TB

BÀI THƠ CHỮ HÁN ĐẦU TIÊN CỦA
HỒ CHÍ MINH

PHÁC CAN

Cho đến nay được biết, đây là bài thơ chữ Hán sớm nhất của Hồ Chí Minh, đăng trên một tờ báo Trung Quốc ngày 4- 12- 1940.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

救 中 國 是 救 自 己
平 山
日 本 東 方 法 西 斯 ,
野 蠻 凶 暴 又 殘 酷 .
發 動 了 侵 華 戰 爭 ,
中 國 人 民 被 荼 毒 .
人 被 殺 了 家 被 焚
滿 地 血 紅 滿 山 骨 .
飛 機 落 彈 無 可 免 ,
饑 寒 疾 病 難 生 活 .
他 們 艱 苦 地 斗 爭
保 衛 民 主 與 和 平 .
他 門 需 要 援 助 者 ,
他 門 需 要 有 同 情 .
日 鬼 向 世 界 進 攻 ,
他 是 人 類 之 公 敵 .
越 南 兄 弟 姊 妹 阿 ,
快 快 起 來 助 中 國 .
努 力 幫 助 中 國 人 ,
中 國 越 南 如 唇 齒 .
須 知 唇 亡 則 齒 寒 ,
救 中 國 是 救 自 己 .

Phiên âm:

CỨU TRUNG QUỐC THỊ CỨU TỰ KỲ
Nhật Bản đông phương phát tây tư,
Dã man hung bạo hưu tàn khốc.
Phát động Liễu xâm Hoa chiến tranh,
Trung Quố nhân dân bị đồ độc.
Nhân bị sát liễu, gia bị phân,
Mãn địa huyết hồng, mãn sơn cốt.
Phi cơ lạc đạn vô khả miễ,
Cơ hàn tật bệnh nan sinh hoạt.
Tha môn gian khổ địa đấu tranh,
Bảo vệ dân chủ dữ hoà bình.
Tha môn nhu yếu viện trợ giả.
Tha môn nhu yếu hữu đồng tình.
Nhật quỷ hướng thế giới tiến công.
Tha thị nhân loại chi công dịch.
Việt Nam huynh đệ tỉ muội a,
Khoái khoái khởi lai trợ Trung Quốc.
Nỗ lực bang trợ Trung Quốc nhân,
Trung Quốc Việt Nam như thần xỉ.
Tu tri thần vong tắc xỉ hàn,
Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ.
Bình Sơn
4- 12- 1940

Dịch nghĩa:

CỨU TRUNG QUỐC LÀ TỰ CỨU MÌNH
Nhật Bản là bọn phát xít phương Đông,
Dã man, hung bạo lại tàn khốc,
Đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa.
Nhân dân Trung Quốc bị đầu độc khổ sở.
Người thì bị giết, nhà bị đốt,
Đầy đất máu đỏ, đầy núi xương phơi.
Tàu bay bom đạn, không thể tránh khỏi,
Đói rét, bệnh tật, khó sống nổi.
Họ đang đấu tranh một cách gian khổ,
Bảo vệ dân chủ và hoà bình.
Họ cần có người viện trợ,
Họ cần có sự đồng tình.
Giặc Nhật tiến công cả thế giới,
Chúng là kẻ thù chung của loài người.
Anh em chị em Việt Nam ơi!
Mau mau đứng lên cứu Trung Quốc.
Ra sức giúp đỡ người Trung Quốc,
Trung Quốc Việt Nam như môi với răng.
Phải biết rằng môi hở thì răng lạnh,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Bình Sơn
4- 12- 1940

Dịch thơ:

CỨU TRUNG QUỐC LÀ TỰ CỨU MÌNH
Nhật Bản phát xít ở phương Đông,
Dã man cuồng bạo lại tàn hung.
Vào Trung Hoa gây chiến xâm lược,
Nhân dân Trung Quốc khổ vô cùng.
Người thì bị giết, nhà bị thiêu,
Núi đầy xương, đất đầy máu đỏ.
Tàu bay, bom đạn, tránh làm sao?
Đói rét, ốm đau, sống thật khó.
Họ đang đấu tranh rất gian khổ,
Giữ gìn dân chủ và hoà bình.
Họ đang cần có người viện trợ,
Họ đang cần được sự đồng tình.
Giặc Nhật tấn công cả thế giới,
Là kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau đứng lên mà giúp Trung Hoa,
Anh chị em Việt Nam ta hỡi!
Ra sức giúp cho người Trung Quốc,
Trung Việt khác nào môi với răng.
Nhớ rằng môi hở thì răng buốt,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Bình Sơn
4- 12- 1940

Bài CỨU TRUNG QUỐC THỊ CỨU TỰ KỶ (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình) có xuất xứ từ một bài báo của Nguyễn Ái Quốc với bút danh BÌNH SƠN đăng trên CỨU VONG NHẬT BÁO mục văn hoá cương vị ngày 4 - 12 - 1940.

Cứu vong nhật báo là một tờ báo do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, sáng lập ở Thượng Hải tháng 8 năm 1937, sau dời về Quảng Châu, ra mắt vào dịp Nguyên đán năm 1938. Mùa thu năm 1938 dời về Quế Lâm, ra lại vào ngày 10-1-1939. Ngày 28- 2- 1941 (sau sự bién Hoản Nam do bọn phản động Quốc dân đảng gây ra) bị đình chỉ hoạt động. Ở Quế Lâm, toà báo đặt tại nhà số 12 đường Thái Bình.

Một buổi tối tháng 11 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc đến nơi ở của Hạ Diễn, lúc đó là Tổng biên tập CỨU VONG NHẬT BÁO trên đường Thái Bình (Quế Lâm, Quảng Tây), mang theo một bản thảo.

Hạ Diễn đề nghị Người sao một bản bỏ vào phong bì gửi bằng đường bưu điện đến cho toà báo để phòng khi bị bọn Quốc dân đảng lục soát thì Hạ Diễn sẽ có chiếc phong bì đóng con dấu bưu điện mang ra đối phó.

Từ đó Nguyễn Ái Quốc thường gửi bài đến toà báo.

Người đến Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Trong thời gian đó, Người đã viết cho CỨU VONG NHẬT BÁO 8 bài sau đây:

(1) Trì hoa dữ hoàng ngưu (con nhái và con bò) đăng ngày 24 tháng 11.

(2) Lưỡng cá phàm – nhĩ tái chính phủ (Hai chính phủ Versailles) đăng ngày 29 tháng 11.

(3) Tạo dao (Đặt điều) đăng ngày 1 tháng 12.

(4) Việt Nam nhân dân dữ Trung Quốc báo chí (Nhân dân Việt Nam với báo chí Trung Quốc) đăng ngày 2 tháng 12.

(5) An Nam ca dao dữ Trung Quốc kháng chiến (ca dao An Nam với cuộc kháng chiến của Trung Quốc) đăng ngày 4 tháng 12/

(6) Ngư mục hỗn châu (Mắt cá đánh lận ngọc trai) đăng ngày 5 tháng 12.

(7) Ý đại lợi thực bất đại lợi (Ý Đại Lợi thực không đại lợi) đăng ngày 6 tháng 12.

(8) Việt Nam “phục quốc quân” hoàn thị mại quốc quân (Việt Nam “phục quốc quân” hay là mại quốc quốc) đăng ngày 18 tháng 12.

Bẩy bài đầu đều đăng ở chuyên mục Văn hoá cương vị, riêng bài cuối đăng ở mục Bản báo đặc cáo. Trong đó bốn bài “Con nhái và con bò”, “Hai chính phủ Versailles”, “Đặt điều”, và “Ý Đại Lợi thực không đại lợi” thuộc loại bài bình luận quốc tế, bốn bài còn lại đều xoay quanh chủ đề cách mạng Việt Nam và mối quan hệ Việt Nam – Trung Hoa.

Trong bài thứ 5, tác giả làm lời “một nhà báo” đưa tin về tình hình nhân dân Việt Nam chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến của Trung Quốc. Người viết: “Đại đa số nhân dân An Nam đều hết sức đồng tình với cuộc kháng chiến của Trung Quốc... Để mở rộng việc tuyên truyền giúp Trung Quốc chống Nhật Việt Nam độc lập đồng minh hội, một đoàn thể rất sôi nổi hoạt động nhưng cũng rất bí mật - đã nghĩ ra một cách rất tài tình: họ đã đặt ra các bài hát theo các làn điệu rất phổ thông và dạy cho trẻ em hát. Thế là tự nhiên không hề hay biết gì cả, các cháu bé An Nam trở thành những nhà tuyên truyền viên rất đắc lực. Những bài hát đó chẳng mấy chốc đã truyền khắp cả nước. Cuối cùng bài báo đã sao lại một bài ca dao lưu hành ở Việt Nam”. Thật ra đó là một bài ca tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc viết bằng bạch thoại. Tuyên truyền bằng hình thức ca dao vốn là một sở trường của Nguyễn Ái Quốc như chúng ta đã biết trong hàng loạt bài ca tiếng Việt đăng trên báo Việt Nam độc lập những năm sau đó.

Toàn bộ nội dung trên đã được Hạ Diễn kể lại rất tỷ mỉ và sinh động trong bài hồi ký của ông: bài Hồi sức về nghề làm báo – Kể về CỨU VONG NHẬT BÁO ở Quế Lâm đăng trên Dương thành văn báo từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 7 năm 1981 và bài Nhà báo đầu bạc kể chuyện năm xưa – Nói tiếp về CỨU VONG NHẬT BÁO đăng trong Tân văn nghiên cứu tư liệu, năm 1981. Tập II.

Hồi đó Nguyễn Ái Quốc quen Hạ Diễn là qua mối quan hệ với văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm. Năm 1957, Hạ Diễn dẫn đầu đoàn đại biểu Bộ Văn hoá Trung Quốc sang thăm Việt Nam, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tai Phủ Chủ tịch. Trong buổi tiếp, nhắc lại chuyện cũ, Người vui vẻ nói với Hạ Diễn: “Bài ấy của tôi, đồng chí đã trả nhuận bút năm đồng. Năm đồng hồi đó là quý lắm”.

TB

NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
NGHIÊN CỨU VĂN BẢN HỌC

PHAN VĂN CÁC

Giới ngữ văn học Việt Nam với công việc phiên dịch, giới thiệu Ngục trung nhật ký năm 1960 đã tỏ ra nhạy bén, hết sức trọng thị tập thơ ngay khi văn bản này vừa được phát hiện. Tiếp đó là công việc nghiên cứu, bình luận phân tích, giảng dạy. Giới sử học, nhất là chuyên ngành lịch sử Đảng cũng đã tìm đến văn bản ấy như là một sử liệu quý giá.

Tuy nhiên cho đến nay văn bản NGỤC TRUNG NHẬT KÝ vẫn chưa đựng nhiều thông tin quan trọng và kỳ thú về nhiều mặt đang chờ đợi người nghiên cứu tiếp tục khám phá và khai thác.

Trước hết, bởi tác giả tập thơ đã xác định tính chất của văn bản là một cuốn nhật ký – một cuốn nhật ký viết bằng thơ - hơn thế, chính tác giả đã tự tay làm những công việc có tính chất biên tập như viết đề từ, đánh số thứ tự, ghi chú ngày tháng sáng tác ở một số bài thơ, trình bày và vẽ bìa, nên về một phương diện nào đó có thể coi đây là một chương trong cuốn biên niên sử Hồ Chí Minh: biên niên “tự truyện” về giai đoạn bị giam trong nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc từ tháng 8 – 1942 đến tháng 9 – 1943, giai đoạn gian nan khổ ải bậc nhất trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Về giai đoạn này, từ trước tới nay chỉ có một sự miêu tả khái quát trong hơn hai trang ở cuốn sách của Trần Dân Tiên (1).

Trong số các tác giả nước ngoài viết về Hồ Chí Minh, King C. Chen tác giả cuốn Việt Nam and China 1938 – 1954 (2) (Việt Nam và Trung Quốc 1983 – 1954) đã dành 6 trang (tr.55 – 60) trong tập I của cuốn sách cho giai đoạn này, nhưng cũng không cung cấp được nhiều thông tin hơn.

Văn bản Ngục trung nhật ký giúp chúng ta không ít. Trước hết, nhờ nó có thể hình dung khá cụ thể và chi tiết “lịch sáng tác” của nhà thơ - người tù cộng sản Hồ Chí Minh trong một hoàn cảnh sáng tác cực kỳ oái ăm bất lợi. Khởi đầu từ ngày 29- 8- 1942 và kết thúc ngày 10- 9- 1943, “lịch sáng tác” ấy có thể ghi lại như sau:

NĂM 1942

Ngày 29-8 đến ngày 24-9: Các bài:

1. Khai quyển; 2. Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu; 3. Nhập Tĩnh Tây huyện ngục; 4,5,6. Thế lộ nan (3 khổ tứ tuyệt); 7,8. Táo (2 khổ tứ tuyệt) 9. Ngọ; 10. Vấn thoại (3); 11. Ngọ hậu; 12. Vãn; 13. Tù lương; 14. Nạn hữu xuy địch; 15,16. Cước hạp; 17,18, 19. Học dịch kỳ (3 khổ tứ tuyệt); 20. Vọng nguyệt; 21. Phân thuỷ.

Ngày 25.9

Các bài: 22,23 Trung thu (2 khổ tứ tuyệt)

Ngày 26.9 đến ngày 9.10

Các bài: 24. Đổ; 25. Đổ phạm; 26. Nạn hữu Mạc mỗ (4) 27. Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L.

Ngày 10.10

Bài 28. Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

Ngày 10.10 đến ngày 1.11

Các bài: 29. Tẩu lộ; 30. Mộ; 31. Dạ túc Long Tuyền; 32. Điền Mông; 33. Sơ đáo Thiên Bảo ngục; 34. Nạn hữu chi thê thám giam; 35. Các báo: Hoan nghênh Uy – ki đại hội; 36. Tự miễn; 37. Dã cảnh; 38. Chúc than; 39. Quả Đức ngục; 40. Long An Lưu sở trưởng; 41,42. Tảo giải (2 khổ tứ tuyệt).

Ngày 2.11

Bài 43. Đồng chính

Ngày 2.11 đến ngày 10.11

Các bài: 44. Nạn hữu đích chỉ bị; 45. Dã lãnh; 46. Bang; 47. Lạc liễu nhất chích nha; 48. Long An - Đồng Chính; 49. Nhai thượng; 50. Lộ thượng; 51. Trưng binh gia quyến; 52. Giải trào; 53. Vãng Nam Ninh; 54,55. Cảnh binh đảm trư đồng hành (2 khổ tứ tuyệt); 56. Điệt lạc. 57. Bán lô đáp thuyền phó Ung; 58. Nam Ninh ngục; 59. Nạp muộn; 60. Thính kê minh; 61. Nhất các đổ phạm “ngạnh” liễu; 62. Hựu nhất cá; 63. Cấm yên (chỉ yên đích); 64. Dạ bán văn khốc phu; 65. Hoàng hôn; 66. Công kim; 67. Thuỵ bất trước ; 68. Ức hữu; 69. Thê nạn hữu môn tả báo cáo; 70. Lại sang; 71. Văn thung mễ thanh.

Ngày 11.11

Các bài: 72,73,74. Song thập nhất (3 khổ tứ tuyệt)

Ngày 12.11

Bài 75. Cảnh báo

Ngày 13.11

Các bài: 76. Chiết tự; 77. “Lữ quán”; 78. Tảo tình.

Ngày 14.11

Bài 79. “Việt hữu tao động” Ung báo, xích đạo tân.

Ngày 15.11 đến ngày 17.11

Bài 80. Anh phỏng Hoa đoàn...

Ngày 18.11

Bài 81. Giải vãng Vũ Minh

Ngày 19.11 đến ngày 21.11

Các bài: 82. Bào Hương cẩu nhục; 83. Trúc lộ phu; 84. Ngục đinh thiết ngã chi sĩ đích; 85. Công lý bi.

Ngày 22.11

Bài 86. Tân Dương ngục trung hài

Ngày 23.11 đến ngày 30.11

Các bài: 87,88. Ký Nê Lễ (2 khổ tứ tuyệt); 89. Đăng quang phí; 90. Ngục trung sinh hoạt; 91. Quách tiên sinh; 92. Mạc ban trưởng.

Ngày 1.12

Bài 93. Thiên Giang ngục

Ngày 2.12 đến ngày 8.12

Các bài: 94. Đáp hoả xa vãng Lai Tân; 95. Tha tưởng đào; 96. Lai Tân

Ngày 9.12

Bài 97. Đáo Liễu Châu.

Ngày 10.12 đến cuối tháng 12

Các bài: 98. Cửu bất đệ giải; 99. Dạ bán; 100. Liễu Châu ngục (5); 101. Đáo trưởng quan bộ; 102. Tứ cá nguyệt liễu

NĂM 1943

Tháng 1, thượng tuần và trung tuần

Các bài: 103. Bệnh trọng; 104. Đáo Quế Lâm; 105. Nhập lung tiền.

Hạ tuần tháng 1

Các bài: 106. ?! 107. ?

Tháng 2 đến đầu tháng 4

Các bài: 108. Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ; 109. Chính trị bộ cấm bế thất; 110. Mông ưu đãi; 111. Triêu cảnh.

Ngày 4.4 đến ngày 6.4

Bài 112. Thanh minh

Ngày 6.4 đến cuối tháng 4

Các bài: 113. Vãn cảnh; 114. Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên; 115. Hạn chế; 116. Dương Đào bệnh trọng; 117. Bất miên dạ; 118. Cửu vũ

Đầu tháng 5

Bài 119. Tích quang âm

Tháng 5 đến tháng 7

Các bài: 120. Độc Tưởng công huấn từ (6); 121. Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhiệm phó tư lệnh (7); 122. Tặng tiểu Hầu Hải (8)

Ngày 7.8 đến ngày 9.8

Các bài: 123, 124. Thu cảm (2 khổ tứ tuyệt)

Ngày 9.8 đến cuối tháng 8

Các bài: 125. Nhân đỗ ngã; 126. Trần khoa viên lai thám; 127. Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư (9); 128. Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động.

Cuối tháng 8 đầu tháng 9

Bài 129. Thu dạ

Đầu tháng 9

Các bài: 130. Tình thiên; 131. Khán “Thiên gia thi” hữu cảm; 132. Tức cảnh

Ngày 10.9

Bài 133. Kết luận (10)

Gắn các bài thơ vào những thời điểm cụ thể như trên chúng ta có thể xác định ngày tháng một số sự kiện:

1. Trong tù, đồng chí Hồ Chí Minh bị ốm nặng vào đầu năm 1943, trên đường bị giải đến Quế Lâm.

2. Người bị giải đến Liễu Châu lần đầu vào ngày 9.12.1942. Về sự kiện này, trước đây King C.Chen trong cuốn Việt Nam và Trung Quôc 1938-1954 dẫn thư của tướng Hầu Chí Minh viết cho King ngày 16.3.1967, khẳng định rằng “Ông Hồ Chí Minh bị giải đến Liễu Châu vào tháng 5.1943”. Chúng tôi cho rằng ông Hầu nói về lần 2 đến Liễu Châu bởi vì sau khi đến Liễu Châu lần thứ nhất, đồng chí Hồ Chí Minh được giải đến dinh trường quan và được biết phải đến Quế Lâm, Người đã bị giải ngược về Quế Lâm để rồi từ đây lại phải giải đi Liễu Châu một lần nữa.

*
**

Mặt khác, văn bản Ngục trung nhật ký còn chứa đựng 6 trang (từ trang 47 đến trang 52) bút ký đọc sách đọc báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các trang này ở trước bài Kết luận cho thấy trước ngày 10.9.1943, Người đã được đối xử tử tế hơn và đã được phép tiếp xúc với sách báo. Những nội dung ghi chép ở 6 trang này tập trung vào 2 chủ đề lớn: quân sự và văn hoá. Hai trang 47, 48 ghi lại 11 điều thường thức cơ bản về quân sự (tổ chức, kỷ luật, kế hoạch, mệnh lệnh, động tác, hành động, sinh hoạt, quản lý, tính chất, hiệu quả và mục đích, điều kiện thành công) còn những vấn đề về huấn luyện chiếm các trang 49, 50, 51. Đáng chú ý là ở trang 52, Người ghi nhận một định nghĩa về “văn hoá” tiếp cận với những định nghĩa khoa học nhất ngày nay.

Ngay một chi tiết rất vụn vặt như điều ghi ở “mục đọc báo” ngày 13.10, tưởng chừng không dính dáng gì đến tập thơ: “Quế Lâm, cắt tóc ba mươi đồng, thịt lợn bốn mươi lăm đồng...” nhưng nếu đem liên hệ với bài Đăng quang phí trong đó có câu “Vào chốn tối tăm mù mịt ấy, quang minh đáng giá sáu đồng (nguyên) tiền” thì sẽ cảm thụ được ý nghĩa câu thơ cụ thể và sâu sắc hơn. Điều ghi chép nhỏ nhặt trở thành một cước chú bổ ích cho việc tiếp nhận tác phẩm thơ.

*
**

Điều khiến người đọc hết sức ngạc nhiên là trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, bản thảo được biên tập khá sạch, hầu như không có mấy dầu vết tẩy xoá, gạch chữa. Vết chữa xoá duy nhất là ở câu đầu bài số 25, bài Đổ phạm, thoạt tiên viết Đổ phạm bất đắc công gia phạn (tù cờ bạc không được cơm của Nhà nước) sau xoá đi thay bằng Công gia bất cấp đổ phạm phạn (Nhà nước không cho tù cờ bạc [ăn] cơm)

Liên hệ với việc Người thường vừa suy nghĩ vừa tự mình đánh máy bản thảo, với những trang bản thảo tiếng Pháp tự đánh máy lấy cũng rất ít tẩy xoá, sửa chữa, chúng tôi nghĩ rằng một nét khá độc đáo trong mạch tư duy – biểu đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Câu văn Hồ Chí Minh (kể cả việc chọn từ và chọn cấu trúc ngữ pháp) dường như ngay khi chợt đến đã rất gần với dạng hoàn chỉnh. Hay nói một cách khác, thao tác xử lý ngầm các vật liệu ngôn ngữ trong quá trình tư duy đã diễn ra rất hữu hiệu với một tốc độ gần như lý tưởng. Điều này phải chăng có thể giải thích bằng sự am hiểu tinh thông nhiều ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài trong đó có những ngôn ngữ hết sức xa nhau, đến mức gần như là hai đối cực xét về đặc điểm loại hình học: một phía là tiếng Nga, tiếng Đức là những ngôn ngữ mang tính tổng hợp cao, và phía bên kia là những ngôn ngữ tiêu biểu của loại hình phân tích như tiếng Việt, tiếng Hán.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không lưu ý đến một đặc điểm nữa của văn bản là tính chính xác rất cao, đến mức chính xác của việc sử dụng dấu chấm câu. Chấm, phẩy, dấu than, dấu hỏi, ngoặc đơn, ngoặc kép... tất cả đều được cân nhắc rất kỹ, đặt rất đúng chỗ làm nên một nét rất đặc trưng của văn bản Ngục trung nhật ký hiện đại và khoa học ngay trong một văn bản thuộc loại hình truyền thống cổ kính.

Cả 133 bài thơ đều được chú ý đến từng dấu phẩy như vậy. Dấu ở cuối các dòng thơ đã đành, tôi đặc biệt chú ý một dấu phẩy hết sức tinh tế vì thế vô cùng cần thiết đặt sau chữ “đích” trong câu:

Ngã đích, ma thằng nhất đại đoan.
(Bài 46, Bang)

Cái dấu phẩy ngăn cách chủ ngữ với vị ngữ trong câu một cách hoàn toàn xác định, cái dấu phẩy mà nếu vắng nó câu có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Cái dấu phẩy mà ngữ pháp học và ngữ văn học Trung Quốc phải mất nhiều thế kỷ mới quy định và quy phạm hoá được.

Về thư pháp, điều dễ nhận thấy là văn bản được viết bằng một nét chữ rắn rỏi có cốt cách riêng. Phần bút ký đọc sách đọc báo tuy chỉ là những ghi chép vụn vặt cho riêng mình tuy viết chữ nhỏ hơn, nét chữ đá thảo nhưng cũng đều rõ ràng dễ đọc. Nghiên cứu kỹ nội dung các mục ghi chép này sẽ có thể làm rõ khu vực và trọng tâm chú ý của Hồ Chí Minh trước thời cuộc. Đó cũng là một vấn đề không kém phần lý thú và bổ ích nhưng có lẽ thuộc về một bài nghiên cứu khác.

CHÚ THÍCH

(1) Trần Tân Diên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Văn học (in lần thứ sáu) H. 1969 , trang 90-92

Ngoài các bản tiếng Việt, cuốn sách này ở Việt Nam hiện còn có bản dịch Trung văn, mang tiêu đề Hán là Hồ Chí Minh truyện (Tiểu sử Hồ Chí Minh) ghi tên tác giả bằng chữ tiếng Việt là Trần Dân Tiên, ghi tên người dịch bằng chữ Hán là Trương Niệm Thức, do Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành tại Thượng Hải, do công ty hữu hạn ấn loát Gia Hoa in lần thứ nhất vào tháng 6 – 1949 dưới thời Tưởng Giới Thạch. So với bản tiếng Việt, bản Trương Niệm Thức có nhiều đoạn “dôi”, chắc hẳn người dịch đã căn cứ vào một bản nguyên văn khác với các bản tiếng Việt đã biết.

(2) Princeton University Press, Princeton, N-J.1969

(3) Bài này không có trong các bản dịch của Viện Văn học. Báo Nhân dân đã công bó trên số ngày 13.5.1978 nhưng bài dịch có nhiều chỗ sai, cần dịch lại.

(5) Bài này trong văn bản chỉ có đầu đề. Có thể phỏng đoán khi bị giải đến Liễu Châu tác giả không bị giam vào nhà ngục Liễu Châu mà bị tạm giữ ở một nơi nào đó.

(4) (6) (7) (8) (9) (10) Các bài này chưa có trong các bản dịch trước đây. Tưởng công là Tưởng Giới Thạch. Lương Hoa Thịnh, tháng 5.1943 là trung tướng Cục trưởng Cục chính trị được thăng chức Phó tư lệnh Đệ tứ chiến khu, chức Cục trưởng trao lại cho thiếu tướng Hầu Chí Minh. Các nhân vật Quốc dân đảng này lúc đó đều mang tư cách đồng minh chống phát xít Nhật, trong đó Tưởng Giới Thạch là người đứng đầu Trung Hoa dân quốc, nước đồng minh lớn đông dân nhất, chống Nhật sớm nhất. Các bài thơ này trước đây chưa công bố. Chúng tôi cho rằng với quan điểm lịch sử, chúng ta không ngần ngại công bố các nội dung trên. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên cách nhìn như vậy, cách nhìn theo một quan điểm lịch sử, cũng rất biện chứng.

Tiểu Hầu – Hải (Bé Hầu tên Hải) có lẽ là con của Hầu Chí Minh, thiếu tướng Cục trưởng đã góp phần trả lại tự do cho đồng chí Hồ Chí Minh. Bài “Kết luận” viết: Hạnh ngộ anh minh Hầu chủ nhiệm, Như kim hựu thị tự do nhân Ngục trung nhật ký tòng kim chỉ, Thâm tạ Hầu công tái tạo ân.

Tạm dịch:

Nhờ Hầu chủ nhiệm sáng soi,
Nay ta lại được là người tự do.
Nay thôi “Nhật ký trong tù”
Hầu công tái tạo ơn sâu ghi lòng.

Tất cả các chữ số đặt trước đầu đề các bài thơ đều theo đúng số thứ tự do chính tác giả tập thơ ghi trong nguyên tắc.

Trong khi chờ một bản dịch mới công bố trọn vẹn tập thơ, chúng tôi cho rằng công bố số thứ tự và đề mục các bài thơ như trên là một cách giản tiện giúp bạn đọc hình dung được trình tự và vị trí vốn có của các bài trong cả tập.

TB

VỀ VĂN BẢN TẬP NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

HOÀNG VĂN LÂU

Năm 1960, vào dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tập Nhật ký trong tù lần đầu tiên được giới thiệu rộng rãi với bạn đọc(1). Tập thơ lập tức trở thành niềm say mê lâu bòn, thành nguồn sức mạnh tinh thần vô hạn đối với lớp lớp thế hệ người đọc.

Lời nói đầu tập thơ cho biết, Nhật ký trong tù là bản dịch tập Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vốn là “một cuốn sổ tay bìa xanh đã bạc màu. Trang đầu cuốn sổ ghi bốn chữ “Ngục trung nhật ký”, kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích. Phần ruột gồm 47 trang, ghi hơn 100 bài thơ và 14 trang ghi một số mục nhỏ có tính chất thời sự. Toàn bộ cuốn sổ viết bằng chữ Hán”.

Những dòng miêu tả văn bản trên đây đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu. Nhiều người đã tìm cách tiếp xúc với “cuốn sổ tay” kỳ diệu đó. Sau khi Nhật ký trong tù công bố, lẻ tẻ trên báo chí đã đăng tải thêm một đôi bài mới của tập Ngục trung nhật ký(2). Hai mươi ba năm sau lần xuất bản thứ nhất, năm 1983, trong lần xuất bản thứ ba, người ta đã công bố thêm một lúc tới 12 bài thơ nữa(3). Như vậy là, trong khi đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước nhờ bản dịch đã tiếp cận, khai thác kho tàng tư tưởng và nghệ thuật cao đẹp của tập thơ, thì những nhà văn bản, những nhà nghiên cứu cũng say sưa tìm hiểu văn bản của cuốn sổ tay lịch sử ấy. Nhiều người tìm cách có trong tay bản in ảnh hoặc bản photocopy tập Nhật ký, trân trọng phiên dịch và giới thiệu thêm số bài chưa công bố(4), đối chiếu văn bản, hiệu đính một đôi chỗ sai sót trên bản công bố...(5). Đã trở thành một nguyện vọng, một yêu cầu chung rất tha thiết, là: Mỗi độc giả có trong tay một bản dịch Ngục trung nhật ký đầy đủ, chính xác để cảm thụ một cách trọn vẹn, chính xác giá trị nhiều mặt của tác phẩm lớn ấy.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi xin giới thiệu một số kết quả bước đầu trong quá trình tìm hiểu văn bản và tình hình công bố tác phẩm Ngục trung nhật ký, góp thêm một chút ít tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này(6).

I. Giới thiệu văn bản:

Ngục trung nhật ký là một cuốn sổ tay nhỏ, kích thước 12,5 cm và 9,5 cm. Bìa sổ bằng cát tông, gáy vải màu đen. Do lâu ngày, chất keo dán hết tác dụng, hiện nay, gáy bìa, giấy bọc các tông, giấy lót bìa bên trong đều đã rời ra. Giấy bọc bìa màu xanh nhạt, đã bạc màu, không ghi dấu hiệu gì.

Phần trong của cuốn sổ gồm 82 tờ giấy dã, đóng bằng chỉ trắng kiểu học trò. Trong số 82 tờ này, có 64 tờ ghi chữ, 18 tờ còn để trắng. Trong số 64 tờ có ghi chữ, chỉ có 53 tờ được đánh số ở khoảng giữa phía trên đầu mặt thứ nhất của tờ giấy.

Mỗi tờ viết chữ một mặt, chữ Hán viết bằng mực tàu, bút lông, theo hàng dọc từ trên xuống, từ phải sang trái(7). Giấy màu hơi sẫm, còn tốt, mực còn đen.

Tờ đầu cuốn sổ không ghi số tờ ở phía trên, có ghi 4 chữ to từ trái sang phải: Ngục trung nhật ký. Dưới đó là hai hàng số:

29.8.1932 - 10.9.1933

Dưới hai hàng chữ số, chếch về bên trái là 4 câu thơ 5 chữ, viết hàng dọc từ phải sang trái. Phần còn lại của tờ đầu là hình vẽ hai tay bị xích nắm chặt giơ lên.

Từ tờ thứ 1 đến tờ 46 chép 131 bài thơ, phần lớn là thơ 7 chữ 4 câu, có ghi số thứ tự ở phía trên đầu đề bài thơ(8). Trong 131 bài thơ này, bài số 100 chỉ có đầu đề “Liễu Châu ngục” mà không có thơ(9).

Cuối tờ 46 có ghi: “Tục 53 diệp” (xem tiếp tờ 53).

Tờ 47, phía trên cùng, có ghi 3 chữ ngang, đọc từ trái sang phải: Độc thư lan (Mục đọc sách). Mục này ghi đến hết tờ 52.

Có một nét đáng chú ý là: cách ghi số tờ ở phần thơ (từ tờ thứ nhất đến tờ 46 và tờ 53) thì ghi con số ở giữa phía trên tờ giấy. Còn con số ghi số tờ ở mục đọc báo lại ghi ở góc trái phía trên cùng tờ giấy.

Tờ 53 ghi hai bài thơ số 132 Tức cảnh và bài số 133 Kết luận. Bài 133 cũng là bài thơ cuối cùng của cả tập Ngục trung nhật ký. Sau bài này, có hai dòng chữ số:

29.8.1942

10.9.1943

Dưới hai hàng chữ số là chữ “hoàn” (hết)

Từ tờ 53, không thấy đánh số tờ. Sau tờ 53 là 8 tờ để trắng. Tiếp đó là 10 tờ có ghi đề mục là Khán báo lan (Mục đọc báo), sau đã còn 10 tờ để trắng. Tất cả các phần ghi chép trên đây đều do chính tay Bác thực hiện, chứ không phải người đời sau thêm vào.

Cách bố trí ghi chép ở quyển sổ cho thấy:

1. Phần Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) gồm 133 bài thơ, trong đã 1 bài chỉ có đầu đề, không có thơ. Phần này được Bác sáng tác từ ngày vào ngục 29.8.1942 đến ngày ra ngục 10.9.1943(10).

2. Phần ghi chép, phần này có 2 môc: Mục đọc sách (Độc thư lan) và Mục đọc báo (Khán báo lan).

Mục đọc sách ghi tóm tắt một tài liệu mà Bác đã đọc, thấy ghi đầu đề là: Quân sự cơ bản thường thức (Những hiểu biết cơ bản về quân sự). Dưới đầu đề ấy, có dòng “ủy viên trưởng huấn từ” (Lời dạy của ủy viên trưởng).

Từ cách ghi, có thể hiểu là: Sách Quân sự cơ bản thường thức của ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch.

Bác có quyển ấy trong dịp nào?

Về “Lời dạy” của “ủy viên trưởng” ở phần Ngục trung nhật ký có bài thơ Độc Tưởng công huấn từ (Đọc huấn từ của Tưởng công) bài số 120:

Bách chiết bất hồi hướng tiền tiến,
Cô thần nghiệt tử nghĩa đương nhiên.
Quyết tâm khổ cán dữ ngạnh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên(11)

Đối chiếu với phần ghi chép ở mục đọc sách, ta thấy bài thơ dùng nhiều câu chữ của sách Quân sự cơ bản thường thức mà Bác đã ghi tóm tắt. Như mục đọc sách có đoạn: “khổ cán... bách chiết bất hồi, yếu thực cán, khoái cán, ngạnh cán”. (Gắng làm... gặp muôn vàn ngăn trở vẫn không lui, phải làm thực sự, làm nhanh, làm tới).

Phần thơ lại có bài Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư (bài số 127):

Khoảnh thừa chủ nhiệm tống thư lai,
Độc bãi tinh thần giác đốn khai.
Lãnh tụ vĩ ngôn như tại nhĩ,
Thiên nhiên oanh động nhất thanh lôi (12).

Bài thơ cho thấy Hầu Chí Minh tặng Bác một quyển sách, có Lời dạy của “lãnh tụ”. Chắc hẳn đây là quyển sách mà Bác đã tóm tắt ở mục đọc sách.

Bài thơ Độc Tưởng công huấn từ Bác làm ra khoảng từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1943; bài Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư sáng tác khoảng tháng 8 năm 1943(13). Từ đã có thể rút ra nhận xét:

Khoảng tháng 8 năm 1943, Hầu Chí Minh tặng Bác tập sách của Tưởng Giới Thạch, có thể có tên là Quân sự cơ bản thường thức. Nhưng trước đó, từ khoảng tháng 5 đến tháng 7 Bác được đọc tác phẩm đã và làm một bài thơ để ghi nhận sự kiện ấy.

Vậy Mục đọc sách được Bác thực hiện khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1943.

Mục đọc báo có 10 tờ. Tờ đầu tiên có ghi chép như sau:

10.2 Găng đi tuyệt thực.

...

Đầu tháng 2, quét sạch quân Đức ở Stalingrat. Quân Đức bị bắt gồm: 2 nguyên soái, 24 tướng lĩnh, 2500 sĩ quan cao cấp, 90.000 lính, 760 phi cơ, 15.000 xe tăng.

17.2 Chiến thắng Khác cốp. Tổng thèng Mỹ (tuyên bố) “mọi người rất hài lòng”. Nghị viện Anh hoan hô.

18. Tưởng phu nhân nói chuyện ở Nghị viện Mỹ. Tờ thứ 2 ghi. Cả nước Trung Quốc có 3736 nhà tù.

Nửa đầu năm ngoái bắt hơn 50.000 người.

Tiếp đó, phần nhiều là ghi chép tin chiến sự giữa phe đồng minh và phe trục, tin đảo chính ở ý 25-7, tin R.Rolannf mất... Có hai tờ ghi chép về Việt Nam gồm các môc: diện tích, biên giới, dân số, số người Pháp ở Việt Nam, các hiệp ước triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp số người Việt sang làm lính cho Pháp hồi chiến tranh Châu Âu, binh lực của Pháp ở Việt Nam, số chiến phí Việt Nam phải nộp cho Pháp năm 1929. Tờ cuối cùng là vài con số sản xuất máy bay và tàu chiến ở Nhật Bản và Mỹ.

Chiến dịch Stalingrat chấm dứt ngày 2 tháng 2 năm 1943. Có thể thấy: Mục đọc báo được Bác thực hiện từ khoảng tháng 2 năm 1943, khi Bác bị giam ở cục chính trị đệ tứ chiến khu. Thời gian này, Bác “được ưu đãi”, được đọc báo, sách. Chính Bác đã làm một bài thơ (bài thứ 100) ghi lại sự kiện đó:

Ăn đủ cơm rau, ngủ đủ chăn,
Lại còn tiền lẻ mua báo diêm.
Ông chủ nhiệm lương ưu đãi đó,
Lòng ta xúc động nói không nên(14).

Vậy quan hệ giữa phần Ngục trung nhật ký và phần ghi chép (gồm 2 mục đọc sách và đọc báo) ra sao?

Từ cách đánh số trang cho phần “Nhật ký” cách đánh số thứ tự cho từng bài thơ, cách ghi chép thận trọng phần 133 bài thơ, cho thấy phần chủ yếu ở cuốn sổ nằm ở 133 bài thơ “Nhật ký trong tù”, được sáng tác từ khi vào ngục cho đến lúc ra ngục.

Mục đọc sách và mục đọc báo được thực hiện sau khi có sự thay đổi đối xử của những người đứng đầu đệ tứ chiến khu với Bác từ tháng 2 năm 1943. Phần này dù chỉ là những “ghi chép” nhưng đã cho thấy sự nắm bắt thời cuộc, nắm bắt những tri thức mới của Bác nhanh nhậy biết nhường nào, nhất là trong hoàn cảnh tù đầy, yếu đau và bệnh tật.

II. Việc công bố Ngục trung nhật ký:

Năm 1960, Viện Văn học, tập hợp các nhà Hán học, nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu tiêu biểu, đã chọn dịch và công bố 113 bài thơ trong số 133 bài trong tập Ngục trung nhật ký của Bác. Các dịch giả và người biên tập có một thuận lợi lớn, một hạnh phúc lớn là tiến hành công việc khi Bác còn khoẻ, được thảo luận và nghiên cứu kỹ, được hướng dẫn của các đồng chí lãnh đạo gần Bác và nhất là được Bác ân cần chỉ bảo(15). Nên ngay từ lần xuất bản đầu tiên, bản dịch đã gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc và lâu bòn trong người đọc.

Năm 1983, trong lần xuất bản thứ ba, Nhật ký trong tù đã được chỉnh lý lại về mặt dịch thuật, dịch lại phần dịch nghĩa, chỉnh lý một số chữ, số câu trong phần dịch thơ, thay thế một vài bài thơ dịch. Mặt khác, lần này người xuất bản đã công bố 12 bài thơ nữa. Như vậy là, số bài thơ đã được công bố là 113 + 12 = 125 bài.

Đối chiếu với nguyên bản, thì còn 7 bài thơ sau đây chưa công bố:

1. Bài 10: Vẫn thoại(16)

2. Bài 26: Nạn hữu Mạc mỗ

3. Bài 120: Độc trương công Huấn

4. Bài 121: Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhiệm Phó tư lệnh.

5. Bài 122: Tặng tiểu Hầu (Hải)

6. Bài 127: Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư

7. Bài 133: Kết luận(17).

Về mặt văn bản: Những người dịch và biên tập làm việc trên bản chụp. Lần xuất bản thứ nhất có một ảnh chụp “Bút tích cuốn Ngục trung nhật ký” tờ (24), gồm 3 bài thơ Thụy bất trước. ức hữu, Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo. Có điều, tuy là bản chụp, nhưng lại không có các con số ghi thứ tự bài thơ ở phía trên đầu đề bài thơ. (đấy là các bài số 67, 68, 69).

Bản dịch năm 1983 cũng đã chú ý văn bản và đính chính được một chỗ sai của bản dịch năm 1960. Đó là trường hợp sửa chữa “đái” thành chữ “bạng” theo đúng nguyên tác của bài thơ thứ 129, bài Thu dạ. Nguyên văn câu thơ là: “Thiên thượng tàn vân bạng nguyệt phi”. Bản dịch năm 1960 ghi là “Thiên thượng tàn vân đái nguyệt phi”. Về phần mình, bản dịch năm 1983 cũng còn một số sơ xuất về chữ, có khi ảnh hưởng tới ý nghĩa của bài thơ.

Dưới đây là một số trường hợp chưa phù hợp giữa bản công bố và nguyên bản cần thảo luận.

1. Bài 17. Học dịch kỳ chữ thứ nhất, câu thứ nhất nguyên văn là “Bế” 閉 (Bế tọa vô liêu học dịch kỳ). Bản công bố ghi là “nhàn” 閑 (Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ)

Trong tù Bác hay nói đến chữ “Nhàn”

Ngục lý nhàn nhân, nhàn yếu mệnh (bài 59)

Cửu nhàn lưỡng cước nhuyễn như miên (bài 128)

Theo chúng tôi, bản công bố sửa “bế tọa” thành “nhàn tọa” là có lý.

2. Bài 36. Tự miễn câu cuối nguyên tác là:

Sử ngã tinh thần cánh khèn trương.

Không hiểu vì sao, cả ba lần xuất bản đều ghi thành:

Sử ngã tinh thần cánh kiện cường(18).

Trường hợp này, chúng tôi đề nghị khôi phục theo nguyên tác.

3. Bài 62. Hựu nhất cá, câu thứ 3.

Di Tề ngã tử Thú Dương sơn.

Chữ “thú” nguyên tác viết 字 bản công bố viết là 首

4. Bài 65 Hoàng hôn, câu thứ 3, nguyên văn là

Viễn tự chung thanh tồi khách bộ.

Các bản công bố đều viết là:

Viễn tự chung thanh thôi khách bộ.

“Thôi” 催 nghĩa là “giục”, “giục giã”. Bản công bố dịch là:

Chùa xa chuông giục người nhanh bước.

Còn “tồi” 摧 ý có nghĩa là nhụt chí, nản, buồn bã.

Khách đi xa, chiều tối, nghe tiếng chuông chùa dục dã bước nhanh, đã là thường tình. Nhưng người tù suốt ngày đi trong cảnh “gió sắc tựa gươm mài đá nui, rét như dùi nhọn trích cành cây” (hai câu đầu bài thơ). Chiều tối, lại không biết mình sẽ bị giải về đâu, chịu đựng địa ngục nhân gian nào nữa, thì nghe tiếng chuông chùa, bước chân chùn lại (tồi khách bộ) là tự nhiên. Theo tôi, câu này nên khôi phục lại chữ “tồi” theo đúng nguyên tác.

5. Bài 84: Ngục trung thiết ngã chi sỹ đích; Câu thứ nhất nguyên văn là:

Nhất sinh chính trực hựu kiên cường (19)

Bản công bố ghi là: Nhất sinh chính trực hựu kiên cường.

“Cương” là “cứng”, dùng để chỉ tính chất của cái gậy (sỹ đích) thì phù hợp hơn là “cường” có nghĩa là “mạnh”.

6. Bài 87-88 Ký Nê Lỗ. Bài này, bản công bố năm 1983 ghi sai 4 chỗ:

Hai câu đầu bài thứ nhất (bài thứ 87) nguyên văn là:

Ngã phên đấu thì quân hoạt động.
Quân nhập ngục thì ngã trú lung

Bản công bố năm 1983 ghi là:

Ngã phên đấu đích quân hoạt động,
Quân nhập ngò đích ngã trú lung.

Chữ “đích” ở đây không ổn cả về cú pháp và ý nghĩa.

Bài thứ hai Ký Nê Lỗ (bài 18) câu thứ 2, nguyên văn là:

Bất đồng đích thị sở tao phùng

Bản công bố ghi là:

Bất đồng đích thị thử tao phùng

“Thử” và “Sở” khác nhau xa về ý nghĩa.

Câu thứ 3 nguyên văn là:

Ngã cư hữu giả khuyên linh

Bản công bố ghi là:

Ngã cư hữu giả tù linh

Trong tiếng Hán hiện đại, có từ “khuyên linh”, không có từ “tù linh”(20).

7. Bài 93. Thiên Giang ngục, câu thứ nhất, nguyên văn là:

Lung ngoại lục thập cửu nhân áng

Bản công bố ghi là:

Lung ngoại lục thập cửu áng.

“Cá” và “nhân” không những khác nhau về ý nghĩa mà trong hoành cảnh câu thơ này, dùng hai chữ có hai cách hiểu trái ngược nhau:

Ngoài nhà giam 69 người (mới có) một chậu (theo nguyên văn)

Ngoài nhà giam có (tới) 69 cái chậu (theo bản công bố)(21).

8. Bài 114. Ngò khoa trưởng Hoàng khoa viên, câu thứ 2, nguyên văn là:

Lưỡng nhị kiến ngã thái khả liên

Bản công bố ghi là:

Lưỡng nhân kiến ngã thái khả liên

Lưỡng nhị 兩二 ...... ở nguyên tác chúng tôi chưa rõ nghĩa, nên chấp nhận cách ghi “lưỡng nhân” 兩 人 ...... của bản công bố.

9. Bài 116. Dương đào bệnh trọng, câu thứ 2, nguyên văn là:

Thành hỏa trì ngư kham hạo thán

Bản công bố ghi là:

Thành hỏa ngư trì kham hạo thán.

“Thành hỏa trì ngư” vốn xuất phát từ một thành ngữ Hán:

“Thành trung thất hỏa, ương cập trì ngư” tương đương với thành ngữ Việt “Cháy thành vạ lây”. “Trì ngư” viết thành “ngư trì” là do sơ xuất khi ghi chép.

Về mặt dịch thuật: Bản dịch Nhật ký trong tù năm 1960 là một thành công lớn và có sức hấp dẫn lâu bền. Hơn hai chục năm sau đó, tới lần xuất bản thứ 3, năm 1983, trên cơ sở góp ý của đông đảo độc giả, người xuất bản cũng chỉ dịch lại có 4 bài, sửa chữa thêm 40 bài. Bản 1983 đã thừa kế những ưu điểm vốn là cơ bản của bản dịch cũ, tiếp thu sự đóng góp của bạn đọc, truyền đạt trung thành hơn nội dung và phong cách của nguyên tác. Nói như thế không có nghĩa là bản dịch năm 1983 đã hoàn thiện hoàn mỹ. Theo chúng tôi, vấn đề dịch thơ Bác sao cho đúng cho hay vẫn còn là vấn đề bức xúc. Với ý nghĩa ấy, chúng tôi cũng xin góp một đôi điều sau đây:

Dịch nghĩa: xưa nay ít người bàn đến mục “dịch nghĩa”, có lẽ, khi thưởng thức thơ, độc giả muốn tiếp xúc ngay với thơ - thơ dịch. Chỉ khi nào gặp chỗ khó hiểu mới tìm đọc đến phần dịch nghĩa. Nhưng dịch thơ, do hạn chế về số chữ, về vần thơ, nên nhiều lúc để đạt được mục đích này, đôi khi phải “hy sinh” một ý kia. Phần dịch nghĩa sở dĩ phải có là do thế. Cũng vì vậy yêu cầu của phần dịch nghĩa là: dịch cho đúng cho sáng rõ ý nghĩa của từng từ trong hoàn cảnh câu thơ, bài thơ; diễn đạt cho chính xác, rõ ràng từng nhóm từ, từng câu phù hợp với qui phạm tiếng Việt hiện đại, làm sáng rõ quan hệ giữa các từ, các nhóm từ, và các câu trong bài thơ.

Chẳng hạn: “nhân vị” trong câu “Nhân vị tù trung vô sở vi” là liên từ tiếng Hán hiện đại, chỉ nguyên nhân, tương đương với từ “vì” trong tiếng Việt. Dịch là “Nhân vì” (trong ngục không có gì làm) là lý giải theo nghĩa cổ(22).

Bài Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu có câu:

Bả nhân danh dù bạch hy sinh.

“Nhân” đúng là có một nghĩa là “người”. Nhưng nếu dịch như bản 1983 (tr.28): “Không dưng làm mất danh dù của người” thì lại thấy... mông lung. Vì sao? Vì chữ “nhân” ở đây không phải chỉ người chung chung, mà chỉ bản thân người tù tác giả. Vì thế, tốt hơn là trở lại với câu dịch của bản năm 1960: “Không dưng làm mất danh dù của người ta”.

Câu thứ 3, bài Nhập Tĩnh Tây huyện ngục.

“Tình vũ phù vân phi khứ liễu” mà dịch thành “Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết” (tr.30) e không ổn vì ta nói “mây trôi” chứ không nói “mây nổi”, thứ nữa “Tình vũ phù vân” là “mây tạnh và mây mưa” chứ không có hàm ý “mấy đám” (Đám mây thì sao tạo thành mưa!).

Câu thứ nhất, bài Thế lộ nan II

Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân

Khi dịch thơ, có thể chấp nhận kiểu dịch như:

Ta là đại biểu dân Việt Nam (tr.36).

Nhưng khi “dịch nghĩa” mà dịch là ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam” (tr.34) cũng chưa thực chính xác vì tiếng Hán “Đại biểu Việt Nam dân” là một kết cấu động bổ. Nghĩa là: “Thay mặt (cho) nhân dân Việt Nam”. Còn để diễn đạt ý “Đại biểu của dân Việt Nam” thì tiếng Hán phải nói:

“Việt Nam dân (đích) đại biểu”. Ngay từ Hán cổ cũng không thay đổi được trật tự này.

Câu 3, bài Trung thu:

“Gia lý đoàn viên ngật thu tiết”.

dịch thành: Nhà ai sum họp ăn tết trung thu (tr.67). “Gia lý” sao lại dịch thành “nhà ai”. Nên nhớ là tác giả qua tết trung thu trong tù, luôn nghĩ là người “ở nhà” sẽ không quên mình nuốt sầu trong ngục, chứ không phải là làm thay cho “ai”, nghĩ thay cho “nhà ai”. Câu này nên dịch là:

“Ở nhà, mọi người sum họp ăn tết trung thu”.

Câu “Có đi đường mới biết đi đường khó (tr.78) (dịch từ câu Tẩu lộ lài tri tẩu lộ nan) nên thêm một hai chữ cho rõ (Có đi đường mới biết nỗi gian nan của đi đường).

Câu “cùng là bạn Trung Hoa” (tr.91) (dịch từ câu Đồng thị Trung Quốc hữu ) nên thêm chữ “của”. Cùng là bạn của Trung Quốc. Vì người Trung Hoa ta cũng có thể nói là bạn Trung Hoa, người Liên Xô ta cũng có thể nói là bạn Liên Xô.

Bài Lạc liễu nhất chích nha có 2 câu:

Nhĩ đích tâm tình ngạnh thả cương
Bất như lão thiệt nhuyễn nhu trường.

Dịch là: Tính tình anh (răng) rắn rỏi kiên cường.

Chẳng mềm và dài như lão lưỡi.

Sao không dịch là “tính anh rắn cứng, không mềm dài như lão lưỡi” vừa đúng tính chất của cái răng, lại vừa đăng đối với tính chất (mềm dài) của cái lưỡi.

Bài Ức hữu có câu:

Tích quân tống ngã chí giang tân
Vấn ngã qui kỳ chỉ cốc tân

Dịch là:

Ngày nào anh tiễn tôi đến bên sông
Hỏi tôi ngày về, trỏ mùa lúa mới!
(tr.158)

Chủ từ của “trỏ” là ai?

“Trỏ mùa lúa mới” nghĩa là gì? Lúa mới đã có chưa mà trỏ? Quan hệ giữa câu hỏi: “Hỏi ngày trở về?” với “trỏ mùa lúa mới” là gì? Theo chúng tôi, chữ “chỉ” trong câu thơ này không có nghĩa cụ thể là “chỉ trỏ” mà có nghĩa là “bảo cho biết”, “chỉ cho rõ”, câu này nên dịch là:

Ngày đi, bạn tiễn tôi đến bên sông. Bạn hỏi tôi ngày nào trở về, tôi hẹn là đến mùa lúa mới.

Về dịch thơ: Đã 30 năm từ khi tập Nhật ký trong tù công bố, những bài thơ dịch thuở ấy đã đi vào lòng người, nhiều bài đã ngân vang âm hưởng trong lòng bạn đọc, trở thành một phần tài sản tinh thần đối với không ít độc giả. Điều ấy cho thấy sức hấp dẫn lâu bòn của thơ dịch. Lần công bố năm 1983 đã thay 4 bài thơ dịch, sửa lại 40 chỗ cũng là một việc làm thận trọng. Dịch thơ vừa là vấn đề của nhận thức, vừa là cảm thụ. Thưởng thức thơ dịch cũng thế. Vì vậy, không có gì là lạ khi cùng một bài thơ dịch, mà người thì khen, người thì chê... Xuất phát từ quan điểm này, chúng tôi cũng xin được “nối điệu” cho vài vần thơ dịch...

Ai cũng nói là khi dịch thơ, phải đánh giá toàn cục, từ âm hưởng bài thơ, tứ thơ, đến câu chữ, không nên bắt bẻ kiểu “chẻ sợi tóc làm tư” từng chữ từng từ. Nhưng có khi cũng vì một chữ mà nên dịch lại cả bài thơ. Như bài thơ Chiều hôm (Vãn), sau đây:

Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm

Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.

Chữ “trầm trầm” khó hiểu, không hiểu để hình dung âm thanh, hay sắc trời. thường nói “điệu trầm trầm”, “tiếng trầm trầm”. Còn “bóng đã xuống trầm trầm” thì ra sao? Nguyên văn câu đã là: Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm “trầm” có nghĩa là “lặn, chìm”. Cả câu nghĩa là “Ăn cơm chiều xong, mặt trời lặn về phía tây”. Theo chúng tôi, bài này nên dịch lại, dù chỉ có chữ “trầm trầm” khó hiểu(23)

Cũng vậy, một chữ “trời” trong bài thơ Nhà ngục Nam Ninh dưới đây cũng đáng sửa:

Nhà lao xây dùng rất tân thời
Đèn điện thâu đêm sáng rực trời
Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo
Cho nên cái bụng cứ rên hoài (tr.138)

Đèn điện... sáng rực trời là một hình ảnh thơ ! Nhưng chữ “trời” dùng ở đây lại không thỏa đáng. ở trong tù, Bác chỉ được nhìn “trời” trong trường hợp “tù cũ đón tù mới”, trường hợp đổi không khí, trường hợp bị giải đi.. Để được nhìn trời, người tù thậm chí còn mong cả đến giờ phút báo động máy bay Nhật ném bom ! Người tù có thể nào thâu đêm thưởng thức cảnh đèn điện... sáng rực trời ! Nguyên văn câu thơ này là:

Giám phòng kiến trúc đính ma đăng
Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng.

(Nhà lao xây dùng rất môdec, suốt đêm đèn điện sáng rực)(24)

Bài Giữa đường, đáp thuyền đi huyện Ung có câu:

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh (tr.136)

Đây là cảnh Bác quan sát được trên sông, trong một tư thế thực khác thường: chân bị treo lên dàn thuyền như tội giảo hình.

Nguyên văn câu chữ Hán là:

Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

(Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lưới nhẹ)

Câu thơ dịch đã thêm vào động tác “rẽ sóng” và từ “thênh thênh”

Thuyền câu ông chài đi kiếm ăn, nhẹ để trườn lên sóng, “rẽ sóng” e mạnh quá. “Nhẹ thênh thênh” có vẻ thanh thản quá, phù hợp với ông ngư ông tiều “ở ẩn” xưa kia, chứ không phải là con thuyền câu kiếm ăn của người lao động hiện tại(25).

Ngục trung nhật ký là một tập thơ lớn là nguồn sức mạnh tinh thần bất diệt, là niềm say mê lâu bòn sâu sắc đối với lớp lớp thế hệ độc giả. Tìm hiểu căn bản tập Ngục trung nhật ký, chân xác hóa đến từng chữ, từng dấu chấm dấu phẩy mỗi bài thơ, dịch cho sát, cho đúng, cho hay từng bài thơ, đã là mơ ước, là nguyện vọng, là quyết tâm của các nhà nghiên cứu, phiên dịch, biên tập và xuất bản thơ Bác. Một đôi điều nông cạn trên đây cũng là một biểu hiện nguyện vọng đóng góp vào công việc chung của người viết bài này.

CHÚ THÍCH

1. Nhật ký trong tù, Nxb. Văn hóa, H. 1960.

2. Báo Nhân dân số ngày 13 tháng 5 năm 1978, đã công bố bài Vấn thoại, bài thơ thứ 10 trong tập Ngục trung nhật ký.

3. Nhật ký trong tù in lần thứ 3. Viện Văn học dịch, chỉnh lý bổ sung. Nxb. Văn học, H. 1983.

4. Ví dụ: Trên báo Nhân dân số tết xuân Canh Ngọ, Giáo sư Phan Văn Các đã dịch và công bố bài Kết luận, bài thơ thứ 133 trong tập Ngục trung nhật ký.

5. Xem Nguyễn Thị Hà: “Về văn bản bài thơ Gửi Nê Ru trong tập Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu Hán Nôm số 1, 1986.

6. Trong khi nghiên cứu văn bản, chúng tôi đã được đồng chí Mai Hùng, Giám đốc Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam cho phép tiếp xúc trực tiếp với văn bản tập Ngục trung nhật ký của Bác, nhân đây chúng tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn.

7. Bài 86 có ba chữ Oa, hình dung tiếng trẻ khóc. Viết bằng chữ Việt, Mục đọc báo (Khán báo lan) có một số chữ ghi bằng chữ Pháp. Ngày, tháng, năm phần nhiều ghi bằng chữ số Arập.

8. Đầu đề nào có nhiều bài, thì bài thứ hai ghi chữ “nhị” bài thứ ba ghi chữ “tam”, số thứ tự chung ghi trên chữ “nhị” hoặc chữ “tam”.

9 và 10. Về tên gọi bài thơ và thời gian sáng tác từng bài thơ, xin xem bài Ngục trung nhật ký, Nghiên cứu văn bản học của Giáo sư Phan Văn Các đăng trong số này.

11 và 12. Xem bài dịch ở phần dịch thơ Bác.

13. Về thời điểm sáng tác từng bài thơ chúng tôi căn cứ theo kết quả khảo sát của giáo sư Phan Văn Các, xem bài đã dẫn.

14. Nguyên văn bài thơ: Mông ưu đãi

Ngật câu phạn thái thụy câu chiên,
Hựu cấp linh tiền mại báo yên.
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã,
Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn.

“Ông chủ nhiệm Lương” là Lưng Hoa Thịnh, lúc ấy là chủ nhiệm cục chính trị Đệ tứ chiến khu.

15. Ví dụ, hai hàng chữ số 29.8.1932 ghi 10.9.1933

Ở tờ đầu (tờ này không đánh số), hồi hiệu đính bản dịch tập Ngục trung nhật ký (1959 - 1960), Giáo sư Đặng Thai Mai hồi ấy là Viện trưởng Viện Văn học đã đề đạt lên Bác câu hỏi về hai con số 1932 và 1933. Bác đã trả lời là Hai con số ấy là sai. Đúng ra là 1942 và 1943 (xem Nghiên cứu, học tập thơ văn Hồ Chí Minh. Nxb KHXH, H. 1979, tr. 154.

16 và 17. Hai bài này đã công bố trên báo Nhân dân. Xem chú thích 2 và 4.

18. Bài này chúng tôi có dịch lại, xem phần thơ dịch.

19. Câu nguyên văn dịch là: Suốt đời ngay thẳng và cứng rắn. Bản công bố năm 1983 dịch là: Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường (tr.190).

20 và 21. Bài Ký Nê Lỗ (gồm hai bài) và bài Thiên Giang ngục chúng tôi có dịch ở phần thơ dịch.

22. Câu thứ 2 trong bài Khai quyển, phần dịch nghĩa, tr.26, Nhật ký trong tù, bản 1983. Từ đây, để tránh lặp lại, chúng tôi đặt số trang 10 trong ngoặc đơn, dưới câu dịch, thay cho chú thích.

23. Dưới đây xin phép đưa ra một cách dịch:

Cơm xong vừa lặn mặt trời,
Câu ca điệu nhạc nơi nơi rộn ràng.
Tĩnh Tây u ám phòng giam,
Bỗng thành nhạc quán hàn lâm xứ này.

24. Xin phép đưa ra một cách dịch:

Nhà lao xây dùng rất “mô đen”,
Có điện thâu đêm rực ánh đèn.
Chỉ bởi bữa ăn toàn có cháo,
Cho nên cái bụng cứ run lên.

25. Xin phép đưa ra một cách dịch:

Đáp thuyền xuôi xuống U Ninh,
Chân treo ngược tựa giảo hình khác chi.
Ven sông làng xóm đông vui,
Bác chài thả nhẹ thuyền câu giữa dòng.

TB

BÀN THÊM VỀ MẤY BÀI DỊCH
THƠ BÁC HỒ

TRẦN BÁ CHÍ

Trong những ngày chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Bác 19/5/1890 – 19/5/1990), tôi có dịp đọc kỹ hơn một số tác phẩm của Bác để hiểu biết thêm và học tập Bác. Riêng về phần thơ chữ Hán của Bác đã được dịch ra tiếng Việt, nói chung đã làm thoả mãn người đọc, chứng tỏ người dịch đã tốn công phu, lựa chọn từng câu, từng chữ để lột tả đúng những cảm xúc những suy tư của Bác. Tuy nhiên, cũng còn một ít bài dịch thơ tứ tuyệt của Bác, tôi nghĩ cũng nên trao đổi ý kiến thêm và dịch bổ sung một số bài theo đúng thể tứ tuyệt của nguyên tác. Có như thế thì việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ Bác càng được khơi sâu và số bài dịch càng phong phú để chọn những bài hoàn thiện nhất.

Trước hết, tôi xin mạo muội bàn đến bài thơ Nguyên tiêu nguyệt của Bác. Đây là một bài thơ hay đã được đồng chí Xuân Thuỷ dịch, in ở nhiều sách, kể cả sách ôn thi đại học và sách giáo khoa phổ thông, với tên bài thơ là Rằm tháng Giêng và dịch chuyển thể sang bốn câu thể lục bát (sáu tám). Đây là một bài dịch hay, đặc sắc nhất là câu cuối:

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Một câu cuối kết thúc rất đẹp, gói ghém đầy đủ mọi hình tượng và ý tứ của Bác. Lời thơ lại mượt mà, óng chuốt, nhịp điệu nhẹ nhàng, có sức gợi cảm mạnh đối với người đọc. Do vậy mà cho đến nay nhiều em học sinh phổ thông đã thuộc bài thơ dịch này. Đến lớp độ tuổi cao như tôi đọc bài thơ tiếng Việt này cũng thích thú, cũng rất kính phục người dịch và đã có chép, cố nhớ.

Tuy vậy, nay đem bản dịch này đối chiếu với nguyên tác chữ Hán của Bác thì thấy vẫn còn một số vấn đề cần được trao đổi ý kiến thêm. Trước hết nói về tên bài thơ là Nguyên tiêu nguyệt mà dịch là “Rằm tháng Giêng” thì thật chưa ổn. Trong ba chữ của tên bài thơ, thì chữ nguyệt nhãn tự của đề thơ và của cả bài thơ. Cho nên chữ nguyệt là thần của bài thơ, là chữ tiêu biểu, tổng hợp cho mọi tứ thơ và là hình tượng được khái quát cao, bao trùm rộng cả bài thơ. Vậy thì tên bài thơ phải có chữ trăng tức là nguyệt. Tôi nghĩ nếu để tên bài thơ là Rằm tháng Giêng thì cũng chỉ nêu lên được ý nghĩa của hai chữ nguyên tiêu, còn chữ “nguyệt” giữ vị trí rất quan trọng lại chưa được đề cập đến. Do tiêu đề thiếu chữ nguyệt (trăng), mà đọc tên bài thơ này của Bác, nghe thiếu cái hay cái đẹp, cái ý thơ bao quát nhất, chủ đạo nhất. Ba chữ Rằng tháng Giêng ấn tượng nặng về mặt thời gian. Còn bốn chữ Trăng rằm tháng Giêng, thì ấn tượng thời gian như tự chìm xuống, mà nó lại nổi lên một không gian đẹp đẽ nên thơ. Cái không gian trăng tròn lồng lộng, toả sáng cảnh giang sơn gấm vóc bằng những con sông dòng nước đang xuân. Cái không gian ấy mới đích thực là đối tượng cảm nhận của Bác Hồ khi Bác sáng tác bài thơ này. Bài thơ được ghi khi nhà thơ đang suốt ngày đêm lo lắng cho công cuộc kháng chiến cứu nước, đất nước còn đầy thảm hoạ chiến tranh khao khát một cảnh đất nước khôi phục hoà bình. Do bối cảnh ấy và khát vọng ấy, cho nên khi gặp cảnh: trăng tròn đầy đặn toả sáng, sông nước đang xuân thì tâm hồn nhà thơ rung cảm mạnh, hưng phấn cao, đã sáng tác ra bài thơ bất hủ, tuyệt tác. Phải nói đây là một bài thơ chữ Hán cực hay của Bác: lời thơ hay, ý thơ phong phú, hình tượng được sàng lọc đẹp, tư tưởng yêu nước được đề cao và âm điệu thể loại đều chuẩn mực, vì bài này là kiểu thơ bốn câu ba vần của thể tứ tuyệt.

Xét trong ba chữ Hán “nguyên tiêu nguyệt”, thì nguyên tiêu chỉ đóng vai trò phụ, có tính chất chỉ định thời gian (thời gian để trăng tròn, mà chữ nguyệt mới giữ vai trò chủ đạo, có tính chất tiêu biểu, xuyên suốt. Bởi vậy theo tôi nên dịch lại tên bài thơ này là Trăng rằm tháng Giêng mới đúng tư duy và tình cảm của Bác trong bài thơ này.

Đến lượt đọc bài thơ, câu đầu của bài thơ là Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên. Trong bảy chữ của câu này, thì hai chữ chính viên là nhãn tự, mà dịch là Rằm xuân lồng lộng trăng soi cũng chưa thật thoả đáng lắm, mặc dầu trước chữ trăng soi đã có chữ Rằm nhưng tính từ rằm đến trăng soi bị gián cách đến mấy chữ, đọc nghe chưa thể tỏ rõ được ý trăng tròn. Mà ý chính ở đây là trăng tròn (chính viên) đầy đặn sáng đủ. Hình tượng trăng tròn (chính viên) đặt ở câu đầu bài thơ là rất quan trọng, nó hiện lên một không gian vũ trụ tuyệt vời, một cảnh đất nước xinh đẹp gấm vóc biết bao, một dải sông nước xuân biết bao. Đó là đối tượng thân thương, là niềm tự hào, trìu mến, là viễn cảnh cho những gì mất mát của tâm hồn nhà thơ, nhà yêu nước đang chứa đầy hy vọng cứu nước, khôi phục đất nước trọn vẹn như ánh trăng tròn (nguyệt chính viên).

Đến câu thứ ba của bài thơ Bác là: Yên ba thâm xứ đàm quân sự, được dịch là: Giữa dòng bàn bạc việc quân tuy cũng đã hay, nhưng rất tiếc còn thiếu ý của hai chữ thâm xứ rất quan trọng trong câu thơ Bác. Hai chữ thâm xứ đây muốn nói lên hoàn cảnh qua lại họp hành khó khăn gian khổ của Bác trong những ngày hoạt động bí mật dể lãnh đạo kháng chiến. Bởi vậy, tôi nghĩ câu này nên bám sát nguyên văn chữ Hán, không nên dịch thoát và nên dịch theo đúng nguyên thể bốn câu bảy chữ, như bài thơ kiểu tứ tuyệt bốn câu ba vần của Bác.

Về việc dịch bổ sung, trước đây giáo sư Hoàng Xuân Nhị trong Tìm hiểu thơ Hồ Chủ Tịch (tái bản năm 1970) không bàn đến tên bài thơ nhưng đã dịch lại bài thơ này như sau:

Nay rằm xuân, trăng tròn vằng vặc,
Sông xuân, nước xuân nối trời xuân.
Chốn cùng sóng khói bàn quân sự,
Nửa đêm về thuyền đầy trăng ngàn.

Nay tôi cũng xin dịch thêm một bài theo nguyên thể và đổi cả tên bài thơ cho thích hợp:

TRĂNG RẰM THÁNG GIÊNG
Rằm đến: tròn xinh mặt chị hằng.
Mầu xuân sông nước lẫn trời quang;
Ra chốn xa sâu bàn việc nước,
Khuya về, thuyền nhẹ chở đầy trăng.

*
**

Về phần thơ Bác trong Nhật ký trong tù, trước hết, tôi xin nêu vài ý về bài thơ Tẩu lộ: Đi đường. Qua bài Tẩu lộ Bác đã tâm sự với chúng ta nỗi gian lao, vất vả, nhưng đầy lạc quan cách mạng của Bác trên bước đường và trong quá trình hoạt động bí mật.

Cái mới ở chỗ Bác không muốn dùng lại cái tên hành lộ hay hành lộ nan mà các nhà thơ xưa đã sử dụng qua nhiều.

Về bài này, các bản dịch cũ đã dịch chuyển thể sang lục bát (sáu tám) như sau:

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Nay tôi xin dịch thêm một bài theo nguyên thể tứ tuyệt

Đường khó có đi mới biết khôn,
Núi giăng lớp lớp trải bao hòn.
Trèo lên tận đỉnh trên cao tít,
Đưa mắt thu hình cả nước non.

*
**

Đến bài thơ Tự miễn (tự khuyên mình) trong Nhật ký trong tù. Hai câu đầu của bài này, Bác viết: Một hữu đông tàn tiều tuỵ cảnh, tương vô xuân noãn đích huy hoàng. Hai cảnh tự nhiên tương phản trong hai câu thơ này khác biệt nhau, đối địch nhau: hàn (rét lạnh) trái với noãn (nắng ẩm), tiều tuỵ của cái rét mùa đông tương phản với huy hoàng của cảnh ấm áp mùa xuân. Nhưng cái hoang tàn của cảnh trước tất yếu thành tiền đề cho cảnh sau kế tục thay thế theo quy luật, ngược lại cảnh sau kế tục cảnh trước, lấy cảnh trước làm điều kiện cho cảnh sau phát triển mạnh hơn.

Bác sử dụng cảnh tự nhiên tương phản của hai câu trên để liên hệ, so sánh với hai hiện tượng xã hội tương phản của hai câu dưới. Tương phản ở đây là cái tai hoạ của cảnh tù đày thực tế đã bóp chết, đã đập tan vỡ cảnh sống hạnh phúc của người tự do. Nhưng trong số người mất hạnh phúc tự do đó, Bác đã là người có chí phấn đấu kiên cường, có lòng yêu nước nồng nàn, có mục đích cách mạng sáng ngời, nên Bác đã lợi dụng sự rủi ro, tai hoạ đó làm điều kiện cho mình khắc sâu căm thù, rèn luyện ý chí đấu tranh, hun đúc tinh thần cách mạng. Sự so sánh đó đã là giá trị nghệ thuật cao của bài thơ này, cộng với những ý thơ sâu sắc, thâm thuý làm tăng thêm giá trị tư tưởng của bài thơ đậm đà chất thép như Bác nói.

Việc dịch bài thơ này, các bản cũ dịch chuyển thể lục bát:

Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng mùa xuân.
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Nay tôi xin dịch một bài bổ sung theo nguyên thể:

Hết vẻ tiêu điều, giá tuyết tan,
Mới sang xuân ấm, cảnh huy hoàng.
Ta quen thử thách trong tai hoạ,
Luyện được tinh thần cứng cỏi hơn.

*
**

Đến bài Lộ thượng: Trên đường đi.

Tên bài thơ này, Bác ghi là Lộ thượng và cuối bài Bác cũng ghi hai chữ chinh đồ, rõ ràng Bác đang bị giải đi. Chuyến đi này là đi từ nhà lao Quả Đức, qua đất Long An đến nhà lao Đồng Chính. Sau khi qua đất Long An, Bác mới viết bài thơ này trên đường đi. Nguồn cảm xúc nên thơ đối với Bác trên đoạn đường quạnh hưu này là đoạn qua một cánh rừng đẹp, mọi cảnh sắc đều nên thơ, đâu cũng hoa chào chim hót. Đây là khoảng không gian, thời gian Bác tự do nghe ngắm, thưởng thức được nhiều điều thú vị, mặc dầu chân tay Bác bị xiềng xích, vẫn còn những bộ phận tự do: mắt ngắm hoa, tai nghe chim hót, tim rung cảm, óc nghĩ ra thơ... suy rộng ra là những phần cơ bản tạo nên tư tưởng yêu nước, rèn đúc nên ý chí cứu nước, thì kẻ thù chưa thể quản chế được, cấm đoán được. Cái ý thâm thuý, sâu xa, đầy niềm tin và hy vọng của Bác trong bài thơ này là ở chi tiết đó, ở khía cạnh đó. Do vậy, trong bài thơ này hai chữ tự do là nhãn tự là thần của cả bài thơ, bản dịch cũ bỏ sót ý chính này của Bác là một điều đáng tiếc.

Cuộc đời Bác Hồ bao nhiêu năm bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước cũng chỉ vì hai chữ tự do. Trong tập Nhật ký trong tù đã có tới 12 bài nhắc đến tự do và đến ngày cuối đời Bác, Bác lại đúc kết một câu chân lý bất hủ, chẳng những nêu cao giá trị của tự do mà còn vạch rõ cho ta mục đích và cứu cánh của hoạt động cách mạng là “không có gì quí hơn độc lập tự do”. Cho nên Tự do là điều cực kỳ thiêng liêng đối với Bác, phải triệt để tôn trọng ý kiến đó trong khi dịch thơ Bác. So với những yêu cầu này trong nguyên tác bài thơ Bác ta thấy bài dịch cũ, dù chuyển thể lục bát, hy vọng dịch hết ý cũng vẫn chưa đạt. Vậy xin bàn thêm từng câu của bài dịch cũ.

Câu thứ nhất, bản cũ dịch: Mặc dù bị trói chân tay. Dịch sang tiếng Việt như vậy là chưa ổn, vì động từ trói trong tiếng Việt hàm ý tĩnh tại bất động, người đọc khó tưởng tượng được con người Bác trên đường đi như thế nào. Nhất là các em nhỏ thì thắc mắc: Bác bị trói tay trói chân, mà “trói tay chân đến ngặt nghèo” thì đi sao được. Nguyên nhân gây ra sự thắc mắc này, là người dịch quá máy móc cứng nhắc vào hai chữ khẩn bang trong thơ Bác. Theo nghĩa chữ Hán, ai cũng hiểu khẩn chặt, bang trói, nhưng khi diễn tả động tác Bác đang bị giải đi mà dịch ra tiếng Việt là trói, thì ai cũng nghĩ Bác không thể đi được, phải ngồi yên một chỗ. Tôi nghĩ chữ bang học xưa kia dùng cho loại hình thời cổ để cùm chân trói tay, khác hẳn các hình cụ thời Tưởng Giới Thạch dùng để áp giải Bác bằng xiềng sắt. Xiềng là vòng tròn bằng sắt làm theo kiểu khoá càng cua, khi cần thì buộc giây xích vào. Xích là đoạn giây bằng sắt có nhiều mắt, dùng móc vào vòng xiềng để trói chặt hoặc để dắt đi tuỳ ý. Xiềng và xích trong tiếng Việt gợi lên hình ảnh giải đi, dắt nhiều hơn. Có lẽ nó là từ biến âm từ thằng sách thời cổ chăng.

Thời cổ dùng giây nhỏ buộc dắt ngựa nhỏ gọi là thằng dùng giây lớn buộc dắt ngựa lớn gọi là sách. Vậy theo tôi chữ khẩn bang dịch sang tiếng Việt là xiềng xích có lẽ thích hợp hơn là trói.

Câu thứ ba, nguyên tác của Bác là Tự do lãm thưởng vô nhân cấm. Nhãn tự của câu này và cả bài thơ là tự do lãm thưởng, trong đó hai chữ tự do là cơ bản. Vậy mà dịch ra tiếng Việt lại là Vui say ai cấm ta dừng, thì câu thơ đã bị đẽo gọt mất nhiều ý hay. Có thể nói hai chữ vui say, kể cả nội hàm ngoại diên ngữ nghĩa của nó, cũng không thể thay thế cho cụm từ tự do lãm thưởng được. Đặc biệt tự do lại là một phạm trù chính trị tư tưởng, chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa. Bỏ qua ý nghĩa cụm từ cơ bản cũng là bỏ qua cái thần của cả bài thơ. Cũng do vậy, tôi nghĩ nên có thêm nhiều bản dịch bổ sung. Riêng phần tôi, tôi cũng xin bổ sung một bài dịch theo nguyên thể của Bác.

Trên đường đi
Dẫu bị xiềng chân, bị xích tay,
Đầy rừng chim hót, nhuỵ hương bay,
Tự do thưởng ngoạn nào ai cấm,
Bớt nỗi thê lương những dặm dài
.

Gần cuối cuốn Nhật ký trong tù, đến bài Đáo Quế Lâm, tôi cũng có mấy ý kiến về bài thơ dịch. Mở đầu bài thơ, Bác viết: Quế Lâm vô quế diệc vô tâm: Đến Quế Lâm mà chẳng thấy Quế, thấy Lâm (rừng). Câu đầu này Bác dựng lên một nghịch cảnh có phần dí dỏm khôi hài như vậy, nhằm đưa vào nhận thức của người đọc một giới hạn không gian đầy bất hạnh, đen tối với cuộc đời tù nhân của Bác. Giới hạn không gian đó là cảnh nhà lao Quế Lâm, chứ không phải là quận Quế Lâm hay huyện Quế Lâm, cho nên ở quanh nhà lao chật hẹp này không có rừng không có quế mặc dầu trong thực tế địa lý, huyện Quế Lâm thời Trung Hoa dân quốc, chiếm phần lớn vùng đông bắc tỉnh Quảng Tây có rất nhiều rừng quế và các lâm sản khác. Như vậy, địa danh Quế Lâm trong bài thơ này của Bác chỉ là một vùng nhỏ hẹp chung quanh nhà lao.

Bởi vậy, tôi nghĩ ta dịch bài này, phải hiểu được cảnh trí sông núi, đêm ngày Bác nói chỉ ở trong một khoảng không gian nhỏ hẹp mà thôi. Có như thế mới nắm được đặc điểm vùng nhà lao và nắm được thần của bài thơ để dịch sang tiếng Việt cho sát.

Bản in Nhật ký trong tù trước đây đã dịch bài này như sau:

Quế Lâm không quế, không rừng,
Sông sâu thăm thẳm, trập trùng núi cao.
Bóng đa đè nặng nhà lao,
Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm.

Qua bài dịch trên, ta thấy câu thứ ba cũng đã dịch xa rời ý Bác, nên không làm nổi bật được cái thần của bài thơ. Đáng trách hơn là hình tượng đè nặng nhà lao đã làm sai lạc ý Bác định nói: ở đây ai là người hoảng sợ, ghê rợn cái bóng của cây đa trùm xuống nhà lao, làm tối tăm cả ngày đêm? Đó là tù nhan, cụ thể ở đây chính là Bác, là nạn nhân vừa bị kẻ thù giải tới đây và bắt đầu phải chịu đựng cảnh tượng đó. Thần của bài thơ và ý chính của bài thơ cũng ở khía cạnh này, thế mà lại dịch đè nặng nhà lao, gây cho người đọc những cảm nhận mơ hồ và không nói lên được điều mà Bác Hồ đã ghê sợ, căm thù thốt ra bằng thơ.

Thông thường dịch một bài thơ cổ thất ngôn bát cú, hay thể tứ tuyệt, người dịch đều muốn dịch theo đúng nguyên thể của người sáng tác. Gặp trường hợp dịch theo nguyên thể bị khó khăn về vần hoặc hạn chế về diễn ý, thì chuyển sang thể khác để cho vần dễ hiệp và ý tứ để diễn đạt hơn. Nhưng xét ở bài dịch này, dù đã dịch chuyển thể sang thể lục bát, mà ta đọc vẫn chưa thoả mãn cho nên tôi nghĩ cũng cần có những bài dịch bổ sung. Về phần tôi, cũng xin nêu thêm một bài dịch theo nguyên thể.

Đến Quế Lâm.
Quế Lâm không quế cũng không rừng,
Chỉ thấy sông sâu, núi mấy từng.
Ta sợ bóng đa che tối ngục,
Đêm ngày đen sẫm tối như bưng.

*
**

Trên đây là một số ý kiến sơ bộ của tôi nhân đọc lại một số thơ chữ Hán của Bác Hồ. Chắc chắn những suy nghĩ và phát biểu ở đây còn nông cạn, chưa được toàn diện, nhưng tôi vẫn mạnh dạn nêu ra, với tấm lòng trân trọng tìm hiểu, học tập ở những tác phẩm của Bác. Kính mong các bạn đọc thông cảm và chỉ bảo.

TB

THÊM MỘT SỐ THƠ CHƯA CÔNG BỐ TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ

ĐỖ QUÂN

Chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc 12 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký của Bác. Trong đó, 7 bài thơ được Bác đánh số 10 (vấn thoại), 26 (Nạn hữu Mạc mổ), 120 (Độc Tưởng công huấn từ), 121 (Lương Hoa Thịnh tướng quân Thăng nhiệm Phó Tư lệnh), 122 (Tặng tiểu Hầu Hải) 127 (Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư), 133 (Kết luận), chưa công bố trong hai lần xuất bản (1960 – 1983) của Viện Văn học.

5 bài thơ khác mang số 36 (Tự miễn), 87, 88 (Ký Nê Lỗ I, II), 93 (Thiên Giang ngục), 116 (Dương Đào bệnh trọng), đã được công bố, nhưng mỗi bài đều có một đôi chữ khác với nguyên bản. Chúng tôi xin phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ lại. Phần văn bản của các bài thơ này, xin đọc các bài nghiên cứu về văn bản tập Ngục trung nhật ký đăng cùng trong số Tạp chí này.

NHẬT KÝ TRONG TÙ

10. Vấn thoại (1)
Xã hội đích lưỡng cực,
Pháp quan dữ phạm nhân.
Quan viết: Nhĩ hữu tội!
Phạm viết: Ngã lương dân.
Quan viết: Nhĩ thuyết giả.
Phạm viết: Ngã ngôn chân
Pháp quan tính bản thiện
Giả trang ác ngoan ngoan
Yếu nhập nhân ư tội,
Khước giả ý ân cần.
Giá lưỡng cực chi gian,
Lập trước công lý thần,

Xét hỏi

Hai cực của xã hội: Quan toà và phạm nhân. Quan toà bảo: “Mày có tội”. Phạm nhân thưa: “Tôi là dân lành!”. Quan toà bảo: “Mày nói láo”. Phạm nhân thưa: “Tôi nói thật ạ”. Quan toà tính “bản thiện” vờ ra vẻ hằm hằm. Muốn ghép người vào tội, thì vờ tỏ ý ân cần. Thần công lý đứng ở giữa hai cực đó.

Xã hội có hai cực:
Quan toà và phạm nhân.
Toà bảo: Bay có tội.
Phạm nhân: Tôi dân lành.
Toà bảo: Bay nói láo.
Phạm nhân: Tôi thực tình.
Quan toà tính bản thiện,
Vờ ra vẻ hầm hầm.
Muốn ghép người vào tội,
Thì tỏ ý ân cần.
Ở giữa hai cực ấy,
Ngự trị công lý thần.

26.Nạn hữu Mạc mỗ (2)
Phú gia tử đệ bần gia giáo,
Đổ đảm như thiên, đảm tự châm.
Xa đại pháo tài chân vĩ đại,
Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Bạn tù họ Mạc.

Con em nhà giầu nhưng theo nếp nhà nghèo. Gan cờ bạc thì lớn, nhưng mật thì bé như cái kim. Tài xa pháo rất lớn, ở tù vẫn mơ tưởng chén nhân sâm.

Con nhà giầu có, nếp nhà nghèo,
Cờ bạc phá trời, mật bé teo.
Xe pháo sẵn tài, to lớn lắm,
Ở tù vẫn tưởng chén nhân Cao.

120. Độc tưởng công huấn từ (3)
Bách chiết bất hồi hướng tiền tiến,
Cô thần nghiệt tử nghĩa đương nhiên.
Quyết tâm, khổ cán dữ nganh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên.

Đọc Huấn từ của Tưởng công

Gặp trăm ngàn ngăn trở vẫn cứ tiến lên. Nghĩa vụ của bề tôi trung và người con hiếu là như vậy. Nếu quyết tâm, khắc phục mọi khó khăn làm tới thì thế nào cũng có ngày thành công.

Muôn vàn ngăn trở vẫn băng lên,
Con hiếu, tôi trung, lẽ hiển nhiên.
Quyết tâm, chịu khổ và làm tới,
Thế nào cũng có lúc làm nên.

121. Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhiệm Phó tư lệnh (4)
Tích nhật huy quân Tương, Triết địa,
Kim niên kháng dịch Miến, Điền biên.
Hiển hách uy danh hàn dịch đảm,
Vị công dự tung khải tuyền thiên

Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức Phó tư lệnh.

Ngày trước chỉ huy quân đội vùng Hồ Nam, Chiết Giang. Năm nay, chống giặc ở biên giới Miến Điện – Vân Nam. Uy danh hiển hách của ngài làm cho quân thù khiếp sợ. Tôi xin vì ngài ca trước khúc hát khải hoàn

Ngày trước chỉ huy vùng Tương – Triết
Năm nay chống địch cõi biên cương
Hiển hách uy danh, thù khiếp sợ
Khải hoàn, ca mừng trước tướng công

122.Tặng tiểu Hầu (Hải) (5)
Ấu nhi học dã, tráng nhi hành
Thượng trung Đảng, quốc hạ trung dân
Kiệm cần dũng cảm hoà liêm chính,
Vô phụ Lương công giáo dục tình.

Tặng chú Hầu Hải

Nhỏ thì học, lớn thì thực hiện những điều đã học. Trên trung với Đảng, với nước, dưới trung với dân. Cần kiệm, dũng cảm và liêm chính, chớ phụ lòng dạy dỗ của Lương công.

Nhỏ thì gắng học, lớn thì hành.
Trung cùng Đảng, nước, với nhân dân.
Kiệm, cần, dũng cảm và liêm chính,
Nhớ ơn dạy dỗ của Lương công.

127. Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư (6)
Khoảnh thừa chủ nhiệm tống thư lai,
Độc bãi tinh thần giác đốn khai.
Lãnh tụ vĩ ngôn như tại nhĩ.
Thiên biên oanh động nhất thanh lôi.

CHỦ NHIỆM HỌ HẦU TẶNG MỘT BỘ SÁCH

Vừa rồi, được chủ nhiệm tặng một bộ sách. Đọc xong, tinh thần bỗng thấy rộng mở. Lời dậy cao cả của lãnh tụ như còn ở bên tai. Chân trời rền vang một tiếng sấm.

Chủ nhiệm vừa đưa tặng sách sang,
Đọc hết tinh thần bỗng mở mang.
Lãnh tụ dậy lời tai còn vẳng,
Chân trời một tiếng sấm rền vang.

133.Kết luận (7)
Hạnh ngộ anh minh Hầu chủ nhiệm,
Nhi kim hựu thị tự do nhân.
Ngục trung nhật ký tòng kim chỉ,
Thâm tạ hầu công tái tạo ân.

Kết luận

May gặp được chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt. Hôm nay ta lại là người tự do. “Nhật ký trong tù” chấm dứt từ nay. Cảm tạ sâu sắc công ơn tái tạo của Hầu công.

May nhờ chủ nhiệm Hầu sáng suốt,
Hôm nay ta lại được tự do.
“Nhật ký trong tù” nay chấm dứt,
Ơn nặng Hầu công tái tạo cho.

36.Tự miễn
Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện.
Sử ngã tinh thần cánh khẩn trương.

Tự khuyên mình

Không có cảnh tiêu điều rét mướt mùa đông thì sẽ không có cảnh huy hoàng của mùa xuân ấm áp. Tai ương rèn luyện ta, khiến cho tinh thần ta càng khẩn trương hơn.

Không có cảnh tiêu điều ngày đông lạnh,
Sẽ không xuân ấm nắng huy hoàng.
Tai ương tôi luyện ta thêm mạnh,
Tinh thần ta lại khẩn trương hơn.

87. Ký Nê Lỗ
I
Ngã phấn đấu thì quân hoạt động,
Quân nhập ngục thì ngã trú lung.
Vạn lý dao dao, vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn trung.

88. II
Ngã môn tao phùng bản thị đồng,
Bất đồng đích thị sở tao phùng.
Ngã cư hữu giả khuyên linh lý,
Quân tại cừu nhân cốc trất trung.

Gửi Nê Ru

I

Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động. Lúc anh vào ngục, tôi ngồi lao. Muôn dặm xa xăm chưa gặp mặt nhau. Nhưng trong yên lặng, ta vẫn đồng cảm sâu sắc với nhau.

II

Cảnh ngộ chúng ta vốn giống nhau, khác nhau là cách thức gặp tai nạn thôi. Tôi thì bị giam trong ngục của bạn bè, còn anh trong xiềng xích của kẻ thù.

Gửi Nê Ru
I
Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Lúc anh vào ngục tôi ngồi lao.
Muôn dặm xa xôi, chưa gặp mặt,
Không lời, ta vẫn cảm thông nhau.

II
Tai nạn đôi ta vốn giống nhau,
Khác nhau ở cách gặp nạn thôi.
Tôi ở lao tù người bè bạn,
Anh trong xiềng xích kẻ cừu thù.

93.Thiên Giang ngục
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số.
Giám phòng khước tượng sáng được đường,
Hựu tượng nhai thượng mãi áng phố.

Ngục Thiên Giang

Ngoài lao 69 người chung một chậu. Trong lao, số chậu nhiều đếm không xuể. Nhà giam cứ như phòng bào chế, lại giống như cửa hàng bán chậu ngoài phố.

Ngoài lao sáu chín người một chậu,
Trong lao số chậu đếm không xong.
Nhà ngục cứ như phòng bào chế,
Lại như hàng chậu bán thong dong.

116.Dương Đào bệnh trọng
Vô đoan binh địa khởi ba đào,
Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao.
Thành hoả trì ngu kham hạo thán,
Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.

Dương Đào ốm nặng

Bỗng dưng đất bằng nổi sóng, đưa bác Dương Đào vào ngồi lao. Thành cháy vạ lây, thực rất đáng buồn. Nay bác lại bị ho đến thành bệnh lao.

Đất bằng đâu bỗng nổi ba đào,
Đưa bác Dương Đào tới nhà lao.
Thành cháy vạ lây đau biết mấy,
Hôm nay, ho mãi bác thành lao.

CHÚ THÍCH

(1) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ 29 tháng 8 đến 24 tháng 9 năm 1942 (theo khảo sát của giáo sư Phan Văn Các). Báo Nhân dân đã công bố trên số ngày 23 tháng 5 năm 1978, bản dịch có khác với chúng tôi.

(2) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ ngày 26 tháng 9 đến ngày 9 tháng 10 năm 1942.

(3) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1943. Tưởng công là Tưởng Giới Thạch lúc ấy là người đứng đầu nước Trung Hoa dân quốc, nước đồng minh lớn đôg dân nhất, chống Nhật sớm nhất.

(4) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1943. Khi ấy, Lương Hoa Thịnh là trung tướng, Cục trưởng cục chính trị, được thăng chức phó Tư lệnh Đệ tứ chiến khu chống giữ miền biên giới Miến Điện – Vân Nam.

(5) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1943. Hầu Hải có lẽ là con Hầu Chí Minh. Lương công ở đây có lẽ là Lương Hoa Thịnh.

(6) Bài này Bác làm trong khoảng thời gian từ ngày 9 đến cuối tháng 8 năm 1943; Hầu chủ nhiệm tức Hầu Chí Minh, Thiếu tướng, Cục trưởng Cục chính trị (thay chức của Lương Hoa Thịnh từ tháng 5 năm 1943).

(7) Bài này Bác làm vào ngày 10 tháng 9 năm 1943. Hầu chủ nhiệm, xem chú thích 6.

TB

CẦN PHÂN BIỆT SÁCH HÁN NÔM VIỆT NAM VỚI SÁCH HÁN NÔM NƯỚC NGOÀI DO TA
SAO CHÉP HOẶC IN LẠI

TRẦN NGHĨA

Kho sách Hán Nôm Việt Nam, hiểu một cách nghiêm túc, đáng lẽ chỉ bao gồm những thư tịch và tài liệu bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm do chính người nước ta soạn thảo. Vậy mà trên thực tế, đã xen lẫn vào đây không ít tác phẩm Hán Nôm của người nước ngoài, Anh có, Pháp có, Nhật có, Mỹ có, nhưng nhiều nhất vẫn là sách của người Trung Quốc. Nếu như để kéo dài tình trạng này, đến một lúc nào đó, do sách vở của ta ngày trước chưa bao giờ nâng vấn đề ghi rõ xuất xứ lên thành nguyên tắc, sẽ tất yếu dẫn tới hậu quả đối với một số tác phẩm, không còn phân biệt được là của ta hay của người nước ngoài. Việc kiểm kê, nhận định, đánh giá một cách chân xác nền di sản văn hóa thành văn của dân tộc vì vậy không thể nói là không ảnh hưởng. Hãy trả lại cho César những cái của César, làm cho kho sách Hán Nôm Việt Nam được thuần nhất, tạo cơ sở khoa học cho công tác nghiên cứu, khai thác.

Nhưng trước mắt, một nỗ lực theo phương hướng đã không phải không gặp khó khăn do tình trạng nhiễu loạn về ký hiệu xếp giá của sách tạo nên.

Thời còn Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội(1), sách Hán Nôm của Học viện được chia thành nhiều phân kho, tương ứng với nhiều ký hiệu xếp giá, tiêu chí cho nhiều loại sách khác nhau, trong đã có:

- Phân kho A dành cho số tác phẩm chữ Hán do người Việt Nam soạn thảo.

- Phân kho AB dành cho số tác phẩm chữ Nôm do người Việt Nam soạn thảo.

- Phân kho AC dành cho số tác phẩm Hán Nôm của người nước ngoài do ta sao chép hoặc in lại để dùng.

Sau ngày Thư viện Khoa học xã hội (TVKHXH) thành lập (1967), bên cạnh số sách mang các ký hiệu A, AB, AC... do EFEO trao lại, Thư viện này (nay là Viện Thông tin Khoa học xã hội) đã lập thêm một số phân kho mới cho các sách Hán Nôm sưu tầm được từ 1958 trở về sau, trong đã có:

- Phân kho VH (b, v, t) dành cho số tác phẩm chữ Hán do người Việt Nam soạn thảo (tương đương phân kho A của EFEO).

- Phân kho VN (b, v) dành cho số tác phẩm chữ Nôm do người Việt Nam soạn thảo (tương đương phân kho AB của EFEO).

- Phân kho HV (v) dành cho số tác phẩm Hán Nôm của người nước ngoài do ta sao chụp hoặc in lại để dùng (tương đương phân kho AC của EFEO)(2)

Đáng tiếc là trong thực tế, có những sách tuy mang ký hiệu A, AB, VH, VN, nhưng lại là tác phẩm của người nước ngoài do ta sao chụp hoặc in lại, như A.2739 (in) [= An nam chí]; A.46 (viết tay) [= Bạch Mã thần từ]; AB.536/ 1-2 (in) [= Sách tóm lại những chuyện sấm chuyện cũ]; VHv.1529 (viết tay) [= Giáo nữ di quy]; VHv.1576 (in) [= Khai moi (yếu pháp)]; (VNb.35 in) (= Sách dẫn đường giữ đạo] v.v… Ngược lại, cũng có những sách tuy mang ký hiệu AC, HV, nhưng là tác phẩm do người Việt Nam soạn thảo, như AC.83 (in) [= Ma nhai kỷ công văn]; HVv 4/1-4 (in) [= Thư kinh tiết yếu] v.v...

Sở dĩ có hiện tượng lẫn lộn vừa nêu, một là bởi sự tác động mạnh mẽ của loại sách tôn giáo chiếm một tỷ lệ áp đảo trong số tác phẩm nước ngoài do ta sao chụp hoặc in lại (xem bảng phân loại bên dưới). Điều này đã khiến một số người làm công tác thư viện ngộ nhận, đem không ít sách Hán Nôm về tôn giáo của ta xếp vào các phân kho AC, HV mà họ ngỡ là dành cho loại sách tôn giáo nói chung, không phân biệt quốc tịch tác giả (theo ý kiến nhà nghiên cứu Hán Nôm Dương Thái Minh). Hai là, có một thời chữ Hán được gọi là “chữ ta” (để đối lập với “Quốc ngữ” là “chữ Tây”), việc phân biệt sách vở phương Nam với sách vở phương Bắc chưa thành vấn đề quan thiết lắm. Một số khá lớn tác phẩm Hán Nôm của người nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, được xếp vào các phân kho A, AB, VH, VN từ quan niệm như vậy. Ngoài hai lý do trên, còn có thể tính tới những hạn chế về mặt kiến thức, những trục trặc về mặt kỹ thuật trong công tác phân loại, vào sổ cái, biên mục, xếp giá; những sơ hở trong công tác bảo quản dẫn tới sự đánh tráo phần ruột một số cuốn sách quý v.v..

Để giải quyết tình trạng lẫn lộn trên, phân biệt được đâu là sách Hán Nôm Việt Nam, đâu là sách nước ngoài, chúng tôi một mặt dựa vào Catalogue AC 1-700 do EFEO xây dùng trước kia(3) cùng tập Bắc thư Nam ấn bản thư mục do Từ Ô Trần Văn Giáp soạn, ký hiệu VHv.2691; mặt khác, và đây là biện pháp quan trọng nhất, căn cứ vào nội dung của chính cuốn sách. Kết quả, đã xác định được 480 đầu sách nước ngoài hiện lẫn trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tạm phân loại và sắp xếp theo thứ tự số lượng từ nhiều đến ít, toàn bộ số sách Hán Nôm nước ngoài do ta sao chụp hoặc in lại như sau:

(Xem biểu tiếp trang sau)

Qua bảng phân loại trên, có thể thấy mảng sách về tôn giáo chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây là kết quả hoạt động mạnh mẽ của không ít đền, chùa ở nước ta ngày trước trong lĩnh vực quyên góp kinh phí, tổ chức in ấn, phát hành các sách về Phật giáo...

Ngày nay, chúng ta có thể dựa một phần vào loại sách in hoặc chép tay này, trong đó có những sách biết chắc niên đại, để nghiên cứu về lịch sử chữ Hán Nôm, đặc biệt là nghề in ở nước ta từ thế kỷ XVII - thế kỷ XX.

Dưới đây là danh mục 480 đầu sách nước ngoài do ta sao chụp hoặc in lại(4).

TT Loại sách Số đầu sách
1 Phật giáo 168
2 Đạo giáo 95
3 Nho giáo 69
4 Phong thủy, bói toán, tướng số... 35
5 Y học 25
6 Thiên chúa giáo 13
7 Văn, Sử, Triết, Địa lý, Nông nghiệp, Quân sự... 75

Danh mục Sách Hán Nôm nước ngoài do ta chụp hoặc in lại
(Xếp theo thứ tự a, b, c...)(5)

1. A Di Đà kinh (Amitàbhavyùna sùtra): AC.182 (in 1828); VHv.1069 (vt)

2. An Nam chí (= An Nam chí nguyên; An Nam chí kỷ lược; An Nam chí kỷ yếu: Giao Chỉ di biên): Cao Hùng Trưng (TQ) soạn. A. 2739 (in 1932); A.1489 (vt)...

3. An Nam phong thủy: Hoài Châu Thị (TQ) soạn (1818). A.693 (vt)

4. Âm chất văn chú chứng: AC.31 (in 1863)

5. Âm chất văn thi tiên: Trinh Quốc Nhân (TQ) biên chú. AC.33 (in); VHv.1081 (in).

6. Âm phù kinh chú: Tung ẩn Tử Hậu Thạch Hòa Dương (TQ) san thuật (1886). AC. 42 (in 1904).

7. Bác vật tân biên: Hợp Tín (Anh) soạn. AC.4 (in 1877); VHv.809/I-2 (in 1909)...

8. Bách pháp minh môn luận trực giải (= Đại thừa bách pháp minh môn luận trực giải) (Mahàyaznasatadharm - aprakàsumukha - sựtra): Thiên Thần Bồ Tát (Vasubandhu, ÂĐ) soạn. Huyền Trang (TQ) dịch Hán. AC. 618 (in 1665)

9. Bạch Mã thần từ ( = An Nam thần từ khảo đính): Trịnh Tuấn Am (TQ) soạn. Trần Chí (TQ) đề tựa (1728) A.707 (in 1808); A.46 (vt)

10. Bản kinh tụng độc toàn niên: Phan Xi Cô minh (Franciscain Minh, Pháp) AB.473 (in 1897)

11. Bát đại nhân giác kinh: AC.620 (vt)

12. Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh thiêm tú (Prajnaparamitahrdaya): Huyền Trang dịch Hán. AC. 506 (in 1848)

13. Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh trực thuyết: Thích Đức Thanh (TQ) thuật nghĩa. AC. 301 (in 1654).

14. Bát quan trai pháp: Hoằng Tán (TQ) biên tập. AC.143 (in 1828)

15. Bát thức lược thuyết: Phùng Xương Lịch (TQ) soạn (1614). AC.617 (in 1665)

16. Bí truyền Liên Công bát sa kinh (= Liêu Kim Tinh họa khiếp bát sa kinh tâm pháp địa học): Liêu Vũ (TQ) soạn. AC. 252 (vt)

17. Cảm ứng Cao Vương Quan thế Âm kinh: AC.50 (in 1895)

18. Càn khôn pháp khiếu: Phạm Nghi Tân (TQ) soạn. VHb.97/ 2-3 (vt 1876)

19. Cao Thượng Ngọc Hoàng phổ độ tôn kinh: AC.696 (in)

20. Cao Vương kinh chú: Đề Duy Đại Uyên Mặc (TQ) viết tựa (1845 - 1847). AC.438 (in 1919).

21. Cao Vương Quan Thế âm chân kinh: VHv.1067 (in 1903)

22. Cát tường hoa: AC.45 (in 1877)

23. Chân đạo tư chứng: Sa thủ tín (người Châu Âu) soạn. A.2846 (in)

24. Chân đạo yếu lý: Ca Lỗ Lô Khiêm (Cô rôlô Khiêm, Pháp) soạn. AB 534 (in 1864)

25. Chân Vũ diệu kinh, phụ Cứu kiếp bảo chương; AC.579 (in 1850)

26. Chẩn mạch bí quyết: A.2564 (vt)

27. Chấp trung uẩn nghĩa: Thuần Dương tử (TQ) viết tựa (1832) VHv. 2826 (in 1867).

28. Chu Dịch: AC.367 (vt); HVv.2584 (vt)

29. Chu thi địa lý: (= Địa lý khí đồ thuyết): Chu Đôn Dung (TQ) soạn (1797). VHv. 1036 (vt)

30. Chu Tử gia chính: Chu Hy (TQ) soạn AC.555 (in 1894)

31. Chu Tử tiểu học lược biên: Chu Hy (TQ) soạn. AC. 11 (in 1894)...

32. Chuẩn đề chân ngôn nghi quỹ (- Chuẩn đề nghi quỹ): AC.452 (in 1756) AC.312 (in 1824)

33. Chuẩn đề thức: AC.134 (in)

34. Chủng đậu phương pháp: Khâu Hy (TQ) soạn theo sách Thực ngưu dậu (Anh). VHb.17 (vt)

35. Chư kinh nhật tông: Châu Hoành (TQ) biên soạn (1600). AC. 258 (in 1771); AC. 601 (in 1876)...

36. Chư Phật danh kinh: Bồ Đề Lưu Ch (TQ) dịch Hán. AC. 484 (in 1772)

37. Chư sử giải nghi: Lưu Thứ (TQ) soạn AC. 2409 (vt) ...

38. Cổ kim nguyên lưu chí luận; Nguyên lưu chí luận (Cổ kim nguyên lưu): A.513 (vt)

39. Cổ sự uyển: Đặng Chí Mô (TQ) biên tập (1686). VHv.1549/ 1-6 (vt)

40. Cổ thi hợp tuyển: Viên Mai (TQ) sáng tác. VHv. 699 (vt)

41. Cổ văn tinh nghĩa: Tấn An Lâm Tây Trọng (TQ) bình chú. HVv.18/ 1-13 (in)

42. Cung hành tâm sám: VHv.2829 (in 1921)

43. Cức vi khuyến giới đoạt mệnh lực hợp biên: Di Vân cư sĩ (TQ) biên tập và đề tựa. AC. 292 (in 1853)

44. Cức vi khuyến giới lục: Di Vân cư sĩ (TQ) biên tập và đề tựa (1838). AC. 240 (in 1869)

45. Cứu kiếp chân kinh (= Văn Vũ nhị đế cứu kiếp chân kinh): Đàm Kỳ Liêm (TQ) viết tựa (1853). AC.491 (in 1876).

46. Cứu thiên tỏa ngôn: Phí Khải Thái (TQ) soạn. VHv.2947/1-4 (in)

47. Cửu bái nghi: AC.115 (in)

48. Danh mặc toát sao: VHv.225 (vt)

49. Dịch kinh: VHv.1/4-4 (in)

50. Dịch kinh tinh nghĩa lược: AC.190 (vt)

51. Dịch, Xuân tinh nghĩa: Vũ Lâm Hoàng và Kim Vĩ Văn (TQ) soạn. VHv.60 (vt)

52. Diệm khẩu du già tập yếu thí thực khoa nghi: AC.486 (in 1821).

53. Diên linh dược thạch: Thiệu Chí Lâm (TQ) bổ sung; Vương Thuần Nho (TQ) viết bạt (1714). AC.432 (in 1870).

54. Diệu pháp liên hoa kinh (Saddhanma - pundarika sutra): Cưu Ma La Thập (Kumàra jiva. ÂĐ) dịch Hán. AC.363/1-3(in)...

55. Diệu pháp liên hoa kinh cảm ứng lục: Thích Quảng Mạc (TQ) biên tập. AC.318 (in).

56. Diệu pháp liên hoa kinh giải: Giới Hoàn (TQ) biên soạn. AC.390/1-3 (in 1898).

57. Diệu pháp liên hoa kinh phẩm tiết: Thích Đức Thanh (TQ) biên soạn: (1573 - 1620). Phùng Xương Lịch (TQ) viết bạt (1613). AC.317 (in 1768).

58. Diệu pháp liên hoa kinh Quan Thế âm Bồ tát phổ môn phẩm: AC.114 (in).

59. Duy Ma Cật sở thuyết kinh Vimala-kirtinirdesa): Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva. ÂĐ) dịch Hán. AC.423 (in).

60. Duy Ma Cật sở thuyết kinh chú: Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva. ÂĐ) dịch Hán. AC.499/1-2 (in 1758).

61. Duy thức dị giản (Vimsátika): Thiên Thân Bồ Tát (Vasubandhu. ÂĐ) soạn Huyền Trang (TQ) dịch Hán, AC.693 (in); VHb.215 (in)...

62. Duyệt vi ký tiết mục: Kỷ Hiểu Lan (AQ) soạn. AC.265 (in 1877).

63. Dược ngôn (= Chân ngôn): Chuyết Tu Lão Nhân (TQ) soạn. VHv.925 (vt)...

64. Dược sư kinh: Huyền Trang (TQ) dịch Hán. VHv.1071 (in 1911); AC.377 (vt)...

65. Dược sư kinh sám: AC.494 (in 1830).

66. Dưỡng chân tập: Dưỡng Chân Tử (TQ) soạn. Vương Sĩ Đoan (TQ) viết tựa (1787). VHv.2825(in); VHv.2367 (vt).

67. Dưỡng chính di quy trích sao: Trần Hoành Mưu (TQ) biên tập và viết tựa (1734). AC.697 (in 1878).

68. Đại A Di Đà kinh: Vương Nhật Hưu (TQ) chỉnh lý (1162). AC.629 (in).

69. Đại A La Hán kinh: Huyền Trang (TQ) dịch Hán. AC.166 (in 1854)

70. Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh: AC.308 (in 1874)

71. Đại bảo tích kinh (Mahàratnakựta): Bồ Đề Lưu Chí sưu tập. Đường Duệ Tông viết tựa. AC.666/1-24 (in 1907-1929)...

72. Đại bảo tích kinh lược: AC.450 (in 1857).

73. Đại bát niết bàn kinh (mahàpriniràna sutra): Đàm Vô Sám (Dhamarakasa, ÂĐ) dịch Hán. AC.590/1-5 (in 1886)...

74. Đại bi sám pháp: Tứ Minh Tôn Giả (TQ) soạn vào đời Tống Minh Thành Tổ viết tựa (1411), AC.307 (1898),

75. Đại bi tâm sám: Càn Long đề tựa (1745). AC.182 (in)

76. Đại Dịch kinh: VHv.1013 (vt)

77. Đại Đà La kinh: AC.505 (in 1860)

78. Đại Động kinh thị độc: AC.66 (in 1877)

79. Đại học diễn nghĩa: Khâu Tuấn (TQ) soạn. Chu Hồng Mô viết tựa (1488) AC.301-1/51 (in).

80. Đại Phật đính Du già kinh: Bất Không Từ Hiền v.v... dịch Hán. AC.151/1-2 (in)

81. Đại phương đẳng đại tập kinh: Đàm Vô Sám (Dharmaraksa, AĐ). Ô Cô Tang dịch Hán. AC.518/1-30 (in) 1835

82. Đại phương Quảng Phật Hoa nghiêm kinh (Buddha Avatamsaka sutra): Thực Soa Nam Đà (Sidsananda, AĐ) dịch Hán. Trừng Quán viết tựa (1634). AC.468/1-5 (in)

83. Đại phương Quảng Viên giác liễu nghĩa kinh lược sớ: Phật Đà Đa La (Buddhatràta, người Kashmir, ÂĐ) dịch Hán. AC.627 (in 1660)

84. Đại phương tiện Phật báo ân kinh. AC.376 (in)

85. Đại sinh yếu chỉ: Đồng Viên Đường Thiên Khoảnh (TQ) biên soạn (1821-1850).AC.70 (in)

85. Đại tạng kinh mục lục (Tripitaka): AC.516 (in)

87. Đại thừa bản sinh lâm địa quan kinh: Tam tạng sa môn Bát Nhã (Kashmir, ÂĐ) dịch Hán. Đường Hiến Tông viết tựa. AC.690/1-2(in)

88. Đại thừa chư tịnh độ kinh: Khang Tăng Khải (Tây Vực) dịch Hán (252). AC.557 (in 1888)

89. Đại thừa (Đại tập) địa tạng thập luân kinh: Huyền Trang (TQ) dịch Hán. AC.517 (in)

90. Đại thừa hiển thức kinh: Sa môn Địa Bà Ha La dịch Hán.Vũ Tắc Thiên (TQ) viết tựa. AC.507 (in 1884).

91. Đại thừa huyền nghĩa [ = Đại thừa thập nhị môn phân biệt huyền nghĩa]: Độc Thể soạn. Kiến nguyệt Đạo Nhân (TQ) viết tựa. (1654). AC.386 (in)

92. Đại thừa khởi tín luận: Mã Minh (Kumarajiva, ÂĐ) soạn. Tam tạng Chân Đế dịch Hán. AC.330 (in 1841)

93. Đại thừa Kim cương luận: AC.125 (in)...

94. Đại thừa Vô lượng nghĩa kinh: Đàm Ma Ca Đà Gia Xá (Thiên Trúc) dịch Hán. AC.403 (in 1906)...

95. Đại trang nghiêm kinh luận (ásvaghosa): Mã Minh (Kumarajiva, ÂĐ) soạn. Cưu Ma La Thập dịch Hán, AC.348/1-2 (in 1883).

96. Địa lý kim đan: Tây Ngô Phương Hành Dư Thận Niệm biên tập. AC.371 (vt)

97. Đinh lễ chân giác khoa nghi: AC.169 (in 1829)

98. Đỉnh Hồ Sớ Chí: Triệu Hoằng Xán (TQ) soạn. A.463 (in 1844).

99. Độc thư lạc thú: Ngô Chi Hiên (TQ) biên tập. VHv.947/1-2 (in 1868)

100. Động chân Thái thượng tố linh động nguyên đại hữu diệu kinh: AC.161 (vt)

101. Đồng huyền linh bảo Đạo sĩ minh kinh pháp: AC.94 (vt)

102. Đức sinh lục: Phùng Khưu Từ Hiểu (TQ) biên tập. AC.374 (in)

103. Đường thi cổ súy: Hách Thiên Đĩnh (TQ) chú thích. AC.558 (in 1851)...

104. Đường thi hợp tuyển tường giải: Lưu Văn Uất Bảo Quân (TQ) chú thích. AC.215/1-2 (in 1834)...

105. Giác thế tập yếu: Tụ Hòe Sơn (TQ) viết tựa (1787). AC.49 (in 1836)

106. Giải hoặc biện: Hoằng Tán (TQ) biên soạn. AC.598/1-2 (in 1859)

107. Giáo nữ di quy: Trần Hoành Mưu (TQ) soạn và viết tựa (1742) AC.200 (in 1878); VHv.1529 (vt)

108. Giới sát phóng sinh văn: Chu Hoành (TQ) soạn. AC.663 (in)

109. Hải Nam tạp trứ: Thái Đình Lan (TQ) soạn. Chu Khải (TQ) viết tựa (1936). VHv.80 (vt)

110. Hán biểu lược sao toàn tập: A.1522 (vt)

111. Hàng hải kim châm: Tất Đinh Đăng (Anh) soạn. Mã Cao Ôn (Mỹ) dịch Hán. AC.674 (in 1877)

112. Hiền ngu nhân duyên kinh: Tuệ Giác (TQ) dịch Hán. AC.277/1-9 (in 1812) AC.171/1-2 (in)...

113. Hiển mật viên thông [ = Hiển mật viên thông thành Phật tâm yếu tập]: Đạo Điện (TQ) biên tập. AC.159 (in 1860)

114. Hiếu kinh chú giải: Nguyên Tông Hoàng Đế chú. Tư Mã Quang (TQ) giải nghĩa. AC.15 (in 1847).

115. Hiếu kinh dịch thuyết xiển nghĩa: Thái Hoài Thanh (TQ) bình chú. AC.409 (in 1907)...

116. Hiếu kinh tập chú: Trung kinh tập chú: VHv.1009 (vt)

117. Hiếu sinh cứu kiếp biên: Lâm Kính Tuyển (TQ) biên tập. AC.88 (in 1876)

118. Hiếu sinh lục: Chư Tư Nghĩa (TQ) sưu tập. AC.524 (in 1803) AC.451 (in 1857).

119. Hiệu đính công quá cách tập biên: AC.39 (in 1903); VHv.2830/1-2 (in)

120. Hiệu văn toàn tập: AC.219/1-2 (in 1827); AC.259/1-2 (in 1851): VHv.711/1-2 (vt 1900).

121. Hoa tạng truyện: AC.321 (in 1808)

122. Hoa tự lục: A.1137 (vt)

123. Hoàn cầu sự lược: VHv.2049 (vt)...

124. Hoàn chân tập: AC.549 (vt)

125. Hoàn vũ danh hoạn khảo: A.2275 (vt)

126. Hoàng đình chân kinh: AC.41 (in 1903)...

127. Hoạt thế sinh cơ: Thiệu Kỷ Đường (TQ) biên soạn, AC.393 (in 1903)

128. Hổ trướng khu cơ thao lược bí thư [ = Toản yếu hổ trướng khu cơ thao lược]: A.2613 (vt)

129. Hổ trướng yếu đàm: A.1155 9v

130. Hộ chư đồng tử Đà La Ni chú kinh: Phật Đà Bà Lị (Kashmir, ÂĐ) dịch Hán. AC.121 (in)

131. Hồi dương nhân quả lục: AC.427 (in 1872)

132. Hồi thọ chứng trị thi quát phương thư: A.2448 (vt)

133. Hồng Vũ cấm thư [ = Hồng Vũ chân kinh]: Lý Bá Toàn (TQ) soạn. A.535 (vt)...

134. Hồng Vũ đại định binh thư lược biên. A.1784 (vt)

135. Huân thần thực lục: A.2519 (vt)

136. Huấn tục di quy: Trần Hoành Mưu (TQ) biên tập và viết tựa (1742). VHv.1562 a, b, c/1-4 (in 1878)...

137. Huyền Thiên Thượng Đế bảo lục [ = Kim khoa ngọc luật văn]: AC.29 (in 1837)

138. Khai môn yếu pháp: Sĩ Mật Đức (Anh) biên tập. AC.263 (in 1877)...

139. Khâm Châu chi: A.1647 (vt)...

140. Khâm định Phạn âm đại bi chú: nhà sư Tam Tạng (TQ) dịch Hán. AC.665 (in)

141. Khoái thư đệ nhất chủng trích lục: A.1619 (vt)

142. Khổng Thị tam xuất hiện: AC.36 (in 1856)

143. Khổng Tử gia ngữ: AC.407 (vt)

144. Khuyết lý hợp toản: VHv.427/1-5 (in 1846)...

145. Kim cương bát nhã ba la mật kinh [ = Kim cương bát nhã ba la mật kinh tập chú; Kim cương kinh trực giải]: Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, ÂĐ) dịch Hán. AC.510 (in 1700). AC.254 (in 1745); AC.320 (in 1822); AC.299 (in 1825); AC.319 (in 1820); AC.488 (in 1874); AC.167 (in 1887) v.v...

146. Kim cương Di Đà kệ chú châm minh: AC.456 (in 1854)

147. Kim cương giải ách chân kinh: AC.582 (in 1924)

148. Kim cương kinh nhân quả tượng chú: VHv.1092 (in 1818)

149. Kim cương kinh nhật tụng: VHv.1093 (in)

150. Kim cương thọ mệnh kinh: AC.324 (in 1839)

151. Kim liên tự phú: Từ Lãng (TQ) soạn. AC.257 (in)

152. Kim quang minh tối thắng vương kinh: AC.457/1-5 (in 1891)

153. Kim thang thập nhị trù: Lý Bàn (TQ) soạn. AC.202/1-9 (in 1869)

154. Kim tịch cách ngôn: AC.37 (in)

155. Kinh tích tự chỉ châm kinh: AC.576 (in 1907)

156. Kính tin lục: AC.429 (in 1850)

157. La Điền Vạn Thị phụ nhân khoa: Vạn Toàn (TQ) soạn. VHb.130 (vt); VHb.131 (vt)

158. Lã tiên ông bốc pháp: A.1832 (vt)

159. Lã Tổ linh tiêm: AC.657 (in)...

160. Lã Tổ phân loại công quá cách: AC.335 (in 1870)

161. Lã Tổ sư huấn thế văn: AC.477 (in)...

162. Lã Tổ sư nhất khí độ nhân kinh: Thiệu Chí Lâm (TQ) biên tập và đề tựa (1774). AC.232 (in 1909)

163. Lã Tổ trung hiếu cáo: AC.48 (in 1905)

164. Lao Sùng Quang thi văn tập: Lao Sáng Quang (TQ) soạn (1849). VHt.27 (vt)

265. Lăng già kinh [= Quán Lăng già kinh ký] (Surangama) AC.509/1-2 (in 1856). AC.326/1-2 (in 1895).

166. Lăng nghiêm chính mạch: AC.122/1-3 (in 1841)

167. Lăng nghiêm kinh bạch văn: AC.449/1-2 (in 1914)

168. Lăng nghiêm thần chú tâm: AC.153 (in)

169. Lễ ngò bách Quan Thế âm danh nghi: AC.306 (in 1839); AC.126 (in 1898)

170. Lịch khoa danh biểu: AC.296 (in 1835); AC.204 (in 1852).

171. Lịch triều từ tuyển: Hạ Bỉnh Hành (TQ) biên tập và viết tựa (1751) A.1140 (vt)

172. Liệt phụ thi: AC.23 (in 1889).

173. Liễu Trang tướng pháp toàn biên: Liễu Trang (TQ) soạn. VHv.739 (vt)

174. Loan đầu tâm pháp đồ quyết: Thái Lân Sĩ (TQ) soạn (1854). VHv.1035 (vt)

175. Lỗ Ban tiên sư nguyên lưu: VHb.281 (vt)

176. Lộ Đức Thánh mẫu: Phê Lỗ Mã Di A Lương thuật, VNb.33 (in 1911)

177. Lôi phong tháp: A.1986 (in)

178. Lục đạo tập: Hoằng Tán (TQ) biên tập (1679). AC.129 (in 1905)

179. Lương Hoàng bảo sám [ = Lương Hoàng sám pháp]: AC.276/1-2 (in)…

180. Lưu Hán biểu: VHv.830 (vt)

181. Lưu trân tập tân phẩm: Thiệu Kỷ Đường (TQ) sưu tập (1871). AC.431/1-2 (in 1895)

182. Lý Thái Bạch văn tập: Vương Kỳ Trác Nhai (TQ) tập chú. Vương Kỳ Tái Am thuật (1857). VHv.2560/1-10 (in)

183. Lý Tướng công minh ti lục: AC.630 (in 1708)

184. Ma y bí tàng: VHv.161 (vt)

185. Ma y bí truyền: A.868(vt)

186. Mạch pháp chính tông đức thụ: Trần Châu Long (TQ) soạn. VHv.2396 (vt)

187. Mạch thần: VHv 27 (vt)

188. Mai hoa dịch số: A.2180 (vt)

189. Mang nhàn sơ tập ngoại khoa bí thư. AC.410/1-2 (vt)

190. Mao thi tập thuyết vùng tuyển; A.1472 (vt)

191. Mật pháp cung định môn nghi: AC.170 (in)

192. Mệnh học bách trúng kinh: VHb.181 (vt)

193. Minh dương thập sám Địa ngục tổng quyển: A.2470 (vt)

194. Minh Thanh Trạng nguyên sách: AC.369 (in 1833)...

195. Minh thánh kinh: AC.103 (in 1889)

196. Minh thánh kinh bàng huấn: AC.559 (in 1906)

197. Mục Liên kinh; Ma ha bát nhã ba la mật đại minh chú kinh: AC.632 (in 1737)

198. Mục Liên sám pháp kinh [ = Từ bi đạo trường Mục Liên sám pháp]: AC.300 (in 1836); AC.607 (in 1906)...

199. Mục lục kinh: AC.492 (in 1833(

200. Nam bắc đẩu tinh: AC.568 (in)...

201. Nam hải ký quy nội pháp truyện: Nghĩa Tỉnh (TQ) soạn. AC.681/1-2 (in 1926)

202. Nam Thành du dật toàn tập: AC.637 (vt)

203. Nghi lễ: VHv.1016 (vt)

204. Ngọc hạp: Hứa Chân (TQ) soạn. VHb.156 (in 1876); HVb.149 (in 1932).

205. Ngọc Hoàng bản hạnh kinh: AC.440 (in 1913)

206. Ngọc Hoàng cốt thủy chân kinh: AC.533 (in 1880); AC.245 (in 2898); VHv.1082 (in 1928)

207. Ngọc Hoàng cứu kiếp kinh [ = Cứu kiếp Hoàng kinh]: AC.282 (in 1876)

208. Ngọc Hoàng giáng phong tâm hương kinh: AC.239 (in 1909)

209. Ngọc Hoàng kinh: AC.490 (in 1903)

210. Ngọc Hoàng sám khoa nghi: Tân Hán Thần (TQ) soạn. AC.669 (in)

211. Ngọc khu bảo kinh: AC.67 (in 1877)

212. Ngọc lịch chí bảo thiên: AC.46 (in)

213. Ngọc lịch sao truyền cảnh thế: A.426 (in 1873)

214. Ngò chủng bồ đề yếu nghĩa: AC.433 (in 1726)

215. Ngò chủng di quy: Trần Hoành Mưu (TQ) soạn. AC.638/1-2 (in 1878)

216. Ngò đăng hội nguyên: AC.633/1-10 (in 1797 - 1798)

217. Ngò kinh đại toàn: AC.210/1-23

218. Ngò kinh khâm định: Văn uyển nội các và Hàn lâm viện nhà Thanh biên tập. AC.244/1-39 (in 1860 - 1863)

219. Ngò kinh tiệp giải [ = Ngò kinh tiệp đại toàn; Hợp toản. Ngò kinh tiệp]: Trinh Tế Thái (TQ) viết tựa (1711). AC.211/1-13 (in 1856).

220. Ngò phúc chân kinh: AC.96/1-2 (in 1903)

221. Ngò tông yếu lược [ = Ngò gia tông phái yếu lược]: AC.458 (in 1812)

222. Nguyên lưu chi luận: AC.536 (vt)

223. Nguyên thủy Thiên vương tân kinh: AC.27 (in 1857)

224. Nhạc phủ thám châu: A.714 (vt)

225. Nhân quả kinh: AC.604 (in 1848)

226. Nhân quả ngọc lịch sao truyền: AC.531 (in 1900)

227. Nhân quả thực lục: AC.388 (in 1846)

228. Nhân thân phú: Trương Giới Tân (TQ) soạn. VHv.1815 (vt 1897)

229. Nhân Thiên nhãn môc: AC.502 (in 1854)...

230. Nhân tử tu tri lược biên: VHb. 93 9v

231. Nhân tướng kê tục chiêm: A.2402 (vt)

232. Nhân vương hộ quốc Bỏt nha ba la mật đa kinh: AC.278 (in 1882)

233. Nhập địa nhãn toàn thư: VHv.92 (vt)

234. Nhất quán kham dư: VHv.1038/ 1-2 (vt)

235. Nhật dụng tâm nguyên: AC.2870 (vt)

236. Nhật tụng: AC.148 (in 1905)

237. Nhị vị tập (= Bành Ngò Lĩnh nhị vị tập): Bành Thụ Mai (TQ) viết tựa (1862/3). AC.670 (ib1869); VHv.1180 (vt)

238. Như Lai An Tượng tam muội nghi qũy kinh: Thi Hộ dịch Hán. AC.127 (in)

239. Nông gia thuật chiêm kinh nghiệm yếu quyết: Trần Ngọc Trác (TQ) soạn. A.1972 (vt)

240. Nông sự toàn đồ: Nguyên bản của Khang Hy, AC.602 (vt 1877).

241. Nữ tiểu học: Hành Bình Thúc (TQ) soạn. AC.552 (in)

242. Phá đảm tiêu kiếp chân kinh: AC.595 (in 1919)...

243. Phản tính đồ: VHv.423/1-5 (in 1873)...

244. Phạn Võng kinh hợp chú Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, ÂĐ) dịch Hán. AC.180/1-2 (in 1859).

245. Nhật Bản hạnh tập kinh: Đồ Na Quật Đa (Thiên Trúc) dịch AC.678/1-10 (in 929)

246. Phật đính tâm kinh: AC.530 9i

247. Phật giáo sư học khóa bản: Dương Văn Hội (TQ) thuật và viết tựa (1906). VHv.2826 (in)

248. Phật mẫu đại Khổng tước minh vương kinh: AC.485 (in); AC.279 (in)

249. Phật thuyết A Di Đà kinh yếu giải: Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, ÂĐ) dịch. AC.401 (in 1873)

250. Phật thuyết Kim cương kinh: Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, ÂĐ) dịch Hán, AC.373 (in)

251. Phật thuyết Mục Liên vấn giới luật trung ngò bách khinh trọng sự kinh tân sớ: AC.315 (in 1669)

252. Phật thuyết Thọ sinh kinh: AC.112 (in 1903)

253. Phật thuyết Trường A Hàn kinh: Phật Đa Da Xa dịch Hán; AC.391 (in 1843)

254. Phật tổ tam kinh: AC.341 (in 1830)

255. Phiên thiết tự vận pháp: AC.495 (in)

256. Phóng quang Bát nhã Ba la mật kinh (Paramita Sutra): Vô La Soa Kỳ Trúc Thúc Lan dịch. AC.527/1-4 (in 1839)

257. Phổ am (AC.493 (in)

258. Phổ môn kinh ( = Quan Âm Phổ môn phẩm kinh; Diệu pháp liên hoa kinh Quan Thế Âm Bồ tát Phổ môn kinh): AC.71 (in; AC.165 (in)

259. Phu Hựu Đế Quân tỉnh tâm chân kinh: AC.62 (in 1898)

260. Phục Am Hũa thượng Hoa nghiêm luân quân: AC.302 (vt) 1816)

261. Phùng thị trích lục: A.3222 (vt)

262. Phông thánh giải kiếp pháp tịnh cứu sản cứu nhãn cứu cơ phù chú: AC.79 (in)…

263. Quan Âm giải kiếp giác thế chân kinh: AC.43 (in 1897).

264. Quan Âm phổ môn kinh giải: AC... kinh: 676 (in 1772)

265. Quan Âm tế độ bản nguyện chân AC.454 (in)

266. Quan Đế bảo huấn tượng chú: AC.109 (in 1873); A.3104J (in 1876)

267. Quan Đế Đào viên minh thánh kinh ( = Quan Đế Đào viên minh thánh kinh chú): AC.541 (in 1879); VHv.1817 (in 1941)

268. Quan Đế minh thánh kinh: VHv.1058 (in 1898)...

269. Quan lý hợp toản (= Quan đế toàn thư). A.3104/a-e (in)

270. Quan Phật tam muội hải kinh: Phật Đà Bạt Đà La dịch Hán. AC.650/1-10 (in)

271. Quan Thánh Đế khuyến hiếu văn: AC.441 (in 1907)

272. Quan Thánh Đế Quân cảm ứng minh thánh kinh chú giải: AC.106 (in 1881).

273. Quan Thánh Đế Quân cứu kiếp vĩnh mệnh kinh: AC.100 (in 1903); AC.685 (in 1911)

274. Quan Thánh Đế Quân diệu dược linh văn: AC.547a (in 1909)

275. Quan Thánh Đế Quân giác thế chân ngôn: AC.86 (in 1874)

276. Quan Thánh Đế Quân huấn thế văn: AC.104 (in)

277. Quan Thánh linh tiêm: AC.105 (in)

278. Quan Thánh thủy huấn bảo văn (= Quan Thành chân kinh): AC.108 (in 1846)

279. Quảng Đông tỉnh phủ châu huyện danh diễn ca: A.1961 (vt)

280. Quảng tập Hoa văn: Ngô Đê Mân (Edmond Nordeman, Pháp) biên tập A.1134 a-b/1-4 (in 1917)

281. Quế cung thê cử yếu: AC.26 (in 1881)

282. Quy nguyên trực chỉ: AC.455 (in 1823)

283. Quy nguyên trực chỉ tăng bổ âm nghĩa: AC.467 (in 1912)

284. Sa di luật nghi yếu lược tăng chú: Chu Hoành (TQ) biên tập. Hoằng Tân (TQ) chú giải. AC.622 (in 1839); A.338 (in 1880): AC.311 (in 1881)

285. Sách dạy về sự đánh giặc Thiêng liêng: Ca Rô Lô Khiêm (Charles Khiêm) biên tập. AB.535 (in 1864)

286. Sách dẫn đường giữ đạo: Phi Li Phê (Mgr Philipe) thuật VNb.35 (in 1911)

287. Sách dẫn đường nhân đức: Thánh Phan Chi Cô (St _ Fran cois) soạn. Giám mục Khu sai Cố Mỹ (Mgr Jacquot?) chép và in.

288. Sách học toản yếu: Đái Minh và Doãn Tô (TQ) biên tập (1771); AC.261/1-2 (in 1851); VHv.951/1-2 (in 1862)...

289. Sách tóm lại những chuyện sấm chuyện cũ: Ca Rô Lô Khiêm (Charles Khiêm) biên tập và in AC.536/1-2 (in 1864)

290. Sách truyện các thánh: Giám mục Khu Sà Mã Di A (Mgr Josộ-Maria) biên tập. VNb.34 (in 1909)

291. Sơ học linh tế: Ngô Cự Xuyên (TQ) biên tập (1786). AC.404 (in 1835) AC.428 (in 1846)

292. Sở từ: Tưởng Ký (TQ) biên tập, chú thích. VHb.137 (vt 1834)

293. Sử giám toát: AC.199/1-3 (in 1884)

294. Tại gia tu trì: AC.471 (in)

295. Tam diệu pháp thiếp: AC.365 (in 1850)

296. Tam giáo chính bộ tập yếu: AC.156 (in 1892)

297. Tam giáo chính độ thực lục: A.3025 (in 1723); AC.544 (in 1817)

298. Tam giáo nguyên lưu Thánh Đế Phật soái sưu thần đại toàn: AC.453 (in 1840)

299. Tam hy đường pháp thiếp: AC.593 (in)...

300. Tam kinh nhật tụng: Trúc Pháp Lan dịch Hán. AC.545 (in 1830)

301. Tam nguyên bảo sám chân kinh: AC.237 (in 1909)

302. Tam quan diệu kinh: AC.69 (in 1931)

303. Tam quy ngò giới kinh: AC.173 (in 1882)

304. Tam Thiên Phật danh kinh: AC.626 (in)...

305. Táo thần tiêm: AC.90 (in)

306. Tăng bổ tuyển trạch thông thư Quảng ngọc hạp ký: Hứa Chân (TQ) soạn. HVv.73/A (in 1876); HVv.73/B (in 1923)

307. Tăng đính kinh tính lục: Chu Đỉnh Thần (TQ) biên tập AC.25 (in 1873); AC.554 (in 1876)

308. Tăng Hộ kinh: AC.501 (in 1757) AC.323 (in)

309. Tăng nhất A hàm kinh: AC.400/ 1-3 (in 1848)

310. Tâm đăng: AC.417 (in).

311. Tâm kinh luận: AC.462

312. Tân biên tam muội tạo tượng kinh: Thi hộ dịch Hán Quán Viên (TQ) chú giải. AC.646 (in 1839)

313. Tân phương bát trận: VHv.2326 (vt)

314. Tân san bốc Dịch trang thành: Dã Hạc Lão Nhân (TQ) soạn AC.1484 (vt)

315. Tân tăng ám thất đăng chú giải AC.28 (in 1847)

316. Tân thư tổng lý quy điều: E.Outrye (Pháp) biên tập. A.3101 (in 1890)

317. Tân xuất du thi cảo: A.170 (vt)

318. Tây đường tạp trở: A.191 (vt)

319. Tây nghệ tri tân: Phó Lan Nhã (Anh) dịch miệng. Vô Tích Từ Thọ (TQ) ghi. HVv.56 (vt)

320. Tây phương công cứ: AC.383 (in)

321. Tây phương hợp luận: AC.477 (in 1906)

322. Tây phương mỹ nhân truyện: AC.290 (in)

323. Tẩy oan lục: Kim Đình Liệt (TQ) soạn. VHb.194 (vt)

324. Thái căn đàm: VHv.705 (vt)…

325. Thái dương Thái âm Tinh quân thánh kinh: AC.40 (in 1876)” AC.660 (1904)

326. Thái tây tân sử lãm yếu: VHv..55/1-5 (vt)

327. Thái thanh kim khuyết Ngọc Hoa tiên thư bát cực thần chương Tam Hoàng nội bí văn: AC.150 (vt)

328. Thái thị gia huấn: VHv.2832 (in)

329. Thái thượng cảm ứng thiên đồ thuyết: AC.82/1-3 (in 1891).

330. Thái thượng cảm ứng thiên nhuế ngôn: AC.81 (in 1686).

331. Thái thượng cảm ứng thiên tập chú: AC.615 (in 1847); AC.444 (in 1910)

332. Thái thượng cảm ứng thiên thuyết định: AC.534/1-8 (in 1904)

333. Thái thượng Động thần Tam Hoàng nghi: AC.58 (vt)...

334. Thái thượng thanh tĩnh kinh: AC.443 (in 1906)

335. Thái thượng thiên tâm chính pháp truyện: A.2192 (vt 1895)

336. Thái tố mạch: A.3218 (vt)

337. Thái tố thông huyền phú: A.1461 (vt)

338. Tham bình bí quyết kim tỏa ngân chủy ca: VHv.94 (vt)

339. Tham khảo lược biên: A.1695 (vt)

340. Tháng cầu cho các linh hồn nơi lửa giải tội: Giám mục Phê Lỗ Mã Di á Đông biên tập. AB.434 (in 1896)

341. Tháng ông thánh Khu Tra (St Josep): Giám mục Phê Lỗ Mã Di Á Đông biên soạn. AC.433 (in 1905)

342. Thanh Khang Hy ngự đề canh chức đồ phó bản: AC.693 (in 1869)

343. Thanh sử lãm yếu: Tăng Điền Cống (Nhật Bản) soạn (1877). A.1343 (vt)...

344. Thánh hiền họa tượng: A.1032 (vt)

345. Thánh tích khảo: Lưu Lân Trường (TQ) soạn. A.2491 (vt)

346. Thánh Vô lượng thọ kinh: AC.613 (in 1744)

347. Thập giới thập hạnh thủy huấn: AC.76 (in)

348. Thập khoa sách lược: AC.217 (in 1833)

349. Thập ngưu ca: AC.470 (vt)

350. Thập nhị khoa cóng: AC.224 (in)

351. Thập vương bảo sám: AC.448 (in 1916)

352. Thi học viên cơ hoạt pháp đại thành: Dư tượng Đẩu (TQ) soạn. AC.269/ 1-5 (1835)

353. Thi kinh: VHv 5/1-4 (in)

354. Thi tập: VHv 2260 (vt)

355. Thi vận tập yếu: Trịnh Tuấn Anh (TQ) hiệu đính: AC.700 (in 1841)...

356. Thi luật thanh vân tập: AC.6111 (vt)

357. Thích Ca Như Lai thành đạo ký: AC.656

358. Thích môn sở thức: Tỳ khưu Băng Tuyết soạn. AC.643/1-2 (in)

359. Thiên địa bát dương kinh: Trương Bất Võ (TQ) soạn. AC.673 (1926)

360. Thiên đồng tụng cổ tập: Pháp Nhuận (TQ) soạn. AC.314 (in 1763)

361. Thiên hoa tinh ngôn: AC.360 (vt)

362. Thiên hoàng chuẩn phụng trị thế chi thời tấu minh sắc: AC.668 (vt)

363. Thiên tân Trung Pháp hòa ước: VHv.1536 (vt)

364. Thiền tâm tinh ngữ: AC.325 (in)

365. Thiền quan sách tiến: Chu Hoành (TQ) biên tập. AC.142 (in 1830)

366. Thiên thư hiếu đễ loại biên: AC.18 (in 1841)

367. Thiếu Nham phú thảo: AC.634/ 1-2 (in 1875)

368. Thọ Mệnh hồng danh vu lan: AC.489.

369. Thông thư quảng ngọc hạp ký: AC.275 (in 1876)

370. Thời văn bi pháp: Sử mộng Kỳ (TQ) soạn. AC.359 (vt)

371. Thù vực chu tư lục: Nghiêm Tòng Giản (TQ) soạn. AC.2 (vt)...

372. Thủ lăng nghiêm kinh: VHv.2625/ 1-2 (in 1949)…

373. Thủ thốn biên: AC.608 (in 1836)

374. Thụ giới nghi phạm biệt tập: AC.331 (in 1889)

375. Thư kinh: VHv.2585 (vt)

376. Thử dịch vùng biên: AC.354 (vt)

377. Thức xoa ma na thụ đại giới pháp thức: A.2486 (in 1831)

378. Thượng thanh thiên tâm chính pháp: Đặng Hữu Công (TQ) soạn. AC.95

379. Tiêu kiếp bảo sám: AC.699 (in)...

380. Tiêu tai diên thọ diệu kinh: AC.659 in 1907)

381. Tỉnh y lục thư ôn dịch luận luận: Ngô Văn Khả (TQ) soạn (1642). A.526 (in 1848); AC.55 (in 1876); AC.272 (in 1876)

382. Tịnh độ chỉ quy: Đại Hựu (TQ) biên tập. AC.382 (in 1845)

383. Tịnh độ hội nguyên: Ngộ Chiếu (TQ) biên tập. AC.146 (in 1881)...

384. Tịnh độ lễ sám hành huyện nghi: AC.466 (in 1875).

385. Tịnh độ nhật tụng: AC.496 (in)

386. Tịnh độ thần chung: Chu Khắc Phục (TQ) soạn. AC.482 (in 1832); AC.380 (in 1880)

387. Tịnh độ thập nghi tịnh độ hoặc vấn: AC.605 (in)

388. Tịnh nhân giới thể thức (= Bán nguyệt tụng giới pháp thức): AC.515 (in 1857)

389. Tịnh từ yếu ngữ : AC.316 (1837)

390. Tông chính di quy ước sao: Trần Hoằng Mưu (TQ) biên tập và viết tựa (1742). VHv.1530 (in 1894); VHv.1327 (vt)

391. Tống chiếu biểu hạ: VHv.829/1-2 (vt)

392. Tổng chư lục vấn tích tông môn chính truyền: AC.198 (vt)

393. Tổng trì chú pháp: AC.137 (in)

394. Trang đài bách vịnh (= Thi ca lục Trang đài bách vịnh): Lê Thân Sản (TQ) soạn. A.1577 (vt)

395. Trần Tứ Lục (= Trần Kiểm thảo văn tập): Trần Duy Tùng (TQ) biên tập. VHv.1161 (vt)

396. Trấp Sơn tiên sinh nhân phả lược sao: Lưu Tôn Chu (TQ) soạn. A.1504 (vt)...

397. Tri môn cảnh huấn: Cảnh Long (TQ) viết tựa (1470). AC.654 (in 1822); AC.663 (in 1821); AC.349/1-2 (in 1901).

398. Trị gia cách ngôn bài luật: Trần Thể Nguyên (TQ) soạn (1827). VHv.2827 (in 1851).

399. Trúc song tụy bút: Chu Hoành (TQ) soạn (1579); AC.350 (in 1828)

400. Trung kinh hiếu kinh (= Trung hiếu kinh tiết yếu): Mao Sư Trịnh v.v... (TQ) biên tập. VH. 1006 (in 1852)

401. Trùng đính vịnh vật thi tuyển tiên chú: Dịch Vân Kỷ v.v... (TQ) biên chú.. AC.636/1-2 (in 1785)

402. Trùng khắc độc thư kinh: AC.368 (vt)

403. Trùng san ngưu đậu tân thư: Khâu Hạo Nguyên (TQ) soạn. AC.642 (vt)

404. Trùng san trùng trị tì ni sự nghĩa tập yếu (= Trùng trị tì ni sự nghĩa tập yếu): Trí Húc ( biên chú. AC.577/1-6 (in)...

405. Truyền gia chí bảo: Thạch Thiên Cơ (TQ) soạn thuật. AC.17 (in 1844)

406. Truyện 20 ông thánh tử vì đạo: Giám mục Á Lê Sơn Di Thành: VNv.197 (in 1900)

407. Tụy trân chân cơ kinh: AC.287 (in)

408. Tuyên giảng bác văn lục: VHv.924 (in)

409. Tuyển tăng đồ thuyết: AC.672 (vt)

410. Từ bi đạo tràng huyết bồn sám pháp AC.649 (in 1774)

411. Từ bi tam muội thủy sám linh văn AC.648 (in 1751); AC.280 (in 1823); AC.381 (in 1846; AC.460 (in 1871)

412. Tứ lục tân phổ: A.1476 (in 1822)

413. Tứ lục văn tập: A.1746 (vt)

414. Tứ ngôn mạch quyết: VHv.514 (vt)

415. Tứ phần giới bản: AC.606 (in 1777)

416. Tứ phần giới bản như thích: AC.181/1-2 (in 1738)

417. Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích: Thích Hoằng Tân (TQ) soạn. AC.669/1-10 (in 1738)

418. Tứ phần luật hành sự sao tư trì ký: Thích Nguyên Chiếu (TQ) soạn. AC.682/ 1-20 (in 1851)

419. Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma chú sớ: Nguyên chiếu. Đạo Tuyên v.v... (TQ) soạn chú. AC.679/1-2 (in 1932)

420. Tứ phần luật tỳ khưu ni giới bản lược ký: A.541 (in)

421. Tứ phần luật tỳ khưu ni sao: Đạo Tuyên (TQ) soạn. AC.661/1-2 (in 1929)

422. Tứ phần tỳ khưu ni giới bản: AC.134-137 (in)

423. Tứ thánh huấn thị: VHv.2835 (in)

424. Tứ thập bát nguyện kinh: AC.631 (in 1726)

425. Tứ thể bút thức: AB.90 (in 1869)

426. Tứ thể thư pháp: VHv.1526 (in 1838); AC.688/a-b (in 1848)

427. Tứ thể toàn thư: AC.267 (in)

428. Tứ thư dẫn giải: Trương Đạt Trác (TQ) đề tựa (1736 - 1795). AC.562/1-8 (in 1847)

429. Tứ thư đại toàn (= Tứ thư đại toàn dẫn giải): AC.8/1-8 (in 1847)...

430. Tứ thư nhân vật bị khảo: Trần Nhân Tích (TQ) viết tựa (1719). AC.243/1 (in)

431. Tứ thư thể chú: AC.243/1-2 (in)

432. Tử vi đẩu số: VHv.163 (vt) v.v...

433. Tử vi giải: VHv.734 (vt)

434. Tử vi Hà đồ quái pháp phụ Bách trúng kinh: A.1568 (vt)

435. Tử vi Hà, Lạc Nhâm thìn số: A.3172 (vt)

436. Tương Sơn chí: Trương Đạm Yên (TQ) soạn. AC.612 (in 1848)

437. Tỳ ni nhật dụng lục: AC.303 (in)

438. Tỳ ni nhật dụng thiết yếu hương nhũ ký: Bàn Đàm (TQ) viết tựa. AC.478 (in 1865-1870)

439. Ứng chế thi: AC.539 (vt)

440. Vạn lộc minh châu: A.1367 (vt)

441. Vạn pháp chỉ nam Vân Thủy Sa di (TQ) soạn. AC.653 (in 1660); AC..653 bis (in 1847); AC.293 (in 1894)

442. Vạn Phật danh kinh: AC.378 (in 1846)

443. Vạn quốc công pháp: Huệ Đốn (Mỹ) soạn. A.49 (in 1877)...

444. Vạn Thị phu nhân khoa: Vạn Mật Trai (TQ) soạn. AC.229 ( VHv.1568 (vt)

445. Vãng sinh tập: Chu Hoành (TQ) đề tựa. AC.342 (in 1832); AC.475 (in 1886).

446. Vãng sinh thần tiền tự lệ: Sầm Khánh Sâm (TQ) viết tựa (1902). AC.513 (in 1907)

447. Vãng sinh Tịnh độ quyết nghi hành nguyện nhị môn: Tuân Thúc (TQ) soạn. AC.133 (in)

448. Văn đế âm chất văn: Xuân Đình Thi (TQ) viết tựa (1896). AC.35 (in)

449. Văn Đế cứu kiếp bảo sinh kinh, Vũ Đế cứu kiếp vĩnh mệnh kinh: AC.447 (in 1909)

450. Văn đế giải ách bảo sám: AC.233 (in) 1909)

451. Văn đế toàn thư: Lưu Thể Thứ (TQ) biên tập. AC.97/1-12 (in 1876)

452. Văn Vũ nhị Đế cứu kiếp chân kinh: Phục Sơ Thị (TQ) sao lục (1854). AC.101 (in)

453. Văn Xương Đế Quân âm chất văn: AC.99 (in)

454. Văn Xương Đế Quân cứu kiếp bảo sinh kinh: AC.107/1 (in 1846): AC.107/2 (in 1903); AC.548 (in 1911)

455. Văn Xương Đế Quân dưỡng tính văn AC.430 (in)

456. Văn Xương Đế Quân giải ách bảo sám: AC.44 (in)

457. Văn Xương Đế Quân hiếu kinh chính văn: AC.273 (in 1892): AC.13 (in 1901)

458. Văn Xương hiếu kinh: AC.21 (in 1871)

459. Vân lôi kinh: AC.1 (vt)

460. Vân thê cộng trú quy ước: AC.567 (in 1775); AC.402 (in 1879).

461. Vĩ Sơn cảnh sách cú trích ký: Thích Hoằng Tán (TQ) chú giải. AC.140 (in)

462. Viên giác kinh cận thích (= Đại phương Quảng Viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh cận thích): Thích Thông Nhuận (TQ) soạn thuật. AC.339

463. Viên giác kinh lược sớ (= Đại phương Quảng viên giác liễu nghĩa kinh lược sớ): Bùi Hưu (TQ) đề tựa. AC.396 (in 1883)

464. Viên liễu Phàm từ huấn: Viên Liễu Phàm (TQ) soạn. AC.366 in 1897)...

465. Vô lượng thọ kinh (= Vô lượng thọ kính bồ đề tịnh độ: Phật thuyết quán Vô lượng thọ Phật kinh). Khương Lương Da Xá (Tây Vực) dịch Hán. AC.395 (in 1860)...

466. Vu Am ngữ lục (= Tưởng Sơn Vu Am Dùc Hòa thượng hoằng giới ngữ lục): Cùng Chương Hàm (TQ) viết tựa (1677). AC.454 (in 1884)

467. Vương Mẫu tiêu kiếp cứu thế chân kinh (= Dao Trì Vương Mẫu tiêu kiếp - cứu thế bảo sám toàn bộ): VHv.1080 (in)

468. Xuân thu: VHv/2587 (vt)

469. Xuân thu thể chú đại toàn: Hồ An Quốc (TQ) chú giải. VHv/9/1-2 (in)

470. Xuất gia công đức kinh: AC.419 (in)

471. Xướng đạo chân ngôn: AC.130 (in 1876)

472. Y học đại toàn lược biên: A.2414 (vt)

473. Y học nhập môn: Lý Diên (TQ) biên chú (1575) AC.569/1-5 (in 1859); VHv/1528/a1-6 (vt 1917); VHv.1528/b1-2 (vt 1940)

474. Y học tam tự kinh: Trần Niệm Tổ (TQ) soạn (1804). VHv.791 (vt 1937)

475. Y học tâm ngộ: VHb.128/1-2 (vt)

476. Y làm trạng nguyên thọ thế bảo nguyên: VHv.31 (vt)

477. Y thư lược sao: A.2453 (vt)

478. Yết ma chỉ nam: Chiêu Minh (TQ) biên tập. Bàn Đàm (TQ) đề tựa 1682. AC.132/1-2 (in 1841)

479. Yết ma kinh chủ: Đạo Tuyên (TQ) chú thích. AC.680 (in 1927)

480. Yết ma sao (= Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma huyền tì sao): Đạo Tuyên (TQ) chú thích. AC.149/1-2 (in)

CHÚ THÍCH

(1) École francaise d’Extrờme - Orient (EFEO) ở Đông Dương, đóng tại Hà Nội, thành lập năm 1900 đến 1958 thì rút về Pháp. Tuy gọi là “école” (trường), nhưng thực chất là làm viện nghiên cứu tương đương với một “Institut” (học viện)

(2) Toàn bộ số sách Hán Nôm của EFEO và TV KHXH nay đều trao lại cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(3) Xem Catalogue AC1-700, với nhan đề Trung Quốc thư Nam ấn bản thư mục (thư mục Trung Quốc được in lại tại Việt Nam). Tuy nói là “In” nhưng vẫn có những tác phẩm bên cạnh có chứa chữ “tả” chứng tỏ nó là sách chép tay, chứ không phải “ấn bản”. Cố nhiên số này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ thôi - 73/697 tức suýt soát 1/10 thôi. Trong Catalogue ghi tất cả 700 ký hiệu AC, nhưng bỏ trống 3 ký hiệu là AC.355, AC.566, AC.588, như vậy rốt cục chỉ còn có 697 đơn vị như mục.

(4) Một số ký hiệu sử dụng trong Danh mục: [= ... ]: tên gọi khác của sách.

... : còn một số bản nữa.

vt : viết tay

tq : Trung Quốc

ÂĐ : Ấn Độ

(5) Chỉ tính trong phạm vi số sách do Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu giữ.

TB

VỀ VẤN ĐỀ KHẢO CHỨNG TRUYỆN KIỀU

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Nhân đọc bài Truyện Kiều, khảo chứng, hiệu đính và chú giải trong quyển Truyện Kiều (Nhà xuất bản Văn học in năm 1979) của cụ Đào Duy Anh, từ trang 15 đến trang 31, chúng tôi thấy có một số chi tiết cần phải đính chính như sau:

1. Chi tiết lịch sử văn học:

Khi giới thiệu về bản Kim Vân Kiều tân truyện, Quan Văn Đường tàng bản, Thành Thái Bính Ngọ (1906), cụ Đào Duy Anh đã viết như sau:

“Sau khi Kiều Oánh Mậu cho in sách Đoạn trường tân thanh năm 1905, một số sĩ phu ở Bắc Kỳ do Chu Mạnh Trinh bấy giờ làm án sát tỉnh Hưng Yên, đứng đầu có tổ chức một cuộc thi vịnh Kiều với dụng ý phản ứng lại bản của Kiều Oánh Mậu, vì họ Kiều đã sửa chữa nhiều chỗ khác” (tr.19). Giới thiệu như vậy thì sai ở hai điểm:

a) Quyển Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu in năm Thành Thái Nhâm Dần tức là năm 1902 chứ không phải là năm 1905.

b) Cuộc thi thơ vịnh Kiều ở Hưng Yên năm 1905 không phải do Chu Mạnh Trinh tổ chức mà do Lê Hoan, bấy giờ đang làm Tổng đốc Hưng Yên tổ chức.

Khi các tập nạp xong, Lê Hoan mời hai nhà thơ lão thành là Vân Hồ Dương Lâm(1) và Yên Đổ Nguyễn Khuyến sung vào ban duyệt khảo.

Tập của Chu Mạnh Trinh được chấm nhất về thơ chữ Nôm.

Như vậy Chu Mạnh Trinh chỉ là người dự thi chứ không phải là người tổ chức cuộc thi.

2. Về số câu của bản Kinh ghi chú trong bản Kiều Oánh Mậu:

Khi nói đến số câu của bản Kinh khác với bản Phường, cụ Đào Duy Anh đã viết như sau:

Xưa nay người ta lại hay nhắc đến bản Kinh mà như chúng ta biết, bản Kiều Oánh Mậu đã chịu ảnh hưởng nhiều.

Đó là bản Kiều Nôm xuất bản ở Kinh (Huế) sau khi đã được vua Tự Đức (cùng một số định thần sửa chữa và làm một bài Tổng từ). (Dực tôn Anh hoàn đế ngự chế tổng từ). Bản này đã mất, ở Bắc cũng như ở Nam không tìm đâu thấy...

Tuy nhiên, do sự chú thích khảo dị kỹ càng của bản ấy, người ta có thể nhận thấy rằng so với bản Phường thì bản Kinh đã sửa lại 152 câu và so số câu thì bản Kinh dài hơn bản Phường 4 câu, vì có chỗ bản Kinh sửa lại cả đoạn và thêm số câu lên”. (tr.20 và tr.21).

Nói như vậy thì không đúng vì trong quyển Đoạn trường tân Thanh của Kiều Oánh Mậu hiệu khảo và chú thích chỉ ghi có 41 câu của bản Kinh khác với bản Phường.

Chúng tôi không hiểu cụ Đào Duy Anh đã căn cứ vào đâu mà đưa ra con số 152 câu ấy.

Cụ đã ghi rõ là “do sự chú thích khảo dị kỹ càng của bản ấy” (tức bản Kiều Oánh Mậu) thì tất nhiên chúng tôi phải tin rằng chính cụ đã đọc kỹ tất cả các chú thích, khảo dị trong bản của Kiều Oánh Mậu.

Nhưng trong suốt bản Kiều Oánh Mậu, từ trang 1a đến trang 82a, tức là trong suốt 163 trang mà chúng tôi đã đọc được và kiểm soát lại thì chỉ có 41 câu đã được ghi là bản Kinh và bản Phường.

Chúng tôi có tìm kiếm thêm các sách thì thấy không phải chỉ có một mình cụ Đào Duy Anh đã ghi như vậy.

Trong quyển Truyện Kiều (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp in năm 1972) ở trang 95, ông Nguyễn Thạch Giang cũng ghi như sau:

“Như đã nói ở phần bản Kinh và bản Phường, thì cho đến nay, chúng ta chỉ bằng vào các lời chú trên một số bản Kiều (chủ yếu là bản Kiều Oánh Mậu) mà biết được tổng số câu bản Kinh khác bản Phường là 152 câu”.

Ông Giang còn ghi rõ từng câu một trong phần khảo dị về văn bản Truyện Kiều và còn đánh số câu từ số 1 đến 152.

Ông Giang lại còn chú thêm ở dưới trang 95 rằng bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim chỉ ghi chú có 146 câu(2) nghĩa là bản Truyện Kiều của ông đã ghi thêm được 6 câu. Không biết 6 câu đó ông đã căn cứ vào bản nào để ghi chép lại.

Ông Nguyễn Thạch Giang cũng đã căn cứ chủ yếu vào bản Kiều Oánh Mậu để ghi lại các câu của bản Kinh khác với bản Phường.

Thế thì cụ Đào Duy Anh và ông Nguyễn Thạch Giang đã căn cứ vào bản Nôm nào mà chép như vậy vì bản Kiều Oánh Mậu chỉ có 41 câu của bản Kinh mà thôi.

Sau đây chúng tôi xin đưa ra hai trang chụp trong bản Kiều Oánh Mậu để dẫn chứng:

* Trang 46b:

Ở trang này Kiều Oánh Mậu có ghi hai chỗ thuộc bản Kinh:

a) Từ câu 1826 đến câu 1828: Ba câu này Kiều Oánh Mậu ghi rằng bản Kinh chép thành năm câu:

Thôi thôi hẳn đã mắc tay mặt thù
Thương ôi mảnh sắt vào lò,
Bấy lâu nay biết giầy vò đến đâu,
Nỗi lòng chẳng đánh mà đau.
Đang cười nói bỗng mặt rầu lệ sa.

Nhưng năm câu này bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim đã chép dài tới 12 câu, từ câu 1819 đến câu 1828 (dài hơn bản Phường 2 câu).

Sợ uy, ruột rối tơ vò,
Tủi duyên đôi giọt, tuôn mưa khôn hàn.
Rụt rè theo lũ Liễu hoàn,
Cúi đầu cùng lạy một đoàn xa xa,
Trông tường chàng ngả cổ ra:
“Thực nàng Kiều đó sao mà ở đây?
Nhân làm sao đến thế này
“Thôi thôi hẳn đã mắc tay mặt thù”
Thương ôi ! mảnh sắt vào lò,
“Bấy lâu nay biết dày vò đến đâu!”
Nỗi lòng chẳng đánh mà đau,
Đương cười nói bỗng mặt dầu, lệ sa.

b) Câu 1836: Câu này bản Kiều Oánh Mậu chép theo bản Kinh:

Bắt nàng rót rượu chực hầu đôi nơi

Ngoài ra ở trang 46b không còn ghi thêm câu nào thuộc bản Kinh nữa. Nhưng bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim có ghi thêm hai câu:

Tìm điều chống trả cho xong,
Lại còn có dám nói sòng nữa ru.
(1831-1832)

Hai câu này thay cho bốn câu 1831, 1832, 1833, 1834 trong bản Phường).

Trang 79b.

Ở trang này bản Kiều Oánh Mậu không có ghi câu nào của bản Kinh (chỉ ghi lời phê bình của Vũ Trinh) nhưng trong bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim thì ghi 6 câu của bản Kinh.:

Thế gian đâu có hội này,
Bõ lòng chua xót, thỏa lòng khát khao
Canh tàn gạt ngọn đèn cao,
Nhìn nhau đường giấc chiêm bao mơ màng.
Sánh vai chung gối đêm trường,
Lạ gì yêu phấn dâu hương thế tình.
(Câu 3139 - câu 3144)

Như vậy chỉ trong hai trang 46b và 79b mà số câu của bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim đã nhiều hơn bản Kiều Oánh Mậu là 15 câu về bản Kinh.

Nếu tính cả Truyện Kiều từ đầu đến cuối thì bản Kiều Oánh Mậu ít hơn bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim là 103 câu và ít hơn bản Nguyễn Thạch Giang là 111 câu thuộc về bản Kinh.

Sự chênh lệch này chứng tỏ sự thiếu kiểm soát của cụ Đào Duy Anh và ông Nguyễn Thạch Giang đối với bản Kiều Oánh Mậu.

3. Về nhận xét đối với bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim:

Giới thiệu bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim cụ Đào Duy Anh đã viết như sau:

“Các nhà nghiên cứu đều cho rằng bản này chịu nhiều ảnh hưởng của bản Kiều Oánh Mậu và đã bằng cứ vào chú thích khảo dị của Kiều Oánh Mậu mà dẫn những câu dị biệt của bản Kinh để tham khảo.

Bản này đã được xuất bản nhiều lần (kể cả bản của nhà phổ thông in năm 1958 là chín lần, bản cuối cùng này do ông Bùi Kỷ sửa lại và chú thích), cho nên có thể nói rằng nó được phổ biến trong dân gian sâu rộng lắm, do đó có nhiều chữ do Kiều Oánh Mậu sửa chữa đã được ăn sâu vào tâm não người đọc lắm rồi” (tr.24-25).

Giới thiệu như vậy thì sai lầm ở hai điểm:

a) Bản Bùi Kỷ không thể dựa vào bản Kiều Oánh Mậu để ghi chú các câu của bản Kinh được vì bản Kiều Oánh Mậu chỉ có 41 câu bản Kinh trong khi bản Bùi Kỷ có tới 144 câu.

Theo lời chú của ông Nguyễn Văn Hoàn trong quyển Truyện Kiều (nhà xuất bản văn học in năm 1965) trang XXXI thì:

“Cụ Bùi Kỷ cho biết: khi hiệu đính bản Kiều này cụ và Trần Trọng Kim có mượn được một bản kinh”.

Như vậy bản Kinh mà cụ Bùi Kỷ mượn được chắc cũng khác nhiều so với bản Kinh mà Đào Nguyên Phổ đem từ Kinh về cho Kiều Oánh Mậu.

Chúng tôi xin dẫn ra một ví dụ lấy từ câu 1885 đến câu 1898:

16 câu ấy bản Bùi Kỷ đã chép như sau:

1. Sớm khuya hầu trước đài doanh,

2. Nét sầu khôn gượng, giọt tình khôn hoen.

3. Tiểu thư trông liếc, quở liền,

4. Sa mày nặng mặt bởi duyên cớ gì?

5. Bì tiên đem lại tức thì,

6. Cạy chàng hỏi nó rằng vì làm sao?

7. Sinh đà ruột sót như cào,

8. Nói ra chẳng tiện, trông vào sao đang.

9. Loanh quanh co rụt bò sàng,

10. Sợ đây, thương đấy, hai đường khôn xong.

11. Dưới thềm, trên kỷ, cùng trông

12. Một lời chưa mở, hai dòng đã sa.

13. Lấy lòng, giả cách hỏi tra,

14. Thân cung, nàng đã thảo qua một tờ.

15. Đọc rồi đưa lại tiểu thư,

16. Thoắt xem, dường cũng ngẩn ngơ xót tình.

Nếu khảo dị với bản Kiều Oánh Mậu thì ta thấy có những chỗ khác nhau như:

Câu 1: .......... hầu hạ đài dinh

Câu 2: .......... lệ tình còn hoen

Câu 5: .......... giao lại một khi

Câu 7: .......... như bào

Câu 8: .......... chẳng đang

Câu 9: .......... cua lọt bò sàng

Câu 10: .......... thương đó... chưa xong

Câu 11: .......... trên ghế đều trông

Câu 15: Xem rồi..........

Câu 16: Thoắt trông..........

Như vậy vấn đề ảnh hưởng của bản Kiều Oánh Mậu đối với bản Bùi Kỷ cũng cần được xét lại.

b) Bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim không phải đã được in tới chín lần mà còn nhiều hơn nữa.

Chúng tôi xin kê ra đây các lần in của bản ấy như sau:

In lần thứ nhất năm 1925 Vĩnh Hưng Long xuất bản

.......... hai năm 1927 nt

.......... ba năm 1934 nt

.......... tư năm 1950 Tân Việt ghi sai là in lần thứ ba

.......... năm (không ghi) Tân Việt ghi sai là in lần thứ tư

.......... sáu (không ghi) Tân Việt ghi sai là in lần thứ năm

.......... bảy (không ghi) Tân Việt ghi sai là in lần thứ sáu

.......... tám (không ghi) Tân Việt ghi sai là in lần thứ bảy

.......... chín (không ghi) Tân Việt ghi sai là in lần thứ tám

Như vậy là nhà Tân Việt đã in tới 6 lần. Lần in cuối nhà Tân Việt cho đúc bản kẽm và cứ in tiếp tục không có ghi thêm các lần in sau vì có lý do thương mại.

Nếu kể cả bản in năm 1958 của nhà xuất bản Phổ thông thì quyển Truyện Kiều của Bùi Kỷ in tới 10 lần.

Nhưng chúng tôi thấy không thể coi bản Truyện Kiều của nhà xuất bản Phổ thông là bản Truyện Thúy Kiều của nhà Vĩnh Hưng Long và Tân Việt in được, vì nội dung bên trong về văn bản cũng như về chú thích, nhất là về chú thích khác hẳn nhau: một bên chú thích theo lối biên khảo, một bên chú thích theo lối phổ thông.

4. Về hiệu đính và chú thích:

Cụ Đào Duy Anh có đưa ra 5 thí dụ về hiệu đính và chú thích các câu Kiều. Trong 5 thí dụ ấy thì có hai thí dụ chúng tôi nhận thấy có sự sai lầm. Chúng tôi xin được trình bày lại như sau: - Chữ thuần hức.

ở trang 28, cụ Đào Duy Anh đã viết:

“Câu 1593, nhiều bản quốc ngữ chép” thú quê thuần hức bén mùi và chú là rau thuần và cá hức.

Chữ Nôm là 蓴 thì đáng lẽ phải phiên là thuần vược. Chữ là chữ Nôm thì người ta lại cho chữ ấy là chữ Hán mà phiên là bức. Nhưng con hức (một giống ba ba) không dính dáng gì đến cái điển thuần lư là rau thuần cá vược về Trương Hàn nhà Tấn...

Chúng tôi thấy rằng mặc dầu thuần vược lạ với tai mắt người ta hơn là thuần hức, chúng ta phải phiên lại là thuần vược cho đúng chữ và nghĩa, chứ không thể cứ giữ từ thuần hức là một từ sai lầm vô nghĩa được”.

Trước hết chúng tôi xin xác định rằng hức là thứ cá biển chứ không phải là một giống ba ba như cụ Đào Duy Anh đã chú thích.

Chữ là một chữ Hán chứ không phải là một chữ Nôm như cụ Đào Duy Anh đã xác định.

Các quyển đại từ điển của Trung Quốc đều có chữ đó và trong quyển Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển có cả hình vẽ con cá đó.

Các quyển đại từ điển đều ghi âm chữ đó là 洫 (đọc là hức). Kiều Oánh Mậu trang 40b cũng có ghi âm hức).

Theo quyển Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển thì cá hức là một loài cá biển sinh sản nhiều ở vùng duyên hải Trung Quốc và ở quanh đảo Đài Loan.

Cá hức mình dẹp, vòng mép và mang mầu đen, phần dưới bụng trắng, vẩy trên mình nhỏ, vây trên xương sống chia làm hai, đuôi liền không phân nhánh, xương đầu não rất rắn.

Cá hức thịt ăn ngon nên cũng nổi tiếng như cá lư.

Vậy cá hức không phải là con ba ba như cụ Đào Duy Anh đã chú thích và chữ phải phiên âm là hức mới đúng.

Đến rau thuần ma trong Tự điển Truyện Kiều cụ Đào Duy Anh chú thích là rau rút thì cũng sai.

Theo quyển Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển thì rau thuần là loài sen, lá hình bầu dục cuống dài, mùa hạ ra hoa mầu đỏ kênh kệnh, lá non có thể ăn được hương vị rất ngon. Cây rau thuần mọc rất nhiều ở ao hồ vùng Giang Nam. Loại mọc ở Tây hồ rất nổi tiếng. Như vậy rau thuần cá hức là hợp với điển thuần lư nhưng vì hoặc là tiếng bằng nên Nguyễn Du mới đổi ra hức là tiếng trắc cho hợp với âm điệu của câu thơ.

Vậy chúng ta cứ theo cách phiên âm như cũ mà đọc là

Thú quê thuần hức bén mùi

Vừa có âm hưởng mà lại có ý nghĩa đúng với điển thuần lư hoặc thuần lô.

b) Quạt hoa quỳ

Ở trang 29, cụ Đào Duy Anh đã viết:

“Câu 354, 357 bản Liễu văn đường chép: “Giở kim châu với khăn hồng trao tay” và “Sẵn tay bả quạt hoa quỳ”. Các bản Nôm khác như Quảng tập, Quan văn đường cũng đều chép thế. Duy Kiều Oánh Mậu thì bằng cứ vào sự bắt được thoa mà sửa lại làm “Giở kim thoa” và bằng cứ vào nguyên truyện của Thanh tâm tài nhân mà sửa làm “Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ”. Chúng tôi xét kim thoa của họ Kiều có thể là đúng, vì Kim Trọng có trả thoa cho Thúy Kiều thì ở sau Kiều mới có thoa ấy mà trao đổi lấy quạt của Kim Trọng, chứ với “kim châu” nghĩa là vàng ngọc thì câu thơ không có nghĩa, do đó chúng tôi theo Kiều Oánh Mậu và Bùi Kỷ cứ để “Giở kim thoa” mà nhân dân đã thuộc lòng. Nhưng “khăn gấm quạt quỳ” là sửa văn chữ Hán thì không thể theo được theo được, vì với cách sửa như vậy thì còn phải sửa nhiều câu nhiều chữ lắm, sẽ không còn gì mấy của Nguyễn Du nữa, chúng tôi thấy về lời thì câu này của các bản Nôm cũng có nghĩa, nếu hiểu bả quạt hoa quỳ (bả là loại từ chỉ cái quạt) là cái quạt bằng bồ quỷ (lá cọ) vẽ hoa, đồ vật Kim Trọng trao thêm cho Thúy Kiều mà đổi lấy cành thoa để làm kỷ niệm chính thức”.

Giảng như vậy thì không ổn vì Kim Trọng đã trao trả hẳn chiếc thoa cho Thúy Kiều rồi và chiếc quạt thì rõ ràng không phải là vật của Kim Trọng tặng cho Thúy Kiều.

Để làm sáng tỏ câu chuyện trả thoa chúng tôi xin đối chiếu đoạn văn do Nguyễn Du viết và đoạn văn trong nguyên truyện như sau:

- Nguyễn Du đã viết rõ ràng rằng:

Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông

Nguyên truyện thì kể rằng:

“Kim Trọng về nhà lấy thêm một đôi xuyến vàng, một chiếc khăn là và năm lạng bạch ngân”.

Khi Kim Trọng đưa trả lại cho Thúy Kiều chiếc thoa thì Nguyễn Du viết rằng:

Được lời như cởi tấm lòng
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.
Rằng: “Trăm năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi”

Nguyên truyện thì kể rằng:

Đây tiểu sinh xin hoàn lại chiếc thoa và chút quà mọn để làm lễ tương kiến buổi đầu.

Kiều thì nói: Thiếp chỉ xin nhận cái thoa thôi còn món quà kia thì quyết không dám nhận.

Chàng Kim rằng: Đây gọi là một chút để tỏ lòng chân thành, nàng sao mà khách sáo làm vậy.

Sau Kiều mới dám nhận cả.

Nguyễn Du lại viết rằng:

Sẵn tay bả quạt hoa quỳ,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.

Nguyên truyện thì kể tiếp rằng:

Kiều cũng trao tặng cho Kim Trọng chiếc quạt đang cầm ở trong tay và rút cái khăn gấm ở trong ống tay áo ra tặng thêm cho Kim Trọng để đáp lại chàng.

Nguyễn Du đã kết thúc rằng:

Một lời vừa gắn tất giao.
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Vội vàng lá rụng hoa rơi.
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang

Nguyên truyện cũng kết thúc rằng:

Đôi bên vừa trao nhận xong thì chợt nghe có tiếng người từ phía xa đi tới, hai bên đành phải vội vã chia tay.

Như vậy thì đã quá rõ ràng là:

Kim Trọng đã trả cho Thúy Kiều: - chiếc kim thoa và đã tặng thêm cho Kiều: - một đôi xuyến vàng

- một chiếc khăn là

và nếu theo Nguyên truyện thì còn có năm lạng bạch ngân nữa.

Kiều đã tặng lại cho Kim Trọng:

- Một chiếc quạt hoa quỳ

- Một cái khăn gấm.

Nhưng chiếc quạt hoa quỳ đây không phải là chiếc quạt bằng lá cọ (lá cây bồ quỳ) vì thứ quạt này không xếp lại được và cũng không quý giá gì.

Chiếc quạt mà Thúy Kiều tặng cho Kim Trọng, theo Nguyên truyện là chiếc quạt vàng dán hai bên nan quạt (tụ đầu phiến). Thứ quạt này có từ đời Bắc Tống ở Trung Quốc.

Nguyễn Du gọi là quạt hoa quỳ

Vậy thì đó phải là chiếc quạt giấy có vẽ hoa quỳ như Génibrel đã dịch sang tiếng Pháp là éventail de fleurs de tournesol.

Chiếc quạt này còn có tên là hợp hoan phiến vì nó gồm có hai mặt giấy hoặc miếng lụa mỏng dán vào nan quạt khít liền nhau, hợp hoan với nhau, gắn bó với nhau và Kiều muốn tỏ rõ lòng mình đã hướng hẳn về Kim Trọng như hoa quỳ kia luôn hướng về phía mặt trời.

Ấy việc trao tặng chiếc quạt của Thúy Kiều cho Kim Trọng cũng có ý nghĩa là như vậy quả thực không có ai lại đem chiếc quạt làm bằng lá bồ quỳ, cứng như các quạt mo, mà tặng cho người yêu bao giờ, chẳng còn tính từ chút nào nữa.

CHÚ THÍCH

(1) Trong tạp chí Tri tân số 63, năm 1942. Hoa Bằng đã chép là Vân đình Dương Khuê chép như vậy là sai, vì Dương Khuê đã mất từ năm 1989 (nhiều sách cũng ghi sai là 1902).

(2) Đúng ra bản Bùi Kỷ Trần Trọng Kim chỉ có 144 câu của bản Kinh khác với bản Phường.

TB

NHÂN DỊCH BÀI VĂN BIA CỦA
VŨ THẠNH

HIỀN LƯƠNG

Vũ Thạnh là một vị thám hoa, một nhà giáo có uy tín ở thời Lê Chính Hòa. ông xuất thân từ dòng họ Vũ ở Đan Loan, Đường An, Hải Dương, có truyền thống học giỏi và thi đỗ cao. Em ông là Vũ Huyên, con ông là Vũ Huân đều đậu Tiến sĩ thời Lê Vĩnh Thịnh. Những tài liệu bằng chữ Hán ghi chép về ông còn khá nhiều nhưng có những chi tiết không thèng nhất, thậm chí có bản dịch đã dịch sai về ông, đến nay vẫn chưa được đính chính lại(1). Nhân khi dịch bài văn bia ở đình Quỳnh Lôi do ông soạn vào năm Nhâm Thân, Chính Hòa (1692)(2), chúng tôi có hai ý kiến về hai vấn đề: tên gọi và năm thi đỗ của ông.

Trước hết về tên gọi của ông, chúng tụi thấy có hai mảng tư liệu bằng chữ Hán viết theo hai lối khác nhau:

1. Các sách trong kho sách Viện Hán Nôm(3) đều ghi tên ông bằng chữ Nhật (trái), chữ Thành (phải)

2. Bia ở đình Quỳnh Lôi ghi chữ Nhật (trên) chữ Thành (dưới)

Như vậy chữ này được cấu thành bởi hai bộ phận là hai chữ Hán: Nhật và Thành. Từ điển Khang Hy chú là:

Thừa chính thiết (Tập vận)

Thời chính thiết (âm thịnh)

Do vậy chữ này có âm đọc là Thạnh. Bản dịch Toàn thư cũng dịch là Thạnh (Mộc Thạnh). Bản dịch Đăng khoa lục sưu giảng không rõ dựa vào văn bản nào mà dịch là “Thành”. Hay đây là do lỗi của nhà in? Trong thực tế, qua các tài liệu Hán Nôm ta thường gặp khi ghi tên người hay tên đất người ta có thể ghi thêm một chữ Hán vào bên phải hay bên trên để biểu thị đặc điểm của tên gọi, nhưng những chữ được tạo thành vẫn theo âm đọc vốn có mà thôi. Chẳng hạn có dòng họ ở mỗi tên người trong dòng họ mình đều thêm chữ “vương” ở trước; có dòng họ thêm chữ “mộc”, có dòng họ thêm chữ “tâm”...

Trường hợp chữ “Thạnh” ở đây thì khác, tuy tách “nhật” và “thành” ra là hai chữ Hán độc lập, nhưng ghép lại, chỉ có một âm đọc là Thạnh mà thôi như trong bản dịch sách Đăng khoa lục sưu giảng.

Về năm thi đỗ của Vũ Thạnh, các tài liệu ghi chép cũng không giống nhau.

1. Các tài liệu bằng chữ Hán ghi 3 năm khác nhau:

a. Đăng khoa lục sưu giảng A.224(4) ghi ông đỗ năm Ất Mùi.

b. Các sách khác đều ghi năm ất Sửu(5).

c. Bia đình Quỳnh Lôi ghi năm Bính Dần.

2. Bản dịch Đăng khoa lục sưu giảng ghi năm Ất Tỵ.

Như thế là có tới 4 tài liệu ghi khác nhau về năm thi đỗ của Vũ Thạnh. Vậy thì Vũ Thạnh đúng ra là đã dù thi và đăng khoa vào năm nào?

Như chúng ta đã biết, Vũ Thạnh thi đỗ ở năm Lê Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khoảng thời gian này tức là từ năm Canh Thân đến năm Giáp Thân không có năm nào là năm ất Mùi mà chỉ có năm ất Sửu (1685), ất Hợi (1695) và sau đó là năm ất Dậu (1705), năm đầu niên hiệu Vĩnh Thịnh. Do vậy bản A.244 ghi ông đỗ năm ất Mùi là sai. Những lỗi sai thế này cũng là hiện tượng thường gặp đối với các văn bản chép tay, nên trước khi dịch, cần phải giám định, xử lý văn bản. Cũng tương tự như vậy, bản dịch Đăng khoa lục sưu giảng ghi Vũ Thạnh thi đỗ năm ất Tỵ là không đúng.

Xét hai tài liệu ghi năm ất Sửu (1685) và năm Bính Dần (1686) năm nào là đúng? Như chúng ta đã biết: khoa thi Tiến sĩ năm ất Sửu (1685) bắt đầu từ tháng 12 (thi Hương) nhưng đến mùa xuân năm Bính Dần mới kết thúc (thi Đình). Sách Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký cho biết; đến mùa xuân năm Bính Dần (tháng giêng) thì đình ban cho Vũ Thạnh Tiến sĩ cập đệ. Như các sách ghi Vũ Thạnh đỗ năm ất Sửu là ghi theo khoa thi, tức là lấy năm mở khoa thi làm mốc. Đó là cách ghi theo một lối ghi truyền thống. Bài văn bia đình Quỳnh Lôi do Vũ Thạnh soạn, nên tác giả muốn ghi rõ tên, chức tước của mình thì phải lấy năm Bính Dần là năm ông chính thức thi đỗ và được nhà nước phong tặng. Do vậy, theo cách ghi truyền thống thì Vũ Thạnh đỗ khoa thi năm ất Sửu (1685) là đúng và trong thực tế cũng không có khoa thi năm Bính Dần. Năm Bính Dần là năm kết thúc khoa thi và Vũ Thạnh chính thức được phong chức tước, nên nó là cái mốc có giá trị tư liệu trong việc tìm hiểu khoa thi năm ất Sửu cũng như việc tìm hiểu lai lịch, sự nghiệp của Vũ Thạnh, một nhân vật đỗ đạt cao ở thời Lê hiện còn ít được biết tới.

Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài văn bia ở đình Quỳnh Lôi do Vũ Thạnh soạn, hy vọng sẽ giúp thêm một tư liệu để đánh giá một tác gia Hán Nôm thời quá khứ.

Dịch nghĩa: TẠO MỚI ĐìNH QUỲNH LÔI

Các bậc quan viên, hương lão, thôn trưởng, xã trưởng cùng toàn thể lớn nhỏ, trên dưới xã Quỳnh Lôi, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín vì việc kính thờ vị tướng họ Ngô nổi tiếng một thời phối sánh thần minh mà làm bài tựa, khắc đá lưu truyền mãi mãi.

Ôi ! việc khắc tên vào bia lưu truyền ngàn năm là để chiếu công đức mà báo đáp vậy. Mến nghĩ đương khi bậc văn thần ngài - Ngài họ Ngụ, húy Sách Tuân, vị quan to của triều đình ta đỗ khoa Bính Dần đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, Quan tiến thân lộc đại phu vâng mệnh làm Đốc trấn Cao Bằng và Thái Nguyên, Công bộ hữu thị lang, phương lĩnh nam, nhân vật bậc nhất ở Tam sơn Đông Ngạn nước ta. Một vị quan đứng đầu trong hàng quan giúp việc nhà vua, phối cùng vợ là bà họ Trịnh, húy Ngọc Liễn, con gái thứ tư của họ Ngô, bậc thân thần Tả dực cơ Cai cơ quan đông quân Đô đốc phủ, Đô đốc đồng tri Thiều quận công do là vợ lẽ họ Lại húy Đài sinh ra. Bà là bậc nữ trung nhân kiệt, dòng dõi nhà vua. Một nhà đẹp duyên cá nước ngàn năm vui hội rồng mây. Đỗ khoa cao, nổi danh hiền sỹ, cầm binh nhung phát huy tổng lực thắng thu muôn dặm vâng mệnh đi sứ xứng được cửu trùng, bổng lộc vinh hoa tam tích. Chức có thể thay nhưng khó chọn được người thay, làm theo chức phận đã lâu, nghĩa lớn làm sao nói hết. Trõ giặc đảng dùng đại sách binh nhung; vỗ về dân thể nghiệm điều thánh hóa. Thanh danh rộng lớn, yêu mến dài lâu, giữ chức quan sang, tước đều nhất phẩm, hưởng lộc vạn chung. Trong nhà thêm vui vì có mẹ già trường thọ, con trai, con rể đều hiển đạt, gia quyến đề huề thịnh vượng. Voi ngựa đầy đàn, vườn rộng tốt tươi. Ơn thêm khắp đào lý trong thành; huệ rưới mọi cây dâu trong quận. Từ khi coi giữ ấp ta, muôn dân tin yêu mến chuộng; không vì quyền lợi cao sang mà thao túng, không dựa quyền thế mà tự kiêu. Răn dậy quan lại không một ai làm điều ngỗ ngược, lấy lộc dư thừa cấp cho những người túng thiếu ở xung quanh. Người nghèo cấp cho ăn, người ốm cấp cho thuốc, già trẻ trong làng đều được tắm gội ơn sâu, người vợ, người chồng đều được nhớ ghi nghĩa cả; khao lạo công bằng, thưởng phạt nghiêm minh, ơn lớn ấy ắt phải được báo đền. Toàn ấp trên dưới già trẻ đều đến họp mặt trước sân đình xin bầu vị trưởng quan Ngô Đài công, Trịnh phu nhân và bà nhạc mẫu Lại Quý thị làm Thái ông Thái bà, ngôi ở trên bậc chùm trưởng. Đến khi các ngài trăm tuổi thì kính thờ, kính tế, hương hỏa đời đời, được ngài đồng ý, dân làng tế tự hàng năm để biểu dương công đức. Muôn lòng hợp nhất, ý đẹp nêu cao, nay lại làm một đình lớn gọi là “Văn Hưng đình” để làm chỗ lễ nhạc của ấp, lại giành 6 khoảnh ruộng gọi là “nghĩa lập điền” để ấp ta dùng vào việc mua sắm đồ tế lễ, tránh được tổn phí cho dân, dân lại càng vui. Trên dưới một lời, trước sau không đổi nhân đó dùng bia chọn văn để ghi sự thật, truyền lại muôn đời, đối thần minh, sách đất trời.

ôi ! Đình này quy mô rộng lớn sẽ mãi mãi tồn tại cùng với mặt trời và trăng sao vậy. Một tòa lâu đài sánh cùng gác phượng há chẳng đủ mỹ quan sao? Bia này là một hòn đá xanh đứng sững giữa trời cao. Tuy khắc đá gióng thơ ngay ở khe làng, nhưng cũng không thể hình dung hết được. Những người sinh sau ở ấp này ngồi trong đình chí xem thường mà chắc sẽ ngạc nhiên hốt hoảng thấy như nơi nghỉ mát của Thái Tông. Trông bia này, chí coi là hòn đá thường mà tưởng như dấu vết của Thúc Tử xưa kia. Kính nhớ tới ông cha đã tắm gội đức của Thái công và phu nhân, noi theo tổ tiên mà đền đáp ơn ấy. Thành tâm tần phồn tẻ nếp thơm tho, càng xa càng thơm, càng lâu càng sáng, xem công đức ấy cũng đủ cùng trời đất dài lâu, sáng tỏa mãi với mặt trăng mặt trời. Bèn khắc vào đá để truyền muôn sau.

Lại làm bài minh rằng:

Trời yêu vua ta,
Trong khoảng nảy ra.
Một người tài đức,
Họ Ngô tam Sơn.
Chức công khanh nối,
Ơn vua tự nhà.
Đương thời nổi tiếng,
Phối sánh dòng vua.
Ngựa khôn bởi giống,
Sáng từ ngõ nhà.
Cột cành của nước,
Làm tướng đỗ khoa.
Về văn đều giỏi,
Làm phận gái nhà.
Thành ngoài dài vững,
Dùng binh đánh giặc.
Lấy đức vô dân,
Ơn uy dệt ra.
Nên công nên việc,
Ra làm trấn tướng,
Vào nắm quyền quân.
Trời ban ân sủng,
Phẩm trật vẻ vang.
Công danh hiển hách,
Sự nghiệp huy hoàng.
Nếp nhà trung hậu,
Giữ đạo kinh thành.
Thờ bà nhạc mẫu,
Như mẹ thân sinh.
Phú c khánh trọn điều,
Làm khuôn làm phép.
Đất tốt kén nơi,
Tìm nhân giao hữu.
Nhà ở nhà thờ,
Bèn làm bèn sửa.
Ơn ấy rộng ra,
Trùng tu dinh hát.
Sâu ấm thực ơn,
Lòng người yêu mến.
Nay bầu chòm thượng,
Sau thờ làm thần.
Thần ở trong đình,
Như sao ba vì.
Hương hỏa quanh năm,
Xôi cúng ngát thơm.
Tế nêu thành điển,
Dùng bia khắc minh.
Cùng trời bền vững,
Muôn thuở lưu truyền.

Lập bia ngày tốt tháng giữa mùa đông (tháng 11) năm Nhâm Thân Hoàng triều Chính Hòa (1692).

Vâng đỗ khoa Bính Dần, đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh Hàn Lâm viện Vũ Thạnh ở Đan Loan, Đường An, Hải Dương soạn.

Vũ Da Nhân người thôn Thanh Thịnh, xã Sơn Thường viết. Nguyễn Hữu Luân xã Tượng Lê, huyện Thụy Nguyên trông coi việc dùng bia.

Vũ Văn Ngạn xã Do Trường, huyện Thuần Lộc; Lê Xưng, Lê Nghinh xã An Hoạch, huyện Đông Sơn đẽo đá.

CHÚ THÍCH

(1) Đăng khoa lục sưu giảng dịch của Đạm Nguyên, Bộ Giáo dục, trung tâm học liệu xuất bản năm 1968 dịch là Vũ Thành.

(2) Bia có đầu đề là Tân tạo đình Quỳnh Lôi (Tạo mới đình Quỳnh Lôi). Bia 4 mặt dùng ở trước sân đình, khổ 86x42cm, có trình bày hoa văn: rồng mây hoa lá cành theo phong cách bia đời Lê. Chữ khắc đẹp, rõ ràng ở cả 4 mặt. Xem giới thiệu kỹ bên dưới. Hiện nay ngôi đình đã bị sử dụng làm lớp học trường Phổ thông cơ sở Quỳnh Lôi, phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

(3) Chúng tôi đã khảo sát các sách sau:

- Đăng khoa lục sưu giảng. Các bản: A.224; A.1388. VHv.2029; VHv.2230; VHv.2989.

- Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục bản in A.2752/1-3

- Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký A019/2

- Đăng khoa lục sao bản A.1785

- Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả VHv.1353/2 và A.909

- Công dư tiệp ký VHv.1324/2.

(4) Trong số 5 bản Đăng khoa lục sưu giảng thì bản A.224 còn đầy đủ nhất, gồm 163 tờ khổ 21x31cm, chữ viết chân nét to rõ ràng, ghi khá đầy đủ các vị thi đỗ từ khoa thi ất Mão thời Lý Nhân Tông (1075) đến khoa Nhâm Tuất thời Tự Đức (1862). Bản A.3188 ghi ông đỗ năm ất sửu, các bản khác không thấy ghi.

(5) Xem chú thích (3)./.

TB

THÊM MỘT CỨ LIỆU VỀ NỘI CÁC

PHẠM VĂN THẮM

Vấn đề xác định niên đại văn bản Đại Việt sử ký toàn thư, bản lưu trữ tại Hội Á Châu (Société Asiatique) Paris đã được giới nghiên cứu sử học trong nước quan tâm. Nhiều bài chuyên luận của các nhà nghiên cứu sử học và ngữ văn học về vấn đề này tại hội nghị khoa học tổ chức ngày 16.4.1988 đã được công bố(1). Trong những điểm tranh luận, có vấn đề thời điểm xuất hiện và chức năng của Nội các. Trong vấn đề này có hai loại ý kiến:

1. Nội các của phủ chúa Trịnh đã được thành lập trước năm Chính Hòa 18 (1697). Một chức năng của nội các là tàng trữ sách và có kho chứa sách(2),

2. Nội các là một cơ quan của triều đình nhà Nguyễn lần đầu tiên được thành lập vào năm 1829. Chức năng và nhiệm vụ của Nội các được quy định cụ thể và chặt chẽ(3).

Hai ý kiến nêu trên đều nhằm góp phần xác định niên đại văn bản Đại Việt sử ký toàn thư hiện lưu trữ tại Hội á Châu Paris. Trong bài viết này, chúng tôi nêu thêm một cứ liệu về Nội các có liên quan tới thời điểm xuất hiện và chức năng của nó để bạn đọc cùng tham khảo.

a) Thời điểm xuất hiện của Nội các:

Các nhà nghiên cứu đã dẫn nhiều sách vở để thuyết minh vấn đề này. Nhưng còn một mảng tư liệu quan trọng chưa được đề cập tới, đã là bi ký. Trong số 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn tại khu bia trong Văn Miếu Hà Nội có một tấm bia nhan đề “Cảnh Hưng nhị thập tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh bi ký” mang 2 chữ “Nội các”. Tấm bia này hiện được đặt ở vị trí số hai, hàng thứ hai bên phải. Thác bản văn bia mang đăng ký của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm số 1382. Người soạn văn bia là Lê Quý Đôn, chức Hàn Lâm viện thừa chỉ kiêm Bí thư các học sỹ, kiêm Quốc sử Viện sự(4). Như vậy là “Nội các” đã có vào năm 1763, năm soạn bài văn bia.

b) Chức năng của Nội các:

Đoạn văn có hai chữ “Nội các” trong tấm bia nói trên như sau: “…Thánh thượng kiêm quân sư chi thống, xiển dương nhi quang đại chi. Khải mô tất trạch thuần chỉnh, văn chương tất thủ nhã thiện, Nội các mệnh đề, cung thủy tài định; Nam sảnh tiến quyển phủ tứ bình duyệt. Cần tài ký như thử kỳ chuân chí, cống sỹ thích hạt vị lịch niên tuế, hoặc bạt tùy xu yếu, hoặc trạc lỵ trên ty, hoặc ủy thù hiến niết. Dụng nhân hựu như thử kỳ khai khoát, trác truy ma lệ, bất kỳ thịnh dư ? …”

Hiểu như thế nào cho chuẩn xác đoạn văn trên, nhất là câu văn có từ “Nội các” - “Nội các mệnh đề”. Chúng tôi nêu hai cách hiểu sau đây:

1. Nội các/ Mệnh đề

bộ phận chủ ngữ bộ phận vị ngữ

2. Nội các mệnh/ đề

Ở cách thứ nhất: bộ phận vị ngữ có thể phân tích:

a) Từ “mệnh” thuộc từ loại “động từ”.

b) Từ “đề” thuộc từ loại “động từ”

c) Từ “mệnh” và từ “đề” đều là hai động từ thuộc loại kết cấu liên động thức.

Bộ phận chủ ngữ có thể phân tích thành 2 thành phần: thành phần chính và thành phần phụ(5).

Cách phân tích thứ hai: trong bộ phận chủ ngữ ta có thể phân tích thành các thành phần chính và thành phần phụ:

Nội các/ mệnh

bộ phận chủ ngữ bộ phận vị ngữ

Trong hai cách phân tích, căn cứ vào bộ phận vị ngữ, ta thấy câu “Nội các mệnh đề” mang tính chất của loại hình câu tự thuật. ở loại hình này chủ ngữ là kẻ chủ động (hoặc đôi khi là kẻ bị động) của những động tác, hành vi mà động từ ở bộ phận vị ngữ biểu thị(6).

Tôi cho rằng ở đây, trong văn cảnh cụ thể của bài văn bia, chủ ngữ trong câu “Nội các mệnh đề” ở dạng bị động. Đoạn văn trên do đó cần được dịch như sau:

“… Hoàng thượng lên ngôi nắm ngữ trách nhiệm làm vua làm thầy. Mở mang cho đẹp thêm, dùng khuôn mẫu theo nếp thuần hậu ngay thẳng, văn chương tất lấy lời nhã nhặn, hùng hồn. Nội các (vâng mệnh) ra đề, ngài đích thân lựa chọn; Nam sảnh dâng quyển, chính người để mắt duyệt phê. Việc tìm chọn (nhân tài) cẩn thận và chu đáo đến như thế (cho nên) các bậc cống sỹ được bổ nhiệm chưa được bao lâu mà đã có người được đề bạt chức trọng yếu. Có người được giao chức ở trên ty, hoặc có người được quyền hiến sát. Việc dùng người thực mở rộng đến như thế, thành tựu của việc đào tạo nhân tài chẳng to lớn lắm sao?”.

Đoạn văn dịch chỉ báo cho ta thấy “Nội các” là một tổ chức, và chức năng của nó có liên quan tới việc tuyển lựa nhân tài.

CHÚ THÍCH

(1) Xem chuyên san về niên đại sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản in “Nội các quan bản”. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 + 6, 1988.

(2) Xem: Phan Huy Lê, Về niên đại bản in “Nội các quan bản” của “Đại Việt sử ký toàn thư”. Nghiên cứu lịch sử Sđd.

(3) Xem bài của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh đăng trong Nghiên cứu lịch sử, Sđd.

(4) Xem chú thích trang bên

(5) Theo Đại Việt sử ký toàn thư phần tiếp (Ngô Thế Long dịch, chưa xuất bản) thì năm 1762 chúa Trịnh đặt Bí thư các, cho Nguyễn Bá Lân, Lê Quí Đôn làm học sỹ để duyệt sách vở, chọn người ở hàng văn, có văn học là bọn Ngô Thì Sỹ sung chức Chính tự (đính chính các chữ sai).

(6) Viết phần này, chúng tôi tham khảo cuốn Hán ngữ cổ đại do Vương Lực chủ biên, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1981, tr.249-254 và tr.340-352.

TB

VAI TRÒ CỦA CẢM XÚC KHI ĐỌC
CHỮ NÔM TÀY

VI HỒNG

Chữ Nôm của người Tày cũng như chữ Nôm của người Dao, người Sán Chí đều có những nguyên tắc cấu tạo nhất định. Cũng như chữ Nôm của người Kinh, các loại chữ Nôm trên phần nhiều được cấu tạo theo nguyên tắc cấu tạo chữ Hán: giả tá, tượng hình, chỉ sự, hội ý... Riêng trong chữ Nôm Tày, hội ý được sử dụng như một nguyên tắc chủ đạo. Và nhờ vào nguyên tắc này mà những người Tày ở những vùng xa nhau, phát âm khác nhau, từ cũng khác nhau mà đều hiểu được ý tứ của câu thơ, câu văn qua chữ Nôm Tày.

Theo tôi, ngoài những nguyên tắc mà hầu như thứ chữ Nôm của dân tộc nào dựa vào chữ Hán cũng phải theo, thì mỗi loại chữ Nôm vẫn có cái “tự do hoang sơ riêng” của nó. Có điều do trình độ văn hóa phát triển đến mức nào, trình độ phổ biến chữ Nôm sâu rộng đến mức nào... mà tính “vô nguyên tắc” trong việc cấu tạo chữ ấy giảm đi nhiều hay ít, tính thống nhất cũng do đó mà được nâng cao tới mức độ nào.

Người nghiên cứu văn học Tày, Nùng và nhất là nghiên cứu về thơ thì việc biết đọc chữ Nôm là rất quan trọng (nói riêng về văn học cổ). Nói như thế, tất nhiên phải kèm theo điều kiện hiển nhiên là: phải thật thông thạo tiếng Tày và phải biết chữ Hán đến mức nào đó!

Cũng là tiếng Tày, nhưng ở mỗi vùng mỗi mường có những âm rất khác nhau thậm chí tiếng khác nhau. Sau đây xin dẫn vài ví dụ:

Ở Hòa An, Cao Bằng gọi quả bưởi là mác Pàng, thì ở nhiều nơi khác gọi là mác phục! Quả ớt có nơi gọi là mác phết, nơi gọi là mác chìu, mác đang, quả đu đủ có nơi gọi là mác rẩu, có nơi gọi là mác qua co, mác pủm… Cá chày có nơi gọi là pja tất, nơi gọi là pja gại, cá mương có nơi gọi là pja bả, có nơi gọi là pja lảm v.v... Danh từ khác nhau đã đành, đến tính từ, động từ cũng khác nhau: màu xanh có nơi gọi là kheo có nơi gọi là khiêu, gọi (nhau) có nơi roong, có nơi gọi là riếc, có nơi là hào, có nơi là vièo... cũng không sao kể hết!

Trên đây là những tiếng khác nhau; còn âm khác nhau thì thật Thiên hình vạn trạng...

Do tiếng khác nhau, âm khác nhau cho nên nếu la-tinh hóa tiếng Tày, Nùng thì người vùng này không phải lúc nào cũng đọc được sách ở vùng khác. Thí dụ tất cả người Tày ở các tỉnh thuộc Việt Bắc cũ nói chung đều có thể nghe và đọc, hiểu nhau khi la-tinh hóa tiếng Tày, trừ mấy huyện: Định Hóa, Đại Từ và nhất là huyện Bắc Sơn. Người Tày trong toàn khu Việt Bắc cũ hầu như không đọc được tiếng của ba huyện trên khi la-tinh hóa.

Nhưng khi đọc các bản chữ Nôm của các huyện vừa nêu thì cũng hiểu dễ dàng như tiếng Tày của mọi vùng. Vì chữ Nôm có cách viết tương tự giống nhau, nhất là phương pháp viết hội ý làm cho người đọc dễ nhận ra ý của đối tượng mà từ phản ánh.

Tất cả những điều tôi trình bày trên là thuộc những vấn đề chung. Cái khó của việc đọc chữ Nôm Tày là ở những trường hợp vô nguyên tắc của nó...

Như trên đã nói: chữ Nôm Tày được ghi chép lại khá tùy tiện. Bởi ai muốn đọc thì ghi lấy, ai muốn nhớ thì tự chép lấy - đấy là nói về những người biết Chữ Hán. Nói như lối nói người Tày là: “khác ghi khác nhớ, khác ghi khác biết, mình khác ghi mình khác đọc lấy”. Chính vì thế mà gây ra hiện tượng là: một tiếng Tày mà lại được ghi bằng nhiều chữ Nôm khác nhau và ngược lại cũng có trường hợp một chữ Nôm lại ghi nhiều tiếng Tày cùng với cái nhay nháy (”) rất biến hóa nữa thì càng làm cho việc đọc trở nên khó khăn gấp bội. Cũng có khi xảy ra trường hợp do những vùng có âm khác nhau mà có những mặt chữ biểu hiện khác nhau. Đó là tất cả những trường hợp mà người đọc chữ Nôm Tày phải biết trước, trước khi đọc nó.

Trường hợp do âm khác nhau mà viết khác nhau cũng có nhưng ít hơn. Sau đây là một ví dụ:

“Khẩu lại mà vọng xui noọng hợi”: (Ai lại xúi giục đến em). Chữ “khứ” ở vùng Bắc Kạn dùng để chỉ “ai”, “người ta”. Cũng để chỉ “ai”, “người ta” thì tiếng Tày ở nhiều vùng khác lại dùng từ (芦) đọc là “rầu”.

“Rầu (芦) tẻ hăn cáp cuối tín nam”
(Ai lại thấy bẹ chuối mọc gai bao giờ)

Gặp những trường hợp như vậy lại trở về với nguyên tắc “tin vào cảm xúc”. Ngoài ra không có cách nào khác nữa.

Lại còn trường hợp những bản chép do người có “ít chữ” viết thì lại càng khổ hơn. Chữ nghĩa đã ít mà lại theo nguyên tắc “ khác ghi khác biết” nữa thì thật khó khăn đến thảm hại. Muốn đọc những bản như thế lại càng phải trở về với nguyên tắc cảm xúc. Nếu nguyên tắc này mà cũng không giúp đọc được nữa thì đành trả lại cho những người “khác ghi khác biết” thôi! Ngay ở những người chữ nghĩa khá, cũng có trường hợp “khác ghi khác biết”. Tôi lấy ví dụ:

“Pjửa nay vạ lộm pây dạy dạy”
(Giờ đây trời ngả đi (về tây) sầm sập)

Bằng vào văn cảnh, bằng cào cảm xúc của đoạn văn, bằng vào những hình ảnh trước và sau “nó”, tôi đã đọc ra nó là “lộm”!

Trong những trường hợp một tiếng Tày được biểu thị bằng nhiều chữ Nôm khác nhau, và trường hợp ngược lại, tôi cũng chỉ biết lấy niềm tin của cảm xúc để xác minh nó mà thôi.

Trường hợp thứ nhất là một chữ Nôm mà biểu thị nhiều tiếng Tày. Có khi chữ Nôm ấy biểu thị những tiếng Tày khác nhau về cả âm lẫn ý. Thí dụ:

“Mì khấu rầu nhằng vọng thâng vjâng (荒 )”
(Có gạo (ăn) ai lại còn ngóng đến lồng vực)

Lồng vực là một loại cỏ mọc lẫn với lúa, hạt nó nhỏ và tròn, cũng có thể ăn được. Chữ này còn được dùng ở một trường hợp khác, âm khác và nghĩa cũng khác xa cây “jvăng”:

“Se các ngài quý nhân thảng vjảng”
(Mời các ngài quý nhân đặt bẫy)

“Vjảng” là một thứ bẫy chim, dùng lông đuôi ngựa xe lại, thắt thòng lọng, để bẫy chim họa mi, gà gô...

Câu trích trên là câu của một cô gái sau khi “đã tai qua nạn khỏi” lại làm cao với một chàng trai nào đó. Vì cụ ta có sắc đẹp!

Một thí dụ khác: chữ “tự” (自)

“Mọi dử bằng nậu bjoóc mủa xuân”
(Mọi chữ như bông hoa mùa xuân)

Trong câu này chữ “tự” dùng đúng với nghĩa chữ Hán, và âm cũng gần với “dử” (tự). Nhưng ở nhiều trường hợp khác thì lại không liên quan gì đến nghĩa đến âm của “tự” cho lắm, mà vẫn được dùng để chỉ những từ đó:

“Bấu dử noọng cảng địa tằng náo”
(Không phải em nói suông nào)

“Dử” được biểu hiện bằng “tự” chỉ còn có có âm mà thôi. Nhưng âm từ” tự” đến “tử” (phải, đúng) thì cũng đã rất xa:

“Tự (自) vằn tiếp sư mai mà lót”.
(Từ ngày tiếp thư em gửi đến)

“Chử (省) khẩu bấu đăng vầy đẳng khôn!”
(Nêu cơm không đun lửa mới hay)

“Khẻo dây kín nựa tử (省) pậu khua”.
(Răng tốt ăn thịt nẫu người ta cười chê)

Trường hợp một chữ Nôm biểu thị nhiều tiếng Tày đã là một số trường hợp của từ lấp láy. Thí dụ từ “dĩ” (已). Khi “ướm” thử xem hai từ ấy “ứng” với “cung bậc” tình cảm nào hơn cả thì cũng là “khác nghĩ khác ứng” mà thôi - thì chọn Lấy trường hợp “ứng” nhất! Thí dụ:

“Tọi tọi bặng phjắc búa lần vầy”
(Rười rượi như rọc hành hơ lửa)

Hai chữ “tọi tọi” được biểu hiện bằng hai từ “dĩ dĩ”.

“Nặm tha tốc dọi dọi (hoặc rọi rọi, dạy dạy) bặng phân”, “dọi dọi” cũng được biểu hiện bằng “dĩ dĩ”

“Lồm vắt khỉn pàn gà luội luội”
(Gió lùa bói cỏ tranh xào xạc)

“Luội luội” cũng được biểu hiện bằng từ “dĩ dĩ”.

Chữ tự cũng được biểu hiện cho nhiều tiếng Tày. Tự là “từ nay” “từ đây”, cụ thể là biểu hiện “từ”, “tứ”, “tự”. Dù sao thì những từ “từ”, “tứ”, “tự” vẫn gần với âm Hán. Những chữ “tự” còn được biểu hiện những từ có âm rất xa như “tỉnh” (nghe) “tầu” (mắc phải). Trong một đoạn thơ có ba câu thôi, nhưng có hai chữ “tự” phải đọc hai âm khác nhau:

“Tầu” (自) gằm sị sắng mừa bấu hỉ”
Nhất đệnh bấu bầu nhỉ nghị lo
Giá tỉnh (自) gằm ừ ò thiên hạ
(Đón lời anh nhắn đến hết phiền
Nhất định không để em lo nghĩ
Đừng nghe lời thiên hạ dỗ dành)
(trích trong một phóng sự ở quyển sách nhỏ của tôi)

“Tự” câu trên phải đọc là “tầu”. “Tầu trong tiếng Tày không có chữ dịch thẳng sang tiếng Kinh. Nó có nghĩa như “nhập tâm”, như “được lời như cởi tấm lòng” (Kiều). Trong tiếng Tày, chữ “tầu” với chữ “thú c” cùng một nghĩa. Cho nên thơ ông Hoàng Đức Hậu mới có câu nói về sự “chăm chỉ” cái cối nước như sau:

“Rụ thúc găm van báu tặng thua”

Cũng có thể dịch: “phải lời ngon ngọt đầu luôn gật”

Trường hợp “tầu” dòng chữ “tự” là hợp lý. Nhưng “tỉnh (gằn)” tại sao lại không viết chữ “tỉnh” rất gần âm, hầu như trúng âm? Tất cả những chữ “tỉnh” đều được viết bằng chữ “tự” cả. Sau khi suy nghĩ, tôi tự lý giải như sau: chữ “tỉnh” dễ biểu thị tiếng “tỉnh” (nghe) là rất đẹp, nhưng chữ “tỉnh” còn dùng để chỉ “tiếng”, mà từ “tiếng” lại xuất hiện rất dày trong thơ tiếng Tày.

“Có trường hợp không phải là để “dành chữ” mà cũng dùng những chữ cứ theo âm Hán thì rất xa với âm cần thể hiện trong tiếng Tày, thí dụ:

“Gạ bạn noọng mỡ tàng huôn (有) hỉ”
(Nghe em thương có đường vui vẻ)

Chữ “huôn” sao lại không được biểu hiện bằng chữ “hôn” (nhân) chẳng hạn:

Từ thí dụ này, tôi lại muốn lưu ý trong cách cảm nhận tiếng Tày qua bản chữ Nôm sau đây: người Tày phát âm một số từ Hán khác xa âm người Kinh đọc. Thớ dụ chữ “hữu” tiếng Kinh đọc là “hữu”; nhưng người Tày đọc là “hậu”. “Hậu” lại thêm cái nhay nhay (“) bên cạnh nữa thì cũng gần với “huôn”, nhất là lại đi với “hỉ” nữa thì không thể đọc khác được.

Một số vần và một số phụ âm của tiếng Kinh chuyển sang tiếng Tày đều thay đổi. Thí dụ những vầy uya đều thành uê, uy thành uây; “h” thành “v”; “u” thành “âu”...

Vấn đề cái nhay nháy (“) trong chữ Nôm Tày thật “sinh động”, “linh hoạt” đến khôn lường. Thí dụ chữ “bách” với cái nháy thì biến hóa thành nhiều âm lắm:

“Pác phuối hình như chỉ tha hăn” (không có cái (“) ).
(Miệng nói như thấy ngay trước mắt)

Chữ “bách” là con số trăm, mà trăm thì tiếng Tày là “pác”. Vậy thì trường hợp này có hoặc không có cái nháy cũng được:

Pác nhỉ pjuồn dú đang noọng thuổn
(trăm hai mươi cái buồn ở mình em cả)

Vậy thì “pác” với nghĩa một trăm, với “pác” là cái miệng hay “mồm” đều được biểu hiện cùng chữ “bách” cũng là hợp lý. Nhưng đến câu sau đây thì chữ “bách” đã biến hóa thực sự với cái nhau nhỏy bên cạnh:

“Bủa bác noọng nhằng rèo tin pỉ!”
(Búa chém em còn theo chân anh)

Đáng lẽ phải thêm bộ “đao”... gì đó bên cạnh thì mới dễ đoán, nhưng rất nhiều trường hợp không cần thêm bộ gì cả mà vẫn phải đọc là “bác ” (chộm)

“Noọng pjàng pỉ béc vài tằng tua”
(Em lừa anh vỏc trâu cả con)

“Béc” (vác) cũng chỉ có mỗi chữ “bách” thôi, không thêm một bộ gì cả! Chúng tôi còn có thể dẫn rất nhiều trường hợp một chữ Nôm mà biểu hiện nhiều tiếng Tày như trên, thí dụ:

“Thả” là “thả” (đợi), là “thà” (đành) “lư”: là “lọ” là “lưa” (ế) “lừ” (mai) kia.

“Mại”: là “nầy” (chốn này), là “này” (này), là “nải” (mời mọc).

Trường hợp một tiếng Tày được biểu hiện bằng nhiều chữ Nôm (để tránh dài dòng, tôi xin miễn trích cả câu thơ): Thoảng chứ (bỗng nhớ) được biểu hiện bằng hai chữ (忄尚 ; 忄光 ) (Noọng) nhỉ (em thương, hay em trẻ) được biểu hiện bằng ba chữ sau: (女 ”, ; 西 西 ); hai (ông trăng) được biểu hiện bằng ba cách viết: (胎, 月 二 , ”月 )

Sau cùng tôi xin nêu một hai ý kiến làm ví dụ và có tính chất giai thoại về việc đọc và phiên âm từ chữ Nôm ra la-tinh:

Một năm nọ tôi dẫn một đoàn sinh viên khoa Văn của trường chúng tôi đi sưu tập văn học dân gian tại vùng hồ Ba Bể... Có một ông cụ “chữ nghĩa cũng vừa phải” đọc từ bản chữ Nôm truyện Thể khanh (truyện thơ) cho một sinh viên ghi bằng chữ la-tinh Tày, Nùng, trong đã có một câu:

“Mìn liền au nhả bâu liêu tức búa”
(Nó liền lấy lá (cây) (bỏ bùa)

Tôi đọc lại câu thơ ấy, rất lấy làm lạ và nghĩ tiếp thì thấy buồn cười ! Vì cây “liêu” hay cây “lêu” (tùy nơi phát âm) là một loại cây to hay mọc ở bờ sông, bờ suối, lá non thường hái nấu cám lợn, hoặc cũng có thể làm mồi nhử một hai loại cá dưới sông. Lá cây “liêu” chỉ có tác dụng hết sức thông thường như vậy, nhưng trong truyện Thể khanh thì bỗng trở một thứ lá thiêng, trở thành bùa mê. Cô gái trong truyện đã lấy thứ lá này làm bựa để chài một chàng trai tài ba! Tôi không tin thi sĩ lại “ăn gian nói dối” đến mức ấy. Tôi khéo léo tìm cách mượn lại bản chữ Nôm của cụ nọ để đọc, thì thấy hai chữ ấy là “bồ liêu”. Hai chữ đều có bộ thảo trên đầu. Tôi tin chắc chắn: đã là một loại cỏ, nhưng là cỏ gì thì tôi không biết... Sau đó tôi về quê nghỉ hè, hỏi các cụ giỏi chữ Nho của quê tôi. Các cụ cho biết đã là một thứ cỏ dùng làm bùa mê trong con đường tình duyên., sách Hán thư có chép đến loài cỏ ấy! Thế là hợp lý.

Giai thoại thứ hai: Giai thoại này cũng Lấy từ trong dịp đi Ba Bể lần ấy... Trong một bài lượn có câu:

“Thân noọng bặng mác pục chang co
Lước hăn tẻ ái xo hẩu đảy!”
(Thân em như quả bưởi trên cành
Thoáng thấy đã muốn xin bằng được )

Một sinh viên người Cao Bằng được một cụ đọc cho ghi câu này. Cậu ta thấy vô nghĩa và cậu ta nghi là cụ già nọ đọc sai... bèn tự tiện sửa thành:

“Thân noọng bằng cỏp vửa chang kho
Lước hăn tẻ ái xo hẩu đảy”
(Thân em như tấm chiếu trong kho
Thoáng thấy đã muốn xin bằng được)

Vì anh ta là người Cao Bằng nên không hiểu “mác pục” là quả bưởi mà lại hiểu “pục” là tấm chiếu.

Cùng người Tày, cùng tiếng Tày nhưng từ vùng này sang vùng khác đã làm hỏng câu thơ đẹp đến như vậy!

Trên đây là những ý kiến của tôi - của một người chỉ biết đọc là chủ yếu, cho nên không khỏi có những ý kiến cảm tính. Bởi những ý kiến trên xuất phát từ xúc cảm của một người đọc chữ Nôm Tày chứ không phải là một người nghiên cứu chữ Nôm Tày.

TB

ĐẶC ĐIỂM TRANG TRÍ BIA
THỜI LÝ TRẦN

TỐNG TRUNG TÍN

Theo thống kê bước đầu, hiện nay đã phát hiện được 14 tấm bia thời Lý, 31 tấm bia thời Trần.

Về mặt văn bản, phần lớn các tấm bia này đã được nghiên cứu và công bố(2). Ngoài văn bản, nhiều tấm bia Lý Trần còn được chạm khắc nhiều hoa văn trang trí. Các hoa văn trên bia có hai giá trị đáng chú ý như sau:

- Thứ nhất là góp tư liệu và các tiêu chí quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Việt Nam.

- Thứ hai là góp phần nhận diện niên đại của nhiều tấm bia Lý Trần không khắc ghi niên đại, hoặc việc ghi chép niên đại không rõ ràng lắm.

Với các ý nghĩa đó, bài viết này muốn đề cập tới trang trí trên các bia Lý Trần.

Nhưng cũng cần nói ngay rằng, trong tổng số các tấm bia đã phát hiện, có nhiều tấm bia không có chạm một chút hoa văn nào (chẳng hạn bia chùa Linh xứng thời Lý ở Thanh Hóa nhóm bia núi Dục Thúy thời Trần ở Hà Nam Ninh). Mặt khác, do các biến động của thiên nhiên và xã hội, nhiều tấm bia Lý Trần bị bào mòn đã được các thời sau chạm khắc lại. Việc chạm khắc lại đã làm biến dạng hẳn mạnh mẽ các hoa văn thời Lý Trần (bia chùa Quỳnh Lâm) và phần lớn là chạm hẳn các hoa văn của thời sau lên bia mộ Lê Lan Xuân thời Lý ở Vĩnh Phú; bia Phụng Dương công chúa thời Trần ở Hà Nam Ninh).

Vì vậy để tìm hiểu đặc điểm trang trí bia Lý Trần, tôi chỉ dựa vào các bia còn giữ được khá nguyên vẹn hoa văn lại càng hiếm hơn: chỉ độ hơn chục chiếc trên trong tổng 45 chiếc đã phát hiện.

Mỗi một tấm bia nói chung thường có hai phần: bia và đế bia.

Trang trí trên bia thường thể hiện ở các vị trí sau: Trán bia, diềm bia, và một số bia được trang trí ở sườn bia.

Đế bia có thể không trang trí, có khi được trang trí hình rồng, có khi cả đế bia được tạo thành hình một con rùa.

Ở mỗi thời, các vị trí nói trên được sử dụng một số ha văn nhất đinh, một số kiểu bố cục nhất định. Chính điều này đã tạo nên đặc điểm trang trí bia của từng thời trong tiến triển chạm khắc trên bai.

1) Đặc điểm trang trí bia thời Lý:

- Trang trí trên trán bia:

Trong tất cả mọi vị trí, trán bia là vị trí nổi bật và được trang trí trang trọng nhất.

Trang trí trên các trán bia Lý thường gồm các đề tài chủ yếu là rồng hoặc phượng. Các chữ đề tên hiệu bia được viết đẹp, ngay ngắn giữa trán bia và cũng có thể coi như một loại hoa văn mang yếu tố trang trí.

Các đề tài nói trên thường được bố cục đối xứng và có thể khái quát thành công thức chính như sau:

HOA VĂN TÊN HIỆU BIA

(rồng hoặc phượng HOA VĂN

(rồng hoặc phượng)

Bố cục trang trí trên được thể hiện ở trên cả hai mặt bia, nhưng các chi tiết hoa văn có thể khác nhau một chút. Tên hiệu bia ở mặt trước thường được viết kiểu chữ triện, ở mặt sau được viết kiểu chữ chân. Con rồng và phượng thì khác nhau ở tư thế vận động. Cá biệt, bia tháp Sùng Thiện Diệu Linh, mặt sau không có chữ.

Rồng, Phượng thời Lý, hai con vật thần thoại có rất nhiều các đặc trưng riêng.

Rồng Lý thân rắn dài không có vẩy, có 13-14 khúc uốn cong dạng “thắt miệng túi”, đầu mô phỏng kiểu con Ma-kara trong nghệ thuật ấn Độ có mồm rộng, nanh dài(2), mào lửa sắc nhọn, gần gốc mào có ký hiệu của chữ S và chữ W (biểu trưng của sấm chớp mây mưa).

Phượng Lý mỏ khỏe dài và quặp, mắt như mắt rồng, mào hai dải gần giống hình “lá đề”, mình thon, khỏe gần hình gà trống, đặc biệt bộ bờm hai dải và đuôi phượng rất dài uốn khúc lượn mềm gần giống với thân rồng Lý.

Hiện nay các bia Lý có trang trí hình rồng đều thuộc khoảng đầu thế kỷ 12 như bia chùa Báo Ân (Thanh Hóa), bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hóa) bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (Hà Nam Ninh).

Các bia Lý có hình phượng trên trán bia đều có niên đại muộn hơn khoảng nửa cuối thế kỷ XII như bia chùa Diên Phúc và chùa Chúc Thánh Báo ân (Hải Hưng).

- Trang trí ở diềm bia và sườn bia.

Trang trí ở sườn bia Lý gặp rất tít: bia tháp Sùng Thiện Diên Linh có trang trí các hình rồng cuộn trong hình thoi rải kín sườn bia. Bia chùa Quỳnh Lâm (bị) đục khắc lại vào thời Lê Trung hưng cũng có trang trí tương tự ở sườn bia. Cũng tương tự, trang trí trên sườn bia còn gặp ở bia chùa Chúc Thánh Báo ân với hình hoa cúc trong khung tròn.

Mặt bia Lý khá phổ biến trang trí đường diềm. Các đường diềm chia thành nhiều vị trí, mỗi vị trí ứng với một loại hoa văn như sau:

+ Diềm trán bia và hai diềm bên: hoa cúc. Các gồm một... dây lượn hình sin đều đặn suốt ba diềm bia. ở mỗi khúc uốn lại điểm một bông cúc. Cúc có khi được diễn tả hiện thực, hoa nở bông cao, cánh tỉa nhỏ, cứ một bông đặt nghiêng lại xen một bông đặt hơi chếch (Bia Diên Phúc); có khi hoa cúc cách điệu cao, mỗi bông gồm một số móc hoa mảnh; uốn cong mềm mại (bia Báo ân - Thanh Hóa).

+ Diềm chân bia: cùng với các diềm trên đây viền kín quanh bia bao bọc trán bia và lòng bia khắp văn bản. Diềm này chạm đề tài sông nước. Sông nước các bia Lý thường có hai lớp: lớp dưới lượn đều hình sin, lớp trên có dáng thuôn nhọn, cân đối như “hình núi”.

+ Diềm phân cách trán bia và lòng bia: diềm này thường thể hiện hình “lá hiếng lá đề”, loại hoa văn biểu trưng của Phật giáo Lý.

Nói chung các bia Lý đều tuân thủ công thức trang trí đường diềm trên đây: Duy nhất chỉ có tấm bia lớn ở tháp Sùng Thiện Diên Linh (Hà Nam Ninh) không có diềm chân bia, còn đường diềm khác được trang trí bằng một đề tài duy nhất hình rồng đuổi.

- Trang trí trên các đế bia:

Hiện nay nhiều bia Lý bị thất lạc phần đế. Các bia còn giữ được để bao gồm hai kiểu như sau:

+ Kiểu 1: Đế bia là một khối gần hình hộp chữ nhật.

Đế bia kiểu 1 có loại được trang trí rất tinh mỹ, công phu như đế bia tháp Sùng Thiện Diên Linh: ở mặt đế có chạm hai cặp rồng có đuôi vặn xoắn theo kiểu “văn thừng” và hướng đầu vào chầu “lá đề”. Đế bia ở tháp Chương Sơn (Hà Nam Ninh) cũng thuộc loại này.

Có đế bia để trơn hoàn toàn như bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hóa).

+ Kiểu 2: Đế bia được tác hoàn toàn thành tượng một con rùa. Hiện nay mới chỉ thấy bia chùa Linh Xứng (Thanh Hóa) có đế rùa: dáng rùa khá hiện thực cân đối, đầu mập thuôn nhọn nhô cao, mắt nhỏ, chân bốn móng nép sát thân mình. Có thể nói đây là con rùa đế bia sớm nhất trong dòng bia đá Việt Nam.

Tổng hợp tất cả các yếu tố trang trí trên đây có thể thấy bia Lý có hai nhóm:

- Nhóm A: Các bia có kích thước lớn, toàn bộ các vị trí được trang trí rất đẹp và cầu kỳ, hình trạm chủ yếu là hình rồng, đế bia cũng được chạm rồng cuộn và sóng nước như các bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, bia chùa Quỳnh Lâm, đế bia tháp Chương Sơn. Các bia này đều thuộc các di tích lớn do Nhà nước trực tiếp đầu tư, xây dựng.

- Nhóm 2: Các bia có kích thước nhỏ hơn, trang trí đơn giản hơn và khá nhất quán theo các công thức cố định, đế bia được để trơn hoặc có trạm hình rùa. Theo thời gian, nhóm bia này dường như có sự khác nhau về đề tài ở trán bia: các bia đầu thế kỷ 12 trạm rồng, các bia cuối thế kỷ XII chạm chim phượng.

2. Đặc điểm trang trí bia thời Trần:

- Trang trí trên trán bia:

Bố cục và đề tài trang trí trên trán bia thời Trần vẫn giống hệt thời Lý. Nhưng xu hướng sử dụng các đề tài và dáng dấp các hoa văn có nhiều biến chuyển.

Hình phượng trên trán bia chỉ gặp trên một tấm bia sớm nhất thời Trần: bia chùa Thiệu Long (Hà Nội) tạc năm 1226. Có thể nói trang trí trán bia Thiệu Long là sự tiếp nối truyền thống trang trí trên các bia cuối thời Lý.

Phổ biến trang trí trên trán bia thời Trần là hình rồng như các bia chùa Đại Bi, bia chùa Thanh Mai (Hải Hưng), bia chùa Sùng Hưng, bia chùa Hưng Phúc (Thanh Hóa), bia “Ngô gia thị bi” (Hà Nam Ninh)... Rồng trên các bia Trần có thân bè mập, mào ngắn, khúc uốn doãng, các ký hiệu chữ S và chữ W thời Lý biến mất nhường chỗ cho các cặp sừng nhiều kiểu khác nhau.

Điểm lưu ý nữa là ở hai mặt bia Trần cũng không tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc Lý nữa: hầu như các mặt sau đều không được trang trí mà để trơn hoàn toàn.

- Trang trí ở diềm bia và sườn bia.

Các bia Trần hầu hết đều không có chạm khắc ở sườn bia, trừ bia Lý ở chùa Bảo Ninh (Sùng Phúc Hà Tuyên) có hoa văn thời Trần khắc lại là có chạm hoa cúc, rồng trong các khung hình tròn.

Các đường diềm bia Trần có hai xu hướng diềm trán, diềm hai bên và diềm chân vẫn tuân thủ chặt chẽ truyền thống Lý trang trí hoa cúc và sóng nước.

Còn đường diềm phân cách trán bia và lòng bia có diễn biến phong phú. Có khi vẫn còn đường diềm này nhưng chạm các đề tài khác như hoa lá cách điệu (bia chùa Hưng Phúc), hoặc các chấm tròn (bia chùa Sùng Thiện - Hải Hưng). Phổ biến là bỏ đường diềm này chỉ còn để đường gờ nhỏ như bia chùa Thanh Mai, bia “Ngô gia thị bi”...

- Trang trí ở đế bia:

Đế bia thời Trần cũng bị thất lạc nhiều. Một số tấm bia còn giữ được đế cho thấy việc tạc đế bia hình rùa có phần phổ biến hơn thời Lý nhuư bia chùa Sùng Thiện, bia chùa Khai Nghiêm, bia chùa Hưng Phúc. Dáng rùa Trần cũng gần với rùa Lý, nhưng cũng có con chạm khắc có phần đơn giản hơn, sơ sài hơn (rùa bia Sùng Thiện Hải Hưng).

- Một số tấm bia có hình trang trí độc đáo:

Trong các bia thời Trần, có hai tấm bia có chạm nhiều hình độc đáo chưa tìm thấy ở thời Lý là bia chùa Sùng Thiện (Hải Hưng), bia “Ngô gia thị bi” (Hà Nam Ninh).

Bia chùa Sùng Thiện có mặt trước các vị trí trang trí còn giữ truyền thống Lý, còn mặt sau lại khác hẳn; toàn bộ trán bia chạm kín hình hoa cúc có cuống dài chụm lại ở đỉnh trán, các diềm trán và diềm bên chạm các hình rồng lượn theo hình “lá đề”, diềm chân bia chạm hình sóng nước lượn uốn tự do. Toàn bộ lòng bia chạm một chữ “Phật” lớn, bên dưới chữ “Phật” ở bên trái có chạm biểu trưng “khuyến thiện” (có ngậm cành sen và lá phướng), bên phải chạm biểu trưng “rừng ác” (hình quỷ sứ đội vạc dầu). Có thể nói bố cục trang trí mặt sau bia Sùng Thiện là một sơ đồ tóm tắt cách trình bày Phật điện và giáo lý nhà Phật thời Trần.

Mặt sau bia “Ngô gia thị bi” chạm một người đàn ông luống tuổi, khuôn mặt phương phi, ria mép dài, đầu đội mũ “bình thiên”, ngồi trên một chiếc ngai chạm rồng, hai tay đặt ngay ngắn trước ngực, hai chân buông thẳng, áo chùng rộng có nhiều nếp gấp phủ kín người, dưới ghế có lớp cánh sen xếp nghiêng và lớp “lá đề” có hình “sừng tê ngọc báu”. Theo nội dung văn bia, có thể coi đây là chân dung của vị cư sỹ họ Ngô người có công trong việc xây dựng chùa làng.

Tượng chân dung vốn có từ thời Lý nhưng hình chân dung đích thực chỉ mới thấy ở tấm bia này. Mặt khác bia “Ngô gia thị bi” cũng có thể coi là dạng bia hậu sớm nhất xuất hiện khoảng cuối thời Trần.

Tóm lại, trang trí bia Trần gần với bia Lý ở trán bia, các diềm trán, hai diềm bên và diềm chân. Song dáng hoa văn có nhiều đổi khác. Đặc biệt các mặt sau và diềm phân cách trán bia với lòng bia hầu như không còn tuân thủ truyền thống Lý nữa. Xu hướng tạc tượng rùa ở đế bia đã bắt đầu phát triển hơn. Bia chùa Sùng Thiện và bia “Ngô gia thị bi” là những đóng góp mới trong nghệ thuật trang trí bia đá.

Do sự phát triển và kế thừa, có bản trang trí bia thời Trần khá gần với bia Lý. Những đặc điểm đó đến các thời sau chỉ còn giữ lại ở từng phần, từng vị trí với các đề tài phong phú và đa dạng.

CHÚ THÍCH

(1) Thí dụ: các bia Lý - Trần in trong các tập

- Thơ văn Lý - Trần, Tập I, H. 4977.

- Thơ văn Lý - Trần, tập III, H. 1988.

- Thơ văn Lý - Trần, tập II, H. 1978.

(2) M: Hallade art dele Asie ancienne, themse et motifs, Tập I, Paris, 1954.

TB

LÝ TRẦN QUÁN VÀ TÁC PHẨM
THIÊN NAM LỊCH KHOA HỘI PHÚ TUYỂN

ĐỖ THỈNH

Trong “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm(1) Lược truyện các tác gia Việt Nam(2), nhà sử học Trần Văn Giáp đã dựa vào sách của Phan Huy Chú, ghi Lý Trần Quán là tác giả sách Thiên Nam lịch khoa hội phú tuyển và đã chép tiểu truyện Lý Trần Quán trong đã có đoạn: “... Lý Trần Quán gốc tích ở làng Thái Bạt, huyện Bất Bạt, Sơn Tây, là dòng dõi Trần Cận và là cháu ngoại xa Đặng Công Toản ở Thượng Yên Quyết, sang ở quê ngoại làng Vân Canh cùng huyện Từ Liêm, lấy họ Lý”...(3)

Vừa qua tôi được ông Lý Trần Tuân ở xã Vân Canh (huyện Hoài Đức, Hà Nội) cho mượn sách Phả ký họ Đặng Trần, chi Vân Canh (gọi tắt là Phả ký)(4) thấy có nhiều chi tiết khác với các sách nói trên của cụ Trần Văn Giáp. Về tác giả sách Thiên Nam lịch khoa hội phú tuyển, Phả ký ghi: “cụ Đặng Trần Diễm soạn ra Hội thí tuyển các khoa sách do Tiến sĩ làng Đông An là Nguyễn Đình Tố đề tựa “... Sách Từ Liêm đăng khoa lục trong đoạn chép về Đặng Trần Diễm, có ghi: “Đặng Trần Diễm năm lần trúng hội tam trường, tri huyện Đông Ngàn, nguyên dòng dõi của Đặng Công Toản, Tiến sĩ, người Thượng Yên Quyết, đổi là họ Lý Trần, là cha sinh ra hai Tiến sĩ Lý Trần Quán và Lý Trần Dự (...)” Văn tịch chí chép: ông từng soạn ra Hội thi tuyển các khoa, Tiến sĩ Đông An là Nguyễn Đình Tố làm bài tựa...”(5).

Ngay trong sách Tìm hiểu kho sách Hán Nôm cũng có chép một đoạn bài tựa của Tiến sĩ Nguyễn Đình Tố: mùa xuân năm Tân Mão (1771) hai anh em ông (Quán và Dự) đem quyển thơ phú do cụ thân sinh đã sưu tập và quyển chép những bài nhất giáp các khoa thi sau đó, sắp khắc để in. Tôi thấy, mới hỏi rằng: “Cụ nhà ta trước biên chép nhiều lắm, sao các ông lại bỏ bớt đi mà chỉ Lấy từ năm Giáp Tuất (1694) là thế nào?”

Qua các tư liệu trên, rõ ràng sách Thiên Nam lịch khoa hội phú tuyển, dù có sự ghi tên sách khác nhau, thì tác giả vẫn là Đặng Trần Diễm. Nhưng sau khi cụ Diễm mất, hai con trai là Lý Trần Quân và Lý Trần Dự cắt bớt đi để dem in, có nhờ Nguyễn Đình Tố đỗ Tiến sĩ cùng khoa (1769) với Lý Trần Dự viết bài tựa. Nên Phả ký... Từ Liêm đăng khoa lục chỉ chép cụ Diễm là tác giả sách đã mà không ghi Lý Trần Quán.

Về Đặng Trần Diễm, sách Phả ký cho biết: cụ sinh năm 1705, năm 25 tuổi đỗ Hương cống, sau đã 5 lần đi thi Hội chỉ trúng Tam trường, năm 31 tuổi được bổ tri huyện Đông Ngàn rồi ốm mất ở huyện nhà năm 1759, thọ 55 tuổi. Đặng Trần Diễm dòng dõi Trần Quốc Tuấn. Đến đời Trần Văn Huy đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442), đời Lê Thánh Tông dời đến ở làng Quang Bị, huyện Bất Bạt, phủ Đà Dương (sau gọi là xứ Sơn Tây). Đến đời thứ tư vì có Trần Tuân khởi nghĩa chống lại vua Lê Tương Dực năm 1511, bị tướng Trịnh Duy Sản giết ở làng Xuân Tảo (xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm), dòng họ sợ liên lụy, nên ông Trần Nguyên Trạch đi di cư ra ở làng Thượng Yên Quyết nay là xã Yên Hòa, huyện Từ Liêm, Hà Nội; đổi họ Trần ra họ Đặng, lấy tên là Đặng Công Du. Con ông Du là Đặng Công Toản đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520). Đến đời chắt của Đặng Công Toản là Đặng Trần Phấn nho sinh lấy vợ người làng Vân Canh rồi ở nhà vợ sinh ra Đặng Trần Quế bố Đặng Trần Diễm.

Đặng Trần Diễm và bà vợ cả là Trần Thị Tỳ muộn con, phải đi cầu tự ở đình Chèm thờ Lý Ông Trọng, nên đến năm 1735, sinh ra con trai đầu lòng, cho rằng vốn là con Lý Ông Trọng đầu thai, nên đổi họ là Lý và đặt tên con là Quán tức Lý Trần Quán. Sau đó, năm 1746, sinh người con trai thứ hai là Lý Trần Dự. Từ đó chi họ Đặng ở Vân Canh đổi là Lý Trần, nhưng vẫn về giỗ tổ họ Đặng ở Thượng Yên Quyết.

Theo Phả ký thì cụ Diễm còn người vợ thứ hai họ Nguyễn, người làng Lê Xá, huyện Duy Tiên (Hà Nam Ninh) có một người con trai là Lý Trần Thản. Vì bà vợ cả không công nhận cho đi lại, nên Phả ký không ghi.

Theo Phả ký thì Lý Trần Quán đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766), trải làm quan đến Đông các đại học sĩ, Khâm sai tri bộ phiên. Sau được tặng phong Công bộ thượng thư, tước Đại vương. Lý Trần Dự đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1769) làm quan tới Tổng đốc Lạng Sơn rồi mất ở đó năm 1774.

Về Lý Trần Thản, theo các tư liệu còn lưu lại của dòng họ Lý Trần ở thôn Lê Xá, xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Ninh, như bài vị, 5 bản sắc phong, đạo sớm nhất của vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 28 (1767) phong cho Lý Trần Thản lúc đó đang làm Tri huyện Phú Xuyên và bia Phúc thần bi ký do Hoàng giáp khoa Kỷ Sửu (1769) Tham tụng Lại bộ Thượng thư Bùi Huy Bích soạn, bia dựng năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), thì Lý Trần Thản đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1769), cùng khoa với Bùi Huy Bích và Lý Trần Dự. ông làm quan Thiêm sai tri phiên, Đông các Đại học sĩ, kiêm Hữu tư giảng cho Vương thế tử Trịnh Tông. ông là con rể của nhà bác học Lê Quý Đôn, ông mất năm Bính Thân (1776), được tặng Thượng Thư. Tuy Viễn hầu, phong Trung đẳng phúc thần(6).

Tóm lại Đặng Trần Diễm là tác giả sách Thiên Nam lịch khoa hội phú tuyển, còn Lý Trần Quán chỉ là người tu chỉnh lại đề đưa in Lý Trần Quán là dòng dõi Tiến sĩ Đặng Công Toản ở Thượng Yên Quyết chứ không phải là “cháu ngoại xa”. Ngoài ra tôi cung cấp thêm tư liệu về Đặng Trần Diễm và ba người con trai đều đỗ Tiến sĩ làm quan đại thần đời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786), đặc biệt các con đều do cha trực tiếp dạy (giáo tử đăng khoa) mà đỗ Tiến sĩ, nên cụ Diễm được vua Lê tặng phong Đại Lý tự thừa, gia tặng Đông các Đại học sĩ - một chức vụ chỉ dành cho những người đỗ đại khoa mà cụ Diễm chỉ đỗ trung khoa. Đây cũng là một gia đình vào loại hiếm dưới chế độ phong kiến.

CHÚ THÍCH

(1) Nxb. Văn hóa, H. 1984, tr.263.

(2) Tập I, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.332.

(3) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Sđd, tr.264.

(4) Do ông Đặng Trần Phát dịch năm 1945 (bản chữ Hán không rõ soạn năm nào).

(5) Tác giả Bùi Xuân Nghi, cử nhân khoa Đinh Mão (1867), Hàn lâm viện Thị giảng. Sách do Bùi Xuân Thọ dịch năm 1982.

(6) Nhân đây cảm ơn các ông Lý Trần Ba, Lý Trần Đà, Lý Trần Diên đã tạo điều kiện cho tôi về Lê Xá khảo sát về cụ Lý Trần Thản.

TB

LÊ ANH TUẤN THƯỢNG THƯ, NHÀ THƠ ĐẦU THẾ KỶ XVIII

NGUYỄN TUẤN LƯƠNG

Đầu thế kỷ XVIII, bên cạnh dòng văn học Nôm khuyết danh bắt đầu khởi sắc, văn chưong bác học nước ta nổi lên một tác giả tương đối lớn: Lê Anh Tuấn, vị Thượng thư đạo cao đức trọng của cuối triều Lê, vị bố nuôi tôn kính của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.

Lược truyện các tác gia Việt Nam (LT CTGVN) của Trần Văn Giáp chỉ thấy ghi: “Lê Anh Tuấn, hiệu Dịch Hiên, người làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong (?). Không rõ ông sinh, mất năm nào. Năm 1701, ông đậu Tiến sĩ, sau được sang sứ Trung Quốc, làm quan đến Hộ bộ thượng thư, tước Điện Quận công.

Tác phẩm của ông còn lại: một bài thơ cổ thể và 28 bài thơ cận thể (Văn) chép trong Toàn Việt thi lục (q.26, tờ 81) (NTL gạch dưới).

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin khép lại trong hai mục nhỏ mà Trần Văn Giáp đã nêu trên về Lê Anh Tuấn: tiểu sử và tác phẩm.

Theo văn bản Toàn việt thi lục (TVTL) A.132, Q.4, tr.80b (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) về tiểu sử Lê Anh Tuấn, thì ngoài những chi tiết đã nêu trong LTCTGVN, còn thấy nêu thêm những chi tiết sau:

- Lê Anh Tuấn đỗ Tiến sĩ năm Chính Hòa Giáp Tuất.

- Đi sứ Trung Quốc về được thăng chức Tả thị lang.

- Sau khi thăng Hộ bộ Thượng thư, tước Điện Quận công, thì ông được làm A tướng trong mười năm, sau đổi sang làm Thái tử Thái phó xuất Thái Nguyên, Lạng Sơn, đốc trấn hai xứ đó.

Sau phần tiểu sử trên, bộ TVTL, A.132/4 trên có chép tiếp 17 bài thơ cổ thể và một bài thơ cận thể dài 80 câu (chứ không phải là một bài thơ cổ thể và 28 bài thơ cận thể (văn) như LTCTGVN đã nêu). Những bài thơ đó tuần tự là:

1. Tư thân thuật hoài - cận thể thi (80 câu)

2. Bắc sứ trú Ngô Châu (Đường luật, 8 câu, 7 chữ)

3. Đăng Bình Nhạc ngưỡng Sơn Đình (nt)

4. Trú Quảng Tây thượng tuần phủ bộ viên Trần Nguyên Long (nt)

5. Quảng Tây án sát niên hi nghiên tống phiến, hồi thư đường thi thứ vận đáp tạ (nt)

6. Đăng Hoàng Hạc lâu (nt)

7. Đăng Hoàng Hạc Lâu vọng Hán Dương thụ (nt)

8. Đáo Hồ Khẩu huyện thị Nhạc vũ Mục vương Miếu (nt)

9. Tặng Hồ Khẩu hộ tống Trần (nt)

10. Thứ vận đáp bạn tống tự Ban Lan Tượng (nt)

11. Hạ Liêm quận công Nguyễn Quý Đức (nt)

12. Hạ Thi Khánh Bá Hoàng Công Thực (đường thi, thất ngôn bát cú, chép thiếu 2 câu thực).

13. Họa Trần Tố Am du Ngụ Thành thi - Quế Giang Xuân Phiếm (thơ 5 chữ, 8 câu).

14. Ngạc Trì dạng nguyệt (thơ 5 chữ, 6 câu)

15. Đáo Nam Kinh Giang Tây xứ sĩ Mã Cơ Tiên tặng thi, Thứ vận họa đáp (3 khổ thơ 4 câu, mỗi câu 7 chữ).

16. Tặng Lễ bộ lang trung Nghiêm Tất Vinh (tứ tuyệt)

17. Tống bạn tống Lan Tượng (tứ tuyệt)

18. Khuê Oánh Liêm Lão nữ thán cung họa (Thánh tổ ngự chế, gồm 10 khổ thơ tứ tuyệt). (1)

Đó là tất cả số bài thơ của Lê Anh Tuấn mà chúng tôi mới tìm thấy được. Bởi lẽ, ngoài bộ TVTL A.132/4 ra, 7 bộ TVLT khác ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm không hề thấy chép một bài nào của Lê Anh Tuấn (đã là các bộ TVTL mang những ký hiệu sau: VHv.117/1-2; VHv.1450/1-2; A.3200/4, A.393; VHv.778/1-2; VHv.703 à VHv.777/1-2).

Vì thế, không hiểu Trần Văn Giáp trong LTCTGVN đã thấy ở quyển 26, tờ 81 của bộ TVTL nào lại chỉ chép có một bài thơ cổ thể và những 28 bài cận thể của Lê Anh Tuấn? mà theo thiểu ý của chúng tôi ở địa vị một Thượng thư - Tiến sĩ và ở giai đoạn sáng tác của Lê Anh Tuấn, không thể tin rằng: tác giả đã quá coi trọng cận thể và quá xem nhẹ cổ thể đến như thế.

Còn việc xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của 18 bài thơ của Lê Anh Tuấn mà ta mới tìm được, xin để ở phần sau.

Về tiểu sử của Lê Anh Tuấn: cái dấu hỏi ở đằng sau câu “Lê Anh Tuấn người làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong (?) trong LTCTGVN, thì xứ đó vốn thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Sự thực là Lê Anh Tuấn có quê mẹ ở xã Quảng Phú , huyện Gia Lương, Hà Bắc hiện nay; Lê Anh Tuấn sinh ra ở đó. Hiện nay ở đó vẫn còn “Nghè quan, Thượng” (đền nhỏ thờ Thượng thư Lê Anh Tuấn). Còn quê thân phụ ông thì còn là một nghi vấn. Chỉ biết rằng sau khi thi đỗ tiến sĩ, Lê Anh Tuấn đã về ở quê mẹ, sau đó mới chuyển sang ở làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong như LTCTGVN đã ghi.

Lê Anh Tuấn cũng đã từng đi sứ Trung Quốc(2) và cũng đã từng dạy học ở Quốc Tử Giám. Trong đám môn sinh của ông ta thấy có Đoàn Doãn Nghi là học trò yêu. Thấy Đoàn Thị Điểm con Đoàn Doãn Nghi uyên bác, tài ba, sắc sảo, Lê Anh Tuấn nhận nàng về làm con nuôi. Cũng có thuyết cho rằng: Lê Anh Tuấn chưa hề bắt Đoàn Thị Điểm tiến cung bao giờ cả (?) (theo một tài liệu riêng của nhà sử học Hoa Bằng cho xem lúc cụ còn sinh thời).

Khi Lê Anh Tuấn còn làm Thượng thư thì con trai lớn của ông phải thi lại lần thứ hai mới đỗ, vì lần thứ nhất bị phát hiện gian lận bài vở, quan trường nể mặt Lê Thượng thư mà lờ đi cho, nhưng vẫn bị phát giác và hủy bỏ kết quả thi cử (theo Lê Quý Đôn của Bùi Hạnh Cẩn).

Tài liệu trên lại cho rằng: Lê Anh Tuấn đã có một thời gian có tư dinh ở phường Chu Tước, Thăng Long (phố Bích Câu, Hà Nội bây giờ). Lê Phú Thứ (thân phụ Lê Quý Đôn) cũng có nhà riêng ở đó. ông ngoại Lê Quý Đôn là Trương Minh Lượng, bạn thân của Lê Anh Tuấn thấy Đôn đĩnh ngộ nên thường dắt Đôn đến chơi nhà Lê Thượng thư để khoe cháu ngoại. ở đó, Lê Quý Đôn có giao tiếp với Đoàn Thị Điểm. Bà Điểm thấy Đôn hay chữ, khôi ngô, đã muốn tác thành cho cháu ruột của mình là con anh cả Đoàn Doãn Luân, nhưng Đôn đã từ chối.

Vẫn tài liệu ấy ghi thêm: Lê Anh Tuấn sau khi thấy Đoàn Thị Điểm thi thêu thùa gia chánh được giải cao, lại giỏi thi Phú, công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên muốn tiến bà vào cung. Nhưng Đoàn Thị Điểm đã không chịu nghe lời bố nuôi, bỏ về nhà sống với anh chị cả của mình là Đoàn Doãn Luân. Sau đó, vợ trước của Nguyễn Kiều chết sớm (đod là con gái của Lê Anh Tuấn), Nguyễn Kiều lại cầu hôn với Đoàn Thị Điểm (vẫn theo tài liệu trên của Bùi Hạnh Cẩn)

Cuối đời, Lê Anh Tuấn bị chúa Trịnh Giang bắt thắt cổ tự vẫn ở Lạng Sơn, khi ông còn làm Đốc trên ở hai trấn Thái Nguyên và Lạng Sơn, bởi chúa nghi ông có dính líu trong vụ nổi loạn của đám bò tôi Nguyễn Công Hãng chống lại chúa(3).

Cuộc đời làm quan của Lê Anh Tuấn cũng thật là “bơi trong bể hoạn”. Con người tài ba và khí tiết như ông thì làm sao có thể sống yên ổn trong một xã hội rối ren, chúa lấn quan, nông dân khởi nghĩa, mất mùa, giặc giã, chiến tranh. Đàng Trong, Đàng Ngoài, dân tình náo động... ở thế kỷ XVIII đã được?

*
**

Về giá trị nội dung và nghệ thuạt của thơ Lê Anh Tuấn: trên cơ sở 17 bài thơ cổ thể và một bài thơ cận thể (dài 80 câu) của họ Lê để lại, chúng tôi chỉ xin điểm xuyết một số ý kiến về giá trị nội dung và nghệ thuật của chùm thơ đã như sau:

Thơ của Điện Quận công Lê Anh Tuấn khá hay, uẩn súc và uyên bác , lại giàu tình người: khi tả cảnh, tả tình cũng lắm nét sinh động, bình dị và nên thơ. Ta thấy ngòi bút của ông đã không bị ràng buộc vào một khuôn khổ nào cả, mà tùy thuộc theo nội dung tình cảm, ý tưởng cảm xúc của mình trước hoàn cảnh thực, người thực tình thực, việc thực, tác giả đã chọn hình thức thích hợp để biểu hiện (khi thì cận thể 80 câu, Lúc lại Đường luật, khi thì tứ tuyệt, lục ngũ ngôn lục cú hoặc ngò ngôn bát cú v.v... ), chứ không phải chỉ có một mực thất ngôn bát cú như đa số các tác giả cổ điển khác đồng thời với ông. Cũng cần nhắc lại rằng: tác giả đỗ Tiến sĩ năm 1704, là lúc xu hướng cổ thể và luật thơ cổ còn rất chặt chẽ(4).

Trong bài Tư thân thuật hoài (cận thể 80 câu 7 chữ) thì ngoài những câu uẩn súc, trí lự, ta sẽ không khó khăn gì mà không tìm thấy nhiều đoạn, nhiều câu bình dị. Tác giả đã không hề dấu kín tâm tư, lên gân phong thái khi nhận mệnh vua đi sứ Trung Quốc, xa bố mẹ già, xa quê hương Tổ quốc. Theo đạo lý phong kiến thì:

Thần bộc ủy thân duy báo quốc;
Nam nhi thử nhật chính vong gia
(bài trên)
(Bề tôi phó mình cho việc nước;
Nam nhi ngày ấy phải quên nhà)(5)

để rồi:

Trữ lập giang biên địa nhất đầu;
Sa thùy miên để song châu lệ
(bài trên)
(Đứng sững bên sông trên mũi đất,
Bỗng đôi dòng lệ cúi mắt sa).

Cả 80 câu bài thơ trên đã tả thực, ghi thực lại tâm trạng, sự việc và phong cảnh trên đường đi sứ, đó là một tập “Nhật ký hành trình sứ giả” của tác giả. Nhiều đoạn như dựng lại cả một bức tranh:

Thiên lý mâu trung Già lĩnh thụ,
Nguyệt trướng thông tiêu cảnh viễn chiêm.
Kiên dư sổ cá hành nông lộ
Đăng trình mộ yết thị kiều viên ...
(bài trên)
(Non cao cây cỏ che ngàn dặm,
Trướng nguyệt thâu đêm động tiếng chim)(6)
Kiệu vai vài chiếc trên đường ruộng
Lên đường đêm nghỉ chợ cầu bờn...)

Có những câu vừa hay, vừa giản dị dễ hiểu như thơ cận đại:

Thu sơn, thu thủy tống thu thanh;
Thu diệp, thu tiêu não khách trình
(bài trên)

Và:

Tư tình, công nghĩa thành nan lưỡng
(bài trên)

Con người bộc trực nội tâm như trên, lại ở chức Thượng thư, á tướng của triều đình Lê Trịnh thì làm sao tránh khỏi tai vạ?

Ngoài con người của công cán và chức vụ, trong Lê Anh Tuấn còn có một con người khác, con người nghệ sĩ của nhà thơ:

Mộ tán lạc hà lung nhạn quán ;
Tình phô quải luyện bức giang lâu
Bài Bắc sứ trú Ngụ Châu
(Chiều tản ráng rơi trùm quán nhạn;
Sáng phô vải một quấn lầu thuyền).

Hoặc trong bài Ngạc trì dạng nguyệt (nước xao động đầm Ngạc) sau đây thì thực sống động, óng chuốt chúng tôi đã cố gắng dịch thật sát):

Gác vượt soi mặt nước,
Trăng nổi trên bềnh bồng.
Sóng vàng giao ngọc quí,
Lạnh thấu áo cừu lông.
Xôn xao tay khó vốc,
Muốn chảy, nước binh boong (7)

Nói chung khi đi sứ Trung Quốc là phải xa nhà, nhớ mẹ cha, vất vả; nhưng cũng không phải không có những phút “Thiên thai”, “nhập Đào nguyên” này:

“Nước xuân mênh mông rộng,
Vung chèo vượt dòng trong
Thuyền vào hoa đào sóng,
Gió đưa lá thuyền con”(8)
Bài Quế Giang xuân phiếm.

Phong thái bình dị, xuề xòa của Lê Anh Tuấn còn bộc lộ ở khía cạnh: là một bậc Thượng thư, sứ thần, mà ông đã không câu nệ, không kênh kiệu trong việc xướng họa và thực lòng tôn trọng kẻ dưới. Trong bài Tặng Hồ Khẩu tống Trần (Tặng ông quan hộ tống họ Trần ở Hà Khẩu, Trung Quốc), giọng thơ của ông thật là thân thiết, tri âm:

Trường An mỗi hỉ ngộ tri âm,
Hà sự phân kỳ náo khách tâm?
Hồ khẩu nhất phàm thiên lý cách,
Bồng song có nguyệt ngũ canh thâm.
(Trường An mừng gặp bạn tri âm,
Sao cứ phân ly não khách lòng?
Hồ khẩu một buồm ngàn vạn cách,
Cửa bồng, trăng lẻ, hận năm canh)

Hoặc trong bài Thứ vận đáp bạn tống lự Ban Lan Tượng (Tiếp vần thơ đáp lại người theo tiễn có tên tự là Ban Lan Tượng), tác giả cũng đã nồng hậu viết:

Âm thanh khác biệt chẳng thông nhau,
Tình bạn lâu rày hội ngộ đâu.
Thu đến, trăng sông, ai có thấu;
Hạ qua, mây núi, khách hòa câu.
Cổ xanh liền Phố Nam vô vị;
Ve lạnh kêu thương gió Bắc sầu.
Ngàn dặm thơ - ngân trong mộng ruổi,
Sáu năm nên gửi nhớ về nhau(9)

Lê Anh Tuấn cũng có nhiều bạn thân thiết khác nữa. Ông tôn trọng những người nghèo mà không hèn, giàu lòng trung thực:

Gia cư miễn vật vọng trung cáo,
Thánh đức hân kim thị thính khai
(Cảnh nhà cố gắng chí quên nói điều trung thực;
Đức thánh (của ông) mừng nay được nghe thấy rõ rệt).
Bài Hạ thi Khánh Bá Hoàng Công Thực.

Cũng như những nhà thơ lớn khác của dân tộc, Lê Anh Tuấn không quên hình ảnh của phái yếu, phái đẹp trong thơ mình. Trong mười khổ thơ (mỗi khổ 4 câu 7 chữ) của bài Khuê oán Liêm lão nữ thán cung họa (Kính họa lại bài thơ: “Bà lão Liêm oán thán trong khuê phòng”), tác giả đã thương xót, kêu thương hộ cho thân phận một người phụ nữ tài đức bị đời bạc đói. Bài thơ này thực khó làm vì là thơ họa thơ vua, lại chỉ được hạn chế trong ba vần “Thu, Du, Dầu” trong cả mười khổ thơ; thế mà với bút pháp tài ba của tác giả, bài thơ đọc hết cũng không hề bị nhàm chán; nhiều câu hay, giàu chất trữ tình và óng chuốt:

Thu ý phiêu lương yến khứ du,
Khách tương khinh tiệp táp trung thu,
Hàm tình đối ảnh lân xuân tứ,
Phao khước hương sơ lại lý đầu
(Ý thu lạnh thổi, én bay đâu,
Gió nhẹ khách mang, lượn nhặt thâu,
Ngậm tình đối ảnh thương xuân ý,
Lược thơm vất, nản gãi lên đầu...)

Cảm thông với người và thương thân. Phải chăng khổ thơ sau đây cũng lấy ra từ bài Khuê oán Liêm Lão nữ thán, tác giả cũng đã muốn gửi gắm tâm sự riêng tư:

Tổng giác sinh thành tuế nguyệt du,
Nhật kinh câu khích điệt thành thu.
Giá y Lãng vị tha nhân tác,
Loạn mạn quân sinh thập chỉ đầu
(Tóm lại cuộc đời năm tháng trôi,
Giật mình vó ngựa vụt qua rồi !
Đổi áo phỏng làm người khác lạ,
Tơ vò rối bó ngón tay thôi!)

Lòng rối bời như mớ tóc bạc bó chặt lấy mười đầu ngón tay; cuộc đời tác giả hanh thông là thế mà kết cục cũng chỉ đón lấy một cái chết “bất đắc kỳ tử” như thế! Đó là một cái chết thảm khốc như bao nhiêu nhân cách tùng trúc khác dưới triều Lê Trịnh thế kỷ XVIII ! Tiếng kêu uất nghẹn của một trung thần - trung với vua Lê, với dân với nước - bị mắc nạn đã toát lên trong bài Đáo Hồ Khẩu huyện thị Nhạc Vũ mục vương miếu (Đến huyện Hồ Khẩu là miếu Nhạc Vũ mục vương):

Trung hồn cảnh cảnh thiên niên tai
Thời hám giang đầu tiết nộ âm!

(Trung hồn rỡ rỡ ngàn năm đó,
Mắc nạn, gào vang sóng giận đây!)

Lê Anh Tuấn: Thượng thư, nhà thơ ở đầu thế kỷ XVIII còn là một hiện tượng văn học cần tiếp tục nghiên cứu, khai thác thêm nữa. Bài viết này chỉ mới khởi sự mà thôi !

Tháng 4 - 1990

CHÚ THÍCH

(1) Có lẽ là những bài thơ trích từ Sứ họa tập của Lê Anh Tuấn mà ông Bùi Hạnh Cẩn đã nêu lên ở trong cuốn Lê Quý Đôn tr.107 (Nxb. Văn hóa, H. 1985)

(2) Theo Lê Quý Đôn của Bùi Hạnh Cẩn, Nxb. Văn hóa, 1985, tr.16 ghi: “Lê Anh Tuấn đi sứ Trung Quốc về đã được chúa Trịnh Lương khen thưởng, thăng chức cùng với Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Công Cơ và hơn 10 người khác. Lê được chúa tin dùng”

(3) Trịnh Giang hoang dâm vô độ, nghe lời dèm pha của bọn hoạn quan đã hãm hại Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hãng, Lê Trọng Thứ, Bùi Sĩ Tiên, Vũ Công Trấn, Đáo Hoàng Thục, Trần Hiền...

(4) Trong 18 bài thơ đó, ta thấy có 11 bài thất ngôn bát có; 4 bài cận thể; 2 bài thơ ngò ngôn (1 bài 8 câu, 1 bài 6 câu), 1 bài gồm 3 khổ thơ 4 câu 7 chữ; 2 bài tứ tuyệt 7 chữ và 1 bài tứ tuyệt khác gồm 10 khỗ 7 chữ).

(5) Dịch ra thơ trong bài viết này (từ đây trở xuống) đều là của Nguyễn Tuấn Lương.

(6) Tiếng đập vải.

(7) Nguyên văn chữ Hán: “Đình các lâm trì khóa; Tri bình nguyệt ảnh phù, Kim ba giao ngọc vũ; Hàn khí bức khinh cừu, Liễm diễn nhân nan các; Linh long thủy dục lưu”.

(8) Nguyên văn “Mang mang xuân thủy khoát, Kích tập độ tiền xuyên. Trạo tiến đào hoa lãng, Phong quải vi diệp thuyền”.

(9) Nguyên văn chữ Hán “Thanh âm thiên hận bất tương thông. Tâm khiết tòng lai thị hãn phùng. Hạ khứ, lĩnh vân hòa khánh đối. Thu lai, giang nguyệt dữ thùy đồng. Vụ liêu lục thảo liên Nam phố; Cự nãi hàn thiền táo Bắc phong, Thanh vận y y thiên lý mộng. Lục niên ưng hữu ký lân hông”./.

TB

PHONG DAO TẠP THÁI
MỘT QUYỂN CA DAO CỔ

NGUYỄN ĐĂNG NA

Phong dao tạp thái là một quyển ca dao cổ, viết bằng chữ Nôm, ra đời khoảng giữa thế kỷ XIX - đầu năm 1872. Sách cung cấp cho ta một số tư liệu về thơ ca dân gian, cũng như các tư liệu về ngôn ngữ, về chữ Nôm... Bởi vậy, chúng tôi thấy cần giới thiệu công trình sưu tập này.

1. Phong dao tạp thái nằm trong bộ gia phả họ Đặng thuộc chi thứ 3, quê tại xã Hành Cung nay là Hành Thiện(1). Bài tựa cho biết, Đặng Đức Cường biên soạn bộ gia phả này, viết xong ngày 21/ 10 năm Thành Thái thứ 10, tức là năm 1898 tại lỵ sở Bắc Giang và người sưu tập quyển Phong dao tạp thái là cụ huyện Tam Nông.

Cụ huyện Tam Nông là ai? Theo Hành Thiện xã chí, thì Đặng Đức Cường đỗ cử nhân năm 1888. Gia phả chỉ ghi lại 4 đời và đời cuối cùng là Đặng Đức Chính - Tri huyện huyện Tam Nông, cha của Đặng Đức Cường. Đặng Đức Chính sinh được 10 con trai, Đặng Đức Cường là con thứ 3. Vậy trước hết theo gia phả có thể khẳng định rằng tác giả Phong dao tạp thái không phải ai khác, chính là Đặng Đức Chính.

Đặng Đức Chính tự là Thiên Phủ, hiệu là Bỉnh Đạo sinh năm Quý Dậu 1813, mất năm Nhân Thân (1872) đỗ Cử nhân khoa Tân sửu (1841), từng làm giáo thụ Hoằng Hóa và Thọ Xuân (Thanh Hóa) và thăng tới chức tri huyện huyện Tam Nông. Năm 1854 quân khởi nghĩa Mỹ Lương đã chiếm huyện Tam Nông. Bởi để Tam Nông thất thủ, tri huyện Tam Nông Đặng Đức Chính bị truất chức. Sau một thời gian ông lại được gọi ra, phục bổ Hàn lâm điển tịch, rồi về hưu, vui thú cùng với tùng, cóc ở nhà làm thơ, dạy dỗ con cái. Trong gia phả còn chép một số bài thơ chữ Hán của ông. Như vậy, Phong dao tạp thái không thể ra đời sau 1872 - năm Đặng Đức Chính mất. Xét về thời gian, Phong dao tạp thái ra đời sau Nam Phong giải trào của Trần Danh án(2), trước Thanh Hóa quan phong của Vương Duy Trinh(3) và gần như đồng thời với Quốc phong thi tập hợp Thái của các tác giả Nguyễn Đăng Tuyển(4) Ngụy Khắc Tuân(5)…, Nhưng Thanh Hóa quan phong khắc in năm 1903 còn Nam phong giải trào Quốc phong thi tập hợp Thái lại khắc in năm 1910. Đứng về mặt văn bản học mà nói, có thể coi Phong dao tạp thái là văn bản giữ được trạng Thái cổ nhất so với các tác phẩm kể trên vì nó được cố định hóa từ 1872. Trên mặt văn bản không hề có sự sửa chữa, khuyết điểm.

2. Sách Phong dao tạp thái dày 33 tờ, khổ 27,5x15,5cm, không có bìa, không đánh số tờ, không lời tựa, mỗi tờ viết 2 mặt, mỗi mặt viết 7 dòng thẳng đứng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái và nổi rõ mấy đặc điểm sau:

a) Chữ Nôm trong Phong dao tạp thái được viết theo 2 kiểu thông thường: kiểu chữ đơn và kiểu chữ có thể chia thành thành thành tố với 2 xu hướng ghi âm và biểu ý. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy rõ một số nét:

- Chữ “thời” bị viết húy dưới 2 dạng: bớt nét hoặc đảo trật tự.

- Chữ “cuội” được ghi âm bằng 2 con chữ: tử + hội (Một trăng mấy chú cuội ngồi); chữ “chữa” trong câu “Thầy khỏe thầy chữa người ta” được ghi âm bằng một tín hiệu biểu ý và một chữ Nôm; chữ muôn trong câu “Tiền bạc muôn sự của chung” được ghi âm bằng chữ man (man rợ).

- Khá nhiều chữ có phụ âm đầu vần là “l” được ghi thành “n”. Chẳng hạn chữ “lên” trong câu:

Nên ra bà mối bà manh;

Chẳng nên bà mối lên cành ngọn tre, thì “lên” được ghi âm thành “nên” gồm 2 thành tố niên + thành. Chữ “lên” trong câu “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên cũng được ghi như vậy. Song không phải người viết bị ngọng, hoặc không phân biệt được l với n bởi chữ “lên” trong các câu:

Ước chi ta được lên trời
Ta làm ông sấm cho người trần kinh

hoặc

Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai.

vẫn viết đúng là “lên” (chữ thăng + chữ liên).

b) Phong dao tạp thái còn tại khá nhiều từ cổ. Xin dẫn ra vài trường hợp.

Tay tiên bợ chén rượu đào,
Chẳng uống thì tiếc, uống vào thì say.

Nước trong ai chẳng vả chân,
Hoa thơm ai chẳng đứng gần gốc cây.

Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời v.v...

hoặc các câu:

Tha hồ Thiên hạ đồn hòa
Bao giờ trăng tỏ vào nhà sẽ hay.

Chim khôn đỗ ót nhà quan,
Trai khôn tìm vợ gái ngoan tìm chồng...

3. Phong dao tạp thái gồm 310 bài (không kể 1 bài trùng) trong đã có 78 bài có từ 4 câu đến 6 câu(6), được viết cùng một kiểu chữ trên cùng một thứ giấy. Điều đó chứng tỏ rằng, sách do một người viết, không có sự thêm thắt của đời sau. Người sưu tầm đã chia sách thành 57 đề mục theo nội dung, như: Những câu nói ước ao; Những câu nói về đường danh lợi; Những câu khuyên đàn bà; Nói về tình cảm người lính v.v... Nhưng do tác giả sưu tầm đến đâu thì ghi vào đến đấy, nên nhiều đề mục bị trùng, chẳng hạn Những câu nói phong tình lặp 4 lần ở các đề mục số 2, 6, 48 và 57. Do vậy, số đề mục thực chất chỉ còn ngót 30. Cách phân chia các bài tuy còn nhiều vấn đề phải bàn, nhưng theo chúng tôi, cho đến nay, có lẽ Phong dao tạp thái là công trình sưu tầm ca dao đầu tiên được phân loại theo nội dung chủ đề.

Khuynh hướng chung thể hiện trong Phong dao tạp thái là tác giả thiên về sưu tầm những bài ca tình nghĩa: đạo làm người; tình vợ chồng; nghĩa bè bạn; tình yêu trai gái... Nói về tình vợ chồng (82 bài) tình yêu trai gái (54 bài) tỷ lệ chiếm ngót 44 % (236/310 bài). Phần lớn những bài ca dao trong Phong dao tạp thái bình dị, đậm đà chất dân dã. Đọc nó, ai cũng dễ nhận thấy:

a) Không có bài nào nói về Hà Nội hoặc cảnh vật, phố phường Hà Nội, phải chăng tác giả chưa từng ở Hà Nội nên không sưu tầm được. Hơn nữa, trong số 310 bài không thấy có bài nào nói đến hình ảnh con cò, mặc dù có nhiều bài nói đến con trâu, con bò, con chó, con rùa... Nên bài “Con cũ lặn lội bờ sông” ra đời từ thời Mạc, thì lẽ nào không lọt vào Phong dao tạp thái lấy 1 câu ? Phải chăng những bài ca về con cò chỉ được phát triển sau bài:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đề đông ?

của cụ Tú?

b) Phong dao tạp thái rất ít bài dùng điển cố. Chỉ có 4 điển dùng trong 5 bài, nhưng toàn là những điển thông thường, lại được đặt trong những câu dễ hiểu. Đó là các điển: gương Tư mã, gió Cát Đằng, cầu Ô trong các câu:

- Hoài tiên cho cú nó vò,
Hoài gương tư mã cho bò nó loi.

Ai lên cho đến cung trăng,
Để ta mượn gió Cát Đằng đưa duyên.

Muốn sang thì bắc cầu Ô,
Muốn con hay chữ tìm cô cho thầy...

Nhìn chung Phong dao tạp thái rất mộc mạc. Ta hãy đọc thêm các câu:

Ai ơi từ vãi chí sư,
Chẳng lên Hương Tích cũng hư mất đời.

Có con mà gả chồng gần,
Nửa đêm đánh đuốc đưa phần cho cha...

Ngoài ra, tác phẩm cũng không có những bài mượn hoặc mang dấu tích các truyện Nôm như kiểu: “Đôi ta là ngãi Phan Trần”, “đôi ta như thể Kim - Kiều”. Duy có hai bài giống trong Truyện Kiều, đã là:

Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng.

Nhưng thật thà vị rằng, chính bài này cũng có trong Thanh Hóa quan phong. Bài thứ hai là:

Miệng thì nói nói cười cười,
Bụng thì thâm hiểm giết người không gươm
Miệng thì thưa thớt đãi người,
Bụng thì như cửa đóng mười lần then.

Vậy thì, những bài này từ Truyện Kiều đi ra dân gian hay từ dân gian đi vào Truyện Kiều ?

c) Tính dị bản là đặc trưng của văn học dân gian. Nhưng nếu có những văn bản được định hình sớm, ta có thể đối chiếu để đi tìm con đường phát triển của thơ ca dân gian.

Trước hết, những dị bản trong Phong dao tạp thái so với những bài ca dao sưu tầm sau này phần nhiều chỉ ở từ ngữ diễn đạt những ý cụ thể, trực cảm, chẳng hạn:

Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu nặng mình.

Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn
Gái nuôi chồng ốm lưng tròn như vo.

Vai kia gánh lắm cũng chồn,

Người kia nói lắm có khôn đâu mà.

Hơn nữa, những dị bản trong Phong dao tạp thái phần nhiều mộc mạc, thô sơ. Ta có thể coi bài sau đây là một ví dụ tiêu biểu:

Ba năm trên thủ lưu đồn,
Ban ngày canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tra, đẵn gốc trên ngàn,
Than thân rằng, biết phàn nàn cùng ai.
Phàn nàn những trúc cùng mai,
Măng giang, nứa ngộ lấy ai bạn cùng!

(bài này cũng có trong Thanh Hóa quan phong nhưng 3 câu cuối có khác).

Tuy nhiên, có những dị bản khá hay và độc đáo. Chẳng hạn bài:

Yêu nhau cau nõn bỏ ba
Ghét nhau cau nõn bỏ ra làm mười.

Đặc biệt dị bản bài sau đây giúp ta hiểu thêu đáo hơn một bài ca bấy lâu nay vẫn được truyền tụng:

Rủ nhau lên nói đốt than
Anh đi Tam Điệp, em men non Trình
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin đừng xa nhau.

“Anh đi Tam Điệp, em men non Trình” thì đúng là một đôi tình nhân “rủ nhau lên núi đốt than” (chữ men được viết là man (man rợ), còn chữ non vẫn viết là non để chỉ núi, không thể đọc nón cái nón như sau này: Anh đi Tam Điệp, em mang nún Trình. Trong Thanh Hóa quan phong thì lại viết là chữ mang: Anh đi Tam Điệp em mang nón Trình. Nhưng ở Thanh Hóa xưa, a đọc thành e.

Có một số dị bản khá đặc biệt liên quan đến quá trình phát triển thơ ca dân gian.

Bài thứ nhất:

Đêm hôm qua thiếp mới hỏi chàng:
Tre non đủ lá đan sàng được chăng?

Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre non đủ lá chưa đan được sàng!

Bài này trong Thanh Hóa quan phong nguyên văn vẫn như vậy. ở đây không thể có sự lầm lẫn, bởi viết Nôm hai chữ thiếp và chàng rất khác nhau, hơn nữa cả hai văn bản của Vương Duy Trinh và Đặng Đức Chính đều viết giống nhau. Ta loại trõ khả năng viết nhầm. Tre non đủ lá đan sàng được chăng? ” là câu người con trai hỏi người con gái, và giờ đây người con gái đem chính câu hỏi đó để hỏi lại người con trai. Thực ra “đan sàng thiếp cũng xin vâng” nhưng vì chàng kênh kiệu trút hỏi hớ hênh Tre non đủ lá đan sàng được chăng? nên người con gái tỏ rõ cái đáo để của mình bằng cách đạy lại:

Tre non đủ lá chưa đan được sàng !

Nếu không có bài thứ 2 sau đây rất có thể cho rằng người viết suy diễn:

Trách cha trách mẹ nhà nàng,
Cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau.
Vàng đây chẳng phải thau đâu,
Xin đừng thử đá mà đau lòng vàng.

Trước hết chúng ta có thể khẳng định rằng, không có sự nhầm lẫn giữa chữ nàng với chàng được bởi hai chữ rất khác nhau như đã trình bày trên kia. Như vậy, nhân vật trữ tình trong bài phải là người con trai. Điều này càng được khẳng định trong cách xưng hô ở câu 3:

Vàng đây chẳng phải thau đâu

Phải chăng đây là bài ca nằm trong hệ thống những bài than thân của các chàng trai phải đi ở rể:

Nhà em lắm ruộng nhiều đồng,
Bắt anh tát nước cực lòng anh thay.

Thân anh làm rể Chương Đài,
Một năm ăn hết 12 vại cà...

Khi chế độ nam tôn nữ ti ra đời thì những bài ca than thân của người con trai chuyển thành bài than thân của người con gái, bởi chuyển đổi chàng thành nàng.

Ngoài những dị bản nêu trên, trong Phong dao tạp thái có một số bài ít người biết đến, chẳng hạn:

- Mưa râm chẳng lọ là cơn,
Có chồng đểnh đoảng còn hơn không chồng.

Hoài tiền mua pháo xịt ngòi,
Mua hương chẳng cháy, mua còi chẳng kêu.

CHÚ THÍCH

(1) Sách do ông Đặng Đức Thọ, kỹ sư công trình cầu Thăng Long cất giữ. Xin xem thêm Nguyễn Đặng Na Một cuốn ca dao cổ mới tìm thấy, báo Nhân dân, số 11763 ngày 21/ 9/ 1986.

(2) Trần Danh án người Bảo Triệu, Gia Bình, Hà Bắc, sinh năm 1751, mất năm 1794 đỗ Hoàng Giáp năm 1781.

(3) Vương Duy Trinh, người Phú Diễn, Từ Liêm, Hà Nội, đậu Cử nhân năm 1870, làm tổng đốc Thanh Hóa.

(4) Nguyễn Đăng Tuyển, người Hoài Thượng Tiên Sơn, Hà Bắc, đậu Tú tài năm 1836, từng làm Tri phủ Thuận Thành, Hà Bắc.

(5) Ngụy Khắc Tuần, người Xuân Viên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, sinh năm 1789, đỗ Tiến sĩ năm 1828, từng làm Thượng thư bộ Hộ.

(6) Chúng tôi tạm dùng khái niệm “bài”, có người gọi là “đoạn” hoặc “khổ”. Chúng tôi tạm dùng khái niệm “câu” để chỉ một dòng ca dao./.

TB

LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC CỦA VŨ TRINH

Vũ Trinh (1759 - 1828) tự là Duy Chu, hiệu là Lai Sơn, Nguyễn Hanh, Lan Trì ngư giả, người làng Xuân Lan, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đỗ Hương cống đời Lê, làm quan cho Lê Chiêu Thống. Khi Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông không theo kịp lui về ở ẩn dạy học. Gia Long đánh bại Tây Sơn, ông vào Phú Xuân (Huế) giữ chức Thị trung học sỹ. Năm 1809 ông sang sứ nhà Thanh, khi trở về nước nhận trách nhiệm soạn bộ Hoàng Việt luật lệ cùng với Nguyễn Văn Thành. Năm 1816 khi Nguyễn Văn Thành bị tội, ông cũng bị đầy vào Quảng Nam. Năm 1828, được tha về quê vài ngày thì qua đời.

Lan trì kiến văn lục là sưu tập những mắt thấy tai nghe trong thời gian Vũ Trinh lui về dạy học khi ở ẩn, phần lớn là những chuyện dân gian ít nhiều có chất ly kỳ, tiếp nối truyền thống những truyện “truyền kỳ” của Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả...

Dưới đây, chúng tôi chọn dịch 8 truyện trong tác phẩm Lan trì kiến văn lục để bạn đọc có một ý niệm về cây bút Vũ Trinh, tác giả của Cung oán thi tập, Sứ Yên thi tập v.v...

ÔNG TIÊN ĂN MÀY

Người trong thôn là Nguyễn Ất, hồi nhỏ mồ côi cha mẹ, phải sống với anh. Anh là Giáp, tính tham lam keo kiệt. Chị dâu cũng thô bạo xấu xa. Khi ất trưởng thành, ra ở riêng, thì gia tài của cha để lại bị anh chiếm cả. ất chỉ được chỗ ruộng xấu và gian nhà nót thôi. Chàng phải đi làm thuê kiếm củi nuôi thân, đã ngoài hai mươi tuổi, vì nghèo quá vẫn chưa lấy được vợ. Người anh chẳng đoái nhìn đến em, mà em cũng không xin xỏ gì anh.

Ở thôn bên cạnh, có một phú ông. Ất thường hay làm mướn cho nhà ấy, lâu dần thành quen. Phú ông có mảnh đất hoang, Ất xin ra ở đó, rồi đem bán chỗ cơ ngơi cũ của mình mà đi. Từ đó, lại càng xa Giáp hơn, cả năm cũng không gặp mặt nhau.

Ất tuy nghèo nhưng ưa làm điều việc thiện, gặp ai khốn khó, thường cấp đỡ cho. Một hôm Ất đi làm mướn về muộn, thấy một người nằm giữa cửa nhà mình, lay gọi, thì người đã rên rỉ không dậy được. Lấy đèn soi, thấy người ấy, già nua gầy còm, mặt đầy dỉ mắt, dỉ mũi, tanh tưởi hôi hám, nhớt rãi nhổ đầy đang còng queo trước cửa. ất nâng dậy và hỏi nguyên do. Người đó nói là người thôn bên, nghèo đói, bệnh tật phải đi xin ăn, chiều tối đến đây, mệt mái, buồn ngủ, xin mượn một chỗ để nằm nghỉ một đêm. ất mở cửa đỡ vào, cho uống nước thang, người ấy hơi tỉnh. Rồi ất đi trải chiếu xếp gối cho nằm. Nêu nướng xong ất lại gọi dậy cùng ăn. Người già tuy ốm mà ăn rất khỏe, ăn đến hàng đấu mà vẫn kêu đói, ất nhường cho ăn cả. Ăn xong, người đã xoa bông nói: “No rồi, con Lão bất hiếu, không nuôi lão, lão mà có đứa con như ông thì lão toại nguyện rồi”. Nói xong nằm dài ra ngủ, tiếng ngáy như sấm, tỉnh dậy thì luôn miệng khạc nhổ, lục đục suốt đêm, mà ất không hề cáu giận. Sáng sớm hôm sau, cụ già dậy, ất lại sắp cơm nhưng cụ già ngăn lại, nói “ông ưa làm việc thiện, không đáng phải chịu nghèo, một bữa cơm cho, không thể không báo đáp”. Rồi lấy chân hứng lên mũ quay lại bảo ất lấy cán gáo đánh vào mũi mình. ất không chịu, cụ già bảo mãi, ất đánh vài cái máu từ mũi cụ già chảy ra, ất sợ quá ngừng tay, cụ già lại bảo “cứ đánh nữa đi”. Máu ngừng chảy, thì vàng tràn đầy chén. Cụ già nói “Giữ lấy vàng thì sẽ giàu có, hãy gắng làm việc thiện, chí có đổi lòng. Ất kinh ngạc, phục xuống vái lạy, đến khi ngẩng đầu lên thì cụ già đã đi mất rồi.

Ất được vàng, nhưng vẫn giữ kín đến nhà phú ông vay tiền, nói là để đi buôn, rồi bỏ vàng vào túi lên kinh đô bán vàng. Mỗi năm ba bốn bận, bán hết nửa số vàng được tới tiền vạn. Rồi chàng từ biệt phú ông trở về quê quán, chuộc lại chỗ đất xưa dần dần mua ruộng, làm nhà, nuôi con hầu đầy tớ, phá ngôi nhà cũ xây lại, giàu có nhất làng. ất lại tới nhà anh, bàn chuyện xin lấy con nhà giàu sang. Khi Ất mới về, đến thăm anh chị, hai người đón tiếp rất lạnh nhạt. Đến khi thấy người em giàu có, hai người tới xem thì túp lều nát đang xây thành tòa nhà lớn sắp xong, lại mua đất nhà xung quanh làm vườn. Nhân công, đầy tớ vận chuyển gỗ đá nườm nượp không ngớt. Anh chị kinh ngạc hỏi nguyên do, Ất kể lại đầu đuôi câu chuyện. Anh chị tấm tắc khen ngợi, dò hỏi kỹ hình dạng tuổi tác cụ già, và luôn luôn để ý tìm tòi.

Hơn một năm sau, hai người từ đồng về nhà, gặp một cụ già đội mũ vàng, mặc áo rách, khập khiễng đi qua. Vợ chồng Giáp tranh nhau dìu vào nhà, ép ngồi lên trên, chẳng còn kịp hỏi xem đi đâu, giết gà nấu cơm, mổ cá làm gái tiếp đãi rất hậu. Cụ già bối rối không dám nhận, hai vợ chồng Giáp lại càng cung kính khoản đãi, và nói “Nếu được cả lỗ mũi của Tiên ông thì đệ tử ăn cả đời không hết”. Cụ già không hiểu nói gì chỉ biết từ chối, nói mình không phải là tiên thôi. Sớm hôm sau, cụ già từ biệt ra đi cũng chẳng có gì tặng lại cả, Giáp giữ ngay lại, đem nồi đặt trước mặt cụ già dùng dùi đục đánh vào mũi. Cụ già sợ hãi né tránh. Giáp nói “Tiên ông không biết, đệ tử không xin nhiều vàng, chỉ xin đầy nồi này thôi”. Nói rồi sai vợ giữ chặt tay cụ già, dùng dùi phang thật lực vào mũi, máu chảy lênh láng. Giáp cả mừng bảo vợ “Đúng như lời chú em nói Vàng sắp đến đấy”. Đánh liền mấy dùi, cụ già gẫy cả răng, kêu gào cứu mạng. Hàng xóm xung quanh chạy đến đầy nhà không hiểu tại sao, hỏi vợ chồng Giáp, thì cả hai đều sợ, không trả lời. Hỏi cụ già mới rõ. Nhưng vẫn không biết rõ tại sao khi đầu thì hai người cung kính là thế, mà đến sau lại thô bạo như vậy.

Cụ già làm người bán tương ở thôn bên. Giáp ngày thường tham lận, cả làng đều ghét. Có người chạy đi báo cho người con cụ già. Người con theo đến, thấy cụ già bị Giáp đánh, nổi giận lập tức kéo cụ già và cả hai vợ chồng Giáp lên gặp quan. Quan theo luật đánh đòn thật nặng hai vợ chồng Giáp, bắt đền tiền cụ già theo đúng luật pháp.

THẰNG TRỘM

Chợ Xuân ở huyện Gia Phúc là xứ đô hội của đất Hải Dương, bọn thương nhân thường đậu ở đó, có hai dãy điếm cho khách ngủ trọ. ở thôn gần đây, có thằng trộm, biệt hiệu là “Khóa mèo” có lắm ngón quỉ quyệt gian trọ. ở mỗi điếm trọ, (người ta đều làm chiếc quầy lớn, khách tới trọ) đều phải bỏ hành lý vào quầy rồi khóa lại.

Năm Cảnh Hưng, Quý Mùi, có một khách thuê trọ, hành lý rất nặng. Lúc sắp ngủ, nhà trọ dặn là quan khách mang theo hành lý, hoặc tiền bạc thì gửi cho nhà hàng, ở đây trộm cắp rất thủ đoạn, không thể xem thường. Khách cười, nói “Tôi có vàng mà không giữ được hay sao. Việc gì phải phiền đến nhà trọ nhắc nhở”. Nói rồi, mở túi ra, dưới ánh đèn, bạc trắng sáng tỏa, bày ra khắp chiếu, ước tới bốn năm trăm lạng, rồi lại thu hết cho vào hành lý, đặt ở đầu giường mà ngủ.

Trộm ta đã nhòm qua khe cửa từ trước, đến khi mọi người yên giấc, mới khoét tường vào nhà nằm phục dưới gầm giường làm trò mèo bắt chuột. Lúc lâu sau, lại ở bên chân khách, bắt chước tiếng mèo cắn chuột, thỉnh thoảng lại lấy gai đâm vào chân khách, khách nổi giận, co chân đạp. Thằng trộm bắt chước kiểu chuột bỏ chạy, đợi khách khẽ ngủ lại làm như trước. Khách nổi giận ngồi phắt dậy, thằng trộm nghe tiếng động trên giường, biết khách đã dậy liền vớ ngay túi bạc trên đầu giường chạy ra. Khách đợi mèo không tới nằm xuống sờ gối thì gói bạc đã mất rồi, liền gọi nhà trọ đốt đèn lên, và nói “Bạc của tôi bị kẻ trộm lấy rồi”. Chủ trọ trách khách không giữ cẩn thận. Khách nhìn lên mái nhà thấy có một cái nơm rất to, liền nói: “ông chủ không lo. Đây là trộm gần. Tôi xin cái nơm này. Ông cứ đốt đèn chờ tôi một lúc, tôi sẽ đem bạc về, không liên can đến ông đâu chỉ khổ cho tôi là đêm nay không được ngủ ngon”. Nói rồi, đem nơm ra cửa, trèo lên cây nhìn ra xa, nghe thấy thôn bên có tiếng chú sủa, liền đi về phía đó thấy trong rặng tre, có một ngôi nhà đèn còn đương sáng. Khách lẻn qua rặng tre, mở toang cổng ngoài, đi tới ngôi nhà dòm vào thì thấy tên trộm đang đếm bạc với vợ dưới án đèn, tên trộm cười nói vui vẻ, tự khoe là cao thủ. Khách gõ cửa bật lên tiếng cười. Tên trộm kinh ngạc hỏi ai đó. Khách trả lời: “Em, trộm đây, nghe nói anh được món hời lớn, đến xin anh chia cho”. Tên trộm nổi giận, nói: “Thằng chết tiệt ở đâu, dám đòi chia thịt trước miệng hổ”. Nói rồi, tìm gậy đi ra, quay lại bảo vợ: “Hãy giữ tiền cho tao, tao đi giết thằng đó”. Khách giả vờ bỏ chạy, nhưng lại phục ở đó, tên trộm thấy cổng mở toang, liền chạy đi đuổi. Khách lẻn vào, lấy nơm úp lên đầu vợ tên trộm, phá hòm lấy bạc đem về. Lúc ấy ở nhà trọ, đèn vẫn còn sáng. Tên trộm chạy đuổi trên đường cái không thấy gì, quay trở lại, thì vợ đang mang nơm nằm đó, hòm bị phá bạc đã mất, hỏi biết mọi việc, mới cả kinh, thán phục.

Sáng sớm hôm sau, khách đang rửa mặt, chải đầu, có người tới vái trước mặt mà nói “Tôi là tên ăn trộm, làm nghề này đã mấy chục năm, tự cho là không còn có sai sót gì. Nào ngờ, ngoài núi lại còn có núi khác cao hơn, xin cho theo học ngài”. Khách nói: nghề ông đang làm hồi nhỏ tôi cũng làm. Nhưng nghĩ lại, lấy của người khác để nuôi béo mình thì đâu phải là lẽ chính ? ông nghĩ coi, việc được mất đêm qua, có nghĩa lý gì. Tôi thề không làm nghề ấy đã năm năm rồi. Vì ông, nên tôi mới chơi lại trò cũ chút thôi. ông việc gì phải học. Nay bốn phía đều là chiến lũy kẻ nam nhi nên gắng sức cho triều dình, tôi đã trở thành người của phủ Đô đốc, nếu ông theo, tôi sẽ xin cất nhắc cho. Tên trộm nói “Xin lĩnh giáo”. Nói rồi từ biệt vợ con mà đi.

Sau vài năm, có một toán quan quân đến nghỉ ở quán ông chủ trọ, nhìn kỹ là tên trộm trước đây. Hỏi chuyện y trả lời là đã theo phủ Đô đốc, vì có công được bổ làm suất đội còn người khách năm xưa thì đã làm tham tướng Sơn Tây.

GẤU HỔ CHỌI NHAU

Người đất miền núi huyện Lục Ngạn Nguyễn Mỗ, làm nghề lấy gỗ, mỗi lần đi thường mang theo gại muối, nghỉ lại ở trong rừng, sau thành thói quen. Khi gặp rắn độc hay thú dữ thì xua đuổi hoặc né tránh, quen dần không thấy sợ nữa.

Một hôm, ở rừng sâu, Nguyễn ngả gỗ làm thuyền độc mộc. Trời rét, Nguyễn chất cỏ nằm lên, lấy thuyền chụp lên người, bên cạnh thì gom củi khô, đốt lên sưởi ấm. Nửa đêm, bỗng ngửi thấy mùi tanh, ngó thấy hổ ngồi bên thuyền, hướng vào đống lửa mà ngủ. Lát sau, lại một con gấu tới, ngồi quay vào đống lửa, ra chiều không nhìn thấy hổ. Nguyễn ở trong thuyền, cời một cục than to, dí vào lưng hổ, “hổ bị báng đứng phắt dậy, mắt nhìn thấy gấu, gầm lên cắn gấu. Gấu dùng vuốt cào hổ, hai bên đều liều sức nhảy cắn lung tung, thuyền suýt bị lật, Nguyễn ôm chặt thuyền. Lát sau lặng tiếng, Nguyễn đứng dậy tìm xem thì thấy gấu bị đứt cổ, hổ bị lôi ruột, chết dưới chân núi.

HANG NÚI GIỮA BIỂN

Hạ lộ Quảng Yên nằm dài sát biển, có nhiều rừng và đảo, dấu chân người không tới. Có vài dân chài đi biển, bị gió đánh dạt vào một dãy núi, cây cỏ um tùm, lần bậc mà lên, cỏ thơm hoa lạ, rất ít khi thấy. Đến sườn núi, thấy một hang sâu, mọi người kéo nhau vào hang. Lúc đầu thì rất tối, được mươi bước thì sáng dần. Thấy một cửa đá, ngoài cửa có hai con chó đá. Lại đi vào cửa trong mấy chiếc án bằng đá. Mọi thứ khí cụ đều bằng vàng. Lên phòng, thì thấy trên giường đã có 5 thây người con gái ngồi đó, tóc xõa, có bốn đồng đứng hứng ở dưới, áo quần đều là gấm thêu, mặt thoa son phấn. Lại gần, thấy còn thở. Có người lấy trộm đồ vàng trở ra, người trộm vàng hai mắt như mù, luẩn quẩn không đi được. Người đó cả sợ, vứt vàng trở ra, vừa ra khỏi hang thì một phiến đá lớn rơi xuống vít chặt miệng hang, người đó bèn xuống thuyền căng buồm mà đi.

CON HỔ CÓ NGHĨA

Bà đỡ Trần là người huyện Đông Triều. Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ đột nhiên lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp. Khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà trong lòng chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng tay rẽ lối chạy vào trong rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống, thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất. Bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kỹ bụng hổ cái như có vật gì động đậy thì biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hòa với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, thì hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa dỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống bên một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước trời sắp sáng, bà dơ tay nói: “Xin chúa rừng quay về”. Hổ vẫn cúi đầu vẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt. Bà đã đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa đói kém, nhờ có số bạc ấy mà bà mới sống qua được.

Người kiếm củi tên Mỗ ở huyện Lạng Giang, đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lòng phía xa, cây cỏ lay động không ngớt, mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cói đầu cào bới đất, nhẩy lên vật xuống, thỉnh thoảng lấy tay múc họng, mở miệng như cái răng, máu me, nhớt rãi trào ra. Nhìn kỹ miệng hổ, thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc xương càng vào sâu. Bác tiều uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên “Cổ họng người đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương ra cho”. Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều phu, ra dáng cầu cứu, Bác tiều trèo xuống, lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to “Nhà ta ở thôn Mỗ, hễ được miếng gì lạ thì nhớ nhau nhé”. Sau đó bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên tới trước mộ nhẩy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm lên, chạy quanh mộ vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.

TIÊN TRÊN ĐẢO

Người Thanh Trì là ông Nguyễn Lộc, kết bạn với mười người, mua một chiếc thuyền đi biển, ra châu Vạn Ninh, Quảng Yên buôn bán, mỗi năm vài bận đi về.

Một hôm, thuyền bị gió đánh dạt vào hòn đảo giữa biển. Trên đảo, núi non cây cỏ xanh tươi, chân núi đất bằng vài chục mẫu, cỏ non xanh rờn như trải thảm. Một con hươu từ trong bãi chạy ra, tranh Lấy chiếc bè chèo. Mọi người vạch cỏ lèo đuổi theo. Lộc một mình đuổi tít vào sâu quên mất lối ra. Trong lúc bối rối, bỗng thấy hơn chục con hổ từ trong núi lao ra, Lộc cả sợ, trèo vội lên cây, cởi thắt lưng buộc lấy thân người. Hổ cứ nhìn cây mà gầm thét, cả rừng cây chấn động, Lộc run sợ suýt ngã nhào xuống. Lát sau, hổ bỏ đi Lộc vẫn sợ không dám trèo xuống. Bỗng từ phía gốc cây bên kia nghe có tiếng người cười nói. Lộc nghĩ là ma quỷ, càng sợ hãi, tự cho là số mình ắt chết. Trong lòng cân nhắc suy tính “chẳng bằng cứ đi đến chỗ đó gặp xem sao”. Nói rồi, cởi dây lưng, sửa lại y phục, chậm rãi đi tới. Được mấy chục bước thấy một phiến đá rộng chừng một thước, có hai cụ già đang đánh cờ trên đó, có đứa hầu nhỏ đang pha trà, trên phiến đá bày la liệt lê, táo... Cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ, đến khi cuộc cờ gần tàn, vẫn ra vẻ không hay biết có Lộc đứng đó, Lộc vái lạy xin trỏ cho đường về. Cụ già ra hiệu cho chú hầu bẻ một cành cây đưa cho Lộc và bảo: “Cầm cành cây này mà đi, thuyền ở phía trước kia kìa”. Lộc từ biệt cụ già, ra khỏi rừng mấy bước thì đã thấy thuyền ở đã rồi. Những người trên thuyền đều kinh ngạc nói: “Chúng tôi đuổi hươu, bỗng gặp hổ dữ, vội bỏ chạy về thuyền, chỉ thiếu có một ông. Cứ ngỡ là ông đã bị hổ ăn thịt rồi. Chỗ này cách bến không biết đến mấy trăm dặm, lại đã qua hai đêm rồi, ông từ đâu trở về vậy, đây chẳng phải là chuyện lạ sao!”

Lộc bốn kể lại cuộc gặp gỡ của mình. Mọi người đều rất kinh ngạc.

NGUYỄN QUỲNH

Nguyễn Quỳnh người xã Bột Thượng, huyện Hoằng Hóa. Tuổi trẻ đỗ thi Hương, nổi tiếng văn chương, tính tình phóng khoáng cởi mở, rất ưa khôi hài. Ông thường đến luyện văn ở nhà Quốc học(1), luôn được xếp hạng ưu, nên rất tự đắc. Một hôm, vào dịp luyện văn đầu tháng, học trò làm văn trong phòng, có một thư sinh trẻ, vẻ người tuấn tú, cầm bút nghĩ một lát, rồi viết liền một mạch mấy tờ, thao thao không dứt. Chưa đến trưa, mà bài đã xong. Quỳnh khi ấy còn đang khổ sở suy nghĩ, thấy anh ta làm nhanh như vậy, ngạc nhiên thán phục, mượn xem toàn bài, thì thấy tứ văn mới lạ, bản thân mình không thể sánh được, Quỳnh bèn bỏ bút xuống hỏi họ tên. Người ấy nói mình là một học trò hèn kém ở Hải Dương vừa ra du học ở Trường An(2), trọ ở ngoài thành, tên họ thấp hèn, không dám để vẩn tai bậc tôn quý. Trò chuyện cùng nhau, thì thấy anh ta học vấn uyên bác, hỏi đến đâu đáp đến đó. Quỳnh vốn rất tự phụ nổi danh, coi thường người cùng lứa, đến bây giờ cảm thấy rất phục, mời về chỗ ở của mình. Chàng thư sinh lấy cớ bận việc khác, từ chối không đi và nói: “Nếu anh không nỡ bỏ nhau, thì sau ba ngày hãy đợi em ở đình Quảng Văn, khi ấy sẽ mời anh tới hàn xá”. Nói rồi từ biệt mà đi, cũng không nộp quyển nữa. Tới hôm hẹn, buổi sớm, Quỳnh đến đình Quảng Văn, thì chàng thư sinh đã ở đó rồi. Hai người gặp nhau, rất vui vẻ cầm tay nhau cùng đi, ra ngoài thành chừng một dặm rồi đi lối rẽ chừng vài chục bước, thấy một thư đường, cửa gài đóng chặt, dùng tay gõ cửa, có một người đầy tớ già ra mở, đưa khách vào. Trong nhà, ngoài giường, chiếu, nồi đèn ra, không còn có thứ gì khác, cũng không có bút nghiên và sách vở gì. Quỳnh lấy làm lạ, hỏi, thì người đã nói là không có ý định tiến thân làm quan, không học ngón đẽo gọt văn chương. Hỏi hôm trước sao lại làm văn, thì người đã nói là từ lâu đã nghe danh lớn, muốn đến làm quen, lại sợ đường đột, nên thử vung ngọn bút, xin được hạ cố tới.

Hai người ngồi trò chuyện rất lâu, người đó sai đầy tớ dọn mâm, chỉ thấy có hai bát cơm gạo xay, cùng canh rau, thịt sấy thôi. Đến chiều, Quỳnh từ biệt ra về. Chàng thư sinh nói: “Chỗ ở bần hàn, thô lậu, không dám giữ bậc cao quý ở lại”. Rồi rút từ trong tay áo ra 27 đồng tiền tặng Quỳnh và nói: “Dịp sau khó hẹn, xin tạm đỡ anh tiền rượu nước đi đường”. Quỳnh cười nói: “Chỗ tôi ở trong Kinh cũng gần đây sớm tối còn được gặp nhau, sao lại nói những lời vĩnh biệt như vậy. Vả lại, đường về gần gòi, cần gì đến phí tổn dọc đường”. Chàng thư sinh cười, không trả lời, nhét tiền vào ống tay áo của Quỳnh, đưa tiễn ra cửa, trân trọng từ biệt. Quỳnh quay đầu lại nhìn, thì thấy lớp lớp núi xanh, trập trùng sau trước, còn mình thì ở giữa tầng mây trắng, giữa đám tùng xanh, không có một ngôi nhà nào cả. Quỳnh tìm đường đi xuống, dọc đường gặp người lấy củi, hỏi ra mới biết chỗ đó là núi Phượng Hoàng đất Hải Dương, cách Kinh thành hơn hai trăm dặm. Quỳnh ngạc nhiên than thở mà về, sờ ống tay áo, thấy tiền tặng vẫn còn, đang lo vất vả thiếu thốn dọc đường, nhưng khí lực tăng bội phần, không cảm thấy đói. Mua trà, rượu, tiền mất một ít, nhìn lại, trong tay áo tiền vẫn còn. Ba ngày sau về tới Kinh thì số tiền cũng biến mất.

ÔNG TRÀNG NGUYÊN HỌ NGUYỄN

Ông Nguyễn Đăng Đạo là người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du. Năm 19 tuổi ông vào du học ở Trường An(3). Gặp ngày nguyên tiêu(4), con trai, con gái kinh thành đua nhau đi du ngoạn. ông cùng vài đứa tiểu đồng đến trước cổng chùa Báo Thiên, gặp một chiếc kiệu lộng lẫy, con hầu đầy tớ xúm xít chạy quanh. Có một thiếu nữ xinh đẹp, từ trong xe bước xuống, vào chùa vãng cảnh. Ông đứng bên, ngây người đứng nhìn tới lúc người đẹp quay ra, lên xe rồi ông vẫn còn luẩn quẩn bên xe. Bọn phu xe quát tháo, ông vẫn không chịu rời, chúng phải lấy roi vụt, ông mới lui. Trong xe, người đẹp lên tiếng “Hội vui cảnh đẹp mọi người cùng thưởng ngoạn, chí làm điều nạt nộ người ta như thế.”.

Ông nghe thế lại đi theo xe. Đến một dinh thự, người đẹp xuống xe đi vào, ông liền rẽ vào một quán trà phía ngoài cổng, hỏi thăm chủ hàng đây là dinh thự của quan nào. Bà chủ quán đáp:

“Đây là dinh thự của ngài Ngụ hầu. Ngài vì có công lớn, được cử coi cấm binh, chỉ huy việc quân của cả kinh thành”. Ông hỏi hầu có mấy vị công tử. Bà chủ quán đáp: “Hầu mới sinh được một tiểu thư rất xinh đẹp, nàng có học, biết lễ nghĩa, người vừa đi kiệu trở về chính là nàng đó”.

Ông hỏi nàng đã lấy ai chưa, bà chủ quán đáp: “Ngô hầu còn muốn chọn tài tử văn nhân để gả chồng cho nàng, chứ thiếu gì con em bậc công hầu môn đăng hộ đối”!.

Ông nghe xong, ghi nhớ kỹ. Chiều tối trở về, cả đêm mơ tưởng.

Sáng sớm hôm sau, ông lại đến trước cửa dinh thự, đem trái cây, trà ngon đút lót cho bọn tiểu đồng trong dinh. Lâu dần quen bọn chúng, ông mới hỏi đường ra lối vào, cửa cổng các phòng. Đến nửa đêm ông trèo tường vào dinh, lần thẳng tới chỗ người đẹp, khoét tường vào phòng lên giường nằm chung với nàng. Người đẹp giật mình tỉnh dậy, hỏi ông là ai ? ông đáp: “Từ khi gặp nhau ở chùa, tôi trằn trọc thương nhớ khôn nguôi định tìm mai mối, lại sợ làm nhơ đến quan tể tướng chẳng được đoái tới. Nay cả gan tới đây muốn cùng tiểu thư đính ước trăm năm đó!”

Thiếu nữ vừa thẹn vừa sợ, cúi đầu khẽ đáp:

“Cha tôi tính nóng như lửa, ông táo tợn thế này sẽ bị băm vằm ngay lập tức!”

Ông gõ giường mà cười. Thiếu nữ không biết làm thế nào, lấy hai tấm lụa trao cho ông và bảo:

“Ông chết cũng đáng, nhưng như vậy thì danh tiết của tôi cũng khó mà bộc bạch. ông nên tìm đường mà ra, tôi tha tính mạng cho ông đó!”.

Sinh cười đáp: “Nàng đừng dọa tôi, nếu sợ chết, tôi đã chẳng tới đây. Cha nàng có đến tôi cũng cứ như thế!”

Ông dẫu không phạm tới thiếu nữ nhưng ngăn lối ra, khiến nàng không đi được. Bọn con hầu nghe thấy tiếng cười nói, đốt đuốc tới, thấy ông ở trên giường tiểu thư bèn cầm gậy gộc vây quanh và cho người chạy đi báo Ngô hầu. Hầu cầm gươm bước tới. Ông phủ phục xuống đất lạy chào và nói rằng lòng mình ngưỡng mộ quan lớn đã lâu Hầu giận lắm, sai đầy tớ trái lại, thấy ông nho nhã lại không nỡ đánh đập.

Sáng hôm sau, Hầu đang định cho giải tới tòa binh kết tội thì gặp bạn đồng liêu là ông họ Phạm tới thăm. Hầu mời ông vào, kể lại chuyện đó, nét mặt vẫn còn hầm hầm tức giận.

Ông Phạm nói:

“Người làm việc khác thường, hẳn là tài khác thường. Có lẽ nó có hoài bão tài cán gì đây, ngài nên hỏi thẳng xem. Nếu quả có tài, thì nên tác thành cho nó, nếu là đứa bất tài thì cứ theo luật mà trị, giận dữ mà làm chi !”

Ông Hầu nhờ ông Phạm thử tài. Ông nhận được đầu đề chẳng cần suy nghĩ, hạ bút viết liền, thao thao bất tuyệt, lại còn cười bảo bọn đứng hầu:

“Bay thưa với tiểu thư biện sẵn cơm nước, nếu chậm ta không làm khách qúy nhà các người nữa đâu!”.

Bọn hầu đều bưng miệng cười. Ông dâng bài lên, ông Phạm rất khen ngợi, nói riêng với Ngô hầu:

“Ngàn vàng cũng chẳng tìm được đứa con rể quý như thế đâu!”

Ngụ hầu bèn tha tội cho ông, hỏi xem họ tên là gì, quê quán ở đâu, rồi sai làm một phòng riờng cho ở, cấp tiền cho ông ăn học.

Năm sau, ông đi thi Hương, đỗ đầu. Hầu bèn sửa lễ, đón ông về ở rể. Lại năm sau nữa, ông đỗ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Trạng Nguyên.

Hoàng Hưng dịch

CHÚ THÍCH

(1) Nhà Quốc học: trường học của Nhà nước - Tức Quốc Tử Giám, còn gọi là nhà Thái học.

(2) Tức Kinh đô Thăng Long khi ấy.

(3) Tức kinh đô Thăng Long hồi ấy.

(4) Ngày 15 tháng Giêng Âm lịch.

TB

DANH TÍCH XỨ LẠNG ĐIỂM HỘI TỤ
SỰ GIAO LƯU NAM BẮC

ĐINH ÍCH TOÀN

Lạng Sơn - Quảng Tây là hai tỉnh biên giới của hai nước Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông. Núi Lạng Sơn cao vút, điển hình là núi Mẹ (Mẫu Sơn) bốn mùa hoa thơm cỏ lạ. Sông Lạng Sơn chảy êm đềm vào mùa xuân, dữ dội vào màa hạ, điển hình là dòng Kỳ Cùng chia đều nước cho các huyện Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Thị xã Lạng Sơn, Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định, rồi đổ vào Quảng Tây, Trung Quốc. Nhà thơ Ngô Thì Nhậm đã khái quát sông núi Lạng Sơn bằng hai câu thơ:

Chầu Nam núi hướng Vân Hiền ruổi
Ngược bắc sông từ Bắc Lạng trôi.

Ý nói núi Lạng Sơn cao hơn Quảng Tây. Vì thế, núi non vùng này, kể cả Vân - Quý đều chầu về Giao Chỉ, còn sông Kỳ Cùng chảy ngược lên phía Bắc từ Bắc Lạng huyện Văn Quan. Những dẫy núi đá vôi điệp trùng chạy dọc theo đường số 1A từ Hữu Lũng lên, rồi từ Trung Quốc đến, gặp nhau ở lòng chảo thị xã Lạng Sơn. Chính nó đã tạo ra các hang động kỳ thú như Tà Lài, Tam Thanh, song Tiên (chùa Tiên). Cùng nhờ nó mà đã tạo nên các quan ải nổi tiếng miền biên giới này, như ải Nam Giao, ải Chi Lăng. Người Lạng Sơn từ ngàn xưa đã lập cuộc sống phồn vinh cho mình, người bốn phương, đông, tây, nam, bắc đổ về đây hưởng cái vui “tay cầm bầu rượu nắm nem”, với núi sông xứ Lạng. Phố Kỳ Lừa là một thương trường lớn, một tổng kho hàng hóa đủ loại. Đường Thiên lý (nay là quốc lộ 1A) từ Thăng Long vươn mãi lên Lạng Giang rồi Hữu Lũng - Chi Lăng, băng qua các vùng quê đang đổi mới và núi non hiểm trở (xã Bắc Thủy), ngược đảo Sài Hồ lên với Trấn Thành. Gần đây các nhà nghiên cứu lịch sử và khoa học xã hội nói chung đã xác định xứ Lạng có nền kinh tế đa dạng, là vùng Folklor, vùng thơ, vùng văn hóa chợ, vùng văn hóa Bắc Sơn, vùng lễ hội truyền thống đậm đà sắc thái dân tộc.

Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi xin chỉ khuôn lại những di tích chính ở Lạng Sơn có trong mình sắc thái văn hóa dân tộc và in đậm dấu ấn sự giao lưu văn hóa Việt - Trung mà chúng ta cần bảo vệ, gìn giữ và phát huy.

1. Đoàn Thành - Kỳ Lừa là thủ phủ, là trung tâm giao lưu Nam - Bắc.

Đoàn Thành năm xưa nay là toàn bộ khu nhà của các cơ quan tỉnh Lạng Sơn ở phía tây nam sông Kỳ Cùng. Kỳ Lừa xưa nay vẫn là phố Kỳ Lừa mà trọng tâm là chợ Kỳ Lừa và khu dân cư đông đúc bao bọc xung quanh phía Đông Bắc sông Kỳ Cùng - nơi giao lưu kinh tế, văn hóa từ các vùng trong tỉnh, với tỉnh bạn và mang tính quốc tế.

Trên thành Lạng Sơn xưa gọi là Đoàn Thành. Tương truyền Đoàn Thành do Trương Phụ thời Minh xây. Theo sách Nguyễn Trãi Dư địa chí thì quân Minh sang nước ta khi đến Lạng Sơn, chúng đã xây rất nhiều thành để cố thủ. Vì vậy cũng có khả năng chúng xây thành này. Theo sách Lạng Sơn Đoàn thành đồ của Nguyễn Nghiễm thì vào năm Lê Hồng Đức (1495), vua Lê Thánh Tông cho xây lại, Năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759), Tổng trấn Mai Thế Chuẩn có bỏ tiền tu sửa lại. Khi đưa quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, Bắc Bình Vương (Nguyễn Huệ) đã cử Vũ Văn Dòng lên trấn giữ Lạng Sơn và tiếp tục cho sửa sang lại. Đoàn Thành, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) được đắp lại như ngày nay. Thành có chu vi khoảng 300 trượng cao 9 thước, dày ba bốn chục thước.

Đoàn Thành là một công trình kiến trúc độc đáo rất có ý nghĩa văn hóa và quân sự, vì người xây dùng thành đã biết dựa vào thế núi, thế sông để tạo nên thế phòng thủ vững chắc.

Kỳ Lừa xưa nhân dân gọi là Hàng Khau Lừa. Nguyên danh từ đã cũng đủ nói lên nó là khu chợ từ rất xa xưa, hẳn chợ này có từ thời Lý. Vì thời kỳ này “bao dịch trường” (loại chợ trời biên giới) mọc lên nhiều ở hai bên bờ sông Kỳ Cùng và cả Ung Châu nữa. Người Lạng Sơn thường đem muối, gạo, các loại hương liệu ngà voi, sừng tê giác đổi lấy vải vóc, đồ sứ, đồ ngọc của Trung Quốc. Trong câu chuyện “Ngọc về Hợp Phố” đã nói đến việc người Hợp Phố đem ngọc trai đổi lấy gạo ở Giao Chỉ, vì Kỳ Lừa đã là trung tâm buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc thời xưa. Nhưng phải đến khoảng năm Chính Hòa (1680 - 1705) mới chính thức xây phố chợ hẳn hoi. Khi nhà Lê cử Thân công Tài lên trên Lạng Sơn, ông đã mở rộng sông Kỳ Lừa to rộng hơn. Ông đã lập 7 phố cho 7 người Châu Lạng Sơn đem sản vật đến bán. Dân bản xứ, dân tứ xứ người Việt, người Hoa đều biết ơn ông. Dân đã không tiếc tiền của mua gỗ xây đền thờ ông ở giữa phố Kỳ Lừa. Hàng năm thường mở hội Đầu pháo vào mùa xuân. Đây là lễ hội truyền thống được tổ chức ở trung tâm thị xã Lạng Sơn. Đền thờ ông hiện nay vẫn còn, người ta quen gọi là đền Tả phủ hay đình Tả phủ. Bên cạnh đền còn tấm bia đá 4 mặt đều đề là “Tôn sư phụ bi” (tôn làm cha làm thầy). Trong bia có đoạn viết: “Qua” dân Lạng Sơn xứ An Nam và khách buôn 13 tỉnh Trung Quốc cùng dựng bia làm đền phụng thờ Đồng quân đô đốc phủ họ Thân, người trung thành, cần mẫn, khoan hòa giúp việc trong phủ chúa, khai hóa cho dân... mọi phương đều xin đến họp chợ”.

Bia còn ghi tên nhiều người Việt Nam và Trung Hoa đã đóng góp tiền của vào việc xây dùng đền Tả Phủ.

Vậy Đoàn Thành là trấn thành Lạng Sơn, cơ quan đầu não của một tỉnh, mọi công văn giấy tờ qua lại, các cuộc đón tiếp sứ thần hai nước Việt - Trung đều diễn ra ở đây. Còn Kỳ Lừa là khu buôn bán đông đúc, nơi diễn ra mọi cuộc trao đổi hàng hóa giữa đôi bên Nam - Bắc.

Ải Nam Giao và ải Chi Lăng, ải của tình hữu nghị và cũng là ải của quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc.

Ải Nam Giao tạo nên bởi lối đi nhỏ hẹp như một cái cửa giữa một bên là núi đất, một bên là núi đá dựng đứng. ải này sinh ra để phân chia biên giới giữa hai nước Trung - Việt, đồng thời là cửa ngõ giao hóa Bắc Nam. Do quan hệ thất lưu hàng thường giữa các vua chúa phong kiến hai nước, nên cái tên Nam Giao sau đã được đổi thành trấn Nam quan hay mục Nam quan. Đến khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1949) thì đổi là Hữu nghị Quan. Đi ngược dòng lịch sử, ta thấy Hữu nghị quan ngày nay từ lâu đã được hai nước xây dựng khá đẹp. ải xây vào năm Gia Tĩnh (1522 - 1566), Niên hiệu Ung Chính thứ 3 (1725), ải được tu sửa lại. Đôi bên xây tường gạch dài 119 trượng. Giữa cổng có đề “Trung ngoại nhất gia” tức (Trung Quốc và Việt Nam như cùng một nhà). Tất cả các cuộc tiễn đưa sứ thần qua lại đều diễn ra từ Đoàn Thành đến tận ải Nam Giao này. Đây là ải hóa hiếu, ải giao lưu Nam - Bắc cần phải tu sửa để thêm phần hữu nghị như xưa.

Nếu nói ải Nam Giao là ải phía Bắc cần được bảo vệ, thì ải Chi Lăng ở phía Nam Lạng Sơn cũng cần phải gìn giữ. ải Chi Lăng chắn ngang đường thiên lý từ Thăng Long lên Lạng Sơn. Nơi đây địa thế hiểm yếu, Lê Sát và Lê Thu đã phục binh giết tướng Liễu Thăng. Sách Đại Việt sử ký của Ngô Sĩ Liên có viết: “Người Minh sang nước An Nam thấy Lạng Sơn là đất yếu hầu, nên đắp nhiều thành lũy ở các nơi, xây đá rất cao rộng kiên cố. ở Chi Lăng có thành gạch nơi cửa phía nam, có hòn đá nằm trên khắc 5 chữ “Hoành tráng Nhị thập đội” (Hai mươi đội trai tráng). Nơi đây đá gạch chồng chất như gò đống, đào dưới đất chỗ nào cũng có, ấy là di tích của người Minh đắp thuở xưa. Đầu đời Lê Thái Tổ, Lê Sát và Lê Thu phục binh đánh phá Liễu Thăng ở Chi Lăng tức là nơi đây. Ngày nay Chi Lăng có một bảo tàng cứ vào ngày mồng 10 tháng 10 hàng năm nhân dân lại tổ chức lễ hội.

3. Cụm di tích: Chùa Thành, Động Tam Thanh, Động Nhị Thanh, Động Song Tiên - điểm hội tụ của Tam giáo, thu hút lòng sùng mộ tứ phương.

Tại chùa Thành (phía tây nam bên này cầu Kỳ Lừa) có 3 hệ thống thờ tự: thờ Phật, thờ Tiên và thờ Khổng Tử. Chùa làm từ thời Lê, có bia thời Tây Sơn và quả chuông bằng gang do nhân dân Lạng Sơn và khách buôn Trung Quốc góp tiền đúc. Trên chuông có khắc tên những người đóng góp, với đầy đủ quê quán. Đôi câu đối treo trang nghiêm giữa chùa đã nói lên điều đó:

“Tây Trúc có thần siêu âm độ dương, sông nước Kỳ Cùng thông biển giác.

Trời Nam không Phật hiếu sinh ố sát bến bờ Diêm Khánh ngóng trời tây”.

Chùa Diêm Khánh được tu sửa nhiều lần. Lần tu sửa quy mô nhất vào năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796), tấm bia Diêm Khánh tự bi ký dựng ở cửa chùa đã nói lên tất cả công việc tu sửa này. Mặt sau bia có ghi tên những người đóng góp tiền của vào việc tu sửa chùa, trong đã có tên người phố Quảng Tây góp 31 quan 9 mạch người góp 8 quan...

Chùa Diêm Khánh xưa gọi là chùa Hương Lâm, tục gọi là chùa Thành, vẫn to đẹp nguy nga sừng sững, nằm bên đầu cầu Kỳ Lừa, mặc mưa gió dập vùi, mặc bom rơi đạn lạc, có được như vậy là nhờ các vị sư trụ trì ra công tu bổ, ý thức bảo vệ di tích của người dân xứ Lạng Sơn và lòng ngưỡng mộ của khách thập phương.

Các động Song Tiên, Tam Thanh, Nhị Thanh tạo nên những hang động kỳ thú. Động Song Tiên ở núi Đại Tượng phía nam tỉnh thành. Chùa Tiên, Động Tiên chứa một pho huyền thoại về Tiên về Phật. Có thuyết nó sở dĩ gọi là chùa Tiên vì chùa thờ vị Tiên đã có phép lạ làm ra Giếng Tiên ở ngay sau nói để nhân dân có nước uống. Có thuyết núi sở dĩ gọi là Động Song Tiên hay Chùa Tiên là vì trên núi này thường thấy hai vị Tiên đánh cờ với nhau, một vị là Mẫu Sơn Tiên, một vị là Đại Tượng Tiên. Trong Động Song Tiên có hình hai vị Tiên bằng đá. Trên vách đá, chỗ hình hai vị Tiên có khắc 3 chữ “Song Tiên Động”, bên cạnh lại có chùa “Cổ Danh”. Như vậy, cái tên “Động Tiên” có từ rất xưa. Trước cửa động đề 4 chữ “Đại tượng Phật tích” (Dấu vết Phật núi Đại Tượng).

Hiện vẫn còn hình vị Bồ Tát bằng đá. Vào năm Hồng Đức (1470 - 1479) nhân dân tô điểm cho tượng, tạo thành chùa thờ Phật. Ngày 15 tháng giêng là ngày hội của nhân dân xứ Lạng, đã là ngày hội của du lịch, hội giao duyên, hội của nhân dân 4 phương tề tựu. Đây là một bài thơ tạc năm 1924:

Xanh xanh xanh ngắt trấn Thành tây,
Cảnh động này xây lắm vẻ say.
Non nước đi về quen bóng hạc,
Gió trăng đưa đón thoáng làn mây.
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ,
Lửa ngất non hình đá cũng ngây.
Trải mấy tang thương lầm bụi tục,
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây.
(Xuân Giáp Tý, 1924)

Động Tam Thanh có chùa Tam Thanh nằm ở xã Vĩnh Trại, nay thuộc thị xã Lạng Sơn. Trong động có hình thạch nhũ như mây bay, như đài sen. Tương truyền chùa này do người Minh hương (người Trung Quốc sang Việt Nam vào cuối đời Minh cùng với nhân dân bản xứ làm ra để thờ Phật. Hiện trong động vẫn còn tượng Phật bằng đá. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Người nơi đây và người Minh hương đắp tượng Phật phụng sự gọi là thiền tự. Vào niên hiệu Vĩnh Trị đời Lê (1676-1680) quan tỉnh Quảng Tây nước Thanh sai người qua tu bổ. Có tấm bia đá bị mờ không khảo cứu được”. Chùa thờ Phật nhưng tên gọi Tam Thanh. Tam Thanh là từ của Đạo giáo, chỉ Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh là những nơi tiên ở. Vậy chùa này vừa thờ Phật song cũng thờ luôn cả Tiên vậy.

Động Nhị Thanh ở núi Nhị Thanh. Động có 2 cửa, cửa trước thông ra sông Kỳ Cùng, cửa sau thông ra động Tam Thanh. Về động Nhị Thanh, trong Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú viết: “Nhị Thanh ở phía hữu động Tam Thanh. Một dải nói mở ra vài cửa như hình cửa xây bằng gạch ống ở La Thành. ở giữa động nổi cao lên, có nhũ đá rủ xuống, bên tả bên hữu đều có những lỗ đá thông suốt. Bám vào đá leo lên lại có một động nhỏ nữa… Nước từ trong hang núi chảy ra, đọng lại thành cái ao nhỏ. Lại có một cái hang rất cao, phải bắc thang tre ước hai trượng mới lên được. Chiều rộng trải vừa cái chiếu như cái bành voi, nhìn xuống trông lên đều thích mắt. Ngô Thì Sĩ làm nhà ở bên động, dựng đền Tam Giáo, tạc tượng truyền thần...”

Động Nhị Thanh có chùa Tam giáo, đều do Ngô Thì Sĩ cùng nhân dân địa phương trong đó có sự đóng góp của người Hoa xây dựng. Hiện nay trong hang động bia đá, thơ phú còn nhiều nhưng chùa tam giáo đã mất. Động này là một di tích lịch sử, một danh thắng nằm trong hệ thống danh thắng của xứ Lạng.

Xin trích 1 trong số những bài thơ trong động, soạn vào năm 1820:

Nhị Thanh cảnh trí tiếp Tam Thanh,
Thiên tạo nhân công hợp tác thành.
Suối ngát ngàn xanh tan bãi tục,
Đá in thần tượng thấy chân hình.
Xưa bao thi khách đều tôn kính,
Nay được tôn huynh sẵn thắm tình.
Đoan ngọ tiết lành khôn nỗi tặng,
Một chương thi thiên tỏ lòng thành.

Xứ Lạng, xứ của 7 châu xưa quy tụ về Đoàn Thành, xứ của thiên nhiên kỳ thú, xứ của sự quy tụ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa nền văn minh sông Hồng và Hoa Nam (Trung Quốc). Xứ ấy, người ấy, đã tạo cho mình một sức mạnh, một nền văn hóa độc đáo không lai căng pha tạp - mà vẫn đượm hương hồi và giữ vững tính dịu dàng, uyển chuyển, thiết tha đậm đà, gần gòi với cội nguồn dân tộc của mình./.

TB

BÀI VĂN BIA GHI VIỆC TẠC TƯỢNG TAM GIÁO, CHÙA CAO DƯƠNG CỦA TRÌNH QUỐC CÔNG

VŨ TUẤN SÁN
ĐINH KHẮC THUÂN

Trình Quốc Công là tên tước của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) một nhà nho kiệt xuất ở nước ta vào thế kỷ XVI. Trứ tác của ông nhiều; tác phẩm hiện biết phần lớn do đời sau sưu tập lại. Bài văn bia ghi việc tạo tượng Tam giáo chùa Cao Dương được viết vào những năm cuối đời ông và khắc lên bia đá lưu truyền đến ngày nay.

Bia dựng sát hậu cung chùa Cao Dương thuộc xã Cao Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình(1), cách quê Trạng Trình không xa. Bia dẹt, cao 100cm, ngang 65cm. Trán bia là hình bán nguyệt, ở trung tâm chạm mặt nguyệt to tròn, có nhiều tua mây. Hai bên là hai hình rồng chầu, thân ngắn, đuôi mập. Giữa trán bia và thân bia là một đường viền, trên khắc tên bia: “Tam giáo tượng minh bi” và đôi rồng đối xứng nhiều khúc. Hình rồng này bắt gặp nhiều trên đồ gốm thời Mạc, tiếp nối truyền thống thời Lý - Trần - Lê sơ. Dưới nữa là một đường viền nhỏ trang trí những cánh sen nối tiếp nhau. Hai đường diềm hai bên chạm hoa dây uốn lượn đều đặn. Điểm vào các khoang uốn khúc đã là những móc câu xoắn ngược chiều nhau. Đường diềm chân bia trang trí hoa sen. Kỹ thuật chạm khắc, chủ đạo là khắc chạm, thường thấy trên bia thời Mạc. Nét khắc mềm mại, tinh tế, thợ khắc là nhóm thợ dân gian thuộc huyện Vĩnh Lại: Phạm Mô, Đỗ Đình Viện và Nguyễn Tăng Vinh.

Bài văn bia được viết bằng chữ Hán. Chữ khắc chân phương, nét khắc mảnh phóng khoáng. Có đôi chữ bị mờ, song vẫn có thể khôi phục được. Bia gồm 26 dòng, dòng nhiều chữ nhất là 36 chữ, cả thảy là 570 chữ. Bài văn bia có mấy điểm đáng chú ý:

1. Về thời xuất hiện: Lạc khoản cho biết văn bia được viết và khắc vào năm đầu niên hiệu Diên Thành (1578 - 1585) thời chúa Mạc Mậu Hợp (1562 -1592). Văn bia dùng từ “sơ niên”, có nghĩa là năm đầu, thay cho từ “nguyên niên” thường được dùng. Từ “sơ niên” này cũng chỉ được dùng ở một số niên hiệu thời Mạc từ Quảng Hòa đến Hồng Ninh (1541 - 1591). Số khác vẫn dùng từ “nguyên niên”. Có trường hợp, chữ “nguyên” đã được viết bớt nét đầu và thêm ba dấu nháy ở trên như bia chùa Nả, thôn Vĩnh Phệ, xã Chu Minh, huyện Ba Vỡ, ngoại thành Hà Nội. Có lẽ đây là một trường hợp kỵ húy dưới triều Mạc.

2. Về người viết văn bia, Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm: Văn bia ghi “ất Mùi khoa Tiến sĩ cập đệ”. Tiến sĩ cập đệ chỉ học vị Tiến sĩ đệ nhất giáp gồm đệ nhất danh (Trạng nguyên), đệ nhị danh (bảng nhãn), đệ tam danh (thám hoa). Khoa ất Mùi thời Mạc Đại Chính (1535) Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất giáp, đệ nhất danh tức Trạng nguyên, sau được phong Trình Quốc Công nên thường gọi Trạng Trình. Đỗ dưới ông còn hai vị Bảng Nhãn (Bùi Doãn Dốc), Thám hoa (Nguyễn Thừa Hưu). ở đây vì khiêm nhường hay vì lẽ nào khác, ông chỉ ghi Tiến sĩ “cập đệ” .

Văn bia viết năm 1578, lúc ông đã 87 tuổi, 7 năm trước khi mất. Đúng là bài văn bia khắc trên đá hiếm thấy của vị trạng nguyên nổi tiếng. Ngoài bài này, hiện nay chúng ta chỉ biết có bài nữa của ông là Trung Tân quán bi minh trên tấm bia Trung Tân ở quê ông tại làng Trung An huyện Vĩnh Lại nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Tấm bia này nay không cần, chỉ được biết qua Hoàng Việt Văn tuyển do Bùi Huy Bích chép lại vào cuối thế kỷ XVIII.

3. Về nội dung văn bia: Bài văn bia ghi việc dựng tượng ở ngôi chùa Tam giáo (Nho, Phật, Lão) lưu hành ở nước ta từ lâu đời. Sử ký chép năm 1195 dưới triều Lý đã tổ chức kỳ thi Tam giáo(2) để chọn người ra làm việc. Trong dân gian, ba đạo trên thường được thờ phụng riêng biệt. Đạo Phật có chùa, đạo Lão có quán hay cung; Đạo Nho có văn miếu, văn từ, văn chỉ… Thông thường trong các chùa thờ Phật, có thêm điện hay am để thờ phụng về đạo giáo. Nhưng chùa thờ cả Tam giáo thường ít thấy. Cũng ở thời Mạc vào những năm cuối thế kỷ XVI dựng một ngôi chùa lấy tên là Tam giáo (Tam giáo tự) thuộc xã Đại Phụng, huyện Đan Phượng, ngoại thành Hà Nội(3). Bài văn bia chùa này cho biết: “chùa mang tên Tam giáo chưa từng gặp” (Sáng tự dĩ Tam giáo danh giả vị hữu giã). Như vậy chùa Tam giáo đã hiếm, văn bia của chùa Tam giáo lại càng hiếm. Có lẽ đây là một trong hai bài văn bia duy nhất hiện biết viết về chùa Tam Giáo. ở mấy dòng đầu, thấy nói chùa có từ những năm Thuận Thiên. Không rõ niên hiệu Thuận Thiên của Lý Thái Tổ là (1010 - 1028) hay của Lê Thái Tổ (1428 - 1433); và cũng không nói rõ chùa này từ ngày mới lập đã là chùa Tam Giáo chưa? Dù sao ta cũng có thể khẳng định ít nhất năm 1578 đã có chùa Tam giáo.

Văn bia cho thấy ngoài ba tượng Tam giáo, đức tượng ba vị tổ của Tam giáo (Thích Ca, Khổng Khâu, Lão Đam), đồng thời còn đúc thêm tượng Diệu Thiện. Đây là Diệu Thiện công chúa mà dân gian thường tôn xưng là Quan Thế Âm Bồ tát. Vị Bồ tát này cùng với Bồ Tát Phổ Hiền đứng hai bên Phật A di đà, vị Phật tiếp dẫn chúng sinh về thế giới cực lạc. Quan Thế Âm Bồ tát được coi là một vị Đại Bồ tát có tình yêu thương rộng lớn, sẵn sàng cứu vớt chúng sinh mỗi khi có tiếng kêu khổ đau vọng tới. Quan Thế Âm Bồ tát ở Thiên Trúc (ấn Độ) nguyên là nam giới, truyền sang á Đông đã trở thành công chúa Diệu Thiện coi như là tiền thân của Quan Thế Âm Bồ tát. Đức Phật bà quan âm nghìn mắt nghìn tay được coi là biểu tượng cho đức tính nhân ái hiền từ của phụ nữ, sẵn sàng cứu vớt đắc lực mọi chúng sinh đau khổ. Phụng thờ công chúa Diệu Thiện - Vị quan thế âm Bồ tát nữ giới cũng là một đặc sắc của Phật giáo Đại thừa nước Việt. Một điều thú vị nữa: văn bia còn cho ta thấy quan điểm của một vị Trạng nguyên, người phát ngôn tiêu biểu của Đạo Nho với Tam giáo. Trong sách Khóa hư lục, Trần Thái Tông khi bàn về phép tọa Thiền có dẫn việc tu luyện khi ngồi cả ba “Tam giáo thánh hiền” là Thích ca (Phật), Tử cơ (Đạo), và Nhan Hồi (Nho)(4). Bằng mấy câu, lời lẽ súc tích, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ghi đặc điểm và giá trị của ba hệ tư tưởng: Phật, Lão, Khổng và của cả Diệu Thiện. Sau đã ông đã quy vào một nền tảng đồng nhất “nhân bản”: mọi giáo lý trên đầu “tuân theo tính tự nhiên của con người để trau dồi đạo đức”. Và sáu câu minh cuối bài văn bia đã lấy nguyên văn câu mở đầu sách Trung dung kinh điển của Nho học, cho thấy nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quy tụ Tam giáo làm một, và điểm quy tụ chính là đạo Khổng Mạnh.

Bài văn bia về tượng Tam giáo này đã được in rập trước năm 1945 và hiện lưu giữ tại kho bia Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bia có giá trị nhiều mặt, đặc biệt là cung cấp thêm tư liệu cho việc tìm hiểu văn tài và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng như về tín ngưỡng Tam giáo trong lịch sử văn hóa của dân tộc.

Phiên âm:

TAM GIÁO TƯỢNG MINH BI
(Tu tạo Cao Dương tự Tam giáo tượng bi minh tịnh tự)

Thụy Anh, Cao Dương cổ chiêu đề, nẫm hữu linh ứng. Phật điện trang nghiêm, khởi nhân chiêm ngưỡng. Chung lầu cao sổ, túc nhân di văn. Sở hữu kỳ đảo, mị bất báo ứng. Thái Bình đệ nhất phúc địa, Bản xã hữu ngộ đạo ông, từ nhân bà Tư Thuận Thiên niên gian, thí điền thổ thất mẫu vi Tam Bảo vật. Kỳ lạc thiện chi tâm, nhân dân xưng đạo. Kim bản xã thiện sĩ Bùi Tử Trang, Nguyễn Lễ, Tống Mộc, Nguyễn Lãm đẳng, cập các sãi vãi tương dữ quyên tư, mệnh tưởng đạo Tam giáo tịnh Diệu Thiện kim tướng. Viên thành, khất lặc minh dĩ ký kỳ thực.

Dư diệc hữu hiếu thiện chi tâm, bất cảm từ nhiên dư Nho dã, ư Phật, Lão tuy vị thường văn, nhiên Quảng Lãm tích nghi sở luận diệc đắc nhất nhị ngạnh khái: Phật thị vị đạo, bản hồ minh kỳ sắc tâm, biện kỳ nhân quả. Lão tử vi đạo, bản hồ chuyên khí trí nhu, bão nhất thủ chân. Khổng Tử vi đạo, bản hồ đạo đức nhân nghĩa, văn hạnh trung tớn. Giai xuất tính dĩ vi tu đạo chi giáo. Dĩ phù Diệu Thiện dĩ thiện đắc danh, vụ phi tâm tính trung sở ngụ. Chư thiện sĩ quá năng khuếch sung thử thiện đạo, tuân thủ thử thiện giáo; bản chư thân dĩ trung ư nhân, tắc phúc khánh lưu vô cùng, bất kỳ công đức bất khả tư nghị, Nhân minh chư kiên mân dĩ thọ kỳ truyền.

Minh viết:

Thiên mệnh vị tính
Suất tính vị đạo
Bản chi ư tâm
Ngụ chi ư giáo
Di tượng hữu nghiễm
Trường thiên bất lão.
Bùi Tử Trang, Nguyễn Lễ...
Khiêm Thái vương Hoàng mị Nguyễn Thị Ngọc Hoa.

Diên Thành sơ niên nhị nguyệt cốc nhật. Tứ ất Mùi khoa Tiến sĩ cập đệ Trình Quốc Công trí sĩ Vĩnh Lại, Trung Am.

Nguyễn tự Hanh Phủ soạn.

Trụ trì bản tự tăng Huệ Hiện tả Vĩnh Lại, Tứ nhân Phạm mô Đỗ Đình Viện, Nguyễn Tăng Vinh san.

Dịch nghĩa:

BÀI VĂN BIA VÀ BÀI MINH VỀ TƯỢNG TAM GIÁO
(Lời thuật và bài bia minh việc tạo tượng Tam Giáo và sửa chùa Cao Dương)*

Thùa(1) cổ Tao Dương ở Thụy Anh(2) Linh ứng từ lâu. Điện Phật trang nghiờm khiến người ngửa trông thành kính. Gác chuông cao ngất, tiếng vang được nghe thấy từ xa. Đã cầu khấn, không có gì không được báo ứng. Đó là đất ban phúc(3) đệ nhất của Thái Bình(4).

Trong xã có những cụ ông hiểu sâu đạo lý, cụ bà nhân từ, vào những năm niên hiệu Thuận Thiên(5) đã cúng bảy mẫu ruộng làm của Tam bảo(6). Tấm lòng vui làm điều thiện người người ngợi khen. Nay lại có vị thiện sĩ(7) như Bùi Tử Trang, Nguyễn Lễ, Tống Mộc, Nguyễn Lãm... và các sãi vãi cùng nhau quyên góp tài sản, thuê thợ tạo tác tượng qui Tam giáo(8) và Diệu Thiện(9). Công việc xong xuôi, xin bài minh để ghi lại sự việc có thực này.

Tôi cũng có lòng thích điều thiện, không dám chối từ. Nhưng tôi là nhà nho. Tuy chưa được nghe thêu đáo về đạo Phật, đạo Lão; song đọc rộng, suy nghĩ những điều nghi hoặc, cũng nắm được một hai về luận thuyết này.

Đại loại đạo Phật gốc ở chỗ làm sáng sắc và tâm(10), phân biệt rõ nhân và quả(11). Đạo Lão chú trọng vào khí để tới chỗ mềm dẻo(12); nắm cái lý duy nhất giữ bản chất chân thực của mình(13), Đạo lý đức thánh Khổng gốc ở đạo đức nhân nghĩa, văn hạnh, trung tín(14) tất cả đều là giáo lý tuân theo tính tự nhiên con người mà tu dưỡng đạo đức; cùng với vị Diệu Thiện do lòng thiện mà được nổi tiếng chẳng phải là không xuất phát từ tâm tính con người. Các vị thiện sĩ ví như có thể mở mang con đường thiện, tuân theo và giữ gìn giáo lý làm điều tốt lành. Vững gốc ở bản thân mình để biểu lộ đối xử với người thì hạnh phúc tỏa rộng không cùng. Công đức ấy vượt ngoài mọi sự tưởng tượng và luận bàn. Nhân ghi vào đá cứng để truyền dài lâu. Bài minh rằng:

Trời ban cho là tính
Tuân theo tính là đạo(15)
Gốc vốn ở trong làng
Gửi vào lời huấn giáo
Tượng còn lại trong nghiêm
Trời mênh mông bất lão.

Bùi Tử Trang, Nguyễn Lễ… (lược 87 tên người khác) Hoàng mị Khiêm Thái vương Nguyễn Thị Ngọc Hoa.

(Ngày lành tháng hai năm đầu niên hiệu Diên Thành (1578). Tiến sĩ cập đệ khoa ất Mùi (1535) trí sĩ họ Nguyễn... Tự Hanh Phủ, tước Trình Quốc công, người xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại soạn.

Trụ trì bản chùa, nhà sư tự là Huệ Hiện viết; Phạm mô, Đỗ Đình Viện, Nguyễn Tăng Vinh, người xã Tứ...(16) huyện Vĩnh Lại khắc bia.

CHÚ THÍCH

* Tu tạo: sửa sang và tạo dựng. Văn bia ghi việc cúng ruộng và chùa (khiến chùa tăng thêm quy mô) và tạo tượng cũng là sửa sang chùa. Nên đầu đề dịch tách ra như vậy cho hợp với nội dung văn bia.

1. Nguyên văn “Thiêu đề”: Tiếng Phạn có nghĩa là “bốn phương”. Đạo Phật mở khắp chốn nên người đi tu gọi là “chiêu đề tăng”, nơi tu gọi là “chiêu đề - tăng phòng”. Từ Ngụy Thái Vũ (thế kỷ V) gọi chùa là chiêu đề. (Theo Trung văn đại từ điển).

2. Nay thuộc xã Cao Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

3. Phúc địa: Cảnh đất phúc đức, tiếng xưng cảnh chùa chiền vì vùng nhà chùa là nơi sinh ra phúc đức (theo Phật học tự điển của Đoàn Trung Còn)

4. Tức Phủ Thái Bình, đương thời gồm bốn huyện: Quỳnh Côi, Phụ Dực, Đông Quan và Thụy Anh. Phủ Thái Bình thời Lê (Hồng Đức) thuộc xứ Sơn Nam, thời Mạc thuộc Dương Kinh (Hải Hưng). Thời Lê (Quang Hưng) trở lại xứ Sơn Nam (theo Đại Nam nhất thống chí).

5. Thuận Thiên là niên hiệu Lý Thái Tổ (1428-1433), ở đây có lẽ thuộc niên hiệu vua Lê.

6. Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. ở đây chỉ ngôi chùa.

7. Thiện sĩ: người từ tâm có đạo hạnh, ở đây chỉ người theo đạo Phật, thuộc nam giới.

8. Tam giáo: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.

9. Diệu Thiện: là quan thế âm Bồ tát, cũng gọi là Quan âm Bồ tát. Theo Phật giáo có nhiều vị Quan thế âm. Diệu Thiện là một. Diệu Thiện tức Diệu Thiện công chúa còn Trang Vương tu đắc đạo thành Phật, thường gọi là Phật bà quan âm.

10. Sắc tâm: danh từ chỉ Phật giáo. “Sắc” là hình tượng, chỉ mọi sự vật, “tâm” chỉ lòng người, cũng là bản thể của vũ trụ. Cần hiểu rõ “sắc” tức mọi sự vật chỉ là vô thường có rồi lại mất, nhận thấy tính hư ảo của chúng để tự giải thoát khỏi mọi tham vọng về danh lợi hòa mình với mọi người xung quanh, với cả vũ trụ nhằm Tiêu diệt mọi khổ đau. Kinh Lăng nghiêm chỉnh mạch (q2 tờ 6b) dẫn câu nói của Phật Thích ca: “Ta thường nói về các điều kiện hình thành sắc và tâm, và cả những gì do tâm điều khiển, các pháp được tạo ra chỉ được thể hiện do tâm” (Ngã thường thuyết ngôn sắc tâm chi duyên, cập tâm sở tử, chư sở duyên pháp, duy tâm sở hiện).

11. Nhân quả là nguyên nhân và quả báo. Nhân ắt có quả, quả do nhân mà có, là lẽ tự nhiên. Kinh Niết Bàn có câu: “Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình, tạm thế nhân quả tuần hoàn bất thất” nghĩa là: báo ứng điều lành điều ác, như bóng theo hình, nhân quả qua ba đời (chỉ quá khứ hiện tại, tương lai) xoay vần không sai sót.

12. Vốn lấy chữ trong câu: “chuyên khí trí nhu, năng vi anh nhi hồ” của Đạo đức kinh, chương 10 nghĩa là: chú trọng về thể chất, không xơ cứng; về tinh thần không chắp nhặt, bảo thủ trở thành đứa trẻ (giữ được đức tính đôn hậu, tự nhiên).

13. Bão nhất: ôm cái một. “Một” chỉ “đạo” là lý duy nhất bao gồm mọi hiện tượng sự vật, nên gọi là Một. Lão tử nói: “Thị dĩ thánh nhân bão nhất, vi thiên hạ thức”, nghĩa là “Thánh nhân ôm giữ cái một để làm mẫu mực cho thiên hạ”. (Đạo Đức kinh, chương 22).

14. Là bốn môn dạy của Khổng Tử: Văn nhã, nết na, trung thực tín nghĩa (Luận ngữ, thiên Thuật nhi).

15. Hai câu này lấy trong phần đầu sách Trung Dung: “Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo...” nghĩa là “Trời phú cho gọi là tính tuân theo tính gọi là đạo, khiến đạo ngày một tốt hơn gọi là giáo (dạy dỗ).

16. Mờ một số chữ có lẽ là xã (Trung am xã) Bỉnh Khiêm (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Duy (Tứ duy xã) tên xã thuộc huyện Vĩnh Lại. (Xem Các trấn tổng xã bị lãm).

(1) Hiện có bản rập số 4662 tại kho bia Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư, T.T, Nxb. KHXH, H. 1967, tr.297

(3) Bia dùng năm Hồng Ninh sơ (1591), có bản rập số 2696-7.

(4) Xem Khóa hư lục quyển thượng tờ 2b “Tọa thiền luận”./.

TB

MỘT BÀI VĂN TẾ BẰNG CHỮ NÔM

VŨ THANH HẰNG

Trong dòng văn học Nôm đầu thế kỷ XIX, bên cạnh một Hồ Xuân Hương nổi tiếng “Bà chúa thơ Nôm” với những bài thơ dí dỏm, chua cay, dùng chữ, hiệp vần tuyệt khéo, còn có một Bà huyện Thanh Quan với phong cách hoàn toàn trái ngược nhưng cũng không kém phần hấp dẫn: thanh tao, đoan chính thể hiện qua giọng văn trang nhã, điêu luyện. Đặc biệt, sống trong xã hội đầy biến động thời cuối Lê đầu Nguyễn, thơ Bà Huyện Thanh Quan thể hiện những tình cảm sâu lắng, luôn luôn nghĩ đến vận nước của một phụ nữ trí thức yêu nước. Nhưng đáng tiếc, các sáng tác của Bà hiện nay còn lại không nhiều. Cho đến nay, chúng ta mới biết đến một ít bài thờ Đường luật như: Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc...

Gần đây, chúng tôi được đọc một sáng tác của Bà thuộc thể loại khác: văn tế. Đó là bài Song nữ tế tế thái thủy văn, chép trong sách Quốc phong ngẫu vịnh, ký hiệu VHv.2248, sách của Thư viện Viện Hán Nôm. Vậy xin giới thiệu nguyên văn bài văn tế do chúng tôi phiên chú để các bạn cùng tham khảo.

SONG NỮ TẾ TẾ THÁI THỦY VĂN
(Bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ)
Bà huyện Thanh Quan soạn.

Trước sàng linh(1) khóc mà than rằng:

Kỳ trăm năm chưa mãn(2), mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,

Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.

Mẹ lìa! Mẹ ơi ! (3) con, tình thảm thiết, sao đành

Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa xiết kể

Duyên tác hợp(4) lạm nghe mười chín tuổi,

Rổ tần phồn(5) từng theo dấu mẹ đi.

Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần,

Sân chi điệp(6) lại ví dòng Tạ thị(7).

Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia(8)

Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế(9)

Ngoài ba kỷ(10) chưa vẹn nguyền giai Lão(11), buồng thung(12) từng gió tủi mưa sầu.

Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế

ôi !

Lá rụng ngàn xuân,

Mây lồng đỉnh dãy,

Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu(13) rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang(14).

Dưới trần hoàn(15) dầu cưu dạ(16) từ Ô(17) tìm đâu thấy để đền ơn non bể(18)

Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,

Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.

Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu(19) phải cậy tôn hàng(20)

Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự(21) chỉ nhờ tay nữ tế(22).

Rày:

Nhân tiết hạ thiên(23)

Lâm tuần đoan ngọ(24),

Gọi là bát nước điển(?) hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế(25).

CHÚ THÍCH

(1) Sàng linh (linh sàng): giường thờ người chết.

(2) Câu này ý nói sống chưa đầy trăm tuổi.

(3) Chỗ này nguyên văn hình như sót hai chữ. Tạm thay bằng “Mẹ lìa” để giữ phép đăng đối với câu dưới, chờ tra cứu thêm.

(4) Duyên tác hợp: chỉ việc lấy chồng

(5) Rổ tần phồn: rổ bèo, rau. Cả câu ý nói mẹ tần tảo, chăm lo việc nhà, noi gương mẹ dì mình.

(6) Chi diệp: Cành và lá, đây chỉ con cháu.

(7) Tạ thi: Họ Tạ, một dòng họ lớn ở Trung Quốc thời xưa, có con cháu đông đúc.

(8) Nghi gia: ăn ở hòa hợp, có công với nhà chồng.

(9) Thù thế: cư xử với đời.

(10) Ba kỷ: 1 kỷ là 12 năm, 3 kỷ tức là 36 năm.

(11) Giai lão: Vợ chồng sống hòa hợp nhau cho đến già. Cả câu nói khi bà mẹ mới ngoài 36 tuổi thì chồng mất.

(12). Buồng hung: phòng ở của người cha.

(13) Thanh Điểu: con chim xanh, đây chỉ sứ giả của cõi tiên

(14) Nghĩa tao khang: nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở còn nghèo khó.

(15) Trần hoàn: Cõi trần.

(16) Cưu dạ: mang trong lòng

(17) Từ ô: Con quạ, một loài chim có hiếu. Đây chỉ người con có hiếu.

(18) Ơn non bể: ơn cha mẹ sâu nặng như non như bể.

(19) Thừa điêu: Thừa kế việc thờ cúng tổ tiên.

(20) Tôn hàng: hàng cháu.

(21) Tương sự: đỡ đần công việc

(22) Nữ tế: con rể

(23) Hạ thiên: trời mùa hạ

(24) Đoan Ngọ: ngày mồng 5 tháng 5

(25) Ngu tế: một lễ tế trong tang lễ thời xưa.

TB

MỘT TÀI LIỆU CỔ DO NGƯỜI VIỆT NAM VIẾT VỀ NHẬT BẢN, CUỐN NHẦT BẨN KIẾN VĂN LỤC

NGÔ THẾ LONG

Từ xưa, đọc trong sách sử điển tịch do các học giả Trung Hoa viết, người Việt Nam đã biết rằng ở phía đông Trung Quốc, ngoài biển khơi, có nước Nhật Bản… Nhưng do điều kiện lịch sử, nhất là sự giao tiếp dân sự giữa hai nước phát triển khá muộn, nên các ký tái bằng chữ Hán do người Việt Nam ghi chép trực tiếp về Nhật Bản quả là hiếm hoi (chỉ đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, quan hệ giữa hai nước có nhiều vấn đề, tư liệu ghi chép mới phong phú. Nhưng lúc này đa số tài liệu lại nằm trong kho sách chữ La tinh rồi).

Mới đây, tìm lại trong kho sách cổ, chúng tôi thấy có hai tài liệu liên quan đến Nhật Bản.

Một cuốn là Nhật Bản Duy Tân liệt gia khảng khái thi (Thơ khảng khái của các nhà chí sỹ Duy Tân Nhật Bản) đó là một sưu tập thơ của người Nhật Bản sáng tác (thơ khá hay, chúng tôi đang tìm hiểu, và nếu có điều kiện, sẽ dịch ra công bố để bạn đọc rộng rãi có thể thưởng thức).

Hai là cuốn Nhật Bản kiến văn lục do Trương Đăng Quế viết vào đầu thế kỷ 19… như vậy nó là một cuốn sách do người Việt Nam viết về Nhật thuộc loại sớm.

Vào năm Gia Long 14 (1815) do một sự rủi ro, 5 người lính Việt Nam từ thành Gia Định chở bè gỗ về kinh đô Huế bị gió lốc cuốn trôi sang đất Nhật. Tới đó, họ được quan và dân địa phương ở Nhật cứu vít. Sau đó, họ tìm đường trở về được và kể lại những điều tai nghe mắt thấy về các mặt cuộc sống của người Nhật cho vị đại thần là Trương Đăng Quế nghe. Với văn tài của mình, Trương Đăng Quế đã ghi lại sự việc đó và mô tả khá súc tích về phong tục tập quán sinh hoạt của người Nhật đương thời, theo lời kể của những người lính đó.

Xét thấy đây là một tài liệu hiếm, có giá trị để nghiên cứu dân tộc học Nhật Bản đầu thế kỷ XIX, có thể dùng để so sánh khi nghiên cứu văn hóa cùng khu vực, nên chúng tôi phiên dịch, công bố để các nhà nghiên cứu cùng tham khảo.

Bản gốc hiện lưu trữ tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm dưới ký hiệu A.1464.

Sau đây là bản dịch của chúng tôi.

GHI CHÉP VỀ NHỮNG ĐIỀU TAI NGHE MẮT THẤY Ở NHẬT BẢN

Trương Đăng Quế viết năm 1828

Ngày… tháng 4 năm Gia Long thứ 14 (1815) 5 người lính ở thành Gia Định là bọn Đặng Hữu Bôi theo sự chỉ huy của Cai độ Lai đưa một bè gỗ đi đường biển về kinh đô [Huế]. Đi được 2 ngày đêm, gặp gió lốc nổi lên, bè bị trôi ra biển.

Đến ngày 7 tháng 5, giạt vào một bãi cát. Trên bãi cát có giếng nước ngọt có thể uống được. Xung quanh giếng có cây cỏ xanh tươi. Nhân đó họ trú lại ở đấy. Ngày mồng 8, có người nước Thanh (Trung Quốc) cùng 6 người tới. Họ đi bằng 2 thuyền tam bản, theo đường biển mà đến. Hỏi họ thì tiếng líu lo khác lạ, không thể hiểu được. Rồi họ trở lên thuyền ngay mà đi.

Ngày mồng 9 họ lại trở lại, đem gạo tới cho, rồi họ ra đi không quay lại nữa. Bọn Hữu Bôi ăn hết gạo, phải bắt chim, nhặt ốc ăn cho khỏi đói. Nhìn bốn phía mênh mông, suy tính không có kế gì để sống lâu được. Ngày 15 tháng 6 bọn Hữu Bôi bèn chặt lấy những cây tre trúc có thể nổi được, làm thành chiếc bè nhỏ, theo gió [tờ 1b] mà đi.

Lúc đói thì bắt những con cá nhỏ dựa vào bè, nướng lên mà ăn. Khát thì uống sương móc ban đêm, ốm đau khổ sở cơ hồ không thể chịu nổi.

Ngày 15 tháng 8 mới tới một hòn đảo. Người trên đảo đưa họ lên bờ, dìu họ vào trong ngôi chùa cho họ ăn cháo, nên họ tỉnh lại.

Nguyễn Duy Bảo hơi có biết chữ, nhân đó viết chữ hỏi đây thuộc địa phương nào? Người trên đảo trả lời: Đây thuộc đất Nhật Bản.

ở đó được 3 ngày, thì người trên đảo chèo thuyền đưa họ đi. Qua một ngày đêm tới một hòn đảo gọi là Trung Quân Điếm. ở đã một ngày họ lại được đưa tới một hòn đảo gọi là Thất Ma Trấn. Dừng lại ở đó hơn 20 ngày, lại từ Thất Ma Trấn đi đường bộ, rồi lại đi thuyền qua 11 ngày đêm, đến một nơi có thành quách to cao, nhân dân đông đúc. Hỏi thăm thì biết đã là Đại Quan Thành.

Từ Trung Quân Điếm đến Đại Quan Thành, phàm các đường đi qua phải vượt qua hồ, xuyên qua đảo, quanh co khuất khúc, những chỗ cảng khẩu bến đò [tờ 2a] bên dưới nhiều đá sỏi, bên trên đều là đá khối dùng đứng, thấy rất khó đi. Ai tìm được đường thủy này mà đi thuyền thì đều đi được. Tới khi đến bãi cát mới có chỗ đỗ thuyền.

Người nước ấy đại khái đều khôi ngô đẹp đẽ, khỏe mạnh. Đàn ông đầu không để tóc. Tóc trước trán đều cắt đi, chỉ lưu lại một món. Từ đỉnh đầu đến sau gáy, họ bôi sáp làm cho tóc trỏ ra phía trán giống như cái mỏ chim.

Đàn bà để tóc búi cao lên đến đỉnh đầu. Quần áo mặc thì đàn ông đàn bà như nhau: thân áo rất dài. Hai ống tay áo rộng mà ngắn, đều dùng vải hoa khâu quấn lại, không thấy đường cắt may ở đâu. Khi nào giặt thì gì ra, giặt xong lại khâu vào như cũ. Thắt lưng làm bằng lụa. Bên dưới đóng khố, không có quần. Chân xỏ bít tất đi guốc chứ không đi hài. Bít tất bằng vải, đầu bít tất, chỗ ngón chân cái và ngón thứ hai họ khâu thành cái [Tờ 2b] khe để tiện đi guốc dép. Tất ngắn đến cẳng chân và được buộc bằng dây. Dép phần nhiều dùng da bò hoặc bện rơm. Hoa văn trên quần áo mặc của quan và dân đều cùng một dạng như nhau. Riêng thắt lưng của quan dùng màu hoa cà, hoặc màu xanh chàm và đều thêu hoa. Còn binh lính và dân thường thì dùng màu thuần xanh lam hoặc màu đen tuyền để phân biệt.

Tên quan của họ: Quan ở Trung Quân Điếm gọi là Tiểu dạ câu diên; ở Trấn Thất Ma gọi là Tả thế yên; ở Đại Quan Thành gọi là Đại nhã câu diên. Lính thì gọi là Dạ câu diên. Bếp gọi là Hiệt. Các quan chức quản thành, quản điếm, đều mỗi năm lại thay đổi. Khi đi ra ngoài không được đem theo vợ con.

Công sảnh và nhà riêng đều lợp bằng tre nứa. Riêng trị sở của đại quan, có một tòa thành hình tròn, cũng dựa theo thế đất gò cao mà dựng lên, cao hơn một trượng. Trên dùng rào gỗ. Cổng thành không có chòi gác. Địa thế cũng không dài rộng lắm. Chỉ ngang với đồn ở phủ bên nước ta mà thôi.

[Tờ 3a] Khi hành quân, hoàn toàn không có cờ quạt chiêng trống ầm ỹ. Vũ khí thì có gươm và đoản kiếm, không thấy sang kích, côn gậy. Chỉ ở trong công sảnh thì đặt một giá sáng điểu thương có độ hơn 20 khẩu. Bên cạnh dựng một cây đinh ba. Trên tường treo vài cái cung, mỗi cái dài độ 5 thước. Nghi trượng tùy hành của quan Tả thế yên có 2 thứ hình thù giống như buồng chuối, sơn đen, có cán dài 2 thước, có lẽ là thứ khí giới gì đó.

Thép của họ rất cứng, đúc rèn làm dao kiếm thì sắc bén vô cùng. Tục họ bất cứ sang hèn đều thích đeo kiếm. Trẻ em 8, 9 tuổi cũng đeo thanh kiếm nhỏ ở lưng.

Phàm yết kiến bậc tôn trưởng thì ngậm thanh kiếm đứng bên cạnh, khi bậc tôn trưởng ra lệnh, thì kêu lên một tiếng. Xin thôi thì kêu liền 4, 5 tiếng. (?)

Gặp cảnh nguy cấp, họ rất bình tĩnh chứ không hoảng hốt.

Ngựa cưỡi thường cứ để bờm, không trang sức [tờ 3b]. Dùng bàn chải tre mà chải bờm. Cưỡi ngựa không dùng yên và bàn đạp. Mõm ngựa có một cái móc sắt, đầu móc nối liền với dây cương. Trên lưng ngựa đặt một tấm nệm dầy. Quan lớn cưỡi ngựa, tự cầm dù che, y như người cưỡi trâu. Hoàn toàn không thấy họ phi ngựa.

Quy cách đóng thuyền: đuôi cao mà rộng, bánh lái dùng cao. Mũi thuyền cao dài nhọn mà hẹp. Thuyền lớn không quá 7, 8 mái chèo (?), nhỏ không quá 3, 4 mái chèo. Thuyền thường neo trong cảng, nhưng khi đi trên mặt biển cũng rất nhanh.

Thuyền công khi đi thì úp hai cái thống (?) nhỏ ở đầu thuyền, trên đặt thanh gỗ ngang. Một người cầm mộc bài gõ làm nhịp. Mọi người theo nhịp mà đẩy chèo. Cùng hò “dô ta” (xa lạ).

Thuyền buôn và thuyền đánh cá chỉ rõ 2, 3 người đẩy chèo, gọi là “đóa y” mà thôi.

Về binh chế, họ chia quân lính làm 2 nửa, một nửa thường trực tại quan thự, ứng chực công việc, một nửa về trong dân, ở tản mác trong thôn xóm, cuối năm thay phiên đổi chỗ [Tờ 4a]. Số lính ở tản trong dân có trách nhiệm giữ trật tự, đàn áp trộm cướp phát ra ở làng xóm, và dẹp các vụ đánh cãi nhau.

Nhà họ ở thường lợp bằng gỗ ván. Thỉnh thoảng cũng có lợp tranh lợp lá. Cột nhà hình vuông. ở phố xá cũng có nhà làm hai tầng, nhưng kiểu cách rất thô lậu, không chạm khắc tinh xảo.

Từ Trung Quân Điếm đến Thất Mạt Trấn dân cư không trù mật lắm. Riêng một sở Đại quan thì có phố chợ liên tiếp, khách buôn tụ hội rất đông, đáng gọi là nơi đô hội. Trong thành có một tòa nhà lợp ngói, để các nhà buôn Trung Quốc [ nước Thanh] ở. Bên ngoài có lính gác. Bọn con hát bản quốc tụ tập ở đó, ăn mặc rất đẹp, mỗi người cầm một cái dù trắng, lưng đeo túi vải, trong chứa đủ áo quần, chăn chiếu. Mỗi khi bọn họ, ra vào thì lính canh cửa lục soát kỹ, không cho chúng lấy trộm hóa vật cho riêng người nước Thanh. Lính canh cũng không cho người Thanh được lấy riêng hàng hóa. Những thứ của tặng thưởng được bao nhiều đều được cai [tờ 4b] binh ghi hết vào giấy.

Trong nhà chia làm 3 vòng. Có chấn song sắt, cửa chấn song bên trong, trên dưới đều đặt [khung] bằng gỗ dầy. Chỗ cửa khép lại, được khóa bằng sắt. Khóa to bằng cái cột. Phàm những kẻ trộm cắp, bất luận nặng nhẹ, đều bị bỏ tù không cho ra vào. Đến bữa ăn, thì buộc thức ăn vào đầu gậy, đưa qua lỗ cửa chấn song mà tiếp tế. Vì vậy dân đều sợ phạm pháp, không ai dám đánh nhau. Trong ngục cũng ít người bị giam. Các nhà chữa bệnh [nhà thương?] có chia ra các chuyên ngành như châm cứu, xem mạch, cho thuốc nhưng họ luôn ở sát nhau, không chia lìa. Chôn cất người chết, không dùng quan tài và quách, chỉ làm một cái ống tròn bằng gỗ, cho người chết ngồi vào trong đó, rồi chèn đầy bông, để thi thể khỏi bị thằng đờ. [Bên trên] dùng ván phẳng đậy lại, cho 2 người khiêng đi, chứ không thấy mặc áo sô để tang. Để chống rét, họ chế bếp lò bằng đồng, giống như cái chậu đựng nước, mặt rộng hơn một thước, dưới có 3 chân, đặt trên một tấm gỗ [ tờ 5a] bát giác, đóng đinh vào đó để tiện di chuyển. Giữa lòng cái chậu gắn một giá sắt để đốt than, trên lại đặt ấm trà. Ba bốn người ngồi vây quanh hút thuốc, uống trà, trò chuyện làm vui.

Để tắm thì họ có cái thùng gỗ, cao khoảng hơn 3 thước, đường kính 3 thước, đặt ống sắt trong thùng, ống sắt cao ngang thùng, bốn phía là nước, đốt than trong ống sắt, khiến nước thường xuyên nóng, người vào trong đã tha hồ ngâm tắm. Vào giữa tiết mùa đông, mỗi ngày tắm 3, 4 lần.

Khí mãnh (đồ sành sứ) phần nhiều dùng đất nung. Mỗi người ăn dọn riêng một mâm. Người nào ăn tự lấy đũa từ trong túi đeo bên mình ra ăn. Ăn xong dùng giấy trắng lau đềa rồi lại bỏ vào bọc.

Bậc tôn trưởng có cho vật gì, thì giơ hai tay đỡ lấy đó là tỏ ra kính trọng. Sáng ra họ thường ăn chay, đến trưa và chiều mới ăn thịt cá.

Các ngày chạp và Đoan Ngọ không có tế cúng và hội nhau ăn uống làm vui.

Để buôn bán trao đổi, họ có dùng tiền, không phải bằng bạc lạng. Trên đồng tiền có (Tờ 5b) in 4 chữ Văn hóa thông bảo hoa mỹ.

Chữ viết của họ giống chữ Cao Miên (Campuchia).

Họ cũng có giấy bút. Giấy cứng và dầy, màu trắng. Bút giống bút do Trung Quốc chế.

Phàm các thuyền đến buôn bán trước hết mang hàng hóa lên bờ ghi đủ giá cả từng thứ, và những hàng hóa cần mua vào giấy (thiếp), giao cho người bản quốc thu giữ và lo liệu. Đến ngày nhổ neo ra đi, cứ chiểu theo tờ giấy ghi hàng hóa cần bán và cần mua, họ sẽ cấp trả đầy đủ. Lại kiểm tra trong thuyền, không cho đem tiền đồng, tiền sắt của nước ấy ra. Rồi họ hộ tống cho xuất cảnh. Số người nước Thanh đến buôn bán thường có tới 8, 9 thuyền, đỗ ở bên Đại Quan Thành.

Khi hậu xứ ấy lạnh nhiều nóng ít. Khoảng tháng 9 tháng 10 thường có mưa tuyết. Tháng 5 tháng 6 là lúc nóng mà cũng không nóng lắm.

Họ nuôi ngựa phần nhiều bằng lá sắn dây.

Chân ngựa đều được quấn rơm (?)

(Tờ 6a) Đất ấy nhiều cát sái. Ruộng đồng tốt xấu không đều nhau. Về cấy hái thì họ cứ gieo mạ trên đất, rồi đợi lúa chín. Thường vào tháng chạp thì gieo thúc, tháng 11 thu hoạch. Mỗi năm có 2 vụ thời tiết.

Xứ này sản xuất nhiều bò. Phàm những việc vận tải chuyên chở đều dùng bò. Còn ngựa để cưỡi. Cách đóng bò cày là: dùng dây buộc đầu bò, nối với hai bên lưng bụng; buộc cày vào sau, một người dắt bò một ngưỡi đỡ (cày) đưa đi.

Các loại chó mèo gà lợn, đều giống như ở đảo Lữ Tống (Luzon). Chỉ có một loại chuột hương (Cầy hương?) hình dáng bé nhỏ không bằng nắm tay, lông mịn màu đen như tro tính rất thuần, người nước ấy thường bế, trong lòng, mùi thơm bay ra suốt ngày không hết.

Về thực phẩm họ có nhiều rau biển, mọc đầy ngoài biển, lá dài như lá mía, nhưng hơi dầy. Dân họ lặn xuống biển hái rau, phơi khô để nấu canh ăn hoặc làm dưa, vị chua ngọt, rất ngon. Các thuyền buôn nước Thanh phần nhiều mua thứ rau ấy (tờ 6b) chở về.

Nương vườn của họ một nửa trồng khoai và cải củ. Cải củ của họ có loại củ rất to, dài tới 6 tấc, đem phơi khô dầm dấm ăn sống, hoặc nấu canh rất ngon.

Các loại hoa quả cũng ít thấy. Chỉ có một loại hoa chụm rất lạ, dài độ 4 tấc, phải cắm dàn tre cho leo. Lá giống lá cúc, khoảng tháng 3 tháng 4 hoa nở, to như cái chén. Cánh hoa rất dầy, có bông màu vàng sẫm, có bông màu đỏ sẫm, có khi một cuống mà lại có hai bông khác màu nhau. Chỗ trồng hoa thì đắp đất 5 tầng (?) chia ra mà cắm, màu vàng màu đỏ xen nhau, trông đẹp như gấm thêu. ở vườn, rừng và ven dọc đường đi phần nhiều trồng cây thông. Giữa đường có lát đá.

Phong tục nước họ hâm mộ đạo Phật. Khắp nơi đều có chùa chiền. Khi bọn Đặng Hữu Bôi mới đến cũng được ở trong chùa. Bôi có đem theo 4 đạo văn bằng (giấy tờ tùy thân). Người nước ấy lúc đầu chưa biết, đến khi cùng khách buôn Trung Quốc qua lại (tờ 7a) họ hỏi ra, mới tin đồ là nước nước ta; họ càng thêm kính trọng.

Họ từng lấy nghĩa, lý, thuyết phục người nước Thanh để đưa bọn Bôi trở về nước.

Riêng có một điều lạ rằng: Khi bọn Hữu Bôi vào yết kiến quan cai quản thành, thì thấy dưới sân của công đường có một vật bằng đồng, hình vuông, trên lưng có khắc hình người. Người nước ấy dặn Hữu Bôi rằng: Phàm người các nước mới tới đây đều phải đi qua dẫm lên khối đồng này, như thế mới là người ngay thẳng, vô tội. Và mới được bái kiến quan lớn ở đây. (Bôi) không hiểu ý thế nào.

Đến khi được hầu cạnh Bề trên thì nhà vua bảo các thị thần rằng: Nước Nhật trước kia có người Tây Dương tới truyền đạo, đã xui dục, dụ dỗ dân chúng làm loạn. Nước ấy dò biết được âm mưu của bọn kia, bèn làm ám hiệu với dân chúng, hẹn rằng hễ là người trung thành với quốc gia thì dùng khăn vải hoa trắng quên trên đầu. Kẻ nào không quấn là bọn phản nghịch sẽ bị giết. Chỉ trong một đêm họ diệt sạch đảng gian. Vì thế người Nhật rất ghét người Tây Dương (tờ 7b). Thường ở những nơi cầu quán đường sá họ khắc hình dáng các giáo chủ Tây Dương, để cho người trong nước dẫm lên. Từ đấy, người Tây Dương biến mất, không dám trở lại. Bấy giờ, mới biết rằng chuyện bọn Hữu Bôi chứng kiến tức là di tích (của sự việc Tây Dương kể trên).

Ngày tháng năm Minh Mệnh thứ 9 (1828).

Thần là Trương Đăng Quế (1) kính chép, và phụ lục phần dịch âm của nước ấy dưới đây(2).

CHÚ THÍCH

(1) Trương Đăng Quế: biệt hiệu Quảng Khe, sống vào thế kỷ XIX. Năm 1819 đỗ Cử nhân sau có dạy vua Thiệu Trị học. Đời Minh Mạng ông nhiều lần làm chủ khảo thi Hội. Là nhà sử học nổi tiếng, từng tham gia biên soạn các bộ sách như Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục tiền biên v.v...

(2) Vì điều kiện ấn loát, chúng tôi không đưa được phần chữ Hán vào đấy.

TB

BÍCH CHÂU DU TIÊN MẠN KÝ

NGUYỄN THẠCH GIANG

Cuối tháng 5 - 1963, qua một chuyến đi thực tế ở Trường Lưu, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, quan sát tại chỗ những gì còn lại của dòng họ Nguyễn Huy. Chúng tôi may mắn đã được chính quyền xã Trường Lộc, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch cùng các cụ Nguyễn Huy Mưu tộc trưởng, Nguyễn Huy Toại và nhân dân địa phương tận tình giúp đỡ nên chúng tôi đã thu thập được thêm một số tài liệu mới, biết thêm được những sự thật cùng những giai thoại giữa các thi nhân Tiên Điền và Trường Lưu.

Ngày 29 - 5- 63, bắt đầu việc nghiên cứu những thư tịch còn lại, trong đã có các tập: Nguyễn Tiên Điền gia bảo, Thạc Đình di cảo, Phông sứ Yên Đài tổng ca, và đặc biệt là cuốn Phượng dương Nguyễn tông thế phả do Nguyễn Huy Tự soạn lục vào tháng Trọng thu năm Đinh Mùi (1787).

Trong số sách gọi chung Thạc Đình di cảo đó, tôi chú ý mấy tờ để phụ vào tập Gia phả có tên Bích châu Du tiên mạn ký, vì từ mùa hè 1952 tôi đã nghe cụ Nghè Nguyễn Mai nói đến tập ký này ở Trường Lưu.

Tôi đọc lướt qua, thấy hay, tiện có sẵn bút mực bèn dịch phóng ngay mang về. Tôi ngờ tập Du tiên mạn ký là tác phẩm của Nguyễn Huy Hổ, vì tập Phượng dương tiếp các đời con cháu cụ Nguyễn Huy Tự nối cha chép tiếp, người sau tưởng là những tờ của Gia phả.

Nay nhân kỷ niệm 200 năm mất Nguyễn Huy Tự (1790 - 1990), tôi soát lại gửi đăng tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm gọi là chút kỷ niệm của một chuyến đi thực tế tìm hiểu những đóng góp lớn lao của một dòng họ đối với sự nghiệp văn hóa của dân tộc.

BẢN DỊCH
“BÍCH CHÂU (1) TIÊN DU MẠN KÍ”

Dưới chân núi Trâu Sơn(2) xứ kinh Bắc(3) có gia đình hai mẹ con một bà cụ già ở đấy. Người ta không biết tung tích xưa kia của họ ở đâu, chỉ biết sau mấy năm liền trong nước bị đói kém, bà cụ cùng người con gái đến đây xin làng cho ở ngụ.

Người con gái tên là Hoàn Châu, khoảng 15, 16 tuổi, dáng người xinh đẹp thùy mị, hàng ngày tần tảo làm ăn nuôi mẹ. Hai mẹ con chỉ có một vườn cam và một đám đất nhỏ trồng rau lấy cái ăn hàng ngày. Vườn cam của bà nức tiếng gần xa vì cam quanh năm sai quả, bà mang biếu bà con láng giềng cũng đã nhiều lần mà vẫn còn bán lấy tiền đủ chi dùng trong nhà.

Có một năm vua Anh Tông(4) nhà Trần, nhân đi tuần thú ở miền này đã ngự đến xem vườn cam của bà, Hoàn Châu ra vườn hái quả dâng vua, Vua thấy nàng dịu dàng, duyên dáng, bèn cho đón về kinh làm cung phi.

Hoàn Châu được vua rất hậu sủng. Nàng ít tuổi nhưng sớm thông hiểu kinh sử và binh pháp nên trong các buổi thiết triều nàng thường được dù bàn quốc sự. Trong chốn cung đình không một ai là không mến phục nàng.

Một hôm vào tiết Nguyên tiêu vua cho vời Hoàn Châu lên cùng dạo chơi vườn thượng uyển. Khi đến chiếc cầu bắc qua lạch nước suối trong vắt, vua dừng lại thưởng trăng, nhân lúc vui vua ngỏ ý muốn lấy tên Hoàn Châu đặt cho cái cầu này. Vua phán:

- Từ ngày nàng vào cung đã giúp ta rất nhiều việc từ hàn binh pháp. Nay ta muốn đặt tên cho chiếc cầu này là “Hoàn Châu kiều” để ghi công lao đó của nàng.

Hoàn Châu thẹn thùng bái tạ, không dám nhận cái vinh dự đó. Nhưng nhà vua đã sai quan nội giám lấy giấy bút viết mấy chữ đại tự “Hoàn Châu kiều” cho dán lên thành cầu để sau thợ khắc vào gỗ. Và nhân đấy vua đặt cho Hoàn Châu một cái tên mới là Bích Châu, rồi thuận miệng vua đọc:

“Hoàn Châu dĩ cải Bích Châu liễu”(5) Bích Châu bất giác đọc tiếp:

“Do tự tích thời tại nhất châu”(6)

Vua khen ban cho năm lạng vàng rồi trở về cung.

*
**

Năm Hưng Long thứ 19 (1312)(7) có giặc Chiêm Thành ra quấy rối miền nam biên giới nước ta, vua Anh Tông phải thân chinh đi đánh, Bích Châu cùng đi theo hầu vua. Phàm những việc từ hàn nơi trướng gấm đều do tay nàng thảo ra. Cả đến những việc bài binh bố trận nàng cũng được dự bàn. Lần này chiến thuyền quân ta bị quân Chiêm bao vây nghiêm ngặt ở cửa Thi Nại(8). Quân lương và quân khí của ta sắp cạn, tình thế trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Vua hội chư tướng đến hỏi kế, vì quân ta đã mấy lần đánh phá vòng vây nhưng chưa thành. Lần này theo lời nàng, quân ta chia ra nhiều mũi khác nhau tiến phá vòng vây quân Chiêm. Còn nàng Bích Châu một mình một chiếc thuyền con xông lên trước. Thuyền nhẹ lướt như bay trên mặt sóng, quân tướng nức lòng cho chiến thuyền rượt theo. Quân Chiêm bắn tên ra như mưa, nhưng quân ta không việc gì. Buồm căng của chiến thuyền cũng không một cái nào bị rách vì tên bắn. Mọi người đều lấy làm lạ cho là có thần linh phù hộ nên nức lòng quyết chiến. Một lát sau sóng gió bỗng nổi lên đùng đùng, thuyền giặc tròng trành như sắp bị chìm nghỉm xuống đáy bể, trong khi chiến thuyền quân ta vẫn bình yên như lướt trên mặt bể phẳng lặng. Quân ta chưa đánh, quân Chiêm đã khiếp sợ. Vòng vây bị phá tan tành. Quân ta đại thắng.

Vua mừng rỡ cho mở tiệc lớn khao quân ngay trên mặt bể nàng Bích Châu thấy người khó ở nên không dự yến. Vua không vui, cho ngự y hết lòng săn sóc. Nhưng bệnh tình vẫn cứ một ngày một nặng. Vua lo lắm. Thuyền phải đi mất gần mười ngày đêm nữa mới tới kinh. Một hôm vua nằm mộng thấy một thần nữ xiêm nghê màu hồng nhạt từ trên không hiện xuống vào trong khoang thuyền ngự trao cho vua một phong thư tiên, đoạn nói:

- Ta vâng mệnh Thiên đình xuống trao cho Hoàng thượng tờ chiếu này và xin rước Hoàn Châu về lo việc từ hàn thay ta.

Vua bàng hoàng vội mở ngọc chỉ ra xem, thấy quả là sắc chỉ của Thiên đình triệu Hoàn Châu về thượng giới. Vua phán:

- Hoàn Châu, cung phi yêu quí của ta, ta rất kính phục cả tài lẫn đức. Bao nhiêu năm nàng đã hết lòng giúp ta trong việc từ hàn nơi ngự phủ cũng như việc trị hoạch chốn quân doanh. Nay phút chốc đã phải xa ta, ta không nỡ. Xin cho nàng lưu lại đôi ba ngày để ta có thể đền đáp công ơn nàng trong muôn một.

Thần nữ đáp:

- Điều đó không thể được vì ta không thể làm trái thánh dụ của Ngọc Hoàng.

Sau vua khẩn khoản mãi, thần nữ mới thể tình cho nàng nán lại đến rạng ngày mai.

Sáng hôm sau, vua tỉnh dậy trong lòng nghi hoặc về câu chuyện trong mộng. Vua hỏi bệnh tình Hoàn Châu. Quan ngự y tâu bệnh tình của nàng đột nhiên thuyên giảm rất nhiều... Vua mừng rỡ cho vời Bích Châu đến thuyền ngự, đem câu chuyện trong mộng kể cho nàng nghe và nhân thể hỏi về duyên cớ giáng trần của nàng. Nàng tỏ vẻ buồn rầu, quyến luyến, cúi đầu bái tạ rồi lấy một chiếc trâm có nạm một viên ngọc bích hình tròn bổ đôi dâng lên vua:

- Xin bái biệt Thánh thượng, xin Thánh thượng trao lại viên ngọc này cho người nào có nửa viên ngọc như thế một khi khế hợp(9) lại được, để cho thiếp trọn vẹn lời ước cũ. Nói xong thì mất.

Lúc bấy giờ là vào giờ Thân ngày Dần. Nhà vua thương tiếc vô hạn, có ý đưa thi hài của nàng về kinh sư để mai táng. Nhưng đi đến cửa bể Kỳ Hoa thì tự nhiên thuyền đỗ lại không đi được nữa. Vua cho ghé vào bờ, đưa thi hài Bích Châu lên mai táng ở trên một gò đất cao bên bờ bể thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

*
**

Về đến kinh, vua lập tức cho truyền thánh chỉ đi khắp nơi loan báo cho mọi người biết để đến nhận trâm ngọc.

Năm ngày sau, vào một buổi chiều, có một người thư sinh áo quần chỉnh tề giản dị, đến trước cửa hoàng cung xin vào bệ kiến để nhận trâm ngọc. Vua cho triệu vào. Người thư sinh lấy nửa trâm ngọc của mình ra dâng vua. Quả nhiên hai nửa viên ngọc bích ghép lại thì tự nhiên dính với nhau làm một, trong suốt như một viên ngọc lành không có tí vết nào cả. Vua lấy làm lạ trao lại viên ngọc cho chàng thư sinh, đoạn hỏi chàng tên tuổi, quê quán và bảo chàng tâu lại việc được ngọc bích.

Người thư sinh quỳ xuống dâng lên vua một tập sách gói trong tấm hồng điều, rồi tâu:

- Xin bệ hạ đọc qua mấy tờ hoa tiên này thì sẽ rõ, hạ thần đã có ghi lại tất cả những điều bệ hạ muốn biết. Nay xin bệ hạ cho kẻ thư sinh hèn mọn này được vào Hoan Châu(11) ngay cho kịp ngày ước cũ.

Vua bằng lòng, đoạn sai quan nội giám ban cho một lạng vàng và năm tấm lụa. Người thư sinh bái nhận, tung hụ “vạn tuế” rồi lui ra.

Vua lấy tập hoa tiên ra đọc. Tập sách máng, chỉ có năm tờ, đó là “Du tiên mạn ký”(12), thể chữ viết cực tốt, chép:

“Ta họ Vương, tên Lưu, tự Tố Nguyên, thứ nam quan Thừa tín(13) lang phủ Thanh Hóa(14). Thuở nhỏ ta sớm được dù nơi sân Trình cửa Khổng. Lên bảy đã biết làm thơ phú. Lên mười bao nhiêu kinh sử ta đều thông thuộc cả. Thân phụ ta rất vui lòng mong cho ta sau này đỗ đạt, được dự vào nơi kim mã(15) nhưng chí ta thì khác. Bao nhiêu điều học được trong sách thánh hiền ta không thấy một ai đem ra thi thố cho dân sự được nhờ. Đi đâu ta cũng thấy dân tình ca thán vì bọn tham quan ô lại. Giặc cướp nổi lên như ong. Ta nhớ lại ngày còn để chỏm đi học, sư phụ giảng cho ta nghe những lời vàng ngọc của thánh hiền mà thích thú làm sao! Ta hằng mong khắp cả giang sơn từ chốn phố phường đến nơi thôn xóm có một cảnh tượng thái bình thịnh vượng của xã hội đại đồng như trong Lễ vận(16). Ta thường đem những ý đó ra đàm luận với thân phụ ta, thì đều bị người mắng ái... Ta ấm ức mà không nói được với ai. Năm ta 17 tuổi tức là vào năm Quảng Hựu thứ 2 (1086)(17), ở kinh thành có mở khoa thi Văn học. Thân phụ ta bảo ta tiến kinh dự thi, ta không dám trái lời. Nhưng đến ngày xướng danh vào trường, ta lại bỏ, đến vãn cảnh chùa Báo Thiên(18) và nhân có điều không vui trong lòng, ta vào chùa hầu chuyện các Hòa thượng, cùng họ đàm luận đến lẽ giải thoát chúng sinh, đến phép “trì túc”(19) của lẽ diệt dục lạc của Phật... Sau đã ta lại lên đường t rở về phủ.

Về đến quê nhà, bị thân phụ ta mắng thậm tệ, ta phẫn chí quyết bỏ nhà ra đi… Ta đi về hướng Tây, đi đến một khu rừng, rồi vui chân đi mãi... đến khi dừng lại, nhìn xuống thì không thấy xóm làng đâu nữa cả. Bốn bề là nói rừng trùng điệp. Ta ngồi xuống một tảng đá dựa lưng vào một gốc cây mà nghỉ, rồi vì quá mệt nên ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong giấc mơ ta thấy thoang thoảng một mùi hương, rồi có một tiên đồng đến đánh thức ta. Ta bừng tỉnh dậy, quả có như trong mộng. Ta bàng hoàng kinh ngạc hết sức. Tiên đồng tươi cười bảo ta:

- Tiên sinh đã lạc bước đến đây. Tiên chủ có lời mời người vào động phủ.

Ta hỏi nơi này là nơi nào. Tiên đồng cho biết đây là nơi quần tiên hội ngộ, tên là “Lạc tỉnh động”. Ta theo tiên đồng lách qua một hang núi dài và khá rộng. Trong hang ánh sáng lờ mờ, thạch nhũ Lóng lánh như ngọc. Một giòng suối chảy róc rách, nước trong vắt thấy rõ từng hạt cát hòn sỏi ở đáy. Hai bên bờ thỉnh thoảng chỉ thấy một vài tảng đá mặt phẳng lì như những chiếc trường kỷ. Tiếng đá sỏi lào xào ở dưới chân dội lại trong động nghe trầm trầm đều đều.. Ra khỏi động, ta qua một chiếc cầu vồng vắt ngang một con suối khác rộng và sâu hơn. Cầu làm toàn bằng đá. Thành cầu có nạm ngọc đủ các màu. ánh sáng phản chiếu màu sắc rực rỡ hòa hợp rất đẹp. Đến đâu ta cũng thấy phong cảnh kỳ vĩ lạ thường. Ta đã từng đi du ngoạn nhiều nơi, nhưng không đâu bằng chốn này. Đứng ở đây, ta có thể phóng tầm mắt nhìn ra bốn phía không biết đâu là cùng. Núi đồi thoai thoải, cây cối xanh um trĩu quả từng hàng dài thẳng tắp, lượn hết đồi này sang đồi nọ. Ta chú ý nhìn thì thấy toàn những thứ quả mà bình sinh ta chưa được thấy bao giờ. Đi được một đoạn, đến một tòa nhà đá màu xanh nhạt, tiên đồng bảo ta ngồi nghỉ một lát rồi với tay hái đưa cho ta một quả đào to bụ bẫm. Ăn xong, ta thấy toàn thân sảng khoái không gợn một chút ưu tư phiền muộn gì. Vị thơm ngọt của đào tiên như cứ phảng phất ở chân răng đầu lưỡi. Ta nhìn Lên mái đình, thấy có biển đề ba chữ “Hội nguyên đình”.

Một lát sau, tiên đồng dẫn ta đến một nơi cung điện lâu đài san sát khắp cả lưng đồi, chân núi, đầu suối lưng khe. Các tiên nữ xiêm nghê đủ các màu rực rỡ thướt tha dưới các rặng cây trĩu quả đông không biết ngần nào mà kể. Nhưng tịnh không có một tiếng động nào ngoài tiếng đàn giọng hát trong trẻo thoảng qua.

Tiên đồng đưa ta vào một tòa nhà nguy nga toàn làm bằng gỗ chạm trổ tinh vi, có biển đề bốn chữ vàng “Quần tiên hội sảnh” treo ở chính giữa. Lầu dựng bên một con sông lớn. Gió lộng bốn phương, cành cây trĩu quả đủ các loại rung rinh bên cửa sổ. So với cảnh tráng lệ ở đây thì dẫu đến các Đằng vương(20) cũng không bằng.

Ta ngồi đợi một lát thì thấy từ trong nội thất đi ra năm tiên nữ tha thướt trong xiêm nghê rực rỡ. Thấy ta, họ cúi chào. Người bận xiêm hồng đi trước mời ta ngồi rồi tự mình ngồi vào ghế giữa, còn bốn tiên nữ kia đứng hầu hai bên. Ta để ý đến hành động của người người. Ta thấy người nào cũng rực rỡ đoan trang, dẫu cho có Mao Tường, Lệ Cơ(21) cũng khó bề sánh kịp. Khi mọi người đã yên vị, tiên nữ xiêm hồng đứng dậy, tiếng ngọc xiêm nghê khẽ động, đoạn bảo ta:

- Ta đã biết trước có nhà thầy lên vãn cảnh ở đây nên đã cho tiên đồng ra cửa động đón. Người đã có duyên may lên được đến cảnh tiên thì ở lại, đừng nghĩ đến chuyện trở về nơi trần thế đầy khổ ải mà làm gì. Cuộc đời quần sinh chốn nhân gian ngắn ngủi như là một giấc mộng khủng khiếp! ở đây thì khác hẳn. Con người sẽ là trường sinh bất tử, không biết đến buồn khổ lo âu là gì hết... Nói đoạn tiên chủ sai tiên đồng vào lấy các thứ hoa quả mời ta và mọi người cùng ăn. Ăn xong tiên chủ lại ban cho ta một cốc rượu ngọt. Ta cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái vô ngần. Bao nhiêu điều mà ta thường tư lự băn khoăn trước đây hầu như biến mất cả. Ta cũng không hiểu vì cớ làm sao. Một lát tiên chủ lại nói tiếp:

- Hôm nay nhân ngày hội của quần tiên, ta muốn nhân dịp này mà tác thành cho người cùng với ngọc nữ Giáng Khanh, con gái yêu của ta. Đây là một cuộc kỳ ngộ hiếm có. Ta chắc ngươi cũng không phụ lòng ta mà từ chối.

Ta cúi đầu bái tạ hậu tình của tiên chủ. Lập tức tiên chủ truyền cho mở hội. Trời đã về đêm. Đứng trên “Quần tiên hội sảnh” nhìn ra, cả một vùng đồi núi sáng rực hẳn lên. Hàng trăm nghìn chiếc đèn lồng bằng lụa mỏng kết tua ngọc đủ các màu treo khắp cả cành đào ngọn suối. Các tiên nữ xiêm nghê tha thướt từ khắp nơi trong động kéo về. Mùi hương thơm ngào ngạt... Ta nhìn mà chúang cả mắt.

Tiên chủ truyền nâng cốc mở hội chúc mừng cho duyên lành của ta và Giáng Khanh. Tiếng nhã nhạc sinh ca nổi lên. Các tiên nữ từng đoàn ra múa nhịp nhàng uyển chuyển đến trước mặt chúc mừng ta.

Một lúc sau, ta cùng Giáng Khanh đi khắp vùng xem hội. ánh sáng mát dịu rung rinh dưới những rặng cây đào dài thẳng tắp đưa chúng ta hết đồi này đến đồi nọ. Đây là nơi uống rượu đánh cờ, kia là nơi dệt lụa, đóng hài, làm đồ trang sức bằng ngọc, chỗ này dệt thảm làm hoa đăng, chỗ kia, bên bờ suối, là nơi dong thuyền hứng gió, thưởng trăng... ở đây có hàng vạn cảnh chơi thanh nhã khác nhau, có hàng vạn nghề tinh xảo khác nhau không sao ghi hết được.

ở tiên giới được ba năm, tình nghĩa giữa ta và Giáng Khanh ngày một thêm nặng. Nhưng riêng ta, ta vẫn chưa hết được nợ trần nên có những lúc bùi ngùi tưởng nhớ đến Dương gian. Giấc hương quan thỉnh thoảng vẫn đi về với ta bên gối phượng. Ta muốn trở về thăm quê cũ một phen. Ta chưa lần nào ngỏ ý đó cho Giáng Khanh, nhưng nàng đã đón biết nên thường ái ngại nói với ta:

- Chàng còn vướng nợ trần thì khó bề trọn được kiếp ở nơi tiên cảnh.

Mỗi lần nàng bảo thế, ta giả thác nói sang chuyện khác. Có một buổi chiều ta cùng Giáng Khanh đi dọc bờ sông hóng mát, cùng nhặt những hòn cuội, những vỏ sò, vỏ hến bị sóng nước đánh giạt vào bờ. Gió đưa hương ngàn từ khắp nơi về thoang thoảng... Ta cảm thấy cảnh trời nước mà nhớ đến cố hương nơi chân trời góc bể. Ta ngậm ngùi nói với Giáng Khanh, tỏ cho nàng biết ý định của ta. Giáng Khanh bỗng òa lên khóc:

- Chàng chí đã quyết thì thiếp đâu dám ngăn. Có điều chàng về, một đi là không trở lại, không sao có dịp hội ngộ cùng nhau. Tương phùng họa chỉ có được ở chốn Dương gian. Những chuyện kỳ ngộ xưa nay kể cũng nhiều nhưng mấy ai được như Lộc Ngọc chàng Tiêu(22). Kỳ ngộ thì có, nhưng chỉ để rồi Trương Thạc phải nhớ Lan Hương(23). Trịnh Giao Phủ phải bâng khuâng với Ngọc Minh Châu(24), Phong Trắc phải ngơ ngẩn vì Thượng Nguyên(25)...

Ta tỏ vẻ chưa hiểu ý, Giáng Khanh nói thêm:

- Thiếp biết rồi đây thiếp sẽ bị phạt Giáng xuống trần vì nhớ chàng mà đánh vì mất chén ngọc, và rồi thiếp sẽ vào cung hầu hạ giúp vua Trần Anh Tông giữ gìn đế nghiệp. Tương phùng họa là ở chốn Dương gian…

Ngày hôm sau, Giáng Khanh ân cần tiễn ta ra khỏi động, trao cho ta một chiếc trâm có nạm ngọc bích bổ đôi, ta và Giáng Khanh mỗi người giữ một nửa, dùng để làm của tin. Nhân đó ta đặt cho Giáng Khanh cái tên tự Hoàn Châu, ngụ ý hẹn ngày tái ngộ, giữ trọn thủy chung. Thuyền đưa ta ra khỏi động đã cập bến đón ta. Giáng Khanh bảo tiên đồng lấy giấy bút tiễn biệt ta bằng hai câu thơ:

Hoàn Châu lai nhật ưng như thử,

Do tự tích thời tại nhất châu(26).

Ta tìm đường về quê cũ, đem tên tuổi ra hỏi, không ai nhận ra. Triều đại đã đổi thay, cảnh vật thảy thảy đều đã khác xưa. Tính ra đã gần đến ba trăm năm. Ta buồn rầu, lại khăn gói lên đường đi du ngoạn khắp đã đây trong nước; dân tình vẫn khổ sở, nét mặt người nào cũng có vẻ đói rét lo âu. Ta một mình đem những phép tiên đã học được ra cứu giúp mọi người khi tật bệnh… Hơn ba năm ở trần thế, ta cũng đã kê hết tội trạng của bọn hôn quân ám chúa cũng như bọn tham quan nhũng lại để đợi ngày trùng phùng, đưa cho Giáng Khanh tâu lên Ngọc Hoàng nghị xét...”

*
**

Hai hôm sau, cũng vào buổi chiều, người ta thấy một chàng thư sinh quẩy tay nải đến bãi bể Kỳ Hoa, lần đến đền thờ Bích Châu, tay cầm trâm ngọc quỳ xuống trước đền khấn vái một hồi lâu... Sóng bể rì rào. Gió chiều gieo qua các rặng phi lao dài thẳng tắp chạy dọc theo bờ bể. Trời cao trong vắt... Một con hạc trắng từ trên không bay xuống đậu trước cửa đền rồi bỗng nhiên hóa thành một mỹ nữ xiêm nghê hồng nhạt bước vào. Và chỉ một lát sau, từ trong đền bay ra hai con hạc trắng vỗ cánh bay sóng đôi qua đại dương mênh mông sóng nước...

27-12-1963
N.T.G
Dịch, chú thích và khảo dị

CHÚ THÍCH, KHẢO DỊ

1. Sách Truyền kỳ tân phả cũng có một truyện kể về nàng Bích Châu, đề là “Hải khẩu linh từ” (đền Thiêng ở cửa bể): Bích Châu cung phi vua Trần Duệ Tông có nhan sắc, giỏi văn thơ, thông kinh sử, lại có lòng quan tâm đến việc nước nên được vua hết lòng yêu mến. Nàng đã từng dâng Lên vua bản Kê minh thập sách bày tỏ kế làm hưng vượng quốc gia. Khi vua sắp sửa đi đánh Chiêm Thành, nàng hết lời can ngăn. Vua không nghe Nàng tình nguyện xin đi theo giúp sức. Đến cửa bể Kỳ Hoa tức Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc Nghệ Tĩnh) chiến thuyền gặp bão dữ dội, tình thế rất nguy cấp. Nguyên do là tên Giao thần vùng Nam Hải cho nổi sóng để lấy thế đòi vua cho hắn cung phi làm vợ, Bích Châu tự nguyện hy sinh thân mình nhảy xuống bể làm vợ Giao thần. Nhờ đó sóng yên bể lặng.

Về sau vua Lê Thánh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, khi đến cửa bể Kỳ Hoa, Bích Châu hiện lên báo mộng cho vua biết nỗi oan khuất cơ cực của mình nơi thủy phủ. Nhờ có ngọc minh châu thần diệu của nàng, vua Thánh Tông gửi được thư tố cáo Giao thần cho Quảng Lợi Vương. Quảng Lợi Vương trừng phạt Giao thần. Nàng được đăng tiên tiêu dao nơi tiên cảnh. Xem Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Nxb. Giáo dục, 1962.

2. Núi Trâu + Sơn: ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Bắc).

3. Xứ Kinh Bắc: nay thuộc Hà Bắc.

4. Sách Danh tích thi tập, Truyền kỳ tân phả và thần tích xã Văn Viên huyện Hưng Nguyên (Nghệ Tĩnh) chép rằng Bích Châu là thứ phi của vua Trần Duệ Tông. Thần tích thôn Hòa Lợi huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa chép Bích Châu là cung phi Lê Anh Tông.

5.6. Nghĩa là: Hoàn Châu nay đã đổi ra Bích Châu rồi, nhưng Hoàn Châu cũng vẫn là một, y như xưa còn là một viên ngọc nguyên lành không có gì thay đổi cả. Chú ý: “Hoàn Châu” là trả lại ngọc, hay ngọc được trả về. Nhất Châu là một viên ngọc, ý Hoàn Châu muốn nói: nay tuy hầu hạ vua nhưng vẫn chung tình với người chồng cũ nơi tiên giới.

7. Hưng Long: niên hiệu vua Trần Anh Tông.

8. Thi Nại: tên một cửa bể ở Qui Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay.

9. Khế hợp: tương hợp, khíp sít lại với nhau.

10. Kỳ - hoa: tức Kỳ - anh bây giờ thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

11. Hoan Châu: tức Hà Tĩnh ngày nay.

12. Ghi chép tản mạn cuộc chơi lên cõi tiên.

13. Thừa tín lang: một chức quan trong triều dưới thời Lý.

14. Tỉnh Thanh Hóa, đời Lý gọi là phủ Thanh Hóa.

15. Kim Mã: tức là chốn triều đình Nguyên Hán Vũ đế cho đúc tượng ngựa quý bằng đồng ở cửa cung Vị Ương, và đặt tên của cung này là Kim mã môn. Hàng ngày các quan học sĩ chầu ở đây đợi chiếu nên về sau Kim mã dùng để chỉ triều đình.

16. Lễ vận: tên một Thiên trong Kinh Lễ nói về lễ nhạc của đế vương, về cái lẽ lưu thông âm dương của tạo hóa. Đầu thiên có một đoạn mô tả cái xã hội đại đồng xã hội lý tưởng của Nho giáo .

17. Quảng hựu: niên hiệu vua Lý Nhân Tông.

18. Chùa Báo Thiên: cũng gọi là chùa Sùng Khánh, lập từ năm 1057 đời Lý Thánh Tông, là một ngôi chùa lớn nhất kinh thành. Chùa Báo Thiên vẫn còn lại cho đến ngày thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuối năm 1883, Kinh lược Bắc Kỳ là Nguyễn Hữu Độ đã phá chùa lấy đất cho cố đạo Puginier xây dùng Nhà thờ lớn của đạo Thiên chúa ở Hà Nội hiện nay.

19. Tri túc: theo Phật giáo, muốn có hạnh Phúc thì phải diệt dục lạc mà khởi đầu bằng ghép “tri túc” tức là bằng lòng với cái mình đang có.

20. Các Đằng vương: tên một tòa lâu đài nguy nga do Nguyên Anh, con Đường Cao Tông dùng ở cửa sông Chương Giang, thành Nam Xương, tỉnh Giang Tây (Trung Quốc). Đằng Vương là tước phong của Nguyên Anh.

21. Mao Tường, Lệ Cơ: theo thiên Tề vật luận sách Trang Tử, là hai mỹ nhân có nhan sắc tuyệt thế.

22. Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống Tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là nàng Lộng Ngọc gả cho. Sau hai vợ chồng cùng với phượng mà bay lên cõi tiên.

23. Trương Thạc lấy được ngọc nữ Lan Hương làm vợ. Sau nàng về cõi tiên, Trương Thạc rất thương nhớ.

24. Trịnh Giao Phủ gặp tiên chơi ở bờ sông, được tiên tặng cho ngọc minh châu. Một lát sau ngọc và các nàng tiên đều biến mất.

25. Tiên nữ Thượng Nguyên ghẹo Phong Trắc ở trong hang núi.

26. Ý nói: ngọc lại tìm về, ngày sau tất phải như thế, cũng như xưa kia, lành lặn một viên ngọc vậy.

Chú ý: Cùng một câu thơ mà ý khác nhau. Xem chú thích 5, 6. ở đây Giáng Khanh tin tưởng ở cuộc tương phùng nơi tiên giới./.