TB

TỪ HÁN VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ

NGUYỄN NGỌC SAN

1. Trong các giáo trình về từ vựng học và các bài nghiên cứu về từ Hán Việt, các nhà khoa học đều cho rằng từ Hán Việt trong tiếng Việt chiếm một tỉ lệ rất cao, khoảng 70%. Con số này rất bấp bênh hoặc đại khái vì các nhà nghiên cứu chưa nêu ra được những tiêu chí dứt khóat để xác định rõ thế nào là một từ Hán Việt. Thường thường người ta đưa ra sự đối lập Hán Việt / Thuần Việt, nhưng khái niệm Thuần Việt cũng rất lỏng lẻo. Chẳng hạn, xét về nguồn gốc, như từ mà ta gọi là Thuần Việt ngày nay ngoài những từ gốc Mon-Khmer như: mặt, mũi, chân, tay, tóc, đuôi, bụng, cổ, vú, rắn, kiến, vải, dây, vuốt, gãi, ngáp... Các từ gốc Tày Thái như: gạo, nộm, gỏi, suối, kho, luộc, xay, sàng, quăng... còn có những từ gốc Hán như: bìa, hộp, cầu, hoa, giấy, chén, bát, mâm, bàn, mây, mùa, muỗi, cờ, chè, xe, buồn, khua, chưa, cởi... Ấy là chưa kể đến các từ gốc Ấn Âu du nhập lẻ tẻ vào tiếng Việt ở những thời kỳ gần đây.

2. Vậy là từ Hán Việt không phải là những từ gốc Hán đã du nhập vào kho từ vựng tiếng Việt mà chỉ là một bộ phận đặc biệt của những từ đó. Ta biết ngay từ khoảng đầu Công nguyên đã có sự tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Việt, tuy người Việt vẫn bảo tồn được tiếng nói và văn hóa riêng của mình nhưng qua sự tiếp xúc họ cũng có nhu cầu tiếp thu một số từ Hán để làm phong phú thêm cho hoạt động ngôn ngữ của mình. Lúc này tiếng Hán ở Giao Châu đang còn được đọc theo âm Hán Thượng cổ, tức âm Hán từ thời Tiên Tần cho đến khoảng cuối đời Ngụy Tấn. Âm này đã được nghiên cứu từ các đời Ngụy Tấn, nhưng có nhiêu thành tựu nhất ở đời Thanh với các học giả có tên tuổi như Đoàn Ngọc Tài, Cố Viêm Võ, Trần Lễ, Đới Chấn, Tiền Đại Hân và ở Châu Âu cũng đã có những công trình nghiên cứu nổi tiếng như của B.Karlgren (Thụy Điển) chẳng hạn. Âm này có cách đọc mô phỏng ở Giao Châu mà chúng tôi gọi là âm Tiền Hán Việt. Lúc này tiếng Hán còn đóng vai trò một sinh ngữ nên âm Tiền Hán Việt đọc na ná với âm Hán Thượng cổ, ví dụ: buồng, buồm, búa, bùa, buồn, buộc, mùa, múa, mù (sương), mụ, muộn, đục, đuốc, đũa, nôm, khoe, chua, v.v. Các từ này vì du nhập vào tiếng Việt từ rất sớm, phần lớn lại là những từ đơn tiết nên được Việt hóa rất sâu và có khả năng độc lập trong cấu tạo từ, ví dụ: buồng cau, buồng chuối, buồng gan, vẩn đục, đục nước béo cò... nên nếu không có sự phân tích thì khó có thể thấy được nguồn gốc của nó.

Sang đời Đường, tiếng Hán đọc theo âm Trung cổ, có một số thay đổi so với âm Hán Thượng cổ, ví dụ âm Hán Thượng cổ có âm đầu [p] sang Hán Trung cổ tách đôi thành [p] và [f]; [m] Hán Thượng cổ sang Hán Trung cổ tách đôi thành [m] và [v]; [d] Hán Thượng cổ sang Hán Trung cổ tách đôi thành [d] và [t] (trang Quốc ngữ). Về vần, các nguyên âm đôi hay ba [iei], [i i], [i i]... sang Hán Trung cổ sẽ nhập một thành [i]; [iă] Hán Thượng cổ sang Hán Trung cổ sẽ chuyển thành [ie], v.v..

Cũng vào đời Đường, người Hán đã mở nhiều trường học ở Giao Châu, các thư tịch Hán thuộc các loại Kinh, Sử, Tử, Tập, được truyền bá rộng rãi. Một số kinh Phật đã dịch sang chữ Hán cũng được truyền sang Giao Châu, cùng với sự phổ biến các trước tác của Nho gia và Thiền gia, một lớp từ văn hóa đã du nhập vào tiếng Việt. Sang thời tự chủ, tiếng Hán vẫn được tiếp tục sử dụng ở Việt Nam trong cơ quan hành chính, trường học và khoa cử. Nhưng lúc này tiếng Hán đã mất tính cách là một sinh ngữ, người Việt đọc chữ Hán theo cơ chế âm tiếng Việt đương thời, nhưng vì đọc chữ Hán một cách hệ thống nên âm đọc là âm phản chiếu của âm Hán đời Đường và khá sát với âm này. Đó là âm Hán Việt(1), âm này được dự đoán là hình thành về cơ bản ở thế kỷ XII. Các từ Hán vì đã có âm Hán Việt đóng vai trò một cái kênh nên du nhập vào tiếng Việt ồ ạt hơn và dễ dàng hơn. Các khái niệm trừu tượng của Nho, Phật, Lão, đã được mượn vào tiếng Việt như: sắc, thân, pháp, không, tướng, niệm, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, quân, thần, phụ, tử, đạo, đức... Hiện tượng vay mượn chữ Hán trở thành khả năng và nhu cầu, lúc đầu là những từ đơn tiết và dần dà cả những từ ngữ song tiết. Trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV ta đã thấy có nhiều từ Hán Việt song tiết như: trượng phu, trường ốc, thanh nhàn, tiên sinh, khoa mục, quốc gia, thành thị, lâm tuyền, phú quý, công danh, văn chương, sự nghiệp, tiêu dao, phong quang, trung dung, thiên hạ, nhan sắc, v.v.. Từ đấy cho đến các thế kỷ XVII, XVIII các từ Hán vẫn tiếp tục bổ sung cho kho từ vựng tiếng Việt và được đọc bằng âm Hán Việt.

Có thể coi những từ Hán Việt du nhập vào tiếng Việt từ đầu cho đến lúc này là những từ Hán Việt cũ. Chúng thường gắn liền với ý thức hệ tư tưởng và thiết chế phong kiến.

3. Một vài thế kỷ gần đây, các nước châu Á bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và vô sản châu Âu qua cửa ngõ Nhật Bản. Người Nhật dùng chữ Hán có sẵn trong văn tự của họ để phiên dịch các khái niệm của châu Âu (đọc theo âm Nhật), sau đó, người Hán sử dụng các từ này và đọc theo âm Hán, rồi người Việt lại đọc tân thư của người Hán và đọc các từ ấy bằng âm Hán Việt, ví dụ: dân chủ, cộng hòa, giác ngộ, giai cấp, bình quyền, kinh tế, chính trị, xã hội, cách mạng, quần chúng, quyền lợi, duy vật, v.v. Sau cách mạng tháng Tám 1945 những từ Hán hiện đại cũng hàng loạt được mượn vào tiếng Việt và đọc theo âm Hán Việt như: địa chủ, cố nông, đấu tranh, hợp tác hóa, xã viên, tiền tiến, quả thực, thủ trưởng, v.v.. có thể gọi những từ du nhập vào tiếng Việt từ cuối thế kỷ XIX đến lúc này là từ Hán Việt mới, chúng gắn liền với nền kinh tế hiện đại, với ý thức hệ tư sản và vô sản. Theo với đà phát triển của khoa học, người Việt còn dùng các yếu tố Hán Việt để tạo ra những từ riêng của mình như: tiểu đoàn, đại bác, phi công, an trí, lịch sử v.v..

Giữa âm Hán Thượng cổ và âm Hán Trung cổ không có một ranh giới dứt khóat, bởi vì không thể nào có sự đứt đoạn trong ngôn ngữ. Giữa các từ Tiền Hán Việt và Hán Việt cũng không có một ranh giới tuyệt đối, chẳng hạn các âm đầu [p], [m], [d] Hán Thượng cổ vẫn có một bộ phận bảo lưu ở Hán Trung cổ, vì vậy các từ: bút, bảng, mai, đào, cao, cổ, mẫu, v.v.. có thể vừa là từ Tiền Hán Việt vừa là từ Hán Việt. Điều này không quan trọng lắm đối với vấn đề ta đang xét, nhưng lại cho phép ta đi đến nhận định là không phải hễ một đơn vị có âm Hán Việt được mượn vào tiếng Việt đều là từ Hán Việt. Cần phải nghĩ đến những tiêu chí chặt chẽ hơn.

4. Các từ Hán Việt có thể là đơn tiết hoặc song tiết, khả năng du nhập và Việt hóa của chúng rõ ràng khác nhau cần được tách riêng ra để khảo sát.

Nói chung, các đơn vị Hán Việt đơn tiết vào tiếng Việt sớm và dễ dàng hơn vì tiếng Việt cổ có xu hướng đơn tiết rất rõ. Tính chất vay mượn của các đơn vị này cũng khác nhau. Có loại vay mượn để lấp ô trống khi tiếng Việt chưa có sẵn các từ tương ứng (hoặc nếu có thì bị hạn chế bởi sức biểu hiện khái quát không cao ví dụ: đầu, bút, phấn, quần, áo, sách, hoa, bình, bàn, kính, tường, thành, hào, nghĩa, khắc, canh... Một số từ tương ứng có sẵn do khả năng hoạt động yếu hơn nên mất dần ưu thế và trở thành từ địa phương, ví dụ: trốc (đầu), bông (hoa), ghe (thuyền). Một số đơn vị khác khi vào tiếng Việt rồi đã tạo ra sự phân công giá trị giữa nó và từ thuần Việt để đảm nhiệm những nét nghĩa khác nhau, ví dụ:

Hán Việt Việt
Tính nết
ảnh bóng
đơn lẻ
thân mình...

Nết biểu thị phẩm chất đạo đức (như xấu người đẹp nết, nết na) còn tính trỏ tính cách được tạo ra do thói quen lặp đi lặp lại nhiều lần (tập dĩ tính thành - luận ngữ); bóng trỏ khoảng tối hay phần bị khuất ánh sáng (như bóng đêm, bóng cây) có thể trỏ dạng thấp thóang ven ngoài sự vật (như bóng người, bóng câu) trong khi ảnh trỏ hình phản chiếu hay ghi lại của một vật thực (như bức ảnh “lai vô ảnh khứ vô hình”); mình trỏ phần giữa của người và động vật (như “đầu voi mình chuột”), còn thân trỏ khúc giữa một phi động vật (như thân cọc, thân tàu, thân cây) ... Đặc điểm của loại đơn vị Hán Việt này là do có đầy đủ giá trị và thuộc tính của tín hiệu Việt với sự thống nhất của hai mặt; hình ảnh âm thanh (image acoustique) và khái niệm (concept), có khả năng hoạt động độc lập và tự do kết hợp với các đơn vị thuần Việt (như: mái đầu, đầu bạc, đầu đường, bút lông, bút bi, mài bút, bàn ăn, bàn là, bàn chân, vui tính, tính nóng...). Xét toàn diện trên các mặt, các đơn vị này không có gì khu biệt với các từ thuộc nguồn gốc Mon-Khmer và Tày Thái, do đó có thể coi chúng là từ Thuần Việt trong khái niệm chung. Sở dĩ như vậy vì những đơn vị này du nhập vào tiếng Việt rất sớm và những đặc điểm nêu trên đã được hình thành lâu dài trong lịch sử.

5. Do tiếp xúc với thư tịch Hán, nhiều đơn vị Hán Việt thuộc lớp từ văn hóa (trừu tượng) đã hàng loạt du nhập vào tiếng Việt. Những từ này khi văn tự hóa ở người Hán đã được biểu thị bằng một đơn vị hình khối và vì nghĩa của nó được đồ thị hóa trên mặt chữ nên khá dễ hiểu đối với người Hán. Ví dụ: lễ (có bộ kỳ trỏ việc tế lễ), tổ (có bộ là tế lễ đặt cạnh sinh thực ký đàn ông) trỏ người mở đầu dòng họ, vốn là phong tục xưa như kiểu thờ linga ở các bộ tộc Hindu, Khmer, Miến Điện, Thái Lan v.v..) nhân (do bộ nhân trỏ người và chữ nhị trỏ mối quan hệ đôi bên), (do bộ trỏ tế lễ và chữ thổ trỏ thần đất)... hàng loạt các chữ: cung, khoan, tín, mẫn, huệ, quân, thần, phụ, tử, thê, thiếp, hiếu, để, chính, trị, quốc, gia ... đều rất cụ thể và dễ hiểu đối với người Hán, dù chúng có tạo ra các nét nghĩa phái sinh nhưng người Hán vẫn dễ dàng nhận ra, tức là chúng mang tính tư duy thị giác trong óc người Hán. Khi sang tiếng Việt thì đối với người Việt thông thường sự phân tích trên mặt chữ này bị mất đi, do đó ô khái niệm trở nên lờ mờ hoặc thiếu hẳn. Đây chính là đặc điểm khu biệt cơ bản giữa loại này và loại trình bày trên kia. Cũng do khái niệm của nó lờ mờ, trừu tượng nên các đơn vị này ít có khả năng kết hợp tự do với các yếu tố Thuần Việt trong cấu tạo từ và câu. Không thể nói: phụ tôi, thê anh, thiếp nó...

Trong sáng tác Nôm xưa, cha ông ta đã có ý thức dịch các từ này sang từ Thuần Việt, ví dụ:

Hán Việt Thuần Việt
hiếu thảo
trung ngay
nan, bắt khôn
thần tôi
nghiêm ngặt
tòng lăm
tranh đôi
tịch quạnh
trú đỗ
đại cả
chủng đấng
lự âu(2)

song giữa hai loại từ vẫn có một khoảng cách ngữ nghĩa khá rõ và từ Hán Việt loại này vẫn mang ngoại lai rõ rệt kể cả về mặt phong cách học.

6. Từ vựng văn ngôn Hán (nhất là ở các trước tác Tiên Tần) lúc đầu phần lớn là những từ đơn tiết và một số từ song thanh, điệp vận (từ lấp láy), từ đa tiết còn rất ít do số lượng âm tiết tiếng Hán lúc này còn rất phong phú. Ví dụ: tiếng Hán Thượng cổ còn có những âm cuối [-d], [-g], [-r]... những âm này đã mất trong tiếng Hán Trung cổ. Để bù đắp cho sự nghèo nàn đi về mặt ngữ âm dẫn đến việc sản sinh ra nhiều từ đồng âm, tiếng Hán lúc này có xu hướng đa tiết hóa. Đời Đường, tiếng Hán đã có rất nhiều từ song tiết. Sang đến tiếng Hán cận hiện đại thì từ song tiết đã có tỉ lệ áp đảo do sự mất các âm cuối -p, -t, -k, -m và hệ thống thanh điệu mất hẳn thanh nhập.

Rất nhiều từ song tiết Hán Việt được mượn vào tiếng Việt lúc đầu chủ yếu qua thư tịch Hán như: tiết tháo, quân tử, chính trực, qui củ, cung phụng, hiếu tử, nghĩa phụ, trung thần, can qua ... các từ này khi ở tiếng Hán được cấu tạo theo các quy tắc nội tại của tiếng Hán và từng yếu tố đều có nghĩa, người Hán có thể cảm nhận được một cách rõ ràng, chính xác. Ví dụ trong quy củ, thì quy là dụng cụ để vẽ vòng tròn (cái compa); củ là dụng cụ để vẽ góc vuông (cái êke); trong mô phạm thì là cái khuôn bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng tre; trong do dự thì do là loài động vật (có bộ vật) giống khỉ nhưng nhút nhát, nghe tiếng gió thổi không dám nằm một chỗ trên cây mà cứ leo lên tụt xuống, dự là con vật giống voi, nhỏ hơn nhưng vụng về chậm chạp, hai con gặp nhau không biết tránh lối mà cứ tiến lên lùi xuống một chỗ; phong kiến là do từ “phong hầu kiến ấp” thời Xuân thu Chiến quốc (phong tước hầu và ban đất cho lập ấp); kinh tế là do từ “kinh thế tế dân” (trị đời giúp dân yên sống); ti trúc là hai phương thức tạo tiếng nhạc trong bát âm (ti, trúc, mộc, thạch, kim, cổ, biều, cách) dùng trỏ âm nhạc nói chung... người Việt thông thường không nắm được sự phân tích rạch ròi ấy nên cảm thức ngôn ngữ của họ đối với các từ song tiết Hán Việt ấy khác hẳn người Hán. Họ hiểu yếu tố này nhưng không giải thích được yếu tố kia, hoặc hiểu hai yếu tố một cách lờ mờ qua kinh nghiệm sử dụng, hoặc hiểu từng yếu tố một cách gián tiếp qua các chùm quan hệ như hiểu thảo qua thảo mộc, thảo dã, thảo lư, thảo khấu, thu thảo, phương thảo; hiểu sắc qua nhan sắc, sắc dục, sắc diện, thất sắc... những từ này họ bắt gặp ở chỗ này chỗ kia rồi luận ra, khác cách hiểu rành mạch đối với các từ thuần Việt cỏ màu. Rõ ràng đối với người Việt, ô khái niệm của những từ này hoặc bị bỏ trống hoặc bị nhòe đi.

Xưa kia đã có lúc ông ta ta cố gắng dịch các từ Hán Việt song tiết này sang tiếng Việt, ví dụ:

Hán Việt Việt
phong trần gió bụi
hoài tâm cưu lòng
gia phong lệ nhà
cố cùng khó bền
đan tâm lòng thắm
xu thời đòi thế
đại cứu thác cả
thế tập dõi truyền
phò chủ dập chúa
hành chỉ đỗ dừng
thống khổ đau bức..(3)

Nhưng cuối cùng các từ dịch vẫn không lột tả được hết các nét nghĩa của từ gốc và giữa hai bên có một sự xung đột phong cách học rõ rệt. Từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng, cổ kính còn từ thuần Việt mang sắc thái dân dã, bình dị, cụ thể. Từ Hán Việt đã làm cho tiếng Việt giàu có thêm về cả mặt từ vựng - ngữ nghĩa lẫn sắc thái biểu cảm.

7. Phong cách cổ kính, trang trọng, thấp thóang của từ Hán Việt là điều hiển nhiên, có thực chứ không phải là sự suy đoán và nó đã gây áp lực đến hệ thống âm Hán Việt. Hai hệ thống âm Hán Việt và thuần Việt có một đường ranh giới ngữ âm, vì âm Hán Việt suy cho cùng vẫn là hệ quy chiếu âm nước ngoài. Ví dụ: Hán Việt không có thủy âm [g] và [r]; các âm đầu tắc họng (không được ghi trong chữ Quốc ngữ) bắt nguồn từ âm tắc họng vô thanh Hán nên luôn luôn đứng trước các vần mang thanh điệu bổng (ngang, sắc, hỏi) ví dụ: a, á, ả, âm, ấm, ẩm, ung, úng, ủng, y, ý, ỷ... các thủy âm [ch], [gi], [kh], [x] bắt nguồn từ âm đầu vô thanh Hán nên cũng luôn luôn đứng trước các vần mang thanh điệu bổng (ngoại lệ chỉ có xã, xạ) như: chi, chí, chỉ, chung, chúng, chủng, gia, giá, giả, giang, giáng, giảng, kham, khám, khảm, khô, khố, khổ, xi, xí, xỉ, xa, xá, xả... về vần, Hán Việt không có các vần on, ot, om, op, ơm, ơp, oen, oét, âng, âc, e, en, eo, em, ep, ên, êt, êm, êp, v.v.. các nhà văn xưa khi sáng tác văn thơ Nôm bằng tiềm thức đã lờ mờ nhận thấy đường ranh giới này mà vận dụng nó trong khi lựa chọn vần thơ. Áp lực phong cách của hai hệ thống từ vựng đã ảnh hưởng cả vào địa hạt ngữ âm. Vần Hán Việt được dùng để tạo không khí trang trọng, cổ kính cho bài thơ. Ví dụ Bà Huyện Thanh Quan đã dùng vần Hán Việt ôn để viết bài Chiều hôm nhớ nhà và vần Hán Việt ương viết bài Thăng long thành hoài cổ với những câu như:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thóat mấy tinh sương

Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...

và ngược lại, các thi sĩ dùng vần Thuần Việt om, on, eo... để tạo cho bài thơ ý vị dân dã, mộc mạc, thân thuộc, hoặc bỡn cợt. Nguyễn Khuyến dùng vần eo sáng tác bài Thu điếu, gợi nên phong cảnh làng quê thân thương giản dị với những câu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...

Lá vàng trước gió sẽ bay vèo...

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo...

không phải vô tình mà chỉ trong hai chục bài thơ của Hồ Xuân Hương in trong Tuyển tập thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX (Nxb. Văn học, H, 1978) có 5 bài thơ “khóc” (Than thân, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Khóc chồng, Lấy lẽ) đều dùng các vần Hán Việt ôn, ôi, ông... và 10 bài thơ “lỡm” (Tự tình, Mắng học trò dốt, Mắng văn nhân dốt, Đền Sầm Nghi Đống, Chùa Quán Sứ, Đèo Ba Dội, Hang Cắc cớ, Cái quạt, Bánh trôi nước) đều dùng các vần Thuần Việt ênh, om, ơ, ên, ec, ay, on... ví dụ bài Hang Cắc Cớ có những câu:

Trời đất sinh ra đá một chòm,

Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom...

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.

Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,

Con đường vô ngạn tối om om...

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!

Sự nhận thức ra được, tuy còn chưa rõ rệt, quan hệ đối lập giữa hai hệ thống ngữ âm Thuần Việt và Hán Việt cũng phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Qua bao phen mài câu chọn chữ để sáng tác ra một áng thơ Nôm, cha ông ta đã lần ra đước sự thực này và sử dụng nó như một bí quyết, một chìa khóa, một cái nút để tạo phong cách cho bài thơ.

8. Thường người ta coi sự đối lập phong cách học giữa từ Hán Việt và từ Thuần Việt như một cái gì hiển nhiên đã có sẵn mà không chú ý đến quá trình sinh thành ra nó. Nội dung của sự đối lập này phải được xác lập dần dần qua lịch sử. Các từ Hán Việt cũ từ chỗ lúc đầu được dùng đậm đặc trong các tác phẩm Nôm cổ (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm) dần dần thưa hơn trong các tác phẩm Nôm thế kỷ XVIII, XIX, lại rất ít tham gia vào ngôn ngữ dân gian (ví dụ hầu như vắng mặt trong các chuyện cổ tích) nên đã khoét sâu dần cái hố ngăn cách giữa chúng với các từ Thuần Việt, khiến ta nhìn chúng như nhìn vào quá khứ, nhìn vào một bức tượng cổ, làm cho câu văn câu thơ chứa đựng nó có một sắc thái riêng biệt. Ta thử đọc những câu như “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san” (Kiều) và tự hỏi “màu quan san” là gì? Bằng trực cảm, thực khó nhận được rõ rệt. Quan chắc phải là một nơi xa xôi, hiu hắt lắm bởi ta đã biết các từ quan ải, quan hoài... và san cũng thế, nó xuất hiện trong giang san, lượng ngọc danh san... vậy quan san phải là nơi heo hút, hẻo lánh, xa vời vợi, đi sang xứ người và dằng dặc đường trường v.v.. và màu quan san là một màu buồn rười rượi, màu xa cách, màu trắc trở và tóm lại là một màu sắc tâm lí, không cụ thể, không nhìn thấy được, được cảm nhận bằng nội tâm chứ không phải bằng ấn tượng thị giác. Lại như câu “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo” (Bà huyện Thanh Quan), nếu thay hồn thu thảo bằng cỏ hoặc cỏ mùa thu thì cái buồn bàng bạc biến mất vì nó quá cụ thể, sờ sờ trước mắt, còn đâu cái buồn tâm tưởng không làm ta đau đớn mà làm ta ngậm ngùi. Chính vì “thảo” gợi cho ta ngoài nghĩa cỏ trần trụi có thể sờ mó được, còn là cái cỏ của muôn đời của quá khứ, của thời Kinh Thi. Đường Tống như “thảo sắc tân”, “vong ưu thảo”. “Xuân đáo nhân gian thảo mộc tri”, “độc lân u thảo giản biên sinh”, “thảo trưởng bình hồ bạch lộ phi”... Chữ “thảo” khi đặt ra trong tiếng Hán vốn không có nghĩa ấy, những ý nghĩa ấy lại tồn tại thực sự trong tâm hồn người Việt được diễn xuất ra từ các mối liên tưởng qua việc đọc thơ văn cổ.

9. Sự phân chia ra thành từ Hán Việt cũ và từ Hán Việt mới là hữu ích trong việc định giá phong cách của chúng. Các từ Hán Việt mới ít có từ Việt tương ứng, lại thường xuyên xuất hiện trong các văn bản cận hiện đại, tuy có khó giải thích từng yếu tố nhưng người Việt có thể hiểu được dễ dàng hơn do sự tiếp xúc thường xuyên với chúng, ví dụ: giai cấp, cố nông, độc lập, tự chủ, giác ngộ, kiến thiết, qui hoạch, bộ đội, chiến trường, dân công, hỏa tuyến, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tư bản, lũng đoạn, phụ nữ, nhi đồng... Người Việt không có nhu cầu tạo ra một lớp từ thay thế nên giữa chúng với từ Thuần Việt không có một cái hố ngăn cách nào. Vả chăng, chúng cũng không đủ nồng độ thời gian để đẻ ra một phong cách riêng tách khỏi khối từ Thuần Việt, ngay cả những từ xuất hiện ở chữ Hán đã lâu nhưng mới du nhập vào tiếng Việt và rất khó giải thích như lũng đoạn, ung thư(4).

10. Cuối cùng, trong các giáo trình về văn học và ngôn ngữ người ta thường nhắc đến từ Hán Việt và coi đó là một trong những đặc điểm của ngôn ngữ văn học Trung đại, song người nghiên cứu không có sự phân chia giữa các từ Hán Việt, lại coi phong cách của nó như một cái gì đã có sẵn rút ra từ sự đối lập giữa nó với từ Thuần Việt mà không thấy và không tìm giá trị phong cách học của nó từ trong lịch sử vận dụng từ vựng qua các thời đại và các thể loại, do đó vẫn đang có những vấn đề cần được tranh cãi.

Bài này góp một phần nhỏ trong chặng đường tìm tòi cách giải đáp cho những vấn đều cần tranh cãi trên.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành các đọc Hán Việt, Nxb KHXH, H, 1979.

(2) Các ví dụ này lấy trong Quốc âm thi tập và bản dịch Nôm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh.

(3) Các ví dụ lấy trong hai sách đã dẫn trên.

(4) Trong sách Mạnh Tử lũng đoạn: lũng (cái gò cao) đoạn (quyết đoán) trỏ hành động của bọn phú thương chọn chỗ ngồi cao ở chợ để quan sát và quyết định giá cả trong toàn chợ./.

TB

SƠ BỘ TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA BỘ KHẨU HÁN TRONG CẤU TẠO CHỮ NÔM

LÃ MINH HẰNG

Khi phân tích cấu tạo chữ Nôm, các nhà nghiên cứu thường phân hệ thống chữ Nôm làm 2 loại lớn: chữ Nôm mượn nguyên và chữ Nôm tự tạo. Chữ Nôm mượn nguyên thường hay mượn chữ Hán cả âm và nghĩa (đọc theo âm Hán Việt), cũng có khi chỉ mượn riêng mặt âm hoặc mặt nghĩa của chữ Hán đó. Trái lại, dạng chữ Nôm tự tạo hầu như không thấy xuất hiện trong các văn bản Hán (trừ những trường hợp trùng ngẫu nhiên như chữ Hán “trảo” 找 và chữ Nôm “quơ” 找 gồm bộ thủ + chữ qua), đây là những dạng chữ được sáng tạo hoàn toàn trên cơ sở chất liệu của chữ Hán.

Trong chữ Nôm tự tạo, hệ thống bộ thủ Hán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cấu tạo nên những chữ Nôm khác nhau. Chữ Hán là loại chữ tượng hình, người Việt đã phỏng theo một số nguyên tắc cấu tạo chữ trong tiếng Hán, sử dụng triệt để các bộ thủ của chữ Hán để cấu tạo nên chữ Nôm. Ví dụ: dùng bộ thủy của tiếng Hán kết hợp với các chữ Hán khác nhau để tạo nên những chữ Nôm chỉ khái niệm về nước, về sông hay những hoạt động cần đến nước như tắm, giặt, gội... Dùng bộ khẩu để cấu tạo nên những chữ Nôm chỉ khái niệm về mồm, miệng sau đó tiến tới dùng bộ khẩu để chi các hoạt động của miệng như ăn, nói, hỏi... Khác với các bộ thủ khác, bộ khẩu được sử dụng khá nhiều trong chữ Nôm: bên cạnh tác dụng biểu thị ý nghĩa trong chữ Nôm, đôi khi bộ khẩu còn mang tính chất như một dấu hiệu để chỉnh âm đọc. Trong trường hợp này, nó đóng vai trò gần như một dấu “nháy”, báo hiệu cho người ta phải đọc âm khác đi so với âm Hán Việt. Về loại này, giáo sư Vương Lực nhận xét: “có một loại chữ hình thành rất giống chữ cho thêm ký hiệu, đó là lấy 囗 làm phù hiệu. Bộ 口 này không có ý nghĩa, nó chỉ biểu thị chữ đó không giống về ý nghĩa với chữ không có bộ khẩu bên, loại này rất giống với 咖 啡 cà phê trong tiếng Trung Quốc(1). Bởi vậy, việc đi sâu tìm hiểu hoạt động của bộ khẩu có ý nghĩa rất lớn, nó giúp ta hiểu cặn kẽ hơn cấu trúc nội tại của hệ thống chữ Nôm.

Dưới đây, chúng tôi xin khảo sát hoạt động của bộ khẩu trong việc cấu tạo nên chữ Nôm. Bài viết này, chủ yếu dựa trên những cứ liệu rút ra từ cuốn Cổ Châu Phật bản hạnh(2) Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục. Trong quá trình phiên âm và phân tích tỉ mỉ cấu tạo của từng chữ Nôm trong 2 sách đó, chúng tôi đã rút ra một số chữ Nôm mang bộ khẩu mà theo nhận xét bước đầu có thể coi là những chữ Nôm được cấu tạo theo phương thức tự tạo. Trong chữ Nôm dạng này gồm có một chữ Hán (có tác dụng biểu thị âm thanh) và bộ khẩu... Để tìm hiểu vai trò của bộ khẩu trong việc cấu tạo nên các chữ Nôm này, bước đầu tiên chúng tôi thực hiện thao tác lưỡng phân, dựa trên thế đối lập giữa sự có mặt hay vắng mặt các chữ Nôm đó trong từ điển chữ Hán ở Trung Quốc.

I/- Những chữ Nôm mang bộ khẩu hoàn toàn không thấy xuất hiện trong các tự điển chữ Hán (ở đây chúng tôi chỉ tạm đối chiếu với Khang Hi tự điển Từ nguyên). Đó là những chữ Nôm tự tạo trên cơ sở các bộ thủ và chữ Hán có sẵn. Ở đây, xảy ra 2 trường hợp:

A. Bộ khẩu mang tính chất của một bộ thủ biểu thị ý nghĩa. Ở tiếng Hán, chữ khẩu chỉ “khí quản của người, động vật dùng để ăn uống, phát âm” (Từ nguyên). Ví dụ 囗 : mồm, 吃 : ăn, gieo 叫 : kêu gọi, 吟 ngâm xướng... Khi cấu tạo chữ Nôm, bộ khẩu nhiều khi cũng được dùng với các nghĩa trên.

a. Bộ khẩu dùng để chỉ mồm, miệng và các hoạt động của mồm như gọi, răn, dạy... Phân tích các chữ Nôm sau đây (để tiện theo dõi, từ đây trở đi sẽ đánh số thứ tự cho các chữ Nôm từ 1 đến hết), ta thấy:

1. 噲 gọi: gồm có bộ khẩu (biểu ý) + chữ hội (biểu âm) h => g

2. 竃 răn: gồm bộ khẩu (biểu ý) + 1 bộ phận chữ lân (biểu âm) l => r

3. 嗔 xin: Gồm bộ khẩu (biểu ý) + chữ chân (biểu âm) chân => xin

4. 慿 khen: gồm bộ khẩu (biểu ý) + chữ khán (biểu âm) khán => khen

5. 凧 dạy: gồm bộ khẩu + chữ đại, đại => dạy.

6. Chữ 坙 hỏi, nếu phân tích thành bộ khẩu + chữ mỗi thì không giải thích thoả đáng âm đọc của chữ Nôm “hỏi” được. Trong Khang Hi tự điển không có chữ này, mà chỉ có dạng đọc là “hỗ” (còn trong Từ nguyên, thì cũng không có dạng chữ “hỗ”). Trong chữ Nôm có nhiều trường hợp trật tự 2 thành tố cấu tạo nên chữ có thể đảo vị trí cho nhau (trên - dưới, phải - trái) để tạo nên các mã chữ khác nhau. Hơn nữa, cho dù chữ Hán và chữ Nôm đó có hình thức giống hệt nhau, cũng không nên vội kết luận chữ Nôm đó thuộc loại giả tá, mượn hoàn toàn từ chữ Hán. Ví dụ: chữ trảo và chữ quơ, chữ thản và chữ đất. Vì vậy chữ 坙 hỏi chúng tôi coi là chữ Nôm tự tạo. Cấu tạo chữ này được phân tích như sau: 口悔 (bộ khẩu + hối) => 坙 gồm bộ khẩu + hối. Bộ tâm đứng bị mất đi qua quá trình muốn viết nhanh (Trường hợp này giống như chữ đất 堩 => 坦 đất).

7. Chữ 俧 uống, là loại chữ Nôm tự tạo, được phân tích như sau: bộ khẩu (biểu ý) + chữ uông (biểu âm) u (w) => u 口 + 汪 => 俧 ghi tắt.

8. Chữ 愇 giã có nghĩa từ biệt, giã từ, gồm bộ khẩu (biểu ý) + giả (biểu âm). Giả => giã.

9. Chữ 湗 mượn, khi “mượn” cần phải nói lời yêu cầu với đối phương, bởi vậy: bộ khẩu (biểu ý) + chữ mạn (biểu âm): mạn => mượn.

b. Nhiều trường hợp dùng để chỉ âm thanh phát ra từ miệng, chữ Nôm cũng cần đến bộ khẩu để chỉ ý: nơi xuất phát ra âm thanh đó:

10. Chữ lời gồm có bộ khẩu (biểu ý) + chữ Nôm “lời” (nghĩa lời nói, để biểu âm).

11. Chữ lời gồm bộ khẩu + chữ lệ. Đôi khi người ta còn dùng bộ khẩu trong việc cấu tạo nên các chữ Nôm chỉ âm thanh nói chung (chứ không kể âm thanh phát ra từ miệng).

12. Chữ 肹 vang, gồm bộ khẩu + chữ vinh (biểu âm) bộ khẩu hướng âm đọc từ vinh => vang.

B. Cũng có lúc, bộ khẩu không có tác dụng biểu thị ý nghĩa nữa. Nó chỉ làm một dấu hiệu báo cho ta phải đọc chệch âm đi so với âm Hán Việt của chữ Hán kèm theo. Trường hợp này, bộ khẩu có tác dụng như những dấu nháy trong chữ Nôm. Thí dụ:

13. Chữ 譃 gẫm, gồm bộ khẩu + chữ cẩm. Bộ khẩu không mang ý nghĩa gì thực sự mà chỉ có tác dụng báo hiệu chữ này không được đọc đúng theo âm Hán Việt là “cẩm” mà phải đọc lệch đi. Sự đọc chệch này nhiều khi còn phải dựa vào văn cảnh để đọc cho đúng. Thuộc tiểu loại này còn có:

14. Chữ 惗 vui (nghĩa trong bài “vui vẻ”) gồm: bộ khẩu + chữ bôi. Đáng lẽ để biểu thị tâm trạng vui vẻ của con người, phải dùng bộ tâm + chữ 戞). Ở đây bộ khẩu chỉ thuần tuý có tác dụng chỉnh âm chữ bôi => vui.

15. Tương tự, ta có chữ 挗 rày, gồm bộ khẩu + chữ lệ. Như vậy, với bộ khẩu + chữ lệ, nhưng do cách bố trí theo trật tự khác nhau, đã tạo thành 2 chữ Nôm khác nhau: chữ rày và chữ lời (ở phần trên).

16. Chữ 渕 mảng gồm bộ khẩu + chữ mãng, bộ khẩu là một báo hiệu chỉnh âm đọc từ mãng - mảng (mảng: nghe - từ cổ).

17. Chữ 口壬 nhậm, gồm bộ khẩu = chữ nhâm trong bài “nhậm nhặt” là 1 từ ghép ở chữ nhậm, bộ khẩu hoàn toàn không có nghĩa, nó chỉ có tác dụng chỉnh âm đọc của từ “nhâm” bên cạnh thành nhậm.

18. Chữ 蚃 nức gồm bộ khẩu + chữ thắc. Xét về phụ âm đầu, th/t’/Hán có thể dùng để ghi d/z/Việt. Mặt khác, cũng có thể dùng đ/d/Hán để ghi n/n/ và d/z/Việt. Hai âm đ/d/ và n/n/ tương ứng với nhau do thời tiền Việt Mường, tiếng Việt có nhóm phụ âm nd. Nhóm này về sau có sự phân tách theo nd ® n Việt
® d Mường

Ví dụ: Việt: nác, nước; Mường: đác.

Trở lại chữ 蚃 nức, dùng “thắc” để ghi âm “dắc” nào đó, d là do đ chuyển thành, đ tương ứng với n. Vậy có thể dùng “nắc” thay cho âm “dắc” in ở trên. Bộ khẩu trong chữ Nôm “nức” có tác dụng chuyển âm nắc => nức. Như vậy chữ Nôm “nức” được phân tích thành: bộ khẩu + chữ “thắc”. Trong đó bộ khẩu có tác dụng như 1 dấu hiệu chỉnh âm đọc từ thắc => nức.

II/ Bên cạnh đó, còn có một số chữ Nôm mang bộ khẩu nhưng lại thấy có mặt trong Từ điển chữ Hán, bởi vậy, việc xem xét xem đây có phải là chữ Nôm tự tạo hay không là công việc không đơn giản. Cần phải khảo sát cụ thể từng chữ Nôm về cả ba mặt: Hình âm và nghĩa, đồng thời so sánh với nhưng chữ Hán tương ứng mới có thể đưa ra kết luận chính xác được.

19. Chữ 処, Nôm đọc là “hay”. Nguyên chữ Hán chữ này đọc là “hai” có nghĩa là chê cười (Từ nguyên). Ở chữ Nôm, chữ này đọc là “hay” với nghĩa hay biết. Như vậy chữ Nôm, “hay” mượn nguyên hình chữ của chữ Hán, đây là trường hợp thật khó đoán định dứt khóat vì nó có thể: (3).

- Coi là chữ mượn nguyên từ chữ Hán để phiên tiếng Việt (mượn “hai” để khuyên “hay”).

- Coi là chữ do người Việt tự tạo bằng cách ghép bộ khẩu + chữ thai. Nếu đúng như vậy, thì ở đây bộ khẩu không có tác dụng biểu thị ý nghĩa, trái lại nó chỉ đơn thuần là dấu hiệu chỉnh âm đọc từ thai - hay (khẩu tương đương dấu cá nháy).

20. Chữ 咏 vẳng, âm Hán Việt đọc là vịnh (với nghĩa ca vịnh), Nôm đọc là “vẳng” với nghĩa một trò chơi (Ví dụ: “Ăn khao đánh vẳng thuận thì gió mưa” - Cổ Châu, 14b.2). Trường hợp này cũng giống chữ “hay” vừa phân tích.

21. Chữ 凩 , Nôm đọc là “miệng”. Trong Khang Hi tự điển chữ này được phiên là “hào” với nghĩa: tiếng con hổ, con gấu kêu. Nhưng trong Từ nguyên thì không thấy có chữ này, điều đó chứng tỏ rằng chữ “hào” là dạng chữ khá cổ trong tiếng Hán cổ đại.

Chữ Nôm 凩 là dạng chữ Nôm tự tạo, để hiểu được cách đọc của chữ “miệng” này ta phải phân tích chúng thành các thành tố như sau:

bộ khẩu + chữ mãnh (chữ mãnh có nghĩa là đồ đựng), bộ khẩu biểu ý và chữ mãnh biểu âm mãnh => miệng.

22. Chữ 吿 , Nôm đọc là ăn. Trong Khang Hi tự điển, chữ này được chú âm là “ô cát thiết, tòng âm át” và có nghĩa là ăn (ngoài ra còn có 2 nghĩa nữa). Đến Từ nguyên, thì chữ này không còn xuất hiện nữa. Có thể nói đây là dạng chữ khá cổ trong tiếng Hán cổ đại.

Chữ 吿 trong chữ Nôm và trong tiếng Hán cổ đại đều có nghĩa là ăn. Nôm đọc là ăn. Hán cổ đọc là át, nghĩa: ăn.

Tuy vậy, vẫn có thể khẳng định đây không phải là dạng chữ Nôm mượn nguyên của chữ Hán (về hình và nghĩa). Bởi vì điều rất dễ hiểu là khi mượn chữ Hán để sử dụng cho tiếng dân tộc mình, ông cha ta không có cớ gì mà mượn những chữ rất ít dùng của tiếng Hán (thậm chí còn xa lạ với ngay cả người Trung Quốc đương thời). Hiện tượng “ăn” là một dạng chữ Nôm tự tạo dựa trên 2 thành tố: bộ khẩu (biểu ý) + chữ an (biểu âm) an => ăn(4).

23. Chữ 埉, Nôm đọc là “rao” Khang Hi tự điển chú thích: “tòng lao”, có nghĩa “nói quanh” (lan lao liên lũ ngôn ngữ tiểu giải dã). Cũng như 2 chữ số 21 và 22, dạng chữ 埉 “rao” không thấy có trong Từ nguyên. Chữ Nôm 埉 “rao” là loại chữ tự tạo gồm bộ khẩu biểu ý + chữ lao biểu âm, lao => rao.

24. Chữ 宼 cười, chữ Hán có âm đọc “khái” có nghĩa “không nghe, không nhìn thấy”. Ở đây không có mối liên hệ gì về âm và nghĩa của chữ “khái” (Hán) với chữ “cười” (Nôm). Chữ “cười” chỉ có thể hiểu được về âm đọc khi ta phân tích chúng thành bộ khẩu (biểu ý) + chữ kỳ (biểu âm). Kỳ => cười.

25. Chữ 曢 tiếng, Khang Hi tự điển, chú âm đọc là sảnh có nghĩa “ngậm miệng không nói”, âm đọc và nghĩa chữ Hán này không có mối liên quan với “tiếng” là âm đọc của chữ Nôm. “Tiếng” là dạng chữ Nôm tự tạo gồm bộ khẩu (biểu ý) + chữ tỉnh (biểu âm), tỉnh => tiếng.

26. Chữ 吶 nói, âm Hán Việt là “nột” nghĩa là “chậm chạp” (Ngọc thiên), hay nghĩa “nói khó” (Tập vận). Đây cũng là dạng chữ Nôm tự tạo gồm bộ khẩu (ý) + chữ nội (âm), nội => nói.

27. Chữ 吱 “chê”, Khang Hi tự điển chú âm đọc là chi (chương di thiết), là từ chỉ tiếng thanh. Đây cũng là chữ Nôm tự tạo gồm 2 thành tố: bộ khẩu biểu ý + chữ chi biểu âm, chi => chê.

28. Chữ 囉 ra (động từ, nghĩa là ra vào) Khang Hi tự điển chú âm “lỗ hà thiết” (âm la) chỉ tiếng ca. Chữ Nôm đọc là “ra”. Đây là dạng chữ Nôm tự tạo gồm 2 thành tố: bộ khẩu + chữ la. Bộ khẩu trong trường hợp này thuần túy mang tính chất là một dấu hiệu chỉnh âm đọc la => ra.

29. Chữ 唏 hơi. Âm Hán Việt đọc là “hi” (hư ky thiết), với nghĩa: than thở.

Ta chỉ có thể hiểu được âm đọc là “hơi” khi phân tích chữ này ra 2 thành tố: bộ khẩu + chữ hi. Ở đây bộ khẩu có tác dụng như một ký hiệu chỉnh âm đọc hi => hơi.

30. Chữ 喝 hát. Âm Hán Việt đọc là “hát” với nghĩa: uống. Trường hợp này cũng có thể hiểu theo 2 cách (giống chữ số 19 và 20);

- Có thể là dạng mượn hoàn toàn chữ Hán để phiên tiếng Việt (mượn “hát” phiên “hát”).

- Có thể là chữ Nôm do người Việt tự tạo bằng cách ghép bộ khẩu + chữ hạt. Trong đó bộ khẩu có tác dụng biểu thị ý nghĩa.

Qua khảo sát phân tích trên đây ta có thể thấy rằng trong cấu tạo chữ Nôm, bộ khẩu đóng vai trò đặc biệt, khác hẳn với các bộ thủ khác của tiếng Hán. Nó không những đóng vai trò bộ phận chỉ nghĩa trong chữ Nôm hình thanh mà còn có tác dụng như một dấu hiệu chỉnh âm đọc trong chữ Nôm. Ta có thể phân những chữ Nôm có bộ khẩu làm 3 loại:

1, Bộ khẩu có tác dụng biểu nghĩa trong chữ Nôm thuộc tiểu loại này gồm có các chữ (theo kết quả phân tích trên):

噲 gọi, 竃 răn, 嗔 xin, 慿 khen

凧 dạy, 坙 hỏi, 俧 uống, 坾

愇 giã, 湗 mượn, lời, 口例 lời

凩 miệng, 吿 ăn, 埉 rao, 宼 cười

曢 tiếng, 吶 nói, 吱 chê

2, Bộ khẩu có tác dụng chỉnh âm trong chữ Nôm. Khác với dấu nháy thường hay đặt bên phải chữ khi đã viết gần xong chữ, bộ khẩu thường đặt bên trái khi bắt đầu viết chữ.

Như vậy về hình thức mà xét, nó rất giống dạng chữ Nôm, có bộ khẩu biểu ý, nếu không để ý thì rất dễ nhầm. Loại này gồm có:

肹 vang, 譃 ngẫm, 戞 vui, 挗 rày

囉 ra, 渕 mảng, 口壬 nhậm, 蚃 nức, 唏 hơi.

3, Ngoài ra còn có 3 chữ có thể hiểu theo 2 cách:

+ Là chữ mượn nguyên hình chữ Hán để phiên tiếng Việt:

* Dùng hai để phiên hay : Mượn âm theo kiểu C2(5)

* Dùng vịnh để phiên vẳng : Mượn âm theo kiểu C2(5)

* Dùng hát để phiên hát : Mượn âm theo kiểu C1(6)

+ Là chữ tự tạo bằng cách dùng bộ khẩu + chữ Hán:

処 hay, bộ khẩu + thai : Bộ khẩu có tác dụng chỉnh âm

咏 vẳng, bộ khẩu + vĩnh : Bộ khẩu có tác dụng chỉnh âm

喝 hát: bộ khẩu + hạt : Bộ khẩu biểu ý

CHÚ THÍCH

(1) Hán ngữ sử luận văn tập - Việt Nam ngữ nghiên cứu. Vương Lực, 1958, tr.384.

(2) Đây là cuốn sách mà một nhóm trong phòng Văn tự Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã sưu tầm được trong chuyến đi công tác tại chùa Dâu - Hà Bắc năm 1989. Sách in năm Cảnh Hưng 13 (1752), gồm 21 trang, được viết theo thể lục bát, kể về sự tích Nam Nương, về lịch sử Phật giáo ở Việt Nam.

(3) Giống trường hợp chữ 嘲 và 沚 mà giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã phân tích. Xem Một số vấn đề về chữ Nôm, Nguyễn Tài Cẩn. Nxb. ĐH và THCN. Năm 1985, tr.49.

(4) Trường hợp này, GS. Vương Lực cũng công nhận là dạng chữ Nôm hình thành. Xem Vương Lực, Sđd, tr.385.

(5) và (6) Ký hiệu phân loại của nhóm Từ điển Nôm.

TB

VỀ NHỮNG THÁC BẢN VĂN KHẮC CHỮ NÔM Ở THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

TRỊNH KHẮC MẠNH
TRƯƠNG ĐỨC QUÁ

Do tính đặc thù của văn bản, nên chữ Nôm khắc trên bia đá đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. Sự chính xác về niên đại và mẫu tự khắc trên các văn bản là một trong những ưu điểm mà các sách Nôm nhất là những văn bản viết tay không thể có được. Nhờ tính đặc thù này mà những chữ Nôm khắc trong các bài văn bia đã là những mẫu tự cần thiết trong việc nghiên cứu quá trình hình thành, cấu tạo và diễn biến chữ Nôm trải qua các giai đoạn lịch sử.

Chứng tích xưa nhất khi xuất hiện chữ Nôm còn giữ lại ở nguyên dạng đến ngày nay là những chữ khắc trên bia đá thời kỳ nhà Lý, nhưng trong bài văn bia Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (thác bản No10755-10761) khắc năm Chính Long Bảo Ứng 11 (1173) có khắc 8 chữ Nôm(1), trong bài văn bia Trăn Tân từ tích (No6366-6367) khắc đời Lý Anh Tông (niên đại khoảng những năm 1138-1175) có khắc 2 chữ Nôm(2) và trong bài văn bia Báo Ân Thiên tự bi ký (No4103) khắc đời Lý Cao Tông (niên đại 1210) có khắc 22 chữ Nôm(3). Đến nay nhiều nhà nghiên cứu chữ Nôm hầu như thống nhất cho rằng: chữ Nôm không thể hình thành trước thế kỷ thứ VII, thứ VIII, giai đoạn manh nha sớm nhất chỉ có thể bắt đầu thế kỷ VIII-IX. Còn chữ Nôm xuất hiện với tư cách một hệ thống phải từ thế kỷ thứ X-XII(4).

Như vậy thì những chữ Nôm khắc trên bia đời Lý còn tồn tại đến ngày nay là cùng thời với tác giả soạn thảo văn bản(5). Các thời kỳ tiếp theo như thời Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn chữ Nôm khắc trên bia đá ngày càng đa dạng, phong phú. Khoảng từ thế kỷ thứ XV trở đi người ta đã khắc trọn vẹn những bài thơ, bài văn sáng tác bằng chữ Nôm của các tác giả đương thời vào bia đá, chữ không phải chỉ những chữ Nôm ghi tên đất tên người... như các thế kỷ trước.

Trong khi đó, như mọi người đều biết, những sách có chép các bài thơ, bài văn bằng chữ Nôm của các tác giả nổi tiếng như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v.. đều được thu thập, sao chép trong thời gian sau này mà thôi. Có thể nêu một số ví dụ như: Sách Thiền tông bản hạnh trong đó có chép 2 bài phú và 1 bài ca chữ Nôm thời Trần(6) đến năm Gia Long thứ 4 (1805) mới được khắc in lại từ một bản in cũ đời Lê và đến năm Bảo Đại thứ 7 (1932) đã được khắc in lại lần thứ 3(7). Sách Ức Trai (Quốc Âm) thi tập của Nguyễn Trãi mà ngày nay chúng ta dùng để phiên âm Nôm là do Dương Bá Cung (1794-1868) sưu tầm, biên soạn và được đem in năm Tự Đức Mậu Thìn (1868). Còn Hồng Đức Quốc âm thi tập của vua Lê Thánh Tông và Bạch Vân Am Quốc ngữ thi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì tình trạng văn bản phức tạp và có thể chưa từng được khắc in. Cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa còn gọi là: Chỉ nam bị loại các bộ dã đàm toàn tập) là bộ sách từ vựng sớm nhất của nước ta được biên soạn vào đời Lê (khoảng thế kỷ XVI), nhưng bản hiện đang lưu giữ đã được trùng san (có thể vào năm 1761)(8). Có thể nói nhiều văn bản Nôm khác cũng trong tình trạng nêu trên. Như vậy rõ ràng là những chữ Nôm ghi chép trong các thư tịch Nôm còn lại đến ngày nay không cùng thời với tác giả sáng tác mà đã trải qua tam sao thất bản rồi.

Hiện nay ở Thư Viện - Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ hơn 20.986 thác bản văn khắc Hán Nôm thì có khoảng 1.205 thác bản khắc chữ Nôm (trong đó có 99 thác bản không ghi rõ niên đại)(9). Đây là những tài liệu quý đáng trân trọng và là những cứ liệu cần thiết khi nghiên cứu lịch sử chữ Nôm.

Bài viết này chúng tôi không đặt vấn đề đi sâu nghiên cứu chữ Nôm trên các bản văn khắc có chữ Nôm và cũng không có ý đồ thống kê tên 1.205 thác bản văn khắc có chữ Nôm mà chỉ giới thiệu những bài thơ, bài văn khắc bằng chữ Nôm để bạn đọc tham khảo. Trong số 1.205 thác bản văn khắc có chữ Nôm chúng tôi mới tìm được 23 bản khắc trọn bài thơ bài văn toàn Nôm, một con số thật ít ỏi so với trên 20.900 thác bản hiện có.

A- Về thơ Nôm có 21 bài, trong đó có 13 bài niên đại được khắc đầy đủ, 5 bài niên đại chỉ khắc năm Can Chi và 3 bài không khắc niên đại. Cụ thể như sau:

1, Có ghi niên đại gồm các bài:

- Ngự đề (thác bản No11.765) khắc ngày 16 tháng 9 năm Bính Ngọ (trong bản rập không khắc niên đại đầy đủ và tên tác giả bài thơ). Bên cạnh bản rập có dòng chữ ghi thêm là: Hải Dương tỉnh Kim Thành huyện Phù Tải tổng Dưỡng Mông xã Quang Khánh tự Lê Thánh Tông ngự đề Quốc âm thi nhất thủ (nghĩa là: một bài thơ Quốc âm của vua Lê Thánh Tông đề ở chùa Quang Khánh xã Dưỡng Mông tổng Phù Tải huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương). Căn cứ vào năm Can Chi khắc ở bia và dòng lạc khoản đề bên cạnh ở bản rập, chúng ta có thể nhận định bài thơ này là của vua Lê Thánh Tông có niên đại khắc năm Hồng Đức 17 (1486) ở chùa Quang Khánh (nay thuộc Kim Môn - Hải Hưng). Bia khắc bài thơ Nôm 8 câu ghi lại cảm xúc của tác giả trước cảnh chùa. Một điều đáng lưu ý là trên Tạp chí Văn học số 3 năm 1983 có đăng bài của Mai Huỳnh Hoa: Đọc đôi nét về bà Sương Nguyệt Ánh chủ bút tờ tuần báo Nữ giới chung cho bài thơ này là của bà Sương Nguyệt Ánh, nhưng bài thơ có nhiều chỗ khác biệt. Bài thơ này đã được phiên âm nhiều lần. Ở đây chúng tôi công bố nguyên bản mà không phiên âm

- Thiên đài thạch trụ (No14957-14960) do Nguyễn Thiên Tái soạn, khắc năm Chính Hòa 20 (1699) triều Lê, tại chùa Thanh Tú, xã Phượng Trì, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Vĩnh Phú). Bia 4 mặt. Nội dung ghi họ tên những người có công đức xây dựng thiên đài bằng đá. Có một bài thơ chữ Nôm ca ngợi việc làm này.

- Ngự đề Nhạc Lâm tự thi (No1959) do vua Lê Dụ Tông soạn, khắc năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) triều Lê, tại chùa Nhạc Lâm, xã Sơn Lộ, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ Nôm của vua Lê Dụ Tông.

- Ngự đề Pháp Vũ tự thi (No7880) do vua Lê Dụ Tông soạn, khắc năm Vĩnh Thịnh 14 (1718) triều Lê, tại chùa Pháp Vũ, xã Gia Phúc, tổng La Phù, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây). Bia một mặt. Nội dung: khắc bài thơ của vua Lê Dụ Tông.

- Hậu Phật bi (No5249-5251) dựng năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) triều Lê, tại chùa Tam Giáo, xã Lạc Đạo, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Mỹ Văn - Hải Hưng). Bia 3 mặt. Nội dung: có khắc bài thơ chữ Nôm

- Chí mỹ bi ký (No14527) do Nguyễn Trạm Hiên soạn, khắc năm Cảnh Hưng 28 (1767) triều Lê, tại sinh từ xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Vĩnh Phú). Bia 1 mặt. Nội dung: Ca ngợi thượng tướng quân Nguyễn Khiêm Tố được nhà vua và bè bạn tặng thơ. Có khắc 2 bài thơ Nôm.

- Trùng cửu đăng Sơn đắc vũ (No17.344) do Tri phủ Trần Nhật Tỉnh soạn, khắc năm Thành Thái 11 (1899) triều Nguyễn trên núi Hàm Rồng, tỉnh Thanh Hóa. Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài ca chữ Nôm.

- Non Nước sơn thi (No19.280) do Hồ Thị Tham và Nguyễn Thị Lan soạn, khắc năm Tân Hợi, niên hiệu Duy Tân 5 (1911) trên núi Non Nước tỉnh Quảng năm (nay thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm vịnh cảnh núi Non Nước và hòn Vọng Phu. Bài thơ Nôm do Hồ Thị Tham soạn.

- Tam Thanh động bi (No15.892) do Đào Vĩnh Thái soạn, khắc năm Giáp Tý, Khải Định 9 (1924) triều Nguyễn, tại động Tam Thanh, phố Muối, thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Bia 1 mặt, khắc trên vách núi. Nội dung: khắc bài thơ Nôm.

- Tam Thanh động bi (No15.890) do Đào Trọng Liên soạn, khắc năm Khải Định Giáp Tý (1924) triều Nguyễn, tại động Tam Thanh, phố Muối, thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Bia 1 mặt, khắc trên vách núi. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Vô đề (No15.897) do Mai Quốc Thái và Lê Thế Tường soạn, khắc năm Bảo Đại 1 (1926) triều Nguyễn, tại động Tam Thanh, Phố Muối, thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Bia 1 mặt, khắc trên vách đá động. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Đính Sơn tự bi (No20.159) do Cử nhân Nguyễn Văn Đào soạn, dựng ngày 20 tháng 9 năm Bảo Đại 5 (1930) triều Nguyễn, tại chùa Đính Sơn, xã Đa Phúc, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Đính Sơn tự Hiển Thụy am bi (No20.154) dựng năm Bảo Đại 10 (1935) triều Nguyễn, tại chùa Đính Sơn, xã Đa Phúc, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

2, Ghi niên đại năm Can Chi.

- Tản Viên sơn tự vịnh thi (No16.416) do Trần Quang Súc soạn, khắc năm Đinh Sửu, tại đền Tản Viên, xã Thủ Pháp, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Tản Viên sơn tự vịnh thi (No16.415) do Bùi Ngọc Bổng soạn, khắc năm Bính Tý, tại đền Tản Viên, xã Thủ Pháp, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Quan Thánh tự bi (No16.681) khắc năm Ất Tỵ, ở bên trái ngoài chùa Quan Thánh, thôn Nhuệ, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn. Thanh Hóa. Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Quan Thánh tự bi (No16.661) dựng năm Kỷ Tỵ, tại chùa Quan Thánh, thôn Nhuệ, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn - Thanh Hóa. Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Quan Thánh tự bi (No16.670) khắc năm Kỷ Tỵ, tại chùa Quan Thánh, thôn Nhuệ, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn - Thanh Hóa. Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

3, Không ghi niên đại.

- Vô đề (No19.279) do Tiểu Cao soạn, không rõ niên đại, dựng tại núi Non Nước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng). Bia 1 mặt. Nội dung: khắc bài thơ chữ Nôm.

- Kim Mã kỷ niệm bi ký (No20.781) tại đình Kim Mã, Hà Nội. Bia 1 mặt. Nội dung: ghi họ tên và công đức những người có công tu sửa đình. Có bài thơ Nôm.

- Thư bút đặc tứ (No2179) tại chùa Vạn Phúc, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Tiên Sơn - Hà Bắc).

B- Về Văn Nôm: hiện chúng tôi mới tìm thấy 2 bài:

- Hậu thần bi ký (No2140) dựng năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780), triều Lê, tại chùa xã Chu Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây). Bia 1 mặt. Nội dung ghi việc ông Đoàn Đình Kim bỏ tiền của mua hậu thần cho ông bà cha mẹ.

- Danh phương thiên tải (No18.485) do Vũ Duy Trinh soạn dựng năm Khải Định 10 (1925) triều Nguyễn, tại đình thôn Thượng, xã Vân Phương, tổng Tiên Phương, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc Phù Tiên - Hải Hưng). Bia 1 mặt (có chữ Hán). Nội dung: văn kiện bằng chữ Nôm của thôn Thượng về việc cải lương tục lễ cũ, tinh giản tế tự ăn uống để làm các việc công ích.

Với danh mục nêu trên thì thơ chữ Nôm chiếm đa số, còn văn chữ Nôm lại quá ít ỏi, đây cũng là một đặc điểm về việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học nghệ thuật của ông cha ta(10).

Chúng tôi xin phiên âm một số bài thơ chữ Nôm trong danh mục nêu trên cùng bạn đọc tham khảo:

* Ngự đề Nhạc Lâm tự thi (No1959).

Mảng vui Thiên Phúc cảnh Thiên Thành;

Ngoạn thưởng âu đây thích tính tình.

Thán thán nhân cơ trông vợi vợi,

Đùn đùn đạo ngạn bước thênh thênh,

Trời xuân vặc vặc hoa kề cửa,

Gió thụy hiu hiu nguyệt giải mành.

Trong thuở tỉnh phương buồm thuận tới,

Tiệc vầy ngâm ngợi khúc long bình.

Khắc ngày 17 tháng 7 niên hiệu Vĩnh Thịnh 13 (1717).

* Ngự đề Pháp Vân tự thi (No7880).

Vô biên công đức dậy lừng danh,

Bỡ ngỡ Hồ Thiên cảnh tú thanh,

Ngọc thỏ một vừng in địa trục,

Bàn long đội thế mở đồ tranh.

Cầm thung gió cuốn khi tuyên pháp,

Hoa báu mưa rây thuở diễn kinh.

Tiết gặp thăng bình nhân thưởng ngoạn,

Tuệ quang hay được khí chung linh.

Khắc ngày mồng 9 tháng 10 niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718).

* Thiên đài thạch trụ (No14957). Xem bản chụp.

Qui mô đời trước dựng(11) đã yên,

Chễm chễm thiên đài thạch trụ tiên.

Ngôi thánh tòa hiền trên dưới sẵn,

Thịnh sự(12) lô hoa tuế thêm tuyền.

Khang ninh phú thọ mừng phúc(13) được,

Phần hương một triện thấu hoàng(14) thiên.

Công đức ít nhiều lòng tích thiện,

Ý để lâu bền thiệu thiên niên.

Khắc năm Chính Hòa 20 (1699).

* Hậu phật b i (No5249).

Tùng lâm tượng để dấu dành dành,

Cốc(15) được dương cơ giọt tướng khanh.

Thanh bạch vốn còn như đức dọi,

Tiêu dao vẫn đã gội duyên lành,

Dưới tòa lòng giãi người trình hậu,

Trước bệ kinh, niềm khách Đâu thành,

Còn Phật còn làng còn tượng đấy,

Khí thiêng càng cấu, cấu càng linh.

Khắc năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731).

* Trùng cửu đăng sơn đắc vũ (No17.344).

Trăng thanh gió mát,

Có gì hơn vui nước vui non!

Võng châu đình chớ nghĩ con con,

Hội thượng hạ đăng sơn ngày trùng cửu,

Tiệc thượng đào nương ca “tiến tửu”,

Rót chén quỳnh mừng lão thiếu được khang ninh.

Chúc giang sơn thảo mộc quần sinh,

Nay đã ứng điềm lành mưa móc xuống.

Ơn mưa móc ngày ngày rủ xuống,

Chén rượu đào cùng nhau uống để vui chơi,

Giữa dòng sông thuyền ngư phủ khoan mái,

Bên sườn núi lũ nhi đồng cười cợt cợt.

Sách có chữ: “dữ dân đồng lạc”,

Sự rong chơi cũng khác người ta,

Tiếng đàn tiếng hát ngân nga.

Khắc năm Thành Thái 11 (1899).

* Kim Mã kỷ niệm bi ký (No20.781)

Xem bia lại nhớ đến người,

Tiếng thơm để mãi muôn đời ngợi khen.

Nhiều làm phúc ít làm duyên,

Gọi là của cải xây nền cải lương.

Không rõ niên đại khắc bia.

* Thư bút đặc tứ (No2179).

Trung cần hai chữ vẹn chu toàn,

Thành toại nay đà phỉ sở nguyền.

Sơn thủy đồ thư dầu điểm xuyết,

Kỳ Anh tiệc hợp mặc mời khuyên.

Lảng vui há lảng miền y quốc,

Say đạo cùng say cõi giáo thiền.

Miễn miễn khề khà câu ích tráng,

Lộc trời tước nước dõi miên miên.

Không rõ niên đại khắc bia.

Danh mục các bài thơ bài văn khắc bằng chữ Nôm hiện có ở Thư viện - Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà chúng tôi nêu ở trên có thể chưa đầy đủ. Sau này trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu nếu phát hiện thêm xin giới thiệu bổ sung./.

TB

VỀ LỜI BẠT QUYỂN
"LĨNH NAM CHÍCH QUÁI"

DƯƠNG BẢO QUÂN*

Lĩnh Nam chích quái làm một tập truyện cổ quan trọng của Việt Nam, tập hợp hàng chục thiên thần thoại, truyền thuyết với nội dung rất rộng, đề cập đến lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của Việt Nam, là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu xã hội Việt Nam về mọi mặt.

Do nhiều nguyên nhân, các học giả Trung Quốc phần lớn chưa được biết tới cuốn sách này.

Đầu năm 1991, Nxb. Trung Châu tỉnh Hà Nam, Trung Quốc đã xuất bản cuốn Lĩnh Nam chích quái đẳng sử liệu tam chủng(1) do GS. Đới Khả Lai ở khoa Lịch sử, trường Đại học Trịnh Châu và người viết bài này cùng hiệu chú, cung cấp cho giới nghiên cứu sử Việt Nam của Trung Quốc một số sử liệu Việt Nam có giá trị để tham khảo. Nhưng vì lúc đó chưa tìm được Lời bạt sách Lĩnh Nam chích quái do Kiều Phú viết, nên GS. Đới Khả Lai phải dựa vào Lời bạt đã dịch sang tiếng Việt trong cuốn sách của Nxb Văn hóa của Việt Nam xuất bản năm 1960 để dịch ra Trung Văn.

Tháng 3, tháng 4 năm 1992; người viết bài này đã sang khảo sát và trao đổi học thuật ở Việt Nam, có dịp đọc và sao chụp được nguyên bản bản chép tay tài liệu trên tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, khắc phục được điều đáng tiếc nói trên.

Căn cứ vào bản Lĩnh Nam chích quái mang kí hiệu A.1300 hiện lưu trữ tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì nguyên văn không gọi là “Bạt” mà ghi là Bài tựa sau của “Lĩnh Nam chích quái ngoại truyện”(2) . Hơn nữa trong “Mục lục” ghi rõ nó nằm ở tờ 1 đến tờ 3 đầu Quyển hạ. Nhưng xét trên phần còn lại của bản sao bị tàn khuyết ấy thì thiên “Hậu tự” này vẫn nằm đầu Quyển hạ, tức ở vị trí của “Lời tựa”.

Để độc giả thấy được bộ mặt vốn có của bài “Hậu tự” vừa nói, xin chép lại toàn văn bài ấy như sau:

“Ngu ý cho rằng việc chính đáng ghi nơi kinh sử là để lưu lại ở đời, việc kỳ quái chép vào truyện kí là để rộng nghe sự lạ. Cho nên việc các đời Ngu, Hạ, Thương, Chu thì chép vào kinh, việc các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên thì ghi ở sử. Còn các chuyện như ông già bơi sông, theo rồng vạch đất, đánh trống vang đường, sẽ ngậm sách đỏ, thì có truyện kí để bổ sung. Vũ Đế nội truyện đời Hán, Thiên Bảo di sự đời Đường, Triều dã thiên tải đời Tống, không gì khác hơn là góp nhặt chuyện lạ các đời để tiện xem mà thôi.

Nước Việt ta từ thời Mười hai Sứ quân về trước, tuy văn hiến chưa đủ để khảo chứng, nhưng sự tích của nước nhà vẫn có thể xem ở Thốc Thủy Thông giám và sử sách thuộc các triều. Còn như sự linh thiêng của núi sông, sự kỳ lạ của nhân vật thì tuy sử bút không chép, nhưng bia miệng không sai, người sau gom lại và biên thành truyện, được một số thiên. Thu thập những mẫu chuyện vặt vãnh, tản mạn để bổ sung vào chỗ hiểu biết chưa đầy đủ; điều quái gở thì gạt đi, điều quan trọng thì giữ lại.

Than ôi ! Đã có chuyện trời sai huyền điểu giáng trần mà sinh ra nhà Thương, thì chuyện trăm trứng nở ra trăm con để chia trị nước Nam, cùng chuyện Hồng Bàng không thể bỏ được. Thà làm đầu gà còn hơn đuôi trâu, thì chuyện con cháu họ Triệu chống chọi với Bắc triều và chuyện Nam Chiếu không thể bỏ được. Sông nước vây quanh mà hội tụ rồng xanh, ghi chép về sông Tô Lịch chẳng phải làm đẹp cho phong cảnh của kinh đô ư? Chiến thắng xong mà lơ là lẫy nỏ, ghi chép về thần Kim Quy chẳng phải là để phê phán An Dương quên lãng mối nguy sao? Trừ hại cho nhân dân thì những chuyện Ngư tinh, Mộc tinh đã ghi sự thực. Trọn bề tôi thì các chuyện Bánh chưng, Long nhãn, Bạch trĩ đã chép tỏ tường. Đổng Vương (Phù Đổng Thiên Vương). Ông Trọng (Lý Ông Trọng) nổi danh đánh giặc giữ nước. Dưa hấu, Cây cau được biết vì thêm vật lợi dân. Đầm Nhất Dạ, Đồi Việt Tỉnh, làm điều thiện thì dương làm âm báo, cốt để khuyến khích. Hà Ô Lôi, Dạ Xoa Vương hiếu dâm mà táng thân, mất nước là để răn đe. Còn như các chuyện Thánh núi Tản Viên ngăn tai ngừa họa, nàng Man Nương cầu mưa ứng nghiệm. Từ Đạo Hạnh phục thù cho cha, Nguyễn Minh Không trị bệnh cho vua, Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải làm cho rồng giáng, tắc kè rơi, ai cũng khâm phục phép thuật diệu kỳ. Sự việc tuy không trải qua, nhưng truyền thuyết thì còn dấu vết, đem thể hiện ra, há chẳng nên sao.

Nhưng nói Thần Tản Viên là con trai của Âu Cơ, Đổng Thiên Vương là Long Quân, Lý Ông Trọng vờ đi tả mà chết, trộm nghĩ không phải như vậy. Truyện xưa cho Y Doãn cắt thịt mình nấu canh, Bách Lý Hề bán trâu cho Tần Mục Công, nếu không nhờ Mạnh Kha cố sức biện luận, thì ba ông cuối cùng vẫn chịu tiếng nhơ đó sao? Tản Viên là thần hạo khí, Đổng Thiên Vương là tướng trời sai xuống, Lý Ông Trọng là hào kiệt một thời đâu có như chuyện đã nói. Cho nên ngu tôi dựa vào sách khác, ghi thêm ý mình, sửa lại cho đúng, biện luận những lầm lẫn của người trước để khỏi bị đời sau chê cười, đồng thời bớt chỗ rườm rà, theo chỗ ngắn gọn cốt tiện xem. Mong các bậc nhã quân tử hãy lượng thứ cho.

Ngày Thượng cán, tháng Quí Sửu, năm Hồng Đức thứ 24 (1493).

Ninh Sơn Kiều Phú, Tiến sĩ Khoa Ất Mùi, nguyên Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc kính ghi.

Sau khi đọc đi, đọc lại và xem xét cẩn thận “Hậu tự” trong nguyên bản của cuốn Lĩnh Nam chích quái A.1300, người viết bài này nẩy sinh một số suy nghĩ và nghi vấn mới về văn bản và nội dung Lĩnh Nam chích quái, xin trình bày dưới đây, mong được độc giả chỉ bảo.

Qua đối chiếu, có thể thấy “Hậu tự” của Kiều Phú về cơ bản nhất trí với tôn chỉ bài tựa Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh. Trọng tâm của hai bài này đều là liệt kê cốt truyện và hàm ý các câu chuyện được đưa vào sách; hơn nữa, biện pháp dùng câu song song và câu đối xứng của hai người hết sức giống nhau.

Do đó nẩy sinh vấn đề thứ nhất là: Có thực sự tồn tại bản chép tay, bản sao hoặc bản in Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh viết lời tựa và Kiều Phú viết lời bạt hay không?

Trong bản dịch Việt văn của Nxb Văn học Việt Nam nói trên đã mở đầu bằng lời tựa của Vũ Quỳnh, sau đó là 22 thiên chuyện trong phần chính văn và cuối cùng kết thúc bằng lời bạt của Kiều Phú (sau đó còn thêm 14 thiên chuyện “Phụ lục”). Như thế, có nghĩa là khẳng định bản Lĩnh Nam chích quái hoàn chỉnh là do Vũ Quỳnh viết lời tựa và Kiều Phú viết lời bạt. Nhưng căn cứ vào đặc điểm phong cách rất gần nhau của Vũ Quỳnh và Kiều Phú thì một quyển sách như trên thực tế không thể tồn tại. Bởi vì theo lệ thường, khi một cuốn sách đã có lời tựa, các bài tựa khác sẽ không thể trùng hợp hoàn toàn với nội dung chủ yếu của bài tựa đã có. Hơn nữa, phong cách viết cũng phải đại đồng tiểu dị. Nhưng ở bài tựa của Vũ Quỳnh và bài bạt của Kiều Phú thì phần viết về nội dung các câu chuyện lại rất giống nhau. Rất khó tin rằng lời tựa và lời bạt đó là tựa và bạt xuất hiện đồng thời trong cùng một văn bản Lĩnh Nam chích quái.

Người viết bài này đã từng đến các thư viện ở Pháp và Việt Nam, tra cứu hơn mười loại bản sao của sách này, không có bản nào vừa có tựa vừa có bạt. Có thể thấy việc chỉnh lý bộ sách này của Vũ Quỳnh và Kiều Phú là công việc riêng của từng người, các bài tựa của họ làm nhằm vào bản Lĩnh Nam chích quái mà họ chỉnh lý. Cái tên “Hậu tự” của bản Kiều Phú rõ ràng là do người đời sau sửa lại trong khi sao chép, với mục đích ghép hai bản làm một. Đáng tiếc là Quyển thượng của bản sao mang kí hiệu A.1300 có bài “Hậu tự” của Kiều Phú lại bị thiếu phần đầu, khiến chúng ta khó nhận ra bộ mặt đầy đủ của văn bản này.

Vấn đề thứ hai nảy sinh là: Vũ Quỳnh và Kiều Phú trong việc chỉnh lý, sửa sang Lĩnh Nam chích quái, ai tiến hành trước, ai tiến hành sau? Xét thời điểm ghi ở cuối bài tựa của Vũ Quỳnh là vào giữa mùa thu năm Hồng Đức thứ 23 (1492) và thời điểm ghi ở cuối bài bạt của Kiều Phú là vào ngày thượng cán tháng Quí Sửu năm Hồng Đức thứ 24 (1943) thì rõ ràng bài tựa của Vũ Quỳnh có trước bài tựa của Kiều Phú. Nhưng nếu đối chiếu tỷ mỷ nội dung của hai bài văn đó thì có thể thấy vấn đề quả không giản đơn chút nào.

Trước hết, ta nhận thấy nội dung bài tựa của Vũ Quỳnh có nhiều chỗ rõ ràng là nhằm vào bài “Hậu tự” của Kiều Phú. Thí dụ: trong số các chuyện được liệt kê ở bài tựa của Vũ Quỳnh, không thấy có “Long Nhãn - Như Nguyệt nhị thần truyện”. Trái lại trong văn bản của Kiều Phú lại không có “Nhị Trưng phu nhân truyện”. Kiều Phú còn nêu ý kiến bất đồng với quan niệm cho rằng thần Tản Viên là con trai của Âu Cơ. Về điều này, Vũ Quỳnh viết trong bài tựa của mình như sau: “Hai bà Trưng chết thành thần minh, được nêu gương và ca ngợi, ai bảo không được? Còn thần Tản Viên linh thiêng, dẹp loài thủy tộc, được đề cao và tôn vinh, ai bảo không đúng?” Câu trước là chất vấn việc Kiều Phú không thỏa mãn với việc đưa truyện Hai Bà Trưng vào bộ sách, còn câu sau là để vặn lại nghi vấn của Kiều Phú. Cả hai trường hợp vừa nêu đều nhằm vào bài tựa của Kiều Phú.

Lại như trong bài tựa của mình, Kiều Phú đã tỏ ra rất không bằng lòng với những ghi chép về Thần Tản Viên, Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng, nên ông đã “dựa vào sách, ghi thêm ý mình, sửa lại cho đúng, biện luận những lầm lẫn của người trước để khỏi bị đời sau chê cười”. Vũ Quỳnh rất không tán thành cách làm của Kiều Phú và đã bình luận trong lời tựa rằng: “Việc tuy lạ nhưng không đến nỗi quái đản, văn tuy thần dị nhưng không đến nỗi quái gở. Tuy gần như hoang đường, nhưng dấu vết vẫn có thể thấy được, há chẳng phải là khuyến thiện trường ác, bỏ giả lấy thật để khích lệ phong tục sao? Điều đáng nói hơn cả là trong các bản Lĩnh Nam chích quái còn lưu lại đến ngày nay, những tình tiết như: Thần Tản Viên là con trai Âu Cơ, Đổng Thiên Vương là Long Quân, Lý Ông Trọng vờ đi tả mà chết từng bị Kiều Phú phê bình, cải chính và đính ngoa đều vẫn được giữ lại nguyên vẹn. Nếu bản Kiều Phú có sau bản Vũ Quỳnh thì rất khó giải thích hiện tượng này.

Thứ hai là Kiều Phú và Vũ Quỳnh là những người sống cùng thời. Bài tựa của Vũ Quỳnh cũng nói “bộ sách Lĩnh Nam chích quái không biết bắt đầu từ bao giờ, do ai làm ra, tên họ không thấy ghi chép. Đại khái là do các thạc nho thời Lý, Trần soạn ra và được nhuận sắc bởi các các vị quân tử bác nhã hiếu cổ thời nay” chắc chắn có cả Kiều Phú. Trong các văn bản Lĩnh Nam chích quái mà Vũ Quỳnh đã tham khảo, đối chiếu, hiệu đính chắc chắn có bản hiệu đính của Kiều Phú, kể cả bài viết được gọi là “Hậu tự”. Nếu không thì bài tựa của ông không thể có tính chất nhằm trúng đích mạnh mẽ như vậy được. Ngoài ra bản Lĩnh Nam chích quái mang kí hiệu A.2017 hiện đang lưu giữa tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, quyển đầu ghi rằng: “Kiều Phú là người xã Phụ Hạ, huyện Yên Sơn soạn... Vũ Quỳnh tước Hồng Châu Trạch Ổ bá, Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc, Mậu lâm lang, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, tiết Hòa trung, năm Hồng Đức 20, kính cẩn ghi”. Bản Lĩnh Nam chích quái liệt truyện mang kí hiệu R6 lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, cũng nêu rõ quyển sách ấy do Tiến sĩ Kiều Phú người xã Phụ Hạ, huyện Yên Sơn làm (...). Tiến sĩ Vũ Quỳnh Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc ghi lại”. Hiển nhiên Kiều Phú không phải là nguyên tác giả của sách Lĩnh Nam chích quái. Chính ông cũng viết rằng: “Quyển sách này là do người đời sau tập hợp, biên chép thành truyện gồm nhiều thiên và việc làm của ông chỉ là tập hợp những mẩu chuyện rời rạc để bổ sung vào chỗ chưa đầy đủ”.

Thế nhưng, những điều ghi lại trong hai bản nói trên từ các góc độ khác nhau cho thấy bản sửa chữa của Kiều Phú xuất hiện sớm hơn.

Như vậy giải thích như thế nào sự khác biệt về thời gian đã ghi trong hai bài tựa?

Chúng ta cần thấy rằng độ chênh về thời gian giữa hai bài tựa có thể nói không lớn lắm, chỉ có một năm. Lĩnh Nam chích quái qua quá trình sao đi chép lại, bổ sung, sửa chữa trong một thời gian dài, có thể đã nảy sinh sai lầm, niên đại cũng bị sai lệch. Tuy có mấy bản sao ghi “Năm Hồng Đức thứ 23”, nhưng phần nhiều lại không ghi năm viết trong sách. Có một bản lại ghi: “Năm Hồng Đức thứ 20”. Còn bản “Hậu tự” của Kiều Phú vì chỉ có một bản, không có bản để đối chiếu, nhưng chúng ta không thể vì thế mà loại trừ khả năng người đời sau sao chép lại bị sai lạc, thậm chí cố ý sửa đổi. Vì thế người viết bài này cho rằng: “Khi Vũ Quỳnh chỉnh lý Lĩnh Nam chích quái không những có thể tra cứu các sách ra đời sớm hơn và các câu chuyện truyền thuyết tản mạn còn lại, mà còn có thể xem cả bản đã được Kiều Phú biên tập hiệu đính và viết bài tựa (người đời sau sao chép lại đã đổi thành “Hậu tự”). Vì có ý kiến khác quan điểm của bản Kiều Phú nên Vũ Quỳnh đã tự soạn riêng một bản và trong bài tựa đã nhằm vào bản của Kiều Phú mà nêu ra cách nhìn của mình.

Vấn đề thứ ba là: Bản của Kiều Phú và bản của Vũ Quỳnh có gì khác nhau? Do các văn bản đến được với chúng ta ngày nay đều trải qua nhiều lần chỉnh lý, sao chép, thậm chí sửa chữa và bổ sung, nên khó mà nhận ra được diện mạo ban đầu của nó. Nhưng chúng ta vẫn có thể qua hai bài tựa của hai ông mà tìm ra dấu vết. Người viết bài này cho rằng sự khác nhau giữa hai bản chủ yếu ở hai điểm sau đây.

Thứ nhất: trong khi tiến hành chỉnh lý các câu chuyện và truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi thời đó, hai ông Vũ, Kiều có thái độ khác nhau về vấn đề giữ cái gì và bỏ cái gì trong những tư liệu ban đầu đó. Qua nội dung được liệt kê trong bài tựa của hai ông mà xét, cả hai bản đều thu nhặt 22 thiên truyện trong đó chỉ có một truyện là không giống nhau: Kiều Phú sưu tập “Long Nhãn, Như Nguyệt nhị thần truyện”, còn Vũ Quỳnh lại sưu tập “Truỵên Hai Bà Trưng”. Cả hai truyện này đều phản ánh cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của phong kiến Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam chỗ khác nhau là chuyện trước ghi lại việc hai anh em Trương Hống, Trương Hát nguyên đều là tướng của Triệu Việt Vương đã hóa thần giúp quân Lê Hoàn đánh bại quân nhà Tống vào năm Lê Đại Hành Thiên Phúc nguyên niên (năm 980) còn chuyện sau ghi lại sự tích hai vị nữ thần Trưng Trắc và Trưng Nhị chống lại ách thống trị của nhà Đông Hán, sau bị đàn áp, được người đời thờ phụng tại Việt Nam.

Chúng ta biết thời gian hai ông Kiều Phú và Vũ Quỳnh biên soạn, hiệu đính bộ sách Lĩnh Nam chích quái là vào thời Hồng Đức nhà Lê ở Việt Nam. Lúc đó, Việt Nam sau khi đánh đuổi quân Minh, đã bước vào thời kỳ phát triển tương đối ổn định, tinh thần dân tộc ở trong triều ngoài nội đều lên cao chưa từng có. Câu chuyện mà Kiều Phú tuyển chọn xảy ra vào thời Tiền Lê, buổi đầu thời kỳ Việt Nam hoàn toàn độc lập, đã chống lại quân Tống và giành được thắng lợi. Truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát hiển linh giúp đỡ quân Lê được đưa vào sách để tăng thêm sức nặng. Còn Vũ Quỳnh ngược lại, không hài lòng với cách tuyển của Kiều Phú. Ông chọn sự tích Hai Bà Trưng chống lại sự thống trị của nhà Đông Hán, cốt để chứng minh lịch sử lâu đời của sự nghiệp chống lại ách thống trị các vương triều phong kiến Trung Quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mặc dù thất bại nhưng tinh thần của nó còn sống mãi. Cách xử lý của Vũ Quỳnh hiển nhiên càng phù hợp với trào lưu tư tưởng dân tộc của Việt Nam lúc đó, đặc biệt là đáp ứng được tâm lý của tầng lớp quan lại sĩ phu. Đó chính là nguyên nhân khiến các văn nhân đời sau khi sao chép lại Lĩnh Nam chích quái phần nhiều lấy bản hiệu đính của Vũ Quỳnh làm chuẩn, và cũng do đó nó được lưu truyền rộng rãi hơn, ảnh hưởng sâu sắc hơn bản của Kiều Phú.

Thứ hai là những câu chuyện mà Vũ Quỳnh lựa chọn xem ra gần với bộ mặt ban đầu của tác phẩm hơn. Phần trước đã nói đến vấn đề Kiếu Phú tỏ ra hoài nghi tính chân thực của một bộ phận truyền thuyết. Ông viết: “Nhưng nói rằng Thần Tản Viên là con trai của Âu Cơ, Đồng Thiên Vương là Long Quân, Lý Ông Trọng vờ đi tả mà chết, ngu tôi cho rằng không phải”, và ông đã “dựa vào sách khác, ghi thêm ý mình, sửa lại cho đúng”. Do vậy có thể thấy rằng ông không những nghi ngờ tính chân thực của một số truyện, mà còn tiến hành “sửa lại cho đúng”. Do vậy có thể thấy Kiều Phú đã sửa chữa khá nhiều truyện. Nhưng Vũ Quỳnh lại không đồng ý với ý kiến của Kiều Phú, không những ông đưa ra những ý kiến của mình đã ghi trong lời tựa mà còn bảo lưu lại nguyên dạng ban đầu của các câu chuyện trong bản sửa chữa, hiệu đính của ông. Chính vì vậy trong Lĩnh Nam chích quái ngày nay chúng ta đọc 3 thiên truyện “Tản Viên Sơn truyện”, “Đổng Thiên Vương truyện” và “Lý Ông Trọng truyện” vẫn nói: “Thần Tản Viên là con trai Âu Cơ, Đổng Thiên Vương là Long Quân, Lý Ông Trọng vời đi tả mà chết” làm cho chúng cùng gần với truyền thuyết ban đầu.

Qua sơ bộ nghiên cứu bản “Hậu tự” (hoặc bị gọi là “bạt”) quyển Lĩnh nam chích quái của Kiều Phú, người viết bài này cho rằng. Cái gọi là “Lĩnh Nam chích quái” toàn bản có kèm bài tựa của Vũ Quỳnh và bài bạt của Kiều Phú trên thực tế không tồn tại. Hai ông Vũ, Kiều đã từng tiến hành chỉnh lý, hiệu đính quyển sách này và viết lời tựa, nhưng bản của Kiều Phú có trước, Vũ Quỳnh dựa trên cơ bản của Kiều Phú mà hiệu đính thành bản của ông. Vũ Quỳnh cảm thấy không vừa lòng với một số nguyên tắc sửa chữa, hiệu đính của Kiều Phú và đã nhằm thẳng vào bản Kiều Phú mà nêu quan điểm riêng trong lời tựa của mình. Do quan điểm của Vũ Quỳnh rất phù hợp với tình cảm của quan lại, sĩ phu, văn nhân trong điều kiện lịch sử đương thời, nên bản của ông được lưu truyền rộng rãi hơn và khiến mọi người tưởng rằng bản của ông có trước, bản của Kiều Phú có sau. Tôi tin rằng: với việc không ngừng đào sâu nghiên cứu bộ sách Lĩnh Nam chích quái, nhất định sẽ có nhiều lĩnh hội và phát hiện mới.

Nhân đây, tôi xin phép tỏ lời cảm ơn chân thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm về những điều kiện thuận lợi mà viện đã dành cho tôi trong thời gian công tác tại Việt Nam.

LÊ VIỆT NGA dịch.

CHÚ THÍCH

* Giảng sư Viện Nghiên cứu Nam Á và Đông Nam Á. Trường đại học Bắc Kinh.

(1) Lĩnh Nam chích quái và hai tác phẩm sử liệu khác (tức Gia Định thành thông chí Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả - ND).

(2) Nguyên văn chữ Hán: “Lĩnh Nam chích quái ngoại truyện hậu tự”.

TB

KIỂM KÊ, PHÂN LOẠI VÀ SƠ BỘ
ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ

TRẦN NGHĨA

Trương Đăng Quế (1793-1865) là một nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng, đồng thời là một nhà sử học, nhà văn có tên tuổi ở nước ta nửa đầu thế kỷ XIX. Sự nghiệp nhiều mặt của ông cho đến nay, vì lẽ này lẽ khác, vẫn chưa được nhận thức và đánh giá một cách đầy đủ, khách quan.

Bài viết này giới thiệu một số tư liệu Hán Nôm có thể hiểu như là nguồn thông tin cấp 1 về Trương Đăng Quế, nhằm góp phần làm rõ bức chân dung một nhân vật lịch sử văn hóa mà trước mắt không ít người đang quan tâm nghiên cứu(1).

Có 2 nguồn tư liệu Hán Nôm quan trọng về Trương Đăng Quế, một là những thư tịch liên quan đến ông hiện tàng trữ tại các thư viện lớn, và hai là những di văn Hán Nôm tìm thấy trên quê hương ông.

Tại các thư viện lớn, chủ yếu là Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội(*) và Thư viện Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh(**) qua điểu tra sơ bộ, thấy có các tác phẩm Hán Nôm sau đây của Trương Đăng Quế hoặc liên quan đến Trương Đăng Quế:

1. Đại Nam thực lục tiền biên (* VHv.1320/1-4; ** VS.23).

2. Đại Nam liệt truyện tiền biên (* VHv.172; **VS.27/1).

3. Giáp Thìn khoa điện thí văn (trong Yên Đài anh thoại. *A.1918).

4. Hoàng Việt hội điển toát yếu (*A.1446).

5. Diệu Liên tập (*VHv.685)

6. Nhật Bản kiến văn lục (*A.1164).

7. Quảng Khê văn tập (*A.3045)

8. Trương Quảng Khê thi văn (*VHv.1142).

9. Trương Quảng Khê tiên sinh tập (*VHv.30)

10. Một số thơ Trương Đăng Quế trích in trong các sách như Thanh Hóa kỷ thăng (*VHv.1242), Thi tấu hợp biên (*A.2983), Từ uyển xuân hoa (*A.2518).

11. Một số văn Trương Đăng Quế trích in trong các sách như Bách quan tạ biểu (*A.544), Biểu tấu tập (*VHv.1875), Binh chế biểu sớ (*A.1543), Nam giao nhạc chương (*A.2228), Nguyễn triều tấu biểu (*VHv.1275), Quốc triều danh biểu (*VHv.1891), Quốc triều hàn uyển (*VHv.206/1-4).

Ngoài ra, Công chúa Mai Am trong Diệu Liên tập có nói sau khi Trương Đăng Quế mất, bà đã tìm được tác phẩm Giang đình yến tập của ông. Đáng tiếc là hiện nay chúng ta chưa tìm thấy tập thơ này.

Trong cuộc hội thảo về Trương Đăng Quế tổ chức tại Quảng Ngãi vào cuối năm 1993, có người nói Trương Đăng Quế còn có một tác phẩm viết về anh em nhà Tây Sơn, nhan đề Tây Sơn bí lục. Nhưng vấn đề còn đang chờ xác minh. Ở Viện Hán Nôm hiện có cuốn Nguyễn Thị Tây Sơn ký, mang ký hiệu A.3138, sách viết tay, ghi chép rất tỉ mỉ sự tích của Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Quang Toản. Sách không ghi tên người biên soạn, nhưng qua cách xưng hô, như gọi Nguyễn Ánh là “Thế Tổ”, gọi Nguyễn Quang Toản là “Ngụy hiệu Cảnh Thịnh, hựu cái Bảo Hưng”, cũng có thể hiểu tác giả cuốn sách thuộc hạng bề tôi nhà Nguyễn. Việc xác minh Nguyễn Thị Tây Sơn ký có liên quan gì với Tây Sơn bí lục hay không, phải đợi thời gian. Duy một điều có thể nói là loại tác phẩm như thế này rất cần thiết cho việc biên soạn một bộ sử nhà Nguyễn từ Gia Long trở về trước, một công việc mà triều đình nhà Nguyễn từng phó thác cho Trương Đăng Quế.

Về nguồn tư liệu thứ hai, di văn Hán Nôm trên thực địa, chúng tôi đã có dịp về khảo sát tận quê hương Trương Đăng Quế - làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi - nhưng đáng tiếc là sau những năm chiến tranh tàn phá, tất cả hầu như đã mất sạch, ngoại trừ vài mảnh bia còn lại với những thông tin không mấy quan trọng.

Có thể chia số tư liệu hiện biết trên đây thành 3 nhóm chính:

+ Các công trình sử học,

+ Các tác phẩm văn học,

+ Các bài giảng, các luận văn nghiên cứu, phê bình văn học.

1, Các công trình sử học gồm Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên và Hoàng Việt hội điển toát yếu.

* Đại Nam thực lục tiền biên: còn có tên là Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên gồm 12 quyển, dày 700 trang, in năm 1844. Đây là một công trình sử học cấp Nhà nước, do Trương Đăng Quế và Vũ Xuân Cẩn đồng Chủ biên, trong đó Trương Đăng Quế là Chủ biên chính. Có 3 Phó chủ biên là Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt. Ban biên soạn, ngoài những người nó trên, còn có Đỗ Quang, Tô Trân, Phạm Chi Hương, Phạm Văn Nghị, Đỗ Duy Đàm, Nguyễn Huy Phiên, đều là những nhà khoa bảng nổi tiếng. Sách chép các sự kiện lịch sử từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần, gồm 9 đời Chúa, cộng 218 năm.

* Đại Nam liệt truyện tiền biên: dày trên 400 trang, in năm 1852. Đó cũng là công trình sử học cấp Nhà nước, vẫn do Trương Đăng Quế và Vũ Xuân Cẩn làm Chủ biên, trong đó Trương Đăng Quế giữ vai trò chính. Hai Phó Chủ biên là Hà Duy Phiên và Lâm Duy Nghĩa. Trong Ban biên soạn còn có Tô Trân, Phạm Hữu Nghi, Nguyễn Hữu Tố, Phạm Bá Thiều, Trần Trứ, Bùi Quỹ, Nguyễn Công Thụy, Nguyễn Đức Ý. Sách chép tiểu sử 157 nhân vật triều Nguyễn, từ hậu phi, hoàng tử, công chúa đến các công thần, kể cả những người ẩn dật, các nhà sư nổi tiếng, những người chống lại nhà Nguyễn, từ đời Nguyễn Kim đến đời Nguyễn Phúc Thuần.

Hai bộ sử này không phải ngẫu nhiên mà có. Triều Nguyễn sau khi ổn định tình hình đất nước, cần có bộ sử chính thống, với trình độ biên soạn cao, trên cơ sở tư liệu phong phú, nhằm thống nhất nhận định, thống nhất đánh giá về lịch sử, nhất là đối với giai đoạn mở mang, khai thác, kiến tạo nửa phần phía Nam của đất nước từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII mà nhà Nguyễn coi là có phần đóng góp quan trọng của dòng họ mình. Trương Đăng Quế được triều đình nhà Nguyễn giao cho nhiệm vụ chủ trì công việc biên soạn phần đầu, phần “tiền biên”, cũng là phần khó viết nhất của các bộ sử có tầm quan trọng đặc biệt này.

* Hoàng Việt hội điển toát yếu: còn có tên là Đại Nam hội điển toát yếu. Công trình biên soạn cấp Nhà nước, do Nguyễn Khoa Minh, Phan Huy Thực cùng Trương Đăng Quế thực hiện. Sách gồm 14 quyển, dày hơn 400 trang, tóm tắt bộ Hội điển đời Minh Mệnh, gồm các nguyên tắc tổ chức bộ máy cai trị Nhà nước, cơ cấu tổ chức của triều đình, sáu bộ, các phủ, viện, vệ, ty, doanh, cùng bộ máy cai trị ở các địa phương, quy chế về quan lại, quan đội, giáo dục, hành chính, hình pháp v.v..

Tổ chức, thiết kế một bộ máy điều hành toàn bộ công việc của đất nước sao cho hợp lý, có hiệu quả, vừa kế thừa truyền thống, vừa tham khảo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, bấy giờ chủ yếu là nhà Thanh ở Trung Quốc, là điều cực kỳ không dễ. Vậy mà, như ta thấy, nhiều sự định đặt từ thời Trương Đăng Quế, cho đến nay, vẫn cứ được tồn tại, tiếp tục được áp dụng, được duy trì, đủ thấy sự cẩn trọng, sự tính toán, cân nhắc của những người được giao nhiệm vụ hồi đó.

2, Các tác phẩm văn học gồm Giang đình yến tập, Trương Quảng Khê tiên sinh tập, Quảng Khê văn tập, Nhật Bản kiến văn lục.

* Giang đình yến tập: hiện chưa tìm thấy.

* Trương Quảng Khê tiên sinh tập: còn có tên là Học văn dư tập, do Miên Thẩm, một vị hoàng thân đồng thời là nhà thơ biên tập. Sách ngoài bài tựa của Trương Đăng Quế ký tên “Quảng Khê Tẩu”, còn có bài tựa của Phan Thanh Giản và bài tựa của Miên Thẩm. Học văn dư tập được in năm Tự Đức thứ 10 (1857), gồm 244 bài thơ thuộc nhiều thể loại: nhạc phủ, tứ ngôn, ngũ ngôn, cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn cổ thi, thất ngôn luật thi... Về nội dung, phần nhiều là thơ tâm tình, tức cảnh, hoặc làm ra để gửi tặng người thân, anh em, bè bạn. Cũng có một số thơ ứng chế, làm ra để họa lại thơ vua.

Thơ Trương Đăng Quế nói chung khá hay, không ít bài chân thành, đầy trí tuệ. Chính vì vậy mà được trích in trong nhiều tuyển tập thơ đương thời, dùng làm tài liệu tham khảo cho những người học làm thơ như trên kia đã thấy.

* Quảng Khê văn tập: in năm Tự Đức Quý Dậu (1853). Sách dày gần 100 trang, gồm 11 bài biểu, 2 bài văn bia, 1 bài minh, 1 bài hành thuật, 6 bài tựa, 8 bức thư, 1 bài phú và một số bài nghiên cứu. Theo lời Trương Đăng Đản là người con thứ hai của Trương Đăng Quế thì phụ thân ông thơ văn làm khá nhiều, nhưng “tùy tác tùy khí”, làm xong là vứt đi, không có ý cất giữ để lưu danh hậu thế. Số tác phẩm được đưa vào Quảng Khê văn tập, chỉ là một chiếc lông của con hổ, một đốm hoa trên mình con báo mà thôi, nói như Đặng Huy Trứ khi đề tựa tập sách này. Cần nói thêm rằng trong bài tựa, Đặng Huy Trứ còn cho biết nhiều điều về Trương Đăng Quế mà các sách khác không thấy chép: “Ông (TĐQ) là lương thần cố mệnh của hai triều, Thái bảo Đại học sĩ Điện Cần chính, được sung vào các chức Kinh diên giảng quan, Cơ mật viện đại quan, Chánh tổng tài Sử quán, Quản lý Tòa Khâm thiên giám, được phong tước Tuy Thạnh quận công. Ông đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819), về sau được tặng chức Thái sư, ban tên thụy là Văn Lương”.

Văn Trương Đăng Quế cũng rất được người đương thời hâm mộ, nhiều bài được chọn vào các tuyển tập văn lúc bấy giờ.

* Nhật Bản kiến văn lục: đây là bài bút ký của Trương Đăng Quế ghi lại những điều mà một số người Việt Nam đã mắt thấy tai nghe trong nhiều năm lưu lạc tại Nhật Bản. Chả là vào năm Gia Long thứ 14 (1815), có 5 người lính thành Gia Định do Đặng Hữu Bôi làm Toán trưởng được giao nhiệm vụ chở bè ván gỗ từ Gia Định (Tp. Hồ Chí Minh) ra Huế, hồi đó là Kinh đô, bằng đường biển. Đi được hai ngày đêm thì gặp bão, bè ván bị gió đẩy ra biển khơi, từ đó lênh đênh trên sóng nước, mãi một tháng sau mới trôi dạt vào một bãi cát trên có cây cối và nước ngọt, bọn Đặng Hữu Bôi bèn tạm trú lại ở đấy. Ngày hôm sau thấy có 6 người Trung Quốc tới, mang theo hai chiếc thuyền bằng gỗ. Bọn Đặng Hữu Bôi muốn hỏi thăm họ đây là đâu, nhưng vì không hiểu được tiếng nhau, nên họ lên thuyền bỏ đi. Cách một hôm, họ trở lại, mang cơm cho bọn Hữu Bôi ăn, rồi lên thuyền đi luôn, không quay lại nữa. Bọn Hữu Bôi sau đó hết cái ăn, đành đi mò ốc, bắt chim để sống qua ngày. Được mấy hôm, họ lấy nứa kết thành bè, men theo mặt nước mà đi, đói thì bắt cá nướng lên mà ăn, khát thì hứng sương đêm mà uống, vất vả trăm chiều. Mãi 2 tháng sau, họ lạc tới một hòn đảo, được người địa phương dìu lên bờ, đưa về tạm trú trong một ngôi chùa, nấu cháo cho ăn, bọn Hữu Bôi nhờ thế hồi phục sức khỏe dần. Trong toán lính Việt Nam này có Nguyễn Duy Báu biết chữ Hán, bèn viết chữ Nho hỏi người địa phương đây là đâu. Người trên đảo cho biết đây là địa đầu Nhật Bản. Sau đó, nhờ sự chỉ dẫn của người trên đảo, bọn Hữu Bôi tiếp tục cuộc hành trình qua một số địa phương khác như Trung Quân Điếm, Thất Ma Trấn, Đại Quan Thành v.v. và bắt đầu cuộc đời kiều ngụ của mình trên đất Nhật Bản, mãi cho đến năm 1828 họ mới trở về Việt Nam.

Bài bút ký đã giới thiệu một số nét về phong cảnh, nhân vật, phong tục, thổ sản... của người Nhật Bản vào đầu thế kỷ XIX. Cuối bài bút ký, có ghi cách phát âm một số từ tiếng Nhật thường dùng.

Qua việc Trương Đăng Quế đích thân xúc tiếp với những người Việt Nam từ Nhật Bản trở về, hỏi han và ghi lại cặn kẽ, tình hình nước Nhật hồi đó, có thể thấy không phải ông không quan tâm tới công cuộc xây dựng đất nước Nhật Bản, một xứ sở mà mấy thập kỷ sau đó đã diễn ra công cuộc duy tân nổi tiếng.

3, Các bài giảng, các luận văn nghiên cứu phê bình văn học, gồm Thi học, Truyện học, Sử học, Giáp Thìn khoa điện thí văn, Diệu Liên tập (phần lạm bình).

* Thi học, Truyện học, Sử học là những bài nghiên cứu về Kinh Thi, Tả truyện và một số bộ sử lớn của Trung Quốc, dùng để giảng dạy cho những người học về kinh sử... Đáng tiếc là loại bài này đã thất lạc hầu hết, số còn lại in trong Quảng Khê văn tập có lẽ chỉ là một phần nhỏ.

Trong Thi học, Trương Đăng Quế từ những bài thơ như Đông môn, Hành môn, Lục nga... trong Kinh Thi nói lên nghệ thuật dùng từ và cách đọc, cách hiểu các bài thơ trong tập dân ca cổ này của Trung Quốc.

Phần Truyện học đã mất, chỉ còn lại nhan đề trong Mục lục của Quảng Khê văn tập.

Trong Sử học, Trương Đăng Quế bàn về nhiều vấn đề trong Bách gia và cổ sử Trung Quốc. Chẳng hạn về Lão Tử, ông viết: “Lão Tử trốn đời, tuy vô tâm mà thật ra là hữu tâm” Thánh nhân (Khổng Tử, Mạnh Tử) giúp ra đời, tuy hữu tâm mà thật ra là vô tâm. Lão Tử rất hiểu và rất sành về thuật xử thế, gọi là vô tâm nhưng rất dính dáng với đời, như thế vẫn là hữu tâm, còn Thánh nhân thì thường xuyên có ý thức cứu đời, gọi là hữu tâm nhưng rất vô tư, như thế vẫn là vô tâm”... Tuy có mà không, tuy không mà có, Trương Đăng Quế muốn nhìn sự việc từ bản chất của nó, không để cho hiện tượng bề mặt đánh lừa. Hay về Hậu Hán thư, Trương Đăng Quế sau khi phân tích một số sự kiện lịch sử, đã đi tới kết luận: người trí thức cần rộng lượng, sẵn sàng tiếp thu cái mới, không định kiến, không cầu toàn trách bị...

* Giáp Thìn khoa điện thí văn: gồm những bài văn thi đình năm Giáp Thìn, tức 1844, thời Triệu Trị, do Nguyễn Bá Nghi và Trương Đăng Quế chấm, phê duyệt.

* Diệu Liên tập (phần lạm bình): là những lời nhận xét, ghi bằng mực màu xanh của Trương Đăng Quế trên từng bài thơ của Trinh Thận, hiệu Mai Am, con gái thứ 25 của Minh Mệnh, trong Diệu Liên tập, còn có tên là Lại Đức công chúa Diệu Liên tập. Qua những lời phê bình nhận xét cũng thấy được phần nào quan niệm của Trương Đăng Quế về thơ ca phản ánh cuộc sống, cùng nghệ thuật làm thơ. Ở Diệu Liên tập, ngoài nhận xét của Trương Đăng Quế, còn có lời bình của các nhà thơ như Thương Sơn, Vi Dã, Phan Lương Khê, Nguyễn Nhiệm Sơn, có thể giúp ta tìm hiểu phần nào về lý luận phê bình văn học ở nước ta giữa thế kỷ XIX.

Qua tình hình kiểm kê, phân loại và sơ bộ đánh giá các tác phẩm trên đây, có thể thấy tài năng và ngọn bút của Trương Đăng Quế được thử thách trên nhiều lĩnh vực học thuật và sáng tác, và trên bất cứ lĩnh vực nào, ông cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, rất đáng để chúng ta dày công nghiên cứu, phát huy mặt giá trị của nó. Đáng tiếc là về phần này trong sự nghiệp Trương Đăng Quế lâu nay lại quá ít người quan tâm tìm hiểu.

CHÚ THÍCH

Vào tháng 12-1993, nhân kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh Trương Đăng Quế (1793-1993), tỉnh Quảng Ngãi quê ông có tổ chức “Hội thảo khoa học về Trương Đăng Quế lần thứ nhất”./.

TB

TÌM HIỂU LÀNG PHƯỢNG DỰC QUA MỘT CUỐN SÁCH HÁN NÔM

NGUYỄN TÁ NHÍ

Làng Phượng Dực ngày nay là một trong ba làng thuộc xã Phượng Dực huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Tây. Trước đây theo đơn vị hành chính cũ gọi là xã Phượng Dực thuộc tổng Phượng Dực huyện Thượng Phúc phủ Thường Tín trấn Sơn Nam. Ngày nay đến thăm Phượng Dực, thấy đường làng ngõ xóm trải rộng như bàn cờ, lát gạch lợp ngói trông rất khang trang. Ngôi đình làng cổ kính nằm giữa khu dân cư. Quy mô tuy chẳng còn bề thế như xưa, song những di vật còn bảo tồn được trong đình vẫn rất uy nghi tôn kính. Phía trước đình có một ngôi nhà ngói ba gian, dân làng gọi là nhà bia. Trong nhà bia cất giữ hai tấm bia cổ đưa từ khu Văn chỉ về. Một tấm dựng đời Long Đức (1731-1734) nhà Lê, một tấm dựng đời Tự Đức (1848-1883) nhà Nguyễn. Bia bị mòn hết, nhiều chỗ không còn nhận được nét chữ. Ngoài đình làng ra, Phượng Dực còn nhiều di tích khác cũng rất trang nghiêm như lăng Quận công, chùa Phụng Thánh v.v.. Đó là những di sản văn hóa truyền thống đang làm tươi đẹp thêm cho cuộc sống hiện tại của người dân Phượng Dực. Song, còn thú vị hơn nhiều, nếu như biết đến ở đình làng Phượng Dực còn lưu giữ được một cuốn sách Hán Nôm – sách Phượng Dực đăng khoa lục (từ đây xin viết tắt là PDĐKL).

PDĐKL là một cuốn sách chép tay, khổ 18x29cm, gồm 70 trang, do Bùi Mạnh Chính sao chép năm Khải Định thứ 1 (1916), chữ viết chân phương rõ ràng. Sách đóng bìa đen, gáy bôi sơn ta, giấy dó, còn lành lặn đầy đủ. Đầu sách có bài tựa do Hương cống Đinh Danh Bá người giáp Đồng Thọ Hữu xã Phượng Dực viết năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746). Đinh Danh Bá cho biết, trước ông đã có Giải nguyên Dương Đình Hiển, Hương cống Đinh Doãn Cuông, Hương cống Nguyễn Công Nhạ biên soạn Đăng khoa lục, Văn hội bạ của làng. Song các cách đó ghi chép còn tản mạn, sơ lược, chưa tiện cho việc tra cứu. Năm 1743, sau khi thi đỗ Sinh đồ, Đinh Danh Bá bàn cùng Sinh đồ Phạm Đình Cầu, Sinh đồ Nghiêm Đình Nhân về việc định biên soạn lại Đăng khoa lục. Thế rồi ông liền bắt tay ngay vào công việc. Ông tham khảo thêm sách niên lịch Bách trúng kinh và bộ Đại Việt sử ký toàn thư để giám định năm sinh, năm thi đỗ của các vị khoa bảng trong làng, lại sưu tầm các đề thi của các khoa, viết rõ tiểu truyện của từng vị. Đến năm 1740 thì xong, ông đặt tên cho sách là PDĐKL.

Sách cho biết làng Phượng Dực hồi đó có 12 dòng họ thi đỗ khoa trường, gồm: họ Bùi, họ Chu, họ Doãn, họ Dương, họ Đinh, họ Đỗ, họ Lưu, họ Nghiêm, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trần, họ Trường. Mười hai họ này chia ra sinh hoạt trong 24 giáp. Quan hệ giữa các giáp với các họ có nhiều điểm rất đáng lưu ý. Có những giáp có rất nhiều người thi đỗ, mà dường như chỉ tập trung vào một dòng họ. Chẳng hạn, giáp Đồng Thọ Hữu có 24 người thi đỗ, thì 22 người họ Đinh. Giáp Nhất Ngũ có 8 người thi đỗ, trong đó có 7 người họ Bùi. Thậm chí có những giáp số người thi đỗ hoàn toàn là của một dòng họ, như giáp Đông An có 7 người thi đỗ đều là họ Nguyễn, giáp Đồng Thượng Tả có 15 người thi đỗ đều là họ Dương.

Cả làng có 230 người thi đỗ trong các khoa thi Hội, thi Hương, Thư tả, Y khoa. Phân bố như sau:

* Y khoa có 5 người thi đỗ.

* Thư tả có 16 người thi đỗ.

* Thi Hội, đỗ Tam trường có 9 người.

* Thi Hương, đỗ Tam trường có 192 người.

Thi Hương, đỗ Tứ trường có 28 người. Trong đó có 2 người đỗ Giải nguyên. Một là Dương Đình Hiển người giáp Đồng Thượng Tả, sinh năm 1684. Năm 1708 ông mới 24 tuổi, thi một lần đỗ luôn Giải nguyên. Hai là Dương Trí Trạch, cùng người giáp Đồng Thượng Tả. Năm 1831 ông 22 tuổi, thi đỗ Tú tài. Năm 1843 thi đỗ Giải nguyên, làm quan đến Đốc học tỉnh Nam Định.

Trong số những người thi Hương đỗ Tam trường có đến 58 người khi đỗ tuổi mới chỉ dưới 20. Đặc biệt có 9 người thi đỗ tuổi từ 8 đến 10, gồm Doãn Dương Điền, Nguyễn Quốc Nhuận (đều 8 tuổi), Đinh Xuân Quế, Đỗ Đình Hân, Nghiêm Đình Ý (đều 9 tuổi), Nguyễn Duy Hiển, Doãn Tòng Thực, Nguyễn Doãn Đâu, Nguyễn Thực (đến 10 tuổi).

Bên cạnh những người trẻ tuổi đỗ đạt, lại có nhiều người đầu râu tóc bạc mà vẫn hăm hở vác lều chõng đi thi cùng cánh trẻ, như Bùi Tông Anh thi Hương đỗ Tam trường ở tuổi 63, Dương Đình Hiển thi Hội đỗ Tam trường ở tuổi 64.

Lại có nhiều trường hợp hai anh em ruột, hai anh em con chú con bác, hai bác cháu, hai chú cháu ruột cùng thi đỗ một khoa. Có 1 trường hợp 3 anh em trai cùng thi đỗ một khoa, đó là khoa thi Hương năm 1675, anh cả Đỗ Đăng Đệ và Đỗ Đăng Cử cùng đỗ Tam trường. Có đến 4 trường hợp hai cha con cùng thi đỗ một khoa, như cha con Bùi Tông Anh, Bùi Tông Giai thi đỗ Y khoa năm 1742, khoa này tên của Bùi Tông Giai được xếp trên tên cha mình. Cha con Nguyễn Trọng Mân, Nguyễn Trọng Cảnh thi đỗ Sinh đồ năm 1743, năm ấy Nguyễn Trọng Cảnh mới 14 tuổi. Cha con Đinh Danh Viên, Đinh Ngô Cẩn thi đỗ Sinh đồ năm 1750, khoa này tên của Đinh Ngô Cẩn còn xếp trên tên cha mình đến hai bậc. Cha con Đinh Đăng Điện, Đinh Đăng Quyền thi đỗ Sinh đồ năm 1765, năm ấy Đinh Đăng Quyền mới 11 tuổi.

Có khoa người làng Phượng Dực thi đỗ rất nhiều. Chẳng hạn khoa thi Hương năm 1768, riêng làng Phượng Dực đã có 4 người đỗ Hương cống, 4 người đỗ Sinh đồ. Khoa thi Hương năm 1783, làng Phượng Dực có 1 người đỗ Hương cống, 17 người đỗ Sinh đồ.

Một làng Phượng Dực trong vòng trên dưới 300 năm mà có đến 200 người thi đỗ từ Sinh đồ trở lên, điều đó cũng phần nào giải thích cho lý do mà PDĐDDK ghi nhận trong làng có đến hàng trăm thầy đồ. Nói cách khác là dân làng Phượng Dực đã biết cách tổ chức đào tạo nhân tài, để đạt được kết quả rất cao như vậy.

PDĐKL còn giúp cho người làm công tác nghiên cứu lịch sử văn hóa cổ đại biết được ở làng Phượng Dực có hàng chục tác gia Hán Nôm với nhiều tác phẩm có giá trị được truyền tụng ở đời. Có những tác phẩm mà ta đã nghe thấy ở đâu đó, song đa phần là những tác phẩm mà ít ai biết tới. Xin được giới thiệu kỹ hơn một chút về từng tác giả đó.

1. Đỗ Đăng Cử (1655-1715)

Ông người giáp Tây Thượng, dân làng quen gọi là ông Cống Ba, bởi vì ông đỗ Hương cống và là con trai thứ ba. Năm 1675 Thi Hương đỗ Sinh đồ, năm 1681 đỗ Hương cống. Ông là người trung thực thẳng thắn, rất có uy tín trong làng, lại giỏi thơ văn, đặc biệt là thơ phú Nôm. Ông từng sáng tác bài Phượng Dực thi, mỗi câu dùng tên hai loài chim, được đời truyền tụng, ngoài ra còn là tác giả bài Phượng Dực phong cảnh phú.

2. Ngô Kỳ (1671- ?)

Ông người giáp Đồng Thọ Hữu, năm 21 tuổi thi Hương đỗ Sinh đồ. Ông là người có biệt tài văn chương, từng viết ký khắc bia dựng ở chùa Long Hưng trong làng. Đó là bài Long Hưng tự bi văn. Hiện ở Thư viện Viện Hán Nôm còn thác bản, ký hiệu No.11360-63 có tên là Long Hưng tự tập phúc bi.

3. Dương Đình Hiển (1674-?)

Ông người giáp Đồng Thượng Tả, dân làng quen gọi là ông già Phủ Hà. Thuở nhỏ ông rất thông minh lanh lợi, tài trí nổi tiếng một vùng. Năm 25 tuổi thi Hương lần đầu, đỗ luôn Giải nguyên. Sau thi Hội hai khoa nữa đều đỗ Tam trường, làm quan đến Tri phủ phủ Hà Trung. Lúc già, ông về quê mở trường dạy học, học trò theo học rất đông, nhiều người thành đạt. Bình sinh ông rất hay ngâm vịnh, thơ văn rất nhiều. Ông là tác giả của các tác phẩm sau: Văn hội bạ, Phượng Dực điếm thi, Phượng Dực phong cảnh phú, Nhận tàng yên bi văn, Long Hưng bi văn.

Chùa Long Hưng đã bị phá hỏng, song tấm bia Long Hưng bi văn mà tác giả Đinh Danh Bá có nhắc đến ở đây, thì hiện nay vẫn còn. Hiện ở thư viện Hán Nôm còn giữ thác bản, ký hiệu No.11364-65, mang tên là Long Hưng tự bi lục. Bia bị sứt một góc phải, hiện được đưa về dựng ở cửa chùa Phụng Thánh trong làng. Còn sách Văn hội bạ, tuy không giữ được, song chắc chắn bóng hình của nó vẫn có thể tìm thấy phần nào trong PDĐKL, như tác giả Đinh Danh Bá đã ghi nhận có tham khảo sách này.

4. Đinh Thời Dụng (1679-?)

Ông người giáp Đồng Thọ Hữu, dân làng quen gọi là ông già Thiêm Đồ, năm 1705 thi đỗ Sinh đồ. Ông am tường toán pháp, thông thạo y học, lại có tài chiết tự. Sau nhờ con trai là Đinh Danh Bá làm việc trong Phủ chúa mà được phong hàm Hoằng Tín đại phu, chức Thiêm sự Viện Thiêm sự, tước Trương Lâm Bá. Ông là tác giả bài thơ Linh Sàng vẫn lưu truyền. Toàn văn phiên âm như sau:

Niên phương nhị thập thất thanh xuân,
Hương thí danh tiêu quán xã nhân.
Khai thượng tam khoa hương tính tự,
Liệt trung thất thế hiển tông thân.
Văn quan yết thánh thường tòng sự,
Vũ mão tân vương diệc trị quân.
Ngưỡng há hồng ân phong tặng hậu,
Trường lưu danh vọng thế giai văn.

Tạm dịch:

Tuổi vừa hai bẩy độ thanh xuân,
Hương thí danh cao vượt xã nhân.
Mở rộng ba khoa thơm tính tự,
Xếp trong bảy thế rạng tông thân.
Mũ văn giúp thánh thường tòng sự,
Áo võ phò vua lại trị quân.
Đầu đội ơn vua phong tặng hậu,
Tiếng thơm còn mãi nức xa gần.

5. Nguyễn Công Nhạ (1693-1761).

Ông người giáp Tây Thuận, dân làng quen gọi là ông già huyện Bình Tuyền. Năm 1717 thi đỗ Sinh đồ, năm 1729 thi đỗ Hương cống, làm quan đến Tri huyện huyện Bình Tuyền, lâm nạn khi đang thừa hành công vụ. Ông là người có tâm huyết, tham gia văn hội, được mọi người kính nể, từng cùng Hương cống Đinh Doãn Cuông soạn thảo Đăng khoa lục:

6. Bùi Tông Tuyên (1699-1761)

Ông người giáp Nhất Ngũ, dân làng quen gọi là ông hầu Thiêm Công. Bùi Tông Tuyên là một trong số những người thi đỗ nhiều khoa nhất ở làng Phượng Dực. Năm 1724 thi đỗ Y Khoa, năm 1729 thi đỗ Sinh đồ, năm 1735 lại thi đỗ Y khoa, cũng năm đó lại thi đỗ Hương cống, năm 1746 và 1748 thi Hội hai khoa đều đỗ Tam trường. Ông từng được cử giữ các chức Ngự y chính, Hữu tham nghị trấn Thanh Hoa, Thiêm tri Công phiên v.v.. Khi trí sĩ về làng ông tham gia văn hội và tổ chức soạn thảo Văn hội điều lệ.

7. Đinh Doãn Cuông (1702-1773).

Ông người giáp Đồng Thọ Hữu, dân làng quen gọi là ông già Sơn Vi. Năm 1723 thi Hương đỗ Sinh đồ, sau lại đỗ Hương cống. Nhiều lần đi thi Hội được lấy đỗ Tam trường, từng được bổ làm Tri huyện huyện Sơn Vi. Tính ông cương trực, được dân làng vị nể. Khi thôi làm quan ông trở về làng, được văn hội tôn bầu làm Trùm trưởng Văn hội. Ông đảm nhiệm chức vụ đó cho đến lúc chết. Ở làng ông cũng mở trường dạy học. Học trò của ông nhiều người thành đạt. Về sau ông cùng với Hương cống Nguyễn Công Nhạ biên soạn Đăng khoa lục, làm cơ sở cho Đinh Danh Bá soạn thảo PDĐKL sau này. Ngoài ra ông còn là tác giả bài Văn hội bi văn.

8. Đỗ Đình Tá (1704-1768).

Ông người giáp Tây Thượng, dân làng quen gọi là ông Đồ Tá, năm 1729 thi đỗ Sinh đồ. Ông là người có tài trí, ham thích văn học, tinh thông y lý, đặc biệt có cơ sở trường về tướng số, phong thủy địa lý.

Bấy giờ cha ông là Đỗ Đăng Vượng, bác ông là Đỗ Đăng Kiêm, chú ông là Đỗ Đăng Đệ, đều trúng cách trong khoa thi Hương năm 1675. Đến năm 1725 cả ba ông đều mất. Đỗ Đình Tá nhận xét: “Ba anh em đỗ cùng một khoa. Ba anh em mất cùng một năm. Đời thật hiếm có”.

Về sau, Đỗ Đình Tá từng sao lục và bình điểm sách PDĐKL của Đinh Danh Bá, từng có lời đánh giá: “Ông thi đỗ Tứ trường, có tài văn học, đã soạn lại sách Đăng khoa lục, khiến cho công danh sự nghiệp của các bậc hiền tài càng thêm rạng rỡ. Công ấy lớn lắm”.

9. Đinh Danh Bá (1710-?)

Ông người giáp Đồng Thọ Hữu, là con trai của Sinh đồ Đinh Thời Dụng. Năm 34 tuổi. Đinh Danh Bá thi đỗ Hương cống, được giữ chức Ngự y phó ở Viện Thái y. Sau lại đỗ Hương cống, được đưa vào làm việc trong Phủ chúa, rồi thăng làm Tri phủ phủ Gia Hưng. Năm 1746 ông biên soạn xong PDĐKL, có viết cả lời tựa và đặt ra thể lệ làm khuôn mẫu cho người đời sau tiếp tục bổ sung. Ông hay thơ, giỏi văn, sáng tác đến mấy trăm bài, được đời truyền tụng. Ngoài PDĐKL, ông còn là tác giả của các tác phẩm sau: Phượng Dực Tông thư, 3 quyển, Trung đình Phượng Dực thi, Phượng Dực bức viên phú, Nhị thiên tự văn giải chí, Tứ thời khúc (bằng chữ Nôm)…

Sách PDĐKL của ông được người đương thời đánh giá cao. Ngày nay nó đã trở thành một tài liệu quý giá cho nhiều người, đâu phải chỉ riêng ở vùng quê Phượng Dực.

Trong số các tác phẩm của các tác giả kể trên, chỉ có PDĐKL và một vài tấm bia là còn giữ được, số còn lại chưa rõ còn hay mất. Ngoài ra trong một số tiểu truyện của các vị khoa trường. PDĐKL có ghi là người ấy rất thông thạo văn chương, song không thấy chép có tác phẩm gì để lại. Nhưng dù sao đi nữa, PDĐKL cũng đã cung cấp cho ta một thông tin rằng chỉ ở một làng quê Phượng Dực đã có đến hàng chục tác phẩm của cha ông ta bị thất truyền. Cũng từ lẽ đó mà chúng ta cần phải trân trọng PDĐKL, kịp thời có kế hoạch gìn giữ và khai thác.

TB

VÀI Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ BẢN
PHIÊN ÂM "THIÊN NAM NGỮ LỤC"

NGUYỄN THỊ LÂM
HOÀNG THỊ NGỌ

Thiên Nam ngữ lục (viết tắt là TNNL) là một tác phẩm văn học chữ Nôm mà ta được biết. Đó là một tác phẩm diễn ca lịch sử Việt Nam ghi chép các sự kiện lịch sử từ Kinh Dương Vương đến Lê Chiêu Thống, dài 8.136 câu lục bát, xen kẽ 31 bài thơ chữ Hán và hai bài thơ Nôm. TNNL xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XVII, cho đến nay vẫn chưa rõ ai là tác giả.

Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 6 dị bản TNNL mang các ký hiệu: AB.478/1-2, AB.192, AB.315, AB.337, AB.573, AB.308. Hầu hết các bản này đều không ghi năm tháng, tên người sao chép hoặc nơi tàng trữ. Về nội dung, chỉ có bản AB.478/1-2 là đầy đủ hơn cả, bản AB.192 thiếu một số bài thơ đề vịnh. Còn những bản khác hoặc là thiếu hẳn phần đầu, hoặc trích lục một phần sách TNNL mà thôi.

Là một tác phẩm có nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật, từ lâu TNNL đã được giới nghiên cứu quan tâm và được đưa vào chương trình giảng dạy ở các trường Đại học. Trước đây SG Nguyễn Lương Ngọc và GS. Đinh Gia Khánh, đã phiên âm, chú thích rất công phu và giới thiệu với đông đảo độc giả(1). Sau đó, GS. Đỗ Văn Kỷ đã góp ý kiến về những vấn đề còn tồn nghi trong cuốn sách này(2).

Gần đây, có dịp đọc lại bản phiên âm nói trên và tiếp xúc trực tiếp với bản Nôm(3), chúng tôi xét thấy còn có một số trường hợp cần được tiếp tục thảo luận thêm.

1. Những từ mang dấu vết ngữ âm Việt cổ:

- Từ “trong” được ghi bằng “công” 工 , tác giả đã phiên là “cong” trong nhiều trường hợp. Ví dụ:

An Dương mừng rỡ cong lòng,

Có nơi căn bản lập cong vương đồ v.v. (tr.20a)

Đây là hiện tượng mà yếu tố đầu của tổ hợp phụ âm /kl/ trong tiếng Việt cổ được phản ánh vào chữ Nôm. Có những trường hợp tổ hợp phụ âm này được ghi lại đầy đủ như chữ “treo” được ghi bằng 巨寮 cự + liêu), chữ “tròn” được ghi bằng 巨侖 (cự + luân). Chữ 工 “công” này phản ánh dạng cổ xưa của “trong” là klong. Cách ghi này rất phổ biến trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bởi vậy, câu thơ trên theo chúng tôi nên phiên lại là:

An Dương mừng rỡ trong lòng,
Có nơi căn bản lập trong vương đồ.

- Từ “bả” 把 trong những câu:

Trước như lời nguyện sau này bả ân

(…)

Chăn trâu qua sẽ tính ngày bả công v.v..

(tr.55a và 68b).

Chữ “bả” ở đây nên phiên là “trả”. Cách ghi này lại phản ánh nhóm phụ âm /bl/ trong tiếng Việt cổ. Từ điển Alexandre de Rhodes còn ghi lại các từ tương ứng như trăng-blăng, trái-blái, trời-blời, trả-blả… Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thơ Nôm của Lê Thánh Tông đều viết từ “trái” bằng (ba + lại). Về sau, trong ngữ âm tiếng Việt có sự chuyển đổi từ tr/t/thành g/z/ nên mới có những trường hợp chữ Nôm dùng “giả” ghi “trả”. Ví dụ:

“Vân Tiên nghe nói mỉm cười,
Làm ơn há dễ trông người trả ơn…”
(Lục Vân Tiên)

Để nhận diện được những trường hợp như chúng tôi vừa nêu, người đọc cũng cần có những hiểu biết nhất định về ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Còn khi phiên âm ra Quốc ngữ thì đa số các nhà nghiên cứu Hán Nôm đã nhất trí rằng nên phiên theo cách phát âm tiếng Việt hiện đại. Đơn giản là đối với độc giả hiện nay thì những cách đọc cổ đã lùi về quá khứ và trở nên khó hiểu trong khi cách phát âm hiện đại thì vẫn đang tồn tại. Chỉ trừ một số rất ít các nhà nghiên cứu khi cần họ có thể phục nguyên lại những cách phát âm cổ để phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt mà thôi.

2. Những từ cổ hiện nay không còn dùng nữa hoặc rất ít dùng.

- Từ “phen” (phiên) trong những câu như:

Tước cao quyền cả ai phiên

(…)

Khen vua liệu địch Tô công phiên tày v.v.. (Tr 17a và 7a)

Chữ Nôm ghi là 番く(phiên + dấu nháy). Chúng tôi thiết nghĩ nên phiên âm là “phen”. Bởi dấu cá nháy bên cạnh chữ “phiên” đã là một dấu hiệu báo cho ta biết phải đọc chệch đi so với âm Hán Việt. “Phen” là một từ Việt cổ có ý nghĩa so sách ta cũng từng gặp trong các tác phẩm Nôm cổ:

Bằng rồng nọ ai phen kịp
(Quốc âm thi tập)

Tiết cứng khá phen quân tử trúc
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

Trong một số trường hợp, từ này lại có khả năng kết hợp với những từ khác để tạo ra từ mới, nên bên cạnh từ “phen” có “phen lê”:

Chẳng ngờ ra dạ muông chim,
Phen lê lỗ lược tìm đi hai kiều
(tr.33b)

Các tác giả đề là “phiên lê” và chú thích: “Phiên lê là người dân ở ngoài phiên trấn”. Theo chúng tôi nên đổi lại là “phen lê” và chú thích đó là một từ cổ có nghĩa như “ganh đua, bắt chước” mà từ điển Alexandre de Rhodes đã ghi lại.

- Từ “mưa” (mỡ) trong những câu như:

Mỡ lo rằng sự nguy nan làm chi

(…)

Mỡ hề trễ nải luống công v.v..

(tr.14a và 39b).

Chữ Nôm viết là “mạ” 罵. Ở đây nên phiên âm là “mựa” (với nghĩa là chớ, không nên) như các từ điển đã ghi. Bởi vì nếu phiên là “mỡ” thì chữ Nôm lại ghi là 牤 (nhục + mã). Chính tác giả đã có lúc chấp nhận điều này ở trong câu:

Thần vương ngựa sắt lại dong,
Xua ruồi hợp mỡ phá ong tụ cành.
(tr.15a)

Từ này cũng thấy xuất hiện nhiều lần trong Quốc âm thi tập:

Mựa cậy sang, mựa cậy tài
(Tư thán 21)

Làm người mựa cậy khi quyền thế v.v.
(Trần tình 8)

- Từ “ốc” 沃 trong câu:

Nghe rằng Thục có nữ nhi,
Mỵ Châu tên Ốc đương thì thiếu đôi.
(tr.21a)

“Ốc” ở đây không nên viết hoa, vì như vậy người đọc dễ tưởng đó là tên riêng của Mỵ Châu. Thực ra “ốc” là một từ cổ có nghĩa là “gọi”, từ này thường hay gặp trong sách Chỉ nam ngọc âm:

Cha chồng có chữ ốc là A công

(…)

Hái dâu hiệu ốc thái tang v.v.

Hoặc trong một bài phú Nôm tương truyền có từ thời Trần:

Chim ốc bạn cắn hoa nâng cúng
(Vịnh Hoa yên)

Cũng không nên phiên âm thành “lúc” như ông Đỗ Văn Hỷ đề nghị(4). Bởi vì nếu đọc “lúc” thì chữ Nôm thường viết là 六 (lục) hay 日六 (nhật + lục)

Đa số những từ thuộc loại này hiện nay không còn thấy xuất hiện trong ngôn ngữ thành văn nữa. Thảng hoặc chúng còn được dùng trong khẩu ngữ ở một vài địa phương nào đó, như từ “trốc” 首篤 (thủ + đốc) có nghĩa là “đầu” chỉ còn thấy trong tiếng nói vùng Nghệ An. Khi phiên âm ra Quốc ngữ, GS. Nguyễn Tài Cẩn đã đề xuất ý kiến là nên giữ nguyên cách đọc cổ nhưng vì chúng đã trở nên khó hiểu nên cần có chú thích(5). Chúng tôi cho là rất xác đáng.

3- Những từ cần được phiên âm lại.

- Hai từ “Giấu bọc” (dấu bọc) trong câu:

Tin ai chớ khiến ra vào,
Giữ khi dấu bọc kẻo ta thua người.
(tr.22a)

Chữ Nôm ghi là 玌 糸卜 . Tác giả để tồn nghi sau một chú thích giả định: “Giữ nỏ thần cẩn thận để khi chiến đấu bị vây bọc có cái chống đỡ”. Chúng tôi thấy nên phiên là “dấu bọc” (giấu bọc) với nghĩa là “giấu giếm, bao bọc” vì chữ “dấu” được ghi bằng (túc + dậu). Để hiểu rõ thêm, chúng ta có thể đọc câu diễn tả hành động của Trọng Thủy sau khi lấy trộm nỏ thần: “Bọc in giấu giếm như xưa” (tr.22b).

- Từ “cuốn” (quyện) trong câu:

Phấn yên chưa chút quyện trôi,
Nghĩ còn mới giấc long đài khi xưa.
(tr.26b)

Chữ Nôm ghi bằng 捲 (quyển) nên phiên âm là “cuốn” thì hợp lý hơn. Từ “cuốn” với cách ghi như vậy thường thấy trong Hồng Đức quốc âm thi tập:

Trận hoa tướng đã cờ xanh cuốn

(…)

Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình v.v.

- Từ “bơi” (bỡi) trong những câu:

Thôi bèn bỡi mới ra quân

(…)

Lại về bỡi mới nửa đêm v.v..

(tr.27b và 34b)

Chữ Nôm ghi là 瞸 (do + bãi), chúng tôi thấy nên phiên là “bởi” (bởi vậy, bởi thế). Chính tác giả cũng chấp nhận phiên là “bởi” với cách ghi như vậy trong trường hợp:

Nạn này vì bởi nết ngay.
Nghe chồng cho phải thác nay vì chồng”
(tr.25a)

- Từ “trở” (phản) trong những câu:

Công Uẩn lạy đà phản ra

(…)

Chiêm dân vâng giáo phản về làm tôi…

(tr.83b và 87b)

Chữ Nôm ghi là 足反 (túc + phản), nên phiên là “trở” cho phù hợp với cách đọc hiện đại. Còn nếu phiên là “phản” (với nghĩa là phản hồi) thì chữ Nôm lại viết. Mà hiện nay trong tiếng Việt không còn dùng các cụm từ như: “phản ra”, “phản vào”, “phản về”… nữa.

- Từ “bát ngát” (bát tịch) trong câu:

Buồn sầu bát tịch khôn yên
(tr.87b)

Chữ Nôm ghi là 入 夕. Tác giả chú thích: “Có lẽ là chữ nhập tịch viết nhầm chăng ? Nếu là “nhập tịch” thì cả câu có nghĩa: ngồi vào chiếu mà không yên lòng, ngồi không yên ổn v.v. Theo chúng tôi hai từ này nên phiên là “bát ngát”. Chữ “ngát” ở đây do chữ “ngạt” 歹 viết tắt nên trông gần giống như chữ “tịch”. Xét về mặt âm điệu, thì “ngát” và “ngạt” đều thuộc thanh khứ, có thể chuyển đổi cho nhau được. Vì vậy cả câu nên phiên lại là: “Buồn sầu bát ngát khôn yên”. Ấy là tâm trạng buồn đau vô hạn của nàng Mỵ Ê trước cảnh nước mất nhà tan. Ta cũng thường gặp từ “bát ngát” có cách ghi như vậy trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhưng là để diễn tả sự rộng mở của tâm hồn hay cảnh vật. Ví dụ:

Lòng thu bát ngát trong khi ấy
(Sơ thu lữ xá)

Bát ngát đòi phen mặt bích đào…”
(Tam kỳ giang)

- Từ “gượng” (cẵng) có mặt trong nhiều câu. Ví dụ:

Chẳng cho nữa chẳng khỏi chăng,
Mất công đức ấy chẳng bằng cẵng cho
(tr.88a)

Chữ Nôm ở đây ghi là 強 (cưỡng) nên phiên âm thành gượng (với nghĩa là gượng gạo, làm việc gì trái ý muốn)(6)... Chữ “gượng” với cách ghi này thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm với ý nghĩa thật đa dạng. Có khi là một cử chỉ “gượng nhẹ”:

Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
(Quốc âm thi tập)

Hoặc nói đến một tâm trạng:

Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượn g nói gượng cười cho qua...
(Kiều)

Ở đây có điều cần lưu ý: nếu đầu âm trong hệ thống ngữ âm Hán Việt trùng với âm đầu trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt thì người viết sẽ dùng ngay chữ Hán có âm đầu Hán Việt để ghi. Nhưng trong hệ thống âm Hán Việt không có âm đầu /g/ nên trong quá trình tạo chữ Nôm phải dùng những chữ Hán có âm đầu /k/ để biểu thị âm đầu /g/ tiếng Việt (như dùng “các” ghi “gác”, dùng “cải” ghi “gửi” v.v..). Nguyên nhân chủ yếu của /k/ chuyển thành /g/ là do quy luật hữu thanh hóa của tiếng Việt.

Trên đây chúng tôi đã mạnh dạn trình bày một số ý kiến chủ quan của mình về bản TNNL của hai nhà nghiên cứu Văn học Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh. Những giá trị của TNNL lần đầu tiên được nhiều người biết đến là do công lao của các nhà phiên âm này. Phải nói rằng phiên âm, chú thích một tác phẩm có độ dày trên 8000 câu thơ như TNNL là một việc làm đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Bản TNNL bằng Quốc ngữ ra đời dày trên 500 trang cách đây trên ba thập kỷ thật quý giá và đáng ghi nhận. Song mặt khác cũng phải hiểu rằng với những hạn chế về mặt lịch sử, bản phiên âm còn để lại nhiều vấn đề tồn nghi, những trường hợp giải quyết chưa thật thỏa đáng là điều khó tránh khỏi. Ngày nay, ngành ngữ âm học lịch sử, ngành văn tự học... đã có những bước tiến khá dài. Nhiều thành tựu trong các lĩnh vực đó đã giúp cho chúng ta có khả năng nhìn lại để khắc phục, hoàn thiện những vấn đề mà người đi trước còn để lại. Hơn nữa, TNNL là một tác phẩm có giá trị, rất nhiều người quan tâm đến, mong rằng những nội dung mà chúng tôi vừa nêu trên đây sẽ đóng góp một phần nhỏ bé xung quanh vấn đề phiên âm, chú thích cuốn sách. Hy vọng mai ngày sẽ vươn tới một bản TNNL Quốc ngữ chính xác, hoàn thiện hơn để phục vụ độc giả.

12-1993

CHÚ THÍCH

(1) Thiên nam ngữ lục, Nguyễn Lương Ngọc, Đinh Gia Khánh phiên âm chú giải, Nxb. Văn hóa, H. 1958.

(2) Đỗ Văn Hỷ: “Đọc bản phiên âm TNNL” Tạp chí Văn học 1-1974.

(3) Tức bản AB.478/1-2 mà các tác giả chọn làm bản nền để phiên âm.

(4) Đọc bản phiên âm TNNL (TCđd)

(5) Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985.

(6) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH, H.1967./.

TB

MỘT VÀI Ý KIẾN NHỎ VỀ BẢN DỊCH "BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO" TRONG SÁCH GIÁO KHOA

NGUYỄN CẢNH PHỨC

Bản dịch Bình Ngô đại cáo hiện hành (trong cuốn Văn 10 - sách cải cách giáo dục) là một bản dịch tương đối tốt, có những ưu điểm sau đây:

- Nhìn chung đã chuyển đạt được nội dung cơ bản của nguyên tác.

- Đã chuyển đạt được tính chất hài hòa, cân đối, nhịp nhàng của thể văn biền ngẫu ở nguyên tác.

- Đã bảo lưu được sắc thái cổ kính của một tác phẩm ra đời cách đây gần 6 thế kỷ những vẫn tương đối dễ hiểu đối với chúng ta ngày nay.

Tuy vậy, bản dịch hiện hành vẫn còn một vài nhược điểm cần khắc phục mà chủ yếu là có một vài chỗ dịch chưa sát, dẫn đến khó hiểu hoặc hiểu sai. Đối với một tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ hùng văn”, chúng ta đều mong muốn có một bản dịch hoàn hảo, xứng đáng với nguyên tác. Vì vậy chúng tôi viết bài này để trao đổi thêm về một vài chỗ dịch chưa sát đó.

1. Trong đoạn miêu tả khí thế tiến công của quân ta, bản dịch có câu:

Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ

Dịch như thế làm cho nhiều người hiểu nhầm rằng tổ kiến là nguyên nhân gây ra vỡ đê. Thế là ý của hai câu không gắn gì với nhau, thậm chí cách nhau rất xa - Bởi vì câu trên đang so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, mà câu dưới lại nói về việc tổ kiến phá hoại đê điều. Về chỗ này, quyển Văn 10 in năm 1993 (trang 108) chú giải như sau: “Câu này nguyên văn có nghĩa là: đào tổ kiến sụp ở con đê đổ, nổi gió mạnh ở đống lá khô. Ý nói: ta đánh cho giặc thua như việc quét là khô, như việc đánh sụp đê núng”. Đọc đoạn chú thích trên, chúng ta cảm thấy vô cùng tối nghĩa, rối rắm, khó hiểu. Phải chăng mục đích của việc “đào tổ kiến sụp ở con đê đổ” là để “đánh sụp đê đã núng”? Như vậy thì phá đê để làm gì ? Hai câu dịch đã khó hiểu, chú giải của sách giáo khoa lại càng khó hiểu hơn. Hai câu ở nguyên tác (phiên âm) là:

Quyết hội nghĩ ư băng đệ
Chấn cương phong ư cảo diệp

Nghĩa là: “(giống như) nước lũ chảy vào tổ kiến ở nơi đê vỡ, cơn gió to thổi vào đám lá khô”. Qua hai vế của câu văn biền ngẫu này, Nguyễn Trãi so sánh nghĩa quân Lam Sơn mạnh như một dòng nước lũ (nhất thủy nhì hỏa - Tục ngữ), quân giặc giống như một tổ kiến ở nơi đê vỡ - Dòng nước lũ tất sẽ cuốn phăng tổ kiến - Tương tự như vậy, ở câu dưới, tác giả Bình Ngô đại cáo so sánh quân ta mạnh như một luồng gió to, quân Minh rời rạc như một đám lá khô - Cơn gió to thổi tung đám lá khô đó là điều vô cùng hiển nhiên - Nguyễn Trãi đã khéo chọn hai hình ảnh sinh động và chính xác để so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch ở vào giai đoạn cuối, giai đoạn tổng tiến công như vũ bão của nghĩa quân Lam Sơn khiến chúng ta đọc lên thấy vô cùng sảng Khoái và sung sướng, tự hào về những chiến công oai hùng của cha ông ta trong sự nghiệp bình Ngô - Vậy chúng tôi đề nghị sửa lại 2 câu dịch là:

“Cơn gió to quét sạch lá khô
Dòng nước lớn cuốn phăng tổ kiến”

Dịch như thế, ý của hai đối nhau, gắn bó với nhau, trở nên sáng sủa, dễ hiểu hơn, không gây ra hiểu nhầm như trước nữa.

2- Trong đoạn nói về thất bại thảm hại của quân giặc, ở bản dịch hiện hành có câu:

“Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc”.

Dịch như thế làm cho người đọc khó hiểu hoặc hiểu nhầm rằng sông nước Việt Nam khóc nghẹn ngào trước cảnh tượng quân giặc chết nhiều. Trong câu trên, “nước sông nghẹn ngào tiếng khóc” thì quả thật là khó hiểu - Ta hãy trở về với nguyên tác. Câu đó, Nguyễn Trãi viết:

“Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết”. Nghĩa là: “Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông vì thế mà chảy ào ào”. Nguyên nhân dẫn đến dịch khó hiểu như trên là do từ “ô yết” ở nguyên tác được hiểu chưa đúng - Theo 3 quyển sách của Trung Quốc là “Từ hải, Từ nguyên Quốc ngữ, thì từ “ô yết” có 2 nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tiếng khóc bị tắc nghẽn ở cuống họng - Ta có thể dịch là “nghẹn ngào”, “nức nở” - Nghĩa thứ hai là hình dung tiếng nước chảy. Đây là từ tượng thanh - Ta có thể dịch là “ào ào, ầm ầm”. Chúng tôi lý giải về chỗ này như sau: tại suối Lãnh Câu, quân giặc chết nhiều, máu chảy xiết làm trôi cả chảy giã gạo - Máu giặc đổ dồn từ suối ra sông làm cho nước sông dâng to như một cơn lũ đột ngột - Nước sông vì thế mà chảy ào ào. Vậy chúng tôi đề nghị dịch lại câu đó là:

“Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, dòng sông ào ào sóng đỏ
Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.”

Trên đây, chúng tôi đã nêu lên những ưu điểm và đặc biệt lưu ý một vài chỗ chưa đạt của bản dịch Bình Ngô đại cáo hiện hành để trao đổi với mọi người, nhất là các nhà nghiên cứu văn học cổ, nhằm mục đích hiểu thật chính xác một tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ hùng văn”./.

TB

TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỀ TỪ "NHẤT CHI MAI" TRONG BÀI THƠ "CÁO TẬT THỊ CHÚNG"

THẾ ANH

Trong Tạp chí Hán Nôm số 2/1993 các tác giả Diệu Hòa và Hữu Ngọc (viết tắt DHHN) có đề cập đến một cách hiểu từ “nhất chi mai” trong bài thơ Cáo tật thị chúng của nhà sư Mãn Giác (1052-1096). Để chứng minh cho lập luận của mình, hai tác giả đã dành quá nửa bài viết để mô tả cây “nhất chi mai” ở một ngôi chùa tận thị xã Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang xa xôi, coi đó như một phát hiện mới và cho rằng những người dịch trước đó “thiếu kiến thức”, “dịch lấy được” và do không nắm được ngữ pháp tiếng Hán nên đã dịch sai. Các tác giả đã dịch lại câu “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” là: “Đêm qua, sân trước nhất chi mai” rồi đưa thêm vào trong ngoặc đơn hai chữ “Đơm hoa” để giải thích thêm.

Theo chỗ chúng tôi biết thì cây “nhất chi mai” (có người còn gọi là cây “chi mai”) không phải chỉ riêng trong các chùa chiền ở miền Nam mới có, mà ngay ở Thủ đô Hà Nội, những người chơi cây cảnh cũng thường có loại cây này.

Bài Cáo tật thị chúng của nhà sư Mãn Giác là một bài thơ hay, tràn đầy tinh thần lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Tình cảm thiên nhiên trong bài thơ không phải là tình cảm gián tiếp vay mượn từ điển cố sách vở của Trung Hoa, mà là bắt nguồn từ những thực tế đã trải qua. Nhà sư Mãn Giác là một người tinh thông cả Nha và Phật. Vua Lý Nhân Tông rất trọng đãi ông, nhà vua thường cùng ông đàm đạo về Phật học và luận bàn việc nước. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn và lời dịch của bài thơ(1) để bạn đọc tiện đối chiếu:

“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”

Lời dịch:

Xuân ruổi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, giả đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
(Ngô Tất Tố).

Theo truyền thống cảm nhận ngữ nghĩa trong văn cổ, lời dịch “nhất chi mai” thành “một cành mai” là chuẩn mực và chính xác. Đầu xứ Tố đã nhiều lần lều chõng đi thi và nhiều nhà nghiên cứu khác chẳng lẽ lại phạm một lỗi sơ đẳng là không phân biệt được “nhất chi mai” với “nhất mai chi” (!) (chữ của DHHN). DHHN cho rằng muốn diễn đạt “một cành mai”, “một bông hoa mai” thì phải nói “nhất mai chi”(!) và “nhất mai hoa”(!) DHHN còn trích dẫn cả một đôi câu đối của họ Cao “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”, nhưng trong đôi câu đối này làm gì có chữ “nhất chi mai”. Chúng tôi xin nêu một số câu sau đây để chứng minh là “cấu trúc ngữ pháp tiếng Hán của DHHN không được các nhà thơ xưa tuân thủ”:

* Khai nguyên nhất chi liễu(2)

* Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương(3).

* Nhất chi hồng diễm xuất tường đầu(4).

* Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai(5).

* Thượng uyển nhất chi hoa(6).

* Nhất chi đinh hương hoa(7).

* Tương tư tiên ký nhất chi mai(8).

Về mặt này, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp được trao đổi cụ thể thêm.

Trở lại bài thơ của Mãn Giác Thiền sư, chúng tôi suy nghĩ một cách đơn giản là khi viết câu “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” nhà sư không chú ý nhấn mạnh một loài hoa mai nào đấy, mà chỉ nêu một cách khái quát là “cành mai”. Nhân tiện chúng tôi cũng xin nêu lên bốn câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Thướng Sơn(9):

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thương đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

Nhà thơ Tố Hữu đã dịch như sau:

Lên núi
Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.

Khi làm bài thơ này chắc Bác cũng không chú ý để phân biệt các giống mai, hơn nữa “Nhất chi mai” là loại cây “quý hiếm” thì cũng ít có khả năng mọc bên bờ sông hoặc bờ suối.

Nhân việc nói về cây “nhất chi mai” của DHHN, chúng tôi lại liên tưởng tới một phát hiện mới về hai quả núi “Giang phong và Ngư hỏa” trong bài Phong Kiều dạ bạc (Văn nghệ số 48-1992). Anh Mai Quốc Liên đã viết bài trao đổi và có nhận xét rất đúng là “với hai quả núi trong câu thơ, bài thơ của Trương Kế từ chỗ siêu thoát đạo gia, bỗng trở nên nặng nề ngang với trọng lượng của chính hai quả núi ! Nó sẽ mất hay đi nhiều lắm lắm!”. Trường hợp câu “nhất chi mai” của DHHN cũng gần giống như thế.

Chúng tôi có suy nghĩ là trong việc trao đổi một từ, một ý nào đấy để làm sáng tỏ thêm và để tiếp cận với cái hay, cái đẹp vốn có của nó mà nhà thơ đã gửi gắm vào đó là chuyện thường tình và cần thiết. Song điều đáng nói ở đây là người viết không nên võ đoán cho mình là đúng và phê phán người khác là “dịch lấy được”, “thiếu kiến thức”. Các nhà nho của ta đã trải qua hàng chục năm, có người gần suốt cả cuộc đời dùi mài kinh sử, kiến thức uyên bác, đã đọc hết sách của “trăm nhà”, nhưng lại rất khiêm tốn và luôn luôn tự cho mình là bất cập.

Trên đây là một vài nhận thức của chúng tôi về cụm từ “nhất chi mai” nhân đọc bài trao đổi của DHHN trên Tạp chí Hán Nôm, có chỗ nào chưa đúng, mong được bạn đọc chỉ giáo thêm.

CHÚ THÍCH

1. Thơ văn Lý - Trần (T1), Nxb. KHXH. H.1977.

2. Thơ Bạch Cư Dị trong Đường thi giám thưởng từ điển, Nxb. Từ thư, Thượng Hải. tr.904.

3. Thơ Lý Bạch, trong Thơ Đường (T2) Nxb. Văn học, 1962.

4. Thơ Ngô Dung, trong Đường thi giám thưởng... Sđd, tr.1339.

5. Thơ Diệp Thích, trong Thiên gia thi

6. Thơ Mạc Đĩnh Chi, trong Thơ văn Lý Trần (T2).

7. Nga Hán đại từ điển, Lưu Trạch Vinh chủ biên, Nxb. TVATQ, Bắc Kinh, 1961.

8. Thơ văn Phan Huy Ích (T1). Nxb, KHXH, H.1978. tr.123

9. Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb, Văn học, H, 1990./.

TB

VỀ MỘT VĂN BẢN KHOÁN LỆ
LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ HỌC TẬP

NGUYỄN HỮU MÙI

Khoán lệ, hương lệ, tục lệ... là loại hình văn bản hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với số lượng khá lớn(1). Nguồn tư liệu này chứa đựng nhiều thông tin có ý nghĩa khả dĩ giúp vào việc tìm hiểu nhiều mặt hoạt động ở cấp làng xã trong lịch sử. Dưới đây chúng tôi muốn giới thiệu một văn bản khoán lệ có giá trị liên quan đến vấn đề học tập ở xã Tư Vi, tổng Chi Nê, huyện Tiên Du (nay là xã Tân Chi, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc).

Bản khoán lệ viết bằng chữ Hán, nét chữ chân phương, rõ ràng, mang tiêu đề TƯ VI XÃ KHOÁN LỆ (Khoán lệ của xã Tư Vi) ký hiệu AF.a8/1 (đóng ở phần cuối sách, chung với các xã Chi Nê, [ấp] Văn Trung, Nghĩa Chỉ, Chi Nội). Khoán lệ lập ngày 6 tháng 8 năm Duy Tân 9 (1915). Trong tổng số 55 điều, có tới 21 điều (từ điều 20 đến điều 40) giành riêng cho vấn đề học tập. Về mặt văn bản, tuy đây là bản do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp sao lại khoảng những năm 1936-1938, nhưng đã được Lý trưởng xác thực, đóng dấu. Những điều liên quan đến vấn đề học tập như sau:

VỀ THẦY DẠY

Điều 20: Năm Duy Tân Tân Hợi (1911) dân xã dựng trường học một tòa 5 gian và bia ghi việc cung danh sách những người quyên góp ruộng, cộng hơn 6 mẫu, làm lương cho thầy giáo trường làng.

Điều 21: Dân xã đặt “hương học điền” (ruộng học của làng). Người nào lĩnh canh số ruộng này, lệ định mỗi năm mỗi mẫu nộp thóc cho trường làng là 15 phương(2). Lại thu của Tuần sương(3) mỗi năm 10 phương sung vào lương hàng năm.

Điều 22: Vào ngày mồng 7 tháng giêng hàng năm, dân xã có lệ đăng tịch(4), toàn dân hội họp tại đình bàn việc mời thầy giáo. Thầy được ưu tiên mời là hạng Cử nhân hay Tú tài, hoặc người làm quan về hưu. Thứ đến là mời hạng thầy đỗ nhất trường, nhị trường, tam trường, thực sự là túc nho, đức hạnh thuần hoà, thông thạo việc dạy học. Phải là người được dân xã tín nhiệm, biết rõ, mới có thể mời về làm thầy dạy. Kẻ nào dụng tình tư ý, ép dân mời không đúng người, dân xã sẽ chiểu theo điều “cậy quyền cậy thế hiếp dân” mà phạt tội.

VỀ HỌC SINH NAM

Điều 23: Mọi nhà tỏng làng có con trai đến 8 tuổi đều phải cho đến trường làng học tập. Đến năm 18 tuổi, học không tiến bộ thì cho dừng lại. Người nào tham công tiếc việc hoặc lấy cớ con mình ngu muội không cho đi học, toàn dân sẽ hội họp để khiển trách người đó làm cha không hiểu đạo lý nuôi dạy con cái. Nếu người đó quả thực nghèo khó thì bà con chú bác cần cấp tiền giấy bút cho con cháu mình học tập. Chớ để lêu lổng làm xấu hổ cả làng. Học sinh đến 18 tuổi trở lên, nếu có thể kham nổi việc học, thì được miễn lao dịch. Người nào chuộng hư danh, làm nhiều việc khác, xã sẽ xem xét, nếu quả đúng như vậy, sẽ báo tên người đó cho trường biết để kiếm điểm, đuổi về nhận lao dịch cùng dân đinh, không cho bào chữa.

Điều 24: Trong làng đã dựng trường học, nhà nào có con trai lên 8 đều phải cho đi học. Người nào cậy giàu có mời riêng thầy lập trường dạy tư, hoặc cho con đi học nơi khác, xã sẽ chiểu theo điều “không chịu theo hương đảng” mà phạt tội.

Điều 25: Học sinh trong làng học tập tại trường làng, nếu có ai đã am hiểu cách học, tinh thông văn lý mà muốn đi nơi khác học tập thì phải tường trình với xã, xã sẽ dẫn tới cho thầy giáo trường làng kiểm tra, nếu thực sự thông suốt mới được ra ngoài học tập. Ai tự tiện, không trình báo, xã sẽ chiểu theo điều “bất tuân hương ước” mà phạt tội.

VỀ HỌC SINH NỮ

Điều 26: Phàm mọi nhà trong làng có con gái đến 7, 8 tuổi đều phải cho đến trường học quốc ngữ, toán, nữ công, phép tắc. Mỗi năm tuyển duyệt một lần. Ai tinh thông, thì theo lệ định, được thưởng một tờ chứng chỉ tốt nghiệp, trong đó có Tiên chỉ duyệt, Lý trưởng đóng dấu và được tặng một chiếc khăn lụa hồng để khuyến khích.

Điều 27: Lớp học nữ, lệ qui định từ 7, 8 tuổi vào trường. Đến 15 tuổi, chờ xem duyệt trúng hay không mới được nghỉ học.

Điều 28: Thời gian học của nữ: mỗi ngày học từ 2 giờ chiều, nghe theo hiệu trống trường đến lớp. Tới 5 giờ thì nghỉ. Khỏi phải đến lớp sớm hơn.

Điều 29: Hàng năm vào ngày mồng tám tháng hai, xã có lệ tuyển duyệt học sinh nam và nữ một lần. Đề mục và cách duyệt đối với học sinh nam sẽ tùy tình hình mà thay đổi. Người nào đỗ, được thưởng theo mức độ khác nhau.

NHIỆM VỤ NGƯỜI GIÁM BIỆN TRƯỜNG
(Người trông nom giám sát các việc của trường)

Điều 30: Dân xã chọn một người mẫn cán, biết chữ, hiểu rõ việc học, liêm khiết, ngay thẳng, bầu làm Giám biện trường. Nếu khuyết sẽ bầu ngay người khác, để công việc được chủ động. Không nên bỏ trống.

ĐIỀU ƯỚC

Điều 31: Người được bầu làm Giám biện trường phải kiêm cả thư ký. Lệ định mỗi khóa 6 năm. Ngôi thứ người Giám biện trường ngang với Phó Lý trưởng.

Điều 32: Người nào được xã bầu làm Giám biện trường phải thấy đây là công việc quan trọng, danh vọng không phải ít, cần ra sức kiểm tra, lo liệu các điều cho chu tất. Nếu vì hư danh để mưu cầu ngôi thứ thì xã khiển trách. Lần thứ nhất thì tạm tha thứ nhưng đến lần thứ hai thì phải khiển trách nặng, nguyên lệ 6 năm một khóa sẽ tăng thêm 3 năm nữa để chuộc tội. Xã sẽ ghi điều này vào đơn bầu. Đến lần thứ ba thì toàn dân xã sẽ họp tại đình hoặc trường làng buộc đương sự thôi việc, hủy đơn bầu, cử người khác sung vào chức vụ này của trường.

Điều 33: Người Giám biện trường phải kiểm tra trông nom mọi việc trong trường. Hàng năm, thu nhận tiền lễ đã khấu trừ của Chánh đương cai giáp, tuần phiên vào hai vụ đông, hè, mỗi vụ 5 đồng để chi tiêu vào công việc nhà trường. Nếu thiếu cứ tạm ứng. Đến kỳ bổ thuế, kê khai rõ ràng trình dân để tính trả, thừa thiếu cân đối, không được bỏ qua việc gì.

Điều 34: Người Giám biện trường mỗi ngày sớm chiều hai buổi đến trường xem xét học sinh, ai chuyên cần, ai lười biếng, cái gì cần sửa sang, cái gì cần giải quyết, những chi tiêu lớn thì trình ra dân để lo liệu, những chi tiêu nhỏ thì có thể tạm ứng rồi thanh toán sau.

Điều 35: Người Giám biện trường phải có sổ ghi khuyết điểm. Thường ngày bí mật theo dõi học sinh trong làng, thấy người nào chơi bời, không chăm lo học tập hoặc không chịu làm việc thì ghi vào sổ đó. Đến ngày mồng một hàng tháng mang sổ ra đình làng trình cùng toàn dân chiếu theo điều ước mà xử phạt.

Điều 36: Người Giám biện trường không câu nệ ngày đêm phải thường xuyên kiểm tra, hễ thấy học sinh nào, bất kể là trong hay ngoài, ở đâu, người nào lơ là không chuyên cần học tập thì phải nghiêm khắc phê bình nhắc nhở. Nếu thấy ở đâu tụ tập đánh bạc, chơi cờ, uống rượu, hút thuốc phiện, gây ầm ĩ, hoặc học sinh làng mình đến các làng khác, xứ khác làm những việc như trên, đều phải ghi vào sổ khuyết điểm, rồi thông báo cho toàn dân già trẻ tề tựu tại trường để phối hợp cùng thầy giáo khiển trách học thật nặng. Nếu ai tái phạm thì bất kể là học sinh trong hay ngoài, mỗi người phải bị đánh 10 roi để cho biết nhục. Nếu phạm lần thứ ba thì phải đuổi ra khỏi trường nếu là học sinh từ nơi khác đến học; hoặc cho về nhận lao dịch nếu là học sinh trong làng. Nếu người Giám biện trường thờ ơ không chịu theo dõi hoặc biết mà thiên vị, che dấu không đưa ra, bị người khác phát giác thì cả người Giám biện trường và người học sinh ấy đều phải chịu tội như nhau, theo lệ.

Điều 37: Trường học cần được yên tĩnh để chuyên tâm học tập. Nếu thầy giáo hoặc người làng dẫn kẻ xấu vào trường đánh bạc, hút thuốc phiện, tất nhiên con em sẽ bắt chước. Người nào thấy trường học có hiện tượng như thế thì đánh trống trường báo ngay cho toàn dân biết để cùng tập trung tại trường xác minh nguồn gốc sự việc. Nếu là do thầy giáo thì dùng lời mềm mỏng mà tống đi. Nếu là do người làng thì chiểu theo điều “phá hoại dân phong” mà phạt tội.

Điều 38: Xã đặt học điền tại các xứ, cộng hơn 6 mẫu. Nếu như thầy giáo nhận số ruộng này để canh tác thì chiếu theo lệ định; tính toán mà khấu trừ. Nếu thầy giáo không nhận thì giao cho người Giám biện trường tự cày cấy lấy, hoặc phát canh cũng được và chiếu theo lệ, nộp thóc tại trường, chỉ hạn trong một kỳ phải nộp đủ thóc. Nếu dây dưa phiền lụy để dân trách móc thì người Giám biện trường phải tự xuất của cải bồi thường số lương cung cấp hàng năm cho thầy giáo. Xã khoán nộp các khoản mỗi năm thành thóc là 100 phương. Còn vào dịp tết, lễ hàng năm thì đóng góp cho thầy nhiều ít là tuỳ lòng hảo tâm của học sinh, coi như không tính. Sau này, lương hàng năm của thầy giáo nếu điều kiện cho phép, sẽ chu cấp khá hơn, không coi làm thường lệ.

Điều 39: Người Giám biện trường quyền do làng cử, chức do trường đề bạt. Khi bầu xong ghi rõ ràng vào đơn rồi dẫn đương sự đến trình diện để thầy giáo biết và giao cho việc cần làm. Nếu làm lấy lệ, không tuân lệnh, xã sẽ chiểu theo điều “giải nọa” (lười biếng) mà phạt tội.

Điều 40. Xã đã làm một tấm bia dựng tại trường học. Những thầy giáo đến dạy ở ấp ta khi qua đời, xã sẽ khắc tên húy, tên hiệu vào bia để lưu truyền thờ cúng lâu dài.

Bản khoán lệ của xã Tư Vi có một số điểm đáng chú ý như sau:

1. Khoán lệ đã mở rộng đến một đối tượng mới là học sinh nữ (từ điều 26 đến điều 29). Trước đó, trong suốt tiến trình của chế độ giáo dục, khoa cử Nho giáo, học sinh nữ và người phụ nữ nói chung không được đến trường học tập. Đến thời điểm này (1915), khoán lệ đã ghi nhận về vai trò và vị trí của họ. Họ đến trường bình đẳng như học sinh nam, học quốc ngữ, học toán, học nữ công, học phép tắc. Ở đây, chúng ta thấy việc giáo dục về tri thức đi đôi với giáo dục về đức hạnh.

2. Coi việc học tập của học sinh là trách nhiệm của mọi người. Trước hết, những người làm cha, chú, bác phải tạo mọi điều kiện để cho con cháu mình được đến trường học tập. Nếu không, sẽ bị dân làng khiển trách. Vì vậy, qui định rằng: Mọi người trong làng có con trai đến 8 tuổi (điều 23); con gái đến 7, 8 tuổi (điều 26) đều phải cho đến trường học tập. Nam học đến năm 18 tuổi, học không tiến bộ thì cho dừng lại (điều 23); Nữ học đến năm 15 tuổi, chờ xem duyệt trúng hay không mới được nghỉ (điều 27). Người Giám biện trường được giao nhiều trọng trách trong việc giám sát học sinh (từ điều 30 đến điều 37). Họ theo dõi việc học tập trong trường cũng như các hành vi khác ngoài xã hội: “hễ thấy học sinh nào, bất kể là trong hay ngoài, ở đâu, người nào lơ là không chuyên cần học tập thì phải nghiêm khắc phê bình nhắc nhở” (điều 36). Nếu thấy học sinh tụ tập đánh bạc, chơi cờ, uống rượu, hút thuốc phiện thì phải lập tức thông báo cho dân để kịp thời ngăn chặn.

3. Tạo điều kiện để khuyến khích học tập. Đối với người thầy, để yên tâm dạy học, xã trả lương bằng số thóc trên số học điền hơn 6 mẫu. Mỗi năm, các thầy được trả 100 phương (điều 38). Nếu 1 phương tương đương 33 kg(5) thì trong một năm, các thầy có số thóc tương đương 3,3 tấn. Đối với người đi học, xã miễn lao dịch cho những người có sức học từ 18 tuổi trở lên (điều 23). Thưởng cho học sinh nữ khi có chứng chỉ tốt nghiệp (điều 26). Thưởng cho học sinh nam thi đỗ vào ngày mống tám tháng hai hàng năm (điều 29).

4. Đề cập đến nhiều vấn đề học tập ở cấp làng xã. Khác với các nguồn tư liệu mà chúng ta được biết, thường chỉ có một số thông tin liên quan đến vấn đề học tập, trong bản khoán lệ này, nhiều vấn đề được đặt ra và giải quyết. Từ việc xây dựng trường để có nơi cho con em học tập (điều 20), đến việc đặt học điền lấy thóc trả lương cho thầy (điều 21, 38), mời thầy dạy học (điều 22); qui định tuổi đi học cho học sinh nam (điều 23, 24), học sinh nữ (điều 26); Việc học tập ở trường không tách rời vấn đề giáo dục ngoài xã hội (điều 36) v.v.. đều được cụ thể hóa một cách chi tiết. Do vậy, nó được xem như một văn bản tiêu biểu thể hiện rõ quan điểm, chủ trương và chính sách về học tập cũng như về giáo dục ở cấp làng xã nước ta trước Cách mạng Tháng 8 - 1945.

Trên đây, chúng tôi nêu một số điểm lớn liên quan đến vấn đề học tập được thể hiện trong một khoán lệ. Qua bản khoán lệ này, chúng ta thấy vào đầu thế kỷ XX, vấn đề học tập đã được coi trọng và phản ánh rõ nét ở một địa phương vốn giàu truyền thống về khoa bảng(6). Phải nói bản khoán lệ này là một nguồn tư liệu quí giúp vào việc nghiên cứu về chế độ giáo dục khoa cử nước ta thời phong kiến. Mặt khác, bản khoán lệ cũng cung cấp nhiều gợi ý cho vấn đề dạy và học đang đặt ra hiện nay.

CHÚ THÍCH

(1) Riêng ký hiệu AF (gọi chung là sách Tục lệ) có 647 cuốn. Ngoài ra, chúng tôi thống kê được gần 30 đầu sách cùng nội dung rải rác ở các ký hiệu A, VHv... đều đang lưu trữ tại Viện Hán Nôm.

(2) Phương: đơn vị đo lường, 1 phương bằng 15 thăng, 1 thăng tương đương 2,2 kg. Số liệu do PTS. Vũ Hồng Quân, cán bộ giảng dạy khoa Sử trường ĐHTH Hà Nội cung cấp. Nhân đây xin có lời cảm ơn.

(3) Tuần sương: Cũng gọi là Tuần phiên, những người do dân cắt cử hoặc bầu ra để trông coi việc trị an trong làng xã.

(4) Lệ đăng tịch: tức lệ ghi họ tên vào sổ nhân khẩu của xã.

(5) Xem chú thích về phương đã dẫn trong bài này.

(6) Theo đơn vị hành chính của tỉnh Hà Bắc hiện nay, chúng tôi đã thống kê được 414 người đỗ đại học. Con số này là rất lớn so với các tỉnh khác trong toàn quốc (đứng thứ hai sau tỉnh Hải Hưng). Xem: “Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919”, Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Nxb. Văn học, H.1993./.

TB

CHÚC THƯ CỦA QUÁCH ĐIÊU

TRƯƠNG SĨ HÙNG

Khi đặt vấn đề nghiên cứu lịch sử văn hóa của người Mường ở Việt Nam, tìm đến số tác gia là người Mường thì thật hiếm. Quách Điêu được coi là người đầu tiên trong số trí thức hiếm hoi ấy. Phần vì quan niệm của thời thế, phần vì tư liệu còn hạn chế nên việc tìm hiểu về Quách Điêu chưa được chú trọng. Tuy nhiên ngay từ những năm sáu mươi, các nhà sử học Việt Nam đã đọc và sử dụng tài liệu trong bài Hòa Bình tỉnh quan lang sử khảo của ông, phần chữ Hán đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 1925.

Năm 1990, có dịp về Mường Bi (nay thuộc huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình) chúng tôi đến Mẫn Đức, được gặp người con gái của Quách Điêu là bà Quách Thị Chót bà đã cung cấp cho chúng tôi các tư liệu về Quách Điêu sau đây:

1- Hòa Bình tỉnh quan lang sử khảo: bản viết tay, khổ 26x17cm; mực nho, dầy hơn 200 trang, đóng gáy lộn, bìa bồi nhục cậy. Mấy trang cuối đã bị rách. Sơ bộ so sánh với bài khảo cứu của ông Trần Văn Giáp(1) thì thấy nội dung sách có nhiều điểm khác nhau. Theo lời bà Chót kể lại “Khi bố tôi làm lang thì có hai chị em bà lang Tây đến ở nhờ mấy năm rồi đi, sau đó mới có sách”. Hai “bà lang Tây” tức là hai chị em bà Colani đến Mẫn Đức, Quy Hậu vào những năm từ 1927-1932 để nghiên cứu di chỉ văn hóa Hòa Bình. Quách Điêu đã nhường hẳn một gian nhà sàn và cắt cử người phục vụ cho hai nhà khảo cổ học người Pháp. Bài Hòa Bình tỉnh quan lang sử khảo in năm 1925 trên Nam Phong có lẽ đã được bổ sung và mở rộng thêm sau khi có cuộc tiếp xúc trên, để trở thành cuốn địa chí dày dặn viết tay như chúng ta hiện thấy.

2- Bản chúc thư của Quách Điêu: viết năm 1944, cùng loại giấy và khổ sách với Hòa Bình tỉnh quan lang sử khảo, gồm 10 trang, không kể hai trang cuối để giấy trống. Bìa bồi đã bị bong lớp can, nhưng sách còn nguyên vẹn. Đọc văn bản, ta thấy được vài nét chính về tư chất con người Quách Điêu, một nhà Nho người Mường đầu thế kỷ XX, đã đứng trong hàng ngũ các tác gia Việt Nam. Mặt khác, bản chúc thư phản ánh chế độ đa thê của người Mường ở địa vị quan lang và những quan hệ chủ tớ. Cách viết và lưu truyền chúc thư biểu hiện thái độ chặt chẽ trong quan hệ họ hàng vốn có xuất phát điểm từ thời tiền sử với tục thờ cúng tổ tiên mà thành tựu rực rỡ nhất là áng sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước(2). Cách chia ruộng theo khóm mạ và cách ướm định ruộng đất theo vị trí của núi và lối đi, cũng gợi lại một số nét trong tư duy kinh tế thời xưa. Bóc chỉ buộc gáy bản chúc thư thì thấy tờ nào cũng có dấu chính quyền xã đóng (bị che lấp khi sách khâu lại) dấu giáp lai của tác giả đóng lệch cấp khi sách đưa vào sử dụng.

Xét thấy bản chúc thư mang một số giá trị nghiên cứu như đã nói, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn để bạn đọc cùng tham khảo.

Phiên âm: Ất bản Quách Thị Chót.

Hòa Bình tỉnh, Lạc Sơn Châu, Lạc Nghiệp tổng, Mẫn Đức xã, điền chủ Quách - Điêu. Sắc thụ Chánh cửu phẩm văn giai, mông ban tam hạng kim tiền sắc tứ minh nông bội tinh, tự Thủ Châu Hán, biệt hiệu Đồ Càn (niên canh ngũ thập tuế) lập chúc thư từ.

Thiết niệm phu thê niên dĩ bán bách, gia đình hoan hỉ, lạc nghiệp an cư, ưng vi thân hậu sự nghi. Như mệnh phụ chính thất Xa Thị Ất (niên canh tứ thập cửu tuế) thừa nhận dĩ Quách Giám (niên canh bát tuế) vi đích trưởng tử (biệt hiệu tiểu trưởng giả).

Thứ thất Bùi Thị Chản (niên canh tam thập thất tuế) sinh hạ trưởng nữ Quách Thị Chót (niên thập ngũ tuế) biệt hiệu Đào Nhân, giá phu quân Quách Bửu (niên thập thất tuế) biệt hiệu Hoàng Lang.

Trắc thất Bùi Thị Hối (niên canh tam thập tam tuế) sinh hạ Quách Giám. Hựu như Quách Én (niên canh nhị thập nhất tuế, hệ Quách Quang thứ tử, do vi huynh đệ hàng), Quách Điêu nhận dĩ vi dưỡng tử, đồng giá thuận tình tộc nội thỏa hiệp quân phân tư kỷ tài sản điền thổ hứa chư thê, tử, nữ, số can liệt kê vu tả tu chí chúc thư giả.

Kê:

Chúc thư từ phân vi Giáp, Ất, Bính tam bản. Giáp bản lưu tại thổ lang từ đường trưởng đích mẫu tử chấp chiểu. Ất bản Quách Thị Chót phu thê đồng chấp chiểu. Bính bản giao dưỡng tử Quách Én chấp chiểu.

Dĩ phân dĩ hạ:

Chính thê Xa Thị Ất, đích trưởng tử Quách Giám phụng từ đường vi thổ lang điền chủ sở hữu hương hỏa từ điền, hiệu Đồng Sào xứ thu điền hạ giá nhất vạn tứ thiên linh lục thập ương, hựu Ná Cáo, Na Gió xứ tư điền thu hạ hạ giá tam thiên ương (do dịch Ná Số nhà tam thiên ương) kỳ chư đích mẫu, bá mẫu, sinh mẫu do Quách Giám phụng dưỡng giả.

Hựu như:

Trưởng nữ Quách Thị Chót phu thê đồng vị lang thứ tùy tòng từ đường, hứa dĩ dĩ phân tư điền hiệu đồng Ná Mô xứ (do Quách Điêu dịch, thủ phân điền), ước hạ giá ngũ thiên ương (nhất bán hạ điền, nhất bán thu điền). Đông giáp đại quan lộ, nam giáp diệc đại quan lộ Phai Nhò xứ, tây giáp Sàng Kẽm thạch cấp Gò Kẽm thổ phụ, bắc giáp núi Khánh Sơn vĩnh dĩ phân.

Tái như:

Dưỡng tử Quách Én chuẩn hứa vi viên thôn thổ đạo, phàm công tư sự vụ ưng tùy tòng thổ đạo, phàm công tư sự vụ ưng tùy tòng thổ lang từ đường, kỳ viên thôn sơn khê điền thổ hứa tòng hàng thôn như tầm tịnh lăng nhẫm an chi lệ phục tòng. Duy như thổ đạo điền ná gian thu hạ nhất thiên nhị bách ương vĩnh vi dĩ phân.

Phụ chú:

Dĩ thượng phu thê quân phân chuẩn hứa trưởng tử, trưởng nữ phu thê cập dưỡng tử các hữu dĩ phân vân vân.

Bảo Đại thập cửu niên tuế thứ Giáp, Thân hạ Nguyệt cát nhật tư lập chúc thư.

Gia chủ phụ thân Quách Điêu ký, tinh tả chúc thư Quách Điêu tự ký,

Thị thực bản xã Lý trưởng Bá họ Quách Quang

Dịch nghĩa:

Bản thứ hai Quách Thị Chót (giữ).

Quách Điêu là điền chủ xã Mẫn Đức, tổng Lạc Nghiệp, châu Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sắc ban hàm Chánh cửu phẩm văn giai ơn ban cho ba hạng kim tiền, sắc tặng Minh nông bội tinh, tên chữ là Thủ Châu Hán, biệt hiệu là Đồ Càn(3) (tuổi đã năm mươi) lập bản chúc thư.

Trộm nghĩ: Vợ chồng tôi tuổi đã năm mươi, gia đình vui vẻ, an cư lạc nghiệp, cần phải làm việc này cho mai sau. Tôi cùng với mệnh phụ là vợ cả Xa Thị Ất (bốn mươi chín tuổi) thừa nhận Quách Giám (tám tuổi) là con trưởng (biệt hiệu là tiểu trưởng). Vợ thứ là Bùi Thị Chản (ba mươi bảy tuổi) sinh ra trưởng nữ Quách Thị Chót (mười lăm tuổi) biệt hiệu là Đào Nhân, lấy chồng là Quách Bửu (mười bảy tuổi) biệt hiệu là Hoàng Lang. Vợ bé là Bùi Thị Hối (ba mươi tuổi) sinh ra Quách Giám. Còn Quách Én (hai mươi mốt tuổi, cùng với con thứ Quách Quang là hàng anh em) Quách Điêu nhận làm con nuôi.

Toàn gia thuận tình, trong họ thoả thuận phân chia tài sản ruộng đất của tư, cho các vợ, con trai, con gái theo số lượng liệt kê trong chúc thư này.

Liệt kê: Chúc thư viết thành ba bản Giáp, Ất, Bính. Bản Giáp lưu ở từ đường thổ làng; mẹ của con trưởng (chỉ Quách Giám - TSH) giữ làm bằng cứ. Bản Ất do vợ chồng Quách Thị Chót giữ. Bản Bính do con nuôi Quách Én giữ làm bằng cứ.

Dưới đây là sự phân chia trách nhiệm từng người:

Vợ cả Xa Thị Ất và con trưởng Quách Giám trông coi việc thờ phụng ở từ đường, có quyền sở hữu ruộng hương hỏa ở xứ Đồng Sào; là điền chủ của nhà lang. Ruộng cấy được 14.060 khóm mạ, cộng với ruộng riêng ở xứ Ná Cao Ná Gió cấy lúa vụ thu và vụ hạ được khoảng 3000 khóm mạ.

Các bà mẹ cả, mẹ hai và mẹ đẻ do Quách Giám chịu trách nhiệm phụng dưỡng.

Còn vợ chồng trưởng nữ Quách Thị Chót là thứ lang theo thổ lang từ đường; được chia phần ruộng riêng ở xứ đồng Ná Mô (do Quách Điêu đổi khi chia ruộng) cấy được khoảng 5000 khóm mạ. Một nửa ruộng là vụ hạ, một nửa ruộng là vụ thu. Phía đông và phía nam giáp đường cái quan gần xứ Phai Nhò, phía tây giáp đá Sàng Kẽm và mô đất Gò Kẽm, phía bắc giáp chân núi Khánh Sơn; mãi mãi là ruộng tư, có quyền sở hữu riêng của mình.

Còn con nuôi Quách Én cho làm thổ đạo thôn Viên. Tất cả mọi việc công tư đều phải làm theo như bên từ đường ở nhà lang (chỉ Quách Giám-TSH). Ruộng được cấp ở đấy cấy hai vụ hạ, thu được khoảng 1.200 khóm mạ, được coi là ruộng riêng mãi mãi về sau.

Chú thêm: Trên đây, vợ chồng tôi đã phân chia rõ ràng cho con trưởng, cho vợ chồng nữ và con nuôi theo như các khoản mục.

Bảo Đại năm thứ 19 (1944) Giáp Thân tháng hạ ngày tốt lập chúc thư này.

Người chủ gia đình cũng là người bố Quách Điêu ký.

Chúc thư do Quách Điêu tự viết lấy.

Nhận thực của xã sở tại: Bá hộ Lý trưởng Quách Quang(4).

CHÚ THÍCH

(1) Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm: Tập 1 Thư viện quốc gia xuất bản, H.1970.

(2) Trương Sỹ Hùng: Sử thi thần thoại Mường, Nxb, Văn hóa dân tộc, H,1992.

(3) Trần Văn Giáp... (Sách đã dẫn) phiên là Đồ Gàn. Căn cứ vào chúc thư thì phải phiên là Càn mới đúng.

(4) Bản chúc thư của Quách Điêu viết bằng chữ Hán có chua chữ Nôm những từ chỉ tên đất tên người của người Mường. Trong quá trình phiên âm, dịch nghĩa, chúng tôi nhận được sự góp ý của ông Nguyễn Tuấn Thịnh ở ĐHTH Hà Nội, xin ghi lời cảm ơn ở đây./.

TB

VỀ CUỐN "BÙI GIA LỊCH THẾ SỰ TRẠNG"
TÌM ĐƯỢC Ở THÁI BÌNH

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN

Họ Bùi ở Xã Đồng Thanh, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình (nay thị xã Thái Bình) là một trong những dòng họ lớn từ đất tổ Bạch Hạc - Phong Châu đặt chân trên đất Thái Bình vào hàng sớm nhất, từ thời Thập nhị sứ quân, trải trên nghìn năm dòng họ này đã sản sinh nhiều người con ưu tú trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... Trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước có nhân vật lớn vào hàng khai quốc công thần nhà Đinh như Bùi Quang Dũng, giúp nhà Lý có các tướng giỏi như Bùi Quang Anh, Bùi Quang Chiến đã cùng Lý Thường Kiệt sang Châu Khâm, Châu Liêm đánh quân Tống v.v..

Những người nghiên cứu lịch sử địa phương Thái Bình rất mừng khi phát hiện được cuốn Bùi gia lịch thế sự trạng viết về các nhân vật lịch sử của dòng họ này trên 10 thế kỷ. Cuốn sách đã cung cấp khá nhiều tư liệu quý, không chỉ ở các nhân vật lịch sử mà còn ở nhiều mặt khác như địa danh, phong tục, di chỉ khảo cổ, các bài văn tường thuật, văn bia, câu đối của nhiều danh sĩ các đời thuộc các địa phương trong nước biên soạn cung tiến.

Chúng tôi xin nói qua về lai lịch cuốn sách. Sách do cụ Bùi Khoái (1885-1945) tại Châu Xuyên sưu tầm được. Trong phả có phần ghi chú rõ: đời Minh Mệnh do “giặc” Phan Bá Vành đốt phá, gia phả do tộc trưởng Bùi Kế Thuật ghi lại đã mất. Con cụ Kế Thuật còn nhỏ, người trong họ bấy giờ ít học, chỉ ghi lại duệ hiệu các đời một cách sơ sài. Cuốn phả cụ Bùi Khoái sưu tầm được năm Khải Định thứ 3 (1918) là do con cháu Bùi Tử Chấn(1) giữ được. Thật là may mắn. Bản hiện nay là do cụ Khoái dựa vào nguyên bản của cụ Bùi Tử Chấn, biên soạn lại, diễn Nôm các phần quan trọng.

Ngày 4 tháng 4 năm 1981 chúng tôi sưu tầm được ở thôn Lịch Bài, xã Vũ Hòa, huyện Kiến Xương tại nhà Lương y Nguyễn Đức Nhuận, bấy giờ cụ đã 70 tuổi. Cụ Nhuận là học trò cụ Bùi Khoái. Cụ Khoái xưa kia thiết trướng ở thôn Lịch Bài. Khi cụ mất, cuốn phả vẫn nằm tại đây. Trải qua các trận lụt bão năm 1945 cũng như qua các cơn binh hỏa trong 9 năm kháng chiến chống Pháp và tiếp đó trong chống Mỹ. Theo lợi cụ Nhuận kể, đi đâu cụ cũng phải mang theo cuốn phả này.

Năm 1974 cụ Dương Quảng Châu một chuyên gia về khảo sát, kiểm kê di tích của Ty văn hóa Thái Bình đã phát hiện được cuốn này nhưng không lấy được sách về. Do nhu cầu nghiên cứu lịch sử địa phương, do nội dung phong phú của sách, cụ Nhuận đã vui lòng trao cho chúng tôi khai thác cuốn sách đó.

Theo trong lời tựa, tác giả Bùi Khoái cho biết, bình sinh cụ rất quan tâm đến việc biên soạn gia phả của dòng họ, không chỉ cho dòng họ mình mà cụ còn biên soạn giúp một số gia phả các dòng họ khác, trong đó có cả gia phả chi họ Trần (cụ Trần Đình Huề, xã Hoàng Diệu, thị xã Thái Bình).

Họ Bùi, theo lai lịch của nó, là một dòng họ định cư vào loại lâu đời nhất ở Thái Bình. Họ này chuyển cư từ đất Phong Châu - Bạch Hạc về thôn Đồng Thanh (nay thị xã TB) từ thời Thập nhị sứ quân. Đó là cụ Bùi Khải Tá, đến thời Khải Định đã 35 đời con cháu. Con cụ Tá là Bùi Quang Dũng, ngay từ nhỏ đã có tư chất thông minh khác thường. Lớn lên tiếng tăm Bùi Quang Dũng lan rộng nhiều nơi. Gặp thời loạn, nhiều Sứ quân bấy giờ đến nhà cụ, mời cụ ra phò tá; trong đó có Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn nhưng cụ đều từ chối. Khi gặp được Đinh Bộ Lĩnh (bấy giờ Lĩnh đã ở với Sứ quân Trần Lãm vùng Bố Hải - thị xã bây giờ) cụ mới ra phò tá và cụ là một trong những vị khai quốc công thần triều Đinh. Khi Lê Hoàn lên ngôi, cụ theo phái Đinh Điền Nguyễn Bặc. Hai ông này chết dưới tay Lê Hoàn thì Bùi Quang Dũng đem theo gia đình và một số quân sĩ tinh nhuệ, trung thành vào cứ hiểm ở động Trinh Thạch (vùng núi Tam Điệp). Nhiều lần Lê Hoàn cử tướng vào mời cụ ra nhưng cụ tự tuyệt. Lê sang Lý. Lý Công Uẩn mời cụ và con là Bùi Quang Anh ra giúp nước cụ mới trở về (cụ thọ 97 tuổi). Cháu nội cụ là Bùi Quang Chiến sau lại cùng Lý Thường Kiệt sang Châu Khâm, Châu Liêm đánh Tống, và sau dẹp phía Nam, được phong Bình Nam đại tướng quân, thăng thái uý. Trong từ đường thờ ông có câu đối như sau:

Dữ Lý tề danh, liên hạ Tam châu kinh Tống địa,

Duy Bùi hữu tướng, tương truyền dịch thế tá Nam thiên.

Nghĩa: Nổi tiếng cùng với Lý Thường Kiệt, hạ liền 3 châu làm kinh hồn nhà Tống. Đời đời họ Bùi có tướng giúp nước Nam.

Nối tiếp qua các đời Trần - Lê - Tây Sơn - Nguyễn họ này đời nào cũng có người ra giúp nước mà công trạng của họ quốc sư có ghi chép.

Như tên gọi của nó: “Bùi gia lịch thế sự trạng”, nội dung của sách phần lớn ghi chép khá đầy đủ, chi tiết của sự kiện, các nhân vật xuất sắc của dòng họ. Phần các bài viết bao gồm nhiều người tham gia. Trong đó có bài của Cử nhân Khoa Kỷ Mão triều Gia Long, Tri huyện Tiên Lữ Vũ Xuân Khánh, người cùng xã, bài của Hoàng giáp Bùi Huy Bích viết về giai đoạn Lê Chiêu Thống và Tây Sơn. Các câu đối, văn bia của các danh sĩ đề ở từ đường họ cả v.v..

Sơ lược phần mục lục:

1. Tựa

2. Bùi Khải Tá

3. Bùi Quang Dũng sự trạng (phần diễn Nôm văn xuôi từ tờ 52 đến 61)

4- Văn bia về sự trạng Bùi Quang Dũng do Lý Thái Tổ viết chữ Hán (từ tờ 62 đến 65) ngày 12 tháng 8 năm Thuận Thiên thứ 9. Người viết vào bia: Khuông Việt Thái sư. Thợ khắc bia: Phạm Công Thắng.

Diễn nghĩa bài văn bia ra văn vần (Nôm) từ tờ 65-70.

5- Chiếu chỉ của vua Lý Thái Tổ cho 3 ngôi cấm địa của họ Bùi ở đất Hàm Châu (từ tờ 70-71)

Sắc tứ cụ thể từng ngôi cấm địa (địa điểm, chu vi) từ tờ 71-72.

6- Ngự ban của vua năm Thuận Thiên 11, ngày 8 tháng 2. Phần này mất, có ghi chú nguyên nhân vì bị quân Phan Bá Vành đốt - Sau may nhờ có bản phả ký của Bùi Tử Chấn nên mới ghi được.

7- Chiếu chỉ của vua Trần Thái Tông, của Lê Thái Tông về 3 ngôi cấm địa nói trên.

8- Sự trạng các tướng quân: Bùi Quang Đạt (em ruột Bùi Quang Dũng), Bùi Quang Anh (con Bùi Quang Dũng), Bùi Quang Chiến (cháu nội Bùi Quang Dũng).

9- Các đời thứ 4, 5, 6, 7, 8 binh hỏa cháy hết không ghi chép được. Đời thứ 9 có Bùi Công Nghiệp theo Trần Nhật Duật làm tham mưu.

10- Các đời 10, 11, 12, 13, 14 binh hỏa cháy hết. Đời 15 có Bùi Văn Kiệt, một tướng tài giúp vua đánh Mạc Đăng Dung.

11- Các đời thứ 16, 17, 18 chỉ có ghi tên người và chức tước, không có sự trạng.

12- Sự trạng về các nhân vật họ Bùi triều Lê Hoằng Định do người bản xã là Cử nhân Vũ Xuân Khánh ghi chép (2 bài).

13- Bài của Hoàng giáp Bùi Huy Bích viết về một nhân vật họ Bùi thời Lê mạt, trong đó có nhân vật đi theo làm cố vấn cho Đặng Trần Thường vào Nam sang Thái Lan gặp Nguyễn Ánh. Các nhân vật làm quan cỡ Bố Chánh thời Thiệu Trị, Tự Đức...

14- Phần câu đối, văn bia ở từ đường họ Bùi từ các triều đại trước cho đến bài văn bia của họ Phó bảng, Tuần phủ Thái Bình Phạm Văn Thụ soạn thời Khải Định.

Dưới đây, chúng tôi phiên âm toàn bộ văn bản diễn Nôm thể song thất lục bát của Bùi Châu Xuyên về bài văn bia của Lý Thái Tổ, cả hai đều được chép trong cuốn Bùi gia lịch thế sự trạng.

Diễn nghĩa:

Vua Lý Thái Tổ triều nhà Lý ngự chế bài bia sự trạng cho cụ Thái Tổ Trinh Quốc Công(2) họ Bùi, làng Hàm Châu (tức là làng Đồng Thanh bây giờ).

1. Trẫm nay nghĩ dựng nên mở nước,
Dù chủ trương ở bậc minh quân,
Nhưng mà dẹp giặc yên dân,
Phải nhờ mưu sức tướng thần mới nên.
5. Kìa lý thế tất nhiên phải thế,
Nhưng tôi hiền thời trị dễ thay.
Loạn ly điên đảo những ngày,
Làm trung thần ấy sự tầy khó khăn.
Huống chi lúc gian truân bĩ cực,
10. Giữ trung thành lại thực khó toan,
Trung mà giữ được vẹn toàn,
Trong muôn phần khó lại càng khó thêm,
Đinh triều xưa tướng hiền trung liệt,
Ấy là Bùi Minh Triết(3) tiên sinh,
15. Vốn dòng giống Việt chung linh,
Trời Nam tướng hổ giáng sinh cõi trần,
Được chính khí trong vầng trời đất,
Bẩm tinh anh Sơn nhạc không sai.
Kinh luân văn võ gồm tài,
20. Hình dung trang nhã, vẻ người nho phong.
Từ thủa nhỏ khiêm cung hiếu đễ,
Khí độ từng khác kẻ thường nhân,
Trưởng thành khảng khái thêm phần,
Học tài, chí cả thôn dân khôn dò.
25. Hai Sứ quân họ Ngô, họ Kiều(4),
Nghe tin cũng mệnh chiếu mấy phen.
Mỗ càng từ chối một niềm,
Con nhà làm ruộng không quen việc đời.
Chốn chân quận người người kỳ dị,
30. Chịu cho rằng là chí khí gan.
Sau theo Đinh chúa Tiên Hoàng,
Mười hai quan sứ dọc ngang dẹp bình.
Hội rồng bay mây lành cất bổng,
Ve ngô đồng phượng đỗ chanh vanh,
35. Lược thao như cắt lối rành,
Gió đè làn sóng, bể kình êm không.
Hổ ra oai tây đông đánh dẹp,
Lũ gian hung khép nép non xa,
Bốn phương thu lại một nhà,
40. Anh hùng hào kiệt đều là khen lao.
Ngôi nhất thống Đinh triều tiên đế,
Chức gia phong Bùi thị công thần,
Điện tiền Anh Dực tướng quân,
Sắc rồng rực rỡ, đại thần chen vai.
45. Giặc Kỳ Bố(5) xứ ngoài rong ruổi,
Trời kết mây, bể nổi sóng vang.
Trấn Đông tiết độ gia quan,
Bạch mao, hoàng việt thêm đường uy danh.
Một tới xứ dẹp bình quân giặc,
50. Thượng tướng quân thăng chức cao quan,
Tiến phong hầu tước Tĩnh An,
Song thâu ân tặng triều ban liệt hầu.
Sắc rồng lại thêm màu sáng vẻ,
Con công cao cha mẹ hiển vinh,
55. Vua yêu người đại công danh,
Cho Hàm Châu ấp, của giành nhà riêng.
Điềm giời mệnh rùa thiêng hiệp cát.
Đất vì người mới được hiển danh,
Công cao lặng lẽ phong thanh,
60. Người đời tai mắt rành rành trông nghe.
Vua Đại Hành gặp khi tiến bức,
Tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc chiêu binh,
Mỗ nghe tức khắc khởi hành,
Hai người tử tiết, một mình khôn toan.
65. Liệu độc lực khó đường chống chọi,
Động Thạch Trinh thẳng lối tìm vào,
Cô quân thủ hiểm bấy lâu,
Toan đường khôi phục giúp triều vua Đinh.
Người dũng nghĩa trung trinh bậc ấy,
70. Xét cõi đời nào thấy ai hay,
May mà trời giúp trẫm nay,
Chọn đường nhân đức mà thay hung tàn.
Đạo công chính bốn phương thống ngự,
Triệu ba phen mỗ chửa lai triều,
75. Khen lòng sắt đá tiết cao,
Trẫm càng trọng vọng, mến yêu thêm phần.
Nhân khi ấy hải tần giặc nổ,
Thói hung hăng buộc trói phương dân;
Trẫm từng mệnh tướng ba lần,
80. Giặc còn nhiễu loạn phương dân nhiều bề.
Sau lại mệnh Nguyễn Uy đại tướng,
Giặc coi thường chẳng tưởng giao binh,
Nghe nhời giặc nói phân minh,
Có ông Dũng đến mới kinh rõ ràng(6).
85. Trẫm biết mỗ chọn đường uy đức,
Xứ đông phương kính phục nhiều bề,
Liền sai sứ tướng Nguyễn Uy,
Vào Trinh Thạch động đưa thư tỏ bầy.
Mỗ thuận ý khắc ngày bộ kiến,
90. Lễ tân sư, ân điển tôn vinh,
Hiệu là Minh Triết tiên sinh,
Mỗ đem hiền tử Quang Anh tiến vào.
Nguyên cựu chức trẫm trao hiền tử,
Mệnh Quang Anh trấn ngự đông phương,
95. Mỗ còn thái ấp cố hương,
Sai quan đem mỗ về làng Hàm Châu.
Mỗ phụ tử cùng nhau tới chốn,
Giặc lai hàng chẳng tổn đao binh,
Tin vì ân đức uy linh,
100. Trẫm càng hâm mộ đinh ninh gấp mười.
Năm nay mỗ chín mươi bẩy tuổi(7),
Đầu tháng vừa gặp lúc khiếm an,
Thư tiên, dược liệu ngự ban,
Ân cần thăm hỏi sai quan đình thần.
105. Trẫm lo liệu việc dân việc nước,
Hỏi mấy điều đại lược về sau,
Mỗ rằng Thập bát tử phù,
Truyền gia chữ “Bát” thật yêu chẳng ngờ.
Lại rằng việc bao giờ trong nước,
110. Cháu mỗ thời dùng được nên sai.
Trẫm nghe mỗ nói bên tai,
Ghi lòng sẽ để sau này tôi con.
Giữa tháng 6 đêm hôm thập nhị,
Đình thần tâu tinh trụy đông nam.
115. Ngày rằm thấy điệp rõ ràng,
Đinh triều hầu tước Tĩnh An từ trần,
Trẫm yêu tiếc băn khoăn thương nhớ,
Những ngậm ngùi than thở phân vân,
Trời sao không để triết nhân,
120. Giúp nay Lý thị quân thần một hai!
Liền xuống chiếu ắng bài âm nhạc,
Mệnh giám thần giảm các trân cam.
Quan đồng tụ, quách ngọc am,
Bạc, vàng, gấm vóc sai quan đem về.
125. Gia chế sách ngự đề tiến tước,
Trịnh Quốc công đầu bậc triều ban.
Mỗ xưa khảng khái hiên ngang,
Cương nghị, chính trực vẹn toàn không sai.
Truy công đức rõ bầy thiên tính,
130. Gia thụy là Cương Chính tướng công.
Song thân mỗ cũng tặng phong,
Gia phong Khai Tá tước công cùng ngày.
Rõ lòng mỗ xưa nay trung nghĩa,
Trẫm noi bề tôn quý hiền nhân.
135. Than ôi mỗ thực hiền thần,
Hiếu trung tiết nghĩa mười phân vẹn mười.
Suốt tiền cổ mấy người như thế,
Trên cõi đời chửa dễ thấy ai.
Trẫm mong tiếng mỗ lâu dài,
140. Làm gương thần tử muôn đời trông mong.
Liệt sự trạng lên dòng bi ký,
Những nguyện cùng thiên địa xét soi,
Giúp cho con cháu họ Bùi,
Đời đời hào kiệt anh tài sinh ra.
145. Cõi Nam ta phù vua giúp nước,
Lòng trẫm nay chính thực cả mong
Văn bia ngự bút chín trùng,
148. Lý triều Hoàng đế điện rồng gia ban.

Niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 9
101... tháng 8 ngày 12 ngự đề.
Khâm phụng sắc chỉ
Khuông Việt Thái Sư, thần Lý Pháp Chân phụng tả.
Thạch công: Phạm Công Thắng phụng thuyên.

Người viết bài này đã nhiều dịp đến thăm từ đường họ Bùi, đến khu di chỉ có 3 ngôi cấm địa ở xứ Đồng Lữ, ấp Hàm Châu. Tiếc rằng những tấm bia đều không còn, theo lời các cố lão, bia ngày xưa đã bị mòn hết chữ, lâu rồi chìm xuống ao đầm. Chỉ còn tấm bia nhỏ triều Tự Đức nói về nguồn gốc họ Bùi, tên và chức tước của nhân vật lịch sử được thờ vừa nói ở trên.

Song không khí cổ kính, tầm vóc bề thế của ngôi từ đường họ Bùi ở xã Đồng Thanh, chúng tôi tin là những chứng tích vật chất ấy bảo đảm thêm tính chân thực đáng tin cậy của cuốn sách viết công phu và nội dung phong phú như vậy.

Hà Nội tháng 11 năm 1993.

CHÚ THÍCH

(1) Bùi Tử Chấn sinh vào thời Trần, văn võ kiêm toàn, có công giúp vua bình giặc Nguyên Mông, tham gia trận đánh bắt sống Ô Mã Nhi. Cụ được phong là Vĩnh Lâm hầu kiêm Điện tiền đô chỉ huy sứ.

(2) Tức Bùi Quang Dũng, con cụ Bùi Khải Tá.

(3) Vua Đinh Tiên Hoàng phong cho Bùi Quang Dũng: “Đặc tiến khai quốc Thiên Sách thượng tướng, Minh triết phu tử (nguyên văn chữ Hán bài văn bia của Lý Thái Tổ).

(4) Ngô tức Ngô Xương Xí - Kiều tức Kiều Công Hãn.

(5) Bấy giờ ở Kỳ Bố hải khẩu có nhiều loại giặc: giặc bể, phỉ trong nước nhân lúc tình hình Đinh chưa ổn định, nổi lên cướp bóc phương dân.

(6) Bấy giờ ở Hàm Châu có câu đồng dao:

Uy mặc Uy chẳng sợ chi.
Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh.

Và Phương dân Kỳ Bố có bài hát rằng:

Những nay trong cõi hải tần
Giặc ma đã dẹp cá thần cũng xuôi
Vì đâu dân được yên vui
Ấy quan Thượng tướng họ Bùi phải chăng.

Nguyên lai sông Kỳ Bố, từ Sứ quân Trần Minh công về trước thường có cá kình (cá voi). Nhân dân gọi là cá thần; lại lắm loài giao long, nhân dân thường bị chúng cắn bị thương: Cỏ lác rậm rạp, dân không dám đến. Từ khi Bùi Quang Dũng đến làm Trấn Đông tiết độ sứ, mở mang khai phá xứ Kỳ Bố trở thành ruộng cấy chỉ còn một nơi là Tri Lai, đồng Hương Bài cỏ rậm chằng chịt, mọi người đều sợ. Một hôm Bùi Quang Dũng đi thuyền trên quãng sông Kỳ Bố đánh rơi một viên ngọc minh châu. Cá ngậm viên ngọc bơi đi mất. Khi Bùi tướng công khai khẩn thành làng ấp, vua Đinh Tiên Hoàng mới đặt cho tên gọi là ấp Hàm Châu và ban thái ấp cho ông. Các loài gia long, cá thần xuôi hết. Phương dân an cư lạc nghiệp. Vì thế hồi đó dân có câu ca dao như trên (nguyên chú của sách Bùi gia lịch thế sự trạng).

(7) Bùi Quang Dũng sinh năm 921, mất ngày 12-6-1018.

TB

THÊM MỘT BẢN GIA PHẢ KHẮC TRÊN ĐÁ: "PHẠM TƯỚNG CÔNG GIA PHẢ"

HOÀNG LÊ

Trong kho sách của Thư viện Viện Hán Nôm có 18 cuốn gia phả họ Phạm. Đó là họ Phạm ở Kính Chủ, ở Phù Ủng, ở Đan Loan thuộc tỉnh Hải Hưng, họ Phạm ở Hưng Đồ, ở Vạn Phúc, ở Đông Ngạc thuộc Hà Nội và họ Phạm ở Thọ Vực - Thái Bình...

Để bổ sung cho gia phả trên và cung cấp thêm tư liệu cho các nhà nghiên cứu về các dòng họ, đặc biệt là dòng họ lớn, có nhân vật đỗ đại khoa và từng có đóng góp trong lịch sử dân tộc, chúng tôi công bố một tấm bia đá khắc về gia phả họ Phạm và hành trạng của Phạm Văn Đạt (tức Phạm Lập Lễ).

Bia hiện để tại nhà thờ họ Phạm ở xã Thọ Bình, huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc tỉnh Hải Hưng).

Bia do Thám hoa khoa Tân Mùi (1631), Công bộ Thượng thư, tước Cẩm quận công, hiệu Hải Nam Chí Lạc(1) Nguyễn Phủ(2) soạn. Ông họ Nguyễn là Trung thư giám Hoa văn học sinh, tước Diên Lộc Nam viết chữ và ông Nguyễn Viết Ninh người xã Đại Bái, huyện Gia Định khắc.

Bia được tạo năm Cảnh Trị 8 (1670) đời Lê. Bia 2 mặt, khổ 91x140cm. Chạm mặt nguyệt rồng mây và hoa văn chéo.

Bia viết bằng chữ Hán. Vì hơi dài, nên dưới đây, chúng tôi chỉ giới thiệu phần dịch nghĩa.

Gia phả Phạm Tướng Công.

Nghĩ rằng: Được vẻ vang đỗ khoa giáp thì ắt phải ghi chép thế hệ và sự nghiệp để truyền lâu dài.

Nay thấy quan Quốc tử giám Tế tửu(3), tước Thọ Vinh tử, Phạm Tướng công vốn tên là Phạm Văn Đạt nay đổi là Lập Lễ là nhà danh vọng cao ở xã Thọ Bình.

Ông cao tổ làm Tri huyện huyện Tam Giang, tên chữ là Đôn Chính. Bà cao tổ hiệu là Từ Đức.

Ông tằng tổ tên chữ là Trực Định. Bà tằng tổ hiệu là Từ Phúc. Sinh 4 con trai, 3 con gái, con trai út là ông nội của Tướng công.

Ông nội của Tướng công là là Hiệu sinh ở bản phủ, tên chữ là Minh Đạo, tên thụy là Dung Thành phủ quân. Bà nội của Tướng công là Lương thị, hiệu Từ Thái.

Hiển khảo của Tướng công, húy San tức Lăng, tên chữ là Mậu Nham, tên thụy là Viên Tỉnh phủ quâ n tính người cứng rắn, sáng suốt, thi đậu khi 16 tuổi. Lấy vợ là bà Đinh thị, húy Đa, hiệu là Từ Tâm. Sinh 4 người con trai, 3 người con gái: Phú Trần, Phú Chú, Phú Đào, Phú Thưu, Phú Duyên v.v.. Phú Duyên tên chữ là Huyền Bảo, sinh 1 người con, có cháu gái là Thị Hạnh lấy ông Điển giám sinh là Nguyễn Đình Hạ.

Con thứ là gái tên là Thị Ất, hiệu Từ Vinh, có ruộng để về sau.

Con út tức là Tướng công.

Ngày sinh ra Tướng công, bà mẹ chiêm bao thấy Thần cho 3 dòng chữ son, bảo là sẽ sinh quí tử. Tướng công sinh ra rất thông minh. Lúc nhỏ theo cha tránh sự hiềm khích, di cư ở xã Phú Lộc, huyện Cẩm Giàng, qua 17 năm, học tập siêng năng, rộng thông kinh sử. Năm 17 tuổi về làng cũ.

Năm Canh Ngọ (1630) 20 tuổi, ở học quán, lấy con gái nhà quí tộc ở xã đó là Lê Thị Ngọc Luân, tính cần kiệm như thơ Cát Đàm(4), có đạo đức như thơ Cù Mộc(5). Sinh ra Thị Cao và Thị Hiển.

Năm 26 tuổi thi Hương, đậu Giải nguyên, khoa Canh Thìn (1640), 31 tuổi thi Hội, trúng 3 kỳ, lại dự khảo khoa Sỹ vọng, trúng hạng Ưu nhất, được nhậm chức Hồng lô tự thiếu khanh. Khoa Bính Tuất (1646), 37 tuổi đậu Tiến sĩ, bổ chức Giám sát Ngự sử đạo Thanh Hoa. Năm Đinh Hợi (1647), vâng mệnh duyệt tuyển(6), có dân làng tâu xin bảo đảm, được thăng tước Nam. Lấy vợ thứ, người xã Chân Bái, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên(7) là Trịnh thị, húy Giai, là cháu quan Thừa chánh sứ Trịnh Cảnh Thụy. Năm Giáp Ngọ (1654) thăng chức Hiến sát sứ xứ Thanh Hoa. Giáo dục anh tài, nhiều người đỗ khoa bảng. Ông chiêm bao thấy Thần cho con dấu bằng sắt, bà vợ thứ chiêm bao thấy ánh mặt trời soi vào mình, nhân đó có thai. Năm Ất Mùi (1655) sinh ra ông Lập Sắt. Mẹ đích yêu quý như con mình đẻ ra, khi chia ruộng đất được nhiều hơn những người con khác. Ông được trải thăng các chức Độ khoa, Tư nghiệp, Tham chính. Được tặng phong cho hiển khảo (cha) chức Thái bảo Tham nghị, tước Diễn Nham Nam; hiển tỷ (mẹ) là Nghi Nhân. Lại ấm phong vợ là Lê Thị Ngọc Luân là Cẩn Nhân; con là Lập Sắt được ấm phong tước Tiến công lang. Lại nuôi con người anh là Chú, Đào, Thọ làm con mình, phúc ấm thấm nhuần cả mọi người con. Con gái đầu là Thị Cao khéo vá may canh cửi, có đức hạnh tốt, con gái thứ hai là Thị Hiển lấy quan Ngự y chính ở bản xã là Nguyễn Thọ Lộc, vâng mệnh đi sứ có công, được thăng nhậm chức Tham nghị xứ Hưng Hóa, tước An phủ sứ.

Con cháu thịnh vượng, gia thế vẻ vang. Ông muốn cho sự nghiệp được tỏa chiếu tới đời sau, làm gia phả ghi vào bia, nhờ ta làm văn. Ta khuyên nên ngay thẳng ở nơi triều đình, giữ đạo đức mà làm việc, cho đức trạch thấm vào người ta, tuổi trời được lâu dài. Khi đó sẽ mở hội Kỳ anh(8) rong chơi trong cõi thái bình, đó là việc tốt đẹp của gia thế tướng công. Công đức cao ngang với bầu trời trên đỉnh núi, há phải chỉ cái bia này mà thôi đâu !

Nhân làm bài minh rằng:

Dịch nghĩa:

Bực thánh sinh ra để giúp vua thánh,
Dùng người hiền được có người hiền.
Làng Thọ Bình yêu dấu,
Sinh ra Phạm tướng công.
Phúc đức nhờ tổ tông để lại,
Học hành nghiên cứu đến nguồn gốc.
Đỗ khoa tướng tướng (Tiến sĩ),
Đứng đầu hàng các quan.
Phúc ấm thấm đến vợ con,
Phong tặng cả cha mẹ.
Ơn trạch giữ gìn thi lễ.
Áo mũ nối đời trước đời sau.
Hưởng phúc như Kinh Thư ghi chép(9).
Tuổi trời được lâu dài,
Đội ơn vua cho nghỉ làm quan,
Vui hội họp bầy tiên,
Rong chơi đời thịnh vượng,
Giữ mãi phúc lộc lâu dài,
Bia này dựng cao ngất,
Muôn đời vẫn lưu truyền,
Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Cảnh Trị 8(10).

Dịch thơ:

Thánh sinh giúp thánh trị đời,
Dùng hiền được có bầy tôi bực hiền,
Thọ Bình làng quí trong miền,
Sinh ra được Phạm tướng viên anh tài.
Tổ tông chứa đức lâu đời,
Học hành nghiên cứu đến nơi ngọn nguồn.
Đỗ khoa tướng tướng tiếng đồn.
Đứng đầu quan chức chẳng còn ai hơn.
Ấm phong đến vợ đến con,
Tặng phong đến cả xuân huyên trên nhà.
Giữ gìn thi lễ đạo ta.
Vẻ vang áo mũ một nhà trước sau.
Kinh Thư ghi chép những câu,
Phúc trời ta hưởng dài lâu tuổi trời.
Ơn vua cho được nghỉ ngơi,
Bầy tiên sum họp thảnh thơi vui vầy.
Chơi xem đời thịnh vượng này,
Giữ gìn phúc lộc tháng ngày dài lâu.
Bia này dựng chất ngất cao,
Lưu truyền mãi mãi đến bao nhiêu đời.

CHÚ THÍCH

(1) Tên hiệu là tên quê hương được ghép lại: Hải Đông, Nam Sách, Chí Linh, Lạc Sơn.

(2) Tức Nguyễn Minh Triết.

(3) Tức Hiệu trưởng.

(4) Thơ Cát Đàm: một bài thơ trong Kinh Thi, khen bà Hậu phi cần kiệm, có đức tính tốt.

(5) Thơ Cù Mộc: một bài thơ trong Kinh Thi, khen bà Hậu phi có đức lớn, không ghen ghét.

(6) Duyệt tuyển: khảo duyệt thanh tích các quan lại.

(7) Thuộc Thanh Hóa.

(8) Hội Kỳ anh: hội gồm những người già cả có học thức qua lại vui chơi với nhau.

(9) Kinh Thư có câu: “Thiên thọ bình cách” nghĩa là làm chính giáo được công bằng, có đạo đức rất mực, thì trời cho tuổi thọ lâu dài.

(10) Tiếp theo là phần ghi chức tước, tên người soạn, người viết chữ, người khắc; mặt 2 của bia ghi việc đèn nhang đây lược bớt, tấm bia này còn có 2 câu khắc 2 bên lề là:

Thần hạ vẻ vang chầu bắc đẩu,
Hoàng vương thọ khảo ví nam san./.

TB

MƯỢN VIỆC "GIÁNG BÚT" ĐỂ
LƯU HÀNH THƠ VĂN YÊU NƯỚC

VŨ ĐÌNH NGẠN
TRIỆU TRIỆU

Giữa thế kỷ XIX, khi phong trào Cần Vương chống Pháp còn sôi nổi, các nhà nho đã sáng tác thơ ca kêu gọi nhân dân chống Pháp. Sang đầu thế kỷ XX, phong trào Cần Vương lắng xuống. Giặc Pháp củng cố được Ngụy quyền, chúng ra sức khủng bố, cấm lưu hành thơ văn mà chúng gọi là chống đối. Các nhà nho yêu nước phải rút vào hoạt động bí mật. Để hợp pháp hóa việc tuyên truyền bằng thơ văn, các cụ đã phải mượn thần quyền “Giáng bút” tức là lập ra các thiện đàn, lấy lời thần thánh (thật ra là thơ văn của các cụ) mà kêu gọi nhân dân đoàn kết, chống thói hư tật xấu, giữ gìn thuần phong mỹ tục, chống cường quyền áp bức, chống mê tín dị đoan v.v.. Họ phải nói bóng gió, xa xôi để người nghe tự hiểu và giặc Pháp không thể vin cớ để khủng bố được.

Khắp nơi trong nước đều có “Thiện đàn”. Ở phủ Kiến Xương (Thái Bình) có “Bảo thiện đàn”. Tham gia phong trào này có các nhà nho yêu nước như Trần Ngọc Dư (Hội trưởng Hội văn thân bí mật vùng Kiến Xương), Nguyễn Hữu Cương, Ngô Quang Đoan, Chu Đình Mặc v.v. Thường trực chủ trì bình bút là Hoàng Cao Phan, Hoàng Hữu Khái và Nhì Cắng. Nhan đề cuốn Kinh giáng bút của “Bảo thiện đàn” hiện còn lưu lại là “Chấp trung kinh”, gồm trên một trăm bài đủ các thể loại thơ, ca, văn, phú, biền ngẫu... Mỗi bài một vẻ, được gọt rũa rất công phu, độc đáo. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chỉ có thể trích giới thiệu vài bài để bạn đọc có một ý niệm chung:

Bài 1:

Đỗ Đại tiên giáng bút thi
(Đảo áp cách)

Phiên âm:

Bạch lộ hàm thu cúc xạ phương,
Phượng xa phong tống đáo Tiên đường.
Đương tiền lạc dữ Chu Hầu thoại,
Thoài hậu ưng thân Đỗ Phủ trường.
Tưởng phù quá khách phùng kim nhật,
Nhân kịp du hồn lạc túy hương.
Hướng tuy thất cước kim nghi tỉnh,
Tỉnh nghỉ lập thân quý tự cường.

Dịch nghĩa:

Thơ giáng bút của Đỗ Đại Tiên(1)
(Theo thể đảo áp tức nói lái, còn gọi là phản thiệt(2)).
Trời thu ngậm sương trắng, cúc tỏa hương thơm,
Gió đưa xe phượng tới nhà Tiên.
Đương cùng nói chuyện với Chu Hầu(3),
Nên nói rõ tâm hồn Đỗ Phủ để lại sau này,
Ta là khách đi qua đây hôm nay,
Du khách đi vào chốn làng say(4).
Trước khi trót lỡ, nay cần xét kỹ,
Lập thân ở đời phải biết tự cường.

Dịch thơ:

Cúc nhả hương thơm, thu trắng sương,
Sướng chăng xe phượng tới Tiên đường.
Đương tiền - hậu với Chu Hầu chuyện,
Truyền hậu - tiền tâm Đỗ Phủ tường,
Tưởng phù hợp khách qua đường gặp,
Gặm được du hồn say quá hương.
Hướng qua trót dại lai ơ tỉnh,
Tinh ở lập thân cốt tự cường.

Bài 2:

Lý Bạch thiên tiên giáng bút thi
(Điệp vận cách, hay Vĩ tam thanh)

Phiên âm:

Lãn quan thế thái cạnh tranh hành,
Sơn thủy nhàn du tỉnh tính tình,
Lĩnh thụ sương hàm hoa hóa quả,
Cầm tuyền thủy khích thạch thành thanh.
Mê đồ ta bỉ tiên tiền tiến,
Phúc địa y thùy cánh cạnh canh.
Nhân thế dục cầu tri trí trị,
Hồi đầu tảo táo thính kình khanh.

Dịch nghĩa:

Thơ giáng bút của Lý Bạch
(theo thể cùng vần, nghĩa là 3 chữ cuối cùng một vần)
Biếng (chán) xem thói đời tranh giành nhau,
(Ta) đi du ngoạn để vui tính tình.
Cây núi đượm sương, hoa trở thành quả,
Nước suối chảy (gõ) vào đá tiếng róc rách.
Đáng than cho kẻ chạy đua, mê muội,
Đáng tiếc cho ai thi nhau chăm cõi phúc(5)
Cõi đời muốn được thái bình thịnh trị,
Hãy mau quay đầu lại nghe lời kinh sách(6).

Dịch thơ:

Buồn xem cõi thế cảnh tranh giành,
Non nước chơi qua tránh lạnh tanh
Cây núi sương pha hoa hóa quả.
Suối đàn nước, đá đánh thành thanh.
Đường mê lắm kẻ đây đầy đấy,
Cõi phúc nào ai tránh sánh danh.
Cuộc thế muốn cho bình thịnh vĩnh,
Quay đầu nghe sách thánh nhanh nhanh.

CHÚ THÍCH

(1) Đỗ Phủ, hiệu Thiếu Lăng, thi sĩ lớn đời Đường.

(2) 2 chữ cuối câu trên nếu nói lái thành 2 chữ đầu câu sau.

(3) Chu Hầu là Chu Xương, người hầu Quan Công.

(4) Túy hương là làng say, chỉ tao đàn nơi hội ngộ quần tiên.

(5) Nguyên văn là ruộng phúc thì không ai cày cấy, ý nói việc nghĩa không ai quan tâm.

(6) Nguyên văn là quay lại nghe tiếng chày kình gõ vào chuông kêu vang, ý nói tiếng chuông cảnh tỉnh (hay lời sách thánh hiền)./.

TB

"HUỲNH THÚC KHÁNG TÁC PHẨM" HAY MỘT SỰ BÔI BÁC TRONG KHOA HỌC

CAO PHI HỒNG

Sau quyển Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb. KHXH, H. 1991) làm xúc động dư luận, tác giả Nguyễn Q. Thắng (trở xuống xin viết tắt là NQT) lại tiếp tục cho ra đời nhiều công trình khoa học có chất lượng tương tự, trong đó có quyển Huỳnh Thúc Kháng tác phẩm (Nxb. Tp Hồ Chí Minh 1992 - trở xuống viết tắt là HTKTP). Theo tác giả trong Lời nói đầu, quyển này giới thiệu thêm “một số lớn thơ chữ Hán mà sách trước không có” (sách trước đây tức quyển Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn cũng của ông NQT do Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn xuất bản, 1972-CPH) và “chủ yếu chỉ giới thiệu các tác phẩm Huỳnh Thúc Kháng” còn ai “muốn có một cái nhìn nhất quán về ông xin tham khảo quyển Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn...”. Song mặc dù coi sự hiểu biết của mình về Huỳnh Thúc Kháng trước đó 20 năm là một thứ khuôn mẫu, trong quyển HTKTP năm 1992 nói trên tác giả NQT vẫn tỏ ra không những chưa hiểu đúng mà còn không có cả khả năng để hiểu đúng về thơ văn của một nhà yêu nước Việt Nam. Cụ thể, có thể đề cập tới phần thơ trong quyển HTKTP (cái nhan đề này cho thấy tác giả NQT rất chuộng ngữ pháp Trung Quốc) với hàng loạt những sai sót tệ hại từ việc công bố văn bản - phiên âm chữ Hán tới việc phiên dịch tác phẩm - chú thích điển cố...; phần làm nên giá trị chủ yếu của quyển sách mà cũng là phần thể hiện rõ nhất học vấn và tâm huyết của người biên soạn đối với tiền nhân...

1. Về việc công bố văn bản và phiên âm chữ Hán: khác với nhiều công trình giới thiệu tác phẩm Hán Nôm, quyển HTKTP không có phần mô tả - nghiên cứu văn bản. Người đọc chỉ biết nhắm mắt tin vào tác giả, có điều tác giả NQT lại công bố văn bản theo một cung cách rất đáng nghi ngờ. Các bài thơ được giới thiệu lần đầu ở đây đều không được nhắc tới lai lịch và xuất xứ tư liệu, nội dung và đặc điểm văn bản một cách minh bạch và chi tiết, lối làm việc này để lại kết quả rõ ràng trước hết nơi phần chữ Hán. Phần này gồm 17 tr. Không đánh số xếp sau tr.363 và trước tr.364, trong đó có 10 tr, viết bút sắt chép 54 bài thơ đánh số thứ tự từ 4 (?) tới 57,3 tr. chữ in và 4 tr. viết bút lông được giới thiệu là thủ bút của Huỳnh Thúc Kháng. Cần lưu ý rằng phần viết bút sắt có một số chữ bị viết sai như trợ 箸 viết là trứ 著 (bài 29) phục 鵩 viết thành (?) 月段 (bài 30)... Tình hình này khiến người ta rất ngại khi nghĩ tới việc trích dẫn ông NQT, bởi có nhiều trường hợp không rõ bản chữ Hán sai hay bản phiên âm sai. Chẳng hạn câu 4 bài Điệp vận thứ Tiểu Mai kiêm trình Mặc Si IV (tr.132-133) bản phiên âm là Ảnh cộng hàn đăng lưỡng bất ngôn, song bản chữ Hán (bài 13) lại là Ảnh dữ hàn đăng..., dữ 與 và cộng 共 ở đây vừa đồng nghĩa vừa có tự dạng gần nhau nên rất khó biện chính. Đặc biệt, thủ II và III của bài này đều có hai câu đầu là Nê hồng nhất trảo tự tây đông, Bằng dực đồ nam hựu trở phong, nhưng ba vần tiếp theo của thủ II là ti, si, thi còn ở thủ III là hùng, công, trung (tr.130, 131) phần chữ Hán (bài 11,12) cũng như vậy, rõ ràng thủ II có vấn đề văn bản. Thế nhưng ông NQT không hề giải thích, chú thích gì cả mà cứ mặc nhiên dịch - cả dịch nghĩa lẫn dịch thơ khác hẳn nhau rằng:

Con chim hồng đi để lại dấu móng chân trên tuyết từ đông sang tây

Chim hồng vượt biển quá tây đông (thủ II)

Con chim hồng đi để lại dấu móng chân trên tuyết

Chim hồng in móng tuyết tây đông (thủ III)

Nêu vài ví dụ như trên để thấy rằng ông NQT hoặc không biết nguyên tắc giới thiệu và phương pháp nghiên cứu văn bản, hoặc không thấy cần thiết phải làm việc với văn bản một cách nghiêm túc, hoặc là hội đủ cả hai phẩm chất phi khoa học nói trên.

Về việc phiên âm chữ Hán, ông NQT phiên âm sai quá nhiều. Ngoại trừ những lỗi morasse hay cứ cho là lỗi morasse, giữa phần chữ Hán với phần phiên âm Việt Hán trong quyển HTKTP có nhiều khoảng cách về số lượng và nội dung đến phải ngạc nhiên. Có những câu thơ mà bản chữ Hán viết bút long có phần nguyên chú thì ông NQT không phiên âm; có những chữ mà bản chữ Hán viết bút lông không thấy có thì lại xuất hiện và được dịch trong bản phiên âm - dịch nghĩa của ông NQT... Một ví dụ - hai câu 3, 4 trong ba Tiểu Mai Công tôn tiên sinh ngâm thứ III, bản chữ Hán (bài 6) chép như sau:

舊 隱 歸 來 存 菊 徑
新 篇 持 贈 當 蘭 言

Cựu ẩn quy lai tồn cúc kính
Tân thiên trì tặng đáng lan ngôn


(Cảnh cũ trở về còn luống cúc
Thơ nay trao tặng thật lời lan)

Chưa nói tới việc làm sai cả ý nghĩa với bản dịch thơ Côn Lôn quy khứ lại nhà, Nay ta lại viết bài ca tặng người (tr.124), ông NQT đã phiên âm hai câu này là: Cựu cấp quy lai hảo cúc kính. Tân thiên trì tặng đương lan ngôn (tr.121), thoạt đọc qua cứ tưởng Huỳnh Thúc Kháng pha điệu cổ phong vào thơ Đường luật ! Chẳng lại gì mà ông NQT cứ dịch bừa ra thơ lục bát, mà lại dịch sai, bởi với lối đọ ẩn, tồn, đáng ra cấp, hảo, đương kia thì ông còn chưa biết chữ chứ nói gì tới chuyện hiểu nghĩa... Xin thêm ví dụ khác. Lời dẫn ba bài Độc Nguyễn Trường Tộ di thảo cảm tác, tái điệp tiền vận, phần chữ Hán bút lông ai cũng phải đọc và hiểu là:

Đông dạ cực hàn, độc toạ vô liêu, phục ôn xướng thù chư tác, ư “Độc Nguyễn Trường Tộ di thảo cảm tác” đề, bách thích giao tập, tục thành “Tái điệp tiền vận” tam thủ trình chính (Đêm đông lạnh quá, ngồi buồn một mình giở lại những bài thơ xướng hoạ, tới bài “Đọc di thảo của Nguyễn Trường Tộ cảm tác” trăm mối lo buồn dồn lại, bèn viết tiếp thành ba thủ “Lại theo vần bài trước” trình lên nhờ sửa cho), thì riêng ông NQT lại đọc và dịch thành:

Đông dạ cực hàn, đọc tọa vô liêu, phục ôn xướng thù chư tác ư “Độc Nguyễn Trường Tộ di thảo cảm tác” đề “Bách tuế văn tập” tục lai tái điệp tiền vận tam công trình chánh = Đêm đông lạnh buốt, một mình ngồi không, không có gì vui, (vô cớ) lại ôn lại các bài cảm tác của Nguyễn Trường Tộ “Đề bách túe văn tập”. Tiếp vẫn giữ vần cũ. Xin trình ba ngài xem (tr.155)!

Ngoài việc đọc thích, giao, thành, thủ ra tuế, văn, lai, công, trong đoạn văn xuôi nói trên ông NQT còn ngắt câu sai và dịch bừa. Phục ôn xướng thù... đề mà dịch là Lại ôn lại các bài cảm tác của Nguyễn Trường Tộ thì chưa rõ ông NQT toan xếp cái học vấn Hán học của Huỳnh Thúc Kháng vào bậc nào, song chắc chắn là ông đã đem mắt trắng mà nhìn cả học giới Việt Nam vậy.

Tuy nhiên, trên đây là các văn bản chữ Hán, có thể chúng quá khó đối với ông NQT. Điều làm người ta sững sờ là ông còn không hiểu nên đọc không đúng và chép sai cả những văn bản tiếng Việt viết bằng chữ quốc ngữ la tinh. Quyển HTKTP có giới thiệu một số thơ rất đáng chú ý trong Minh Viên cận tác, trong đó có nhiều bài là Huỳnh Thúc Kháng tự dịch thơ chữ Hán của mình; nhưng đáng tiếc là sự sao lục thiếu hiểu biết và ít suy nghĩ của ông NQT lại tạo ra một số dị bản rất kỳ quặc. Chẳng hạn câu cuối bài Gởi Nhụ Khanh III (tr.138) Âm tuyền chan chứa bụng trì nguyên hay câu 6 bài Đọc bản điều trần Nguyễn Trường Tộ tiên sanh (?) cảm tác III (tr.144) Trời xé gươm đâu kéo thử nào. Và cần nói ngay rằng đây không phải là những lỗi morasse.

Trong một lần được gặp tác giả NQT tại buổi nói chuyện của ông về Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng nhân dịp ông cho xuất bản quyển Phan Châu Trinh cuộc đời và tác phẩm (Nxb Văn học, 1992) và HTKTP ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1992, một người bạn của chúng tôi có hỏi rằng hai câu ấy có vấn đề morasse không và nếu không thì có nghĩa là gì thì ông NQT nói rằng không bị in sai và thừa nhận trước chỗ đông người rằng ông không hiểu nghĩa nên không chú thích. Đến lúc ấy người bạn tôi mới nói với tác giả NQT rằng chắc ông đọc sai bản chữ quốc ngữ la tinh chép tay, chứ hai câu ấy có lẽ là Ẩm tuyền chan chứa bụng tư nguyên (vì niêm luật nên tác giả đổi chữ thủy trong thành ngữ Ẩm thủy tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn thành chữ tuyền) Trời xế gươm đâu kéo thử nào (cũng vì niêm luật nên tác giả dùng tích Huy qua vãn nhật nhưng dịch qua ra gươm chứ không dịch là giáo. Huy quan vãn nhật - Vẫy giáo kéo mặt trời trở lại là tích Lỗ Dương công đánh nhau với quân nước Hàn, trời đã xế chiều mà lòng còn hăng hái, bèn vẫy giáo kéo mặt trời lui lại ba xá - 90 dặm để tiếp tục chiến đấu, người sau dùng tích này để chỉ lòng hăng hái đánh giặc hay ý nguyện cứu vãn thời thế).

2. Về việc phiên dịch tác phẩm và chú thích điển cố. Có thể nói ngay rằng trên cả hai phương diện này, ông NQT chưa đủ khả năng để đạt được một chất lượng tối thiểu. Gần như toàn bộ các bản dịch, đặc biệt là dịch nghĩa, dịch thơ chữ Hán trong HTKTP đều có vấn đề, hoặc dịch sai, hoặc dịch sót, hoặc lủng củng về ý nghĩa. Ngay cả những câu cực kỳ đơn giản về chữ và vô cùng rõ ràng về nghĩa, ông NQT cũng vẫn cứ dịch sai. Chẳng hạn hai câu đầu bài Độc Nguyễn Trường Tộ di thảo cảm tác tái điệp tiền vận 1 (tr.156).

Nhất chiến nhân tranh thuyết bối thành
Hòa nhung định kiến độc tiên sinh

Ông NQT dịch nghĩa và dịch thơ là:

Một lần đánh nhau, người tranh nhau nói chuyện bỏ thành
Định kiến hòa với giặc chỉ có một mình ông

Trận mở, tranh nhau nói bỏ thành
Chủ hòa riêng ý một tiên sinh.

Nhưng nếu mọi người chủ trương bỏ thành thì ý kiến nghị hòa của Nguyễn Trường Tộ có gì hơn người để Huỳnh Thúc Kháng ca ngợi là sáng suốt ? Ông NQT hiểu sai chữ bối - nó quả có nghĩa là quay lưng, nhưng bối thành ở đây lại có nghĩa là dựa lưng vào thành để tử chiến, nghĩa là kiên quyết giữ thành; cũng tương tự như chữ bối thủy trong Sử ký của Tư Mã Thiên, Hoài Âm hầu liệt truyện thuật chuyện Hàn Tín dàn trận quay lưng về phía sông khi đánh Triệu vậy. Nếu muốn dùng bản dịch của ông NQT, thì ít nhất phải đổi chữ bỏ trong câu đầu ra chữ giữ. Hay như hai câu 5-6 trong bài Lạc diệp (tr.171).

Phong giang ngư lãnh thuyền thiêm hỏa
Lâm kính tiều mê phủ lạn kha

Ông NQT dịch nghĩa và dịch thơ rằng:

Bên sông có cây phong, ông chài lạnh neo cửa (lửa?) trong thuyền
Đường tắt trong rừng, ông tiều ngủ mê nên búa bị cháy cán

Ven sông phong đỏ chài tê buốt
Đường vắng rừng già lão ngủ mê (sa)

Đọc những câu dịch này thì chẳng một ai trên đời này hiểu được rằng Huỳnh Thúc Kháng làm thơ tả cảnh lá rụng. Đây là hai câu luận, ý nói là nhà chài bên ven sông lạnh nhờ có lá bàng rơi nên có thêm cái đốt mà sưởi - thêm lửa, và chiếc búa của ông tiều trên đường trong rừng bị lá rụng lấp mất trong lúc ông mơ mơ hồ hồ nên mục cả cán. Cây búa tiều phu mà lại bị lá rừng lấp đến nỗi mục cả cán, thì tứ thơ của Huỳnh Thúc Kháng nó độc đáo lắm, chẳng phải như bản dịch nghĩa của ông NQT làm người ta tưởng có nạn cháy rừng hay bản dịch thơ vẽ ra một ông tiều làm biếng vào rừng để ngủ - có lẽ ông NQT thấy chữ lạn 爛 có bộ hỏa 火 nên dịch là cháy!

Về việc chú thích, chỉ xin nêu vài ví dụ để thấy mức độ nghiêm túc trong lao động khoa học của ông NQT. Về hai chữ Thạch Tấn trong câu Đất đâu Thạch Tấn đem lo lót trong bài thơ ở tr.143, ông chú là Thạch Thành rồi dẫn chuyện Tần đánh Triệu từ thời Liêm Pha, Lạn Tương Như ra để bắt người đọc hiểu. Nhưng ông quên mất hai câu trong đoạn mở đầu Ngư Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu kể từ Thạch Tấn ở ngôi, U Yên mấy dặm cắt bồi Khiết Đan để giải thích bản nghĩa và dụng nghĩa của cái tích Thạch Tấn này đã đành, lại còn liều mạng đánh dấu bằng giữa Thạch Tấn (Thạch Kính Đường nhà Hậu Tấn) với Thạch Thành theo một kiểu không cần địa chỉ thì thật là không coi người đọc vào đâu! Hay câu 6 trong bài Thứ Mặc Si độc Nguyễn Trường Tộ tiểu sử nguyên vận ! (tr.160-163) Kỳ khí Phong Thành kiếm vĩnh mai (Thanh kiếm tỏa khí lạ ở Phong Thành mãi mãi bị vùi chôn) - ý Huỳnh Thúc Kháng tiếc cho Nguyễn Trường Tộ là bậc anh tài mà không được đại dụng, như thanh bảo kiếm Long Tuyền bị chon vùi ở Phong Thành, có điều không gặp được những người như Trương Hoa, Lôi Hóan để đào lên nên dẫu tỏa ra khí lạ cũng vô ích. Câu này ông NQT dịch nghĩa và dịch thơ đều sai, nhưng đó là thông lệ trong quyển HTKTP nên ở đây không bàn, chỉ cần nói tới chú thích về từ Phong Thành mà bản chữ Hán (bài 32) chép là 豐 城 . Ông NQT chú đó là thành Phong Châu nơi An Dương vương bị Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần, bị Triệu Đà đuổi… An Dương vương quay lại chém Mỵ Châu, vùi kiếm ở Phong Thành rồi nhảy xuống biển tự tử (kiếm này từ đó mất luôn)! Chỉ một chú thích thôi mà người ta thấy cả một trời sai trái: Thứ nhất, Phong Châu ở Việt Nam là 峰 州 không phải là 豐 州 . Thứ hai, An Dương vương bị đánh cắp nỏ thần không phải ở thành Phong Châu mà là ở thành Cổ Loa. Thứ ba, nếu An Dương vương chạy từ Phong Châu thì chém Mỵ Châu xong ông phải chôn kiếm đâu đó chứ không khi nào lại chạy về Phong Thành - thành Phong Châu để chôn. Thứ tư, Phong Châu là kinh đô nước Việt thời các vua Hùng, nay thuộc Vĩnh Phú, nếu chôn kiếm ở Phong Châu rồi nhảy xuống… tự tử thì quyết là An Dương vương không thể nhảy xuống biển mà phải nhảy xuống sông xuống hồ gì đó, vì quanh Phong Châu không hề có cái biển nào cả.

3. Về một số vấn đề khác: Giống như nhiều công trình khoa học của ông NQT, HTKTP là một quyển sách viết bừa viết ẩu, và nói thẳng ra là để ông tự quảng cáo chứ chẳng hề vì học thuật hay tiền nhân. Mở đầu quyển sách, ông công khai tự giới thiệu một cách kín đáo bằng cấp Tiến sĩ và tước hiệu Học sĩ của mình (tr.7-8) năm 1972, rồi mới sực nhớ tới việc lập Biểu biên niên cuộc đời Huỳnh Thúc Kháng (tr.9-13). Lời nói đầu (tr.15-17) thì ông chỉ nêu ra lịch sử vấn đề bằng quyển Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn năm 1972, và cay cú công kích Nxb. Đà Nẵng vì cơ quan này không chịu xuất bản HTKTP. Hơn thế nữa, ông phủ nhận tất cả các công trình nghiên cứu của người khác trước nay về Huỳnh Thúc Kháng, với kết luận không có chứng minh là các công trình ấy vẫn còn phiến diện và có tính cách nhị nguyên (chỉ có sách của ông là nhất quán!). Có điều thiên hạ nhị nguyên ra làm sao và sách của ông không nhị nguyên như thế nào thì ông không nói. Và ông NQT thích nói chữ cho oai, đặt câu cho kêu, mặc dù ông viết câu có chỗ còn chưa đúng ngữ pháp và trái lôgich. Những câu như Trong quá trình vận động của lịch sử, chúng tôi thấy (sie) những gì Huỳnh Thúc Kháng suy nghĩ và hành động rất đúng với thực chất (sie) cuộc đời… hay Sách này chủ yếu chỉ giới thiệu các tác phẩm Huỳnh Thúc Kháng. Muốn có một cái nhìn nhất quán (sie) về ông xin tham khảo quyển Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn… là ví dụ.

Trong vài năm nay, nhiều công trình biên soạn về nhân vật lịch sử loại Cuộc đời và thơ văn, Con người và tác phẩm… được xuất bản và tái bản. Đó là một điều đáng mừng đối với việc tìm hiểu, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc. Nhưng vì nhiều lý do, không ít trong những công trình ấy lại đã gieo rắc những kiến thức bậy bạ, gây nhiễu thông tin về văn bản - tư liệu, làm rối thêm cho việc nghiên cứu khoa học và phổ cập trí thức cho nhân dân. HTKTP là một ví dụ mà chúng tôi muốn nêu ra để góp phần báo động với học giới. Bởi vì trong cơ chế thị trường thời mở cửa này, đã, đang và sẽ có những công trình bôi bác, ít hiểu biết và thiếu trách nhiệm kiểu HTKTP - những công trình không nhằm đóng góp cho cuộc đời và khoa học mà chỉ lấy việc kéo dài thư mục tác phẩm của cá nhân người viết làm mục tiêu…

TB

NHU CẦU BẢO QUẢN VÀ LƯU TRỮ Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

CHU TUYẾT LAN

Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á từng có quá trình trao đổi văn hóa lâu dài và những nét tương đồng về điều kiện lịch sử, địa lý. Cả khu vực đang có nhu cầu cấp bách về vấn đề bảo quản lưu trữ nguồn tư liệu mang tính truyền thống nói chung và các nguồn tư liệu khác nói riêng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới vô cùng khắc nghiệt: thoắt mưa, thoắt nắng, lúc quá nóng lúc lại quá lạnh, đây là môi trường thuận lợi cho các loài côn trùng hoạt động.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo quản lưu trữ của cả khu vực Đông Nam Á, Thư viện trường Đại học Tổng hợp Chiang Mai đã chịu trách nhiệm đăng cai tổ chức “Hội thảo khoa học về thư viện và những nhu cầu bảo quản lưu trữ ở khu vực Đông Nam Á" tại khách sạn Orchid Chiang Mai, Thái Lan với sự tài trợ của chính phủ Hà Lan và thư viện trường Đại học Tổng hợp Cornell Mỹ.

Hội thảo đã kéo dài trong 3 ngày từ 15 đến 17 tháng 12 năm 1993, với sự tham gia và đóng góp ý kiến của các đoàn đại biểu từ các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Úc và Mỹ.

Đoàn Việt Nam gồm 5 người:

- Đào Văn Tán, phó Viện Trưởng Viện Thông tin KHXH.

- Huỳnh Ngọc Thu Giám đốc Thư viện Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

- Đặng Văn Úc, Trưởng phòng Bảo quản Thư viện Quốc gia.

- Trần Minh Đức, Trưởng phòng Thông tin Tư liệu Thư viện Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh.

- Chu Tuyết Lan Phó phòng Thông tin Tư liệu Thư viện Viện Hán Nôm.

Đoàn Việt Nam có 3 bản báo cáo trình bày trước hội nghị, đều được đánh giá cao về hàm lượng thông tin cũng như ý nghĩa thực tiễn của nó.

Sau đây là mấy ý kiến lớn mà hội thảo đã nhất trí:

+ Khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác bảo quản lưu trữ trong khu vực.

+ Tiến tới thành lập Trung tâm Bảo quản Lưu trữ ở khu vực Đông Nam Á để cùng nhau làm việc, tìm ra những biện pháp tối ưu nhất cho công tác bảo quản lưu trữ.

Ngoài ra, hội thảo còn bàn về vấn đề đào tạo chuyên gia, tổ chức hội thảo 2 hoặc 3 năm một lần để trao đổi rút kinh nghiệm lẫn nhau.

Đặc biệt hội thảo còn được nghe 2 Giáo sư người Mỹ là Ô.JohnDean và Ô.Badgley thuyết trình trong nhiều giờ về vấn đề thư viện và nhu cầu bảo quản lưu trữ trong khu vực.

Hai ông đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xử lý tư liệu trước khi đưa vào bảo quản lưu trữ; việc dùng hệ thống điều hòa trung tâm để bảo quản sách là cần thiết, song phải duy trì 24/24 giờ ngày. Giáo sư John Dean đề cập tới 5 giải pháp của vấn đề bảo quản lưu trữ và đề cương về việc phát triển thư viện nói chung.

Thư viện Trường Đại học Tổng hợp Chiang Mai, Thái Lan, đứng đầu là Ô.Giám đốc M.R.Rujaya Abhakorn sẽ chịu trách nhiệm về việc ra kỷ yếu hội thảo và thực hiện những chương trình tiếp theo mà hội thảo đã đề cập tới.

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH CỦA PIGNEAUX DE BE'HAINE