BA BÀI VĂN THƠ YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐINH XUÂN LÂM
Tiểu dẫn
Tác giả bài văn tế và hai bài thơ giới thiệu sau đây là Phạm Văn Thản, một chiến sĩ cách mạng hoạt động trong phong trào Nghệ - Tĩnh hồi đầu thế kỷ.
Ông Phạm Văn Thản (hiệu Hanh Cù) sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tham gia hoạt động cách mạng nên cũng bị bắt đày ra Côn Đảo sau Phạm Văn Ngôn là anh ruột ông ít lâu. Sau khi anh mất, ông bí mật chuẩn bị vượt ngục về đất liền tiếp tục hoạt động, nhưng không thành nên thắt cổ tự tử vào đêm 17 tháng năm 5 Đinh Tị (tức mồng 5-7-1917).
Bà vợ ông là Nguyễn Thị Thành theo chồng ra đảo, khi sinh con trai đặt tên là Bảo (nên thường gọi là bà Bảo). Khi chồng mất thì bồng con về quê; sau cháu mất năm lên 7 tuổi. Bà Bảo mất ngày 12-12-1973, thọ 88 tuổi.
Bài Văn tế Anh của Phạm Văn Thản trước đây đã được công bố, nhưng chưa thực sự hoàn chỉnh. Lần này chúng tôi công bố theo văn bản cụ Phạm ái (cháu gọi cụ Tú Ngôn là bác ruột) cung cấp năm 1974. Đồng thời chúng tôi cũng công bố hai bài thơ Phạm Văn Thản làm khi giã nhà ra đi hoạt động và khi ở đồn Bố Lự (1910), hai bài này trước đây còn ít người biết do chính cụ Nguyễn Thị Thành (vợ Phạm Văn Thản) cung cấp năm 1960.
I- Văn tế Anh(1)
Than rằng:
Nước La Giang(2) thoắt thoắt xuôi biển Đông, cuộc trần thế nổi chìm ngán nhẽ !
Mây Tùng lĩnh(3) tuôn tuôn qua cõi Bắc, kiếp phù sinh tan hợp mấy hồi !
Nhớ Anh xưa
Ngang tàng chí cả,
Trung hậu tính trời.
6.Án tuyết(4) ngoại mười năm, công cha dạy chuyên nghề cử tử(5);
Đường mây vừa một bước, ơn trời cho nên đấng tú tài(6).
Đau lòng bốn mươi triệu sinh linh(7), đương cơn lửa nóng nước sôi, thân nam tử (8) phải lo một phận;
Giận chí ba trăm năm miếu xã(9), gặp hội gió tanh mưa tả(10), trách(11), sĩ phu phải gánh một vai.
10. Chưng khi ấy:
Dọc ngang trời đất,
Gióng giả trong ngoài.
Phá sản nghiệp mở đường thương hội(12);
Xếp bút nghiên theo lối vũ đài(13).
Gõ mái chèo(14) thề rửa thẹn non sông(15) vẫy vùng bể Bắc trời Nam lòng khảng khái rạng soi trên nhật nguyệt(16).
Đề ngọn kiếm(17) gạt ngang cơn gió bụi, dong ruổi triều Âu sóng á(18), tài Kinh luân(19) chống chọi giữa vân lôi(20).
17. Những mong mở mặt với hoàn cầu, một phen ấy xoay tay độc lập.
Nào tưởng sa chân vào lưới Pháp, năm năm trời phải bước chông gai(21).
Mang mày râu(22) đứng giữa cõi đời, tuổi ba mươi năm lẻ(23);
Đem tính mạng thác ngoài bể thẳm, ngày mười sáu tháng hai(24).
21. Nòi giống vàng(25) sao tội với trời, con tạo đánh ghen chi lắm !(26)
Lòng son thắm(27) để vùi theo đất, đời người đến thế thì thôi !
Cảnh phù du(28) chen chúc giữa trần ai(29) đành hay sống gửi mà thác về,(30) cuộc Hán - Sở chẳng qua hai đống đất(31);
Loài cây cỏ còn sầu người man mác, huống những ruột đau vì máu chảy, nghĩa chân tay khôn nhẽ dứt tình người.
25. Thương là thương cái chí ưu cần, khi đi học, khi đi làm,
Cho đến lúc lỡ bước sẩy vời, mùi cay đắng đã từng lắm lúc;
Tiếc là tiếc cái công lo liệu, vì việc dân, vì việc nước, vả vì việc anh em thầy bạn, nợ tang bồng (32) chưa trả cho ai.
Trên nhà huyên tuổi hạc càng cao(33), tựa cửa lúc hôm mai(34) đà thảm thiết;
Đầu lầu ngạc tiếng linh kêu(35) thánh thót, đối sàng(36) khi mưa nắng chạnh bồi hồi.
29. Cõi Hồng Lam(37) một giải thành sầu, phong cảnh đó người đi đâu vắng;
Miền Côn Đảo ngàn trùng bể thẳm, nông nổi này ai lấp cho vơi ?
Nghĩ nên khóc mà cũng nên than, khôn xiết kể tình dài giấy vắn (ngắn);
Thôi khi thác cũng như khi sống, thấu cho chăng trên chín dưới mười(38).
Than ôi !
Thương thay !
II. Giã nhà đi hoạt động.
Trời Đông á(39), gió yên biển lặng,
Bức nam phong đằng đẵng tháng ngày.
Xôn xao một trận gió tây(40),
4 - Nước non ủ mặt, nước mây cau mày.
Ai ai cũng chân tay tai mắt,
Cũng đứng trong trời đất với người.
Sinh ra cái phận làm trai,
8- Bốn phương hồ thỉ(41), hai vai cương thường(42).
Lòng bối rối đôi đường nhà nước,
Dạ đinh ninh nỗi ước non sông.
Ra đi lòng những dặn lòng,
12- Bao giờ trống mở cờ giong mới về !
Ngoài dặm liễu(43) dầm dề sương tuyết,
Trong sâu Lai(44) nào biết nắng mưa.
Chút tình khi sớm khi trưa,
16- Ba xuân(45) báo đáp bây giờ công em.
Viện một bút gửi thăm thân thích,
Trăm lạy người miễn trách cho tôi.
Cách nhau mặt đất chân trời.
20- Bức thư trân trọng vài lời bình yên.
Này này kẻ bạn quen nghĩa cũ.
Xin yêu nhau, chớ phụ lời nhau.
Sương thu nắng hạ mặc dầu,
24- Bốn mùa tùng bách một màu xanh xanh.
Mang bên nách thời đành chữ nghĩa,
Đội trên đầu thời để chữ trung.
Tay tôi chép một chữ công,
28 - Dạ tôi ghi một chữ đồng chẳng sai.
Hội Âu - á (46) xôn xao mưa gió,
Vững chân trong đã có tay ngoài.
Gương Tàu(47) soi tỏ mặt người,
32- Lẽ nào vác mặt mà bôi lấm bùn.
Cầu Tư Mã (48) chưa mòn chữ mực,
Thuyền Châu lang còn đợi gió đông,
Sao cho đánh đổ (49) khóa đồng,
36 - Cho rung rinh đất, cho lung lay trời.
Giồng gấp lại có hồi nên biển,
Đất giồng cao có thể nên non.
Một mình một gánh càn khôn(50),
40- Lôi đình(51) muôn dặm, sắt son một lòng.
Anh em hỡi biết không, không biết,
Chắc chi chi đã quyết thì làm.
Ra tay kéo lại trời Nam,
44- Vừng đông há để yên đàn non tây(52).
Cuộc thế sự(53) mỗi ngày mỗi khác,
Tình hương quan(54) một bước một xa.
Nỗi này ai biết cho ta,
48- Kìa là nhật nguyệt, nọ là giang sơn.
III. Ở đồn Bố Lư (55).
Cuộc tang hải(56) lở bồi từng lúc,
Chí nam nhi(57) nấu đúc cho bền.
Chắc đâu sự được vẹn tuyền,
4 - Rủi may có phận, hư nêu tại trời.
Nghĩ tổ nghiệp gia tài mình đó,
Mà người đâu khác họ tới giành(58),
Giang sơn một hội, tam tành,
8 - Nghĩ đời mà ngán, nghĩ mình mà đau.
Cho nên phải đương đầu buôn bán(59),
Đem thân ra kết bạn giang hồ(60).
Hai vai gánh vác cơ đồ(61),
12- Ra khơi vượt biển công phu quản gì !
Hay đâu sự bất kỳ sóng gió,
Vốn tiếng nhà đã lộ thời thôi !
Bởi vì nặng lấy nợ đời,
16- Cũng liều thân phận đến bồi một hai.
Giá như kẻ bừa cày lao khổ(62),
Chắc làm nên giàu có như không.
Mất mùa thì cũng bằng lòng,
20- Được mùa thì cũng được sung sướng mình !
Giá như kẻ học hành văn sự(63),
Chắc làm nên tú cử(64) chi không.
May ra đỗ đạt thì mừng,
24 - Không may mà hỏng cũng đừng lo chi.
Có chí hẳn có khi làm được,
Ông trời kia phụ bạc chi ai.
Nước non, non nước còn dài,
28 - Đã nhiều vốn liếng thì lời cũng to.
Tôi từ thủa sông Ngô bể Sở(65),
Nhờ giang sơn che chở bình sinh.
Mấy phen mưa gió bất bình,
32 - Tấm thân ngàn dặm chút tình ba xuân(66).
Trông thấy mẹ mười phần khỏe bạo(67)
Đương hội này nương náu cho qua.
Chị em xem sóc trong nhà,
36- Sớm khuya có kẻ đường xa đành lòng,
May gặp hội gió đông đưa tiễn(68).
Trỏ thuyền buôn tới bến lương ca(69).
Làm cho rạng nghiệp ông cha,
40- Nợ đời giả sạch, vốn nhà hoàn nguyên(70).
Mới là phỉ chí(71) thanh niên !
CHÚ THÍCH
(1) Phạm Văn Ngôn (hiệu Tùng Nham sinh ngày mồng 1 tháng 6 năm Canh Thìn (7-7-1880) thi đậu Tú tài Hán học năm Bính Ngọ (1906) nen còn quen gọi là Tú Ngôn. Là anh ruột Phạm Văn Thản quê ở làng Việt Yên hạ, nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Có thời gian ông tìm đường ra căn cứ Yên Thế (Bắc Giang - Hà Bắc và được Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) bố trí ở đồn “Tú Nghệ” gần đại bản doanh Phồn Xương của chủ tướng (1906). Sau ông trở về hoạt động ở Nghệ An, tại đồn Bố Lư thuộc huyện Thanh Chương (1909). Bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày ra Côn Đảo, ông bị chúng giam hầm kín trong nhiều năm, sau bị bệnh lỵ rồi mất ngoài đó ngày 16 tháng 2 năm Tân Hợi (13-3-1911).
(2) Sông La chảy qua làng quê cụ Tú Ngôn.
(3) Núi Tùng trên đỉnh Linh Cảm ở quê hương cụ Tú Ngôn.
(4) Theo đòi việc học tập.
(5) Đi học và đi thi.
(6) Phạm Văn Ngôn thi đỗ tú tài năm Bính Ngọ (1906).
(7) Chỉ số dân nước ta, con số không thật chính xác, chỉ có ý nghĩa tượng trưng.
(8) Người con trai.
(9) Nơi thờ cúng, tế lễ; đây chỉ nước nhà.
(10) Ý nói nước nhà mất độc lập, nhân dân sống trong cảnh lầm than nô lệ.
(11) Trách nhiệm của người trí thức.
(12) Hội buôn do các tổ chức yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX lập ra để làm Kinh tế tài chính, hay để làm cơ sở bí mật đưa đón cán bộ. ở Nghệ Tĩnh lúc đó có Triệu Dương thương quán (Vinh), Mộng Hanh thương điếm (Chợ Trỗ, Can Lộc, Hà Tĩnh).
(13) Bỏ nghề văn theo nghề võ.
(14) Dẫn tích Tổ Địch (đời Tấn - Trung Quốc), qua sông chống giặc, cầm gươm gõ vào mái chèo thề không dẹp xong giặc thì không trở về.
(15) Rửa thẹn cho đất nước, ý nói khôi phục độc lập dân tộc.
(16) Mặt rời và mặt trăng.
(17) Nắm lấy ngọn Kiếm, cầm vũ khí.
(18) ý nói thế giới đang biến động.
(19) Tài lo liệu, xếp đặt công việc chính trị của một nước.
(20) Mây và sấm; thời tiết vân lôi là thời buổi truân chuyên, người quân tử có cơ hội để thi thố tài năng, làm nên sự nghiệp lớn.
(21) Giặc Pháp kết án cụ Tú Ngôn 5 năm tù giam ở Côn Đảo.
(22) Chỉ người đàn ông.
(23) Cụ Tú Ngôn mất ngoài Côn Đảo lúc 31 tuổi.
(24) Cụ Tú Ngôn mất ngày 16 tháng 2 năm Tân Hợi (13-3-1991).
(25) Người Việt Nam thuộc nòi giống da vàng.
(26) Chỉ ông trời.
(27) Tấm lòng yêu nước thắm đỏ như son.
(28) Phù du là một loại trùng nhỏ như con thiêu thân, chỉ sống được trong vài giờ, chỉ cuộc đời người ta ngắn ngủi.
(29) Bụi bặm, chỉ cuộc đời.
(30) Theo quan niệm người xưa cho sống chỉ là tạm thời, chết mới là về nơi vĩnh hằng.
(31) Hai nước Hán và Sở (Trung Quốc) đánh nhau gây nên bao cảnh tai ương thảm khốc, kết quả cuối cùng chỉ còn lại hai đống đất (Dựa theo ý bài Ngu mĩ nhân thảo của Tăng Cung đời Tống có câu; “Sở Hán phân tranh lưỡng khâu thổ”).
(32) Cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng; ý nói chí khí người con trai dọc ngang trời đất.
(33) Chỉ bà mẹ tuổi đã cao.
(34) Bà mẹ sáng và chiều tựa cửa mong con.
(35) Lầu Hoa Ngạc đời Đường để làm nơi anh em hội họp ăn chơi. Linh là một loài chim nhỏ.
(36) Đối giường với nhau, ý nói tình anh em gần gũi nhau.
(37) Núi Hồng và sông Lam là hai cảnh tiêu biểu của tỉnh Hà Tĩnh, chỉ chung toàn vùng.
(38) Thành ngữ có câu: “Chín tầng trời, mười tầng đất”.
(39) Chỉ nước Việt Nam ở phía Đông châu á.
(40) Chỉ việc nước ta bị thực dân Pháp nổ súng xâm lược.
(41) Cái Cung và cái tên; ý nói chí làm trai ngang dọc.
(42) Ba giường mối (Vua tôi, cha con, vợ chồng) và năm đức thường của người ta (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).
(43) Con đường đi hai bên có trồng cây liễu.
(44) Ông Lão Lai người nước Sở (đời Xuân Thu) rất có hiếu với cha mẹ, tuổi già mà vẫn thường mặc áo sắc rực rỡ để múa nhảy như trẻ con cho cha mẹ vui. Đây chỉ nơi cha mẹ ở.
(45) Người ta thường mong cho cha sống lâu nên ví cha như cây xuân là một loại cây to sống lâu.
(46) Châu Âu và châu á, ý nói thời đại mới.
(47) Theo gương Trung Quốc từ sau cuộc vận động Duy Tân năm 1898, rồi cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 đang chuyển mạnh.
(48) Tư Mã Tương Như người đời Hán Vũ Đế (Trung Quốc).
(49) Tác giả bài Phượng cầu hoàng (chim trống đi tìm chim mái). Chu Du, đời Tam Quốc đang chờ gió đông nổi lên để đánh hỏa công thiêu cháy đoàn thuyền quân Tào Tháo trên sông Xích Bích.
(50) Quẻ càn và quẻ khôn, chỉ vũ trụ, trời và đất.
(51) Sấm sét, đây chỉ sự phẫn nộ đối với bọn xâm lược.
(52) ý nói cần phải đấu tranh khôi phục độc lập dân tộc.
(53) Việc đời thay đổi.
(54) Quê hương, làng xóm.
(55) Đồn Bố Lư ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An là căn cứ chống Pháp hồi đầu thế kỷ XX.
(56) Bể dâu, chỉ sự biến đổi trong đời.
(57) Chí làm trai.
(58) Chỉ việc thực dân Pháp kéo quân tới đánh chiếm Việt Nam.
(59) ý nói ra hoạt động thương nghiệp, lập hội kinh doanh nhằm mục đích yêu nước cách mạng.
(60) Giang là sông lớn, hồ là ao lớn; ý nói đi nhiều, kết bạn bốn phương.
(61) Cơ là nền, đồ là bức đồ họa; chỉ cả nước.
(62) Chỉ người nông dân lao động.
(63) Chỉ người học hành đi theo sự nghiệp văn chương.
(64) Tú tài và cử nhân, chỉ những người đi thi đỗ đạt.
(65) Ngô và Sở là hai nước đời xưa của Trung Hoa, ý nói đi lại nhiều nơi để hoạt động.
(66) Tình cảm đối với cha ở nhà.
(67) Mạnh khỏe.
(68) Gió đông cho cái phương tiện. Chuyện đời Tam quốc, Chu Du với Gia Cát Lượng chờ gió đông để nổi lửa đốt cháy quân Tào Tháo. ý nói gặp cơ may.
(69) ý nói đạt tới mục đích cuối cùng là cứu nước cứu nhà. Đi buôn là bề ngoài, còn bên trong là bí mật hoạt động cách mạng.
(70) Khôi phục địa vị cũ, trở lại địa vị cũ.
(71) Thỏa chí./.
|