|
CÂU ĐỐI TẾT, CÂU ĐỐI XUÂN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
TẢO TRANG
Trong bài viết cho Cứu quốc số ra ngày 4/7/1973, dưới đầu đề Mấy nét về câu đối Tết, nhà nghiên cứu văn học và lịch sử Hoa Bằng cho rằng: “Lai lịch câu đối Tết ở Việt Nam không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng theo sách Lĩnh Nam chích quái, một bản cổ bằng Hán văn, truyện “Thiên tử đáo gia”, một ông vua đã đi chơi phố phường trong Kinh đô vào một ngày giáp Tết, và đã vào một nhà thợ nhuộm tặng đôi câu đối để dán cổng ngõ, có “khẩu khí” thiên tử. Nhưng tiếc rằng tài liệu không cho chúng ta biết Tết ấy là đời nào và ông vua ấy là ai”. Tác giả ghi thêm ở chú thích: “Không kể tài liệu Trung Quốc cho rằng câu đối Tết của Trung Quốc bắt đầu từ đời Minh Hiếu Tông (1488 - 1505) vì ông vua này Tết đến, vi hành đi chơi trong Kinh đô, nghĩ đỡ cho các đồ tể kiêm hoạn lợn một đôi câu đối…”. Về vua Việt Nam, sách Giai thoại văn học Việt Nam (Nxb. Văn học, 1965) có chép sự kiện về câu đối này và ghi là của Lê Thánh Tông (1442 - 1497). Như vậy nếu tin ở truyền thuyết, câu đối Tết đã xuất hiện trong khoảng thế kỷ XV.
Nhưng dù chưa có tài liệu thật chính xác, ta cũng có thể sơ bộ đoán định rằng câu đối Tết xuất hiện sớm hơn nhiều. Sách Kinh Sở tuế thời ký viết khoảng thế kỷ thứ VI về phong tục trong những ngày tuần tiết hàng năm tại đất Kinh Sở thuộc địa bàn Bách Việt trong đó có Lạc Việt là tổ tiên dân tộc Việt Nam, có ghi chép hai tục lệ địa phương về ngày Tết đầu năm. Đó là tục đốt pháo trúc (“trúc bộc”, lấy ống tre nhồi thuốc nổ rồi châm ngòi đốt), và tục treo hai bên cửa ngõ Bùa gỗ đào (đào phù) có hình hai vị thần: Thần Đồ và Uất Lũy. Đốt pháo và treo bùa đều nhằm trừ ma quỷ thường đến quấy rối vào những ngày cuối năm và đầu năm. Hai tục lệ đốt pháo và treo bùa này tồn tại mãi về sau này . Nhưng riêng về “đào phù” được thay thế bằng hai vế câu đối dán hai bên cửa, và trở thành một tên gọi của câu đối xuân (“xuân liên”), còn hình vẽ Thần Đồ và Uất Lũy vẫn còn, được treo hai bên cửa ngõ, nhiều khi bên cạnh câu đối xuân tức “đào phù” (X. Từ nguyên và Từ hải, mục Đào Phù). Một câu đối chữ Hán khá phổ biến được dán ở các cổng nhà vào ngày xuân đã ghi lại đậm nét hai tục lệ trên của dân Lạc Việt:
爆 竹 一 聲 除 舊 歲
桃 符 萬 户 惹 新 春
Bộc trúc nhất thanh trừ cựu tuế,
Đào phù vạn hộ nhạ tân xuân.
Có thể dịch:
Pháo tre một tiếng, xóa năm qua,
Bùa đào muôn nhà gọi xuân mới.
Và nếu hiểu “đào phù” là “câu đối xuân” như các tự điển Trung Quốc đều giảng, thì có thể dịch:
Một tiếng pháo tre xóa trừ tuổi cũ .
Muôn nhà câu đối vẫy gọi xuân về.
Câu trên khá tiêu biểu: nó chứng tỏ câu đối đã gắn liền với tiết đầu xuân. Hai tục lệ của dân Bách Việt đầu năm, qua câu đối này đã giũ bỏ được tính chất mê tín vu vơ. Pháo tre chỉ là tiếng nổ vui, vì xóa trừ được cái cũ, “bùa đào” đã trở thành câu đối vẫy gọi mùa xuân vừa sang, “xóa cũ, đổi mới”, ý nghĩa của mùa xuân, ý nghĩa của cuộc đời.
Bên cạnh câu chữ Hán trên, có thể kể một câu đối chữ Nôm tiêu biểu không kém và đã được rất nhiều người biết:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,
Nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh.
Cái vui cái đẹp của ngày Tết cổ truyền như nằm cả trong 14 chữ !
Thú thưởng thức ăn ngon lành rất “Tết” và cũng rất “Việt Nam”: thịt mỡ có dưa hành đi kèm để giảm chất ngấy, bánh chưng món ăn tổng hợp có đủ chất đạm, chất béo, chất đường. Thú nghe tiếng pháo nổ giòn giã càng vang xa khi được đốt treo trên cây nêu cao, thú nhìn mầu sắc hài hòa tươi vui, mầu xanh bánh chưng bên cạnh mầu đỏ câu đối. Và thêm cả thưởng thức nét chữ, lời văn, tình ý trong câu đối xuân. Có người cho rằng câu này phép đối không chỉnh lắm, và muốn đổi vế sau: “Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Nhưng đối như vậy sẽ làm giảm hẳn không khí tưng bừng của ngày Tết trong câu văn. Và theo phép đối cổ điển, câu này vẫn rất chỉnh. Đó là lối “tiểu đối” hay “tựu cú đối”. Nếu trong nội bộ mỗi vế đã có hai nhóm chữ đối nhau đúng phép, thì giữa hai vế sự đối nhau không cần phải thật nghiêm nhặt, miễn là bảo đảm luật âm thanh. Đây cũng là trường hợp câu “Tứ thời bát tiết canh chung thủy sẽ nói ở phần sau.
Dù sao, câu đối này cũng như câu chữ Hán trên, không gợi chút nào về sự xua đuổi tà ma ngụ trong “trúc bộ” “đào phù” của tục lệ dân Bách Việt, mà trong cả cây nêu truyền rằng cũng nhằm trừ quỷ dữ, vì nó chứng thực sự bảo hộ của đức Phật từ bi và lắm phép mầu. Câu đối đã thể hiện niềm vui hết sức thực tế của một quần chúng trước đây thường sống trong thiếu thốn, thường chỉ “no ba ngày Tết”, nhưng thường xuyên biết tìm hưởng mọi thú vui, thưởng thức mọi cái đẹp trong hoàn cảnh thực tại của mình.
“Yêu cái đẹp” là một đức tính của tâm hồn Việt Nam. Xuân là mùa thiên nhiên đổi mới, khí dương át khí âm, mọi vật tràn đầy sức sống, muôn hồng nghìn tía đua tươi. Nhân dân Việt Nam mừng đón mùa xuân, mừng đón cả câu đối xuân. Do đó trong khung cảnh đón Tết cổ truyền của thủ đô Hà Nội xưa kia, không thể thiếu được cảnh các cụ đồ viết câu đối từ ngày rằm tháng chạp cho đến Tết. Câu đối Tết cũng như hoa đào hoa cúc báo hiệu mùa xuân. Đi dạo quanh phố, ngắm nhìn những ông đồ gò lưng nắn nót những dòng chữ đẹp, đọc những câu đối xuân chữ tốt văn hay, đầy ý nghĩa lạc quan vui đón cái mới, cũng như đi dạo ngắm những cành đào đỏ thắm, những khóm cúc vàng tươi, là một trong những thú tao nhã đón xuân về, khiến con người trẻ lại. Kho tàng câu đối Tết Việt Nam rất phong phú, và mang đậm sắc thái Việt Nam.
Điểm qua những câu đối được nhiều người biết trước cách mạng tháng Tám, có thể phân biệt mỗi loại sau đây:
1. Loại câu đối thờ. Xưa kia chỉ có một số ít nhà Việt Nam là có treo bên bàn thờ tổ tiên những câu đối thờ khắc trên gỗ có chữ, nhiều khi là chữ thiếp vàng trên nền sơn đen bóng rất đẹp. Số đông không đủ khả năng có được những thứ đắt tiền trên, nhưng đến ngày Tết thế nào cũng phải có đôi câu đối thờ viết trên giấy đỏ, để được dán lên một khung gỗ khổ câu đối treo trên cột, hoặc dán ngay vào cột bên bàn thờ. Câu đối làm sáng đẹp khu trung tâm trang trọng nhất của căn nhà, nhưng chủ yếu là tỏ lòng biết ơn đối với các bậc tiên tổ, và bầy tỏ ước nguyện giữ vững nếp sống tốt đẹp của dòng họ, bồi đắp đức tốt để tạo phúc lâu dài.
Hầu hết những câu đối loại này đều bằng chữ Hán, thứ chữ của “thánh hiền” theo quan niệm cũ. Thí dụ:
新 春 奮 志 惟 忠 孝
佳 節 銘 心 只 儉 勤
Tân xuân phấn chí duy trung hiếu,
Giai tiết minh tâm chỉ kiệm cần.
(Hiếu trung vững chí mừng xuân mới,
Cần kiệm ghi lòng đón Tết vui).
Hoặc một câu khác:
孝 友 外 何 事 可 樂
和 睦 中 到 處 皆 春
Hiếu hữu ngoại, hà sự khả lạc,
Hòa mục trung, đáo xứ giai xuân.
(Ngoài hiếu hữu, không điều gì vui thích,
Giữ thuận hòa, khắp chốn thấy xuân tươi)
Câu đối loại này, lời lẽ chỉ cần trang trọng hơn là trau chuốt. Có thể nói đây là những châm ngôn xử thế, được trưng lên như những khẩu hiệu nhắc nhở ý nghĩa chân chính của cuộc đời với cách đón xuân mới vui tươi, hợp với nếp sống lành mạnh, cần kiệm, thuận hòa. Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết giấy đỏ, treo thành bức hoành ở bên trên: “Ẩm hà tư nguyên” (Uống nước sông, nghĩ đến nguồn), “Đức lưu quang” (Đức chan hòa ánh sáng), thể hiện lòng thành kính biết ơn, niềm tưởng nhớ tiên tổ, gắn liền với quyết tâm sống xứng đáng với công ơn các bậc tiền nhân, trong năm mới.
2. Câu đối tức cảnh xuân, thường treo ngoài sân hay ngoài cổng, có thể viết trên giấy đỏ hoặc khắc lâu dài vào lớp vôi vữa phủ trên tường gạch. Tả cảnh, nhưng thường bao hàm nhiều ý tình bên trong:
淑 氣 勳 佳 節
和 風 扇 早 春
Thục khí huân giai tiết,
Hòa phong phiến tảo xuân.
(Khí lành ấm áp tiết đẹp,
Gió hòa phây phẩy xuân tươi)
Câu đối này rất hợp với hàng cột ngoài hiên hoặc dẫy tường thấp bằng gạch cạnh khu vườn. Hơi ấm, gió nhẹ là đặc điểm của xuân sớm, tạo đủ điều kiện cho sự phát triển sức sống muôn loài.
Một câu khác:
近 水 樓 薹 先 得 月
向 陽 花 草 易 知 春
Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt,
Hướng dương hoa thảodị tri xuân (1)
(Gần làn nước trong, lâu đài trước tiên được ánh trăng,
Hướng hơi dương ấm, cây cỏ sớm biết xuân về).
“Hướng dương” có thể dịch “hướng ánh dương sáng” hay “hướng hơi dương ấm”. Lâu đài ở gần nước do đó đón được ánh trăng trước tiên, ánh trăng trực tiếp chiếu xuống từ trên không và ánh trăng phản chiếu từ dưới nước lên, còn hoa cỏ thì hướng về mặt trời nên dễ có điều kiện mơn mởn đua tươi sớm đón xuân về. Cảnh trước mắt đẹp, ý bao hàm bên trong cũng đẹp: hòa hợp với chung quanh, hướng về ánh sáng thì mọi thứ đều tươi đẹp, tốt lành. Cảnh, tình và ý trong loại câu đối này gắn liền với nhau. Thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, đồng thời nâng cao tư tưởng và tình cảm, mắt trong sáng hơn, tâm hồn cũng trong sáng hơn.
3. Câu đối về nghề nghiệp. Đây là những câu đối dán ở cửa hàng cửa hiệu - cũng có thể dán ở chỗ ngồi chơi trong nhà - ghi lại những đặc điểm nhất là những điều đáng tự hào của nghề, những triển vọng tốt đẹp của nghề trong mùa xuân mới. Mỗi nghề có một loạt câu đối thích hợp, thường được thu thập trong những sưu tâp đối liên. Sau đây là mấy câu đối cổ nổi tiếng gắn liền với những giai thoại, có nhiều người biết đến và tán thưởng.
4. Tương truyền Lê Thánh Tông, ông vua rất chuộng văn học ở thế kỷ XV, một năm gần giao thừa vi hành thăm phố phường Kinh Đô để xem xét dân tình. Vua vui thích thấy hầu hết mọi nhà đều bầy biện trang hoàng cây nêu câu đối đầy đủ. Riêng có một nhà không có câu đối. Vua vào chơi hỏi, biết là nhà thợ nhuộm, vợ góa chồng hành nghề, con trai đi vắng. Vua bèn lấy giấy bút viết hộ câu đối:
天 下 青 黃 皆 我 手
朝 廷 朱 紫 總 吾 家
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủy,
Triều đình chu tử tổng ngô gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ,
Đỏ tía triều đình tự cửa ta.)
Tự bàn tay lao động, tự cửa hàng này, đã tỏa ra mọi mầu sắc rực rỡ, làm đẹp khắp gầm trời, và nhất là làm đẹp cả triều đình, nơi tập trung các người quyền quý. Không phải chỉ có thế: “Thanh hoàng” còn chỉ mạ xanh và lúa chín vàng, tức thóc lúa, sản phẩm quý nhất trong một nước nông nghiệp. Quan niệm của phong kiến, mỗi tấc đất trong nước đều là của vua, mọi thóc lúa sản xuất từ đất đều trong tay vua. “Thanh hoàng giai ngã thủ” có thể hiểu “Tự tay ta mà ra”, cũng có thể hiểu “đều ở trong tay ta, thuộc quyền sở hữu của ta”, tức là của vua. “Chu tử” chỉ áo phẩm phục, và theo nghĩa rộng, chỉ người mặc phẩm phục, tức trăm quan trong chiều. “Chu tử tổng ngô gia” có nghĩa “đỏ tía đều từ cửa ta mà ra, và cũng có nghĩa”, Triều thần đều dưới cửa ta” tức là dưới quyền vua, đúng là “khẩu khí thiên tử”.
Câu này chính là câu mà Hoa Bằng, trong bài báo nói ở trên, cho rằng không biết của ông vua nào. Ông đã ghi vế trên hơi khác: “Thiên hạ thanh hồng giai ngã thủ”, dịch: “màu xanh, màu đỏ trong thiên hạ đều ra từ tay ta”, và giải thích đoạn này: ẩn ý “khẩu khí” tỏ ra rằng ta là chúa Xuân trang điểm các mầu xanh đỏ bằng hoa lá để tô đẹp cho cảnh non sông khắp trong thiên hạ - đồng thời cũng là người đứng đầu triều đình, ban mũ áo màu tía màu đỏ cho bách quan”. Nhưng chúng tôi nghĩ nếu cả hai câu đều thuộc khẩu khí của vua, thì “thanh hoàng” đắt nghĩa hơn “thanh hồng”.
Một giai thoại văn học nổi tiếng không kém liên can đến câu đối viết cho một nhà có nghề thịt lợn. Tương truyền Nguyễn Khuyến, nhà thơ lừng danh Tam nguyên Yên Đổ, khi về hưu ở quê nhà, có một người làm nghề thịt lợn đến biếu bát tiết canh và đôi bồ dục và xin câu đối xuân. Nhà thơ đã viết :
四 時 八 節 更 終 始
彥 柳 堆 蒲 欲 點 莊
Tứ thời bát tiết canh chung thủy,
Ngọn liễu đôi bồ dục điểm trang.
(Bốn mùa tám tiết lần lượt đổi thay,
Liễu bờ sông, cỏ bồ gò đất đang muốn điểm trang.)
“Tám tiết” chỉ tám tiết chính trong năm, mỗi mùa có hai tiết: lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Câu trên nói về sự chuyển vận của thời tiết , trước sau nối nhau không cùng, để dẫn ý câu dưới: nay đến lúc cây cỏ nẩy mầm đâm lộc, tự làm cho đẹp và làm đẹp chung quanh, đó là tiết xuân. Mọi vật chuyển vận không ngừng,niềm vui trước cảnh thay cũ đổi mới đã ánh vào câu đối, đơn giản nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa. Về mặt “đối”, bốn chữ đầu ở mỗi vế “tứ thời bát tiết” và “ngọn liễu đôi bồ” không đối chọi nhau từng chữ, khiến mới đầu tưởng rằng đối gượng ép. Nhưng đây cũng là trường hợp tương tự với câu “thịt mỡ dưa hành” đối với “nêu cao pháo nổ” nói ở trên. Đây là môt trong 6 cách đối mà Lê Quý Đôn đã phân tích trong Kiến văn tiểu lục (mục Thiên chương), gọi là “tiểu cú đối” (đối cả đoạn câu, không đối từng chữ). Câu trên có 4 chữ đầu đối nhau 2 chữ một (“tứ thời” đối với “bát tiết”), câu dưới cũng vậy (“ngọn liễu” đối với “đôi bồ”). Như vậy một khi luật âm thanh đã được bảo đảm, 4 chữ vế trên coi như đủ điều kiện để đối với 4 chữ vế dưới. Có thế, mới đem được 6 chữ “bát tiết canh, đôi bồ dục” không đối nhau từng chữ và là 6 chữ nêm luồn vào hai vế câu đối chữ Hán và ở vị trí đối nhau. Câu đối thật tài tình, nhất là khi đọc lên vẫn không cảm thấy có chỗ nào gò bó, mà ý nghĩa về mùa xuân, về cảnh đẹp thiên nhiên của mùa xuân như hiện ra trước mắt.
Vẫn loại câu đối này về nghề nghiệp, một truyền thuyết kể rằng Cao Bá Quát, nhà thơ thiên tài giữa thế kỷ XIX có làm câu đối cho một cửa hàng sũ:
天 添 歲 月 人 添 壽
春 滿 乾 坤 福 滿 堂
Thiên thiên tuế nguyệt nhân thiêm thọ,
Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường.
(Trời thêm ngày tháng người thêm thọ,
Xuân đầy trời đất, phúc đầy nhà.)
Đúng là câu đối xuân: thời gian trôi qua, mỗi năm tới thêm năm tháng, người thêm tuổi thọ, xuân về khắp vũ trụ, đem lại hạnh phúc đầy nhà. Câu đối đã khéo dùng chữ cuối 2 vế ghép lại thành từ “thọ đường” có nghĩa là “quan tài” (từ “thọ đường” chữ Hán có nghĩa chỉ huyệt đào sẵn khi người còn sống, chuyển sang tiếng Việt, từ ngày chỉ “quan tài làm sẵn để ở nhà có cụ già”, thường gọi là” cỗ thọ đường”). Liền sau đó, lại một người đàn bà có mang đến xin Cao Bá Quát câu đối xuân cho mình. Ông đã lấy nguyên câu trên, chỉ bớt chữ cuối mỗi vế mà viết:
天 添 歲 月 人 添
春 滿 乾 坤 福 滿
Thiên thiêm tuế nguyệt nhân thiêm,
Xuân mãn càn khôn phúc mãn.
(Trời thêm ngày tháng, người cũng thêm,
Xuân đầy đất trời, phúc đầy đủ)
Như vậy là đã cắt hai chữ cuối “thọ” và “đường”. Không còn “thọ đường” vì câu đối không còn là của hàng sũ. Vẫn là câu đối xuân, và vẫn đầy đủ ý nghĩa, bao hàm ý đón xuân vui và ý chúc tụng đầy đủ, cả trời lẫn người. Nhưng “nhân thiêm” và “phúc mãn” là lời chúc tụng thêm ý tinh nghịch “thêm người, thêm con” và chơi chữ, dùng chữ “phúc” trùng âm với “phúc” là “bụng”. “Phúc mãn” có nghĩa “bụng đầy, bụng to”, rõ ràng là hợp với người xin câu đối. Niềm vui đón xuân kèm nụ cười đùa rỡn nhẹ nhàng đáng yêu.
5. Loại câu đối Tết có tính cách tự tình của kẻ sỹ. Đây là những nhà nho nghèo, trước cảnh tưng bừng của xã hội chung đón xuân, không thể không liên hệ với hoàn cảnh của mình: những khó khăn và vấp váp trong cuộc sống năm qua, những mơ ước về năm sắp tới. Đó là trường hợp một nho sĩ bần hàn đón xuân với một bàn thờ trơ trọi trên mâm bồng chỉ có một trái bưởi được bày. Chàng đã làm câu đối:
A Tết đến đó rồi, mấy độ giơ cùi cùng tuế nguyệt,
Ờ xuân sang đấy nhỉ, này phen mở múi với giang sơn.
“Giơ cùi”: ý nói chưa có gì đóng góp cho đời, chỉ phô ra những thứ tầm thường vô tác dụng. “Mở múi”: ý nói xuất đầu lộ diện, tỏ lộ tài năng tiềm tàng của mình. Câu đối đầy tự tin và lạc quan, coi sự thành công là tất yếu.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều học trò cũ, không những không có cái gì để “giơ cùi” hay “mở múi”, mà còn phải lo lắng xoay xở đối phó với bọn chủ nợ, thường nhè vào những gày cuối năm để thôi thúc đòi nợ, lấy cớ là phải “tiêu Tết”:
Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Xuân là “tống cựu nghênh tân” (tiễn cũ đón mới). Ở câu đối trên, xuân trở thành “tống bần nghênh phúc”. Hành vi xua đuổi càng quyết lịêt thô bạo bao nhiêu, thì hành vi đón tiếp càng trìu mến ân cần bấy nhiêu.
Nói đến “đuổi cũ đón mới”, “giơ tay bồng ông phúc”, ta không thể không nhớ tới Hồ Xuân Hương đã có một câu đối xuân khá tiêu biểu cho cá tính hiên ngang của nhà thơ “Bà chúa thơ Nôm”:
“Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo Ma Vương đưa quỷ tới;
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào”.
Câu đối nhắc lại phong tục hàng ngàn năm trừ ma quỷ trong những ngày giáp Tết. Nhưng nhà thơ không đốt pháo trồng nêu, chỉ đóng chặt cửa buồng, cửa có hai cánh, tượng trưng cho âm dương, cho trời đất (càn khôn) để không cho ma vương đưa quỷ giữ tới quấy nhiễu. Ở đây Ma Vương và lũ quỷ có thể chỉ là bọn người trên trần thường đến làm rầy nhà thơ. Vế dưới nói đến việc đón xuân sáng mùng một. “Lỏng then tạo hóa “tức là thuận theo lẽ tự nhiên của mọi vật, mở rộng cửa để cô gái nhỏ “bế xuân vào”. “Cô gái nhỏ” với nghĩa đen, còn bao hàm một ý nghĩa sâu sắc hơn. Theo “Kinh Dịch”, trong 8 quẻ chính, ngoài hai quẻ Càn và Khôn tượng trưng cho Trời và Đất, Cha và Mẹ, còn 6 quẻ khác tượng trưng cho sáu con, 3 trai, 3 gái. Và trong 3 gái thì cô gái nhỏ (thiếu nữ) tương ứng với quẻ Đoài, có nghĩa, “đẹp lòng, vui vẻ”. Đón xuân mới, phải đẹp lòng vui vẻ, phấn khởi tiến lên xây dựng tương lai. Câu đối ở vế trên phản ánh tâm hồn ngang tàng của nhà thơ, sống dưới sự o ép bất công của xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đã chống trả bằng thái độ phản kháng nhạo đời, nhưng ở vế sau lại tỏ lộ vẫn giữ niềm vui và niềm tin, đón cảnh tươi sáng của ngày xuân mới.
Các câu đối về tâm tình nói trên đều là những câu đối Nôm. Rõ ràng chỉ có tiếng mẹ đẻ, tiếp nhận từ thời măng sữa khi còn ở trong nôi, mới thể hiện được trung thực những tình cảm sâu lắng của tâm hồn.
6. Câu đối Tết trong tù. Đây là những câu đối xuất hiện ở thế kỷ này, dưới thời thực dân Pháp thống trị, của các chiến sĩ cách mạng bị chúng bắt giam tại nhà tù Sơn La năm 1942.
Trong hoàn cảnh vô cùng bi đát, bị tra tấn hành hạ, cả về thể xác lẫn tinh thần, câu đối Tết vừa là một hứng thú thanh tao đón chào xuân mới, vừa là một nguồn động viên có tác động sâu sắc cho việc giữ vững lòng tin tưởng ở tương lai, thúc đẩy khí thế đấu tranh cách mạng. Thí dụ câu đối dán ở bếp đun nước:
Khói lửa dập tan, ngày mới đậm đà hương vị mới,
Máu tim sôi sục, xuân chung tô điểm nước non chung.
“Khói lửa”, “sôi sục” gắn liền với chuyện bếp nước. Từ một chuyện tầm thường, trong một cảnh thực tế đầy gian khổ, câu đối đã nâng cao lên tới những cảm tình trong sáng, tin tưởng ở những ngày xuân mới, với ý thức trách nhiệm sâu nặng đối với “nước non chung”.
Một câu khác dán ở trại giam:
Tối ba mươi giũ nợ phong trần, song sắt nhìn coi tranh lịch sử;
Sáng mùng một mở màn xã hội, lửa lòng chờ đợi pháo duy tân.
Đối với Tết Việt Nam, ngoài cây nêu tiếng pháo, còn có tranh Tết, tức những tranh dân gian con gà, con lợn, hái dừa v.v…, hầu như không thể thiếu được để đón những ngày đầu xuân. Xuân trong tù không có tranh và pháo. Các chiến sỹ cách mạng đã thay thế bằng “tranh lịch sử” nhìn qua “song sắt”, và “pháo duy tân” do “lửa lòng” đốt cháy. Nhận thức sáng suốt về tiến trình lịch sử kết hợp với nhiệt tình cách mạng đã đem lại một mùa xuân đầy hứa hẹn. Và đây không phải là không tưởng. Sau Tết đó, một số chiến sĩ đã vượt khỏi nhà tù, tiếp tục hoạt động. Và chỉ ba năm sau, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, hệ quả tất yếu của thái độ tích cực kiên cường trong việc đón xuân ghi ở những câu đối trên.
Sau Cách mạng Tháng Tám, câu đối Tết không hề bị mai một, mà còn phát triển với những sắc thái khá phong phú. Chỉ nói về thời kỳ trước đó, câu đối Tết, câu đối xuân đã có một vị trí xứng đáng trong nền văn chương bác học cũng như trong văn học dân gian Việt Nam, trong cuộc sống văn hóa sôi động, trong nếp sống tinh thần cao đẹp của nhân dân ta. Câu đối xưa trong
những ngày đón xuân đã phản ánh cao độ tâm hồn Việt Nam: yếu cái mới, cái đẹp, biết thưởng thức và biết đem cái đẹp vào trong cuộc sống thường ngày, lúc nào cũng tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng và không ngừng phấn đấu để vươn tới trong một thời gian ngắn nhất.
CHÚ THÍCH
Tô Lâm, người Trung Quốc, cũng có hai câu thơ tương tự với câu đối này, chỉ khác ở chỗ trong câu thứ hai, Chữ “thảo” được viết là “mộc”, chữ “ tri” được viết là “vi” (xem Thanh dạ lục của Du Văn Bảo, người đời Tống) - Tòa soạn TCHN./.
|