào cũng phản ánh đầy đủ nội dung bên trong tập sách.

(5) Người xưa gọi là “thư bì”, hoặc “thư y”, “thư điện”... chỉ lớp bìa dùng để bảo vệ sách.

(6) Người xưa gọi là “phong diện”, chỉ lớp bìa dùng đẻ ghi tên sách, tên tác giả, nơi in sách... Vào buổi đầu, lớp bìa này được thiết kế để bảo vệ các tờ sách bên trong là chính. Nhưng về sau, người ta đem tên sách, tên tác giả, nơi in sách... ghi lên trên tờ bìa ấy, khiến cho tờ bìa dần dần mất đi ý nghĩa “bảo vệ sách” lúc ban đầu.

(7) Khi nhìn vào bản sao chụp hoặc bản vi phim, ít có khả năng phân biệt được đây là dấu xuất hiện đồng thời hoặc sau khi sách đã in. Nhưng nếu quan sát trên bản gốc, sẽ dễ dàng nhận thấy dấu ấn được thêm vào sau khi sách xuất bản khá lâu.

(8) Người Trung Quốc gọi đây là “thư mi” (mày sách) hoặc “thiện đầu” (dầu trời).

(9) Như E.Gaspardone: Bibliographie Annamite, BEFEO 1934: Võ Long Tê: Khảo sát thư tịch ấn bản Quốc tử giám đời Lê (1697), ĐVSKTT, Sài Gòn 1974; Nghiên cứu Lịch sử số 5-6/1988, Tcđd v.v... đều cho rằng ĐVSKTT - NCQB không có kiêng húy.

(10) Xem thêm Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục, phụ ở Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, Tokyo 1939.

(11) Theo sự khảo sát của GS. Phan Huy Lê thì bản VS.4 cũng thuộc một hệ thống mộc bản với VHv.2330-2336. Xem ĐVSKTT, Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1983, tr.47./.

TB

MỘT VÀI ĐÓNG GÓP ĐỂ CHỈNH LÝ LẠI BẢN PHIÊN DỊCH "ỨC TRAI THI TẬP"

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Bản phiên dịch Ức trai thi tập được in trong Nguyễn Trãi toàn tập(1) từ trang 265 đến trang 392 và phần chú thích từ trang 663 đến trang 702.

Trong Lời dẫn nhập từ trang 249 đến trang 255, cụ Đào Duy Anh đã trình bày về cách thức khảo đính, phiên dịch và chú thích của mình.

Chúng tôi sau khi đã đọc từng phần tập thơ phiên dịch ấy, xin được đóng góp một vài ý kiến như sau:

I. Về việc sao chép lại các bài thơ bằng chữ Hán

Điều lấy làm tiếc là bản sao chép các bài thơ chữ Hán đã có quá nhiều sai lầm, từ bài đầu đến bài cuối, hầu hết bài nào cũng có chữ viết sai.

Chúng tôi không thể liệt kê ra hết tất cả những chữ viết sai được vì nếu lập hết bảng đính chính thì cũng phải dài mấy trang.

Các chữ viết sai ấy chúng tôi cũng có chia loại: chữ thì viết thiếu nét, chữ thì viết thừa nét, chữ thì viết sai bộ thủ, chữ thì viết lộn phải trái, chữ thì viết nhầm chữ nọ ra chữ kia, có chữ viết sai hẳn không đọc được ra chữ gì nữa.

Thật là một điều đáng tiếc: Nó làm cho công việc khảo đính mất hẳn giá trị đi.

II. Về phần phiên âm các bài thơ chữ Hán

Các bài thơ bằng chữ Hán được phiên âm sang quốc ngữ cũng có nhiều sai lầm.

Chúng tôi không nói tới các chữ in sai do các ấn công gây ra như:

Bài 12, câu 8, chữ chẩm in sai thành chữ chẫm

Bài 29, câu 2, chữ mao - mão

Bài 21, câu 3, chữ chỉ - chi

Bài 25, câu 1, chữ khấu - khẩu

Bài 38, câu 4, chữ trướng - tướng

Bài 56, câu 7, chữ họa thư - hạ thủ

mà chúng tôi sẽ chỉ nói tới những chữ phiên âm sai có lý do rõ ràng thôi.

Chúng tôi xin phân chia các lỗi phiên âm ra mấy loại chính như sau:

1. Phiên âm sai về dấu giọng:

Các lỗi phiên âm loại này kể có tới gần ba chục chữ, chúng tôi chỉ nêu ra hai thí dụ.

Thí dụ 1:

Bài 2, câu thứ 8 có chữ 荷 cụ Đào Duy Anh đã phiên âm là “hà” (Đoản lạp hà xuân sử). Nhưng chữ “hà” có hai âm:

a) Nếu phiên âm là “hà” thì nó có nghĩa là cây sen.

b) Nếu phiên âm là “hạ” thì nó có nghĩa là vác trên vai, gánh hoặc đội.

Ở đây câu thơ có nghĩa là vác cuốc đi làm đồng thì chữ đó phải phiên âm là “hạ” mới đúng.

Thí dụ 2:

Bài 73, câu thứ tư có chữ 騎 : cụ Đào Duy Anh đã phiên âm là “kỵ”:

“Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn”
(Chiêm bao cưỡi hạc lên đàn tiên)

Nhưng chữ này có hai âm:

a) Nếu phiên âm là kỵ thì chữ ấy được dùng làm danh từ: Quân mã viết kỵ.

b) Nếu phiên âm là kỳ thì chữ ấy được dùng làm động từ: Nãi thượng mã kỳ.

Ở câu thơ này phải phiên âm là “kỳ” mới đúng nghĩa là cưỡi hạc (kỳ hạc) và câu thơ mới đúng luật bằng trắc: Mộng kỳ hoàng hạc thượng tiên đàn.

B B T T T B B

2. Phiên âm không đúng với nghĩa của nó.

Chữ Hán, một chữ có thể có nhiều âm mà mỗi âm lại có một nghĩa riêng: khi phiên âm ta phải phân biệt âm nào vào với nghĩa nấy.

Loại sai lầm này cũng có tới gần hai chục chữ, chúng tôi xin nêu ra hai thí dụ như sau.

Thí dụ 1:

Bài 2, câu 5 có chữ 瓠 : cụ Đào Duy Anh đã phiên âm là “hồ” (Hồ lạc tri bà dụng).

Nhưng chữ này có hai âm chính:

a) Nếu phiên âm là hồ (hoặc hộ) thì nó có nghĩa là quả bầu.

b) Nếu phiên âm là hoạch thì nó đi với chữ lạc thành một từ kép.

“Hoạch lạc” có nghĩa là nông cạn (bình thiển). “Hoạch lạc”cũng dùng như “khuyếch lạc” để chỉ người làm việc không thiết thực hay là kẻ không thích hợp với đời.

Thí dụ 2:

Bài 54, câu 2 có chữ 魄 , cụ Đào Duy Anh đã phiên âm là phách.

“Nhất sinh lạc phách cánh kham liên”
(Một đời luân lạc càng đáng thương)

Nhưng chữ này có hai âm:

a) Nếu phiên âm là “phách” và dùng chữ “lạc” thì lạc phách có nghĩa là sợ quá mất cả vía, sợ mất hồn.

b) Nếu phiên âm là “thác” (Khang Hy tự điển, Tha các thiết âm thác) thì có nghĩa là thất nghiệp đi lang thang hết nơi này sang nơi khác không có chỗ nương tựa.

Ở câu đây câu thơ có nghĩa là: “Một đời luân lạc không có chỗ nương tựa, thật đáng thương!” thì hai chữ này phải được phiên âm là “lạc thác” mới đúng.

3. Phiên âm chữ nọ lẫn ra chữ kia.

Chữ Hán có nhiều chữ tự dạng gần giống nhau nên lúc đọc chữ nọ dễ lẫn với chữ kia: các cụ thường nói chữ tác đánh chữ tộ là vì vậy.

Các lối phiên âm loại này có độ mười trường hợp, chúng tôi xin nếu ra một thí dụ như sau:

Bài 15, câu thứ 8, chữ 景 (cảnh) đã bị phiên âm lầm là “ảnh”. Sách đã phiên âm cả câu:

Lâm lưu phủ “ảnh” nan thăng vì sai chữ “cảnh” ra chữ “ảnh” nên cụ dịch câu ấy sai hẳn đi là:

“Cúi xuống dòng sông mò bóng ý khôn xiết”.

Đúng ra câu ấy phải phiên âm là:

“Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng”

và phải giải nghĩa là: Tới dòng sông ngắm cảnh lòng cảm nghĩ khôn xiết.

4. Phiên lộn âm Nôm với âm Hán Việt

Trường hợp phiên lộn âm Nôm với âm Hán Việt chỉ có mấy chữ, chúng tôi xin nêu ra một thí dụ như sau:

Bài 15 câu thứ ba có chữ 噴 cụ Đào Duy Anh đã phiên âm là “phun”.

Kình phun lãng hống lôi nam bắc

Thực ra chữ ấy phải được phiên âm là “bồn”

Kinh bồn lãng hống lôi nam bắc.

Chữ bồn nghĩa là phun.

Chữ này còn thấy trong bài 40 câu thứ hai, phiên là:

“Thiên phong xuy khởi lãng hoa phun

chữ này phải được phiên âm là “bồn” mới đúng, nó không những đúng về âm mà còn đúng cả về vần của câu thơ nữa.

Bài thơ có 5 vần là: môn, bồn, thôn, tôn, hồn. Nhưng chữ này cũng có một âm nữa là “phún” mà nghĩa cũng là phun.

Thí dụ: phún thạch: đá do núi lửa phun ra.

Vậy chữ này có hai âm: bồn và phún, ta phải tùy trường hợp mà lựa chọn cho thích hợp với thanh vận của câu thơ.

5. Phiên âm sai lạc hẳn với chữ viết

Đây là một trường hợp sơ ý: cụ Đào Duy Anh đã phiên âm nhan đề bài thứ 85 là “Tiên du tự”(2) trong khi chữ Hán rõ ràng viết là “Du sơn tự”. Nhưng đã sơ ý lầm, cụ lại chú thích rõ ràng: Tiên du tự, chùa Tiên Du, tức chùa Vạn Phúc hay Phật Tích tỉnh Bắc Ninh ngày sau…”

Qua năm loại phiên âm sai lầm kể trên chúng tôi nhận thấy cần phải chỉnh lý lại để sự sai lầm khỏi lan rộng qua các sách báo khác khi trích dẫn mà không có in kèm theo bản chữ Hán.

III. Về phần dịch nghĩa và chú thích

Các bài thơ bằng chữ Hán sau khi phiên âm, đã được dịch nghĩa ra văn xuôi, trước khi đem dịch ra bằng thơ. Điều này rất quí cho người đọc để có thể hiểu rõ được nguyên tác của Nguyễn Trãi.

Nhưng trong phần dịch nghĩa này cũng có khá nhiều sai lầm, sai lầm trong nghĩa của từng chữ, sai lầm trong nghĩa của toàn câu hoặc có bài diễn ý không thông suốt từ đầu đến cuối, khiến người đọc không hiểu được nội dung bài thơ tác giả muốn nói gì.

Chúng tôi xin nêu ra ở mỗi loại nhận xét trên một hai thí dụ để dẫn chứng.

1. Sai lầm trong việc giải nghĩa một chữ

Các trường hợp này khá nhiều, chúng tôi xin kể ra một chữ làm thí dụ như sau:

Bài số 1, Thính vũ, câu 4 chữ @ (sổ): cụ Đào Duy Anh đã dịch là “mấy” thì sai.

Chữ “sổ” nếu dùng làm số lượng hình dung từ thì có nghĩa là “mấy”: sổ niên (mấy năm)

Chữ “sổ” nếu dùng làm động từ thì có nghĩ là đếm: tính, khoảng chừng.

Hai câu:

“Tiêu tao Kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh”

có hai động từ là “kinh” và “sổ” đặt đối nhau nên phải dịch là:

Tiếng não nùng làm kinh động đến gối khách,
Giọt thánh thót như đếm từng canh tàn.

2. Sai lầm trong việc giải nghĩa một câu

Trường hợp này cũng xảy ra ở nhiều bài thơ, chúng tôi xin nêu ra một câu làm thí dụ như sau:

Bài số 54, Mạn hứng, câu thứ nhất:

“Thế lộ sa đà tuyết thượng điên”

Sách đã dịch là:

“Đường đời vất vả như điên đảo lội trong tuyết”

và trong phần chú thích cụ có nói thêm rằng: chữ Hán “tuyết thượng điên” nghĩa là điên đảo lội trong tuyết. Theo sự góp ý về nghĩa chữ “điên” của Ban Hán Nôm.

Chúng tôi nhận thấy giảng như vậy thì không ổn vì chữ “điên” trong câu thơ đó có nghĩa là đỉnh núi, chứ không phải là chữ “điên” có nghĩa là ngả nghiêng điên đảo.

Nếu bảo “tuyết thượng điên” là điên đảo lội trong tuyết thì cũng sai,vì tuyết đâu phải là bùn mà lội được.

Người ta chỉ thường nói trượt tuyết, đạp tuyết như “đạp tuyết tìm mai” thôi.

Vậy trước khi giải nghĩa chúng tôi xin phân tích câu thơ ấy như sau:

Thế lộ: đường đời

Sa đà: lần lữa lỡ thời ta thường nói Sa đà.

Tuế nguyệt để chỉ người lần lữa năm tháng không làm được việc gì. Mấy chữ này chỉ về thời gian qua đi.

Tuyết thượng điên: tuyết rơi trắng trên đỉnh núi. Người ta thường mượn màu trắng của tuyết, của sương để chỉ tóc bạc (tóc điểm sương, tóc pha tuyết).

Vì câu này ý nói về thời gian (sa đà) nên con người cũng bạc đầu qua năm tháng. Chính Nguyễn Trãi trong bài Hải khẩu dạ bạc đã viết:

“Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch”
(Năm tháng vô tình qua đi, hai mái tóc nay đã bạc trắng cả).

Và trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi cũng viết:

“Rày, biên tuyết, đã nên ông”
(Bài 26)

Biên tóc mười phần chịu những sương
(Bài 82)

Sương, tuyết là chỉ mái tóc bạc trắng như pha sương, như điểm tuyết.

Vậy theo sự phân tích và dẫn chứng ở trên, chúng tôi đề nghị nên dịch câu:

“Thế lộ sa đà tuyết thượng điện” là: Trên đường đời cứ lần lữa mãi chẳng làm nên việc gì mà đầu đã bạc trắng như tuyết”.

3. Giải nghĩa không thông suốt được ý tưởng của tác giả trong cả bài thơ

Cái khó của việc dịch nghĩa là làm sao cho người đọc hiểu thông suốt được ý tưởng của tác giả trong cả bài thơ.

Điều khó này cũng đến nhiều lần với cụ Đào Duy Anh, chúng tôi chỉ xin nêu một bài làm thí dụ.

Bài số 2, Tặng hữu nhân, vì có mấy chữ khó hiểu nên người đọc không thông suốt được ý nghĩa cả bài.

Tôi xin nói lại về chữ “hoạch lạc” mà sách đã phiên âm là “hồ lạc” và đã giả thích như sau:

“Hồ lạc” bản Dương Bá Cung cùng các bản khác đều chép lộn là “hồ lạc”. “Hồ lạc” mới đúng(3). Đây là chữ của sách Trang Tử, thiên Tiêu dao du nghĩa là nông choèn, nông cạn.

Sự giải thích ấy chưa được rõ. Chúng tôi xin nói thêm như sau: Thiên Tiêu dao du có đoạn: “Ngụy vương di ngã đại hồ chi chủng, ngã thụ chi thành nhi thực ngũ thạch dĩ thình thủy tương kỳ kiên bất năng tự cử giã, phần chi dĩ vi biểu tắc hoạch lạc vô sở dụng”(4).

(Huệ Thi nói với Trang tử rằng: Vua Ngụy cho tôi một giống bầu lớn, tôi đem trồng nó ra quả nặng đến năm thạch, dùng đựng nước thì lớp vỏ của nó không đủ để nhấc lên được mà đem bổ ra làm cái phẫu thì nó lại nông choèn thành cũng chẳng đựng được gì).

Vậy “hồ lạc” ở trong câu đó phải đọc là hoạch lạc (đã nói trong phần phiên âm) thì mới có nghĩa là nông cạn.

Sau người ta dùng chữ hoạch lạc để chỉ những người không thiết thực làm việc cho đời, cứ lang thang hoài hoặc những kẻ không thích hợp với đời. Vì cứ lang thang hoài nên Vi Ứng Vật mới có câu thơ rằng:

“Cổ lai hoạch lạc giả
Cân bất sự điền viên.”

Những người cứ đi phiêu bạt lang thang đều không biết đến cảnh điền viên.

Ngoài chữ “hoạch lạc” ra, trong bài còn có chữ “thê trì” mà cụ Đào Duy Anh không có chú thích. Chữ “thê trì” là chữ trong Kinh thi, bài Hành môn:

“Hành (hoành) môn chi hạ,
Khả dĩ tê (thê) tri.
Bi chi dương dương,
Khả dĩ lạc cơ.”
(Dưới cổng thô sơ bỉ lậu,
Có thể đi dạo chơi mà nghỉ ngơi.
Dòng suối nước cuốn đi,
Có thể vui chơi mà quên đói)

Đó là lời người ở ẩn tự vui thích mà không cần đến điều gì cả.

Vậy “thê trì” là ngụ ý ở ẩn không làm gì, chỉ nhởn chơi mà nghỉ ngơi cho thỏa tâm trí. Cụ Đào Duy Anh đã dịch bài thơ Tặng hữu nhân như sau:

TẶNG BẠN
Nghèo và bệnh ta thương ngươi,
Phóng túng điên rồ ngươi giống ta.
Cùng đều làm khách nơi muôn dặm,
Cùng đều đọc sách được mấy hàng.
Nông quá như chúng mình biết làm gì được,
Chơi nhởn thì chắc là chúng mình có thừa.
Hẹn nhau năm nào về Nhụy Khê,
Đội nón ngăn (chụp) vác cuốc xuân (làm nông dân).

Đọc bài thơ dịch nghĩa ra văn xuôi ấy của cụ Đào Duy Anh, chúng ta chưa thông suốt được ý của tác giả.

Chúng tôi xin dịch nghĩa lại như sau để làm sao cho ý thơ được thông suốt từ đầu đến cuối:

TẶNG NGƯỜI BẠN
Cùng cảnh nghèo và đau bệnh tôi thương anh,
Bản tính phóng túng và ngông cuồng anh giống tôi.
Hai chúng ta cùng là khách nơi ngàn dặm,
Nếu cứ sống không thiết thực mãi như thế này thì cũng chẳng ích gì.
Mà ý tưởng muốn về ở ẩn chắc chúng ta cũng có thừa,
Thôi thì ta hãy cùng hẹn nhau năm nào về quê cũ.
Lại đội chiếc nón ngắn vác cuốc mùa xuân ra đồng làm ruộng cho vui.

Chúng tôi chỉ nêu ra một vài trường hợp như trên về phần dịch nghĩa, vì nếu nói vào chi tiết thì sẽ quá dài.

IV. Về phần dịch thơ

Về phần dịch thơ chúng tôi cũng chỉ nêu ra một vài nhận xét, vì nếu xét về nghệ thuật dịch thì nó vượt quá phạm vi của bài này.

Chúng tôi xin chia làm mấy loại khuyết điểm như sau:

1. Chữ dùng quá gượng ép

Có lẽ vì phải theo vần điệu câu thơ dịch nên cụ Đào Duy Anh nhiều chỗ đã dùng chữ quá gượng ép. Chúng tôi xin nêu ra một vài thí dụ như sau:

Thí dụ 1:

Bài 29, câu thứ tư: “Kim môn mộng giác lậu thanh tàn”, cụ Đào Duy Anh đã dịch là: Kim môn mộng tỉnh lậu giờ xoay, thì quả thực không ai hiểu được câu ấy. Câu thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có nghĩa là: ở Kim Môn khi tỉnh mộng thì không còn nghe thấy tiếng nước ở cái đồng hồ (lậu) dỏ giọt nữa.

Thí dụ 2:

Bài 40, câu thứ nhất: “Vũ hậu xuân triều trướng hải môn” cụ Đào Duy Anh đã dịch là: “Sau mưa cửa biển nước sinh con” thì hết cả chất thơ, trong khi câu thơ chữ Hán có nghĩa là: sau cơn mưa, nước triều về mùa xuân tràn cao lên cửa biển.

Thí dụ 3:

Bài 50, Văn lập, câu thứ ba: “Tiên sát hoa biên song bạch điểu”, cụ Đào Duy Anh đã dịch là: Thèm chết bên hoa chim trắng dỡn thì thật là quá gượng ép. Thèm chết ý nói là thèm lắm, thèm muốn chết đi được, nhưng không ai lại viết như vậy. Bài thơ này chúng tôi xin dịch lại như sau để tránh hai chữ “thèm chết” đi:

“Buổi chiều đứng ngắm cảnh.
Trời cao tịch mịch nước mênh mang,
Thu muộn non sông đổ lá vàng.
Những muốn như chim bên bãi cát,
Xa miền tục lụy tới Thương Lang.”

Chúng tôi đã theo bản Toàn Việt thi lục chép câu thứ ba: “Tiện sát sa biên song bạch điểu” nghĩa là: “Rất thèm muốn được như đôi chim trắng (chim âu) nằm ở bên bãi cát”.

Hai chữ “sa biên” xem ra hợp lý hơn. Cụ Đào Duy Anh đã dịch câu thứ tư: “Nhân gian lụy bất đất đáo Thương Châu” là “Bãi nhàn xa tục lụy không vương” và cụ có giải thích “Bãi nhàn: tức Thương Châu, ví chỗ người ở ẩn”.

“Thương Châu” đúng ra phải viết hoa vì nó là tên của một bãi trên sông Thương Lang.

Bãi sông Thương Lang và bến sông Tự Phố đều chỉ nơi ẩn dật như Nguyễn Trãi đã viết trong bài Hải khẩu dạ bạc hữu cảm:

“Ba tâm hạo điểu Thương Châu nguyệt,
Thụ ảnh sâm si Tự Phố yên.”
(Giữa làn nước mênh mông chỉ thấy bóng trăng trên bãi sông Thương Lang.
Nơi rặng cây lô nhô cao thấp khói phủ mờ bến sông Tự.)

2. Đổi chữ nọ ra chữ kia để dịch

Như ở bài 54, Mạn hứng, câu 5 và câu 6:

“Tảo tuyết chử trà hiên trúc hạ,
Phần hương đối án ổ mai biên.”

Dịch nghĩa là:

Quét tuyết, nấu nước pha trà ở dưới hiên trúc.
Đốt hương, ngồi trước án sách bên cửa sổ cạnh cây mai.

Cụ Đào Duy Anh đã dịch sang thơ là:

Quét tuyết đun chè bên trúc ổ,
Đốt hương đọc sách dưới mai hiên(4).

và cụ cũng có chú thích thêm:

Nguyên văn “hiên trúc hạ” và “ổ mai hiên” là dưới cây trúc ở hiên và bên cây mai ở giậu, nhưng vì niêm luật phải đảo “hiên” và “ổ” với nhau mà dịch ra là “trúc ổ” và “mai hiên” là những từ quen thuộc.

Sự giải thích đó có điều không đúng vì hiên trúc hạ đâu phải là dưới cây trúc ở hiên và ổ mai biên đâu phải là bên cây mai ở giậu. Đúng ra thì hiên trúc hạ là dưới mái hiên mà phía ngoài sân có trồng bụi trúc và ổ mai biên là bên cửa sổ có trồng cây mai phía trước sân. Chính vì để cho được rõ nghĩa như vậy nên hai bản Toàn Việt thi lục Tinh tuyển chư gia thi tập chép là “các mai hiên”:

“Tảo tuyết chử trà hiên trúc hạ,
Phần hương đối án các mai hiên.

Nghĩa là:

Quét tuyết, nấu nước pha trà dưới mái hiên phía ngoài sân đằng trước mặt có bụi trúc.

Đốt hương, ngồi đọc sách trước cái án kê ở trong gác cạnh cửa sổ phía ngoài sân có cây mai ở gần bên.

Khung cảnh phải là như vậy mới đúng chứ có đâu lại:

Quét tuyết đun chè bên trúc ổ,
Đốt hương đọc sách dưới mái hiên.

Vì bài thơ này dịch có nhiều chỗ sai với nguyên tác nên chúng tôi xin đề nghị bản dịch lại như sau:

MẠN HỨNG
Đường đời lần lữa tuyết buông dầy,
Luân lạc thân mình nghĩ khổ vay.
Lưu phúc cháu con tâm địa tốt,
Vô tình chim cá tự nhiên thay.
Pha trà quét tuyết ngoài hiên trúc,
Đọc sách thêm hương bên gác mai
Quê cũ đêm rồi vương mộng nhẹ,
Bình than tráng ngập, rượu khoang đầy.

3. Bài thơ dịch bị sai niêm luật

Trong số các bài thơ dịch ta thấy cũng có bài bị sai niêm luật như bài số 57, Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ:

Khách quí gặp nhau ngày dạo đàn,
Núi quế về quách hứng khôn ngăn.
Đỉnh sảnh hương tỏa cây sinh gió.
Ghềnh đá trăng soi trúc rậm ngàn,
Bên gối chim trưa khua giấc mộng,
Ngoài hoa chè núi rửa niềm trần.
Ngày dài ngồi nhẫn đường quên nói,
Ai vô tâm người với bạch vân.

chữ thứ hai câu tám phải là thanh trắc mới đúng niêm luật, cụ Đào Duy Anh đã dùng chữ “vô” thì sai hẳn.

Cụ có giải thích như sau:

“Vô tâm” chữ Hán “hữu tâm” chúng tôi không dịch là “có lòng” mà lại dịch là “vô tâm”, vì với chữ “vô tâm” cũng thấy rõ ý của tác giả. Tác giả hỏi “người với đám mây trắng ai là hữu tâm, ai là vô tâm”. Ý tác giả muốn nói chưa chắc đám mây trắng kia đã là vô tâm (Đào Tiềm có câu thơ: “Vân vô tâm dĩ xuất tụ = mây vô tâm ngẫu nhiên mà bay ra khỏi thung lũng), hay chính người cũng vô tâm. Vô tâm là không để lòng đến cái gì, cứ theo tự nhiên”.

Chúng tôi nhận thấy câu chữ Hán của Nguyễn Trãi viết là: “Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm?” (Người với mây trắng ai là kẻ hữu tâm ?) thì ta có thể dịch thẳng ngay là:

Mây trắng hay người ai hữu tâm !

Như vậy bài thơ khỏi sai niêm luật và đúng với ý của Nguyễn Trãi.

Có một bài thơ nữa, bài 79, Mạn thành, cụ Đào Duy Anh cũng đã dịch sai luật bằng trắc.

Chúng tôi nhận thấy câu thứ 6, chữ thứ 6 của bài này đúng luật phải là thanh trắc mà cụ Đào Duy Anh đã dùng một chữ thuộc thanh bằng.

“Mạnh Tử lo cho tôi mồ côi”

Câu thơ ấy nguyên văn chữ Hán là:

“Mạnh Tử cô thần lự hoạn tâm”

thì có thể dịch nghĩa như sau:

“Mạnh Tử lo lắng cho kẻ cô thần.”

chữ “cô thần” đã rất thông dụng, nói lên ai cũng hiểu ngay là kẻ bề tôi bị lẻ loi ở trong cung đình, không có vây cánh, không được vua tin yêu.

Cụ Đào Duy Anh dịch là “tôi mồ côi” thì quả thực là gượng ép(6).

Chúng tôi đề nghị sửa lại là Mạnh Tử lo cho kẻ lẻ loi và ta có thể hiểu “kẻ lẻ loi” ở đây là “kẻ bề tôi bị lẻ loi”.

Nêu một số nhận xét về phần dịch thơ của cụ Đào Duy Anh, chúng tôi cũng thông cảm rằng dịch thơ chữ Hán là một điều rất khó. Nhưng chúng ta phải làm sao để có được những bản dịch khá hơn, hay hơn, những bản dịch không phản lại nguyên tác, hầu có thể giúp những bạn đọc không biết chữ Hán chỉ xem qua bản dịch cũng có thể thưởng thức được nguyên tác.

Việc dịch thơ vì vậy mà trở thành một điều rất quan trọng: nếu bản dịch hay thì nguyên tác sẽ được mọi người ưa thích, nếu bản dịch dở, nguyên tác cũng bị coi rẻ luôn. Chúng tôi mong rằng quyển Ức Trai thi tập sẽ ngày càng được người đọc ưa thích nhờ các bản dịch.

V. Về phần hiệu đính các bài thơ

Trong Lời dẫn về tập thơ Ức Trai thi tập cụ Đào Duy Anh có cho biết đã lấy bản của Dương Bá Cung làm căn cứ để hiệu đính trong khi so sánh với các bản của Lê Quí Đôn và Nguyễn Năng Tĩnh.

Thí dụ như khi gặp một chữ mà các bản chép khác nhau thì cụ đã cân nhắc giữa các chữ để lựa chọn lấy một chữ mà cụ cho là đúng hơn cả và cụ có ghi chú ở phần “chú thích”.

Trường hợp bài số 2: Tặng hữu nhân, câu thứ 7 bản Dương Bá Cung chép là “Nhị Khê điếu”, bản Lê Quí Đôn, Nguyễn Năng Tĩnh chép là “Nhị khê ước”, cụ Đào Duy Anh cho rằng chữ “ước” đúng hơn nên đã lựa chọn chữ ấy.

Những chỗ cụ căn cứ vào các bản cổ thì việc hiệu đính nói chung không có điều gì vô lý.

Nhưng ở những chỗ cụ không dựa theo các bản cổ mà dùng suy luận cá nhân thì không đúng với nguyên tác.

Ví dụ như trong bài số 7, Ký hữu, câu cuối các bản đều chép là:

“Bàn vô mục túc họa vô chiên”

cụ đã sửa lại là:

“Bàn duy mục túc tọa vô chiên”

và đã giải thích như sau: “Chữ Hán là “bàn vô mục túc” (mâm không có món mục túc). Tiết Lệnh Chi người đời Đường, làm quan ở Đông cung, không có bổng lộc gì, làm thơ tự than có câu: “Bàn trung hà sở hữu mục túc trường lan can” (Trong mâm có gì đó? Chỉ mục túc liên miên). “mục túc” là một thứ rau đậu tầm thường, người ta dùng để ăn chay hay là dùng cho gia súc ăn, cũng dùng làm phân xanh. Các bản đều chép: “Bàn vô mục túc” nghĩa là trong mâm không có rau mục túc, như thế thì câu thơ tối nghĩa. Đối chiếu với câu thơ của Tiết Lệnh Chi chúng tôi tưởng có lẽ là “Bàn duy mục túc” (chữ “duy” và chữ “vô” dễ lẫn với nhau). Như thế thì câu thơ nghĩa là ăn thì chỉ toàn rau mục túc. Chúng tôi theo ý mà lấy rau muống thay vào món mục túc của Trung Quốc”.

Tác giả sách đã dùng suy luận cá nhân để hiệu đính lại chữ này, cho rằng chữ “duy” dễ lẫn với chữ “vô”.

Thực ra hai chữ đâu có giống nhau và cũng rất khó lầm lẫn được. Nếu hiệu đính cổ văn mà cứ nói rằng: “Chúng tôi tưởng có lẽ là… chữ “này” với chữ “kia” dễ lẫn với nhau” thì thiếu hẳn tính khoa học.

Theo ý chúng tôi thì câu này phải chép là: “Bàn vô mục túc tọa vô chiên” như tất cả các bản cổ đã chép. Nghĩa của câu ấy rất rõ ràng và nghĩa của nó lại còn sâu xa hơn nữa. Vì hai chữ “vô” trong một câu mới cực tả cái nghèo của tác giả. Nghèo đến nỗi cơm cũng chẳng có cả lá mục túc, ngôi cũng chẳng có tấm chiếu lót cho êm.

Sách đã dẫn câu thơ của Tiết Lệnh Chi: “Bàn trung hà sở hữu, mục túc Dương lan can” và đã dịch là “Trong mâm có gì đó ? Chỉ mục túc liên miên” (Lan can đâu phải là liên miên).

Cây mục túc mà lấy rau muống gọi thay và thì cũng không hợp vì nó là một loại cây leo mọc lan tràn trên mặt đất, lá nhỏ như lá rau ngót, hoa màu vàng, dùng cho trâu bò và ngựa ăn thay cỏ. Lá non thì người ta hái để ăn, nấu canh như nấu canh rau ngót nên nếu có gọi thay thì dùng rau ngót còn đúng hơn rau muống.

Chúng ta không thế suy đoán để hiệu đính nếu sự suy đoán ấy không có chứng cứ rõ rệt.

Trong Ức Trai thi tập có những chỗ cần phải hiệu đính lại thì không thấy làm. Thí dụ như trong bài 51, Mạn hứng, câu thứ 6: “Phần hương đối án ổ mai biên” (Đốt hương ngồi trước án bên cạnh cây mai ở sân).

Chúng tôi nhận thấy không có ai lại đem cái án sách kê bên cạnh cây mai ở sân cả.

Hai quyển Toàn Việt thi lục Tinh tuyển chư gia thi tập đã chép là:

“Tảo tuyết chử trà hiên trúc hạ,
Phần hương đối án các mai biên”.

thì hợp lý hơn. Hai câu ấy nghĩa là:

Quét tuyết, đun nước pha trà dưới mái hiên phía ngoài sân cỏ bụi trúc ở trước thềm.

Đốt hương, ngồi trước án đọc sách trong gác phía ngoài sân có cây mai ở bên cửa sổ.

Hai chữ hiên trúc đối với các mai xem ra chỉnh hơn là “hiên trúc” đối với “ổ mai”. Chúng tôi đề nghị nên hiệu đính lại câu thứ 6 bài Mạn hứng là: “Phần hương đối án các mai biên.”

Lại một thí dụ nữa:

Bài 50, Văn lập, câu thứ ba:

“Tiện sát sa biên song bạch điểu.”

cụ Đào Duy Anh đã chép là:

“Tiện sát hoa biên song bạch điểu(6)”

Chúng tôi nhận thấy bản Toàn Việt thi lục chép chữ (sa) thì hợp lý hơn.

Sa biên: ở bên bãi cát.

Hoa biên: ở bên hoa.

Câu thơ đó nên hiểu là “rất thèm được như đôi chim trắng bơi ở gần bãi cát”.

Các cảnh đó nó thực hơn là “đôi chim trắng bơi ở bên đóa hoa”.

Trong Nguyễn Trãi toàn tập câu này cũng không có hiệu đính lại.

Trong tập thơ Ức Trai thi tập cũng còn có những chữ phải hiệu đính lại, chúng tôi sẽ bàn đến vấn đề này trong một bài khác.

Qua năm phần trình bày về bản phiên dịch tập thơ Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi trong Nguyễn Trãi toàn tập, chúng tôi đã đóng góp một vài ý kiến, nhận xét để mong chỉnh lý lại bản phiên dịch.

Chúng tôi mong ước rằng lần tái bản tới, phần sao lục thơ chữ Hán sẽ được sửa chữa lại cho thật đúng và các phần dịch, dịch nghĩa cũng như dịch thơ, cùng phần phiên âm, chú thích được hoàn chỉnh hơn.

Nếu sau này quyển Ức Trai thi tập được phổ biến rộng rãi thì công của người phiên dịch không phải là nhỏ vậy.

N.Q.T

CHÚ THÍCH

(1) Nxb. KHXH in lần thứ hai năm 1976, có sửa chữ và bổ sung.

(2) Quyển Thơ văn Nguyễn Trãi của Nxb. Giáo dục, 1980 đã chép theo y như vậy không có sửa lại gì.

(3) Chữ 瓠 có nhiều âm: “hồ” hoặc “hộ” thì có nghĩa là quả bầu; “hoạch” thì dùng với chữ “lạc”; “hoạch lạc”mới là nông cạn.

(4) Bản Thơ văn Nguyễn Trãi của Nxb. Văn học chép “vô sử dụng” là sai.

(5) Trong Nguyễn Trãi toàn tập lại in sai “mái hiên”.

(6) Trong bài số 4, Loạn hậu cảm tác, cụ cũng dịch cô trung là lòng trung mồ côi; trong bài 97, Đồ trung ký hữu, cụ cũng dịch chữ “trung cô” là lòng trung phải mồ côi. Nhưng dịch như vậy cũng không lạ lùng bằng khi cụ dịch chữ cô chu (Bài 75, Trai đầu xuân độ) là chiếc thuyền mồ côi. Chữ “cô” có hai nghĩa; - trẻ mất cha mẹ gọi là cô - lẻ loi, trơ trọi, một mình cũng gọi là cô. Vậy cô chu phải dịch là chiếc thuyền lẻ loi mới đúng.

(7) Cụ Đào Duy Anh đã dịch là “Thèm chết bên hoa chim trắng dỡn”. Hai chữ “thèm chết” như trên đã nói, nghe không ổn.

TB

NÉT TÀI HOA RIÊNG CỦA TẢN ĐÀ TRONG THƠ DỊCH

TRẦN THỊ BĂNG THANH

Nhà thơ tạo được cho mình một phong cách riêng để “không lẫn với người” đã khó, người dịch thơ làm được điều đó càng khó bội phần. Bởi lẽ, dù cho nói rằng dịch là một sự tái tạo, một tư duy nghệ thuật, thậm chí một sự đồng sáng tạo đi nữa thì bao giờ người dịch cũng bị đứng trước một nội dung có sẵn, một vẻ đẹp nghệ thuật đã được hoàn chỉnh. Và dù thế nào thì bản dịch cũng phải đạt được hai yêu cầu: đúng và hay. Đúng có nghĩa là chuyển được đầy đủ, chân xác những điều tác giả muốn nói. còn hay có nghĩa là phải đạt được tiêu chuẩn thẩm mỹ. Như vậy về đại thể, yêu cầu trên buộc người dịch phụ thuộc tối đa vào nguyên tác, còn yêu cầu sau mới có chỗ trống dành cho dịch giả. Có thể là trong quá trình tìm cách đem lại vẻ đẹp nghệ thuật cho bản dịch, người dịch đã để lại dấu ấn của mình và do đó tạo nên được một phong cách riêng. Song chính ở điểm này các dịch giả và cả người đọc thường dễ không thống nhất với nhau cả về quan niệm và biện pháp xử lý. Tuy nhiên, trong hàng ngũ dịch giả, trong kho tác phẩm dịch, bản dịch hay không đến nỗi quá hiếm, người dịch có nhiều bài thơ dịch hay được công chúng xác nhận cũng nhiều. Bản dịch Chinh phụ ngâm, bản dịch Tỳ bà hành của dòng họ Phan, bản dịch Quy khứ lai từ của Phạm Huy Toại, bài thơ dịch Đợi anh về của Tố Hữu… là những bản dịch tuyệt hay: các nhà thơ Nhượng Tống, Nam Trân, Hoàng Tạo và nhiều dịch giả khác cũng có được nhiều bài thơ dịch hay, thậm chí có những bài không dễ gì thay thế. Và điều đó trong đời mỗi người dịch thế nào cũng có duyên may gặp gỡ đôi lần. Duy có điều tạo được phong cách riêng “không lẫn” thì quả thật là hiếm. Có lẽ mới chỉ có thi sĩ Tản Đà làm được.

Vậy thì điều gì đã làm nên phong cách nét tài hoa riêng của Tản Đà?

Trong sưu tập gần đây. Tản Đà có 84 bài dịch thơ Đường(1), ngoài ra còn một số bài dịch lẻ tẻ khác. Nhìn chung việc chuyển dịch đúng ý nghĩa nguyên tác, Tản Đà đã thực hiện một cách xuất sắc. Đọc cả 84 bài thơ dịch Đường thi cũng khó chỉ ra những lỗi đáng bắt bẻ. Thậm chí đôi khi bằng cách hiểu duy lý, ta những tưởng Tản Đà nhầm hoặc phóng tác, song ngẫm nghĩ kỹ thì quả là nhà thơ đã tinh tế hơn trong thẩm định và do vậy ông hiểu chính xác hơn. Thử nêu hai trường hợp nhỏ sau đây:

Trong bài Sinh biệt ly của Bạch Cư Dị, câu 7 và câu 8 như sau:

“Hồi khan cốt nhục khốc nhất thanh.
Mai toan, bá khổ cam như mật.”

Tản Đà dịch:

Trông nhau một tiếng khóc òa
Mơ chua, sung chát như là mật ngon.

Phần văn xuôi bổ sung của tập sách Thơ Đường dịch:

Ngoảnh trở lại thấy người ruột thịt khóc lên một tiếng.
Thấy chát như sung, chua như mơ mà ngọt như mật.

Rõ ràng câu thơ dịch của Tản Đà đúng hơn: đến lúc kẻ ở người đi, người thân phải khóc lên một tiếng thì cái vị chua của mơ, vị chát của sung cũng còn là mật ngọt (ý nói sự biệt ly còn cay đắng hơn nhiều).

Trong một bài khác, Tự khuyến cũng của Bạch Cư Dị, hai câu thơ ba, bốn Tản Đà đã chọn văn bản:

“Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,
Hà huống quan cung bất trị tiền.”

Và dịch:

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt,
Nữa chi lộc nước mất tiền chi.

Tản Đà đã không theo văn bản trong Bạch Hương Sơn thi tập:

“Thập niên nhất đẩu do xa ẩm,
Hạ huống quan cung bất trị tiền.”

Nghĩa là:

Một đấu bao năm thường uống chịu
Huống nay lộc nước mất tiền chi!
(Nguyễn Quảng Tuân dịch)

Ở đây Tàn Đà có lý, bởi bài thơ chỉ muốn nhấn mạnh cái chất hào của tác giả: phải cầm áo để uống rượu mà “mười nghìn ngày nay có lộc quan, không đáng kể gì”.

Tản Đà đã có những bài thơ dịch tuyệt hay: Trường hận ca, Phong Kiều dạ bạc, Hoàng hạc lâu, Đề từ sách Liêu Trai chí dị, Vấn Hoài thủy… trong đó Hoàng Hạc lâu, Phong Kiều dạ bạc, Đề từ sách Liêu Trai chí dị là những bản dịch từ khi công bố đến nay trải đã hơn năm chục năm vẫn chưa có đối thủ.

Tuy nhiên nói như thế mới chỉ là nêu ra những thành công, đóng góp của Tản Đà cho thơ dịch, đặc biệt là thơ Đường. Vấn đề là tìm ra nét tài hoa riêng của ông.

Một điều rất dễ nhận thấy trong khi chuyển dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt. Tản Đà đã biến đổi cách cảm nghĩ, cách diễn đạt rất trang nghiêm, sang trọng của nguyên tác thành những bài thơ tiếng Việt hết sức bình dị, dân dã. Tản Đà đã thành công khi sử dụng hai thể thơ dân tộc: lục bát và song thất lục bát. Quả thật đây là thế mạnh của Tản Đà. Rõ ràng có những bài dịch thơ Đường của Tản Đà đọc lên không còn thấy chút bóng dáng nào của nguyên tác mà cứ tưởng như đọc một bài ca dao, một khúc ngâm, một đoạn trữ tình của thơ Việt Nam. Ví như những bài sau đây:

VẤN HOÀI THỦY
(Bạch Cư Dị)
“Tự ta danh lợi khách,
Nhiễu nhiễu tại nhân gian.
Hà sự trường Hoài thủy,
Đông lưu diệc bất nhàn.”

Dịch là:

HỎI NƯỚC SÔNG HOÀI
Trong vòng danh lợi thương ta,
Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.
Việc chi, hỡi nước sông Hoài
Cũng không thong thả, miệt mài về Đông ?

Và bài :

KÝ VI CHI
“Giang Châu vọng Thông Châu,
Thiên nhai dữ địa mạt.
Hữu sơn vạn trượng cao,
Hữu giang thiên lý khoát!
Vân vụ,
Phi điểu bất khả việt.
Thùy tri thiên cổ hiểm,
Vị ngã nhị nhân thiết.
Thông châu quân sở đáo,
Uất uất sầu như kết.
Giang châu ngã phương khứ,
Thiều thiều hành vị yết.
Đạo lộ nhật quai cách,
Âm tín nhật đoạn tuyệt.
Nhân phong dục ký ngữ,
Địa viễn thanh bất triệt.
Sinh dương phục tương phùng.
Tử dương tòng tử biệt.”

Dịch là:

GỬI BẠN VI CHI
Châu Giang mà ngóng Châu Thông,
Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào.
Núi đâu muôn trượng kìa cao,
Dông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!
Mây che mù toả bao la,
Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm,
Hiểm xa còn đó ngàn năm.
Ai hay trời để chơi khăm đôi người,
Châu Thông bác mới tới nơi,
Mối sầu như thắt, ngậm ngùi chiếc thân.
Châu Giang tôi mới đi dần,
Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.
Quan hà ngày một chia khơi,
Tăm hơi càng bẵng tăm hơi một ngày,
Gió đưa muốn gửi câu này,
Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.
Sống còn gặp gỡ đôi ta,
Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.

GS. Trần Thanh Đạm cho rằng chính nhờ hai thể loại thơ dân tộc đó mà Tản Đà thành công, bởi vì “Khi dịch theo nguyên điệu, dịch phẩm khó sánh bằng, nói chi vượt hơn nguyên tác”, còn “chuyển thể, đặc biệt là chuyển từ thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn cố hữu của thơ Đường sang thể thơ lục bát và song thất truyền thống của thơ Việt”(2) thì “ý thơ Đường mà hồn thơ Việt, đồng thời lại là hồn thơ Tản Đà”(3). Cũng theo Trần Thanh Đạm “Dịch như thế thì thơ Việt đua tranh với thơ Đường, mỗi bên theo khả năng và sở trường của mình, có khi theo kịp nhau, có khi vượt lên nhau, nhưng phần lớn thì mỗi bên một vẻ, khó lòng so sánh được với nhau”(4).

Đúng là Tản Đà sở trường về hai loại thơ nói trên. Song thời ấy dịch thơ Đường, thơ Tống, thậm chí cả thơ Pháp theo thể lục bát và song thất lục bát là cách làm phổ biến, không riêng mình Tản Đà. Có điều không phải ai cũng thành công và bài nào cũng thành công. Chính Tản Đà cũng có những bài dịch theo thể lục bát không thành công. Và những trường hợp ấy nếu đem đối sánh với nguyên tác thì cũng sẽ xảy ra tình trạng “dịch phẩm khó sánh bằng”. Hơn thế, trong phần thơ dịch theo nguyên thể, Tản Đà cũng có những bài giữ vị trí “vô địch” không kém gì bài Hoàng hạc lâu, đó là Đề từ Liêu Trai chí dị, nguyên tác của Vương Sĩ Trinh, người đời Thanh. Bài thơ như sau:

“Cô vọng ngôn chi cô thính chi,
Đậu bằng qua giá vũ như ti.
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ,
Ái thính thu phần quỷ xướng thi.”

Tản Đà dịch:

Nói láo mà chơi, nghe láo chơi,
Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi.
Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc,
Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời.

Ở bài thơ dịch này không những tác giả theo nguyên thể mà còn giữ được cả cách lặp từ rất nghệ thuật của nguyên tác. Bài thơ có một từ rất khó dịch: vọng. Trong chữ Hán, vọng có nghĩa là không đúng, dối, càn rỡ. Tuy vậy những từ tương đương ấy không thể biểu đạt được ý của nguyên tác. Chỉ có Tản Đà với sự am hiểu sâu sắc chữ Hán, vốn từ ngữ Việt phong thú, cộng với tính cách ngông và tâm hồn giàu chất lãng mạn mới có thể phát hiện ra một từ rất đắt thể hiện được trung thành tứ thơ, đó là chữ láo và nhất là lại kèm theo một bổ ngữ chơi! Có thể nói không quá rằng Tản Đà là người duy nhất thành công trong việc dịch chữ vọng bằng chữ láo. Và bài dịch của ông chẳng những chuyển được hết ý của nguyên tác mà còn tạo thêm sự sắc sảo cho tứ thơ. Rõ ràng là vẻ chán chường trầm mặc của nguyên tác qua cách cảm, cách nói của Tản Đà đã khác hẳn, dẫu rằng vẫn chán chường đầy những ngông ngạo, bất cần đời thể hiện một thái độ phản kháng của còn người trước thời cuộc. Hơn mười năm sau Đào Trinh Nhất có dịch lại bài thơ này theo thể lục bát:

Cứ nói tràn, cứ nghe tràn,
Đêm mưa thánh thót trên giàn dậu dưa.
Chuyện người đã chán xưa giờ,
Thích nghe ma quỷ dưới mồ ngâm thơ.

Cả thể thơ dân tộc, cả sự sát ý nguyên tác, bài thơ dịch của Đạo Trinh Nhất vẫn không thành công. Và như vậy, về tổng thể, bài thơ dịch của thi sĩ họ Đào không chuyển được hết ý của nguyên tác. Cho hay không phải chỉ vấn đề thể loại mà cái chính là “Hồn thơ Tản Đà”.

Có thể rút ra mấy đặc điểm về thơ dịch của Tản Đà, đó là: bình dị, dân dã, tươi tắn, nhẹ nhàng, song không vì thế mà kém phần sâu sắc, mạnh mẽ và cả ngông ngạo, ngang tàng. Nhờ vậy, những bài thơ, tứ thơ Đường, cả những địa điểm và nhân vật, sự kiện, điển cố của Trung Hoa xa xôi đã trở nên gần gũi thân thiết và dễ hiểu, dễ cảm thông đối với đông đảo độc giả cận đại Việt Nam từ những người bình dân ít học đến những người trí thức tân học! Tản Đà có công lớn, là người đầu tiên trong việc đưa thơ Đường vào Việt Nam trong thời cận đại. Và đặc biệt là tạo nên cho nó một công chúng độc giả đông đảo, có nghĩa là tạo cho nó một đời sống văn hóa phong phú. Từ đó làm cho nền thơ Việt Nam giàu có thêm. Còn như nói về nguyên nhân thành công của ông thì phải chăng chỉ nên quy cho tâm hồn và tài năng thơ của chính thi sĩ mà thôi. Kết luận như thế, có vẻ là một điều muôn thuở. Nhưng quả là nếu không có một tâm hồn thơ tinh tế, phong phú, một tính cách ngông ngạo nhưng đa cảm và một tài năng tuyệt vời về ngôn từ, một vốn Hán học uyên thâm thì không thể có những văn thơ dịch đạt đến đỉnh cao như những bài tuyệt hay của ông.

T.T.B.T

CHÚ THÍCH

(1) Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyển Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh, 1989. Những bài thơ dẫn ở đây đều lấy từ sách này.

(2) Thơ Đường, tr.232, Sđd.

(3) Thơ Đường, tr.233, Sđd.

(4) Thơ Đường, tr.233, Sđd.

TB

VỀ MỘT VÀI TRƯỜNG HỢP HIỆU ĐÍNH VÀ PHIÊN ÂM THƠ NÔM

TRẦN LÊ VĂN

Trường hợp thứ nhất là mấy chữ trong bài thơ Cuối xuân của Nguyễn Trãi. Bài này cũng như những bài khác trong Quốc âm thi tập đều do nhà học giả Đào Duy Anh “phiên âm lại và chú giải” như đã nói rõ trong lời giới thiệu sách Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb. KHXH, H. 1976). Chúng ta đều biết nhà học giả lão thành Đào Duy Anh là người có cống hiến lớn trong lĩnh vực sử học và văn học của dân tộc. Riêng Nguyễn Trãi toàn tập là một công trình rất bổ ích, đòi hỏi nhiều trí lực của học giả. Tuy nhiên, dù thông tuệ đến mấy, người làm công tác học thuật vẫn có thể vấp phải những sai sót trên mảnh đất của mình. Sai sót chỗ nào thì cùng bàn cùng sửa. Dẫu là lời bàn góp của một kẻ hậu học thô thiển cũng không hẳn là vô ích.

Trong bài Cuối xuân của Nguyễn Trãi, hai câu 3, 4 bản phiên âm của Đào Duy Anh ghi:

“Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi
Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân.”

Giở xem phần chú thích - cũng của cụ Đào, ta đọc:

Kiếp thiếu niên đi: Đời tuổi trẻ đi không trở lại.

Ốc (?) dương hòa lại: Chữ đầu là ốc - không rõ nghĩa là gì, theo nghĩa cả câu thì ốc (?) dương hòa phải nghĩ là khí dương hòa, tức khí ấm áp của mùa xuân…

Ngõ dừng chân: Ngõ hầu, tức là sẽ có thể dừng chân lại để hưởng khí dương hòa.

Sau một hồi suy nghĩ, tôi tìm ra cách chỉnh lý và làm sáng tỏ mấy điểm trong phiên âm và chú thích. Trước tiên, hãy nói đến chữ “kiếp”. Thiết tưởng trong văn cảnh câu thơ này, kiếp phải nôm hóa là cướp mới đúng. Trong ngôn ngữ thường dùng cũng như ngôn ngữ văn học, người ta nói kiếp người, đời người chứ không ai nói kiếp thiếu niên, đời tuổi trẻ. Thiếu niên hay tuổi trẻ chỉ là một chặng của kiếp người, đời người.

Cướp thiếu niên đi, thương đến tuổi.

Ngày tháng trôi đi vùn vụt, cướp mất tuổi trẻ của ta, khiến ta tiếc thương tuổi tác của mình. Chữ cướp mạnh biết bao! Gợi cảm giác bàng hoàng nuối tiếc biết bao ! Ngót bốn thế kỷ sau, Nguyễn Du cũng có tâm trạng tương tự. Trong thơ chữ Hán Tạp thi (bài I), Nguyễn Du viết:

“Xuân lan thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
(Cái thú thưởng thức lan mùa xuân, cúc mùa thu thành chuyện hão.
Thấm thoát đông rét hè nóng cướp mất tuổi trẻ của ta).

Đến chữ ốc. Xin thưa rằng ốc là một động từ cổ trong tiếng Việt, có nghĩa là gọi. Ngày xưa các cụ nói “ốc đó” tức là “gọi đó”. Trong vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ, tác giả cho biết:

Có gã thư sinh,
Danh ốc Lưu Bình.

“Danh ốc” là “tên gọi”.

“Ốc dương hòa lại…” là “Gọi hơi ấm mùa xuân trở lại”. Còn chữ ngõ đúng là ngõ hầu như cụ Đào nói. Nhưng cách giải thích của cụ là “sẽ có thể” thì chưa thật chính xác. Từ điển Việt Pháp của Giê-ni-bren (Genibrel) xuất bản năm 1898 viết chữ ấy và giải thích: “Ngõ là để cho, để mà. Thí dụ: Ngõ hay: để cho mọi người biết; Ngõ toàn hai chữ thủy chung”; để cho vẹn toàn hai chữ thủy chung”. Giải thích như thế là chính xác. Vậy câu:

Ốc dương hòa lại, ngõ dừng chân.

có nghĩa là:

Gọi dương hòa lại để dừng chân.

Hai câu thơ đi sóng đôi với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên ý sâu, tứ lạ. Ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn thấy thơ ấy tân kỳ:

“Ngày tháng trôi đi vùn vụt, cướp mất tuổi trẻ của ta, khiến ta tiếc thương tuổi tác của mình. (Vì vậy) ta muốn gọi hơi ấm mùa xuân trở lại để ta được dừng chân một chút trên dòng chảy của thời gian.”

Tâm trạng nuối tiếc thanh xuân day dứt nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Trong mười ba bài Tức cảnh của ông dù ta lượm vội cũng được những câu hay:

“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
Biển xanh nỡ phụ cười đầu bạc,
Đầu bạc xưa này có thuở xanh.
Thấy cảnh, lòng thơ càng vấn vít,
Một phen tiếc cảnh một phen thương.”

Tâm trạng này lý giải vì sao câu thơ “Cuối xuân” của Nguyễn Trãi nảy ra chữ “cướp” oán trách thời gian một cách kịch liệt đến thế.

Xin trở lại chữ “ốc” một chút. Nhà học giả Đào Duy Anh rất băn khoăn với chữ này. Trong cuốn sách nghiên cứu rất công phu của cụ, nhan đề là Chữ Nôm - nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến (Nxb. KHXH, H. 1975), chữ “ốc” sử dụng trong nhiều văn bản Nôm cổ khác nhau được cụ nêu lên và tìm cách giải nghĩa. Thí dụ trong bài phú Vịnh chùa Hoa Yên viết vào thời Trần có câu: “Chim ốc bạn cắn hoa nâng cúng.”

Cụ Đào cho rằng ốc là một thành phần trong từ ghép eo óc (Tiếng gà eo óc suốt năm canh). Thiết nghĩ không phải thế! Eo óc tả trạng thái của tiếng gà gáy gấp gáp mà gợi buồn, gần dồng nghĩa với xao xác. Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm có câu: “Gà eo óc gáy sương năm trống”. Còn ốc thì rõ ràng là gọi “Chim ốc bạn” là “chim gọi bạn”. Ở đây, chim gọi bạn, ngắt hoa ngậm vào mỏ dâng lên cúng Phật. Không khí ríu rít vui, có gì eo óc đâu !

Trường hợp thứ hai là một chữ trong Văn tế chiêu hồn của Nguyễn Du. (Bài này còn được gọi là Văn tế thập loại chúng sinh hay Chiêu hồn ca). Thiên tài Nguyễn Du đau xót trước những thảm cảnh của xã hội thời ấy đã vẽ nên một bức tranh “âm khí nặng nề” mà tuyệt vời sinh động. Từng đoàn từng lũ những bóng ma “lôi thôi bồng trẻ dắt già” lang thang khắp nẻo:

Hoặc là vơ vẩn đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Trước kia, trong nhiều cuốn sách, người ta vẫn viết “lau tre” như thế. Nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra một sự vô lý. Trong văn cảnh, Nguyễn Du đang tả những nơi quạnh hiu, hoang vắng, những nơi lui tới của các loại hồn ma. Ở nơi ngổn ngang gò đống; ở nơi um tùm lau sậy thì làm gì có tre? Ngạn Ngữ có câu “Sáng trông tre, đêm nghe gà gáy” để tả cảnh xóm làng phồn thịnh. Vậy cây tre đứng trong câu thơ này là không đúng chỗ. Nghĩ thế, anh Xuân Diệu bèn sửa tr thành ch: Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau che.

Phát hiện ra chữ phiên âm sai và sửa lại như vậy, cũng đã là tinh, nhưng xem ra vẫn có điều chưa ổn. Trong thơ lục bát xưa có luật tiểu đối (mà nay có người có lúc còn áp dụng). Vế trước của câu bát có gò đống là hai danh từ ghép lại với nhau thì vế sau cũng phải có hai danh từ ghép lại như thế mới cân đối. Lau che là danh từ đi với động từ, đối sao cho chỉnh? Vả lại cái động từ che gợi một cái gì kín đáo, ấm áp cũng không hợp với nơi mộ địa hoang vu.

Cách đây khá lâu, một sự tình cờ đã giúp tôi tìm ra chữ đúng. Ngày ấy huyện Tùng Thiện (thuộc Sơn Tây cũ) chưa hợp nhất với hai huyện Quảng Oai, Bất Bạt để thành huyện lớn Ba Vì (thuộc Hà Nội) như ngày nay. Tôi lên Tùng Thiện tìm hiểu tình hình “phủ xanh đồi trọc” để sáng tác về đề tài đó. Các cụ trong làng dẫn tôi leo trèo xem xét những quả đồi hoang. Chẳng có cây cối gì ngoài những đám cây lau, hoa bạc trắng và những đám cỏ gì hoa cũng trắng bạc như hoa lau. Các cụ cho biết: đấy là cỏ gie. Và các cụ nói:”Trước kia đồi gò ở đất chúng tôi phần nhiều bỏ hoang, không trồng trọt gì, chỉ để lau gie mọc. Nay chúng tôi vỡ hoang dần và đã trồng được nhiều bạch đàn…”. Lau gie, Thôi, đích thực rồi ! Xuýt nữa tôi reo lên: Ơ-rê-ka! Thì ra cái chữ cuối cùng của câu thơ kia không phải là tre, cũng không phải là che mà là gie:

Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau gie.

Tôi mới chợt nhớ ra rằng có một giống mía thân nó khẳng khiu, hoa nó phơ phất như hoa lau, người ta gọi nó là mía gie. Về sau hỏi ra mới biết cái từ ghép lau gie được dùng nhiều ở vùng trung du Sơn Tây nhiều hơn ở nơi khác, Sơn Tây là một vùng đất quen thuộc của Nguyễn Du. Mồ côi cha mẹ, ông đã ở đấy với người anh lớn là Nguyễn Khản từ năm mười ba tuổi (1778). Năm ấy Nguyễn Khản được cử làm trấn thủ Sơn Tây. Sau đó một thời gian, Nguyễn Hiếu, một người anh khác của Nguyễn Du cũng được cử làm trấn thủ Sơn Tây, thay Nguyễn Khản. Và Nguyễn Du lại có dịp lui tới xứ Đoài. Đi đến đâu, sống ở đâu, Nguyễn Du cũng chăm chú học lời ăn tiếng nói dân gian, như ông đã tự bộclộ trong bài thơ Thanh minh ngẫu hứng:

Thôn ca sơ học tang ma ngữ.
(Nghe tiếng hát nơi thôn xóm, ta bắt đầu học được ngôn ngữ của người trồng dâu trồng gai).

Chắc hẳn lau gie của đất trung du Sơn Tây đã vào thơ Chiêu hồn của Tố Như.

Trường hợp thứ ba là một chữ trong bài thơ của Trịnh Sâm.

Tĩnh Vương Trịnh Sâm là người thích du ngoạn những nơi danh lam thắng cảnh . Đến đâu ông cũng đề vịnh bằng thơ Nôm hoặc thơ chữ Hán. Thơ của ông có phần dồi dào về cảm hứng và trau chuốt về ngôn từ. Ông mến cảnh chùa Hương Tích và đến đây nhiều lần. Ông làm khá nhiều thơ Nôm và thơ chữ Hán ngợi ca những điểm thắng cảnh trong khu vực Hương Sơn. Năm chữ “Nam thiên đệ nhất động” khắc trên cửa động Hương Tích chính là bút tích của Trịnh Sâm, khắc vào vách đá tháng ba năm Canh Dần (1770). Tôi biết rõ điều này vì mùa xuân năm 1973, nhân vào thâm nhập thực tế của thắng cảnh để chuẩn bị viết quyển bút ký Thung mơ Hương Tích (Nxb. Văn hóa - 1976), tôi đã bắc thang leo lên vách đá trơn rêu, đọc dòng lạc khoản chữ nhỏ khắc bên cạnh năm chữ to ấy. Dòng lạc khoản đề: Canh Dần, Quý xuân - Đại nguyên soái tổng quốc chính, sư thượng Tĩnh Vương đặc bút. Cũng năm Canh Dần, Trịnh Sâm cho khắc hai bài thơ Nôm của ông trong thắng cảnh. Bài đề chùa Tuyết Sơn, trước kia chưa có sách vở tài liệu nào giới thiệu tôi đã phiên âm và giới thiệu trong quyển Thung mơ Hương Tích. Bài đề chùa Tiên Sơn, trước kia đã có nhiều sách giới thiệu và đều ghi như sau:

Chợt khỏi Thiên Trù thoạt rẽ lên,
Che che cửa động một đường len.
Chở mây quanh quất lồng hương Phật,
Gõ đá vang lừng thét nhạc tiên.
Bảo cái đùn đùn trên bảo tọa,
Kim quan chăm chắm trước kim liên.
Thanh sa dấu cũ còn di để,
Quyến được xe loan biết mấy phen.

Leo lên vách đá, rà lại bài thơ trong nguyên bản, tôi lấy làm ngạc nhiên, không hiểu sao chữ thứ 5 trong câu 4, các bản phiên âm cũ ghi là thét. Thét nhạc tiên ! Ôi ! vì sao nhạc tiên lại thét? Có lẽ người ta cho rằng thét nhạc thiết nhạc, tức là bày ra nhạc, đặt ra nhạc chăng ? Thực ra, cái chữ khắc trong nguyên bản chẳng dính gì đến thét hay thiết cả. Chữ ấy viết là (tài gẩy bên chữ lỗi) âm cũ là lỗi, chuyển sang âm hiện đại là trỗi : “Gõ đã vang lừng trỗi nhạc tiên.” Gõ vào các nhũ đá thì nhạc tiên trỗi dậy. Chữ nghĩa tuyệt hay! Mà lại đúng với cảnh chùa tiên. Trong hang động này có nhiều nhũ đá đẹp và có âm thanh phong phú. Gõ vào đó thì vang lên tiếng trống, tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng khánh…

T.L.V

TB

VỀ BÀI THƠ NÔM CỦA BÙI XƯƠNG TRẠCH "ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG"

TẢO TRANG

Tạp chí Hán Nôm số 2-1988 (tr.85) có đăng bài Đêm trung thu không trăng, một bài thơ Nôm thời Hồng Đức của Nguyễn Đăng, phiên âm và chú thích bài thơ của Bùi Xương Trạch (1451 - 1529) tác giả bài Quảng văn đình ký nổi tiếng. Đây là một bài thơ cổ có giá trị “đáng được tuyển chọn vào tập thơ Nôm thời Hồng Đức” như tác giả bài báo viết. Để hiểu rõ thêm về tác phẩm này, xin góp thêm mấy ý nhỏ sau đây:

1. Về trường hợp xuất hiện bài thơ

Thanh Trì Bùi thị gia phả cho biết: Bùi Xương Trạch xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, mồ côi mẹ từ bé, lại có em nhỏ con bà kế, nên phải làm mọi việc đồng áng giúp cha. Vốn hiếu học, khi đi cày, ông vẫn mang sách theo, lúc nghỉ lại miệt mài đọc. Làm ruộng ban ngày, chiều đến lại cắt cỏ đưa lên kinh thành (làng Giáp Nhị quê ông cách xa khoảng hơn dặm đường về phía nam) cung cấp cho đàn ngựa trong triều. Một buổi vừa tiết trung thu lại đúng vào kỳ nguyệt thực, vua bảo thị thần làm thơ vịnh. Ông nghe thấy bèn làm bài thơ quốc âm (gia phả ghi bài thơ). Thơ tâu lên, vua rất khen, tặng thưởng, hỏi tên họ và ban cho hạng “nhiêu học” (Tức người học khá, được miễn lao dịch - TT). Ông nhận thưởng đi về, trên đường gặp nhiều đóm ma trơi ngang lối. Ông khấn: “Tôi vốn là người chính trực, các người linh thiêng, xin tiễn tôi về nhà”. Đám ma trơi liền tản ra hai bên, đưa ông về đến làng. Ông cho rằng được Trời phù hộ nên được an toàn, con đường vinh hiển rộng mở trước mắt, nên càng chăm chỉ học tập. Hai năm sau (1478) ông thi hội đầu tiên, đỗ Tiến sĩ.

2. Về cách phiên âm và chú thích

So sánh với bản chép trong cuốn gia phả họ Bùi ở Giáp Nhị mà tôi hiện có, thấy có mấy chỗ nghĩ nên sửa lại như: (viết tắt nv: nguyên văn bản phiên âm trong Tạp chí Hán Nôm; gf: bảng gia phả chữ Hán họ Bùi).

Câu 1 nv: Lề la vặc vặc rạng tơ hào, gf: (lệ la) có lẽ phải đọc “lượt là”. “Lượt là vằng vặc rạng tơ hào” tả ánh trăng trung thu ở những đêm bình thường không có nguyệt thực, ánh sáng thanh trong như dải lụa mỏng (dải lượt dài là).

Câu 4 nv: Há rằng ngọc thỏ hèn sao. gf: (hay lao). Chữ “lao” chuyển sang nôm có thể đọc thành “sao”, nhưng trong văn cảnh hiện tại nên giữ nguyên âm. Cả câu “Há rằng ngọc thỏ hay lao” có nghĩa: “Há rằng con thỏ ngọc hay lao mình (chạy rông đi mất).

Câu 5 nv: Hằng Nga chiếm lấy làm song viết. gf: (lấy đế vi song viết). “Đế” đọc sang nôm là “đấy”. “Vi” có lẽ xưa dùng để viết từ “làm”, cũng như dùng “hựu” để ghi âm “lại”, “áng” để ghi âm “dám”, “tửu” để ghi âm “rượu” (X. Bảng tra chữ nôm, Nxb Khoa học xã hội, 1976). “Song viết” có thể đọc là “rông vát”, theo lối phiên âm của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn. Cả câu: “Hằng Nga lấy đấy làm rông vát” có nghĩa: “Hằng Nga nhân dịp đó (nguyệt thực) mà đi rong chơi”.

Câu 6 nv: Thục đế tuồng ni dám ước ao. Gf: kiều, phiên âm nôm là “kẻo”. Để hiểu rõ câu này, xin ghi thêm điển “Thục đế”. Thục đế chỉ Ngô Hi, thời Khánh Nguyên (1195 - 1200) đời Tống Ninh Tông, giữ chức Tứ Xuyên Tuyên vũ Phó sứ, kiêm tri Hưng Châu tự xưng là Thục Vương, cho dựng cung điện ở Thành Đô, sau bị Dương Cự Nguyên đánh bắt, chém đầu dâng về triều. Trước khi mưu phản, Ngô Hi có lần đi săn về vào giữa tiết thu, thấy trong mặt trăng có hình người cưỡi ngựa mang roi giống như mình, hỏi những người đi theo đều trả lời thấy như vậy. Y nghĩ thầm: mình tất đại quí, người trong trăng là chính mình. Bèn giơ roi ngựa lên cao vái chào, người trong trăng cũng giơ roi đáp lễ. Âm mưu làm phản nảy sinh từ đó (X. Tăng bổ sự loại thống biên q.1, mục “Nguyệt” dẫn sách Trình sứ của Nhạc Kha đời Tống).

Cả 2 câu 56 trong bài thơ ý nói: Hằng Nga nhân đấy có dịp đi chơi rong, còn Thục Vương khỏi có những ước vọng cuồng dại (do không thấy người cầm roi trong trăng).

Câu 7: Mưa đắng đêm nay trăng thấy nguyệt. gf: trong, âm Nôm “chăng, chẳng”.

Cả bài thơ phiên âm lại như sau:

Lượt là vằng vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ nao?
Nhân bởi hắc vân ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ hay lao.
Hằng Nga lấy đấy làm rông vát,
Thục Đế tuồng ni kẻo ước ao.
Mựa đắng đêm nay chăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế càng cao.

Bài thơ rất chỉnh cả từ lẫn ý. Hai câu đầu nói rõ đầu đề: đêm rằm trung thu mọi khi ánh trăng sáng mượt mà như là như lượt, nay sao mịt mù? Câu 3 - 4 trả lời câu hỏi: do hiện tượng nguyệt thực, mặt trăng mất dần như có mây đen che phủ trên cao, đâu có phải do con thỏ ngọc lao đi mất. Câu 5 - 6 dùng hai điển tích về mặt trăng để nói tới mặt hay của nguyệt thực: chị Hằng Nga có dịp đi chơi rong, còn anh chàng Ngô Hi tự xưng là Thục Vương khỏi thấy người cầm roi trên mặt trăng khiến nảy sinh ước vọng bất chính. Hai câu kết đầy lạc quan đêm nay không có trăng, nhưng sau đây trăng lại sáng, cây quế trong trăng càng vươn cao. Đối với một người đang học để đi thi, câu kết đầy ý nghĩa: quế càng vươn cao, việc vin cành quế, bẻ cành quế (biểu tượng của sự thi đỗ) càng khó khăn và có giá trị tương ứng với danh vị cao trong khoa cử. Và thực tế sau khi làm bài thơ này, một năm sau, Bùi Xương Trạch đỗ Hương cống và năm sau nữa (1478) ông đỗ Tiến sĩ, đứng thứ 15 trong số 45 ông Nghè tam giáp tân khoa. Người ta còn cho rằng hai câu cuối của bài thơ không chỉ ứng nghiệm vào bản thân ông là tác giả, mà còn ứng nghiệm với cả dòng họ ông. Bùi Xương Trạch đã là ông tổ đầu tiên hiện đại, mở đầu cho nhiều thế hệ nối tiếp đã có những công tích chói lọi bậc nhất dưới thời Lê Trung hưng. Lê Quí Đôn trong Kiến văn tiểu lục đã viết về ông như sau: “Con cháu sinh sôi nảy nở, công nghiệp rạng rỡ vẻ vang từ đầu đời Trung hưng, bầy tôi kế thế, tộc thuộc lớn lao, nói đến nhà quí hiển nhất chỉ có họ Bùi mà thôi”. (Bản dịch Phạm Trọng Điểm, Nxb. Sử học, 1963, tr.535)(1).

T.T

CHÚ THÍCH

(1) Về Bùi Xương Trạch và bài thơ Nôm trên xin xem thêm bài Bùi Xương Trạch trong Danh nhân Hà Nội, Tập 2, Hội Văn nghệ Hà Nội, 1976, tr.125-135.

TB

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC MỘT SỐ LOẠI HÌNH ẤN TRIỆN TRIỀU NGUYỄN (*)

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Sự chấm hết của Chương cũng là sự định hình hoàn toàn của loại Ấn triện mới với tên gọi QUAN PHÒNG. Ấn Quan phòng chỉ xuất hiện trong thời kỳ nhà Nguyễn và tồn tại đến năm 1945 khi vua Bảo Đại thoái vị.

Quan phòng: nghĩa là giữ gìn chỗ quan ải. Những việc hệ trọng nơi quan ải, thường có liên quan đến việc phân bổ quan chức mang tính chất khâm sai, lâm thời biệt phái. Từ ý nghĩa chức vụ được điều hành đó, “Quan phòng” đã được chuyển thành 2 chữ cuối cùng khắc trên quả ấn. Ấn này được gọi là ấn Quan phòng. Ngay từ đời Gia Long, bên cạnh những ấn lớn và kiềm nhỏ, một số quan lớn đã được cấp ấn Quan phòng nhỏ, dùng với ý nghĩa chức vụ của mình. Ấn Quan phòng, từ khi nhà Nguyễn dựng nghiệp cho đến đầu đời Minh Mệnh, chỉ xuất hiện với những ấn dấu loại nhỏ. Phải đến năm Minh Mệnh 13 (1832) với việc thay đổi cơ cấu quan chức, với việc thành lập cấp tỉnh và bổ nhiệm những chức quan mới như Tổng đốc, Tuần phủ, Lãnh binh v.v… đồng thời, với việc bỏ không dùng Chương, thì ấn Quan phòng mới được định hình hoàn toàn. Nếu định nghĩa thì Quan phòng là ấn chức vụ của các chức quan ở cấp lãnh đạo.

Quan phòng bao giờ cũng được làm theo hình chữ nhật. Chữ triện khắc tên Quan phòng thường xếp theo chiều dọc: hai hoặc ba hàng. Khi áp trên văn bản, dấu có hình chữ nhật đứng. Việc chế tạo cũng như việc dùng Quan phòng được qui định theo khuôn cỡ, kích thước rõ ràng. Đại Nam điển lệ ghi(2): “Lệ năm Minh Mệnh (1831) định các quan Tổng đốc(3), Tuần phủ(4) ở các tỉnh, ấn Quan phòng từ cái chỏm ấn trở xuống, dài 2 tấc 5 phân, ngang 1 tấc 4 phân… Ấn các quan Đề đốc(5), Lãnh binh(6) dài 1 tấc 8 phân, ngang 1 tấc 2 phân. Ấn của quan Đốc học(7) dài 1 tấc 6 phân 2 ly, ngang 1 tấc 1 phân”.

Cũng như Ấn, Quan phòng có hai loại to và loại nhỏ. Loại to tạm gọi là Quan phòng lớn, như Quan phong (ấn chính) của các chức Tổng đốc, Tuần phủ, Đề đốc, lãnh binh. Loại nhỏ, tạm gọi là Quan phòng nhỏ, ấn chức vụ (ngoài ấn lớn cơ quan) của chức quan Thượng thư, Tham tri ở các bộ; các quan chức Đô thống phủ thống chế bên quân đội v.v… Như vậy Quan phòng lớn - nhỏ không đi theo cặp cùng một nội dung như Ấn - kiềm, mà tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi chức quan. Những chức quan được dùng quan phòng lớn với kiềm nhỏ theo cùng cặp là kiềm hình vuông. Ví dụ Quan phòng của Tổng đốc Hà Ninh là “Hà Nội Ninh Bình Tổng đốc quan phòng” và kiềm nhỏ hình vuông khắc 4 chữ: “Hà Ninh Tổng đốc”(8).

Việc đóng ấn Quan phòng trên văn bản cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đối với quan phòng lớn: “Đại Nam điển lệ” ghi: Lệ năm Minh Mạng 13 định… Các ấn (quan phòng, ấn) nói trên đều dùng hộp son đóng trên chữ nguyệt ở dòng niên hiệu”(9). Đối với quan phòng nhỏ “Minh Mệnh chính yếu” cũng đã ghi: “Vua chuẩn định cho các quan trong triều, phàm tờ tấu nào, dưới chỗ ký tên được đóng ấn Quan phòng, chỗ niên hiệu đóng ấn Công đồng…”(10).

Xem xét những văn bản gốc thuộc kho châu bản triều Nguyễn (kho lưu trữ T.W II, Tp. HCM). Chúng tôi thấy rất nhiều dấu quan phòng nhỏ, đóng dưới chỗ ký tên như trên đã nói. Đây là những quan phòng chức vụ của những chức quan khác nhau ở những cơ quan khác nhau. Những dấu này được áp trên cùng một văn bản chữ Hán, mang niên đại các vua thời Nguyễn sơ. Những văn bản đó có liên quan đến hội nghị Công đồng (sau này đặt là Hội nghị Đình thần). Nó là những cứ liệu trung thực giúp ích trong vấn đề nghiên cứu lịch sử đương thời. Từ khi còn chống nhau với Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã lập ra sở Công Đồng. Đây là một cơ quan Công nghị, tập trung những phần tử ưu tú. Tổ chức này đóng vai trò rất lớn trong chiến thắng mà Nguyễn Ánh đã giành được từ tay nhà Tây Sơn. Trong đời Gia Long và những đời vua tiếp, Hội nghị Công đồng vẫn được mở thường kỳ mỗi tháng 1 lần (kỳ họp 4 ngày liền). Vua tham khảo ý kiến đình thần để quyết định những việc trọng đại. Trên văn bản (Biên bản ghi nội dung cuộc họp) dấu lớn “Công đồng chi ấn”(11) có cỡ 9,6x9,6cm đóng chỗ ghi niên hiệu. Phía dưới là một loạt Quan phòng nhỏ đóng dưới chỗ ký tên. Mỗi ấn quan phòng nhỏ đại diện cho một cơ quan hành pháp hay tư pháp tối cao. Quy định thành phần dự: Quan văn phẩm trật từ Tòng nhị phẩm trở lên, quan võ từ Chánh nhị phẩm trở lên (qui định sau này có hạ xuống 1 trật). Trên văn bản hội nghị, qui định này cũng thể hiện rõ ngay bằng kích thước các dấu Quan phòng nhỏ. Quan phòng của Thượng thư có cỡ 2,5x3,8cm như “Lễ bộ thượng thư quan phòng” của Tả hữu Tham tri, Tả hữu thị lang, Biện lý (chức có sau này). Quang lộc tự khanh đồng cỡ: 2,1x3,8 cm như “Binh bộ tả tham tri quan phòng” của Đô thống phủ Đô thống trưởng phủ sự cỡ 3x4,2 cm như “Hậu quân đô thống phủ quan phòng” v.v…

Điểm đáng chú ý ở đây là việc đặt ra quan phòng lớn và quan phòng nhỏ có liên quan đến quy chế quan chức triều Nguyễn. Quan Tổng đốc nếu xét về chức vụ phẩm hàm thì cũng ngang với quan Thượng thư(12) các Bộ. Nhưng Tổng đốc lại dùng Quan phòng lớn còn Thượng thư dùng Quan phòng nhỏ. Giở lại quan chế triều Nguyễn ta thấy Tổng đốc là quan đứng đầu liên tỉnh. Tổng đốc vừa là chức quan cao nhất ở địa phương, vừa mang tính chất một khâm sai đại thần tại địa phương. Quản hạt của Tổng đốc không có danh xưng mà chỉ dùng tên địa phương để gọi. Nên Tổng đốc dùng Quan phòng lớn làm ấn dấu chính, bên cạnh có kiềm nhỏ. Còn Thượng thư đứng đầu một cơ quan cấp Bộ, nên dùng Ấn làm ấn dấu chính; bên cạnh có kiềm nhỏ và Quan phòng chức vụ.

Quan phòng lớn của Tổng đốc và Tuần phủ đối với một địa phương rất quan trọng. Ở các tỉnh không có Tổng đốc Tuần phủ, mỗi khi có việc cơ mật, quan Bố chánh(13) và Án sát(14) phải họp với nhau, thì công văn đóng liền 2 ấn lớn cơ quan đệ trình lên quan Tổng đốc Tuần phủ kiêm quản hạt mình, không được trình thẳng lên triều đình. Còn tất cả văn bản có quan phòng lớn của Tổng đốc, Tuần phủ thì được trình thẳng, không thời hạn. Lệ về ấn, Quan phòng đối với các chức quan cấp tỉnh được Đại nam điển lệ ghi: “Lệ năm Minh Mệnh thứ 14 định rằng phẩm hạt nào, gồm có các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh và Án sát cùng một tỉnh, khi gặp có khuyết một trong bốn chức nói trên, thì ấn triện của quan Tổng đốc chuẩn giao cho quan Tuần phủ tạm giữ; Ấn triện của quan Tuần phủ chuẩn giao cho quan Tổng đốc; ấn triện của quan Bố hay quan Án đều chuẩn giao cho quan Tổng đốc; Nếu khi ấy không có quan Tổng đốc thì giao cho quan Tuần phủ, Hạt nào chức hàm Tổng đốc mà lĩnh Tuần phủ, hay hàm Tuần phủ mà Thự Tổng đốc quan phòng cùng với quan Bố, quan Án một tỉnh, khi khuyết chức nào thì ấn triện quan Bố, hay quan Án đều giao cho quan Tổng đốc hay Tuần phủ tạm giữ…(15)

Giới thiệu tiếp 1 dấu Quan phòng lớn đóng trong tập Công văn cựu chỉ(16). Dấu hình chữ nhật đứng cỡ 5,6x9. Viền ngoài để đậm 0,1- 0,6cm chữ triện xếp theo chiều dọc 2 hàng. Kiểu chữ vẫn vuông thẳng như đời Gia Long, nét chữ đã có mềm và đơn giản hơn. Đó là 6 chữ “Ninh Bình tuần phủ quan phòng”.

(Xem ảnh 1) là Quan phòng của quan Tuần phủ tỉnh Ninh Bình. Dấu được áp trên văn bản có ghi dòng chữ “Minh Mệnh thập tam niên nhị nguyệt sơ thập nhật”. Dấu đề trên năm chữ cuối dòng. Như vậy dấu đóng vào ngày 11 tháng 2 năm Minh Mệnh 13 (1832). Đây là minh chứng cụ thể cho luận cứ trên.

Giới thiệu tiếp 1 Quan phòng nhỏ áp trên văn bản, trong một cuộc họp Đình thần năm Tự Đức 13 (1860)(17). Dấu hình chữ nhật đứng, cỡ 2,5x3,8cm, 6 chữ triện chia làm 3 hàng. Nét chữ đơn giản dễ đọc. Đó là 6 chữ “Lại bộ thượng thư quan phòng” (xem ảnh 2). Đây là dấu của quan Lại bộ Thượng thư sung quản lĩnh thị vệ đại thần Tôn Thất Thường.

Thuộc dạng Quan phòng lớn, bên quân đội nhà Nguyễn có nhiều chức được dùng như dấu “Thống đốc tiễu bổ quân vụ quan phòng” cỡ 5,5x7,8cm, dấu “Tham tán quân vụ quan phòng” cỡ 5,2x7,5cm v.v… Quan phòng cấp tạm thời cho người đi làm công vụ, được quyền thay mặt vua định đoạt mọi việc, khi về lại trả lại ấn, như dấu “Khâm sai quan phòng” cỡ 5,5x7,5cm. “Khâm phái quan phòng” cỡ 4,5x6,2cm. Ngoài ra còn những ngạch khác, như chức quan phụ trách thương thuyền được dùng các dấu như dấu: “Quản lý thương thuyền quan phòng” cỡ 6,2x9cm v.v… Loại này thuộc dạng quan phòng nhỏ, có nhiều chức quan được dùng. Ngạch võ như dấu “Thần cơ thống chế quan phòng” cỡ 2,5x5,8cm, “Trung quan đô thống phủ quan phòng” cỡ 3x4,2cm v.v…

Quan phòng nhỏ ở Nội các như dấu “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” cỡ 3x4,2cm. Ở các ngạch khác như kho vũ khố dấu là “Vũ khố quan phòng” cỡ 3x4,2cm v.v…(18)

Một loại hình ấn triện nữa tuy xuất hiện với số lượng ít, nhưng cũng phải được xếp vào danh mục các loại hình ấn triện, ngang hàng với Ấn, Chương, Quan phòng. Đó là ĐỒ KÝ: Đồ ký được dùng cho các quan dưới chức quan lớn chính ngạch, thường là các quan nhỏ: quan phụ trách phân Phủ, Huyện thừa, Giáo thụ, Huấn đạo. Trưởng quan các Ty. Chức quan đứng đầu các Vệ, Thuyền bên quân đội…

Như chúng tôi đã trình bầy, việc phân chia khu vực hành chính, phân cấp địa phương có liên quan đến việc thay đổi và bổ sung ấn triện. Thời Nguyễn sơ, ngay từ đầu Gia Long đã đặt các phủ lẻ. Phủ có 2 loại: Phủ và Phân phủ. Đứng đầu phủ là Tri phủ, dùng ấn đóng chữ Ấn. Ví dụ dấu “Thường Tín phủ ấn” Phủ nhỏ đặt là phân phủ. Đứng đầu là Đồng tri phủ. Đồng tri phủ dùng ấn đóng chữ Đồ ký, để phân biệt với ấn của Tri phủ, như dấu : “Ứng Hòa phân phủ Đồ ký”. Ngoại hình, kích thước của dạng dấu Đồ ký khác hẳn với ấn Tri phủ.

Đồ ký thể hiện rõ nét ở ngạch giáo dục. Chức quan giáo dục như Giáo thụ(19), Huấn đạo(20) đều dùng dấu Đồ ký. Kích thước của Đồ ký cũng phụ thuộc vào tính chất chức quan. Quy định này được “Đại nam điển lệ” ghi ở mục “Ấn triện các quan chức”. “Lệ năm Minh Mệnh thứ 13 định… Ấn triện Đồng tri phủ dài 1 tấc 4 phân 4 ly, ngang 1 tấc 4 ly. Ấn các viên Giáo Thụ, Huấn đạo dài 1 tấc 3 phân, ngang 8 phân 1 ly. Các ấn nói trên đều dùng hộp son đứng trên chữ nguyệt ở dòng niên hiệu…”(21).

Xin miêu tả 1 ấn Đồ ký còn tồn tại trong dân gian. Ấn có chất liệu bằng đồng. Ngoại hình làm theo hình núm, núm thắt đáy loe trên. Dày khoảng 1 cm và cao khoảng 2,5 cm. Ấn làm theo hình chữ nhật. Mặt trên núm không có chữ khắc (xem ảnh 3). Dấu hình chữ nhật đứng cỡ 3,1x5,4cm. Viền ngoài để mảnh 0,1 cm, 6 chữ triện chia làm 2 hàng. Nét chữ vuông vức rõ ràng. Đó là 6 chữ “Quỳnh Côi Huấn đạo đồ ký”(22) (xem ảnh 1). Đây là dấu của viên Huấn đạo phụ trách việc Giáo dục ở huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình(23).

Trên ấn không ghi niên đại, nhưng qua hình dấu, tự dạng chữ triện, chúng tôi thấy đời Gia Long tự dạng chữ trong dấu nét khắc vuông vức uốn vòng nhiều nét, khó đọc, gần với tự dạng ấn triều đại trước. Nét chữ quả ấn này đơn giản, ngắn, dễ đọc, đồng dạng với những ấn triều Nguyễn sau này. Như vậy có thể khẳng định đây là ấn đời Nguyễn khoảng từ đời Minh Mệnh trở lại.

Các Ty phiên ở những cơ quan lớn cấp Trung ương dùng ấn đóng chỗ Đồ ký, để phân biệt với những cơ quan lớn hơn một chút được dùng ấn Quan phòng. Như Ty Lý thiện dấu là “Lý thiện danh ty đồ ký”. Ty Tiết thận là “Tiết thận ty đồ ký”. Ngang cấp Ty có những Viện, khố cũng dùng Đồ ký như dấu: “Thượng tứ viện đồ ký”. “Hỏa nhạc khố đồ ký”.

Đặc biệt bên quân đội, số lượng Đồ ký tương đối nhiều. Chức trưởng ở những cấp Vệ và cấp cơ sở Đội, Thuyền đều sử dụng dấu Đồ ký. Vệ Loan giá có dấu “Loan giá vệ đồ ký”. Thuyền Nam Hưng với dấu “ Nam Hưng đồ ký” v.v… Tất cả những dấu Đồ ký trên đều có kích thước, ngoại hình khác nhau bố cục tự dạng trong dấu cũng khác nhau theo quy định cho mỗi loại cấp, đơn vị.

Sự phức tạp của ấn triện còn thể hiện trong loại hình ấn triện nhỏ mà chúng tôi tạm đặt là Tín ký 信 記L và Ký 記L .

Ngay từ thời Gia Long, tất cả các cơ quan lớn nhỏ trong triều ai cũng được phép tự chế tạo 1 quả ấn nhỏ riêng cho mình. Việc tạo ấn này mang tính chất tự do, giống với ấn tư ở giới thương mại, chưa có quy định nào cụ thể. “Minh Mệnh chính yếu” ghi lại trong mục Minh Mệnh năm thứ 7 rằng: “Đình thần tâu: Trước nay các quan viên trong triều, ngoài quận được giao cho ấn triện, Quan phòng đều đã có phép nhất định. Duy có việc dùng ký triện riêng tự ý chế tạo, thể thức chế khác nhau, chưa đủ để phân biệt tôn ty mà tín nhiệm được, xin định cho cách thức thể chế(24).

Theo sự thống kê của chúng tôi, chữ triện khắc trên tất cả ấn riêng của các quan viên này thường là: Tính danh + Tín ký; hoặc Tính danh + Ký.

Có rất ít chức danh không Tín ký, hoặc chức danh không ký. Còn Ký triện là từ dành cho cấp Tổng, xã. Đầu thời Minh Mệnh, chưa có quy chế về loại hình ấn này. Nên ở “Minh Mệnh chính yếu” gọi là Ký triện riêng. Theo chúng tôi phải đặt loại ấn tên riêng này là loại Tín Ký và Ký mới đúng.

Cũng trong năm Minh Mệnh thứ 7, quy chế về loại hình Tín ký và Ký mới được ban hành: “Vua bèn cho phép các quan văn võ được chế Triện riêng hình vuông dấu khắc mấy chữ “Tính danh mỗ Tín ký” nhưng phải lấy chức phẩm cao thấp mà định phân tấc: Triện của nhất nhị phẩm dài 1 tấc 4 phân, ngang 1 tấc 3 phân. Triện của tam tứ phẩm dài 1 tấc 2 phân, ngang 1 tấc 1 phân. Từ tam phẩm trở lên đóng Triện bằng son, tứ phẩm đóng mực hồng. Ngũ phẩm trở xuống đóng mực đen. Vua thuận cho”.

Giới thiệu một dấu Tín ký áp trên văn bản tập “Công văn cựu chỉ”. Dấu hình chữ nhật đứng cỡ: 4,7x5,1cm viền ngoài để đệm 0,5 cm, 5 chữ triện xếp theo 3 hàng, 4 chữ “chia hai hàng bên, 1 chữ ở giữa dài gấp đôi mỗi chữ bên, để cân đối với bố cục dấu. Đó là 5 chữ “Trần lễ nghi tín ký”(25) (xem ảnh 5).

Đây là Tín ký riêng của quan Lãnh binh tỉnh Ninh Bình, kích thước dấu đúng như quy định vua Minh Mệnh đã ban hành trong năm Minh Mệnh thứ 7. Từ khi có quy chế ban hành, Tín Ký chính thức được dùng trong hàng ngũ các loại hình Ấn triện.

Tín ký là dấu chứng nhận cho một số văn bản mang tính chất khu vực, có giá trị lớn đối với địa phương và chức quan đó quản hạt, cũng như có hiệu lực đối với quan lại và thuộc viên cấp dưới. Nhưng đối với công vụ, những việc tấu trình lên trên, thì giá trị của Tín Ký giảm hẳn bên cạnh hiệu lực của ấn dấu chính: Ấn, Chương, Quan phòng.

Bố cục chữ Tín Ký khắc trên dấu: Nếu tính danh có tên đệm thì họ được viết ở giữa 2 chữ Tín ký xếp cùng một hàng (ví dụ xem ảnh 5). Nếu tính danh không tên đệm thì Tín Ký thường xếp ở 2 bên theo mẫu:

Ngoài Tín Ký và Ký ra còn có loại dấu chức danh không tín ký hoặc chức danh không ký. Số lượng loại này không nhiều, xin được giới thiệu ở một dịp khác.

Cùng hàng với Tín ký còn có Ký, Ký thường dùng cho các loại thuộc ở các cơ quan như Thư lại, Vị nhập lưu Thư lại (gọi là lại điển) hoặc những người chưa có phẩm hàm, hoặc phẩm hàm thuộc hàng thấp nhất.

Ký ở đây có sự đồng hàng lẫn với ký triện của cấp cơ sở thấp nhất: Chánh tổng, Lý trưởng. Vì Chánh tổng có phẩm hàng ngang với Thư lại. Chúng tôi thấy cần phải đặt Ký sang cùng loại hình ngang với Tín Ký, tách với Ký Triện của cấp Tổng, xã. Vì thực sự số lượng lại điển ở các cơ quan rất nhiều. Vả lại hình thể dấu của loại ký này khác hẳn những loại hình ấn khác.

Nhưng dấu Ký được làm theo hình bát giác, thuôn kiểu hình thoi. Hai cạnh ở giữa lõm hình vòng cung. Viền ngoài để đệm 0,2cm, có đường họa tiết uốn theo hình dấu. Một đường viền hình chữ nhật đứng, bên trong là 3 chữ Triện xếp theo hàng dọc: Họ + tên + Ký. Kích thước dấu đo theo kiểu hình chữ nhật: dài x rộng, ví dụ 1 dấu loại này có hình thức như đã mô tả. Kích thước 3,2x3,7cm, 3 chữ triện bên trong là Trần Tố ký (xem ảnh 6). Đây là con dấu của ông Trần Đình Tố, là vị nhập lưu Thư lại. Dấu áp trên bản công văn mà chính tay viết, trong tập Công văn cổ chỉ(26).

Loại hình ấn triện cuối cùng được giới thiệu trong đề tài này là Ký Triện hay còn gọi là Triện 篆 , Ký Triện hay Triện là ấn dấu của Cai tổng (tức Chánh tổng) và Lý trưởng, những người đại diện cho chính quyền ở cấp tổng, xã là đơn vị hành chính thấp nhất.

Lệ nhà Nguyễn quy định mỗi tổng đặt 1 Cai tổng. Tổng nào ruộng đất nhiều, hoặc đường đi xa đến hai, ba ngày thì đặt 1 Cai tổng và 1 phó tổng. Khi có khuyết thì viên Tri phủ, Tri huyện tuyển chọn nhân viên trong hạt, đề bạt lên. Bộ Lại duyệt, tâu cho cấp văn bằng làm Cai tổng thì sai đủ 3 năm sát hạch, đúng là người mẫn cán, thanh liêm mới cho thực thụ. Cai tổng thực thụ, làm việc tốt thì được thăng Chánh bát phẩm. Thâm niên, có thành tích được thăng hơn nữa. Tổng có nhiều xã, mỗi xã đặt 1 viên lý trưởng, làm đủ chín năm mẫn cán, được thưởng hàm Cửu phẩm.

Tìm hiểu tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn, chúng tôi thấy: Đơn vị hành chính căn bản của Việt Nam là tổng, xã, được hưởng một chế độ tự trị khá rộng rãi. Chánh tổng, lý trưởng đại diện cho Hội đồng hương lý, được quyền định đoạt tài sản của mỗi gia đình nông dân, quyết định số phận của mỗi người dân lao động. Một trong những biểu tượng cho quyền lực của tổng, lý là dấu Triện.

Tuy là cấp thấp nhất, nhưng triện của Chánh tổng, lý trưởng vẫn được làm theo nguyên tắc nhất định. Đại Nam điển lệ ghi: “Lệ Minh Mệnh 13 định… Triện của Chánh tổng dài 1 tấc, ngang 5 phân. Triện của Lý trưởng dài 8 phân, ngang 4 phân, đều dùng hộp mực, ở nửa trang dưới dòng chữ niên hiệu, ký tên đóng dưới tên ký…”(27)

Triện của Chánh tổng cũng như lý trưởng có ngoại hình đơn giản, cỡ nhỏ, núm gần giống Triện ngày nay. Triện làm theo hình chữ nhật, áp trên văn bản có hình chữ nhật đứng. Triện thời Nguyễn sơ làm nhỏ. Viền ngoài dấu để nét mảnh. 6 chữ Triện bên trong chia làm 2 hàng. Thường là tên địa phương (Tổng xã) + chức (Cai tổng, Lý trưởng) + Ký.

Triện nhà Nguyễn sau này (khi Pháp đã vào nước ta) có cỡ to hơn. Viền khung rộng ghi chữ Pháp hoặc chữ quốc ngữ (La tinh), bên trong viền khung mới có chữ Triện hoặc chữ Hán. Điều này thể hiện 2 hoặc 3 dạng văn tự trong cùng 1 còn dấu.

Giới thiệu 2 còn dấu của Cai tổng và lý trưởng cùng 1 địa phương, đóng trong cùng tập địa bạ tổng Đồng Xuân(28). Triện Cai tổng hình chữ nhật, cỡ 1,9x4cm. Viền ngoài có nét mảnh 0,1 cm, 6 chữ Triện bên trong xếp theo 2 hàng, là 6 chữ (Đồng Xuân tổng Cai tổng ký”(29) (Xem ảnh 7). Đây là dấu Triện của Cai tổng tổng Đồng Xuân.

Triện Lý trưởng hình chữ nhật, cỡ 1,6x3,5cm. Viền ngoài để nét mảnh 0,1cm. 6 chữ Triện bên trong xếp theo 2 hàng là 6 chữ “Đồng Xuân phường Lý trưởng ký”(30) (Xem ảnh 8). Đây là dấu triện của lý trưởng phường Đồng Xuân thuộc tổng Đồng Xuân.

Bước đầu giới thiệu sơ lược một số loại hình ấn Triện triều Nguyễn, từ ấn ngự bảo của vua đến ký triện của Cai tổng, Lý trưởng, chúng tôi muốn trình bày một cách khái quát và có hệ thống đặc điểm mỗi loại hình và mạnh dạn định nghĩa một số loại ấn triện. Vấn đề chi tiết và một, hai loại hình ấn, với số lượng rất ít như Kiềm Ký xin được giới thiệu vào một dịp khác.

N.C.V

CHÚ THÍCH

(1) Tiếp theo bài viết cùng tên, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 2/1988.

(2) Đại Nam điển lệ, mục 194, Nguyễn Sĩ Giác phiên âm dịch nghĩa. Nhà in Tôn Thất Lễ, Sài Gòn 1962, tr.227.

(3) Tổng đốc: thường đứng đầu 2 hoặc 3 tỉnh (chuyên 1 tỉnh và kiêm quản các tỉnh khác). Phẩm hàm: Binh bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện hữu Đô ngự sử - Chánh nhị phẩm.

(4) Tuần phủ: đứng đầu 1 tỉnh nhỏ, hoặc tỉnh không có Tổng đốc quản. Phẩm hàm: Binh bộ tham tri kiêm Đô sát viện Hữu phó Đô ngự sử - Tòng nhị phẩm.

(5) Đề đốc: chức võ đứng đầu ở địa hạt kinh đô. Gọi là kinh thành Đô đốc - Chánh nhị phẩm.

(6) Lãnh binh: coi việc quân sự ở 1 tỉnh lớn (liên tỉnh) - chánh tam phẩm.

(7) Đốc học: phụ trách giáo dục ở một tỉnh - Chánh ngũ phẩm.

(8) Hai dấu này đóng trong tập Công văn cổ chí, ký hiệu A.3086, TV. VNCHN.

(9) Đại Nam điển lệ, mục 194, Sđd, tr.337.

(10) Minh Mệnh chính yếu. Tập V, quyển 13, Mục pháp độ, phần Minh Mệnh năm thứ 3, tr.9. In kèm nguyên bản chữ Hán. Bản dịch Hà Ngọc Xuyến. Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên xuất bản, 1974.

(11) Dấu “công đồng chi ấn” cùng các quan phòng nhỏ đã nêu, đóng trong các tập Chư bộ nha quyển 2, quyển 18 và quyển 119. Kho lưu trữ TW II, Tp. HCM.

(12) Thượng thư: đứng đầu một bộ mang phẩm hàm Thượng thư kiêm Đô sát viện – Tả đô ngự sử – Chánh nhị phẩm. Cùng tham tri và Thị lang gọi là Trưởng quan.

(13) Bố chánh sứ: coi việc thuế khóa, tài chính, đinh điền, đê điều ở một tỉnh, phẩm trật là chánh tam phẩm.

(14) Án sát sứ: coi về việc hình án, trị an, phong hóa kỷ cương, trừng thanh quan lại, cả việc giao thông trạm dịch trong 1 tỉnh. Phẩm trật là Tòng tam phẩm.

(15) Đại Nam điển lệ, mục 90 “Lĩnh chức vụ Ấn triện”, Sđd., tr.103.

(16) Sao chụp ở Công văn cựu chỉ, ký hiệu A.3032 TV. VNCHN.

(17) Xem Châu bản triều Nguyễn - Chư bộ nha, quyển 119, Tự Đức 13. Kho Lưu trữ TW II, Tp. HCM.

(18) Tất cả những dấu dẫn chứng, đều đóng rải rác trong Chư bộ nha, quyển 18 và 19, Châu bản triều Nguyễn. kho lưu trữ TW II, Tp. HCM.

(19) Giáo thụ: phụ trách giáo dục một phủ lớn, phẩm hàm là Chánh thất phẩm.

(20) Huấn đạo: Phụ trách giáo dục một phủ nhỏ hay một huyện, Mang hàm Chánh bát phẩm.

(21) Đại Nam điển lệ: mục 194. Sách đã dẫn tr.337.

(22) Hình ấn và dấu Đồ ký này do ông Hoàng Giáp đã mô tả và rập được nguyên bản, tại huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, trong đợt sưu tầm năm 1985.

(23) Huyện Quỳnh Côi đời Gia Long thuộc phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam hạ, sau này thuộc phân phủ Thái Bình nay thuộc tỉnh Thái Bình.

(24) Minh Mệnh chính yếu tập V, quyển 18, mục Pháp độ, Phần Minh Mệnh năm thứ 7, tr.17, Sđd.

(25) Dấu “Trần lễ nghi tín ký” đóng trong tập Công văn cựu chỉ, Sđd.

(26) Công văn cổ chỉ, ký hiệu A.629. TV. VNCHN.

(27) Đại Nam điển lệ, mục 194, sách đã dẫn, tr.337.

(28) Đồng Xuân: đời Gia Long thuộc huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay thuộc khu Hoàn Kiếm, Hà Nội.

(29),(30) Hai dấu Triện này đóng trong tập Đồng Xuân tổng các thôn phương địa bạ, Ký hiệu A.3086, TV. VNCHN.

TB

GIỚI THIỆU KHO SÁCH TỤC LỆ
THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Kho sách tục lệ là tài liệu do Học viện Viễn đông Bác cổ(1) cho sao chép lại trên giấy dó, bìa giấy tây mầu nâu, khổ sách (đại bộ phận) là 30x17cm. Ngoài bìa và trang đầu đều ghi địa danh nơi lập tục lệ. Nếu là sách chép tục lệ của nhiều xã trong một tổng thì được ghi lần lượt tục lệ của từng xã. Có sách chép cả tục lệ của nhiều từng thôn, phường, giáp. Trang đầu hoặc trang cuối phần chép tục lệ của thôn hoặc xã đều có ghi ngày tháng năm lập tục lệ hoặc năm sao chép lại. Nhiều thôn xã ghi được đầy đủ cả tên người lập khoán lệ, tên những người ký, tên của Lý trưởng, Chánh tổng…

Kho tư liệu tục lệ hiện có 645 sách ghi chép về tục lệ, khoán ước của 74 huyện, phủ, châu thuộc 18 tỉnh phía Bắc, từ Nghệ An trở ra (Xem bảng thống kê cuối bài viết).

Độ dày của các sách tục lệ được thống kê như sau:

- Từ 100 trang trở xuống: 303 cuốn.

- Từ 100 tr. đến 200 tr.: 175 cuốn.

- Từ 200 tr. đến 400 tr.: 167 cuốn.

- Trên 400 tr.: 10 cuốn.

Đại bộ phận các tục lệ được lập hoặc sao chép vào thời nhà Nguyễn (1802 - 1945).

Ký hiệu các sách tục lệ được đăng ký như sau: AF là ký hiệu chung của các sách tục lệ, ký hiệu chữ a, b thường kèm theo các chữ số để biểu thị địa danh của tỉnh, như a13 (tỉnh Bắc Giang); a2 (tỉnh Hà Đông), ký hiệu chữ số từ 1 là thứ tự các sách đã được xếp ABC tên địa danh theo huyện trong 1 tỉnh.

Thí dụ: AF a8/5 là tục lệ của các xã thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh.

Về nội dung, các sách tục lệ được ghi chép theo 4 loại hình lớn:

1- Loại mục hình sự, pháp luật.

2- Loại mục về chính trị.

3- Loại mục về phong tục tập quán.

4- Loại mục về khoản họ, nợ… phạt cheo.

Mỗi loại mục được chép nhiều khoản với những nội dung phong phú được ghi ra rất rõ, đồng thời với nội dung sự việc là cách giải quyết, lệ thưởng phạt, người chịu trách nhiệm thi hành… Khi đã thành lệ mọi người đều nhất nhất thực hiện như thế. Ở các địa phương nhiều khoản lệ có nội dung giống nhau nhưng cách giải quyết từng địa phương có khác nhau, lệ thưởng phạt cũng khác. Chính vì thế nghiên cứu về tục lệ các địa phương sẽ thấy được những hình thái xã hội giống nhau và khác nhau, những đặc trưng phong tục tập quán của mỗi nơi.

Sau đây là nội dung của từng loại mục.

1. Loại mục hình sự pháp luật: ghi chép những khoán lệ về việc xử lý những người đánh nhau (ẩu đả), thông gian, làm trái khoản ước của xã, việc tra xét lập biên bản của các vụ án, trộm cắp, đạo tặc… Thí dụ như: “Nếu trong xã có người ẩu đả mà bị thương nhẹ, trước hết lý dịch phân giải, phạt bên sai trái 3 quan tiền, giao cho tuần canh giữ để chi phí cần thiết. Nếu kẻ hành hung ngang bướng, người bị thương nặng, thì lý dịch phải đệ đơn lên trên để cứu xét sự việc cho minh bạch. Chi phí việc đi lại khai báo tốn bao nhiêu cùng với 3 quan tiền phạt do bên sai trái phải chịu”.

(Tục lệ xã Dịch Vọng phủ Hoài Đức).

Có những điều khoản ghi hình phạt đối với những kẻ a tòng, hoặc che dấu kẻ gian như: “Hễ người nào trong xóm dẫn lối cho trộm vượt tường, phá rào vào xóm, hoặc che giấu kẻ gian thì sẽ bị bắt đưa đến cửa quan. Người đó phải bỏ tiền gạo ra trả, nếu ai không chịu thì sẽ cầu nguyện thần linh đánh chết”.

Cũng có những điều khoản về việc tuần phòng, truy nã kẻ gian như:

“Nếu tuần phòng cẩn mật, bắt được kẻ gian được thưởng 3 quan tiền. Nếu không canh phòng cẩn thận để kẻ gian nhập vào mà không biết sẽ bị phạt một con lợn giá 3 quan tiền. Nếu phải truy đuổi mà bắt được, thưởng 1 quan, truy đuổi không bắt được để kẻ gian chạy thoát bị phạt 3 quan”.

(Tục lệ thôn Ổ, xã Bách Lộc, tổng Lạc Trị, tỉnh Sơn Tây).

Có những điều khoản về việc đánh nhau, chửi nhau trong gia đình như:

“Người nào vợ chồng anh em đánh chửi nhau to tiếng để làng xóm lân cận đều biết thì cả đôi bên đều bị bắt đưa đến chỗ công sở cho toàn dân phê phán xét sử minh bạch, sau đó tùy tội mà bắt phạt tiền”.

Hoặc những điều khoản phân xử những hành vi, thái độ khinh mạn cấp trên, lăng nhục cấp dưới lấy đông nẹt ít, lấy mạnh lấn yếu như:

“Người nào ở nơi công cộng mà có thái độ khinh mạn cấp trên, lăng nhục cấp dưới, tranh giành lộn bậy, lấy số đông bắt nạt số ít, lấy mạnh ức hiếp kẻ yếu sẽ bị bắt trói đưa lên đình sở, đánh trống tụ tập toàn dân phân xử. Người trái phải chịu phạt 5 quan 2 mạch. Nếu không thuận tình mà đưa lên trên thì mọi phí tổn người đó dù phải hay trái đều phải chịu.

(Tục lệ thôn Thượng xã Nguyễn Khê, tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên).

2. Loại mục về chính trị: ghi chép các khoản như hội họp kỳ mục bàn việc làng, kỳ mục lý dịch phân chia công việc, bầu cử lý trưởng kỳ mục, phân ngôi thứ, mua ngôi thứ, khoản lệ khao vọng, phân chia công điền thổ, tu sửa cầu đường, cấp ruộng binh đinh… Những hoạt động như trên thể hiện phần nào tinh thần dân chủ trong nông thôn ta ngày xưa. Như vấn đề bầu lý dịch:

“Trong xã người nào gia đình khá giả, biết sống trong sạch, cần kiệm, bầu làm Chánh, Phó lý trưởng, 6 năm một khóa. Người nào mãn khóa, lệ phải đem trầu rượu trình cho dân để bầu người khác thay. Từ đó về sau mọi sưu dịch người đó đều được miễn. Người nào chưa hết khóa mà muốn nghỉ giữa chừng phải hoàn trả phí tổn cho dân, dân sẽ bầu người khác”.

(Tục lệ thôn Trung, xã Kỳ Vĩ, tổng Kỳ Vĩ, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Điều khoản về vấn đề ruộng công:

“Tổng số ruộng công trong xã là bao nhiêu trừ đi việc cấp ruộng lính, ruộng biếu, ruộng đền thần, chùa phật, còn lại số ruộng là bao nhiêu mẫu, mỗi năm chia đều một lần cho các suất đinh trong xã. Mỗi suất được chia cày 1 sào 3 thước 4 tấc”.

(Tục lệ xã Hạ Yên Quyết, tổng Dịch Vọng phủ Hoài Đức).

Hoặc về đường sá cầu cống:

“Trong xã, các nơi đường sá cầu cống vốn có, nếu lúc nào bị vỡ, nứt… thì lý dịch xã ấy đốc thúc dân đinh trong xã sửa chữa, không có khoản tiền nào trả công tu sửa này”.

Hoặc về sưu thuế:

Mỗi kỳ thuế vụ hàng năm của dân xã lý trưởng cùng toàn dân hội họp tại công sở, chiểu theo lời khai báo mà bổ thu. Tiền sưu do hàng giáp trưởng thu giữ, tiền thuế ruộng lý trưởng thu. Ngày hội bổ thu đó toàn dân cùng nhau ăn uống với số tiền chi phí khoảng 7 đồng thì chia nhau cùng chịu”.

(Tục lệ xã Thúy Hội, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức).

3. Loại mục về phong tục tập quán: ghi chép những khoản về thờ cúng tế tự, khoản chu cấp các dư huệ thờ thần, khoản hôn lễ, tang lễ, mừng thọ lên lão hiếu đễ với cha mẹ, tương trợ giúp đỡ hàng xóm láng giềng, lệ cấm rượu chè, cờ bạc…

Có những điều khoản về việc tuần tiết thờ cúng cùng một năm như:

“Dân các xã trong tổng hàng năm vào tháng 1, tháng 2 làm lễ cầu phúc; tháng 3 tế xuân ở Văn chỉ; tháng 4 làm lễ cầu an, tháng 6, làm lễ hạ điền, tháng 7 làm lễ thượng điền, tháng 8 lễ tế thu ở Văn chỉ, tháng 9 lễ thường tân; tháng 12 lễ tiết chạp. Tùy theo mùa màng năm đó được hay mất mà sắm lễ, nếu được mùa dùng trâu bò để tế lễ, nếu mất mùa dùng lợn gà, hoặc cau rượu, tùy nghi mà làm, không có quy định…”.

(Tục lễ các xã tổng Dịch Vọng phủ Hoài Đức).

“Lệ lễ Hạ điền tế ruộng 6 sào, 1 đầu lợn giá 2 quan, xôi một mâm 20 đấu, rượu 1 mạch, trầu cau 30 miếng.

Lễ Thượng điền, thờ thần mỗi giáp 1 mâm, lễ tiên đế mỗi giáp 2 mâm.

Lễ Thường tân, tế 1 mẫu 2 sào ruộng, một lợn giá 2 quan, 3 mâm xôi (mỗi mâm 20 đấu), một mạch rượu, 30 miếng trầu cau. Các nghi tiết làm lễ thờ thần quan viên chỉnh tề áo mũ, làm lễ theo nghi thức”.

(Tục lệ xã Kỳ Vĩ, tổng Kỳ Vĩ, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Hoặc những điều khoản về việc hiếu như:

“Trong xã người nào có cha mẹ chết, hiếu chủ trước hết phải biện một phong trầu cau trình với trưởng giáp. Giáp trưởng thông báo cho người trong giáp tập hợp một nơi cùng nhau đến với chủ nhà, giúp đỡ các khoản việc xong tùy chủ nhà khoản đãi, không quy định lệ”.

(Tục lệ xã Khê Nữ huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên).

Việc hỷ như:

“Người nào có còn gái lấy chồng trong cùng xã, nạp 20 quả cau, tiền 6 mạch. Nếu lấy người xã khác nạp 100 cau, 3 quan tiền, chỉnh biện gà, xô, trầu cau, rượu làm lễ kính dân, toàn dân chứng thực ngày đó, ký giấy làm bằng. Dân giao hẹn nếu sinh con trai thì biện lễ 100 miếng trầu cau trình lý lịch ghi trước bạ”.

(Tục lệ thôn Hương Tràm, xã Thư Lâm, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên).

Việc thọ như: “Trong thôn nhà nào song thân cha mẹ đều được mừng thọ (60 tuổi trở lên), nếu có khả năng mở tiệc, đem đồ tế đến đình trước một ngày. Đồ tế gồm 1 đầu sinh vật sống, 3 mâm xôi ( mỗi mâm 10 đấu), 1 vò rượu, 1 buồng cau. Đem đến tế ở văn chỉ gồm: 1 gà, 1 mâm xôi 6 đấu; một nai rượu, 10 quả cau…

(Tục lệ thôn Ổ, xã Bách Lộc, tổng Lạc Trị, tỉnh Sơn Tây).

Cũng có những điều khoản về việc xử lý những kẻ bất hiếu, bất kính, bất hòa:

“Trong xã có người nào bất hiếu với cha mẹ, không kính trọng người trên, không hòa thuận với lân bang hàng xóm, thì sẽ bị sắp xếp riêng một chỗ để cảnh báo”.

(Tục lệ xã Thanh Đặng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên).

Vấn đề hỏa hoạn cũng có những điều khoản riêng:

“Trong thôn nhà nào cũng phải phòng hỏa hoạn; mỗi xóm phải có thuyền sào. Nếu không may xóm nào bị hỏa hoạn thì xóm ấy phải báo cho mọi người mang dụng cụ đến ứng cứu cho đến khi dập tắt lửa, nếu người nào trì hoãn chần chừa bị bắt phạt một đồng tiền. Người nào nhân cơ hội đó mà chiếm đoạt bất cứ vật gì, bị bắt quả tang sẽ thu hồi lại trả cho nguyên chủ, và bất kỳ vật đó trị giá bao nhiêu cũng phải đền 10 đồng để sung công, làm như thế để biểu dương tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau”.

(Tục lệ xã Trịnh Xuyên, huyện Diên Hà, tỉnh Thái Bình).

Tục lệ rất chú trọng ngăn cấm nạn rượu chè cờ bạc:

“Trong thôn mỗi khi hội họp ở trong đình, nếu có người nào say rượu làm lung tung, bản thôn bắt phạt tiền 2 mạch”.

“Người nào dung túng cho người đánh bạc sẽ bị bắt giao cho chánh phó lý và tuần phiên. Nếu tuần phiên bắt được thì giải đến điếm trói lại, đánh trống 9 tiếng gọi toàn dần tề tựu đông đủ để định tội chủ nhà chứa bạc bị phạt 3 quan, người đánh bạc mỗi người phạt 2 quan”.

(Tục lệ thôn Thượng, xã Nguyên Khê, Tổng Xuân Nộn, tỉnh Phúc Yên).

4. Loại mục họ, vay nợ, nộp cheo… ghi chép các khoản cho vay, khoản lập hội trợ cấp, khoản nộp cheo, khoản li dị… Như điều khoản về vay nợ, trả lãi:

“Nếu trong thôn người nào nghèo không có tiền chi tiêu cho việc gì thì đến nhà giầu vay mượn, khi vay phải có văn tự ký kết, lý trưởng áp triện, chịu nộp tiền lãi 3 phân. Đến hạn phải trả đủ vốn và lãi…”

(Tục lệ xã Thượng Hội, tổng Thượng Hội phủ Hoài Đức).

Hoặc điều khoản về hội hiếu hỉ:

“Một số người trong xã họp nhau lập hội hiếu hỉ, mỗi người nộp từ 1 đến 2 đồng. Nếu người nào có việc muốn lấy tiền hội, thì trước đó 10 ngày đem trầu cau mời từng người trong hội. Đến ngày lấy tiền, người trong hội mang tiền đến nộp để làm việc giầu nghèo giúp đỡ lẫn nhau. Gia chủ biện trầu cau trà nước làm cỗ thường. Mỗi cỗ khoảng 2, 3 hào”.

(Tục lệ xã Thúy Hội, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức).

Điều khoản về ly dị:

“Trong xã nếu có cặp trai gái nào đã tổ chức cưới xin, nay vì lẽ gì không hòa hợp, muốn lìa xa nhau, thì phải thuận tình viết đơn “nam nguyện phóng, nữ nguyện xuất” để trình bầy tỉ mỉ lên trên. Sau khi lý trưởng xác thực thì mỗi phía giữ một đơn…cốt để chấm dứt đầu mối gây ra kiện tụng”.

(Tục lệ tổng Thượng Hội).

Trên đây chúng tôi đã sơ lược giới thiệu về hình thức và nội dung các sách tục lệ hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Không ít những luật lệ, phong tục, tập quán từ xa xưa vẫn giữ nguyên giá trị của nó đến ngày nay, cần được nghiên cứu và phát huy hơn nữa. Sau đây là bảng thống kê các sách tục lệ theo từng địa phương.

BẢNG THỐNG KÊ CÁC SÁCH TỤC LỆ THEO TỪNG ĐỊA PHƯƠNG
(Xếp theo A, B, C)

TT Tên địa danh Tỉnh, Huyện Số lượng Ký hiệu
1
1
2
3
4
5
6
2
1
2
3
1
2
3
4
5
6
7
8
9
4
1
2
3
5
1
2
6
1
2
7
1
2
3
4
8
1
2
3
4
5
9
1
2
3
4
5
10
1
2
3
4
5
6
11
1
2
3
12
1
2
3
4
5
6
13
1
2
14
1
15
1
2
3
4
5
6
16
1
2
3
4
5
6
7
8
17
1
2
3
18
1
BẮC GIANG
Bảo Lộc huyện
Hiệp Hòa
Phất Lộc
PhượngNhãn
Việt Yên
Yên Dũng
BẮC NINH
Tiên Du
Thuận Thành
HÀ ĐÔNG
Chương Mỹ
Đan Phượng
Hoàn Long
Phú Xuyên
Sơn Lăng
Từ Liêm
Thanh Oai
Thanh Trì
Thượng Phúc
HÀ NAM
Kim Bảng
Duy Tiên
Nam Xương
HẢI DƯƠNG
Cẩm Giàng
Thanh Lâm
HƯNG YÊN
Yên Mỹ
Văn Lâm
KIẾN AN
An Dương
An Lão
Nghi Dương
Thủy Nguyên
LẠNG SƠN
Cao Lộc Châu
Điềm Hy Châu
Lộc Bình Châu
Thoát Lãng Châu
Văn Uyên Châu
NAM ĐỊNH
Giao Thủy
Hải Hậu
Mỹ Lộc
Trực Ninh
Vụ Bản
NINH BÌNH
Gia Khánh
Gia Viên
Kim Sơn
Yên Khánh
Yên Mô
Phố Hoàn Thành
NGHỆ AN
Đông Thành
Hưng Nguyên Phủ
Nghi Lộc
PHÚ THỌ
Cẩm Khê
Hạ Hòa
Phù Ninh
Sơn Vĩ
Tam Nông
Thanh Ba
PHÚC YÊN
Đông Anh
Yên Lãng
QUẢNG YÊN
Yên Hưng
SƠN TÂY
Bất Bạt
Phúc Thọ
Thạch Thất
Tiên Phong
Tùng Thiên
Yên Sơn
THÁI BÌNH
Diên Hà
Đông Quan
Hưng Nhân
Quỳnh Côi
Thnanh Quan
Thần Khê
Thư Tri
Trực Định
THÁI NGUYÊN
Đồng Hỷ
Phố Yên Phủ
Phú Bình
THANH HÓA
Đông Sơn
24
1
6
5
3
5
4
5
4
1
102
9
14
12
13
6
24
1
13
10
38
10
17
11
8
7
1
86
61
25
19
9
1
5
4
23
3
3
5
6
6
48
5
6
10
8
19
50
12
10
7
9
11
1
31
1
21
9
39
7
9
6
7
2
8
18
5
13
4
4
46
5
8
7
7
4
15
77
7
7
13
8
13
9
9
11
14
2
8
4
13
13
AF a.13
AF a13/1
AF a13/2 đến a13/7
a13/8 đến a13/12
a13/13 đến a13/15
a13/16 đến a13/20
a13/21 đến a13/24
AF a.8
AF a.8/1 đến a8/4
a8/5
AF a.2
AF a2/1 đến a2/9
a2/10 đến a2/23
a2/24 đến a2/35
a2/36 đến a2/48
a2/49 đến a2/54
a2/55 đến a2/78
a2/79
a2/80 đến a2/92
a2/93 đến a2/102
AF a.10
a10/1 đến a10/10
a10/11 đến a10/27
a10/28 đến a10/38
AF a.14
a14/1 đến a14/7
a14/8
AF a.3
a3/1 đến a/61
a3/62 đến a/86
AF a.9
a9/1 đến a9/9
a9/10
a9/11 đến a9/15
a9/16 đến a9/19
AF a.15
a15/1 đến a15/3
a15/4 đến a15/6
a15/7 đến a15/11
a15/12 đến a15/17
a15/18 đến a15/23
AF a.11
a11/1 đến a11/15
a11/6 đến a11/12
a11/12 đến a11/21
a11/22 đến a11/29
a11/30 đến a11/48
AF a.4
a4/1 đến a4/12
a4/13 đến a4/22
a4/23 đến a4/29
a4/30đến a4/38
a4/39 đến a4/49
a4/50
AF b.1
AF b 1/1
b1/2 đến b 1/22
b 1/23 đến b 1/31
AF a.12
a12/1 đến a12/7
a12/8 đến a12/16
a12/17 đến a12/22
a12/23 đến a12/29
a12/30 đến a12/31
a12/32 đến a12/39
AF a.7
a7/1 đến a7/5
a7/6 đến a7/18
AF a.17
a17/1 đến a17/4
AF a. 6
a6/1 đến a6/5
a6/6 đến a6/13
a6/14 đến a6/20
a6/21 đến a6/27
a6/28 đến a6/31
a6/32 đến a6/46
AF a. 5
a5/1 đến a5/7
a5/8 đến a5/14
a5/15 đến a5/22
a5/23 đến a5/35
a5/36 đến a5/48
a5/49 đến a5/57
a5/58 đến a5/66
a5/67 đến a5/77
AF a. 16
a1/1 đến a16/2
a1/3 đến a16/9
a1/10 đến a16/14
AF b. 2
AF b 2/1 đến b 4/13

CHÚ THÍCH

(1) Ecole francaise d’Extrême – Orient.

(2) Từ Côn Ngọc, còn gọi là Từ Tự Minh, người đất Hương Sơn, Mẫn Chương, Trung Quốc.

TB

VÀI NÉT VỀ CUỐN SÁCH NÔM
TAM THIÊN TỰ LỊCH ĐẠI VĂN QUỐC ÂM

HOÀNG HƯNG

Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là một cuốn sách Nôm. Bản còn giữ được có niên đại xuất bản năm Thiệu Trị thứ 5 (1815), do nhà sư Phúc Điền tổ chức khắc in. Trang đầu của sách có ghi dòng chữ: “Cúc Lâm cư sĩ: Vũ Miên, Nguyễn Lệ, Ninh Tốn, Phạm Khiêm đồng giả”. Vũ Miên là nhà viết sử nổi tiếng thời Lê Mạt; Ninh Tốn là nhà thơ có tên tuổi đã đi theo phong trào Tây Sơn; Nguyễn Lệ, Phạm Khiêm cũng đều là danh nhân cuối đời Lê. Những tác gia này còn để lại khá nhiều tác phẩm, những mảng thơ, văn chữ Nôm dường như chưa được biết đến. Nếu dòng chữ ghi trên đây phù hợp với sự thực thì chúng ta có thể ít nhiều hình dung được không khí trước thuật bằng “quốc âm” đương thời và có thêm tư liệu giúp ta nhận định, đánh giá về 4 tác gia ghi trên sẽ toàn diện và sâu sắc hơn. Nhưng trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin giới thiệu đôi nét về tác phẩm và nêu một vài nhận xét ban đầu.

Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là bản dịch Nôm tác phẩm Tam thiên tự lịch đại văn của Từ Côn Ngọc người Trung Quốc, đời Thanh(1). Tam thiên tự lịch đại văn như tên gọi của nó, là sách dạy chữ Hán, sưu tập tất cả 3000 chữ, được đặt thành 750 câu 4 chữ có vần. Một điều đáng lưu ý là 750 câu này, nội dung gồm những ý nhất quán, sắp xếp theo trình tự diễn tiến của các đời (lịch đại) từ Bàn Cổ đến nhà Thanh (Trung Quốc. Vì thế, có thể coi đó là một bản tóm tắt lịch sử Trung Quốc “lời tuy ngắn nhưng sự kiện thì đầy đủ”(2) rất cần thiết đối với các nho sinh “dùi mài kinh sử” trong việc tập luyện, thi cử.

Sách ghi lại 3000 chữ Hán đơn giản có phức tạp có, nhưng hầu hết là những chữ thường gặp, có thể coi như một loại “từ điển” tối thiểu.

3000 chữ này không xuất hiện biệt lập, riêng lẻ như trong các Tự điển thường gặp mà xuất hiện trong các câu 4 chữ, như những đơn vị ngôn ngữ hoàn chỉnh, có nội dung, ý nghĩa gắn với một ngữ cảnh nhất định. Do đó, sách lại bao gồm hàng ngàn đơn vị ở cấp độ từ, nhóm từ, thành ngữ và câu.

Về từ vựng, sách cung cấp một khối lượng khá lớn về thực từ và hư từ, bao gồm những danh từ chỉ các phạm vi khác nhau như thiên văn (thiên, địa, nhật, nguyệt, tinh, vân, phong, vũ…) địa lý (thổ, thủy, hải, giang, khê, cốc…) những tên đất, tên người trong lịch sử (Trung Quốc), chim muông, hoa cỏ, công trình kiến trúc, vật dụng… Một vài ví dụ: về các loại ngọc đều có chữ ngọc ở bên: cầu, lâm, lang, can mã não, pha lê, châu, đại mạo, khuê bích; những hình dung từ chỉ tính chất, thuộc tính như thiên lương, quyệt xương, duật hoàng, kiêu xa, nguy vi, thê lương, bồi hồi, kiều dã… những động từ chỉ động tác, hoạt động như sinh, sáng, kiến, nịch, canh đệ, diễn vọng; các hư từ như: duật, nhung, chỉ, nhĩ nhi… các thành ngữ như “tẫn kê thần sách” (gà mái gáy mãi”, “ưng dương Vị khỉ” (chim ưng đất Vị), “thường đảm ngọa tân” (nếm mật nằm gai)… những câu nói về sự kiện lịch sử, hoặc triết lý như “Nịch Đát hạnh Kỷ” nói việc vua Trụ say mê Đát Kỷ, câu “Ly cúc vịnh Tiềm” nói việc Đào Tiềm vịnh hoa cúc nơi ở ẩn, câu “Bồ Kiện hạc lệ” nói việc Bồ Kiện bị quân Tấn đánh bại… những đơn vị ngôn ngữ tiếng Hán này được chuyển đạt trung thành sang văn Nôm (tiếng Việt thời ấy) trong bản dịch. Do vậy, bản dịch cũng bao gồm hàng ngàn đơn vị ở cấp độ từ, ngữ, câu của tiếng Việt vào cuối thế kỷ XVIII(3). Điều này, chắc sẽ hấp dẫn những người tìm hiểu lịch sử tiếng Việt.

Về mặt chọn chữ, chọn từ thì như tác giả của Tam thiên tự lịch đại văn chú(4) Nguyễn Hữu Thận đã nhận xét: “Chọn từ thì cổ nhã, tựa chữ thì sâu rộng” (Lý từ cổ nhã, cách tự hoằng thâm) và “những lời trong Kinh, Sử, Tử, Tập đều có cả” “Kinh Sử Tử Tập chỉ ngôn mị sở bất hữu”(5).

Do những đặc điểm trên, bộ Tam thiên tự lịch đại văn chú đã được giới trí thức nước Việt chú ý từ rất sớm. Hiện nay Thư viện Viên Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được bộ Tam thiên tự lịch đại văn chú in năm Gia Long 18 (1819). Đây là bản chú giải sách Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm mà người chú giải là Nguyễn Hữu Thận, người hiệu đính là một viên Hương cống tên là Đoàn Bá Trinh. Nhưng trong lời Tựa, Nguyễn Hữu Thận còn cho biết sách Tam thiên tự lịch đại văn đã được ông Thám hoa Thạc Đình họ Nguyễn khắc in vào tập Sơ học chỉ nam từ đời Lê. Có thể nghĩ rằng, sách này cũng được dịch Nôm từ sớm.

Bản dịch Nôm hiện còn - cuốn Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm tuy khắc in đời Thiệu Trị 5 (1845), nhưng còn giữ lại được khá nhiều chữ Nôm thường xuất hiện vào giai đoạn trước đó.

Chẳng hạn: chữ ra ghi là (la); trả (thủ xóc + ba); trước (xa + lược); Sau (xa + lâu); cho (chu); khắp (bộ thủy + lập); tên trong cung tên (tiễn nghĩa là trước); xa trong xa gần ghi là (xa nghĩa là xe); dùng dằng (dụng dựng); vắng vẻ (vĩnh vĩ)… các từ cổ như: kiêu lung, lung lao, cát lầm: các cách diễn đạt khá cổ như “nhan sắc não nề”, “phép cũ lỗi quên”, “thong thả chốn Thù, Tứ” (dịch từ câu thượng dương Thù, Tứ) “khi đất Tức Tân lại dùng dằng” (dịch từ câu Tức Tân bồi hồi).

Mặt khác, nguyên tác Tam thiên tự lịch đại văn chứa đựng nhiều khái niệm triết học cổ, nhiều sự kiện lịch sử. Do phải hạn chế về số chữ (mỗi câu 4 chữ), khắc phục khó khăn về gieo vần, lại phải tránh sự trùng lặp (3000 chữ trong 750 câu không có một trường hợp nào lặp lại), nên nhiều khi phải nói ngược, nói tắt thậm chí có câu rất tối nghĩa. Nguyễn Hữu Thận khi chú giải sách này đã nhận xét là sách có nhiều chỗ trúc trắc, khó hiểu, phải nghiền ngẫm lâu ngày mà chưa chắc đã chú giải đúng. Thế nhưng bản dịch Nôm nhìn chung diễn đạt khá trôi chảy. Người dịch đã nắm bắt được ý đồ diễn tả của nguyên tác, và đã tái tạo lại tác phẩm khá thành công. Như câu:

“Quái hoạch Bào Hy,
Tự tạo Thượng Đế”.

Nếu một người dịch bình thường sẽ chuyển kết cấu “ngược” trên thành kết cấu thuận và sẽ dịch là:

“Bào Hy vạch ra quẻ (bát quái),
Thượng đế đặt ra chữ”.

Nhưng các dịch giả đã dịch là:

Đặt ra quẻ từ vua Bào Hy,
Đặt ra chữ từ vua Thượng Đế.

Dịch như vậy là nắm được cái “thần” của câu văn, nắm được lịch sử.

Hay hai câu sau đây nói về vua Nghiêu:

“Nguyên thủ cổ quăng,
Hu phất đô du”.

đã dịch thành “Đặt lời ca có câu ‘nguyên thủ’ câu ‘cổ quăng’ điều rằng chẳng nên điều rằng rất chẳng nên, điều rằng nên nghe, điều rằng tiếng rất phải”. Chứng tỏ người dịch rất am hiểu lịch sử. Những ví dụ như trên rất nhiều. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định một điều: Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm do các học giả uyên bác biên soạn.

Cuối cùng, chúng ta biết Phúc Điền là một vị hòa thượng có uy tín. Chính ông đã tổ chức khắc in nhiều tác phẩm Hán Nôm có giá trị. Nhiều tác phẩm, nếu chưa rõ tác giả, thì ông “để trống” mà không ghi, đó là trường hợp các bản in Thiền uyển tập anh, Tự học toản yếu… Như vậy, dòng chữ ghi tác giả của sách: Cúc Lâm cư sĩ Vũ Miên, Nguyễn Lệ, Ninh Tốn, Phạm Khiêm có giá trị chân thực của nó. Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam và Thư mục Hán Nôm Mục lục tác giả, thì Vũ Miên mất năm 1782. Chúng ta có thể định một niên đại tương đối cho Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là nửa cuối thế kỷ XVIII (1782).

Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là một cuốn sách Nôm, do 4 cây “đại bút” cuối đời Lê biên soạn, được một vị hòa thượng học thức uyên thâm tổ chức khắc in. Để dịch Nôm 3000 chữ Hán trong nguyên tác, sách này phải dùng tới số lượng chữ Nôm cũng không dưới con số đó. Đây là những chữ Nôm vào loại chuẩn mực đã được xác định niên đại tương đối vì thế sách này sẽ là một cứ liệu đáng tin cậy nữa, cùng với các tác phẩm Nôm đã được chú ý trước đây, làm chỗ dựa để nghiên cứu chữ Nôm nói chung và chữ Nôm cuối thế kỷ XVIII nói riêng.

Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là một bản dịch rất sát nguyên tác. Để chuyển đạt trung thành giá trị nội dung và thẩm mỹ của nguyên tác, các dịch giả đã sử dụng vốn từ Nôm đa dạng, phong phú. Ví như, cùng một khái niệm “yêu”, ở nguyên tác dùng các từ “bế”, “nịch”, “thân duyệt”, thì ở bản dịch cũng có các từ: yêu, đam yêu, yêu mến.

“Kiệt bế Muội Hỷ” dịch là: Vua Kiệt yêu nàng Muội Hỷ, “(Trụ) Nịch Đát hạnh Kỷ”. dịch là (Trụ) đam yêu nàng Đát Kỷ. “Du Túc thân duyệt” dịch là Chu Du, Lỗ Túc thấy mà yêu mến.

Bản dịch xuất hiện nhiều từ ghép, từ song âm, từ điệp vận. Có những từ hiện nay vẫn dùng như yêu mến, rõ ràng, lo toan, chìm đắm, đìu hiu… Có những từ mà ý nghĩa hoặc cách dùng không hoàn toàn như tiếng Việt ngày nay như “não nề”: Nàng Thái Chân nhan sắc não nề (nguyên văn: Thái Chân kiều dã); “hẹp hòi”: Bờ cõi hẹp hòi (nguyên văn Bức viên cục xúc) (ngày này ta chỉ dùng từ hẹp hòi với những khái niệm trừu tượng như quan điểm hẹp hòi). Hoặc như dùng “vội vàng” để dịch từ “bàng hoàng”, dùng “cát lầm” để dịch từ trần (bụi), dùng từ “dùng dằng” để dịch từ “bồi hồi”… Có những từ ngày nay không thấy dùng nữa như “kiêu lung” trong câu “Nước Vi, nước Cố kiêu lung” (nguyên văn: Vi Cố kiên xa), “lung lao” trong câu “Rợ Côn Ngô lung lao” (nguyên văn: Côn Ngô quyệt xướng)… Vì vậy, đây là một văn bản Nôm có giá trị nhất định trong việc tìm hiểu ý nghĩa của một số từ cổ, cách dùng của một số từ Việt nửa sau thế kỷ XVIII.

Một điều đáng chú ý là Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm là một bản dịch theo lối văn xuôi. Ở một chừng mực nhất định, sách giúp ta hình dung được lối diễn đạt văn xuôi của tiếng Việt thế kỷ XVIII.

Nhìn chung câu văn xuôi trong bản dịch khá rõ ràng, gọn và dễ hiểu.

Khí hỗn mang mới mở, vua Bàn Cổ ra đời.

Vua Kiệt yêu nàng Muội Hỷ, giam hãm, kẻ ngay lành.

Chàng Đào Tiềm vịnh cúc chốn đông ly.

(Trụ) lấy xương dân mà đắp vực sâu, lòng người uất ức biết kêu ai…

Những câu như vậy rất gần gũi với lời diễn đạt của tiếng Việt hiện đại.

Nhưng chúng ta cũng gặp các lối nói, cách diễn đạt đã trở nên xa lạ với ngày nay như “Vua Nghiêu thời phát tích chưng họ Y đất Kỳ”. (Thuấn) gọi trời mà than chưng khi cầy núi Lịch…”.

Một ví dụ khác: Các câu bị động xuất hiện trong sách đều dùng chữ “phải”, chưa thấy xuất hiện chữ “bị”:

Đủ Võng phải thua chạy,
Giặc Xuy Vưu phải diệt.
Cơ Tử thời cầm tù,
Tỷ Can thời phải giết.
Vua Lê phải đuổi,
Lưu Nghê phải thua…

Là một tác phẩm dịch, Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm cũng có những ưu điểm đáng chú ý: bản dịch không quá câu nệ vào nguyên tác, điều này được thể hiện ở chỗ, nguyên tác là từng câu 4 chữ, có vần, bản dịch dùng lối văn xuôi. Ở chỗ trong nguyên tác do sự trói buộc của vần, của số chữ, nên có khi diễn đạt trúc trắc, vắn tắt… nhưng khi dịch người dịch tỉnh táo, nên diễn đạt khá như câu “Ly cúc vịnh Tiềm” dịch thành: “Chàng Đào Tiềm vịnh cúc chốn đông ly” là một ví dụ khá rõ.

Một nét đáng chú ý nữa là bản dịch đã cố gắng diễn đạt chính xác từng “chữ”, từng “từ” của nguyên tác như “Cổ điển diễn vong” dịch thành “phép cũ lỗi quên”,”thập kỷ canh đệ” dịch thành “mười kỷ đắp đổi”; “sơ phách hỗn mang” dịch thành “chi hỗn mang mới mở”. Những câu như vậy, vừa bảo đảm tính chính xác của từng từ, vừa bảo đảm cách diễn đạt trôi chảy. Chính đặc điểm này khiến cho tác phẩm có thể trở thành một cứ liệu nữa để nghiên cứu ý nghĩa của một số từ, cũng như cách diễn đạt, mô hình câu của tiếng Việt thế kỷ XVIII.

Một nhóm Cư sĩ Cúc Lâm gồm nhà văn sử, nhà thơ, nhà văn có tên tuổi, gặp nhau trong hoạt động trước thuật “quốc âm” còn để lại tới nay một vài bản dịch Nôm đáng lưu ý(5). Đây là một biểu hiện của sự phát triển mạnh mẽ của “tiếng Nôm” cuối thế kỷ XVIII và nhu cầu thưởng thức sáng tác bằng chữ Nôm thời đó. Có thể thấy nhóm cư sĩ Cúc Lâm nói riêng, các nhà trí thức của thời đại nói chung đã có những đóng góp thế nào vào sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc, nhất là trong lãnh vực văn xuôi. Và ngày nay những “bản dịch” như trên, vẫn còn ý nghĩa nhất định khi tìm hiểu lịch sử của chữ Nôm và tiếng nói dân tộc khi ấy.

H.H

CHÚ THÍCH

( ) Từ Côn Ngọc, còn gọi là Từ Tự Minh, người đất Hương Sơn, Mẫn Chương, Trung Quốc.

(2) Lời tựa cho cuốn Tam thiên tự lịch đại văn chú của Nguyễn Hữu Thận viết năm Gia Long 18 (1819). Sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AC.253. Nguyên văn: “Văn tuy ước nhi sự tư bị”.

(3) Xem phần xác định niên đại ở dưới.

(4) Tam thiên tự lịch đại văn chú, Nguyễn Hữu Thận thực hiện, Đoàn Bá Trinh hiệu đính, in lần đầu vào năm Gia Long 18 (1819). Sách lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AC.253

(5) Lời tựa cho cuốn Tam thiên tự lịch đại văn chú, Sđd.

TB

TÂN VIỆT NAM, MỘT BƯỚC PHÁT TRIỂN RÕ RỆT CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ

ĐINH XUÂN LÂM

Đồng chí Võ Văn Sạch, cán bộ nghiên cứu của Trung tâm lưu trữ Quốc gia (Cục Lưu trữ Nhà Nước) trong khi làm công tác chỉnh lý tài liệu chữ Hán trước năm 1945, đã may mắn tìm thấy tác phẩm Tân Việt Nam của Phan Bội Châu, và đã hoàn thành việc dịch thuật và chú thích khoa học, tác phẩm đó sẽ xuất bản theo kế hoạch của cơ quan. Chúng tôi nghĩ rằng việc công bố rộng rãi tác phẩm Tân Việt Nam sẽ góp thêm tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu và tìm hiểu quá trình biến chuyển tư tưởng chính trị của nhà yêu nước họ Phan hồi đầu thế kỷ XX, nên không ngần ngại giới thiệu cùng độc giả.

1. Tình hình văn bản

Đây là lần đầu tiên Tân Việt Nam được giới thiệu một cách tương đối hoàn chỉnh, từ một bản chữ Hán(1). Sách chép tay trên giấy dó khổ 29x16cm, dày 26 trang (tờ), mỗi trang có 16 dòng, mỗi dòng khoảng 21 chữ. Sách còn nguyên vẹn, rõ ràng, dễ đọc. Trang đầu ghi tên sách: Tân Việt Nam. Trang cuối ghi: Thượng Hải, Hoành Tân thư quán và tên tác giả: Sào Nam tử. Lòng sách có 3 bút tích khác nhau: của người chép lại toàn bộ cuốn sách bằng mực đen; của người soát lại và chấm câu, có thêm một số chữ viết mực đỏ; của người viết dòng chữ: “Thượng Hải - Hoành Tân thư quán, Sào Nam tử tập” ở cuối sách. Về số chữ viết mực đỏ của người soát lại và chấm câu, cụ thể như sau:

Trang dòng chữ từ trên xuống
9 1 13 Tái khủng thú Pháp nữ chi lực vô du
10 3 1 thủ
20 6 9 tân
31 1 13 xu
33 5 10 Nhật sửa lại thành mục
36 1 1 mai
37 3 5 giả
45 4 17 thử
46 5 12 kim
47 5 2 Vi
55 Giá thư tuyên thúc chi cao các sĩ thiên hạ thái bình thiên hậu dụng chi

Với tình hình văn bản như trên, có thể ngờ rằng đây chưa phải là nguyên bản của Phan Bội Châu. Đã vậy, nghiên cứu nội dung tài liệu thì thấy có một số điểm cho phép khẳng định đây chỉ là một bản sao với một số sửa chữa nhỏ để phù hợp với tư tưởng của người sao:

- Người chép lại bản này đã kỵ húy các chữ “thời” là tên vua Tự Đức nên viết thành chữ “thì”. Điều này không hề bắt gặp lần nào trong các công trình khác của Phan Bội Châu(2).

- Về các triều đại phong kiến Trung Quốc sang xâm lược Việt Nam, không thấy chép nhà Thanh, hay có chép rồi lại xóa đi. Phan Bội Châu không hề kiêng kỵ như vậy trong các tác phẩm của Cụ.

- Danh từ Ấn Độ - Chi na (tr.7) phiên âm chữ Pháp Indochina chỉ chung xứ Đông Dương, người chấm câu lại chấm tách ra thành hai nước Ấn Độ và China (Trung Quốc). Phan Bội Châu không thể lầm như vậy, trong các sách khác Cụ đã phiên âm đúng chữ đó.

- Trang cuối cùng có câu “Sách này tạm gói cất trên gác cao, đợi khi thiên hạ thái bình mới đem ra dùng”, đối với cụ Phan là người có ý thức viết sách để kịp thời tuyên truyền vận động cách mạng thì tư tưởng đó thật sự xa lạ.

- Bản sao này không mang bút tích Phan Bội Châu, nếu có thì rất dễ nhận đối với những ai đã từng tiếp cận một số nguyên bản tác phẩm của Cụ. Vì các lẽ trên, chúng tôi cho rằng đây là hai bản khác nhau: bản thứ nhất sao lại bằng mực đen và bản thứ hai cùng nội dung với bản trên có thêm một số chữ của người chấm câu soát lại viết bằng mực đỏ. Hiện nay, do chưa có một bản khác để so sánh kết luận, chúng tôi căn cứ vào bản 2 có nội dung đầy đủ hơn, những chữ được thêm vào không hề làm thay đổi nội dung chính của văn bản, để khẳng định bản đó có nhiều khả năng, gần hơn với nguyên tác của Phan Bội Châu.

2. Niên đại nguyên bản và bản sao.

Cho tới nay xung quanh Tân Việt Nam vẫn có những ý kiến khác nhau về năm và nơi sách ra đời. Trong Ngục trung thư(3) Phan Bội Châu có nói tới tác phẩm Tân Việt Nam nhưng không cho biết viết vào thời kỳ nào? và viết ở đâu? Nguyễn Huệ Chi cho rằng cụ Phan viết vào khoảng thời gian từ tháng 4 tới tháng 6 năm 1907 (Đinh Mùi) là lúc Cụ đang ở Trung Quốc(4). Chương Thâu cho là viết vào năm 1907 ở Nhật Bản(5) và Trần Lê Sáng cũng ý kiến đó(6). Chúng tôi thấy cần lưu ý tới các điểm sau:

- Trong Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 78 (tháng 9-1965) khi chỉnh lý và giới thiệu Tân Việt Nam đồng chí Chương Thâu có cho biết đó là bản dịch quốc ngữ từ một bản Tân Việt Nam chữ Hán có 26 trang in, có ghi viết là Bính ngọ hiên và sách được bán tại nhà Tân Hưng, thành Đông Kinh (Nhật Bản).

- Trong hồ sơ số 74 thuộc phòng tài liệu Hà Đông (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 Hà Nội) có nói tới tác phẩm Tân Việt Nam do Phan Bội Châu viết ở Yokohama(7) và bán tại nhà sách Tân Hưng ở Tokyo (Shinkoto). Đồng thời hồ sơ đó cũng cho biết sách Tân Việt Nam này cùng với một số tài liệu khác như Bài hát khuyên trẻ em chữ Nôm của Phan Bội Châu, sách kinh và 2 cuốn sách của Đông Kinh nghĩa thục ấn hành đã bị tịch thu tại nhà Nguyễn Sĩ Luận ngày 19-5-1913(8). Tiếc rằng toàn bộ số tài liệu trên hiện nay vẫn chưa tìm thấy, chỉ có ghi tên trong hồ sơ mà thôi.

Cuốn Sùng bái giai nhân phát hiện trước đây trong Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 Hà Nội và đã được giới thiệu rộng rãi(9) cũng được viết ở Bính Ngọ hiên, Hoành Tân (Nhật Bản) vào năm 1906 rồi in và phát hành ở nhà sách Tân Hưng ở Đông Kinh (Tokyo - Nhật Bản) vào giữa tháng 5 năm 1907.

Căn cứ vào tình hình trên, có thể cho rằng Phan Bội Châu viết Tân Việt Nam ở Hoành Tân vào năm 1906, sau đó cho in và phát hành vào năm 1907 ở Đông Kinh, nghĩa là viết và in vào cùng thời gian và cùng nơi với Sùng bái giai nhân.

Thế còn niên đại bản sao chúng ta hiện có trong tay thì như thế nào?

Bản sao Tân Việt Nam hiện có không ghi rõ chép từ đâu, ở đâu, vào ngày nào,tháng nào. Nhưng trong văn bản có ghi: Thượng Hải, Hoành Tân thư quán, Sào Nam tử tập (nơi in và bán sách ở Thượng Hải, Hoành Tân, Phan Sào Nam soạn). Trong cuộc đời hoạt động của Phan Bội Châu, không có thời kỳ nào Cụ sống lâu ở Thượng Hải, vì vậy Cụ không thể viết Tân Việt Nam tại địa điểm đó. Còn Hoành Tân là nợi Cụ Phan từng sống một thời kỳ dài vào năm 1906. Như vậy có nhiều khả năng Cụ Phan đã viết cuốn này ở Hoành Tân vào năm 1906, và sách đó đã được in và đem bán ở cả hai nơi Hoành Tân và Thượng Hải. Khi nhắc tới sách Tân Việt Nam Cụ Phan viết: “Lúc tôi ở Quảng Đông ra đi (tức vào cuối năm 1906) gặp hai đồng chí tỉnh Quảng Ngãi từ trong nước xuất dương, tôi thấy hai người có nhiệt tình, có dũng cảm có thể làm được những việc trọng yếu… tôi mới đem những văn kiện đã làm ra như Việt Nam vong quốc sử Tân Việt Nam… giao cho hai anh này đem về nước để dùng làm tài liệu tuyên truyền vận động”(10).

Kết hợp với việc chúng ta đã biết rằng Việt Nam vong quốc sử được viết năm 1905, rõ ràng Tân Việt Nam phải được viết vào khoảng đầu năm 1906 để có thể đưa cho người đem về nước vào cuối năm đó.

Nhưng ở một đoạn khác, Cụ Phan lại viết: “Trong lúc này (tức 1907) tôi có chút thời giờ nhàn rỗi, viết quyển sách Tân Việt Nam đại lược chia làm hai mục lớn, mục thứ nhất là Thập đại khoái, mục thứ hai là Lục đại nguyện in thành 1000 bản”.

Căn cứ vào ý kiến trên của Phan Bội Châu, chúng tôi cho rằng Cụ đã viết Tân Việt Nam vào khoảng đầu năm 1906 và đã gửi người mang về nước một số bản chép tay vào cuối năm đó, đến năm 1907 thì tiến hành tu chỉnh và cho in. Như vậy Tân Việt Nam đã được đưa về nước thành hai đợt:

- Sách chép tay (với số lượng ít) đem về nước từ cuối năm 1906.

- Sách in và phát hành ở Nhật Bản vào năm 1907 trong đó có ghi: Soạn ở Hoành Tân và phát hành ở Tân Hưng đường (Tokyo).

Bản sao chúng tôi hiện có trong tay được sao lại từ nguồn thứ hai là bản in có niên đại 1907.

3. Nội dung tác phẩm:

Có thể khẳng định Tân Việt Nam là một luận văn trong đó tác giả Phan Bội Châu trình bày mô hình nước Việt Nam mới theo Cụ quan niệm. Đây là một nước Việt Nam trong đó mọi ngành kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục, xã hội đều được đổi mới theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở công cuộc “duy tân” đó, dân sẽ giàu nước sẽ mạnh, văn minh ngày càng phát triển, uy tín nước ta trên trường thế giới ngày càng nâng cao. Muốn được vậy thì có sáu điều mong muốn lớn (Lục đại nguyện) đối với mỗi người dân trong nước: có chí tiến thủ mạo hiểm; có tinh thần thương mến, tin yêu lẫn nhau; có tư tưởng tiến bước lên nền văn minh; có sự nghiệp thực hành yêu nước có sự nghiệp thực hành công đức; có hy vọng về danh dự và lợi ích. Thực hiện đầy đủ sáu điều mong muốn lớn đó thì sẽ đạt tới mười điều sung sướng lớn (Thập đại khoái): không có cường quốc nào bảo hộ; không có bọn quan lại hại dân; không có người dân nào mà không được thỏa nguyện; không có người lính nào mà không được vinh hiển; không có loại thuế má nào mà không công bằng, không có hình pháp nào mà không thỏa đáng; không có nền giáo dục nào mà không hoàn thiện; không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác; không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt; không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang. Trong khi tập trung trình bày nội dung trên, tác giả đã thể hiện khá sâu sắc nhiều tư tưởng tiến bộ. Trước hết phải nói tới một lòng tin vững chắc vào tinh thần và khả năng của đồng bào, đồng chí. Theo Cụ Phan, sở dĩ trước đó trong các tầng lớp nhân dân ta có phần nào thiếu sót về suy nghĩ và hành động, chính vì thiếu một sự hiểu biết cần thiết, vì chưa được giác ngộ về quyền lợi và nghĩa vụ. Một khi đã hiểu biết, đã giác ngộ thì tất nhiên ai nấy đều sẽ tự nguyện vượt qua mọi cực khổ, chấp nhận mọi gian lao, hy sinh mọi phí tổn để cùng nhau phấn đấu cho mục đích cao cả.

Tiếp đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới quyền làm chủ của người dân. Trên cơ sở, duy tân đất nước, dân trí sẽ mở mang nhiều, dân khí sẽ lớn mạnh hơn, dân quyền sẽ phát triển nhanh, vận mệnh nước nhà sẽ do toàn dân nắm giữ và quyết định trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người dân trong nước.

Đặc biệt tác giả đã dành nhiều trang để nói về vai trò to lớn và quan trọng của người phụ nữ trong xã hội, trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Trách nhiệm của người phụ nữ đối với xã hội vô cùng to lớn, vì vậy xã hội có nghĩa vụ phải chú ý tới người phụ nữ, bảo đảm quyền bình đẳng hoàn toàn của họ với nam giới, sao cho “phụ nữ trong cả nước không ai là không mong muốn làm một người mẹ anh hùng, làm một người chị anh hùng, làm một người phụ nữ giàu lòng yêu nước”. Cũng trong phần nói về quyền làm chủ của người dân, tác giả đã đề cập tới các quyền tự do ngôn luận, hội họp, xuất bản, báo chí… đành rằng những điều kiện lịch sử đầu thế kỷ XX chưa cho phép Cụ Phan có một nhận thức sâu sắc và đầy đủ. Nhưng nếu ta nhớ rằng phải 13 năm sau các yêu sách của nhân dân Việt Nam mới được người thanh niên yêu nước thuộc thế hệ mới là Nguyễn Ái Quốc trình bày một cách hệ thống và toàn diện để đưa tới bàn hội nghị các nước đế quốc thắng trận vào giữa tháng 6-1919 đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của dân tộc ta thì sẽ thấm thía biết bao về ý nghĩa tiến bộ và tính chất tiên phong của tư tưởng và việc làm của Phan Bội Châu hồi đó. Đồng thời, nếu ta nhớ rằng Tân Việt Nam được viết chưa đầy hai năm sau khi Duy tân Hội với chủ trương quân chủ lập hiến ra đời (5 -1904) thì sẽ thấy rõ nhà yêu nước họ Phan đã chuyển biến nhanh chóng đến chừng nào về tư tưởng chính trị trong thời gian ngắn ngủi đó để khi thời cơ tới, chủ động thành lập Việt Nam quang phục hội với chủ trương cộng hòa dân quốc (6-1912), đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng Việt Nam trên con đường dân tộc và dân chủ.

Giá trị của Tân Việt Nam về mặt nội dung tư tưởng vì những lẽ đó, và đặt trong những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hồi đầu thế kỷ rõ ràng là to lớn, rất đáng trân trọng. Tư tưởng đó cần được tiếp tục phát huy trong hoàn cảnh hiện nay có lợi cho việc nâng cao quyền làm chủ của người dân vì lợi ích của cách mạng. Nội dung của Tân Việt Nam có nhiều điểm tích cực, tiến bộ như vậy, đó là điều cần khẳng định và cần được giới thiệu rộng rãi với bạn đọc. Nhưng sẽ vô cùng thiếu sót nếu không đề cập tới mặt hạn chế trong nội dung tác phẩm. Rải rác qua các trang, các đoạn, người đọc có thể bắt gặp một số tư tưởng không thích hợp, thậm chí lệch lạc, như đề cao sức mạnh quân sự, nuôi ảo tưởng bành trướng thế lực ra ngoài, nặng về chủ nghĩa chủng tộc v.v… Tất nhiên đối với một người vốn căm thù sâu sắc mọi hình thức áp bức bóc lột, suốt đời kiên trì chống cường quyền và bất công thì tuyệt nhiên đây không phải vì vật chất, vì lợi nhuận, mà chỉ vì say sưa một thứ “vinh quang” giả tạo, đặt không đúng chỗ, cốt sao cho “dung mạo nước ta lừng lẫy chói lọi ở hoàn cầu”.

Cuối cùng xin nói vài lời về hình thức tác phẩm. Đọc Tân Việt Nam chúng ta vô cùng sung sướng gặp lại giọng văn rất đặc sắc của Phan Bội Châu, rất dễ nhận, không thể lẫn lộn với văn người khác. Đó là một giọng văn đằm thắm, thiết tha khi nói về đồng bào, đồng chí, nhưng cũng hừng hực căm thù khi nói tới bè lũ thực dân cướp nước và vua quan bán nước. Đó cũng là một giọng văn có sức cổ vũ, động viên mạnh mẽ, khiến người đọc như bị cuốn hút theo để rồi chia sẻ mối đồng tình và sẵn sàng hành động theo lời kêu gọi của người viết.

“Nếu người trong nước ta đều đồng lòng thì việc dời đất trời xoay sông núi đều làm dư sức. Người nước ta há lẽ nào lại tụt lùi mà không làm được hay sao? Gom chí khí của muôn người để xây nên thành cao ngút trời, góp trí tuệ lớn rung chuyển cả núi cao thì biển nào mà không lấn nổi. Tôi xin cúi đầu lạy, xin cúi đầu chào nước Việt Nam mới muôn muôn năm ! Đồng bào nước Việt Nam mới muôn muôn năm!”.

Thiết tưởng có thể mượn mấy câu cuối tác phẩm Tân Việt Nam, khẳng định lòng tin sắt đá, không gì lay chuyển nổi của nhà yêu nước họ Phan vào tinh thần và khả năng của nhân dân vào tiền đồ của dân tộc để kết thúc bài giới thiệu này vậy.

Đ.X.L

CHÚ THÍCH

(1) Trước đây, trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 78 (tháng 9-1965); khi giới thiệu Tân Việt Nam, đồng chí Chương Thâu cho biết đã dựa vào một bản dịch quốc ngữ mà không có bản chữ Hán. So với bản đó, bản chữ Hán mới sưu tầm được lần này có nội dung đầy đủ hơn, câu văn cũng hoàn chỉnh hơn. Chúng tôi cho rằng bản của Chương Thâu có khả năng là một bản viết tóm lược lại.

(2) Như cuốn Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sứ khảo...

(3) Phan Bội Châu: Ngục Trung thư, Đào Trinh Nhất dịch, Tân Việt, Sài Gòn, 1959.

(4) Nguyễn Huệ Chi: Niên biểu Phan Bội Châu, trong cuốn: Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội Châu, Nxb. KHXH, H. 1970).

(5) Chương Thâu: Tác phẩm Tân Việt Nam của Phan Bội Châu, Tạp chí NCLS, số 78 tháng 9 - 1965).

(6) Trần Lê Sáng - Thư mục về Phan Bội Châu (trong cùng sách trên).

(7) Hoành Tân (Nhật Bản) Bính Ngọ hiện được cụ Phan thành lập đầu tiên tại Hoành Tân, tới đầu năm 1907 Phan Bội Châu dời về Đông Kinh, nhưng vẫn giữ tên cũ.

(8) Nguyễn Sĩ Luận người làng Đông Phủ, tổng Nam Phù liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (cũ), bố là Nguyễn Hữu Dự, từng giữ chức Bố Chánh tỉnh Hà Nội.

(9) Phan Bội Châu: Sùng bái giai nhân, Nxb. Nghệ Tĩnh, Vinh, 1983.

(10) Phan Bội Châu: Niên biểu, Phạm Trọng Điểm và Tôn Quang Phiệt dịch, Nxb. Văn - Sử - Địa, H. 1957.

TB

BÀI THƠ NHÂN ẢNH VẤN ĐÁP CỦA PHAN HUY THỰC

HOÀNG THỊ NGỌ

Phan Huy Thực tự là Vị Chỉ, hiệu Xuân Khanh, thụy Trang Lương, sinh năm 1779 và mất năm 1846.

Theo Phan gia thế phả, Phan Huy Thực là con trai thứ hai của Phan Huy Ích, là anh ruột của nhà bác học Phan Huy Chú, thuộc dòng họ Phan Huy nổi tiếng ở Sài Sơn (nay thuộc huyện Quốc Oai, Hà Sơn Bình). Con đường hoạn lộ của Phan Huy Thực thăng giáng thất thường, trong đó có ba lần ông được thăng tới chức Thượng thư. Ông là một tài năng đa dạng, có một vốn hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: văn hóa, âm nhạc, thiên văn, lịch pháp, giáo dục, điển lễ nghi thức…

Dịch và sáng tác thơ văn chỉ là một phần nhỏ trong cả cuộc đời hoạt động phong phú của ông, nhưng với nền văn học cổ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, ông là một tác giả đáng được ghi nhận và đánh giá cao.

Tác phẩm của ông hiện có:

- Bản dịch Tỳ bà hành nổi tiếng (dịch thơ Bạch Cư Dị).

- Hoa thiều tạp vịnh.

- Khuê nhạc thi văn tập.

- Bần nữ thán.

- Nhân nguyệt vấn đáp.

Ngoài ra, ông còn một số bài văn tế, câu đối, thơ xướng vịnh… nằm rải rác trong kho tàng sách Hán Nôm hoặc đã bị thất lạc.

Để khẳng định thêm vị trí của Phan Huy Thực trong nền văn học cổ, chúng tôi xin giới thiệu thêm tác phẩm Nhân ảnh vấn đáp của ông một, áng thơ Nôm dài trước nay chưa được giới thiệu.

Tác giả viết bài thơ này khi đang ở kinh đô giữ chức Hàn lâm. Cả bài thơ dài 186 câu, viết theo thể lục bát, như một màn kịch nhỏ gồm hai nhân vật đối thoại với nhau là người bóng. Qua cuộc đối thoại, tác giả đã dãi bày những suy nghĩ, tâm sự, đặc biệt là nỗi nhớ nhung về quê hương, gia đình khi đang sống ở nơi đất khách quê người. Với sự khéo léo khơi gợi, gạn hỏi ân cần của bóng. Người đã tâm sự với bóng về dòng dõi gia thế của mình: bộc lộ những suy nghĩ về bước đường công danh sự nghiệp và cuộc sống tạm bợ nơi lữ thứ cùng những bận rộn việc quan nơi kinh kỳ…

Vấn đáp là hình thức mà tác giả thường hay dùng. Cùng với cách chọn không gian, thời gian và đặc biệt chọn người tri kỷ là cái bóng của chính mình. Phan Huy Thực đã tạo cho mình một phong cách rất riêng và độc đáo. Lời thơ trong Nhân ảnh vấn đáp trau chuốt, mượt mà, ngôn từ súc tích, giầu hình tượng và chứa đựng nhiều yếu tố chân thực gần gũi với chúng ta.

Hiện nay có hai bản Nhân ảnh vấn đáp bằng chữ Nôm:

- Bản khắc in của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNb 91, in năm Canh Tuất, đời Duy Tân, do Quan văn đường tàng bản. Bản này dài 186 câu được đóng chung với một bài thơ khác của tác giả thành 1 cuốn dày 22 trang, khổ 20x10cm.

- Bản chép tay của gia đình Phan Huy Diên (Hà Nội) do con cháu trong gia tộc chép lại theo trí nhớ, gồm 194 câu.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài thơ Nhân ảnh vấn đáp. Phần phiên âm, chú thích chúng tôi dựa vào bản in, bên dưới có khảo dị bản chép tay:

NHÂN ẢNH VẤN ĐÁP
1. Đêm thu thẻ dán canh tà,
Liễu gầy đỡ gió, sen già chống sương.
Phòng văn rủ bức rèm tương,
Hưong trầm nghi ngút, quyển vàng biếng trông.
5. Héo tươi ai tỏ tấm lòng,
Dưới màn hai bóng bạn chung một đèn.
Trong giường nghe chạnh gót sen,
Tiếng đâu đồng vọng rén bên thoắt chường.
Rằng đây kim mã ngọc đường,
10. Bấy lâu hơi tiếng cũng thường có tôi.
Khi ăn khi nói khi cười,
Khi nằm, khi dậy, khi ngồi, khi đi.
Dự trong chỉ xích tương tùy,
Vậy nên dám hỏi mọi bề gần xa.
15. Vả người là ấáng danh gia,
Đường mây nhẹ bước chốc đà bấy nay.
Thân danh chẳng bận mảy may,
Cớ sao thắc mắc niềm tây một mình.
Đêm đêm chong bóng tàn canh,
20. Chưa hề chiếc gối bên mình đặt yên.
Hay là nhớ nỗi thân duyên,
Tân kiều trông nẻo oanh thiên cách vời.
Rừng hàn mũi bút dùi mài,
Công danh nên bận lòng người kẻo đâu ?
25. Hay là nghị nỗi quế châu,
Ba thu dặm khách đôi bầu gió đưa.
Phong lưu cùng khổ khác xưa,
Nỗi nay dìu dặt khôn bề tính quen?
Hay là nỗi ở chưa yên,
30. Gánh cầm thư lại mấy phen nhắc lần.
Bèo mây nênh nổi vòng trần,
Tường mầu cô lữ xoay vần đời nơi ?
Hay là bầu bạn thiếu người,
Lứa giao du biết lấy ai cho vừa.
35. Cùng ai cuộc rượu câu thơ,
Cùng ai sóng gió đèn mưa tả phiền ?
Hay là nhớ cuộc ca diên,
Nhịp tiên tỏ trúc vẻ chen yêu kiều.
Trên lầu Vương, Tạ dập dìu,
40. Tay châu điểm nhặt thẻ lèo thưởng đua?
Hay là nhớ cuộc xuân du,
Trước đèn kẻ được người thua tơi bời.
Lá bài ngọn bố đùa vui,
Trải chơi lại nhớ chuyện chơi kẻo nào?
45. Hay là nghĩ bạn thuần giao,
Lại khi rầu rĩ mượn vào làm khuây.
Trăm điều dễ gác cơn say,
Tiếng tăm vả lại chốn này phải e?
Hay là vắng vẻ hương khuê.
50. Sớm khuya phó mặc lũ hầu túi khăn.
Từng khi sương nắng nhọc nhằn,
Nâng niu ai kẻ sánh gần gối loan.
Hay là tưởng thú lâm tuyền,
Đầu non chuốc chén trên triền nghe kinh.
55. Bấy lâu lần bước thị thành,
Lâu ngày tưởng chốn đi tình thêm trông?
Hay là chặt hẹp của dùng,
Bấy lâu xoay tạm thêm chồng một hai.
Tháng người thôi vốn thời lời,
60. Lâu nay dật dạ nên người cưu lo.
Một lòng trăm mối tơ vò,
Cho nên trằn trọc giấc hồ phải thân?
Thấy điều hỏi gạn ân cần.
Ở đây gần gũi thời thân thỉ cùng:
65. “Bấy lâu lòng những hay lòng,
Lấy ai gắn bó mà cùng nhỏ to.
Mình đây trước đắn sau đo,
Lặng ngồi ta sẽ như cho ít nhiều.
Hỏi thưa nghe cũng phải chiều,
70. Lòng đà há bận những điều thế đâu.
Dặm trường vả chí cung dân,
Nhỏ nhen cũng đã bắc cầu thanh vân.
Miễn lòng chăm chữ thiện cần,
Đường danh ắt cũng bước lần vội chi.
75. Tuổi xanh từng điểm chữ thì,
Đã khi ra bể lại khi vào ngồi.
Ở đời tùy lúc chuyện đời.
Có an ngộ mới là người trượng phu,
Lần lữa cầm hết mấy thu,
80. Mặc dầu lữ xá mặc dầu quan sanh.
Càn khôn một nóc thảo đình,
Dẫu đâu mà gửi được mình cũng xong.
Anh em bốn bể là chung,
Thiếu gì tri hữu trong vòng cân đai.
85. Tịnh du dương buổi đua tài,
Thần châu há phải như ngoài dương quan.
Tiệc vui bậc hát cung đàn,
Bấy lâu thị xướng tùy ban cũng thường.
Vả từ sinh chốn cẩm đường,
90.. Tai này chừng đã chán chường trúc tơ
Ngày xuân bài bạc thói xưa,
Có chăng cũng mặc mà chừa cũng nên.
Vả từ hồ thỉ mấy niên,
Ít nhiều cũng đã trải phen thân nhàn.
95. Hồ tôn là cuộc vi hoan,
Song đà đeo việc từ hàn phải chăm.
Dầu khi nhớ nỗi xa xăm,
Nương song chuốc chén quỳnh châm hệ gì.
Phong lưu từng trải một thì,
100. Nàng khăn chen lũ kiền nhi là thường.
Khách tình khôn tiện đa mang,
Thư đồng cũng đủ sửa sang chăn màn.
Đô kỳ nay chốn du quan,
Kìa non Thiên Mụ nọ ngàn Đàm Câm.
105. Trước hoa đới ẩm hiên ngâm,
Cũng thương vui với tri âm một vài.
Của tiên dành cũng hẹp hòi,
Đầy ngày chi trách ép nài phú nhi.
Người còn của đến có khi,
110. Nợ đành trả nợ bận gì mà e.
Niềm riêng nay kể cho nghe,
Nỗi mình xốc nổi nỗi quê ngại ngùng.
Dấn bèo vả chút nhà dòng,
Văn chương võ vẽ thư song rạng hồ.
Tập rèn còn hổ nghiệp nho,
115. Bể dâu trải cuộc thế đồ đổi thay.
Muôn nhờ ấm lý hậu dầy,
Sân ban nay lai xum vầy thần hồn.
Cúc tùng nhận lối hoàng tồn,
120. Mùi vị khuyết chốn sơn thôn lần hồi.
Quạt nồng ấp lạnh khi rồi,
Một song khóa tử theo đòi bút nghiên.
Lâm tuyền một lối đã quen,
Dám mong thân phận sánh chen ao hoàng.
125. Ngờ đâu vị bố bậc thường,
Tính danh sớm đã bận gương tể đài.
Nước non xa ruổi tin vời,
Nửa mừng nửa sợ lòng người bâng khuâng.
Kể từ cầm sách khơi chừng,
130. Nỗi nhà ấm lạnh ngại ngùng tấc gang.
Đã đành dưới gối chen hàng,
Lập thân hồ dễ rằng đường ngu thân.
Cành dân bóng xế nhà xuân.
Thẻ tiên chốc đã giáp tuần cổ hy.
135. Quân thân nay thử tính khi,
Ngày dài ngày ngắn xiết chi sự lòng.
Tuổi già đứng cửa xa trông,
Mà ta ngầm ngập bụi hồng bấy nay.
Ngọt bùi biết lấy chi đây,
140. Chẳng qua thỉnh thoảng đường mây đưa lời.
Lòng riêng nhũ bú dây dây,
Áo xiêm ràng buộc cách vời sân ban.
Non Yên cành quế sánh đoàn,
Chốn đình vi buổi thừa hoan giữ thường.
145. Riêng ai hồ thỉ dán đường,
Cánh hồng lẻ tẻ trong sương xao tình.
Bèo mây từng chạnh nỗi mình,
Nước non lại tưởng nỗi anh em nhà.
Trong bàn thủ túc suông xa,
150. Ngày dài đắp đổi rầy rà đủ chưa.
Tưởng bao giờ nhớ bây giờ,
Hoa dường này mấy ngày xưa thế nào.
Buồn trông non thẳm mây cao.
Cơ hồ xuân mấy chiêm bao mơ màng.
155. Tuổi xanh kết sợi chỉ hồng,
Trăm năm kinh bố giữ dòng gia thanh.
Những là thắc mắc khuê tình,
Đau lòng phiền não giật mình tang thương.
Trâm vòng gối nếp đài trang,
160. Cười rông mong mỏi chia san có ngày.
Bắc nam cách lệ bấy chầy,
Giấc tà chưa dễ đổi thay canh dài.
Sung đền giữ mãi một mùi,
Mà ta kiển bộ lụy người tào khang.
165. Đìu hiu bốn bức gió sương,
Phòng khuê vò võ tay bồng tay mang.
Đứa anh ngoài tuổi thành đồng,
Bút nghiên biết có chăm nhìn hay không.
Thư đường lần đoái mấy chồng,
170. Lại thêm ràng buộc lũ đồng nhi nay.
Tù vàng khóa lễ mấy rầy,
Nhắn nhe chưa dễ được ngay cho tường.
Đứa con măng sữa lại căng,
Khi đi chỉ một lên đàng theo cha.
175. Vó câu khi trở lại nhà,
Ắt nay nhìn mặt nó đà quên tôi.
Trăm tình như đốt như mài,
Suốt năm canh những như xui mối sầu.
Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu,
180. Dẫu lòng khuây khỏa dễ hầu được đây.
Suốt thôi nghe lọt canh chầy,
Rùng mình dậy mới biết này rằng mơ.
Nghĩ mình trằn trọc hồn sơ,
Bởi dường sự đục khắc giờ chưa nguôi.
185. Bằng như thân ấy mấy đời,
Rủi may là phận một hai đã đành.

H.T.N

KHẢO DỊ

Để tiện theo dõi, chúng tôi xin khảo dị theo số thự tứ câu. Phần dị bản được gạch đây. Đề bài bản chép tay ghi: Nhân ảnh vấn đáp từ.

Câu 4: Hương trầm ngại đốt quyển vàng biếng trông.

Câu 5: Héo tươi ai rửa cuống lòng.

Câu 6: Dưới màn chiếc bóng bạn chung một đèn.

Câu 7: Trong mơ nghe chạnh gót sen.

Câu 9: Rằng nơi kim mã ngọc đường.

Câu 14: Loàn đan dám gửi mọi bề gần xa.

Câu 20: Chưa hề chiếc gối bên mình được yên.

Câu 21: Hay là nghĩ nỗi thân duyên.

Câu 22: Tản kiền trông nẻo oanh khuyên cách vời.

Câu 27: Phong lưu nùng khổ vết xưa.

Câu 28: Nỗi nay dìu dặt khôn vừa tính quen.

Câu 30: Gách cầm thư trải mấy phen nhắc lần.

Câu 32: Tưởng mầu cơ lữ quen vần đôi nơi.

Câu 34: Tác giao du biết lấy ai cho vừa.

Câu 35: Cùng ai điếm rượu đàn thơ.

Câu 36: Cùng ai sóng gió đèn mưa giải phiền.

Câu 37: Hay là tưởng cuộc ca diêu.

Câu 38: Nhịp xen tơ trúc vẻ chen yêu kều.

Câu 41: Hay là thưởng cuộc xuân du.

Câu 47: Muôn điền dễ gác cơn say.

Câu 50: Hôm mai phó mặc ai hầu túi khăn.

Câu 52: Nâng niu ai kẻ sánh gần gối uyên.

Câu 53: Hay là nghĩ thú lâm tuyền.

Câu 55: Bấy lâu dấn bước thị thành.

Câu 58: Từng khi xoay tạm thêm chồng một hai.

Câu 60: Thêm dầy dật đã sui người cưu lo.

Câu 63: Nghe lời gạn hỏi ân cần.

Câu 64: Ở đà gẫn gũi thời thân thỉ cùng.

Câu 65: Rằng đây lòng những hay lòng.

Câu 70: Lòng này há bận những điều thế đâu.

Câu 72: Nhỏ nhen cũng đã bắc cầu thanh vân.

Câu 79: Lần lừa cầm hạc mấy thu.

Câu 85: Tịnh du dương lúc đua tài.

Câu 88: Bấy lâu thị xướng tùy ban là thường.

Câu 89: Vả ai hồ thỉ thiếu niên.

Câu 97: Dầu khi buồn nỗi xa xăm.

Câu 98: Nương song rót chén quỳnh châm hệ gì.

Câu 99: Phong hoa từng trải một thì.

Câu 103: Đô kỳ hiếm chốn du quan.

Câu 106: Cũng thường vui kẻ tri âm một vài.

Câu 108: Dầy ngày chi khỏi ép nài phú nhi.

Câu 112: Nỗi nhà xốc nổi nỗi quê ngại ngùng.

Câu 117 Muôn nhờ ấm tý nặng dầy.

Câu 121: Lâm tuyền một chạnh đã quen.

Câu 132: Phận mình hồ dễ nhác đường ngu thân.

Câu 135: Quân thân nay thử tính suy.

Câu 137: Tác già nương bóng xa trông.

Câu 139: Ngọt bùi biết gửi chi đây.

Câu 141: Tấc lòng nhũ én ngùi ngùi.

Câu 146: Cánh hồng lẻ thẻ trong sương treo tình.

Câu 148: Nước non thêm nghĩ nỗi anh em nhà.

Câu 149: Trong bàn mục túc suông xa.

Câu 150: Tháng ngày đắp đổi chốc đà đủ chưa.

Câu 155: Tuổi xanh từng kết chỉ hồng.

Câu 156: Trăm năm kinh bố lựa dòng gia thanh.

Câu 158: Đau lòng bồn nậu giật mình thương tang.

Câu 159: Trăm hoa cạn nếp đài trang.

Câu 160: Cưỡi rồng trông mỏi chưa sang có ngày.

Câu 161: Bắc nam cách gián bấy chầy.

Câu 162: Giấc quan sau luống tỉnh say canh dài.

Câu 164: Vì ta kiểu bộ lụy người tào khang.

Câu 165: Đìu hiu bốn vách gió sương.

Sau câu 167 có thêm 4 dòng:

Song mây võ vẽ thủ công ít nhiều.
Nỗi nhà vắng vẻ hôm dao,
Khi thăm lệnh mẹ khì bìu ríu em.
Bẫm hèn mà lại bận thêm,

Câu 168: Bút nghiên biết có chăm miền hay không.

Câu 169: Cao đường gác đoái mấy trùng.

Câu 170: Lại thêm đùm bọc lữ đồng tôn nay.

Câu 171: Từ vâng khóa dụng tháng ngày.

Câu 172: Quyển bài chưa gửi tới đây được tường.

Câu 176: Hẳn nay nhận mặt nó đà lạ thôi.

Câu 180: Dẫu mong khuây khỏa dễ hầu được đâu.

Câu 181: Phút thôi nghe lọt hôi may.

Câu 182: Rùng mình dậy mới biết này trong mơ.

Câu 183: Ngẫm mình thắc mắc hồn sơ.

Câu 184: Bởi đường sự lục khắc giờ chẳng nguôi.

Sau câu 186: có thêm 4 câu:

Bóng kia cũng vật ngoại mình,
Nhẽ đâu mà lấy thường tình đọ ta.
Chẳng qua mặc nghĩ đó mà,
Mấy lời vấn đáp gọi là chép chơi.

CHÚ THÍCH

Trong phần này chúng tôi cũng chú thích theo số thứ tự câu:

* Nhân ảnh vấn đáp: cuộc đối đáp giữa người và bóng.

1- Thẻ dán: thẻ làm dấu, đánh dấu.

3- Rèm Tương: rèm làm bàng trúc sông Tương; ở đây ý nói tấm rèm đẹp.

8- Rén: nhẹ nhàng. Chường (còn đọc là chiềng): thưa gửi.

13- Chỉ xích tương tùy: cùng theo nhau trong gang tấc.

22- Tản Kiều: núi Tản Viên thuộc huyện Ba Vì, Hà Sơn Bình.

39- Vương, Tạ: họ Vương, họ Tạ là hai họ lớn thuộc dòng trân anh thế phiệt ở Trung Quốc.

40- Thẻ lèo: Ngày xưa các đào kép hát hoặc diễn trò hay được người xem tung thẻ lên sân khấu để thưởng tài.

64- Thân thi: thủ thỉ gần gũi tâm sự.

71- Chí cung dâu: ý nói chí làm trai.

80- Lữ xá: nhà trọ.

81- Thảo đình: nhà nhỏ lợp mái bàng cỏ.

84. Trí hữu: bạn bè hiểu nhau.

93- Hồ thỉ: hồ: cái cung; thỉ: mũi tên. Hồ thỉ: tục lệ của người Trung Quốc xưa: hễ sinh con trai thì treo phía bên trái cửa một cây cung và một mũi tên. Hồ thỉ: biểu hiện chí khí nam nhi.

102- Thư đồng: đứa trẻ hầu hạ phòng sách.

117-Ấm tý: ở đây ý chỉ phúc ấm của tổ tiên.

118- Sân ban: sân có nhiều màu sắc của Lão Lai tử.

Theo Hiếu tử truyện: Lai Tử người đời Xuân Thu, nổi tiếng là người con có hiếu. Bảy mươi tuổi rồi mà ông vẫn giả chơi trò trẻ con, mặc quần áo màu sắc rực rỡ nhẩy múa trước sân rồi giả vờ ngã lăn ra cho bố mẹ vui.

133- Nhà xuân: chỉ người cha. Theo sách Trang Tử cây xuân là loại cây sống rất lâu năm. Gọi cha là “nhà xuân” là mong cha sống lâu như cây xuân vậy.

143- Non yên cành quế: chỉ các anh em ở nhà. Theo tích họ Đậu ở Yên Sơn sinh năm người con trai, cả năm người đều phú quý hiển đạt.

144- Chốn đình vi: chỉ nơi ở của cha mẹ.

152- Hoa đường: chỉ người vợ, chỉ người vợ như hoa Hải đường.

160- Chia san: chia sẻ.

164- Kiền bộ: ý nói chậm chạp, hèn kém. Người tào khang: người vợ tấm cám, người cùng gắn bó từ lúc còn nghèo khó.

168- Từ câu 168 đến 171, chúng tôi tham khảo thêm bản chép tay. Bẵm hèn: nhiều hèn.

174- Đồng tôn: cùng họ.

191- Từ câu 181 đến câu 184, chúng tôi tham khảo thêm bản chép tay.

TB

VÀI NÉT VỀ QUYỀN MUA BÁN QUYỀN HÁT CỬA ĐÌNH QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VĂN BIA

NGUYỄN HỮU MÙI

Trong số thác bản văn bia hiện lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và qua thực tế in rập ở các địa phương ngoại thành Hà Nội, chúng tôi thấy có một mảng văn bia nói về việc mua bán quyền hát cửa đình. Bài viết nàymới chỉ là những hiểu biết bước đầu của chúng tôi về vấn đề này. Dịp khác, chúng tôi sẽ đề cập đến nó một cách cụ thế hơn.

Trước khi xem xét những văn bản này, cũng cần hiểu qua về đình làng, về giáo phường cũng như tục lệ hát cửa đình.

Như chúng ta biết, với tín ngưỡng cổ truyền, đình làng không chỉ là nơi thờ thành hoàng, nhập tịch, cầu phúc… mà còn là “nhà hát nhân dân”, tổ chức các buổi “xướng ca” của đình. Điều này được ghi nhận vào các ngày sinh, ngày hóa hoặc lễ khánh hạ của các vị thần thường thấy trong các bản thần tích mang ký hiệu AE hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Giáo phường (phường hát) có từ thời Lý – Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm 1025, Lý Thái Tổ đã công nhận giáo phường và đặt ra chức quản giáp (chức cai quản phường hát)(1). Theo Phạm Đình Hổ, một học giả sống vào cuối Lê đầu Nguyễn (1768-1839), trong mục Bàn về âm nhạc, tác giả cho biết khoảng năm Hồng Đức nhà Lê (1470-1497), nước Nam ta, sau khi tham khảo âm nhạc Trung Hoa, mới “đặt hai bộ: Đồng văn và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn thì chuyên tập âm luật để hòa nhạc, bộ Nhã nhạc thì chuyên chuộng nhân thanh, trọng về tiếng hát, đều thuộc về quan Thái thường coi cả. Đến như âm nhạc chốn dân gian thì đặt Ty giáo phường coi giữ”(2). Như vậy, cho đến đời Lê, có hát ở trong cung tục gọi là hát cửa quyền do nhà nước quản lý, còn ở chốn dân gian thì do giáo phường quản lý. Tổ chức của một giáo phường gồm một người đứng đầu làm quản giáp. “Ông bầu” này lo mọi việc cho giáo phường. Tiếp đến là những nhạc công và các ả đào (người hát). Nhạc cụ của giáo phưòng, vẫn theo Phạm Đình Hổ, gồm có một cái nhịp bằng tre già, hình dẹt, dài độ ba bốn thước dùng để làm nhịp. Trúc địch (sáo), Yên cổ (trống cơm), Địch quản (quyển nhị), Đới cầm (đàn đáy), Phách, Phách quán tiền và Trống đan diện cổ (trống mảnh một mặt).

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc trong cuốn Hát cửa đình Lỗ Khê(3) thì hát cửa đình ban đầu được dùng để hát tế thờ thần ở đình làng, nhưng qua thời gian, nó dần dần bị tác động bởi yếu tố xã hội hóa nên không còn gò bó trong khuôn khổ định trước để rồi trở thành “một lối hát mà lời ca giữ vai trò chủ yếu, là lối hát nhằm thưởng thức thơ ca là chính”(4). Nó có nội dung phong phú gồm ca, múa, nhạc, tấu hề…

Hàng năm, trong khoảng thời gian từ sau Tết nguyên đán đến tháng ba, tháng tám ở các đình làng thường tổ chức hát cửa đình. Địa phương phải báo trước cho giáo phường biết ngày hát. Buổi hát kéo dài cả ngày cả đêm, có khi đến mấy ngày đêm liền. Giáp phường không thu tiến ngay mà thu theo thẻ, làm bằng tre cạo bóng, có đánh dấu. Cứ đến chỗ nào mà đào kép diễn xuất hay, được người xem cổ vũ thì người cầm trịch liền gõ một tiếng “cắc” vào tang trống và tiếng “bi li” vào chiêng, rồi giơ một thẻ cho khán giả biết rõ rồi mới ném vào thùng đựng thẻ. Ở đây cần phải nhấn mạnh tới vai trò của người cầm trịch vì nó liên quan tới số thẻ, cho nên người cầm trịch không những am hiểu về ca hát mà điều quan trọng là không thiên lệch bên nào. Người này phải do địa phương cử lên. Mỗi thẻ ứng với một số tiền do hai bên qui định, có thể là 3 quan tiền cổ như có ghi trong văn bia Mại đình môn bi ký(5) dựng năm Gia Long 8 (1809) ở đình xã Đông Mật, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên (nay là tỉnh Vĩnh Phú). Sau buổi diễn, giáo phường cứ căn cứ vào số thẻ mà lĩnh tiền do địa phương trả. Hán văn gọi là “Trù tiền”.

Có địa phương còn là nơi thi hát cửa đình. Văn bia ở đình thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội, cho thấy: Hàng năm các giáo phường trong nước thường họp lại cùng nhau xướng ca hoặc chia quyền đăng cai thu thẻ hát cửa đình. Đến ngày thi, giáo phường hoặc cá nhân nào muốn tham dự thì phải qua một bước “sát hạch” có ban giám khảo đảm nhận công việc này. Đám đào nương còn lại phải được họ phê là “ưu” sẽ tiếp tục thi tiếp. Nhưng nếu họ phê là “thứ” thì bị loại ngay từ vòng đầu. Còn thể thức thi như thế nào thì văn bia này không đề cập đến.

Qua khảo sát 25 tấm bia hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một số bia có cùng nội dung mà chúng tôi mới sưu tầm được ở các xã như Trung Giã (huyện Sóc Sơn, Hà Nội), An Phú (huyện Phú Thọ, Hà Nội) và các xã Kim Chung, Hạ Vỗ và Đan Phượng (huyện Hoài Đức, Hà Nội), thì nhận thấy rằng:

1. Về địa bàn phân bố:

Loại bia này (chúng tôi tạm gọi là bia giáo phường) chỉ thấy phân bố trên một địa bàn hẹp, chủ yếu là vùng châu thổ sông Hồn g gồm có huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú) 8 bia: huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc tỉnh Hà Bắc) 2 bia; huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) 2 bia; huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại Hà Nội) 5 bia; huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) 6 bia; huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) 1 bia; huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) 2 bia. Những địa phương này lại là một trong những “đất” của các làn điệu dân ca truyền thống như hát Xoan vùng Phong Châu tỉnh Vĩnh Phúc, hát Ả đào vùng Kim Anh huyện Đông Anh Hà Nội; hát Quan họ vùng Thuận Thành tỉnh Hà Bắc.

2. Hình thức bia:

Cũng giống như các thể loại khác, bia giáo phường có kíck thước đa dạng, gồm 3 phần: Trán bia, thân bia và đế bia.

Trán bia thường được chạm đôi rồng chầu nguyệt hoặc hình mặt trời mây. Tiếp đến, là tiêu đề lớn, khắc nổi, thường là “Đoạn mãi đình bi” (bia ghi việc mua đứt quyền hát cửa đình). “Mại đình môn bi ký” (Bia ghi việc bán quyền hát cửa đình) hoặc “Xướng trù bi ký” (bia ghi việc ca trù)”.

Thân bia có hai đường diềm trang trí bởi các dải hoa văn hình xoắn thường với các hoa lá, chim thú. Lòng bia khắc toàn chữ Hán khắc sâu, chữ mập, rõ ràng và không kiêng húy. Bia phổ biến là một mặt, nhưng có bia tới bốn mặt(6). Nếu là bia hai mặt thì mặt trước ghi lý do mua bán giữa hai bên, mặt sau là những điều cam kết và họ tên chức sắc đại diện cho hai bên. Có bia còn dùng cả bài minh 36 câu để ca tụng việc làm này(7). Đế bia là một phiến đá hình chữ nhật, có tác dụng nâng giữ bia.

Nhìn chung, bia loại này có hình thức trang trọng, thường đặt ở cổng đình hay trong đình, nhằm thông báo quyền sở hữu của người đăng cai.

3. Về niên đại lập bia:

Như trên đã nói, giáo phường ra đời từ thời Lý, nhưng diện mạo của nó ở thời Lý, thời Trần như thế nào thì hiện chúng tôi chưa được biết. Người đầu tiên soạn ra các bài hát cửa đình dùng cho giáo phường mà văn bản xưa nhất còn lưu giữ được là Lê Đức Mao (1462 - 1529) sống vào thế kỷ XV - XVI. Vậy việc mua bán cửa đình có từ bao giờ? Theo chúng tôi sự xuất hiện của nó phải gắn với sự ra đời của đình làng, của nhu cầu thưởng thức nghệ thuật quần chúng cũng như việc hát cửa đình đã trở thành nguồn lợi đáng kể của mỗi giáo phường. Nếu căn cứ vào niên đại bia hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì thấy có từ khá sớm, xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XVII, năm 1672, với bia “Lập khoán xướng nhi ký”(8); và kết thúc vào đầu thế kỷ XIX, năm 1824, với “Đình môn các lệ bi ký”(9). Tuy nhiên, đây mới chỉ là cứ liệu trên bia đá, rất có thể sớm hơn mà hiện tại chúng tôi chưa được biết. Song, có thể nói rằng việc mua bán này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định (cuối thế kỷ XVII đến đầu XIX) mà từ trước đến nay chưa có bài viết nào đề cập đến vấn đề này.

4. Về nội dung văn bia:

Bia giáo phường thực chất là một văn bản giao kèo giữa người mua và người bán. Vậy việc mua bán được hiểu như thế nào ? Ở đây, việc mua bán cửa đình cần được hiểu như là việc mua bán “địa điểm” chứ không phải mua bán ngôi đình, vì ngôi đình chính là địa điểm, là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó chặt chẽ với mọi người trong cộng đồng làng xã. Khảo sát trên văn bia thấy xuất hiện các trường hợp mua bán như sau:

+ Giáo phường bán cửa đình cho địa phương.

+ Giáo phường bán cửa đình cho một giáo phường khác.

Trường hợp giáo phường bán cửa đình cho địa phương là phổ biến. Văn bia ghi nhận rằng các giáo phường này từ lâu đời đã có đặc quyền được ca hát ở một cửa đình nào đó để hưởng quyền lợi. Khi cần thiết thì họ bán cho địa phương. Phía địa phương - tuy là đình của mình, nhưng vẫn phải mua vì địa phương muốn toàn quyền sở hữu, muốn thuê giáo phường nào đến hát thì tùy họ không phải phụ thuộc vào giáo phường cũ nữa. Giáo phường bán cửa đình cho địa phương với nhiều hình thức, giá cả sẽ tùy thuộc vào từng cửa đình. Có thể là giá 120 quan tiền, như thấy ghi trong bia Mại trù tiền vạn đại lập bi chi đồ(10) dựng năm Vĩnh Trị 4 (1679) tại đình Bá Dương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là ngoại thành Hà Nội). Hay như 60 quan tiền ở bia Đoạn mãi đình trù lệnh tiền văn khế bi ký(11) dựng năm Chính Hòa 2 (1681) ở đình xã Thanh Mạc, tổng Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây (nay là ngoại thành Hà Nội). Hoặc chỉ là 10 quan tiền như bia Mại trù văn khế chi bi(12) dựng năm Chính Hòa 5 (1684) ở đình xã Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (nay là ngoại thành Hà Nội). Cũng có trường hợp chỉ là bán lẻ “xông đình” khi ngôi đình mới dựng xong, với giá 9 quan ghi nhận ở bia Đại trung đình bi(13) dựng năm Cảnh Hưng 24 (1763) ở đình xã Đại Trưng, tổng An Xá, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, xứ Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú) v.v…

Trường hợp giáo phường này bán cửa đình cho một giáo phường khác mới chỉ thấy có ở một văn bia. Đó là Tiền lập văn khế hậu hữu cung từ(14) dựng năm Chính Hòa 3 (1682) ở thôn xã Nhân Mục, tổng Nhân Mục, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú). Theo văn bia này thì giáo phường của Đỗ Văn Chiêm ở xã Hoa Đán, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới bán quyền ca hát cửa đình của mình cho giáo phường Đỗ Duy Trinh ở thôn Dĩ, xã Nhân Mục trong huyện với giá 50 quan tiền.

Để đảm bảo việc mua bán trên đây được chính đáng, hai bên còn ghi thêm một bản qui ước, theo đó bên bán phải chịu trách nhiềm hoàn toàn nếu việc bán của họ là man trá, còn bên mua được quyền sử dụng trong khuôn khổ cho phép. Song, họ vẫn “châm chước” cho nhau các quyền lợi khác như việc hưởng cỗ bàn, việc mừng tặng nhau v.v…

Việc mua bán là phổ biến, mang tính chất công khai. Phải chăng vì thế mà điều lệ thu thuế cửa đình áp dụng vào năm 1724, đời Lê Dụ Tông (1705 - 1729) qui định cho xã lớn (từ 200 suất đinh trở lên) nộp 6 quan tiền giám, xã vừa (100 suất đinh trở xuống) nộp 2 quan(15) là để thừa nhận thực tế này?

Tìm hiểu vấn đề mua bán quyền hát cửa đình không chỉ giúp ta hiểu thêm về một phong tục sinh hoạt văn hóa mà còn hình dung được phần nào sự tác động của yếu tố vật chất, kinh tế vào lĩnh vực nghệ thuật trong bối cảnh lịch sử đầy sôi động của giai đoạn này (thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX).

Dưới đây, chúng tôi dịch một bài tiêu biểu có số ký hiệu thác bản là 6897 làm phụ lục để bạn đọc tham khảo.

Phiên âm:

THIÊN MẠC CHÂU MÃI BẢN HUYỆN GIÁO PHƯỜNG TY

Thiên Mạc châu mãi bản huyện giáo phường ty đoạn mại đình trù tiền cập lệnh tiền bi văn tịnh tự.

Cái văn: Mãi phân tiền trù tịnh tiền lệnh chi đình tự cổ linh ứng chi đình giã. Diệu lương họa đống, phúc ngõa thổ viên. Tuy kiến nguyên nhi mãi phần trù tiền dư lệnh tiền vị thường hữu giã. Duy Đan Phượng huyện Thiên Mạc châu quan viên hương sắc xã thôn trưởng Nguyễn Ích Nhiêu, Lê Văn Nhận, Hoàng Vĩnh Pháp…(16) cự tiểu đẳng bất lận tiền tài, dục quan ca xướng. Nãi mãi bản huyện giáo phường ty trùm trưởng thượng hạ nhị giáo Đinh Hữu Khang, Ngô Văn Kính, Đinh Hữu Công(17) đẳng đoạn mại tiền lục thập quan tương hồi ứng dụng. Đệ niên tam nguyệt sơ lục nhật nhập tịch, cầu phúc ca xướng hệ bản huyện các quần bất đắc sách thủ trù tiền tịnh lệnh tiền. Nhân minh vu thạch dĩ chiêu vu vạn vạn thế chi hậu khánh.

Kim thánh thiên tử càn long chính vị, ốc tượng tri quyền dĩ binh định thiên hạ.Văn giáo hưng thái bình, tứ hải hỗn đồng vạn dân khang thái. Quần phương cổ vũ, bách tính âu ca, như du đế Thuấn chi đình, thính tiêu thiều chi nhạc dĩ hưởng thái bình chi phúc giã.

Minh viết: […](18).

Hoàng triều Chính Hòa vạn vạn niên chi nhị mạnh đông cát nhật.

Bản châu sinh đồ xã chính Nguyễn Hữu Quang soạn.

Dịch nghĩa:

[BIA GHI VIỆC] CHÂU THIÊN MẠC MUA [QUYỀN HÁT CỬA ĐÌNH] CỦA TY GIÁO PHƯỜNG BẢN HUYỆN.

Bài tựa và bài văn bia Châu Thiên Mục mua [của] ty giáo phường bản huyện bán đứt “trù tiền” và “lệnh tiền” cửa đình.

Nghe rằng: Mua cửa đình phần “trù tiền” và “lệnh tiền” từ xưa đã là đình linh ứng vậy. Chạm xà vã cột, lập ngói xây tường, nên xây dựng xong mới bán phần “trù tiền” và “lệnh tiền” thì chưa từng có. Chỉ có các vị quan viên hương sắc xã thôn trưởng là Nguyễn Ích Nhiêu, Lê Văn Nhận, Hoàng Vĩnh Pháp… và mọi người lớn nhỏ châu Thiên Mạc huyện Đan Phượng không tiếc tiền của, muốn xem ca hát mà mua của ông trùm trưởng trên dưới hai giáp là Đinh Hữu Khang, Ngô Văn Kính, Đinh Hữu Công… bán đứt tiền là 60 quan đem về chi dùng. Vào ngày 6 tháng 3 hàng năm có nhập tịch, cầu phúc, ca hát, mọi người bản huyện không được yêu sách về “trù tiền” và “lệnh tiền”. Bèn khắc vào đá làm tỏ rõ cho vạn vạn đời sau được vui mừng.

Nay Thánh thiên tử yên ngôi trời, nắm phép giữ quyền, lấy binh định thiên hạ. Văn giáp mở mang thái bình, bốn biển cùng vạn dân sung túc. Muôn người cổ vũ, trăm họ reo ca như vui chơi sân đế Thuấn, nghe nhạc tiêu Thiều(19) để hưởng phúc thái bình vậy.

Bài minh viết […](20)

[Dựng bia] ngày tốt tháng 10 niên hiệu Chính Hòa 2 (1881) hoàng triều (nhà Lê).

Sinh đồ Nguyễn Hữu Quang, chức xã chính, người bản châu, soạn.(21)(*)

N.H.M

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. KHXH, H. 1967, tr.148

(2) Vũ trung tùy bút, bản dịch của Nguyễn HữuTiến (1874 - 1941) Nxb. Trẻ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, 1989, tr.42

(3) Hát cửa đình Lỗ Khê, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hội văn học H. 1980.

(4) Nguyễn Xuân Khoát: Vài nét về nền ca nhạc cổ truyền Xem Hát cửa đình Lỗ Khê, tr.20, Sđd.

(5) Thác bản số 15439. Từ đây trở xuống, số ký hiệu thác bản văn bia dùng trong bài này là của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(6) Mại trù văn khế chi bi, thác bản số 2690.

(7) Bia Thiên Mạc châu mãi bản huyện giáo phường ty, thác bản số 6898.

(8) Bia có thác bản số 1962.

(9) Bia có thác bản số 6888

(10) Bia có thác bản số 3464

(11) Bia có số thác bản 6897.

(12) Bia có số thác bản 2690.

(13) Bia có số thác bản 15648.

(14) Bia có số thác bản 15723.

(15) Lịch sử Việt Nam: tủ sách Đại học Sư phạm các tác giả Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Cảnh Minh, tr.121.

(16) Phần tên người chúng tôi lược bớt.

(17) Như trên.

(18) Đế thuấn: tức vua nhà Ngu thời cổ đại Trung Quốc, được coi là ông vua lý tưởng trị vì một xã hội thái bình.

(19) Tiêu thiều: tên nhạc đời vua Ngu Thuấn, Trung Quốc.

(20) Bài minh 36 câu nói về việc mua bán. Chúng tôi không dịch ra đây.

(21) Mặt sau của bài này là Đoạn mại đình trù lệnh tiền văn khế bi ký số thác bản 6897 ghi tên chức sắc các vị đại diện cho hai bên và những điều họ cam kết,

(*) Bài viết này được sự góp ý của các đồng chí Ngô Thế Long, Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) và PTS. Đặng Văn Lung (Viện Văn). Nhân đây, tôi xin có lời cám ơn chung.

TB

VỀ HAI TẤM BIA NIÊN ĐẠI CHÍNH HOÀ
Ở LẠNG SƠN

HOÀNG GIÁP

Trong hai năm 1988 -1989 phòng Bảo tàng Sở Văn Hóa Thông tin Lạng Sơn đã kết hợp với Viện nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, in rập được hơn 70 thác bản văn bia có giá trị nằm trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Với bài viết dưới đây chúng tôi công bố hai tấm bia thuộc niên đại Chính Hòa đã được in rập, nội dung nhắc tới những phiên tướng vùng biên ải.

I. TẤM BIA TẠO NĂM CHÍNH HÒA THỨ NHẤT (1680)

Tấm bia đặt ở bên phải chùa Trung Thiên xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình. Bia một mặt, cao 1m, rộng 0,75m, trán bia có hình mặt trời và hai cánh cung hình rồng, diềm bia là đôi rồng đuổi nhau chạy từ trên xuống và từ dưới lên, đôi rồng mập khỏe, cân đối, uốn lượn như hình sin. Đầu đề tấm bia nổi bật 5 chữ: “Tân tạo Mẫu Sơn xứ ***”. Đầu đề bia thiếu ba chữ, sau này khi đọc toàn bộ văn bản, chúng tôi nhận thấy có thể bổ sung ba chữ đó là: Trung Thiên Tự. Bia có 13 dòng, khoảng 300 chữ, chữ trong bia khắc, theo lối hành thư, to khỏe sâu đậm nhiều chữ giản thể theo lối chữ hành thư thường gặp trên các bia ma nhai thời Trần.

1. Phiên âm:

Tân tạo Mẫu Sơn xứ Trung Thiên tự.

An Nam quốc, Kinh Bắc đạo, Lạng Sơn xứ, Trường Khánh phủ, Lộc Bình châu, Khuất Xá xã, Đô tổng binh sứ ty, Đô tổng binh sứ, Bắc quân Đô đốc Thiêm sự, Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tự Vạn Thọ, nguyên tiền tằng tổ phụ, Trưởng phụ đạo bất tri tu phúc, mệnh vu bất trường, chi kim tử diệt Vi Đức Thắng giác đắc tổ tiên bất tri thiên địa đạo đức, tự lập phát bồ đề tâm, tác phúc Phật tự, các vị viên mãn, yên tĩnh trường thọ, kế thế tử tôn, vi thần tận trung tận tiết, trung hiếu kiêm toàn, thụ mệnh quốc vương, vi phiên tướng chi nhân, chế ngự biên cương. Khán thủ ải quan, ứng đối thiên triều sứ mệnh, lưỡng quốc an tĩnh địa biên, cường quốc mạnh, tái xướng suất thất châu quan binh cập các niên kỳ vụ, tâm tính ái mộ bồ đề tác phúc tạo lập Mẫu Sơn xứ Trung Thiên tự, quân doanh tạo cư cố công đức, Phật tượng các vị viên mãn, phụng sự Phật pháp, tái lập thạch bi, trúc bạch thùy danh, lưu truyền tử tôn vạn đại. Hoàng đồ củng cố, thiên hạ thái bình, tu chi văn giả, cố lập thạch bi.

Chính Hòa nhất niên thập nguyệt đồng tiết cốc nhật.

Công đức Sàm Viên xã, Lỗi Lang thôn trung thủ dịch, thiên nam Hoàng Công Chiêu tự Phúc Cường, thê Vi Thị Khoan, hiện Diện Sinh.

2. Dịch nghĩa:

BIA TÂN TẠO CHÙA TRUNG THIÊN XỨ MẪU SƠN

Đô tổng binh sứ ty, Đô tổng binh sứ, Bắc quân Đô đốc Thiêm sự Vũ quận công Vi Đức Thắng tự là Vạn Thọ người xã Khuất Xá, châu Lộc Bình, phủ Trường Khánh xứ Lạng Sơn, đạo Kinh Bắc, nước An Nam, nay xét thấy trước đây tằng tổ phụ làm Trưởng phụ đạo mà chưa biết tu quả phúc, tuổi thọ không được bao lâu. Đến nay con cháu là Vi Đức Thắng thấy rõ tổ tiên mình do không hiểu rõ đạo đức của trời đất nên bản thân tự phát lòng bồ đề làm chùa Phật, tô tượng, mọi việc đều tốt đẹp, yên tĩnh trường thọ, đời đời con cháu nối tiếp nhau làm quan tận trung tận tiết, trung hiếu kiêm toàn. Được thụ mệnh quốc vương (Trịnh Tạc) phong sắc cho làm phiên tướng trấn thủ ở thành Lạng Sơn và các châu, chế ngự biên cương gìn giữ quan ải, ứng đối xử sự với Bắc triều làm cho biên cương hai nước yên ổn, giữ quốc mạch trường tồn. Nay lại dẫn dắt nhân dân 7 châu xứ Lạng làm tốt công việc các năm. Còn ai có lòng bồ đề làm phúc thì xây chùa Trung Thiên xứ Công Mẫu sơn và làm các việc công đức khác. Các tòa Phật tượng đã tô xong để phụng thờ Phật pháp, viết văn dựng bia để truyền lâu dài cho con cháu muôn đời, Chúc Cơ đồ nhà vua được củng cố, thiên hạ thái bình, làm văn ghi vào bia đá.

Ngày lành, tiết mùa đông tháng 10 năm Chính Hòa thứ nhất (1680) dựng bia.

Người góp công đức: Thủ dịch thiên nam Hoàng Công Chiêu tự Phúc Cường và vợ là Vi Thị Khoan hiệu Diệu Sinh, người thôn Lỗi Lang xã Sàm Viên.

II. TẤM BIA TẠO NĂM CHÍNH HÒA THỨ TƯ (1683)

Tấm bia đặt ở phía ngoài đền Tả Phù (đình Tả Phủ) chợ Kỳ Lừa thị xã Lạng Sơn. Bia 4 mặt cao 1m80, mỗi mặt rộng 0,70m, có mái che, trán bia khắc hình rồng chầu mặt trời, đế bia khắc hình bốn thầy trò Đường Tăng và con long mã. Chữ trong bia cũng khắc theo lối hành thư, to khỏe sâu đậm như bia thứ nhất, nhưng do bia để ở ngoài trời, lại thêm sự tranh chấp đền thờ, nên nhiều chỗ bị mờ và bị đục. Tuy bia có 4 mặt song chỉ rập được 3 mặt.

Phiên âm:

[Mặt 1] TÔN SƯ PHỤ BI

An Nam quốc, Lạng Sơn xứ, phiên tướng phụ đạo quan dân, dữ Thượng quốc thập tam thỉnh thương khách, tịch bản quốc nhất thiết đẳng vi lập tự bi sự.

Phù, hữu công đức cập nhân, nhân kính nhi tự, nãi lễ chi đương nhiên. Tư phiên tướng phụ đạo cập thương khách phường đẳng tổng giai thế chi hiền nhân, thời hữu Đông quân Đô Đốc phủ, Đô đốc Đồng tri Hán quân công Thân quý tướng, vi nhân khoan hậu, xử kỷ công liêm, hiếu đễ hành ư gia, trung cần trứ ư quốc, tham bồi vương phủ… (mất 14 chữ) niên bát nguyệt thập nhất nhật, cát thời mệnh chung, thọ sinh hưởng linh lục thập tứ tuế, gia tặng Tả Đô đốc chức công đại phụ thành, nhật long sủng đãi; phụng sai vi Bắc đạo trấn thủ quan, tâm tồn phủ tuất, vụ chỉ phiền hà, hạp cảnh quân dân cử giai đoạn kỳ nghiêm, lạc kỳ đức, quần phương, thương lữ hàm nguyện tàng ư thị, xuất ư đồ, tịnh hữu khải bảo tôn vi sư phụ, hựu tương dữ ngữ viết: Ngô bối thụ công ân đức chi hĩ, dữ kỳ cẩm tú hoa diệu xưng tụng ư nhất thời, hạt nhược thử tắc hinh hương phụng thừa ư vạn tuế, nhân cộng lập bi miếu tuế thời phụng tự, hậu chi cao kiến viễn thức giả đương tâm tiền nhân chi tâm, đức Thân công chi đức. Vật dĩ thạch đài nhi dị hốt, thường hoài đường thụ nhi hưng tư, viễn nhĩ quang, cửu nhĩ phương, như thử túc dĩ chiêu hương hỏa ư vô cùng, biểu thuần phong ư thiên bách tải chi hạ hĩ. Dụng thuyên vu thạch dĩ thọ kỳ truyền vân.

Thời Chính Hòa vạn vạn niên chi tứ, tuế tại Qúy Hợi thanh minh tiết cốc nhật.

[Mặt 2] Phụng sai Bắc đạo trấn thủ quan, Đăng quân Đô đốc phủ Đô đốc Đồng tri, Hán quận công Thân Công Tài, tịch tại Lạng Giang phủ, Yên Dũng huyện, Như Thiết xã vi lập phụng sự hương hỏa sự. Tư kiến Bắc đạo Lạng Sơn xứ các châu, phiên tướng phụ đạo quan dân dữ thượng quốc thập tam tỉnh bản quốc thất phường đẳng, hữu tôn niệm kiến lập tây miếu phụng tự thù lạc hậu ý, nhân hữu thủy mại điền thổ, lưu vi hương hỏa, đệ niên canh chủng tuế thời phụng tự như nghi… (mờ)…

[Mặt 3]

Phiên âm

LƯỠNG QUỐC KHÁCH NHÂN

Thiên triều thập tam tỉnh thương khách đẳng, An Nam thất phường đẳng… (mờ)

Dịch nghĩa:

[Mặt 1] VĂN BIA KÍNH BẦU VỊ SƯ PHỤ

Quan phụ đạo phiên tướng xứ Lạng Sơn nước An Nam cùng khách buôn 13 tỉnh Bắc quốc và mọi người trong nước đều dựng bia xây đền thờ.

Có công với người thì được người tôn kính mà thờ cúng đó là lẽ đương nhiên của lễ vậy. Nay phụ đạo phiên tướng cùng khách buôn người Tầu đều là những kẻ hiền nhân trên đời, chứng kiến bấy giờ có Đô đốc phủ đô đốc Đồng tri, Hán quận công thân qúy tướng, vốn tính khoan hòa chuyên cần, tham dự hầu cận trong phủ chúa… (mất 14 chữ) đến giờ lành ngày mười một tháng 8 năm… ngài mất thọ 64 tuổi, được gia tặng chức Tả Đô đốc… Làm tròn công việc phò giúp, ngày càng được ưu ái, sai ra làm quan trấn thủ Bắc đạo, dốc lòng phủ dụ thương yêu dân, cốt sao bỏ mọi phiền hà. Quan và dân khắp vùng đều sợ uy nghiêm ngài, lại được vui sướng tắm gội ân đức ngài. Thương khách khắp nơi đều muốn đến buôn bán họp chợ. Họ có tờ khải tâu lên xin tôn bầu ngài làm sư phụ. Họ bàn nhau: bọn chúng ta thừa hưởng ân đức của ngài thật là to lớn. Nếu chỉ nhất thời tán tụng bằng những lời hoa mĩ thì chẳng bằng lễ vật thơm tho phụng thờ ngài muôn đời. Nhân đó dựng miếu đặt bia để thờ cúng quanh năm. Sau này các bậc hiểu biết cao xa hãy cảm thấu tấm lòng tiền nhân nhớ ân đức của ngài họ Thân. Chớ thấy rêu phong mặt đá mà vội đổilòng luôn phải nuôi nỗi nhớ bóng cây cam đường(1) để vẻ sáng của ngài, hương thơm của ngài được lưu truyền lâu xa. Được như thế thực là làm rạng rỡ việc thờ cúng đến vô cùng, nêu cao phong tục tốt đẹp tới trăm ngàn năm vậy. Vậy khắc vào bia đá để lưu truyền mãi mãi.

Ngày lành tiết thanh minh mồng 3 tháng 3 năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ tư (1683).

[Mặt 2] Quan trấn thủ Bắc đạo Đông quân Đô đốc phủ Đô đốc Đồng tri Hán quận công Thân Công Tài quê quán xã Nhữ Thiết, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang được mọi người phụngthờ. Nay quân dân phụ đạo phiên tướng các châu xứ Lạng Sơn thuộc Bắc đạo, cùng dân buôn 7 phường của bản quốc và thương khách 13 tỉnh của Bắc quốc dựng đền thờ phụng sự ngài để đền đáp công ơn sâu nặng của ngài. Nhân có số ruộng mới mua của ông để lại là ruộng hương hỏa hàng năm cầy cấy phụng thờ đúng như nghi lễ… (mờ)

[Mặt 3] Khách buôn của hai nước

1. Khách buôn 13 tỉnh, thiên triều… (mờ)

2. Khách buôn 7 phường của An Nam… (mờ)

Những điều thấy được qua hai tấm bia trên.

1) Quê hương và vai trò của Vi Đức Thắng ở xứ Lạng.

Ở Lạng Sơn có 7 họ thổ ty, đó là những dòng họ lớn nối đời làm phiên thần ở nơi biên giới. Trong 7 họ ấy có họ Vi. Dựa theo gia phả họ Vi(2) thì từ thời Lý về trước, cư trú ở xã Vạn Phần tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành xứ Nghệ An. Thời Trần chuyển đến núi Huyền Đình (Đinh) huyện Lục Ngạn đạo Kinh Bắc, ông cha họ đã làm quan nhà Trần. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần rồi quân Minh xâm lược, họ theo Lê Lợi chống giặc Minh. Sau khi thắng giặc Minh, Lê Lợi phân phong cho họ lên giữ Lạng Sơn. Gia phả họ Nguyễn Đình(3) chép: “Con trai thứ 8 Vũ nghĩa tướng quân Đô đốc Thiên sự, Nghi Quận công Nguyễn Cầm Miên đem 15.000 tướng sĩ đến Lạng Sơn làm Chánh tuần phủ. Người bản sứ(4) Đô đốc Đồng tri Hoàn quận công Vi Đình Hân(5) cũng đem 15.000 tướng sĩ lên Lạng Sơn làm Phó tuần phủ, đóng quân lại Đoàn thành, cùng chế ngự biên cương, chia giữ các cửa ải Nam Quan, Bình Nhi, Bình Lăng, Thân Quan, Kết Quan. Mỗi quan ải có 2000 lính canh để trấn giữ quân phương Bắc. Bấy giờ chưa chấm dứt được binh đao nên (Lê Lợi) lại ban sắc chỉ cho hai họ ở lại xứ Lạng Sơn coi đó là quê quán được tập ấm cha truyền con nối…”

Sách Đại nam nhất thống chí chép “Vậy châu Lộc Bình tức là đất của châu Tây Bình tên châu bắt đầu đặt từ niên hiệu Quang Thuận nhà Lê (1460-1469). Vào đời Tây Sơn đổi tên là Lộc Bằng, có phiên thần họ Vi và họ Hoàng nối đời cai trị”.

Như vậy có thể nói Vi Đức Thắng là con cháu Vi Đình Hân, một dòng họ có công với các triều đại phong kiến Trần - Lê. Đến thời Lê Huy Tông, Vi Đức Thắng được trao chức cao nhất Đô đốc Thiêm sự, được toàn quyền phân xử mọi việc ở xứ Lạng, kể cả việc giao hiếu với Trung Quốc. Sắc chỉ năm Chính Hòa thứ nhất (1680) gửi các thổ ty miền biên giới Lạng Sơn chép: “Lệnh chỉ của Đại nguyên súy chưởng quốc chinh thượng sư Tây vương (Trịnh Tạc) gửi Đô tổng binh sứ ty Đô đốc đồng tri Nguyễn Đình Lộc… đã nhiều năm nay ủy thác tiết chế các xứ giữ yên biên thùy. Nay được bài khải của Tuyền quận công Nguyễn Khắc Tuy về việc giặc giã gây rối loạn ở các tổng xã bản châu, tất thảy phải đem quân tiễu trừ. Nay sức cho các xứ hãy tu sửa võ bị phòng ngừa bọn giặc đến xâm lược. Nếu xảy ra sự cố hãy hợp lực trừ khử chém đầu giặc, bắt sống giặc, tước khí giới, yên ngựa… thì tùy công lao sẽ được thưởng. Hãy lập nhiều đồn, tuyển thêm lính để sẵn sàng tiêu diệt bọn nào dám đến xâm phạm. Trái lệnh này sẽ bị trừng trị theo pháp luật”.

Trong bia cũng đã nhắc đến sắc phong trước đây mà chúa Trịnh đã ban cho Vi Đức Thắng, khẳng định trọng trách của một phiên thần. Vi Đức Thắng noi chí ông cha làm tướng nơi biên thùy, ông là người “tận trung tận tiết, trung hiếu kiêm toàn”.

2. Thân Công Tài với Lạng Sơn.

Đến xứ Lạng, hỏi về đền Tả Phủ, không mấy ai biết thờ vị nào, hỏi về người đã mở ra phố Chợ Kỳ Lừa cũng như vậy. Có người còn cho rằng đền Tả Phủ thờ “một ông quan người Tầu”, chả là họ thấy ở đấy có tấm ba khắc mấy ông Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Trư Bát Giới đều là người Tầu. Vả lại ở bia thấy khắc “Bắc quốc”… Nực cười hơn là vào đầu thế kỷ XX, tại đây người Hoa lại kiện người Việt đòi kỳ được đền Tả Phủ. Rốt cuộc người Việt thắng, người Hoa thua. Họ lập ngay hội quán ở cạnh đền Tả Phủ. Cái gì đã làm chứng cho việc thắng kiện, nếu không phải là tấm bia dựng năm Chính Hòa thứ tư (1683). Nói cho công bằng thì đền Tả Phủ thờ ông quan người Kinh Bắc (nay là Hà Bắc). Đền này được xây dựng có công đóng góp của cả khách buôn Trung Quốc. Vậy vì sao ông Thân Công Tài lại được tôn kính như vây? Trước nhất hãy nói việc mở phố Kỳ Lừa của ông. Kỳ Lừa xưa kia là “háng Khau Lừ”. “Háng Khau Lừ” là cách gọi theo âm Tầy - Nùng, dịch là “chợ Khau Lừ”. Hẳn chợ Khau Lừ có từ rất sớm, nó chính là những “bác dịch trường” (chợ trời biên giới) để trao đổi mua bán. Loại chợ này rất phát triển vào thời Lý - Trần. Song chợ Kỳ Lừa cũng chỉ nhóm họp tự nhiên trên các gò cao mà chưa có phố chợ. Phải đến những năm Vĩnh Trị - Chính Hòa đời Lê Hy Tông (1676-1683) khi triều đình cử ông Thân Công Tài người xã Như Thiết, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang (nay là xã Nghi Thiết, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc) lên giúp Vi Đức Thắng giữ vững biên cương phát triển kinh tế thì chợ Kỳ Lừa mới được xây dựng to lớn hơn. Thân Công Tài đã cho mở rộng cảng sông Kỳ Cùng (Bến Huối), cho dân đào hồ Phai Vệ, đắp phố Kỳ Lừa. Ông xây dựng bảy phố cho người 7 châu xứ Lạng đem sản vật về trao đổi. Ông cho người Kinh lập phố người Kinh, người Hoa kiều lập phố người Hoa kiều. Tất cả các sản vật được tự do buôn bán. Từ đấy phố Kỳ Lừa ngày càng đông đúc, nhân dân càng thêm no đủ. Dân địa phương biết ơn ông, người Kinh người Hoa biết ơn ông. Họ góp tiền của mua gỗ lạt làm đền thờ ông, dựng bia ca ngợi công đức. Đền thờ nay vẫn còn, bia đá vẫn còn như để nhắc nhở những sự kiện lịch sử một thời quá khứ trên vùng biên giới xa xôi. Hàng năm cứ vào những ngày cuối tháng giêng, nhân dân Lạng Sơn lại mở hội cướp đầu pháo ở chợ Kỳ Lừa rồi đem vào cúng ở đền Tả Phủ. Họ cầu khấn múa hát mừng cho một năm mới làm ăn phát tài phát lộc. Hội cướp đầu pháo là ngày hội thương nghiệp riêng biệt của xứ Lạng mà chúng ta khó thấy ở nơi thứ hai nào khác.

Hai tấm bia cùng thời gian, cùng không gian, cùng ca ngợi công lao to lớn của hai vị tướng trông coi miền xứ Lạng xa xôi. Vi Đức Thắng và Thân Công Tài, một người bản xứ một người khác xứ, một người Tày một người Kinh, một chánh tướng một phó tướng đã khéo hòa nhập với nhau, cùng một lòng yêu nước thương dân nên đã giữ yên biên giới, chú ý nông nghiệp, phát triển thương mại, làm cho dân giầu nước mạnh. Chính vì vậy tên tuổi của hai ông còn mãi với bia đá và tồn tại mãi trong lòng người dân xứ Lạng.

H.G

CHÚ THÍCH

(1) Cây cam đường: Tích của Trung Quốc nói về ông Triệu Bá đi tuần thú phương Nam, nghỉ lại dưới bóng cây cam đường, vì có ân đức với dân, nên khi ông đi dân vẫn nhớ ơn.

(2) Gia phả của họ Vi: được dịch và cất giữ ở gia đình cố Bộ trưởng Bộ giáo dục Nguyễn Văn Huyên.

(3) Gia phả Nguyễn Đình: Hiện đang cất giữ ở nhà anh Nguyễn Đình Bao thị trấn Na Sầm huyện Văn Lãng.

(4) Người bản xứ: lúc này quê họ Vi ở đạo Kinh Bắc, mà Lạng Sơn là một xứ của Kinh Bắc.

(5) Vi Đình Hân: một tướng lĩnh của Lê Lợi.

TB

HAI TẤM BIA CỔ NÓI VỀ NGƯỜI NHẬT TRÊN ĐẤT QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

TRẦN BÁ CHÍ
NGÔ THẾ LONG

LTS. Mới đây, các nhà sử học Việt Nam với sự tài trợ của quỹ Toyota Fondation, đã bắt đầu tổ chức nghiên cứu thị xã thương cảng cổ Hội An. Công việc thu thập tư liệu đang được tiến hành. Hiện nay ở đó còn lại một số văn khắc bằng chữ Hán - Nôm trong số đó có hai tấm bia liên quan đến người Nhật trước đây đã cư trú và làm ăn buôn bán tại đây, góp phần xây dựng thương cảng này một thời sầm uất. Xét thấy hai tấm bia có những tư liệu có thể giúp vào việc làm sáng tỏ thêm tình hình ngoại giao, ngoại thương của Việt Nam thời trước ở thương cảng Hội An, chúng tôi xin giới thiệu hai bài văn bia đó, một do đ/c Trần Bá Chí, một do đ/c Ngô Thế Long phiên âm, dịch nghĩa, chú thích để bạn đọc tham khảo.

TẤM BIA PHẬT Ở NÚI NGŨ HÀNH TỈNH QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

Đây là một tấm bia quý khắc trên vách đá của một hang sâu thuộc động Hoa Nghiêm núi Phổ Đà; Núi này còn có tên là núi Ngũ Hành, vì trong đó có năm ngọn mang tên, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Dân gian còn gọi núi này là núi Non Nước, vì núi là một thắng cảnh nằm sát bờ biển huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng khoảng 8 cây số.

Mặt bia hình chữ nhật, từ dỉnh xuống chân (không kể bệ) cao 0m95 rộng 0m57. Trán bia cung tròn, vành tròn trên trán khắc hình như ngọn lửa, diềm hai bên khắc hình như hai dây cây leo, mỗi bên dây có mời bốn lá nhọn. Diềm dưới chân khắc bảy hình hoa thị thưa thớt nhưng trang trọng. Giữa trán bia khắc hình mặt trăng, đường kính 0,07m có sáu tia sáng tỏa ra hai bên. Dưới mặt trăng là dòng chữ tên bia, gồm 6 chữ lớn nằm ngang: PHỔ ĐÀ SƠN LINH TRUNG PHẬT. Khuôn khổ sáu chữ tên bia khắc không đều, bề ngang bốn chữ là 0m06, riêng chữ Sơn và chữ Trung bề ngang chỉ có 0,04m. Phần mặt bia khắc chữ cao 0,68m, rộng 0,50m, gồm 23 dòng chữ. Dòng đầu chúc tụng vua, khắc bảy chữ: Kim thượng hoàng đế vạn vạn tuế. Hai dòng tiếp là lời tựa; nêu chủ nhân và lý do khắc bia. Tiếp đó là phần chính, khắc họ tên và địa chỉ người Việt, người Nhật Bản, người Hoa quyên cúng tiền bạc vào việc sửa chùa. Trong đó có sáu tên chữ Nôm và tên làng cũng chữ Nôm là làng Giếng Bổng. (trong bài này các tên Nôm chúng tôi xin chú bằng dấu (N) để phân biệt). Mặt bia chia phần tên người thành ba lớp; lớp trên có 19 dòng, lớp giữa 18 dòng, lớp dưới 16 dòng. Dòng lạc khoản ở cuối ghi bia khắc năm Canh Thìn do thiền sư Huệ Đạo Minh chủ trì.

(Hiện nay bia đã bị sứt mẻ hoặc mòn nét một số chữ, cho nên chữ nào đặt trong ngoặc đơn là chữ còn nét để đoán chữ nào mờ hẳn nét, xin ghi số không đặt trong ngoặc đơn để phân biệt).

Bia chứa nhiều tài liệu giúp ta nghiên cứu ngoại thương, ngôn ngữ, văn tự, tôn giáo, quan hệ Việt - Chiêm, quan hệ Việt Nhật, quan hệ Việt Hoa và tình hình cư trú lập định, khoanh làng vùng Quảng Nam thời Lê mạt.

Về việc công bố bia, mới thấy ông Đặng Chi Uyển (trường Đại học sư phạm Hà Nội) trích giới thiệu 10 tên người Nhật trong tấm bia này, đăng ở Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1981, trang 216 - 218, nay tôi xin phiên dịch côngbố toàn bộ tấm bia để phục vụ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

Phiên âm:

PHỔ ĐÀ SƠN LINH TRUNG PHẬT

Kim Thượng hoàng đế vạn vạn tuế.

Đại Việt quốc Quảng Nam xứ, Tĩnh Gia phủ, Ngọc Sơn huyện, Du Xuyên xã, Phạm Văn Nhân tự Huệ Đạo Minh thiền sư, hốt kiến Phật tích phả hữu đồi lệ, khuyến thiện tri thức cộng (tế) gia tài, dụng tâm công đức, trùng tu khai sáng thượng Phổ Đà sơn, tân tạo hạ Bình An (tự). Nhị cảnh viên thành, cưu công (lập) (tất), trụ trì thiêu hương tự (chi). Diên hướng Tam Bảo: thượng báo tứ ân, hạ tế tam đồ, nguyện đồng sinh Cực Lạc quốc, Phật tích vĩnh (lưu) truyền.

- Nhật bản dinh Bình Tam Lang tự (Từ) Gia. Nguyễn Thị Chức hiệu Từ Quảng tiền cúng Tam Bảo tam bách quan.

- Trà Đông xã Hoàng Đại Đức tự Phúc Tăng. Lê Thị Trinh hiệu Từ Thuận cúng tiền ngũ thập quan.

- Bá Giản xã Nguyễn Phúc Trăn tự Phúc Chính, Thiệu Thị Liễu hiệu Từ Thắng cúng tiền tứ thập quan.

- Trà Lộ xã Nguyễn Đăng Đệ tự Phúc Tường, Thái Thị Xanh hiệu Từ Vân cúng tiền tứ thập quan.

- Trà Đông xã Hoàng Bá Lợi tự Phúc Lâm, Trần Thị Yêu hiệu Từ (Kinh) cúng tiền nhị thập ngũ quan.

- Nam An xã Phạm Văn Đức tạ Phúc Tráng, Trần Thị Sự hiệu Từ Lực cúng tiền nhị thập quan.

- Hội An xã Nguyễn Văn Triều tự Viên An, Nguyễn Thị Đức hiệu Diệu Ngọc cúng tiền nhị thập quan.

- Nhật Bản dinh (Tuấn) Môn tự Viên Đạt, Đỗ Thị Mặn (N) hiệu Từ Châu cúng tiền thập ngũ quan.

- Nhật Bản dinh A Tri Tử tự Viên Thông, cụ Thị Chủng hiệu Từ Nghĩa cúng tiền nhị thập quan.

- Phúc Hải xã Hoàng Sĩ (Thông) tự Viên Đình, Trần Thị Lộc hiệu Từ Thực cúng tiền thập ngũ quan.

- Trà Đông xã Hoàng Bá Tuế tự Huệ Trí, Hoàng Thị Ni hiệu Từ Thông cúng tiền thất quan.

- Hải Châu xã Vũ Công (Bích) tự Phúc Thiện, Nguyễn Thị Tư hiệu Từ Danh cúng tiền cửu quan.

- Nhật Bản quốc Trà ốc Trúc Đảo. (Xuyên) Thượng Da Binh Vệ; Thiển Kiến Bát (trợ) cúng tiền nhất bách thất thập quan.

- Cẩm Phô xã Trần Ngọc Lộc tự Quảng Tấn, Trần Thị Biện hiệu Từ (Thục) cúng tiền thập quan.

- An Phúc xã Trần Văn Thâm tự Phúc Quang, Phạm Thị Hùng hiệu Từ Sáng cúng tiền thất quan.

- Bồ Bản xã Hồ Ngọc An tự Phúc Thần, Lê Thị (Cập) hiệu Từ Ý cúng tiền thất quan.

- Nhật Bản dinh Nguyễn Thị Phú hiệu Từ Nhan tiền nhất bách tứ thập quan (0) (0) (0) hợp tam bách quan.

- Nhật Bản dinh thất Lang Binh Vệ, Nguyễn Thị Nụ (N) hiệu Diệu Thái cúng tiền nhị thập nhất quan (0) (0).

- Nhật Bản dinh Bình Tả Vệ Môn thê Nguyễn Thị Nở (N) hiệu Diệu Quang cúng tiền ngũ thập quan.

- Đào Vệ xã Nguyễn Thị Lý hiệu Vĩ Tiên cúng tiền tam thập quan.

- An Phúc xã Phan Thị Tha hiệu Từ Lâm cúng ngân nhị thập lạng.

- Nhật Bản dinh Tống Ngũ Lang tự Đạo Chân cúng tiền nhất bách quan.

- (Phúc) Hải xã Trần Văn Ngãi tự Phúc Thành cúng tiền thập ngũ quan.

- Cẩm Phổ xã Trần Thị Nộ hiệu Từ Minh cúng tiền thập ngũ quan.

- Trị (Ảo) xã Trịnh Thị Vệ hiệu Từ An cúng tiền thập tam quan.

- Phúc Hải xã TrầnThị Nụ (N) hiệu Từ Mạn tiền cúng Tam Bảo tứ thập quan.

- Tùng Bản dinh Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Thị Diệu cúng ngân ngũ thập lạng.

- Đan Hả ixã Trần Viết Phú, Nguyễn Thị Công cúng ngân ngũ thập lạng.

- Phú kiều phường Trần Văn Khoa tự Đạo Tâm cúng tiền nhị thập quan.

- Dụ (Châu) xã Phạm Viết Phú, Vũ Thị Ả (N) cúng tiền trấp tam quan.

- Phúc Hải xã Lê Thị (Chấn) hiệu Từ Định cúng tiền thất quan.

- Hải Châu xã Nguyễn Thị (Linh) hiệu Từ Quế cúng tiền thất quan.

- Mộ (Hoa) xã Nguyễn Thị Hồng hiệu Từ Hào cúng tiền ngũ quan.

- Nhật Bản dinh Phạm Thị Nước (N) hiệu Từ Thanh cúng tiền thập quan.

- Bát Nhị xã Vũ Thị Hiền hiệu Từ Mân cúng tiền thập quan.

- Trí Dũng xã Lê Văn Tương tự Huệ Độ cúng tiền thập ngũ quan.

- Nhật Bản dinh Hà Kỳ Kỳ tự Ký Cô cúng ngân (vu) nhị thập ngũ lạng.

- Tân An xã Trần Kim Bảng tự Huệ Thành, Nguyễn Thị (Hân) hiệu Từ Chung.

- Trà Đông xã Nugyễn Văn Vô tự Đạo Ngọc, Hoàng Bá Kiệm tự Huệ Dinh.

- (Diễm) Sơn xã Đặng Quang Hoa tự Đạo (Đông), Đặng Quang Bảo tự Huệ Hải.

- Cảnh Dương xã Trần Thị Bi hiệu Từ Đức, Trần Văn Giảng tự Huệ (Trang).

- Đại Minh quốc Diệp (Lưu) Công tự Đạo (Hạnh) cúng tiền thập ngũ quan.

- Giếng (N) Bỏng (N) xã Nguyễn Đức Chính tự Huệ Ân, Nguyễn Thị Gánh (N) hiệu Từ Nhẫn.

- Tiêu Minh xã Nguyễn Lương Chuẩn tự Từ Quang, Phạm Văn Thu tự Phúc (Thắng).

- Hội An xã Chu Thị Tân hiệu Từ Thức cúng tiền thất quan.

- Cẩm Phó xã Đoàn Thị Cảo hiệu Từ Thái cúng tiền thập ngũ quan.

- Hải Châu xã Đặng Khoan Minh, Phạm Thị Biểu cúng tiền ngũ quan.

- Phú Chiêm xã Lê Thị Ba hiệu Từ Ái cúng tiền thập ngũ quan.

- Cẩm Phô xã Trần Thị Thế hiệu Từ Lệ cúng tiền thập ngũ quan.

- Do Nha xã Phạm Thị Thiết hiệu Từ Tâm cúng tiền nhị thập tứ quan.

- Đại Minh quốc Lữ Châu Ngô cúng tiền ngũ thập quan.

- Hội An xã Nguyễn Thị Ức hiệu Từ Quế cúng tiền thập tam quan.

- Đại Minh quốc Cốc Ngô Nhĩ Công cúng tiền ngũ thập quan tứ (mạch).

(Tuế) thứ Canh thìn niên. Trọng đông tiết (cái) nhật.

Tự Huệ Đạo Minh thiền sư lập bi ký truyền.

Dịch nghĩa:

PHẬT TRONG HANG THIÊNG NÚI PHỔ ĐÀ.

Chúc Hoàng đế ta nay muôn muôn tuổi !

Thiền sư Phạm Văn Nhân tự Huệ Đạo Minh ở xã Du Xuyên, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia(1) xứ Quảng Nam nước Đại Việtt, trông vết tích thờ Phật đã đổ nát, liền khuyến khích người có lòng tốt, người biết nghĩ về Phật hãy bỏ của nhà ra, dốc lòng làm công đức, để sửa sang mở rộng nơi thờ phật trên núi Phổ Đà, tân tạo thêm (chùa) Bình An phía dưới. Nay hai cảnh đó đã hoàn thành, các kíp thợ cũng đã xong việc, vị sư trụ trì ở chùa kính cẩn thắp hương dâng cúng. Ngửng mặt lên Tam Bảo: mong đền đáp được bốn ơn(2) đối với trên và cứu vớt người dưới thoát khỏi ba tội đồ(3); để được sống cùng nhau trên cõi Cực Lạc, truyền được lâu dài dấu tích thờ Phật.

Bình Tam Lang (Heizaburô) tự Từ Gia và vợ là Nguyễn Thị Chức hiệu Từ Quảng ở dinh Nhật Bản cúng tiền vào Tam Bảo ba trăm quan.

Hoàng Đại Đức tự Phúc Tăng và Lê Thị Trinh hiệu Từ Thuận ở xã Trà Đông cúng tiền năm mươi quan.

Nguyễn Phúc Trăn tự Phúc Chính và Thiệu Thị Liễu hiệu Từ Thắng ở xã Bá Giản cúng tiền bốn mươi quan.

Nguyễn Đăng Đệ tự Phúc Tường và Thái Thị Xanh hiệu Từ Vân ở xã Trà Lộ cúng tiền bốn mươi quan.

Hoàng Bá Lợi tự Phúc Lâm và Trần Thị Yêu hiệu Từ (Kinh) ở Trà Đông cúng tiền hai mươi năm quan.

Phạm Văn Đức tự Phúc Tráng và Trần Thị Sự hiệu Từ Lực ở xã Nam An cúng tiền hai mươi quan.

Nguyễn Văn Triều tự Viên An và Nguyễn Thị Đức hiệu Diệu Ngọc ở xã Hội An cúng tiền hai mươi quan.

(Tuấn) Môn (Shunkan)(4) tự Viên Đạt và Đỗ Thị Mặn (N) hiệu Từ Châu thuộc dinh Nhật Bản cúng tiền bốn mươi lăm quan.

A Tri Tử (Achiko) tự Viên Thông Và Cự Thị Chủng hiệu Từ Nghĩa thuộc dinh Nhật Bản cúng tiền hai mươi quan.

Hoàng Sĩ Thông tự Viên Đinh, và Trần Thị Lộc hiệu Từ Thực, người xã Phúc Hải cúng tiền mười lăm quan.

Hoàng Bá Tuế tự Huệ Trí và Hoàng Thị Ni hiệu Từ THông ở xã Trà Đông cúng tiền bảy quan.

Vũ Công Bích tự Phúc Thiện Và Nguyễn Thị Tư hiệu Từ Danh ở xã Hải Châu cúng tiền chín quan.

Trà Óc Trúc Đảo (Chaya Takeshima) (Xuyên) Thượng Gia Binh Vệ (Kawakami Kaheie) và Thiển Kiến Bát (Trợ) (Asami Yasuke) ở Nhật bản cúng tiền một trăm bảy mươi quan.

Trần Ngọc Lộc tự Quảng Tấn và Trần Thị Biện hiệu Tư Thục ở xã Cẩm Phô cúng tiền mười quan.

Trần Văn Thám tự Phúc Quang và Phạm Thị Hùng hiệu Từ Sáng ở xã An Phúc cúng tiền bảy quan.

Hồ Ngọc An tự Phúc Thần và Lê Thị Cập hiệu Từ Ý ở xã Bồ Bản cúng tiền bảy quan.

Nguyễn Thị Phú hiệu Từ Nhan(5) ở dinh Nhật Bản cúng tiền một trăm bốn mươi quan (0)(0)(0) hợp cộng là ba trăm quan.

Thất Lang Binh Vệ (Shichirôbel) và Nguyễn Thị Nụ (N) hiệu Diệu Thái ở dinh Nhật Bản cúng tiền hai mươi mốt quan.

Vợ của Binh Tả Vệ Môn (Heizaemon) là Nguyễn Thị Nở (N) hiệu Diệu Quang ở dinh Nhật Bản cúng tiền năm mươi quan.

Nguyễn Thị Lý hiệu Vĩ Tiên ở xã Đào Vệ cúng tiền ba mươi quan.

Phạm Thị Tha hiệu Từ Tâm ở xã An Phú cúng hai mươi lạng bạc.

Tống Ngũ Lang (Sôgorô) tự Đạo Chân ở dinh Nhật Bản cúng tiền một trăm quan.

Trần Văn Ngãi tự Phúc Thành ở xã (Phúc) Hải cúng tiền mười lăm quan.

Trần Thị Nô hiệu Từ Minh ở xã Cẩm Phô cúng tiền mười lăm quan.

Trần Thị Vệ hiệu Từ An ở xã Trí (Ảo) cúng tiền mười ba quan.

Trần Thị Nụ (N) hiệu Từ Mạn ở xã Phúc Hải cúng tiền vào Tam Bảo bốn mươi quan.

Nguyễn Văn Đức(6) và Nguyễn Thị Diệu ở dinh Tùng Bản cúng năm mươi lạng bạc.

Trần Viết Phúc và Nguyễn Thị Công ở xã Đan Hải cúng năm mươi lạng bạc.

Trần Văn Khoa tự Đạo Tâm ở phường Phú Kiều cúng tiền hai mươi quan.

Phạm Viết Phú và vợ là Vũ Thị Ả (N) ở xã Du Chân cúng tiền hai mươi ba quan.

Lê Thị (Chấn) hiệu Từ Định ở xã Phúc Hải cúng tiền bảy quan.

Nguyễn Thị Linh hiệu Từ Quế ở xã Hải Châu cúng tiền bảy quan.

Nguyễn Thị Hồng hiệu Từ Hảo ở xã Mộ Hoa cúng tiền năm quan.

Phạm Thị Nước (N) hiệu Từ Thanh ở dinh Nhật Bản cúng tiền mười quan.

Vũ Thị Hiền hiệu Từ Mân ở xã Bất Nhị cúng tiền mười quan.

Lê Văn Tương tự Huệ Độ ở xã Trí Dũng cúng tiền mười lăm quan.

Hà Kỳ Ky (Aki Kaki) tự Ký Cô ở dinh Nhật Bản cúng hai mươi lăm lạng bạc.

Trần Kim Bảng tự Huệ Thành và Nguyễn Thị Hân hiệu Từ Chung ở xã Tân An.

Nguyễn Văn Vô tự Đạo Ngọc, Hoàng Bá Kiệm tự Huệ Đinh xã Trà Đông.

Đặng Quang Hoa tự Đạo (Đông), Đặng Quang Bảo tự Huệ Hải ở xã (Diễm) Sơn.

Trần Thị Bi hiệu Từ Đức, Trần Văn Giảng tự Huệ (Trang) ở xã Cảnh Dương.

Diệp Lưu Công tự Đạo (Hạnh) nước Đại Minh cúng tiền mười lăm quan.

Nguyễn Đức Chính tự Huệ Ân và Nguyễn Thị Gánh (N) hiệu Từ Nhẫn ở xã Giếng (N) Bỏng (N).

Nguyễn Lương Chuẩn tự Từ Quang, Phạm Văn Thu tự Phúc Thắng ở xã Tiêu Minh.

Chu Thị Tân hiệu Từ Thức ở xã Hội An cúng tiền bảy quan.

Đoàn Thị Cảo hiệu Từ Thái ở xã Cẩm Phô cúng tiền mười lăm quan.

Đặng Khoan Minh, Phạm Thị Biểu ở xã Hải Châu cúng tiền năm quan.

Lê Thị Ba hiệu Từ Ái ở xã Phú Chiêm cúng tiền mười lăm quan.

Trần Thị Thế hiệu Từ Lệ ở xã Cẩm Phô cúng tiền mười lăm quan.

Phạm Thị Thiết hiệu Từ Tâm ở xã Do Nha cúng tiền hai mươi bốn quan.

Lữ Châu Ngô người nước Đại Minh cúng tiền năm mươi quan.

Nguyễn Thị Ức hiệu Từ Quế ở xã Hội An cúng tiền mười ba quan(6).

Ông Cốc Ngô Nhĩ người nước Đại Minh cúng tiền năm mươi quan bốn tiền.

Ngày tốt tháng Mười một, năm Canh Thìn(7), Thiền sư Huệ Đạo Minh lập bia này để ghi truyền…

TẤM BIA TRÙNG TU CẦU LAI VIỄN

Bia ở phố Minh Hương, thị xã Hội An, thân bia hình chữ nhật, đứng cao 118 cm, rộng 58 cm, đặt trên một bệ đá, xung quanh không có trang trí gì. Mặt bia có 12 dòng, mỗi dòng tối đa 47 chữ. Khắc vào năm Gia Long Đinh Sửu (1817). Hiện nay nét chữ còn rõ.

Ký hiệu lưu trữ trong kho bản rập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm: 19233.

Để tiện cho bạn đọc hình dung, trong hoàn cảnh ấn loát: không đưa được nguyên văn chữ Hán và bản chụp bản rập vào, chúng tôi đánh dấu hiệu xuống dòng và viết dài trong nguyên bản như sau:

(d1), (d2)… là mở đầu dòng 1, dòng 2 của nguyên bản (tính từ phải sáng trái)

Các dấu  là chỉ nguyên bản viết bài lên một chữ.

Dấu O là nguyên bản để cách một ô chữ có ý ngắt đoạn, xuống dòng.

Phiên âm (d1) Trùng tu Lai Viễn Kiều ký (d2) Minh Hương Hội An phố giới, ư Cẩm Phô hữu khế yên, Khê hữu kiều, cổ dã.

Tương truyền Nhật Bản quốc nhân sở tác kinh phụng.

(d3)  Tiên triều thần bàn tứ danh viết Lai Viễn kiều, Phù Hội An phố Quảng Nam chi hảo phong thủy dã. Trường Giang tam diện thần hợp cổ phiệt thường phàm chi sở tập. Sơn tứu hải phệ chi sở quy. Ngạn thượng liệt tứ kỳ trung.

(d4) vi thông cù tứ phương bách hóa vô viễn bất chí. Thử kiều chi sở dĩ danh Lai Viễn dã ư ? Kiều thượng giá ốc, ốc hạ liệt bản., thản nhiên nhược lý bình địa. Hành giả an, lao giả tức, du giả nghi, Thừa.

(d5) lương nghi, bằng điếu nghi, lâm lưu nhi phú thị giai Kiều gian chi thắng khai dã. O Phương Kim hải vũ thanh yến thương cổ giả tàng ư thị, lữ giả xuất ư đồ. Mã tích xa trần chi sở cập diệc vô viễn nhi bất.

(d6) quá thử kiều yên. Đệ thành tất hữu hoại, mộc cửu hủ đố. Bất cập thời tu tập, tương hữu nhu qũy chi ngu, ư thị đồng xã viên chức phát nguyện quyên sản thập tài tương dữ đỉnh lục nhi tân chi dĩ Đinh Sửu.

(d7) niên Kỷ Dậu nguyệt thành nhi trung ký ư mỗ. Mỗ phấn nhiên nhi tác viết: Thử.

(d8) Văn Xương đế quân sở vị tạo thiên vạn nhân lai vãng chi Kiều diệc âm chất trung nhất thiện sự dã. Nhi kim nhi hậu tương thiên bách niên thị lại kỳ lợi trạch cập nhân chi công, dưng khả tương gia. Thị vi ký.

(d9) Minh viết

(d10) Đạo bỉ lộ hề

Khê thủy dung dụng

Tiệt thủy vi kiều

Thực duy tiền công

Tự nhi tu chi

(d11) Thiện niệm sở sung

Vãng lai du tế

Vô viễn bất thông

Nhi kim nhi hậu

Lợi trạch vô cùng.

(d12) Gia Long Đinh Sửu niên Trọng thu nguyệt cốc nhật.

Trực Lệ Quảng Nam dinh Đốc học Khê Đình bá Đinh Tường Phủ soạn.

Dịch nghĩa:

BÀI KÝ TRÙNG TU CẦU LAI VIỄN

(d1) [Trùng tu Lai Viễn kiều ký]

(d2) Địa giới phố Minh Hương ở (xã) Cẩm Phô thuộc Hội An có một cái khe, có cầu bắc ngang từ lâu. Tương truyền đó là do người Nhật Bản làm nên. Đã được (d3) vua triều trước ban tên cho là Cầu Lai Viễn(8). Kể ra phố Hội An là nơi phong thủy tốt của xứ Quảng Nam. Sông lớn ba mặt hội hợp, là chỗ thuyền bè buôn bán tập trung ở đó. Nơi đầu non cửa biển quy về. Trên bờ các cửa hàng bầy thành dãy. Giữa đó là (d4) đường giao thông. Hàng hóa ở bốn phương xa xôi đều đổ đến. Có lẽ vì vậy mà cầu này được đặt tên là Lai Viễn chăng?

Trên Cầu có mái che, dưới lát ván gỗ, vững chắc như đi trên đất liền, người qua lại được an toàn; đỡ mệt mỏi. Chơi nghỉ (d5) hóng mát cũng tốt; Phóng mắt nhìn xa cũng vui; Đứng ngắm nước chảy mà làm thơ cũng thích. Đó là những nét đẹp của chiếc cầu này O Ngày nay đất nước thanh bình, nhà buôn chứa hàng nơi đô thị. Hành khách đi lại trên đường, xe ngựa rất nhiều, đâu đâu cũng phải (d6) qua cầu này.

Nhưng, cái gì đã sinh ra tất sẽ bị hủy hoại. Loại bằng gỗ thì lâu ngày phải mục nát. Nếu không kịp thời sửa chữa thì sẽ bị hư nát.

Vì thế, viên chức cả xã tự nguyện bỏ của mua gỗ, cùng nhau góp sức làm mới lại. Vào năm (d7) Đinh Sửu (1817) tháng Kỷ Dậu (tháng 5), hoàn thành, đến xin văn ở ta. Ta vui vẻ mà nói rằng: “Đâylà điều (d8) Văn Xương đế quân gọi là “bắc cầu cho nghìn vạn người qua lại. Đó là một việc làm thiện, tất có âm công”.

Từ nay cho đến trăm ngàn năm sau, công năng ích lợi cho người ta há có thể lường hết được ư ?

Vì thế làm bài ký.

(d9) Minh rằng:

(d10); Con đường cái nọ

Bị khe nước đầy chắn ngang

Chặn dòng nước mà bắc cầu

Thực là công lao của người trước

Việc nối tiếp mà sửa chữa cầu

(d11); Đã thể hiện đầy đủ lòng thiện

Kẻ đi qua người đi lại

Xa hay gần đều thông suốt

Từ nay về sau

Lợi ích và ơn huệ vô cùng.

(d12); Năm Gia Long Đinh Sửu (1817) tháng Trọng Thu (tháng 8 ) ngày tốt.

(d13); Đốc học dinh Quảng Nam Trực Lệ(9) tước Khê Đình bá tên là Đinh Tường Phủ, soạn bài ký này.

T.B.C - N.T.L

CHÚ THÍCH

(1) Dòng địa danh này trùng hợp với xã Du Xuyên (tổng Liên Trì) huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnhThanh Hóa, có thể sư Phạm Văn Nhân quê ở Thanh Hóa đã di cư vào Quảng Nam. Vì từ thời Lê Trung hưng, người Đàng ngoài vào khai đất Chiêm Thành bỏ hoang, thường lấy tên làng quê cũ đặt cho ấp mới.

(2) Bốn ơn (tứ ân): Theo sách Thích thị yếu lâm thì bốn nguồn ân phải báo đáp là: 1. Phụ mẫu ân; 2. Sư trưởng ân; 3. Tam bảo ân, 4. Thí chủ ân. Nhưng theo kinh Địa tạng thì bốn ân gồm có: 1. Phụ mẫu ân; 2. Quốc vương ân; 3. Tam bảo ân; 4. Chúng sinh ân.

(3) Tam đồ: là ba cách xử tội ở địa ngục: 1. Hỏa đồ tức dùng lửa đốt; 2. Huyết đồ là sai chim muông ăn thịt; 3. Dao đồ là róc thịt, đâm chém.

(4) Tuần Môn: Đặng Chí Uyển ghi Shummon, tôi tra sách Nhật ghi Shunkan.

(5) Chưa rõ Nguyễn Thị Phú là đàn bà Nhật Bản lấy tên Việt thời Nguyễn Phúc Lan (1636 – 1648), hay đàn bà Việt lấy chồng Nhật, rồi chồng chết hoặc về nước lâu, mà bà đứng tên làm chủ nhân cúng tiền.

(6) Nguyễn Văn Đức cũng là một người Nhật đã đặt tên Hán Việt, hoặc được chúa Việt phong tên, như trường hợp một số người Pháp khi sang giúp Nguyễn Ánh (evêque d’Adran: Bá Đa Lộc) v.v..

Tùng Bản dinh hay Nhật bản dinh đều chỉ nơi cư trú của ngời Nhật. Ở phố cổ Hội An có chùa do Nhật Bản xây gọi là Tùng Bản tự, phố buôn của thương nhân Nhật cũng gọi là Tùng bản dinh.

(7) Thời này thấy bia ghi tên xã Hội An (Hội An xã) và phố Nhật Bản (Nhật bản dinh) chưa thấy tên phố Hội An.

(8) Năm Canh Thìn: Theo sự xác định giúp của GS. Trần Nghĩa, có thể là năm 1760.

(9) Chữ LaiViễn có nghĩa là “Làm cho người ở xa tới với mình”. Đặt tên cầu như vậy, vua đương thời có ý muốn nói chính sách của triều đại mình là rộng rãi, cởi mở.

TB

TRƯỜNG VIỄN ĐÔNG BÁC CỔ PHÁP HAY NGÀNH ĐÔNG PHƯƠNG HỌC SÔI ĐỘNG Ở PHÁP(1)

RAGEAU, CHRISTIANE PASQUEL

Ngày nay thông tin về những tư liệu có liên quan tới châu Á trong những thư viện và Viện nghiên cứu ở Pháp không phải là một việc dễ dàng. Những thư mục dở dang, những lĩnh vực xác định chưa đúng, những thư viện không được nêu tên trong các danh mục hoặc trong các cuốn niên bạ thư viện và dù đấy chỉ là những thư viện dành riêng cho một số người, việc thông tin mang tính chất riêng tư v.v… những lý do thì có nhiều và đối lập nhau. Chúng ta hãy lưu ý ngay từ bây giờ hai quan niệm chủ yếu.

1. Sức nặng của lịch sử đã để lại dấu vết của nó trong những kho lớn truyền thống của thư viện. Sự phong phú về tư liệu, mà thường là những tư liệu hiếm, song sơ đồ phân loại lại quá cũ, tuy nhiên phải cố tránh đừng gạt bỏ nó. Tốt hơn hết là ta coi như không biết đến nó, hoặc ta bắt tay vào việc giải mã nó. Bởi vì chỉ khi nào người ta quan tâm đến những chi tiết của lịch sử trong các bộ sưu tập thì người ta mới hy vọng nắm được “tất cả” những tài liệu và nhất là những tài liệu còn được dấu kín dưới lớp bụi độ lượng đang bảo vệ chúng. Những gò bó mang tính chất bách khoa của các thư viện cổ, thư viện tổng hợp hay chuyên ngành tất nhiên đòi hỏi việc gộp các văn bản vào một khung chung bao gồm tất cả những hiểu biết của con người. Nguyên tắc này đã được áp dụng trên lý thuyết độc lập với những điều được đặt ra qua việc đọc bình thường những vấn đề của những văn bản được viết bằng các thứ tiếng hoặc chữ viết khó đọc. Do đó có hai trường hợp xẩy ra và đã loại cho bạn đọc ngày nay một mặt là những sách mà họ không thể đọc được, vì họ có chuyên gia, có thể là như vậy, và mặt khác là những sách đã cất vào nơi mà ngày nay người ta không còn muốn tìm lại nữa. Đôi khi cả hai tác động đó đều diễn ra một lúc. Chúng ta có thể điểm đến Thư viện Quốc gia hoặc Thư viện của Học viện Quốc gia nghiên cứu về các ngôn ngữ và các nền văn minh phương Đông (INAL-CO)(2) ở đấy đã từ lâu rồi, người ta đã tổ chức thành công những kho sách theo những tiếng khác nhau đối với một số lĩnh vực. Hai thư viện này có tiếng tăm rộng lớn và mở cửa cho công chúng đến đọc. Hai thư viện đó sẽ còn tiếp tục làm phong phú thêm bộ thư mục của mình bằng cách, ngoài việc bổ sung các tài liệu mới đến, họ còn đưa vào những tài liệu cũ “được phát hiện lại” tức những tài liệu cũ mà trước đó không ai lưu ý tới(3). Do đó họ đã dần dần loại trừ được những tác động tiêu cực của một hệ thống đã thành công - nói một cách nghịch lý - trong việc gạt ra ngoài lề toàn bộ một phần tri thức của con người toàn năng…

2. Từ cuối thế kỷ XIX, nhiều thay đổi lớn đã diễn ra như: những phương tiện nghiên cứu mới, những cách tiếp cận mới có tính chất phương pháp luận đã cùng một lúc làm đổi mới hoàn toàn cách làm trước đây của công tác xử lý tư liệu có liên quan tới Châu Á, những nơi tàng trữ chúng và phương pháp bảo quản chúng. Một mặt, việc khảo cứu các công trình kiến trúc, việc in rập các chữ khắc, việc điều tra về ngôn ngữ học hoặc về dân tộc học, những công trình nghiên cứu đầu tiên về địa lý nhân văn v.v… Tất cả những công việc đó đều đòi hỏi sự có mặt tại chỗ của các nhà nghiên cứu, nghĩa là lại chính ngay châu Á, và mặt khác những tư liệu tập hợp được thì đa dạng và bao gồm từ hiện vật đến ảnh chụp đến các bản rập, các bản thảo v.v… Còn việc chế tạo và tổ chức hợp lý của khối tư liệu này đúng ra là thuộc lĩnh vực [trang 10] hoạt động của phòng thí nghiệm hơn làthuộc lĩnh vực hoạt động của một thư viện truyền thống, bởi vì nó có các “xưởng” làm ảnh và in rập. Còn việc sưu tập thì cần phải đổi mới.

Việc sưu tập những tư liệu ở một học viện theo một phong cách mới: Trường Viễn đông Bác cổ Pháp.

Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) một trường mà năm1898 mới chỉ có bản điều lệ của phái đoàn khảo cổ học thường trực tại Đông Dương, là trường đầu tiên hoạt động theo phong cách mới này.

Những điều kiện thành lập Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã được ông Louis Finot Giám đốc đầu tiên của trường trình bày chi tiết trong số chuyên san của trường nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập trường(4). Trong tập chuyên san này còn có cả những bản báo cáo về các công việc đã hoặc đang được thực hiện ở vào thời điểm lúc bấy giờ. Những học viện khác cũng đã được thành lập tại Châu Á như: “Nhà Pháp - Nhật” ở Tokyo hoặc “Trung tâm nghiên cứu Hán học của trường Đại học Paris ở Bắc Kinh”, trung tâm này hoạt động tới năm 1953(5). Nhưng không một viện nào phát triển được trên toàn địa bàn châu Á cả về mặt nghiên cứu phối hợp, cả về mặt xử lý tư liệu bằng những kỹ thuật cực kỳ hiện đại như Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã làm và đã được nơi khác học tập. “Những năm cuối thế kỷ XIX - Ông Louis Finot một nhà Ấn Độ học, đã nói khi bắt đầu kể về quá trình hoạt động chung của mình - là điểm xuất phát của các tư tưởng và phương pháp mới đối với việc nghiên cứu về Đông Á. Trước đấy, người ta thường bằng lòng với nhận thức của mình về những vùng này được rút ra qua các tài liệu thànhvăn. Người ta đã dần dần nhận thấy rằng phương pháp chắc chắn nhất để hiểu được quá khứ của một dân tộc nhất là bước đi ban đầu để đạt tới mục đích ấy là có được một sự hiểu biết sâu sắc về hiện tại của dân tộc ấy bởi vì chỉ có cái hiện tại đó mới - bằng tư duy hoặc tiếng vọng - trả lại mầu sắc - hoặc tiếng nói của quá khứ mà cái hiện tại đang tiếp nối”.

Nghiên cứu con người hiện nay sống trong xã hội của họ đó chính là cái hướng phát triển của những tư tưởng trong việc tìm kiếm một giải pháp thiết thực.

Chúng ta hãy tiếp tục dõi theo bài nói của ông Louis Finot, trong đó ông đã giải thích những quan niệm mới của những nhà Ấn Độ học người Pháp và các dự án của ông Paul Doumer đã gặp nhau như thế nào.

“Sau những thất vọng do những hoạt động thái quá của môn thần thoại học so sánh và sự lạm dụng quá mức của môn chú giải Phạn ngữ gây nên, người ta đã theo bản năng quay trở về truyền thống để tìm ở đấy một sự chỉ dẫn ít tham vọng hơn và chắc chắn hơn. Song việc nghiên cứu thực tế cụ thể đòi hỏi một điều khác hẳn những sự tự biện liều lĩnh của tư duy: nó đòi hỏi sự quan sát kiên trì của nhà ngôn ngữ học và nhà dân tộc học đòi hỏi sự phân tích tỉ mỷ, những sự kiện tôn giáo và xã hội, đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng những công trình kiến trúc có chạm hình; nó xem nhẹ việc coi lý thuyết như một công cụ để nghiên cứu mà nắm chắc trong tay “cái cuốc của nhà khảo cổ học, cái compa của nhà nhân chủng học, chiếc ống kính của nhà nhiếp ảnh và chiếc bàn chải của nhà in rập. Tất cả những công việc đó không phải là những công việc của một du khách thoảng qua. Những kết quả đó chỉ thu được trải qua quá trình lao động liên tục, có tổ chức, giống như một học viện nghiên cứu thường trực thì mới có thể có được”. Dựa trên những tình huống đã được đặt ra chung quanh việc thành lập một viện nghiên cứu thường trực như mong muốn, Louis Finot nói tiếp: “Chính là do ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng này mà vào năm 1898 những vị đứng đầu nghành Ấn Độ học người Pháp như Auguste Barth, Michel Breal, Emile Senart đã dự kiến một đề án thiết lập ở Ấn Độ những trường giống như những trường đã phát triển rực rỡ ở Anthenes của Hy Lạp, ở Rôma của Ý hayViện khảo cổ ở Caire của Ai Cập…”

Vậy nhiệm vụ của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp phải được xác định một cách rất chính xác, nhằm cho phép nó theo đuổi công việc nghiên cứu bác học, đồng thời với việc đổi mới phương pháp luận trong nghiên cứu. Nhiệm vụ càng được đặt trong bối cảnh thuộc địa thời đó và điều đó không hề có ý gì làm giảm nhẹ nhiệm vụ đó cả. Ông Paul Doumer, toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ đang tổ chức một hệ thống hành chính cho những xứ được tập hợp lại dưới cái tên gọi “Đông Dương thuộc Pháp” nhằm xây dựng một Nhà nước có nguồn thu nhập và những cơ quan cần thiết cho sự sống của mình. Trong bối cảnh này, Sở địa chất cũng như Đoàn nghiên cứu khoa học về động vật và thực vật và Đài quan sát khí tượng được thành lập. Thật là một dịp may. Dự án ban đầu của các nhà Ấn Độ học là xây dựng ở cửa ngõ Calentia một “Trường Chamdernagor thuộc Pháp”, nhưng dự án này đã không tranh thủ được sự quan tâm của các giới có thẩm quyền đối với dự kiến ngân sách hoạt động của nó; dự án đó được ông Paul Doumer đặt lại và đề nghị cho Đông Dương. Nhiệmvụ của Trường Viễn đông Bác cổ được xác định theo hai loại công việc:

1. Hoạt động nghiên cứu về khảo cổ học và ngữ văn học của bán đảo Đông Dương.

2. Góp phần vào việc nghiên cứu bác học những vùng và những nền văn minh lân cận như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaixia…

Tuy được chính quyền thuộc địa tài trợ vào giao cho một số nhiệm vụ như lập danh sách và xếp hạng bảo tồn những di tích lịch sử, ra những quyết định có liên quan tới việc xuất khẩu các công trình nghệ thuật nhưng phần nghiên cứu khoa học thì Trường lại không được giao(6). Chính ông Paul Doumer vì muốn bảo đảm sự vĩnh cửu cho “Nghiên cứu Văn khắc và Văn học” đảm nhận việc tổ chức và kiểm tra khoa học cho trường. Đề nghị đó đã được chấp nhận và Viện Hàn lâm đã giới thiệu người Giám đốc đầu tiên của trường là ông Louis Finot cùng ba uỷ viên đầu tiên, trong đó có Antoine [trang 11] Cabaton làm thư ký của thư viện và ông Paul Pelliet nhà Trung Quốc học rất nổi tiếng sau này vì những phát hiện của ông về những tư liệu Phật giáo trong các hang động ở Đôn Hoàng thuộc vùng Trung Á.

Đến Sài Gòn năm 1899 phái đoàn nghiên cứu bắt tay ngay vào công việc, mặc dù có một sự phản ứng nào đó của những “Văn phòng” thuộc địa. “Công viẹc được bắt đầu từ Cămpuchia, Louis Finot nói: ông Giám đốc và ông Cabaton đã lưu lại đấy bốn tháng để nghiên cứu tiếng nói và nền văn học đồng thời cũng đi tham quan một số công trình kiến trúc và thu thập một số văn bản viết tay. Chuyến đi này đã có kết quả là xây dựng được một kho bản thảo viết tay bằng chữ Khơ - me đầu tiên, bao gồm 100 tác phẩm và 300 tập sách nhỏ…”. Nhiệm vụ lớn phải hoàn thành là việc tổ chức mà trước hết là”xây dựng một thư viện, một nhà bảo tàng và một cơ quan bảo tồn, giữ gìn những di tích lịch sử”. Chẳng bao lâu những ấn phẩm của Trường ra đời và tập đầu tiên công bố vào năm 1900 là quyển “Tiền cổ học An Nam” mà tác giả là D/Lacroix, xuất bản tại Sài Gòn. Nhưng những tập tiếp theo nằm trong hệ ấn phẩm này được in tại Paris. Ngược lại, tờ Tập san của Trường ba tháng một kỳ vẫn được in tại Hà Nội. Bốn số của năm thứ nhất được hợp thành một tập dầy 431 trang, có kèm theo 75 bức ảnh minh họa và ba tấm bản đồ. Trong tập này có 10 bài chuyên luận thì 8 bài viết về ngữ văn học như: Tôn giáo, kiến trúc của người Chàm; Văn học dân gian Việt Namvà nghệ thuật “Bắc Kỳ”; Khảo cổ học ở Lào; Phong tục của người Cămpuchia và nghiên cứu các dân tộc miền núi… Còn hai chuyên luận kia thì “một bài chuyên về Trung Quốc học một bài chuyên về Ấn Độ học, cả hai bài đều nêu lên phần ảnh hưởng chính đáng của hai nền văn minh đó tới nền văn minh của Ấn Độ Chi Na (tức Đông Dương = Indochina) đúng như nó đã được gọi tên”. Những từ trích dẫn trên được rút từ bản báo cáo về hoạt động của trường, của Giám đốc thứ 2 - ông A. Foucher cũng là một nhà Ấn Độ học.

Cũng cần phải trình bầy về những nhiệm vụ và nội dung công việc của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp để hiểu được loại hình tài liệu đã được Trường thu thập. Cần phải nói đến phương thức hoạt động của Trường mà qua đó người ta hiểu được thấu đáo những hoạt động của Trường trên lĩnh vực văn hóa cũng như nhân văn để thấy được đến nay Trường vẫn còn có uy tín đặc biệt ở châu Á, mặc dù phương tiện hoạt động của Trường còn thiếu thốn trong thời đại ngày nay khi mà các kỹ thuật hiện đại đã làm đổi mới phương tiện quản lý, giao thông và khai thác tư liệu. Chúng ta hãy xem một bài viết mới đây của bà Solange Thierry. Bà đã viết về Campuchia như sau:

“Không một lúc nào trong quá trình lịch sử của mình, người Khơme lại khôngbiết đến những công trình kiến trúc ở vùng Tây Bắc của Biển Hồ cũng như các công trình kiến trúc nằm rải rác trên khắp đất nước họ. Nhưng họ đã quên mất nguồn gốc chính xác, nếu không nói đến ngay cả ý nghĩa của các công trình đó. Đối với họ đấy là những công trình kiến trúc được xây dựng bởi những bậc Tevođa, những vị thần linh, hay những ông vua vĩ đại từ những thời xa xưa và đã ẩn mình trong đêm trường thời gian, và trong huyền thoại chắc chắn người dân Cămpuchia còn rất thân thuộc với những nhân vật vốn được chạm khắc trên các bức chân tường và trên các bức phù điêu của các công trình kiến trúc đó, tất nhiên là với điều kiện họ có thể đọc được chúng qua lớp rễ cây cuộn xoắn suýt và lớp cỏ dại mọc tràn lan từ nhiều thế kỷ nay. Đối với họ, những đấng thần linh và các vị vua với quá khứ oanh liệt của mình vẫn còn hay lui tới những nơi đây, những nơi chủ yếu mang tính chất triều đại và tôn nghiêm. Lễ hội hàng năm vào dịp năm mới, người ta thấy dân Campuchia từ mọi nẻo đường cái, đường mòn đổ về tận Ăng Co Vát và ở đó trong các hành lang, họ nhẩy múa và dâng lễ vật theo nghi thức của tổ tiên.

Nhưng một lịch sử có thực của Cămpuchia như người phương Tây hiểu và yêu cầu được hiểu, một lịch sử được đánh dấu bằng các sự kiện và năm tháng, bằng các triều đại, bằng các cuộc chinh phạt được ghi nhận theo trình tự thời gian. Một lịch sử như vậy thì người Cămpuchia không biết đến bởi hai nguyên nhân rất rõ nét là: một mặt các văn bản viết tay không có khả năng cưỡng lại với thời gian, với các cuộc chiến tranh, với khí hậu và mặt khác những văn khắc trên đá đã khó có thể đọc được vì bị bào mòn, bị nấm rêu bao phủ, bị tan vỡ, sụp đổ. Nói cách khác người ta chưa có thể cho tiếp cận những tư liệu viết ở đất nước này, một đất nước vốn đã có một hệ thống chữ viết này từ trước thế kỷ thứ VI, thứ VII, mà dẫu có cho tự do đọc đi chăng nữa thì đối với người Cămpuchia vẫn còn có những khó khăn mà họ không thể vượt qua được. Những văn bản khắc trên đá đều bằng chữ Phạn, hay bằng chữ Khơme cổ, rất xa lạ với [trang 12] tiếng Khơme hiện đại. Chính là do muốn khôi phục lại lịch sử của người Cămpuchia, khôi phục lại nền văn minh trong tổng thể của nó của người Cămpuchia mà các nhà bác học, các kỹ thuật viên người Pháp đã phối hợp với người Cămpuchia. Công trình nghiên cứu trên “các công trình kiến trúc” đã được tiến hành song song với công trình nghiên cứu trên các văn bản”. Cần phải trình bầy lại toàn bộ sự đóng góp của bà Thierry vì đó là sự đóng góp minh bạch. Một bằng chứng khác đã nêu bật một dạng của “sự phân quyền” giữa khoa học và hành chính chính trị. Điều này đã được ông Maurice Durand Giám đốc Trường Viễn đông Bác cổ Pháp ở Hà Nội lúc đó nêu lên trong bài diễn văn đọc tại Hội nghị ở Hồng Kông ngày 5 tháng 12 năm 1956. Tại Hội nghị này ông đã trình bầy những hoạt động của Trường và về sự tiến triển của Trường từ năm 1945, tức là từ sự rung động diễn ra sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương, hiệp định Giơnevơ và sự chia cắt đất nước Việt Nam thành hai miền. Trong suốt thời kỳ ấy, Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã nhận thấy một thực tế mà từ trước chưa từng có. Trên thực tế thì năm 1949 toàn bộ tài sản quí giá của Trường như các bảo tàng, thư viện, các tòa nhà đều đã trở thành sở hữu không thể chia cắt của khối quốc gia liên hiệp (Việt Nam, Cămpuchia, Lào và Pháp). Tuy nhiên, quy chế khoa học không thay đổi: Viện Hàn lâm (Pháp) vẫn nắm quyền quyết định trong lĩnh vực này. Tình hình này vẫn còn diễn ra ngay cả sau khi Việt Nam đã bị chia cắt làm hai miền, bởi vì người ta đã công nhận việc duy trì những hoạt động của Trường và duy trì tài sản quí giá của Trường tại Hà Nội - do đó ông Maurice Durand trở thành người phụ trách “Trung tâm Hà Nội” từ sau những công văn trao đổi giữa thủ tướng Phạm Văn Đồng và ông P. Mendes France. Tuy nhiên tình hình này không thể kéo dài quá năm 1958.

Trong số những ấn phẩm của Trường, người ta đã thấy bản tổng kết về những hoạt động ở thời kỳ đầu này của Trường, Louis Malleret viết năm 1956(7). Đặc biệt ông viết: “Do việc thành lập các bảo tàng và các thư viện, do việc tập hợp được một kho ảnh, do việc sưu tập được các văn bản viết tay và những sách quí hiếm, Trường đã góp phần to lớn vào việc thiết bị văn hóa cho các nước Đông Dương. Bởi vậy, bằng những công trình nghiên cứu thận trọng của Trường, nhiều kho tư liệu đặc biệt quí giá đã có thể được thiết lập nếu như người ta nghĩ đến tất cả những gì mà khí hậu, sâu mọt hoặc sự thờ ơ của con người có thể phá hủy chúng hoặc để cho chúng tiêu tan đi”.

Rõ ràng rằng chính do mối quan tâm nhằm tránh việc phân chia tài liệu khoa học vốn đã “được đánh giá một cách chính đáng là giá trị của toàn thế giới” mà vào năm 1949 người ta đã đề xuất công thức về chủ nghĩa bốn bên về văn hóa (quađripartime culturel). Bài học mà Louis Malleret rút ra sau 5 năm lãnh đạo một học viện hoạt động theo chế độ đó, thực đáng được dẫn chứng và ca ngợi: “Chế độ 4 bên theo quan diểm của người này thì đó là cái di sản của quá khứ để lại, theo quan điểm của người khác thì đó là một công thức kiểu mẫu quốc tế, được áp dụng trong thế giới hiện đại do tất cả những gì mà nó đã đưa thành cái chung và tạo khả năng để trở thành cái chung trên bình diện quốc tế. Tuy có phức tạp, nhưng phương thức này trải qua 5 năm, được thực hiện ở Trường đã chứng minh được toàn bộ tính hiệu quả của nó. Không những phương thức đó không đi sau những biến đổi chính trị mà nó còn vượt lên khỏi những biến đổi chính trị đó và chính vì thế mà đôi khi nó được coi là bất khả xâm phạm, nó đánh dấu một bước tiến đáng kể trên lĩnh vực khoa học và nó chưa được người ta hiểu một cách thấu đáo [trang 13]. Tuy nhiên vì hiệp định Pau ra đời sau nó đã mất uy tín nặng nên nó cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng và trở nên không thể thực hiện được do sự sụp đổ của những hệ thống liên kết thương chính, kinh tế và tiền tệ - những hệ thống mà trước đây đã tạo cho nó chỗ dựa về mặt vật chất. Lịch sử 5 năm này đáng được viết lên một cách khách quan, nó đã đánh dấu một cách đậm nét sự tồn tại của học viện và đã tạo ra cho những người chủ chốt của học viện một dịp thể nghiệm chưa từng thấy và say sưa thông qua tất cả những đề tài nghiên cứu mà học viện đã đề xuất...”

Chủ nghĩa sở hữu 4 bên về văn hóa này có lợi là nó cho phép thành lập các đoàn nghiên cứu thường trực dài hạn, trước hết ở Gia các ta, rồi đến Băng Cốc, Hồng Công, Tôkyô v.v.... cuối cùng tại Ấn Độ vào năm 1955 đã thành lập một Viện nghiên cứu Pháp ở Pogdiehéry mà viện này phải trực thuộc Trường Viễn đông Bác cổ Pháp về mặt khoa học(8). Thời kỳ hoạt động thứ hai của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp như từ ngữ mà ông Franỗois Gros Giám đốc hiện nay của trường đã dùng là “tuyến châu Á” mà các trung tâm nghiên cứu đặt ở châu Á phải được phối hợp hoạt động dưới sự điều hành của trung tâm đặt tại Paris nơi có thư viện chính của Trường.

Phát hiện kịp thời và công bố vốn quí

Năm 1959 tại cuộc hội thảo do cơ quan Singer Polignac tổ chức với sự có mặt của tất cả những nhân vật ở Pháp có quan tâm tới việc “nghiên cứu khoa học nhân văn ở châu Á” của các học viện Pháp, người ta nêu lên một dấu hiệu báo động rằng “Trước đây - như có người đã phát biểu tại hội thảo - do địa điểm đóng của Trường và nhất là do thư viện của Trường đã được các hội viên - mà tất cả đều là các chuyên gia về ngôn ngữ và về các vấn đề đang được đặt ra cung cấp tài liệu, sách báo nên trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã thu thập được hầu hết tất cả những gì đã có ở Viễn đông... Giờ đây nó không còn được như thế nữa. Do đó trong các bộ sưu tập quốc gia đã bắt đầu có nhiều lỗ hổng và những lỗ hổng đó có nguy cơ nhanh chóng trở thành không thể bổ khuyết được”. Điều ghi nhận này do Pernard Groslier đưa ra giờ đây thực sự có tính thời sự hơn bao giờ hết. Đó là một vấn đề hiện đang được luận bàn không phải chỉ riêng đối với chúng tôi, mà còn được luận bàn rộng rãi ở nhiều nơi, ví như ở các nước châu Âu khác chẳng hạn. Trong số những mục tiêu của chúng tôi, người ta đã nhấn mạnh về tính hiện đại, tính xác thực mà thể thức hoạt động của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp là tiêu biểu trong bối cảnh lịch sử và khoa học lúc bấy giờ đã khiến dẫn tới việc thành lập trường vào đầu thế kỷ này, rồi làm cho nó phát triển và luôn luôn thích nghi với mọi hoàn cảnh cho mãi tới ngày nay. Người Anh người Đức, nhất là người Mỹ, đang tổ chức những mạng lưới trên qui mô lớn, nhưng thường chỉ để thu thập các sách vở, báo chí định kỳ và những ấn phẩm đã được chính thức công bố.

Những hệ thống này hoạt động có hiệu quả một khi chúng được phát triển trên qui mô lớn và lại được thiết lập ngay trên nước sở tại(9). Tương lai của chúng ta gắn liền với sự tham gia tích cực vào các mạng lưới hoạt động này nhằm thu thập được những công trình cụ thể, cũng như bảng danh mục về những công trình đó. Đấy là điều cốt tử theo thiển nghĩ của chúng tôi.

Việc trao đổi tư liệu cũng là một hoạt động mà chúng ta cần phải cấp thiết đưa vào chương trình hoạt động hoặc phát triển nó: những thư viện trọn vẹn bằng microfilm hoặc liên lạc qua vệ tinh, như người ta hằng mong ước đều có thể được trao đổi. Khoa học không được có biên giới và việc sưu tầm tài liệu không được dẫn đến việc tích trữ tài liệu một cách vô ích.

Với tinh thần ấy, tuy còn có những biện pháp thủ công, và ở một trình độ giới thiệu cũng như ở mức độ hiệu quả của nó như hiện nay, thư viện của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp vẫn cho phát hành một cách thường xuyên và biếu không bản danh mục tất cả những tài liệu gì mà Trường thu nhận được trong năm. Thư viện cũng phát hành những tập danh mục của các kho ấn phẩm, làm đến đâu cũng phát hành đến đấy(10). Thư viện cũng đang hoạt động rất tích cực để chuẩn bị đưa ra những bộ thư mục chi tiết về các tư liệu quí nhất mà nó có.

Hiện nay đang làm về: Các bản thảo chữ Khơme, bản in khắc gỗ chữ Tây Tạng. bản thảo chữ Pali (viết theo các dạng chữ viết khác nhau), bản thảo và bản in khắc gỗ cổ của Việt Nam (nằm trong chương tình hợp tác Pháp - Việt) hiện đang được triển khai trong khuôn khổ hợp tác song phương giữa Pháp và Việt Nam). Kho lưu trữ ảnh hiện đang đứng trước nguy cơ bị hư hỏng trầm trọng, nhất là dối với các tấm ảnh cổ. Kho ảnh hiện nay là một mối lo đáng kể và các tài liệu lưu trữ viết tay cũng vậy. Chúng tôi đang dự kiến chương trình bảo vệ chúng trong những điều kiện thích đáng. Đồng thời chúng tôi cũng nghĩ đưa mảng tư liệu này ra phục vụ với chất lượng thẩm mỹ là lẽ đương nhiên, nhưng không phải đã tuyệt mỹ. Chúng tôi quan tâm tới ba mức độ: bảo vệ vốn quí, đưa vốn quí ra phục vụ và làm phong phú thêm vốn quí. Sự quan tâm này đã được các bạn thủ thư đồng nghiệp làm việc tại các học viện hoặc các nhà nghiên cứu thuộc các tổ chức khác hưởng ứng rộng rãi và chúng tôi phải tay nắm tay cùng nhau tiến bước.

[trang 14] Nếu chúng tôi không thường xuyên làm được như vậy thì đó là do điều kiện vật chất và con người quá mỏng manh, không cho phép chúng tôi có được một hoạt động bình thường và ngày qua ngày, còn góp phần đặt ra ngoài lề và làm xuống cấp dần dần cái di sản của nước Pháp mà có lẽ đó là một trong số những di sản phong phú nhất của châu Âu. Và đâu có phải bằng các biện pháp kỳ diệu của ngành tin học mà người ta chưa hiểu được đúng hoặc không có sự phối hợp gì mà lại có thể nghĩ ra được một lối thoát. Cộng đồng các nhà khoa học đương nhiên hoàn toàn tán thành ý kiến này.

Kết luận:

Nếu như những trang trên nói nhiều đến Trường Viễn đông Bác cổ Pháp và ngành Đông phương học sôi động, thì chủ yếu là vì hai lý do sau đây:

1. Trường Viễn đông Bác cổ Pháp nắm bắt cái tổng thể - chứ không có ý đi vào nghiên cứu toàn bộ các vấn đề cũng như cái tính đặc thù của các nền văn hóa châu Á và cái xã hội con người Châu Á, nên trường đã trở thành nơi gặp gỡ ưu việt và rộng mở đặc biệt đối với các viện nghiên cứu chuyên sâu về một địa bàn đặc biệt với tư cách là nơi gặp gỡ thì trên thực tế Trường Viễn đông Bác cổ Pháp có lẽ là nơi gặp gỡ hơn hẳn các nơi khác, bởi truyền thống lâu đời của nó, và bởi vì nó là cái lò đã đào tạo ra các nhà nghiên cứu bậc thầy người Pháp hiện nay đang hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu các khoa học nhân văn ở Châu Á. Chính các bậc thầy này đã tích lũy nên khối tư liệu hiện có của Trường và họ còn tích lũy nữa thông qua các thế hệ mới các nhà nghiên cứu.

2. Trường luôn luôn có ý thức đổi mới và thích ứng thường xuyên với những điều kiện nghiên cứu về Châu Á mà việc nghiên cứu này đã được coi như là một đóng góp vào công việc nghiên cứu về con người trên thế giới này. Trường Viễn đông Bác cổ Pháp luôn luôn đi trước sự vận động của lịch sử và sự tiến triển của thế giới hiện đại - điều này người ta có thể nhận thấy khi đọc đoạn viết rất sơ lược về lịch sử của Trường mà chúng tôi đã điểm ở đây - Trường Viễn đông Bác cổ Pháp ngày nay vẫn tiếp tục cơ nghiệp của mình như trước. Thừa hưởng một qui chế hành chính đã được sửa đổi năm 1988, nên vai trò của thư viện của Trường sẽ phải được tăng cường để thực hiện chức năng thông tin tốt hơn và cho phép người ta sử dụng được đầy đủ hơn những nguồn tài liệu đã được tích lũy ở đây kể cả những tài liệu ở dạng nguyên thủy cũng như những thư tịch có hoặc không mang tính chất trí tuệ, kể cả các nội dung của các bản báo cáo v.v... Năm 1906 người ta đã đề nghị thành lập một trung tâm về tư liệu ở Paris - nhưng như ông Louis Finot đã đề cập và đã giải thích rõ trong cuốn lịch sử đại cương năm 1920 rằng Trường Viễn đông Bác cổ Pháp cũng đã biết chuyển từ cái mà mình có thành một trung tâm về tư liệu.

Để kết thúc bài này, tôi xin phép gọi ra đây cả những nỗ lực của các viện nghiên cứu hoặc các tổ chức nghiên cứu về Đông phương học ở Pháp mà người ta ít khi nhắc tới. Những bộ sách xuất bản phẩm định kỳ hoặc các tư liệu khác thường rất được chú ý, mặc dù các phương tiện để khai thác chúng còn quá thiếu thốn. Chỉ riêng việc tra cứu cuốn Niên giám năm 1988 của Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia, người ta cũng nhận thấy có khoảng 30 nhóm đơn vị hoặc “nhóm công ích” quan tâm nghiên cứu về Châu Á. Song trong tổng số này chỉ có 18 tổ chức tự xét thấy là có ích khi tuyên bố mình có thư viện riêng với gần 30.000 đơn vị tài liệu. Còn về các Viện nghiên cứu với đúng nghĩa của nó thì người ta phân làm hai loại có quan hệ hành chính khác nhau. Trước hết là Viện nghiên cứu cao cấp về Trung Quốc từ năm 1926(11) hoạt động trong khuôn khổ của Trường Đại học Tổng hợp Paris nay sát nhập vào trường Trung học Pháp; Viện nghiên cứu nền văn minh Ấn Độ, thành lập năm 1929 và cũng hoạt động trong số các “Viện nghiên cứu Châu Á” thuộc Trường Trung học Pháp, y như Viện nghiên cứu cao cấp về Nhật bản, Viện nghiên cứu về Triều Tiên, Viện nghiên cứu về Tây Tạng hoặc Trung tâm nghiên cứu về Trung Á. Toàn bộ các học viện này, trong thời gian sắp tới sẽ được hoàn thiện hơn, khi mà các tòa nhà dự kiến xây dựng trong khu vực của trường Bách khoa xưa kia đã xây xong, sẵn sàng cho các học viện đó đến thuê làm trụ sở làm việc và đặt những thư viện đồ sộ của mình. Một khối học viện khác, với một qui chế tương đối phức tạp thì lại hoạt động trong khuôn khổ của trường Cao học khoa học xã hội (EHESS) (1) như: Trung tâm nghiên cứu về Ấn Độ và Nam Á (bản thân Trung tâm này không chỉ gắn bó với Trường Cao học khoa học xã hội mà còn gắn bó với cả Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc Gia, và với Phân hiệu V của Trường Cao học thực hành (EPHE) (2) Trung tâm tư liệu và nghiên cứu về Trung Quốc hiện đại; Trung tâm nghiên cứu về Nhật Bản hiện đại; Trung tâm nghiên cứu về quần đảo. Mỗi một tổ chức nghiên cứu này đều có thư viện chuyên ngành riêng, mà tầm cỡ cũng lớn. Đó là chưa kể thư viện của Trung tâm tư liệu và nghiên cứu về Đông Nam châu Á và về khu vực Nam Dương quần đảo trước đây (CEDRASEMI) (3) (một tổ chức được thiết lập và hoạt động trong thời gian đầu theo mô hình của các Trung tâm nghiên cứu thuộc trường Cao học khoa học xã hội) nay đã hoàn toàn bị sát nhập vào thư viện của Trường Đại học Tổng hợp Nice(12). Về những chi tiết của các nguồn tài liệu này, chúng tôi chưa nắm được mấy. Một ngày nào đó có lẽ phải đề xuất vấn đề điều tra để ít nhất có được một danh mục các thư viện ở trên đất nước Pháp có các nguồn tài liệu liên quan tới Châu Á.

NGUYỄN XUÂN ĐỒNG và
PHẠM VĂN THẮM dịch

CHÚ THÍCH

(1) Bài đăng trên “Tập san thông tin của Hội các nhà thủ thư Pháp”, số 112 quí 1, năm 1989 (Bul.letin d’informations de I’Association des Bibliothé caires Francais – N0140. Icr Trime dre 1989). Tư liệu này do GS. Trần Nghĩa cung cấp.

(2)Tập san Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (BEFEO) tập 21, H. 1922, tr.271.

(3) Người ta có thể coi Phông Đông Dương của Cục Ấn Phẩm thuộc thư viện Quốc gia là một trong số những cái “được phát hiện lại” đó mà Chính quyền hiện nay đã có ý tốt là đề cao giá trị của nó đúng như nó có.

(4) Tập san Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (BEFEO) tập 21, H. 1922, tr.271.

(5) Thư viện, các hộp phiếu tra cứu và các tài liệu đã được chuyển đến Paris với sự đồng ý của Chính phủ Trung Hoa và được lưu giữ tại Viện Cao học nghiên cứu về Trung Hoa (30.000 tập)

(6) Chúng ta gặp lại ở đây một cuộc thảo luận có tầm cỡ lớn nhưng chưa được cởi mở, về việc đánh giá công cuộc thực dân của người Pháp. Một thư mục ngày càng được làm cho phong phú sẽ phải được đưa ra đóng góp cho thời gian tới khi mà việc thống kê các vấn đề bao hàm trong nó đang được người ta tiến hành. Tác phẩm của ông P/R. Féray (Việt Nam ở thế kỷ XX) do P.U.F xuất bản năm 1979 là tác phẩm đầu tiên đề cập tới cuộc tranh luận như vậy, hoàn toàn đề cập dưới góc độ nền văn minh của Việt Nam. Sự mở cửa của Việt Nam với thế giới cận đại từ những năm 1850 và khả năng về mặt lý thuyết của họ để bước vào thế kỷ XX, đã là chủ đề của một cuộc thảo luận trong những năm gần đây của các nhà sử học chuyên về vùng Viễn Đông đã bị Trung Hoa hóa. Nhiều ấn phẩm xuất bản hiện nay và nhiều công trình đang được tiến hành đã nhấn mạnh đến tính chất đa văn hóa có thực không chỉ đối với ba xứ (hiện nay là nước Việt Nam) - trong số 5 xứ của Đông Dương thời xa, mà còn nhấn mạnh đến việc bảo hộ mang tính chất thực dân đã được thực hiện thông qua một hệ thống cai trị duy nhất đã từng quản lý không chỉ ba xứ đó mà còn quản lý cả Cămpuchia và Lào nữa. Chúng ta cũng cần nhớ rằng công việc nghiên cứu về xã hội Việt Nam truyền thống của các nhà nghiên cứu thuộc Trường Viễn đông Bác cổ Pháp “chỉ phát triển từ năm 1932 – 1933”. Việc kiểm kê các công trình kiến trúc hoặc các tài liệu thư tịch đã cho ra đời nhiều ấn phẩm như năm 1904 có công trình “Bước đầu ngiên cứu về các nguồn tài liệu hiện có ở Việt Nam về lịch sử Việt Nam” của các ông L.Cadière và P.Pelliot và năm 1909 có công trình “những công trình kiến trúc Chàm ở xứ An Nam” đăng trong tập II bộ danh mục về khảo cổ và về xứ Đông Dương (tập I chuyên về xứ Cămpuchia). Phương pháp nghiên cứu - rõ ràng là theo phương pháp của người châu Âu và mang tính chất phổ biến, một phương pháp vốn đặc trưng cho những mối quan tâm của các nhà sáng lập ra Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, kể cả ông Paul Doumer – là kiên quyết nghiên cứu những vấn đề trong khuôn khổ của phương pháp so sánh, đặc biệt là đối với các xã hội châu Á.

(7) Điểm lại nửa thế kỷ hoạt động khoa học của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, Tạp chí Pháp – Á số 125, 126, 127, tr.1- 42.

(8) Những công việc và triển vọng của trường Viễn đông Bác cổ Pháp nhân dịp 75 năm ngày thành lập Paris.1976.

(9) Những chương trình của “Library of congress” là ví dụ mẫu mực. Ở Anh việc mua sách đặt dưới sự chỉ đạo của những trung tâm tập thể, thí dụ như tổ chức S.E.A.E.G. Trong khi đó thì Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại các nơi mà Trường có những trung tâm do Trường quản lý, lại tham gia vào việc làm phong phú thêm những bộ sưu tập sách báo Mỹ hoặc các nước khác, thông qua những nhà nghiên cứu thường trực của mình tại các nước đó.

(10) Người ta đã hoàn thành các bản thư mục ấn phẩm của các kho sau: Kho sách Nam Dương quần đảo, kho sách Khơ me, kho sách Việt Nam, kho sách Thái và ấn phẩm định kỳ về Nam Dương quần đảo.

(11) Xin xem bài của Paul Démielville nhan đề: Tin về tổ chức nghiên cứu Đông Á ở Pháp, in trong Tập san Nghiên cứu Á Châu, tập XVIII, N01, tháng 1-1958.

(12) Thêm vào đó là những bộ sưu tập ấn phẩmcủa các thư viện chuyên ngành như Thư viện Bảo tàng Guimet, hoặc các thư viện tổng hợp như Thư viện Viện Bảo tàng phân loại hoặc các thư viện của trường đại học cấp tỉnh(*).

(*) Trong khi dịch tài liệu này chúng tôi được sự giúp đỡ và góp ý kiến của ông Dương Kính Quốc - một chuyên gia có kinh nghiệm về tiếng Pháp. Nhân đây xin chân thành cảm ơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) EHESS: Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales.

(2) EPHE: Ecole Pratique des Hautes Etudes.

(3) CEDRASEMI: Centre de Documentations et de Techerches sur I’Asie du Sud - Est et le monde Insulindien.

TB

NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC CỦA CHU DỊCH ĐÃ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT NHƯ THẾ NÀO

PHAN VĂN CÁC

I. VÀI NÉT VỀ CHU DỊCH

Chu Dịch, thường gọi là Kinh Dịch, là một bộ sách cổ của Trung Quốc đã được Nho gia coi là sách kinh điển, xếp vào trong Ngũ kinh.

1. Như mọi người đều biết, Chu Dịch gồm 2 phần lớn: Kinh và Truyện. Kinh gồm 64 quẻ, mỗi quẻ 6 hào, cộng 384 hào, nếu coi điều “dụng cửu” quẻ Kiền và điều “dụng lục” quẻ Khôn như là hào thì có thể nói là 386 hào. Toàn bộ lời quẻ và lời hào (quái hào từ) gồm 450 điều (64+386).

Nhìn chung có thể nói lời Kinh của Chu Dịch là một bộ sách bói (phệ thư: phệ là bói bằng cỏ thi) sản sinh từ ý thức mê tín của cổ nhân trên cơ sở quan niệm “thiên địa vạn vật nhất thể” và “thiên nhân tương ứng”.

Truyện có tất cả 7 loại là Soán, Tượng, Văn ngôn, Hệ từ, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái, trong đó Soán, Tượng và Hệ từ mỗi loại lại chia ra làm 2 thiên Thượng, Hạ. Vì thế Dịch truyện có tất cả 10 thiên, xưa gọi là thập mục.

Theo sự khảo chứng của nhiều học giả, ngày nay có thể khẳng định rằng, Dịch kinh cũng như Dịch truyện đều chắc chắn không phải do tay một người viết ra.

Dịch truyện giải thích Kinh Văn, quả có những phần chính xác song cũng có rất nhiều chỗ không phù hợp với nguyên ý của Kinh văn, có lúc là hiểu sai, có lúc là gán ghép cho Kinh văn, cũng có lúc là xuyên tạc Kinh văn nhằm phát huy quan điểm triết học của mình.

Trên góc độ sử học, Chu Dịch có giá trị khá cao. Những hiện tượng xã hội ghi chép khá nhiều mặt, trong đó, về tình hình kinh tế như Nông nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, săn bắn... về chế độ xã hội như phong hầu kiến quốc, giai cấp, gia tộc, hôn nhân... về đời sống con người như ăn uống, y phục, cung thất, khí mãnh... về các hoạt động xã hội như tế tự, chinh phạt, thú vệ, tố tụng... về ý thức tư tưởng như quan niệm đạo đức, quan điểm chính trị... tuy chỉ là những mẩu ghi chép vụn vặt, rời rạc, chắp nhặt không hoàn chỉnh không có hệ thống, nhưng trong hoàn cảnh sử liệu thời Ân - Chu còn hiếm hoi thì Chu Dịch đã trở thành một nguồn tư liệu trọng yếu về xã hội thượng cổ, được các nhà sử học đánh giá cao. Chẳng hạn như Quách Mạt Nhược có luận văn nghiên cứu “Sinh hoạt xã hội thời đại của Chu Dịch” (Chu Dịch thời đại đích xã hội sinh hoạt) đăng trong Trung quốc cổ đại tư tưởng sử (Nxb. Nhân dân, Bắc Kinh, 1973) cũng sử dụng nhiều tư liệu của Dịch Kinh.

Xét trên góc độ văn học, Chu Dịch cũng có giá trị lớn. Nội dung của nó tương đối phong phú mà thủ pháp nghệ thuật cũng có những đặc trưng đáng coi trọng. Các đặc trưng nổi bật nhất là:

(1) Câu cú có vần điệu, gần với ca dao, Thí dụ như lời hào cửu nhị, quẻ Đại quá: “Khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ nữ thê” (cây dương khô đâm rễ,lão già được cô vợ trẻ) hay lời hào Cửu ngữ cũng quẻ ấy: “Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu” (cây dương khô ra hoa, bà già được anh chồng trẻ). Những lời hào này có khác gì những mẩu ca dao ngắn gọn và trong sáng.

Hay như lời hào sơ cửu quẻ Minh đi: “Minh đi vu phi thùy kỳ dực, Quân tử vu hành, tam nhật bất thực” (Chim trĩ bay, cánh nó buông rũ, Người quân tử đi đường, ba ngày chẳng được ăn), lời hào cửu nhị quẻ Trung phu: Minh hạc tại âm, kỳ tử họa chi, Ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhị mị chi (chim hạc hót lên nơi bóng râm, lũ con nó họa theo. Ta có chén rượu quí, ta với người cùng uống vui) trong đó đực vần với thực, hoạ vần với mị cũng là những bài thơ xinh xắn, thú vị.

(2) Giàu thủ pháp tượng trưng, tức là lấy một sự vật cụ thể để tượng trưng cho sự cát hung, điều thủ xả cái đắc thất của người ta.

Thí dụ như lời hào sơ lục quẻ Khôn lấy câu Lý sương kiên băng chí (giẫm lên sương [biết rằng] lớp băng giá dày sẽ đến) để tượng trưng công việc của người ta cứ dần mà thành.

Lời quẻ Tiểu súc và lời hào lục ngữ quẻ Tiểu quá đều viết Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao (mây dày không mưa, từ ngoại thành phía tây); lời hào lục tam quẻ viết Diếu năng thị, bí năng lí, lí hổ vĩ, điệt nhân hung (chột hay dòm, thọt hay đi, giẫm đuôi cọp, cắn chết người, dữ) tượng trưng người không có tài năng mà đương chức trọng, đến nỗi đâm đầu vào hiểm cảnh, rước phải vạ lớn): lời hào cửu nhị quẻ Tính viết Tỉnh cốc xạ phụ, ung tệ lậu (Bắn con cá giết trong hốc giếng, vỡ mất vò) tượng trưng cho việc người ta hành động không thích nghi với hoàn cảnh khách quan, nên đã chuốc lấy tổn thất.

Thủ pháp biểu hiện tượng trưng này tăng thêm tính cụ thể và tính hình tượng của tác phẩm, đã thể hiện trí tuệ và kỹ xảo của tác giả, có phần giống với thủ pháp nghệ thuật “Hứng” trong Kinh Thi.

Hai đặc trưng nghệ thuật đó khi thì quyện vào nhau chặt chẽ, khi thì tách ra rạch ròi, song đều đáng cho ta thưởng thức.

2. Chu Dịch (Kinh và Truyện) đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng và sáng tác của sĩ phu Việt Nam.

Đòn dông nhà nào ở nông thôn mà lại không khắc 5 chữ Càn nguyên hanh lợi trinh mặc dù chủ nhà có thể không hiểu gì về nó, và cũng không cần biết rằng đó là lời quẻ Càn (Kiền), quẻ đầu tiên trong 64 quẻ của Chu Dịch.

Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập hơn mười lần nhắc đến tác phẩm này:

Ngày nhàn mở quyển xem Chu Dịch (bài 20)

Tỏ tường phiến sách con Chu Dịch... (bài 79)

Song mai hoa điểm quyển Hi Kinh... (bài 107)

Nha tiêm tiếng động yên Chu Dịch (bài 119)

Thư trai vắng vẻ cảnh ngày trường

Một quyển Hi Kinh một triện hương (bài 125)

Chặt vàng chẳng chữ câu Hi Dịch (bài 178)

(Chu Dịch còn được gọi là Hi Kinh, hoặc Hi Dịch là vì tương truyền Phục Hi là tác giả đầu tiên của bộ sách kinh điển ấy).

Trong Thư lại dụ Vương Thông (Quân trung từ mệnh tập) ông viết “Dư thường khán Dịch Kinh tam bách bát thập tứ hào” (Tôi từng xem ba trăm tám mươi tư hào Kinh Dịch)... Và đoạn cuối Bình Ngô đại cáo viết: “Kiền khôn kí bĩ nhi phục thái, Nhật nguyệt kí hối nhi phục minh (Kiền Khôn bĩ mà lại thái, Nhật nguyệt mờ mà lại trong) thi Kiền, Khôn, Bĩ, Thái đều bắt nguồn từ các tên quẻ nổi tiếng của Chu Dịch.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ là nhà thơ Việt Nam nói nhiều nhất đến Chu Dịch. Bài thất ngôn Độc Chu Dịch hữu cảm nói lên lòng ngượng mộ và sùng kính của nhà thơ đối với tác phẩm này. Ngoài ra, hầu như ở bài Ngụ hứng hay Hữu cảm nào ông cũng xa gần đề cập đến các khái niệm của Dịch lý như “cơ ngẫu” (lẻ và chẵn), “Doanh hư” (đầy và rỗng), “âm dương”, “tiêu trưởng” (hao mòn và lớn lên), hoặc trực tiếp dùng các tên quẻ, các mệnh đề của quái hào từ để diễn đạt tư tưởng mình. Như 4 câu cuối bài Trung Tân ngụ hứng viết:

Tửu sử thi cuồng tùy phóng dật,

Khảm lưu Cấn chỉ kiến hành tàng.

Sinh sinh dục thức thiên cơ diệu,

Nhận thủ hàn mai nghiệm nhất dương.

(Rượu khiến tứ thơ ngông cuồng cứ tùy ý mà buông thả không câu thúc; Khảm thì chảy, Cấn thì dừng, xem đó mà rõ lẽ hành hay tàng. Muốn biết cơ trời huyền diệu muôn vật cứ sinh sôi mãi mãi, hãy xem hoa mai nở trong tháng rét sẽ nghiệm thấy một khí dương lại sinh ra, một mùa xuân sắp trở lại vậy...).

Ngô Thì Nhậm, một nhà tri thức chân chính cuối thế kỷ XVIII đã thức thời theo Quang Trung Nguyễn Huệ phụng sự phong trào khởi nghĩa Tây Sơn cũng nhiều lần dẫn dụng Chu Dịch. Trong bài Họa thân phúc công (Họa thơ ông chú ruột), ông viết Trung phu tự tín bất cô thân (Giữ đạo “trung phu” tự tin là không bị cô độc). “Trung phu” là tên quẻ thứ 61 trong Chu Dịch, được Ngô Thì Nhậm mượn để họa thơ chú là Ngô Thì Đạo nhằm giãi bày rằng về mặt đạo lý đi với nhà Tây Sơn là đúng với đạo trời và không trái với giáo huấn của thánh hiền. Ở bài Khâm vãn Đan Dương lăng (kính viếng lăng Đan Dương), ông viết: “Khôn đạo vô tha lợi trực phương” (Đạo quẻ Khôn không có gì khác hơn là lợi ở “thẳng” “vuông”) chính là mượn lời hào từ quẻ Khôn “Trực, phương, đại, bất tập, vô bất lợi” (Thẳng, vuông, lớn, không tập, không có gì không lợi). Ở bài Nhàn thuật (nói ý mình lúc rảnh rỗi), ông viết Thân thế ưu ngu vấn, diệp thi (nỗi lo âu của thân thế chỉ biết bói cổ thi). Ở bài Bệnh thuật (thuật lại khi ốm) ông viết Súc hữu Lý thời tu dưỡng chính Tổn phùng Ích xứ tiện hồi xuân (lúc quẻ Súc gặp quẻ Lý thì nên nuôi đạo chính, khi quẻ Tổn gặp quẻ Ích thì xuân liền trở về). Bốn quẻ Đại Súc, Lý, Tổn và Ích đều nói về sự thích ứng điều hòa giữa “Bĩ và Thái”.

Tác giả Truyện Kiều ít nói đến Chu Dịch hơn, nhưng trong bài Đông A sơn lội hành ông viết: Giản vụ sinh nghi ẩn báo. Khê vân vô sự lẫn tòng long (lớp mù ở khe bốc lên thích hợp cho con báo ẩn nấp, đám mây trên suối lơ lửng không muốn bay theo rồng) thì tòng long lấy chữ trong Hệ từ của Chu Dịch: Vân tòng long, phong tòng hổ, ý nói mọi vật đều theo các loại hợp với tính của nó.

Sở dĩ Chu Dịch được các cụ coi trọng như vậy chính vì tuy là một cuốn sách bói có nhiều thành phần mê tín nhưng trong lời văn nhiều đoạn chứa đựng những chân lý mà ngày nay chúng ta biết đó là những mầm mống của chủ nghĩa duy vật thô sơ và phép biện chứng mộc mạc. Vả lại Chu Dịch là cuốn cổ thư duy nhất trình bày có hệ thống vũ trụ quan của người xưa với quan niệm “âm dương tiêu trưởng” như là sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong mâu thuẫn rất cần thiết và bổ ích cho các nhà tư tưởng Việt Nam ngày xưa.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC CỦA CHU DỊCH ĐÃ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC

Phải nói ngay rằng trong khoa học, nhất là khoa học xã hội nói chung không thể coi một thành tựu nghiên cứu ở một thời điểm nào đó là kết luận cuối cùng. Nói vấn đề đã giải quyết được chỉ là nói trên một mức độ tương đối mà thôi. Huống chi đối với Chu Dịch (đặc biệt là phần kinh) một tác phẩm chứa đầy những điều bí hiểm, đã có một lịch sử trên 30 thế kỷ và đến nay chỉ tính những tên tuổi tiêu biểu có thành tựu riêng ở Trung Quốc đã có trên 50 bộ sách của các nhà khảo cứu công phu về nó. Từ Vương Bật đời Ngụy, Hàn Khang Bá đời Tấn, Lục Đức Minh, Lý Đỉnh Tộ đời Đường. Trình Di, Chu Hi, Lã Tổ Khiêm đời Tống, Ngô Trung đời Nguyên... qua các nhà khảo chứng đời Thanh, thời Trung Hoa Dân quốc cho đến ngày nay(1). Ý kiến nối tiếp nhau cũng nhiều mà phê phán bác bỏ nhau cũng lắm.

Tuy nhiên đến nay có thể nêu một số kết luận đã được đông đảo giới nghiên cứu thừa nhận.

1. Xác định niên đại thành sách và tác giả:

Chu Dịch (phần kinh) đại để hoàn thành vào buổi đầu nhà Chu (khoảng thế kỷ XI - X trước CN). Trước đó hẳn đã có những ghi chép rời rạc vụn vặt của các phệ nhân: người bói cỏ thi).

Tác phẩm hẳn không phải do một người làm ra và cũng không phải làm ra vào một lúc nào.

2. Giải thích ý nghĩa của tên sách:

Khác với cách giải thích của Hệ từ thượng truyện nói sinh sinh chi vị dịch (sinh sôi nảy nở mãi gọi là Dịch, tức giải thích Dịch là biến đổi), hay cách giải thích của Trịnh Huyền trong Dịch tán Dịch luận cho rằng: Dịch nhất danh nhi hàm tam nghĩa; Dị giản nhất dã; biến dịch nhị dã; bất dịch tam dã (một chữ tên Dịch mà chứa ba nghĩa: Dị giản là một; biến dịch là hai; bất dịch là ba), sau này Khổng Dĩnh Đạt dẫn lại trong lời tựa cuốn Chu dịch chính nghĩa(2). Ngày nay người ta chứng minh được rằng chữ dịch 易? là chữ giả tá cận âm của chữ hịch : Hịch là chức quan trông nom việc bói cỏ thi, cũng như vu. Người đầu tiên nêu ra kiến giải này là Chu Tuấn Thanh, một học giả đời Thanh, trong Thuyết văn thông huấn đinh thanh Nhà nghiên cứu cận đại là Cao Hanh tán thành ý kiến của Chu cho rằng Tam dịch chi dịch độc nhược hịch (chữ dịch trong Tam dịch đọc như hịch ) và bổ sung rằng Dịch lúc đầu là tên chức quan sau chuyển làm tên sách: “Phệ quan gọi là Dịch (hịch) sách của phệ quan cũng gọi là Dịch, cũng giống như Sử quan gọi là sử, sách của sử quan cũng gọi là sử(3).

3. Giải thích ý nghĩa của chữ hào 爻 .

Khác với cách giải thích của Hệ từ nói rằng “hào giả ngôn hồ biến giả dã; Hào dã giả hiệu thử giả dã: hào dã giả, hiệu thiên hạ chi động dã” (Hào là nói về sự biến đổi: hào là bắt chước điều đó vậy: hào là bắt chước sự biến động của thiên hạ), cũng khác với Thuyết văn nói rằng Hào, giao dã, tượng Dịch lục hào đầu gian dã “Hào là giao, chữ tượng hình, biểu thị sáu hào của Chu Dịch giao nhau). Các nhà khảo chứng đã giải thích hào là chữ giả tá cho dao tức dao, cổ tự viết dao , mà Dao đồ ca, tòng ngôn, nhục thanh (Thuyết văn Dao là lời ca không có nhạc, bộ “ngôn” chỉ ý nghĩa, bộ “nhục” chỉ âm đọc). Vì lời hào của “phệ thư” (sách bói cỏ thi) cũng như lời triệu (triệu từ) 兆? trong “bốc thư” (sách bói mu rùa) phần nhiều là những câu ngắn có vần, tựa như ca dao, cho nên gọi là “dao” tức “hào”.

4. Giải thích nguồn gốc các tên quẻ.

Khác với Tự quái trình bày thứ tự 64 quẻ một cách gượng gạo gán ghép vu vơ, vấn đề nguồn gốc các tên quẻ ngày nay được xử lý như sau:

Cổ nhân viết sách nói chung không đặt tiêu đề cho các thiên (bất danh thiên). Tên các thiên thường đều do người đời sau đặt thêm vào. Thượng thư như vậy. Thi Kinh cũng như vậy.

Cũng như vậy, đối với Chu Dịch, phệ từ có trước, tên quẻ có sau. Thoạt đầu chỉ có 64 hình quẻ (quái hình) để phân biệt và chúng có 64 tên quẻ để gọi. Căn cứ vào phệ từ mà đặt tên quẻ, đó là công việc của người đời sau vậy.

Qua ý nghĩa của 64 quẻ, có thể phân chúng làm 7 loại:

1) Rút một chữ chủ yếu thường gặp trong phệ từ để làm tên quẻ (47/64 quẻ đặt theo lối này, gồm Kiền, Truân, Mông, Nhu, Tụng, Sử, Tỉ, Lý, Bĩ, Khiêm, Dự, Tùy, Cổ, Lâm, Quán, Bỉ, Bắc, Phục, Di, Khảm, Li, Hàm, Hằng, Đôn, Tấn, Khuê, Kiển, Giải, Tổn, Ích, Quải, Cấu, Tụy, Thăng, Khôn, Tỉnh, Cách, Đỉnh, Chấn, Cấn, Tiệm, Phong, Lữ, Tốn, Đoài, Hoán, Tiết).

2) Rút 2 chữ chủ yếu thường gặp trong phệ từ để làm tên quẻ: Đồng nhân, Vô vọng, Minh di, Qui muộn 4 quẻ.

3) Rút một chữ trong phệ từ và thêm một chữ ngoài: 3 quẻ Phệ hạp (thêm hạp), Đại tráng (thêm đại), Tiểu quá (thêm tiểu).

4) Lấy sự vật nội dung trong phệ từ làm tên quẻ. Đó là trường hợp quẻ Đại súc, lời quẻ nói đến mã (ngựa), ngưu (bò), thỉ (lợn) là các đại gia súc (tuy nhiên quẻ tiểu súc thì trong lời quẻ lời hào không có nội dung tiểu gia súc, vì thế nguồn gốc của cái tên quẻ ấy đến nay chưa giải thích được).

5) Lấy sự vật nội dung trong phệ từ và 2 chữ chủ yếu thường gặp trong đó làm tên quẻ: 2 quẻ Gia nhân Vị tế.

6) Lấy sự vật trong nội dung phệ từ và một chữ chủ yếu thường gặp, ngoài ra thêm vào một chữ nữa: 2 quẻ Đại quá Ký tế.

7) Tên quẻ không dính dáng gì tới phệ từ, chưa rõ nguồn gốc: có 5/64 quẻ là Khôn, Tiểu súc, Thái, Đại hữu Trung phu.

5. Hiệu đính văn bản,

1) Khôi phục các tên quẻ như Li, Bĩ, Đồng nhân, Cấn, bị thiếu trong văn bản thường lưu hành.

2) Biện luận về những chữ ngờ là thừa hoặc thiếu trong văn bản.

III. PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT CỤ THỂ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC TRONG CHU DỊCH

Dưới đây, căn cứ vào tình hình xử lý một số vấn đề cụ thể có ý nghĩa văn bản học mà các học giả Trung Quốc đã kiến nghị thử nêu lên một số kinh nghiệm có tính chất phương pháp luận.

1. Xác định niên đại thành sách và tác giả

Đây vốn là một vấn đề khá hóc búa.

a- Lời Hệ từ truyện hạ có đoạn: Dịch chi hưng dã, kỳ vu trung cổ hồ? Tái Dịch giả kì hữu ưu hoạn hồ (Dịch ra đời vào thời trung cổ chăng ? Người làm Dịch có nỗi lo âu chăng ? Người làm Dịch có nỗi lo âu chăng?).Lại có đoạn: Dịch chi hưng dã kỳ đương Ân chi mạt thế, Chu chi thịnh đức đa? Đương văn vương dữ Trụ chi sự đa? (Dịch ra đời khoảng cuối đời Ân, lúc đức nhà Chu thịnh vào khoảng thời vua Văn Vương với vua Trụ chăng ?).

Qua đó có thể thấy rằng niên đại ra đời của Chu Dịch, ngay người thời Văn Chu cũng không thể nói chắc, mà chỉ đặt nghi vấn có lẽ làm vào buổi giao thời Ân Chu mà thôi.

Trong “Bài tựa tự viết lấy của Thái sử công” đầu sách Sử ký, Tư Mã Thiên viết Tây Bá câu Dữu lí, diễn Chu Dịch tức là cho rằng lời quẻ lời hào của Chu Dịch là do Văn vương làm ra. Ban Cố trong Hán thư, Nghệ văn chí, nói rằng Văn Vương trùng Dịch lục hào, tác thượng hạ thiên, cũng giống như Tư Mã Thiên.

Sau đó Mã Dũng, Lục Tích nói Văn Vượng soạn lời quẻ, Chu Công soạn lời hào (theo lời dẫn của Khổng Đĩnh Đạt trong Tựa Chu Dịch chính nghĩa).

Cả hai thuyết này đều chưa từng thấy chứng cứ trong tác phẩm Tiên Tần, nên rõ ràng là khó tin.

Quách Mạt Nhược cho rằng tác giả Chu Dịch là Hãn tố Tử Cung người nước Sở, Tử Cung đã sử dụng nhiều tư liệu, đặc biệt là nhiều dao từ thời Ân Chu mà làm ra quái hào từ của Chu Dịch.

b- Trên đây có thể nói đều thuộc loại ngoại chứng. Quan trọng hơn là các nội chứng, các nội chứng tìm thấy ngay trong lời quẻ lời hào của Chu Dịch.Thí dụ như trong Chu Dịch, tác thấy có nhiều chữ gắn với khái niệm đối lập:

cát/hung

phúc/họa

đại/tiểu

xuất/nhập

vãng/lai

tiến/thoái

thượng/hạ

đắc/táng

sinh/tử

ngoại/nội

thái/bĩ

ích/tổn

âm/dương

tiêu/trưởng

doanh/hư

Điều đó nói lên rằng cả thế giới đầy rẫy những mâu thuẫn biến hóa. Những mệnh đề như tiểu vãng đại lai, đại vãng tiểu lai hay vồ bình bất bi, vô vãng bất phục... càng nói lên điều đó.

Tư tưởng “mâu thuẫn biến hóa” đã phát sinh trong khoảng giao thời Ân Chu.

Mặt khác, trong quái hào từ của Chu Dịch, có ghi nhiều câu chuyện lịch sử(4). Cố Hiệt Cương liệt kê 5 chuyện:

1. Vương Hợi tán ngưu dương vu Hữu Dịch ghi trong hào Lục ngũ quẻ Đại tráng và hào thượng cửu quẻ Lữ, kể chuyện tiên vương nhà Ân là Hợi, ở trọ đất Hữu Dịch,vua nước Hữu Dịch là Miên Thần giết Vương Hợi mà cướp đoạt bò dê của Hợi.

2. Cao Tông phạt Quỉ phương ghi trong hào cửu tam quẻ Kí tế và hào cửu tứ quẻ Vị tế, kể chuyện vủa Cao Tông nhà Ân đánh nước Quỉ phương, người nước Chu tên là Chấn giúp Cao Tông trong 3 năm chiến thắng được Quỉ phương.

3. Đế Ất Qui muội ghi trong hào lục ngũ quẻ Thái và hào lục ngũ quẻ Qui muội, kể chuyện vua Đế Ất nhà Ân gả thiếu nữ cho Chu Văn vương,

4. Cơ Tử chi Minh di ghi trong hào lục ngũ quẻ Minh di, kể chuyện ông Cơ Tử.

5. Khang hầu dạng tích mã phiên thứ trong quẻ Tấn kể chuyện Chu Khang Thúc Phong đánh thắng kẻ địch dâng ngựa cho Chu Vương.

Cố Hiệt Cương lập luận chặt chẽ, dẫn chứng chính xác cả 5 câu chuyện ấy đều có cơ sở trong lịch sử. Cách nghiên cứu của họ Cố đã mở ra một phương hướng mới trong lịch sử nghiên cứu của Chu Dịch.

c- Quá trình hình thành văn bản Chu Dịch được hình dung như sau:

Chu Dịch (phần Kinh) có lẽ khôg phải do một người nào làm ra và cũng không phải làm ra một lúc. Trong văn bản phần nhiều là ghi chép lại việc bói cỏ thi (phệ). Thời cổ đại, bốc và phệ đều có “biên bản”. Đại để lúc bấy giờ hễ có ai sắp làm một việc gì đó, thì Bốc nhân sẽ bói cho, rồi gặp một hiện tượng nào đó mới luận đoán điềm lành, điềm gở, đến khi việc đã làm xong, lành gở đã có ứng nghiệm. Bốc nhân hoặc Sử quan mới chép lại tóm tắt công việc đã bói, do đó mà có biên bản việc bói (bốc sư chi ký lục). Cũng như vậy, Phệ nhân bói cho, gặp quẻ X, hào X, luận đoán lành dữ, đến sau khi việc đã xong, (hưu cữu sở nhiệm), Phệ nhân (hoặc Sử quan) mới ghi lại việc đã bói.

Giáp cốt bốc từ ở vùng di chỉ nhà Ân chính là những biên bản ghi việc bói của triều Ân (trong đó có những lời do Ân vương tự bói).

Ở đây, có thể gặp “thuật ngữ” hệ tệ 系 幣 . Theo Thuyết văn thì 幣 tệ, Bạch dã 帛 也 . Hệ tệ tức là buộc treo mảnh lụa ghi chép lại việc bói, tựa như ngày nay ta dùng fiche để đánh dấu, nếu là bốc (bói mai rùa) thì phải buộc vào mai rùa (hệ vu qui), còn nếu là phệ (bói cỏ thi) thì phải buộc vào cái thẻ làm bằng cỏ thi (hệ vu thi). Khi Bốc nhân bói thì phải đem việc mình muốn bói mà khấn với rùa gọi là mệnh qui; Phệ nhân thì phải khấn với cỏ thi gọi là mệnh thi. Bốc nhân đem lời mệnh qui xếp đặt theo triệu tương, còn Phệ nhân thì đem lời mệnh thi sắp xếp theo hào quẻ, công việc này gọi là tỉ kì mệnh (tỉ là sắp xếp).

Phệ nhân chọn những điều bói trúng đặc biệt (kỳ trúng) hoặc những điều trúng nhiều (lũ trúng) chép lại dưới các quẻ các hào để sau này rút kinh nghiệm. Cứ thế tích lũy nhiều lần mà làm nên một phần các hào từ của Chu Dịch.

Về điều này ta cũng có thể tìm thấy nội chứng ngay trong lời quẻ lời hào của Chu Dịch. Thí dụ như trong lời quẻ Tỉ có câu: Cát, nguyên phệ nguyên vĩnh trinh vô cữu, bất ninh phương lai hậu phu, hung(5). Hai chữ nguyên phệ cho thấy đây là ghi chép lời phệ trước kia đã đoán. Trong lời quẻ này, cát là lời phệ sau (phục phệ), còn nguyên vĩnh trinh... hung là lời phệ trước kia (nguyên phệ).

Qua đó có thể thấy phần Kinh của Chu Dịch phần nhiều là lời ghi chép việc bói. Trong đó cố nhiên cũng có phần sáng tác của người soạn. Tức là người đã đem các lời ghi chép của Phệ nhân ra mà bổ sung đính chính, rồi xem thêm những quan sát của mình, những kinh nghiệm sống cùng những quan điểm triết lý của bản thân đưa cả vào trong sách.

Tóm lại phần kinh của Chu Dịch hẳn không phải do một người làm ra, và cũng không phải làm ra một lúc. Căn cứ vào những mẩu chuyện lịch sử muộn nhất được ghi lại trong đó là vào đời Văn vương, Vũ Vương (Văn Vũ chi thế) như ở hào thượng lục quẻ Tùy, hào lục tam quẻ Khôn, hào cửu ngũ quẻ Cấn, hào lục ngũ quẻ Minh di, ở lời quẻ Tấn..., đều ghi những câu chuyện thời Ân mạt Chu sơ, cũng có cả những việc sau thời Vũ Vương một chút, có thể chứng minh rằng sách được hoàn thành vào khoảng đầu nhà Chu. Soạn giả cuối cùng là ai thì khó lòng biết được. Tương truyền rằng Văn Vương làm quái từ, Chu Công làm hào từ, thì tuy không có bằng chứng gì song cũng không có mâu thuẫn gì với nội dung của sách. Có thể là Văn Vương và Chu Công cũng đã góp phần vào việc bổ sung, hiệu đính công trình “sáng tạo tập thể” ấy.

2. Hiệu đính văn bản: người ta đã đề ra được hàng chục ý kiến có giá trị về việc thêm bớt, sửa chữa những lời hào quẻ. Ở dây chỉ nêu một trường hợp làm thí dụ.

Đó là trường hợp lời hào lục nhị quẻ Khôn. Trong các bản lưu hành, lời ấy như sau:

Lục nhị: Trực phương đại, bất tập, vô bất lợi. Các nhà khảo cứu ngờ rằng chữ đại là thừa. Có 3 bằng chứng như sau:

(1) Căn cứ vào lời các hào Khác của quẻ này thì thấy

li sương (hào sơ lục)

trực phương (hào lục nhị)

hàm chương (hào lục tam)

quát năng (hào lục tứ)

hoàng thường (hào lục ngũ)

long chiếu vu dã, kỳ huyết huyền hoàng

(hào thượng lục)

tất cả làm thành một bài thơ nhỏ, văn rất chỉnh. Thêm vào một chữ đại thì phá vỡ tất cả.

(2) Căn cứ vào phần truyện của Chu Dịch, thì thấy lời tượng truyện nói như sau Lục nhị chi động, trực dĩ phương dã. Bất tập vô bất lợi, địa đạo quan dã. Có thể thấy rằng tác giả của Tượng truyện đã căn cứ vào một bản không có chữ đại. Chữ đại đã được chép thêm vào sau thời điểm ra đời của Tượng truyện.

(3) Cũng ở phần truyện, lời Văn ngôn nói: Trực kì chính dã. Phương, kì nghĩa dã. Quân tử kính dĩ trực nội, nghĩa dĩ phương ngoại, kính nghĩa lập nhi đức bất cô.

Rõ ràng là chỉ giải thích 2 chữ trực phương, mà không giải thích chữ đại. Vậy là tác giả lời Văn ngôn truyện cũng đã căn cứ vào bản kinh không có chữ đại.

Vậy tại sao đã có chữ “đại” chép thừa như vậy? Lỗi (Faute) trong sao chép vốn là một nội dung quan trọng của văn bản học. Nguyên nhân xuất hiện các lỗi trong các văn bản còn cần được nghiên cứu cụ thể và tỉ năng dẫn tới việc chép thừa chữ đại này như sau:

Trong cổ văn chữ phương viết 方? còn chữ đại viết 大 ? hình chữ rất giống nhau, có thể là vì sơ suất chép trùng lặp có nhầm lẫn chút ít mà trực phương thành ra trực phương đại chăng?

Chữ Hán có hơn ba ngàn năm lịch sử(6). Văn bản học Trung Quốc phát triển rất sớm và có nhiều thành tựu. Nhiều kinh nghiệm kể cả thành công và thất bại đều có giá trị tham khảo rất tốt cho ngành văn học Hán Nôm của chúng ta.

P.V.C

CHÚ THÍCH

(1) Văn Nhất Đa: Chu Dịch nghĩa chứng loại toản; Lý Kình Trì: Chu Dịch hiệu thích.

(2) Cụ Phan Bội Châu cũng phỏng theo Tống Nho mà giải thích 3 nghĩa của chữ Dịch là bất dịch, giao dịch và biến dịch (Chu Dịch của Sào Nam Phan Bội Châu, tựa của Minh viên Huỳnh Thúc Kháng).

(3) Song Dương Cao Hanh: Chu Dịch cổ kinh kim chú, Trung Hoa xuất bản.

(4) Cố Hiệt Cương: Chu Dịch quái hào từ trung chi cố sự.

(5) Theo Cao Hanh thì sau chữ nguyên có sót chữ hanh.

(6) Văn giáp cốt gồm các lời bói và mẫu ghi chép sự việc thời Bàn Canh - Đế Tân (1324 - 1066 TCN) và kim văn trên đồ đồng thời Ân và thời Chu có thể coi là dấu tích xưa nhất của chữ Hán.

TB

ĐỌC SÁCH TÙNG THƯ TIỂU THUYẾT HÁN VĂN VIỆT NAM TẬP I

PHẠM VĂN THẮM

Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (Ecole Franacise d’Extrême - Orient) năm 1986 cho xuất bản hệ ấn phẩm Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tập I. Đây là kết quả đầu tiên nằm trong chương trình nghiên cứu văn hiến phương Đông của trường trong những năm gần đây.

Đặt vấn đề nghiên cứu nền văn hiến phương Đông, Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã chọn nền văn hiến Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, những nước này trong một thời gian dài trước đây đã dùng chữ Hán làm công cụ biểu đạt, sáng tác một khối lượng tác phẩm khá lớn, gần đủ các loại Kinh, Sử, Tử, Tập... Đây thực sự là một phần di sản văn hóa của mỗi nước, nhưng quan niệm về một mảng di sản văn hóa như thế này thì thái độ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước mỗi nước đó có khác nhau. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc ít quan tâm tới hoặc chưa có điều kiện để quan tâm tới mảng văn hiến Hán ngoài lãnh địa Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu ở các nước có mảng văn hiến Hán thì có người hiểu không đúng giá trị của di sản văn hóa này. Có ý kiến cho đây là mảng văn hiến ngoại lai. Có người chỉ quan tâm tới nền văn hiến riêng ghi bằng chữ viết của nước mình, mà không mấy quan tâm nghiên cứu mảng văn hiến Hán của dân tộc mình, hoặc tuy có quan tâm, nhưng ít khi đặt vấn đề nghiên cứu so sánh với các nước cùng sử dụng văn tự Hán như mình. Do vậy, sự giống nhau hay khác nhau giữa các nền văn hiến Hán ở mỗi nước không thể dễ dàng nhận thấy được.

Vấn đề nghiên cứu nền văn hiến Hán ở các nước Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản không thể không có trọng điểm. Căn cứ vào khối lượng tư liệu hiện có. Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã chọn loại hình tiểu thuyết cổ bằng Hán văn của Việt Nam làm điểm mở đầu cho công việc nghiên cứu, và việc làm trước tiên là sưu tầm, chọn lọc, hiệu khám, chỉnh lý tư liệu.

Hệ ấn phẩm ra mắt độc giả lần này gồm có 7 quyển do trường Viễn đông Bác cổ xuất bản, Học sinh thư cục Đài Loan ấn hành các quyển sách đều mang chung một hình thức: khổ 16x21cm, bìa cứng, chữ in. Phần đầu của mỗi quyển sách được trình bầy theo một mẫu thức chung: Tổng mục lục, tổng tư, Hiệu lục, Phàm lệ, Mục lục. Tiếp đến là phần chính của văn bản tác phẩm, sau đó là phần hiệu khám và chú thích. Chủ biên công trình Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tập I là ông Trần Khánh Hạo, nhà nghiên cứu Văn học, làm việc tại Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (C.N.R.S), đồng thời là cộng tác viên của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp và Trường Đại học Paris 7. Cùng tham gia công trình này còn có các nhà làm công tác nghiên cứu ở Sở nghiên cứu Trung văn của trường Đại học Đài Bắc thuộc Đài Loan. Số tác phẩm được sắp xếp trong từng quyển sách như sau:

Quyển 1: Truyền kỳ mạn lục.

Quyển 2: + Truyền kỳ tân phả.
+ Thánh Tông di thảo.
+ Việt Nam kỳ phùng sự lục.

Quyển 3: Hoàng Việt xuân thu.

Quyển 4: Việt Nam khai quốc chi truyện.

Quyển 5: Hoàng Lê nhất thống chí.

Quyển 6: + Nam Ông mộng lục.
+ Nam thiên trung nghĩa thực lục.
+ Nhân vật chí.

Quyển 7: + Khoa bảng tiêu kỳ.
+ Nam quốc vĩ nhân truyện.
+ Đại Nam hành nghĩa liệt nữ truyện.
+ Nam quốc giai sự.
+ Tang thương ngẫu lục
+ Kiến văn lục.
+ Đại Nam hiển ứng truyện.

Thực hiện công việc sưu tập, hiệu khám, chỉnh lý tư liệu, nhóm công trình đã nhận được sự hỗ trợ của các ông, bà:

- Ông François Gros, Giám đốc trường Viễn đông Bác cổ Pháp.

- Bà Christiane Bageau, phụ trách thư viện của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp.

- Ông Tạ Trọng Hiệp, nhà nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam tại Pháp.

- Ông Yves Hervouet, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán học Pháp,

- Ông Michel Soimié: Học viện Nghiên cứu khoa học xã hội Pháp.

- Ông Domal Holzman: Học viện Nghiên cứu khoa học xã hội Pháp.

Hệ ấn phẩm Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tập 1 với 17 tác phẩm được công bố đã mang lại giá trị khoa học nhiều mặt:

1) Chúng ta biết rằng sau năm 1958, Trường Viễn đông Bác cổ Pháp từ Hà Nội đã chuyển địa điểm về Paris. Cùng với việc di chuyển trụ sở, nhà trường cũng đã chuyển đi một số lượng sách vở Hán Nôm. Qua công việc sưu tầm của nhà trường, chúng ta đã biết thêm những dị bản của những tác phẩm văn học có giá trị như Truyền kỳ mạn lục; Hoàng Lê nhất thống chí v.v... mà trong nước không có.

Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí ở Việt Nam hiện có 10 dị bản được lưu giữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Viện Sử học, Thư viện Quốc gia. Nay chúng ta biết thêm ở Paris hiện có các dị bản của tác phẩm này. Các dị bản đó mang ký hiệu HM: 2224; HM 2143; MSB: 21 và một văn bản chưa lên ký hiệu. Trong số các dị bản này, đáng lưu ý là dị bản mang ký hiệu MSB.21. Trang đầu của văn bản có ghi Hoàng Lê nhất thống chí Gia Long tam niên, Giáp Tý, quí đông sóc; Lê Cảnh Hưng Ất Mùi khoa Tiến sĩ, Tả Thanh Oai nhân Ngô Thì Nhậm tập biên” (Hoàng Lê nhất thống chí, ngày mồng 1 tháng quí đông (tháng 12) năm Gia Long thứ 3 (1804); Ngô Thì Nhậm, người Tả Thanh Oai, thi đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775) niên hiệu Lê Cảnh Hưng tập biên).

2) Các tác phẩm viết bằng Hán văn của Việt Nam vốn không chấm câu (trừ một số văn bản do người sau hiệu điểm bằng mực son). Những người làm công tác sưu tầm, hiệu khám chỉnh lý đã tiến hành chấm câu. Chúng tôi đã thử so sánh nhiều đoạn văn đã được nhóm nhà nghiên cứu của nhà trường chấm câu với cùng một đoạn văn ấy do người Việt chấm câu và dịch thì thấy có những chỗ không giống nhau. Lấy một đoạn văn ngắn trong chuyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu trong Truyền kỳ mạn lục, đoạn từ “Khoái Châu Từ Đạt” đến “định kỳ nạp sinh” làm thí dụ, ta thấy đã có tới hai chỗ khác nhau về chấm câu, hai chỗ khác nhau về dấu phẩy. Sự khác nhau này đã gợi cho chúng ta thấy: cùng một văn bản, sự cảm thụ về mặt văn học giữa người nước ngoài đọc các tác phẩm bằng tiếng Hán văn Việt Nam có phần nào khác với Người Việt Nam đọc các tác phẩm văn học bằng chữ Hán của mình.

Bên cạnh nhiều ưu điểm, Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tập I cũng có một mỉ hơn. Ở đây chỉ nêu một trong các khả tài hạn chế. Chẳng hạn Hoàng Lê nhất thống chí hiện có một dị bản mang ký hiệu N.62 được lưu giữ tại thư viện Quốc gia Paris(1) chưa được tùng thư đưa vào để đối chiếu so sánh. Hoặc phần chú thích về địa danh trong văn bản thì có mốt số địa danh nay đã thay đổi, không còn phù hợp với chú thích của người hiệu khám nữa v.v...

Tuy nhiên, hệ ấn phẩm Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tập I đã góp phần cho công việc nghiên cứu nền văn hiến Hán trong khu vực giao lưu văn hóa ở phương Đông, đặc biệt đối với loại hình tiểu thuyết bằng Hán văn của Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.

P.V.T

CHÚ THÍCH

(1) Xem B.L Riptin: Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống của tiểu thuyết Viễn đông; Tạp chí Văn học số 2-1984, tr.34, chú thích 4.

TB

TIN HỢP TÁC KHOA HỌC

Để hiểu thêm về văn hóa Xứ Lạng và cung cấp thêm tư liệu biên soạn cuốn Địa chí Lạng Sơn, hai năm qua, kể từ tháng 5-1988, Sở Văn hóa Lạng Sơn đã có những công trình hợp tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc UBKHXH Việt Nam.

Công trình đầu tiên là in rập và dịch toàn bộ văn bia chữ Hán, chữ Nôm trên địa bàn Lạng Sơn. Công việc này chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn một từ tháng 5-188 đến hết năm 1988 là rập và dịch các bia ở thị xã Lạng Sơn. Được sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật của Viện nghiên cứu Hán Nôm, anh em trong Phòng bảo tàng Sở Văn Hóa Lạng Sơn đã in rập được hơn 40 thác bản văn bia rất qúy của thị xã. Số thác bản văn bia này đã được một số chuyên gia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch và hiệu đính. Giai đoạn hai từ tháng 6-1989 đến hết năm 1989 rập và dịch bia ở các huyện của Lạng Sơn. Được sự chỉ đạo của đồng chí Đinh Ích Toàn, Giám đốc sở, và sự hợp tác nhiệt tình của đ/c Hoàng Giáp cán bộ Nghiên cứu Hán Nôm nên công việc được tiến hành nhanh gọn và có hiệu quả. Đã rập được 28 thác bản văn bia qúy hiếm mà xưa nay hầu như chưa ai biết đến. Số thác bản văn bia này cũng đã được dịch và hiệu đính. Sở dĩ công việc thu được kết quả tốt đẹp, vì phòng Bảo tàng, đặc biệt là đ/c Nguyễn Công Hang và Bế Kim Linh đã rất chủ động sáng tạo trong công việc.

Sắp tới, Sở Văn hóa Lạng Sơn sẽ cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Văn Bia Lạng Sơn, thành quả hợp tác đầu tiên giữa Sở và Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

P.V.

TB

HỌP CỘNG TÁC VIÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM

Để định hướng cho Tạp chí Hán Nôm 1990 trong tình hình đổi mới, ngày 4-1-1990 tại Hà Nội, Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức cuộc họp thân mật với cộng tác viên của Tạp chí Hán Nôm.

Tới dự có các Giáo sư, các chuyên viên Hán Nôm của các Trường Đại học, các Viện nghiên cứu và đăc biệt có tất cả những người đã đóng góp với Tạp chi Hán Nôm trong năm 1989.

Khai mạc cuộc họp, PGS. Trần Nghĩa - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Hán Nôm đã nhắc lại chức năng và nhiệm vụ của Tạp chí Hán Nôm: “Tờ Tạp chí Hán Nôm công bố các công trình nghiên cứu về di sản Hán Nôm; các tư liệu văn bản Hán Nôm mới phát hiện, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm về công tác sưu tầm, giám định, bảo tàng, chỉnh lý, dịch thuật các thư tịch, tư liệu Hán Nôm, thông tin các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm Hán Nôm trong và ngoài nước”. Bài phát biểu đã đánh giá và nhìn nhận lại hoạt động của Tạp chí trong năm qua, định hướng Tạp chí 1990 tới.

Năm 1990 là năm có nhiều ngày lễ lớn của cả nước: kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; kỷ niệm lần thứ 120 ngày sinh V.I. Lênin; kỷ niệm lần thứ 15 ngày Giải phóng Sài Gòn và miền Nam; kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm lần thứ 45 cách mạng tháng Tám thành công; kỷ niệm lần thứ 45 quốc khánh nước CHXHCN Việ Nam; kỷ niệm lần thứ 170 ngày sinh Ph.Ăngghen; đồng thời cũng là năm kỷ niệm lần thứ 10 ngày thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm và lần thứ 20 ngày thành lập cơ sở Hán Nôm của UBKHXH Việt Nam. Việc cải tiến đổi mới hơn nữa nội dung và hình thức của Tạp chí để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu độc giả hiện nay là một yêu cầu cần thiết và cấp bách.

Sau bài phát biểu, nhiều cộng tác viên đã góp ý kiến xoay xung quanh những vấn đề như nhiệm vụ Tạp chí, đối tượng Tạp chí, nhất là các chuyên mục cần có của Tạp chí Hán Nôm.

Về nhiệm vụ: ngoài những nhiệm vụ chính mà bài phát triển đã nói tới, Tạp chí Hán Nôm cần mở rộng thêm nội dung như phổ cập các tri thức Hán Nôm; giải thích các thành ngữ Hán Nôm. Tạp chí cũng cần giới thiệu những áng văn Hán Nôm hay. Gần đây có nhiều vấn đề lý luận mới, Tạp chí cũng cần quan tâm đến.

Về đối tượng: Tạp chí Hán Nôm là Tạp chí nghiên cứu vừa mang tính chuyên sâu, lại vừa mang tính phổ cập. Phải cố gắng để Tạp chí Hán Nôm trở thành tờ Tạp chí của mọi người. Rất nhiều ngành như địa chất (mỏ), y tế, quân sự... cũng đang rất muốn biết những tri thức phổ cập về Hán Nôm. Một đối đượng được nhiều người quan tâm nhất, đó là học sinh, sinh viên các trường. Như vậy đối tượng của Tạp chí Hán Nôm rõ ràng không thể bó hẹp, mà cần mở rộng.

Về chuyên mục: có thể mở thêm các chuyên mục như:

- Thường thức về Hán Nôm.

- Ngôn ngữ cổ.

- Chữ viết (thư pháp) thời xưa.

- Chuyện vui thầy đồ.

- Tư liệu tham khảo.

Về cải tiến: trước hết để phục vụ kịp thời, Tạp chí Hán Nôm nên cố gắng tăng số, tăng kỳ, chí ít là mỗi quí một kỳ, thu hẹp khổ tạp chí lại, hoặc bớt số trang đi. Nên mời các chuyên gia phụ trách từng chuyên mục. Bài Tạp chí cần gọn nhẹ, kể cả những bài nghiên cứu, không nên quá dài. Bài nào nghiên cứu văn bản Hán Nôm thì nhất thiết phải có phụ trương bằng chữ Hán chữ Nôm in kèm theo. Cỡ chữ bản in nên to hơn. Để việc phát hành được tốt, nên có các hình thức giới thiệu tạp chí trên tivi, đài tiếng nói Việt Nam, hoặc in kiểu “tờ bướm” gửi đi các nơi. Về kinh phí nên có sư tăng cường cho tạp chí. Về nhuận bút cũng phải chính đáng hơn.

Bằng lời cảm ơn chân thành, giáp sư Viện trưởng kiêm tổng biên tập đã kết thúc cuộc họp một cách hân hoan và gọn nhẹ: “Đúng là chúng ta cần phải mở rộng đề tài; việc nghiên cứu liên ngành, xuyên bộ môn là rất cần thiết; nên tổ chức thêm một số chuyên mục như:

1. Thường thức Hán nôm (chữ nghĩa, tụclệ, văn hóa cổ truyền...)

2. Giới thiệu những áng văn hay (thơ, phú, văn tế, câu đối, hát dân tộc...)

3. Tư liệu tham khảo (dịch của Trung Quốc và của nước ngoài, những tư liệu thuộc lĩnh vực Hán Nôm có giá trị thông tin và nhân văn v.v...)

Tạp chí Hán Nôm sẽ phấn đấu để thực hiện các gợi ý quan trọng trên đây của cuộc họp, làm cho tờ tạp chí đi sát cuộc sống hơn và thật sự trở thành tờ Tạp chí của mọi người”.

T.C

TB

TIN ĐÀO TẠO CÁN BỘ NGÀNH HÁN NÔM

Sau hơn 3 năm (từ tháng 3 năm 1986 đến tháng 7 năm 1989) lớp chuyên tu Hán Nôm do Viện Văn học thuộc Ủy bản Khoa học xã hội tổ chức đã kết thúc tốt đẹp(1).

Trong thời gian hơn 3 năm, các học viên của lớp đã hoàn thành một chương trình có chiều rộng và bề sâu đáng kể. Những kiến thức phổ quát nhất của khoa Hán học như triết học (Nho giáo, Lão Trang, Phật giáo, Pháp gia...), Sử học (Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách, Sử ký...). Văn học (Kinh Thi, Nhạc phủ, Hán phú, Đường Thi, Tống từ, Nguyên khúc, Truyện ngắn truyền kỳ, Văn xuôi Minh Thanh...) cùng một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học cổ Việt Nam đặc biệt là giai đoạn văn học Lý -Trần. Từ bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đến bài Cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi; từ rất nhiều thơ phú của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du... đến Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những áng thơ văn bất hủ bằng chữ Hán, chữ Nôm này đều gắn với những chặng đường gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân tộc.

Ngoài những giờ lên lớp nghe giáo viên giảng dạy, lớp học còn tổ chức những chuyên đề nghiên cứu về Thư pháp, về Đạo đức kinh,... tổ chức các buổi ngoại khóa, đi thực tế, tham quan các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh, là những nơi còn lưu giữ khá nhiều tư liệu Hán Nôm có giá trị, bước đầu tiếp xúc với văn bản Hán Nôm qua các bia, chuông, khánh, sắc phong, thần phả v.v... Qua các đợt đi thực tế học viên đã rút ra cho mình nhiều bài học bổ ích và lý thú.

Lớp học đã kết thúc bằng kỳ thi tốt nghiệp nghiêm túc, các kiến thức tiếp thu trong gần 4 năm được hệ thống lại, và những ngày đầu tháng 8 vừa qua Viện Văn học đã trân trọng tổ chức lễ tổng kết, phát bằng tốt nghiệp chuyên tu Hán Nôm và chứng chỉ chuyên môn hẹp nghiên cứu sinh văn học cổ cho các học viên đã thi đỗ.

Việc tiếp tục đào tạo lớp chuyên tu Nôm khóa II sau gần 20 năm gián đoạn trong hoàn cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn là việc làm rất cố gắng của Viện Văn học. Hy vọng những thành quả trên đây sẽ được Ủy bản KHXH đúc kết, rút kinh nghiệm, do việc bồi dưỡng tri thức Hán học và Đông phương học được đặt ra thường xuyên hơn kết hợp với các trường đại học nhằm truyền đạt cho thế hệ trẻ những giá trị tinh thần quí báu và bền vững của dân tộc, kết hợp hài hòa với những tri thức và kỹ năng hiện đại để không ngừng nâng cao tầm hiểu biết của cán bộ nghiên cứu ngành khoa học xã hội.

NGUYỄN THỊ OANH

CHÚ THÍCH

(1) Xem Nguyễn Thị Oanh: Tin đào tạo cán bộ ngành Hán Nôm, Nghiên cứu Hán Nôm số 1-1986, tr.121-122.