TB

TẠP CHÍ HÁN NÔM SAU 10 SỐ

TRẦN NGHĨA

Tạp chí Hán Nôm (TCHN) đã ra mắt bạn đọc được 5 năm, mỗi năm 2 kì báo, tất cả vị chi 10 số. Với một bề dày chưa nhiều về thời gian, một khối lượng còn khiêm tốn về bài vở, tạp chí vẫn phải luôn luôn tự chứng trước xã hội về sức sống và lí do tồn tại của mình.

Nhân dịp kỉ niệm 5 năm tạp chí (1986-1991), chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại chặng đường qua, từ đó vạch ra một hướng phấn đấu thích hợp cho TCHN giai đoạn mới.

Qua mấy năm hoạt động, TCHN đã đăng tải được khoảng 200 bài viết lớn nhỏ thuộc nhiều mảng học thuật khác nhau của lĩnh vực chuyên ngành: văn tự học, văn bản học, thư tịch học, Đông phương học, dịch thuật, công bố tư liệu mới…

Trên từng mảng như vậy, nhìn chung, đều có những tìm tòi, phát hiện đáng kể.

Về mặt văn tự học, có bài “Tiếng Hán trong thơ Hồ Chí Minh” của Phan Văn Các. Qua việc khảo sát 144 bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, tác giả bài tạp chí cho thấy nhà thơ đã sử dụng một cách tinh xác và thoải mái cả hai hệ thống tiếng Hán: văn ngôn và bạch thoại. Văn ngôn dành cho phần lớn các bài thơ trữ tình không hướng tới một đối tượng cụ thể nào. Còn bạch thoại thì dùng để sáng tác trong dịp tiếp xúc với nhân dân Trung Quốc (I/1986, tr.8-13)(1). Tảo Trang nhân đọc cuốn Câu đố Việt Nam của Nguyễn Văn Trung (Nxb.Tp. Hồ Chí Minh, 1986) đã bàn thêm về cách “ra đố” và “giải đố” của loại câu đố “xuất Hán tự”, mà thực chất là đi vào phân tích cấu tạo một số chữ Hán theo quan niệm dân gian, qua bài “Đố chữ Hán” trong câu đố tiếng Việt (I/989, tr.62-77”

Trên lĩnh vực Nôm vấn đề đặt ra có phần phong phú hơn. Một loạt 3 bài viết liên quan tới cấu trúc chữ Nôm: “Tìm hiểu mô hình hình thành trong cấu trúc chữ Nôm” của Nguyễn Ngọc San (I/1986, tr.14-18); “Lối đánh dấu cá trong chữ Nôm” của Nguyễn Tá Nhí (II/1987, tr.22-25). Liên quan tới tạo chữ còn có bài “Quốc âm tân tự, một phương án chữ viết ghi âm thế kỷ XIX” của Nguyễn Quang Hồng, giới thiệu một hệ thống chữ mới để ghi âm Việt, do Nam Thành cư sĩ Nguyễn Tử thiết kế, dựa trên cơ sở nét bút chữ Hán. Sự có mặt của Quốc âm tân tự, theo tác giả bài tạp chí, là một lấp xoá khoảng trống từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ trong lịch sử chữ viết của ta (I/1986, tr.66-71). Trần Kim Anh và Hoàng Thị Ngọ nghiên cứu về từ lấp láy bằng chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (I/1987, tr.39-42); trong khi Bùi Thanh Hùng tìm hiểu về tiếng “chưng” qua một vài văn bản Nôm (I/1987, tr.43-46). Vì Hồng trong bài “Vai trò của cảm xác khi đọc chữ Nôm Tày”, đã góp thêm một cách giải mã những chữ Nôm Tày cấu tạo “vô nguyên tắc”, hay đúng ra là còn mang tính “tự do hoang sơ” của nó (I/1990, tr.53-57).

Ngoài ra, cũng thuộc mảng văn tự học, Đinh Công Vĩ có bài bàn về chữ Nôm trong tác phẩm Hán văn của Lê Quí Đôn (II/1990), tr.44-47); Phan Đình Ứng có bài nói về những ghi chép và nhận định của Lê Quí Đôn và Phạm Đình Hổ về chữ viết Hán Nôm của dân tộc (I/1991, tr.34-36).

Về mặt văn bản học, chúng ta chứng kiến một vụ mùa bội thu với khoảng 40 bài viết trên các vấn đề hiện ngụy, hiệu chính, huần hỗ…

Trước hết là những bài mang tính tổng hợp về văn bản học. Sài Phi thư Trang nhân kỉ niệm lần thứ 200 ngày mất của Nguyễn Huy Tự, đã bàn thêm về việc phiên Nôm, nhuận sắc, đặc điểm bản nhuận chính và nguyên tác trong truyện Hoa tiên (I/1991, tr.12-18). Dương Thái Minh và Nguyễn Thuý Nga đi sâu vào văn bản và nội dung Việt sử cương giảm khảo lược của Nguyễn Thông (II/1987, tr.59-61); Lâm Giang trên cùng số tạp chí, có bài bước đầu tìm hiểu hội Tao Đàn (tr.67-72). Dưới nhan đề “Khảo sát thêm về Ức trai di tập, Nguyễn Văn Nguyên, qua phân tích 20 bản sách mang kí hiệu khác nhau hiện có, tìm lại con đường truyền bản và những biến động về nội dung Ức trai di tập, từ đó khẳng định bản in Phúc khê có kết cấu hoàn chỉnh nhất, nội dung phong phú nhất (I/1988, tr.48-56). Thuộc loại tổng hợp còn có những bài như “Xung quanh một số tài liệu liên quan tới Lý Tử Tấn và văn bản” của Ngọc Nhuận (I/1990, tr.22-26); “Về văn bản thơ Nguyễn Đề” của Nguyễn Thị Phượng (I/1988, tr.63-65…); “Ngục trung nhật kí, nghiên cứu văn bản học” của Phan Văn Các (I/1990, tr.5-9); “Về văn bản tập Ngục trung nhật kí của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Hoàng Văn Lâu (I/1990, tr.10-18…), v.v…

Nhưng chiếm tỷ lệ lớn nhất, vẫn là những bài mang tính chuyên biệt.

Về “biện ngụy”, tức là chỉ ra những lầm lẫn về tác giả, tác phẩm, niên đại… có bài “Đi tìm nguồn gốc và năm xuất hiện của văn bản Binh thư yếu lược hiện có” của Ngô Đức Thọ. Bằng việc điều tra, đối chiếu văn bản Binh thư yếu lược hiện thấy với một số sách “binh thư” khác của Trung Quốc và Việt Nam (như Kim thang tá trợ thập nhị trù, Kỷ sự tân biên, Vũ bị chế thắng chí), tác giả cho rằng thời điểm xuất hiện văn bản Binh thư yếu lược hiện có không thể sớm hơn 1869, và văn bản này chẳng những không liên quan gì đến Trần Hưng Đạo, mà cũng không phải là bộ sách được biên soạn tiếp nối qua các đời Lê-Nguyễn như có ý kiến từng khẳng định (I/1986, tr.33-37). Hoàng Văn Lâu qua hai bài viết liên tục đã chứng minh Mẫn Hiên thuyết thoại không hoàn toàn là tác phẩm của Cao Bá Quát như lâu nay vẫn tưởng, mà phần II (Cổ tích) và phần III (Nhân phẩm) của sách là của Trương Quốc Dụng I/1989, tr.34-40; II/1989, tr.6-8). Với bài “Bài thơ Động Bích Đào là của Lê Quí Đôn hay của Đinh Lễ”, Trần Văn Thụy cho thấy có hiện tượng đổi đi một vài chữ trong thơ Lê Quí Đôn để làm thơ Đinh Lễ (II/1987, tr.73-74). Nguyễn Tuấn Lương trong bài “Vấn đề văn bản trong thơ Đỗ Nhuận” cho rằng trong số 13 bài thơ hiện biết của họ Đỗ chỉ có 8 bài hoạ thơ Lê Thánh Tông là đáng tin cậy (I/1988, tr.57-62). Đại Việt sử kí toàn thư, bản “Nội các quan bản” trước nay vẫn được quan niệm là không mang hiện tượng kiêng húy, nhưng Trần Nghĩa đã chứng minh ngược lại bằng cách cho thấy trong sách có một chữ “trừ” viết theo kiểu húy triều Lê (II/1989, tr.9-14). Cũng thuộc vấn đề biện ngụy, còn có thể kể các bài như “Một số vấn đề niên đại bia Việt Nam” của Đinh Khắc Thuân (II/1987, tr.26-34); “Tìm hiểu các bộ sách Ngô gia văn phái” của Trần Thị Băng Thanh (I/1988, tr.43-47); “Về niên đại pho tượng đồng lớn ở đền Trấn Võ, huyện Gia Lâm” của Nguyễn Thị Oanh (II/1988, tr.93-94); “Góp phần xác định tác giả một số bài thơ chưa rõ là của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Bình Khiêm” của Lã Nhâm Thìn (II/1990, tr.51-52) “Về bài di chúc của Nguyễn Khuyến” của Nguyễn Quảng Tuân (I/1991, tr.57-61…) v.v…

Về “hiện chính” có bài thử xác lập bài thơ Nam quốc sơn hà” của Trần Nghĩa. Qua khảo sát 26 dị bản của bài thơ trên, tác giả đề nghị nên thay hai chữ “định phân” trong câu cuối cùng “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” của bài thơ thành “Nhất trận phong vân tận tảo trừ” (I/1986, tr.24-32). Truyện Kiều dù qua bao nhiêu người hiệu đính, vẫn cứ còn chỗ để tranh luận và đây là lí do khiến Mai Lệ viết bài góp ý cho cuốn Kiều hiệu chú in đi in lại nhiều lần của Thạch Giang (I/1988, tr.72-74). Lê Thành Lân vốn say mê lịch pháp, có bài “Đọc và hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (II/1987, tr.40-48) và bài “Hiệu đính một số ngày tháng có trong bản dịch cuốn Đại việt sử ký toàn thư, phần tiếp, tập I, Bản kỷ tục biên” (I/1988, tr.75-80).

Về phần “huấn hỗ”, “cú đậu” tức cắt nghĩa, chấm câu, mở đường cho việc tìm hiểu nội dung vưn bản, TCHN đã đăng các bài như: “Một giả thuyết về từ nguyên của từ Nôm” của Trần Xuân Ngọc Lan, cho rằng “Nôm” bắt nguồn từ từ “Đôm”, một từ chung của các ngôn ngữ Môn-Khơ me và Malayôpônêsia lục địa, có nghĩa là “chữ dùng để viết phương ngữ thông dụng” (I/1988, tr.55-87).; “Người Việt và họ Nguyễn” của Diệp Đình Hoa, cho rằng họ “Nguyễn cũng như phần lớn các họ khác của người Việt, là một hiện tượng văn hoá ngoại lai, đã trải qua một quá trình đồng hóa, tiếp biến lâu dài trong lịch sử (id. tr.92-95); “Tìm hiểu nghĩa của từ mỗ” của Nguyễn Tá Nhí, đoán định “mỗ” là từ chỉ một số lượng ít, nghĩa tương đương với: một, chút, chút ít (id. tr.88-91). Nguyễn Quảng Tuân trở lại với vấn đề khảo chứng Truyện Kiều (I/1990, tr.42-47); vấn đề giá trị bài tựa Kim Vân Kiều án (II/1990, tr.71-74). Phan Hữu Nghệ có bài “Một cách hiểu bài thơ Sinh lão bệnh từ của Ni sư Diệu Nhân (1/1991, tr.62-65); Nguyễn Thạch Giang. Nguyễn Huy Mỹ có bài “Một số ý kiến về hai bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; thác lời trai phường Nón của Nguyễn Du và bài Thác lời gái phường Vải của Nguyễn Huy Quýnh” (II/1990, tr.63-70). Cũng thuộc “huấn hỗ” còn có bài “Tào Thái hầu là ai” của Đỗ Thỉnh, cho biết Tào Thái hầu mà hiện nay nhiều cuốn sử còn chưa làm rõ, chính là Nguyễn Đình thạch, người Từ Liêm, Hà Nội, một viên quan võ của chính quyền Lê-Trịnh (II/1990, tr.40-41); và bài “Thử tìm hiểu địa danh Binh Hiệp” của Phạm Thị Thoa, phỏng đoán vùng đất Binh Hiệp có thể bao gồm các xã Tam Hiệp, Tam Thuấn, Hiệp Thuận, Liên Hiệp của huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay (id, tr.42-43).

Về mặt thư tịch học, số bài viết không nhiều, diện đề tài còn hẹp. Bàn về tàng thư, có bài “Bước đầu tìm hiểu các kho sách Hán Nôm và lịch sử thư mục học Hán Nôm” của Trần Nghĩa (II/1988, tr.3-20); bài “Về bộ Thư mục bia giản lược vừa biên soạn xong” của Hoàng Lê (id. tr.21-30); và bài “Giới thiệu kho sách tục lệ thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm” của Nguyễn Thị Phượng (II/1989, tr.40-43). Kiểm kê di sản Hán Nôm trên thực địa, có bài “Vài nét về tình hình phân bố tài liệu Hán Nôm ở 4 huyện phía Bắc ngoại thành Hà Nội” của Nguyễn Đức Bạch và Nguyễn Doãn Tuân (I/1988, tr.96-98). Đi vào từng chủng loại văn bản, có bài “Đôi nét về bia hậu” của Dương Thị The và Phạm Thị Thoa (II/1987, tr.35-36); bài “bước đầu tìm hiểu văn bia ở một huyện đồng bằng Bắc bộ” của Nguyễn Huy Thức (id. tr.37-39); 2 bài nghiên cứu về ấn triện của Nguyễn Công Việt: “Vài nét về số ấn đồng ở Viện Bảo tàng lịch sử” (I/1987, tr.61-64, 2 trang phụ bản); “Giới thiệu sơ lược một số loại hình ấn triện triều Nguyễn” (II/1988, tr.36-40, 2 trang phụ bản; (II/1989, tr.33-39, 2 trang phụ bản); và bài “Bản đồ cổ Việt Nam” của Trần Nghĩa (II/1990, tr.3-10). Địa điểm, phương tiện, phương thức và kĩ thuật in ấn, nhân bản cũng được đề cập tới qua các bài: “Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm” của Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi (I/1986, tr.43-55); “Đá, thợ khắc và đặc trưng bia thế kỉ XVI” của Đinh Khắc Thuân (II/1988, tr.25-30); “Phả ghi trên đá của dòng họ Ngô ở Đông Đồ” của Nguyễn Huy Thức (I/1989, tr.23-27); “Vài nét về những sách liên quan tới thư pháp trong kho sách Hán Nôm” của Phan Đình Ứng (I/1988, tr99-101).

Về mặt Đông phương học, một mảng nghiên cứu với ta còn mới mẻ, các bài viết liên quan trên TCHN phần nhiều đang ở dạng thông tin. Có thể kể trước hết bản dịch Việt bài: Trường Viễn đông Bác cổ Pháp hay ngành Đông phương học sôi động ở Pháp” của bà Christiane Pasquel Rageau đăng trên Tập san thông tin của Hội các nhà thủ thư Pháp, số 142, quí 1, năm 1989, giới thiệu một cách tổng quát hoạt động nhiều mặt, nhất là về thư viện, của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp từ lúc mới thành lập cho đến tận ngày nay (II/1989, tr.78-86). Cũng đăng lại qua bản dịch Việt, còn có bài “Hiện tượng Stroop trong tiếng Việt” của Moricawa Yasuo, Giáo sư người Nhật từng hai lần sang Việt Nam phối hợp với Viện Hán Nôm nghiên cứu hiện tượng Stroop trong tiếng Việt. Bài viết là kết quả thực nghiệm, được công bố trên tập san Nghiên cứu học thuật khoa học giáo dục Trường Đại học Waseda, số 37 tháng 12-1988 (II/1990, tr.82-86). Thuộc Hán Nôm học so sánh, có bài của Phạm Tú Châu nói về “Di sản văn hóa Hán Nôm và văn học so sánh” (I/1991, tr.9-11); và bài của Trần Nghĩa “Thử so sánh Truyền kì mạn lục với Tiễn đăng tân thoại” (I/1987, tr.3-13). Giới thiệu công trình nước ngoài có bài “Hoa Nga đại từ điển, một thành tựu mới của nền Hán ngữ học xô viết” (I/1988, tr.102-103); bài đọc sách ”Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, tập 1” (II/1989, tr.94-96); bài lược thuật công trình nghiên cứu “Đại Việt sử ký tục biên sơ thám” của Go Zhen Feng, người Trung Quốc, đăng trên Tạp chí Đông Nam Á, Viện Khoa học xã hội tỉnh Vân Nam, số 1-1989 (II/1990, tr.87-89) v.v…

Về mặt dịch thuật, bao gồm các khâu như giám định văn bản, phiên âm, dịch nghĩa, khảo dị, chú thích… cũng được bàn tới trên TCHN thời gian qua xoay quanh hai chủ đề lớn: phiên Nôm và dịch Hán. Bàn về phiên Nôm, có những bài như: “Biệt lệ, điều đáng lưu ý trong khi đọc và phiên âm chữ Nôm” của Lê Anh Tuấn (I/1991, tr.66-68); “Về bài thơ Nôm của Bùi Xương Trạch, Đêm thu Không trăng” của Đặng Đức Ngọc Nam (II/1990, tr.55-58); “Về từ ngài trong câu thơ Truyện Kiều” của Nguyễn Thiện Chí (II/1990, tr.59-62); “Về một vài trường hợp hiệu đính và phiên âm Nôm” của Trần Lê Văn (II/1989, tr.28-30); “Về văn bản bài Hịch Tây Sơn và hai trường hợp phiên âm trong bài hịch này” của Liên Việt Mai (I/1987, trang 47-49) v.v…

Bàn về dịch Hán, có những bài như: “Cái thần và cái nhã trong vấn đề dịch chữ Hán” của Ngô Linh Ngọc (I/1988, tr.66-70); “Nét tài hoa riêng của Tản Đà trong thơ dịch” của Trần Thị Băng Thanh (II/1989, tr.24-27); “Về những bài thơ Hán Nôm tự dịch của Nguyễn Khuyến” của Tảo Trang (II/1990, tr.27-39); “Đôi điều suy nghĩ về việc dịch một số bài thơ trong Ngục trung nhật kí của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Trần Đắc Thọ (id. tr.48-54) v.v… Riêng về cách đọc chữ Phạn có bài “Hai văn bản chữ Phạn góp phần đọc những văn bản chữ Phạn ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Ngân (I/1991, tr.44-45).

Về mặt công bố tư liệu mới, số bài viết khá phong phú. Có những tư liệu lần đầu phát hiện, nhưng cũng có tư liệu đúng ra là phát hiện lại sau nhiều năm bị lãng quên.

Trong số những tư liệu lần đầu tiên phát hiện, đáng chú ý có bài “Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ XIII” của Đinh Khắc Thuân và Hoàng Ngọc, giới thiệu văn bản chữ Hán khắc trên quả chuông đúc năm 798 tại nước ta, tìm thấy ở bãi Rồng ven sông Đáy, thuộc xã Thanh Mai, huyện Thanh oai (I/1987, tr.14-21, 2 trang phụ bản); bài “Vài nét về hai quả chuông thời Tây Sơn tại Sài Sơn, Hà Sơn Bình” của Thùy Vinh, giới thiệu hai bài kí khắc trên hai chuông, một bài do Phan Huy Ích soạn, bài nữa do Phan Cẩm soạn (I/1987, tr.74-78)… Về văn bia có bài “Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ Vu thiển thuyết của ông” của Hoàng Lê, giới thiệu tấm bia mộ Ninh Ngạn và bộ sách Vũ Vu thiển thuyết của ông gồm hai quyển, 45 chương được khắc lên trên đá (I/1986, tr.62-64, 1 trang phụ bản); bài “Về tấm bia đồng tại đình làng Quan Nhân, huyện Từ Liêm, Hà Nội” của Phạm Văn Thắm (I/1987, tr.79-81, 1 trang phụ bản); bài “Hai tấm bia cổ nói về người Nhật trên đất Quảng Nam - Đà Nẵng” của Trần Bá Chí và Ngô Thế Long (II/1989, tr.71-77)… Về hoành phi câu đối, có bài “Câu đối, hoành phi và đề tự bằng chữ Hán ở đền Ngọc Sơn, Hà Nội” của Tuấn Nghi và Tảo Trang (I/1991, tr.69-79); bài “Tư liệu Hán Nôm ở khu di tích Đình Giá” của Nguyễn Thị Oanh (I/1989, tr.19-22)… Về gia phả, có bài “Tìm được cuốn gia phả dòng họ Trịnh Khả” của Nguyễn Doãn Tuân (I/1986, trang 77-79, 2 trang phụ bản). Ngoài ra còn một khối lượng không nhỏ những tác phẩm thơ, văn có giá trị lần đầu phát hiện: một số thư chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh (I/1990, trang 24-26); bản in sách Đại việt sử kí toàn thư của Phạm Công Trứ (I/1988, tr.3-8, 2 trang phụ bản); Hoan Châu kí, bộ tiểu thuyết chương hồi cổ nhất nước ta (id. tr.9-24, 2 trang phụ bản); Nhân ảnh vấn đáp của Phan Huy Thực (II/1989, tr.56-60); Lễ Trai thi chân bản của Đặng Văn Hòa (II/1987, tr.86-89) v.v…

Thuộc loại tư liệu phát hiện lại, có thể kể 20 bài thơ Nôm lúc đi sứ của Trịnh Hoài Đức (I/1987, tr.86-93); Binh dân luận, tác phẩm nghị luận Nôm của Ngô Thì Sĩ (I.1986, tr.82-88); Hoàng các di văn một bộ sưu tập các văn kiện đời Lê có giá trị (I/1987, tr.65-68); Đàm Thận Huy và tác phẩm Sĩ hoạn châm quy (I/1990, tr.41-47)…

Để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, TCHN cũng đã tổ chức dịch và công bố một số tác phẩm cổ điển ưu tú trong nước và nước ngoài: Lý hoặc luận của Mâu Bác (I/1991, tr.85-104); truyền kỳ Trung Quốc đời Đường - Tống (II/1990, tr.90-109)v.v…

Ngoài 6 mảng bài viết trên, còn có thể tìm thấy nơi TCHN những công trình nghiên cứu hoặc ý kiến phát biểu về các vấn đề như truyền thống và hiện đại (I/1986, tr.5-7); trách nhiệm của chúng ta đối với di sản Hán Nôm (II/1987, tr.3-11; I/1991, tr.3-6; id, tr.7-8); di sản Hán nôm và ngữ văn học cổ điển (I/1986, tr.56-59 II/1987, tr.16-21); nền Hán học Việt Nam thời Pháp thuộc (I/1987, tr.50-58); hệ đại học sư phạm tại chức ở các tỉnh phía Nam với việc sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm (I/1986, tr.97-99)…

Nhìn lại tình hình bài vở qua 10 số tạp chí, có thể nói chúng ta đã nghiêm túc thực hiện các phương hướng đề ra:

1. Nghiên cứu về chữ Hán chữ Nôm, văn bản học Hán Nôm, thư tịch Hán Nôm, kim thạch Hán Nôm, sách công cụ Hán Nôm, văn hiến cổ Việt Nam, những vấn đề văn hiến cổ khu vực có liên quan tới Hán Nôm Việt Nam.

2. Phê bình, nhận xét, đánh giá các bản dịch chú sách chữ Hán và phiên chú sách chữ Nôm đã xuất bản. Khi cần thiết cũng có thể đi sâu vào cách dịch, cách phiên một số câu, chữ tiêu biểu, nhằm từ đó rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho công tác dịch thuật Hán Nôm từ nay về sau.

3. Giới thiệu các tư liệu mới, các văn bản Hán Nôm có giá trị, các tác giả Hán Nôm ưu tú mà lâu nay không ai phát hiện hoặc còn ít người biết đến.

4. Những kinh nghiệm về việc sưu tầm, bảo quản các thư tịch và tài liệu Hán Nôm, những ý kiến ngắn về công tác Hán Nôm, những mẩu tin về các hoạt động Hán Nôm trong và ngoài nước.

Với các bài đã đăng, chúng ta hi vọng đáp ứng phần nào nhu cầu của giới nghiên cứu, giảng dạy Hán Nôm ở các Viện nghiên cứu, các Trường Đại học, Cao đẳng Sư phạm, cán bộ làm công tác nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội, tóm lại, những đối tượng mà tạp chí trực tiếp phục vụ.

Bên cạnh những mặt làm được, TCHN cũng vấp phải nhiều khó khăn, hạn chế. Tạp chí chưa thật gắn với cuộc sống, tính “hàn lâm viện” còn nặng; lập luận một chiều, ít tranh luận, cọ xát ý kiến; bài vở bị động, chưa ra khỏi tình trạng ăn đong; phát hành khó khăn, chi thu thiếu cân đối v.v…

Trong những năm tới, TCHN còn nhiều việc phải làm mà trước hết là phấn đấu để đổi mới, năng động và phát triển.

Sở dĩ đổi mới, vì hiện nay các báo, tạp chí của ta rõ ràng không thể vẫn làm ăn như cũ, khi mà thế giới đang sắp sửa bước vào thế kỷ XXI đầy gay cấn và mới lạ. Từ nay đến năm 2000, theo các nhà khoa học dự báo, sẽ là thời kì phát triển mạnh của các nước vành chảo Thái Bình Dương, thời kì xuất hiện chủ nghĩa dân tộc văn hoá bên cạnh lối sống toàn cầu, thời kì phục hồi tôn giáo… Ngành Hán Nôm học của chúng ta do vậy sẽ mang một ý nghĩa và tầm vóc mới xét trên bình diện quốc tế cũng như quốc gia. Nếu quả thập kỉ tới là cơ hội “bứt lên” của các nước Phương Đông, đặc biệt là nhóm nước “ăn bằng đũa, viết chữ theo khối vuông”, nói như L.Vandermeersch, nhà Đông phương học người Pháp (Le nouveau monde sinisé, Puf, 1986) thì di sản Hán nôm, một bộ phận quan trọng của văn hoá - văn minh cổ trên bờ Tây Thái Bình Dương chắc chắn sẽ được nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn, với tư cách là những năng lực sâu kín cần được khám phá và phát huy để thúc đẩy công cuộc phát triển ở khu vực đang xuất hiện nhiều con rồng này. Nếu chủ nghĩa dân tộc văn hoá sẽ trỗi dậy như là một phản ứng tự vệ trước xu thế bành trướng bất khả kháng của lối ống toàn cầu, thì Hán Nôm học, ở đây vừa có cái chung, vừa có cái riêng, sẽ là một lĩnh vực nghiên cứu Hán Nôm chỉ để phục vụ cho công cuộc chống xâm lược, khẳng định nền văn hoá-văn minh bản địa của dân tộc ta, chuyển sang hướng nghiên cứu Hán Nôm như một đối trọng cần thiết của sự du nhập ồ ạt văn hoá nước ngoài, đồng thời lại là một dịp cầu nối liền văn minh dân tộc với văn minh khu vực.

Người Nhật Bản là thế: Họ đạt được những thành tựu cao trong khoa học kĩ thuật hiện đại như chúng ta đều biết, nhưng mặt khác, họ bảo tồn rất tốt truyền thống văn hóa phương Đông. Phần lớn những đổi mới, bất kể xuất xứ từ đâu, đều không mang sắc thái dân tộc, nhưng chúng tương phản gay gắt với vốn truyền thông tích lũy được trong tiến tình phát triển văn hoá lâu dài. Nhiều tài liệu cho thấy Nhật Bản đã có lúc đóng vai trò tiếp nhận cỡ lớn những đổi mới của nước ngoài, và đã có những tác động lớn lao tới sự phát triển văn hóa của Nhật Bản: từ thế kỷ VI đến thế kỷ VII, tiếp nhận của Trung Quốc; từ nửa sau thế kỉ XIX, tiếp nhận của Châu Âu; sau 1945, chịu ảnh hưởng mạnh các quốc gia châu Âu, nhất là Mỹ. Cơ chế tiếp nhận những đổi mới trên đã dần dần không còn dựa trên phong tục, tập quán, lễ nghi… như ở xã hội cổ truyền, mà trên cơ sở tri thức khoa học hợp lí. Chính đội ngũ trí thức dân tộc được đào tạo tuyệt với và nhiều mặt hiện nay của Nhật Bản là lực lượng chính yếu trong việc kết hợp manhjmex và trên qui mô rộng lớn truyền thống với đổi mới, làm cho sự kết hợp này trở nên linh hoạt, uyển chuyển, khả thi, khắc phục sự mất ổn định nảy sinh trong quá trình đổi mới, góp phần tạo nên những bước tiến kì diệu cho Nhật Bản (xem bài “Sự kết hợp giữa truyền thống và đổi mới trong nền văn hóa Nhật Bản hiện đại”, tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 2/1989, tr.61-67).

Chúng ta sẽ cố gắng điều chỉnh, đổi mới mục tiêu khoa học của TCHN theo hướng đó, nhằm phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới của đất nước.

Nhưng để đổi mới có hiệu quả, lại phải năng động. Một vấn đề đặt ra cho khoa học nói chung: kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng thế nào cho tốt. Trong lĩnh vực khoa học xã hội, hiện có người quan niệm nghiên cứu cơ bản là chức năng của ngành Triết học, Kinh tế, nơi giải quyết những vấn đề trọng đại bức xúc của đất nước; còn nghiên cứu ứng dụng là phận sự của các ngành khoa học xã hội còn lại. Cũng có người nghĩ khác: bộ môn khoa học nào mà chẳng có nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản. Với tư cách là một ngành nghiên cứu, một hệ thống nghiên cứu, nơi nào cũng có hai mục tiêu cần giải quyết: mục tiêu hướng nội và mục tiêu hướng ngoại. Mục tiêu “hướng nội”, tức làm sao cho ngành khoa học của mình có thể phát triển được. Nếu không phát triển được, thì nó không còn là một cơ sở nghiên cứu, một hệ thống nghiên cứu, theo quan niệm chặt chẽ của từ này. Mà muốn phát triển được, nó nhất thiết phải tiến hành nghiên cứu cơ bản, để tạo nên giá trị thực sự cho nó. Mục tiêu “hướng ngoại” là phải có quan hệ với hệ thống khác, phải giao tiếp, phải trao đổi, phải phục vụ cho nhau, tạo điều kiện để cùng nhau phát triển trong một hệ thống lớn hơn, nghĩa là phải từ giá trị tự thân đạt tới giá trị sử dụng. Mà muốn đạt tới giá trị sử dụng, thì phải tiến hành nghiên cứu ứng dụng.

Nghiên cứu cơ bản nhằm vạch ra được bản chất và qui luật vận động của đối tượng. Nghiên cứu ứng dụng nhằm chế biến đối tượng ra sản phẩm phục vụ cho xã hội. Nghiên cứu cơ bản là mặt ổn định của chương trình nghiên cứu của ngành. Nghiên cứu ứng dụng là mặt cơ động của chương trình nghiên cứu của ngành.

Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng phải hài hoà với nhau, đồng điệu với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Không thể yêu cầu một ngành nghiên cứu chỉ chạy theo mục tiêu ngoài, tức nghiên cứu ứng dụng, hoặc chỉ chạy theo mục tiêu trong, tức nghiên cứu cơ bản được. Tóm lại cần dung hoà các mục tiêu, mà thực chất là dung hoà các lợi ích.

TCHN thời gian tới sẽ cố gắng thể hiện tính năng động đó của ngành Hán Nôm chúng ta. Tạp chí mong có nhiều bài viết đi sâu vào các vấn đề lí luận cơ bản của Ngành, nhưng đồng thời cũng có những bài viết đi sát với cuộc sống thường nhật, trực tiếp phục vụ cho công cuộc đổi mới, kết hợp truyền thống với đổi mới, làm cho đổi mới mang tính hiệu quả. Dung hòa một cách hợp lí hai mặt là biện pháp tốt nhất để tạp chí khỏi mang tiếng là “kinh viện”, mặt khác không rơi vào tình trạng ăn xổi ở thì. Làm sao để tạp chí vừa mang tính bác học, vừa mang tính bình dân; vừa mang tính nâng cao, vừa mang tính phổ cập. Ở đây đòi hỏi sự tháo vát, năng động và sự hiểu biết nhiều mặt của người nghiên cứu Hán Nôm.

Cuối cùng vấn đề phát triển. Tạp chí nào mà lại không muốn phát triển. Về kì hạn, TCHN hiện mỗi năm ra 2 số, độc giả đang muốn có nhiều số để đọc hơn. Về lực lượng làm tạp chí chúng ta còn rất mỏng. Làm sao để xây dựng một đội ngũ cán bộ tạp chí đủ mạnh, khả dĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhưng một mục tiêu phấn đấu khó khăn hơn: làm sao để chất lượng tạp chí nâng lên từng ngày, theo kịp bước tiến của thời đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế cả về nội dung lẫn kĩ thuật đăng tải.

Tạp chí hiện nay, như trên kia đã thấy, bài nghiên cứu còn ít, chất lượng khoa học nói chung chưa cao. Đặc biệt là mảng Đông Phương học hầu như nhiều năm trên tạp chí còn trống vắng, do người viết thiếu tư liệu, thiếu cả tầm nhìn. Nhiều vấn đề Hán Nôm thế giới đang quan tâm, chúng ta không thể cứ khóa trái cửa lại để đó. Thí dụ việc “coi đất” - thuật phong thủy - ngày xưa được ghi lại không ít trong thư tịch Hán Nôm, liệu có liên quan gì đến vấn đề môi trường, môi sinh đang đặt ra hiện nay? “Tử vi đẩu số”, “đồng bóng bói toán”, cả “sấm vĩ, sấm truyền” v.v… nữa liệu có nên tiếp tục liệt vào danh mục sách “mê tín dị đoan”, hay đã đến lúc có thể đưa ra để nghiên cứu trong mối quan hệ với nhịp sinh học, khoa học dự báo…? Nho, Phật, Lão lâu nay bị nhìn với con mắt ghẻ lạnh, giờ đây có nên như thế nữa không ? Hay quả thật ở đây cũng có những giá trị cần được khẳng định và trân trọng, kể cả những nguồn lực tiềm ẩn mà khi bị thách thức hoặc có cơ hội mới để biểu hiện, chúng sẽ nổi lên bề mặt như chúng ta thấy ở nhiều nước.

Tóm lại, để khả dĩ sống còn và phát triển, TCHN sẽ không ngừng nâng cao chất lượng khoa học và mở ra một số hướng nghiên cứu mới, nhất là những vấn đề có tính thời sự liên quan tới văn hoá-văn minh khu vực. Hình thức tạp chí cũng cần được tiếp tục cải tiến để ăn khách hơn nữa.

CHÚ THÍCH

(1) Kì tạp chí phát hành; “1986” năm phát hành: “trang 8-13” vị trí và độ dài viết trong tạp chí. Từ đây trở xuống, đều ghi xuất xứ các bài theo kiểu đó.

TB

NÂNG CAO HƠN NỮA CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC HÁN NÔM

ĐINH TRỌNG THANH

Hán Nôm là một thực thể văn hoá đang tồn tại độc lập với những thực thể văn hóa khác.

Trải qua hàng mấy chục thế kỷ cha ông ta đã sử dụng chữ Hán và sau đó sáng tạo ra chữ Nôm để viết nên những tác phẩm bất hủ bao gồm nhiều lĩnh vực: Văn học, Nghệ thuật, Ngôn ngữ, Triết học Sử học, Quân sự, Y dược… đã để lại cho thế hệ sau một kho thư tịch Hán Nôm đồ sộ về khối lượng, phong phú về nội dung chủng loại. Những tác phẩm này được thể hiện trên nhiều chất liệu khác nhau: Giấy, Vải, Gỗ, Đá, Kim loại, Gốm sứ… Đây là hiện thân của mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc, nó chứa tải những nguồn tư liệu vô giá đối với nhiều ngành khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội.

Những văn bản này hiện chỉ là những di sản của quá khứ. Những chất liệu ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản Hán là một thứ ngôn ngữ chỉ dùng trong sách vở và chỉ là đối tượng học tập và sử dụng của những nhà trí thức Việt Nam thời trung đại chứ không được sử dụng trong khẩu ngữ. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng, Ông cha ta đã tiếp thu có chọn lọc nhữn yếu tố Hán để làm giàu kho từ vựng của tiếng Việt, có không ít những từ Hán đã đi vào tiếng Việt và được sử dụng một cách nhuần nhuyễn như một từ thuần Việt, một bộ phận khá lớn đã trở thành những từ gốc để tạo ra những từ mới trong hệ thống từ vựng tiếng Việt . Còn chữ Nôm là một loại chữ khối vuông do ông cha ta sáng tạo ra dựa trên chất liệu chữ Hán. Chúng là những ký hiệu để ghi lại tiếng nói của người Việt là chữ Việt cổ, sau này được thay bằng chữ Quốc ngữ ghi âm bằng chữ cái la tinh. Đã từ lâu hệ thống chứ Hán và chữ Nôm không còn được ghi chép và sử dụng trong các văn bản hoặc trong các tác phẩm của nước ta nữa(1). Chúng ta trở thành tử ngữ, là đối tượng nghiên cứu như đối với một di sản văn hoá của dân tộc.

Đào tạo và bồi dưỡng lớp người có khả năng để tiếp thu có chọn lọc những di sản văn hóa, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục nói chung và của ngành Hán Nôm nói riêng.

Sau hoà bình lập lại 1954, ngành giáo dục có một số trường như Đại học Sư phạm, cao đẳng sư phạm đã có môn học Hán Nôm dạy cho sinh viên khoa Ngữ văn với tư cách không chuyên, mục đích là cung cấp cho họ một số tri thức tối thiểu và cơ bản về Hán Nôm để họ có cơ sở lĩnh hội được sâu thêm về nền văn học viết trong các triều đại phong kiến Việt Nam, phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy văn học ở các trường phổ thông. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, môn học Hán Nôm từ lâu đã đi vào nền nếp. Trong lĩnh vực chuyên ngành, Viện Hán Nôm, trung tâm nghiên cứu Hán Nôm của cả nước cách đây hơn 20 năm đã mở lớp Đại học Hán văn đầu tiên và kết thúc thắng lợi. Những cán bộ được đào tạo từ lớp này đã được trang bị những tri thức cơ bản về Hán Nôm và những tri thức khác có liên quan để làm công tác Hán Nôm, là nguồn bổ xung đầu tiên vào đội ngũ những người làm công tác Hán Nôm. Năm 1970 Thủ tướng chính phủ (nay là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) đã ký quyết định cho phép Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mở thêm chuyên ngành Hán Nôm cùng với hai ngành văn học và ngôn ngữ trong khoa ngữ văn. Đây là cơ sở đầu tiên và cũng là duy nhất có tư cách pháp nhân đào tạo chuyên ngành Hán Nôm ở bậc Đại học. Trên 20 năm qua nhà trường đã đào tạo được 13 khóa gồm 134 sinh viên lần lượt bổ xung cho ngành Hán Nôm cũng như cho các ngành khác có liên quan. Sinh viên ra trường hầu hết được giao công tác đúng ngành nghề. Trên cương vị công tác của mình họ đã đóng góp cho ngành những thành tựu đáng kể. Năm học 1989-1990 trong số những sinh viên tốt nghiệp của chuyên ngành có một sinh viên đạt điểm luận văn suất sắc đã được Bộ giáo dục và đào tạo trao giải nhất cho những luận văn tốt nghiệp của toàn ngành xã hội Việt Nam, cũng là một trong 2 sinh viên được giữ lại làm nghiên cứu sinh của trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1 Hán Nôm, 1 vật lý). Nói chung, những luận văn tốt nghiệp của những đề tài có nội dung thiết thực góp phần giải quyết những vấn để của chuyên ngành đặt ra, dần dần đi vào quĩ đạo của qui trình đào tạo sát với mục đích, yêu cầu đào tạo chuyên ngành.

Ngoài xã hội, các lớp học tập và bồi dưỡng Hán Nôm đã được tổ chức ở các trung tâm văn hoá và ngoại ngữ. Ngày càng có nhiều người đã nhận thức được tầm quan trọng và vị trí của Hán Nôm, nhu cầu của xã hội đòi hỏi ngày càng tăng về Hán Nôm kể cả chiều rộng và chiều sâu.

Giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy và học tập trong những năm gần đây, đã lần lượt được biên soạn xuất bản như : Giáo trình chữ Hán của giáo sư Lê Văn Quán, Cơ sở ngữ văn của giáo sư Lê Trí Viễn và giáo sư Đặng Đức Siêu, Giáo trình Hán Nôm của giáo sư Phan Văn Các, và gần đây Giáo trình Hán Nôm của bộ môn Hán Nôm Trường DDHTH Hà Nội do Đinh Trọng Thanh chủ biên. Tất cả các giáo trình đó đã dần dần đưa việc dạy và học Hán Nôm vào nền nếp chính qui. Những hoạt động về Hán Nôm trên đây, chủ yếu nhằm đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của xã hội về mặt đào tạo lớp người có tri thức chuyên sâu cho ngành. Mặt khác, xã hội còn đòi hỏi phải bồi dưỡng tri thức Hán Nôm cho những đối tượng là học sinh phổ thông, đối tượng mà chúng ta cần phải truyền đạt một cách chính xác lượng thông tin chứa tải trong các tác phẩm văn học được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Cần phải truyền thụ cho họ những tri thức tối thiểu để họ nhận biết được ý nghĩa và cách sử dụng một khối lượng từ vựng gốc Hán hiện chiếm từ 60 đến 70% trong kho từ vựng của tiếng Việt hiện đại. Với cách đặt vấn đề học tập Hán Nôm bao gồm hai cấp độ rõ rệt:

1- Đào tạo đội ngũ những người làm công tác Hán Nôm.

2- Bồi dưỡng tri thức Hán Nôm cho học sinh phổ thông ở các cấp hiện nay.

Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ có thể đề cập tới vấn đề 1, còn vấn đề 2 chúng tôi sẽ đề cập ở một dịp khác.

Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học ở cấp độ chuyên ngành, đó là cả một vấn đề nan giải. Hán Nôm là gì? Dạy và học bộ môn này như thế nào? Nó có phải một thứ ngoại ngữ hay không? Nội dung dạy và học có khác với môn văn học cổ hay không? Đấy là những câu hỏi cần được làm sáng tỏ, có như vậy chúng ta mới dần dần nâng cao được chất lượng dạy và học bộ môn này.

Dưới đây là một số ý kiến sơ bộ do chúng tôi đúc rút được qua những kinh nghiệm thực tế giảng dạy của hơn hai chục năm.

Như đã nói ở trên, Hán Nôm là một thực thể tồn tại với hình thức và nội dung riêng biệt của nó. Do vậy, dậy và học ở cấp độ này là nhằm đào tạo người có được những tri thức cơ bản về ngôn ngữ Hán Nôm và những tri thức khác có liên quan, bước đầu có cơ sở tiếp cận, khảo sát, giải mã để sử lý và khai thác văn bản Hán Nôm.

Muốn tiếp cận để giải mã văn bản, trước hết phải biết đọc và hiể u nội dung chứa tải trong văn bản một cách chính xác Một yêu cầu tối thiểu của người làm công tác Hán Nôm là khi tiếp xúc với văn bản phải đọc hiểu được nội dung, có như thế mới xử lý và khai thác được chúng. Nhưng nếu chỉ đọc và dịch được văn bản vẫn chưa đủ, mà cần có những tri thức tổng hợp khác như: Thư tịch học, văn bản học… và những vốn tri thức về văn hiến cổ, thì mới có thể hiểu sâu sắc nội dung để khai thác những văn bản ấy. Đó là điều kiện cần và đủ cho những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm.

Hán Nôm là một thực thể tồn tại ở một thời điểm thuộc về quá khứ đối tượng mà chúng ta dạy và học là một thứ tử ngữ, một thứ ngôn ngữ cách biệt với chúng ta đã lâu đời, hiện không còn được sử dụng đẻ làm phương tiện biểu đạt trong giao tiếp hoặc để ghi lại những tác phẩm mà người Việt sáng tạo nên nữa. Bởi vậy, việc dạy và học bộ môn này có một đặc thù riêng biệt, không thể đồng nhất với việc dạy và học ngoại ngữ. Vì ngoại ngữ là một sinh ngữ sống động với chức năng giao tế thường ngày trong đời sống xã hội. Nó luôn luôn bổ xung những yếu tố mới và ngược lại cũng luôn luôn thải loại những yếu tố cũ không phù hợp trong hệ thống từ hội và các qui phạm biểu đạt, để vươn lên hoàn thiện hơn cho phù hợp với chức năng giao tế của chúng. Dạy và học ngoại ngữ chính là một quá trình rèn luyện để đạt được 5 kỹ năng tiến tới kỹ xào: nghe, nói, đọc, viết và dịch. Đối tượng dạy và học là những ngữ liệu thành văn trong sách vở và những lời nói trong khẩu ngữ. Vì thế các thao tác dạy và học cũng cần có những công đoạn cần thiết để rèn luyện cho người học đạt được 5 kỹ năng, kỹ xảo nêu ở trên, trong đó kỹ năng nói là tổng hoà. Những giáo trình của bộ môn này cũng phải dựa vào yêu cầu mục đích của nói để biên soạn. Còn việc dạy và học Hán Nôm thì khác: Đối tượng dạy và học là những ngữ liệu chỉ trên văn bản (không có một ngữ liệu nào nằm ngoài văn bản), đó là một trong những đặc trưng của Hán Nôm, phương tiện biểu đạt trong các văn bản Hán là những từ ngữ thuộc hệ thống tiếng hán cổ, các qui tắc qui phạm để diễn đạt câu, hình thức thể hiện trong các thể loại về văn bản cũng là vay mượn của Trung Quốc. Trước kia chỉ có tầng lớp trí thức, các nhà sư, vua quan tướng kĩnh và các nho sĩ học tập và sử dụng. Ý nghĩa hàm xúc của từ, phương pháp biểu đạt cô đọng, thủ thuật sử dụng điển cố, thủ đoạn tu từ, thuộc phạm vi từ vựng và ngữ pháp … kèm theo các qui tắc ngoại lệ của ngôn ngữ như tục kiêng huý qua các thời đại, gây đảo lộn thất thường trong từ vựng, chữ viết, vấn đề ngừng ngắt câu, các loại chữ viết Triện, Lệ, Khải, Chân, Thảo phồn thể, Giản thể… đều đem lại cho người học những phiền toái khó khăn nhất định. Những vấn đề nêu trên là những nét đặc thù của Hán cổ. Nó có ngữ nghĩa sâu sắc thâm thuý, lời văn hàm xúc cô đọng, một thứ ngôn ngữ mà ngay cả người Trung Quốc hiện nay cũng thấy xa lạ. Vì vậy, đối với người Việt Nam lại càng khó khăn hơn trong việc đọc và hiểu chúng. Mặt khác, ngoài mặt chữ nghĩa của Hán cổ, chúng ta cần trang bị cho người học những tri thức về văn hiến cổ Việt nam và một số lĩnh vực văn hiến cổ Trung Quốc có liên quan đến những tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, đồng thời cũng phải trang bị cho họ những tri thức khác có liên quan đến giải mã, xử lý khai thác và công bố văn bản.

Học để nhận biết nó, hiểu nó và tìm đến cái chân, cái thực để đi tới cảm nhận đồng điệu với người xưa đã suy tưởng, đã cảm nhận, đó là mấu chốt của việc dạy và học.

Hán Nôm là hiện tượng văn hoá đặc thù Việt Nam, là đỉnh vinh quang chói ngời, cũng là vết hằn đau thương tủi hờn quá khứ của dân tộc. Nó gắn bó máu thịt với dân tộc bao thế hệ, đồng thời nó cũng là một hiện tượng xa lạ với chúng ta, hiện tại và hậu thế. Vì vậy nhận biết nó, đi tới hiểu được đặc trưng của cái biểu hiện và cái được biểu hiện của thứ ngôn ngữ này, là cả một quá trình nhận thức từ cảm tính đến lý tính, từ những động tác đến thao tác tái hiện, đến rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo giải mã và minh giải văn bản. Do đó hệ thống giáo trình cơ bản của môn học này cần tuân theo nguyên tác từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chú ý đến phương pháp miêu tả và thể hiện nguyên tác đồng qui trong giáo trình và phương pháp giảng dạy. Nó cũng khác với những cuốn giáo trình trích giảng văn học cổ với mục đích là khai thác các sự kiện văn học, trào lưu văn học, tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện của tác giả, hoặc là những tư tưởng thẩm mỹ chi phối hệ thống thi pháp chung cho cả một thời kỳ lịch sử văn học…

Rõ ràng là việc đồng nhất việc dạy và học Hán Nôm với việc dạy và học ngoại ngữ, văn học cổ, hoặc bất cứ một môn học nào khác, sẽ dẫn tới sự lựa chọn biện pháp giáo học sai lệch, việc biên soạn giáo trình cũng không thể hiện được mục tiêu đào tạo, các thủ thuật truyền thụ trên lớp sẽ lãng phí thời gian, hiệu quả không đạt được như mong muốn .

Đã đến lúc chúng ta cần có một nhận thức thống nhất về mục đích yêu cầu của việc dạy và học Hán Nôm ở cấp độ đào tạo, để từ đó thống nhất phương pháp truyền thụ cũng như phương pháp học tập.

Hiện nay, chúng ta chưa có một bộ giáo trình hoàn chỉnh, nhất là hệ thống giáo trình cơ sở. Hội đồng bộ môn Hán Nôm đã được thành lập ở Bộ Giáo dục và đào tạo, nhưng chưa có một hoạt động gì. Cơ cấu của hội đồng cần được mở rộng. Cách thành viên của hội đồng, cần có mặt của các chuyên gia đang hoạt động thực sự trong ngành, tập hợp những chuyên gia đầu ngành của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các trường Đại học trong nước, có đủ khả năng giải quyết các vấn đề đang đặt ra cho ngành, tổ chức biên soạn hệ thống giáo trình khác có liên quan và những sách công cụ phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Có như vậy mới có thể đưa việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu của ngành đạt chất lượng tốt.

Sản phẩm của những người làm công tác Hán Nôm là một thứ sản phẩm sơ chế của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nó liên quan tới Văn học, Sử học, Triết học v.v… Vì thế tính liên quan của nó rất rõ nét và đa dạng, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội, ít nhiều đều có thể tìm thấy trong kho thư tịch Hán Nôm một phần gợi mở nào đó. Chính vì thế chuyên ngành Hán Nôm cần có một sự liên kết chặt chẽ với những chuyên ngành khoa học khác để tìm thấy sự hỗ trợ cần thiết, để bổ sung và hoàn thiện nhận thức về mục tiêu và yêu cầu của việc giảng dạy và đào tạo. Đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các trường Đại học có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng Hán Nôm với Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong việc đào tạo cấp độ chuyên ngành ở bậc Đại học, sau và trên Đại học.

Trên đây là một số ý kiến sơ bộ của chúng tôi mong được các bạn đồng nghiệp trao đổi thêm để nâng cao hơn chất lượng giảng dạy và học Hán Nôm.

Đầu thế kỷ XX bộ phận văn học chữ Hán và chữ Nôm đã nhanh chóng mất vị trí trong nền văn học của đất nước. Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ này, văn học Việt Nam hầu như chỉ còn được sáng tác bằng tiếng Việt và ghi âm bằng chữ cái La tinh gọi là chữ Quốc ngữ. Trường hợp tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chủ Tịch là một ngoại lệ.

TB

HÁN NÔM HỌC VỚI NHÀ TRƯỜNG

PHAN HỮU NGHỆ

Bước vào thế kỷ thứ XXI người Việt Nam hiện đại cần có tiếng nói chuẩn của một tư duy sâu sắc. Có phải định nói chuyện xa vời không? Không. Đúng là một hiện thực, một hiện thực bức xúc cần được bắt đầu đặt nền móng ngay từ ngày hôm nay, từ thời điểm này. Chỉ còn 10 năm nữa, nếu chúng ta bắt đầu thực hiện “Làm trong sáng tiếng Việt” từ bây giờ, thì bước đầu cũng phải gấp gáp lắm mới mong đạt được kết quả vào đầu thế kỷ thứ XXI.

Làm trong sáng tiếng Việt, là cách nói văn hoa, thực ra, nói theo cách nói chặt chẽ của khoa học, phải là “Tiếng Việt chuẩn của tư duy sâu sắc”. Nói về “Chuẩn” là đề cập đến mặt biểu đạt của tiếng Việt, tức là nói đúng theo qui tắc văn phạm tiếng Việt; còn “Tư duy sâu sắc” là đề cập đến “Cái được biểu đạt” tức là nội dung ý nghĩa trong tiếng nói đó. Nhưng thực tế số đong chúng ta chưa làm được điều này, chưa sử dụng tốt tiếng Việt ở cả hai mặt biểu đạt và được biểu đạt. Bởi lẽ, thứ nhất, tiếng Việt hiện đại vẫn đang sử dụng khối lượng khá lớn từ Hán Việt, mà nhiều người chúng ta chưa có điều kiện chiếm lĩnh kiến thức này. Thứ hai, nội dung được diễn đạt bằng tiếng Việt cũng phần nhiều xây dựng trên nền văn hóa truyền thống, trong đó có nền văn học cổ viết bằng Hán ngữ và chữ Nôm, mà chúng ta cũng chưa có điều kiện hiểu thấu đáo. Do vậy, đã làm nảy sinh ra cách diễn đạt tiếng Việt không rõ ràng, chưa nói đến khối người phổ thông mà ngay những lớp người được coi là có trình độ tiếng Việt cũng chưa làm tốt việc này. Như sinh viên khoa Ngữ văn một trường Đại học miền Nam đã viết cụm từ “vinh thân phì gia” thành “vinh thân phì da” và giải thích thêm: vinh hiển cái thân, phì nộn cái da (khóa luận tốt nghiệp). Hoặc nhầm cụm từ “vũ đài lịch sử” thành “đoạn đầu đài” tổ chức đã đưa dân tộc ta lên lên đoạn đầu đài bài thi tốt nghiệp của sinh viên khoa Ngữ văn một trường Đại học ở miền Bắc). Nhầm “giao thoa” thành “giao hợp”, (bài kiểm tra của sinh viên) Trong tạp chí quan hệ quốc tế số tháng 8 năm 1991 có người viết nhầm “thốn thổ” thành “thống thổ”, “giai do” thành giao do “trong câu” Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất “Cũng trong tạp chí này, bài bài thơ giữ quốc thể đã nhầm từ “đại” (lớn) thành “đái” (mang); “qua” (đi qua) thành “qua” giáo mác. Câu “di bản tòng cung hựu đại qua” chép thành “di bản tòng cung hựu đái qua” và dịch “di vốn là cung hợp với qua” giáo mác. Ấy là chưa kể những từ, những câu thứ ba bài thơ trên: “Thần kinh khâm tự An Nam quốc” (thần kinh, nơi vua ở, ở đây chỉ vua Trung Quốc. Vua kính cẩn đặt cho (phong cho) tên nước là An Nam). Vì không hiểu rõ cụm từ “thần kinh khâm tự” nên đã dịch thành “Từ xưa tên nước rành rành đó”. Những hiện tượng đọc mà không hiểu ý hoặc hiểu lơ mơ còn khá phổ biến trong nhiều ngành hoạt động khác nữa, nhất là những ngành phải đụng chạm đến văn thơ cổ như giới thiệu danh nhân, danh lam thắng cảnh…

Nêu ra những hiện tượng đó, không phải để chê trách những người viết nhầm, mà muốn nói nên thực trạng của tiếng Việt hiện nay, một vấn đề làm chúng ta nhức nhối, cần có biện pháp khắc phục. Ở đây, chúng tôi muốn giới hạn vấn đề trong môi trường học sinh, sinh viên (từ bậc tiểu học đến chuyên ngành Ngữ văn của các trường Đại học và Cao đẳng). Nhưng trước mắt cần được giải quyết, vẫn là đối tượng sinh viên Ngữ văn. Rồi từ những “cá thể” này, trong tương lai sẽ là hạt nhân thực hiện nhiệt tình và tự nhiên kế hoạch làm trong sáng tiếng Việt của toàn xã hội, qua việc giảng dạy các thế hệ học sinh kế tiếp nhau. Vì thế, vấn đề Hán Nôm học với chuyên ngành Ngữ văn trở thành vấn đề “cốt tử” tự nhiên trong việc thực hiện kế hoạch trên.

Với đối tượng là sinh viên khoa Ngữ văn thì kiến thức Hán Nôm đã được qui định cụ thể: Ngữ văn Hán Nôm yêu cầu nắm vững từ Hán Việt và đọc hiểu những van bản Hán Nôm thông thường. Về văn bản Nôm, khi đã được trang bị kiến thức Hán Ngữ ở mức độ nào đó, việc giải mã văn bản Nôm có thể thực hiện được thuận lợi, riêng về văn bản Hán (những bài thơ văn viết bằng Hán ngữ) tuy diện đã được thu hẹp lại rất nhiều, song lại cần một độ chuyên sâu nhất định. Ở Những văn bản Hán thông thường, có lẽ chỉ cần hiểu Hán ngữ là có thể giải quyết được rồi. Còn những văn bản học, đặc biệt thơ cổ, thì những điều kiện trên là cần thiết, song vẫn chưa đủ để có thể lý giải một bài thơ cổ. Có hiện tượng đã biết được hết nghĩa của lời thơ, mà vẫn bó tay không giải nổi ý thơ. Bởi lẽ với thơ Hán Ngữ luật phần Hán ngữ chỉ là “vật liệu để tạo nên cấu trúc thơ mà thôi” vật liệu khi được vào cấu trúc không phải giữ nguyên dạng của nó, mà nhà thơ đã làm biến đổi “hình dáng” ban đầu bỏ phần “không cần” và giữ lại “phần cần” cho phù hợp với kết cấu của cấu trúc thơ. Như vậy, ý nghĩa của “vật liệu”, không đồng nhất với ý nghĩa thể hiện ở cấu trúc ấy. Chúng ta, ai cũng biết Kim tự tháp cổ Ai Cập được xây dựng bằng những tảng đá, thế nhưng Kim tự tháp lại không phải là đống chồng chất những tảng đá tự nhiên. Trong văn học cũng tương tự như thế. Cũng chính vì sự ngộ nhận này, đã có người tưởng rằng biết được chữ Hán là có thể đọc hiểu được những bài thơ cổ.

Thực ra làm trong sáng tiếng Việt, không dừng lại ở phần hình thức thể hiện của tiếng Việt. Việc này cụ thể và trước nay ta đã làm. Điều quan trọng hơn vẫn là tạo nên được nội dung thể hiện có chiều sâu văn hoá dân tộc, mà “cốt lõi” của nó lại nằm trong sự hiểu rõ và nắm vững văn học truyền thống (văn học cổ). Việc này thuộc về phương pháp tìm hiểu thơ văn cổ. Điều này khó và ta chưa làm được bao nhiêu.

Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức thể hiện của tiếng Việt thì nội dung vẫn là yếu tố quyết định, còn hình thức để tôn thêm ý nghĩa cho nội dung. Phải nói rằng diễn đạt đúng và sâu sắc ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ “chuẩn, đấy mới là làm trong sáng tiếng Việt. Thế nhưng cách bồi dưỡng kiến thức Hán Nôm cho sinh viên hiện nay chỉ thiên về phần ngữ, tức phần “vỏ” của việc giao tiếp, phần kết cấu văn bản, như từ vựng (ngữ nghĩa) phiên âm, phiên dịch, dịch thơ, chú thích, chú giải, hiệu đính v.v… mà coi nhẹ phần văn, tức phần nội dung được thể hiện. Sự thiếu sót này chính là do cách nghĩ đơn giản: Biết được Hán Ngữ là có thể hiểu được tác phẩm văn học cổ như đã nói ở trên. Trường hợp này phải trả lời bằng cách nói của anh Hoàng Ngọc Hiến: “biết tất cả nhưng chẳng hiểu gì cả” Sở dĩ như vậy, vì chúng ta chỉ cung cấp kiến thức “công cụ”, mà không bồi dưỡng kiến thức phương pháp sử dụng “côn cụ” đó nên có công cụ mà đành xếp xó, không biết cách sử dụng để có thể giải mã những văn bản cổ. Nêu vấn đề “cách đọc hiểu thơ văn cổ” được giải quyết thì trước hết sẽ lấy lại được niềm say mê học văn học cổ cho sinh viên, và đây cũng là cơ sở tạo nên tiềm năng văn hoá cho họ. Đó mới là đi vào điểm chủ yếu của vấn đề làm trong sáng tiếng Việt-tạo cho tiếng Việt một cách nói chuẩn sâu sắc, ý nhị và duyên dáng.

Về vấn đề văn bản học ở nhà trường: văn bản văn học được chọn dùng trong nhà trường phải là những văn bản qui phạm, có tính khoa học, tính thống nhất và tính hoàn chỉnh trong một kết cấu chặt chẽ, các bộ phận quan hệ khớp khít với nhau, trở thành bộ phận hữu cơ của một chỉnh thể, và tư tưởng tác phẩm (tứ thơ) chỉ có thể toát lên từ chỉnh thể kết cấu chặt chẽ ấy. Vì thế, dù là từ vựng, từ pháp, cú pháp, hư từ, nếu dùng chúng để miêu tả ý thơ, sẽ không bao giờ giữ nguyên nghĩa “tự thân”(1) mà luôn luôn là nghĩa “bộ phận” của kết cấu “nghĩa” quan hệ” trong kết cấu đó. Nhưng chúng bao giờ cũng phải dựa vào nghĩa tự thân mới tạo nên được nghĩa quan hệ nghĩa “tự thân”là để thông báo, là nghĩa “đen” trong văn bản. Còn nghĩa “quan hệ”, so với nghĩa “tự thân”, luôn luôn có độ “khúc xạ” nhất định trong một kết cấu. Vì vậy tìm hiểu văn bản hoặc dịch loại văn bản này, yêu cầu đầu tiên là phải đảm bảo được tính chính xác của từ vựng, từ pháp, cú pháp chuẩn. Có như vậy, nó mới làm được chức năng thông báo của văn bản. Và từ đó mới nâng lên thành chức năng truyền cảm của tác phẩm văn học. Thông báo không đúng thì truyền cảm sẽ sai lệch. Cho nên nói tìm hiểu văn học cổ cần đến phương pháp khoa học văn học là thế.

Về từ ngữ trong thơ: từ Hán Việt là từ đa nghĩa, vào thơ chỉ chọn được một nghĩa. Và nghĩa này nhất thiết phải là một trong những nghĩa của từ vựng ấy. Đây là chuẩn khoa học của văn bản. Nếu không đảm bảo được chuẩn chung này, thì tác giả (người nói) và độc giả (người nghe) sẽ không có tiếng nói chung, sẽ không hiểu được nhau. Như thế, văn bản sẽ mất giá trị thông báo, và tất nhiên cũng không còn giá trị truyền cảm đúng nữa (văn bản văn học. Ví dụ như từ “vọng” trong “vọng nguyệt” (Nhật ký trong tù, viết tắt NKTT) có 9 nghĩa tất cả, nhưng không có nghĩa nào là “ngắm” Trong cụm từ “vọng nguyệt” thì nghĩa phù hợp nhất của từ “vọng” là nghĩa “trông đợi” (trăng). Phải đảm bảo được nghĩa của từ vựng mới có cơ sở khoa học để lý giải nó trong cấu trúc thơ. Rõ ràng “ngắm trăng “và” trông đợi trăng” đã khác nhau về mặt sắc thái biểu cảm. Hay như từ “thiếu nữ” (Sơn thôn thiếu nữ ma bào túc mộ, NKTT) chỉ người con gái độ tuổi thiếu niên (trẻ em xóm núi xay ngô tối) chỉ người con gái độ tuổi thanh niên (đã trưởng thành. Từ “hồng” (bao túc ma hoàn lô dĩ Hồng - Mộ, NKTT) nghĩa là “đốt” (lửa); không nên hiểu là “hồng” (màu đỏ) (ngô vừa xay xong lò rực hồng).

Về từ pháp và cú pháp cũng có yêu cầu chuẩn xác của nó. Thơ Hán ngữ luật (một loại thơ gợi tả, gợi ý) thường diễn tả thơ bằng cả kết cấu của từ pháp và cú pháp. Nếu bỏ qua tính chuẩn xác của phần này, cũng có nghĩa là bỏ đi mất một phương tiện truyền đạt ý thơ. Như cụm từ “minh nguyệt” (nhận hướng song tiền khán Minh nguyệt - Vọng nguyệt, NKTT) là kết cấu chính phụ, còn cụm từ “trăng soi” (người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ) là kết cấu chủ vị. Hai kết cấu này diễn tả hai ý khác nhau. Kết cấu chính phụ “minh nguyệt” trong “khán minh nguyệt” diễn tả (tác giả) nhìn thấy trăng (trăng ấy sáng); còn kết cấu chủ vị “trăng soi” trong “ngắm trăng soi ngoài cửa sổ” diễn tả ý: Nhìn thấy ánh trăng chiếu bên ngoài cửa sổ. Cụm từ “tòng song khích” (nguyệt tòng song khích khán thi gia-vọng nguyệt, NKTT) là kết cấu giới từ làm trạng ngữ, mà giới từ “tòng” chỉ điểm xuất phát của hành động “khán” (nhìn). Mượn kết cấu để diễn tả một ý: Trăng (đã) từ khe cửa (ngay bên cạnh khe cửa) nhìn nhà thơ. Với cách “rút ngắn” khoảng cách (giữa trăng và nhà thơ) để “nhân hoá” trăng, tạo nên “hoạt động chuyển dịch” cho trăng, để hợp lý hóa hành động “nhìn nhà thơ” của trăng. Đây cũng là điểm cuối cùng để hoàn thiện hình tượng trăng như một nhân vật trong thơ.

Qua đây ta thấy rằng, giữa văn bản và tác phẩm vẫn còn một sự chuyển đổi ý nghĩa của cả một hệ thống. Hệ thống của văn bản là hệ thống của các bộ phận từ vựng, từ pháp, cú pháp chuẩn. Hệ thống của tác phẩm (thơ) là hệ thống của các bộ phận hữu cơ trong cấu trúc. Hai hệ thống này phải chuyển đổi đồng bộ mới giữ nguyên vẹn ý nghĩa tác phẩm. Vì thế, có thể nói, ngôn ngữ trong văn bản văn học đã chuyển đổi từ kết cấu văn bản sang cấu trúc thơ để thể hiện ý thơ. Ngôn ngữ của văn bản là ngôn ngữ thông báo, còn ngôn ngữ trong cấu trúc tác phẩm là ngôn ngữ truyền cảm. Chúng ta thử xem sự khác nhau này qua bài “vọng nguyệt”. “Vọng nguyệt” chỉ thông báo về cử chỉ “nhìn”, “ngắm” trăng. Nhưng nghĩa của thơ lại diễn tả một nội ý ở bên trong mối quan hệ “giữa người và trăng”; để có kết quả là (người phải) “trông đợi trăng như thế có lẽ nó giống như quan hệ gắn bó thân thiết sâu sắc của vợ chồng được thể hiện qua cụm từ “vọng phu” chăng? Câu khởi (câu 1) “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa” nghĩa văn bản chỉ thông báo một hiện trạng về nhà tù “không có rượu cũng không có hoa”. Nhưng nghĩa thơ đã mượn “hoa” “rượu” để diễn tả một phong cách tiếp cận trăng của các thi nhân xưa (Xem bài Nguyệt hạ độc chước của Lý Bạch). Và tác giả đã dùng hai từ “vô” (không) với cách mượn “thực” để tả “hư”. Mượn cái “không (có)” để diễn tả cái “không (cần)” giống như cách thể hiện của Nguyễn Khuyến trong bài “đón bạn đến chơi nhà”. Vậy là câu thơ đã diễn tả được phong cách tiếp cận trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh (khác với phong cách của các thi nhân xưa). Nhà thơ “say” trang mà “không (cần” đến men say của rượu, cũng “không (cần)” đến hương thơm ngây ngất của hoa. Đây là cái say từ chất tố bên trong từ lòng mình dấy lên, không cần đến chất gây say từ bên ngoài. Hoặc như câu cuối (câu hợp) “Nguyệt tòng song khích khán thi gia” (trăng từ khe cửa nhìn nhà thơ), nghĩa văn bản chỉ thông báo một cảnh trí: trăng chiếu sáng cả vào trong nhà giam nơi có tác giả. Nhưng nghĩa thơ lại diễn tả: trăng rất “có tình”, đã rời nơi cao xa lạnh lẽo xuống và đã ở ngay cạnh cửa sổ của nhà tù, để nhìn (khán) trao đổi tình cảm, bằng ánh mắt nhìn, bộc lộ một sự quan tâm và thông cảm sâu sắc như hình ảnh người vợ bạn tù đến thăm chông: “Gần nhau trong tấc gang mà biển trời cách mặt (…); miệng chẳng nói lên lời, nói lên bằng khoé mắt”. Qua những dẫn chứng trên, ta thấy, hệ thống kết cấu văn bản “vọng nguyệt” chỉ thông báo (cho ta thấy) Một cảnh tượng trăng toả sáng vào nơi ngục tù. Còn hệ thống cấu trúc của bài thơ lại thể hiện mối quan hệ “tình cảm gắn bó” giữa người với trăng. Cũng phải thấy rằng, đây là mối quan hệ qua lại giữa người và trăng, đã thể hiện ngay trong nhan đề bài thơ “vọng nguyệt” (trông đợi trăng), mà không phải mối quan hệ một chiều như “ngắm trăng”.

Cho nên ở hai câu cuối (câu chuyển và câu hợp) mới là “nhân… khán minh nguyệt; nguyệt v.v… khán thi gia” (người… nhìn trăng; trăng… nhìn người). Hai bên “nhìn” (khán) nhau. Nhưng ý nghĩa đích thực của hình tượng trăng trong bài thơ là gì? có thể nhận thấy ngay được rằng, trăng được miêu tả ở ngay bên ngoài của cửa sổ nhà tù, nên nó mang ý nghĩa biểu tượng cho tự do. Và quan hệ tương hỗ giữa người với trăng biểu tượng cho tự do, đã thể hiện sự gắn bó của người với tự do, rất tự nhiên sâu sắc, như không khí cần cho người và người cần không khí vậy.

Sự khác nhau giữa nghĩa “thông báo” của văn bản và nghĩa “truyền cảm” của tác phẩm là như vậy. Cho nên đã biết được nghĩa văn bản rồi, còn cần phải có phương pháp mới có thể lý giải được ý nghĩa của tác phẩm. Nhưng điều quyết định để tìm ra nghĩa đúng của văn bản và tác phẩm, lại không phải ở chính kết cấu đúng của từ vựng, từ pháp, cú pháp chuẩn, mà chính là ở cấu trúc tác phẩm. Cấu trúc sẽ “chi phối” cách hiểu đúng văn bản đến từng chi tiết chọn nghĩa từ cho văn bản. Vì mục đích cuối cùng của việc chọn nghĩa, lựa từ, tạo từ pháp, cú pháp cũng là để xây dựng nên cấu trúc thể hiện ý thơ. Tìm ra được cấu trúc là tìm ra được hướng lý giải nghĩa và các kết cấu đúng của văn bản. Sở dĩ một số văn bản dịch có điểm này điểm khác chưa chuẩn, chính vì chưa tìm ra được cấu trúc, chưa tìm ra được sự thống nhất của một chính thể tác phẩm (phải có cái nhìn tổng thể mới thấy rõ bộ phận). Biết được Hán ngữ là điều cần trước tiên, không có nó thì không thể nói đến chuyện gì khác được. Nhưng có nó rồi, cũng chưa phải đủ điều kiện để lý giải văn bản văn học. Nhà thơ, nhà văn bao giờ cũng hình thành nên cấu trúc tác phẩm trước, rồi mới chọn từ, lựa câu, để diễn đạt cấu trúc đó. Cũng như nhà kiến trúc cần hình thành bản thiết kế kiến trúc, rồi mới căn cứ vào yêu cầu của nó mà sử dụng vật liệu thi công. Đến lượt người nghiên cứu, người phân tích, người dịch v.v… cũng phải tìm ra được cấu trúc tác phẩm thì mới có hướng tìm ra nghĩa đúng của văn bản, và tác phẩm, và căn cứ vào đó làm chuẩn để chú thích, chú giải, đính chính, dịch nghĩa, dịch thơ v.v… Để tìm ra cấu trúc tác phẩm, điều tiên quyết là đảm bảo được tính chuẩn xác về mặt Hán ngữ. Có “thông tin” đúng này mới có thể bảo đảm được sự đồng bộ và hoàn chỉnh của cấu trúc. Trường hợp chỉ nhận được thông tin sai lệch hoặc “thông tin giả” (chưa chuẩn) thì rất khó nhận ra cấu trúc (tôi muốn nói đến văn bản dịch chưa chuẩn, mà một số nhà nghiên cứu vẫn phải dùng). Điều này thật rõ ràng, có nhiều nhà nghiên cứu tầm cỡ, vì dựa vào bản dịch chưa chuẩn cũng không có điều kiện đánh giá đúng ý nghĩa của tác phẩm. Đề cập đến những vấn đề trên, chúng tôi mong muốn có một cơ chế để thực hiện vấn đề rộng lớn của toàn xã hội-làm trong sáng tiếng Việt. Trước mắt, mong chờ các nhà Hán Nôm học, cùng chung sức giúp sinh viên khoa Ngữ văn các trường Đại học và Cao đẳng nắm được kiến thức này của bộ môn Hán Nôm học.

CHÚ THÍCH

(1) Tôi tạm gọi nghĩa từ vựng, từ pháp, cú pháp chuẩn là nghĩa “tự thân”. Nó ở dạng trung hòa, chưa có tính định hướng trong kết cấu. Và gọi nghĩa được định hướng trong thơ là nghĩa “quan hệ”. Chúng phải quan hệ với nhau trong kết cấu mới tạo nên nghĩa thơ (văn).

TB

VỀ VIỆC DẠY VÀ HỌC HÁN NÔM Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN DANH ĐẠT

Việc dạy và học Hán Nôm ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội chúng tôi được bắt đầu đồng thời với việc nâng cấp trường từ hệ Trung cấp lên hệ Cao đẳng từ năm học 1976-1977. Từ đó đến nay đã 14 năm, nhưng việc dạy và học Hán Nôm ở hệ Cao đẳng nói chung và ở đây nói riêng, chúng tôi thấy chưa thật sự đi vào nề nếp. Người dạy và học do đó gặp không ít khó khăn.

Trước hết xin nêu về nhận thức, yêu cầu đối với môn học. Trong cuốn Chương trình Cao đẳng Sư phạm của Bộ Giáo dục xuất bản gửi đến các trường vào năm 1988, có đặt yêu cầu cho môn học cơ sở Ngữ văn Hán Nôm là “… giúp người giáo viên dạy phần từ ngữ Việt gốc Hàn và phần thơ văn cổ một cách sâu sắc hơn, có sức thuyết phục hơn…” Còn đối với chương trình Cao đẳng, yêu cầu của Bộ là: “Chỉ nhằm thoả mãn những yêu cầu về tích lũy kiến thức và rèn luyện kỹ năng đó ở cấp cơ sở, nhằm phục vụ trực tiếp cho việc dạy những vấn đề cơ bản liên quan đến từ ngữ và văn thơ có ở các trường Phổ thông cơ sở… “Tiếp đó là nội dung chương trình, bao gồm ba mảng tri thức: ngôn ngữ văn tự Hán và văn bản Hán ở Việt Nam; Chữ Nôm và văn bản Nôm; tri thức bổ trợ về Ngữ văn học cổ điển và Văn hoá cổ đại. Toàn bộ khối lượng tri thức ấy được quy trong vòng 80 tiết và được chia ra làm bốn học kỳ, mỗi học kỳ dài nhất là 20 tiết, ngắn nhất là 15 tiết. Đây là vấn đề nan giải thực sự đối với chúng tôi, những người có trách nhiệm phải thực hiện chương trình, phải hoàn thành trách nhiệm của Bộ đã giao. Là những người trực tiếp làm nhiệm vụ giảng dạy cho sinh viên, chúng tôi thực sự gặp không ít khó khăn. Cho đến nay chương trình công bố đã hai năm rồi mà hệ Cao đẳng Sư phạm vẫn chưa có một giáo trình chi tiết. Tuy vậy, chúng tôi cũng đã dựa vào chương trình, soạn và viết ra những bài cần giảng bằng chữ Hán, chữ Nôm sau đó đưa in xê len hoặc phô tô cô pi ra phát cho sinh viên. Kết quả cho thấy tuy đảm bảo được về mặt thời gian, hình thức công việc, nhưng về chất lượng có phần chưa được như ý muốn. Bởi lẽ thời gian được học, được rèn tập cho sinh viên ở trên lớp quá ít, phần lớn thời gian thầy giáo phải dành cho việc trình bày bài giảng giải. Chúng tôi cho rằng để học tốt môn học Hán Nôm, trước hết sinh viên phải học một khối lượng văn tự Hán, văn tự Nôm, cấu trúc câu và cách vận dụng, có như vậy mới không cần phải xuyên qua một lớp văn tự và ngôn ngữ để tiếp cận nội dung bài học một cách mau lẹ và thuận lợi, còn như với thời gian 80 tiết dành cho môn học thì thật sự là chưa đủ.

Mặt khác kết cấu của nội dung chương trình theo ý chúng tôi cũng nên có cách sắp xếp thế nào đó cho hợp lý hơn. Cứ theo như sách của Bộ đã hướng dẫn thì ý đồ của người soạn là cung cấp trí thức Hán Nôm cho sinh viên là chủ yếu dựa trên một hệ thống văn bản Hán văn Việt Nam theo thứ tự thời gian mang tính chất “văn” hơn, hình như khoá trình ít chú ý đến phần “ngữ” mà theo ý chúng tôi, phần ngũ là phần cần thiết đầu tiên cho giáo viên Phổ thông cơ sở. Căn cứ vào hệ thống bài học từ bài Nam quốc sơn hà cho đến bài cuối chương trình thì phần Hán Nôm làm nhiệm vụ bổ sung và phần nào minh chứng cho tính đúng đắn của các bản dịch đã có sẵn. Trên thực tế một số cán bộ giảng dạy của chúng tôi có đồng chí thì lưu tâm đến nội dung của văn bản hơn, còn từ ngữ trong đó có khai thác, là nhằm phục vụ cho nội dung văn bản ấy. Ở phía khác, có đồng chí lại đặt nặng phần cung cấp từ là chủ yếu cho sinh viên, Bài học là cái cớ để các đồng chí nhặt từ đó ra các từ gốc Hán Việt có liên quan rồi giảng giải, cung cấp từ Hán Việtcho sinhVieetjg. Qua một thời gian bàn luận khá lâu, chúng tôi tạm thời dung hoà cả hai hướng, song có chú ý nặng về phần ngữ hơn văn, theo hướng này việc dạy và học thấy có hiệu quả. Rõ ràng là thời gian, nội dung cấu trúc chương trình và điều kiện tối thiểu như tài liệu cho thầy và trò hiện nay còn nhiều vấn đề tồn tại. Tuy vậy hai năm nay, sau khi nghiên cứu chương trình của Bộ, trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội đã mạnh dạn viết giáo trình in xê len phát cho sinh viên làm tài liệu học tập.

Giáo trình giảng dậy của chúng tôi chủ yếu vẫn là dựa theo sách hướng dẫn chương trình của Bộ, song cũng có thay đổi và thêm bớt chút ít cho phù hợp với thời gian và yêu cầu của việc đào tao. Chúng tôi không đặt riêng hẳn một hay hai bài nói về từ và câu trong văn bản Hán Văn cổ như chương trình hướng dẫn mà lồng vấn đề đó vào trong các bài học cụ thể. Ý của chúng tôi là muốn thông qua từng bài giáo viên sẽ hướng dẫn dần, sao cho sinh viên tự hiểu và rút ra kết luận về vấn đề đó. Sau cùng giáo trình làm nhiệm vụ tổng kết và nâng cao. Các vấn đề khác như cách giải thích từ, cách minh định lý thế nào là một bản dịch v.v… cũng làm như vậy.

Nói chung qua hai năm thực hiện, do sự nỗ lực của thầy và trò, lại được sự cổ vũ của nhiều đồng nghiệp, trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội cũng đã đóng góp sức mình vào việc cải tiến nâng cao chất lượng dạy và học Hán Nôm. Là cán bộ trực tiếp đảm nhiệm trọng trách này chúng tôi hy vọng các bậc thức giả và đồng nghiệp góp ý thêm với chúng tôi về việc dạy và học Hán Nôm trong nhà trường.

TB

PHONG CÁCH HỌC VĂN TỰ (STYLISTIQUE GIAPHIEQUE): MỘT
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ HÁN

PHAN VĂN CÁC

Khác với các loại văn tự biểu âm là những hệ thống chữ viết dùng một số lượng hữu hạn các ký hiệu để tượng trưng cá biểu đạt (âm thanh) của ngôn ngữ không tính đến ý nghĩa, chữ viết biểu ý của tiếng Hán trái lại là một hệ thống văn tự có mối liên hệ chặt chẽ với cái được biểu đạt (nội dung ý nghĩa) của yếu tố ngôn ngữ.

Đó là mối liên hệ bản chất giữa ý nghĩa của các từ và từ tố với hình thể của các chữ vuông, từ lâu, mối liên hệ chiều xuôi này (ý nghĩa của từ ngữ quyết định hình thể chữ viết) đã được chú ý nghiên cứu. Công việc nghiên cứu đó đã được khởi đầu bởi nhà ngôn ngữ học Trung Hoa cổ đại nổi tiếng Hứa Thận (đời Hán) trong cuốn từ điển chữ Hán sớm nhất, Thuyết văn giải tự, trình bày theo hệ thống lục thư.

Lục thư không chỉ xét mặt ý nghĩa. Theo thống kê của Vương Quân đời Thanh thì trong Thuyết văn giải tự có 7697 chữ hình thanh (khoảng 82%) tức là những chữ tạo thành bởi hai yếu tố (một chỉ nghĩa, một chỉ âm)(1).

Việc nghiên cứu chiều ngược lại của mối liên hệ ấy - ảnh hưởng trở lại của chữ Viết biểu ý đối với bản thân ngôn ngữ - Hán dường như chưa được coi trọng đúng mức.

Ảnh hưởng này theo sự quan sát của chúng tôi biểu hiện trên ba phương diện sau đây:

Một là về từ vựng: nhờ có hình thể của chữ viết biểu ý, ngôn ngữ viết khắc phục được những trở ngại do hiện tượng đồng âm gây ra mà ngôn ngữ nói không thể nào khắc phục nổi. Trong tiếng Hán, số lượng các yếu tố đồng âm là rất lớn. Tân Hoa tự điển, loại tự điển nhỏ thông dụng ở Trung Quốc đã thu thập gần 40 chữ viết khác nhau cùng đọc là [Si]. Đó là nguyên nhân khiến các phát thanh viên tiếng Hán khi đọc các văn kiện thường phải dừng lại dấu ngoặc chú thích bằng cách nêu lên một từ ngữ thường dùng có chứa âm tiết ấy, thí dụ: [wén] [cīn wén dē wén] (văn trong tân văn) hoặc miêu tả cách viết chữ. Thí dụ: ba trợ từ kết cấu địa, đích, đắc đều đọc là [ta], khi cần phân biệt người ta phải nói: (地) (thổ + dã = địa) (的) (bạch + thược = đích)…

Hai là, cả về từ vựng lẫn về ngữ pháp, tiếng Hán hiện đại có khả năng và điều kiện bảo lưu rất nhiều thành phần thường rất ngắn gọn súc tích của tiếng Hán cổ (trong khẩu ngữ, khi thoát ly văn tự, chúng rất khó được bảo lưu). Do đó, khoảng cách ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết - vẫn có ở mọi ngôn ngữ - ở tiếng Hán lớn hơn rất nhiều. Nguyên nhân chủ yếu của văn tự Hán, thứ văn tự biểu ý có tính bảo thủ lớn, trên đại thể hầu như không bị chi phối bởi sự diễn biến ngữ âm trong lịch sử.

Và ba là, nổi bật hơn cả, trên cơ sở nền văn tự biểu ý tồn tại lâu dài đã hình thành một dạng phong cách học đặc biệt, phong cách học văn tự (stylistique graphique) bên cạnh các dạng phong cách học ngữ âm, phong cách học từ vựng, phong cách học ngữ pháp như vẫn thường thấy ở mọi ngôn ngữ.

Dưới đây thử nêu lên những loại hình biểu hiện chủ yếu của dạng phong cách học văn tự đó.

1. Hệ quả trực tiếp đầu tiên của phong cách học văn tự Hán là trò đố giải chữ. Những câu đố giải chữ kiểu

Lập tại song nhật bàng
Khước trường ám vô quang
(Đứng cạnh hai mặt trời
mà tăm tối suốt đời)

Đố chữ ám 暗 nghĩa là “tối”, gồm một chữ lập và hai chữ nhật) có thể xem là hình bóng của mô hình giải thch các chữ “hội ý” và “chỉ sự” trong thuyết văn giải tự với ít nhiều biến dạng.

2. Hệ thống lóng về các số đếm từ 1 đến 10 sau đây thực chất cũng là sản phẩm của một hình thức phong cách học văn tự (trò chơi hình chữ):

nhất được thay thế bằng bình đầu (đầu chữ bình )

nhị được thay thế bằng không công (chữ công bỏ trống)

tam được thay thế bằng hoành xuyên (chữ xuyên nằm ngang)

tứ được thay thế bằng trắc mục (chữ mục nghiêng)

ngũ được thay thế bằng khuyết sửu (chữ sửu thiếu)

lục được thay thế bằng đoan đại (chữ đại đứt)

thất được thay thế bằng tạo để (đáy chữ tạo)

bát được thay thế bằng phân đầu (đầu chữ phân)

cửu được thay thế bằng vị hoàn (chưa thành chữ hoàn)

thập được thay thế bằng điền tâm (lòng chữ điền )

3. Do đặc điểm của chữ Hán, người ta phát minh ra một lối thơ độc đáo, thơ chiết tự. Giai thoại văn học Việt Nam từng lưu truyền một bài thơ thách đố chiết tự hóc búa:

Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ san điên đảo san.
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
(Hai mặt trời bằng đầu
Bốn ngọn núi điên đảo
Hai vua tranh một nước
Bốn miệng cói dọc ngang)

mà lời giải thích chính là một chữ “điền” 田

Đây là một trò chơi trí tuệ khá thú vị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng viết một bài thơ “chiết tự” như vậy:

Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung.
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Ý Nghĩa của bài thơ gắn sát với hoàn cảnh thực của tác giả lúc bấy giờ.

Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,

Qua cơn hoạn nạn mới thấy rõ lòng trung. Người biết lo lắng thì ưu điểm lớn,

Nhà lao mở cái than tre, thì con rồng chân chính sẽ bay ra.

Nhưng cái thần tình của bài thơ lại phải theo phép “chiết tự” mà cảm thụ:

Chữ 囚 bỏ chữ Nhân 人 ra, thêm chữ hoặc 或 vào, thành chữ quốc 國 ;

Chữ hoạn 患 bớt phần đầu đi thành chữ trung 忠 ;

Thêm nhân (đứng) 亻 vào chữ ưu trong ưu sầu thành chữ ưu 優 trong ưu điểm;

Chữ lung 籠 bỏ trúc đầu thành chữ long 龍 .

Nhiều bài thơ Sấm cũng có thể coi là một dạng đặc biệt của thơ chiết tự này.

4. Một khía cạnh khác của phong cách học văn tự (Hán) thường được khai thác nữa là tự dạng của câu thơ.

Đây là câu thơ của Vương Duy miêu tả cây phù dung đang bắt đầu nở hoa:

Mộc mạt phù dung hoa
木 末 芙 蓉 花
(Ngọn cây, hoa phù dung)

Dạng chữ thể hiện quá trình phát triển của cây hoa mà người đọc có thể cảm nhận bằng thị giác: một chữ mộc, đến một chữ mộc bị chắn đầu thành chữ mạt, hai bộ thảo tiếp theo, và cuối cùng là một chữ hoa tương hình một đóa hoa đang nở.

Lôi đình không tích lịch
雷 霆 空 霹 靂
Vân vũ cánh hư vô
雲 雨 竟 虛 無
(Sấm sét chỉ ùng oàng suông,
Mây mưa rốt cuộc đều không có)

Một loạt chữ có bộ “vũ” ở trên đầu nối tiếp nhau đến một chữ vũ, nhưng cuối cùng là chữ “vô” với bốn chấm ở dưới chính là một bộ hỏa (lửa).

Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở bài Nạn hữu nguyên Chủ nhiệm L có câu:

Kim tiền lô lí chú tù thi
金 錢 爐 裡 鑄 囚 詩
(Trong lò đức tiền, nay đúc thơ tù).

Một loạt các bộ kim trong các chữ kim, tiền, chú gợi lên cái ý “tham vàng bỏ ngãi” về người tù kinh tế nói tới trong bài thơ.

5. Phong cách học văn tự Hán thể hiện rõ nhất ở một số chủng loại văn bản đặc sắc gồm các đề từ, hoành phi, câu đối. Đặc điểm chung của những văn bản này là hết sức cô đọng. Với một số chữ tiết kiệm tới mức tối đa, thậm chí có lúc chỉ còn lại một hai chữ, chúng thường gợi nhiều hơn là tả. Chúng khơi dậy cái chiều dầy của ngôn ngữ tiềm ẩn trong ký ức của người đọc thông thái nhưng nhiều lúc trở thành những câu đố hiểm hóc. Mức độ hiểm hóc càng tăng khi nó kết hợp với những yêu cầu thẩm mỹ độc đáo của chữ Hán.

Giả thiết ta có một văn bản cần giải mã như sau:

李 會

Điều đập vào mắt ta là tính cân xứng của văn bản. Ta hiểu lý do khiến tác giả sử dụng biến thể của chữ đào với cách ghép dọc bộ mộc trên chữ triệu, thay cho cách ghép ngang bộ mộc bên phải chữ triệu, như thường viết 桃 . Lý do ấy nằm ở thế đối xứng lưỡng trắc của bản thân nó 桃 đồng thời nằm ở thế đối xứng của nó với chữ cũng có bộ mộc ở trên chữ tử. Chữ hội với thế cân xứng tự nhiên của nó được đặt vào giữa làm cái trục đối xứng của tác phẩm. Và khác với trật tự quen thuộc của chữ Hán là đọc từ phải sang trái, ở đây văn bản được giải mã theo trình tự đọc từ chữ hai bên trước rồi cuối cùng đến chữ giữa là đào lý hội (đào mận sum họp: hình ảnh truyền thống để ca ngợi nhà giáo có môn đệ động đúc).

Một trường hợp khác không kém lý thú là một đôi câu đối theo lối chữ triện trên khung kính hai cánh cửa của một thư phòng mà chủ nhân có dụng ý dùng toàn những chữ viết có cấu tạo đối xứng để cho mọi người ra vào du từ mặt phải hau mặt trái đều đọc được như nhau:

Kim giảm ngọc sách tự thượng cổ
(Thẻ vàng sách ngọc từ thượng cổ).
Thanh sơn bạch vân đồng tố tâm
(Non xanh mây trắng cùng tố tâm)

Đến đây, nội dung phong cách học văn tự đã rất gần gũi với thư pháp mỹ thuật, một bộ môn nghệ thuật Trung Hoa độc đáo, nhưng đã vượt ra khỏi phạm vi của ngôn ngữ học.

CHÚ THÍCH

(1) Trong quá trình phát triển của văn tự Hán đã xuất hiện một tỷ lệ khá lớn những yếu tố biểu âm ở một mức độ nhất định. Đó là những “thanh bàng”. Tuy nhiên, thống kê tren tám ngàn chữ của Tân Hoa tự điển cho biết tỷ lệ biểu âm hữu hiệu của “thanh bàng” tương đối thấp. Nếu bỏ qua thanh điệu, tỷ lệ ấy là 39%. Nếu đòi hỏi nghiêm ngặt cả thanh điệu thì tỷ lệ ấy còn thấp hơn nhiều. Chỉ có một thanh bàng duy nhất đạt được chỉ số biểu âm 100%, đó là hoàng1 皇 giữ nguyên giá trị biểu âm hoàng (trong tiếng Hán là [huáng] ở cả 14 chữ chứa nó (喤 hoàng2 = tiếng chuông trống, tiếng trẻ khóc 潢 hoàng3 Sông Hoàng, phát nguyên ở Thanh Hải, chảy vào Cam Túc; 惶 hoàng4 = kinh hoàng, sợ hãi; 隍 hoàng5 = hào cạn bên ngoài thành; 煌 hoàng6 sáng láng, huy hoàng; 徨 hoàng7 = quẩn quanh, bàng hoàng; 鍠 hoàng8 = tiếng chuông; 蝗 hoàng9 = hoàng trùng, sâu cắn lúa; 鰉 hoàng10 = cá ngạo; 篁 hoàng11 = tre, 遑 hoàng12 = nhàn hạ, rỗi rãi; 凰 hoàng13 = phượng hoàng; 餭 hoàng14 = một thứ bánh bột mì; 艎 hoàng15 = một loại thuyền gỗ.

TB

CHỮ HÚY ĐỜI LÊ SƠ

NGÔ ĐỨC THỌ

Tiếp tục chuyên đề nghiên cứu chữ húy trên văn bản Hán Nôm Việt Nam(1), trong bài viết này chúng tôi trình bày kết quả khảo sát, nghiên cứu thể lệ kiêng húy chữ viết thời Lê sơ (1428-1527), tức là từ đời Lê Thái Tổ đến trước khi Mạc Đăng Dung lấy ngôi nhà Lê). Phương pháp của chúng tôi vẫn là sưu tập, lý giải những điều lệnh kiêng húy của triều đình, phối kiểm với những cứ liệu văn bản hiện có trong từng thời gian tương ứng. Từ đó rút ra những nhận xét có thể dùng làm cơ sở cho việc giám định các văn bản thời Lê sơ.

I. Danh mục các chữ húy

1. Từ đời Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông: Đại Việt sử ký toàn thư(2) ghi khá đầy đủ các chữ húy đã được triều đình ban bố trong giai đoạn này: Lê Thái Tổ ban bố 7 chữ (Tháng 5-1428), Lê Thánh Tông bán bố 1 chữ (3-1435), Lê Nhân Tông ban bố 2 chữ (4-1443), Lê Thánh Tông ban bố 2 chữ (2-1461). Cộng 12 chữ.

Nhìn chung, điều lệnh tháng 5-1428 là quan trọng hơn cả, trong đó quy định miếu húy đến đời ông bà nội của Lê Thái Tổ. Các đời vua sau tiếp tục ban bố thêm tên húy của vua đương triều và tên húy của mẹ vua.

Ngoài việc ban bố tên húy vua đương triều, điều lệnh 4-1443 thời Nhân Tông nhắc lại miếu húy của các đời trước gồm 7 chữ (Toàn thư, BK11,59a), soát lại từ đầu, thấy thiếu 1 chữ. Điều lệnh tháng 2-1461 thời Lê Thánh Tông, cùng lúc với việc ban bố tên húy của vua và mẹ vua, cũng nhắc lại các chữ miếu húy, gồm 9 chữ. Xem lại các chữ húy và quan hệ các bậc tiên thế trong gia đình Lê Thái Tổ, chúng ta có thể nhặt ra chữ 學 (Học) đã thôi kiêng húy từ thời Lê Nhân Tông (Lê Học là anh cả của Lê Lợi, tức là cửa nhà bác, đến đời Nhân Tông không thờ ở Thái Miếu nữa).

2. Từ đời Lê Hiến Tông đến Lê Cung Hoàng: giai đoạn này có 6 đời vua, nhưng Toàn thư chỉ ghi 2 lần có lệnh kiêng húy. Chúng ta lưu ý điều lệnh về mùa xuân năm 1517: cùng với việc ban bố ngự danh, Lê Chiêu Tông sai Lễ bộ Thượng thư Đàm Thận Huy sửa định để ban bố miếu húy, gồm 20 chữ, nhưng Toàn thư không ghi rõ là những chữ nào. Vì vậy, để lên bảng chữ húy thuộc giai đoạn này, chúng ta cần biết rõ 20 chữ miếu húy do nhóm Đàm Thận Huy sửa định.

Trong khoảng hơn một chục năm (1505-1516) trước khi Chiêu Tông lên ngôi, triều đình nhà Lê đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng do việc tranh giành quyền bính trong hoàng tộc, nhất là dưới thời Lê Uy Mục. Chính Uy Mục đã giết chú ruột là Kiến vương Lê Tân và ba con của ông này, trong đó có Cẩm Giang vương Lê Sùng. Vì vậy, dễ hiểu rằng sau khi được lập làm vua, Chiêu Tông (con Lê Sùng) không chấp nhận tên húy của Uy Mục trong danh sách miếu húy(3).

Mặt khác, đối với Chiêu Tông, chúng ta có thể xác định được những chữ miếu túy quan trọng nhất: Tên cha, Lê Sùng; tên mẹ, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Loan; ông nội Chiêu Tông là Kiến vương Lê Tân (được phong là Kiến Hoàng đế); bà nội là Huy từ Hoàng thái hậu Trịnh Thị Tuyên, tên húy của Trường Lạc Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Huyên (mẹ Hiến Tông).

Cộng là 9 chữ, thêm 11 chữ miếu húy thuộc giai đoạn trước, vừa đúng 20 chữ miếu húy ban bố thời Chiêu Tông.

Tiếp đến, chúng ta bổ sung những chữ húy đời Lê sơ chưa nêu trong bản thẩm định miếu húy năm 1517: 2 chữ về đời Lê Uy Mục, 1 chữ về đời Lê Cung Hoàng.

3. Tập hợp cả hai giai đoạn, chúng ta có thể lên một bảng Danh mục chữ húy đời Lê sơ gồm 25 chữ như sau:

Số Chữ Quan hệ Xuất xứ
Lê Thái Tổ(5-1428) 1 ĐINH - Ông nội vua Toàn thư, BK10, 58
2 QUÁCH - Bà nội vua -Nt-
3 KHOÁNG - Cha vua -Nt-
4 THƯƠNG - Mẹ vua -Nt-
5 LỢI - Tên vua -Nt-
6 TRẦN - Phạm Hoàng hậu (Cung Từ) -Nt-
7 HỌC - Anh cả của vua -Nt-
Lê Thái Tông (3-1435) 8 LONG - Tên vua Toàn thư, BK11,1a
Lê Nhân Tông (4-1443) 9
10
基 英
ANH
- Tên vua
- Tên mẹ vua (Tuyên Tử)
Toàn thư, BK11,59a
-nt-
Lê Thánh Tông(2-1461) 11 THÀNH - Tên vua Toàn thư, BK12,7a
12 DAO - Mẹ vua (Quang Thục) -nt-
Lê Hiến Tông 13 TRANH - Tên vua Toàn thư, BK13,8a
(3-1497) 14 HUYÊN - Mẹ vua (Trường Lạc) -nt-
Lê Thúc Tông 15 THUẦN - Tên vua Toàn thư, BK14,35b
16 HOÀN - Mẹ vua (Trang Thuận) Toàn thư, BK14,36a
Lê Uy Mục 17 TUẤN - Tên vua Toàn thư, BK14,39a
18 CẨN - Mẹ vua (Chiêu Nhân) -nt-
Lê Tương Dực 19 OANH - Tên vua Toàn thư, BK15,1a
Lê Chiêu Tông 20 TÂN - Ông nội vua Toàn thư, BK15,34a
(Xuân, 1517) 21 TUYÊN - Bà nội (Huy Từ) vừa là mẹ Tương Dực) -nt-
22 SÙNG - Cha vua -nt-
23 LOAN - Mẹ vua (Đoan Từ)
24 - Tên vua -nt-
Lê Cung Hoàng 25 XUÂN - Tên vua Toàn thư, BK15,61a

Trong danh mục trên đây, các chữ huý được ghi âm Hán Việt theo cách đọc ngày nay. Đối chiếu với bản dịch những sử tịch, bi ký chúng ta vẫn quen dùng thấy có một số dị biệt về cách đọc:

- Chữ (số 1), bản dịch Toàn thư, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng phiên là ĐINH; nhưng bản dịch Cương mục, Đại việt thông sử phiên là THỊNH, Quảng vận chú âm tiếng Hán thời Đường Tống là “Tha đinh thiết”, hạ bình thanh, đọc là Thịnh. Có thể đến thế kỷ XV, chữ đó còn đọc với phụ âm TH. Nhưng từ giữa thế kỷ XV trở về sau phụ âm TH của tiếng Việt hữu thanh hóa thành D (Xem: Nguyễn Tài Cẩn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tr.320). Nếu các chữ húy khác đều phiên âm theo cách đọc ngày nay, thì chữ 汀 phiên là Đinh có phần hợp lý hơn.

Chữ (số 13): bản dịch Toàn thư (1968, 1985) phiên là TRANH. Bản dịch Cương mục (tr.1183) phiên là Chanh. Có thể người dịch có chú ý trong khi dùng Ch để phân biệt? Lược truyện tác gia Việt Nam (T.I, tr, 267) và Niên biểu Việt Nam (Nxb. KHXH, 1970) lại phiên là Tăng, trong khi đó thì 2 chữ này thuộc vận bộ Canh, vận bộ cung cấp vần anh, in của âm Hán Việt, khác với vần ăng chủ yếu xuất phát từ vận bộ Chưng và Đăng thuộc nhiếp Tăng.

II. Những quy định kiêng huý và cứ liệu văn bản

1. Sau khi lên ngôi, tháng Tư năm Thuận Thiên 1 (5-1428) Lê Thái Tổ ban bố 7 chữ miếu húy, ngự danh, và quy định: “Phàm những chữ húy chính, khi viết đều không được dùng, nếu âm giống mà chữ khác thì không phải kiêng húy” (Toàn thư, BK10,58b).

Có hai cách để thực hiện quy định này:

Đổi hẳn, dùng chữ khác: Người soạn văn bản căn cứ vào những chữ húy đã ban bố để tự mình chọn cách thể hiện khác, hoặc chọn dùng chữ khác để không phạm húy. (Ở những trường hợp này văn bản vượt ra ngoài phạm vi khảo sát chữ húy). Phạm Đình Hổ cho biết: khi gặp tên húy của vua “thì đổi dùng chữ khác, như thời Lê sơ đổi Lợi thành Nghi, thời Hậu Lê đổi Ninh thành An là vậy”(4). Một ví dụ thay đổi địa danh vì kiêng húy thời Lê sơ: Đồng Lợi là tên huyện có từ thời thuộc Minh (châu Hạ Hồng, phủ Tân An), đến thời Lê sơ đổi làm huyện Đồng Lại (sau đổi là Vĩnh Lại, tức huyện Ninh Giang và phần phía nam huyện Vĩnh Bảo, Tp. Hải Phòng).

b) Dùng đúng chữ, nhưng viết biến dạng. Một giải pháp đặc sắc tiêu biểu cho cách viết chữ húy thời Lê sơ là tách đôi hai nửa chữ, rồi viết đảo vị trí bên phải sang bên trái (và ngược lại), bên trên thêm chữ nhỏ: “Tả tòng 左 从 , Hữu tòng 右 从 ” Đối với những chữ không cắt rời được trái phải thì tách rời phần trên và phần dưới, thêm chữ nhỏ “Thượng tòng 上 从 ”, “Hạ tòng 下 从”. Người đọc tự khôi phục đẻ nhận ra chữ đúng của văn bản.

Cách viết chữ húy theo kiểu này lần đầu tiên chúng ta thấy trong Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn, Hàn lâm đãi chế Vũ Văn Phỉ viết chữ, dựng năm Thuận Thiên 6 (1433) ở Lam Sơn, trong đó có các mẫu chữ như:

LỢI ĐINH KHOÁNG THƯƠNG

右 左右 左右 左上 下

从 从从 从从 从从 从

刂 禾丁 氵廣 日君 艸

Cách viết, kiêng húy này được dùng trong những trường hợp trang trọng nhất, như để ghi tên húy của Lê Thái Tông trong Bia Hựu Lăng (No 13481), tên húy của Hiến Tông trong Bia Dụ Lăng (No 10556) v.v… Tuy vậy, nó có nhược điểm là không giữ được tính nguyên vẹn của một khuôn chữ, lại có thể dùng để tỏ cách kiêng húy đối với những nhân vật khác ngoài hoàng tộc, như chúng ta thường thấy nhiều trong các bia mộ chí hoặc gia phả do người đời sau biên soạn. Do đó, người đương thời đã tiến thêm một bước, tổ chức lại cách viết đó: bỏ qua hai chữ “tả”, “hữu” thu ngắn nhánh chân bên phải của chữ “tòng”, và ép hai nửa chữ khít lại với nhau thành một khuôn chữ thống nhất (Xem mẫu ở ảnh 2). Đây chính là kiểu chữ kiêng húy chủ yếu ở thời Lê sơ, trước đó dưới thời Trần - Hồ chưa thấy xuất hiện. Đối chiếu với những công trình nghiên cứu thể lệ kiêng húy của Trung Quốc, như cuốn Sử húy cử lệ của Trần Viên(5), thì thấy cách viết kiêng húy này riêng có ở Việt Nam, không có ở Trung Quốc.

2. Ngoài cách viết chữ húy chủ yếu nói trên, khoảng đầu đời Lê sơ chúng ta có gặp một ít trường hợp viết kiêng húy theo cách bớt nét (khuyết bút), hoặc bớt nét có đánh dấu bằng vòng tròn (theo cách viết chữ húy của đời Trần) như chữ Học viết bớt nét @ trong Văn bia Vĩnh Lăng, hoặc bớt nét thêm vòng tròn @ trong bia Hựu Lăng (Xem ảnh 1).

Thư tịch, bi ký thời Lê sơ trong khoảng thời gian điều lệ 5-1428 có hiệu lực hiện còn lại quá ít. Ngoài mấy văn bia đã dẫn ở trên, chúng ta hầu như chỉ còn giữ được 20 tấm ván khắc của bộ sách Cao thượng Ngọc hoàng bổn hạnh tập kinh âm thích do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn phát hiện được ở Linh Tiên quán và công bố năm 1979(6). Với những cứ liệu ngữ ngôn, văn tự (chủ yếu là chữ kiêng húy), Giáo sư đã xác định giới hạn niên đại của bộ ván khắc này trong khoảng 1434-1443, qua đó chúng ta có 4 mẫu chữ kiêng húy (Khoáng, Thương, Lợi, Long; xem ảnh 2) do người đương thời khắc viết.

Một tài liệu khác là cuốn sách in Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Trong nước hiện không có nguyên bản cuốn sách này, nhưng có một bản sao chụp do nhà nghiên cứu Hán Nôm Tạ Trọng Hiệp đưa từ Paris về tặng Viện Nghiên cứu Hán Nôm năm 1980. Bản sách này khắc in khoảng đầu thế kỷ XVIII(7), nhưng đặc biệt là người ta đã làm bản khắc bằng cách in vào thời Lê sơ. Những chữ như Ninh (tờ 31a, 31b), Tân (tờ 36b), Đề (tờ 45b), Tùng (tờ 47a) v.v… là chữ húy đời Lê Trung hưng đều không kiêng húy. Trái lại, văn bản này bảo tồn mấy kiểu viết kiêng húy của thời Lê sơ như:

- Lợi 利 = Tờ 6a có chữ Lợi viết kiêng húy @ trong câu: “Tồn vong câu Lợi lạc”

(Dịch Nôm: Sống chết cùng lợi lạc), xem ảnh 3.1.

Tờ 41b lại có chữ Lợi viết kiêng húy theo một kiểu khác: @ (Hòa + Lực) trong câu “Mai đầu uế Lợi 穢 利 ” dịch Nôm = Vùi đầu trong Lợi nhơ), xem ảnh 3.2. Người viết cố ý viết thòi đầu chữ Đao cho thành chữ Lực để thể hiện biến dạng kiêng húy (chữ Lợi thường viết 利 , nhưng cũng có thể viết @).

- Trần 陳 : Văn bản có 4 chữ, viết kiêng húy theo hai kiểu.

a) Viết thiếu nét: @ (để hở nét sổ dọc của chữ động ở nửa bên phải), trong câu: “Mày hợp vâng trình 迈 合 邦 陳 ” tờ 32a, xem ảnh 3.3; @ (bỏ gạch ngang trong bụng chữ đông): 召 陳 @ 念

Chịu trình độc niệm, tờ 35a, xem ảnh 3.4.

b) Đổi kiểu viết khác: “Tốt trần nan tận” (dịch Nôm: cùng bày khôn hết), tờ 42b, xem ảnh 3.5; “phi trần thổ lộ: (Mở ra bày bảo), tờ 43a, xem ảnh 3.6; chữ Trần @ (= trình bày) trong những dẫn chứng trên được viết theo dạng @. Khang Hy tự điển cho biết chữ có dạng chữ cổ là @. Người viết lấy dạng chữ cổ này, nhưng bỏ bộ phụ ở bên trái, thành chữ @.

Tuy vậy, bản trùng san này kiêng húy không triệt để, cho thấy nguyên bản của nó được khắc in vào một thời điểm sau khi quy định kiêng húy 5-1428 hết hiệu lực (từ khoảng niên hiệu Hồng Đức trở về sau, xem tiếp ở đoạn dưới): Ta thấy trong văn bản có nhiều chữ Lợi, cả trong câu chữ Hán lẫn ở câu dịch Nôm, in nguyên dạng. Như: Vùi đầu trong lợi 利 nhơ” tờ 31b). Các tờ 25b, 44a, 45a v.v… đều có những chữ Lợi không viết kiêng húy. Chữ khoáng trong câu: “Hay sự mưu chửa rộng 曠 ” (dịch câu chữ Hán: “tri sự vị quảng” (tờ 7a). Chữ khoáng ở đây đọc theo âm Nôm là rộng, nhưng về chữ thì viết nguyên dạng chữ Hán, không thể hiện kiêng húy. Các chữ Long 龍 (15a, 30b); Thành 誠 (tờ 3a, 43b) đều không kiêng húy.

Điều lệnh kiêng húy 5-1428 tiếp tục cơ hiệu lực qua các triều Thái tông, Nhan Tông cho đén mấy năm đầu tiên niên hiệu Quang Thuận đời Lê Thánh Tông. Tháng 3-1435, triều Thái Tông nhân dịp ban bố tên húy vua đương triều đã nhắc lại và nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải kiêng húy chữ Trần: “… ai có tên hay họ trùng thì cho đổi chữ khác. Như tên húy của Cung Từ quốc thái mẫu là Trần cho đổi là Trình” (Toàn thư, BK11). Việc thúc giục đổi họ Trần thành họ Trình khiến ta nhớ lại sự kiện hồi đầu đời Trần triều đình cũng viện cớ kiêng húy để xuống lệnh đổi họ Lý làm họ Nguyễn mà lý do thực sự đã được soạn giả Toàn thư nói thẳng ra là “để tuyệt lòng mong nhớ của dân đối với nhà Lý” (BK5,71). Sau khi Lê Lợi lên ngôi, tuy hết chiến tranh, nhưng quan hệ với nhà Minh rất căng thẳng. Vua Minh nhiều lần sai sứ sang đòi tìm con cháu nhà Trần để phong làm vua (Xem Toàn thư, BK10,59a). Lê Lợi nhiều lần sai sứ sang cầu phong cũng chỉ được phong làm Quyền thự An Nam quốc sự (2-1431). Trong tình hình đó, triều đình nhà Lê không muốn ai nhắc nhở đến họ Trần để tránh mọi sự rắc rối. Do đó chúng ta dễ nhận ra chữ Trần là một tên huý giả đã được chính Lê Lợi gài đặt rất khéo trước hoặc trong khi viết Lam Sơn thực lục, sau đó được chuyển tiếp ghi nhận trong các sử sách của triều Lê sơ, chúng ta vì thế cũng phải đối xử với chữ đó như một chữ húy thực sự. Những người mang họ Trình, như Trình Thuấn Du, Trình Hiển (đều thi đỗ khoa Minh kinh năm 1429), Trình Thanh (đỗ khoa Hoành từ năm 1431) v.v… trước đều là họ Trần, đổi họ để đi thi theo quy định kiêng húy đời Lê sơ.

Mấy chục năm sau, Lê Thánh Tông lên ngôi chưa được bao lâu cũng phải xuống lệnh sai yết bảng cho người họ Trần đổi thành họ Trình, đủ biết các vua đầu đời Lê sơ quan tâm đến chữ húy này đến mức nào.

Cũng dưới thời Thánh Tông, sử ghi điều lệnh tháng 5-1462; “Chữ húy của quốc triều, nếu hai chữ liền nhau thì không được dùng, nếu rời ra chữ một thì cũng cho dùng, nhưng thay bằng chữ khác, khuyên ở bên ngoài” (Toàn thư BK12, 10b). Quy định này có thể hiểu như sau: Nếu người nào đó viết văn mà định dùng cả hai chữ như Nguyên Long, Bang Cơ thì không được phép. Nhưng nếu dùng rời chữ Long hoặc chữ Cơ thì được phép dùng, nhưng phải viết biến dạng cho thành chữ khác, khuyên tròn ở bên ngoài. Sở dĩ có quy định thêm như vậy vì thời Lê Thái Tổ tên húy của vua chỉ 1 chữ, còn từ Thái Tông đến Thánh Tông các vua đều có tên húy 2 chữ, nếu chỉ dùng 1 chữ rời mà biến dạng đi thì vẫn cho dùng. Về cách viết kiêng húy đại thể như mẫu chữ Học đã nêu trên, không có gì mới.

5. Thời Lê Thánh Tông, sử còn ghi một việc khác về quy định kiêng húy, nhưng không nêu nội dung cụ thể, chỉ ghi: “Định rõ lại lệ kiêng húy” (Tháng 7-1466, Toàn thư, BK12,25a).

Để hiểu lệ kiêng húy đã được “định rõ lại” như thế nào, chúng tôi đã khảo sát những văn bia có niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức thời Lê Thánh Tông. Kết quả chúng tôi đã thu lượm được một lượng thông tin nhiều hơn điều ghi quá tóm tắt trong Toàn thư:

- Thác bản văn bia Đề Long Quang động tịnh tự khắc bài thơ của vua Lê Thánh Tông làm khi đi bái yết sơn lãng ở Lam Sơn trở về ghé thăm động Long Quang năm Hồng Đức 9 (1478), chữ Long 龍 trong tên bia khắc to nguyên dạng, không kiêng húy (No17345).

- Một bài thơ khác cũng của Lê Thánh Tông: Đề Hồ Công động, sáng tác và khắc bia cùng năm nói trên, trong đó có câu: Hoa Dương long hoá huyền châu trụy” (Hoa Dương rồng hoaa luồn ngọc rụng), chữ long 龍 cũng không kiêng húy No 20964, xem ảnh 4).

Đối với Lê Thánh Tông, tưởng không còn chữ nào quan trọng đáng kiêng húy hơn chữ long là tên húy của vua cha. Khắc những tấm bia Ngự đề như vậy bao giờ cũng là một sự việc quan trọng, thường phải do văn quan ở Viện Hàn lâm viết chữ, quan Trung thư giám trông coi việc khắc dựng bia. Nếu dự liệu mẫu chữ phải dâng lên vua ngự lãm, phê chuẩn rồi mới được thi công thì cũng không xa sự thật. Ấy vậy mà 2 tấm bia Ngự đề của Lê Thánh Tông dựng ở hai nơi danh thắng nói trên lại không kiêng húy chữ long. Điều đó không thể coi là “sơ suất” của thợ khắc, mà cho thấy rằng chính nhà vua cho phép khắc chữ như vậy, nói cách khác chính là do lệ kiêng húy đã được thay đổi khác trước.

- Cứ liệu khảo sát Bia tiến sĩ ở Văn miếu - Quốc tử giám (Hà Nội) cùng phù hợp với nhận xét đó.

Xin nhắc lại rằng: việc dựng Bia Tiến sĩ ở Văn Miếu để biểu dương nhân tài của đất nước là sáng kiến do Lê Thánh Tông đề xướng, giao cho các từ thần nổi tiếng ở Hàn lâm viện như Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đàm Văn Lễ v.v… soạn bài ký, các quan ở bộ Công lo việc khắc dựng bia. Ngày 15 tháng 8 năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) dựng loạt đầu tiên gồm 9 tấm bia, ghi tên các Tiến sĩ kể từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo 3 (1442) đời lê Thái Tông đến khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông (Xem: Toàn thư, BK13,41a; cũng xem: Cương mục, Cbieen23,41). Ở một nơi mẫu mực, tôn nghiêm như Văn Miếu, khó có thể tưởng tượng rằng một quan Hàn lâm viện hoặc một nhóm thợ khắc đá nào cả gan dám khắc viết những chữ sau đây:

- Bia khoa Nhâm Tuất Đại Bảo 3 (1442), dòng 24; “dĩ long hổ chi hiệu (lấy hiệu long hổ), chữ Long không kiêng húy (ảnh 3,5); dòng 3 phải sang có tên của Tiến sĩ Khúc Hữu Thành 曲 有 誠 : tên húy của chính vua đương triều, không kiêng húy (No 1358, xem ảnh 6).

- Bia khoa Mậu Thìn Thái Hòa 6 (1448) có tên Tiến sĩ Trần Duy Hinh 陳 惟 馨 : chữ Trần không kiêng húy, người mang họ tên này cũng không đổi họ Trần làm họ Trình (No1323).

Bia các khoa: Ất Mùi Hồng Đức 6 (1475) có tên Đô ngự sử Trần Phong 陳 封 , Hoàng Giáp Trần Thâm 陳 深 (No1353); Khoa Mậu Tuất Hồng Đức 9 (1478) có tên của bảng nhãn Trần Bích Hoành (ảnh 7); Trần Quý Nghị (No1313), Những chữ Trần đã dẫn trên đều không kiêng húy.

Những cứ liệu trên đây thu được trong số 9 bia dựng đợt đầu tiên (1484). Nó sẽ không có được nếu như vào năm ấy triều đình chưa thay đổi lệ kiêng húy. Và như chúng ta đã thấy, sự thay đổi đó là hoàn toàn không đòi hỏi kiêng kỵ đối với tất cả các chữ húy đã quy định từ trước.

Để biết rõ vua Lê Thánh Tông đã rút bỏ lệnh kiêng húy chữ viết từ bao giờ, chúng tôi đã tìm ngược lên những văn bia có niên hiệu trước 1484, và cũng đã tìm thấy một mốc thời gian khá có ý nghĩa: Tấm bia ở chùa Phúc Thắng (nay thuộc xã Đức Thắng huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây), khắc dựng năm Hồng Đức thứ 1 (1470), đề Phúc Thắng tự bi (thác bản No18185), dòng 24 có câu: Diệc hiếu thiện chi đốc, lạc thiện chi thành (cũng dốc lòng hiếu thiện, thành tâm vui làm điều thiện), chữ Thành 誠 viết nguyên dạng không kiêng húy (ảnh 8). Dòng 14 có câu: Hậu lai ấp chi nhân lợi kỳ lợi, lạc kỳ lạc 後 来 邑 之 人 利 其 利 ,樂 其 樂 Hai chữ Lợi khắc rõ ràng không kiêng tên húy vua sáng nghiệp nhà Lê.

Từ năm Hồng Đức 1 (1470) đi ngược lên Quang Thuận 7 (1466) là năm sử ghi triều Lê Thánh Tông “định rõ lại” lệ kiêng húy” còn hơn 3 năm nữa. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện chỉ có 1 thác bản văn bia thuộc khoảng thời gian này, nhưng không có chữ liên quan đến lệ kiêng húy. Tuy vậy, với những cứ liệu đã dẫn trên, tạm đủ để thấy được rằng: Nội dung của việc “định rõ lại lệ kiêng húy” tháng 7-1466 không gì khác hơn là quy định giải toả việc viết kiêng húy đã nêu trong các điều lệnh kiêng húy trước đó. Đây là một quyết định thay đổi có ý nghĩa tích cực, vì nó xoá bỏ mọi sự gò bó cho người cầm bút, in sách, khắc bia do việc kiêng húy chữ viết gây ra. Lê Thánh Tông có tiếng là ông vua văn học, uyên bác cổ kim, không vì lề thói cũ mà bắt ép thần dân của mình phải bày tỏ sự kính trọng đối với hoàng tộc bằng cách thay sửa nét chữ vốn có từ ngàn xưa. Đó là một việc làm rất có ý nghĩa, xứng đáng với danh tiếng của ông, chỉ vì sử ghi không rõ ràng cho nên từ trước đến nay ít người biết đến.

Kết luận trên đây hoàn toàn phù hợp với cứ liệu văn bia suốt cả niên hiệu Hồng Đức chứ không chỉ dừng ở năm 1484. Các chữ Trần (họ Trần) trong Bia Tiến sĩ các khoa Hồng Đức 18 (Trần Sùng Dĩnh, No1361), Hồng Đức 27 (Trần Củng Uyên, Trần Tước, Trần Khải Đễ, No1310) v.v…

Việc giải toả lệ kiêng húy chữ viết không chỉ dừng lại dưới thời Lê Thánh Tông, mà còn tiếp tục có hiệu lực trong các năm sau. 26 thác bản văn bia có niên hiệu Cảnh Thống (1498-1504), Hồng Thuận (1509-1516) hiện có ở Viện Hán Nôm mà chúng tôi đã khảo sát, có thể nêu lên những bia có chữ không kiêng húy như: Hiển Thụy am bi dựng năm Cảnh Thống 3 (1500) có các chữ Long, Anh, Thành không kiêng húy (No1223); Ngự đề Long Quang động khắc 2 bài thơ của Lê Hiến Tông sáng tác khi đi thăm động Long Quang, do Trung thư giám Ngô Ninh viết chữ, dựng năm Cảnh Thống 4 (1501) không kiêng chữ Long là tên húy của Lê Nhân Tông, ông nội vua đương triều No17346, xem ảnh 9); Bia Dụ lăng (lăng Lê Hiến Tông) có chữ Long nguyên dạng (No10556, xem ảnh 10) Cổ tích linh từ bi ký do Thư cục cục phó Bùi Nhữ Dịch khắc năm Hồng Thuận 2 (1510) có 3 chữ Thương không kiêng húy (No1954); Bá Khê hầu mộ chí dựng năm Hồng Thuận 3 (1511) có chữ Anh không kiêng húy (No13546); Vô Vi tự bi dựng năm Hồng Thuận 7 (1515) có các chữ Long Thương khắc nguyên dạng (No1942).

Như vậy các triều vua từ Lê Hiến Tông đến Lê Tương Dực vẫn tiếp tục giải toả lệ viết kiêng húy. Tiếp đến khi Lê Chiêu Tông lên ngôi, thấy phả hệ hoàng tộc đã có phần phồn phức do việc ngôi báu đã chuyển sang dòng thứ, vua bèn sai Thượng thư bộ Lễ Đàm Thận Huy xét định và ban bố 20 chữ miếu huý vào năm 1517 như chúng ta đã biết, đồng thời triều đình cũng xuống lệnh nêu rõ: Phàm khi làm văn, viết và in sách vở đều không cấm, nhưng tiếng đọc thì đều phải tránh, hai chữ liền nhau như loại “Trung Tại”(8)) đều không được viết liền nhau (Toàn thư, BK15,34a).

Căn cứ những kết quả khảo sát ở trên, chúng ta thấy triều đình Chiêu Tông chỉ làm công việc nhắc lại quy định đã có từ năm 1466 đời Lê Thánh Tông. Nhưng vì lần trước sử ghi không rõ nên người đọc có thể hiểu lầm từ thời Chiêu Tông mới có quy định xoá bỏ lệ viết kiêng húy.

Cứ liệu cuối cùng là tấm bia ở Bến đò Cù Sơn xã Phượng Cách phủ Quốc Oai nay thuộc huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây khắc dựng năm Thống Nguyên 4 (1525) đời lê Cung Hoàng, chữ Đinh 汀 trong bia không kiêng húy (Cù Sơn độ ký No20118).

Như vậy, chúng ta có đủ cứ liệu để kết luận: Việc giải tỏa lệ viết kiêng húy bắt đầu từ năm Quang Thuận 7 (1466) tiếp tục có hiệu lực cho đến hết thời Lê sơ.

III. Kết luận

Từ kết quả khảo sát, nghiên cứu lệ kiêng húy chữ viết thời Lê sơ đã trình bày, chúng tôi rút ra những nhận xét và kết luận tóm tắt dưới đây, có thể dùng làm cơ sở để vận dụng vào công tác nghiên cứu văn bản học:

1/a- Từ đời Lê Thái Tổ đến đầu đời Lê Thánh Tông, triều đình ban bố 12 chữ húy (từ số 1 đến 12 trong Danh mục). Khi viết, nếu gặp những chữ này thì phải thay dùng chữ khác. Nếu muốn dùng đúng chữ húy thì phải viết biến dạng để tỏ ý kiêng húy.

b- Cách viết biến dạng có thể viết bớt nét thêm vòng tròn nhỏ (theo cách viết kiêng húy của đời Trần), nhưng chủ yếu là theo cách viết “Tả tòng, hữu tòng”: hoặc tách hai dòng hẹp, hoặc dùng bộ ký hiệu 从从 đặt tên khuôn chữ viết đảo vị trí.

2. Trong năm Quang Thuận 7 (1466) đời lê Thánh Tông, lệ viết kiêng húy đã được xóa bỏ. Quy định đó có hiệu lực cho đến hết thời Lê sơ (1527).

3. Vì lý do nói trên, các văn bản thời Lê sơ từ sau năm 1466 đều không đòi hỏi phải viết kiêng húy (đối với tất cả 25 chữ húy đã nêu trong Danh mục), chỉ trừ 3 trường hợp tên của vua gồm 2 chữ là Nguyên Long, Bang Cơ, Tư Thành thì không được dùng liền cả hai chữ. Những trường hợp văn bản thời Lê sơ vì lý do nào đó mà vẫn có chữ viết kiêng húy thì chỉ xem như ngoại lệ.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Ngô Đức Thọ - Bước đầu nghiên cứu chữ húy đời Trần. Nghiên cứu Hán Nôm số1-1996, tr.17-33. Cũng xem cùng một tác giả: An essay on taboo words in the Trần dynasty; Viet Nam social sciences No1+2 1986, pp.102-120.

(2) Viết tắt Toàn thư, dần theo số tờ của bản Chính Hòa thứ 18 (1697), BK là số quyển của phần Bản ký.

(3) Sau khi dẹp nhà Mạc, trở về kinh đô, vua Lê Thế Tông dựng lại Thái Miếu ở Thăng Long, cũng bỏ không thờ Uy Mục ở Thái Miếu (mới được dựng lại ở Thăng Long), xem: Lịch triều hiến chương loại chí, Lễ nghi chí (A.1551/4, Q.21, tờ 13-14).

(4) Phạm Đình Hổ: Tham khảo tạp ký (A.939), tờ 49a.

(5) Xem Trần Viên: Sử húy cứ lệ, Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục, 1962.

(6) Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. KHXH, H.1979.

(7) Năm khắc in chính xác của bản trùng san này hiện chưa biết rõ, ở tờ 37a có dòng chữ đề: “Hậu Hòa quân doanh Trung quân Đô đốc phủ đô đốc Phó đô tướng Chưởng phủ sự (-) (-) Thái tể Tuyên quận công Trịnh Quán Theo Trịnh gia thế phả (A.1821) Trịnh Quán là con thứ 10 của Trinh Tạc. Theo Đại Việt sử ký tục biên (Bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1982, tr.172), Trịnh Quán được ban tước Tuyên Trung công năm 1730.

(8) Trưng Tại: tên của bà Nhan Trưng Tại, mẹ Khổng tử, soạn giả Toàn thư nên làm ví dụ.

TB

VỀ BỘ LUẬT ĐƯỢC SOẠN THẢO IN KHẮC VÀO THỜI LÊ: QUỐC TRIỀU HÌNH LỤÂT

DƯƠNG NGỌC

Sách Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt là Toàn thư), sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chỉ nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương sót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng thẳng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiện là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”(1) Sử còn ghi rõ Hình thư được ban hành vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ, đời Lý Thái Tông, niên hiệu Cẩn Phù Hữu Đạo (1042). Đáng tiếc là bộ Hình thư này chỉ được nhắc trong sử sách mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể biết được bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta có từ thời Lý, thế kỷ XI.

Thời đại nhà Trần, Nhà nước cũng rất chú trọng đến pháp luật. Lên ngôi được 5 năm, ông vua đầu tiên của triều đại này -Trần Thái Tông - đã ban hành bộ luật mới. Sách Toàn thư chép: Mùa xuân, tháng ba năm Canh Dần, niên hiệu Kiến Trung thứ 5 (1230) “khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển…”(2). Về bộ luật này, sách Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn chép là Quốc triều thông lễ; còn sử gia Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng gọi là Quốc triều hình luật.

Đến năm 1244, lại thấy vua Trần Thái Tông ban lệnh “định các cách thức về luật hình”. Rồi đến tháng 8 năm Tân Tỵ niên hiệu Thiệu Phong thứ nhất (1341), Trần Dụ Tông sai Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo soạn bộ Hình thư để ban hành.

Cũng như bộ Hình thư thời Lý, các bộ luật thời Trần cho đến nay cũng đều bị thất truyền. Hiểu biết của chúng ta về những bộ luật này chỉ dựa vào những dòng ngắn ngủi chép trong một vài cuốn sách sử xưa. Về luật pháp thời Lý-Trần, sử gia Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí có nhận xét: “Hình của nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc”. Và cũng chính sử gia lỗi lạc này, khi nói về luật pháp thời Lê đã phải khen ngợi: “Thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân(3).

Quả thực, với bề dài 360 năm tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Theo thứ tự thời gian, có thể kể đến các tên sách sau: Quốc triều hình luật (nay còn gọi là Lê triều hình luật) gồm 6 quyển: Luật thư gồm 6 quyển do Nguyễn Trãi soạn (1440-1442); Quốc triều luật lệnh gồm 6 quyển do Phan Phu Tiên soạn (1440-1442); Quốc triều thư khế thể thức (1468-1471); Lê triều quan chế (1471); Thiên năm dư hạ tập gồm 100 quyển (1483); Hồng Đức thiện chính thư (1470-1497); Sĩ hoạn châm quy (1470-1497); Quốc triều chiếu lệnh thiện chính (1619-1705); Quốc triều điều luật; Cảnh Hưng điều luật (1740-1786)… Điều đáng nói là trong những bộ sách trên, Trường Viễn đông Bác cổ (école Francaise d’ Extrême-Orient) đã có công sưu tầm và lưu giữ được một số bộ, mà hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam đang bảo quản tại Hà Nội(4).

Trong tất cả các bộ sách trên, Quốc triều hình luật được coi là bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê. Đó là ý kiến trong giới nghiên cứu lịch sử pháp luật Việt nam và cũng do vậy mà trong thiên Hình luật chí của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã giành vị trí xứng đáng cho việc giới thiệu bộ Quốc triều hình luật này (tuy chưa đầy đủ).

Điều đáng nói là Quốc triều hình luật cũng chính là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ. Nó nằm trong số những thư tịch cổ hiện được tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Quốc triều hình luật hiện còn 3 bản in ván khắc mang các ký hiệu: A.341, A.1995 và A.2754. Ngoài ra còn 3 bản của một bộ sách chép là Lê triều hình luật (ký hiệu A.2669, A.340 và VHt.31) mà nội dung của nó hoàn toàn có đủ cơ sở để kết luận chính là bản sao lại sách Quốc triều hình luật được chép vào các đời sau.

Bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 được coi là văn bản có giá trị nhất vì là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn cả. Chúng tôi coi bản A.341 là thiện bản. Sách này gồm 6 quyển, in ván khắc trên giấy bản khổ 20cm x 14cm, gồm tổng cộng 129 tờ đóng chung thành một cuốn, mỗi tờ có 2 trang, mỗi trang có 10 dòng và mỗi dòng tương đương 18 chữ. Sách không thấy ghi tên tác giả, bìa mặt nguyên bản đã mất và được thay bằng một tờ bìa viết 4 chữ Hán Quốc triều hình luật bằng nét bút lông, có 3 đồ biểu và mục lục. Ngoài ra sách không thấy có đề tựa, lời bạt hoặc dấu hiệu niên đại soạn thảo, in khắc hoặc những lời chú dẫn khác. Chỉ riêng ở cuối điều 1, chương về “đấu tụng” (tờ 70b) có chua mấy chữ “Kiến Quang Thuận tam niên lệnh” (tức là lệnh năm Quang Thuận thứ ba, 1462); tờ 71a có chua “Hồng Thuận tam niên lệnh (1511) và ở tờ 71b có chua “Quang Thiệu nhị niên lệnh” (1517).

Quốc triều hình luật mở đầu bằng ba đồ biểu quy định về kích thước các hình cụ, tang phục và việc để tang. Bộ luật có 13 chương, cộng lại có 722 điều, phân làm 6 quyển(5).

Bộ Quốc triều hình luật mà hiện tại ta có trong tay chắc chắn là thành tựu chung của toàn bộ nền pháp luật thời lê với nhiều lần được san định, bổ sung, hoàn chỉnh và in khắc. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm khởi thảo bộ luật này cũng như thời điểm tiêu biểu nhất cho sự hoàn chỉnh bộ luật vẫn đang còn là một vấn đề chưa được khẳng định. Người đầu tiên tiến hành khảo và dịch bộ luật này ra Pháp ngữ là một học giả người Pháp - ông Raymond Deloustal(6). Căn cứ vào việc phân tích thiên Hình luật chí (quyển 33 đến 38 sách Lịch triều hiến chương loại chí) và bản chép tay Lê triều hình luật đầu tiên do Giám đốc Trường Viễn đông bác cổ phát hiện tại Huế năm 1908, Deloustal cho rằng đây chính là sách Lê triều hình luật được in vào năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) mà Phan Huy Chú đã ghi trong thiên Văn tịch chí. Cùng một quan điểm tương tự, Giáo sư Lingat trong một công trình nghiên cứu được công bố tại Paris, năm 1952 cũng cho rằng Quốc triều hình luật được ban bố vào năm 1777(7).

Thạc sĩ luật khoa Vũ Văn Mẫu trong lời tựa cho bản dịch lần đầu tiên ra chữ Quốc ngữ bộ luật này, được Trường Đại học luật khoa Sài Gòn xuất bản năm 1956(8) cũng như công trình khảo cứu Cổ luật học Việt Nam lược khảo (xuất bản tại Sài Gòn năm 1969) thì cho rằng bộ luật này được ban bố lần đầu tiên trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và phần chắc vào những năm cuối cùng của niên hiệu Hồng Đức, dưới thời Lê Thánh Tông”. Lập luận của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa vào ý kiến của Phan Huy Chú viết về việc ban hành dưới thời Lê bộ Hồng Đức Hình luật và lời đề tựa bộ Hoàng Việt luật lệ của vua Gia Long đầu tiều Nguyễn đánh giá cao Luật Hồng Đức. Tương tự như Vũ Văn Mẫu, hiện tại cũng có nhiều người cùng quan điểm muốn gắn bộ luật tiêu biểu nhất của thời Lê với niên hiệu Hồng Đức và tên tuổi ông vua nổi tiếng Lê Thánh Tông, với cách gọi giản lược là Luật Hồng Đức.

Tuy nhiên, vẫn có thể đưa ra giả thuyết rằng Quốc triều hình luật đã được khởi thảo từ sớm hơn, thậm chí từ ngay năm đầu của triều Lê. Sách Toàn thư có đoạn: năm Kỷ Tỵ niên hiệu Thái Hoà thứ 7 (1449), “bổ sung mới vào hình luật chương điền sản gồm 14 điều. Trước kia Thái Tổ định thực hiện phép quân điền, cho nên lược bỏ chương điền sản. Đến đây lại bổ sung vào”(9). Ta đều biết, phép quân điền được vua Lê Thái Tổ ban hành vào tháng 2 năm Kỷ Dậu, tức năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), do vậy câu trích trong sử cũ cho phép ta nghĩ rằng, từ năm 1428, tức là ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã có bộ luật đầu tiên của triều đại mình. Và cũng trong bộ sử này có ghi nhận sự kiện: tháng Giâng năm Mậu Thân (1428), Lê Thái Tổ “hạ lệnh cho các tướng hiệu và các quan rằng: từ xưa tới nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa, đặt ra pháp luật là để dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều luật thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp”(10). Bốn tháng sau sự kiện trên, ngày 12 tháng 5 (1428) lại thấy có ghi việc “định luật lệnh kiện tụng”(11)…

Như vậy, bộ luật của triều Lê đã được chính Lê Thái Tổ ban hành ngay từ những ngày đầu của triều đại mình và bộ luật này không ngừng được các triều vua kế tiếp đó bổ sung, hoàn chỉnh dần, trong đó chắc chắn là có những đóng góp to lớn của ông vua nổi tiếng văn hiến Lê Thánh Tông. Và cũng chắc chắn là khi soạn bộ luật đầu tiên của triều đại mình, Lê Thái Tổ cũng đã kế thừa các bộ luật tiền bối. Sự trùng hợp giữa bộ luật thời Trần và thời Lê cùng mang tên gọi Quốc triều hình luật mà Phan Huy Chú đã nói tới, phần nào cũng chứa đựng ý nghĩa của sự kế thừa ấy. Ngoài ra chúng ta có thể nghĩ tới mối liên hệ kế thừa giữa Quốc triều hình luật với một số bộ sách được nhắc tới, nhưng nay cũng đã thất truyền như Luật thư (6 quyển) của Nguyễn Trãi và Quốc triều luật lệnh của Phan Phu tiên (6 quyển), cả hai đều được làm vào khoảng thời gian từ 1440-1442.

Quốc triều hình luật là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn vào đầu thế kỷ XIX: Hoàng Việt luật lệ do Gia Long ban hành năm 1812.

Các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật Việt Nam đều dễ dàng nhất trí trong sự đánh giá so sánh giữa hai bộ luật này. Ở đầu thế kỷ. Deloustal khi giới thiệu về nền pháp luật của nước Nam cổ xưa đã dịch sang pháp ngữ bộ luật thời Lê và đánh giá cao tính sáng tạo mang đậm nét tính cách Việt Nam của luật pháp thời Lê, mặc dầu trong bộ luật này những dấu án ảnh hưởng của pháp luật và triết học Trung Hoa là điều không tránh khỏi. Nhưng, với Hoàng Việt luật lệ của nhà Nguyễn thì chỉ là sự sao chép gần như nguyên vẹn bộ luật của triều Mãn Thanh Trung Hoa. Vũ Văn Mẫu khi khảo về cổ luật Việt Nam cũng đi tới kết luận: “Bộ luật Gia Long mất hết cả tính một nền pháp chế Việt Nam… Bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong bộ luật nhà Nguyễn(12).

Những nét đặc sắc trong bộ luật triều Lê xin để bạn đọc cảm nhận trực tiếp từ bản dịch Quốc triều hình luật này, từ kết cấu toàn cục của bộ luật, tới nội dung chi tiết các điều luật. Chắc chắn rằng, bộ luật Quốc triều hình luật cũng như nền pháp luật thời Lê đã từng là và sẽ còn là một đề tài hấp dẫn và bổ ích đối với giới nghiên cứu lịch sử và pháp luật nước ta cũng như trên thế giới. Gần đây nhất, bộ luật này đã được dịch sang Anh ngữ trong khuôn khổ của chương trình nghiên cứu luật Á Đông (East Asian Legal Studies Program) của Trường Đại học Luật khoa Havard nổi tiếng (Mỹ). Đây không chỉ là công trình dịch thuật giúp những người sử dụng Anh ngữ có thể tiếp xúc với một văn bản luật học có giá trị không chỉ của Việt Nam mà còn của lịch sử khu vực Đông Á. Bên cạnh phần dịch thuật do Trần Văn Liêm thực hiện còn có phần khảo cứu giá trị của hai tác giả là Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài. Bằng phương pháp so sánh, các nhà khảo cứu đã nêu bật được những nét đặc sắc của bộ luật thời Lê cũng như trình độ văn minh mà dân tộc Việt Nam đã đạt được vào thế kỷ XV-XVIII trong mối tương quan với các quốc gia lân cận khác của nền văn minh Đông Á như Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Những ý tưởng ấy đã được Chủ nhiệm khoa luật Á Đông của trường Đại học Luật khoa Havar - ông Oliver Oldman xác nhận trong sự đánh giá… “Chúng ta cũng thấy trong nhiều thế kỷ đã qua đầy cố gắng của nước Việt Nam thời Lê, một sự nỗ lực thường xuyên đối với việc xây dựng một nhà nước dân tộc mạnh và sự bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp bởi hệ thống luật pháp tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”(13).

Một bộ luật có giá trị như vậy xứng đáng được coi là một trong những thành tựu tiêu biểu của nền văn hiến nước ta và đáng được giới thiệu rộng rãi không chỉ đối với những người làm luật, làm sử mà với tất cả những ai quan tâm đến nền văn hoá, văn minh của dân tộc Việt Nam. Từ đầu thế kỷ này. Quốc tiều hình luật đã được khảo và dịch sang Pháp ngữ và sau đó ngót một nửa thế kỷ, bộ luật này mới được dịch ra chữ quốc ngữ lần đầu tiên nhằm phục vụ giới giới giảng dạy và nghiên cứu của Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn. Bản dịch này do các dịch giả Lưỡng Thần – Cao Nãi Quang phiên âm dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Giác nhuận sắc và Vũ Văn Mẫu viết khảo tựa. Trong hoàn cảnh các văn bản gốc của bộ luật này được lưu trữ tại Hà Nội, nên các dịch giả ở Sài Gòn phải dựa vào bản chụp của Trường Viễn đông Bác cổ (bản ký hiệu A.341). Ở Hà Nội, việc giới thiệu bộ luật này bằng chữ Quốc ngữ được thực hiện qua bản dịch thiên Hình luật chí của sách Lịch triều hiến chương loại chí do Viện Sử học xuất bản năm 1961 và chúng ta biết rằng so với bộ Quốc triều hình luật phần công bố của Phan Huy Chú còn thiếu tới 143 điều.

Do vậy, việc có một bản dịch hoàn chỉnh hơn những công trình đã công bố trước đây đã trở nên cần thiết. Một bản dịch mới có kế thừa những người đi trước đã làm, đồng thời khai thác thêm những điều kiện thuận lợi hơn nhờ có thể trực tiếp sử dụng tất cả những văn bản hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm kết hợp với việc sử dụng ngôn ngữ và phong cách diễn đạt gần gũi hơn với thế hệ người đọc ngày hôm nay, chắc chắn là hữu ích.

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch). Nhà xuất bản KHKT, Hà Nội, 1983, tập I, tr.271-272.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd.

(3) Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí. Tập III, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, trang 94.

(4) Như các sách: Thiên Nam dự hạ tập (ký hiệu A.334), Hồng Đức thiện chính thư (A.330), Quốc triều thư khế thể thức (A.1947), Quốc triều khám tụng điều lệ (A.2755, A.2755 bis), Quốc triều chiếu lệnh thiện chính (A.257), Cảnh Hưng điều luật (A.1945).

(5) Khi so sánh ba bản in A.341, A.1995; A.2754 chúng tôi nhận thấy bản A.341 từ trang đầu đến trang cuối đều dùng một cỡ khuôn in, còn bản A.1995; A.2754 đã sử dụng những cỡ in khuôn khác nhau, một số trang đầu thiếu, phía trong có những điều luật sắp xếp chưa hợp lý như những điều thuộc phần hộ hôn lại xếp vào phần điền sản (tờ 61-162). Chúng tôi đoán rằng bản in A.341 là bản có trước hai bản A.1995, A.2754. Các bản in xuất hiện trên hai lần chữ Tân viết kiêng húy, tên húy vua Lê Kính Tôn (1600-1619) là Tân, có thể những bản in được khắc in không sớm hơn những năm 1600-1619. Các bản in đều ghi lại được một trường hợp chữ Nôm cổ: chữ đẻ (Tờ 30a bản A.341 ghi: quốc ngữ viết đẻ).

Bản chép tay VHt.31 trên trang đầu ghi: Sao tại Viện Bác cổ Hà Nội vào tháng 7 năm 1931 năm Tân Mùi niên hiệu Bảo Đại thứ 6 theo bản in A.340. (Bảo Đại lục niên Tân Mùi lục nguyệt nhật tức tây nhất thiên cửu bách tam thập nhất niên thất nguyệt nhật phụng sao biên tại Hà Nội). Phía sau còn ghi thêm bản in được khắc in năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767) (Cảnh Hưng nhị thập bát niên).

Trở lại xét bản A.340 chúng tôi nhận thấy đây không phải là một bản in khắc mà là một bản chép tay của trường Viễn đông bác cổ tại Hà Nội.

Về bản VHt.31 chúng tôi nhận thấy chép đủ cả phần ngục cụ chi đỗ, ngũ phục chi đồ, bản tông cửu độc ngữ phục chi đồ. Có lẽ bản VHt.31 được chép từ bản A.341 chăng? Nếu như vậy có thể bản in khắc A.341 được khắc in vào niên đại Cảnh Hưng 28 (1767)

(6) Rdeloustal - La Justice de I’Ancien Annma. Traduction et Commentaire du Code des Lê (Nền tư pháp nước Nam cổ xưa. Dịch và chú thích bộ luật nhà Lê. Hà Nội, IDEO, 1911).

(7) Lingat - Les régimes matrionaux dand le Sud-Est Asitique (các chế độ hôn sản tại Đông nam Á). Paris, 1952.

(8) Trường Luật khoa Đại học: Quốc triều hình luật (Hình luật triều Lê). Lưỡng thần Cao Nãi Quang phiên âm, dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Giáo nhuận sắc, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa. Sài Gòn, Nhà in Giáo nhuận sắc, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa. Sài Gòn, Nhà in Nguyễn Văn của, 1956.

(9) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập II, tr.292.

(10) (11) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tập III, tr.296; 380.

(12) Vũ Văn Mẫu, Sđd.

(13) Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài và Trần Văn Liêm (dịch - Lê Code, Law intraditional Vietnam, A.comparative Sino-VietNammese Legal Study with Hisrorical - Juridical Analysis and Annotations. 3 tome. Ohio University Press Athens, Ohio London, 1987. Trang trích dẫn: VIII, tập I.

TB

CHUYỂN DỊCH ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG
HÁN CỔ

LÊ THỊ MÔN

Số lượng đại từ nhân xưng Hán cổ không nhiều: dư, ngã, ngô, nhữ, tha… mà đối tượng đại từ nhân xưng tiếng Việt lại tương đối phong phú: tôi, ta tớ, mình, mày, nó, hắn… và hàng loạt các từ mượn trong nhóm danh từ như: anh, chị, ông, bà, chú, bác, cô, cậu… cho nên chuyển dịch đại từ nhân xưng cho đúng, cho hay thực không đơn giản.

Đối tượng khảo sát của chúng tôi là 105 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi và phần dịch ở Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb KHXH, 1976. Để tiện, chúng tôi đăng số bài và số trang theo bản Nguyễn Trãi toàn tập này.

Trong số 105 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, thì 13 bài có xuất hiện đại từ nhân xưng và đương nhiên đã được dịch ra tiếng Việt. Tình hình cụ thể như sau:

TT Trang Tên bài Đại từ Hán Đại từ Việt
1 267 Tặng hữu nhân dư nhữ ta, bạn, ngươi
2 310 Thứ Cúc Pha tặng thi ngã, quân ta, tớ, ngươi
3 316 Chu trung ngẫu thành đnư ta
4 324 Tịnh An văn tập ngã ta, tơ
5 339 Đề Từ Trọng phủ oanh ẩn đường ta
6 340 Đề Hà hiệu uý Bạch Vân tư thân dư, quân ta, ngươi
7 343 Mạn Hứng (kỳ nhất) ngã ta, tớ
8 345 Mạn Hứng (kỳ nhị) ta
9 354 Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn ngã ta, tớ
10 376 Côn sơn ca ngô, ngã ta
11 378 Quá hải ngã ta, tớ
12 380 Tầm châu ngã ta
13 389 Đồ trung ký hữu ngã ta

Tổng kết lại:

Đại từ Hán Đại từ Việt
Ngôi thứ nhất 余 dư, 我 ngã, 吾 ngô ta tớ
Ngôi thứ hai 汝 nhữ, 君 quân ngươi, bạn

Nhận xét thấy ở bản dịch:

Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: đại bộ phận dịch thành “ta”, một số bài dịch là “tớ”, không dùng “tôi”, cũng không mượn các danh từ để xưng hô.

Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai: đại bộ phận dịch thành “ngươi”, một lần dịch là “bạn”.

Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba: không xuất hiện.

Thử xét trường hợp dùng “tớ” ngươi”. Ở bài Thứ Cúc pha tặng thi có câu:

Tiễn quân dĩ tác nghi đình phụng
Quý ngã ưng đồng xuất tự văn.

Dịch là:

Khen ngươi đã xứng phượng chầu điện
Thẹn tớ còn làm mây khói hang(1).

Bài thơ này Nguyễn Trãi làm để họa lại một bài thơ bạn tặng. Nhà thơ vui vì xã hội “thái bình vua chính chuộng văn chương” và mừng “thấy gạch không lẫn với vàng”, mừng cho bạn đã là “phượng chầu điện” và man mác buồn vì bản thân “còn làm mây khói hang”. Hai ông giả “mắt đã mờ đầu đã bạc”, hai ông già nho nhã tự xưng là “tớ”, gọi bạn là “ngươi” được sao?

Ở bài Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn tình hình cũng tương tự.

Câu:

Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền.

Dịch là:

Lẩm cẩm già rồi đừng lạ tớ
Chia đường tớ cũng sẽ theo thiền(2).

“Tớ” là từ xưng hô suồng sã và thường là cách xưng hô của những người ít tuổi với nhau. Trong thơ văn Việt Nam, ta thấy Tú Xương cũng xưng “tớ”:

Ấm kỷ này đây “tớ” bảo mày(3).

Hoặc:

Tấp tểnh người đi tớ cũng đi.
Cũng lều cũng chông cũng đi thi(4).

Nhưng đó là “tớ” theo cách tự xưng của ông đồ trào phúng, nhạo đời, chửu đời. Còn như cho Nguyễn Trãi xưng “tớ” với một bậc cao tăng thì kể cũng là lạ.

Đến đây, tôi chợt nhớ mấy câu thơ của nhà thơ Đường Bạch cư Dị:

Thông Châu quân sơ đáo,
Uờt uất sầu như kết.
Giang châu ngã phương khứ,
Thiền thiền hành vị yết.

Dã được Tản Đà dịch là:

Châu thông bác mới tới nơi,
Mối sầu như thắt, ngậm ngùi chiếc thân.
Châu giang tôi mới đi dần,
Nẻo đi xa lắc, chưa phần đã ngơi(5).

Hai người bạn già gọi nhau là “bác” xưng “tôi” có lẽ dễ được chấp nhận hơn chăng?

Đại bộ phận các trường hợp khác, người dịch đều dùng từ “ta” để dịch đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Chúng ta tiếp tục khảo sát trường hợp này.

Trường hợp hai câu kết của bài Đề Từ Trọng phủ Canh ân đường được dịch là:

Than ôi mũ áo lầm ta mãi,
Vốn khách câu thanh với cuốc nhàn(6).

Cũng như rất nhiều trường hợp khác “ta” được tác giả dùng để xưng hô với bản thân trong độc thoại thì thật chính xác, có lẽ chẳng cần phải bàn thêm nữa.

Cần phải lưu ý trường hợp người dịch dùng “ta” để tác giả xưng hô với bạn bè. Ở đây, người dịch có dụng ý riêng gì chăng?

Lật xem phần Quốc âm thi tập(7). Chúng tôi đã thống nhất kê được: toàn bộ phần này có 9 bài (bài 24, tr.403; bài 41, tr.409; bài 45, tr.410; bài 67, tr.418; bài 139, tr.442; bài 141, tr.443; bài 154, tr.447; bài 168, tr.452; và bài 174, tr.454) xuất hiện đại từ nhân xưng ngôi thứ, thì cả 9 bài đó Nguyễn Trãi đều dùng “ta” tự xưng. Đến đây chúng tôi đặt một câu hỏi: phải chăng dụng ý của người dịch là sử dụng “ta” là từ thông dụng trong thời đại Nguyễn Trãi sống, và bản thân Nguyễn Trãi hay dùng?

Nếu lý do trên là đúng thì một vấn đề khác được nêu ra là: có phải cứ giữ cách xưng hô Việt tương ứng trong thời gian tác giả còn sống để dịch, thì mới là dịch sát và giữ được không khí của tác phẩm?

Ở đây phải xét đến đối tượng độc giả. Chúng ta dịch cho số ít độc giả biết Hán Nôm hay là cho đông đảo độc giả chỉ biết tiếng Việt hiện đại? Có lẽ không ai lại hạn chế độc giả của mình. Chúng ta đã có phần chữ Hán, phần chú thích, phần dịch nghĩa cho độc giả biết Hán Nôm thì chúng ta cũng chẳng nên phụ lòng của đông đảo độc giả chỉ biết tiếng Việt. Họ muốn dựa vào tài nghệ của người dịch để biết cha ông tổ tiên đã sống như thế nào, đã cảm xúc như thế nào, ứng xử ra làm sao.

Đến đây tôi chợt nhớ đến bài Tự quân chi xuất hỉ của Trương Cửu Linh”

Tự quân chi xuất hĩ,
Bất phục lý tàn ky.
Tự quân như nguyệt mãn,
Dạ dạ giảm thanh huy.

Tản Đà dịch là:

Từ ngày anh bước ra đi,
Cửi canh bỏ dở nghĩ gì sửa sang.
Nhớ anh như nguyệt tròn gương,
Tiêu hao ánh sáng, đêm thường lại đêm(87).

Còn bản dịch của Ngô Tất Tố là:

Từ ngày chàng bước ra đi,
Cái khung dệt cửi chưa hề nhúng tay.
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
Đêm dêm vầng sáng, hao gầy đêm đêm(9).

Tản Đà dùng từ “anh”, Ngô Tất Tố dùng từ “chàng” để dịch từ “quân”. Nếu dùng từ “ngươi” thay cho các từ “chàng”, “anh” trong các câu thơ dịch trên, thử hỏi tấm lòng nhớ thương của người thiếu phụ xa chồng có được diễn tả một cách tha thiết, dí dỏm như Tản Đà, Ngô Tất Tố đã diễn tả không? Tất nhiên có nhiều cách dịch. Nhưng không thể phủ nhận cách dịch trung thành, sâu sắc mà đậm đà, uyển chuyển, đầy sáng tạo của hai ông.

Trong số lượng phong phú đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất tiếng Việt hiện đại, “ta” ngoài nghĩa tự xưng trong độc thoại đã nêu ở trên, thì còn có nghĩa là kẻ bề trên tự xưng với người dưới. Ngoài “ta”, “tớ”, thì “tôi” thông dụng. Ở ngôi thứ hai thì thường mượn trong nhóm danh từ các từ như “anh”, “em”, “ông”, “bà”, “chú”, “bác”, “cô”, “dì”, “chàng”, “nàng”… để gọi. Độc giả hiện đại sẽ đọc bản dịch với số vốn từ và vốn nghĩa rất hiện đại đó. Thiết nghĩ bản dịch phải sử dụng được chất liệu của tiếng Việt hiện đại và phù hợp với quy luật của tiếng Việt hiện đại.

Hơn thế nữa, đâu phải cách xưng hô của người xưa là hạn hẹp? Lật cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam(10), mới thấy từ xưa cha ông ta cũng đã xưng hô với nhau bằng nhiều cách:

Tình anh như nước dâng trào,
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.

Từ nay “tôi” cạch đến già,
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.

Chàng ơi cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Thậm chí còn có:

Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Vậy thì sao chúng ta lại cứ phải tự co hẹp gò bó vào những từ ngày xưa đã dùng. Thiết nghĩ, làm như vậy không khí tác phẩm đâu chẳng rõ, tai hại là độc giả không hiểu hoặc hiểu sai lệch nguyên tác. Thế mới hay dịch thơ Hán cổ thật công phu, công phu từ những điều tưởng như lặt vặt nhất.

Việt Nam chúng ta, chào nhau, gọi nhau là đầu câu chuyện. Thiết nghĩ chào nhau gọi nhau cho đúng phép là tạo những tình cảm ban đầu tốt đẹp để giao tiếp. Gọi nhau không đúng, làm thất ý nhau thì còn lòng dạ nào mà tiếp tục câu chuyện nữa. Vậy nên khi dịch các tác phẩm Hán cổ ra tiếng Việt không thể xem nhẹ các đại từ nhân xưng.

L.T.M

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.310.

(2) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.354.

(3) Thơ văn Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nxb. Giáo dục, H. 1973, tr.122.

(4) Thơ văn Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Sđd, tr.137.

(5) Thơ Đường., Tản Đà dịch, Nxb. Trẻ, Hội nghiên cứu giảng dạy Văn học Tp. HCM, 1989, tr.131.

(6) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.339.

(7) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.395.

(8) Thơ Đường Tản Đà dịch, Sđd, tr.31.

(9) Thơ Đường, Tập 1 Nxb. Văn học, H. 1987, tr.37.

(10) Tục ngữ Ca dao dân ca Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971.

TB

THƠ VĂN CỦA NGUYỄN QUÝ ĐỨC
VĂN BẢN VÀ TÁC PHẨM

NGUYỄN THÚY NGA

Trong khuôn khổ công trình sưu tập tác phẩm của các tác gia thế kỷ XVII(1), chúng tôi có dịp tìm hiểu sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Qúy Đức (1648-1720), nhà hoạt động chính trị, văn hoá có tiếng thời Lê Trung hưng. Tiểu sử, sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Qúy Đức rải rác được ghi chép trong sử sách, nhưng cho tới nay, chưa có công trình riêng biệt nào giới thiệu các tác phẩm của ông, dù rằng đây là một mảng, theo chúng tôi, rất đáng chú ý trên lĩnh vực Hán Nôm. Bài viết này là một nỗ lực nhằm thu hẹp dần khoảng thiếu vắng đó.

I

Trong dịp về thăm từ đường Nguyễn Qúy Đức ở thôn Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội, chúng tôi được ông Nguyễn Qúy Dậu là trưởng họ cho xem tập gia phả trong đó chép một bài thơ chữ Hán và tập thơ Hoa trình thi tập (HTTT) do cụ Nguyễn Duy Liêm (đã mất) sưu tầm và chép lại gồm 10 bài. Ngoài ra các sáng tác khác, gia đình hiện không còn giữ được.

Các thư tịch Hán Nôm hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có chép thơ văn của Nguyễn Quý Đức có thể kể như sau:

Về thơ: Nguyễn Quý văn phả (NQVP) A.580, chép 16 bài thơ (11 bài Nôm, 5 bài chữ Hán và bài khải); Lịch triều tạp kỷ (LTTK) VHv.1321 do Ngô Cao Lãng soạn, trong đó chép 3 bài thơ chữ Hán, 1 bài khải; Hoàng Việt thi tuyển A.3162, của Bùi Huy Bích: 1 bài thơ chữ Hán; Danh thần truyện ký A.506: 1 bài thơ chữ Hán. Chiếm số lượng nhiều hơn cả là Toàn Việt thi lục (TVTL) của Lê Quý Đôn, bản A.132/4 chép 72 bài thơ chữ Hán.

Riêng về những sáng tác thơ đi sứ của Nguyễn Quý Đức, theo tiểu dẫn trong TVTL thì ông có hai tập thơ tên là Thi châu tập Sứ trình thi tập(2). Nhưng trong chính văn của TVTL lại không thấy ghi bài nào chép theo Sử trình thi tập, bài nào chép theo Thi châu tập. Phần thơ đi sứ của Nguyễn Quý Đức được chép riêng thành một chùm 10 bài, có tên gọi chung là Hoàng hoa thập vịnh (HHTV) (thực có 7 bài, 3 bài còn lại chỉ ghi tên bài), còn 6 bài nữa thì để riêng ra ngoài như là những bài độc lập. So HHTV với HTTT thì thấy trong đó có 4 bài thuộc chùm HHTV, 6 bài còn lại thì 5 bài tuy không thuộc HHTV nhưng vẫn có ở phần thơ của Nguyễn Quý Đức trong TVTL mà không có trong TVTL. Theo chúng tôi, Nguyễn Quý Đức có thể có một tập thơ đi sứ riêng, với tên là Hoa trình thi tập, Sứ trình thi tập hoặc Hoàng hoa là những nhan đề có tính chất ước lệ để gọi chung những bài thơ làm trên đường đi sứ Trung Quốc) sáng tác trong thời gian ông đi sứ Trung Quốc (1690-1693). Và Lê Quý Đôn - soạn guiar TVTL cũng đã căn cứ vào tập đó để chọn đưa vào sưu tập của mình. Điều đáng chú ý là nhờ có HTTT của cụ Nguyễn Quý Liêm, chúng tôi có thể khôi phục được 5 bài thơ bị bỏ trống một số chữ trong bản chép TVTL (bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu đã dẫn).

Thi châu tập ngày nay không còn, nhưng chắc chắn nó chiếm một số lượng bài đáng kể trong số 56 bài được Lê Quý Đôn chép trong TVTL (không kể thơ đi sứ).

Ngoài TVTL, chúng ta có thể bổ sung những bài khác. Trước hết là bộ phận thơ Nôm được sưu tập trong NQVP, gồm 11 bài sau đây: 1. Dưỡng nhàn; 2. Phụng canh ngự chế Tây Phương tự; 3. Hạ Đặng quốc lão; 4. Hựu hạ Đặng quốc lão; 5. Đặng quốc lão hỉ tặng thổ vật; 6. Hạ Đông Ngàn Cẩm Chương Thượng thư trí sĩ quan; 7. Mục kính gắp trầu; 8. Đề Lạc Thọ đình (bài 1); 9. Đề Lạc Thọ đình (bài 2); 10. Quy nhàn hậu tự thuật; 11. Hạ Đặng quốc lão trí sĩ thi. Chùm thơ Nôm này Nguyễn Quý Đức sáng tác sau khi đã về trí sĩ (năm 1717), lúc ông đã ngoài tuổi 70. Thơ chữ Hán còn có: 1. Lưu giản đồng triều (bài 1); 2. Lưu giản đồng triều (bài 2); 3. Hỗ giá thời tòng cung kỷ (NQVP).

Về văn: hiện chúng tôi mới chỉ biết Nguyễn Quý Đức còn lại 2 bài khải: bài Tạ ơn chúa Trịnh Cương ban ngự thi và bài xin về trí sĩ. Ông còn soạn hai bài văn bia có giá trị là: Hàm Long tự bi ký(3) Hậu thần huệ điền tạo lập văn bi(4). Trước sau ông nhuận sắc 21 bài văn bia tiến sĩ(5), trong đó có 4 bài do con ông là Hoàng Giáp Nguyễn Quý Ân soạn.

Chúng tôi đã lập bảng đối chiếu để so sánh toàn bộ sáng tác hiện có của Nguyễn Quý Đức thì thấy: tất cả gồm 104 lượt bài của 93 sáng tác thơ (Hán 82, Nôm 11) và hai bài khải; 2 bài văn bia.

Ngoài ra, Nguyễn Quý Đức còn cùng nhóm Lê Hy tham gia biên soạn phần Bản kỷ tục biên để bổ sung cho bộ Đại Việt sử ký toàn thư và thực hiện việc hiệu chỉnh lần cuối để khắc in và công bố bộ sử này(6).

II

Một thời kỳ văn học như thế kỷ XVII, số tác gia và tác phẩm chưa được giới thiệu bao nhiêu, văn bản tác phẩm còn lại không nhiều thì với một tác giả dù chỉ còn lại 1 bài thơ như Ngô Trí Hòa, 2 bài như Nguyễn Quốc Trinh v.v… chúng ta vẫn trân trọng. Đối với Nguyễn Quý Đức, dù sáng tác của ông không còn lại nguyên vẹn, nhưng nhờ công lao của những nhà sưu tầm, biên khảo đời trước, chúng ta còn giữ được gần 100 tác phẩm thơ văn là một trường hợp thật đáng quý.

Đọc thơ Nguyễn Quý Đức nếu bỏ qua tính chất ước lệ của những chủ đề như tiễn tặng, hoạ đáp… chúng ta có thể nhìn thấy ở ông một tâm hồn thơ thanh cao nhưng bình dị, đề tài trong thơ ông phong phú, đa dạng.

Thiên nhiên bao giờ cũng chiếm một vị trí đáng kể trong thơ Nguyễn Quý Đức, dù là cảm xúc khi đi thăm viếng các nơi trong nước hay trên đường đi sứ. Đây đó trong thơ ông hiện lên những chùm hoa ngô đồng rực rỡ như gấm thêu, nhành tơ liễu lấp lánh như vòng ngọc. Đó là bông hoa phù dung đẫm sương thu phô vẻ đẹp trước thềm, là cây quế mùa xuân “vươn thẳng cành cao ủ hương trời” (Phù Dung). Nguyễn Quý Đức tả thiên nhiên cây cành để gửi gắm tâm sự, ông ví mình như cây quế khiêm tốn có hương thơm thanh khiết nhưng vững vàng trước mọi thử thách của thời tiết “suốt năm tháng ngạo nghễ với gió sương” (Xuân Quế).

Trong lần cùng chúa Trịnh Cương đi thăm chùa Tây Phương, cảm xúc trước cảnh thiên nhiên tươi đẹp, ông hoạ một bài thơ Nôm:

Phong quang bỡ ngỡ khí thiều quang,
Nảy thú tu phương lạt địa phương.
Đất mở kim đan, non mở ngọc,
Sông dường ngân đới, nước dường gương.
Hương đòi thì cúng hương ngào ngạt,
Nguyệt chiếm phần nhiều nguyệt tỏ tường.
Ngoài cõi được đứng lên cõi ấy,
Phúc cho toàn đội phúc quân vương.
(Phụng canh ngự chế Tây Phương tự)

Chỉ bằng vài nét chấm phá, bức tranh tả cảnh sinh hoạt diễn ra hàng ngày của một làng bên sông hiện lên sống động:

Thuyền buôn qua lại như thoi dệt,
Đò chợ đi về hết lại sang.

(Hành hương phù khả lai hoàn vãng
Quy thị hoành chu bát phục khai).
(Kinh Phúc bồi)

Hình ảnh đàn gia súc đứng chật sân, những đám người tranh nhau đi trên đường cười nói râm ran, cảnh ban đêm ở đô thành đèn nến sáng trưng v.v… trong thơ Nguyễn Quý Đức nói lên cảnh đời thái bình thịnh trị. Đâu đâu cũng thấy con người, cảnh vật đầy sức sống:

“Trên đường vua qua, cây cỏ tươi tốt,
Khắp nơi, người già, trẻ con đều một sắc xuân”.
(Kinh thành thảo mộc gia sinh sắc
Đáo xứ mao nghê cộng nhất xuân).
(Hỗ giá thời tòng cung kỷ).

Hoài bảo của một ông quan giầu lòng nhân ái như Nguyễn Quý Đức không ngoài ước nguyện là làm cho dân giầu nước mạnh. Vì vậy trên bước đường làm quan, khi giữ chức Đốc đồng Cao Bằng, khi làm quan Trấn thủ Hải Dương, An Quảng hoặc ngay cả khi ngồi khảo đính quốc sử, soạn thảo công văn ở Viện quán tại kinh đô, ông luôn luôn nghĩ đến đời sống của dân, làm sao cho dân yên ổn, no ấm. Đi xem xét tình hình đê điều ở làng Hạ Cát (Từ Liêm, Hà Nội), ông xúc cảm viết:

Giúp dân vốn việc nhà Nho đó,
Muốn chặn cuồng ba cứu một phương.
(Trạch dân bản thị ngô Nho sự
Nghĩ át hoành lưu, chửng nhất phương)
(Phụng mệnh vãng khám Hạ Cát giới đê lộ, lưu miễn nhị ti quan).

Ông khuyện vua, chúa nên làm điều nhân nghĩa và hợp lòng dân để dân đỡ khổ (Thuận thời duy nguyện thi vương chính). Và nếu nói một cách hình tượng thì mục đích cao cả của vua tôi đời vua sáng tôi hiền không gì khác hơn là gắng sức làm cho:

Làn sóng nhân lan khắp gần xa,
Nơi hang lạnh thành vườn xwn ấm áp.

(Thánh thế nhân ba vô viễn cận,
Tảo giang hàn cốc hựu dương xuân)
(Tiễn Thái Nguyên Tham chính Nguyễn chi nhậm).

Năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) chúa Trịnh Cương đề nghị các đại thần soạn bài châm để xem ý hướng của từng người. Nguyễn Quý Đức và Đặng Đình Tướng cùng soạn chung bài châm Biết người (Tri nhân châm). Nội dung có thể coi là một bản kiến nghị của hai ông đối với việc dùng người:

“Chớ mạo muội chỉ dựa theo lời nói và động tác bề ngoài,

Phải xét đến tận chỗ thầm kín trong gan dạ,

Phải xét ở chỗ dụng tâm của người ta, xem là vì việc công hay việc tư?

Phải xét tư cách con người xem có phải là hạng không bè phái, không vào hùa.

… Đừng vì một người chê mà vội ruồng rẫy,

Chớ thấy một người khen mà vội nghe theo,

Phải thử thách người ta bằng mọi việc làm,

Đừng thấy có chút tài năng mà vội cất dùng,

Phải khảo xét ở quá trình làm việc,

Đừng vì hơi có chút lỗi mà bỏ ngay”(7).

Đọc bài châm, chúng ta hiểu rõ ngay Nguyễn Quý đức là người thanh liêm, cương trực, biết cách dùng người để đạt đến:

“Mọi người chính trực sẽ được cất dùng,
Và mọi bậc tài năng sẽ được đứng đông trong triều”(8).

Cuộc đời làm quan của Nguyễn Quý Đức đã đạt đến đỉnh cao của vinh quang, nhưng từ chỗ sâu lắng trong tâm hồn, ông vẫn không muốn bị ràng buộc bởi giàu sang, quyền quý. Vì vậy, vừa đến tuổi 70, ông liền dâng khải xin về trí sĩ. Bài khải là một áng văn rất cảm động. Cả cuộc đời ông hiện ra theo nét bút: xuất thân trong một gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. 16 tuổi đỗ hương tiến, 29 tuổi đỗ Thám hoa khoa Bính Thìn, Vĩnh Trị 1 (1676), được bổ chức ở Viện Hàn lâm. Trải qua 21 chức vụ, thăng dần đến Tham tụng kiêm Lại bộ thượng thư, tước Liêm quận công, được ban Thái phó quốc lão. Ông viết: “Trải bước hoạn đồ 42 năm, chỉ biết trỏ đường thẳng hướng cho người… Thần giữ một lòng chung thủy, không dám sớm tối trễ tràng… có ý lo những điều đáng lo trước thiên hạ… tự xét tài và đức của thần còn kém xa các bậc tiên hiền… thế mà không biết noi theo gương họ, treo mũ, cáo lão thì e cản trở con đường đi tới của người hiền, không khỏi bị tiếng chê là luyến tiếc quyền vị” (LTTK, Q.2, tờ 28b).

Nguyễn Quý đức làm quan trải 3 triều chúa (Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương), hơn 10 năm làm Tham tụng đứng đầu hàng bá quan, ông là nhà hoạt động chính trị có danh tiếng được sử sách ca ngợi là bậc đại thần thanh liêm, có tài ứng xử việc chính trị. Ông chủ trương dùng biện pháp chính trị khoan hòa để thu phục nhân tâm. Lê Quý Đôn viết về ông với sự kính phục: “Ở cương vị Tể tường hơn 10 năm, ông sửa sang chính pháp, tiến n hiền tài, là bậc Tể tướng danh tiếng đời thái bình”(9). Đương thời trong dân gian có câu: “Tể tướng Quý Đức, thiên hạ hưu tức” (Quý Đức làm Tể tướng, thiên hạ được yên ổn). Thiết tưởng sự đánh giá đó còn cao hơn mọi sự ban khen của vua chúa!

Từ Kinh đô trở về, tâm hồn ông lại được thảnh thơi để làm bạn với trúc mai. Ta lại thấy trong thơ ông hiện ra một khu vườn có những luống cúc vàng rực trong nắng sớm: “Bên giậu, cúc vàng toả hương thơm thoang thoảng” (Ly cúc vị hoàng hương đạm đạm”, một mái hiên với mấy cành trúc đung đưa dưới ánh trăng. Ta lại nghe tiếng thơ vui đượm thi từ đời Lê sơ phảng phất đâu đây:

Dưỡng nhàn quê tiện góc bên tây,
Phen học hiền xưa thú lạc tây.
Cảnh cũ mảng vui vun luống cúc,
Hơi dương mừng thấy rạng vườn tây.
Bạc vàng ban xuống nhuần ơn bể,
Hoa cồn vâng cho mức cõi tây.
Hai chữ đồng hưu nguyền tạc dạ,
Trỏ Tam Đảo bắc, Tản Viên tây.
(Dưỡng nhàn)

Một tâm hồn thanh cao nhưng bình dị, một tấm lòng tràn đầy ưu ái, một hồn thơ giầu cảm xúc, một bút pháp “thuần hồn” điển nhã” (Lê Quý Đôn), một con người để lại những đóng góp đáng ghi nhớ về văn hoá(10), văn học. Và lịch sử văn học sẽ có dịp ghi nhận tên tuổi của Nguyễn Quý Đức như một tác gia lớn của thế kỷ XVII.

CHÚ THÍCH

(1) Công trình tập thể do phòng Văn bản học thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện (1988-1991).

(2) Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH T.1, tr.280 và Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Nxb. Văn hóa, tr.96. Trần Văn Giáp cũng căn cứ vào tiểu dẫn này để ghi tên 2 tập thơ của Nguyễn Quý Đức.

(3) Soạn năm Vĩnh Thịnh 10 (1714), ghi công đức của vợ chồng chúa Trịnh Cương cúng tiền trùng tu chùa Hàm Long một danh làm thắng cảnh ở Thăng Long.

(4) Soạn năm Chính Hòa 13 (1692) viết về bà vú nuôi ở Phủ chúa là Nguyễn Thị Lâu nhiều lần cúng tiền, ruộng giúp dân thon Đông Hội (nay thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh).

(5) Đó là văn bia tiến sĩ các khoa: Thịnh Đức 4 (1656); Vĩnh Thọ 2 (1659); Vĩnh Thọ 4 (1661); Cảnh Trị 2 (1664); Cảnh Trị 5 (1667); Cảnh Trị 8 (1670); Dương Đức 2 (1673); Vĩnh Trị 1 (1676); Vĩnh Trị 5 (1680); Chính Hòa 4 (1683); Chính Hòa 6 (1685); Chính Hòa 9 (1688); Chính Hòa 12 (1691); Chính Hòa 5 (1694); Chính Hòa 18 (1697); Chính Hòa 21 (1700); Chính Hòa 24 (1703); Vĩnh Thịnh 11 (1715).

(6) Về quá trình biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư - văn bản khắc in năm Chính Hòa 18, xin xem bài khảo cứu của Giáo sư Phan Huy Lê trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, H. 1983, T.1, tr.63.

(7), (8) Theo bản dịch của Hoa Bằng Lịch triều tạp kỷ, Nxb. KHXH, H. 1975, tr.245.

(9) TVTL, Q.24, tờ 35a.

(10) Năm 1716 ông vâng lệnh tu sửa Văn Miếu: xây điện Đại Thành, 2 bên hành lang và đứng ra lo liệu, trông nom việc dựng 5 bia Tiến sĩ ở nhà Thái học.

TB

MỘT BẢN THẢO MỚI HOÀN THÀNH: BẢNG TRA TÊN CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TRONG CƯƠNG MỤC

DƯƠNG THỊ THE

Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới tổ chức nghiệm thu thành công công trình khoa học nhỏ “Bảng tra tên các đơn vị Hành chính trong cương mục” do hai cán bộ của Viện biên soạn.

Trước hết xin giải thích qua về tên gọi của công trình. Đây là một bảng dùng để tra cứu tên các đơn vị hành chính đã được bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (có ký hiệu A.1/1-9 thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) chú giải bằng chữ Hán.

Thư tịch bằng chữ Hán, chữ Nôm đề cập tới vấn đề địa danh hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm khá phong phú, bao gồm các loại sách như địa chí, địa phương chí, bản đồ cổ; các cuốn chính sử, thần tích, địa bạ, các loại văn khắc v.v… Tất cả địa danh được phản ảnh trong các loại hình thư tịch trên đều có đặc điểm chung là bản thân các địa danh đó đều tự phản ánh được sự tồn tại của chúng ở thời điểm tác phẩm ra đời. Song ở mỗi loại hình thư tịch, địa danh được phản ánh đều có những hạn chế nhất định. Ví dụ như địa danh trong các thư tịch địa chí thường bị hạn chế cả về không gian và thời gian. Các trấn tổng xã danh bị lãm (A.570) chỉ cung cấp được những địa danh trong phạm vi 15 trấn, xứ thuộc Bắc Kỳ thế kỷ XIX. Đại Nam nhất thống chí (A.69) là bộ địa chí biên soạn thời Nguyễn, ghi đầy đủ duyên cách từ cấp huyện trở lên của các tỉnh trong cả nước. Riêng địa danh được đề cập trong các sách sử bị hạn chế về số lượng, vì chúng phụ thuộc vào các sự kiện lịch sử. Trong những bộ sử lớn của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục v.v... Chúng tôi chọn bộ Khâm Định Việt sử thông giám cương mục. Viết tắt là CM làm cơ sở cho việc biên soạn bảng tra tên các đơn vị hành chính, vì tác phẩm này có những ưu điểm nổi bật sau đây:

1. Tính khoa học của các chú giải: để chú được 1328 tên các khu vực hành chính, các tác giả CM đã tham khảo rất nhiều sách trong nước cũng như nước ngoài, chúng tôi chưa thống kê được, song Tìm hiểu kho sách Hán Nôm đã cho biết”… giở qua từng tờ, ta sẽ thấy số tên sách dẫn dụng có tới trên dưới 200 bộ”(1), các tác giả đã bổ sung được đầy đủ 12 thừa tuyên đặt ra vào thời Lê Quang Thuận thứ 7 (1466); Nêu được sự thay đổi của các thừa tuyên từ thời Bắc thuộc đến thời Nguyễn, đồng thời đính chính được nhiều địa danh sai sót cho các bộ sử khác.

2. Xác định được mốc tồn tại của từng địa danh, tìm hiểu, đối chiếu, xác định được những địa danh tương ứng với nó trong giai đoạn đương thời. Việc làm này không những giúp ích cho độc giả thời đó mà còn là những tư liệu vô giá cho đời sau trong việc nghiên cứu lịch sử các địa danh.

Với giá trị nhiều mặt của chú giải địa danh trong CM, chúng tôi thấy việc tập hợp, lựa chọn, sắp xếp, biên soạn thành một “Bảng tra tên các đơn vị hành chính” là việc cần thiết.

Toàn bộ Bảng tra gồm 1328 tên các đơn vị hành chính từ thôn đến phạm vị lớn là Quốc gia. Các đơn vị này được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Việt. Mỗi đơn vị được gọi là một mục từ. Mỗi mục từ gồm 2 phần.

Phần thứ nhất gồm các yếu tố sau:

- Tên đơn vị hành chính bằng chữ Việt, có chua thêm chữ Hán bên cạnh.

- Phạm vi địa lý hành chính.

- Dịch chú giải nguyên tác.

- Xuất xứ của chú giải.

Để thực hiện phần thứ nhất này, chúng tôi đã phải dịch toàn bộ các chú giải của nguyên bản chữ Hán, sau đó tuyển chọn sắp xếp. Nếu chú giải trùng lặp thì chọn lấy chủ giải đầy đủ nhất. Nếu trùng nhưng lượng thông tin nhiều hơn, mới hơn thì ưu tiên xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện từ sớm đến muộn. Nếu trùng lên nhưng phạm vi địa lý hành chính khác nhau thì ưu tiên xếp trước những tên có phạm vi địa lý hành chính lớn hơn. Ví dụ: ANBANG thừa tuyên có tới 4 lần chú giải (lần chú thứ nhất ở quyển 1 tờ 4 phần Tiền biên; lần chú thứ hai ở quyển15 tờ 5 phần Chính biên; lần chú thứ 3 ở quyển 21 tờ 29 phần Chính biên và lần chú thứ tư ở quyển 21 tờ 35 phần Chính biên). Sau khi dịch, chúng tôi đã chọn chú giải thứ 3 đưa làm mục từ của Bảng tra, vì đây là lần chú giải đầy đủ, hệ thống và rõ nhất.

Phần thứ hai là phần chú thích bổ sung của chúng tôi. Đây là việc làm vô cùng khó khăn phức tạp. Như trên đã trình bày, cho dù CM có chú đầy đủ đến mấy, song cũng đã cách ta một trăm năm. Quãng thòi gian một thế kỷ này, đất nước ta đã xẩy ra biết bao sự kiện tác động tới việc phân chia lại các khu vực hành chính. Do vậy, để làm được phần thứ hai này, chúng tôi đã phải tham khảo rất nhiều sách có liên quan bằng chữ Hán, hoặc toàn bộ công báo từ năm 1950 đến 1990 và phải đi thực tế nhiều địa phương, kết hợp với cộng tác viên ở nhiều nơi.

Phần thứ hai này giúp bạn đọc tìm hiểu, so sánh giữa tên khu vực hành chính cũ với tên mới hoặc biết được hiện nay các tên cũ ấy trực thuộc nơi nào. Ví dụ tra địa danh “Bắc Bình”, bạn sẽ được những lượng thông tin ở hai phần như sau:

Phần thứ nhất: Bắc Bình 北 平

- tên phủ.

Theo Hồng Đức Thiên Nam dự hạ tập, Bắc Bình là tên phủ. Trước thuộc thừa tuyên Thái Nguyên. Sau đổi tên là Cao Bằng. Khoảng niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) đổi là Trấn Cao Bằng. Bây giờ (thời Tự Đức) là tỉnh Cao Bằng.

A1, Cb 20 (ký hiệu A.1, phần Chính biên q.20).

Phần thứ hai cho biết “Bắc Bình” tương đương với tỉnh Cao Bằng ngày nay. Như vậy tra địa danh “Bắc Bình” ta có thể biết được quá trình thay đổi cơ bản của địa danh này cho tới thời đại chúng ta ngày nay.

Hoặc ví dụ tra địa danh “Nghệ An” chúng ta được những thông tin như sau: Thời Hùng Vương, Nghệ An thuộc đất Việt Thường. Thời Tần thuộc Tượng Quận, thời Hán thuộc quận Cửu Chân. Nhà Ngô chia gọi là quận Cửu Đức. Nhà Lương đặt làm Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu; Thời Đinh, Lê gọi là Hoàn Châu. Thời Lý đổi làm trại. Năm Thiên Thành thứ hai (1029) đổi là Nghệ An. Thời thuộc Minh đổi làm hai phủ Diễn Châu và Nghệ An. Đến năm Quang Thuận thứ 7 đời Lê đổi đặt Nghệ An thừa tuyên. Năm Hồng Đức 21 (1760) đổi là xứ. Năm Minh Mệnh thứ 12 chia làm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm Tự Đức thứ 6 (1853) đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo hợp vào Nghệ An. Năm Tự Đức 29 (1876) lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.

Năm 1975 hợp nhất hai tỉnh Nghệ An, Hà Tính thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Nay lại tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Trong số 1328 đơn vị hành chính có 78 đơn vị không thuộc lãnh thổ nước ta, chúng tôi không chú phần hai; 46 đơn vị chưa có điều kiện xác minh, chúng tôi cũng không chú; 257 đơn vị thuộc phạm vi xã thôn, chúng tôi chưa có điều kiện tìm được gọi tương đương, mà chỉ đối chiếu được cấp huyện tương đương. Còn lại 946 đơn vị hành chính từ cấp thôn đến cấp trấn, đạo, chúng tôi đã so sánh được tên gọi tương đương ngày nay.

Bảng tra này tuy chưa thể cung cấp được hết tên các đơn vị hành chính của cả nước, song với số lượng 2328 đơn vị thuộc phạm vi từ thôn đến tỉnh, hy vọng sẽ giúp ích phần nào cho bạn đọc muốn tìm hiểu địa danh xưa.

CHÚ THÍCH

(1) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, Nxb. KHXH, H. 1971. tr.146.

TB

NHÂN ĐỌC MỘT THIÊN TRONG
BẢN DỊCH HÀN PHI TỬ

LÊ VĂN QUÁN

Trước nay, tôi chưa hề viết bài góp ý kiến một bản dịch nào cả. Bởi vì, chữ nghĩa tôi còn ít lắm, cho nên trong công việc nghiên cứu tôi thường tham khảo các tài liệu đã dịch, vừa dễ hiểu vừa đỡ mất thời gian.

Nhân dạy môn “Lịch sử tư tưởng Trung Quốc”, đọc tham khảo một thiên trong Hàn Phi Tử, tôi thấy có một số chỗ dịch chưa thoả đáng như sau(2):

1) Ở câu: “Toản toại thủ hỏa dĩ hoá tinh tao” ở tập II, tr.191 dịch là: “… xoi cây lấy lửa để nấu thức ăn tanh hôi… “không chính xác. Vì ở đây, từ “hoá” không chỉ có nghĩa là “nấu” mà còn có ý nghĩa là “trừ khử”. Do đó, chỗ này nên dịch là: “… xoi cây lấy lửa nấu khử mùi tanh hôi của thức ăn…”.

2) Ở câu: “Thị dĩ thánh nhân bất kỳ tu cổ, bất pháp thường khả, luận thể chi sự, nhân vi chi bị” Ở tr.192 dòng 12, dịch là: “Cho nên bậc thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không noi theo những phép tắc bất biến, khi bàn việc ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”. Trước hết có một số từ dịch chưa sát như:

- “cổ”: đạo xưa, phép xưa (đạo xưa của bậc tiên vương, chứ không phải “chuyện xưa”.

- “thường khả”: dịch là “phép tắc bất biến” cũng được, nhưng nên dịch là “lệ cũ, lệ xưa”, người đọc dễ hiểu hơn.

- “thế”: đương thế, đương thời, không chỉ là “đời”.

- “sự”: sự tình, tình hình, chứ không phải chỉ bó hẹp ở “sự việc, việc làm”. Chữ này dịch giả còn mắc ở một số trường hợp khác (xem trường hợp 6).

Vì vậy toàn câu có thể dịch là: “Cho nên bậc thánh nhân không cốt làm theo đạo xưa, không bắt chước lệ cũ mà bàn luận tình hình đương thời, căn cứ vào tình hình đó đặt ra biện pháp”.

3) Ở câu: “Bạc hậu chi thực dị dã” ở tr.193, d.23, dịch là “bởi vì một bên sang một bên hèn thực tế rất khác nhau”. Ở đây hai từ “bạc hậu” không phải là “một bên sang một bên hèn” mà là vấn đề quyền lợi nhiều hay ít. Câu này có thể dịch là: “… đó là vì tình hình thực tế lợi ích lớn nhỏ khác nhau”.

4) Ở câu: “Phi sơ cốt nhục, ái quá khách dã, đa thiểu chi thực dị dã”, ở tr.193, d.32, dịch là: “Đó không phải vì nguowif ta coi nhẹ những người cốt nhục mà yêu người khác qua đường. Đó là thực tế có nhiều hay ít cho nên trong bụng nghĩ khác”. Trong câu này không có từ nào có nghĩa là “trong bụng”, hơn nữa, cả đoạn văn này tác giả đang nói đến của cải vật chất, cho nên không nên dịch như vậy. Câu này nên dịch là: “Đó không phải vì người ta coi nhẹ những người ruột thịt, yêu người khách qua đường mà là vì tình hình thực tế lương thực nhiều ít khác nhau”.

5) Ở câu: “Khinh từ thiên tử, phi cao dã, thế bạc dã. Trọng tranh thổ thác, phi hạ dã, quyền trọng dã”, ở tr. 194, dịch là: “Người xưa coi nhẹ việc từ bỏ ngôi thiên tử không phải vì họ thanh cao, đó là vì cái thế của nó ít. Ngày nay coi trọng một nắm đất không phải là kém”. Câu dịch “ngày nay coi trọng một nắm đất không phải là kém” làm cho độc giả hơi ngạc nhiên. Tôi ngờ rằng văn bản chép sai, bèn tra cứu thêm một vài tài liệu thì thấy, chữ “thổ” 土 chính là chữ “sĩ” 士 viết nhầm(3). Chữ “sĩ” có nghĩa là “làm quan”. Ở đây chữ “thác” cách dùng giống chữ “thác 托 ” có nghĩa là “dựa vào”, dịch giả bỏ không dịch. Theo tôi câu này nên dịch như sau: “Người xưa dễ dàng từ bỏ ngôi thiên tử, không phải vì phẩm đức cao thượng mà là vì quyền thế ít. Ngày nay mọi người coi trọng việc làm quan, dựa vào bọn quyền quý, không phải vì phẩm đức kém, mà là bởi quyền thế lớn”.

Ở câu: “Cố sự nhân vu thế, nhi bị thích vu sự”. Ở tr. 194, d5, dịch là “… cho nên sự việc phải dựa theo cái thế mà thay đổi và việc phòng bị là phải thích hợp với công việc”. Ở đây, có hai từ dịch chưa ổn:

a. thế: thời đại, chứ không phải là “cái thế”.

b. bị: biện pháp (thi hành), giống như chữ “bị” ở trưởng hợp 3, không phải có nghĩa là “phòng bị”. Câu này có thể dịch: “cho nên tình hình thay đổi theo thời đại và biện pháp thi hành phải thích hợp với tình hình (đã thay đổi)”.

7) Ở các câu: “Kim Nho, Mặc giai xưng tiên vương, kiêm ái thiên hạ, tắc thị dân như phụ mẫu chi ái tử. Hà dĩ minh kỳ nhiên?” Ở tr. 196, d.1. dịch là: “Nay hai phái Nho và Mặc đều ca ngợi các tiên vương, yêu tất cả thiên hạ, nên dân chúng xem họ như cha mẹ. Họ lấy cái gì để chứng minh điều đó: Ở đây câu “tắc thị dân phụ mẫu chi ái tử” là nói tình thường yêu của tiên vương đối với dân chúng như cha mẹ yêu con, chứ không phải dân chúng xem họ như cha mẹ. Do đó câu này nên dịch là: “Nay hai phái Nho và Mặc đều ca ngợi tiên vương yêu tất cả thiên hạ, đối đãi dân chúng giống như cha mẹ yêu con mình. Lấy cái gì để chứng minh các bậc tiên vương làm như vậy?”

8) Đoạn văn “Trọng Ni, thiên hạ thánh nhân dã, tu hành minh đạo, dĩ du hải nội. Hải nội duyệt kỳ nhân, mỹ kỳ nghĩa, nhi phục dịch giả thất thập nhân. Cái quý nhân giả quả, năng nghĩa giả nan dã. Cố dĩ thiên hạ chi đại, nhi vi phục dịch giả thất thập nhân, nhi vi nhân nghĩa giả nhân”. Ở tr. 196, d.29, dịch là: “Trọng Ni là bậc thánh nhân trong thiên hạ. Ông ta trau dồi thân mình, đi chu du trong thiên hạ. Những người trong thiên hạ chuộng chữ nghĩa của ông ta có bảy mươi người. Như thế đủ thấy những kẻ quý chữ nhân rất ít, những kẻ có thể làm được chữ nghĩa rất hiếm. Cho nên cả thiên hạ rộng lớn như thế mà những người theo nhân nghĩa chỉ có bảy mươi người, và người nhân nghĩa chỉ có một người”.

Ở đây có một số chỗ dịch chưa thỏa đáng:

a. “Tu hành minh đạo” dịch là “trau dồi thân mình” thì mới dịch được nghĩa của từ “tu” còn ba chữ “hành minh đạo” chưa dịch. Theo tôi, câu ấy nên dịch: “tu thân dưỡng tính, làm sáng (tuyên dương) học thuyết nho gia của ông”.

b. Từ “du” trong mẫu câu: “dĩ du hải nội” không nên dịch là “chu du” mà nên dịch là du thuyết (đi du thuyết trong thiên hạ). Vì Khổng tử ra đi là có mục đích hoạt động chính trị.

C. Câu: “Hải nội duyệt kỳ nhân, mỹ kỳ nghĩa”. Ở đây, từ “duyệt” và từ “mỹ” đều được làm động từ phô diễn hai ý khá rõ: “người trong thiên hạ yêu mến điều nhân, ca ngợi (tán mỹ) điều nghĩa của ông ta”. Dịch giả gộp cả hai ý lại làm một và dịch hai từ này bằng từ “chuộng” (những người trong thiên hạ chuộng chữ nghĩa của ông ta”.

d. Từ “nan” ở mẫu câu: “Năng nghĩa giả nan dã” nên dịch là “khó”, không nên dịch là “hiếm”.

e. Từ “phục dịch” chỉ có một nghĩa là hầu hạ, nhưng ở câu trên dịch là hầu hạ, ở câu dưới dịch là “theo nhân nghĩa”.

Theo tôi, đoạn văn trên nên dịch như sau:

“Trọng Ni là bậc thánh nhân trong thiên hạ, tu thân dưỡng tính, tuyên dương học thuyết nho gia của ông ta, đi du thuyết trong thiên hạ. Người trong thiên hạ yêu mến điều nhân, ca ngợi điều nghĩa của ông ta, nhưng chỉ có bảy mươi người theo hầu hạ ông ta. Ấy bởi người coi trọng điều nhân quá ít, người có thể làm điều nghĩa cũng rất khó. Cho nên thiên hạ tuy rộng lớn như thế, nhưng chỉ có bảy mươi người theo hầu (Khổng tử) và người làm nhân nghĩa chỉ có một mình Khổng tử).

9) Câu: “Kim học giả chi thuyết nhân chủ dã, bất thừa tất thắng chi thế, nhi viết vụ hành nhân nghĩa, tắc khả dĩ vương, ở tr.197, d.7. dịch là “bọn học giả ngày nay, thuyết phục nhà vua lại không bảo dựa vào cái thế tất thắng mà cứ dạy cho họ lo việc nhân nghĩa, cho rằng làm thế thì có thể làm vương”. Đọc câu này, người đọc khó hiểu ở: “cái thế tất thắng”. Hai từ “tất thắng” không nên dịch theo âm Hán Việt mà nên chuyển dịch ra từ Việt.

Chữ “thắng” này, theo cách đọc Hán Việt có hai âm:

a. Thắng: thắng (bại), hơn…

b. Thăng: cử dã, kham dã(4) (cất lên, nêu lên, chịu được).

Ở đây nên dùng cách b, và hai từ “tất thăng” có nghĩa: phải chịu, phải theo, phải phục tùng.

Câu đó có thể dịch như sau: “Bọn học giả nhà nho ngày nay khuyên vua, nói không nên dựa vào quyền thế bắt người ta theo, chỉ cần thi hành nhân nghĩa thì có thể làm vua”.

10) Ở câu: “phù ly pháp giả tội”, từ “ly 離 ” giống như “ly 罹 ” có nghĩa là “vi phạm” (vi phạm pháp luật là bị trị tội). Ở tr.199, d.27, dịch là “rời khỏi”.

Từ “văn học” ở câu “nhi chư tiên sinh dĩ văn học thủ” nên dịch là “văn hiến kinh điển”, ở tr.199, d.28 dịch là “văn học” (thế nhưng các tiên sinh kia lại nhờ văn học mà được dùng). Nếu dịch như vậy thì nên chú thích ở dưới. Nếu không, người đọc dễ hiểu lầm với từ “văn học” ngày nay. Trong thiên này, các từ “văn học” hầu hết dịch giả đều dịch là “văn học”.

11) Ở mẫu câu: “… kiên giáp lệ binh dĩ bị nạn” tr. 201, d.17, dịch là: “… áo giáp làm chắc và khích lệ binh sĩ để đề phòng khi có nạn”. Ở đây hai từ “lệ binh” không thể dịch là khích lệ binh sĩ”. Từ “lệ 厉 ” giống như “lệ” 砺 có nghĩa là mài (sắc); từ “binh” là binh khí. Câu này nên dịch lại là: “… làm chắc áo giáp, mài sắc binh khí để đề phòng khi có nạn”.

12) Câu: “… vô tư kiếm nhi hãn, dĩ trảm thủ vi dũng. Thị cảnh nội chi dân, kỳ ngôn đàm giả tất quỹ ư pháp, động tác giả quy chi ư công, vi dũng giả tận chi ư quận”. Ở tr. 204, d.15, dịch là: “không có thanh kiếm tỏ ra ngang ngạng mà lấy chuyện chém đầu quân địch làm dũng cảm. Vì vậy dân chúng trong nước khi nói năng đều nói theo phép tắc, mọi hành động đều cốt lập công, mọi sự dũng cảm đều nhằm vào việc quân”.

Trong câu này có một số từ dịch chưa thoả đáng:

a. Từ hãn (cản) 捍 giống như (hãn, cản) 扞 có nghĩa là “can phạm, hung bạo”. Nó là danh từ làm trung tâm ngữ, vì thế khi dịch sang tiếng Việt cũng nên là danh từ có lẽ hay hơn.

b. Câu “thị dĩ cảnh nội chi dân, kỳ ngôn đàm giả tất quỹ ư pháp…” dịch là: “Vì vậy dân chúng trong nước khi nói năng đều nói theo phép tắc”. Cách chấm câu ở đây không phải như vậy, sau từ “dân” đã có dấu phẩy chia tách ra hai ý rõ ràng, cho nên nhóm từ này không thể dịch là “khi nói năng”. Nhóm từ “ngôn đàm giả” là nói “bọn du thuyết” mà tác giả đã nói ở trên.

c. Câu: “động tác giả qui chi ư công”. Ở đây “động tác giả” là chỉ người dùng sức lực (lao động chân tay); “công” là chỉ “công việc” (cày ruộng) chứ không phải là “công lao”.

Cả câu này nên dịch như sau: “… không dùng sự can phạm của thanh kiếm riêng, mà lấy việc chém đầu quân địch là dũng cảm. Do đó, dân chúng trong nước, kẻ nói nặng ắt phải tuân theo pháp độ, những người dùng sức lực (lao động chân tay) đều sẽ trở về với công việc đồng ruộng, những người dũng cảm đều sẽ tham gia quân đội”.

13) Câu: “sự thành tắc dĩ quyền trường trọng, sự bại tắc dĩ phú thoái xử” ở tr. 206, d.2, dịch là: “Nếu chủ trương của họ có kết quả thì quyền họ càng thêm lớn, nếu chủ trương của họ mà thất bại thì họ đã được giầu có rồi mới rút lui”.

Ở đây, nhóm từ “dĩ quyền trường trọng” không thể dịch là “quyền họ càng thêm lớn”, vì từ “trọng” có nghĩa là “trọng dụng”, “trường” là trạng từ có nghĩa là lâu dài, tu sức cho “trọng”. Do đó, câu này nên dịch: “Nếu sự tình thành công thì bọn họ dựa vào quyền thế mà được trọng dụng lâu dài (ở trong nước); sự tình thất bại thì họ dựa vào của cải thu được mà rút lui yên thân”.

14) Câu: “trị cường bất khả trách ư ngoại, nội chính chi hữu dã”, ở tr.206, d.22, dịch là: “Nhưng nước trị yên và mạnh thì không thể nhờ cậy ở bên ngoài mà lệ thuộc vào chính sự ở trong nước”.

Các từ “ư ngoại” không nên dịch là “ở bên ngoài” mà vẫn cứ theo như câu trên đã dịch: “chính sách đối ngoại” (hoạt động ngoại giao). Vì ở đây là chỉ công việc ngoại giao và nội chính, chứ không phải là “ở bên ngoài” nói chung. Từ “hữu” không nên dịch là “lệ thuộc” mà nên dịch là “đạt được”.

Câu này dịch như sau”

Trị và mạnh không thể cậy nhờ ở hoạt động ngoại giao, mà chỉ có thể đạt được trong công việc nội chính”.

15) Câu: “Thị cố loạn quốc chi tục, kỳ học giả tắc xưng tiên vương chỉ đạo dĩ tịch nhân nghĩa…” ở tr. 208, d. 24, dịch là: “Vì vậy cái tục của những nước loạn là bọn học giả trong nước khen cái đạo cảu các tiên vương để tỏ ra mình nhân nghĩa”.

Ở đây cả cụm từ: “dĩ tịch nhân nghĩa” không thể dịch là: “để tỏ ra mình nhân nghĩa”. Vì chữ “dĩ” ở đây như chữ “nhi”, dùng làm liên từ, có nghĩa là “và”; chữ “tịch” 籍 như chữ “tạ” 藉 , có nghĩa là “nương nhờ”, dựa vào(5). Vì vậy, câu đó nên dịch là bọn học giả nhà Nho này khen cái đạo của bậc tiên vương, mượn nhân nghĩa (để tiến hành thuyết giáo)”.

Như ở đầu bài tôi đã trình bầy, tôi không có ý viết bài này. Nhưng vì mới đọc một thiên “Năm bọn sâu mọt” gồm tất cả 19 tr. sách dịch mà đã có những chỗ dịch chưa hợp lý như trên. Tôi mong Nhà xuất bản Văn học và dịch giả xem lại cả bản dịch (hai tập gồm 493tr.) có chỗ nào sai nên có phần đính chính, để độc giả khỏi băm khoăn.

Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 1991.

CHÚ THÍCH

(1) Phan Ngọc dịch, Nxb. Văn học, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1990.

(2) Tất cả các trường hợp dẫn ra ở đây đều ở thiên XLIX, Năm bọn sâu mọt (Ngũ dổ).

(3) Độc Hàn Phi Ngũ đố thiên, Nhân dân xuất bản xã, Bắc Kinh, 1975, tr.20.

(4) Thuyết văn đại từ điển, Thiên Tân thị cổ tịch thư điếm ảnh ẩn, 1980, Q.2. tr.41.

(5) Xin xem Cổ đại Hán ngữ, Vương Lực chủ biên (tu đính bản) đệ nhị sách. Trung Hoa thư cục, 1981, tr.414.

TB

SUY NGHĨ VỀ CÁCH DỊCH SÁCH
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ

PHAN NGỌC

Đọc bài Nhân đọc một thiên trong bản dịch Hàn Phi Tử của ông Lê Văn Quán (LVQ), tôi thấy cần trả lời từng điểm một. Nhưng tôi muốn tránh chuyện cãi vã thông thường bởi vì mục đích đời tôi không phải chê người này, khen người khác mà tìm phương pháp làm việc thích hợp với công việc. Bài của ông LVQ sẽ được dùng như một dẫn liệu để đi tìm mẹo dịch tiếng Hán cổ. Điều người Việt cần, không phải là ai đúng ai sai, mà thao thác có hiệu lực. Thực tình, tôi không có tham vọng dịch đủ bách gia chư tử. Tham vọng ấy không phải vì động cơ kinh tế. Sách dịch xong, chết rồi chưa chắc đã được in ra, mà in ra như Hàn Phi Tử thì số tiền mua sách biếu lớn hơn tiền nhuận bút. Cũng không phải vì kiếm danh vì ở Việt Nam một người phiên dịch chỉ là người phiên dịch. Đã thế, lại dễ bị công kích, chê bai như trường hợp cụ thể này. Nhưng tôi vẫn làm vì tôi chịu ơn thế hệ cũ đã dạy tôi coi trọng di sản văn hoá Trung Quốc.

I - Tôn trọng văn bản

a) Tôn trọng văn bản trước hết là giữ nguyên các chữ trong văn bản, không được thêm bớt gì để nhờ sự thêm bớt ấy mà chê trách người dịch dịch sai. Ông LVQ đã không làm thế.

Câu 7 nguyên bản là: Kim Nho, Mặc giai xưng tiên vương kiêm ái thiên hạ tắc thị dân như phụ mẫu. Ông LVQ thêm ba chữ chi ái tử để chứng minh câu tôi dịch là sai: “nay hai phái Nho và Mặc đều ca ngợi các tiên vương yêu tất cả thiên hạ, nên dân chúng xem họ như cha mẹ”. Ông nói “Ở đây câu tắc thị dân như phụ mẫu “chi ái tử” là nói tình thương yêu của tiên vương đối với dân chúng như cha mẹ yêu con, chứ không phải dân chúng xem họ như cha mẹ”. Nếu quả thực nguyên văn có ba chữ chi ái tử thì đây là một câu văn quá dễ, ông Phan Ngọc đúng là dốt. Nhưng vì nguyên văn không có 3 chữ này cho nên chú thích 4 trang 1053 của bản Hàn Phi Tử tập thích của Trần Kỳ Du dẫn hai cách lý giải khác nhau. Cách lý giải của Lô Văn Thiệu và sau này của Vương Tiên Thận là đảo ngược thị dân thành dân thị và câu dịch của tôi là theo cách lý giải ấy. Cố Quảng Kỳ cũng chủ trương như vậy. Ông LVQ có quyền giải thích theo kiểu của mình bằng cách thêm ba chữ chi ái tử nhưng không có quyền đổi câu văn của Hàn Phi thành câu văn mình cần để chê trách tôi dịch sai. Nguyên bản rõ ràng có vấn đề: hoặc là lẫn lộn thứ tự giữa dân thị, với thị dân hoặc là sót ba chữ chi ái tử. Cách giải thích của tôi là thay đổi văn bản ít nhất.

b) Tôn trọng văn bản dịch, tức là không đổi câu văn của tôi cho sai đi để tiện việc phê phán.

Câu 2… luận thế chi sự, tôi dịch là “bàn sự việc ở đời”, ông đổi nó thành “làm việc ở đời”.

c) Theo dõi kỹ các chú giải, không được tự tiện giải thích không có căn cứ. Hán cổ có một ngành khảo chứng học, chú giải kinh truyện vô địch. Ngay trong lời giới thiệu tôi đã nói là dựa vào Hàn Phi tử tập thích của TKD. Quyển này có trong thư viện Khoa văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dĩ nhiên người dịch có quyền dịch theo cách mình hiểu, nhưng phải làm rất thận trọng chỉ khi nào mình tin chắc cách lý giải của mình thích hợp hơn. Không ai dịch sách triết học Trung Hoa mà không làm thế. Tại sao ông LVQ cứ theo chủ quan của mình mà giải thích?

Câu 2. Thị dĩ thánh nhân bất kỳ tu bổ, bất pháp thường khả, luận thế chi sự, nhân vi chi bị. Tôi dịch “Cho nên bậc thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không nói theo những phép tắc bất biến, khi bàn sự việc ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”. Ông phê phán tôi một số chỗ, 4 chỗ tất cả, và đưa ra cách giải thích theo Lê Văn Quán. Để trả lời, tôi chỉ dẫn các chú giải của Hán học. Độc giả sẽ thấy đây là hai khoa học đối lập nhau.

Cổ: đạo xưa, phép xưa (đạo xưa của bậc tiên vương) chứ khoog phải “truyện xưa” / Hán học: Chú thích 6, trong 1043 của Tùng Cao Viên: Chữ tu nên viết là tuần (theo), đây nói không cần thiết phải làm việc theo việc xưa (bất tuần hành cổ sự). Theo Hán học thì cổ sự không bao giờ là đạo xưa cả.

Thường khả: nên dịch là “lệ cũ, lệ xưa” người đọc dễ hiểu hơn./ Hán học: chú thích 7 trang 1043, TKD giải thích “thường là vĩnh viễn không đổi” (thường giả, vĩnh bất biến chi vị).

Sự: Sự tình, tình hình, chứ không phải chỉ bó hẹp ở “sự việc, việc làm”. Ông có nói thêm rất đắc ý: chữ này dịch giả còn mắc ở một số trường hợp khác/ Hán học: Từ điển Dictionnaire clâssique de la langue chinoise của Couvreur giải thích sự trang 13 là: chose, affaire, occupation, difficulté, différend, chose, occupation, emploi… không hề nói đến “tình hình”.

Thế: dương thế, đương thời, không chỉ là “đời” / Hán học: chú thích trang 8 trong 1043 dẫn Thần Nông chi thế (đời Thần Nông), dĩ giáo hậu thế (để dạy đời sau). Đây là những câu trả lời của Hán học. Làm thế nào có thể đổi thành “đương thời của Thần nông, để dạy đương thời sau này”?

Câu ấy theo LVQ là như sau: “Cho nên bậc thánh nhân không cốt làm theo đạo xưa, không bắt chước lệ cũ, nghiên cứu tình hình đương thời, căn cứ vào tình hình đó mà đặt ra những biện pháp”. Ngoài những chỗ sai đã nói, pháp thường không phải là bắt chước lệ cũ mà là “nho gia tán dương nói chuyện xưa cho rằng phép tắc ngày xưa vĩnh viễn có thể thi hành” (TKD chú 7, trong 1043). “Đó” khi áp dụng cho thời gian, chỉ quá khứ. Ông Cao Xuân Huy nhận xét về một tác giả nghiên cứu Kinh Dịch, bảo ông ta không biết cổ văn, căn cứ vào chữ thường đạo lẽ ra phải dịch là “cái đạo bất biến” mà dịch thành “cái đạo tầm thường”. Thường lệ dịch là “lệ cũ”, luận thế chi sự mà dịch là “nghiên cứu tình hình đương thời”, quả đúng là LVQ dịch theo kiểu riêng của ông, không thể nào xem là Hán học được.

Câu 14. Trị cường bất khả trách ư ngoại, nội chính chi hữu dã. Tôi dịch “Nhưng nước trị yên và mạnh (chứ không phải trị, yên và mạnh, với dấu phẩy) thì không thể nhờ cậy ở bên ngoài mà lệ thuộc vào chính sự ở trong nước”. Theo ông phải dịch là: “(Hai phương diện) trị và mạnh không thể nhờ cậy ở hoạt động ngoại giao mà chỉ có thể đạt được trong công việc nội chính”. Ông bảo phải dịch “ư ngoại” là ngoại giao, “hữu” không nên dịch là “lệ thuộc” mà nên dịch là “đạt được”. Chú thích 29 trang 1074 nói: Câu này nói “Nước trị và mạnh không thể đòi hỏi ở bên ngoài, đã có sẵn riêng trong chính sự trong nước” (Quốc gia chi trị dữ cường bất khả cầu chi ư ngoại, nội chính trung dĩ chuyên hữ chi dã). Cậy ở bên ngoài là rộng hơn ngoại giao, nó gồm cả chính trị, quân sự, kinh tế. Hữu đây là chuyên hữu tức là “có sẵn” tôi dịch “lệ thuộc vào là rất sát còn chưa bao giờ hữu lại có nghĩa là “có thể đạt được”. Chú giải của Trịnh “Hữu cũng như chuyên”. Tại sao lại phải thêm “Hai phương diện”? Trị yên và mạnh chỉ là biểu hiện của nước mà thôi.

Lê Văn Quán giải thích Hán cổ bất chấp Hán học và tự cho đó là tính ưu việt của mình. Cho nên cổ là “đạo xưa”, thường Pháp là “lệ cũ”. Trong câu 10, ông trách tôi dịch văn học là “văn học”. Theo ông phải dịch văn học là ăn hiến kinh điển”, nếu không dịch thế thì phải chú thích và vân vân. Thú thực, tôi sửng sốt, các chú giải của TKD bao giờ cũng giải thích văn học là văn học, chưa hề thấy ai giảng “văn học” là “văn hiến kinh điển” cả. Văn nghĩa gốc là nét vẽ có màu sắc, văn học là cái học về văn chương, nói năng hoa mỹ. Tự bao giờ văn học là “văn hiến kinh điển”? Sách nào? “Văn học” và “văn hiến” là hai chữ cực kỳ khác nhau, không thể lẫn lộn được, còn chữ “văn hiến kinh điển” thì đời tôi chưa gặp.

Câu 9, tôi dịch thừa tất thắng chi thế là “dựa vào cái thế tất thắng”. Ông LVQ bảo phải đổi thành “tất thắng chi thế” là “cái thế có thể bắt người ta chịu theo”. Đành là thắng có thể đọc là thăng với nghĩa “chịu đựng”, nhưng tất thắng chi thế là một thành ngữ quen thuộc nghĩa là “nhất định thắng”. Tìm đâu ra thành ngữ tất thắng chi thế để làm vừa lòng ông? Trong câu 10 ông bắt tôi phải dịch “Thù ly pháp giả tội” là “Vi phạm pháp luật là bị trị tội” chứ không thể dịch “Rời khỏi pháp luật là phải tội”. Nhìn bên ngoài có vẻ như ông có lý, nhưng rất tiếc ông LVQ không hiểu pháp gia là gì.NeeusQ dịch “vi phạm pháp luật là bị trị tội” thì đâu còn là pháp gia nữa? Hiện nay pháp chế chẳng phải thế sao? Pháp gia sở dĩ độc đáo là ở chỗ nó xem con người như con vật: pháp luật đưa ra thì phải thi hành, không được chống đã đành mà cũng không được khen, Thi hành sai bị tội đã đành mà thi hành vượt mức, kết quả hơn lời nói cũng bị tội. Tôi dịch Hàn Phi tử để xác lập pháp chế dân chủ đối lập với pháp gia chứ đâu phải đề cao pháp gia? Hàn Phi phân biệt rõ ràng phạm pháp và rời khỏi pháp luật là hai tội khác nhau. Vậy có thể thể tất cả cho tôi được chút nào không?_

Lê Văn Quán có lối chấm câu riêng. Câu 12b Thị cảnh nội chi dân kỳ ngôn đàm giả tất quỹ ư pháp. Tôi dịch “Vì vậy dân chúng trong nước khi nói năng đều nói theo phép tắc” (ở đây có một lỗi về ấn loát: noi chứ không phải nói). Đây là nhận xét của ông LVQ: “Cách chấm câu ở đây không phải như vậy. Sau chữ dân có dấu phẩy chia tách hai ý rõ ràng cho nên nhóm từ không thể dịch là “khi nói năng”. Nhóm từ ngôn đàm giả là chỉ bọn du thuyết mà tác giả đã nói ở trên. Phần còn lại cũng theo lập luận này nên chỉ cần trả lời phần này là đủ.

Trước hết câu chuyện dấu phẩy. Dấu phẩy là sau này người ta thêm vào, không phải của Hàn Phi, vậy tôi không việc gì phải dựa vào nó để tách nó ra khỏi câu. Thứ hai, không có lý luận ngữ pháp nào lại nói dấu phẩy là tách câu ra hai phần không liên quan với nhau. Chữ kỳ mà ông LVQ cố tình bỏ lơ khi dẫn ngôn đàm giả là đại từ liên hệ pronom relatif) thay thế cho chữ dân ở trước, vậy nó không thể nào là thay thế cho “bọn du thuyết” được. Tôi có thể dịch “Vì vậy dân chúng trong nước ai nói năng”, hay “khi nói năng…”, “nếu nói năng” đều được.

d) Ông LVQ dĩ nhiên có quan tâm tới một vài chú thích, nhưng chỉ trong phạm vi nó không đi ngược lại lập luận của ông. Nhưng khi mình đưa ra chú thích này để bảo vệ mình, thì trước khi chê bai người khác, cần phải hiểu người khác cũng có cơ sở khác vững chắc không kém. Lúc đó khoan bàn đến sai đúng mà bàn đến hai cách giải thích khác nhau.

Câu 5: Khinh từ thiên tử phi cao dã, thế bạc dã; tranh thổ thác phi hạ dã, tôi dịch “Ngày xưa coi nhẹ việc từ bỏ ngôi thiên tử không phải vì họ thanh cao, đó là vì cái thế của nó ít. Ngày nay coi trọng một nắm đất không phải là kém…” Ông LVQ cho thổ thác sĩ thác viết sai và cho rằng sĩ là “làm quan”; thác là “dựa vào”, chê tôi dịch “nắm đất” và không dịch chữ thác. Đây là cách giải thích của Vương Tiên Thận. Nhưng cách giải thích này phải đổi thổ là đất thành là làm quan, thác là túi thành thác là nhờ cậy. Rồi ông dịch ba chữ tranh thổ thác thành “việc làm quan, dựa vào bọn quyền quý”. TKD bác bỏ cách giải thích này và dẫn Quản Tử trong đó thổ thác có nghĩa là “đất đai phù hợp với việc trồng trọt”. Và ông giải thích: “Ý của câu văn này là… chư hầu ngày nay không những không muốn bỏ địa vị chư hầu của mình mà con tranh lấy đất đai đủ để giành lấy cái tôn quý của bậc bá vương”. Chữ “coi trọng một nắm đất” của tôi là xuất phát từ cách lý giải ấy.

e) Nói trọng nguyên bản không tất yếu là trọng một bản. Hàn Phi tử có nhiều bản kháceerfnhau do đó câu văn anh đọc có nhiều dị bản mà anh có quyền chọn. Khi ông LVQ phê phán ai nên chiếu cố đến điểm này. Câu 4: Phi sơ cốt nhục, ái quá khách dã, đa thiểu chi thực dị dã. Tôi dịch “Đó không phải vì người ta coi nhẹ những người cốt nhục mà yêu người khách qua đường. Đó là vì thực tế có nhiều hay ít nên trong bụng nghĩ khác”. Ông LVQ nói “trong câu văn này không có từ nào có nghĩa là trong bụng”. Đúng thế. Nhưng bản của Vương Tiên Thận, bản Ý lâm, bản Ngự lãm đổi thực thành tâm nên tôi mới dịch là “trong bụng nghĩ khác”. Tôi thấy ông LVQ bác tôi là có cơ sở nhưng cần phải chiếu cố đến tình hình văn bản. Còn cách dịch của LVQ là “vì tình hình thực tế lương thực nhiều ít khác nhau” thì vùng vì chữ thực là thực tế khác chữ thực là lương thực.

g) Người dịch phải coi trọng chú giải nhưng có quyền tự mình đưa ra cách giải thích anh ta cho là ổn hơn các chú giải. Câu 15: Thị cổ loạn quốc chi tục, kỳ học giả tắc xưng tiên vương chi đạo dĩ tịch nhân nghĩa. Tôi dịch “Vì vậy, cái tục của những nước loạn là bọn học giả trong nước khen cái đạo của các tiên vương để tỏ ra mình nhân nghĩa…”. Ba chữ dĩ tịch nhân nghĩa thực tế chưa có chú giải nào ổn. Ông LVQ cho hòa tức là “và” nhưng đây là bạch thoại không phải văn cổ. TKD thì cho chữ là thừa ra nên bỏ và tịch phải đổi là tạ tức là dựa vào. Câu dịch của LVQ là dựa vào đấy nên thực tế không ổn nên phải thêm một loạt chữ: “Cái tục của những nước loạn là bọn học giả nhà Nho này (?) khen cái đạo của bậc tiên vương, mượn nhân nghĩa (để tiến hành thuyết giáo)”. Chữ theo tôi, không thể bỏ được và cũng không có nghĩa là “và” mà vẫn giữ nghĩa gốc là “để mà”, bởi vì nó đối ứng với vế sau: thịnh dung phục nhi sức biện thuyết dĩ nghi dương thế chi pháp “Mặc y phục chỉnh tề, tô vẽ lối nói năng, tài biện luận để làm người ta ngờ vực pháp lệnh đương thời”. Vậy “tịch nhân nghĩa” là gì?. “Tịch” nghĩa gốc là sổ, sách, nên dùng làm hành động có nghĩa là “ghi lại”. Sử ký, Bá Di truyện: “Phù học giả tái tịch cựu bác” tức “Các học giả sách chép rất nhiều”, và có nghĩa là “dâng lên”: Kinh Dịch: “Tịch dụng bạch mao” (lễ vật dâng dùng cỏ trắng”. Tôi dịch là khoe: “Tỏ ra mình nhân nghĩa” là vì thế.

Trường hợp chữ trên đây cho thấy khi dịch cổ văn không thể quên sự cân đối, bỏ mất nó thì vi phạm ngữ pháp. Câu 13. Sự thành tắc dĩ quyền trường trọng, sự bại tắc dĩ phú thoái xứ, tôi dịch: “Nếu chủ trương của họ có kết quả thì quyền họ càng thêm lớn, nếu chủ trương của họ mà thất bại thì họ đã được giàu rồi mới rút lui”. Ông LVQ cho trường đây là trạng từ, trọng là trọng dụng và dịch: “Nếu sự tình thành công (sự tình thành công là tiếng Bạch thoại, người Việt nói sự việc) thì bọn họ dựa vào quyền thế mà được trọng dụng lâu dài, sự việc thất bại thì họ dựa vào của cải thu được mà rút lui yên thân”. Những chữ “dựa vào”, “thu được”, “yên thân” là thêm vào. Nhưng trường trọng là đối xứng với thoái xứ, thoái không phải là trạng từ của xử vậy trường không thể là trạng từ của trọng trọng ở đây là “nặng” không phải là “trọng dụng”.

II- Dịch thực Việt Nam

Có hai cách dịch cổ văn. Dịch sát từng chữ, từng kiến trúc. Cách làm này xưa nay vẫn làm. Nhưng đi con đường ấy câu văn sẽ rất dài, phải thêm rất nhiều và kiến trúc danh từ sẽ nhan nhản, người đọc không đọc nổi. Lối dịch này thực tế dễ làm nhưng tác phẩm dịch là văn Việt-Hán, đọc cực kỳ vất vả. Lúc nhỏ tôi học tiếng La-tinh và Hy-lạp. Tiếng La-tinh không có kiến trúc danh từ trái lại tiếng Pháp say mê kiến trúc danh từ. Nêu không để ý đến điểm đó thì khi dịch từ La-tinh hoá, khi dịch ngược sẽ có một ngữ pháp La-tinh bị Pháp hoá. Đặc biệt tiếng La-tinh trật tự lung tung mà tiếng Pháp trật tự cố định. Nếu đảo trật tự các vị ngữ là đảo lộn thứ tự của tư diy. Vậy phải giữ trật tự tư diy mà chuyển cấu trúc. Tôi tạm gọi đó là những mẹo. Sau này học ngôn ngữ học, lại phải kiếm sống bằng nghề dịch xuôi, ngược, tôi có tham vọng giới thiệu các mẹo dịch để người dịch đỡ vất vả.

Câu văn Hán cổ nhan nhản kiến trúc danh từ mà câu văn Việt lại thích kiến trúc động từ. Câu 12 mà ông LVQ nêu lên là một ví dụ: Vô tư kiếm chi hãn, tôi dịch “Không có thanh kiếm riêng tỏ ra ngang ngạnh”, ông LVQ bảo chữ hãn làm trung tâm danh từ. Tôi không dịch “Không có cái ngang ngạnh của thanh kiếm riêng” là vì lý do đã nói. Người Việt hiện nay, chứ không phải ngày xưa, vẫn dùng kiến trúc danh từ nhưng với sắc thái trang trọng. Ông Thủ tướng đến, nhất định ta phải nói: Sự có mặt của Thủ tướng … Nhưng nếu anh hàng xóm đến thì ta sẽ nói: Anh có mặt… Nếu nói “Sự có mặt của ông làm tôi phấn khởi” thì sẽ là khách sáo.

Tôi thay đổi kiến trúc danh từ thành động từ, cố gắng giữ nguyên vị trí vị ngữ, động từ, tránh đảo lộn là có nguyên nhân, không phải chỉ vì sơ suất. Tôi dịch Hàn Phi Tử, Tuân Tử… là để cho đại chúng đọc dễ như đọc tiểu thuyết. Tôi phải nhận cái vất vả về phía mình để đỡ gây vất vả cho người khác. Ông LVQ có quyền bác lại cách làm này. Nhưng dịch thành “không dùng sự can phạm của thanh kiếm riêng” là không ổn: Đây là Hàn Phi chống lại bọn du hiệp, thích khách dùng thanh kiếm riêng để giết người trái với pháp luật của vua. Couvreur giảng là querelleur, agressif là theo đúng nghĩa đen của hãn, tại sao lại cứ tránh nghĩa đen.

Cũng vậy, tôi dịch câu 3 Bạc hậu chi thực dị dã là “Một bên sang một bên hèn thực tế rất khác nhau” mà không dịch “Cái thực tế của sự dày, sự mỏng là khác nhau”. Bạn đọc có thể nhận thấy tôi đổi kiến trúc để giữ trật tự và câu dịch rất ngắn hầu như không thêm thắt gì. Còn câu dịch của ông LVQ bao giờ cũng rất dài, thêm rất nhiều lại dùng nghĩa bóng, xa nghĩa đen, làm thế chưa thể xem là dịch được.

Vì công việc tôi làm rất chi ly nên không phải bao giờ cũng thành công. Có một chỗ tôi bỏ sót:

Câu 8 Trong Ni tu hành minh đạo tôi chỉ dịch “Trọng Ni trau dồi thân mình” còn sót chữ “soi sáng đạo”. Chỗ phát hiện của ông LVQ là đúng nhưng câu ông dịch không ổn: “tu thân dưỡng tính làm sáng (tuyên dương) học thuyết Nho gia của ông”. Dưỡng tính là khái niệm Tống Nho, Hàn Phi không thể biết khái niệm ấy, còn “đạo” đây cứ gì phải là học thuyết Nho gia của ông”?

Có chỗ tôi sai, ông LVQ đúng.

Câu 12 Kiên giáp lệ binh dĩ bị nạn. Tôi dịch: Áo giáp làm chắc và khích lệ binh sĩ để đề phòng khi có nạn” chữ lệ binh tuy có nghĩa là “khích lệ binh sĩ” nhưng dịch là “mài sắc khí giới” thì hợp hơn.

Câu 6. Cố sự nhân vu thế, nhi bị thích vu sự. Tôi dịch “Cho nên sự việc phải dựa theo cái thế mà thay đổi và việc phòng bị phải thích hợp với công việc”. Ông LVQ cho chữ thế ở đây phải dịch là “thời đại” là đúng. Nhưng ông dịch bị là “biện pháp thi hành” lại không đúng. Bị là đề phòng chứ không có nghĩa thi hành. Chủ ý của Hàn Phi là nhà vua phải biết đề phòng, do đó có thiên “Bị nội” là đề phòng cái bên trong.

Có chỗ tôi dịch chưa sát.

Câu 1: Thủ hỏa dĩ hóa tinh tao tôi dịch “lấy lửa để nấu thức ăn tanh hôi”, ông LVQ đổi là “Khử mùi tanh hôi” là sát hơn.

Khi gặp một văn bản khó, người dịch vì dốc hết tinh lực vào những kiến trúc, những chữ khó, nên rất dễ sai sót về những chỗ rất dễ.

Ngôn ngữ bản dịch là tiếng Việt quen thuộc. Câu 8: Trọng Ni, thiên hạ thánh nhân dã, tu hành minh đạo, dĩ du hải nội. Hải nội duyệt kỳ nhân, mỹ kỳ nghĩa, nhi vi phục dịch giả thất thập nhân. Cái quý nhân giả quả, năng nghĩa giả nan dã. Cố dĩ thiên hạ chi đại nhi vi phục dịch giả thất thập nhân, nhi vi nhân nghĩa giả nhất nhân. Tôi dịch: “Trong Ni là bậc thánh nhân trong thiên hạ, ông trau dồi thân mình, đi chu du trong thiên hạ. Những người trong thiên hạ chuộng chữ nghĩa của ông ta”, “đi theo hầu hạ ông ta” (trích dẫn thiếu) có bẩy mươi người. Như thế đủ thấy những kẻ quý chữ nhân rất ít, những kẻ làm được chữ nghĩa rất hiếm. Cho nên cả thiên hạ rộng lớn như thế mà những người theo nhân nghĩa chỉ có bẩy mươi người và người nhân nghĩa chỉ có một người”. Ông LVQ mất công chứng minh năng nghĩa giả nan dã phải dịch “những người có thể làm điều nghĩa cũng rất khó”. Chữ nan có nghĩa gốc là khó nhưng áp dụng cho hành động (khó làm, khó thấy), cho việc làm (việc khó) thì được. Còn cho con người chẳng ai nói “Những người có thể làm điều nghĩa cũng rất khó” mà phải nói rất hiếm tức là khó tìm, khó thấy. Cách làm vậy đủ chứng tỏ ông LVQ thực mất công bới lông tìm vết cho ra lỗi. Ông trách tôi dịch du hải nội là “chu du thiên hạ”, theo ông phải dịch là “du thuyết trong thiên hạ”. Thực tình nói Khổng tử du thuyết là không được, vì:

1. Du thuyết là hành động của bọn thuyết khách lo kiếm ăn, còn Khổng tử mà Hàn Phi thừa nhận là bậc thánh nhân, là người nhân nghĩa lo truyền đạo chứ có lo du thuyết đâu. Xem Khổng tử thế gia thì rõ các vua chúa lo tìm Khổng tử để hỏi về chính trị chứ Khổng tử có đi kiếm ăn bằng nghề lừa dối chư hầu đâu.

2. Hàn Phi phân biệt rõ ràng bọn du thuyết mà ông gọi là du thuyết chi sĩ, trong Ngũ đố ông tách ra bọn Nho và bọn du thuyết. Vậy căn cứ vào đâu để xếp Khổng tử vào thuyết khách? Ông lại giải thích câu cuối là: “Cho nên thiên hạ tuy rộng lớn như thế nhưng chỉ có bảy mươi người hầu hạ (Khổng tử) và người làm nhân nghĩa chỉ có một mình Khổng tử”. Ông yêu cầu dịch phục dịch là hầu hạ. Nhưng phục dịch còn có nghĩa là phụng sự. Câu này không liên quan tới Khổng tử và liên quan tới nhân nghĩa. Câu trước nói: “Như thế đủ thấy những kẻ quý chữ nhân rất ít, những kẻ quý chữ nghĩa rất hiếm”. Sau đó giải thích vế những người quý chữ nghĩa “những người theo nhân nghĩa chỉ có bảy mươi người” rồi vế làm được chữ nghĩa” và người nhân nghĩa chỉ có một người”. Tại sao lại thêm Khổng tử vào tạo thành hai câu trùng lặp?.

TB

TRAO ĐỔI Ý KIẾN THÊM VỀ VIỆC DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

TRẦN ĐẮC THỌ

Tôi xin đề cập tới việc dịch một số bài thơ trong Ngục trung nhật ký. Tập nhật ký này đã được viết cách đây gần nửa thế kỷ. Bản dịch đầu tiên, chưa đầy đủ, được ra mắt bạn đọc vào năm 1960, cách đây vừa tròn 3 thập kỷ, gồm có 113 bài. Đến năm 1983, Viện Văn học trong khi tái bản có chỉnh lý và bổ sung 12 bài. Mãi đến năm nay (1990), toàn bộ 133 bài thơ trong Ngục trung nhật ký (kể cả bài đề từ) mới được dịch ra trọn vẹn.

Những người dịch nghĩa cũng như dịch thơ đã mất nhiều công sức vào công tác này, mong muốn cho ra đời những bản dịch hoàn chỉnh.

Dịch bao giờ cũng là một việc làm rất khó. Dịch chữ Hán lại càng khó hơn. Cho nên có nhiều bản dịch đến nay vẫn còn ý kiến này, ý kiến khác chưa thống nhất. Riêng tôi, xin phép được nêu một số bài làm dẫn chứng:

1- Bài Nhập Tỉnh Tây huyện ngục (Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây) - Bài số 3 trong tập Nhật ký.

Nguyên tắc như sau:

Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm.
Thiên thượng tình vân trục vũ vân.
Tình, vũ, phù vân phi khứ liễu.
Ngục trung lưu trú tự do nhân.

Cho đến lần xuất bản năm 1990 này, 4 câu thơ trên vẫn được dịch nghĩa:

Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên đời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.

Thiết nghĩ không nên dịch “tình vân” là mây tạnh. “vũ vân” là mây mưa (câu 2). Dịch sang tiếng Việt như vậy, dễ bị hiểu khác đi. “Mây Tạnh” là hết mây, cũng như tạnh gió tạnh mưa là hết mưa. Khi ta nói “trời quang mây tạnh” tức là trời trong trẻo không có mây. Còn trong văn học, khi nói “mây mưa” như trong câu “mây mưa đánh đổ lá vàng” là đã chuyển sang một ý khác. Vả lại, tác giả viết “vũ vân”, chữ có viết “vân vũ” đâu mà dịch là mây mưa.

“Tình vân” ở đây có nghĩa là mây không mang mưa, tức là mây trắng.

“Vũ vân” là mây mang mưa, tức là mây đen. Nôm na là như vậy! Có thế mới khớp với câu thơ thứ 3: “Tình, vũ, phù vân phi khứ liễu”.

Câu 4: dịch “lưu trú” là “còn lại: không đủ nghĩa, vì bỏ mất nghĩa chữ “lưu”. Phải dịch là: Còn giữ lại mới đúng.

2- Bài Vấn thoại (Xét hỏi) - Bài 10.

Hai chữ “Vấn thoại” ở đề bài đã làm nhiều người nát óc. Có người dịch là Hỏi tôi, có người dịch là Hỏi cung, có người dịch là Lời hỏi.

“Vấn thoại”là hai động từ ghép với nhau, tác giả dùng làm đề bài nên rất khó dịch “Vấn” là “hỏi”, “thoại” là nói. Có thể ở đây, tác giả liên tưởng tới một trong những cuộc tác giả bị lục vấn. Tác giả vô tội mà bị bắt giữ và khép vào tội làm Hán gian (dưới chế độ Trung Hoa Dân Quốc có hai tội nặng nhất, có thể bị xử bắn ngay, đó là tội làm “cộng phí” và tội làm “Hán gian”) Cho nên ở đề bài thơ, tác giả viết “vấn thoại” (bên hỏi, bên nói) gián tiếp không chấp nhận là một cuộc hỏi tội hay hỏi cung. Chữ Hán: “Vấn cung” là hỏi cung, “vấn tội” là hỏi tội. Tác giả đã tránh dùng những từ “vấn cung” “vấn tội”, thiết tưởng ta cũng không nên dùng làm gì, còn như nếu dịch “vấn thoại” là lời hỏi thì sẽ thiếu phần trả lời (Đáp thoại). Thực tế, phạm nhân có trả lời. Nội dung bài thơ gần giống một cuộc thẩm vấn, tôi đề nghị tạm dịch là “Xét hỏi”.

Câu thứ 12: “Lập trước công lý thần: Từ “trước” đứng sau một động từ, chỉ một việc đã hoàn thành. Các bản dịch đề bỏ không dịch nghĩa chữ “trước”. Câu này có nghĩa: Thần công lý đã đứng sẵn đấy rồi.

3- Bài “Đổ phạm” (người phạm tội đánh bạc) - Bài 2. Nguyên tắc như sau:

Công gia bất cấp đổ phạm phạn
Dục linh tha mẫn hối tiền phi.
“Ngạnh” phạm hào soạn thiên thiên hữu,
Cùng phạm cơ diên cộng lệ thùy.

Đã được dịch thơ:

Quan không cấp bữa cho tù bạc,
Để họ mau chừa tội cũ hơn.
cứng ngày ngày no rượu thịt,
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.

Chữ thứ 1 và thứ 2, câu 3: “ngạnh phạm” dịch là tù cứng dễ gây hiểu lầm. Ta thường nói thầy giáo cứng, học sinh cứng là thầy giáo dạy giỏi, học sinh học giỏi. “Ngạnh phạm” là loại tù cứng đầu, cứng cổ, bọn tù “anh chị” mà nhà tù thường phạm nào cũng có. Chúng trấn lột những tù nhân khác để có mức sống cao hơn.

Sở dĩ tác giả đặt từ “ngạnh” trong hai ngoặc kép là vi trong văn tự Hán, người được gọi là “ngạnh hán” lại là người gan dạ, bất khuất.

Câu 4: Chữ “tuộn” dùng hơi quá đáng. Từ “thùy” chỉ có nghĩa là rỏ,

Tôi cũng xin góp thêm một bản dịch thơ:

Ngồi tù vì đánh bạc
Vào tù, con bạc nghỉ ăn,
Quan bọn họ biết thân, hối chưa
Tù “anh chị” chén lu bù,
Tù nghèo dãi rỏ, lại vừa lệ rơi.

4- Bài Tự miễn (Tự khuyên mình) - Bài 36. Nguyên tác như sau:

Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện,
Sử ngã tinh thần cánh khẩn trương.

Dịch nghĩa:

Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt,
Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng.
Tai ương rèn luyện ta,
Khiến cho tinh thần ta càng thêm vững.

Và dịch thơ:

Vì không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Trong phần văn bản, ở câu 4, tác giả viết “Sử ngã tinh thần cánh khẩn trương”, không hiểu do đâu mà các bản cũ đều chép thành “Sử ngã tinh thần cánh Kiện cường” vầ dịch nghĩa là “khiến cho tinh thần ta càng thêm vững” làm sai hẳn ý câu nguyên tắc.

“Khẩn trương” có nghĩa là gấp rút và để hết ý vào việc gì (Bản của viện Văn học năm 1990 có sửa phần chữ Hán nhưng vẫn để nguyên phần dịch nghĩa và dịch thơ).

Về phần dịch thơ ở câu 1 bỏ mất ý “tiều tụy”. “Tác giả cũng không nói đông tàn. Hai câu 3 và 4: dịch sai hoàn toàn (thêm nhiều ý không có trong nguyên tắc).

Tôi xin góp thêm một bản dịch thơ:

Không cảnh tiều tụy đông hàn,
Sẽ không ấm áp, huy hoàng ngày xuân.
Tai ương rèn luyện bản thân,
Khiến ta càng phải tinh thần khẩn trương.

5- Bài Dã Cảnh (Cảnh đồng nội) - Bài 37. Nguyên tác như sau:

Ngã lai chi thì hòa thượng thanh.
Hiện tại thu thu bán dĩ thành;
Xứ xé nông dân nhan đới tiếu,
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Về 2 chữ 3, 4 trong câu thơ thứ hai “Hiện tại thu thu bán dĩ thành”, bản dịch nào cũng chỉ dịch nghĩa “thu thu” là vụ gặt. Dịch như thế là chưa đủ nghĩa. Hai chữ “thu thu” viết khác nhau. Chữ “thu” thứ nhất là “mùa thu”, chữ “thu” thứ hai là thu hoạch. Vụ thu hoạch về mùa thu là vụ mùa. Tác giả chỉ ra rất cụ thể về thời gian. Không nên chỉ dịch chung chung là vụ gặt. Dịch thơ nếu khó ghép vần, ta có thể châm chước, nhưng dịch nghĩa, thiết tưởng nên dịch đúng.

6- Bài Long An Lưu Sở trưởng, (Sở trưởng họ Lưu ở Long An) - Bài 40:

Nguyên tác như sau:

Biên sự nhận chân Lưu Sở trưởng,
Nhân nhân tán tụng nhĩ công bình.
Văn tiền lạp mễ đô công bố,
Can tịnh tù lung hảo vệ sinh.

Được dịch nghĩa:

Sợ trưởng họ Lưu giải quyết công việc thận trọng, đúng đắn.
Mọi người đều khen ông công bằng,
Đồng tiên, bát gạo đều công bố,
Nhà lao sạch sẽ hợp vệ sinh.

Câu 1 “Biện sự nhận chân Lưu Sở trưởng” có 2 điểm cần xem lại. Một là về phần văn bản, đã chép sai chữ “biện”, tác giả viết chữ “biện” với bộ “lực” ở giữa ư chữ tân, có nghĩa là làm. Các bản cũ đều chép chữ “biện” với một nét phẩy và một nét chấm ở giữa. Chữ “biện” này có nghĩa là biện bạch, phân cho rõ phải trái (Ví dụ như chữ “biện” trong cụm từ “biện công môn” ở bài Thanh Minh của tác giả).

Hai là về phần dịch nghĩa, dịch nhận chân là giải quyết công việc thận trọng, đúng đắn (có người còn dịch là làm việc sâu sát); dịch như thế chưa hẳn là đúng. Ta đọc lại toàn bộ bài thơ sẽ thấy nghĩa dịch câu 1 như trên không ăn nhập gì với phần còn lại của bài thơ.

“Nhận” có nghĩa là bằng lòng (thừa nhận), hoặc biết. Cụm từ “nhận chân” được người Trung Hoa và người Việt Nam hiểu “nhận chân” là nhận biết ra chân lý. Theo Tân văn tự Trung Quốc, cụm từ này có hai nghĩa: 1) Tận tụy với công việc; 2) Coi việc đùa ra việc thực. Trong câu thơ “biện sự nhận chân Lưu sử trưởng”, “Nhận chân” nên dịch theo nghĩa thứ nhất mới hợp với nội dung bài thơ “Hảo vệ sinh” là vệ sinh tốt, không phải là hợp vệ sinh.

7- Bài “Tảo giải” (giải đi sớm) - Bài số 41 và 42.

Nguyên văn như sau: Bài 41

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

Bài 42

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư nhất tảo không.
Noãn khí bao là toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hết gia nồng.

Được dịch nghĩa:

I

Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Mặt đón gió thu từng cơn từng cơn lạnh buốt.

II

Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch.
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

Trước hết, hai chữ “quần tinh” ở câu 2, bài 41, dịch là chòm sao. Không ổn. Thông thường người ta dùng trong thiên văn học chữ “chòm” để chỉ một số ngôi sao nhất định, hợp lại với nhau. Thí dụ: Chòm sao Thiên Mã, chòm sao Đại hùng tinh, chòm sao Tiểu hùng tinh, chòm sao Thần Nông, sao Tua Dua v.v… ở đây, tác giả chỉ muốn nói đến một số ngôi sao ở gần mặt trăng khi tác giả nhìn thấy vào lúc gần sáng. Vào quãng thời điểm này, Không có chòm sao nào ở quanh mặt trăng cả.

Câu 3, bài 41: “Dĩ tại” là đã ở, đã có mặt. Dịch là cất bước nghe có vẻ thơ, nhưng không đúng ý tác giả. Cất bước có nghĩa là bắt đầu lên đường.

Trong bài thơ Tảo giải thứ 2 (bài 42), về mặt văn bản có một chữ đã bị nhiều lần chép sai. Tôi muốn nói đến chữ “tảo” ở câu thơ thứ hai. Trong lần xuất bản đầu tiên năm 1960, chữ “tảo” (nguyên là buổi sớm) bị đổi thành chữ “tảo” có nghĩa là quét. Đến lần tái bản năm 1983, chữ “tảo” là sớm mới được phục hồi theo nguyên bản, nhưng ở phần dịch thơ vẫn để nguyên là quét sách không. Phục hồi lại như vậy thực ra vẫn còn sai vì trong nguyên bản tác giả viết:

“U ám tàn dư nhất tảo không”, nghĩa là “Bóng đêm còn rơi rớt lại một sớm đã hết sạch” (Đầu tiên tác giả viết “tảo nhất không” nhưng sau đã móc chữ “nhất” lên trên chữ “tảo” - Người chép không chú ý tới chi tiết này).

- Chữ “nồng” khi dùng ở thế từ kép “đượm nồng” “nồng nàn” khác với nghĩa chữ “nồng” khi dùng đơn độc, vôi nồng, người nồng tính (câu 4 của bài II).

8- Bài Dạ lãnh (Đêm lạnh) - Bài 45.

Câu 1 trong bài thơ, nguyên văn như sau:

“Thu thâm vô nhục diệc vô chiên”

Hai chữ “thu thâm” đã bị dịch sai trong các bản dịch cũ “Thu thâm” là cuối thu, mà không phải là đêm thu.

9- Bài Vãng Nam Ninh (Đi Nam Ninh) - Bài 53.

Nguyễn tắc như sau:

Thiết thằng ngạch thế ma thằng nhuyễn
Bộ bộ đinh đang hoàn bội thanh;
Tuy bị hiềm nghi gián điệp phạm
Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Được dịch nghĩa:

Xích sắt cứng đã thay thừng gai mềm
Bước mỗi bước leng keng như tiếng ngọc;
Tuy là người tù bị tình nghi gián điệp
Nhưng giáng vẻ lại giống vị công khanh ngày trước.

Và dịch thơ:

Hôm nay xiềng sắt thay dây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.

Câu thứ 2 trong bài thơ: tác giả viết chữ “định đang” với bộ “khẩu”, chưa chính xác lắm. Đáng lẽ phải viết với bộ “ngọc” ở bên trái. Tiếng ngọc va vào nhau, gây ra “một tiếng đục”. Ngay tiếng xích sắt va vào nhau cũng thế: người tư thường dùng “leng keng” để chỉ tiếng thanh như tiếng chuông nhỏ. “Đinh đang” ở đây nên dịch là lanh canh.

“Nghi dung” (câu 4) là dáng vẻ, bộ dạng. Dịch là ung dung: sai.

Tôi cũng xin góp thêm một bản dịch thơ:

Được mang xích sắt thay thừng
Tưởng chừng tiếng ngọc đi đường lanh canh.
Thân tù, gián điệp oan tình
Đàng hoàng dáng vẻ công khanh thủa nào.

10- Bài Bán lộ đáp thuyền phó Ung (giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh) - Bài 57.

Bài này nguyên tắ như sau:

Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điều thuyền lan tự giảo hình;
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm.
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

Được dịch nghĩa:

Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh
Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ,
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lướt nhẹ.

Và dịch thơ:

Đáp thuyền thẳng xuống huyện ung Ninh
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

Chữ 3, 4 trong câu 2: “thuyền lan” không phải là cái giàn thuyền. “Lan” là cái lan can. Đây là kiểu thuyền Trung Quốc.

Ở phần dịch thơ, nên tránh dùng 2 chữ “giảo hình” cho câu thơ dễ hiểu (câu 2). Việc thêm 2 chữ “rẽ sóng” đã làm lạc ý nguyên tắc (câu 4).

Tôi xin góp thêm một bản dịch thơ:

Chân treo như tội hình treo cổ,
Thuận nước, xuôi thuyền xuống huyện Ung.
Làng xóm đôi bờ sầm uất quá,
Ông chài, thuyền nhẹ lướt dòng sông.

11- Bài Thế nạ hữu mẫn tả báo cáo (Viết hộ báo cáo cho các bạn tù) - Bài 69.

Nguyên văn bài này như sau:

Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ;
Thế hữu biên tu báo cáo thư.
“Phụng thử” “Đẳng nhân” kim thủy học;
Đa đa bác đắc cảm ân từ.

Đã được dịch nghĩa:

Cùng hội cùng thuyền giúp nhau, lẽ khôn từ chối.
Viết báo cáo thay cho bạn;
Những chữ “thừa lệnh” “chiều theo” nay đều mới học
Thế mà đã được nhiều lời cảm tạ.

Và dịch thơ:

Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp
Viết thay báo cáo dám từ nan;
“Chiều theo” “thừa lệnh” nay vừa học
Đã được bao lời bạn cảm ơn.

Trong hai bản dịch nói trên có nhiều điều cần bàn:

Trước hết, câu 1: Đồng chu cộng tế - nghĩa nan từ”. Không nên dịch là cùng hội cùng thuyền giúp nhau, lẽ khôn từ chối. Thành ngữ Hán “đồng chu cộng tế” Khôn đồng nghĩa với thành ngữ Việt Nam “cùng hội cùng thuyền”. “Đồng chu cộng tế” có nghĩa cùng sang sông trên một chuyến đò (hay thuyền. “Cộng tế” là cùng qua sông, không phải là cùng giúp nhau. Dịch “đồng chu cộng tế” là cùng hội cùng thuyền: Không đúng. “Cùng hội” có nghĩa cùng theo đuổi một mục đích chung, mức độ gắn bó với nhau cao hơn “cùng sang một chuyến đò”. Ta thường nói “chuyến đò nên quen”, mức độ chỉ đến vậy thôi.

“Phụng thử” “đẳng nhân” là những từ hành chính có tính chất công thức hay dùng trong các giấy tờ thời Trung Hoa Dân Quốc “Phụng thử” là vâng như thế; “đẳng nhân” là với những lẽ kể trên. Các từ đó không có nghĩa là thừa lệnh, chiểu theo như nhiều bản đã dịch. Dịch như vậy, kể cũng hơi liều.

- Câu 4 “Đa đa bác đắc cảm ân từ”: Các bản dịch trước đây đều bỏ không dịch nghĩa chữ “bác”. “Bác” là đổi lấy (Dĩ bác nhất tiếu: đổi lấy một nụ cười).

Phần dịch thơ thường được châm chước nhưng trong bản dịch thơ đã dẫn trên, có 2 chỗ sai cần được nêu ra. Sai thứ nhất là dùng thành ngữ “cùng hội cùng thuyền”; sai thứ hai là đã lầm lẫn “nan từ” với “từ nan” ở câu 2. Chữ Hán “Nan từ” là khó từ chối; “từ nan” là thấy việc khó mà không nhận. Tác giả viết “nan từ” mà không viết “từ nan”.

Tôi xin góp một bản dịch thơ:

Chuyến đò nên nghĩa, khôn từ chối
Giúp bạn, ta làm báo cáo thay.
“Phụng thử”, “đẳng nhân” nay mới học,
Bao lời cảm tạ chút ơn này.

12- Bài Thiên Giang ngục (Nhà ngục Thiên Giang) - Bài 93.

Nguyên tắc bài này như sau:
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng
Lung trung đích áng bất tri số.
Gian phòng khước tượng bào dược đường
Hựu tượng nhai thượng mãi áng phố.

Được dịch nghĩa:

Ngoài lao sáu mươi chín cái chậu
Chậu ở trong lao nhiều vô kể;
Buồng giam mà lại giống nhà bào chế thuốc.
Lại cũng giống hệt như cửa hàng bán chậu trên đường phố.

Và dịch thơ:

Sáu mươi chín chậu đặt ngoài lao,
Chậu ở trong lao khôn xiết kể;
Nhà ngục giống như phòng bào chế,
Lại như hàng chậu dọn trên đường.
Câu thứ nhất có hai điểm sai:

a) Tác giả viết “nhân áng”, không biết tại sao lại sửa thành “cá áng”.

b) Áng là cái ang, một loại chung to rộng miệng có nắp đậy cũng bằng gốm “Áng” không phải là cái “chậu” ở một số tỉnh miền Duyên hải Việt Nam như Quảng Ninh, Hải Phòng… có nhiều gia đình dùng ang đựng nước ăn. Chữ Hán: “bồn” mới là cái chậu.

“Nhân áng: (ang người) là cái ang dùng để chôn người chết (Người chết được chôn theo tư thế ngồi). Ngay dân tộc Choang cũng có phong tục ấy. Có lẽ những người dịch trước không biết điểm này, cho tác giả viết sai nên đã tự ý sửa chữ “nhân” thành chữ “cá” bằng cách thêm một nét sổ dưới chữ chữ “nhân” là người. “Cá” có nghĩa là “cái”, vì thế mới dịch nghĩa là “cái chậu” (?) (Nhiều đồng chí lão thành cách mạng đã từng hoạt động ở vùng Hoa Nam có biết phong tục nói trên).

Cũng vì vậy mà câu 1 đã được dịch nghĩa thành: Ngoài lao sáu mươi chín cái chậu (?) làm sai lạc nghĩa cả bài thơ.

- Câu 4: “Nhai thượng” là ngoài phố mà không phải là trên đường phố.

Tôi xin góp ở đây một bản dịch thơ:

Ngoài lao, sáu mươi chín ang người,
Trong lao không rõ mấy mươi ang này.
Hệt nhà bào chế không sai,
Lại như hiệu bán ang ngoài phố kia.

13- Bài Thanh Minh (Tiết Thanh Minh - Bài 112.

Nguyên tắc như sau:

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn.
Tá vấn tự do hà sứ hữu,
Vệ binh dao chỉ biện công môn.

Tất cả các bản dịch cũ đều dịch nghĩa câu thứ nhất:

Tiết Thanh Minh mưa phùn lất phất. Vũ phân phân” không có nghĩa là mưa phùn lất phất. Đó là một thứ mưa mau và nặng hạt, mưa rả rích. Những người dịch trước có lẽ tưởng khí hậu Trung Quốc cũng giống như ở Việt Nam, đến tiết Tahnh Minh là có mưa phùn. Khí hậu tỉnh Quảng Tây là khí hậu lục địa, nên mưa trong dịp tiết Thanh Minh rất to. Sở dĩ ở miền Bắc Việt Nam mùa xuân có mưa phùn là do chịu ảnh hưởng của gió mùa, mà cũng chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ có mà thôi.

14- Bài Đáo Quế Lâm (Đến Quế Lâm).

Nguyên tắc như sau:

Quế Lâm vô quế diệc vô lâm,
Chỉ kiến sơn cao dữ thủy thâm.
Dung ấm giam phòng chân khả phạ,
Bạch thiên hắc hắc, dạ trầm trầm.

Bài này không có dịch sai. Ai cũng dịch câu đầu là Quế Lâm không quế cũng không rừng. Chỉ có điều, thiếu chú thích, làm nhiều người hiểu nhầm chữ “quế”. Quế đây không phải là loại quế cay như ở Việt Nam ta có trồng nhiều ở Thanh Hóa, Yên Bái, Quảng Ninh… mà là một loại cây không to lắm, hoa trắng, có hương thơm phảng phất mùi quế. Hình như người Trung Hoa hay dùng chữ “quế” để đặt tên cho một số cây có hoa thơm. Thí dụ: Người Vân Nam gọi cây hoa mộc mà ta thường trồng ở sân đền, chùa là cây quế.

Cũng vì thiếu chú thích nên đã dẫn đến dịch sai trong những bản dịch ra tiếng nước ngoài. Tôi lấy bản tiếng Anh làm dẫn chứng vì bản này đã được tái bản đến bẩy, tám lần.

Câu thứ nhất của bài thơ đã được dịch là:

Neither Forest nor cinnamon is found in Guilin Cinnamon là cây quế sản xuất tinh dầu quế, quế chi…những mặt hàng xuất khẩu có giá trị mà ta đang phát triển ở một số tỉnh miền núi như tôi đã trình bày.

Tóm lại, rừng quế ở đây là một thứ quế khác, không phải như cây quế hay cây hoa mộc của ta. Rừng quế này, nay đã bị tàn phá, chỉ còn lưu lại cái tên Quế Lâm.

TB

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHỮ NGHĨA
TRUYỆN KIỀU

ĐINH TRẦN CƯƠNG

Các bản Truyện Kiều bằng Quốc ngữ xuất bản những năm gần đây, về mặt hiệu đính và chú giải, tuy còn đôi chỗ khác nhau, nhưng những khác nhau đó xem ra cũng không quan trọng lắm. Rồi hình như cũng ít người quan tâm đến điều đó, và mọi người trên cơ sở thống nhất nhận định với nhau là văn chương Truyện Kiều rất hay, nên dễ dàng chấp nhận mọi câu chữ cùng với các chú giải. Như vậy Truyện Kiều coi như được ổn định rồi, trừ phi may mắn tìm ra được nguyên tác của Nguyễn Du thì mới nên bàn lại. Vả lại, hình như cũng ít người để tâm đọc kỹ Truyện Kiều từ đầu đến cuối, mà thường chỉ thưởng thức ngâm nga vài câu, vài đoạn thấy tả tình, tả cảnh rất nên thơ hoặc diễn đạt được điều mình cảm nghĩ, thế là đã cảm thấy thỏa mãn.

Tuy vậy nếu để tâm tìm hiểu ý nghĩa của câu chữ Truyện Kiều, xem cách giải nghĩa các chữ Hán trong truyện, xem cách phiên âm từ chữ Nôm ra Quốc ngữ, hoặc cách lựa chọn trong các bản Nôm khác nhau để lấy câu chữ của bản kia, thì tôi thấy còn một số thắc mắc muốn nêu lên. Nếu chỉ xét chữ nghĩa riêng trong một câu thơ nào đó thôi thì thấy cũng hợp lý, nhưng xét chữ nghĩa của câu thơ trong mối liên hệ chung với các câu thơ khác, liên hệ với cả đoạn văn, với mạch ý, với cấu trúc câu chuyện thì mới thấy lộ ra cái mâu thuẫn, các điều khó thông. Vấn đề tôi muốn đặt ra đây không phải là bới lông tìm vết, chẻ sợi tóc làm tư, càng không dám mang ý nghĩa “dọn vườn”, mà tôi chỉ thành thực mong đặt vấn đề bảo vệ giá trị của Truyện Kiều, cũng là bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, một ngôn ngữ được Nguyễn Du vận dụng rất tài tình. Tôi không dám dẫn sự hiểu biết nông cạn của mình, mạnh dạn nêu vài ví dụ sau đây để chứng minh vấn đề đã nêu trên. Tôi dựa vào hai bản Quốc ngữ chính:

- Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (viết tắt là ĐDA), Nxb. KHXH, 1989.

Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang (viết tắt là NTG) khảo đính và chú giải, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985.

I. Về chú thích:

1. Câu 69 và 70:

Thuyền tình vưa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.

Về hai câu thơ này, NTG chú thích hai ý:

a) “Thuyền tình … Đường thi: Nhất phiến tình chu phương đáo ngạn, bình trầm hoa chiết dỉ đa thời = Một chiếc thuyền tình mới tới bờ, cái bình đã chìm, cành hoa đã gãy từ bao giờ”.

Rõ ràng hai câu thơ Đường có đầy đủ ý tứ của hai câu Kiều, chỉ khác một chỗ là thơ Đường dùng chữ “hoa chiết” (cành hoa gãy) mà ở câu Kiều viết là “trâm gãy). Ta có thể tin được là hai câu Kiều dịch thoát hai câu thơ Đường và đọc lên ta hiểu ngay là nói rằng người đẹp đã chết.

b) NTG lại chú thích thêm “trâm gãy bình rơi”: chỉ người đẹp chết non như việc sắp thành mà nửa chừng bị hỏng. Thơ Bạch Cư Dị: “Bình trâm trâm chiết chi nại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt = Bình chìm trâm gãy biết làm sao được, cũng giống như sáng nay thiếp cùng chàng biệt nhau). Ở đây đề cập đúng chữ ở thơ Đường là “bình trầm trâm chiết”, nhưng ý nghĩa của câu thơ Đường lại nói rõ rằng, bình chìm trâm gãy là giống như thiếp cùng chàng từ biệt nhau. Không có ý nghĩa là người đẹp chết. Xin nói rõ thêm bài thơ của Bạch Cư Dị “Tình để dẫn ngân bình” thể hiện lời một người con gái than thở thân phận vì đã tin vào lời thề ước của người con trai mà hiến thân cho chàng và theo chàng về nhà. Nhưng sau đó bố mẹ người con trai không cho phép nàng làm vợ vì không có lễ cưới. Người thiếu phụ phải bỏ ra đi. Xin trích dẫn 6 câu đầu trong số 34 câu của bài thơ như sau:

Tỉnh để dẫn ngân bình,
Ngân bình dục thượng ti thằng tuyệt.
Thạch thượng ma ngọc trâm,
Ngọc trâm dục thành, trung ương chiết.
Bình trầm trâm chiết chi nại hà,
Tự thiếp kim triêu dữ quân biệt…
(Kéo bình bạc đáy giếng,
Bình bạc sắp lên giây tơ đứt.
Mài ngọc trâm trên đá,
Trâm ngọc sắp thành, gãy giữa chừng.
Bình chìm trâm gãy biết làm sao,
Như thiếp sáng nay lìa bỏ chàng).
(Bạch Cư Dị thi tuyển, Nhân dân văn học xuất bản xã, tr. 106).

Lại theo Truyện người con gái ở Nam Xương của Nguyễn Dữ (Truyền kỳ mạn lục, Ty Văn hoá Hải Hưng xuất bản), người vợ Trương Sinh khi bị chồng ghen đuổi đi, nói “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia thất. Đâu ngờ ân tình tựa lá, dèm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy mây tạnh mưa tan… đâu còn có thể lên nùi Vọng phu kia nữa”.

Vậy căn cứ bài thơ Đường và lời văn của Nguyễn Dữ thì “trâm gãy bình rơi” tả sự lìa nhau, nhân duyên tan vỡ. Không có nghĩa là người đẹp chết. Cụm từ này được Nguyễn Du dùng rất rõ ở câu 749, 750:

“Bây giờ trâm gáy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Đây là lời nói của Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Ý Kiều nói nàng phải lìa bỏ Kim Trọng (vì bán mình) chữ không nói nàng chết. Nguyễn Du đã dùng từ đúng ở chỗ này thì không lý nào lại dùng sai ở câu trên.

Ta trở lại với hai câu Kiều 69, 70 thì có lẽ đúng ra là phải coi đó gắn với câu thơ Đường “Nhất phiến tình chu…” và như vậy tất nhiên phải dịch ra là:

Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đã hoa gãy bình rơi bao giờ.

ĐDA (TĐTK, 1989) chú thích cũng tương tự TG, lại còn sai lầm thêm khi cho rằng mấy chữ “trâm gãy” ở câu 749 “Chầy xưa chưa nện Cỗu Lam” và câu 643 “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều”.

NTG ở câu 266 chú thích “Lam Kiều: chỉ nơi có gái đẹp tức nhà Thúy Kiều” và ghi rõ xuất xứ ở tích chuyện Bùi Hàng - Vân Anh. Nhưng đến câu 643 thì giải thích: “Lam Kiều: nơi có động tiên, cũng gần núi Lam Kiều tỉnh Thiểm Tây, nên đây vì phải ép vần mà để Lam Kiều, chứ Lam Điền mới phải… ý cả câu: Đến tận nơi có người đẹp để mua mỹ nhân”.

Như vậy chư “Lam Kiều” ở hai câu thơ khác nhau lại hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Một là nơi có gái đẹp, hai là nơi có ngọc. Theo xuất xứ Bùi Hàng đến Lam Kiều, vào hàng bà cụ có cô cháu tên là Vân Anh rất đẹp. Bùi Hàng muốn hỏi Vân Anh làm vợ. Bà cụ đòi nếu có ngọc đem đến biếu thì cụ cho lấy. Bùi Hàng tìm mua được ngọc đem đến và lấy được vợ. Vậy giải thích Lam Kiều là “nơi có gái đẹp, tuy đúng nhưng còn thiếu một vế nữa là: “nơi có gái đẹp mà người con trai muốn lấy làm vợ. Đây có hàm ý nhân duyên chứ không phải nói gái đẹp chung chung, còn giải thích Lam Kiều là “nơi có ngọc” thì sai hoàn toàn, do hiểu sai câu thơ. Câu 643, ý không nói Mã Giám Sinh đến đây mua ngọc hoặc mua mỹ nhân, vì nó giấu nghề chứa gái của nó. Ta thấy nó đặt vấn đề cưới vợ lẽ nàng hầu, cứ xem ở đoạn sau nói đến những từ: “sính nghi” (là lễ dẫn cưới), “nạp thái vụ quy” (đưa tiễn lễ, đón dâu, câu 644, 651); “trăng già” (nguyên lão xe duyên câu 687); “cát đằng” (vợ lẽ, câu 962) v.v… rõ ràng Mã lấy hình ảnh Bùi Hàng đưa chày ngọc đến để được cưới Vân Anh nhằm nói việc xin cưới Kiều. Chính vì hiểu nhầm một lời ví von, nên NTG mới tưởng nhầm là Nguyễn Du lấy chữ nọ dùng thay cho chữ kia một cách ép buộc.

3. Chữ yêu đào cùng với các biến thể của nó là đào thơ, thơ đào, đào non, đào tơ ở trong những câu sau đây:

503. Vẻ chi một đoá yêu đào,
Vườn hồng chỉ dám ngăn rào chim xanh

877. Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong.

897. chút thân yếu liễu thơ đào,
Gấp nhà đến nỗi dẫn vào tôi ngươi.

1010. Khoá buồng xuân để đợi ngày đào non.

3075. Qủa mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.

3137. Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm lăm, mới bây giờ là đây.

NTG chú thích về câu 583: “Yêu đào: đáo non, chỉ người con gái trẻ đẹp đến tuổi lấy chồng. Kinh Thi: Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn; chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân = Cây đào mơn mởn xanh non, lá nó rậm rạp; cô con gái kia về nhà chồng, hoà thuận với tất cả mọi người trong gia đình”. NTG lại chú thích ở câu 877: “Thơ đào cũng như nói đào non, yêu đào, nhưng đâu chỉ nói ý con gái còn trẻ người non dạ”. Chú ở câu 897: “Chỉ người con gái mềm mại yếu ớt”.

Ở câu 1010: “Đợi ngày đào non: ý nói đợi ngày lấy chồng…” Ở câu 3076 không chú thích gì thêm, và câu 3137: “Sen ngó là sen mới mọc ngó, sen còn non; đào tơ là đào còn non. Sen ngó đào tơ là nói từ buổi gặp gỡ nhau khi đó còn trẻ trung”.

ĐDA trong TĐTK chú giải nói chung cũng tương tự NTG. Như vậy ta thấy cùng chung một chữ (khi để từ Hán khi để tiếng Việt) mà nghĩa thì thay đổi, khi non trẻ chưa chồng, khi lấy chồng, khi thời kỳ trẻ trung. Có lẽ vì bắt chữ đào yêu phụ thuộc vào Thúy Kiều, nên khi thân thể, hoàn cảnh Kiều thể hiện thế nào thì giảng chữ này theo nghĩa thơ ấy. Tuy trong ngôn ngữ, một tiếng có thể có nhiều nghĩa, nhưng có lẽ không thể có sự khác nhau để ta lẫn lộn giữa trẻ đẹp chưa lấy chồng với nạ dòng lấy chồng khác. Vả lại giải thích tùy tiện như vậy thì ta thấy văn chương của Nguyễn Du có mắc những sơ suất không chặt ché, mâu thuẫn sau đây:

- Câu 503, 504, trong cảnh đêm khuya, trong buồng riêng vắng vẻ chỉ một trai, một gái, chàng trai lửa tình đã bốc, cử chỉ đã có chiều lả lơi, mà cô gái nói lên rằng tôi là yêu đào, gái trẻ đẹp đến tuổi lấy chồng đây, và vườn hồng của tôi không ngăn rào gì chim xanh cả, tức ngụ ý tôi không ngăn trở chàng gì hết, thì liệu chàng trai có làm tới, cô gái có giữ nổi mình không? Liệu đây có phải là ý tứ của một nàng Kiều khôn ngoan đứng đắn không? Tuy về đoạn sau, Kiều lấy đạo đức ra thuyết phục, như mở đầu bằng một ý phụ họa sự lả lơi thì có phải là dại dột không?

- Câu 877, 878, khi Kiều từ biệt mẹ, nói rằng: “Hồ sinh ra phận thơ đào, công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong. Nếu hiểu phận thơ đào là nói con gái yếu ớt non dại thì tuy xuôi ý, nhưng câu hoá ra câu rỗng. Vì theo quan niệm xưa, dù gái dù trai không ai có thể cho rằng mình trả được công cha nghĩa mẹ. Vả lại, ở đây Kiều còn bán mình, một hành động hy sinh mình để cứu gia đình, trong khi em trai lại không làm gì cả, thì phận gái ở đây lại hơn cả phận trai.

- Câu 1010, 3075: Đào non được dùng trong lời Tú Bà dỗ dành Kiều, và lời Thúy Vân đề nghị làm lễ cưới cho Kiều. Ở đây, không nên hiểu đào non là gái đẹp non tơ chưa chồng, mà chỉ có thể hiểu là việc lấy chồng, hoặc lễ cưới mà thôi. Và rõ ràng, nghĩa này mới sát hợp với bài thơ được dẫn ở Kinh thi: Câu trên nói đào yêu, câu dưới nói “chi tử vu quy” là gái lấy chồng. Bài thơ nêu đào yêu để dẫn xuống việc “chi tử vu quy”, vậy là gắn đào non với việc lấy chồng hoặc lễ cưới chứ không liên hệ tới vẻ đẹp hoặc tuổi trẻ của người con gái.

Cứ lấy ý này mà hiểu, thì lời của Kiều nói với Kim Trọng (503) sẽ là: Đơn giản thôi, gái đã lấy chồng rồi thì chồng tự do ân ái, vợ không ngăn trở gì. Lời của Kiều từ biệt mẹ (877) sẽ là: Hổ sinh ra phận giá đi lấy chồng, không còn ở nhà hầu hạ để đền đáp công ơn cha mẹ nữa. Cho đến câu 3137 “Những từ sen ngó đào tơ, mười lăm năm mới bây giờ là đây”, nếu hiểu sen ngó đào tơ là người con gái, hoặc là thời kỳ trẻ tuổi thì vẫn sai. Vì một là, hình ảnh sen ngó là sen mới nhú mầm chưa thành cây, không thể ghép tương đương với đào tơ đã cứng cáp hẳn hoi, tức không thể đặt tuổi sơ sinh ngang với tuổi trưởng thành được. Hai là nếu coi đây là một thời kỳ trẻ tuổi thì khoảng thời gian này ít nhất cũng là dăm ba năm, Nguyễn Du căn cứ vào năm thứ mấy để tính ra cho “đến bây giờ” là “mười lăm năm”? Phải quay về với nghĩa lấy chồng để hiểu câu thơ, và liên hệ đến câu 2242 “Dầu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” để hiểu sen ngó là lúc tình yêu mới nẩy nở. Vậy câu 3137, 38 sẽ có nghĩa là từ lúc bắt đầu yêu nhau, đến nay cưới nhau phải qua mười lăm năm mới thành. Con số mười lăm năm này chưa chính xác.

Tôi cho rằng, giải thích như trên, vừa bám chắc vào xuất xứ (Kinh Thi), vừa thông suốt với mọi câu thơ, không phải tùy tiện thay đổi và gò ép. Mấy dẫn chứng trên, chứng tỏ việc giải nghĩa chữ Hán trong Truyện Kiều có điểm còn cẩu thả.

Về giải thích chữ Nôm, cũng có đôi chỗ cần bàn lại:

Câu 824: “Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. NTG giải thích: “khúc vàng: khúc lòng vàng. Đây chỉ lòng dạ con người ta. Nhân chữ vẻ ngọc mà để chữ khúc vàng cho cân lời đối ý”. ĐDA: “Khúc vàng là khúc nhạc (…), chữ vàng chỉ thêm cho đẹp”. Câu 824 tả tâm trạng Mã Giám Sinh khi đã “cưới” được Kiều. Nếu hiểu “khúc vàng” là lòng dạ Mã Giám Sinh thì không ai chấp nhận được. Không lẽ Nguyễn Du lệ thuộc vào đẹp lời hoặc cân lời đối ý mà cứ cho lòng dạ một tên chủ nhà thổ, ăn chơi trụy lạc, là lòng vàng? Nếu hiểu như ĐDA, thì Nguyễn Du tả Mã Giám Sinh có nét cao qúy là say mê âm nhạc đến mức, đã cách quãng một thời gian dài để lo việc cưới xin, lúc này về ở quán trọ dọc đường, càng thấy Kiều đẹp, càng say mê khúc nhạc đã được nghe trước đây… Tôi cho đây là một hình ảnh gượng gạo, làm sao thấy vẻ đẹp lại mê đàn và tâm trạng này lại dẫn đến việc tính toán, tiền nong vốn lời, đi tới quyết định phá trinh Kiều! Vậy nên hiểu theo cách khác: chữ khúc vàng đây đã làm cho Mã say (như ta nói say ruwowowuj, sau thuốc…), vậy nó lài cái của qúy, đáng giá cao, nếu nắm được trong tay để làm vốn kiếm ăn thì phất to. Cụ thể là buổi “mười trước bẻ hoa”, cũng là “hẳn ba trăm lạng”. Tóm lại, khúc vàng, là giá trị của Kiều, là bản thân Kiều, Mã vớ được, nên ngây ngất càng thấy vẻ ngọc của Kiều, càng say sưa với cái vốn qusy này.

II. Về phiên âm Nôm:

a. Chọn chữ:

1. Câu 249, 250:

Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng lẽo đẽo (hoặc liệu nẻo) đi về chiêm bao.

NTG dùng chữ “bụi hồng liệu nẻo” và giải thích ý cả câu: “không gặp được nhau vì song the đã bị mây Tần khóa kín thì đành gặp nhau trong giấc mộng vậy. Thơ Từ Ân Trinh có câu:

Ngân thược trung quan thỉnh vị tịch, bất như miên khứ mộng trung khan: Khoa bạc mấy lần nghe chưa thấy mở, chi bằng ngủ đi, may được thấy mặt trong giấc mơ”. TĐTK của ĐDA cũng dùng chữ và giải thích tương tự. Tôi thấy ở đây, tả nỗi lòng Kim Trọng sau khi gặp Kiều. Với câu thơ Từ Ân Trinh, ta hình dung được chàng trai đã tiến sát đến trước cửa buồng người đẹp, nghe ngóng mãi không ăn thua gì mới tự nhủ mình: Thôi về đi ngủ để gặp người ta trong giấc mộng. Ý nghĩ này là hợp lý. Nhưng đem gán ý này cho Kim Trọng vừa mới gặp người đẹp hôm qua, mà hôm nay đã nghĩ rằng, không còn cách nào gặp lại trong cõi trần này, thì thật chàng cam chịu thất bại, tuyệt vọng quá sớm. Như vậy, không có cơ sở nào cả. Thực ra, chàng Kim Trọng có nghĩ như vậy đâu. Trong truyện đã nói tiếp ngay sau đó là chàng “nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi” không gặp nàng, chàng lại “xăm xăm đi nẻo Lam Kiều lần sang”. Lại không gặp, chàng thuê ngay nhà hàng xóm “Ngô Việt thương gia”, để “tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông”, rõ ràng chàng tìm gặp và làm mọi cách để gặp trong cõi trần này, chứ không rút lui vào giấc chiêm bao! Vậy giải thích “bụi hồng liệu nẻo” hay “bụi hồng lẽo đẽo” đi nữa, vẫn loanh quanh không có lối thoát. Giá NTG và ĐDT lựa chọn theo câu của Kiều Oánh Mậu trong bản Nôm Đoạn trường tân thanh: “Bóng hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”. Và có thể giảng câu này là bóng dáng nàng Kiều lẽo đẽo, luôn luôn bám theo chàng, biến đi rồi lại hiện ra, lẩn vào giấc ngủ của chàng. Câu này tả đúng tâm trạng một chàng trai si tình, đó là tình hình thực đã xảy ra trong tâm hồn chàng, không phải là một dự tính viển vông nào cả.

2. Câu 1217, 1218:

Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phải vẻ hồng.

Đây tả Kiều ngồi nghe Tú Bà dạy nghề làm đĩ. Với chữ Gót đầu ta có thể hình dung Kiều ngồi chăm chú nghe suốt từ đầu đến đuôi không sót một lời. Vậy nàng chăm chú để học làm đĩ. Như vậy có đúng với tâm lý một nàng Kiều được Nguyễn Du thương xót không? Tôi thấy ở bản Nôm Quan Văn Đường viết cúi đầu. Chữ gót đầu văn vẻ hơn; cúi đầu nôm na hơn. Nhưng cúi đầu ta thấy Kiều không dám chống lại Tú Bà, lại không dám nhìn ai. Nàng xấu hổ, thẹn thừng, đau xót mà nghe, mà nhăn mặt lại, (chau nét nguyệt) mà tái mặt đi, (“phai vẻ hồng”). Vậy có lẽ là chữ “cúi đầu”, tuy nôm na nhưng tả đúng tâm trạng nhân vật hơn.

3. Câu 1951, 1952:

Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.

Đây là Thúc Sinh phân trần với Kiều về chuyện chàng đã để Hoạn Thư hành hạ Kiều. Xét câu “quản chi lên thác xuống ghềnh” thì ra chàng Thúc không quản gì nguy hiểm khó khăn. Nhưng nếu so sánh với việc Thúc Sinh nói sự việc với vợ còn dễ dàng hơn nhiều mà cũng không dám làm, thì lời nói này không quá khoác lác hay sao? Vả lại, lên thác xuống ghềnh không phải là việc dẫn tới cái chết như chàng nêu ở câu dưới. Tôi thấy bản Quan Văn Đường ghi: “Quản chi trên gác dưới duềnh”. “trên gác” ngụ ý treo cổ ở trên gác, “dưới duềnh” ngụ ý trẫm mình dưới nước sâu, tức tự tử. Thúc Sinh không dám nói việc tự tử để sống chết với tình, như vậy có vẻ như là mâu thuẫn. Nhưng việc khó thì thực tế đã chứng tỏ Thúc Sinh không dám làm, còn việc tự tử thì dám nói, vì có một chỗ dựa cho chàng Thúc tự cứu: đó là chàng chưa có con trai để nối dõi tông đường. Mà đạo lý lại đòi hỏi điểm này. Nếu không có con trai là bất hiếu hạng nhất. Đạo lý này là chỗ dựa vững chắc để Thúc Sinh tự bào chữa. Để giữ chữ hiếu, chàng phải sống “cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai”. Chắc chắc Kiều không trách được chàng vì Kiều cũng đã giữ chữ hiếu, bỏ chữ tình.

b. Cách phiên:

1. Câu 92: “Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương”. NTG chú thích: “Kiếm: tìm; đây là tìm ra mà đem dâng”. Nhưng hương đã sẵn đây rồi không cần tìm kiếm nữa. Chữ “kiếm” @ còn có thể đọc cắm, và chữ này hợp hơn. Sẵn hương đây đốt lên, cắm vài nén trên mộ Đạm Tiên.

2. Câu 231: “Đoạn trường là số thế nào”, chữ số @ NTG và ĐDA đều phiên số với nghĩa số phận. Đây là lời Kiều hỏi mẹ về lời báo mộng của Đạm Tiên “Trong sổ đoạn trường có tên”, và “ví đem vào tập đoạn trường”. Ở đây phiên sổ đúng hơn, còn ý số phận thì phận con thôi có ra gì mai sau”, mà ý này do “cứ trong mộng triệu mà suy” ra, và cũng không khẳng định là số đoạn trường. Các chữ đoạn trường dùng ở trong Truyện Kiều không thấy gợi lên một số mệnh đoạn trường nào cả.

3. Câu 871, 872:

Bề ngoài mười dặm trường đình,
Vương Ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.

Các sách xuất bản bằng Quốc ngữ xưa này đều ghi ở câu 871 là “Bề ngoài”… TĐTK - ĐDA ở phần phụ lục văn bản Truyện Kiều cũng vẫn để chữ bề ngoài, mặc dù phần chú giải ở trang 50 đã có quan tâm tới ý kiến của tôi, nhưng giới thiệu chữ vừa ngoài một cách quá tóm tắt, nhân đây xin bàn thêm:

Nếu phiên âm “Bề ngoài”, thì câu này vô nghĩa. Ta thường dùng chữ “bề ngoài” khi có ý phân biệt với “bề trong”, do bề ngoài và bề trong trái ngược nhau, hoặc do bề trong không thể nhận thức rõ ra sao. Ví dụ “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”, hoặc “Thực chất không hiểu ra sao, nhưng nom bề ngoài thì đẹp”… ở trong câu Truyện Kiều, nói Vương Ông tiễn còn, ở đoản đình chưa đặt tiệc, ở trường đình vẫn chưa chia tay với con, mà ngoài mười dặm trường đình thì quá xa, xa hơn trường đình, đành mở tiệc từ biệt con. Đây ngụ ý sự bịn rịn, không có gì cần chú ý phân biệt giữa bề trong với bề ngoài. Chữ chính cần nhấn là chữ “ngoài” nghĩa là xa hơn. Nếu thêm chữ “bề” nghĩa sẽ đổi khác. Vậy đây là do phần phiên âm nhầm. Chữ Hán @ dùng để ghi âm Nôm này, có thể đọc thành ba âm khác nhau: bì, bề, vừa. Các chữ “vừa” trong Truyện Kiều đều dùng chữ “bì” này cả. Như “ngày vừa sinh nhật ngoại gia”, nếu đọc là bề hoặc thấy sai ngay. Còn chữ bề ngoài thường người ta dùng thuận miệng nên dễ ghi nhầm ở đây. Chữ vừa thông thường có nghĩa là đúng vào thời gian đó, hoặc đúng ở địa điểm đó. Ở tronowrtcaau 871 còn có thể hàm ý nghĩa rằng Vương Ông tiễn con đến đó là đi xa lắm rồi, vừa phải rồi, cần chia tay.

Tôi xin dừng ở đây với lòng mong mỏi được sự phê bình chỉ giáo xác đáng, nhằm làm sáng tỏ thêm chữ nghĩa Truyện Kiều.

TB

MẤY SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN HỌC NGUYỄN QUỲNH

TẢO TRANG

Trong kho tàng văn học dân gian, Trạng Quỳnh là một nhân vật đặc biệt, với hàng loạt câu chuyện hóm hỉnh, chĩa mùi nhọn vào chế độ phong kiến, đả kích vua chúa quan lại, và ngoài triều đình, còn có cả những vị thần thiêng như thành hoàng làng, bà chúa Liễu.

Trước đây, sách vở cũ cho biết những chuyện về Trạng Quỳnh bắt đầu từ một nhân vật có thực là Nguyễn Quỳnh, người huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa, từng đỗ Hương cống nên gọi là Cống Quỳnh, học giỏi, tính thích hài hước ngạo đời. Cuốn sách Trạng Quỳnh (Nxb Văn học - Nxb Thah Hóa 1987) do Nguyễn Đức Hiền cháu 8 đời của Nguyễn Quỳnh biên soạn, với sự cộng tác của GS Hà Văn Tấn đã làm sáng tỏ mối liên hệ này. Tên sách Trạng Quỳnh có lẽ đúng ra nên là Cống Quỳnh và Trạng Quỳnh, vì phần đầu chiếm trên 1/3 tập sách dành cho Nguyễn Quỳnh, giới thiệu tiểu sử dựa trên gia phả, cùng những sáng tác văn học của ông, sau đó mới tới phần Trạng Quỳnh, với những câu chuyện thuộc dòng văn học dân gian, phần lớn đã được ghi chép trong nhiều sách.

Phần đầu nói về Nguyễn Quỳnh do GS Hà Văn Tấn viết, dựa vào những tài liệu văn tự, cho thấy Cống Quỳnh đã nổi tiếng văn học từ hồi còn trẻ; sau khi thi đỗ, ông từng ra làm quan, phần lớn ở Kinh thành Thăng Long, nhưng chức vụ bình thường, chắc vì không vừa lòng cấp trên, do tính hài hước giễu cợt khinh đời của ông, như đã được ghi trong sách Đại Nam nhất thống chí. Điều đáng quý của cuốn sách là lần đầu tiên đã cho ra mắt bạn đọc hầu như toàn bộ tác phẩm văn học của ông được biết cho đến nay: 6 bài văn chép trong gia phả (chỉ in bản dịch), và 2 bài phú rút từ sách Lịch triều danh phú (phiên âm nguyên văn và dịch theo thể phú). Lời dịch cẩn trọng, có chú thích cặn kẽ, có thể coi là một công trình khoa học khá nghiêm túc. Để góp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu và đánh gia nhà văn học Nguyễn Quỳnh, bài viết này có một số ý kiến về những chỗ cần đi sâu thêm ở những tác phẩm của ông đã được giới thiệu trong sách. Riêng về 6 bài văn trích từ gia phả, sách chỉ giới thiệu không kèm nguyên văn, nên bài này chỉ nêu đôi chỗ đáng bàn ở chú thích cuối trang.

A. Về các bài văn trích từ gia phả:

- Bài Tư mẫn đường ký, câu “năm 22 tuổi, tuổi phải đi dạy học ở xã Thứ nhất”, chú thích 7 ở trang 43: “chưa rõ ở đâu”. Sách Các trấn tổng xã danh bị lãm (đã được Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho dịch in dưới tên Làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 (Nxb KHXH, 1981) cho biết xã này thuộc tổng Hành Vi, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa, tức cùng tổng với quê Nguyễn Quỳnh.

- Bài Tốt khốc văn (tr. 48), có câu: “Vui niềm hoà hợp lúc còn, muốn nói thơ Thường ngạc. Đau nỗi chia ly khi thác, khó ngâm khúc Khuê biền” (tr. 49). Chú thích 1 ở cuối trang:”… Thường lệ còn gọi là Đường lệ. Đường ngạc là đài của hoa cây đường lệ. Trong bài Thường lệ có câu: “Hoa đường lệ, đài không rực rỡ. Người ngày nay không ai bằng anh em”. Nguyên văn chữ Hán câu này: “Thường lệ chi hoa, Ngạc bất vĩ vĩ. Pham kim chi nhân. Mạc như huynh đệ”. Đầu tiên, lời trích dẫn “Hoa đường lệ đài không rực rỡ” không thật sát. Kinh thi chỉ gọi là thường lệ, vì chỉ là một tên khác, không gợi thêm ý nghĩa gì đối với người Việt, nên cứ dẫn theo nguyên văn “Hoa thường lệ”. Sau nữa, “ngạc bất vĩ vĩ” thường được giảng: “dáng bề ngoài há chẳng rực rỡ sao!” (ngạc: dáng bề ngoài; bất: khởi bất, tức “há chẳng”) (X. Khâm định Thi kinh truyện thuyết, bản Hải Thượng thạch bản a. 10; J. Legge Che kinh Hong Kong University press 1960, tr. 747). Một thuyết khác giảng “ngạc” là đài hoa, đọc chữ “bất” theo âm “phu” coi như thay chữ “phu”, viết với bộ “mộc” (cây, gỗ) bên chữ “phó” (cấp cho) chỉ bộ phận bên dưới đài hoa, núm đài hoa (x. Khâm định Thi kinh và J. Legge 2 sách đã dẫn trên, và Từ nguyên, Từ Hải mục chữ “bất”). Cả câu đọc “Ngạc phu vĩ vĩ” có nghĩa “núm đài hoa rực rỡ”. Với cả hai cách hiểu “dáng bề ngoài” hay “núm đài hoa”, cả câu thơ đều nhấn mạnh vẻ đẹp: dáng hoa đẹp, hoa có núm đài đều đẹp, như anh em hòa thuận, tương xứng gắn bó với nhau: “Bất vĩ vĩ” không thể có nghĩa “không rực rỡ”.

Chú thích 2 (cùng trang 47): Khuê biền: tên bài thơ trong Kinh Thi, được coi là lời trách vua U Vương không hòa mục với anh em họ hàng”. Nhưng thực tế, bài thơ này - một bài ca trong yến tiệc - ca ngợi tình cảm thân thiết quí mếm lẫn nhau giữa anh em thân thích trong bữa ăn vui vẻ hội họp, không hề thấy nói tới vua U Vương (X. lời lẽ bài thơ cùng cách giải thích ở các sách đã dẫn trên về Kinh Thi ). Lời chú thích trên thực ra đã dựa trên cách giải thích của nhiều cuốn từ điển, như Từ Hải, Trung Văn đại từ điển, các từ thứ này lại dựa trên Thi tự, tập hợp những lời tiên nho trước đời Hán về từng bài trong Kinh Thi. Nhưng từ xưa, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: nếu tin những lời của Thi tự rất dễ bị lừa (X. Kim Công Lượng Thi Kinh học ABC (Thế giới thư cục, Thượng Hải, 1929, tr 110-115. Từ Hải, mục Thi tự) Đọc bài Khuê biền trong Kinh Thi, ta thấy gồm ba đoạn ca ngợi tình thương yêu ruột thịt trong yến tiệc liên hoan giữa các anh em thân thích. Nội dung bài thơ cùng những lời tiên nho giải thích kèm theo (X. các sách đã dẫn) chỉ nhấn mạnh tình cảm thân yêu giữa anh em họ hàng ruột thịt, không hề nói tới việc chê U Vương, và hiểu như thế hợp với câu văn của Nguyễn Quỳnh hơn “Đau nỗi chia ly khi thác, khó ngân khúc Khuê Biền”: “khó ngâm”, vì bài thơ này tán dương tình thương mến giữa anh em trong yến tiệc vui vẻ, nay em đã từ trần, ngâm bài đó sao còn hợp.

B. Về hai bài phú trích từ “Lịch triều danh phú”

1. Bài “Kim bạch tài vật phú”

- Tr. 52: Quan địa sơn hà trở trệ (dịch: đất Quan Trung núi sông cách trở (tr.56). Theo nguyên bản: sơn hà tự (đất trũng, ẩm thấp) đới (đai). “Sơn hà @ tự đới”, sông núi vành đai ẩm thấp, nghĩa này chưa thật chắc chắn, cần đi sâu thêm, nhưng dù sao 2 chữ trong bài phú không phải là “trở trệ”.

- Tr. 53: Khả cấp dao du chi phí (tr.57 dịch: đủ phí tổn rong chơi). Cần sửa theo nguyên văn: khả cấp tuần du chi phí (đủ chi phí cho việc tuần tra xem xét).

- Tr. 53: Yừn yên chẩm lạc ư thâm cung: Dịch (tr. 57): ăn yên ngủ kỹ ở thâm cung. Sửa theo nguyên văn: yến yên đam lạc (vui chơi say đắm).

- Tr. 53: Cố liễm hồi tàng văn ư trủng tế

Nhi tích (…) tái kiến ư chu thư

Câu trên, sửa “tàng văn” thành “tằng văn” (lỗi nhà in).

Câu dưới “Chu thu”, tr. 57 cũng dịch là “Chu thư”, cần sửa theo nguyên văn: “chu thi”, thơ đời Chu, tức Kinh thi. Chi tiết này cho phép điền vào chữ chép thiếu trong nguyên văn sau chữ “tích”. Cả hai chữ là “tích thương”, lấy ở bài Công Lưu (Kinh Thi, Đại nhà), có câu “nãi tích, nãi thương” (bèn gom lại, bèn cất chứa trong kho) (X. Kinh Thi tập truyện, Tạ Quang Phát dịch, Sđd. tập 3, tr. 1481).

- Tr.53: bột nhập vong bột xuất chi trừng. Bản dịch (tr. 58) kèm chú thích đều in “bột nhập, bột xuất”. Cả mấy chỗ đều in lầm, cần sửa “bột” thành “bội” (làm trái).

2. Bài “Tần cung phụ nữ”

- Tr. 60: “Tố phú qúy hành hồ phú quí”. Dịch (tr. 63): “Đã phú quí thêm phần phú Quý”, dịch là: “thêm phần” không sát nghĩa. Câu này lấy ở sách Trung dung (chương 14): “quân tử tố kỳ vị nhi hành… tố phú quí hành hồ phú qúy, tố bần tiện hành hồ bần tiện” (Người quân tử hành động theo đúng địa vị hoàn cảnh của mình, ở cảnh giầu sang, hành động theo cảnh giầu sang, ở cảnh nghèo hèn, hành động theo cảnh nghèo hèn). Có thể tạm sửa câu trên: “Trong phú qusy, sống theo phú qúy”.

- Tr. 60: “Quan tú lệ ư chân duy cẩm trướng”. Dịch (tr. 64):

“Diễm lệ giữa màn châu trướng gấm”. Chữ “quân” đọc không đúng. Chữ này nguyên văn viết với chữ Tịnh (gồm, ngang nhau) trên chữ Kiến (nhìn thấy), không được ghi trong các từ điểm Trung văn thông dụng (như Từ nguyên, Từ Hải). Tự điển Khang Hi có ghi ở phần Bị khảo, đọc là “cánh”, không chua nghĩa. Trung văn đại từ điển ở q.30, bộ Kiến (thấy) có chữ này, ghi “nghĩa chưa rõ, âm cánh. Nhưng ở các sách Hán Nôm chép tay của ta, vẫn thường thấy viết chữ này thay chữ “cạnh”, @ có nghĩa “tranh giành”, “ganh đua” (X. thêm Tạp chí Hán Nôm 1/1988, biểu số 1, giữa tr. 25-25). Trong bài phú, 2 câu: “Sính thiền quyên ư phấn hạp hương liêm… Cạnh tứ lệ ư châu duy cẩm trướng có thể tạm dịch: “Lả lơi dáng thuyền quyên nơi hộp phấn rèm hướng… Ganh đua vẻ xinh tươi nơi màn châu trướng gấm…”

- Tr. 61: “Tứ thượng nãi ông”, dịch (tr. 64): “Bố già Tứ Thượng”, kèm chú thích: “Bố già Tứ Thượng (nguyên văn là Tứ Thượng nãi ông) tức Lưu Bang. “Nên chú thích rõ hơn: “nãi ông” có nghĩa “bố ngươi”, “bố mày”, lời Lưu Bang tự xưng (giọng khinh miệt), khi nói với quần thần, nên trong văn chương cũ, thường dùng, “nãi ông”, “nãi công” để chỉ nhân vật này.

- Tr. 62: “Thị sái ông quân thần chi đa yếm”. Phiên âm không sát. Sửa: “thị nãi ông”, một cách viết khác của chữ “nãi” trong “Tứ Thượng nãi ông” nói trên.

- Tr. 62: “Hồi đầu đông đạo biệt ly thì, trướng chư tử bán sinh chi trở ngữ”, dịch (tr. 67): “Quay đầu đông đạo buổi chia ly, tiếc các chú nửa đời lăn lóc”. “Chư tử” được dịch “các chú” tức chỉ các tướng sĩ của Lưu Bang đã được lệnh cấm không được đến với các cung nữ nhà Tần đang mong đợi họ. Nhưng trong bài phú, từ “trở ngữ” có nghĩa răng khấp khểnh, hàm trên hàm dưới không ăn khớp với nhau. Từ này chuyển nghĩa, chỉ công việc trắc trở, vướng mắc, không được toại nguyện. Và như vậy, “trở ngữ” thích hợp hơn với cung nữ nhà Tần trong bài phú, đang mong đợi đón tiếp đoàn quân Lưu Bang tới liên hoàn sau ngày chiến thắng Hạng Vũ, không ngờ Hán vương đã theo lời can ngăn của Trương Lương và Phàn Khoái, tự răn mình và cấm đoán các tướng sĩ không được lui tới tiếp xúc các cung nữ nhà Tần (chữ “tử” trong “chư tử” có thể dùng để chỉ cả nam lẫn nữ). Nếu hiểu như vậy, có thể tạm thấy mấy chữ trong câu phú, dịch lại như sau: “Đưa mắt Tây cung ngày hoan lạc, mến các nàng một thuở phong lưu. Quay đầu đông đạo buổi chia ly, thương các ả nửa đời trắc trở, dĩ nhiên trong nhiều trường hợp, câu chữ Hán có thể hiểu theo nhiều nghĩa và có thể có sự tranh cãi. Nhưng thường nếu như vậy cũng nên ghi thêm lối liểu khác để người đọc có thể so sánh, tự chọn cách giải thích mình thấy hợp lý.

- Tr. 62 “Chí kim duyệt khan Tần sử”. Sửa “duyệt quan” (xem, chú ý xem) cho đúng nguyên văn.

*
**

Sau khi phân tích những tác phẩm văn học của Nguyễn Quỳnh, GS Hà Văn Tấn viết: “Chỉ với những bài văn tế và những bài phú bằng chữ Hán nói trên, theo tôi nghĩ, vị trí của Nguyễn Quỳnh trong lịch sử văn học cần được đánh giá khác trước (tr.21, in ngả trong nguyên văn). Người đọc rất đồng tình với nhận định trên. Bài viết nhỏ này nhằm giúp ích thêm cho việc tìm hiểu đánh giá sự nghiệp văn học của Nguyễn Quỳnh nhân vật lịch sử, bên cạnh Trạng Quỳnh nhân vật truyền thuyết đã chiếm một vị trí hàng đầu trong văn học dân gian.

TB

VỀ TIỂU SỬ CỦA LÊ ANH TUẤN THƯỢNG THƯ NHÀ THƠ ĐẦU THẾ KỶ XVIII

NGUYỄN XUÂN DIỆN

Trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (8)-1990 có bài viết Lê Anh Tuấn Thượng thư nhà thơ đầu thế kỷ XVIII của Nguyễn Tuấn Lương. Bài viết đã cung cấp được những chi tiết quan trọng về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Anh Tuấn, đồng thời đưa ra nhiều nhận xét thú vị về giá trị nội dung và nghệ thuật thơ của vị quan Thượng thư họ Lê.

Với bài viết lần này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài vấn đề nhằm làm sáng rõ hơn về tiểu sử của Thượng thư - nhà thơ Lê Anh Tuấn.

Về Lê Anh Tuấn, Lược truyện các tác gia Việt Nam (LTCTGVN) của Trần Văn Giáp ghi: “Lê Anh Tuấn, hiệu Dịch Hiên, người làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong (?). Không rõ ông sinh và mất năm nào. Năm 1704, ông đậu Tiến sĩ, sau được sang sứ Trung Quốc, làm đến Hộ bộ Thượng thư, tước Điện quận công” (1).

Trước hết, chúng tôi nói về cái dấu hỏi ở đằng sau chữ “huyện Tiên Phong” trong LTCTGVN. Nhiều thư tịch Hán Nôm, nhiều công trình nghiên cứu về địa danh hành chính và các vấn đề khác đã cho biết huyện Tiên Phong thuộc phủ Quảng Oai (có thời thuộc phủ Quốc Oai) trấn Sơn Tây. Chẳng hạn sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú có chép: “Trấn Sơn Tây có 6 phủ, 24 huyện”. Sáu phủ đó là: “Quốc Oai, Tam Đới, Lâm Thao, Đoan Hùng, Quảng Oai và Đà Dương”(2).

Huyện Tiên Phong là một huyện phủ Quảng Oai. Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Nxb KHXH, 1981) thì trấn Sơn Tây gồm 5 phủ, 24 huyện. Phủ Quảng Oai gồm 4 huyện, 30 tổng, 200 thôn, sách, phố, giáp. Xã Thanh Mai là một trong 6 xã thuộc tổng Thanh Mai, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai.

Sách Địa bạ tỉnh Sơn Tây, biên soạn năm Gia Long thứ 4 (1805) có đoạn chép: Sơn Tây tỉnh, Tiên Phong huyện, Thanh Mai tổng, Mai tri xã địa bạ”. Huyện Tiên Phong cũng trải qua một số lần chuyển đổi theo các đơn vị hành chính khác nhau. Năm 1742 cắt huyện Phúc Lộc của phủ Quốc Oai và huyện Tiên Phong của Tam Đới cho về phủ Quảng Oai.

Như vậy, mặc dù có sự thay đổi, huyện Tiên Phong vẫn nằm trên đại bàn trấn Sơn Tây hoặc tỉnh Sơn Tây.

Chúng tôi cũng đã xem các sách nghiên cứu viết về xứ Kinh Bắc (nay là Hà Bắc), không thấy tên huyện nào là huyện Tiên Phong. Tìm đến huyện Yên Dũng, thấy huyện có 11 tổng 80 xã, phường. Xã Thanh Mai là một trong bảy xã thuộc tổng Đa Mai của huyện.

Sách Lê tộc gia phả ký hiệu A. 2807, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm do Lê Trần Hiệu, người thôn Mai Trai, xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây biên tập năm Gia Long 9 (1810) chép gia phả họ Lê ở thôn Mai Trai, xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong, Phủ Quảng Oai (nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), Thượng thư Lê Anh Tuấn là người trong họ Lê này.

Về năm sinh, năm mất và năm đỗ Tiến sĩ của Thượng thư Lê Anh Tuấn:

Sách Lê tộc gia phả chép rằng: “Tướng công sinh ư Tân Hợi niên, ngũ nguyệt, thập nhất nhật, Dậu thời. Thọ lục thập lục thuế, tốt ư Bính Thìn niên, ngũ nguyệt, thập lục nhật, Tỵ thời”. (Tướng công [Lê Anh Tuấn] sinh giờ Dậu, ngày mười một, tháng năm, năm Tân Hợi (1671); mất vào giờ Tỵ, ngày 16 tháng 5 năm Bính Thìn (1736), thọ 66 tuổi).

Về thân mẫu của Lê Anh Tuấn , Lê tộc gia phả chép rằng bà họ Nguyễn á thất được ấm phong chính thất, húy Thành, hiệu Từ Tuy Phu Nhân. Lê Anh Tuấn là con trai trưởng của bà. Không thấy cuốn gia phả này nói bà quê ở đâu và Lê Anh Tuấn có sinh ở quê mẹ hay không.

Các sách LTHCLC, Lịch triều đăng khoa lục tuy không chép Lê Anh Tuấn sinh năm bao nhiêu, song đều có chép ông đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hòa 15 (1694). Riêng LTHCLC có chép thêm rằng ông mất năm Bính Thìn (1736), thọ 66 tuổi. Như vậy căn cứ theo các sách này, đối chiếu với Lê tộc gia phả thì thấy năm sinh, năm mất mà Lê tộc gia phả chép là đúng.

Lê Anh Tuấn đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 15 đời Lê Hy Tông (1694) chứ không phải đỗ Tiến sĩ năm 1704 như Trần Văn Giáp chép trong LTHCLC. Tức là Lê Anh Tuấn đỗ Tiến sĩ năm 24 tuổi, chứ không phải là vào năm 33 tuổi.

Về cái chết của Thượng thư Lê Anh Tuấn:

Thái độ của các chúa Trịnh đối với Lê Anh Tuấn có khác nhau. An Đô vương Trịnh Cương (tức Nhân vương) rất quý mến tin dùng ông. Trong phần kể về Nguyễn Công Hãng (tức Sóc Quận công - người được phong quận công cùng Lê Anh Tuấn, cũng là người làm việc trong phủ chúa với Lê Anh Tuấn), sách LTHCLC chép: “Nhân vương rất tin dùng; có khi mới canh năm sai Trung sứ ra vời ông (Nguyễn Công Hãng - N.X.D) và Lê Anh Tuấn vào để bàn việc. Lúc ấy hai ông còn ngủ chưa dậy. Nhân vương ngồi đợi. Khi họ đến, Nhân vương cười bảo: “Vừa rồi cho người đến đánh thức dậy, từ xưa có việc thế không? “Hai ông đều lạy tạ. Chúa cho uống trà, thong thả hỏi các công việc đến trưa mới ra về. Lòng chúa thân mật, khẩn khoản đến như thế” (Sđd. tr. 231).

Cũng sách trên, phần kể về Lê Anh Tuấn có chếp: Ông giữ chức Tể tướng đã lâu, về sau có ý cậy quyền; Thuận vương (tức Uy Nam vương Trịnh Giang) từ lâu đã không bằng lòng. Gặp khi có người gièm rằng lúc trước ông cùng Nguyễn Công Hãng mưu thay đổi ngôi chúa, nên thuận vương thêm ngờ ghét. Năm Giáp Dần (1734) ông bị giáng Thừa Chính Sứ Lạng Sơn. Năm Bính Thìn (1736) chúa bắt ông phải chết. Bấy giờ ông 66 tuổi” (sđd. tr. 231).

LTHCLC còn ghi: “Năm Tân Dậu đời Cảnh Hưng (1741) Ân vương (Trịnh Doanh) lên, trả lại quan tước cũ cho ông, tặng Thái Bảo, thụy là Đạt Nghị”.

Về quan hệ giữa Thượng thư Lê Anh Tuấn với Lê Quý Đôn và Đoàn Thị Điểm:

Hai tài liệu của ông Bùi Hạnh Cẩn là Lê Quý Đôn (Nxb Văn hóa, HN, 1985) và Bà Điểm họ Đoàn (Trung tâm VNKH Văn Miếu, 1988) đều ghi rõ ràng rằng Bà Đoàn Thị Điểm (Hồng Hà nữ Sĩ) là con nuôi của Thượng thư Lê Anh Tuấn. Các tài liệu này còn ghi Nguyễn Kiều (1694-?) lấy con gái của Thượng thư Lê Anh Tuấn (sau bà này mất) Nguyễn Kiều lại lấy Đoàn Thị Điểm (con nuôi của Thượng thư Lê Anh Tuấn. LTHCLC của Phan Huy Chú; Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (Nxb Văn học, HN, 1962) và cả cuốn Lê tộc gia phả (A.2807) (thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) phần kể về Thượng thư Lê Anh Tuấn và những người có liên quan, đều không thấy ghi chi tiết này. Vấn đề quan hệ giữa Thượng thư Lê Anh Tuấn và nữ sĩ Đoàn Thị Điểm cần phải được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và đi đến thống nhất. Nếu việc Hồng Hà Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là con nuôi của Thượng Thư Lê Anh Tuấn là có thực mà lại không ghi trong ba sách trên thì đó cũng là thiếu sót của các tác giả.

Các sách mà chúng tôi kể trên cũng không cho biết gì về quan hệ giữa Thượng thư Lê Anh Tuấn và Lê Qúy Đôn.

Về các tác phẩm của Thượng thư Lê Anh Tuấn:

LTHCLC của Phan Huy Chú cho biết Lê Anh Thuấn được sung chức Chính sứ sang Thanh vào năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Theo chúng tôi, thì Hầu như thơ của Lê Anh Tuấn được sáng tác trong thời gian đi sứ của ông, những bài thơ đó được chép trong cuốn Toàn Việt thi lụ c ký hiệu A.132 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) gồm “17 bài thơ cổ thể và một bài thơ cận thể” mà ông Nguyễn Tuấn Lương đã giới thiệu.

Những ngày cùng đoàn sứ bộ của nước nhà làm công tác ngoại giao với nhà Thanh (Trung Quốc) là những ngày ông sáng tác nhiều. Cảm hứng sáng tác dồi dào giúp ông viết những bài thơ về đất nước Trung Quốc, về nỗi nhớ nhà, nhớ nước và về tình cảm bạn bè. Đáng chú ý là trong các bài này có một số bài tặng, đối đáp, thù tạc với các quan chức lễ tân Trung Quốc, biểu hiện tình cảm tốt đẹp của ông đối với họ. Ngoài các tác phẩm thơ kể trên, Thượng thư Lê Anh Tuấn còn là tác giả của một số văn bia mang ký hiệu 6562, 6563, 7140-41, 5576 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

Qua phần trình bầy trên đây, chúng tôi muốn làm rõ thêm một số chi tiết về cuộc đời Lê Anh Tuấn - Thượng thư, nhà thơ đầu thế kỷ XVIII, năm sinh, năm mất, quê quán, việc đi sứ và các bài thơ trong thời gian đi sứ; cùng những hành trạng của ông.

CHÚ THÍCH

(1) LTCTGVN, Nxb Sử học, Hà nội, 1971, tr. 285.

(2) LCHCLC, Nxb Sử học, Hà Nội 1960 tập 1. Đến thời Vĩnh Thịnh (1705-1720), bỏ phủ Đà Dương cho huyện Tang Nông về phủ Lâm Thao, cho huyện Bất Bạt về phủ Quảng Oai.

TB

THÊM MỘT SỐ BÀI THƠ NÔM CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

NGUYỄN DOÃN TUÂN

Từ trước cách mạng tháng 8, thơ Nôm Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều lần được xuất bản, nhưng chưa lần nào vượt quá con số 100 bài(1). Mãi đến năm 1983, nhóm biên soạn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (TVNBK) do Giáo sư Đinh Gia Khánh chủ biên, phần thơ Nôm do Hồ Nhữ Sơn biên soạn, đã công bố được cả thảy 161 bài(2). Phải nói đây là một bước tiến dài trong việc sưu tập, chỉnh lý và giới thiệu thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 500 ngày sinh của Trình Quốc công (1491-1991), chúng tôi xin giới thiệu thêm 12 bài thơ Nôm nữa của ông, hy vọng góp thêm tư liệu vào việc nghiên cứu một nhà thơ, một nhà giáo không chỉ có uy tín ở thế kỷ 16, mà còn tỏa ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế kỷ sau.

1. Những bài thơ do chúng tôi phát hiện thêm, chủ yếu nằm trong các sách sau đây của Viện Nghiên cứu Hán Nôm:

Bạch Vân thi tập, ký hiệu AB. 157; Trình Quốc Công Bạch Vân thi tập, ký hiệu AB.309; và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, ký hiệu AB. 635. Hai văn bản AB.157 và AB.309 tuy khác nhau về kích cỡ, kiểu chữ và có thể nhận biết được AB.309 là bản cổ hơn, nhưng cả hai đều có số lượng thơ là 100 bài và 100 bài này về cơ bản lại trùng nhau cả về nội dung cũng như số thứ tự bài(3). Do vậy chúng tôi gọi chung hai văn bản này là bản B. Bản AB.635 có phần tiểu dẫn ở đầu sách, tuy bị nát, nhiều chỗ mất chữ, nhưng vẫn giữ được gần trọn vẹn 183 bài(4). Chúng tôi thấy bản này vừa cổ hơn, vừa có số lượng bài nhiều hơn bản trên, nên gọi là bản A. Nếu đối chiếu, ta sẽ thấy 100 bài của bản B trùng với 100 bài đầu của bản A, từ bài số 1 đến bài số 100(5). Giữa chúng có sự khác nhau chút ít về thứ tự bài và số câu của một số bài. Cụ thể là: về thứ tự thì từ bài số 1 đến bài số 56 cả hai bản đều như nhau. Nhưng bài số 57 của bản B lại tương ứng với bài số 60 của bản A và ngược lại. Từ bài số 61 đến bài số 68 hai bản trùng nhau. Bài số 69 của bản A lại tương ứng với bài số 70 của bản B và ngược lại. Từ bài số 71 đến bài số 100 hai bản lại trùng nhau. Về số câu của từng bài thì bản A gồm 1 bài 4 câu, 10 bài 6 câu và 89 bài 8 câu. Bản B gồm 1 bài 4 câu; 12 bài 6 câu và 87 bài 8 câu. Hai bản trùng nhau bài số 98 đều có 4 câu và các bài 1, 4, 6, 55, 61, 83, 99, 100 đều có 6 câu. Một số bài có sự so le là: bài 28, 38, ở bản B có 8 câu thì ở bản A chỉ có 6 câu; các bài 46, 66, 73, 91 ở bản A có 8 câu thì ở bản B lại chỉ có 6 câu. Trong số các bài trùng nhau kể trên, có bài số 1 và bài số 100 trùng nhau cả số chữ (bài 1 đều có 41 chữ, bài 100 đều có 42 chữ). Tuy có sự chênh lệch một số câu ở một số bài như đã thấy nhưng về cơ bản thì 100 bài ở bản B đã được phản ánh khá đầy đủ ở 100 bài đầu của bản A. Đáng chú ý là sau bài số 100 ở bàn A, tr. 38, có dòng chữ: “Trình Trạng nguyên hựu thi nhất bách” (lại thêm 100 bài thơ của Trình Trạng nguyên). Tiếp đó, có 4 chữ: “Trình công ngâm thi” và chữ “đệ nhất” (bài thứ nhất). Nếu căn cứ vào các thông tin trên thì bản A còn có thêm 100 bài nữa, nhưng thực tế chỉ có 83 bài. Chúng tôi ức đoán có thể có hai lý do. Một là, cách ghi ở trên chỉ nhằm làm tròn số, chữ không phải là con số thực. Ngay trong thơ của mình, ở bài số 135, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng tác đến 1000 bài thơ. Hai là, nếu con số 100 bài là đáng tin cậy thì người sao chép văn bản này do chép rời từng tờ lại không đánh số trang, số bài, nên khi đóng lại, đã bỏ sót mất 17 bài, và chính sơ xuất này đã tạo ra sự lộn xộn của một số tờ sách như đã nói ở trên. Dẫu sao thì cho đến nay còn được một văn bản với 183 bài thơ Nôm cũng là một sự may mắn đối với giới nghiên cứu.

2. Đối chiếu 161 bài trong TVNBK(6) với bản A (từ đây trở xuống gọi là bản Nôm) chúng tôi thấy còn 22 bài chưa được TVNBK công bố đó là các bài số: 10, 13, 21, 50, 53, 69, 91, 98, 121, 159, 160, 165, 168 và 9 bài từ 175 đến 183. Do có những tờ của bản Nôm bị rách nát, có những chữ, những câu trong một số bài không thể khôi phục được, nhưng chúng tôi cũng đã xác định được nguồn gốc của 22 bài đó. Trong số ấy, bài số 98 chỉ có 4 câu và cũng là bài duy nhất có 4 câu trong văn bản này; bài 176 có 6 câu; 20 bài còn lại đều có 8 câu. Riêng các bài số 69 và 91 tuy có một số dị biệt(7), nhưng căn bản trùng với bài số 133 và 78 trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Như vậy là cùng với 28 bài trùng với QÂTT đã công bố trong TVNBK, nay lại có thêm hai bài nữa, nâng số bài trùng lặp giữa hai tác giả lên tới 30 bài.

Do phạm vi bài viết, lần này chúng tôi không thể công bố được hết 22 bài, mà chỉ xin giới thiệu trước 12 bài, số còn lại sẽ giới thiệu vào một dịp khác.

Để bạn đọc tiện theo dõi, ở đây chúng tôi ghi số thứ tự bài theo thứ tự vốn có trong bản Nôm.

Bài số 10

Biết đạo thì trung(8) chẳng có tư,
Thửa(9) này xuất xử nắm cho nay.
Bỗu kia sơn nhẹ nào ai phụ,
Bút ngọc đường thanh đối kẻ hay.
Ở thế nhiều người dại nữa(10)
Làm trai mấy kẻ khôn ngay.
Dửng dưng mọi sự đà ngoài hết,
Nhàn một ngày là tiên một ngày.

Bài số 13

Được thua thấy đã ít nhiều phen,
Để giãy(11) công danh đổi lấy nhàn.
Am Bạch Vân rồi nhàn hứng,
Dặm hồng trần vắng ngại chen.
Ngày chầy(12) họp… (13).
Vắng thay lòng nguyệt ấy đèn.
Chớ chớ thờ o nhìn mới biết,
Đủ thì … (14).

Bài số 21

Tuổi già bảy tám mươi hai,
Mọi sự dưng dưng thấy đã ngoài.
An phận ta nhàn được thú,
Chí dùng người trọng vì tài.
Chim kêu hoa động ngày xuân muộn,
Nguyệt bạc đêm thanh hứng khách dài.
Ơn chúa đã nhiều chửa báo,
Lòng còn canh cánh ắt khôn nài.

Bài số 50

Tháng mảng(15) nhàn chơi đến miễn an,
Nhìn xem cảnh vật khác phàm gian.
Phất phơ gió lay ngàn trúc,
Thánh thót mưa lọt cửa lan.
Rượu chuốc(16) kim bôi mùi mới tỉnh,
Hương thiêu thạch đỉnh khói chưa tàn.
Câu thanh vắng đọc qua ngày tháng,
Đắp cửa nào cho tục khách han(17).

Bài số 53

Làm người thì được tính tự nhiên,
Dại dột nhìn xem số phận yên.
Khoe trí khoe tài dầu nó ngộ(18).
Chê ngu chê dại miễn ta hiền,
Yêu đương trước tai còn mảng(19).
Khôn khéo nay miệng chửa truyền.
Dầu thấy ai khen thì lắc cổ,
Chữ rằng vô sự tiểu thần tiên.

Bài số 69(20).

Lấy khi phú qúy đáp khi hàn(21).
Vận chuyển đà lo sự thế gian.
Nếu chẳng tiểu nhân quân tử đói(22).
Hễ không quân tử tiểu nhân loàn(23).
Người theo hầu hạ nên thanh qúy,
Ta ít chon chân khá được nhàn.
Giữ đạo hiếu trung là của báu,
Miễn qua ngày tháng phận ta an(24).

Bài số 91(25).

Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình,
Nài bao quyền cả áng công danh.
Vô tâm nước có gương soi bạc,
Được thú kho đầy gió mát thanh.
Trẻ dầu biết cơ tạo hóa,
Già lo phục thuốc trường sinh.
Thanh nhàn miễn được qua ngày tháng,
Trong nước còn khan(26) chốn hữu tình.

Bài số 98

Giầu làm chị khó làm em,
Giầu chớ kiêu căng khó chớ hiềm(27).
Dưới biết kính trên, trên dấu(28) dưới
Ấy nhà còn thịnh phúc còn thêm.

Bài số 121

Kẻ xưa câu vậy có đâu lầm,
Lấy thuở dương mà biết thuở âm(29).
An bách tính thì an trị đạo(30).
Thất thiên kim chớ thất nhân tâm(31).
Xem thay thảy(32)…
Xét làu làu(33) sự cổ kim.
Mới biết tu sen thì cách vật(35).
Ở lầm nào … (36).

Bài số 159

Khuyên phụ sự phu (Khuyên vợ phụng sự chồng)
Thờ chồng qúa… (37).
Phải giữ cho hay kẻo lỗi mà.
Tuy khó cũng vui đừng nặng nhẹ,
Dẫu hèn phải nhẫn(38) chớ sai ngoa.
Trước sau tua cẩn niềm trung ái(39).
Khuya sớm hằng thìn(40) hết thuận hòa.
Một chữ tòng hay vẹn được,
Ấy là mới phải đạo đàn bà.

Bài số 168

Răn việc uống rượu
Hễ thấy ma men lánh chớ chơi,
Đừng theo thói tục nát quen hơi.
Bốn điều giữ được âu chăng một,
Ăn nói gì ra ắt tỏ mười.
Chẳng những đắng cay mình gượng uống,
Lại điều suy nét thế thêm cười.
Tính ra ngẫm lại hay gì nữa,
Xin bớt mà thôi chẳng lọ cai.

Bài số 177

Sĩ nhân họa vận
Có thân có vóc cũng hay ho,
Biếng học song trời phó tính cho.
Ngày vắng xem thông năm bảy quyển,
Đêm thanh đọc thuộc một hai pho,
Văn làm quan điểm bày hàng diệc,
Áo gấm vua ban bố tí cò.
Này mặt trạng nguyên sao có hổ,
Ai lấy con mình mà gả cho.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Tạp chí Nam phong 1926; Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, 1932; Bạch Vân Am thi tập của Sở Cuồng Lê Dư, 1939 và Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý của Lê Trọng Khánh, Nxb Văn hóa, 1958. Riêng Bạch Vân Am thi tập tuy đánh số 96 bài, nhưng thực tế chỉ có 94 bài (nhẩy số từ 9 lên 11; bài 15 lại trùng với bài 53).

(2) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, HN, 1983, tr. 49, phần chú thích có ghi: “Chúng tôi chọn 160 bài” nhưng thực tế đã công bố 161 bài, tức dôi lên 1 bài.

(3) Bản AB.157 cỡ 33x13, gồm 44 tr, chữ viết chân phương, bản AB. 309 cỡ 22x13, gồm 92 tr, chữ viết bán thảo, có chỗ bị nát mất chữ. Hình như bản AB.157 là bản chân hóa từ bản AB.309.

(4) Bản AB.635 cỡ 26x14, gồm 76 tr, chữ viết bán thảo. Sách rách một vệt lưỡi liềm sát mép ngoài, làm mất nhiều chữ, có trang mất gần hết một câu. Sách này hiện đóng nhầm trang: từ tr. 68 đáng ra ghi tiếp bài Sĩ nhân họa vận ở tr. 67, thì lại đóng nhầm tr. 70 lên trước do vậy bài thơ trên bị cách trang.

TVNBK, Sđd, tr. 49, ghi là bản AB.635 có 165 bài nhưng chúng tôi khảo sát kỹ thì thấy có 183 bài vì biên soạn TVNBK đã để sót mất 1 số bài.

(5) Số thứ tự của các bài trong AB.635 do chúng tôi tự đếm. Trong văn bản gốc không ghi.

(6) Chúng tôi lấy TVNBK để đối chiếu, vì đây là lần xuất bản gần nhất, có số bài nhiều nhất. Hơn nữa, các bài của những lần xuất bản trước đây đều có mặt trong lần xuất bản này.

(7) Xem phần khảo dị bên dưới.

(8) Trung: tức đạo Trung dung. Sách Trung dung chép: “Bất thiên chi vị trung, bất dịch chi vị dung” (không thiên lệch là trung; không thay đổi là dung). “Trung dung” ở đây có nghĩa là hợp thời, không thiên lệch.

(9) Thửa: dịch chữ “sở” là giới từ chỉ sở hữu. (“Thửa này” có nghĩa như nơi đây, giờ đây).

(10) Nữa: tiếng cổ, nghĩa là hơn.

(11) Giãy: giãy ra, tránh ra.

(12) Chầy: lâu, chậm, dài.

(13) Mất chữ không khôi phục được.

(14) Mất chữ không khôi phục được.

(15) Tháng mảng: bộn bề, bận rộn. Câu này ý nói bận rộn đã qua rồi, bây giờ được nhàn là qúy.

(16) Rượu chuốc: tìm mua rượu ngon. Bài số 129 của bản Nôm có câu: “Rượu chuốc han thầm ngõ Hạnh Hoa”. Câu này thoát ý câu thơ của Đỗ Mục đời Đường: “Tá vấn tửu gia hà xứ thị? Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn”. Nghĩa là: Hỏi xem hàng rượu nơi nao. Mục đồng xa trỏ đường vào Hạnh Hoa.

(17) Han: Hỏi, hỏi han.

(18) Ngộ: tài giỏi: Ý cả 2 câu 3 và 4 là: Ai đó khoe trí khoe tài, tự cho là thông minh dĩnh ngộ, và chê người khác là ngu dại thì mặc kệ người ta, miễn là mình giữ được đức hiền lành và cuộc sống bình yên là được.

(19) Mảng: nghe. Truyện Hoa Tiên có câu: “Dùi sương chợt mảng trên thành điểm năm”. Câu 5 ý nói: tác giả vẫn nhớ ơn vua nhà Mạc, ông đã thi đỗ và làm quan với nhà Mạc 8 năm, được nhà Mạc qúy trọng, vì nhiều lý do ông cáo quan về trí sĩ, nhưng trong lòng vẫn canh cánh nhớ tới nhà Mạc.

(20) Bài này trùng với bài 133 trong QÂTT, câu chữ có một số di biệt, trích ra đây để bạn đọc tiện đối chiếu:

Lấy khi phú qúy đắp cơ hàn,
Vần chuyển chẳng dừng sự thế gian.
Nếu khỏi tiểu nhân quân tự nhọc,
Dầu chăng quân tử tiểu nhân loàn.
Của nhiều sơn dã đem nhau đến,
Khó ở kinh thành thiếu kẻ han.
Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả,
Qua ngày qua tháng được an nhàn.

(21) Đắp: bù đắp; Hàn: bần hàn, nghèo khó. Câu này ý nói: khi được giầu sang phải giữ gìn, không nên phung phí, phòng khi nghèo khó còn bù đắp lại.

(22) + (23) Do câu ở sách Mạnh Tử: “Vô dã nhân mạc dưỡng quân tử, vô quân tử mạc trị dã nhân” (Không có người dân thường thì lấy ai nuôi người quân tử, không có người quân tử thì lấy ai trị dân thường).

(24) Ở cuối bài thơ này, trong bản Nôm còn có thêm 2 câu:

Giầu trong điền dã nhiều người đến,
Khó ở kinh thành ít kẻ han.

Chúng tôi không lấy hai câu này nhưng cứ ghi vào để bạn đọc tham khảo.

(25) Bài này trùng với bài số 78 trong QAATT. Bài trong QÂTT như sau:

Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh.
Vô tâm trì có trăng bạc,
Được thú kho dầy gió mát thanh.
Trẻ dầu chơi con tạo hóa,
Già lọ phục thuốc trường sinh.
Dưỡng nhàn miễn được qua ngày tháng,
Non nước còn ghê chốn hữu tình.

(26) Khan: khan hiếm, hiếm hoi.

(27) Hiềm: tự ti, tự thấy mình thua kém.

(28) Dấu: Yêu dấu, thương yêu.

(29) Ý câu thơ: khi ấm có thể đoán biết được khi rét, đó là lẽ đương nhiên của trời đất, ai đã từng nếm trải, sẽ hiểu được điều đó.

(30) (31) Giữ yên được trăm họ thì mới yên ổn trị vì, do vậy mà có thể mất nghìn vàng chứ không thể mất lòng người. Ý nói người cai trị thiên hạ phải giữ được lòng người.

(32) (33) Thay thảy; làu làu: sạch không còn một vết bụi nào. Ý nói hiểu thông suốt mọi chuyện.

(34) Tu sen: tu theo đạo phật. Cách vật: nghiên cứu sự vật. Sách luận ngữ: cách vật, trí tri = nghiên cứu đến ngọn nguồn sự vật, sẽ đem lại cho mình sự hiểu biết về sự vật đó”.

(35) (36) Mất chữ không thể khôi phục được.

(37) Mất chữ.

(38) Nhẫn: kiên nhẫn.

(39) Tua cẩn: nên cẩn trọng Trung ái: trung quân ái quốc.

(40) Thìn: Giữ gìn.

TB

MỘT BÀI KÝ CỦA LƯƠNG THẾ VINH MỚI PHÁT HIỆN

HOÀNG LÊ

Lương Thế Vinh sinh năm 1441, tên tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh). Ông nổi tiếng thần đồng, 22 tuổi đỗ Trạng nguyên, làm quan đến Hàn lâm trực học sĩ thị thư, Chưởng viện sự… Chuyên soạn thảo giấy tờ bang giao với Trung Quốc. Ông là một tài năng kiệt xuất, một ngôi sao của văn đàn thế kỷ 15.

Tác phẩm của ông có Đại thành toán pháp, Thích điển giáo khoa Phật kinh thập giới, Đề tựa sách Nam Tông tự pháp đồ, và nhiều thơ xướng họa với Tao đàn Nguyên soái Lê Thánh Tông … Gần đây trong một chuyến đi khảo sát ở Thái Bình, chúng tôi phát hiện thêm một bài ký của ông, khắc trên tấm bia đá. Tấm bia này mất phần chóp bia. Toàn thân bia còn nguyên, được sử dụng làm bức tường chân hiên đền ở thôn An Phúc, xã Song An, huyện Vũ Thu. Bia một mặt, chữ xấu và đã bị mòn mờ, khắc bài văn viết vào năm Hồng Đức thứ 14 (1484), cách nay hơn 500 năm. Xin giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo.

Phiên âm:

GIA THỰC CÔNG CHÚA CHI MỘ KÝ

Gia Thục Công chúa, húy Thanh Toại, đế chi trưởng nữ; nhân mẫu Phạm Thị Trường Xuân cung Tu nghi. Chúa dĩ Quang Thuận kỷ nguyên chi tam, tuế tại Nhâm Ngọ, nhị nguyệt, Canh Ngọ nhật sinh. Dụ nguyệt nhi thất thị.

Đông Triều Hoàng Thái hậu thân cúc chi ngũ niên. Giáp Thân, thập nhị nguyệt, Kỷ Hợi thụ phong. Hồng Đức ngũ niên, Giáp Ngọ thập nhị nguyệt hạ giá Thái bảo Kiến Dương hầu Lê Cảnh Huy tử Tung. Minh niên, bát nguyệt, Kỷ Hợi trí kỳ phủ. Sinh nữ nhất, nam nhất, câu tảo thệ.

Thập thứ niên Qúy Mão, lục nguyệt, Tân Mùi bệnh hoăng. Thập nguyệt, Mậu Tý táng vu Thư-Trì, An Lão chi Ô Cách nguyên, Hoàng Thái hậu ngoại tổ hương dã.

Chúa túc căn chí tình nhu thuận từ nhân, tuy xuất đế cơ nhi khác tuần phụ đạo, vô hào phát sảng. Sở sự sở sử giai đắc hoan tâm, kiến nhân khốn cùng bất lận thí dữ. Hoăng chi nhật, kỳ nội phụ nữ thán tích y hi, chí hữu động khốc.

Hưởng niên tài nhị thập nhị. Đức khả xứng giả. Ký thử minh viết:

Thất bảo huy huy,

Lục thù phiên phiên.

Hốt lai thúc thệ,

Thục cứu huyền thiên.

Hồng Đức thập tứ niên, thập nguyệt, thập nhất nhật.

Hiển cung Đại phu Hàn lâm viện thị thư kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục Tư huấn, thần Lương Thế Vinh đẳng phụng.

Dịch nghĩa:

Bài ký trên bia mộ Công chúa Gia Thục.

Công chúa Gia Thục húy Thanh Toại, là con gái đầu của vua; mẹ là Phạm thị, bặc Tu nghi(1) ở Trường Xuân.

Công chúa sinh ngày Canh Ngọ, tháng 2, năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Quang Thuận thứ 3 (1462). Qua tháng thì mẹ mất.

Được Đông Triều Hoàng Thái hậu tự tay nuôi nấng năm năm. Đến ngày Kỷ Hợi, tháng 12, năm Giáp Thân (1464) được vua phong. Tháng 12, năm Giáp Ngọ (1474), niên hiệu Hồng Đức thứ 5, gả cho Tùng là con của quan Thái bảo Kiến Dương hầu Lê Cảnh Huy. Đến ngày Kỷ Hợi, tháng 8 năm sau (1475) dựng phủ ở riêng.

Công chúa sinh một gái, một trai, đều mất sớm.

Ngày Tân Mùi, tháng 6, năm Qúy Mão (1483), niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (Công chúa) bị ốm và mất.

Ngày Mậu Tý, tháng 7, chôn cất ở cánh đồng Ô Cách, xã An Lão, huyện Thư Trì, là quê ngoại của Hoàng Thái hậu.

Công chúa vốn tính mềm mỏng, hiền hậu, tuy là con gái nhà vua mà vẫn kính giữ đạo người phụ nữ không dám buông lơi. Thờ phụng bề trên, sai bảo kẻ dưới khiến ai nấy thảy đều vui vẻ trong lòng, thấy người khốn khó nghèo túng chẳng tiếc tay bố thí.

Ngày công chúa mất, đàn bà con gái trong nước đều than thở tiếc thương, thậm chí có người khóc lóc thảm thiết.

(Công chúa) hưởng thọ mới được 22 tuổi, đức hạnh thực đáng ca ngợi. Nên có có bài minh rằng:

Mầu thất bảo(2) ngời ngời,

Áo lục thù (3) phơi phới.

Chợt đến rồi chợt đi,

Lẽ trời ai hiểu nổi?

Ngày 11 tháng 10 niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1484).

Hiển cung Đại phu Hàn lâm viện Thị thư kiêm Sùng Văn quán Tú lâm cục Tư huấn.

Kẻ bầy tôi Lương Thế Vinh vâng mệnh soạn văn bia.

CHÚ THÍCH

(1) Tu nghi: một trong 9 bậc cung tần.

(2) Dịch thoát chữ thất bảo (bảy vật qúy) gồm san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, kim ngân, trân châu và lưu ly.

(3) Áo lục thù là áo của người trên cõi trời Đâu Suất.

TB

VỀ BẢN CHÚC THƯ CỦA VIÊN QUAN LANG ĐINH THẾ THỌ Ở VÙNG MƯỜNG THANH SƠN , VĨNH PHÚ THẾ KỶ XV

TRỊNH KHẮC MẠNH

Trên tập san Nghiên cứu Hán Nôm năm 1984, chúng tôi đã có dịp giới thiệu về lịch sử văn bản chúc thư của viện Quan lang Đinh Thế Thọ ở vùng Mường xã Võ Miếu, huyện Thanh sơn, tỉnh Vĩnh Phú.

Như chúng tôi đã nêu lên, bản chúc thư này hiện tồn tại 5 văn bản khác nhau. Bốn văn bản (hai bản viết trên lụa, hai bản viết trên giấy) do đồng chí Hà Văn Thụ (nguyên là giáo viên khoa Sử, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội - nay đã mất) tìm thấy ở nhà cụ Đinh Công Nương xóm Sang trên xã Võ Miếu, huyện Thanh sơn, tỉnh Vĩnh Phú. Sau đó đồng chí Hà Văn Thụ đã gửi 4 bản này tới Giáo sư Hà Văn Tấn và Giáo sư Hà Văn Tấn đã chuyển giao cho tôi nghiên cứu văn bản và biên dịch(1). Và một bản chúc thư nữa được khắc trên sách đồng, hiện lưu trữ tại bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú(2) (chúng tôi có sao chép lại văn bản này).

Sau khi nghiên cứu nội dung, phân tích các dị văn trên 5 bản chúc thư và dựa vào các tài liệu có liên quan khác, chúng tôi đã kết luận về lai lịch bản chúc thư như sau: Quan lang Đinh Thế Thọ và vợ là Nguyễn Thị Hậu lập chúc thư vào ngày 17 tháng 2 năm Hồng Đức 8 (tức ngày 2-3-1477 Dương lịch). Bản chúc thư này được các con cháu trong dòng họ Đinh giữ, cơ bản không thay đổi, ngày nay chúng ta biết được nó qua hai bản sao trên lụa (viết tắt L1, L2). Đến năm 1785 (Cảnh Hưng năm 46) tức sau ngày lập chúc thư 308 năm, đã xảy ra vụ kiện ruộng đất giữa họ Đinh và họ Hà tại bản xã. Dòng họ Đinh đã tạo ra một chúc thư phù hợp với những điều trình bày trong đơn kiện, nội dung bản chúc thư này được khắc trên sách đông (Đ). Và sau này dòng họ Đinh vẫn giữ hai bản (sao) chúc thư cũ (L1, L2), đã cho sao chép lại trên hai bản giấy (G1, G2), trong qúa trình sao chép họ đã tham khảo bản khắc đồng và sửa chữa bản (sao) chúc thư cũ cho phù hợp với nội dung(3).

Như chúng ta đã biết, chúc thư là một thể loại văn học, thường ghi lại những lời của người sắp qua đời, muốn trăng trối cho con cháu mai sau. Đó là những lời dặn dò về cách thức thờ cúng tổ tiên, sự đối nhân xử thế, phương pháp và kinh nghiệm làm ăn, tổ chức gia đình và việc thừa kế tài sản. Từ lâu việc lập chúc thư đã trở thành phong tục tập quán của người Việt Nam, hơn nữa lại được pháp luật Nhà nước phong kiến thừa nhận. Phan Huy Chú đã từng ghi: “… người làm cha mẹ phải lượng tuổi già mà lập sẵn chúc thư, người làm tộc trưởng phải chia các phần nhiều ít cho đều để giúp cho việc lập chúc thư ấy”(4).

Chúng tôi xin giới thiệu nội dung bản chúc thư của viên Quan lang Đinh Thế Thọ. Khi phiên âm và dịch nghĩa, chúng tôi chọn bản sao trên lụa (L1) làm bản chính, dị văn của các bản khác chúng tôi để xuống dưới để tham khảo. Bản sao L1, chúc thư được viết trên mảnh lụa mềm, sợi mịn (khổ dài 85 cm, rộng 36 cm) được giữ gìn khá tốt. Nhưng với độ dài thời gian hàng mấy thế kỷ, lụa đã bủn mục, nhiều chỗ đã bị rách không đọc được và nhiều chữ sai do sao chép nảy sinh; chúng tôi đã căn cứ vào các văn bản khác để khôi phục lại, khi phiên âm để những chữ đó trong ngoặc đơn. Toàn bộ văn bản chúc thư có 785 chữ, phân bố trên 38 dòng (dòng nhiều nhất là 38 chữ, dòng ít nhất là 1 chữ. Nguyên văn, xem bản chữ Hán in ở cuối bài viết.

Phiên âm:

Gia Hưng phủ, Thanh Xuyên huyện, Vân Lung (sách)(5) Sương quê(6). Quan lang(7) Đinh Thế Thọ (tinh) thê Nguyễn Thị hậu, nguyên đại đại quốc (đấu), lưu truyền kế nghiệp vi Quan lang(8), quản (thúc) binh dân(9) kỵ vu Hà gia, (kết) phu thê. Tự niệm hành niên lương giả, đán (tịch) phỉ thường, di hạ điền sản vị hữu (định) phân, khủng ư thân hậu, hoặc (khởi) tranh đoan. Sở hữu tổ nghiệp, phụ tân mại điền thổ, trạch trì, nô tỳ, phòng thất, tài vật tinh (nhiêu) nhân đẳng hạng. Tu tạo (chúc thư) phân vi (trục) phận, lưu giữ đãi hậu nhật, thân sinh nam nữ dĩ hữu chúc thư phụ mẫu vĩnh vi kế nghiệp. Kỳ điền thổ đẵng hạng, uỷ thị phu thê dữ nội ngoại thân (thuộc) chi nhân biệt vô quan (thúc muội) cập (trùng) phục giao dịch đẵng sự. Di chúc thư các (cẩn) sinh nghiệp, phụng tế lễ(10). Cảm (hữu vi) bột võng khởi tranh phân định, (kiên bất) hiếu chi tội, đoạt kỳ bản phận. Quốc hữu thường pháp, cố lập chúc thư vi chiếu dụng giả, tinh điền thổ trạch trì nhiêu nhân, tinh các lệ khai trần vu hậu.

Kê:

Nhất Lậu điền, đại tiểu tương liên cộng thập khóm(11) giá sắt(12) nhất thiên bát bách (ương), đông cận chí Suy điền, tây cận chí (ngòi) Lậu, nam cận chí bến Lậu, bắc chí Tương điền(13). Nhất sở trì Lậu nhất khẩu, đông cận chí bến Lậu, tây cận bản quê, nam cận Điểm điền, bắc cận đại lộ(14). Nhất sở trì Cáo nhất khẩu đông cận Suy điền, tây cận Đẩu điền, nan (cận) Châm điền, bắc cận chí Độ điền(15). Nhất sổ trì nhậm nhất khẩu, đông cận chí Suy điền, tây cận hàm Độ, nam cận Cộng đồi, bắc cận điền Trương(16). Nhất điền Chúa nhất khóm giá sắt nhất thiên tam bách (ương)(17), đông cận Vực điền, tây cận Chiểu điền, bắc cận Đôn điền(18).

Nhất lệ ấm mao tiên đáo gia, trư nhất khẩu, hựu ngưu đại nhất chích, cơm tứ thúng, tửu nhị chĩnh.

Nhất lệ Quang lang Đinh Thế Thọ hữu cấu tác gia cư, bản quê hội: trư, tửu nhất khẩu(19). Phân bổ hoàn thành dụng túc viên hảo: ngưu nhất chích, tửu nhị thập chĩnh, nhu mễ tứ thập đấu bản quê ẩm thực.

Nhất lệ ly gia dụng mật ly, trư nhất khẩu, cơm nhị thúng, tửu ngũ chĩnh.

Nhất lệ bản quê cày cấy điền Chúa, giá sắt nhất thiên bách tam (ương), tửu nhục dụng túc. Quan lang tam (ương), tửu nhục dụng túc. Quan lang hữu túc má (điền) Ve Hải nhất khóm, nhất bách (ương)(20).

Nhất lệ nhiêu nhị nhân tại Quang lang (21).

Nhất lệ Quan lang đối kỵ, chí kỳ thập nhất nguyệt thập lục nhật, dân ẩm thực(22).

Nhất lệ bản quê hữu mỗ sự tể ngưu, sa ngưu, trư, dương đẳng vật, biếu Quan lang khiên nhất túc, bàn nhục nhị diện đẳng vật y như chúc thư nội(23).

Nhất lệ Quan lang hữu sinh nam (tử) hữu sính tài, Quan lang hữu sinh nữ thị giá phu(24).

Nhất lệ hữu Quan lang sự (ơn) ma, nguyên lệ bản quê ngưu nhất chích, cơm bát thúng, tửu nhị thập chĩnh, ba tiêu nhị súc. Quan lang biếu Thổ tù khiên liên túc, bàn nhục nhất diện(25).

Nhất lệ Quan lang tứ giáp, hoặc hữu mỗ nhân trả ơn ma, tứ giáp biếu Quan lang bàn nhục nhất diện, canh nhất chậu, ba tiêu nhất chậu, canh nhục nhất chậu, cơm nhị thúng, tửu nhị chĩnh. Lệ Quan lang biếu khiên ngưu(26).

Nhất lệ dân, hựu hoặc hữu sinh nữ tử sính lễ, biếu Quan lang khiên (liên túc), bàn nhục nhị diện, tửu nhất chĩnh(27).

Nhất lệ bản quê nhập đình đảo phúc, chí kỳ thập nhị nguyệt. Lang nhất triêu, bản quê nhị triệu(28).

Nhất lệ hữu hoặc hữu sơn lâm tử địa, biếu Quan lang khiên liên túc, bất cảm thứ khuyết. Các hữu Cộng điền, Giới điền, bán sơn lâm các xứ, đông cận ngã hai, tây cận đồi Bột, nam cận (dốc) Thị, bắc cận chí Lìa Lung(29).

Hồng Đức bát nguyên nhị nguyệt thập thất nhật lập chúc thư Quan lang Đinh Thế Thọ ký (tinh thê) Nguyễn Thị hậu điểm chỉ(30).

Chứng kiến bản quê ngũ nhân: Hà Văn Nhân điểm chỉ, Hà Mã Oai điểm chỉ, Phùng Văn Cao điểm chỉ, (Nguyễn Văn Đăng) điểm chỉ, Phùng Văn Đệ điểm chỉ(31).

Tá đại thư bản huyện Đinh Thế Nghĩa ký(32).

Dịch nghĩa:

Phủ Gia Hưng (a), huyện thanh Xuyên (b), sách Vân Lung (c) thôn Sương (d)(33). Quan lang(34) Đinh Thế Thọ (e) cùng vợ là Nguyễn Thị Hậu vốn đời đời có công với nước, nên được lưu truyền kế nghiệp làm Quan lang, đã cùng binh lính dân chúng(35) đến vùng Hà Gia (g), lấy nhau làm vợ chồng. Nay tự nghĩ tuổi đã già, sớm tối bất thường mà ruộng đất tài sản để lại chưa được phân chia rõ ràng, sợ rằng sau khi chết đi, con cái có thể tranh giành nhau. Đây là sự nghiệp của tổ tiên để lại và các thứ cha mới mua được như ruộng vườn, hồ ao, nô tỳ, nhà cửa, tài sản cùng bọn “nhiêu thần” (h). Nay lập chúc thư, chia theo chức phận, lưu lại ngày sau, sau này con trai, con gái đã có sẵn chúc thư của cha mẹ để lại lấy làm kế nghiệp lâu dài. Ruộng vườn các thứ chính là tài sản của vợ chồng (ta), còn những người nội ngoại thân thuộc khác không có liên quan như em trai, em gái và kể cả những người phục dịch. Sau khi chúc thư để lại, các con phải chiếu theo chúc thư mà cần cù làm ăn, kính cẩn tế lễ(36), kẻ nào gây nên tranh giành lộn xộn, ắt phạm vào tội bất hiếu và sẽ bị tước phần được chia. Nhà nước đã có luật, nay lập chúc thư để thi hành, cùng ruộng vườn ao hồ “nhiêu nhân” và các thứ khác sẽ kê khai dưới đây:

Kê ra:

Ruộng Lậu lớn nhỏ liền nhau cộng tất cả 10 khóm(37) (i), cấy gặt(38) hết 180 con mạ (k), đông giáp ruộng tên Suy, tây giáp ngòi Lậu, nam giáp bến Lậu, bắc giáp ruộng tên Tương(39). Một thửa ao Lậu, đông giáp bến Lậu, tây giáp đường cái (40). Một thửa ao Cáo, đông giáp ruộng tên Suy, tây giáp ruộng tên Đẩu, nam giáp ruộng tên Châm, bắc giáp ruộng tên Độ(41). Một thửa ao Nhậm đông giáp ruộng tên Suy, tây giáp ao tên Độ, nam giáp đồi Cộng, bắc giáp ruộng tên Trương(42). Ruộng Chúa cộng một khóm cấy gặt hết 1300 con mạ(43) đông giáp ruộng tên Vực, tây giáp ruộng tên Chiếu, nam giáp ruộng tên Sau, bắc giáp ruộng tên Đôn(44).

- Lệ lợp nhà, trước khi về nhà ở phải nộp lơn 1 con, trâu to 1 con, cơm 4 thúng, rượu 10 chĩnh.

- Lệ Quan lang Đinh Thế Thọ làm nhà ở, bản quê chung nhau nộp lợn rượu 1 xuất(45). Khi mọi công việc (làm nhà) xong xuôi tốt đẹp thì trâu 1 con, rượu 20 chĩnh, gạo nếp 40 đấu, bản quê cùng nhau ăn uống.

- Lệ Quan lang rào nhà, lợn 1 con, cơm 2 thúng, rượu 5 chĩnh.

- Lệ bản quê cấy gặp ruộng Chúa, cầy cấy hết 1300 con mạ, rượu thịt đủ dùng. Quan lang có ruộng lúa giống Ve Hải 1 khóm, cầy cấy 100 con mạ(46).

- Lệ hai “nhiêu nhân” ở nhà Quan lang(47).

- Lệ Quan lang giỗ tổ vào ngày 16 tháng 11, dân cùng nhau ăn uống(48).

- Lệ bản quê, hễ ai thờ cúng mà mổ các loại súc vật như: trâu, bò, dê, phải biếu Quan lang vai liền chân, 2 mâm thịt các thứ y như trong chúc thư(49).

- Lệ Quan lang sinh con trai hỏi vợ, Quan lang sinh con gái gả chồng(50).

- Lệ Quan lang làm lễ ơn ma, vốn lệ bản quê nộp trâu 1 con, cơm 8 thúng, rượu 20 chĩnh, ba tiêu 2 súc, Quan lang biếu Thổ tù vai liền chân, một bên mâm thịt(51).

- Lệ đối với Quan lang, trong 4 giáp (l). Có người nào làm lễ trả ơn ma, 4 giáp biếu Quan lang 4 mâm thịt, canh 1 chậu, ba tiêu 1 chậu, canh thịt 1 chậu, cơm 2 thúng. Lệ Quan lang biếu trước vai trâu(52).

- Lệ dân người nào có con trai lấy vợ, con gái gả chồng, biếu Quan lang vai liền chân, thịt 2 mâm, rượu 1 chĩnh(53).

- Lệ bản quê cầu phúc ở đình vào tháng 12, tại nhà Lang 1 ngày, bản quê 2 ngày(54).

- Lệ hễ có ai khai phá rừng, núi đất hoang, biếu Quan lang vai liền chân không được thiếu. (Quan lang còn) ruộng Công, ruộng giới và các xứ bán rừng núi, đông giáp ngã hai, tây giáp đồi Bột, nam tới dốc Thị, bắc tới Lìa Lung(55).

Hồng Đức năm thứ 8 tháng 2 ngày 17 lập chúc thư, Quan lang Đinh Thế Thọ ký, cùng vợ Nguyễn Thị Hậu điểm chỉ(56).

Bản quê làm chứng 5 người: Hà Văn Nhân điểm chỉ, Hà Mã Oai điểm chỉ, Phùng Văn Cao điểm chỉ, Nguyễn Văn Đăng điểm chỉ, Phùng Văn Đệ điểm chỉ(57).

Viết thay người cùng bản huyện Đinh Thế Nghĩa ký(58).

Chú thích:

a) Phủ Gia Hưng: Thời Lý là đất Lâm Tây, cuối đời Trần làm trấn Gia Hưng, thời thuộc Minh đổi làm châu, thời Lê (Thuận Thiên) đổi làm lộ, đến đời Hồng Đức đổi thành phủ thuộc Hưng hóa, thời Nguyễn vẫn gọi là phủ Gia Hưng.

b) Huyện Thanh Xuyên: tức đất huyện Lung thuộc châu Gia Hưng thời thuộc Minh, thời Lê và đầu thời Nguyễn vẫn gọi là Thanh Xuyên, đến Minh Mệnh thứ 15 (thời Nguyễn) chia Thanh Xuyên làm 2 huyện: Thanh Sơn và Thanh Thủy.

c) Sách Vân Lung: văn bản ghi là Vân Lung khúc. Căn cứ vào các tài liệu khác chúng tôi sửa là Vân Lung sách và dịch là sách Vân Lung. Sách tương đương với xã ở vùng đồng bằng, cuối Lê (Cảnh Hưng thứ 46) vẫn gọi là sách Vân Lung. Tên Vân Lung hiện nay không còn, các thôn của Vân Lung nay thuộc 3 xã: Võ Miếu, Văn Miếu, Tam Thanh.

d) Thôn Sương: thời Lê (Vĩnh Khánh thứ 2) vẫn thường gọi là Sương, đến năm Cảnh Hưng thứ 46 đổi thành Sang. Hiện nay chia làm 2 thôn: Sang trên và Sang dưới thuộc xã Võ Miếu. Văn bản ghi là Sương Khuê @ chúng tôi phiên là Sương quê và dịch là thôn Sương. Quê là đơn vị hành chính nhỏ nhất ở vùng dân tộc Mường tương đương với thôn (xóm) vùng đồng bằng. @ âm Hán Việt là khuê, còn phiên âm Nôm là quê, người Mường đọc “quêl”.

e) Đinh Thế Thọ: dòng dõi Lang đạo có công với nước, làm chức Quan lang ở thôn Sương sách Vân Lung huyện Thanh Xuyên.

g) Hà Gia: Chúng tôi chưa tìm được địa danh này ở Thanh Xuyên, có thể đây là vùng Gia Hưng của họ Hà vì khi họ Đinh đến vùng này thì họ Hà suy yếu. Ở Vân Lung cuối thế kỷ 18 đã xảy ra vụ kiện cáo ruộng đất giữa họ Đinh và họ Hà.

h) Nhiêu nhân: là những người trong sách cử đến phục vụ trong nhà Lang.

i) Văn bản ghi là khảm @ phiên âm Nôm là khóm. Ở đây khóm tương đương với mảnh hoặc miếng đất (đất, vườn).

k) Trước đây, ở vùng đồng bào Mường tính diện tích ruộng bằng cách xem ruộng đó cấy hết bao nhiêu con mạ, chưa biết tính mẫu, sào, thước như ngày nay.

l) Giáp: các vùng dân tộc Mường, bản chia làm 4 giáp; giáp đông, giáp trung, giáp nam, giáp giữa. Bản rộng chia là 5 giáp.

Khi dịch nghĩa, những chữ trong ngoặc đơn là do chúng tôi thêm vào.

Một vài nhận xét

a. Giá trị nội dung: trong lịch sử phát triển của loài người, chế độ kế thừa tài sản phát sinh khi sự tư hữu về tài sản xuất hiện. Nhưng trong mỗi chế độ thì vẫn để kế thừa tài sản lại mang những nét riêng biệt. Những đặc điểm riêng ấy phản ánh tính chất của phương thức sản xuất, tình hình xã hội, hơn nữa là phản ánh tính chất của chế độ chiếm hữu các tư liệu sản xuất. Do vậy chúc thư là những tài liệu giá trị đối với việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam.

Nghiên cứu bản chúc thư của viên Quan lang Đinh Thế Thọ sẽ giúp cho chúng ta hiểu thêm về những vấn đề sau đây:

- Chúc thư được lập vào thời Lê sơ, một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu ruộng đất. Như vậy lại có thêm một tài liệu để nghiên cứu sự tồn tại của chế độ tư hữu ruộng đất ở vùng Mường Thanh Xuyên vào thời kỳ này.

Chế độ thừa kế ruộng đất, tài sản qui định chặt chẽ, được Nhà nước phong kiến thừa nhận.

- Những nô tỳ và nhiêu nhân tồn tại trong chế độ Lang đạo ở vùng Mường Thanh Xuyên thời Lê sơ.

- Tại vùng Mường Thanh Sơn ngày nay, xưa kia đã tồn tại chế độ Lang đạo vô cùng hà khắc với dân bản.

- Những phong tục tập quán, hội hè của dân bản Mường Vân Lung thời Lê sơ.

b. Văn tự: văn bản được thể hiện chủ yếu bằng chữ Hán theo văn phạm tiếng Việt và có sử dụng một số chữ Nôm khi cần thiết. Chúng tôi thống kê có khoảng 24 chữ, những chữ này được lặp đi lặp lại khá nhiều lần trong văn bản. Cụ thể là; quê @, bến @, ngòi @, đồi @, sau @, cơm @, thúng @, chĩnh @, cày @, cấy @, má @, ve @, biếu @, trả ơn ma @, chậu @, hễ @, ngã hai @, khóm @, dốc @, lìa @.

Đây là những chữ Nôm được người Mường sử dụng vào thế kỷ 15, thiết nghĩ chúng là những cứ liệu cần thiết khi nghiên cứu hệ thống chữ Nôm của người Mường và các dân tộc ít người khác.

*
**

Hơn 5 thế kỷ đã trôi qua, bản chúc thư của Quan lang Đinh Thế Thọ vẫn được lưu giữ đến ngày nay. Mặc dù chỉ còn tồn tại dưới dạng các bản sao, nhưng đây là tài liệu có giá trị khi nghiên cứu tình hình ruộng đất, chế độ xã hội, phong tục tập quán và ngôn ngữ địa phương ở vùng dân tộc Mường huyện Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú thế kỷ XV.

CHÚ THÍCH

(1) Trong qúa trình nghiên cứu và biên dịch chúng tôi đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của GS. Hà Văn Tấn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư.

(2) Xem Lê Tượng: Một bản chúc thư bằng đồng tìm thấy ở miền Đông bắc Thanh Sơn, Tạp chí Dân tộc học, No-3, 1976.

(3) Trịnh Khắc Mạnh: Về bản chúc thư của viên Quan lang Đinh Thế Thọ ở vùng Mường Thanh Sơn Vĩnh Phú. Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, No-1, 1984.

(4) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí Hình luật chí (bản dịch), Hà Nội, 1961, tr.130.

(5) Cả 5 bản đều viết khúc @ căn cứ vào các tài liệu khác chúng tôi sửa là sách @ phiên âm là Vân Lung sách. Xem chú thích phần dịch nghĩa.

(6) Bản D: Sương quê thôn.

(7) Bản D: Thổ lang.

(8) Bản D: Thổ lang.

(9) Bản D: Quản thúc binh.

(10) Bản D: phụng tế lễ đình miếu, bất cảm vi.

(11) Bản D: Nhất đồng Sương xứ, hương hỏa điền, Lậu điền, Bến điền cự tiểu đẳng cộng thập khóm tương liên.

(12) Bản D: giá hòa.

(13) Bản D: Bắc cận chí Tương điền vi giới.

(14) Bản D: Bắc cận đại lộ vi giới. Nhất sở điền phán nhất sở, giá hòa nhị bách ương, đông cận điền kỳ, tây cận Sâm điền, nam cận điền Tương, bắc điền Mít vi giới.

(15) Bản D: Bắc cận chí Độ điền vi giới.

(16) Bản D: Bắc cận điền Trương vi giới.

(17) Bản G1: Nhất điền Chúa cộng lục khóm, hương hỏa nhị khóm giá sắt nhất thiên tam bách ương.

Bản G2: Nhất điền chúa cộng thất khóm, hương hỏa nhị khóm giá sắt nhất thiên tam bách ương.

Bản D: Nhất đồng Chúa xứ, hương hỏa, Chúa điền, Tròn điền, Bồng Kình điền, Tu điền, Để Ốc, Đán Chúa cự tiểu cộng thất khóm tương liên, giá hòa nhất thiên tam bách ương.

(18) Bản D: Bắc cận Đôn điền vi giới.

(19) Bản D: bản quê hội họp phân bổ: trứ nhất khẩu, tửu nhị chĩnh.

(20) Bản G1: Nhất lệ bản quê cầy cấy điền Chúa, giá sắt nhất thiên tam bách ương tửu nhục dụng túc, Quan lang hữu túc má điền Ve Hải nhị khóm, nhất thiên tam bách ương.

Bản G2: Nhất lệ bản quê cày cấy điền Ve Hải nhị khóm, nhất thiên tam bách ương.

Bản D: Nhất lệ bản quê cầy cấy hương hỏa trư nhất khẩu, tửu mễ dụng túc. Nhất Thổ lang hữu túc má điền Ve Hải nhị khóm, giá hòa nhất thiên bách tam ương.

(21) Bản G1, G2: Nhất lệ nhiêu nhi nhân tại Quan lang. Nhất tòng hầu nhị nhân.

Bản D: Nhất lệ nhiêu nhị nhân bản sách đáo tại Thổ lang. Nhất tòng hầu nhị nhân.

(22) Bản G2: Nhất lệ Quan lang đối kỵ, chí kỳ thập nhất nguyệt thập nhật.

Bản D: Nhất lệ Thổ lang đệ niên thập nhất nguyệt thập lục nhật, hữu đối kỵ tổ tiên đồng dữ bản quê ẩm thực.

(23) Bản D: Nhất lệ bản quê hoặc mỗ sự, tể nhục ngưu, tể tinh đẳng vật mỗi vật tứ khẩu biếu tại Thổ lang.

(24) Bản D: Nhất lệ Quan sinh nam thú thê sính tài, bản quê ngưu nhất chích, tửu thập chĩnh, nhu mễ thập đấu; hữu sinh nữ giá phu ngưu nhất chích, cơm tứ thung dữ bản quê ẩm thực.

(25) Bản G1, G2, D: không có.

(26) Bản D: Nhất lệ tứ giáp, hoặc mỗ nhân trả ơn ma biếu thổ lang bàn nhục tứ diện, canh nhất châu, ba tiêu nhất chậu, cơm nhị thúng, tửu nhất, khiên ngưu nhất liên túc, biếu tại Thổ lang tế lễ.

(27) Bản D: không có.

(28) Bản D: Nhất lệ bản quê nhập đình trung kỳ phúc đệ niên nhất cơ nhập nhị nguyệt sơ nhị nhật, hễ hữu ca tam triêu, Thổ lang nhất triêu bản quê nhị triệu, nghênh hoàn túc lệ.

(29) Bản D: Nhất lệ hễ địa phận sơn lâm hữu sơn cầm sơn thú tử tại địa phận biếu Thổ lang nhất khiên liên túc bất cảm thứ khuyết. Các Cộng điền bán sơn lâm các xứ, đông cận ngã hai, nam cận dốc Thị, tây cận chí dốc cái dốc con, nam Mối dồi vi giới, bắc cận chí tỉnh tiên; Lâm điền, Bắc Da Do, Mao Lung vi giới. Nhất Quảng quê thôn địa phận, điền trì thổ thạch, tự nhất miếu giả, hỏa quang điền nhất khóm tương liên, giá hòa nhất thiên nhị bách ương. Sơn lâm điền bán các xứ đông cận chí tiểu khê; tây cận Lộc Hạ, nam cận đồi Thái, tiểu khê; bắc cận Mạn Ma vi giới.

(30) (31) (32) Bản D: không có.

(33) Bản D: thôn Quê Sương.

(34) Bản D: Trong văn bản này tất cả các danh từ Quan lang đều viết là Thổ lang.

(35) Bản D: Cùng binh lính.

(36) Bản D: Kính cẩn tế lễ nơi đình miếu, không được làm trái.

(37) Bản D: Xứ đồng Sương, ruộng hương hỏa, ruộng Lậu, ruộng Bến lớn nhỏ 10 khóm liền nhau.

(38) Bản D: Cấy lúa.

(39) Bản D: Bắc giáp ruộng tên Tương làm giới.

(40) Bản D: Bắc giáp đường cái làm giới. Một thửa ao Phán, cấy lúa hết 200 con mạ, đông giáp ruộng tên Kỳ, tây giáp ruộng tên Sâm, nam giáp ruộng tên Tương, bắc giáp ruộng tên Mít làm giới.

(41) Bản D: Bắc giáp ruộng tên Độ làm giới.

(42) Bản D: Bắc giáp ruộng tên Trương làm giới.

(43) Bản G1: Ruộng Chúa cộng 6 khóm, ruộng hương hỏa 2 khóm, cấy gặt hết 1300 con mạ. Bản G2: Ruộng Chúa cộng 7 khóm, ruộng hương hỏa 2 khóm, cấy gặt hết 1300 con mạ.

Bản xD: Xứ đồng Chúa, ruộng hương hỏa, ruộng tròn ruộng Bồn Kình, ruộng Tu, Để Ốc Đán Chúa, lớn nhỏ cộng 7 khóm, cấy lúa 1300 con mạ.

(44) Bản D: Bắc giáp ruộng tên Tuân, tên Hồng làm giới.

(45) Bản D: Lệ Thổ lang Đinh Thế Thọ làm nhà ở, bản quê chung nhau phân bổ lợn 1 con, rượu 2 chĩnh.

(46) Bản G1: Lệ bản quê cấy gặt ruộng Chúa cầy cấy 1300 con mạ, rượu thịt đủ dùng. Quan lang có ruộng lúa giồng Ve Hải 2 khóm 1300 con mạ.

Bản G2: Lệ bản quê cầy cấy ruộng Ve Hải 2 khóm, 1300 con mạ.

Bản D: Lệ bản quê cầy cấy ruộng hương hỏa, lợn 1 con, rượu gạo đủ dùng. Thổ lang có ruộng lúa giống Ve Hải 2 khóm cấy lúa 1800 con mạ.

(47) Bản G1, G2: Lệ hai “nhiêu nhân” ở nhà Quan lang, theo hầu (Quan lang) hai người.

Bản D: Lệ hai “nhiêu nhân” quê tại bản sách đến ở nhà Thổ lang, theo hầu (Thổ lang) hai người.

(48) Bản G2: Lệ Quan lang giỗ tổ vào ngày 10 tháng 11 dân cùng nhau ăn uống.

Bản D: Lệ Thổ lang vào ngày 16 tháng 11 hàng năm giỗ tổ tiên cùng bản quê ăn uống.

(49) Bản D: Lệ bản quê hễ ai thờ cúng mà mổ các loại súc vật như: trâu dê biếu Thổ lang 1 vai liền thân, 2 mâm thịt, các thứ mỗi thứ 4 miếng biếu tại nhà Thổ lang.

(50) Bản D: Lệ Quan lang sinh con trai lấy vợ bản quê nộp 1 con trâu, rượu 10 chĩnh, gạo 10 đấu. Sinh con gái gả chồng, trâu 1 côn, cơm 4 thúng cùng bản quê ăn uống.

(51) Bản G1, G2, D: không có.

(52) Bản D: Lệ trong 4 giáp người nào làm lễ trả ơn ma biếu Thổ lang thịt 4 mâm, canh 1 chậu, ba tiêu 1 chậu, cơm 2 thúng, rượu một, 1 vai liền chân.

(53) Bản D: Không có.

(54) Bản D: Lệ bản quê hàng năm cầu phúc ở đình vào ngày 2 tháng 12, hễ có xướng ca 3 ngày thì tại nhà Thổ lang 1 ngày, tại bản quê 2 ngày, đón rước đầy đủ.

(55) Bản D: Lệ hễ ở địa phận núi rừng Thổ lang, có các loại thú chết ở đây (ý là ai săn bắn được các loại cầm thú) biếu Thổ lang 1 vai liền thân không được thiếu. Các xứ ruộng Cộng, vùng bán rừng núi đông giáp ngã hai, nam giáp dốc Thị, tây giáp dốc Cái, dốc Con. Liêu Ma; nam đồi Mối làm giới; bắc tới giếng tiên, ruộng Lâm, Bắc Da Do, Mao Lung làm giới. Ở thôn Quảng còn có ruộng, vườn ao, đầm, một miếu thờ. Ruộng rẫy một khóm liền nhau cấy lúa hết 1200 con mạ. Các xứ rẫy bán núi rừng đong giáp khe nhở; tây giáp Lộc Hạ, nam giáp đồi Thái, khe nhỏ, bắc tới Mạn Ma làm giới.

(56) Bản D: không có.

(57) (58) Bản D: không có.

TB

BÀI VĂN BIA CHÙA PHỔ KHÁNH

HUỲNH CÔNG BÁ

Chùa Phổ Khánh là một trong những ngôi chùa làng trên đất Quảng Nam (trong nhân dân xưa nay quen gọi là chùa làng Ái Nghĩa). Chùa hiện nằm trên địa bàn xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Sách Đại Nam nhất thống chí, cả bản in đời Tự Đức và đời Duy Tân, đều không thấy nhắc đến tên chùa. Vừa qua, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, có xuất bản công trình Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam (Bảng tra cứu cáo thư tịch Hán Nôm) cũng không có tư liệu về nó. Tuy nhiên qua một tấm bia đá còn lại của chùa, mà chúng tôi vừa phát hiện, cho thấy chùa ra đời khá sớm so với những chùa được ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí (phần Quảng Nam tỉnh).

Bài văn bia chùa Phổ Khánh được khắc vào năm Vĩnh Trị 3 (1678) là một tư liệu rất quý, cho phép xếp loại bổ sung chùa này vào hàng các chùa cổ trên đất Quảng Nam, mà Quốc sử quán triều Nguyễn trước đây đã bỏ sót.

Nội dung bài văn bia cung cấp cho chúng ta về một số thông tin quan trọng về đơn vị hành chính, về địa danh, về vấn đề ruộng đất và vai trò của nhà chùa đối với làng xã, mà nguồn thư tịch về thời kỳ này ở khu vực Đàng Trong hiện qúa ít ỏi. Bài văn bia được viết bằng chữ Hán, song có vài chữ Nôm. Đây là dạng chữ Nôm khá sớm ở khu vực Đàng Trong. Không rõ vì lý do gì, tên người khắc bia bị đục xoá. Nhưng quan sát kỹ, chúng tôi nhận dạng được người khắc bia có họ Huỳnh (Hoàng). Kết hợp với chữ “Quán Khái xã” là quê quán người khắc bia, không bị đục xoá, là nguồn chỉ dẫn cho chúng ta có thể truy tìm ra được tên tuổi người thợ khắc đá và địa phương có ngành nghề truyền thống này.

Sau đây là nội dung bài văn bia:

Phiên âm: Phổ Khánh bia:

Đại Việt quốc, Quảng Nam xứ, Điện Bàn phủ, An Nông huyện, Ái Nghĩa xã, Phổ Khánh tự minh. Phụng Phật:

Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; Nguyên Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ, hữu tạo mãi tư điền tại La Đái xã tọa lạc Sa Khố, Suối Giữa nhị xứ cộng điền ngũ mẫu tứ cao bát xích cung vi Tam bảo điền.

Nhất Ái Nghĩa quan viên toàn xã đẳng hữu Thi Lân xứ cộng điền tam mẫu tính nội tự vi viên khố tam cao cung vi Tam Bảo đắc tiện cung dưỡng dĩ tôn Phật pháp.

Vĩnh Trị tam niên, tuế thứ Mậu Ngọ, quý hạ cốc nhật lập bi.

Bi

Thư tả: Lê Phúc Thông
Lã Hữu Thái

San tượng: Quán Khái xã

Dịch nghĩa: Chùa Phổ Khánh

Chùa Phổ Khánh xã Ái Nghĩa, huyện An Nông, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt. Kính tỏ lòng tôn sùng Phật:

Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; (và) Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ, có ruộng tư mua được tại hai xứ Sa Khố và Suối Giữa, thuộc xã la Đái gồm 5 mẫu 4 sào tám thước đem cúng làm ruộng Tam bảo.

Quan viên và toàn dân xã Ái Nghĩa có 3 mẫu ruộng công tại xã Thi Lân cùng với đất thổ cư ở bên trong khuôn viên vườn chùa là 3 sào dâng làm của Tam bảo để tiện việc cúng dường tôn sùng Phật pháp.

Ngày lành của tháng cuối hạ, năm Mậu Ngọ (1678) niên hiệu Vĩnh Trị (Lê Hy Tông) thứ 3 lập bia.

Bia

Người viết chữ: Lê Phúc Thông
Lã Hữu Thái

Thợ khắc: Xã Quán Khái

TB

PHẢ GHI TRÊN LỤA
CỦA DÒNG HỌ BÙI Ở NỘN KHÊ

NGUYỄN HUY THỨC

Trước đây, trên tập san Nghiên cứu Hán Nôm số 1(6) – 1989, chúng tôi đã giới thiệu phả ghi trên đá của dòng họ Ngô Đông Đồ. Nay xin giới thiệu tiếp một loại hình phả khác - phả ghi trên lụa của dòng họ Bùi Nộn Khê, Ninh Bình (cũ), nay là xã Yên Từ, huyện tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh.

Phả đồ mang tên “Bùi tộc thế tự minh chú hàng liệt” (Ghi rõ thế thứ các đời họ Bùi). Chất liệu dùng để ghi phả là lụa tơ vàng, vì lâu ngày nên đã nhạt màu. Khổ 97x90cm. Phần trang trí xung quanh và một phần ở giữa đã bị mủn nát, nhưng toàn bộ lòng văn với nét chữ sắc sảo chân phương còn cơ bản đầy đủ. Góc trên, phía bên trái ghi: “Long Phi Mậu Tý thứ chi”, tính ra là vào năm Bảo Đại thứ 23 (1948). Góc dưới phía bên trái ghi: “Phong cẩn chí”, nghĩa là Phong Kinh ghi. So vào sơ đồ rồi tính ra thì ông Phong là cháu đời thứ 14 của dòng họ Bùi Nộn Khê này.

Góc phải phía trên phả đồ chép lại một bài văn thuộc đời Lê Trung hưng ghi việc văn hội bốn tổng Bình Quảng, Nộn Khê, An Vân, Thổ Mật huyện Yên Mô, phủ Trường An, bầu cụ Bùi Lật Hài là cụ tổ đời thứ 7 của dòng họ làm Trùm trưởng. Bài văn gồm 278 chữ Hán, xin tạm dịch nghĩa như sau: “Kính chép lại việc phủ nhà suy cử tiên công họ ta: mọi người trong Văn hội bốn tổng Bình Quảng, Nộn Khê, An Vân, Thổ Mật huyện Yên Mô, phủ Trường An từng bảo rằng: Triều đình tiến cử anh tài sức đủ đảm đương; làng xóm suy bầu hiền nhân đức sao xứng đáng. Việc công tư có khác mà lòng hiếu kính thì giống nhau. Đáng khen Bùi Thạc công giàu lòng trung thực, nhân từ và không xu nịnh. Mười tám xong tiểu học, năm mươi xong đại học, học thầy hỏi bạn tận gốc nguồn. Mười tám tuổi vào trường, hai mươi bảy tìm thầy giỏi; ở trường, ở nhà đều lễ phép giữ đúng bổn phận, đạt việc nước, được việc nhà, biết việc nước thì việc nhà càng tỏ, thân mến với anh em, hiếu kính cùng cha mẹ, thật giỏi điều khiển việc nhà. Giầu sang không quyến rũ, uy lực không khuất phục, thật là đấng đại trượng phu! Xử lý việc hành tàng xuất xử(1) đúng lúc, làm việc nhân nghĩa, trung tín không mệt mỏi. Lọc chỗ chưa trong, gạn nơi còn đục, tính cách đường hoàng, thắng không kiêu, bại chẳng nản, tấm lòng rộng rãi. Đúng là bậc hiền đức trên lầu Ngô Phượng(2), dáng dấp khác nào Lục Vũ(3). Nền nhân đất nghĩa đạo thánh tôn sùng rất mực. Tuổi cao đức trọng làm mẫu mực cho đời sau noi theo. Con người ấy, đạo đức ấy thật đáng tôn kính. Tiết hạnh xứng đáng nêu danh, đáng bầu Trùm trưởng. Nay mọi người trên dưới trong huyện nhà liên danh, cùng ký bầu làm Trùm trưởng.

Nay bầu một vị là:

Giám sinh xã Nộn Khê Bùi Bật Hài.

Ngày 15 tháng 8 niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715).

Mọi người trong hội Tư văn huyện nhà cùng ký”.

Góc trái phía trên phả đồ chép danh sách các vị tiên hiền các khoa của dòng họ Bùi này, gồm 13 vị thuộc triều Lê, một vị thuộc triều Nguyễn.

Phần chính giữa văn bản là tấm phả đồ hình chóp, ghi lại 15 đời của họ Bùi Nộn Khê, từ cụ tổ đời thứ nhất là Bùi Công Mẫn, tên chữ là Do Sinh Phủ Quân; cụ bà hiệu là Từ Thận Nhụ Nhân, đến đời thứ 15 ghi 16 người.

Tiếp theo là một bài ký ngắn chép ở góc trái phía dưới, gồm 477 chữ Hán, nói về lai lịch dòng họ Bùi Nộn Khê. Xin trích dịch như sau: “Họ Bùi ta thuộc dòng Tể tướng mũ cao áo dài. Họ Bùi ta xưa ở đất Lục Nộn. Vào niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) đời Lê, cụ thủy tổ Do Sinh bắt đầu khai phá đất Nộn, cụ Thụ Đức nối tiên chí dựng thành cương giới (hơn 400 mẫu) kính theo sắc chỉ của triều đình. Cho đến nay nền văn hiến và sự giàu có ở đất Nộn là do hai cụ đặt nền móng vậy. Công tích ấy có thể thấy rất rõ tại thôn làng. Các cụ tiếp sau nhiều người đỗ đạt làm quan, lập công nơi biên ải, làm hào trưởng chốn làng quê. Các cụ đã kế tiếp làm rạng rỡ dòng họ, gia ơn cho đời. Tiếc rằng cảnh vật đổi đời theo thời gian. Những dấu vết ân tích ấy không thể không biến đổi! Nay chỉ còn lại một khu đất ở thôn Trung. Con cháu đã chia ở rải rác khắp chốn. Nơi đây đại để chỉ là nhà cũ của tổ tiên thôi!…

Nay cả họ sửa lại từ đường. Đổi hướng Dậu thành hướng Tý(4) cho thuận thế nước. Thay mái rạ thành mái ngói cho vững chãi hơn. Hình thế thêm đẹp, thật đáng ngợi ca. Ôi! Không có cái sứt mẻ nào mà hồi trở lại vẹn tròn bởi đạo trời vốn tuần hoàn. Hỏng ắt sửa là lẽ thường ở đời. Việc làm này của họ ta có sự che chở của anh linh tổ tiên từ trên trời cao vậy. Sửa cũ mà thành như mới. Muốn chỉ giữ gìn mà như sáng tạo! Từ khu đất trở lại thành ngôi nhà, thật là gian nan thay! Điều đó cần phải ghi chép sự việc ấy trước là không để mai một những thứ quý giá của tổ tiên tích luỹ để lại, sau là dẫn dắt cháu con kế thừa sự nghiệp yêu mến quê hương muôn đời không đổi, ngõ hầu sau này nhà cửa ngày càng cao, họ tộc ngày càng lớn, dấy lại vận nhà như ngôi từ đường này. Vậy nên ghi lại”.

Đây là bài ký đại diện dòng họ, nên không ghi tên tác giả có lẽ là bài ký ông Phong đã làm thay cho cả họ.

Trở lên, chúng tôi đã trình bày một số nét chính về phả ghi trên lụa của họ Bùi Nộn Khê. Văn bản này hiện được lưu giữ tại gia đình ông Bùi Ngọc Lâu là dòng dõi trong họ, hiện làm việc tại Phòng giáo vụ trường Đại học y khoa Hà Nội.

Tấm phả ghi trên lụa của dòng họ Bùi Nộn Khê này giúp cho ta hiểu sâu về một dòng họ lớn có tới trên 400 năm lịch sử (kể từ Lê Hồng Đức đến Nguyễn Bảo Đại). Phả ghi lại được những bước thăng trầm của một dòng họ. Được biết họ Bùi Nộn Khê ngày nay phát triển rất mạnh. Con cháu trong dòng họ có nhiều người tham gia cách mạng đã trưởng thành. Ắt hẳn con cháu đã phần nào tiếp nhận từ cha ông một truyền thống tốt đẹp vẻ vang. Với tư cách là một văn bản Hán Nôm cổ, phả lụa Nộn Khê không chỉ là niềm tự hào của họ Bùi Nộn Khê mà còn là tư liệu rất quý góp phần nghiên cứu về đất nước con người Việt Nam. Chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra được nhiều loại hình gia phả mới để giới thiệu cùng bạn đọc về tính phong phú đa dạng và cách thể hiện lịch sử dòng họ nói riêng và của dân tộc ta nói chung đặng giúp ích cho công cuộc xây dựng nền văn hoá mới.

CHÚ THÍCH

(1) Hành táng xuất xứ: chỉ việc ra làm quan hoặc lui về ở ẩn. Ý nói cách xử sự với đời.

(2) Lỗu Ngô Phượng: nơi làm việc của các văn sĩ. Chỉ sự nhàn tản thanh cao.

(3) Lục Vũ: Người đất Cạnh Lăng đời Đường, tên chữ là Hồng Kiệm. Đầu thời Thượng Nguyên ở ẩn tại Thiệu Khê, tự xưng là Tang Trữ Ông. Triều đình mời ra làm chức Thái Thượng tự Thái Chúc, ông không nhận, rồi ở nhà viết sách.

(4) Hướng Dậu tức hướng Tây, chuyển hướng Tý tức là hướng Bắc.

TB

TỔNG MỤC LỤC BÀI VIẾT VÀ TÁC GIẢ TRÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM TỪ SỐ 1 ĐẾN SỐ 10
(1986-1991)

L.T.S. Nhân dịp Tạp chí Hán Nôm tròn 5 tuổi chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc bảng Tổng mục lục bài viết và bảng Tổng mục lúc tác giả trên Tạp chí Hán Nôm từ số I đến số X (198601991), do Trần Kim Anh biên soạn.

Ở bảng mục lục thứ nhất, tên các bài viết được sắp xếp theo vần a, b, c và đánh số từng bài theo thứ tự từ 1 đến hết. Ở bảng mục lục thứ hai, tên tác giả được sắp xếp theo vần a, b, c và dùng số thứ tự ở bảng 1 làm mã số thay cho tên bài viết của tác giả.

1. TỔNG MỤC LỤC BÀI VIẾT

TT Tên bài Tác giả Số t/c
1 - Ai viết hai phần Cổ tích và Nhân phẩm trong Mẫn hiên thuyết loại. Hoàng Văn Lâu VII.2-89
2 - Anh em họ Nguyễn làng Kim Đôi. Lâm Giang IX.2-90
3 - Anh sáng của trí tuệ và tình hữu nghị. Nguyễn Quang Hồng III.2-87
4 - Bài ký khắc trên bia của thôn nhà dựng năm Nhâm Tý Hoàng Văn Lâu V.2-88
5 - Bài thơ Nhân ảnh vấn đáp của Phan Huy Thực. Hoàng Thị Ngọ VII.2-89
6 - Bài thơ và bái phú ca ngợi cảnh Hồ Tây của Nguyễn Huy Lương. Vũ Thanh Hằng V.2-88
7 - Bài thơ chữ Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh Phác Can VIII.1-90
8 - Bài tho Động Bích Đào là của Lê Quý Đôn hay Đinh Lễ. Trường Lưu - Trần Văn Thụy II.2-87
9 - Bài thơ Nôm núi Ngọc Nữ. Nguyễn Thị Thảo V.2-88
10 - Bài tự thuật của Lê Quýnh - tác giả Bắc hành tùng ký. Ngô Đức Thọ V.2-88
11 - Bài văn sách thi đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực. Hoàng Hưng VI.1-89
12 - Bài văn tế vợ của Nguyễn Cao. Phan Văn Các II.1-87
13 - Bài văn bia về việc tạo tượng Tam giáo chùa Cao Dương của Trình Quốc Công. Vũ Tuấn Sán - Đinh Khắc Thuân VIII.1-90
14 - Bàn thêm về mấy bài dịch thơ Bác Hồ. Trần Bá Chí VIII.1-90
15 - Bản đồ cổ Việt nam Trần Nghĩa IX.2-90
16 - Bia đá, chuông đồng Tây Sơn. Đinh Khắc Thuân VIII.1-89
17 - Bích Châu - Du tiên mạn ký. Nguyễn Thạch Giang VIII.1-90
18 - Binh dân luận, tác phẩm nghị luận Nôm của Ngô Thì Sĩ. Nguyễn Đăng I.1-86
19 - Biệt lệ, điều đáng lưu ý khi đọc và phiên âm Nôm. Lê Anh Tuấn X.1-91
20 - Biểu tạ ơn được phong Binh bộ Thượng Thư. Văn Hưng V.2-8
21 - Bói toán và ma thuật trong một tiểu thuyết Trung Quốc Phong thần diễn nghĩa. Tảo Trang IV.2-88
22 - Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm. Nguyễn Tá Nhí III.2-87
23 - Bốn vấn đề văn bản học của Hoa Tiên. Sài Phi thư trang X.1-91
24 - Bước đầu tìm hiểu về hội Tao Đàn. Lâm Giang II.2-87
25 - Bước đầu tìm hiểu các kho sách Hán Nôm và lịch sử thư mục học Hán Nôm. Trần Nghĩa V.2-88
26 - Bước đầu tìm hiểu văn bia ỏ một huyện thuộc đồng bằng Bắc bộ. Nguyễn Huy Thức 2-87
27 - Bước đầu tìm hiểu Đại Việt sử ký tục biên. Go Zhenfeng IX.2-90
28 - Cái “thần” và cái “nhã” trong vấn đề dịch thơ chữ Hán. Ngô Linh Ngọc IV.1-88
29 - Cần phải xác định lại giá trị bài tựa Kim Vân Kiều án. Nguyễn Quảng Tuân IX.2-90
30 - Cần phân biệt sách Hán Nôm Việt Nam với sách Hán Nôm nước ngoài do ta sao chép hoặc in lại. Trần nghĩa VIII.1-90
31 - Câu đối, Hoành phi và đề tự bằng chữ Hán ở đền Ngọc Sơn Hà Nội. Tuấn Nghi - Tảo Trang X.1-91
32 - Cuộc vận động ngoại giao sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu. Hoàng Văn Lâu V.2-88
33 - Chiến thắng Kỷ Dậu. Hoàng Văn Lâu V.2-88
34 - Chữ Nôm trong các tác phẩm Hán văn của Lê Quý Đôn. Đinh Công Vĩ IX.2-90
35 - Chữ viết Hán Nôm qua nhận định của Lê Quý Đôn và Phạm Đình Hổ. Phan Đình Ứng X.1-90
36 - Danh tích xứ Lạng - điểm hội tụ sự giao lưu Nam Bắc. Đinh Ích Toàn VIII.1-90
37 - Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ của khó học ngữ văn. Nguyễn Quang Hồng III.2-87
38 - Di sản Hán Nôm và trách nhiệm lịch sử của chúng ta. Vũ Khiêu I.1-86
39 - Di sản văn hoá Hán Nôm và văn học so sánh. Phạm Tú Châu X.1-91
40 - Di văn Tây Sơn trên thủ đô Hà Nội. Trần Nghĩa VI.1-89
41 - Dịch thêm một số thơ chưa được công bố trong Ngục trung nhật lý. Đỗ Quân VIII.1-90
42 - Dương Trực Nguyên cuộc đời và tác phẩm. Lâm Giang X.1-91
43 - Đá, thợ khắc và đặc trưng bia thế kỷ XVI. Đinh Khắc Thuân V.2-88
44 - Đại Việt sử ký toàn thư, bản “Nội các quan bản” không phải là không kiêng huý. Trần Nghĩa VII.2-89
45 - Đàm Thận Huy và tác phẩm Sỹ hoạn châm quy. Lâm Giang VI.1-89
46 - Đặc điểm trang trí bia thời Lý Trần. Tống Trung Tín VIII.1-90
47 - Đặng Văn Hòa và tập Lễ Trai thi chân bản mới phát hiện. Phạm Tuấn Khánh III.2.87
48 - Để nắm đúng tư tưởng người xưa. Đinh Xuân Lâm X.1-91
49 - Đêm trung thu không trăng, một bài thơ Nôm thời Hồng Đức. Nguyễn Đăng V.2-88
50 - Đi tìm nguồn gốc và năm xuất hiện của văn bản Binh thư yếu lược hiện có. Ngô Đức Thọ I.1-86
51 - Điện Thái Vi của vua Trần qua văn bia và câu đối trong Viện. Hồng Cẩm II.1-87
52 - Đọc sách Tùng thư tiểu thuyết Hán Văn Việt Nam tập I. Phạm Văn Thắm VII.2-89
53 - Đọc và hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh. Lê Thành Lân III.2-87
54 - Đọc cuốn Nguyễn Khuyến tác- phẩm. Đỗ Thị Hảo II.1-87
55 - Đọc sách Nôm Tày Tần- Chu. Hiền Lương VI.1-89
56 - Đọc Một số vấn đề về chữ Nôm. Bùi Thanh Hùng I.1-86
57 - Đồ hình lịch can chi vĩnh cửu. Lê Thành Lân
58 - Đố chữ Hán trong câu đố tiếng Việt. Tảo Trang VI.1-89
59 - Đôi điều suy nghĩ về việc dịch một số bài thơ trong Ngục trung nhật lý của Hồ Chủ Tịch. Trần Đắc Thọ IX.2-90
60 - Đôi nét về bia hậu. Dương Thị The - Phạm Thị Thoa III.2-87
61 - “Eemm nềm” Và “Lắm thăn” Nguyễn Quang Hồng IV.1-88
62 - Génibrel đã hiểu Lục Vân Tiên như thế nào? Nguyễn Quảng Tuân V.2-88
63 - Góp ý kiến cho sách phiên âm chú giải Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Đặng Đức Ngọc Nam IX.2-90
64 - Góp phần đính chính thư mục về Vũ Phạm Khải. Nguyễn Văn Huyền - Phạm Văn Thắm IX.2-90
65 - Góp phần xác định tác giả một số bài thơ chưa rõ là của Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lã Nhâm Thìn VII.2-89
66 - Giới thiệu kho sách tục lệ Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nguyễn Thị Phượng VII.2-89
67 - Giới thiệu sơ lược một số loại hình ấn triện thời Nguyễn. Nguyễn Công Việt V.2-88
68 - Giữ gìn và nghiên cứu di sản Hán Nôm. Trần Nghĩa III.2-87
69 - Hai mươi bài thơ Nôm lúc đi sứ Trung Quốc của Trịnh Hoài Đức. Cao Tự Thanh II.1-87
70 - Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ vu thiển thuyết của ông. Hoàng Lê I.1-86
71 - Hai tấm bia cổ nói về người Nhật trên đất Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngô Thế Long VII.2-89
72 - Hai văn bản chữ Phạn. Góp phần đọc những văn bản chữ Phạn ở Việt Nam. Nguyễn Thị Ngân X.1-91
73 - Hệ Đại học Sư phạm tại chức ở các tỉnh phía Nam với việc sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm. Hồ Sĩ Hiệp I.1-86
74 - Hiện tượng Stroop trong tiếng Việt. Morikawa Yasuo IX.2-90
75 - Hiểu biết của Lê Quý Đôn về kim thạch văn. Đinh Công Vĩ VI.1-89
76 - Hiệu đính một số ngày tháng có trong bản dịch cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, phần tiếp, tập I, Bản kỷ tục biên. Lê Thành Lân IV.1-88
77 - Hoa Nga đại từ điển, một thành tựu mới của nền Hán ngữ học Xô Viết. Phan Văn Các IV.1-88
78 - Hoàng các di văn- một sưu tập các văn kiện đời Lê có giá trị. Hoàng Văn Lâu II.1-87
79 - Hương ước của một làng ven đô. Bùi Xuân Đính - Đinh Khắc Thuân X.1-91
80 - Khảo sát thêm về Ức Trai di tập. Nguyễn Văn Nguyên IV.1-88
81 - Khánh thành trụ sở mới, kỷ niệm 20 năm thành lập Ban Hán Nôm, nay là Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Phan Văn Các X.1-91
82 - Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Hoàng Hưng VIII.1-90
83 - Lê Anh Tuấn Thượng thư, nhà thơ đầu thế kỷ XVIII. Nguyễn Tuấn Lương VIII.1-90
84 - Lý hoặc luận, bông hoa đầu mùa của Phật Giáo Luy Lâu. Trần Nghĩa X.1-91
85 - Lý Trần Quán và tác phẩm Thiên nam lịch khoa hội phú tuyển. Đỗ Thỉnh VIII.1-90
86 - Lối đánh dấu cá trong chữ Nôm. Nguyễn Tá Nhí I.1-87
87 - Một bài văn tế bằng chữ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan. Vũ Thanh Hằng VIII.1-90
88 - Một bài hịch chống Pháp xâm lược. Trương Chính - Đinh Xuân Lâm IX.2-90
89 - Một bản thảo vừa hoàn thành: Bảng tra di tích lịch sử văn hóa Việt Nam. Ngô Đức Thọ IX.2-90
90 - Một cách hiểu bài thơ Sinh lão bện tử của Ni sư Diệu Nhân. Phan Hữu Nghệ X.1-91
91 - Một cuốn sách đồng ở Hà Nội. Dương Thị The V.2-88
92 - Một giả thuyết về từ nguyên của từ “Nôm”. Trần Xuân Ngọc Lan IV.1-88
93 - Một số bài thơ khắc ở vách đá trong hang Trầm. Nguyễn Doãn Tuân Bạch Văn Luyến IV.1-88
94 - Một số ý kiến về hai bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; Thác lời trai phường nón của Nguyễn Du, và Thác lời trai phường vải của Nguyễn Huy Quýnh. Nguyễn Thạch Giang Nguyễn Huy Mỹ IX.2-90
95 - Một số loại hình ấn triện triều Nguyễn. Nguyễn Công Việt VII. 2-89
96 - Một số vấn đề về niên đại bia Việt Nam. Đinh Khắc Thuân III. 2-87
97 - Một tài liệu cổ do người Việt Nam viết về Nhật Bản - cuốn Nhật bản kiến văn lục. Ngô Thế Long VIII. 1-90
98 - Một tư liệu về Hồ Bá Ôn. Thanh Đạm VI. 1-89
99 - Một vài đóng góp để chỉnh lý bản phiên dịch Ức Trai thi tập. Nguyễn Quảng Tuân VII. 2-89
100 - Một vài số liệu qua đợt tổng kiểm kê sưu tầm tư liệu Hán Nôm ở huyện Từ Liêm. Nguyễn Đức Bạch - Nguyễn Doãn Tuân I. 1-86
101 - Một vài suy nghĩ trước những số liệu. Nguyễn Đức Bạch - Nguyễn Doãn Tuân VI. 1-87
102 - Một vài trường hợp hiệu đính và phiên âm thơ Nôm. Trần Lê Văn VII. 2-89
103 - Mười tám tấm bia Nôm ở chùa Phật Giáo. Nguyễn Thị Trang II.1-87
104 - Nét tài hoa riêng của Tản Đà trong thơ dịch. Trần Thị Băng Thanh VII. 2-89
105 - Nên chăng? Bùi Hạnh Cẩn I. 1-87
106 - Nhân dịch bài văn bia của Vũ Thạnh. Hiền Lương VIII. 1-90
107 - Nhìn lại 4 số Nghiên cứu Hán Nôm vừa qua. Hoàng Văn Lâu 1-86
108 - Nhớ một người bạn vong niên, giới thiệu hai bài thơ Nôm mới tìm thấy của Nguyễn Quý Đức. Trần Lê Văn III. 2-87
109 - Những ghi chép về Đông Nam Á trong Đại thanh thực lục. Thế Tăng
110 - Những sai lầm trong cuốn tự điển Génibrel. Nguyễn Quảng Tuân III.2-87
111 - Những vấn đề văn bản họ của Chu Dịch được giải quyết như thế nào. Phan Văn Các VII. 2-89
112 - Ngục trung nhật ký - nghiên cứu văn bản học Phan Văn Các VIII. 1-90
113 - Ngữ văn học cổ điển - một hướng tiếp cận và thâm nhập kho tàng di sản Hán Nôm. Đặng Đức Siêu I.1-86
114 - Người Việt và họ Nguyễn. Diệp Đình Hoa IV. 1-88
115 - Phả ghi trên đá của dòng họ Ngô ở Đông Đồ. Nguyễn Huy Thức VI. 1-89
116 - Phong dao tạp thái, một quyển ca dao cổ. Nguyễn Đăng Na VIII. 1-90
117 - Quốc âm tân tự, một phương án chữ Việt ghi âm thế kỷ XIX. Nguyễn Quang Hồng I. 1-86
118 - Sưu tầm tài liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Thanh Trì, Hà Nội. Nguyễn Đức Bạch - Nguyễn Doãn Tuân II. 1-87
119 - Tào Thái Hầu là ai? Đỗ Thỉnh IX. 2-90
120 - Tấm bia Bác Hồ đọc ở Côn Sơn. Nguyễn Tuấn Thịnh I. 1-86
121 - Tấm bia mới phát hiện. Nguyễn Thị Thảo III. 2-87
122 - Tân truyền kỳ lục và Phạm Quý Thích. Nguyễn Văn Huyền X. 1-91
123 - Tân Việt Nam, một bước phát triển rõ rệt của Phan Bội Châu về tư tưởng dân chủ. Đinh Xuân Lâm VII. 2-89
124 - Tiếng Hán trong thơ Hồ Chí Minh. Phan Văn Các I. 1-86
125 - Tìm được cuốn gia phả dòng họ Trịnh Khả. Nguyễn Doãn Tuân I. 1-86
126 - Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm. Nguyễn Hữu Mùi - Mai Ngọc Hồng I. 1-86
127 - Tìm hiểu mô hình hình thành trong cấu trúc chữ Nôm. Nguyễn Ngọc San I. 1-86
128 - Tìm hiểu việc sưu tầm và bình luận sử sách trong Quần khư khảo biện của Lê Quý Đôn. Đinh Công Vĩ X. 1-91
129 - Tìm hiểu tiếng “chưng” qua một vài văn bản Nôm. Bùi Thanh Hùng II. 1-87
130 - Tìm hiểu nghĩa của từ “mỗ”. Nguyễn Tá Nhí IV. 1-88
131 - Tìm hiểu các văn bản bộ sách Ngô gia văn phái. Trần Thị Băng Thanh IV. 1-88
132 - Tục công dư tiệp ký, tác giả và tác phẩm. Nguyễn Đăng Na VI. 1-89
133 - Tuyển dịch một số truyện truyền kỳ ưu tú đời Đường Tống. Xuân Huy - Hoàng Hưng IX. 2-90
134 - Tư liệu Hán Nom ở khu di tích Đình Giá. Nguyễn Thị Oanh VI. 1-89
135 - Từ bản dịch bài tổng luận của Lê Tung suy nghĩ về việc dịch một văn bản Hán Việt cổ. Nguyễn Đăng Na VI. 1-89
136 - Từ ngữ hình tượng về cuộc đời và con người trên văn bản thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Thạch Giang V.2-88
137 - Tự Đức, Khiêm cung ký và lịch sử. Phan Hứa Thụy IV. 1-88
138 - Thân Nhân Trung - con người và tác phẩm. Lâm Giang IV. 1-88
139 - Thêm một số thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Cao Tự Thanh V. 2-88
140 - Thêm một cứ liệu về nội các. Phạm Văn Thắm VIII. 1-90
141 - Thêm một vài hiểu biết về Phạm Đạo Phú Thùy Vinh VI. 1-89
142 - Thêm một tác giả thơ đời Trần: Nguyễn Thế Nghĩa. Phạm Tú Châu I. 1-86
143 - Thơ đề hang hổ gầm và lời dẫn. Lưu Đình Tăng IX. 2-90
144 - “Thu thanh” hay “thung thanh”? Nguyễn Quảng Tuân II. 1-87
145 - Thư Quang Trung gửi Thang Hồng Nghiệp. Hoàng Văn Lâu V. 2-88
146 - Thư Quang Trung gửi tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An. Hoàng Văn Lâu V. 2-88
147 - Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại. Trần Nghĩa II. 1-87
148 - Thử tìm hiểu địa danh Binh Hiệp. Phạm Thị Thoa IX. 2-90
149 - Thử xác lập văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà. Trần Nghĩa I. 1-86
150 - Trạng nguyên Đặng Công Chất và dòng họ Đặng của ông. Đỗ Thỉnh X. 1-91
151 - Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện? Nguyễn Đăng Na V. 2-88
152 - Trường Viễn Đông bác cổ Pháp hay ngành Đông phương học sôi động ở Pháp. Christiane Pasquel-Rageau VII. 2-89
153 - Vai trò của cảm xúc khi đọc chữ Nôm Tày. Vi Hồng VIII.1-90
154 - Vài nét về cuốn sách Nôm tam thiên tự lịch đại văn Quốc âm. Hoàng Hưng VII. 2-89
155 - Vài nét về việc mua bán quyền hát của đình qua một số tư liệu văn bia. Nguyễn Hữu Mùi VII. 2-89
156 - Vài nét về tình hình phân bố tài liệu Hán Nôm ở 4 huyện phía bắc ngoại thành Hà Nội. Nguyễn Đức Bạch Nguyễn Doãn Tuân - IV. 1-88
157 - Vài nét về loại sách liên quan đến thư pháp trong kho sách Hán Nôm. Phan Đình Ứng IV. 1-88
158 - Vài nét về cụm văn bia ở văn chỉ làng Nguyệt Áng. Nguyễn Thị Trang X. 1-91
159 - Vài nét về hai quả chuông thời Tây Sơn tại Sài Sơn - Hà Sơn Bình. Thùy Vinh II. 1-87
160 - Vài nét về số ấn đồng ở viện bảo tàng lịch sử. Nguyễn Công Việt II. 1-87
161 - Vài nét về nền Hán học cũ ở Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp. Quốc Anh II. 1-87
162 - Vài nhận xét về tình hình ghi từ lấp láy bằng chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Trần Kim Anh - Hoàng Thị Ngọ II. 1-87
163 - Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ VIII. Đinh Khắc Thuân - Hoàng Ngọc II. 1-87
164 - Văn bản và giá trị học thuật của Hoan châu ký. Trần Nghĩa IV. 1-90
165 - Vấn đề miêu tả thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam. Phạm Khánh Cao V. 2-88
166 - Vấn đề văn bản trong thơ Đỗ Nhuận. Nguyễn Tuấn Lương IV. 11-88
167 - Về cách ghi từ Hán Việt trong văn bản Nôm. Nguyễn Minh Tân I. 1-86
168 - Về bài thơ Nôm của Bùi Xương Trạch Đêm thu không trăng. Tảo Trang VII. 2-89
169 - Về bài di chúc của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Quảng Tuân X. 1-91
170 - Về bản Đại Việt sử ký toàn thư in ván gỗ của Phạm Công Trứ mới được tìm thấy. Ngô Thế Long IV. 1-88
171 - Về bản dịch Vân đài loại ngữ của Trần Văn Giáp. Đinh Công Vĩ - Lê Việt Nga II. 1-87
172 - Về bộ Thư mục bia giản lược vừa biên soạn xong. Hoàng Lê V. 2-88
173 - Về bộ sưu tập văn chương Hàn các tùng đàm. Hoàng Văn Lâu IV. 1-88
174 - Về đối kiểu ngắt câu và hiểu ý câu trong văn bản cổ. Quang Hưng I. 1-86
175 - Về hai tấm bia niên đại Chính Hoà ở Lạng Sơn. Hoàng Giáp VII. 2-89
176 - Về một số chỗ hiệu đính của Nguyễn Thạch Giang trong Truyện Kiều. Mai Lệ IV. 1-88
177 - Về niên đại pho tượng đồng lớn ở đền Trần Võ huyện Gia Lâm. Nguyễn Thị Oanh V. 2-88
178 - Về những văn bản bia khuyến khích việc học tập trong nền giáo dục khoa cử thời kỳ phong kiến ở nước ta. Nguyễn Hữu Mùi X. 1-91
179 - Về những bài thơ Hán Nôm tự dịch của Nguyễn Khuyến. Tảo Trang IX. 2-90
180 - Về những tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu. Chương Thâu III. 2-87
181 - Về tấm bia đồng tại đình làng Quan Nhân, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Phạm Văn Thắm II. 1-87
182 - Về từ “ngài” trong câu thơ Truyện Kiều. Nguyễn Thiện Chí IX. 2-90
183 - Về văn bản bài Hịch Tây sơn và hai trường hợp phiên âm trong bài hịch này. Liên Việt Mai II. 1-87
184 - Về văn bản tập Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoàng Văn Lâu VI. 1-89
185 - Về văn bản thơ Nguyễn Đề. Nguyễn Thị Phượng IV. 1-88
186 - về văn bản và tác giả của Mẫn Hiên thuyết loại. Hoàng Văn Lâu VI. 1-89
187 - Về văn bản Việt sử cương giám khảo lược. Dương Thái Minh - Nguyễn Thúy Nga III. 2-87
188 - Về vấn đề khảo chứng Truyện Kiều. Nguyễn Quảng Tuân VIII. 1-90
189 - Về việc biên soạn cuốn lịch 2000 năm của Việt Nam. Lê Thành Lân IX. 2-90
190 - Vì sự nghiệp bảo tồn vốn văn hóa của dân tộc. Lê Hữu Tầng X. 1-91
191 - Xung quanh một số tài liệu liên quan đến Lý Tử Tấn và văn bản. Ngọc Nhuận II. 1-87.

2. MỤC LỤC TÁC GIẢ

Tác giả Bài viết
Trần Kim Anh 162
Quốc Anh 161
Nguyễn Đức Bạch 100, 101, 118, 156,
Phan Văn Các 12, 77, 81, 111, 112
Phác Can 7
Phạm Khánh Cao 165
Hồng Cẩm 51
Bùi Hạnh Cẩn 105
Christiane Pasquel Rageau 152
Phạm Tú Châu 39, 142
Trần Bá Chí 71, 14
Nguyễn Thiện Chí 182
Trương Chính 88
Thanh Đạm 98
Nguyễn Đăng 18, 49
Hoàng Hưng 11, 82, 133, 154
Quang Hưng 174
Phạm Tuấn Khánh 47
Vũ Khiêu 38
Trần Xuân Ngọc Lan 92
Nguyễn Thị Lâm 167
Đinh Xuân Lâm 48, 88, 123
Lê Thành Lân 53, 57, 76, 189
Hoàng Văn Lâu 1, 78, 107, 173, 184, 186
Hoàng Lê 70. 172
Mai Lệ 176
Ngô Thế Long 71, 97, 170
Bạch Văn Luyến 93
Hiền Lương 55. 93. 106
Nguyễn Tuấn Lương 83, 166
Trường Lưu 8
Liên Việt Mai 183
Nguyễn Huy Mỹ 94
Dương Thái Minh 187
Morika wa Yasuo 74
Nguyễn Hữu Mùi 155, 126, 178
Nguyễn Đăng Na 116, 132, 135, 151
Đặng Đức Ngọc Nam 63
Nguyễn Tá Nhí 22, 86, 130
Nguyễn Ngọc Nhuận 191
Nguyễn Thuý Nga 187
Lê Việt Nga 171
Nguyễn Thị Ngân 72
Phan Hữu Nghệ 90
Tuấn Nghi 31
Trần nghĩa 15, 25, 30, 40, 68, 84, 44, 147, 149, 164
Hoàng Thị Ngọ 5, 162
Ngô Linh Ngọc 28
Nguyễn Văn Nguyên 80
Nguyễn Thị Oanh 134, 177
Nguyễn Thị Phượng 185, 66
Đỗ Quân 41
Bùi Xuân Đính 79
Go Zhenfeng 27
Hoàng Giáp 175
Lâm Giang 2, 24, 42, 45, 138
Nguyễn Thạch Giang 17, 94, 136
Đỗ Thị Hảo 54
Vũ Thanh Hằng 6,87
Diệp Đình Hoa 114
Hồ Sĩ Diệp 73
Mai Hồng 126
Nguyễn Quang Hồng 3, 37, 61, 117
Vi Hồng 153
Xuân Huy 133
Nguyễn Văn Huyền 64, 122
Bùi Thanh Hùng 56, 129
Sài Phi Thư Trang 23
Nguyễn Ngọc San 127
Vũ Thuấn Sán 13
Đặng Đức Siêu 113
Lưu Đình Tăng 143
Thế Tăng 109
Nguyễn Minh tân 167
Lê Hữu Tầng 190
Tống Trung Tín 46
Đinh Ích Toàn 36
Nguyễn Doãn Tuân 156, 125, 118,
101, 100
Nguyễn Quảng Tuân 188, 169, 144
110, 99, 62, 29
Lê Tuấn Anh 19
Trần Thị Băng Thanh 104, 131
Cao Tự Thanh 69, 139
Nguyễn Thị Thảo 9, 121
Phạm Văn Thắm 52, 64, 140, 181
Chương Thâu 180
Dương Thị The 60. 91
Lã Nhâm Thìn 65
Đỗ Thỉnh 85, 199, 150
Trần Đắc Thọ 59
Ngô Đức Thọ 50. 89
Phạm Thị Thoa 60, 148
Nguyễn Tuấn Thịnh 120
Đinh Khắc Thuân 13, 16, 79, 43, 96, 163
Phan Hứa Thụy 137
Trần Văn Thụy 8
Nguyễn Huy Thức Tảo Trang 26, 115 21, 31, 58, 168, 179
Nguyễn Thị Trang 158, 103
Phan Đình Ứng 35, 157
Trần Lê Văn 102, 108
Đinh Công Vĩ 34, 75, 128, 171
Nguyễn Công Việt 67, 95, 160
Thùy Vinh 141, 159