TB

ĐÔ THỊ CỔ PHỐ HIẾN: THƯ TỊCH VÀ
BI KÝ HÁN NÔM

NGÔ ĐỨC THỌ

Trong các thư tịch Hán Nôm, tư liệu viết về Phố Hiến không nhiều. Dù cho nơi đây đã trở thành một trung tâm buôn bán có danh tiếng ở thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, nhưng điều đó hình như cũng không thu hút được nhiều sự chú ý của các sử gia. Sử ký tục biên có ghi đôi nét về Vạn Lai Triều, nhưng là quan tâm đến một sự kiện khác: “Dân phố trong Kinh kỳ và khách buôn ở Vạn Lai Triều (ở ngoài Hiến Dinh Sơn Nam) tình nguyện hiến [chì, diêm tiêu, lưu hoàng làm thuốc súng] để được trao cho quan chức(1). Địa điểm Hiến Dinh được chép trong Cương mục 1 lần khi Trịnh Doanh đi đánh dẹp cuộc phiến loạn của Vũ Đình Dung (11 - 1740)(2). Phan Huy Chú có lẽ đã chú ý nhiều hơn đến nơi đóng lỵ sở của trấn Sơn Nam đời Lê: “Dinh trấn ở huyện Kim Động là nơi trấn cũ, nhân vật nhiều, phong cảnh đẹp, bãi Xích Đằng là kho của các đời và là chỗ xung yếu then khóa”(3). Phải đến Đại Nam nhất thống chí (phần ghi về tỉnh Hưng Yên) mới có những ghi chép chi tiết hơn về một vùng đô thị cổ: “Cung cũ Hiến Nam” ở địa phận xã Nhân Dục, huyện Kim Bảng là lỵ sở trấn Sơn Nam đời Lê: “Phàm người nước ngoài đến buôn bán ở đây thì gọi là Vạn Lai Triều, phong vật phồn thịnh, nhà ngói như bát úp. Đại đô hội ở Bắc Kỳ chỉ có Thăng Long và đây mà thôi, cho nên mới có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Ở mục Chợ và phố soạn giả có ghi thêm vài chi tiết: “Phố Bắc Hòa Thượng và Hạ đều ở phía tây nam huyện Kim Động. Đời Lê, Vạn Lai Triều và dinh Hiến Nam đều ở đây. Hai phố này nhà ngói như bát úp, là nơi người Trung Quốc tụ hội buôn bán. Lại có phố Nam Hòa người Trung Quốc ở, đối diện với phố Bắc Hòa”(4). Các nhà biên khảo đời sau, khi viết về Phố Hiến, thường dựa vào mô tả trên đây của ĐNNTC.

Mấy chục năm sau, trong một chuyên khảo đầu tiên về địa chí tỉnh Hưng Yên, cuốn Hưng Yên nhất thống chí(5) mới có thêm một ít tư liệu nói về đô thị cổ Phố Hiến. Soạn giả HYNTC cho biết rõ hơn dinh cũ Hiến Nam là nơi đóng hành dinh của cả ty Thừa Chính và ty Hiến sát. Soạn giả cũng phân biệt rõ Phố Bắc và Phố Hòa, chứ không gọi chung là Phố Bắc Hòa, hoặc là Phố Bắc Hòa Thượng, Bắc Hòa Hạ như ĐNNTC. Tác giả viết: “Phố Bắc và Phố Hòa, một phố thì ở dinh cũ của ty Hiến sát trấn Sơn Nam xưa, một phố thì ngày nay gọi là phố Bắc Hòa. Tương truyền rằng đời Lê, người Thanh (Trung Quốc) đi thuyền sang buôn bán ở nước ta không được phép đến thẳng Kinh đô Thăng Long, mà phải đậu thuyền ở nơi đây; họ bèn xuất tiền mua đất làm nhà để thuận lợi cho việc cư trú và buôn bán. Vì thế nên gọi là (…). Ngày nay dân phố phần lớn đều có cháu người Thanh. Ở đây có bến tàu, nay tức là sông Bảo Châu, tục gọi là Nhổ Tàu, đó là nơi bốc đỡ, vận chuyển hàng hóa”. Địa danh Bảo Châu ngày nay ít người biết, nhưng chúng ta còn có thể thấy trong tấm biển tên chùa ốp bằng mảnh sứ “Bảo Châu Linh ứng tự” của ngôi chùa cổ ở ngoài đê thuộc địa phận xã Quảng Châu huyện Phù Tiên ngày nay. Soạn giả HYNTC có thực hiện việc sưu tập thêm những tư liệu liên quan đến Phố Hiến, như về Thổ sản có ghi đậu Hòa Lan trồng nhiều ở xã Nễ Châu, huyện Tiên Lữ nay là thôn Hà, xã Hồng Nam, huyện Phù Tiên (cách Phố Hiến 2km). Soạn giả cũng ghi nghề làm bánh mật ở phố Hàng Chè huyện Kim Động, cách ghi như thế, phải chăng trong danh mục các phường, phố ở Phố Hiến xưa có tên phố Hàng Chè ? Lệ thu thuế các thuyền buôn ở Phố Hiến thời Lê như thế nào, hiện chưa khảo được rõ, nhưng cũng trong HYNTC chúng ta có thể phần nào hiểu được cách thu thuế bến đò ở đây vào thời Nguyễn Tự Đức: “Các hạng thuế hàng năm tính chung là 8.400 quan, một nửa cho tính theo giá bạc, mỗi lạng bạc 6 quan, nửa còn lại tính theo giá một lạng 8 quan, cộng là 1225 lạng”. Số thuế đó giao cho một người Trung Quốc đứng ra thu, được hưởng theo tỷ lệ 40 phần lấy 1 phần (tức 2,5%). Lệ thu thuế như vậy có lẽ được ổn định một thời gian dài, về sau vì có tình trạng người thu tự tăng thêm mức thuế mà soạn giả ghi là “Chỉ có quan thu thế và người thầu thuế châm chước nặng nhẹ không thống nhất”, cho nên đến năm Tự Đức 36 (1883) mới bỏ lệ khoán đó. Đặc biệt theo nhận xét của chúng tôi thì HYNTC là tài liệu ghi chép được rất nhiều tên các chợ: khoảng 44 chợ trong toàn tỉnh Hưng Yên, trong khi đó ĐNNTC chỉ ghi 11 tên phố và chợ. Số đó vượt hơn nhiều lần tên chợ của các tỉnh khác. Phải chăng đó cũng là dấu vết của sự phân rã thị trường sau khi đô thị cổ Phố Hiến điêu tàn ?

HYNTC cũng ghi lại cho chúng ta những thông tin quý báu về các di tích lịch sử môi trường văn hóa liên quan đến đô thị cổ Phố Hiến, như đền thờ sứ quân Phạm Phòng át ở xã Xích Đằng (Nay thuộc xã Lam Sơn), có chi tiết cho biết “mộ của sứ quân táng ở xã Ngọc Vấn, tương truyền mộ chôn áo quan bằng đồng dài hơn 1 trượng” (khoảng 3,33m) chưa rõ ngôi mộ cổ này đến nay có còn hay không ? Chùa Kim Chung, tức chùa Chuông, (ở xã Nhân Dục nay là xã Hiến Nam) được xây dựng trong niên hiệu Vĩnh thịnh (1705-1719) đời Lê Dụ Tông. Đền Quan Thánh (thường gọi là Miếu Quan Võ, cũng có ngời gọi là Võ Miếu) và hai đền Thiên Hậu ở phố Bắc Hòa Thượng và Bắc Hòa Hạ do người Thanh sang buôn bán lập nên, riêng đền Quan Thánh được quan Tuần phủ Trần Vân Chuẩn cho trùng tu năm Tự Đức 33 (1880).

Đến nay chưa có tư liệu gì để xác định ai là soạn giả của tập HYNTC, chỉ biết công trình được biên soạn vào khoảng không lâu sau năm Đồng Khánh ất Dậu (tức là nửa sau của năm 1885). Vì đó là năm có sự kiện muộn nhất được ghi chép. Qua sơ bộ đối chiếu với phần tỉnh Hưng Yên trong Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí, chúng tôi nhận thấy đây là hai tác phẩm khác nhau. Nhưng có khả năng sách này đã được một người cộng sự của Tuần phủ Hưng Yên Hoàng Chiếp biên soạn ra trong khi chuẩn bị tư liệu khai trình lên triều đình về nội dung phần Hưng Yên của bộ Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí (1887).

Về văn bia, trong kho bản rập do Viện Viễn đông Bác cổ sưu tập trước đây (nay do viện Hán Nôm quản lý), văn bia tại các di tích ở vùng Phố Hiến chưa có mấy, chỉ mới có một ít bia ở chùa Chuông và chùa Xích Đằng. Bia chùa Chuông (Kim Chung tự thạch bi ký, No3765 - 3766) là tấm bia có giá trị, dựng năm Vĩnh Thịnh 7 (1711) là năm trùng tu ngôi chùa này. Mặt sau bia có ghi tên đề: Nhân Dục xã Cổ Tích truyện, ghi công đức của những người góp tiền sửa chùa, đắp tượng. Sau khi kể tên rất nhiều người ở các xã Xích Đằng, Đằng Man, Đằng Châu, Đinh Xã, Đoan Vĩ v.v. Có một dòng ghi chung số tiền đóng góp của các phường ở Phố Hiến (Bản xã đô vạn…) như: phường Hàng Bè, phường Hàng Sũ (bán quan tài, tiểu sành v.v.), phường Nhiễm Tác (Thợ nhuộm), phường Cựu Đê (Đê cũ), phường Hậu bi (sau Bia), phường Hàng Thịt (nguyên văn ghi: Hàng Nhục phường), phường Hàng Cá; Thủy Giang Nội (phường ?), Thủy Giang Ngoại, phường Cau Gỗ (Mộc lang phường: cau và gỗ). Với dòng ghi nói trên, tấm bia chùa Chuông đã lưu lại tên gọi của một số phường ở Phố Hiến hồi đầu thế kỷ XVIII.

Để bổ sung tư liệu văn bia về Phố Hiến, vừa qua một nhóm công tác thuộc Ban Văn bản học Viện Hán Nôm được sự giúp đỡ của Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hải Hưng tiến hành một đợt sưu tầm bi ký trên thực địa. Nhóm công đã làm được 66 thác bản văn bia ở 19 di tích lịch sử văn hóa ở khu vực Phố Hiến. Chùa Hiến (Thiên ứng tự) là ngôi chùa cổ đã chứng kiến sự hưng suy của đô thị này. Tấm bia bên trái sân chùa ghi về đợt trùng tu năm Vĩnh Tộ 7 (1625), ca ngợi rằng: “Nhân Dục, Hoa Dương là miền đất tiêu biểu của phủ Khoái Châu, địa giới ở phía nam huyện Kim Động. Hình thế nghìn dặm rồng chầu, là nơi dê đàn tụ hội, gộp muôn nhánh về nguồn; dồn lớp sẻ bay, ấy là phía ngoài dinh Trấn, ôm giải đất trong sông… Có người nói thôn Hoa Dương danh tiếng là nơi đóng trị sở Ty Hiến sát của Sơn Nam thừa tuyên mà miền Phố Hiến nổi danh là một chốn đô hội Tiểu Trường An của bốn phương”.

Mặt sau bia dày đặc những dòng chữ nhỏ ghi công đức của khoảng 500 người đóng góp tiền sửa chùa, đúc chuông, căn cứ vào đó có thể kể thêm được 2 phường Phú Lộc Phúc Lộc.

Tấm bia thứ hai ở chùa Thiên ứng khắc dựng năm Vĩnh Thịnh 5 (1709) chủ yếu cũng để ghi công đức thập phương đóng góp đúc chuông, tô tượng thờ, nhưnglại có chi tiết đáng chú ý ở hai mặt cạnh: ở cạnh bia bên trái, nhng địa danh mà ở bia chùa Chuông ghi là “phường” thì ở mặt cạnh bên trái của bia này ghi là “thị” như: cựu Đê thị, Ngoại Đê thị, Hậu Bi thị, v.v. Ngoài những tên phường đã biết, bia này ghi thêm được 5 tên “thị” (tức phường) khác, là: Hàng giường 行 床 市, Hàng Nồi đất 土 埚 市 (Thổ Oa thị); Hàng Chén 行 戰 市 , Hàng Nón 花 笠 市 (Hoa Lạp thị), Phường (chợ) Hà Khẩu 河 口 市. Mặt cạnh bên phải có mục riêng ghi tên người Hoa thuộc 2 tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông, như Lâm Thiên Đằng, Thái Yếu Lãng v.v. tất cả 66 người. Việc ghi tên một số khá đông người Hoa đóng góp tiền công đức cho chùa Hiến trên bia này có thể cho thấy một mức độ hòa đồng về tập tục, tín ngưỡng tôn giáo của người Việt và người Hoa ở Phố Hiến khoảng đầu thế kỷ XVIII.

Cách chùa Hiến không xa, cũng trong địa phận xã Hồng Châu, có khu đất nguyên là vườn trong dinh Trấn thủ xứ Sơn Nam xưa. Nơi đây, ngày trước có đền thờ Tước quận công Lê Đình Kiên. Đền ấy ngày nay không còn, nhưng bên cạnh đường đi còn có một tấm bia lớn (190 x 97cm) khắc năm Bảo Thái thứ 4 (1723) với dòng tên bia chạm nổi bằng chữ triện: Đỉnh kiến Tả đô đốc Thiếu bảo Tước quận công tặng Thái bảo Anh Linh vương Lê công từ bi ký. Người soạn văn bia là Trần Đế Đào (quê huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) nguyên là tàu trưởng tàu Hải Nam đến cư trú ở Vạn Lai Triều đã lâu năm. Văn bia chủ yếu ca ngợi công lao sự nghiệp của Thái bảo Anh Linh vương Lê Đình Kiên, đồng thời cũng là áng văn có giá trị của một người Hoa thuộc thế hệ đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng Phố Hiến. Với tình cảm tốt đẹp, tác giả viết: “Người ta thường nói: có núi cao ắt có sông lớn, có núi cao sông lớn tất có bậc kỳ vĩ tuấn kiệt sinh ra để cho đầy đủ khí chất bay bổng trong sáng. Điều đó không cứ ở trong nước (Trung Quốc) hay ngoài nước, dẫu ở đâu cũng thế. Bọn chúng tôi đáp thuyền biển sang làm việc ở nước Nam cũng thấy được điều đó. Những khi rỗi rãi chúng tôi từng du lãm các nơi núi sông cảnh đẹp ở chốn đô ấp đây để mở rộng tầm hiểu biết. Thấy non sông này văn nhân tài giỏi, võ sĩ siêu quần, quốc thể âu vàng bền vững, bọn chúng tôi thường cùng nhau tấm tắc ca ngợi. Về chỗ tàu thuyền ra vào tấp nập thì Vạn Lai Triều là nơi thuyền buôn dừng đậu, người Bắc quốc sang buôn bán đến nay đã mấy chục năm được an cư lạc nghiệp, không kể xa gần đều vui đến quần tụ nơi đây. Ơn trạch của Thái bảo Anh Linh vương Lê Tướng công thật lớn lao, không ghi hết được”. Tác giả văn bia không viết nhiều về tiểu sử hành trang của Lê Thái bảo, vì cho rằng những điều đó tất đã có sử sách của triều đình ghi chép. Tác giả ghi nhận sự đánh giá cao của người đương thời và tình cảm biết ơn sâu sắc của người Hoa ở Phố Hiến đối với vị đại thần giữ chức Trấn thủ xứ Sơn Nam trong 46 năm: “Tướng quân yêu dân như con, ngăn giặc có phép, dè xẻn tiêu dùng, công lao trung quân ái quốc của Tướng công, dẫu đứa trẻ lên ba cũng biết ca tụng… Bọn chúng tôi là thương khách từ xa tới, đâu dám điểm tên kể số nhân sự của bản quốc. Chỉ nghĩ rằng, chúng tôi kiều ngụ ở nước Nam đã lâu, được thấm nhuần công đức ơn trạch của Lê Tướng công, có nguyện vọng chân thành thôi thúc, lòng cảm nhớ da diết, không ngày nào khuây nguôi”.

Sau khi Lê Tướng công qua đời, người Hoa ở Vạn Lai Triều xin triều đình cho họ được dựng đền trên khu đất của dinh Trấn Ty cũ để thờ ngài. Được triều đình cho phép, người Hoa ở Vạn Lai Triều bèn góp tiền thuê thợ xây dựng đền thờ Lê Thái bảo với quy mô to lớn, ai nấy đều thỏa lòng, nhưng việc dựng bia thì chưa tính đến. Sau được Trấn quan kế nhiệm là Đặng Tướng công (tức Đặng Đình Tướng) khuyến khích, việc đó mới thực hiện vào năm đã ghi trên. Cuối bia ghi tên các thương nhân người Hoa góp tiền dựng đền và khắc bia. Tất cả khoảng 150 nghìn, nhưng chữ khắc cỡ nhỏ, nhiều mảnh đã mờ mòn, nay chỉ đọc rõ được một số khoảng hơn 80 người (như Lâm Đức Trung, Quách Chính Thụy v.v…).

Vì kiêng huý của Anh Linh vương nên trong bia không ghi tên thật của ngài. Nhưng danh tính vị Tả Đô đốc họ Lê quê ở làng Bái Trại, huyện Yên Định, giữ chức Trấn thủ xứ Sơn Nam trong 46 năm mà văn bia nói đến thì có thể tìm thấy trong hầu hết các bộ quốc sử có danh tiếng. Toàn thư chép: “Lấy Tước quận công Lê Đình Kiên làm Đề đốc (10-1669). Bây giờ Đình Kiên làm Lưu thủ Sơn Nam, chính sự liên bình, giặc cướp không có, nhân dân được yên, cho nên được đặc cách thăng 2 bậc”(6). Tháng 2 năm Giáp Thân (3-1704) niên hiệu Chính Hòa 25 ông mất. Sử ký tục biên viết: “Trấn thủ Sơn Nam là quận công Lê Đình Kiên chết. Đình Kiên làm Nội thị trong cung cấm nhiều lần theo chúa đi chinh phạt, có công lao, ở trấn trước sau đến 40 năm. Làm việc chính sự chuộng nghiêm khắc, cứng rắn, vì vậy trộm cướp năm im không dám hoạt động. Kiên nổi tiếng về cai trị. Đến đây chết, thọ 82 tuổi, truy tặng Thái bảo, truy phong phúc thần”(7). Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục cũng đề cao chính tích của Thiếu bảo Lê Đình Kiên và có ghi lại mấy mẩu chuyện về tài xử kiện của ông”(8). Cương mục và các sử sách đời Nguyễn cũng đều ghi về ông với ngôn từ ca ngợi tương tự như vậy(9).

Ngày nay đọc bài văn bia của Trấn Đế Đào, chúng ta cảm kích nhận ra rằng: Một viên quan cai trị như Thái bảo Lê Đình Kiên với tấm lòng “Yêu dân như con”, biết thi hành đường lối nhân chính, bảo đảm an ninh xã hội cho dân chúng được yên cư lạc nghiệp, quả đã góp phần không nhỏ đem lại phồn vinh một thời cho đô thị cổ Phố Hiến.

Người kế nhiệm Lê Đình Kiên là Hữu đô đốc ứng quận công Đặng Đình Tướng(10). Ông làm Trấn thủ xứ Sơn Nam (trấn doanh ở Phố Hiến) hơn 10 năm cũng được tiếng khen “là người giản dị, rộng rãi, ôn hòa nên dân cũng được yên”(11). Tuy vậy, đối với vấn đề Thiên chúa giáo, cách ứng xử của ông có thể chưa được tế nhị. Trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, đệ tử của Thiền sư có thuật lại một sự việc: “Khoảng năm Giáp Tí (1714), Đặng Tướng công cho mời ba giáo sĩ Hòa Lân (Hoa Lang tam sư) có tên phiên âm là Tài Gia, Tại Hựu và Tài Chi đến chùa Nguyệt Đường để cùng với Hương hải thiền sư đối đáp hơn thua về giáo lý của hai đạo. Ba giáo sĩ Hòa Lan mỗi người chỉ trả lời 1 câu rồi đành chịu ngồi im bị Đặng Tướng công đánh giá là “Đạo không bằng Thích” ! Sau đó Tướng công tâu việc ấy với triều đình, cách tám tháng phủ chúa sai quan về trục xuất các giáo sĩ Hòa Lan về nước, không cho cư trú ở vùng Phố Hiến nữa”(12). Phải chăng sự ra đi của các nhà truyền giáo Hòa Lan cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự thưa vắng dần các tàu biển phương Tây đến buôn bán, khiến cho Phố Hiến không còn sầm uất như xưa ?

Bên kia sông Cả, cách Phố Hiến khoảng 5km theo đường chim bay có một tấm bia liên quan đến việc tìm hiểu địa điểm đóng trị sở của ty Hiến sát xứ Sơn Nam. Chúng tôi đã được ông Tăng Bá Hoành Giám đốc Bảo tàng Hải Hưng hướng dẫn đến thôn Tường Lân, xã Tường Thụy (thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà ngày nay) để làm thác bản tấm bia đó. Bia dựng trong nhà bia kiểu cổ xây bằng gạch, tình trạng bia còn tương đối tốt, mặc dầu ở gần chân bia có vết vỡ ngang đã được gắn lại. Nhưng thực ra cả hai mặt đều khắc cùng một lần vào năm Chính Hòa 3 (1644) không phải là năm khắc bia, mà chỉ là năm ghi trong tờ lệnh chỉ của Thanh vương (Trịnh Tráng). Nội dung lệnh chỉ tái xác nhận cho dân bản thôn được hưởng quy chế của thôn thủ lệ: có trách nhiệm thực hiện các việc tạp vụ cho nha môn trị sở Hiến ty xứ Sơn Nam, vì vậy được miễn trừ sưu sai và các tạp dịch khác. Vũ Công Đạo (13) viết bài ký này có lẽ vào dịp dân thôn Tường Lân tổ chức khắc tờ lệnh chỉ của Trịnh Tráng vào bia để công bố và lưu truyền. Vì có việc khắc lại đó nên ở mặt sau mới có dòng tên bia đề Trùng San trị sở bi ký trong khi thực ra bài ký của họ Vũ chỉ mới khắc bia lần đầu. Bài ký cho biết vào năm Kỷ Mùi Vĩnh Trị 4 (1679) hai ông Phan Tự Cường(14) và Trần Công Cổn(15) bổ nhậm giữ chức Hiến sát sứ và Hiến sát phó sứ ty Hiến sát xứ Sơn Nam. Không lâu sau khi nhận chức, hai ông đã cho xây dựng nha môn Hiến ty ở thôn Tường Lân. Bài ký của Vũ Công Đạo viết: “Hai vị cùng nhau bàn bạc, xem khắp hình thế, bèn nhận di tích cũ cho dựng trị sở mới ở phía trước bản thôn. ở giữa xây công đường để coi việc, hai bên dựng các dãy nhà để yên chỗ ở cho các quan. Dân chúng trong vùng đổ xô đến giúp công việc, các thợ đều có tài khéo léo. Sau một thời gian trù liệu làm lụng, tường bao xây xong, cổng chính uy nghiêm, hiên vách rộng lớn. Giờ đây trống nổi vang lừng, mây đùn cổng chợ. Giữa cổng phủ, áo mũ kỷ án oai nghiêm; trước sân dinh, chuột sẻ phơi bày thật giả. Trong cõi gió lồng nhạn lớp, vườn tược an toàn. Nhà nhà xây đắp nền giàu thịnh, chốn chốn chấn hưng nếp lễ nghi. Chính sự yên bình, kiện tụng được xét quyết. Quan lại xứng chức dân chúng yên vui”. Cũng như tấm bia Anh Linh vương, bài ký Bia trị sở Dinh trấn Hiến Nam của Vũ Công Đạo là một áng văn nồng nhiệt ca ngợi tài năng cai trị của hai vị Chánh Phó Hiến ty Sơn Nam: “Hai vị làm quan liêm khiết giữ mình, nhân đức yên dân, dùng thế dẹp gian, lấy phép công xét việc, thi hành chính sự khoan mới để thể đức bề trên, để thỏa lòng dân mong muốn…”

Có được viên quan như vậy, cho nên “Nhà nhà xây đắp nền giàu thịnh (…) dân chúng yên vui”. Có thể coi đó như vài nét chấm phá phác họa quang cảnh thái bình thịnh vượng của vùng đô thị cổ Phố Hiến cả bên này và bên kia sông Hồng.

Hơn ba thế kỷ đã đi qua, biết bao nhiêu biến động, dấu tích xưa mất mát khá nhiều. Tuy vậy, chúng tôi vẫn hy vọng rằng những tư liệu thư tịch, bi ký Hán Nôm viết về Phố Hiến trong lịch sử sẽ còn được phát hiện sưu tập ngày càng đầy đủ hơn để có thể giúp cho chúng ta những hiểu biết mới về đô thị cổ này.

CHÚ THÍCH

1. Đại Việt sử ký tục biên, Nxb. KHXH, 1991, tr.163.

2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục), Nxb. Sử Địa, 1960, tr.1707.

3. Lịch triều Hiến chương loại chí (Dư địa chí). Nxb, Sử học, 1960.T.1, tr. 80.

4. Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC), Nxb. KHXH, 1971. T.3, tr. 285-286.

5. Hưng Yên tỉnh nhất thống chí (HYNTC), sách chép tay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm; Ký hiệu A.963

6. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1968, IV, tr.316.

7. Đại Việt sử ký tục biên, Sđd, tr. 56.

8. Xem Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nxb. Sử học.1962, tr. 332.

9. Về tên tước Lê Đình Kiên: Nhóm từ quan hàm chức tước của ông đã được thể hiện ở trên bia: “…Tả Đô đốc Thiếu bảo tước quận công…”, có thể hiểu: vị Tả Đô đốc này được phong hàm Thiếu bảo, được phong tước quận công, nhưng không có hoặc không rõ tên tước là gì. Như vậy “tước quận công” được hiểu theo kết cấu ngữ pháp tiếng Việt. Bản dịch Kiến văn tiểu lục (tr.332) hiểu theo cách đó. Bản dịch Đại Việt sử ký tục biên lướt qua không thể hiện từ “tước”. Riêng bản dịch Toàn thư (Bd, IV, tr.316) đã thể hiện: “… lấy Tước quận công Lê Đình Kiên làm Đề đốc”. Khó xác định cách hiểu nào là đúng. Tìm thêm cứ liệu khác, thấy trong Hương Hải thiền sư ngữ lục (bản in năm 1747, tờ 13a): “Tái khuyến Trấn thủ quan Tước quận công hỉ xã cổ tiền thập quán” (Lại quyên góp thêm, được quan Trấn thủ Tước quận công vui lòng bố thí 10 quan tiền cổ). Đến đây có thể tin chắc tên tước của Lê Đình Kiên là Tước quận công, như cách hiểu của bản dịch Toàn thư.

10. Đặng Đình Tướng (1649-1735), người làng Lương Xá huyện Chương Đức, nay thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây; Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670), trước khi về trí sĩ được thăng hàm Thái phó quốc lão, tước ứng quận công.

11. ĐVSKTB, Sđd, tr.57.

12. Hương Hải thiền sư ngữ lục, nguyên bản chữ Hán, in năm Cảnh Hưng 8 (1747).

13. Vũ Công Đạo (1629 - ?): người xã Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là xã Tân Hồng huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng; 31 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi, Vĩnh Thọ 2 (1659) làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công, tước bá.

14. Phan Tự Cường (1633 - ?): người làng Cương La, huyện Yên Lãng, nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất Cảnh Trị 8 (1670), làm quan đến chức Thiêm đô ngự sử.

15. Trần Công Cổn: chưa rõ tiểu sử.

TB

TƯ LIỆU HÁN NÔM Ở HUYỆN TIÊN SƠN, THUẬN THÀNH VÀ THỊ XÃ BẮC NINH, TỈNH HÀ BẮC

LÂM GIANG

Từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1992, đoàn cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, gồm 10 đồng chí, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương (Sở Văn hóa Thông tin và Thể thao tỉnh Hà Bắc, ủy ban nhân dân huyện và Phòng Văn hóa Thông tin thể thao các huyện Tiên Sơn, Thuận Thành, Thị xã Bắc Ninh), đã tiến hành khảo sát, sưu tầm tư liệu Hán Nôm ở Tiên Sơn, Thuận Thành và thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Hà Bắc. Có thể nói đây là những địa bàn quan trọng, lưu giữ nhiều tư liệu Hán Nôm; là vùng đất cổ có truyền thống thi thư, nhiều người đỗ đạt cao trong nhiều triều đại; là nơi có nhiều di tích lịch sử, công trình văn hóa cổ: lăng tẩm, thành quách, đền đài, chùa miếu… cũng vì vậy, đoàn đã gặt hái được những kết quả đáng kể:

- In rập được 1350 bia, 120 chuông, 12 khánh.

- Chép 1200 câu đối, 700 hoành phi, 10 bài thơ.

- Khảo sát, thống kê, lập bảng điều tra tư liệu Hán Nôm cho toàn bộ các thôn, phường, xã thuộc ba huyện thị trên.

- Mua và in chụp được trên 50 cuốn sách, gồm: gia phả, thần phả, sắc phong, và một số sách quí khác.

Nếu đem số lượng đã đạt tới trên đây so với số lượng tư liệu Hán Nôm do Trường Viễn đông Bác cổ của người Pháp EFEO sưu tầm trước kia thì thấy:

+ Số bia do EFEO sưu tầm trong toàn tỉnh Bắc Ninh cũ là 2350 mặt, gấp đôi số lượng của ba huyện thị vừa qua sưu tầm được.

+ Riêng ba huyện thị trên, trước đây EFEO mới sưu tầm được 330 mặt bia, chỉ bằng 1/4 số bia lần này thu thập được.

+ Loại văn bản Hán Nôm khắc trên chuông, khánh, biển gỗ, cùng câu đối, hoành phi, thì người Pháp trước đây chưa hề để mắt tới.

Trên đây mới chỉ là những con số đơn thuần, về chất lượng và nội dung cụ thể phải có thời gian nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng.

Sơ bộ khảo sát, thấy:

1. Trên 1000 mặt bia, chuông, khánh vừa sưu tầm, chứa đựng những thông tin phong phú về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử…

- Đó là những tấm bia, Hậu thần, Hậu Phật nói về việc xây dựng hoặc trùng tu các đền đài, đình chùa, miếu mạo, về sự đóng góp của thiện tín thập phương, về tục bầu hậu gửi giỗ khi xưa…

- Đó là những tấm bia khắc lệnh chỉ, sắc chỉ của các triều vua, ban cho thôn Tam á (Gia Đông - Thuận Thành) trông nom, cúng tế đền thờ Sĩ Nhiếp mà các nhà nho ta xưa tôn là “Nam Giao học tổ”.

- Đó là bia Văn miếu, văn chỉ của làng, xã, huyện, tỉnh, với nội dung đa dạng, như bia văn chỉ thôn Trang Liệt (Đồng Quang, Tiên Sơn) cho biết họ tên những vị đỗ tiến sĩ và truyền thống thi thư của làng. Hay bia văn chỉ xã Hoài Thượng (Thuận Thành) còn có thêm nội dung khen thưởng cho những ai học giỏi, đỗ cao. Hoặc bia Văn miếu tỉnh Bắc Ninh cũ, một quần thể bia lớn, có nhiều giá trị, gần đây nhiều người đã biết tới…

- Đó là bia nói về cuộc đời, sự nghiệp một số nhân vật lịch sử; như bia về Lê Tương Dực vì ăn chơi vô độ mà để mất ngôi vua, dựng ở Phù Chẩn (Tiên Sơn); bia về Lê Quýnh, một bầy tôi tòng vong theo Lê Chiêu Thống, giữ trọn búi tóc, hiện dựng ở Hoài Thượng (Thuận Thành); bia nói về cuộc đời và nhiệt tâm chữa bệnh cứu người của một lương y, được dòng họ và dân làng lập đền thờ ở Đồng Nguyên (Tiên Sơn)…

Các bia, chuông, khánh nói trên phần nhiều khắc từ thời Lê Trung hưng đến Nguyễn. Bia có niên đại sớm hơn thu thập được rất ít.

Lại cũng có nhiều bia thời Tây Sơn, không bị đục đi dòng niên đại (Quang Trung, Cảnh Thịnh, Bảo Hưng) như thường thấy ở Hà Nội và vùng xung quanh Hà Nội.

2. Câu đối hoành phi: trên 2000 đôi câu đối và hoành phi đã sao chép được chưa phải là nhiều so với số lượng đã có. Vì các công trình văn hóa ở địa phương phần nhiều bị năm tháng và chiến tranh tàn phá. Những nơi còn giữ được tương đối đầy đủ, phải kể đến một số cụm di tích sau:

Tên di tích Huyện Số
câu đối
Số
hoành phi
Số
bài thơ
Ghi chú
- Đình đền chùa Đồng Kỵ
- Đền Trang Liệt
- Đền Nguyễn Thụ
- Đình Mai Động
- Đình Đoài
Đồng Quang

-nt-
Đồng Nguyên
Hương Mặc
Mão Điền
Tiên Sơn

-nt-
-nt-
-nt-
Thuận Thành
62

25
21
16
17
19

10
2
4
3




5

Những câu đối và hoành phi đó phần lớn khắc vào cuối đời Nguyễn (Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại). Câu đối hoành phi có niên đại sớm hơn hiện còn lại rất ít. Có thể kể:

Tên di tích Huyện Niên đại khác Ghi chú
câu đối hoành phi
- Đình Yên Lã

- Đình Trang Liệt
- Đền Trang Liệt


- Nhà thờ họ Ngô

- Đình Đoài
Tân Hồng

Đồng Quang

-nt-


Mão Điền


-nt-
Tiên Sơn

-nt-

-nt-


Thuận Thành


-nt-


- 1 Tự Đức Canh Tuất (1850)
- 1 Tự Đức Canh Ngọ (1870)

- 1 Tự Đức Bính Dần (1866)

- 1 Tự Đức Quý Mùi (1883)
1 Tự Đức 14 (1861)
-nt-

- 1 Thiệu Trị Bính Ngọ (1946)
- 1 Tự Đức Quý Mùi (1883)
Khắc “Mỹ tục khả phong”
-nt-

Hoành phi khắc “ư mục thanh miếu”
Khắc “trạch thi thư”

Tại nhà thơ họ Lê Doãn (Hoài Thượng, Thuận Thành) có đôi câu đối khắc năm Tự Đức Tân Dậu (1861) nói về Lê Quýnh như sau:

Ky Lữ trọng cương thường, cố quốc tang thương dư nhất phát;
Hi triều long tiết nghĩa, tân từ đăng hỏa chiếu cô đan.

(Kẻ lữ thứ trọng đạo cương thường, vì nước cũ bể dâu, còn lại một mái tóc;
Chốn triều Thanh, tỏ lòng tiết nghĩa, đền mới xây, lửa đèn soi tỏ tấm lòng son).

Câu đối, hoành phi do tác giả có tên tuổi soạn, hiện sưu tầm được rất ít, chỉ thấy ở nhà thờ cụ Đàm Thận Huy (Hương Mặc - Tiên Sơn) có đôi của Phạm Quí Thích (1759 - 1825) đề rằng:

Vũ trụ thử gian tồn hạo khí;
Giản biên chung cổ chiếu đan tâm.

(Khoảng vũ trụ ấy, khí hạo nhiên còn lưu lại;
Trong sử sách xưa, tấm lòng son vẫn sáng soi).

Cũng loại hình khắc gỗ này, chúng tôi còn gặp những biển gỗ sơn son thiếp vàng cỡ lớn, trên khắc thơ luật Đường, như đình Mai Động (Hương Mặc, Tiên Sơn) có tới 5 bức. Đặc biệt ở đền thờ thánh Tam Giang thôn Phù Khê Đông (Phù Khê, Tiên Sơn) có biển gỗ khắc bài thơ Nam quốc Sơn hà, như sau:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như kim nghịch lỗ lai xâm phạm,
Hội kiến phong trần tận tảo trừ.

Tuy bài thơ khắc vào năm Khải Định Kỷ Mùi (1919) nhưng cũng đã cung cấp cho chúng ta một dị bản nữa của bài thơ(1).

3. Thần phả, ngọc phả: mặc dù chưa có điều kiện đưa về Hà Nội lưu trữ (các địa phương đều có kế hoạch bảo vệ bản gốc chu đáo), vẫn có thể thấy ở đây không ít những tư liệu Hán Nôm quí giá: những thần phả, ngọc phả kể về thân thế sự nghiệp của các vị thần có công với làng. Đó là Chu Ma tam vị Đại Vương, ba vị tướng giỏi người phương Bắc giúp Lê diệt Mạc, có công bảo vệ dân làng, thờ ở đình Đông, đình Đoài (Mão Điền - Thuận Thành); là Đào Hiên, từng trợ sức cho Lý Thường Kiệt bình Chiêm diệt Tống, thờ ở Thuận An (Trạm Lộ, Thuận Thành); là các vị tướng của Hai Bà Trưng, có công dẹp Tô Định, đánh trả Mã Viện quyết liệt: Tam Ngọ Đại Vương thờ ở đình Bính Hạ (Đồng Quang, Tiên Sơn); Đặng Văn Đường thờ ở Ngọc Trì (Trạm Lộ, Thuận Thành); ba vị thiên thần có công âm phù bắt sống tướng tài của Tô Định, thờ ở Ngọ Xá (Hoài Thượng, Thuận Thành)…

Ở những địa phương mất thần phả, thông qua các văn bia, văn tế, câu đối, sắc phong… còn để lại, chúng ta hiểu ở đó từng thờ các thánh thường thấy như: Thánh Tam Giang, Quí Minh, Cao Sơn, Lạc Thị… Đặc biệt có nơi thờ Mỵ Châu - Trọng Thủy (Đa Vạn, Đa Hội, xã Châu Khê, Tiên Sơn), thờ Phạm Đình Trọng, tướng đời Lê Trung hưng dẹp khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (thôn Nội Trì, xã Tân Hồng, Tiên Sơn) v.v.

4.Sắc phong: Những nơi giữ gìn được đình, đền, thường còn giữ được sắc phong. Phần lớn các sắc phong ấy thuộc thời Lê Trung hưng - Tây Sơn - Nguyễn. Trong đó, tờ có niên đại sớm nhất là sắc phong cho Đàm Thận Huy (Hương Mặc, Tiên Sơn), đề ngày 8 tháng 12 năm Cảnh Trị 4 (1666)(2). Tờ có niên đại muộn nhất là Khải Định 9 (1929), như sắc đình Ngọ Xá (Hoài Thượng, Thuận Thành), sắc đền Ngọc Trì (Trạm Lộ, Thuận Thành); sắc đền Trang Liệt (Đồng Quang, Tiên Sơn); sắc đình Lam Cầu (Hoài Thượng, Thuận Thành) v.v.

5. Nhà thờ họ: tư liệu sưu tầm được ở đây khá phong phú:

- Nhà thờ họ Trần, thôn Ngọ Xá (Hoài Thượng, Thuận Thành) cho biết Trần Đăng Kiêm là một võ tướng có công dẹp cướp vùng biên giới Lạng Sơn. ở nhà thờ này hiện còn giữ được tấm nỉ đỏ, khổ lớn, thêu bài chế bằng chỉ vàng của Tự Đức, đề ngày 26 tháng 7 năm Tự Đức 18 (1865), và hai cấu đối, thêu chỉ xanh trên nỉ đỏ của bạn bè đồng ngũ, viếng khi cụ qua đời. Có câu:

Nhất phiến trung trinh minh nhật nguyệt,
Cửu tuần danh thọ quán hương lư.

(Tấm lòng trung trinh sáng tỏ như vầng nhật nguyệt,
Chín mươi tuổi thọ, tiếng tăm lan khắp xóm thôn).

- Nhà thờ Lê Thế (Bình Cầu, xã Hoài Thượng, Thuận Thành) cho biết Lê Văn Hàn đỗ tam trường, bổ Tri huyện, tước Bút Nghĩa tử, đã xuất gia đinh, thống lĩnh quân lính, dẹp giặc ở Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương, lập nhiều công. Vào những năm Vĩnh Hựu 3 (1737), Cảnh Hưng 12 (1751), Cảnh Hưng 39 (1778) đã có sắc phong.

- Nhà thờ Trạng Nguyên Nguyễn Giản Thanh (Hương Mặc, Tiên Sơn) hiện còn 4 đôi câu đối, 5 bức hoành phi, gợi nhớ tới vế đối “sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Sắc đẹp không phải là sóng nước mà dễ dìm người) nổi tiếng, mà vế ra là của thầy học Đàm Thận Huy: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” (mưa không phải là xiềng khóa mà giữ được khách lại).

- Nhà thờ họ Nguyễn ở thôn Phù Khê Thượng (Phù Khê, Tiên Sơn) có 4 bức hoành phi, 7 đôi câu đối, 2 tấm bia, cho biết đây là một chi thuộc dòng họ Nguyễn Trãi di chuyển về đây đã nhiều đời.

- Nhà thờ họ cụ Nguyễn Quyền ở Thượng Trì (Hoài Thượng, Thuận Thành) còn 1 tấm bia, 1 đôi câu đối, 1 bức hoành phi, gợi nhớ cụ là một trong những người sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục.

- Nhà thờ họ Ngô ở Mão Điền (Thuận Thành) còn 5 đôi câu đối, 2 bức hoành phi, 1 tấm bia, cho biết chi họ Ngô này thuộc dòng họ Ngô Thì (Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm) ở Tả Thanh Oai di chuyển về đây vào đầu đời Nguyễn.

- Nhà thờ Nguyễn Tự Cường (Tam Sơn, Tiên Sơn) còn 2 tấm bia, 6 đôi câu đối, 4 bức hoành phi, gợi nhớ một bầy tôi tiết nghĩa, trung với nhà Lê, không đầu hàng nhà Mạc hồi đầu thế kỷ XVI.

- Nhà thờ họ Đỗ thôn Thường Vũ (An Bình, Thuận Thành) còn 5 đôi câu đối, 4 bức hoành phi, 2 tấm bia, 1 gia phả, cho biết Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật, hội viên Hội Tao đàn thời Lê Thánh Tông, sau bị Lê Uy Mục trả thù vì trước đây không lập mình làm vua, đày đi Nam Ninh (Sử chép đi Quảng Nam). Cụ tức giận, ném hòn đá xuống sông thề: “Con cháu nhà này sau ai làm quan với nhà Lê thì cũng chịu chung số phận như hòn đá này”. Nhân cụ ngâm mấy câu thơ Quốc âm:

Giời xanh xanh, nước xanh xanh,
Ai đem người ngọc đến Nam Ninh?
Nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá,
Sao chẳng đưa thư tới động tình.

Đọc xong, cụ gieo mình xuống nước tự vẫn. Con cháu sau này kiêng lời thề ấy, bèn đổi họ Nguyễn thành họ Đỗ, để tiếp tục đi thi, làm quan cho nhà Lê v.v.

Trên đây, mới chỉ điểm đôi nét về tư liệu Hán Nôm trong địa bàn ba huyện thị thuộc tỉnh Hà Bắc. Chắc chắn với số bia, chuông, khánh, câu đối, hoành phi, sách vở… sưu tầm được vừa qua, còn có thể tìm thấy nhiều thông tin quí giá, góp thêm vào kho tàng văn hóa cổ của chúng ta những viên ngọc quí.

CHÚ THÍCH

1. Trần Nghĩa trong bài: Thử xác lập văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà, Tạp chí Hán Nôm số 1, 1986, đã thống kê, so sánh toàn bộ những dị bản hiện thấy của bài thơ trong bài viết trên, thấy câu chữ có chỗ khác biệt, nên có thể coi đây là một dị bản nữa.

2. Xin xem thêm Lâm Giang: “Đàm Thận Huy và tác phẩm Sĩ hoạn châm quy”, Tạp chí Hán Nôm số 1, 1989./.

TB

TƯ LIỆU HÁN NÔM LIÊN QUAN ĐẾN THỪA THIÊN - HUẾ TẠI KHO TƯ LIỆU VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Thừa Thiên - Huế, một trong những trung tâm lịch sử - văn hóa lâu đời của đất nước ta, gần đây được đặc biệt quan tâm nghiên cứu từ nhiều khía cạnh.

Để giúp các bạn hiểu thêm vùng đất một thời từng là “đế đô” này, chúng tôi xin giới thiệu một ít tư liệu “gốc”, nguồn thông tin cấp 1, những tư liệu Hán Nôm liên quan đến Thừa Thiên - Huế tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tư liệu Hán Nôm về Thừa Thiên - Huế tại kho tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm được ghi chép trên 2 mảng tư liệu chính là sách và văn bia.

I. Về thác bản văn bia:

Qua khảo sát 135 mặt bia, chuông, khánh tại kho tư liệu Hán Nôm, chúng tôi xin giới thiệu những nét đặc trưng như sau:

1. Địa điểm có bia chuông khánh được ghi trên bản rập tập trung ở các nơi: huyện Hương Trà: 18 mặt, huyện Hương Thủy: 36 mặt, Thành phố Huế: 35 mặt; huyện Phú Vang: 37 mặt(1) và các nơi khác: 9 mặt. Nơi dựng bia phần lớn được ghi rõ trên bản rập tên di tích, tên xã, huyện…

2. Năm tạo dựng bia: đại bộ phận số bia này đều có ghi năm tạo dựng, chỉ có khoảng 10 bia không ghi niên đại. Số bia có ghi năm tạo dựng, theo trình tự thời gian, có thể sắp xếp như sau: Niên hiệu Cảnh Trị (2 bia), Vĩnh Trị (1 bia), Chính Hòa (1 bia), Vĩnh Thịnh (4 bia), Bảo Thái (2 bia), Vĩnh Khánh (2 bia), Vĩnh Hựu (1 bia), Cảnh Hưng (1 bia) Gia Long (2 bia), Minh Mệnh (15 bia), Thiệu Trị (17 bia), Tự Đức (14 bia), Đồng Khánh (2 bia), Thành Thái (9 bia); Duy Tân (2 bia), Khải Định (2 bia), Bảo Đại (2 bia). Như vậy, bia có niên đại sớm nhất là 2 bia mang niên hiệu Cảnh Trị 5 (1667)(2). Niên hiệu Thiệu Trị có nhiều bia nhất (17 bia).

3. Người soạn bia: đại bộ phận số bia không có tên người soạn, chỉ có 33 bia ghi tên người soạn. Trong đó có một nửa là bia do các vua triều Nguyễn soạn, Thành Thái là vua cho soạn nhiều bia nhất (10 bia). Còn lại là bia do các Tiến sĩ Phan Thanh Giản, Trương Quốc Dụng, Phan Bá Đạt, Cử nhân Trương Đăng Quế, Tri phủ Nguyễn Văn Nhuận.. soạn thảo.

4. Về hình thức: Có 10 tấm bia dài từ 2m trở lên, tấm to nhất dài 3,9m, rộng 2,2m, do Tự Đức soạn năm 1872 tại lăng Tự Đức, thành phố Huế(3). Các bia phần lớn đều được chạm khắc công phu trên trán và riềm bia. Một số bia bằng chữ trắng nổi(4), có nhiều bia đẹp.

5. Về nội dung: Có thể tóm lược nội dung ghi trong các thác bản bia, chuông, khánh như sau:

- Bia ca tụng vua chúa triều Nguyễn, từ Nguyễn Kim trở đi. Có bia ca ngợi riêng từng vị vua như Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định(5)…

- Bia ghi tên tuổi một số nhân vật là nữ Hoàng hậu, Cung tần, Công chúa hoặc những người có tiền làm việc công đức như: bà Thục Tần, Cung tần của Minh Mệnh, mẹ Miên Thẩm, Miên Trinh(6); Cung tần Chiêu Nghi(7); Đoan Trinh Nguyễn Thị Nhụ Nhân(8). Công chúa Ngọc Lê, cont thứ 13 của Gia Long(9); bà Mai Thị Trúc(10)…

- Bia ghi lịch sử, ý nghĩa việc xây dựng chùa, sửa sang mở chùa, hành trạng tiểu sử công đức của các nhà sư (Hoán Bích Thiền Sư), các Hòa thượng (Cương Kỷ, Nhất Định, Chính Giác, Đỗ Hải Thuận…); ghi việc truyền đạo, tán dương đạo Phật; ghi danh sách những người có công đóng góp vào việc xây dựng chùa; ghi việc vua ban tiền sửa chùa…(11).

- Bia ghi lại lời dụ, biểu, chiếu phần lớn là của các vị vua triều Nguyễn nói về việc sử dụng ngoại tộc, sử dụng hoạn quan, 4 đạo dụ của Tự Đức về Diên Khánh Công Hoàng Tử Tấn, con thứ 7 của Gia Long. Biểu của Miên Trinh ca ngợi mẹ là bà Lê Tiệp Dư…(12).

- Bia ghi tiểu sử hành trạng của một số nhân vật có tiếng như: Lê Bá Thân, đậu Phó bảng năm 1843, làm quan chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, rồi Tri phủ, Tri huyện, Kiêu Thái Vương con thứ 26 của Thiệu Trị; Phạm Đăng Hưng…(13).

- Nhiều bia ghi lại những bài thơ, ký tả cảnh thiên nhiên, vịnh cảnh chùa chiền, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Chùa Thiên Mụ được nhắc đến nhiều trong thơ ca, ngoài ra sông Hương, núi Ngự, châu Lại Bái, sông Phố Lợi, cửa bể Thuận An, cũng được vua tôi nhà Nguyễn và nhiều người khác nhắc đến(14).

- Ngoài ra, có một số bia ghi về các sự việc khác như: xây cầu, sửa cầu, sửa giếng, khơi sông, đắp đê, cảnh sinh hoạt của trường Quốc tử giám và những lời khuyên về việc học. Bia ghi tên một số quan võ có công lao hiển hách của triều Nguyễn; bia ghi ý nghĩa việc làm lầu chứa sách trong kinh thành Huế…(15).

II. Về tư liệu là sách chữ Hán, chữ Nôm.

Có bao nhiêu sách có ghi chép về Thừa Thiên - Huế hoặc liên quan đến Thừa Thiên - Huế? Nếu kể từ 1 bài thơ, 1 đoạn văn trở đi… viết về bất cứ vấn đề gì của Thừa Thiên - Huế, thì có thể nói là số lượng rất nhiều. Mảng tư liệu này nằm rải rác ở nhiều sách, với nhiều loại hình khác nhau, cần có một bộ thư mục biên soạn công phu mới giới thiệu hết được. Sau đây là một vài nét lớn:

1. Sách của các vua triều Nguyễn:

- Gia Long: không có tác phẩm riêng, như chỉ có một số bài lẻ tẻ, như chiếu, dụ, sắc, cáo… chép trong các sách(16).

- Minh Mệnh: là một trong các vua triều Nguyễn còn để lại tương đối nhiều tác phẩm và bài viết trong các sách. Theo thống kê của chúng tôi, Minh Mệnh hiện còn 11 tác phẩm và có bài trong 15 sách. Đó là những văn kiện pháp lý đối với việc cai trị đất nước, gồm luật, lệ, chiếu và các điều huấn dụ(17); thơ vịnh cảnh vật, cây cỏ chim muông, vịnh thời tiết, phong cảnh danh thắng, thơ vịnh các nhân vật lịch sử, thơ làm khi sai các quan đi dẹp giặc, khi nghe tin thắng giặc, thơ thuật hoài…(18). Sách Ngự chế minh văn cổ khí đồ A.147 của Minh Mệnh gồm 33 bài minh đề vào 33 loại đồ cổ như đỉnh chén, bầu, vò, đĩa, hồ… Những bài viết trong các sách khác có thể kể: thơ tặng ba người tuẫn tiết ở Cao Bằng, xem trong Tập sáo tân biên VHv.2227; thơ vịnh Truyện Kiều, trong Thanh Tâm Tài Tử, cổ kim… VHv.240, bài từ tặng người tiều phu trong Trướng văn tịnh đối liên A.2426.

- Thiệu Trị có 7 tác phẩm(19) và có bài viết trong 16 sách khác. Một số tác phẩm có nét đặc trưng riêng như Hoàng huấn cửu thiên VHv.103 là những lời khuyên triều thần và nhân dân về đạo đức luân lý gồm 9 mục: trời đất, vua tôi, cha mẹ, vợ chồng… Ngự chế cổ kim thể sách thi pháp tập VHv.1165 gồm những bài thơ có thể đọc theo nhiều cách: đọc ngược, đọc xuôi, đọc dọc ngang… Ngự chế tài thành phụ tướng thi tập A.1404 gồm 100 bài thơ dựa theo Kinh Dịch, định ra các quẻ làm thành thơ để xem bói, xem lành dữ, các bài thơ với ngụ ý khen người làm việc thiện.

Viết trong các sách khác có bài chiếu tôn thụy hiệu cho cha, mẹ, bài chiếu làm trước khi băng hà(20); Văn kiện công bố việc quan hệ với Cao Miên(21). Có bốn bài viết trong bốn sách nói về Nguyễn Đăng Giai Tổng đốc Sơn Tây(22).

- Tự Đức với 14 tác phẩm và có bài trong 22 sách khác, là vị vua có nhiều tác phẩm để lại nhất. Bốn tập văn thể hiện nhiều mặt sự nghiệp cai trị của một ông vua và 7 tập thơ với nội dung phong phú đã nói lên phần nào tài năng của ông(23). Tự Đức đặc biệt quan tâm đến việc học và dạy học. Ông có một số sách dạy chữ Hán, hoặc giải nghĩa từ chữ Hán bằng chữ Nôm(24). Các bài viết trong các sách khác cũng nói nhiều về việc học hành thi cử: Dụ về ý nghĩa khoa thi Bác học hoành từ trong Bác học hoành từ khoa sách văn A.2730; Dụ định lại phép thi trong “Báo văn sao tập VHv.1988; Chiếu về mục đích mở chế khoa trong Bồng châu Vũ tiên sinh thi văn VHv.442; Đạo dụ về bổ sung chương trình thi đình trong Quốc triều đối sách VHv.318/1-2; Bài thơ 60 vần nhân mở nhà học kinh điển trong Tạp văn sao tập A.2733.

- Thành Thái, Đồng Khánh không có tác phẩm riêng, mà chỉ còn một số bài trong các sách(25).

- Các tác gia hoàng tộc có thể kể: Nguyễn Miên Thẩm, con thứ 10 của Minh Mệnh, có các tác phẩm Thương Sơn ngoại tập VHv.119/1-8, Thương Sơn thi tập A.1496/1-2…, Nguyễn Miên Trinh, con thứ 11, có tác phẩm Vi Dã hợp tập VHv.4/1-2, Trung Quốc công thi tập VHv.35; Nguyễn Miên Thanh, con thứ 51, có tác phẩm Quân Đình thi thảo VHb.15; Nguyễn Miên Triện, con thứ 66, có tác phẩm Ước Đình thi sao A.778; Nguyễn Miên Tuấn có tác phẩm Nhã Đường thi tập VHb.7.

2. Các sách khác:

a. Thư tịch địa lý: vị trí địa lý, diên cách các đơn vị hành chính, dân cư, khí hậu, sông núi, rừng hồ, sản vật tiềm năng(26).

b. Thư tịch lịch sử: lịch sử hình thành, phát triển các triều đại ở Việt Nam, trong đó có Thừa Thiên - Huế, sự nghiệp các vua triều Nguyễn; truyện ký viết về các nhân vật lịch sử thuộc nhiều triều đại (27).

c. Thư tịch cổ về chế độ thi cử, danh sách đỗ đạt, các trường thi, các bài thi dưới triều Nguyễn … (28).

d. Nhiều nhất là các văn tập, thi tập mà khuôn khổ bài viết này không cho phép nêu hết được. Phần lớn là văn thơ tả người, tả cảnh, cảm hoài, ca ngợi các nhân vật lịch sử… có thể kể một số bài như: Bài ca kể việc chống Pháp của triều Nguyễn trong Hạnh Thục ca AB.193 của Nguyễn Thị Bích; Thơ viết khi được tin quân Pháp phá thành Phú Xuân trong Hy Minh thi tập VHv..1393 của Bùi Khiêm: Thơ của Phạm Quý Thích làm trên đường về Kinh đô Hồi kinh nhật trình thi A.308; Bài phú vịnh cuộc chơi chùa Thiên Mụ trong Triều yết vựng biên A.1677… Thơ của Lê Đức Mẫn trong Hy thường thi tập VHv.1148…

e. Các loại khác: sách Thuật tích việc nước Nam AB.196 của Đặng Tuấn Đức có bài thuật lại việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, có cấm đạo thời Thiệu Trị - Tự Đức. Sách Thừa Thiên phú tập biên A.3119 có 50 đạo sắc phong cho các vị tôn thần thuộc Thừa Thiên - Huế.

CHÚ THÍCH

1. Tất cả các bia Tiến sĩ đều nằm ở huyện Phú Vang.

2. Xem Trùng tu Linh Sơn tự bi văn số 13430; và Trùng tu bia văn số 16231.

3. Xem Ngự chế Khiêm cung ký số 18303 - 18304.

4. Xem Ngự chế thi số 154; 155.

5. Xem Ngự chế thánh đức thần công bi, Xương lăng thánh đức thần công bi; Ngự chế Khiêm cung ký: Tư Lăng thành đức thần công bi, ứng Lăng thái đức thần công bi.

6. Xem Thục Tần Nguyễn Khắc Thị thần đạo bi.

7. Xem Việt cổ quý tân tặng Chiêu Nghi từ mẫu.

8. Xem Đoan Trinh Nguyễn Thị Nhụ Nhân mộ chí.

9. Xem Trưởng công chúa bi ký và Trưởng Công chúa đệ thập tam từ đường bi ký.

10. Xem Trùng tu Linh Sơn tự bi văn.

11. Xem các bia Chu Đại Trạch hậu bi, Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi ký minh, Ngự chế Thiên Mụ tự Phúc Duyên bảo tháp bi, Sắc tứ hà Trung tự Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh, Cương kỷ Hòa thượng thập tri, An Dương am Nhất Định Hòa thượng tháp bi.

12. Xem Diên Khánh Vương thần đạo bi minh, Tiên mẫu Lê Tiệp Dư thần đạo biểu.

13. Xem Kiêu Thái Vương tiểu sử, Phạm Trung Nhã Công mộ bi minh…

14. Xem Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi ký, Ngự chế Ngự hà bi ký, Hương Giang hiểu ohiếm, Quá Phổ Lợi hà cảm tác, Ngự Bình Sơ bi ký, Lại Bái Châu ngự chế thị bi.

15. Xem Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký, Huỳnh tư thư thanh, Võ Tiến sĩ đề danh bi, Tàng thư lâu kỷ.

16. Xem Hoàng triều Hàn lâm viện thực lục A.1357; Hộ dịch VHv.1268; Báo văn sao tập VHv.1988; Hòe Hiên tiên sinh di văn A.526; Quốc triều sắc dụ chiếu cáo VHv.1304; Từ hàn cử ngung VHv.283.

17. Xem Minh Mệnh chiếu dụ VHv.1130; Minh Mệnh khánh tiết ân chỉ; Thượng dụ huấn điều AB.402.

18. Xem Minh Mệnh ngự chế thi tập A.134/1-13; Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập A.1412/1-4.

19. Xem Thiệu Trị ngự chế văn A.119/1-3; Thiệu Trị ngự chế thi A.135/1-13.

20. Xem Hoàng triều chiếu dụ ngự chế văn A.2110; Kim triều chiếu chỉ A.399, Ngự chế chiếu dụ biểu chương cảo A.288.

21. Xem Tây Trinh lộ bố A.2664.

22. Xem Bắc Kỳ hà đê sự tích A.1938, Đường Trai tập A.429.

23. Xem Ngự chế thi phú A.1098, Hoàng triều chiếu dụ ngự chế văn A.2110, Ngự chế thi tập A.2142, Tự Đức ngự chế thi A.120.

24. Xem Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca AB.5/1-2, Tự học giải nghĩa ca VHv.626/1-4.

25. Đồng Khánh có thơ trong Bùi Liên Giang thi văn tập A.2564 và Danh thần bút lục A.283. Thành Thái có bài chế phong vương Toàn quyền Pháp Lê Na trong Tục vựng Đại Nam văn uyên thống biên VHv.264/1-3. Bài dụ về việc học và thi chữ Hán trong “Thư minh biểu tấu văn tập” A.2270.

26. Các bộ sách lớn Đồng khánh dư địa chí VHv.2601 và A.537/25, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam dư địa chí ước biên A,74/1-2, Ô Châu cận lục A.263.

27. Một số bộ sách tiêu biểu: An Nam nhất thống trí A.883, Đại Nam thực lục tiền biên, chính biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Hình bộ tấu bản VHv.202, Hoàng Việt hình luật VHv.198. Thiên triều sắc phong A.337, Hoàng tử Công chúa tấn phong VHv.227…

28. Xem Quốc triều đăng khoa hợp biên A.1357, Đăng Khoa lục A.2752/1-2, Tân san hương hội văn tuyển VHv.470; Hoàng triều hương hội văn võ thí tắc lệ A.64, Võ cử qui trình…

TB

CHỮ NÔM
VỚI NGỮ ÂM ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ

NGUYỄN THỊ LÂM

Có một hiện tượng mà những người làm công tác nghiên cứu các văn bản Nôm địa phương không thể không xét đến. Đó là sự phản ánh ngữ âm của từng vùng vào chữ viết, tuy nhiên mỗi vùng lại có những sắc thái riêng. Điều này được quy định bởi nhiều nguyên nhân như điều kiện lịch sử, địa lý, sự giao lưu văn hóa… kết quả là tạo nên một số nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân. Gần đây, trong khi tiếp xúc với một số tác phẩm Nôm xuất xứ ở Nam Bộ(1) chúng tôi thấy có những đặc điểm cần lưu ý như sau:

1. Về âm đầu:

Âm đầu hay thanh mẫu là một thành tố kết hợp với âm đệm, vần và thanh điệu để tạo thành từ, đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Nếu so sánh với hệ thống phụ âm đầu ở Bắc Bộ và Trung Bộ thì Nam Bộ không có âm /v/ mà âm /v/ được thay thế bằng /z/, (chính tả ghi các phụ âm này là d và gi). Chúng ta cũng có thể thấy rõ điều này qua chữ Nôm, chẳng hạn dùng chữ “dã” 也 ghi “vả”, dùng “giới” 界 ghi “vái”:

“Vả” chăng đường còn xa, sao ông không đi mà ông ngồi xuống đó a ông Địa ?”

Vái phật trời chứng Địa người ngay” v.v…
(Địa Nàng(2), tr.6b và tr.10b)

Như vậy ở đây không còn sự phân biệt giữa ba phụ âm v, gi, d. Ngay cả ở những tác giả lớn như Nguyễn Đình Chiểu cũng có hiện tượng như vậy, chẳng hạn dùng chữ “dòng” 匇(Nôm, yếu tố Hán Việt biểu âm: dụng) để ghi âm “vòng”:

“Bĩ bàn trà rượu vừa xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ”
(Lục Vân Tiên, tr.13a).

Những chữ Nôm thuộc loại này có khoảng 2%. Ngoài ra, việc dùng chữ “giả” 者 ghi “trả”, dùng “dầu” 油 ghi “giàu” lại thể hiện dấu vết của cách phát âm không phân biệt tr và gi hoặc giữa gi với d:

“Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền”.
“Mệnh Kim lại ở cung Càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trên đời”
(Lục Vân Tiên, tr.20a và 23a).

Một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cũng đã viết:

“Phương ngữ nam Trung Bộ - Nam Bộ phản ánh sự tranh chấp giữa hai biến thể tr và gi”(3). Tình hình này có phần như ở Bắc Bộ, chẳng hạn có thể dùng song song cả hai cách phát âm: trầu - giầu, trăng - giăng, trời - giời… Hai phụ âm d và gi cũng hầu như nhập làm một /z/ cho nên trong chính tả có người viết “déo dắt” có người lại viết “giéo giắt”… Theo điều tra ngôn ngữ học thì hiện nay chỉ có một vài địa phương lẻ tẻ phía bắc Bình Trị Thiên là còn phát âm phân biệt d, gi mà thôi(4).

2. Về âm cuối.

Âm cuối kết hợp với yếu tố đứng trước nó là nguyên âm để tạo thành vần. Một đặc điểm nổi bật của ngữ âm địa phương Nam Bộ là hầu như toàn bộ những vần có phụ âm cuối [-n,-t] đều biến thành [-ng,-k]. Hiện tượng này khá phổ biến trong chữ Nôm:

-n thành -ng: chẳng hạn dùng chữ “thang” 湯 để ghi âm “than”, dùng “dạng” 樣 ghi “dạn”:

“Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần”
(Lục Vân Tiên, tr.14a).

“Hổ bì mặt dày mày dạn, tiếc thay mình ngọc vóc ngà” v.v.
(Kim Thạch kỳ duyên, tr. 30b).

-t thành -k: chẳng hạn dùng “các” 各 ghi “cát”, dùng 得 “đắc” ghi “đắt”:

“Xuống sông có rắn mãng xà, doi cát trường sa đi về lục động”
(Địa Nàng, tr.6a).

“Kiệm rằng; nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt, mà ngồi chợ trưa” v.v…
(Lục Vân Tiên, tr.40a).

Bởi những chữ như “than” và “thang” đều thành “thang”, “đắt” và “đắc” đều thành “đăk” nên tần số xuất hiện của loại này cũng tăng lên gấp đôi, với tỉ lệ khoảng 6%. ở đây đã có sự biến đổi của cặp phụ âm đầu lưỡi thành phụ âm gốc lưỡi. Cách phát âm này bao trùm một vùng rộng lớn từ phía Bắc Thừa Thiên - Huế vào đến tận Minh Hải. Có ý kiến cho rằng sở dĩ có sự phát âm không phân biệt -n, -ng, -t, -k ở Nam Bộ là do ảnh hưởng của tiếng Triều Châu. Người Triều Châu chiếm một số lượng đáng kể trong số người Hoa di cư sang miền Nam nước ta và trong tiếng nói của họ cũng chỉ có hai cặp phụ âm cuối [-m, -p] và [-ng, -k] (5). Lý do này cũng có cơ sở bởi vì: “Chúng ta không thể phủ nhận những mối quan hệ họ hàng và ảnh hưởng qua lại, sự vay mượn lẫn nhau giữa tiếng nói của các dân tộc định cư và sống trong một vùng, trên một lục địa”(6). Trong thực tế, tiếng địa phương Nam Bộ ngoài việc giao lưu với tiếng Khơ me, tiếng Chàm là những ngôn ngữ bản địa, còn có sự tiếp xúc với tiếng Hán của những người Hoa di cư sang, nên không thể không có những mặt ảnh hưởng nhất định.

3. Về thanh điệu.

Trong tiếng Việt, thanh điệu là một đặc điểm chủ yếu giúp cho việc phân biệt tiếng nói giữa người vùng nọ với người vùng kia. Song mỗi vùng lại có một hệ thống thanh điệu riêng: Bắc Bộ nhìn chung có sáu thanh (không, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng). Hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc Trung Bộ phát âm không phân biệt thanh ngã với thanh nặng. Còn Thanh Hóa và các tỉnh từ Bình Trị Thiên trở vào Nam phát âm không phân biệt thanh hỏi với thanh ngã. Người đọc cũng dễ nhận ra điều này khi tiếp xúc với các tác phẩm Nôm Nam Bộ, như dùng chữ 解 “giải” ghi “dãi”, dùng 保 “bảo” ghi “bão”

“Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên”
(Lục Vân Tiên, tr.3b)

Bão tháng chín tháng mười, chớ bão đâu tháng hai tháng ba mà bão” v.v…
(Địa Nàng, tr.1a).

Loại này có khoảng 1,5%.

Khi gặp những chữ Nôm thuộc các trường hợp trên đây, nếu người đọc không chú ý đến xuất xứ của tác phẩm, thì cũng dễ cho là tác giả viết cẩu thả hoặc khắc in sai. Những chữ như “đắt” được ghi bằng “đắc”, “với” được ghi bằng “giới” hoặc “vả” được ghi bằng “dã”… thực khó có thể tìm thấy ở trong bất kỳ một cuốn tự điển, từ điển chữ Nôm nào. Nhưng đích thực đó là sự phản ánh của ngữ âm địa phương vào chữ viết. Hiện trạng này lại có thể nảy sinh ra nhiều cách viết khác nhau. Thậm chí có những chữ người vùng này sáng tạo ra thì người vùng kia không hiểu được. Nhưng xét từ các đặc điểm của ngữ âm địa phương thì không thể cho đó là những chữ viết sai. Bởi vậy, chúng ta cần có những tri thức nhất định về phương ngữ học thì mới có thể đọc và lý giải được những ví dụ tương tự như chúng tôi vừa nêu.

Nhưng như vậy không có nghĩa là bất kỳ một đặc điểm nào của ngữ âm địa phương cũng ghi nhận ở trong chữ Nôm. Chúng ta biết rằng cặp phụ âm cuối [-nh, -ch] thường đứng sau các nguyên âm ngắn (i, ê). Nhưng trong cách phát âm của người Nam Bộ không có hai phụ âm cuối đó, chúng chuyển thành [-n, -t], nghĩa là ở đây có sự biến đổi của cặp phụ âm mặt lưỡi thành phụ âm đầu lưỡi. Song dù có phát âm “anh, ách” thành “ăn, ắt”, “khanh, khách” thành “khăn, khắt” thì chữ Nôm vẫn cứ ghi là 英 厄 , 卿 客 phải chăng đây là một thứ chữ đã được sử dụng rộng rãi trong phạm vi cả nước. Và các nhà thơ, nhà văn của ta ngay từ thời trước cũng đã có ý thức viết thế nào cho toàn dân dễ hiểu. Dù họ là người trong Nam hay ngoài Bắc, cái ngôn ngữ mà họ sử dụng trên đại thể vẫn là dựa trên nền tảng của ngôn ngữ toàn dân. Nguyễn Du là người Nghệ Tĩnh, vậy mà trong Truyện Kiều bất hủ của ông người ta chỉ đếm được có bảy từ địa phương mà thôi(7).

Trên đây mới chỉ là kết quả bước đầu. Muốn hiểu biết một cách đầy đủ, chúng ta cần cố gắng đi sâu vào nhiều tác giả, tác phẩm hơn nữa. Tuy nhiên, sự phản ánh của ngữ âm địa phương vào trong chữ Nôm vẫn là một vấn đề mang tính chất khách quan. Những cách phát âm đó không phải đã đi vào quá khứ mà vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Nếu biết nhìn nhận một cách đúng mức vấn đề này thì nhất định chúng ta sẽ tiến hành công tác phiên âm, chú thích văn bản một cách có hiệu quả hơn.

CHÚ THÍCH

1. Ví dụ: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu (Nguyễn Đình Chiểu); Kim Thạch kỳ duyên (Bùi Hữu Nghĩa), Địa Nàng (khuyết danh), Phan Lương Khê lịch sử tập (có Nôm, Diệp Bá Ngự sao chép) v.v.

2. Xem Huỳnh Ngọc Trảng: Địa Nàng (Nxb. Tp. HCM. 1992). Đây là một tiết mục diễn xướng dân gian Nam Bộ có kết hợp với nghệ thuật tuồng. Những dẫn chứng trong tác phẩm này chúng tôi ghi theo bản phiên âm của Cao Tự Thanh (Sđd).

3. Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước Nxb. KHXH, 1989, tr.71.

4. Nguyễn Tri Niên - Nguyễn Phan Cảnh: Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt d và gi hiện nay - Nghiên cứu Văn học 8-1961.

5. Hoàng Thị Châu, Sđd, tr.227.

6. Nguyễn Khánh Toàn: Về lịch sử tiếng Việt - Ngôn ngữ số 4 - 1978.

7. Hoàng Dũng - Nguyễn Tiến Mậu - Đinh Văn Thiện: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngôn ngữ số 4-1982./.

TB

ĐỂ CHỮ NÔM VIỆT NAM CŨNG CÓ MẶT TRONG BẢNG MÃ CHUẨN QUỐC TẾ (UNICODE VÀ ISO)

NGÔ THẾ LONG

UNICODE là hiệp hội của các nhà sản xuất máy tính chủ trương thiết kế một bộ mã chữ 16 bit dùng chung cho mọi loại chữ viết của tất cả các dân tộc trên thế giới, còn ISO là một tổ chức khoa học chuẩn hóa quốc tế, chủ trương xây dựng bộ mã chữ 32 bit trên máy tính cho mọi loại chữ viết. Hiện nay cả hai tổ chức trên đã nhất trí trong việc xây dựng chuẩn công nghệ thông tin học bằng bộ mã chữ vạn năng có thể xử lí được tất cả các thứ chữ viết tượng hình và ghép kí tự rời kiểu La-tinh.

Để làm việc này, cần có sự hợp tác của các nhà Tin học và Ngôn ngữ học và sự đồng tình của các cơ quan khoa học tiêu chuẩn của các quốc gia trên thế giới.

A. Ích lợi của việc tham gia bảng mã chuẩn quốc tế (UNICODE và ISO) đối với chữ Việt nói chung, và chữ Nôm Việt nói riêng.

(1) Trong thời gian vừa qua với các máy tính sử dụng bộ ký tự 8 bit, chữ Việt chưa được đưa vào bảng chuẩn để các nhà chế tạo phần cứng và phần mềm đảm bảo, vì vậy mà người Việt phải cải biên, tự chế các phần mềm để sử dụng trong lưu trữ, in ấn. Do đặc điểm chữ Việt có nhu cầu sử dụng số con chữ cái quá nhiều, vượt khả năng của bộ ký tự ASCII, nên các phần mềm chữ Việt của ta đã buộc phải xâm phạm vào các vùng giành riêng cho các ký tự đồ họa và mã điều khiển. Vì vậy các phầm mềm của ta hay bị trục trặc và nếu cứ dùng vào các mã điều khiển thì ngay khi chuyển dữ liệu từ cơ sở dữ liệu ra tệp văn bản hay ra máy in, các tài liệu cũng bị mất chữ. Mặc dầu chúng ta đã phải bỏ đi tất cả các ký tự đồ họa và các dấu toán học, nhưng vẫn không đủ chỗ để đưa được chữ hoa có dấu vào bảng mã chuẩn quốc gia… Đó là chưa kể tới sự thiệt thòi ở chỗ có một số phần mềm mạnh và tiện lợi nhưng không dùng được cho chữ Việt.

Ngày nay, người ta đã bắt đầu dùng tới bộ ký tự 16 bit. Xem ra có vẻ rất dư chỗ cho bảng mã chữ Việt, nhưng tình hình lúc này lại có khác: Một số phần mềm cũng tiến lên giành thêm một số mã chập đôi (16 bit) để làm ký tự điều khiển nữa. Như vậy là cần phải có trao đổi thương lượng với nhau, để tránh sự chồng chéo, phá hoại lẫn nhau giữa các bảng mã cùng dùng trong máy tính.

Tổ chức UNICODE và ISO đã đứng ra đảm nhiệm việc phân chia vùng mã, và đảm bảo cho các chữ mã hóa trong máy tính khỏi phải phá lẫn nhau. Nếu hệ thống chữ viết nào đã được công nhận gia nhập vào bảng mã chuẩn UNICODE và ISO rồi thì các nhà chế tạo phần cứng và phần mềm sẽ tôn trọng nó, giành chỗ cho nó chứ không đặt mã điều khiển vào đó, và sẽ sản xuất ra các thiết bị phục vụ việc xử lý các ký tự đó. Có nghĩa là các đòi hỏi về kỹ thuật đối với hệ chữ ấy sẽ được tôn trọng, và hệ chữ của dân tộc ấy sẽ có thể soạn thảo in ấn, lưu trữ và truyền thông được qua máy tính… Người sử dụng hệ chữ ấy trên máy tính đỡ phải loay hoay sửa chữa hoặc làm thêm các phần mềm để uốn nắn cả hệ điều hành theo yêu cầu riêng.

Ví dụ lâu nay chúng ta sử dụng các chữ Việt hoa có dấu để làm chế bản với đủ các cỡ các kiểu chữ rất đẹp, nhưng đó chỉ là sự cải biên của ta và dùng trong nội bộ. Nếu bảng chữ của ta không được dự vào bảng chuẩn, thì các chữ hoa có dấu không được đảm bảo khi trao đổi với các phần mềm tiêu chuẩn khác: các chữ in hoa rất đẹp kể trên sẽ bị mất đi nếu nó xâm phạm vào các mã dành cho điều khiển. Chúng ta thử hình dung một văn bản đẹp đẽ, đầy đủ được đưa vào máy nhưng khi lấy ra nó lại bị mất hết các chữ hoa, không có cách nào khôi phục lại thì liệu giá trị thông tin của văn bản còn được bao nhiêu, và người sử dụng thiệt thòi biết chừng nào ? Vì vậy tham gia vào bảng mã UNICODE và ISO là cần thiết và chỉ có lợi.

Hiện nay, việc giải quyết chuẩn hóa hệ chữ Việt hiện đại để tham gia vào bảng mã chuẩn quốc tế đã có thể coi như tạm xong, chỉ còn chữ Nôm là một thứ chữ viết tượng hình của dân tộc ta chưa được chuẩn hóa, trong khi các nước khác có chữ viết tượng hình đã chuẩn hóa và đang đăng kí tham gia vào bảng mã chuẩn quốc tế.

(2) Đưa chữ Nôm dự vào bảng mã UNICODE và ISO vừa bảo vệ lợi ích văn hóa của Dân tộc, vừa góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa của nhân loại.

a/ Bản thân chữ Nôm là một thứ tự chữ viết đã từng được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản cổ của người Việt Nam.

Trong nước, chúng ta còn vài nghìn cuốn sách và văn khắc chữ Nôm viết về đủ mọi lĩnh vực tri thức: Loại sách phổ cập như Gia huấn ca để dậy dỗ con cái trong gia đình. Loại sách chép về lĩnh vực chuyên môn sâu như Y học nhập môn ca của Thái Y viện đời Lê Trịnh, loại sách có tính “Từ điển bách khoa” như Nhật dụng thường đàm. Loại văn học dân gian như các sưu tập ca dao cổ; loại ghi việc trang trọng như “gia phả” các thế hệ vua Lê, hay Hội điển triều Nguyễn. Một vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, một vị sứ thần đi ra công cán nước ngoài, giỏi chữ Hán như Nguyễn Huy Oánh, Lê Quý Đôn… vẫn dùng chữ Nôm để ghi lại công việc của mình. Đặc biệt chữ Nôm đã được dùng để phiên dịch, chú thích, diễn giải không ít các sách kinh điển của các tôn giáo lớn trên thế giới đã được truyền vào Việt Nam trước đây như Nho, Phật, Lão, Giatô… Hiện nay ta còn thấy tại các đình chùa Việt Nam, vào các dịp lễ hội truyền thống một số người vẫn còn dùng chữ Nôm trong các văn sớ cầu nguyện và các quẻ thẻ, đó là sự rơi rớt lại của truyền thống xưa.

Ở nước ngoài, một số thư viện lớn cũng còn giữ được ít nhiều văn bản chữ Nôm của Việt Nam, ví dụ: Thư viện Hoàng gia Anh còn giữ trên 50 bản tuồng cổ điển viết bằng chữ Nôm; Tòa thánh Vatican ở Roma còn một số kinh bổn Giatô viết bằng chữ Nôm. Trên đất Thái Lan cũng có một số cuốn sách liên quan tới đạo Phật viết bằng chữ Nôm. Các nhà khoa học trên thế giới đang nghiên cứu về chữ Nôm của Việt Nam như một tử ngữ.

b/ Chữ Nôm là một trong những chìa khóa quan trọng để nghiên cứu, khai thác di sản văn hóa Việt Nam. Trước đây, nhiều học giả phương Tây đã thông thạo Hán học, nhưng khi chuyển sang nghiên cứu Việt Nam, thì họ đều phải học lại vì họ nhận ra rằng quả thực có sự khác nhau giữa Hán học và cổ Việt học. Không học chữ Nôm thì không thể hiểu được các văn bản chữ Nôm v.v.

c/ Một số nhà văn hóa lớn của Việt Nam đã từng trước tác bằng chữ Nôm. Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, hai danh nhân văn hóa thế giới, mà cách đây ít lâu thế giới công nhận và kỉ niệm, thì các tác phẩm đẹp nhất, giá trị nhất của học đều viết bằng chữ Nôm.

d/ Giống như nhiều dân tộc khác, dân tộc ta cũng có những bản trường ca dài, kể lại lịch sử của mình, như Thiên Nam ngữ lục v.v. Cuốn sử ca dài vài nghìn câu đó cũng được viết bằng chữ Nôm.

e/ Chúng ta còn được biết một số truyện Nôm của người Kinh cũng được dịch ra chữ Thái cổ và 80 phần trăm chữ Nôm Tày là mượn chữ Nôm Kinh.

Tất cả những sự kiện kể trên cho thấy tính phổ dụng của chữ Nôm trong quá khứ và vị trí của nó trong việc hình thành và phát triển nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong lịch sử.

Hiện nay, chúng ta đang chuyển sang dùng chữ Latinh, xu hướng lãng quên thứ chữ viết cổ là không tránh khỏi. Một mặt, chúng ta cố gắng nhanh chóng khai thác lấy những gì là tinh hoa trong văn hóa quá khứ để xây dựng cuộc sống hôm nay, nhưng việc đó không thể làm xong trong chốc lát. Mặt khác các văn bản viết bằng thứ chữ cổ đó còn cần được sưu tầm, giải thích, khai thác, giới thiệu tiếp tục trong nhiều năm sắp tới và về lâu dài, các văn bản Hán Nôm của Việt Nam sẽ mãi mãi là chứng tích lịch sử về tính đoàn kết hòa hợp, gắn bó keo sơn, chung lưng đấu cật để dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Đây cũng là một thứ “gia bảo” mà ta phải gìn giữ lâu dài và ta cũng cần trình bày cho càng nhiều người trên thế giới biết điều đó.

Chính vì lẽ đó nên việc bảo vệ chữ viết cổ vừa là bảo vệ lợi ích vật chất và lợi ích văn hóa và chính trị của dân tộc ta, nhưng cũng là giữ gìn một bộ phận những tinh hoa trong nền văn hóa chung của nhân loại mà thế giới đã thừa nhận và đánh giá cao. Chính chúng ta đang có trách nhiệm giữ gìn, khai thác bộ phận đó chứ không phải là ai khác.

B. Tính cấp thiết của vấn đề:

- Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển, ứng dụng Tin học có thể giúp ích nhiều cho sự nghiệp bảo vệ, phát triển và trao đổi kinh tế và văn hóa của dân tộc ta.

- Thời gian: Tháng 7/1993 có phiên họp cuối cùng của nhóm các nước dùng chữ khối vuông gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam tại Tokyo để thông qua bảng mã chuẩn ISO cho khối vuông mà nước ta có xin tham dự. Nếu bỏ lỡ cơ hội này thì phải chờ vài thập kỉ tới, khi điều kiện kỹ thuật cho phép mới có thể đăng kí tham gia lại.

C. Công việc cần làm:

Chuẩn bị nhanh về mặt kỹ thuật và thủ tục để đưa ra cuộc họp cuối cùng tại TOKYO và tháng 7/1993, và các cuộc họp của đại diện ISO tại Hà Nội vào cuối năm 1993 để xem xét và xác nhận kết quả nghiên cứu của Việt Nam…

Về kỹ thuật: chữ Nôm mà người Việt Nam xưa sử dụng bao gồm cả các chữ mượn nguyên dạng chữ Hán và gán cho nó từ nghĩa của tiếng Việt, và đọc theo âm Việt.

Việc sưu tầm nghiên cứu xác định âm đọc và ý nghĩa của từng chữ trong kho chữ được coi là Nôm là một việc cần làm, nhưng cần có nhiều thời gian, chưa thể làm xong ngay được… Việc cần kíp trước mắt là chọn lọc ngay lấy các chữ nào là chữ Nôm do người Việt Nam đã sáng tạo và sử dụng mà hình dáng của nó chưa có trong kho chữ tượng hình Phương Đông thì mới đưa thêm vào bảng mã chung (còn các chữ là gốc Hán hoàn toàn thì UNICODE lấy theo sự chọn lựa của các chuyên gia Hán ngữ học, và ta không được đưa vào nữa), bởi vì theo quy luật định mã tiết kiệm của Tin học thì mỗi chữ chỉ được chiếm một địa chỉ duy nhất trong bảng mã chuẩn quốc tế.

Việc lập ra danh mục các chữ thuần Nôm Việt cần làm xong sớm và tự ta phải tạo ra các chữ ấy trong máy tính và đem vào sử dụng thử để đề xuất những yêu cầu kỹ thuật, chẳng hạn yêu cầu sử dụng đồng thời với chữ Việt hiện đại, yêu cầu về đánh thêm các dấu phụ cho chữ Nôm, yêu cầu nếu muốn sử dụng kho chữ thuần Nôm Việt với cái kho đầy đủ của chữ Hán, thì giới hạn bộ nhớ máy tính phải giành bao nhiêu bit cho đủ v.v.

Tất cả các việc đó phải hoàn thành trước tháng 5/1993, sau đó tổ chức hội thảo khoa học trong nước, đề nghị cơ quan tiêu chuẩn Nhà nước ban hành làm chuẩn Quốc gia và đứng ra xin đưa chữ Nôm tham gia vào bảng mã chuẩn quốc tế.

Trong năm nay các đại diện của tổ chức ISO sẽ làm việc tại Hà Nội để xem xét và xác nhận các kết quả nghiên cứu mã hóa của Việt Nam./.

TB

MỘT NHẦM LẪN VỀ VĂN BẢN HỌC CỦA "PHỦ BIÊN TẠP LỤC" CẦN ĐƯỢC
ĐÍNH CHÍNH

PHẠM HÂN

Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, đoạn nói về Hoàng Sa (quyển 2) đã có sự lầm lẫn trong việc sao chép. Có bản, chữ “hoại” nghĩa là “hư hỏng” trong câu “Chư Phiên bách đa tao phong hoại ư thử đảo” đã được chép thành chữ “y” nghĩa là “dựa vào”. Sự lầm lẫn trong việc sao chép nào có thể do chữ “hoại” đủ nét (壞) đã được sửa thành chữ “hoại” bớt nét (坏), rồi từ đó chép lầm thành chữ “y” (依). Vì hai chữ đó chỉ khác nhau ở bộ “thổ” (土) và bộ “nhân” (人) viết ở bên trái, còn bên phải đều là chữ y (衣). Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 4 dị bản Phủ biên tạp lục. Trong đó, có 2 bản chép chữ “hoại” đủ nét (A.148, A.1175); một bản chép chữ “hoại” bớt nét (VHv.1263); một bản chép là chữ “y” (VHv.1737).

Từ lầm lẫn này, có người đã tùy tiện xoá chữ “hoại” và điền chữ “y” vào bên cạnh như bản lưu trữ tại Viện Sử học Việt Nam (Hán Việt.190) và bản lưu tại Viện Khảo cổ Sài Gòn (V.Đ - 9)

Có lẽ dựa vào bản chép lầm thành chữ “y” trong Lịch triều hiến chương loại chí (1821) Phan Huy Chú đã viết như vậy. Phần dư địa chí trong sách này khắc in năm 1833 mang tên Hoàng Việt dư địa chí vẫn để nguyên như thế.

Bản dịch Phủ biên tạp lục của Viện Sử học do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1977, đoạn trích dịch của Hãn Nguyên đăng trong tập san Sử địa số 29 xuất bản tại Sài Gòn năm 1975 đều dịch theo những bản chép lầm nói trên. Nguyên tác là “Thuyền các nước ngoài gặp gió phần nhiều hư hỏng tại đảo này” dịch thành “các thuyền ngoại Phiên bị bão thường đậu ở đạo này” (Viện Sử học) hoặc “Những thuyền lớn đi biển của người Phiên thường đi gặp gió đều nương đậu ở đảo này” (Hàn Nguyên). Sự lầm lẫn trên có thể làm cho người đọc hiểu lầm, coi “Đảo Đại Trường Sa” mà Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ biên tạp lục là những đảo ven bờ.

Căn cứ vào hồ sơ lưu trữ tại Phủ Chúa Nguyễn để viết Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn, một nhà nho có kiến thức uyên bác mà ngày nay ta đánh giá là một “nhà bác học”, có lẽ đã không lầm lẫn trong việc mô tả đặc điểm của “Đảo Đại Trường Sa” (Bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa ngày nay) và việc chúa Nguyễn hàng năm cử Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải (Bắc Hải là địa danh chỉ Vùng biển quần đảo Trường Sa hồi bấy giờ) ra hai quần đảo này kiếm lượm đồ vật, súng đạn trên các tàu nước ngoài mắc cạn ở nơi đây.

Sự thật về tàu thuyền nước ngoài gặp gió “trôi dạt” vào Bãi Cát Vàng được chú giải trên bản đồ Đỗ Bá(1). Sự “nguy hiểm” của các quần đảo ở Biển Đông được mô tả trong tài liệu phương Tây (2) và sách cổ Trung Quốc(3) chứng minh là chữ “hoại” mới đúng nguyên ý của tác giả.

Qua nghiên cứu so sánh nhiều văn bản, đối chiếu với tình hình thực tế của bao quần đảo, xin đính chính như trên để tránh lầm lẫn về sau.

CHÚ THÍCH

1. Trên bản đồ của Đỗ Bá “Toản tập An Nam lộ” trong sách Thiên hạ bản đồ (Viện Hán Nôm, ký hiệu A.2628) chú giải rằng: “Giữa biển có một dải cát dài, dài độ 400 dặm, rộng độ 20 dặm, nổi lên giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh. Khi có gió tây nam thì thuyền buôn các nước đi ở phía trong, trôi dạt ở đấy, khi có gió đông bắc thì thuyền buôn các nước đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hoá đều bỏ lại nơi đó. Họ Nguyễn (chúa Nguyễn) hàng năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”.

2. Trong bài “Geography of the Cochin - chinese Empire” đăng trên tập san “Journal of the Geographycal Society of London” năm 1849 (Thư viện quốc gia Pháp, ký hiệu, 28.550). Gutzlaff viết: “Đây đáng lẽ chúng tôi không kể đến Paracels (Katvang), cách bờ biển An Nam 15 đến 20 dặm và lan giữa các vĩ tuyến15 và 16 độ Bắc, và các kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, nếu Vua xứ Cochin - China đã không đòi hỏi quần đảo ấy là của mình, với nhiều cù lao và đá ngầm rất nguy hiểm cho người hàng hải.” (hiểu biết ban đầu của người phương Tây còn chưa chuẩn xác về vị trí của Paracels; Cochin - China ở đây cần được hiểu là Việt Nam).

3. Sách Hải sai dư lục do Cố Giới đời Minh, soạn năm 1540 (Ngã quốc Nam Hải chư đảo sự liệu hội biên xuất bản tại Bắc Kinh năm 1988, trang 61) chép rằng “Thiên Lý Thạch Đường ở trên biển, cách Châu Nhai (nam đảo Hải Nam) 700 dặm. Tương truyền, đá ở đây thấp hơn mặt nước tám chín thước (= 4 - 4,5m), thuyền đi biển phải tránh xa, hễ đụng vào thì không ra được. Vạn lý trường đê ở phía Nam, nước xoáy mạnh, thuyền bị cuốn vào đó chưa bao giờ thoát được.” (Thiên lý thạch đường, Vạn lý trường đê chỉ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa ngày nay)./.

TB

"TỲ BÀ HÀNH",
MỘT BẢN DỊCH HÁN - NÔM MẪU MỰC

THẾ ANH

Trong lịch sử văn học nước ta, ngoài phần thơ văn bằng chữ Hán và chữ Nôm, còn có nhiều tác phẩm dịch Hán - Nôm nổi tiếng mà tiêu biểu là bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh(1). Trong bài viết này chúng tôi xin nêu một vài điều tâm đắc khi đọc bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh và nguyên bản chữ Hán của nhà thơ Đường nổi tiếng Bạch Cư Dị.

Bạch Cư Dị đã nói lời tựa: “động cơ thúc đẩy ông viết bài trường ca này là để tặng người ca nữ đã hết thời xuân sắc của đất Trường An, nhưng thực ra cũng là để tặng chính mình - người “cùng hội cùng thuyền”. Phải chăng nhà thơ Phan Huy Vịnh cũng đã có mối đồng cảm sâu sắc với tác giả khi ông chọn dịch bản trường ca này ?

Về mặt hình thức, Tỳ bà hành viết theo thể thơ: “thất ngôn trường thiên”, còn trong bản dịch, Phan Huy Vịnh chọn thể song thất lục bát. Thể thơ song thất lục bát là một thể thơ Việt Nam có vần điệu nhịp nhàng rất thích hợp để diễn tả nội tâm, tình cảm của con người, cho nên các khúc ngâm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Thu dạ lữ hoài ngâm… đều dùng thể này để viết.

Trong lý thuyết dịch hiện đại, người ta đề cập đến các cấp độ dịch như từ, cụm từ, câu, đoạn văn… Trong tác phẩm này, Phan Huy Vịnh đã dùng cấp độ câu để dịch. Nguyên văn chữ Hán có 88 câu, gồm 616 chữ, bản dịch cũng có số câu, số chữ như trong nguyên bản. Dùng đơn vị câu để dịch là rất phù hợp để bám sát nguyên bản. Cái tài của người dịch là đã chuyển được cái “thần” trong nguyên bản sang tiếng Việt với âm điệu không kém du dương, tiết tấu không kém nhịp nhàng, có một sức truyền cảm mạnh mẽ, nâng cao được hiệu quả nghệ thuật của nguyên tác bằng cách tái hiện đầy đủ nội dung của nguyên tác.

Bản trường ca của Bạch Cư Dị mở đầu bằng hai câu:

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong điệp địch hoa, thu sắt sắt.

Phan Huy Vịnh đã chuyển được cái “thần” của hai câu thơ chữ Hán sang tiếng Việt một cách tài tình:

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.

Thời gian mùa thu vào lúc nửa đêm khuya ở một bến sông nào đó thật buồn, một cái buồn mênh mông, man mác, nó có sức quyến rũ lạ thường khi ta nghe lời ca của nghệ nhân vừa ngâm lên sau đó.

Trần Trọng Kim đã dịch Tỳ bà hành ra thể thơ lục bát, nhưng so với bản dịch của Phan Huy Vịnh thì đó chỉ là bài diễn ca bình thường, không có sức truyền cảm. Khi đọc hai câu thơ dịch mở đầu của ông:

Đêm đưa khách bến Tầm Dương,
Gió thu sàn sạt, lá vàng bông lau.

Ta thấy hiệu quả nghệ thuật giảm hẳn đi.

Tiếp đến hai câu của Bạch Cư Dị:

Chủ nhân hạ mã, khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm, vô quản huyền.

Phan Huy Vịnh đã dịch:

Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti.

Lấy đơn vị câu để dịch câu này thật đạt. Phan Huy Vịnh không câu nệ và không phụ thuộc vào chữ trong nguyên bản như: Chủ nhân, Cử tửu dục ẩm… để dịch, mà dùng một hình ảnh tương đương khác phù hợp với ngữ cảnh để dịch thành: người, chén quỳnh mong cạn, rồi tiếng đàn, tiếng sáo trong nguyên bản cũng được thay thế bằng cụm từ trúc ti.

Trong nguyên bản có những câu đơn giản mang sắc thái “khẩu ngữ” như:

Chủ nhân vong quy khách bất phát mà dịch thành:

Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.

thì hiệu quả nghệ thuật được nâng lên rất nhiều. Hoặc câu:

Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.

mà dịch là:

Dời thuyền nèo hỏi thăm tình,
Chong đèn thêm rượu còn dành tiệc vui.

thì thật là sáng tạo. Có thể nêu lên rất nhiều trường hợp như vậy ở trong bản dịch của Phan Huy Vịnh:

Tầm thanh dịch là Lần tiếng

Dục ngữ trì dịch là nấn ná làm thanh

Thiên hô vạn hoán dịch là mời mọc mãi

Đoạn thơ mô tả tiếng đàn của người kỹ nữ được Phan Huy Vịnh dịch thuật thanh thoát và tài hoa:

Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu;
Giây to nhường đổ mưa rào,
Tỉ tê giây nhỏ như chiều chuyện riêng.
Tiếng cao thấp, lựa chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn tóc rách chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh, giây mành ngừng dứt,
Ngừng dứt nên phút bặt tiếng tơ.
(…)
Bình bạc vỡ tuôn rây mặt nước,
Ngựa sắt giong sàn sạt tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn giây.

Đọc mấy câu trên đây ta lại liên tưởng đến đoạn Kiều gảy đàn cho Kim Trọng nghe:

Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời,
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…

Nếu đối chiếu tỉ mỉ từng câu, từng chữ của nguyên tác với bản dịch, ta thấy Phan Huy Vịnh chẳng những bám sát ý của nguyên tác, mà còn sáng tạo nhiều hình ảnh rất phù hợp với ngôn ngữ dịch.

Nếu lấy các tiêu chuẩn truyền thống về vấn đề dịch thuật là “tín, đạt, nhã” thì bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu đó.

Một điều tâm đắc của chúng tôi khi đọc bản dịch của Phan Huy Vịnh là: Muốn dịch một tác phẩm văn học nước ngoài ra tiếng Việt, nhất là thơ thì ngoài kiến thức sâu rộng về văn hóa, ngôn ngữ, vốn sống… người dịch phải là một nghệ sĩ có tài và có mối đồng cảm (chân cảm) với tác giả, trường hợp Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Vịnh… là những chuẩn mực về những vấn đề đó.

Với sự vận dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện, Phan Huy Vịnh đã tái hiện bài trường ca của Bạch Cư Dị cách non mười thế kỷ thành một bài Tỳ bà hành của xứ sở, được truyền tụng mãi đến ngày nay và nó sẽ còn làm rung động bao trái tim đa cảm sau này nữa.

Về mặt kỹ thuật dịch của Phan Huy Vịnh ta có thể sơ bộ rút ra một số điểm sau đây:

1. Ông đã vận dụng tài tình thể thơ song thất lục bát để thể hiện những tình cảm buồn thương, lưu luyến và sâu lắng của nguyên tác.

2. Ông đã giữ đúng nguyên số câu và cả số chữ trong nguyên tác, chủ yếu là lấy cụm từ và câu làm đơn vị dịch, chẳng những dịch giả giữ nguyên ý của nguyên tác, mà còn làm cho bản dịch đạt được hiệu quả nghệ thuật cao.

3. Về phong cách ngôn ngữ, Phan Huy Vịnh đã vận dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ phổ thông vào bản dịch, khiến người đọc cảm thụ được nỗi buồn của những người “cùng lận đận bên trời một lứa”.

4. Về mặt tu từ, Phan Huy Vịnh đã dùng những hình ảnh và từ ngữ phù hợp với Việt Nam làm cho câu thơ thanh thoát, tiết tấu nhịp nhàng, dễ đọc, dễ nhớ.

Tóm lại, bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh là một bản dịch mẫu mực, nó đã đưa địa vị của ông ngang hàng với Đoàn Thị Điểm và những nhà thơ khác.

Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng tôi không có ý định đi sâu vào phân tích các mặt của nghệ thuật dịch Hán - Việt của một bài thơ mà chỉ là một vài suy nghĩ khi đọc bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh.

CHÚ THÍCH

1. Theo cụ Hoàng Xuân Hãn thì bản dịch Chinh phụ ngâm đang được phổ biến rộng rãi từ trước đến nay là của Phan Huy ích, còn bản dịch Tỳ bà hành là của Phan Huy Thực - thân phụ Phan Huy Vịnh. Trong khi chờ đợi các nhà nghiên cứu xác minh thêm, chúng tôi vẫn theo các tài liệu đang được phổ biến hiện nay./.

TB

THƯ TỊCH CỔ TRUNG HOA VỚI
CHỮ NGHĨA VĂN NÔM

NGUYỄN THẠCH GIANG

Một trong những đặc điểm của văn Nôm là mượn những điển tích, những chữ sách và cả những từ Hán lấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc. Nhìn chung, những điển, những chữ sách này… là rút ra từ truyện một số nhân vật, một số sự kiện lịch sử nhất định được ghi lại trong nhiều sách khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm cho được thực trạng cụ thể của số thư tịch cổ Trung Hoa này là rất cần thiết. Điều này cho phép ta đoán định cách hiểu chính xác các khái niệm trong văn Nôm của từng tác phẩm ở từng thời đại khác nhau, và cho ta thêm chứng cứ để xác định sự xuất hiện của văn bản. Để giúp chúng ta thêm chứng cứ để xác định sự xuất hiện của văn bản. Để giúp chúng ta hiểu bấy nhiêu điều trong văn Nôm, những người chú thích lớp trước đã góp phần xứng đáng. Công lao của họ sẽ được chúng ta ghi nhớ. Nhưng việc làm của họ chưa phải đã là hoàn hảo, vì khi giải nghĩa văn Nôm, thấy trước mắt có sách nào thì thích nghĩa theo sách ấy, đó là việc làm chưa thật thỏa đáng. Đấy là chưa kể việc giải thích dịch nghĩa văn Hán của tác phẩm. Bây giờ với cách nhìn văn bản học, chúng ta còn phải tiếp tục hoàn chỉnh thêm.

Ở đây, cần thấy hết cái cực kỳ phức tạp và khó khăn trong việc đi sâu tìm hiểu kho sách cổ đồ sộ của Trung Quốc ngót hàng vạn cuốn(1) để thông cảm với thiếu sót của những người lớp trước.

Đi vào nội dung thư tịch cổ Trung Quốc, về đại thể chúng ta có thể nêu ra mấy nhận xét sau đây:

1. Thư tịch cổ Trung Quốc còn ghi lại nhiều cách hiểu khác nhau. Thí dụ: Chữ tam động(2) trong truyện Đông Phương Sóc sách Hán thư: Niên thập nhị học thư tam đông văn sử túc dụng (Năm mười hai tuổi học thư, ba đông văn sử đủ dùng), theo lời chú của Như Thuần, thì tam đông nói là ngày về mùa đông - con nhà nghèo ngày đông mà còn được đi học. Còn Vương Tiên Khiếm thì bổ chú cho rằng “tam đông là nói ba năm, cũng như tam xuân, tam thu vậy” (Từ hải 12.1)

- Chữ đại lộc, thiên Thuấn điển Kinh Thư có câu: Nạp vu đại lộc, liệt phong lôi vũ, phất mê (Vua Nghiêu sai vua Thuấn vào núi đại ngàn (đại lộc) gặp gió mưa mù mịt, sấm sét đùng đùng mà Thuấn vẫn không quên đường ra). Hiểu như vậy là theo lời chú Mã Dung và Trịnh Huyền. Còn Khổng Dĩnh Đạt thì cho rằng: “lộc, âm gần giống lục là ghi chép” nên giải rằng: “Vua Nghiêu sai vua Thuấn chép toàn bộ (đại lộc) công việc chính sự của vua, âm dương phong vũ thời nào theo tiết ấy mà ghi ra rành rọt, không nhầm lẫn sai sót”. Sách Thượng thư kim cổ văn chú sớ (q.1. tr.25) dẫn Phong tục thông nghĩa cho rằng các nhà nho đời Hán, Ngụy phần đông đều nhận nghĩa đại lộc là nơi nhường ngôi (thiên vị chi xứ).

Sách Sử ký (q.1 tờ 12b) có chép: Nghiêu sử Thuấn nhập sơn lâm xuyên trạch bạo phong lôi vũ, Thuấn hành bất mê (Vua Nghiêu sai ông Thuấn vào núi rừng sông ngòi ao đầm, bão táp mưa gió sấm sét mù mịt, Thuấn đi không lạc đường (3). Tờ 20b sách Sử ký chép lại câu Kinh Thư đã dẫn trên đây. Như vậy, Tư Mã Thiên, hiểu đại lộc là “ghi chép” như đã dẫn, hay hiểu như Hán nho?

2. Thư tịch cổ Trung Quốc ghi chép khác nhau không thống nhất về nhiều chi tiết của cùng một sự kiện lịch sử. Thí dụ, chuyện Thái tử Đan nước Yên làm con tin ở Tần, muốn về, xin vua Tần, vua Tần nói: Ô đầu bạch, mã sinh giác nãi hứa chi nhĩ (Đầu quạ hóa trắng, ngựa mọc sừng mới cho về)(4). Chiến quốc sách (q.9) trong chính văn và cả trong lời chú không ghi chép chi tiết này. Cả trong Sử ký (q.86; Thích khách liệt truyện - Kinh Kha) cũng không thấy ghi chép. Chỉ thấy ghi trong lời chú đoạn bình của Thái sử công. Ông nói: “Người đời nói đến chuyện Kinh Kha, lại khen Thái tử Đan có thiên mạng: trời mưa có lúa, ngựa mọc sừng (thiên vũ lật, mã sinh giác). Như thế quá đáng” (tờ 15a - b). Lời sách ẩn của đoạn này chép: “Thái tử Đan nước Yên xin về, vua Tần nói: Ô đầu bạch, mã sinh giác nãi hứa chi nhĩ ! Đan bèn ngửa mặt lên trời mà than, đầu quạ tức thì bạc trắng, ngựa cũng mọc sừng”. Phong tục thông nghĩa (q.2, tờ 4a) chép: Trời vì thái tử Đan mà mưa lúa xuống, đầu quạ bạc, ngựa mọc sừng” là dựa vào lời sách ẩn của Sử ký.

Một thí dụ nữa là việc Can Tương đúc kiếm(5). Các sách Ngô Việt xuân thu, Chính tự thông, Lã Thị xuân thu, Việt tuyệt thư đều chép: “Vua Ngô là Hạp - Lư sai Can Tương đúc kiếm. Can Tương lấy thép tốt cho vào lò, đun mãi mà không chảy. Vợ là nàng Mạc Da bèn cắt tóc và móng tay ném vào lò thì sắt liền chảy ra. Can Tương đúc được hai thanh kiếm đặt tên là Can Tương và Mạc Da”. Nhưng, Từ Hải dẫn Ngô địa ký nói rằng chính Mạc Da nhảy vào lò? Còn Mạc Da là ai? Các sách kể trên đều chép Mạc Da là vợ Can Tương. Nhưng lời tập giải sách Sử ký (q.84, tờ 7a - b) dẫn lời tập giải của úng Lặc thì đều nói Mạc Da là quan đại phu nước Ngô.

3. Thư tịch cổ Trung Quốc, ngoài các bộ Kinh, Sử, Tử, Tập đã qua nhiều lần giám định, hiệu chính, nên những dị đồng lược kể trên đây và cả những chỗ sai lạc, phần lớn đã được loại ra, còn có những loại chép chuyện thần tiên, thần kỳ, báo ứng, đinh số… thì chưa được hiệu chính nên sai sót còn nhiều. Sách Thái bình quảng ký là bộ tập đại thành về loại này, về sau tái bản(6), có hiệu chính nhưng chưa phải là đã hết. Vì vậy, khi đọc cần thận trọng, có phê phán.

Truyện nàng Lý Ký(7) giết thần rắn cứu cha chép trong Sưu thần ký, mới xem qua, người đọc có thể có chỗ ngờ, như Lý Ký có nhắc đến việc Đề Oanh cứu cha(8). Đề Oanh là người đời Hán, nhưng ở cuối truyện có nói Việt Vương đón Lý Ký vào cung lập làm Hoàng hậu. Chúng ta tưởng Việt Vương, thì chỉ có Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân thu, và cho rằng Hán và Xuân thu là hai thời đại quá xa nhau trong lịch sử(9). Nhưng nghiên cứu kỹ, sẽ thấy Sưu thần ký chép đúng. Đề Oanh là người Hán Văn Đế (185 -180 TCN) và Lý Ký sống vào thời Hán Vũ Đế (136 TCN), còn Việt Vương nói đây là Đông Việt Vương. Đông Việt là tên nước lập ra từ năm Kiến Nguyên (140 TCN), Hán Vũ Đế phong dư duệ của Việt Vương Câu Tiễn là Dư Thiện làm Đông Việt Vương (nay thuộc miền nam tỉnh Chiết Giang và miền đông nam tỉnh Phúc Kiến) và cho đến năm Nguyên Phong 1 (110 TCN) Dư Thiện bị giết chết. Đông Việt chỉ còn là hư danh.

4. Tứ khố toàn thư của Trung Quốc có hàng vạn quyển, hầu hết đều được dẫn trong các bộ từ điển lớn của Trung Quốc, như Từ hải, Từ nguyên, Khang Hy tự điển, Trung Hoa đại tự điển, Trung Quốc nhân danh đại từ điển, Trung Quốc cổ kim địa danh đại từ điển; đến các bộ tập đại thành đồ sộ như Bội văn vận phủ, Uyên giám loại hàm… Tất cả các công trình này đều được tập thể các học giả Trung Quốc biên soạn, có một giá trị khoa học cao. Đây là những chìa khóa giúp ta mở cửa đi vào bể học mênh mông của Trung Quốc thời cổ.

Nhìn trên đại thể, chúng ta thấy có những chữ(10), hoặc những chi tiết sách này có mà sách kia không. Thậm chí có những chi tiết quan trọng của điển mà ngay trong bộ tập đại thành lớn về sử như Thông chí cũng không nói đến, nhưng ở các bộ Từ nguyên, Từ hải, Trung Quốc nhân danh đại từ điển lại có. Ví như điển Mai Lâm Bô(11), Thông chí không nói gì đến chuyện mai hạc (mai thê hạc tử), còn các bộ Từ nguyên, Từ hải, Trung Quốc nhân danh đại từ điển đều có nói. Ngay bộ Bội văn vận phủ là bộ tập đại thành đồ sộ mà những chữ bình thường như tây tịch, tây tân(12), băng sơn(13), người bị vong(14) cũng không thấy có. Đến những chữ có trong Bội văn vận phủ, thì không phải chữ nào cũng được ghi dẫn đủ hết các nghĩa(15).

Điều đáng chú ý ở đây là lời dẫn các sách không phải khi nào cũng dẫn đúng nguyên bản. Một số lớn các câu dẫn đều được rút gọn lại. Bội văn vận phủ chú ý dẫn đúng nguyên văn, nhưng không phải khi nào cũng thực hiện được điều đó. Thí dụ, trong chữ Kinh thoa bố quần(16), các bộ Từ hải, Từ nguyên, Bội văn vận phủ đều dẫn Hậu Hán thư, Liệt nữ truyện về tích nàng Mạnh Quang, nhưng không sách nào dẫn thật đúng nguyên bản.

Từ hải (320.4, tập Sửu, 82) khi giải thích chữ Thành môn thất hỏa (cửa thành cháy)(17) có dẫn Quảng vận: Cổ hữu trì Trọng Ngư giả, thành môn thất hỏa, Trọng Ngư thiêu tử, cố ngạn vân: Thành môn thất hỏa ương cập trì ngư (Xưa có người Trì Trọng Ngư vì cửa thành cháy mà bị thiêu chết, vì vậy ngạn ngữ có câu: Cửa thành cháy, họa lây đến cá ao). Thực ra Quảng vận chép không đúng hẳn như thế: Hựu hữu Trì Trọng Ngư thành môn thất hỏa (…) cố ngạn viết (…)”. Cũng như Từ hải (268.1, tập Sửu, 30) và Từ nguyên (183.5, tập Sửu, 33) khi giải thích chữ Hòa bích (ngọc Biện Hòa)(18), cả hai bộ đều ghi xuất xứ rút ra ở sách Hàn Phi Tử. Từ hải ghi đúng như Hàn Phi Tử, còn Từ nguyên có chỗ khác: “Khi Văn Vương lên ngôi, Hòa lại ôm hòn ngọc khóc ở chân núi Kinh Sơn suốt ba ngày ba đêm”. Còn Hàn Phi Tử thì nói: “… khóc ở chân núi Sở Sơn”.

Tìm hiểu cụ thể các bộ sách đó, chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau đây:

a) Những dị đồng bình thường, nghĩa là những dị đồng không có hại gì đến việc lý giải nội dung, được xuất hiện ở một tỷ lệ khá cao trong các sách khác nhau. Thí dụ, câu thơ Đỗ Phủ: Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu du hốt biến vi thượng cầu. Các bộ Từ hải, Từ nguyên đều ghi như vậy, nhưng Bội văn vận phủ lại chép:… tu du cải biến như thương cẩu(19).

Bài Thất bộ thi của Tào Thực, Từ nguyên Từ hải đều theo Thế thuyết văn học, dẫn đủ bài thơ sáu câu, nhưng giữa hai cách đã có hai chỗ dị đồng ở câu 2 và câu 3. Từ nguyên: Lộc đậu dĩ vi trấp, Cơ tại phủ đế nhiên; Từ hải: Lộc thúc dĩ vi trấp, Cơ tại phủ hạ nhiên(20). Nhưng cũng bài thơ này, cũng ở bộ Từ nguyên (tập Tỵ, 116) và ở bộ Từ hải (tập Tỵ 97) thì chỉ ghi như Nhân danh từ điển; Chữ đậu nhiên đậu cơ, Đậu tại phủ trung khấp, Bản thị đồng căn sinh, Tương tiểu hà thái cấp.

b) Cùng một chữ mà Từ hải, Từ nguyên giải thích khác nhau. Thí dụ: Ngọc thỏ(21), Từ hải giải: “Ngọc thỏ nói là mặt trăng” (195.2); Còn Từ nguyên: “Ngọc thỏ là nói con thỏ trong mặt trăng” (927.3).

Ngọc chúc (đuốc ngọc)(22). Từ hải dẫn Nhĩ nhã nói: Tứ khí hòa vị chi ngọc chúc (Bốn khí điều hòa gọi là ngọc chúc (đuốc ngọc - Tập Ngọ, 4). Còn Từ nguyên cũng dẫn Nhĩ nhã nói: Tứ thời hòa vị chi ngọc chúc (Bốn mùa điều hòa gọi là ngọc chúc - Tập Ngọ, 7). Vậy theo Nhĩ nhã nào? Sở dĩ có sự khác nhau đó là vì Từ hải dẫn và giải theo Nhĩ nhã nghĩa sớ Tống bản Nhĩ nhã chú sớ, còn Từ nguyên dẫn và giải theo Nhĩ nhã Quách chú.

Thái Xung(23), Từ hải giải thích: “Thái xung là nói điều hòa đến tột bực”. ấy là Từ hải căn cứ vào lời chú sách Hoài Nam Tử (xung là điều hòa vậy) mà giải. Còn Từ nguyên thì dẫn sách Trang Tử: “Ngô hương thị chi dĩ thái xung mà giải rằng: “Thái xung là nói cái ý hư tỉnh vô vi”. Như vậy, cùng một khái niệm mà chính các học giả Trung Quốc cũng hiểu khác nhau.

Tây tân(24), Từ hải giải có hai nghĩa. Từ hải dẫn thơ Liễu Tông Nguyên - bài thơ tặng Lưu Liễu Châu: Nhược đạo Liễu gia vô tử đệ, Vãng niên hà sự khất tây tân và dẫn cả lời chú cho rằng tây tân lấy ý tứ trong bài Tây Đô phú của Ban Cố có nghĩa là khách ở Tây Đô, tức chỉ Lưu Liên Châu. Đó là nghĩa thứ nhất. Nghĩa thứ hai: Tây tân là nói thầy dạy học tư ở trong nhà. Còn Từ nguyên (1357.2) chỉ giải một nghĩa như nghĩa thứ hai của Từ hải, rồi dẫn câu thơ trên đây của Liễu Tông Nguyên làm thí dụ. Như vậy, rõ ràng tác giả hai bộ từ điển hiểu về câu thơ họ Liễu có chỗ khác nhau.

c) Các bộ Từ hải, Từ nguyên, Bội văn vận phủ… như trên đã nói, là những công trình khoa học biên soạn tập thể, nhưng cũng còn để sót lại những chỗ sai lầm dễ thấy. Thí dụ:

- Bội văn vận phủ, ở vần vực, chữ thọ vực(25) có dẫn Hán thư, truyện Bàn Cổ: Tương tề khu vu thọ vực, hà cận hỉ nhi viễn bi (Cùng đến cả chốn thọ vực, làm sao gần lại điều vui mà xa điều buồn), nhưng Hán thư không có truyện Bàn Cổ, Hậu Hán thư mới có. Song ở đây truyện Bàn Cổ được chép chung vào truyện Bàn Bưu. Hậu Hán thư (q.70 thượng và 70 hạ) chép truyện Bà Bưu có kèm cả truyện Bàn Cổ, không có câu dẫn ở Bội văn vận phủ.

- Từ hải (1492.4) ở chữ dư quang(26) có dẫn Sử ký (Cam Mậu truyện) câu: Bần nhân nữ dữ phú nhân nữ hội tích (Con gái nhà nghèo cùng bọn con gái nhà giàu họp xe gai…) và cho rằng đó là lời Cam Mậu nói với Tô Đại (em Tô Tần). Điều đó đúng. Nhưng ở chữ dư minh (1492.5) lại theo Chiến quốc sách, cũng dẫn câu đó và cho là lời Cam Mậu nói với Tô Tần. Chỗ này Từ Hải nhầm. Chiến quốc sách, chương Cam Mậu vong Tần thả chi Tề có nói rõ rằng: … ngộ Tô Tử (gặp Tô Tử) với lời chú “Đại, tức Tô Đại”, chứ không phải Tô Tần y như Sử ký đã chép.

- Cũng Bội văn vận phủ, chữ tam xuân (27) có dẫn một câu trong bài Chung nam sơn phú của Bàn Cổ: Tam xuân chi quý, mạnh hạ chi chung… chi chung là nhầm. Câu phú của Bàn Cổ chép rõ: Tam xuân chi quý, mạnh hạ chi sơ (Buổi cuối ba tháng xuân, buổi đầu mùa hạ). Từ hải (14.1) dẫn đúng như vậy.

- Từ nguyên (1529.4) ở chữ Dương đài(28) đã giải thích nhầm, cho rằng chính Sở Tương Vương mộng thấy thần nữ và chính thần nữ nói với Tương Vương: Thiếp tại Vu Sơn chi dương, cao phân chi trở, triêu triêu mộ mộ, Dương Đài chi hạ (Thiếp ở tại mé nam núi Vu Sơn, nơi gò cao hiểm trở ấy, sớm sớm chiều chiều ở dưới chân núi Dương Đài). Theo lời tự bài Cao Đường phú của Tống Ngọc thuật việc Sở Tương Vương cùng ông đến chơi chằm Vàn Mông nhìn đền Cao Đường trên có hơi mây, vua hỏi Tống Ngọc đó là khí gì. Tống Ngọc mới tâu: “Xưa kia Tiên vương thường đến chơi Cao Đường, một hôm giữa lúc ban ngày nhân mệt mỏi mà ngủ thiếp đi, rồi mộng thấy một người đến nói rằng: “Thiếp là con gái ở núi Vu Sơn, làm khách đền Cao Đường, nghe nhà vua ngự đến chơi, xin nguyện đến hầu chăn gối”. Nhà vua nhân thế mà đem lòng yêu. Khi từ biệt, người con gái nói: “Thiếp ở tại mé nam núi Vu Sơn, nơI gò cao hiểm trở ấy, sớm làm mây, chiều tối làm mưa, sớm sớm chiều chiều ở dưới chân núi Dương Đài…”

- Cùng ở Từ nguyên, khi giải thích chữ tam hòe(29) các tác giả đã dẫn nhầm Vương Hổ ra Vương Hựu. Theo Tống sử (Vương Đán truyện) chép: Vương Hổ người đất Hoa đời Tống, làm quan đến chức Thượng thư Binh Bộ Thị lang, văn chương nổi tiếng một thời. Ông tự tay trồng ba cây hòe ở sân nhà và nói: “Con cháu ta tất có người làm quan đến chức Tam công”. Về sau con thứ của ông là Vương Đán làm Tể tướng. Các sách Khâm định tục thông chí (q.110), Từ hải, Trung Quốc nhân danh đại từ điển đều chép như Tống sử.

Trở lên là một vài nhận xét về những cái cụ thể của thư tịch cổ Trung Quốc - cơ sở của nguồn văn liệu bác học đối với các tác phẩm văn Nôm. Những dẫn chứng cụ thể còn nhiều nữa. Xin lưu ý rằng những nhận xét và những dẫn chứng này mới chỉ đứng trên cơ sở văn Nôm mà bàn, còn những mặt khác như lịch sử, địa lý… sẽ có những nhận xét và dẫn chứng khác mà không đưa ra đây.

Tóm lại, thư tịch cổ Trung Quốc, trong gần hai nghìn năm, triều đại này tiếp triều đại kia, đã trải qua nhiều lần hiệu chính, tái bản… là những nguồn tài liệu có giá trị khoa học cao. Cách xử lý của các nhà học giả Trung Quốc đối với hàng vạn quyển này sẽ gợi ý cho chúng ta nhiều điều trong việc xử lý văn bản các tác phẩm văn Nôm.

CHÚ THÍCH

1. Xem Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu.

2. Kiều:

Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.

3. Thơ Nguyễn Đình Chiểu:

Ai rằng chân lộc mê Ngu Thuấn,
Ta nhớ sông Tuy giải Hán cao.

4. Văn tế chiến sĩ trận vong Lục tỉnh của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống thì chịu tuyết sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ”.

5. Văn tế Trương Công Định của Nguyễn Đình Chiểu: “Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố chói sắc giữa trào; ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn nơi ngoài ải”.

6. Thái bình quảng ký, Nhân dân xuất bản, Bắc Kinh, 1959.

7. Kiều:

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình chuộc cha.

8. Lý Ký tự nguyện ứng mộ bán mình cho thần rắn. Bố mẹ không nghe. Lý Ký nói: “Cha mẹ không ai giúp đỡ, có sáu chị em gái mà không có lấy một đứa con trai, thì tuy có mà cũng như không. Là phận gái mà không có công cán gì cứu giúp cha mẹ như nàng Đề Oanh, lại không thể đỡ đần cái ăn thức mặc thì sống phỏng có ích gì, chi bằng chết sớm đi là hơn. Nay bán thân của con đây, được ít tiền để cung dưỡng cha mẹ, thì chẳng phải là việc tốt lành hay sao?”.

9. Hán (220 TCN - 206 SCN); Xuân thu (722 - 481 TCN).

10. Ví dụ: Đông nhân: Từ nguyên có, Từ hải không. Trâm hốt: Từ hải không, Từ nguyên có. Ngũ phẩm: “Từ hải không, Từ nguyên có…

11. Quốc âm thi tập:

Trúc Tương Hủ nên thêm tiết cứng,
Mai Lâm Bô đêm được câu thần.

Lâm Bô, người đất Tiền Đường đời Tống, ẩn ở núi Cô Sơn vùng Tây Hồ, trông mai nuôi hạc làm bạn.

12. Sơ kính tân trang:

Cửa Trình thoắt đã gần gần,
Nam lâu đường tính, tây tân kén tài.

Tây tân là khách ngồi ở phía tây, chỉ thầy dạy học.

Theo Xứng vị lục, vua Hán Minh Đế lấy lễ thầy học mà tôn đãi Hoàn Vinh, mời Hoàn Vinh ngồi ở ghế đặt ở phía Tây mà quay mặt về phía đông. Vì vậy gọi thầy là tây tịch, hay tây tân.

13. Nhị độ mai:

Gian thần chưa chắc nẩy chồi,
Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.

Núi băng là do chữ băng sơn, chỉ quyền thế không thể dựa nhờ được lâu, chữ lấy ở sách Đường thư. Chỉ quyền thế của Dương Quốc Trung, anh Dương Quý Phi.

14. Cung oán ngâm khúc:

Song đi đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong.

Người vị vong là người chưa chết. Đàn bà góa chồng tự xưng mình là vị vong nhân, lấy nghĩa ở chữ sách Tả truyện.

15. Ví dụ ngũ quỉ, chỉ dẫn sách Cửu quốc chí, Nam Đường… mà không nói đến bọn ngũ quỉ đời Tống và ngũ quỉ trong bài Tống cùng của Hàn Dũ.

16. Kiều:

Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Theo Hậu Hán thư, nàng Mạnh Quang, vợ Lương Hồng, là một người vợ hiền, trâm gài áo vải mà ăn ở với chồng rất phải đạo.

17. Phương Hoa:

Mong ra đông đạt đế đình,
Lại lo những sự cháy thành vạ lây.

18. Hoài cổ khúc:

Vàng Quách Ngỗi ai đồng ai nước,
Ngọc Biện Hòa ai ước ai hay.

19. Quan âm Thị Kính:

Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, lúc thì muông đen.

Áo trắng, muông đen lấy ý tứ từ câu thơ Đỗ Phủ để chỉ ý sự vật thay đổi không thường.

20. Toàn bài như sau: Chữ đậu dĩ tác canh, Lộc đậu dĩ vi trấp. Cơ tại phủ để nhiên, Đậu tại phủ trung khấp; Bản thị đồng căn sinh, Tương tiễn hà thái cấp. Dịch nghĩa: “Nấu đậu để làm canh, lọc đậu để lấy nước. Dây đậu đốt dưới nồi, hạt đậu trong nồi khóc. Vốn cùng gốc sinh ra, sao nung nhau kíp thế?” Tào Phi ghen tài em là Tào Thực, bảo em làm thơ hạn 7 bước phải xong, không thì bắt tội. Thực vừa đi vừa đọc bài này, gọi là Thất bộ thi = thơ bảy bước. Trung nghĩa ca:

Vai mang dạ dấu giáp binh,
Văn nên bảy bước trí đành một nang.

21. Hồng Đức Quốc âm thi tập:

Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao,
Dãi dầm chén khách kề niên khách.

Bóng ngọc, tức bóng ngọc thỏ - chỉ bóng trăng.

22. Hồng Đức Quốc âm thi tập:

Giữa trời chăm chắm âu vàng đặt,
Tám cói làu làu đuốc ngọc đưa.

Đuốc ngọc là do chữ “ngọc chúc”, chỉ khí trời bốn mùa.

23. Tứ thời khúc vịnh:

Bà Thái xung từ sinh Thái cực,
Huyền với hoàng hai thực chia đôi.

Đây là quan niệm giải thích sự hình thành vũ trụ thời cổ.

24. Sơ kính tân trang:

Cửa Trình thoắt đã gần gần,
Nam lâu dưỡng tính, tây tân kén tài.

25. Sãi vãi:

Hây hây thọ vực xuân đài,
Ta vậy thiệt trang thiện trí.

26. Hoa tiên:

Chút trong buổi mới láng giềng,
Gần soi mong được nhờ riêng bóng thừa.

Bóng thừa, do chữ “dư quang” - việc làm ơn không tốn kém gì.

27. Thạch Sanh:

Đội ơn chín chữ cù lao,
Ba xuân tấc cỏ nghĩ sao cho đành.

28. Hoa tiên:

Dương đài đầy sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.

Phan Trần:

Hay là nhớ nỗi mây mưa,
Ước ao nghĩa phượng đợi chờ bạn loan.

29. Kiều:

Sân hòa đôi chút thơ ngây,
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình./.

TB

GIÁO TRÌNH TIẾNG HÁN CỔ ĐẠI VÀ VIỆC DẠY CHỮ NÔM

HOÀNG TRỌNG PHIẾN

Việc học tập, nghiên cứu Hán Nôm hiện nay ở nước ta đang là yêu cầu tự thân của sự phát triển văn hóa và giao lưu quốc tế. Cho đến nay chúng ta có một đội ngũ cán bộ trẻ đã được đào tạo chính quy, được cấp học vị Cử nhân Hán Nôm. Có người hỏi: liệu trình độ học vấn của những người này có tương xứng với học vị ấy không?

Từ câu hỏi ấy tôi tìm đọc Giáo trình tiếng Hán Cổ đại (tập I) của Giáo sư Lê Văn Quán (Nxb. ĐH và GDCN, Hà Nội, 1991) và đọc bài Thử bàn về cách dạy chữ Nôm trong các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm của Lê Văn đăng trong Tạp chí Hán Nôm số 1 - 1992.

Trước hết, tôi hoan nghênh việc biên soạn một sách giáo khoa tiếng Hán cổ đại đúng lúc. Dẫu có những thiếu sót này nọ, còn có cái để mà dùng vẫn hơn không. Tôi được biết Giáo sư Lê Văn Quán là một trong những người có trăn trở và có công đầu xây dựng ngành Hán Nôm tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Mặc dù Giáo sư đã chuyển khoa và đang có những cống hiến mới ở một khoa mới, song Giáo sư vẫn nhiệt tình với sự nghiệp đào tạo cán bộ ngành Hán Nôm, đã cho in sách giáo khoa (tập I) này. Tôi là người ngoại đạo với ngành Hán Nôm, chỉ làm ngôn ngữ học, có biết đọc tiếng Hán, có cùng những suy nghĩ với Giáo sư Lê Văn Quán về dạy Hán Nôm theo ngôn ngữ học hiện đại. Tôi muốn góp một số ý kiến về giáo trình tiếng Hán cổ đại và việc dạy chữ Nôm mà tôi đã tiếp cận.

Theo tác giả, mục đích của giáo trình là phục vụ cán bộ, sinh viên các ngành Lịch sử, Triết học phương Đông, Đông y và Trung văn. Cách trình bày chọn lựa bài khóa sắp xếp theo quy trình học ngoại ngữ từ dễ đến khó. Người đọc sẽ nắm bắt được vấn đề một cách có hệ thống, học một biết hai. Nhưng trên thực tế, theo tôi giáo trình này chưa thỏa mãn được mục đích và phương pháp như lời nói đầu của sách đã đề ra. ở đây tôi không đề cập đến các thiếu sót về ấn loát, biên tập, diễn đạt ngôn từ của một sách giáo khoa vốn dĩ đòi hỏi một sự trong sáng và mẫu mực. Tôi chỉ nói đến khối lượng và chất lượng kiến thức cần yếu cũng như phương pháp biên soạn của một sách giáo khoa.

Sách đã cung cấp 40 bài khóa với các tri thức về văn tự, từ vựng, ngữ pháp cùng với những bài tập, bài dịch mẫu có thể coi như đủ các bình diện của một sách giáo khoa thông thường ở bậc phổ thông. Nhưng với tư cách là sách mở đầu, đặt cơ sở cho một hệ thống sách giáo khoa của một ngành đào tạo Hán Nôm, chúng tôi thấy còn có vấn đề. Chẳng hạn, vấn đề định lượng, tính chất về vốn từ, mẫu câu; hệ thống ngữ pháp nhất là cương vị hư từ; vấn đề ngữ nghĩa - logíc của văn bản, vấn đề tập dịch văn bản v.v… Học xong tập I, người học làm sao đủ khả năng biết đọc các văn bản bình thường ngay cả một bia mộ cũng không thể đọc được, thì làm sao đọc các văn bản Triết học Đông phương, Đông y, tiếng Hán hiện đại, như tác giả mong muốn. Học tiếng Hán cổ và chữ Nôm về cơ bản là học một nền văn hiến (văn hóa) thông qua học chữ học nghĩa. Chữ Hán, chữ Nôm là kiểu chữ khối vuông mang tính biểu trưng sâu sắc. Nghĩa của từ và nghĩa hàm ngôn của câu bị chi phối bởi những quy tắc ngữ pháp và hành văn nghiêm ngặt. Ngữ pháp tiếng Hán cổ là ngữ pháp cân đối của logíc - ngữ nghĩa chứ không phải là ngữ pháp hình thái. Cấu trúc ngữ nghĩa tương xứng với cấu trúc tư duy văn hóa Trung Hoa. Do vậy, tiền giả định (présupposition) là cơ sở để phân tích, cảm nhận hành động ngôn trung của câu văn Hán cổ. Người Việt Nam khi đọc tiếng Hán cổ thường chịu chi phối của áp lực ngữ nghĩa từ Hán Việt. Do vậy, sách giáo khoa tiếng Hán Cổ đại phải coi trọng việc giải nghĩa từ vựng, không thể đơn giản, nhất nghĩa như sách này đã làm. Vốn từ cung cấp quá ít và không theo một hệ thống định liệu trước. Đành rằng học tiếng Hán cổ và chữ Nôm là dễ đọc các văn bản chứ không để giao tiếp đời thường. Do đó, nó cho phép người soạn sách và người dạy có điều kiện rộng rãi để lý giải ngữ nghĩa của từ của câu và của đoạn văn.

Sách giáo khoa (tập I) có 4 thiếu sót không thể chia sẻ được với một tác giả như Giáo sư Lê Văn Quán.

1. Về văn tự, sách này đã có đến trên 50 lỗi chữ viết. Vài thí dụ: các chữ ở Bảng từ, trang 153 - 182, nhưng đều thấy viết chưa đúng. Dạy chữ càng chuẩn mực bao nhiêu thì dạy nhận diện từ càng nhanh bấy nhiêu. Hán học Trung Hoa có sự phân biệt rành mạch khái niệm Tự 字 và Từ 詞 . ở đây tác giả phát biểu không chuẩn xác: “hình chữ có quan hệ mật thiết với nghĩa của chữ” (trang 16). Các bậc cha ông ta ngày trước học chữ gắn liền với học từ. Sách này coi nhẹ dạy chữ. Phải chăng coi việc dạy tiếng Hán cổ như dạy một ngoại ngữ mà tác giả đã nói (trang 3)!

2. Về từ vựng và dịch nghĩa, sách này không phải chú ý lý giải nghĩa chính danh còn gọi là nghĩa quy chiếu của từ và nghĩa văn bản. Do đó có những từ và câu dịch không đúng nghĩa, lẫn thần với chủ nghĩa. Dưới đây là một ít ví dụ:

(1) Chi 之(trang 163) là từ chỉ phương hướng, với nghĩa tới, đến. Từ này là một trong những từ khó nhất của tiếng Hán cổ. Nó làm động từ trong những trường hợp biểu thị hành động chuyển động trong không gian. Nó là đại từ nhân xưng tương đương với nghĩa: nó, ấy, họ và có khi là ta nữa. Chi làm chức năng như đại từ chỉ định, phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ. Trong chức năng này “chi” mang nhiều nét nghĩa với các quan hệ ngữ pháp khác nhau. Chẳng hạn, quan hệ hạn định, định ngữ phạm vi, tân ngữ, quan hệ chủ vị, quan hệ vị ngữ và bổ ngữ v.v…

(2) Điểm chung 点 鍾 (trang 155) là giờ chứ không phải là giấc.

(3) Đống 棟 (trang 159) là cái đòn nóc nhà chứ không phải là cái cột.

(4) Căn 根 (trang 161) là rễ cây chứ không phải là gốc cây.

(5) Võng 妄 (trang 165) là bừa bãi chứ không phải là nói láo, nói điêu.

(6) Chấn 震 (trang 171) không có nghĩa là sấm chớp. Điện lôi mới mang nghĩa sấm chớp.

(7) 火 華 (trang 172) không phiên âm là “Hoa”. Theo Từ nguyên, chữ 火華 thông với chữ 火畢 đọc là “dật liệp thiết”, tức là diệp. Cả hai từ này có cùng cách đọc và có nghĩa tươi tốt, tươi sáng.

(8) Nhung 戎 (trang 177) có nét nghĩa binh khí và chỉ quân giặc Nguyên nhung ở phía tây Trung Quốc thời cổ đại. Bản dịch, tác giả dùng chữ “quân Nguyên”, còn bảng ghi là “binh khí”, rất khó cho người học.

(9) Nãi đan 乃 丹 trong câu nói 乃 丹 書 常 曰: 陳 胜 王 với nghĩa nãi là liền, lập tức, ngay… đan là son đỏ. Trong trường hợp này dễ nhầm là tên riêng. Trong Sử ký không có tên riêng này. Trong tiếng Hán cổ, nãi là một hư từ quan trọng và khó. Với chức năng phó từ, nãi biểu hiện 12 nét ngữ pháp. Khi nãi là trợ từ, có khả năng kết hợp với:

一 若 , 一 至 , 一 尔 , 一 爾 , 一 后 , 人 後 biểu thị những nét nghĩa khác nhau. Chưa kể nó có cùng dạng chữ với “nại”

Từ này cũng có khả năng kết hợp với các yếu tố vừa nêu.

Chọn lựa nghĩa quy chiếu của từ không chính xác, không đầy đủ lại không chú ý đến nghĩa chức năng của hư từ nên dịch không đúng cái thần của văn bản. Sách có khoảng 20 trường hợp dịch sai hoặc không chuẩn mực như vậy. Sau đây là một số dẫn chứng:

(1) Cổ chi vi trị giã tương dĩ ngu dân. “Tương” là một hư từ, với những chức năng phó từ, liên từ, giới từ, trợ từ… biểu hiện những nét nghĩa ngữ pháp khác nhau của phạm trù hình thái, phạm vi chủ quan. Nó có khả năng kết hợp với thị thành một quán ngữ kiểu biểu thị nghĩa hạn chế hành vi, động tác: chỉ là…, chỉ có thể… “Tương” trong câu này không thể dịch là “định, để, cho” như giáo trình, mà phải dịch là “chỉ, muốn, cho”. Cả câu có thể dịch là: “Ngày xưa người cai trị muốn cho dân ngu”.

(2) Nữ tử bất hảo, nghĩa là người con gái không đẹp, chứ không phải là người con gái bất hiếu (trang 103).

(3) Cơ giả cam thực, khát giả cam ẩm, thị vị đắc, ẩm thực chi chính dã, cơ khát hại chỉ dã. Tác giả dịch: “Người đói ăn gì cũng ngon, người khát uống gì cũng ngon, ấy là chưa nhận được mùi vị chính trong lúc ăn uống, là do tai hại của đói khát” (trang 103). ở đây tác giả không chú ý đến vai trò của kết cấu hư từ “chi chính dã” và “chi dã”. Câu này có thể dịch: Người đói hễ ăn cái gì cũng thấy ngon, người khát hễ uống cái gì cũng thấy ngọt, họ không phân biệt được mùi vị của chính đồ ăn thức uống. Chẳng qua đã bị cái đói, cái khát gây nên vậy.

(4) Mặc bi nhiễm ty (bài 13). “Mặc” ở đây là “Mặc Định”, “Mặc Tử” tên người chứ không phải “mực đen”. Phải dịch như sau: “Mặc Tử thương tơ bị nhuộm”, chứ không phải: “Tơ thương xót nhuộm phải mực đen”. Đây là sai lầm về kiến văn, cả về ngữ pháp nữa.

(5) Thần nông chi thế nam canh nhị thực, nữ chức nhi ý, hình chính bất dụng nhi trị, giáp binh bất khởi nhi vượng (tr. 91). Nội dung của câu là “Đời Thần Nông, con trai cày ruộng mà ăn, con gái dệt vải mà mặc, không dùng hình chính mà vẫn yên trị, không động binh mà vẫn thu phục được thiên hạ”. Có khác với cách dịch của giáo trình.

Hiển nhiên, việc dịch tiếng Hán cổ có khó khăn và có thể có những biến thể dịch khác nhau tùy thuộc vào khả năng nhận biết quan hệ ngữ pháp của câu văn. Ngữ pháp tiếng Hán cổ là ngữ pháp trật tự và cân đối; cơ cấu của câu văn cổ là dựa vào tiết tấu lưỡng phân, chứ không dựa vào hình thái ngữ pháp. Sự có mặt của hư từ trước đó chưa phong phú bằng sau này do nhu cầu diễn đạt tư tưởng, không có dấu chấm câu mà chỉ có dấu ở góc bên phải của chữ để phân biệt ý của các mệnh đề và đoạn văn. Do đó, dịch cho chính xác nội dung ngữ nghĩa của câu không phải dễ dàng, có câu có thể dịch thành mấy cách. Chẳng hạn câu: Quân tử thực vô cầu bão cư vô cầu an, dịch thành 1. Người quân tử ăn chẳng cầu no ở chẳng cầu an. 2. Người quân tử không đòi hỏi gì chỉ cần no là được; ở cũng không đòi hỏi gì chỉ cần yên ổn là được. 3. Người quân tử đối với việc ăn chớ có đòi hỏi thật no, ở chớ có đòi hỏi thật an. 4. Người quân tử phải coi nhẹ cái ăn và cái ở, v.v. Cũng có câu nội dung rõ ràng, không mơ hồ, vì sự hiện diện các công cụ ngữ pháp được hiển minh. Ví dụ: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận ngữ), có nghĩa là: “Biết nói là biết, (nếu) không biết thì nói là không biết, ấy cũng là biết vậy”.

Từ đó tôi thiển nghĩ, dạy dịch phải diễn cho được cái thần của câu văn và thông qua 3 thao tác sau đây: 1. giải nghĩa biểu niệm của từ, ngữ. 2. dịch nghĩa ngôn trung của câu. 3. dịch ý nghĩa hàm ngôn của phát ngôn. Ba thao tác này ứng với ba nội dung thông tin của một văn bản: thông tin sự kiện, thông tin quan niệm, thông tin tiềm ẩn. Thao tác thứ ba cho phép người học dịch trôi chảy theo phong cách tiếng Việt.

Ví dụ: (a) Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh = Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh -> người có trí tuệ mà biết giữ mình ở chỗ vô danh là bậc cao sĩ vậy.

(b) Công thành bất như công tâm = Đánh lấy thành trì không bằng đánh lấy lòng người -> chiếm được lòng tin của con người là khó hơn cả.

(c) Thế thượng vô nan sự nhân tâm tự bất kiên = Trên đời không có gì khó khăn, chỉ vì lòng người không bền chí, không kiên trì. Cái thần của câu này là dạy con người là phải có chí. Có nghĩa là ở đời không có việc gì khó, người ta lập chí phải nên kiên. Bác Hồ đã biến thành câu thơ: “Chẳng có gì khó, chỉ sợ lòng không bền”. Trong tiếng Việt cũng có cách nói tương tự làm tiền giả định cho câu trên: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Sách giáo khoa (tập I) nói chung chưa coi việc dạy dịch nên không có những bài dịch chuẩn xác, mẫu mực, trôi chảy, mặc dù đây đó cũng có những câu dịch thoát. Phải chăng nên chọn nhưng bài văn mẫu mực, tin cậy của những học giả Hán học uy tín ? Dạy dịch cũng đồng thời là dạy đọc hiểu văn bản ngay từ tập I này. Do đó dạy từ dễ đến khó theo một chiến lược dạy học.

3. Về ngữ pháp, tác giả đã đưa những trường hợp khó của sự chuyển hóa chứ năng từ loại và phân bố thành 2 phần: thực từ và hư từ. Song, về đặc điểm, cách dùng các thực từ tác giả lại không giải thích các quy tắc ngữ pháp mà đặt mục “Một vài kinh nghiệm phán đoán danh từ làm động từ”. Một khi chưa nắm sơ bộ những kiến thức cơ sở về từ loại, về câu, về hư từ thì không thể phán đoán (tiên nghiệm) được. Vả lại, các kinh nghiệm này thực chất là mẹo, là các quy tắc cú pháp của tiếng Hán cổ đại. Động từ và tính từ cũng có sự kiêm chức năng này với những điều kiện quan hệ ngữ pháp Hán cổ nhưng cách biên soạn không theo một hệ thống và nguyên tắc học pháp ngôn ngữ học. Cần giới thiệu các kiến thức ngữ pháp đơn giản, cơ bản gắn liền với cấu trúc câu văn Hán cổ.

Như ta đã biết việc hiểu và dùng đúng hư từ Hán cổ là rất khó. Tác giả đưa phó từ vào thực từ là không đúng. Hư từ thường dùng nhất trong Hán cổ khoảng 161 đơn vị từ và khoảng 806 đơn vị nghĩa chức năng(1).

Sách (tập I) mới đưa ra 6 hư từ: Ư, Dĩ, Vi, Dữ, Yên, Chi. Như thế là quá ít và lại không giải thích tương xứng với các bài khóa của sách này. Các kiến thức ngữ pháp không tạo những cơ sở vững chắc cho các bước học tập tiếp theo, không rèn luyện khả năng thực hành cho người học ngay từ đầu.

Theo tôi, phải chăng nên chọn các văn bản tiếng Hán cổ ở giai đoạn sau này, vì sự xuất hiện các công cụ ngữ pháp theo nhu cầu cấp độ hóa chính xác hóa cách diễn đạt tư tưởng cao hơn, phong phú hơn các giải đoạn trước.

4. Giáo trình (tập I) này có liên quan đến quan niệm dạy chữ Nôm trước, chữ Hán sau của Lê Văn. ở đây tôi không bàn về việc dạy trước hay dạy sau chữ Nôm hoặc chữ Hán, mà muốn nói rằng tác giả mâu thuẫn trong quan niệm của mình. Khi phản bác ý kiến cho rằng chữ Hán cần học trước thì Lê Văn cho rằng: “nếu chữ Nôm khó hơn chữ Hán thì chữ Nôm không thể tồn tại được. Bởi vì chữ Nôm chưa phải là loại văn tự chính thức của Nhà nước, nhưng nó vẫn lưu truyền trong dân gian và làm nổi danh các tác phẩm Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên… Hơn nữa nếu chữ Nôm khó hơn chữ Hán thì ông cha ta dùng luôn chữ Hán không cần phải sáng tạo chữ Nôm”. ở chỗ khác, tác giả viết: “Học Nôm từ đầu, có thể kết hợp vừa phân tích kết cấu chữ Nôm, vừa tập viết chữ Hán. Bởi vì chữ Nôm cấu tạo bằng chất liệu chữ Hán cho nên ít nhiều nó cũng có những đặc điểm của kết cấu chữ Hán. Do đó, khi dạy Hán văn, ta bỏ giờ tập viết chữ Hán”. Những lí do của tác giả đưa ra trên đây để chứng minh cho sự xuất hiện và tồn tại chữ Nôm là không đúng, cho chữ Nôm dễ hơn chữ Hán lại không chính xác. Học chữ Nôm để học chữ Hán là trồng cây lộn ngược, là bỏ qua một nền tảng vững chãi của mối liên hệ phát triển, sáng tạo độc đáo của chữ Nôm. Vả lại, việc dạy và học chữ Nôm không phải là việc học chữ viết mà là học một nền văn hiến viết bằng chữ Nôm. Nền văn hiến này có mối quan hệ với nền văn hóa Hán học Cổ đại.

Tác giả có một quan niệm đúng về những yêu cầu đối với một người giảng dạy chữ Nôm. Ngoài cái yêu cầu “hiểu biết về những quan điểm Mác-xít, về đường lối của Đảng ta về văn hóa” không dính dáng trực tiếp đến dạy chữ Nôm, còn các yêu cầu khác là quan trọng và thiết thực. Trong đó yêu cầu “cần phải có tri thức tối thiểu về ngôn ngữ học” là một quan niệm mới mẻ. Nhưng vấn đề ứng dụng những kiến thức, các thao tác ngôn ngữ học hiện đại và Việt ngữ học hiện đại vào biên soạn, giảng dạy chữ Nôm như thế nào cho có hiệu quả là rất khó. Chẳng hạn, việc biên soạn sách giáo khoa tiếng Hán cổ đại (tập I) của Giáo sư Lê Văn Quán chưa thể hiện các nguyên tắc ngôn ngữ học và những thành tựu mới của nền Hán học hiện đại của Trung Quốc. Thế hệ các nhà Hán Nôm của chúng ta hiện nay trong đó có giáo sư Lê Văn Quán mạnh là ở chỗ được trang bị tốt về ngôn ngữ học hiện đại. Nhưng thể nghiệm trong thực hành là cả một quy trình công nghệ không mấy dễ dàng. Nhưng dẫu sao sách giáo khoa này của Giáo sư Lê Văn Quán là một cố gắng bước đầu về sự thể nghiệm đó và có ích cho việc học tập Hán Nôm hiện nay. Hy vọng tác giả rút kinh nghiệm để cho các tập tiếp theo tốt hơn, hiệu quả hơn. Tôi mong rằng Giáo sư Lê Văn Quán và Lê Văn xem các ý kiến trong bài này là những ý kiến có thể có chỗ còn thiển cận của một bạn đọc yêu mến, ngưỡng mộ ngành Hán Nôm của chúng ta.

CHÚ THÍCH

(1) Trường Đại học Sư phạm Thiểm Tây: Thường dụng văn ngôn hư từ từ điển, Nxb. Thiểm Tây, in lần thứ 2, 1984.

TB

NÊN CHỌN TÁC PHẨM NÀO LÀ SỚM NHẤT CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

BÙI DUY TÂN

Văn nghệ số 6-6/2/93 đăng toàn văn, bản phiên âm, dịch nghĩa bài phú Bạch vân chiếu xuân hải (Mây trắng rọi biển xuân) với nhan đề: Tác phẩm văn học Việt Nam sớm nhất đến nay còn truyền. Phan Văn Các vừa giới thiệu tác gia, tác phẩm, vừa phiên âm, phiên dịch khá công phu. Bài viết này muốn giải áo nhan đề trên đây, và nhân thể xin bàn thêm, nên coi tác phẩm nào, xứng đáng là sáng tác sớm nhất của văn học cổ dân tộc.

* - Có nên coi Bạch Vân chiếu xuân hải là tác phẩm văn học sớm nhất ?

Từ khá lâu, cuộc đời và sự nghiệp của Khương Công Phụ và bài Bạch Vân chiếu xuân hải, đã được hầu hết các tập sách cổ sử, cổ văn đề cập tới. Các bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục viết về Khương Công Phụ khá kỹ. Loại sách ký, lục, tùy bút… cũng có chỗ ghi chép chẳng hạn Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết về nhân vật này đến vài chỗ, lệ như: “Khương Công Phụ làm quan nhà Đường, thi đỗ chế khoa, thơ văn không thấy truyền lại, chỉ có bài phú Bạch vân chiếu xuân hải, thấy chép trong Uyên giám thì lời văn cũng đẹp đẽ”. Thời Pháp thuộc, một vài tập văn học sử cũng có đề cập tới Khương và bài phú, Nguyễn Đổng Chi trong mục: Việc du học ngoại quốc, sách Việt Nam cổ văn học sử (Hàn Thuyên xuất bản năm 1942) dịch toàn văn bài phú. Đến thời nay, đáng ghi nhận là bài Một số tác phẩm mới phát hiện có liên quan đến dòng văn học viết bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc thuộc của Trần Nghĩa (Tạp chí Văn học số 4-1975), đã giới thiệu nhiều tác phẩm: thơ, phú, thư, luận, chế sách…, trong đó có tác phẩm xuất hiện trước Bạch vân chiếu xuân hải. Chẳng hạn chùm thơ trao đổi giữa hai cao tăng Thích Đạo Cao, Thích Pháp Minh ở Giao Châu và sứ quân Lý Diệu của Bắc triều, giữa thế kỷ thứ V. Bạch vân chiếu xuân hải không là sớm nhất, mà cũng khó có thể xem là tác phẩm đích thực của người Việt, viết về đất nước Việt. Bấy giờ Khương Công Phụ là người Giao Châu, một quận thuộc “Đường quốc” làm quan ở “Đường triều”, và sinh sống trên “Đường địa”. Bài phú không có một chi tiết cụ thể nào về trời biển Giao Châu.

Cũng có thể coi nó như loại tác phẩm ở hải ngoại của người Việt, thời cận hiện đại, viết về cuộc sống con người, đất nước Việt, một quốc gia và một nền văn hóa đích thực.

Người xưa biết bài phú này, nhưng nó không hề có chỗ đứng trong một tuyển tập nào về thơ, phú. Nó cũng chưa được, dẫu chỉ một lần, và chỉ một phần hiện diện, trên các loại thư tịch cổ của ta. Có lẽ, người xưa và người nay đều có cái nhìn như của cố Giáo sư Đặng Thai Mai, rằng ở thời Bắc thuộc “số người Việt giỏi văn chương chữ Hán cũng có thể đếm trên năm đầu ngón tay… văn chương chữ nghĩa của họ cũng không có gì đặc sắc, cho nên đã chết theo họ từ lâu”. (Nghiên cứu Văn học số 7-1961- Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc). Văn học viết thời trung đại của nước Việt chỉ thực sự hình thành từ thế kỷ thứ X, khi những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của dòng văn học này: trí thức, chữ viết, thể loại, nhu cầu xã hội… đã chín muồi. Bạch vân chiếu xuân hải không phải là tác phẩm văn học Việt Nam sớm nhất, vì nhiều lẽ như đã nói trên. Vậy thì, nên lấy tác phẩm nào ? Tốt hơn hết là ta tìm đến tác phẩm xuất hiện đầu tiên khi đã có dòng văn học viết trong bối cảnh của một đất nước tự chủ, độc lập.

*. Hay lấy “Tuyên bố của Ngô Quyền ? Thơ văn Lý Trần - Tập 1 của Viện Văn học (Nxb. KHXH, H. 1977) lấy lời bàn của Ngô Quyền về mưu kế đánh giặc, được sử gia ghi lại, làm tác phẩm sớm nhất với tên đặt: Dự đại phá Hoằng Thao chi kế (Bày kế hoạch đánh tan quân Hoằng Thao). Tuyển tác phẩm văn học 10. T.1, Nxb.GD.1990, bản dùng ở miền Nam, cũng tuyển đoạn ngữ lục này, đặt ở trang đầu của Văn học Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, với đầu đề: Tuyên bố của Ngô Quyền, mặc nhiên coi đây là tác phẩm sớm nhất. Những người tuyển chọn đưa ra hai lý do: một là nó cho ta hiểu thêm tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của nhân dân ta, dân tộc ta, hai là nó là câu nói nổi tiếng, thể hiện thái độ bình tĩnh, đầy tự tin của vị tướng lĩnh, xứng đáng là bài văn mở đầu… Thực ra, đoạn ngữ lục trên chữ có được tiêu chí tối thiểu của một tác phẩm văn học viết. Nó chỉ là lời nói, được người làm sử thời sau ghi chép, không phải thành văn do thủ bút của tác giả, không có tính chất văn bản. Tóm lại: Không nên coi Tuyên bố của Ngô Quyền là tác phẩm văn học đầu tiên, vì nó không phải là tác phẩm văn học theo cái nghĩa cần có của từ này dầu là theo quan niệm về phạm vi văn học thời xưa. Và, điều đó không hề ảnh hưởng tí nào đến thái độ trân trọng của chúng ta đối với người anh hùng khai quốc Ngô Quyền.

* Hoặc Nam quốc sơn hà, nhưng tác giả là ai ?

Theo điều tra văn bản rất công phu của Trần Nghĩa (Tạp chí Hán Nôm 1 - 1986 - “Thử xác lập văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà”), hiện có khoảng 24 đến 26 văn bản bài thơ mà thời chúng ta đặt cho nó cái tên Nam quốc sơn hà. Trong đó, không có văn bản nào viết: Lý Thường Kiệt là tác giả đích thực của bài thơ. Bài thơ là của thần, thần Sông Như Nguyệt. Trương Hống và em là Trương Hát. Còn Lý Thường Kiệt là tác giả chỉ là sự đoán theo tương truyền. Trên lĩnh vực sử học, GS. Hà Văn Tấn từng khẳng định: “không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt” (Lịch sử, sự thật và sử học. Tổ Quốc 401- 1.88). Về xuất xứ, Trương tôn thần sự tích nói thần đọc thơ hai lần, lần một giúp Lê Hoàn, lần hai giúp Lý Thường Kiệt. Nhiều văn bản khác thì ghi thần đọc hai lần khác nhau. Lần một: thần đọc âm phù Lê Hoàn đánh Tống năm 981. Truyện hải vệ thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt ở sách Lĩnh Nam chích quái: “…Canh ba đêm ba mươi tháng mười , trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc lỗ lai xâm lược,
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.


(Núi sông nước Nam vua nước Nam ngự trị,
Điều ấy được Trời định rõ ở sách trời .
Tại sao giặc Bắc còn sang xâm lược,
Sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre.)

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau, ai lo chạy thoát thân người ấy, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống đại bại mà về. Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng quân thần, truy phong cho hai vị thần nhân, phụng thờ, hưởng huyết thực đời đời”.(1)

Lần hai: bài thơ cũng do Trương Hống, Trương Hát đọc, nhưng lại âm phù cho Lý Thường Kiệt đánh Tống năm 1076. Xin trích một đoạn trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Bính Thìn (1076), nhà Tống đem quân sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh. Đến sông Như Nguyệt đánh tan địch… (Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng ngâm to rằng:

Nam quốc sơn Hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


(Sông núi nước Nam hoàng đế nước Nam ở,
Ranh giới đã phân định rạch ròi ở sách trời.
Sao quân giặc kia dám đến xâm phạm,
Bọn bay cứ thử xem, sẽ chuốc lấy bại vong.)

Sau đó quả nhiên như thế(2).

Từ lâu, nhiều học giả, vì những lý lẽ khác nhau, vẫn coi Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Bây giờ nên để khuyết danh. Hơn nữa, bài thơ này nằm trong một huyền thoại. Nó do trí thức viết ra, lưu truyền được sửa chữa, hoàn thiện nhưng vẫn còn hàng chục dị bản. Thời này cũng còn một số những tác phẩm có tính chất như thế. Bài thơ xưa Lý Phục Man (Việt điện u linh) bài thơ trong Ngọc phả đền Đào Xá(3) hoặc rất nhiều thơ sấm truyền khẩu v.v.. Những tác phẩm này thường có tính chất huyền thoại (mythique) và tính dân gian (follonque). Chúng chưa hẳn là tác phẩm văn học viết theo nghĩa hoàn chỉnh của nó. Cho nên tốt nhất là nên lấy Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận làm tác phẩm sớm nhất. Quốc Tộ (Vận nước) viết khoảng năm 981-982. Đây là sáng tác đích thực của Đỗ Pháp Thuận (915-990), nhằm trả lời Lê Hoàn hỏi về vận nước:

Quốc Tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đạo binh.

Dịch thơ:

Vận nước như mây quấn,
Trời Nam liệu thái bình.
Đức độ trên điện gác,
Khắp chốn hết đao binh.

Đi tìm tác phẩm ban đầu, mà phải dài dòng thế này ! Âu cũng là hy vọng tránh được chủ quan, khiên cưỡng.

CHÚ THÍCH

(1) Lĩnh Nam chích quái: Bd. Nxb. Văn hóa, H. 1960.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư: Bd. Tập I. Nxb. KHXH, H. 1993.

(3) Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự, Nxb. KHXH, H. 1971./.

TB

NHÂN ĐỌC CUỐN
"TỪ VÀ NGỮ HÁN - VIỆT"

NGUYỄN CẢNH PHỨC

Cuốn “Từ và ngữ Hán - Việt” của Nguyễn Văn Bảo được Nhà xuất bản Văn học in vào cuối năm 1992, là một công trình có giá trị. Tác giả đã dày công tra cứu, suy nghĩ để giải thích các từ ngữ Hán - Việt trong các sách giáo khoa môn văn cấp II và cấp III để giúp các em học sinh và các bạn đồng nghiệp tra cứu mỗi khi gặp những từ ngữ khó hiểu. Bằng phương pháp giải nghĩa từ ngữ trên cơ sở giải nghĩa các từ tố, tác giả đã giúp người đọc không những hiểu được ý nghĩa của từ ngữ Hán Việt, mà còn hiểu được vì sao lại có nghĩa như thế. Nguyễn Văn Bảo là một nhà giáo đã từng dạy bổ túc văn hóa cho thanh niên xung phong ở rừng Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, đã chịu khó tìm tòi như thế nên sách của ông lại càng đáng quý, đáng trân trọng. Tuy vậy, chúng tôi vẫn thấy có một số chỗ còn chưa thỏa đáng nên viết bài này để trao đổi với tác giả và đông đảo độc giả.

Trước hết, chúng tôi thấy rằng có một số từ không phải là từ Hán - Việt mà tác giả vẫn giải thích. Ví dụ: Ngài (trang 123), nao núng (trang 123), giáp lá cà (trang 75), cù bơ cù bất (trang 45), bất thình lình (trang 17), khuôn khổ (trang 103) v.v. Trong toàn bộ cuốn sách, loại từ thuần Việt này vào sẽ tạo ra sự không ăn khớp giữa tên gọi và nội dung của cuốn sách. Điều thứ hai là có nhiều từ giải thích chưa chính xác. Sau đây chúng tôi sẽ phân thành 6 loại để góp ý kiến:

1/ Giải thích làm chệch từ loại vốn có của từ và ngữ. Ví dụ: “Bất lương: bất: không; lương: tốt lành - Kẻ không có lòng tốt” (trang 16). Đáng lẽ nên sửa lại là: bất: không; lương: tốt - Bất lương: không tốt tức là xấu xa - Bất lương là một tính từ - “Kẻ không có lòng tốt” là một cụm danh từ.

“Mưu phạt tâm công: mưu: kế hoạch, phạt: đánh, tâm: lòng, công: đánh - Kế hoạch đánh vào lòng người. Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công (Bình Ngô đại cáo - 9) (trang 121). Thực ra “mưu phạt tâm công” là đánh bằng mưu và đánh bằng tâm lý. Đây là hai ngữ động từ đẳng lập. “Kế hoạch đánh vào lòng người” là một ngữ danh từ.

Cách diễn đạt lệch như thế này làm cho người đọc khó lĩnh hội. Loại này có khoảng 20 trường hợp.

2/ Giải nghĩa các từ tố chưa chính xác. Ví dụ: “Cộng hòa: cộng: chung vào; hòa: cùng với nhau - Chính thể trong đó chủ quyền không thuộc về vua chúa mà thuộc về nhân dân” (trang 44). Thực ra không phải như vậy. Theo từ điển Từ hải của Trung Quốc thì Cộng Hòa là tên một ông quan thời Chu Lệ Vương. Chu Lệ Vương vô cùng tàn bạo, độc ác. Nhân dân Trung Quốc nổi dậy khởi nghĩa tiến ồ ạt vào cung điện định giết vua. Sợ quá, Chu Lệ Vương phải chạy trốn, không dám trở về Kinh đô nữa. Sau đó một thời gian, các quan trong triều họp nhau lại để bầu ông Cộng Bá Hòa - một người có tài có đức hơn cả lên để điều khiển bộ máy Nhà nước từ năm 841 đến năm 827 trước Công nguyên. Trong thời gian 14 năm đó, ở Trung Quốc không có vua. Ông Cộng Bá Hòa thi hành nhiều chính sách dân chủ, giảm bớt thuế khóa nên đời sống của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ dễ chịu hơn trước nhiều. Sau khi ông Cộng Bá Hòa qua đời, Trung Quốc lại bước vào chế độ phong kiến. Sau này, người ta dùng từ Cộng Hòa (tên rút gọn của ông Cộng Bá Hòa) để chỉ một loại chế độ xã hội có 2 đặc điểm:

a/ Không có vua (giống như thời kỳ ông Cộng Bá Hòa nắm quyền điều khiển bộ máy nhà nước).

b/ Các cơ quan hay chức vụ quan trọng như Quốc hội, Chính phủ, Tổng thống, Chủ tịch nước đều do tập thể bầu ra (giống như các quan đã bầu ông Cộng Bá Hòa vào năm 841 trước Công nguyên vậy).

Loại giải thích các từ tố chưa chính xác này khá nhiều, có thể nói trang nào cũng có. Ví dụ: “Do dự: do: cũng còn; dự: tham gia. Còn trù trừ, chưa dứt khoát” (trang 51). Thực ra không phải như vậy. Theo từ điển Từ hải thì “do dự” là tên một loài vật mà khả năng tự vệ rất kém. Vì thế, sống ở trong rừng,, mỗi khi nghe tiếng động, nó liền vội vàng trèo lên cây để trốn. Chờ cho tiếng động im ắng hẳn, nó mới dám tụt xuống. Tụt xuống rồi nhưng nó vẫn cứ nơm nớp lo sợ nên lại trèo lên để trốn. Nó cứ trèo lên tụt xuống như vậy rất nhiều lần. Vì vậy, “do dự” từ danh từ chuyển sang tính từ để chỉ tính chất chần chừ, không dứt khoát, không quyết đoán trong hành động hay suy nghĩ của một số người nào đó.

Hoặc như “Gián điệp: gián: chia ngăn, điệp: dò xét. Người do đối phương tung vào để dò xét tình hình, thu thập bí mật và hoạt động phá hoại” (trang 72). Thực ra không phải như vậy. Theo từ điển Từ hải thì: gián: khe hở, sơ hở; điệp: điều tra tin tức. Gián điệp: điều tra tin tức nhận sơ hở của đối phương.

“Trữ tình: trữ: chứa, tình: tình cảm (trang 230). Giải nghĩa như vậy dễ làm cho người đọc hiểu nhầm rằng trữ tình là chất chứa tình cảm. Đáng lẽ nên giải nghĩa như sau: trữ: bộc lộ ra, biểu hiện ra; tình: tình cảm. Trữ tình: biểu hiện tình cảm.

3/ Giải thích có tính chất vũ đoán, không có lý. Ví dụ: “Giáp lá cà: giáp: sát nhau; lá: lá cây; cà: tên cây cà. Hai bên tiến lại sát vào nhau như khoảng cách của các lá cây cà mà đánh nhau trực tiếp (trang 75). Như vậy, tác giả chưa giải thích được vì sao lại nói giáp lá cà mà không nói giáp lá cải, giáp lá mít, hay giáp bất cứ một loại lá cây nào khác. Do vậy, độc giả không thể chấp nhận được. May sao loại sai sót như thế này không nhiều lắm.

4/ Giải nghĩa các từ tố nhưng không tổng hợp các nghĩa đó lại mà lại bỏ rơi hẳn, làm cho độc giả khó hiểu. Ví dụ: “Tiểu thuyết (tiểu: nhỏ; thuyết: nói) - Truyện dài bằng văn xuôi có dung lượng lớn. Trong đó nhà văn xây dựng nên một câu chuyện có tình tiết, có mạch lạc, theo phương pháp nghệ thuật” (trang 218). Hoặc như: “Tiêu cực (tiêu: mất đi; cực: cuối cùng) - Không lành mạnh, không có tác dụng đối với quá trình phát triển của xã hội (trang 217). Theo chúng tôi, những từ như trên rất khó giải nghĩa các từ tố. Nếu giải nghĩa rồi mà không khái quát lại thì chẳng những không có ích mà còn có hại. Bởi vì như thế sẽ làm cho độc giả thêm hoang mang, thêm băn khoăn mà thôi.

5/ Không giải thích mối liên hệ giữa nghĩa gốc và nghĩa phái sinh. Ví dụ: “Hồng quần (hồng: màu đỏ, quần: cái quần) - Phụ nữ” (trang 91). Giải thích như thế làm cho người đọc không hiểu được vì sao từ “màu đỏ” và “cái quần” lại chuyển thành nghĩa “phụ nữ”. Đáng lẽ nên giải thích như sau: hồng: màu đỏ; quần: cái quần. Hồng quần: cái quần màu đỏ. Ngày xưa ở Trung Quốc, phụ nữ hay mặc quần đỏ. Vì thế “hồng quần” có nghĩa là phụ nữ.

Hoặc như “Hồng quân: hồng: lớn; quân: cái bàn xoay làm đồ gốm. Đất trời, tạo hóa” (trang 91). Đáng lẽ nên giải thích như sau: Hồng: to; quân: cái bàn xoay làm đồ gốm. Người xưa quan niệm rằng ông trời dùng chiếc bàn xoay lớn của mình để nhào nặn, tạo ra mọi vật trên thế gian này, giống như người thợ gốm dùng chiếc bàn xoay để nhào nặn ra nồi niêu và các thứ đồ dùng khác. Vì thế người ta dùng từ “hồng quân” để chỉ tạo hóa, ông trời…

6/ Giải nghĩa các từ tố thì đúng nhưng giải nghĩa của từ thì sai. Ví dụ:

“Hôn phu: hôn: lấy vợ; phu: người chồng. Người chồng chưa cưới”. Anh chàng vị hôn phu của Tuyết (Hạnh phúc của một tang gia …11) (trang 90). Trong tiếng Hán và tiếng Việt ta, không có từ “hôn phu” mà chỉ có từ “vị hôn phu”. Đáng lẽ nên giải thích như sau: vị: chưa; hôn: kết hôn, cưới; phu: người chồng. Vị hôn phu: người chồng chưa cưới tức là người yêu vô cùng gắn bó, đáng tin cậy, chỉ chờ cưới nữa mà thôi. Tác giả hiểu nhầm từ tố “vị” trong “vị hôn phu” là loại từ biểu thị tôn kính như ta thường nói Bác Hồ là vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta.

Hoặc như: “Hôn thê: hôn: lấy vợ; thê: vợ. Người vợ”. Ngài vẫn tuyên bố rằng nàng là vị hôn thê của Ngài. (Bầy chim thiên nga - 7) (trang 90). Trong tiếng Hán và tiếng Việt ta, không có từ “hôn thê” mà chỉ có từ “vị hôn thê”. Đáng lẽ nên giải nghĩa như sau: vị: chưa; hôn: kết hôn, cưới; thê: người vợ. Vị hôn thê: người vợ chưa cưới tức là người yêu vô cùng tha thiết, gắn bó, đáng tin cậy, chỉ chờ ngày cưới là thành vợ chính thức. Tác giả cũng hiểu nhầm từ tố “vị” là loại từ biểu thị tôn kính như trường hợp trên.

Tuy vẫn còn một số sai sót như chúng tôi vừa phân tích trên đây nhưng quyển sách này vẫn cần thiết cho các em học sinh cấp II, cấp III và anh chị em giáo viên văn ở các phường phổ thông./.

TB

GÓP MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỐI VỚI BẢN TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT DO E.GASPARDONE TÁI LẬP

TRẦN XUÂN NGỌC LAN

Bản từ vựng đối chiếu Hán - Việt do người Trung Quốc đời Minh biên soạn (theo H.Maspéro và một số tác giả khác) có tên gọi là An Nam dịch ngữ hay Hoa Di dịch ngữ đến nay, phần tiếng Việt đã có ba tác giả nước ngoài tái lập: Kondo Morosighe, E.Gaspardone và Trần Kinh Hòa(2).

Kết quả tái lập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc qui nạp hệ thống âm vị tiếng Việt đương thời và những vấn đề ngữ âm lịch sử cụ thể của tiếng Việt. Những công trình tái lập trên đây là những đóng góp bước đầu rất cơ bản, rất quan trọng, tuy nhiên không thể tránh khỏi những sai lầm. Vì vậy việc tiếp tục kiểm tra lại những kết quả tái lập của các tác giả trước, góp phần làm cho phần tiếng Việt của bản dịch ngữ sát đúng hơn là rất cần thiết cho một bản tái lập mới. Đó cũng chính là một sự tiếp tục khai thác và sử dụng tốt hơn, có hiệu quả hơn những tư liệu cổ quí hiếm của người xưa để lại. Trong ý nghĩa như vậy, chúng tôi trước tiên muốn kiểm tra lại bản từ tái lập của E.Gaspardone. Trong bản này, chúng tôi thấy nhiều từ, tác giả chỉ dùng ngay âm Hán Việt của mục từ, chứ không dựa trên âm thanh của chữ Hán mà người xưa dùng để ghi âm Hán Việt, qua đó khôi phục từ Việt tương đương. Ví dụ:

春 夏 (134) tái lập Xuân Hạ

秋 冬 (135) tái lập Thu Đông

栗 子 (218) tái lập Lật Tử

生 薑 (221) tái lập Sinh Khương

籮 蔔 (242) tái lập La Bắc

春 夏 Người xưa dùng 2 chữ vuông Hán 中 嫁 để ghi âm từ Việt tương đương. Hai chữ này thời Nguyên Minh theo chú âm của Lưu Đức Chí là [ʧíuŋ âm bình, ka (kia) khứ thanh](3). [ka] có thể tái lập thành từ hạ của tiếng Việt, nhưng [ʧiuŋ] thì không thể tái lập thành xuân được. Xét về cơ sở ngữ âm và nghĩa, [ʧíuŋ] nên tái lập là trọng, tức trọng hạ. Trọng hạ là một trong tứ trọng: trọng xuân, trọng hạ, trọng thu, trọng đông. Đó là tên gọi bốn tháng giữa của bốn mùa trong một năm.

Cùng một lý do như trên, chúng tôi thấy 秋 冬 với sự ghi âm từ tương đương Việt là [ʧíuŋ âm bình, ʧú âm bình] cũng nên tái lập là trọng thu.

栗 子 Người xưa dùng hai chữ vuông Hán 賴 字 để ghi âm từ Việt tương đương. Âm Hán Việt của chữ 賴 là Lại. Âm Hán là [Lai dương bình](4) , và cũng là [Lai] trong tiếng Hán trung cổ vì thuộc thanh mẫu Lai, khai khẩu, vận Thái, nhiếp Giải(5) . Như vậy cả âm Hán Việt lẫn âm Hán đều không thể làm cho việc tái lập một âm tiết có vần cuối tắt như từ Lật mà chỉ có thể tái lập âm tiết nửa mở như từ trái: sự tái lập này phù hợp với cách ghi âm của chữ Nôm trong những trường hợp như 連 [liên] ® trên, 勒 [lặc] ® trước. Và đặc biệt hoàn toàn trùng hợp trong trường hợp 賴 [lại] ® trái. Ví dụ:

Co que thay bấy ruột ốc,

Khúc khuỷu làm chi trái ( 迀) hòe.

(QÂTT, Trần tình 8)

Thạch lựu thừa lựu càng ngon,

Hoa đỏ trái (賴) tròn rễ thuốc tiểu nhi.

(CNNÂ, Mộc loại 35)

Sơn thù du trái (賴), lờm cơm xanh lè lè.

(CNNÂ, Nam dược loại 40)

Chữ 字 thì có thể tái lập cách đọc tử. Vậy theo chúng tôi âm đọc của từ Việt tương đương nên tái lập là trái tử.

生 薑 Người xưa dùng 2 chữ Hán 共 僧 để ghi âm từ Việt tương đương. Tác giả tái lập từ sinh khương. Đây chỉ là cách đọc Hán Việt của 2 chữ Hán, 生 薑 không phải cách đọc Hán Việt của 共 僧, cũng không phải cách đọc từ tương đương Việt được ghi âm bằng hai chữ vuông này. Theo chúng tôi 共 僧 ghi âm từ gừng sống.

Gừng được ghi âm bằng chữ 共 có âm trị [kuŋ khứ thanh](6). Về phụ âm đầu, chúng ta thấy người xưa dùng âm gốc lưỡi, vô thanh Hán để ghi âm gốc lưỡi hữu thanh Việt bởi vì tiếng Hán cận đại đã hoàn toàn mất nét khu biệt vô thanh và hữu thanh. Trong hệ thống phụ âm đầu chỉ còn ghi các âm vô thanh, do đó một người Trung Quốc đời Minh dùng âm vô thanh [k] để ghi âm 1 phụ âm hữu thanh [ ɣ] Việt là điều cho phép. Còn về vần, [шŋ] ghi âm [uŋ] cũng có thể giải thích bằng lý do như trên, hoặc có thể phân tích mặt ngữ âm như sau: [uŋ] thuộc vận Đông 東 của tiếng Hán cận đại vốn có nguồn gốc từ Đông tam đẳng của tiếng Hán trung đại. Như vậy chỉ cần âm cuối mất tính chất tròn môi [uŋ] chuyển thành [-ŋ] thì [шuŋ] ® [шŋ], chúng ta có 1 vần mẫu hoàn toàn đồng âm với từ được ghi âm. Cũng chính ở lý do này mà nhiều từ Hán thuộc vận bộ Đông đã trở thành từ Hán Việt có vần ưng(7) . Sống được ghi âm bằng từ có âm trị [s âm bình]. Từ sống, theo H.Maspéro được ghi âm bằng chữ (cheng) trong An nam dịch ngữ(8). Điều đó không đúng. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua sự ghi âm 2 mục từ khác trong tác phẩm này:

- Mục từ số 484 生 ghi âm từ Việt tương đương bằng chữ 僧

Mục từ số 599 生 肉 ghi âm từ Việt tương đương bằng hai chữ 僧 席 .

Hai mục từ dẫn trên cho thấy sống được ghi âm bằng chữ 僧. Vấn đề là, vì sao vào đời Minh, tiếng Hán có sự phân biệt giữa âm xát uốn lưỡi [º](9) và xát không uốn lưỡi [s] mà người ghi âm lại lẫn lộn [º] và [s] Việt (nên mới ghi [ºoŋ] thành [º∂ŋ]. Điều này có thể giải thích bằng đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt. Ai cũng nhận thấy tiếng Việt hiện đại, ngay cả các phương ngữ đã giữ 2 âm xát [º] và [s] cũng đang xảy ra bước chuyển từ [º] ® [s]. Phương ngữ Bắc Bộ hầu như đã chuyển hẳn sang [s]. Hiện tượng chuyển biến này theo H.Maspéro đã xảy ra từ những thế kỷ trước. Điều đó có nghĩa là người Việt đương thời không phân biệt 2 phụ âm này và có thể [s] là hình thức được sử dụng nhiều hơn, phổ thông hơn. Chính điều này đã đưa đến sự ghi âm [ºoŋ] thành [º∂ŋ] trên đây của người đời Minh.

蘿 蔔 Người xưa dùng hai chữ Hán 六 布 để ghi âm từ Việt tương đương. Và tác giả tái lập La bắc 蘿 蔔 là tên một loại rau cải, có cách đọc Hán Việt là La bặc. Nó còn có tên khác là 蘆 菔 lô bặc, 箂 菔 lại bặc hoặc 胡 蘆 巴 hồ lô ba. Hồ lô ba được từ điển Chỉ nam ngọc âm cho từ tương đương Nôm là 路 布. Chúng tôi phiên âm là lú bú:

Hội cải lú bú 路 布 hiệu là hồ lô ba thuở này.

(CNNÂ, Bộ Nam dược)

Chúng ta thấy chữ Nôm ghi bằng lộ bố, người Hán đời Minh ghi bằng lục bố. Hai cách ghi âm khác nhau ở chữ đầu: lục lộ. Lục thuộc vần khép, lộ vần mở. Như vậy thì dường như lục không ghi âm được lú. Nhưng đó chỉ là cách đọc Hán Việt của lục. Còn âm trị của lục vào thời biên soạn sách là [Liou] cũng thuộc vần mở. Hơn nữa nguyên âm chính của [Liou] là [u]. Vậy dùng nó ghi âm lú là rất đúng. Chúng tôi thấy nên tái lập là lú bú.

Một kiểu sai khác trong bản tái lập của E.Gaspardone là tái lập sai từ, đưa ra một từ không có trong tiếng Việt. Xin nêu một vài ví dụ:

Mục từ 260 燕 tái lập từ Việt tương đương là rinh.

360 金侖 tái lập từ Việt tương đương là chìa

584 魚乍 tái lập từ Việt tương đương là chả.

542 紗 帽 tái lập từ Việt tương đương là mủ sưa.

燕 Người đời Minh dùng chữ vuông Hán 晴 có âm trị [ʧíŋ] để ghi âm từ Việt tương đương. E.Gaspardone tái lập từ rinh. Và chú thích “An. Yến et en”.

Về ngữ âm, rinh có thể được ghi âm bằng [ʧíŋ], nhưng từ rinh thì chưa được chứng minh là một từ có thực trong tiếng Việt với nghĩa là từ mà Đờ Rốt có ghi trong từ điển của mình: Xién, cái xién, thứ chim giống như chim én. Như vậy về nghĩa thì có thể tương đương. Nhưng về âm, còn phải xét thêm. Trước tiên chúng ta thấy xién ghi âm là [ʧíŋ] tương tự với trường hợp sau đây:

[ʧí∂ŋ] ® xin, âm Hán Việt Thỉnh

[ʧí∂ŋ] ® xanh, âm Hán Việt Thanh

[ʧí] ® xóc, âm Hán Việt Thích

[ʧíe] ® xắt, âm Hán Việt Thiết

Theo H. Maspéro thì sự kiện này là rất thú vị, hiếm có của việc vay mượn trực tiếp từ tiếng Hán nhưng đi qua giai đoạn trung gian Hán Việt, và do đó trước thế kỷ thứ X. Những chữ Nôm dùng để viết chúng:

xin âm trị [cin]; 木掌 xanh âm trị [can] chứng tỏ là vào khoảng thế kỷ XIII thủy âm (của các từ (xin, xanh)(10) là ố; Và hình như cách phát âm dân gian cổ đã dùng âm nửa tắc ngạc [ố] để diễn tả [ts’] mà không có chứ không phải dùng âm răng bật hơi mà cách phát âm sau này đã theo(11). Đoạn này có thể hình dung như sau để thấy rõ quá trình diễn ra sự biến đổi về ngữ âm từ Hán sang Việt.

Chúng ta lại cũng thấy những sự kiện sau đây trong tiếng Việt:

Chòm - xóm

Chen - xen

Chọc - xọc

Chéo - xéo

Chẻ - xẻ

Chỉ (chỉ chỏ) - xỉ (vào mặt)

Như vậy những sự kiện có nguồn gốc Hán cũng như thuần Việt đều chứng tỏ mối quan hệ giữa [s] (chữ viết X) với một phụ âm nửa tắc [ố]. Hay nói cách khác một bộ phận của [s] Việt hiện nay có thể có nguồn gốc từ một [ố] cổ. Và ta có thể hình dung một dạng cổ của xién là ốién. ốién - một âm tiết có phụ âm ngạc nửa tắc được ghi âm bằng [ʧíŋ] một âm tiết có phụ âm ngạc tắc - xát Hán là điều xảy ra trong trường hợp như các trường hợp đã dẫn trên đây khi trong hệ thống ngữ âm Hán không có phụ âm tương đương hoàn toàn với phụ âm trong tiếng Việt.

金侖 Người xưa dùng chữ 參 để ghi âm từ Việt tương đương. Tác giả tái lập từ chìa, trong khi phục nguyên cách đọc của 參 là [tśaŋ].

Chúng ta thấy từ âm tiết nửa khép [tśaŋ] không thể tái lập thành âm tiết mở chìa. Vả lại về nghĩa cũng không đúng. Chìa là dụng cụ để mở khóa, còn 金侖 là dụng cụ để đóng cửa lại, để chốt cửa lại: Từ nguyên giải thích: Quynh môn chi tỏa diệt xưng dược = cái cây gỗ chắn ngang trên cửa để khóa cửa lại gọi là dược. Khang Hy: Thuyết văn bản tác quan hạ mẫu dã = Thuyết văn vốn viết , là cái chốt cửa.

Vậy đây có thể là từ then (cửa). Then là một âm tiết có vần nửa khép, [tśaŋ] cũng vậy. Còn việc dùng phụ âm tắc xát ngạc Hán [tś-] để ghi phụ âm tắc Việt [t’-] là vì tiếng Hán không có phụ âm ngạc tắc như tiếng Việt. Cũng chính vì lý do thiếu các phụ âm tương ứng hoàn toàn mà khi ghi âm Hán, người Việt lại phải dùng phụ âm tắc để ghi phụ âm tắc xát Hán như chúng ta đã biết trong hệ thống Hán Việt (12).

魚乍 Người xưa dùng chữ vuông Hán 卓 để ghi âm từ Việt tương đương. Tác giả tái lập từ chả. Vì tác giả không chú thích nên chúng ta có thể hiểu đây là một món ăn dùng thịt hoặc cá… quết nhuyễn gói lại đem nấu hoặc chiên. Ví dụ: chả quế, chả lụa, chả cá… Song hiểu như vậy là sai hoàn toàn với nghĩa của chữ 魚乍 . Từ nguyên giải thích 魚乍 : Ngư chi tàng ninh dĩ vi thực phẩm giả. Như yêm ngư, tao ngư chi loại = Cất giữ cá để làm món ăn như cá ướp muối, cá ngâm rượu”.

Về âm, tác giả chỉ ghi lại âm Hán Việt của mục từ, chứ không khôi phục lại từ mà người xưa đã ghi âm bằng chữ vuông Hán 卓 . Chữ vuông Hán 卓 có âm trị là [tśaŋ thanh nhập tác thượng].

Theo thông lệ của tác phẩm này, thì [ʧ] Hán, ghi âm Ch Việt; chín ghi âm bằng [ʧí∂ŋ thượng thanh], chuông ghi âm bằng [ʧinŋ âm bình] chẳng ghi âm bằng [ʧiaŋ], chén ghi âm bằng [ʧam khứ thanh], chồng ghi âm bằng [ʧinŋ thượng thanh]; [- au] Hán, ghi âm ao Việt: áo ghi âm bằng [au âm bình], cháo ghi âm bằng [ʧau khứ thanh], gạo ghi âm bằng [kau thượng thanh]. Căn cứ vào hai điều trên, có thể tái lập 6 từ: chao, cháo, chào, chảo, chão, chạo. Trong 6 từ đó chỉ có Chạo là phù hợp nghĩa. Chạo được Đờ Rốt ghi lại và giải thích như sau: Chạo, đồ ăn mặn bằng cá ướp vừa phải. Rõ ràng từ Chạo vừa phù hợp về âm vừa sát đúng về nghĩa.

紗 帽 Người xưa ghi âm từ Việt tương đương bằng hai chữ vuông Hán. 謨 些 . Tác giả tái lập từ Việt là mũ sưa.

紗 帽 Từ Hải giải thích như sau: “Quý nhân chi phục, dụng vu triều kiến thời vi đa = phục sức của người cao sang, thường dùng vào lúc triều kiến”. Nghĩa này không phải nghĩa của từ mũ sưa. Và tự tái lập [sie] thành sưa cũng khó chấp nhận. Theo chúng tôi có thể đây là từ mũ the có trong từ điển Đờ Rốt: “Mũ the: mũ 6 góc, mũ lục lăng, các văn nhân và bậc quyền quí An Nam sử dụng”. Về mặt âm, âm trị của hai chữ 謨 些 là [mu dương bình, sie dương bình]. [mu, dương bình] dùng để ghi âm từ mũ, không có vấn đề gì phải bàn cãi. [sie dương bình] ghi âm từ the, cũng là điều phù hợp với ngữ âm lịch sử của tiếng Việt. Và điều này đã được H.Maspéro chứng minh và dẫn chứng trong trường hợp từ thịt ghi âm bằng 席 (13) với âm trị [si thanh nhập tác dương bình].

Sau đây chúng tôi dẫn thêm một số trường hợp E.Gasparode tái lập sai về âm và nghĩa nhưng không phân tích, vì tương đối dễ nhận thấy khi chúng ta đối chiếu với tiếng Việt. Sau này, nếu cần thiết, chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích sâu từng trường hợp.

Số thứ tự
từ mục
Âm trị của chữ
Hán ghi âm do
E. Gaspardone
đưa ra
Từ do
E. Gaspardone
đưa ra
Âm trị của chữ Hán ghi âm do chúng tôi đưa ra Từ do
chúng tôi
đề nghị
11 雨 下 麥 得 mỡtử mưa té mai nhập tác khứ
tei nhập tác thượng
mưa tới
191 藤 黨 tàng Đang taŋ thượng thanh (dây) thừng
226 綿 花 白 花 pai hoa bạch hoa pai nhập tác bình
xua nhập tác bình
hoa vải
274 鬃 中 tchong Trung ʧinŋ âm bình xong: xuôi xả
(tóc xong; tóc mượt).
285 牙 象 生 翁 威
sheng wong wei
ông voi sinh âm bình S∂ŋ
uŋ âm bình
uei âm bình
ông voi sừng
341 碗 半 pán bán hay ván pon khứ thanh bát
356 煎 告 káo cạo kau khứ thanh (cái) kéo
472 整 師 chè xếp Sợâm bình sửa
518 腿 肚 堆 朗
touei làng
Lòng đôi laŋ thượng thanh
tuei âm bình
lòng đùi
529 心 焦 朗 束
làng chou
sợ lòng Láŋ thượng thanh
ʧu nhập tác thượng
rầu lòng
537 襪 也 mie miệt ìe thượng thanh dớ (bít tất)
574 醬 將 tsiáng chấm tsiaŋ âm bình tướng
578 酸 多 touo dắng tuo âm bình chua
589 噙 欽 kín ngoạm K’i∂m âm bình ngậm
591 乘 成 tch’êng thừa ʧi∂ŋ dương bình (để) dành
616 饭 饱 干 那 kan nà no cành kan âm bình
na thượng thanh
cơm no
707 灣 翁 wong uốn vũng
716 匾 夹 kia giác ka (kia) nhập tác thượng dẹp

TB

TỪ CÂY "NHẤT CHI MAI" MÀ HIỂU RÕ MỘT CÂU THƠ ĐỜI LÝ

DIỆU HOÀ
HỮU NGỌC

Đầu tháng 5-1992, tôi về thăm lại thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Thị xã nằm trên bờ biển tận cùng phía nam, rất sầm uất: trên bến dưới thuyền, buôn bán nhộn nhịp và năng động không kém bất cứ thị xã nào ở tỉnh đồng bằng Nam Bộ. Vào cuối mùa khô, tôi tìm thấy những chốn u tịch để vãng cảnh và lấy lại sự bình thản trong tâm hồn giữa nơi phồn hoa đô hội này. Đạo hữu Diệu Hòa hướng dẫn tôi đi thăm nhiều ngôi mộ cổ. cảnh chùa Rạch Giá quả là rất đa dạng: nơi nào cũng có không gian trầm mặc, cây cao bóng cả, hoa cỏ tốt tươi vươn lên dưới ánh nắng chói chang của tiết chuyển mùa, do bàn tay săn sóc của vun tưới của nhà chùa. Tôi đặc biệt chú ý tới nhiều loại hoa, các bồn hoa đang trổ rộ, tỏa sắc ngát hương hòa quyện vào tiếng chuông ngân và lời tụng kinh niệm phật… Đạo hữu Diệu Hòa lần lượt giới thiệu các loại hoa và dừng lại khá lâu ở bồn lớn có khóm Nhất chi mai đang trổ bông. Lần đầu tiên tôi được ngắm nhìn khóm hoa lạ này. Hỏi kỹ người hướng dẫn, sau đó hỏi thêm Hòa thượng trụ trì chùa Phổ Minh thì tôi được biết rõ hơn: Nhất chi mai là cây có hoa chủ yếu được trồng giữa sân chùa, trước Phật đường, coi như một cây cảnh đẹp và quý. Nhiều sân chùa ỏ vùng Rạch Giá đều có bồn Nhất chi mai. Nhất chi mai có lá nhỏ và độ cao vừa phải (độ trên 1 mét), đặc biệt Nhất chi mai trổ hoa quanh năm. Phải chăng Nhất chi mai là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng trước cửa Phật vốn từ bi mà rất hồn nhiên ? Đang suy nghĩ miên man, tôi chợt tỉnh và trí nhớ dẫn tôi trở về với hai câu kết bài Cáo tật thị chúng (cáo bệnh bảo mọi người) của Mãn giác thiền sư (1052-1096):

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai:

Các bản dịch đều viết: Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua, sân trước một cành mai(1).

Tôi ngờ ngợ về lời dịch: “Nhất chi mai” là một cành mai. Lời dịch này rõ ràng chưa đúng bởi vì theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Hán: nếu muốn nói một bông hoa mai thì tiếng Hán diễn đạt “nhất mai hoa”(2) và muốn nói một cành mai thì tiếng Hán diễn đạt là “nhất mai chi”. Có người cho là dịch liều, dịch lấy được, nhưng chúng tôi thì nghĩ rằng: có lẽ do thiếu kiến thức, không biết Nhất chi mai là một cây hoa thường được trồng trước sân chùa. Có thể dịch câu cuối như thế này chăng: Đêm qua, sân trước nhất chi mai [đơm hoa] . Sở dĩ chúng tôi đưa vào vòng đơn “đơm hoa” bởi vì như trên đã nói: Nhất chi mai trổ hoa quanh năm. Trên đây là một vài thu hoạch mới của chúng tôi, mong nhận được sự chỉ giáo của các vị thức giả.

Tháng 5.1992

CHÚ THÍCH

(1) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 2; Tạp chí Văn học - Tháng 6/1974(150)

(2) Đôi câu đối của Cao Bá Quát “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (người dẫn nhấn mạnh). Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb. Văn học, H. 1970, tr.41.

TB

BA BÀI VĂN THƠ YÊU NƯỚC
ĐẦU THẾ KỶ XX

ĐINH XUÂN LÂM

Tiểu dẫn

Tác giả bài văn tế và hai bài thơ giới thiệu sau đây là Phạm Văn Thản, một chiến sĩ cách mạng hoạt động trong phong trào Nghệ - Tĩnh hồi đầu thế kỷ.

Ông Phạm Văn Thản (hiệu Hanh Cù) sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tham gia hoạt động cách mạng nên cũng bị bắt đày ra Côn Đảo sau Phạm Văn Ngôn là anh ruột ông ít lâu. Sau khi anh mất, ông bí mật chuẩn bị vượt ngục về đất liền tiếp tục hoạt động, nhưng không thành nên thắt cổ tự tử vào đêm 17 tháng năm 5 Đinh Tị (tức mồng 5-7-1917).

Bà vợ ông là Nguyễn Thị Thành theo chồng ra đảo, khi sinh con trai đặt tên là Bảo (nên thường gọi là bà Bảo). Khi chồng mất thì bồng con về quê; sau cháu mất năm lên 7 tuổi. Bà Bảo mất ngày 12-12-1973, thọ 88 tuổi.

Bài Văn tế Anh của Phạm Văn Thản trước đây đã được công bố, nhưng chưa thực sự hoàn chỉnh. Lần này chúng tôi công bố theo văn bản cụ Phạm ái (cháu gọi cụ Tú Ngôn là bác ruột) cung cấp năm 1974. Đồng thời chúng tôi cũng công bố hai bài thơ Phạm Văn Thản làm khi giã nhà ra đi hoạt động và khi ở đồn Bố Lự (1910), hai bài này trước đây còn ít người biết do chính cụ Nguyễn Thị Thành (vợ Phạm Văn Thản) cung cấp năm 1960.

I- Văn tế Anh(1)

Than rằng:

Nước La Giang(2) thoắt thoắt xuôi biển Đông, cuộc trần thế nổi chìm ngán nhẽ !

Mây Tùng lĩnh(3) tuôn tuôn qua cõi Bắc, kiếp phù sinh tan hợp mấy hồi !

Nhớ Anh xưa

Ngang tàng chí cả,

Trung hậu tính trời.

6.Án tuyết(4) ngoại mười năm, công cha dạy chuyên nghề cử tử(5);

Đường mây vừa một bước, ơn trời cho nên đấng tú tài(6).

Đau lòng bốn mươi triệu sinh linh(7), đương cơn lửa nóng nước sôi, thân nam tử (8) phải lo một phận;

Giận chí ba trăm năm miếu xã(9), gặp hội gió tanh mưa tả(10), trách(11), sĩ phu phải gánh một vai.

10. Chưng khi ấy:

Dọc ngang trời đất,

Gióng giả trong ngoài.

Phá sản nghiệp mở đường thương hội(12);

Xếp bút nghiên theo lối vũ đài(13).

Gõ mái chèo(14) thề rửa thẹn non sông(15) vẫy vùng bể Bắc trời Nam lòng khảng khái rạng soi trên nhật nguyệt(16).

Đề ngọn kiếm(17) gạt ngang cơn gió bụi, dong ruổi triều Âu sóng á(18), tài Kinh luân(19) chống chọi giữa vân lôi(20).

17. Những mong mở mặt với hoàn cầu, một phen ấy xoay tay độc lập.

Nào tưởng sa chân vào lưới Pháp, năm năm trời phải bước chông gai(21).

Mang mày râu(22) đứng giữa cõi đời, tuổi ba mươi năm lẻ(23);

Đem tính mạng thác ngoài bể thẳm, ngày mười sáu tháng hai(24).

21. Nòi giống vàng(25) sao tội với trời, con tạo đánh ghen chi lắm !(26)

Lòng son thắm(27) để vùi theo đất, đời người đến thế thì thôi !

Cảnh phù du(28) chen chúc giữa trần ai(29) đành hay sống gửi mà thác về,(30) cuộc Hán - Sở chẳng qua hai đống đất(31);

Loài cây cỏ còn sầu người man mác, huống những ruột đau vì máu chảy, nghĩa chân tay khôn nhẽ dứt tình người.

25. Thương là thương cái chí ưu cần, khi đi học, khi đi làm,

Cho đến lúc lỡ bước sẩy vời, mùi cay đắng đã từng lắm lúc;

Tiếc là tiếc cái công lo liệu, vì việc dân, vì việc nước, vả vì việc anh em thầy bạn, nợ tang bồng (32) chưa trả cho ai.

Trên nhà huyên tuổi hạc càng cao(33), tựa cửa lúc hôm mai(34) đà thảm thiết;

Đầu lầu ngạc tiếng linh kêu(35) thánh thót, đối sàng(36) khi mưa nắng chạnh bồi hồi.

29. Cõi Hồng Lam(37) một giải thành sầu, phong cảnh đó người đi đâu vắng;

Miền Côn Đảo ngàn trùng bể thẳm, nông nổi này ai lấp cho vơi ?

Nghĩ nên khóc mà cũng nên than, khôn xiết kể tình dài giấy vắn (ngắn);

Thôi khi thác cũng như khi sống, thấu cho chăng trên chín dưới mười(38).

Than ôi !

Thương thay !

II. Giã nhà đi hoạt động.

Trời Đông á(39), gió yên biển lặng,

Bức nam phong đằng đẵng tháng ngày.

Xôn xao một trận gió tây(40),

4 - Nước non ủ mặt, nước mây cau mày.

Ai ai cũng chân tay tai mắt,

Cũng đứng trong trời đất với người.

Sinh ra cái phận làm trai,

8- Bốn phương hồ thỉ(41), hai vai cương thường(42).

Lòng bối rối đôi đường nhà nước,

Dạ đinh ninh nỗi ước non sông.

Ra đi lòng những dặn lòng,

12- Bao giờ trống mở cờ giong mới về !

Ngoài dặm liễu(43) dầm dề sương tuyết,

Trong sâu Lai(44) nào biết nắng mưa.

Chút tình khi sớm khi trưa,

16- Ba xuân(45) báo đáp bây giờ công em.

Viện một bút gửi thăm thân thích,

Trăm lạy người miễn trách cho tôi.

Cách nhau mặt đất chân trời.

20- Bức thư trân trọng vài lời bình yên.

Này này kẻ bạn quen nghĩa cũ.

Xin yêu nhau, chớ phụ lời nhau.

Sương thu nắng hạ mặc dầu,

24- Bốn mùa tùng bách một màu xanh xanh.

Mang bên nách thời đành chữ nghĩa,

Đội trên đầu thời để chữ trung.

Tay tôi chép một chữ công,

28 - Dạ tôi ghi một chữ đồng chẳng sai.

Hội Âu - á (46) xôn xao mưa gió,

Vững chân trong đã có tay ngoài.

Gương Tàu(47) soi tỏ mặt người,

32- Lẽ nào vác mặt mà bôi lấm bùn.

Cầu Tư Mã (48) chưa mòn chữ mực,

Thuyền Châu lang còn đợi gió đông,

Sao cho đánh đổ (49) khóa đồng,

36 - Cho rung rinh đất, cho lung lay trời.

Giồng gấp lại có hồi nên biển,

Đất giồng cao có thể nên non.

Một mình một gánh càn khôn(50),

40- Lôi đình(51) muôn dặm, sắt son một lòng.

Anh em hỡi biết không, không biết,

Chắc chi chi đã quyết thì làm.

Ra tay kéo lại trời Nam,

44- Vừng đông há để yên đàn non tây(52).

Cuộc thế sự(53) mỗi ngày mỗi khác,

Tình hương quan(54) một bước một xa.

Nỗi này ai biết cho ta,

48- Kìa là nhật nguyệt, nọ là giang sơn.

III. Ở đồn Bố Lư (55).

Cuộc tang hải(56) lở bồi từng lúc,

Chí nam nhi(57) nấu đúc cho bền.

Chắc đâu sự được vẹn tuyền,

4 - Rủi may có phận, hư nêu tại trời.

Nghĩ tổ nghiệp gia tài mình đó,

Mà người đâu khác họ tới giành(58),

Giang sơn một hội, tam tành,

8 - Nghĩ đời mà ngán, nghĩ mình mà đau.

Cho nên phải đương đầu buôn bán(59),

Đem thân ra kết bạn giang hồ(60).

Hai vai gánh vác cơ đồ(61),

12- Ra khơi vượt biển công phu quản gì !

Hay đâu sự bất kỳ sóng gió,

Vốn tiếng nhà đã lộ thời thôi !

Bởi vì nặng lấy nợ đời,

16- Cũng liều thân phận đến bồi một hai.

Giá như kẻ bừa cày lao khổ(62),

Chắc làm nên giàu có như không.

Mất mùa thì cũng bằng lòng,

20- Được mùa thì cũng được sung sướng mình !

Giá như kẻ học hành văn sự(63),

Chắc làm nên tú cử(64) chi không.

May ra đỗ đạt thì mừng,

24 - Không may mà hỏng cũng đừng lo chi.

Có chí hẳn có khi làm được,

Ông trời kia phụ bạc chi ai.

Nước non, non nước còn dài,

28 - Đã nhiều vốn liếng thì lời cũng to.

Tôi từ thủa sông Ngô bể Sở(65),

Nhờ giang sơn che chở bình sinh.

Mấy phen mưa gió bất bình,

32 - Tấm thân ngàn dặm chút tình ba xuân(66).

Trông thấy mẹ mười phần khỏe bạo(67)

Đương hội này nương náu cho qua.

Chị em xem sóc trong nhà,

36- Sớm khuya có kẻ đường xa đành lòng,

May gặp hội gió đông đưa tiễn(68).

Trỏ thuyền buôn tới bến lương ca(69).

Làm cho rạng nghiệp ông cha,

40- Nợ đời giả sạch, vốn nhà hoàn nguyên(70).

Mới là phỉ chí(71) thanh niên !

CHÚ THÍCH

(1) Phạm Văn Ngôn (hiệu Tùng Nham sinh ngày mồng 1 tháng 6 năm Canh Thìn (7-7-1880) thi đậu Tú tài Hán học năm Bính Ngọ (1906) nen còn quen gọi là Tú Ngôn. Là anh ruột Phạm Văn Thản quê ở làng Việt Yên hạ, nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Có thời gian ông tìm đường ra căn cứ Yên Thế (Bắc Giang - Hà Bắc và được Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) bố trí ở đồn “Tú Nghệ” gần đại bản doanh Phồn Xương của chủ tướng (1906). Sau ông trở về hoạt động ở Nghệ An, tại đồn Bố Lư thuộc huyện Thanh Chương (1909). Bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày ra Côn Đảo, ông bị chúng giam hầm kín trong nhiều năm, sau bị bệnh lỵ rồi mất ngoài đó ngày 16 tháng 2 năm Tân Hợi (13-3-1911).

(2) Sông La chảy qua làng quê cụ Tú Ngôn.

(3) Núi Tùng trên đỉnh Linh Cảm ở quê hương cụ Tú Ngôn.

(4) Theo đòi việc học tập.

(5) Đi học và đi thi.

(6) Phạm Văn Ngôn thi đỗ tú tài năm Bính Ngọ (1906).

(7) Chỉ số dân nước ta, con số không thật chính xác, chỉ có ý nghĩa tượng trưng.

(8) Người con trai.

(9) Nơi thờ cúng, tế lễ; đây chỉ nước nhà.

(10) Ý nói nước nhà mất độc lập, nhân dân sống trong cảnh lầm than nô lệ.

(11) Trách nhiệm của người trí thức.

(12) Hội buôn do các tổ chức yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX lập ra để làm Kinh tế tài chính, hay để làm cơ sở bí mật đưa đón cán bộ. ở Nghệ Tĩnh lúc đó có Triệu Dương thương quán (Vinh), Mộng Hanh thương điếm (Chợ Trỗ, Can Lộc, Hà Tĩnh).

(13) Bỏ nghề văn theo nghề võ.

(14) Dẫn tích Tổ Địch (đời Tấn - Trung Quốc), qua sông chống giặc, cầm gươm gõ vào mái chèo thề không dẹp xong giặc thì không trở về.

(15) Rửa thẹn cho đất nước, ý nói khôi phục độc lập dân tộc.

(16) Mặt rời và mặt trăng.

(17) Nắm lấy ngọn Kiếm, cầm vũ khí.

(18) ý nói thế giới đang biến động.

(19) Tài lo liệu, xếp đặt công việc chính trị của một nước.

(20) Mây và sấm; thời tiết vân lôi là thời buổi truân chuyên, người quân tử có cơ hội để thi thố tài năng, làm nên sự nghiệp lớn.

(21) Giặc Pháp kết án cụ Tú Ngôn 5 năm tù giam ở Côn Đảo.

(22) Chỉ người đàn ông.

(23) Cụ Tú Ngôn mất ngoài Côn Đảo lúc 31 tuổi.

(24) Cụ Tú Ngôn mất ngày 16 tháng 2 năm Tân Hợi (13-3-1991).

(25) Người Việt Nam thuộc nòi giống da vàng.

(26) Chỉ ông trời.

(27) Tấm lòng yêu nước thắm đỏ như son.

(28) Phù du là một loại trùng nhỏ như con thiêu thân, chỉ sống được trong vài giờ, chỉ cuộc đời người ta ngắn ngủi.

(29) Bụi bặm, chỉ cuộc đời.

(30) Theo quan niệm người xưa cho sống chỉ là tạm thời, chết mới là về nơi vĩnh hằng.

(31) Hai nước Hán và Sở (Trung Quốc) đánh nhau gây nên bao cảnh tai ương thảm khốc, kết quả cuối cùng chỉ còn lại hai đống đất (Dựa theo ý bài Ngu mĩ nhân thảo của Tăng Cung đời Tống có câu; “Sở Hán phân tranh lưỡng khâu thổ”).

(32) Cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng; ý nói chí khí người con trai dọc ngang trời đất.

(33) Chỉ bà mẹ tuổi đã cao.

(34) Bà mẹ sáng và chiều tựa cửa mong con.

(35) Lầu Hoa Ngạc đời Đường để làm nơi anh em hội họp ăn chơi. Linh là một loài chim nhỏ.

(36) Đối giường với nhau, ý nói tình anh em gần gũi nhau.

(37) Núi Hồng và sông Lam là hai cảnh tiêu biểu của tỉnh Hà Tĩnh, chỉ chung toàn vùng.

(38) Thành ngữ có câu: “Chín tầng trời, mười tầng đất”.

(39) Chỉ nước Việt Nam ở phía Đông châu á.

(40) Chỉ việc nước ta bị thực dân Pháp nổ súng xâm lược.

(41) Cái Cung và cái tên; ý nói chí làm trai ngang dọc.

(42) Ba giường mối (Vua tôi, cha con, vợ chồng) và năm đức thường của người ta (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).

(43) Con đường đi hai bên có trồng cây liễu.

(44) Ông Lão Lai người nước Sở (đời Xuân Thu) rất có hiếu với cha mẹ, tuổi già mà vẫn thường mặc áo sắc rực rỡ để múa nhảy như trẻ con cho cha mẹ vui. Đây chỉ nơi cha mẹ ở.

(45) Người ta thường mong cho cha sống lâu nên ví cha như cây xuân là một loại cây to sống lâu.

(46) Châu Âu và châu á, ý nói thời đại mới.

(47) Theo gương Trung Quốc từ sau cuộc vận động Duy Tân năm 1898, rồi cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 đang chuyển mạnh.

(48) Tư Mã Tương Như người đời Hán Vũ Đế (Trung Quốc).

(49) Tác giả bài Phượng cầu hoàng (chim trống đi tìm chim mái). Chu Du, đời Tam Quốc đang chờ gió đông nổi lên để đánh hỏa công thiêu cháy đoàn thuyền quân Tào Tháo trên sông Xích Bích.

(50) Quẻ càn và quẻ khôn, chỉ vũ trụ, trời và đất.

(51) Sấm sét, đây chỉ sự phẫn nộ đối với bọn xâm lược.

(52) ý nói cần phải đấu tranh khôi phục độc lập dân tộc.

(53) Việc đời thay đổi.

(54) Quê hương, làng xóm.

(55) Đồn Bố Lư ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An là căn cứ chống Pháp hồi đầu thế kỷ XX.

(56) Bể dâu, chỉ sự biến đổi trong đời.

(57) Chí làm trai.

(58) Chỉ việc thực dân Pháp kéo quân tới đánh chiếm Việt Nam.

(59) ý nói ra hoạt động thương nghiệp, lập hội kinh doanh nhằm mục đích yêu nước cách mạng.

(60) Giang là sông lớn, hồ là ao lớn; ý nói đi nhiều, kết bạn bốn phương.

(61) Cơ là nền, đồ là bức đồ họa; chỉ cả nước.

(62) Chỉ người nông dân lao động.

(63) Chỉ người học hành đi theo sự nghiệp văn chương.

(64) Tú tài và cử nhân, chỉ những người đi thi đỗ đạt.

(65) Ngô và Sở là hai nước đời xưa của Trung Hoa, ý nói đi lại nhiều nơi để hoạt động.

(66) Tình cảm đối với cha ở nhà.

(67) Mạnh khỏe.

(68) Gió đông cho cái phương tiện. Chuyện đời Tam quốc, Chu Du với Gia Cát Lượng chờ gió đông để nổi lửa đốt cháy quân Tào Tháo. ý nói gặp cơ may.

(69) ý nói đạt tới mục đích cuối cùng là cứu nước cứu nhà. Đi buôn là bề ngoài, còn bên trong là bí mật hoạt động cách mạng.

(70) Khôi phục địa vị cũ, trở lại địa vị cũ.

(71) Thỏa chí./.

TB

CHÙA ĐÌNH QUÁN VÀ VĂN BIA CỦA TRẠNG BÙNG

ĐỖ THỈNH

Cách đây ít lâu tôi đã cùng các cụ trong ban Sử địa phương đến khảo sát chùa Đình Quán ở thôn Đình Quán, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Đây là ngôi chùa cổ xây dựng trên khu đất cao hướng tây bắc. Nếu đi trên quốc lộ 32 Hà Nội - Sơn Tây (ở cây số 12) nhìn lên chùa, ta sẽ có cảm giác chùa xây trên quả đồi thấp hình con rùa, trông rất nguy nga tráng lệ.

Chùa có tên cũ Bà Bông tự sau đổi Phúc Quang tự, xây theo kiểu chữ đinh, nhà tổ và nhà khách ở cạnh phía bắc và sau. Chùa còn nhiều di vật quý như quả chuông đồng lớn Bà Bông tự đúc năm Gia Long thứ 18 (1819); 8 bia đá, trong đó có 3 tấm bia lớn ghi việc trùng tu chùa trong các niên hiệu vua: Quang Hưng (1802 - 1819). Đặc biệt có bài văn bia của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1527-1613).

Trong các bia trùng tu có bia ghi “… Chùa được xây dựng từ thời Trần…”, có bia ghi “chùa là đại danh lam” v.v. Có những chứng tích để giúp chúng ta có thể khẳng định đây là ngôi chùa rất cổ. Đó là đầu tháng 3 - 1984 cách chùa chừng vài chục mét về phía bắc (có thể xưa là đất nội tự) người làng đào ao đã tìm thấy ngôi mộ cổ trong quan ngoài quách, toàn bộ quan tài được phủ một lớp than dày 0,4m. Đây là nét đặc biệt trong cấu trúc mộ quách gỗ củi được biết xưa nay. Đồ tùy táng trong ngôi mộ chủ yếu là đồ trang sức: một vòng chuỗi làm bằng đồ mã não được trau chuốt tinh vi đẹp mắt, 6 vòng tay, 1 hộp thuốc có nắp đậy, 1 chiếc trâm cài đầu và một số cúc áo bằng kim loại màu vàng… Với tư liệu hiểu biết của trên dưới 10 ngôi mộ cổ cùng loại được khai quật và nghiên cứu ở Việt Nam thì có thể khẳng định mộ Đình Quán có niên đại thuộc thời Trần (thế kỷ XIII-XIV). Lần đầu tiên một ngôi mộ thuộc thời Trần được biết đến ở Hà Nội…”(1).

Người ta đoán rằng có một nàng công chúa con vua Trần đã ra đây xây ngôi chùa này rồi tu ở đó cho đến khi mất. Đến khoảng thời Lê sơ (thế kỷ XV) có một bà vãi quê làng Bông Cời, huyện Thanh Oai (Hà Tây) lên ở chùa, bỏ tiền ra tu sửa chùa, mua 3 mẫu ruộng hậu vào chùa rồi ở chùa cho đến khi mất. Nhân dân địa phương nhớ ơn bà, đổi tên là chùa Bà Bông tạc tượng bà thờ phụ ở phía bắc trong tam bảo.

Đến cuối thể kỷ XVI, chùa lại được trùng tu, khởi công năm 1588, khánh thành năm 1592, mời Trạng Bùng viết văn bia, đã ghi tên là chùa Bà Bông và đến thời Gia Long (1819) khi đúc quả chuông còn lại đến nay cũng ghi là Chùa Bà Bông.

Văn bia của Phùng Khắc Khoan đã nêu lên vị trí ngôi chùa, về triết lý đạo Phật, về tam giáo đồng nguyên và biểu dương những người góp tiền làm việc công đức. Sau đây trích văn bia (bản dịch)(2):

“Bài ký trên bia ghi việc tu tạo chùa Bà Bông. Thờ Phật ở chùa, việc đó đã có từ lâu. Nay chùa Bà Bông là nơi danh thắng vào bậc nhất của xã Phù Diễn (3) trong huyện (Từ Liêm). Cổ nhân sáng lập ra chùa thành di tích đến nay vẫn còn mà sửa chữa xây dựng lại tất phải đợi loại cây đàn lớn… (đoạn này ghi tên 10 người đứng lên hưng công) cùng nhà sư trụ trì chùa là Lê Pháp Đăng, tự Mậu Hóa, quê ở huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, thừa tuyên Thanh Hoa xuất gia theo đạo lớn và mọi người lớn nhỏ trong thôn Đình Quán. Các vị tín thí này cùng nhau để tâm làm điều thiện, rộng mở lòng thiền, tu sửa chùa vào tháng giêng năm Mậu Tý (1588). Chùa được tu sửa các phòng trong ngoài, trên dưới, tô lại tượng Phật… Các đồ tế lễ v.v. Nay việc sửa chữa đã hoàn thành, các vị lại mua đặt ruộng đất, ao hồ hiến vào làm đất tam bảo, nhờ ta viết ra để mọi người biết việc này. Ta tuy là học nho nhưng về đạo Phật thì phải nói rằng chưa… (chữ mờ không đọc được) .

Khổng Tử nói rằng: “ở Tây phương có thánh nhân” ý nói Phật cũng là thánh nhân vậy. Ta đâu giám lạm lấy sự bắt đầu của lòng từ bi quảng đại để làm điều khuyến thiện của người đời. Nay có vị hội chủ Phan Đức Cơ, Phạm Mậu Nhân… Cùng các vãi trong thôn Đình Quán và mọi người tôn sùng đạo Phật, nào có biết Phật tức là tâm…Nếu như việc cầu Phật để làng ta theo làm điều thiện thì việc đó cũng chính là Phật đã xuất thân và nhập vào lòng mình vậy. Các sãi vãi lấy tâm của ta làm tâm của họ, điều đó cũng là tâm của Phật .Vì lẽ đó mà khắc vào đá cứng để lưu truyền mãi mãi .

Bài minh viết rằng:

Chùa tại Phủ Diễn,
Bảng yết Bà Bông.
Lòng thiền các vãi,
Xuất của góp công.
Hoàn thành chùa quý,
Sừng sững bia cao,
Muôn đời còn mãi,
Vạn phúc quy về.

(Ghi tên các vị hội chủ chùa và những người Công đức tu sửa chùa Đình Quán). Ngày lành tiết trung thu, năm Nhâm Thìn (1592). Kiệt tiết tuyên lực công thần, đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Công bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tế tửu Mai Lĩnh hầu Phùng Khắc Khoan người xã Phùng xá, huyện Thạch Thất soạn bia văn…”

CHÚ THÍCH

(1) Trích bài của Phạm Quốc Ân (Viện Bảo tàng Lịch sử VN) đăng báo Hà Nội mới số 5010, ra ngày 28-3-1984 .

(2) Bản dịch do cụ Nguyễn Viết Liên, nguyên phó ban Sử xã cung cấp .

(3) Thôn Đình Quán lúc đó thuộc xã Phù Diễn, tổng Cổ Nhuế

TB

BỘ TỪ ĐIỂN "TỪ HẢI" (MỚI)
GIỚI THIỆU VÀ NHẬN XÉT

PHÁC CAN

Từ hải là bộ sách công cụ quen thuộc của giới Hán học ra đời năm 1936, xếp theo bộ thủ, lấy chữ dắt từ, và từ xếp theo số chữ với đặc điểm nổi bật là một loại từ điển tổng hợp có tính chất bách khoa, đã được giới Hán học tin cậy sử dụng trên năm thập kỉ qua.

Trong hơn nửa thế kỉ ấy, cả Trung Quốc và thế giới đều đã có nhiều đổi thay lớn lao, khoa học và văn hóa cũng đã có bước phát triển khổng lồ. Việc sửa chữa và biên soạn lại bộ sách là hoàn toàn cần thiết và đã được chuẩn bị từ đầu 1958 với việc thành lập Ban biên tập Từ hải do nguyên chủ biên Thư Tân Thành đứng đầu.

Ban biên tập 247 người, 1 chủ biên, 1 phó chủ biên thường trực (La Trúc Phong) và 15 phó chủ biên.

Khi thành sách đã có 90 người đã tạ thế, trong đó có nhiều học giả lừng danh như Thư Tân Thành, Trần Vọng Đạo, Lưu Đại Kiệt, Quách Thiệu Ngu… (Cuối năm 1960, Thư Tân Thành tạ thế, Trần Vọng Đạo thay; đến năm 1977, Trần Vọng Đạo tạ thế, Hạ Chinh Nông thay). Nhưng do nhiều nguyên nhân, mãi đến tháng 10-1979 bộ Từ hải (mới) (3 quyển) ra mắt độc giả vào dịp kỉ niệm 30 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, do Nhà xuất bản Từ thư Thượng Hải xuất bản. Bản 1979 này thu thập 14.872 chữ đơn và 91.706 mục từ.

Sau đó, năm 1980 ra đời bản in thu nhỏ của bản 1979; năm 1983 xuất bản bản bổ sung. Trong những năm này còn xuất bản bộ Từ hải phân tập gồm 20 tập, đóng thành 28 quyển.

Từ năm 1984 lại bắt đầu một đợt sửa chữa mới, đến 1989 hoàn thành. Dưới đây chủ yếu giới thiệu bộ mặt mới nhất của Từ hải hiện hành (bộ 3 quyển in năm 1989).

*
**

Với quy mô rộng hơn, số chữ đơn lên đến 16.534, số mục từ lên đến trên 12 vạn, tổng số chữ in lên đến 16 triệu chữ, các tác giả đặt cho mình mục tiêu phấn đấu cao là phản ánh trình độ văn hóa và khoa học cuối thập kỉ 80 của thế kỉ này.

Chính văn của từ điển được sắp xếp theo bộ, với một bảng bộ thủ “cải tiến” gồm 250 bộ đánh số từ 1 đến 250 theo trình tự số nét từ ít (1 nét) đến nhiều (17 nét). 17 nét chỉ có một bộ là bộ dược 龠 . Các bộ 龜 và 變 được trở về dạng giản thể 龟 (7 nét) và 变 (6 nét). Lời giải thích các mục từ được minh họa thêm bởi 3300 hình vẽ. Ngoài ra còn có 13 bản phụ lục gồm: Niên biểu lịch sử Trung Quốc, Giản biểu khu vực hành chính, Giản biểu phân bố các dân tộc tiểu số, Bảng tên các đơn vị tiền tệ thế giới, Bảng đơn vị đo lường, Bảng hằng số cơ bản, Bản số liệu thiên văn, Bảng nguyên tử lượng quốc tế (1985), Bảng chu kì nguyên tố, Bảng độ mạnh động đất Trung Quốc, Phương án phiên âm tiếng Hán, Bảng kí hiệu phiên âm quốc tế, Bảng tên tắt các tổ chức thường gặp.

Phục vụ việc tra cứu là các bảng và các sách dẫn: (1) Bảng bộ thủ in ở đầu mỗi quyển, trang bìa 2, (2) Bảng tra chữ theo nét (đầu quyển thượng sau mục lục phàm lệ), (3) Sách dẫn phiên âm (để từ âm tra chữ). (4) Sách dẫn tứ giác và (5) Sách dẫn ngoại văn (cho các mục từ ngoại lai). Các sách dẫn này đặt ở cuối quyển 3.

*
**

So với các bản cũ trước kia, bộ từ điển Từ hải (mới) có mấy đặc điểm đáng chú ý .

1. Sắp xếp và tra tìm theo chữ giản thể và bộ thủ giản hóa là chính .

Không phải 214 bộ mà là 250 bộ. Bớt 8 bộ :

亅 二 爻 用 舛 飛 鬯

Quyết nhị hào nhữu dụng suyễn phi sưởng

Thêm vào 40 bộ:

一 ナ 厂 乂 マ 亡 兀 凡 王 主 不 曰 中 天 尺夫 去 戊 业 申 由 民 並 光 束 卯 充 卓 虎 是

Nhập 6 bộ:

人 (入 ) 匚 (匚 ) 土 (士 )

Nhân (nhập) phương (hễ) thổ (sĩ)

攵 (攵) 彳 (行 ) 日 ( 曰 )

Tuy (truy) xích (hành) nhật (viết)

Tách 10 bộ:

人 - 亻 水 - 氵 刀 - 刂 支 - 攵

Nhân thủy đao phốc

手 - 才 火 - 灬 犬 - 犭 示 - 礻

thủ hỏa khuyển thị

心 - 忄 衣 - 衤

tâm y

Đổi mới 10 bộ:

阝 (阜 ) 无 (无 ) 阝 (邑 ) (聿)

Phụ vô ấp duật

 (艸) 网 ) 辶 () 襾 (襾 )

thảo võng xước á

(老 ) (長 )

lão trưởng

2. Về âm: chỉ ghi phiên âm La-tinh, không có phiên thiết .

3. Về hình chữ: nhất loạt lấy chữ giản thể (Giản hóa tự tổng biểu của ủy ban công tác ngữ ngôn văn tự quốc gia và Đệ nhất phê dị thể tự chỉnh lí biểu do Bộ Văn hóa nước CHNDTH và ủy ban cải cách văn tự TQ liên danh công bố) làm chuẩn, lấy đó làm chữ mục chính, còn chữ phồn thể và chữ dị thể trong ngoặc vuông sau chữ mục chính. Đồng thời mỗi chữ phồn thể hay dị thể đều được xếp làm chữ mục phụ và được ghi chú là “chữ phồn thể của X hay chữ dị thể của X”.

Theo chúng tôi, Từ hải (mới) có những ưu điểm sau:

1. Chính văn tăng thêm một khối lượng lớn từ ngữ mới.

2. Có nhiều phụ lục:

a) Riêng Bảng kỉ niệm lịch sử gồm 62 trang khổ lớn (tr.5427-5488) được lập rất chi tiết.

Lần lượt lập biểu kỉ niệm của 15 giai đoạn:

(1) Thập nhị chư hầu (Chu, Xuân thu)

(2) Chiến quốc

(3) Tần

(4) Hán

(5) Tam quốc

(6) Tấn và Thập lục quốc

(7) Nam Bắc triều

(8) Tùy

(9) Đường

(10) Ngũ đại thập quốc

(11) Tống Liêu Kim

(12) Nguyên

(13) Minh

(14) Thanh

(15) Dân quốc

Ngoài ra có Bảng thế hệ Tam đại, Bảng đối chiếu kỉ niêm Hoàng Đế dùng ở thời Cách mạng Tân Hợi Bảng ghi ngày bằng mục vần(1), là những phụ lục hết sức tiện lợi cho người nghiên cứu lịch sử.

b, Sách đẫn ngoại văn của các mục từ gồm 103 trang khổ lớn (tr.5625-5727) chứa đựng trên một vạn mục từ khá tiện lợi cho việc tra tìm tên riêng (tên đất, tên người, tên các trường đại học, tên các ngân hàng, tên các cơ quan, tổ chức…) được phân thành 2 bảng lớn: (1) Bảng chữ La-tinh (kể cả những mục chuyển tự từ chữ Hi-lạp, chữ Phạm, chữ ả-rập…)

(2) Bảng chữ Xla-vơ (chữ Nga, chữ Bun-ga-ri…)

(3) Ghi âm bằng phiên âm La-tinh, chuẩn xác.

(4) Giải thích các từ bằng văn bạch thoại chuẩn mực, rất tiện dùng cho người hiện đại.

Tuy nhiên, với những người đã quen sử dụng các từ điển truyền thống của chữ Hán trước đây như Khang Hi, Từ hải, Từ nguyên…, Từ hải (mới) cũng có những nhược điểm:

1. Sách đóng thành 3 tập lớn Thượng, Trung, Hạ. Nói chung người dùng trước hết phải tra ở tập Hạ để tìm số trang của chữ cần tìm, sau đó mới tìm ở tập cần thiết.

2. Không ghi “phiên thiết”, có thể nói là điều bất tiện khá lớn đối với người nghiên cứu cổ Hán ngữ, nhất là các nhà Hán ngữ học Việt Nam (Từ hải cũ, ở điểm này, tiện dụng hơn).

3. Việc quy định và sử dụng hệ thống bộ thủ mới gây không ít phiền phức cho người dùng. Không chỉ là sự phiền hà trước mắt, điều này xết về lâu dài còn có thể đem lại hậu quả là làm rối rắm thêm cho người học, người dùng chữ Hán vốn đã cực kỳ rối rắm phức tạp (từ 540 bộ của Hứa Thuận đời Hán, qua 214 bộ của Mai ủng Tộ đời Minh, đến nay là 250 bộ), trong đó rất nhiều trong số 40 bộ mới đặt hiện chưa có tên và cũng rất khó đặt tên.

CHÚ THÍCH

(1) Trong lịch sử, người Trung Quốc đã từng có cách ghi ngày bằng các vần như ngày 1 ghi bằng vần đông, tiên, đổng, tống, ốc; ngày 2 bằng vần đông 2 tiêu, thũng, tống 2, ốc 2; ngày 3 bằng vần giang, hào, giảng, giáng, giác v.v./.

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH CỦA PIGNEAUX DE BE'HAINE