|
KIỂM KÊ, PHÂN LOẠI VÀ SƠ BỘ ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
TRẦN NGHĨA
Trương Đăng Quế (1793-1865) là một nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng, đồng thời là một nhà sử học, nhà văn có tên tuổi ở nước ta nửa đầu thế kỷ XIX. Sự nghiệp nhiều mặt của ông cho đến nay, vì lẽ này lẽ khác, vẫn chưa được nhận thức và đánh giá một cách đầy đủ, khách quan.
Bài viết này giới thiệu một số tư liệu Hán Nôm có thể hiểu như là nguồn thông tin cấp 1 về Trương Đăng Quế, nhằm góp phần làm rõ bức chân dung một nhân vật lịch sử văn hóa mà trước mắt không ít người đang quan tâm nghiên cứu(1).
Có 2 nguồn tư liệu Hán Nôm quan trọng về Trương Đăng Quế, một là những thư tịch liên quan đến ông hiện tàng trữ tại các thư viện lớn, và hai là những di văn Hán Nôm tìm thấy trên quê hương ông.
Tại các thư viện lớn, chủ yếu là Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội(*) và Thư viện Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh(**) qua điểu tra sơ bộ, thấy có các tác phẩm Hán Nôm sau đây của Trương Đăng Quế hoặc liên quan đến Trương Đăng Quế:
1. Đại Nam thực lục tiền biên (* VHv.1320/1-4; ** VS.23).
2. Đại Nam liệt truyện tiền biên (* VHv.172; **VS.27/1).
3. Giáp Thìn khoa điện thí văn (trong Yên Đài anh thoại. *A.1918).
4. Hoàng Việt hội điển toát yếu (*A.1446).
5. Diệu Liên tập (*VHv.685)
6. Nhật Bản kiến văn lục (*A.1164).
7. Quảng Khê văn tập (*A.3045)
8. Trương Quảng Khê thi văn (*VHv.1142).
9. Trương Quảng Khê tiên sinh tập (*VHv.30)
10. Một số thơ Trương Đăng Quế trích in trong các sách như Thanh Hóa kỷ thăng (*VHv.1242), Thi tấu hợp biên (*A.2983), Từ uyển xuân hoa (*A.2518).
11. Một số văn Trương Đăng Quế trích in trong các sách như Bách quan tạ biểu (*A.544), Biểu tấu tập (*VHv.1875), Binh chế biểu sớ (*A.1543), Nam giao nhạc chương (*A.2228), Nguyễn triều tấu biểu (*VHv.1275), Quốc triều danh biểu (*VHv.1891), Quốc triều hàn uyển (*VHv.206/1-4).
Ngoài ra, Công chúa Mai Am trong Diệu Liên tập có nói sau khi Trương Đăng Quế mất, bà đã tìm được tác phẩm Giang đình yến tập của ông. Đáng tiếc là hiện nay chúng ta chưa tìm thấy tập thơ này.
Trong cuộc hội thảo về Trương Đăng Quế tổ chức tại Quảng Ngãi vào cuối năm 1993, có người nói Trương Đăng Quế còn có một tác phẩm viết về anh em nhà Tây Sơn, nhan đề Tây Sơn bí lục. Nhưng vấn đề còn đang chờ xác minh. Ở Viện Hán Nôm hiện có cuốn Nguyễn Thị Tây Sơn ký, mang ký hiệu A.3138, sách viết tay, ghi chép rất tỉ mỉ sự tích của Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Quang Toản. Sách không ghi tên người biên soạn, nhưng qua cách xưng hô, như gọi Nguyễn Ánh là “Thế Tổ”, gọi Nguyễn Quang Toản là “Ngụy hiệu Cảnh Thịnh, hựu cái Bảo Hưng”, cũng có thể hiểu tác giả cuốn sách thuộc hạng bề tôi nhà Nguyễn. Việc xác minh Nguyễn Thị Tây Sơn ký có liên quan gì với Tây Sơn bí lục hay không, phải đợi thời gian. Duy một điều có thể nói là loại tác phẩm như thế này rất cần thiết cho việc biên soạn một bộ sử nhà Nguyễn từ Gia Long trở về trước, một công việc mà triều đình nhà Nguyễn từng phó thác cho Trương Đăng Quế.
Về nguồn tư liệu thứ hai, di văn Hán Nôm trên thực địa, chúng tôi đã có dịp về khảo sát tận quê hương Trương Đăng Quế - làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi - nhưng đáng tiếc là sau những năm chiến tranh tàn phá, tất cả hầu như đã mất sạch, ngoại trừ vài mảnh bia còn lại với những thông tin không mấy quan trọng.
Có thể chia số tư liệu hiện biết trên đây thành 3 nhóm chính:
+ Các công trình sử học,
+ Các tác phẩm văn học,
+ Các bài giảng, các luận văn nghiên cứu, phê bình văn học.
1, Các công trình sử học gồm Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên và Hoàng Việt hội điển toát yếu.
* Đại Nam thực lục tiền biên: còn có tên là Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên gồm 12 quyển, dày 700 trang, in năm 1844. Đây là một công trình sử học cấp Nhà nước, do Trương Đăng Quế và Vũ Xuân Cẩn đồng Chủ biên, trong đó Trương Đăng Quế là Chủ biên chính. Có 3 Phó chủ biên là Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt. Ban biên soạn, ngoài những người nó trên, còn có Đỗ Quang, Tô Trân, Phạm Chi Hương, Phạm Văn Nghị, Đỗ Duy Đàm, Nguyễn Huy Phiên, đều là những nhà khoa bảng nổi tiếng. Sách chép các sự kiện lịch sử từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần, gồm 9 đời Chúa, cộng 218 năm.
* Đại Nam liệt truyện tiền biên: dày trên 400 trang, in năm 1852. Đó cũng là công trình sử học cấp Nhà nước, vẫn do Trương Đăng Quế và Vũ Xuân Cẩn làm Chủ biên, trong đó Trương Đăng Quế giữ vai trò chính. Hai Phó Chủ biên là Hà Duy Phiên và Lâm Duy Nghĩa. Trong Ban biên soạn còn có Tô Trân, Phạm Hữu Nghi, Nguyễn Hữu Tố, Phạm Bá Thiều, Trần Trứ, Bùi Quỹ, Nguyễn Công Thụy, Nguyễn Đức Ý. Sách chép tiểu sử 157 nhân vật triều Nguyễn, từ hậu phi, hoàng tử, công chúa đến các công thần, kể cả những người ẩn dật, các nhà sư nổi tiếng, những người chống lại nhà Nguyễn, từ đời Nguyễn Kim đến đời Nguyễn Phúc Thuần.
Hai bộ sử này không phải ngẫu nhiên mà có. Triều Nguyễn sau khi ổn định tình hình đất nước, cần có bộ sử chính thống, với trình độ biên soạn cao, trên cơ sở tư liệu phong phú, nhằm thống nhất nhận định, thống nhất đánh giá về lịch sử, nhất là đối với giai đoạn mở mang, khai thác, kiến tạo nửa phần phía Nam của đất nước từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII mà nhà Nguyễn coi là có phần đóng góp quan trọng của dòng họ mình. Trương Đăng Quế được triều đình nhà Nguyễn giao cho nhiệm vụ chủ trì công việc biên soạn phần đầu, phần “tiền biên”, cũng là phần khó viết nhất của các bộ sử có tầm quan trọng đặc biệt này.
* Hoàng Việt hội điển toát yếu: còn có tên là Đại Nam hội điển toát yếu. Công trình biên soạn cấp Nhà nước, do Nguyễn Khoa Minh, Phan Huy Thực cùng Trương Đăng Quế thực hiện. Sách gồm 14 quyển, dày hơn 400 trang, tóm tắt bộ Hội điển đời Minh Mệnh, gồm các nguyên tắc tổ chức bộ máy cai trị Nhà nước, cơ cấu tổ chức của triều đình, sáu bộ, các phủ, viện, vệ, ty, doanh, cùng bộ máy cai trị ở các địa phương, quy chế về quan lại, quan đội, giáo dục, hành chính, hình pháp v.v..
Tổ chức, thiết kế một bộ máy điều hành toàn bộ công việc của đất nước sao cho hợp lý, có hiệu quả, vừa kế thừa truyền thống, vừa tham khảo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, bấy giờ chủ yếu là nhà Thanh ở Trung Quốc, là điều cực kỳ không dễ. Vậy mà, như ta thấy, nhiều sự định đặt từ thời Trương Đăng Quế, cho đến nay, vẫn cứ được tồn tại, tiếp tục được áp dụng, được duy trì, đủ thấy sự cẩn trọng, sự tính toán, cân nhắc của những người được giao nhiệm vụ hồi đó.
2, Các tác phẩm văn học gồm Giang đình yến tập, Trương Quảng Khê tiên sinh tập, Quảng Khê văn tập, Nhật Bản kiến văn lục.
* Giang đình yến tập: hiện chưa tìm thấy.
* Trương Quảng Khê tiên sinh tập: còn có tên là Học văn dư tập, do Miên Thẩm, một vị hoàng thân đồng thời là nhà thơ biên tập. Sách ngoài bài tựa của Trương Đăng Quế ký tên “Quảng Khê Tẩu”, còn có bài tựa của Phan Thanh Giản và bài tựa của Miên Thẩm. Học văn dư tập được in năm Tự Đức thứ 10 (1857), gồm 244 bài thơ thuộc nhiều thể loại: nhạc phủ, tứ ngôn, ngũ ngôn, cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn cổ thi, thất ngôn luật thi... Về nội dung, phần nhiều là thơ tâm tình, tức cảnh, hoặc làm ra để gửi tặng người thân, anh em, bè bạn. Cũng có một số thơ ứng chế, làm ra để họa lại thơ vua.
Thơ Trương Đăng Quế nói chung khá hay, không ít bài chân thành, đầy trí tuệ. Chính vì vậy mà được trích in trong nhiều tuyển tập thơ đương thời, dùng làm tài liệu tham khảo cho những người học làm thơ như trên kia đã thấy.
* Quảng Khê văn tập: in năm Tự Đức Quý Dậu (1853). Sách dày gần 100 trang, gồm 11 bài biểu, 2 bài văn bia, 1 bài minh, 1 bài hành thuật, 6 bài tựa, 8 bức thư, 1 bài phú và một số bài nghiên cứu. Theo lời Trương Đăng Đản là người con thứ hai của Trương Đăng Quế thì phụ thân ông thơ văn làm khá nhiều, nhưng “tùy tác tùy khí”, làm xong là vứt đi, không có ý cất giữ để lưu danh hậu thế. Số tác phẩm được đưa vào Quảng Khê văn tập, chỉ là một chiếc lông của con hổ, một đốm hoa trên mình con báo mà thôi, nói như Đặng Huy Trứ khi đề tựa tập sách này. Cần nói thêm rằng trong bài tựa, Đặng Huy Trứ còn cho biết nhiều điều về Trương Đăng Quế mà các sách khác không thấy chép: “Ông (TĐQ) là lương thần cố mệnh của hai triều, Thái bảo Đại học sĩ Điện Cần chính, được sung vào các chức Kinh diên giảng quan, Cơ mật viện đại quan, Chánh tổng tài Sử quán, Quản lý Tòa Khâm thiên giám, được phong tước Tuy Thạnh quận công. Ông đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819), về sau được tặng chức Thái sư, ban tên thụy là Văn Lương”.
Văn Trương Đăng Quế cũng rất được người đương thời hâm mộ, nhiều bài được chọn vào các tuyển tập văn lúc bấy giờ.
* Nhật Bản kiến văn lục: đây là bài bút ký của Trương Đăng Quế ghi lại những điều mà một số người Việt Nam đã mắt thấy tai nghe trong nhiều năm lưu lạc tại Nhật Bản. Chả là vào năm Gia Long thứ 14 (1815), có 5 người lính thành Gia Định do Đặng Hữu Bôi làm Toán trưởng được giao nhiệm vụ chở bè ván gỗ từ Gia Định (Tp. Hồ Chí Minh) ra Huế, hồi đó là Kinh đô, bằng đường biển. Đi được hai ngày đêm thì gặp bão, bè ván bị gió đẩy ra biển khơi, từ đó lênh đênh trên sóng nước, mãi một tháng sau mới trôi dạt vào một bãi cát trên có cây cối và nước ngọt, bọn Đặng Hữu Bôi bèn tạm trú lại ở đấy. Ngày hôm sau thấy có 6 người Trung Quốc tới, mang theo hai chiếc thuyền bằng gỗ. Bọn Đặng Hữu Bôi muốn hỏi thăm họ đây là đâu, nhưng vì không hiểu được tiếng nhau, nên họ lên thuyền bỏ đi. Cách một hôm, họ trở lại, mang cơm cho bọn Hữu Bôi ăn, rồi lên thuyền đi luôn, không quay lại nữa. Bọn Hữu Bôi sau đó hết cái ăn, đành đi mò ốc, bắt chim để sống qua ngày. Được mấy hôm, họ lấy nứa kết thành bè, men theo mặt nước mà đi, đói thì bắt cá nướng lên mà ăn, khát thì hứng sương đêm mà uống, vất vả trăm chiều. Mãi 2 tháng sau, họ lạc tới một hòn đảo, được người địa phương dìu lên bờ, đưa về tạm trú trong một ngôi chùa, nấu cháo cho ăn, bọn Hữu Bôi nhờ thế hồi phục sức khỏe dần. Trong toán lính Việt Nam này có Nguyễn Duy Báu biết chữ Hán, bèn viết chữ Nho hỏi người địa phương đây là đâu. Người trên đảo cho biết đây là địa đầu Nhật Bản. Sau đó, nhờ sự chỉ dẫn của người trên đảo, bọn Hữu Bôi tiếp tục cuộc hành trình qua một số địa phương khác như Trung Quân Điếm, Thất Ma Trấn, Đại Quan Thành v.v. và bắt đầu cuộc đời kiều ngụ của mình trên đất Nhật Bản, mãi cho đến năm 1828 họ mới trở về Việt Nam.
Bài bút ký đã giới thiệu một số nét về phong cảnh, nhân vật, phong tục, thổ sản... của người Nhật Bản vào đầu thế kỷ XIX. Cuối bài bút ký, có ghi cách phát âm một số từ tiếng Nhật thường dùng.
Qua việc Trương Đăng Quế đích thân xúc tiếp với những người Việt Nam từ Nhật Bản trở về, hỏi han và ghi lại cặn kẽ, tình hình nước Nhật hồi đó, có thể thấy không phải ông không quan tâm tới công cuộc xây dựng đất nước Nhật Bản, một xứ sở mà mấy thập kỷ sau đó đã diễn ra công cuộc duy tân nổi tiếng.
3, Các bài giảng, các luận văn nghiên cứu phê bình văn học, gồm Thi học, Truyện học, Sử học, Giáp Thìn khoa điện thí văn, Diệu Liên tập (phần lạm bình).
* Thi học, Truyện học, Sử học là những bài nghiên cứu về Kinh Thi, Tả truyện và một số bộ sử lớn của Trung Quốc, dùng để giảng dạy cho những người học về kinh sử... Đáng tiếc là loại bài này đã thất lạc hầu hết, số còn lại in trong Quảng Khê văn tập có lẽ chỉ là một phần nhỏ.
Trong Thi học, Trương Đăng Quế từ những bài thơ như Đông môn, Hành môn, Lục nga... trong Kinh Thi nói lên nghệ thuật dùng từ và cách đọc, cách hiểu các bài thơ trong tập dân ca cổ này của Trung Quốc.
Phần Truyện học đã mất, chỉ còn lại nhan đề trong Mục lục của Quảng Khê văn tập.
Trong Sử học, Trương Đăng Quế bàn về nhiều vấn đề trong Bách gia và cổ sử Trung Quốc. Chẳng hạn về Lão Tử, ông viết: “Lão Tử trốn đời, tuy vô tâm mà thật ra là hữu tâm” Thánh nhân (Khổng Tử, Mạnh Tử) giúp ra đời, tuy hữu tâm mà thật ra là vô tâm. Lão Tử rất hiểu và rất sành về thuật xử thế, gọi là vô tâm nhưng rất dính dáng với đời, như thế vẫn là hữu tâm, còn Thánh nhân thì thường xuyên có ý thức cứu đời, gọi là hữu tâm nhưng rất vô tư, như thế vẫn là vô tâm”... Tuy có mà không, tuy không mà có, Trương Đăng Quế muốn nhìn sự việc từ bản chất của nó, không để cho hiện tượng bề mặt đánh lừa. Hay về Hậu Hán thư, Trương Đăng Quế sau khi phân tích một số sự kiện lịch sử, đã đi tới kết luận: người trí thức cần rộng lượng, sẵn sàng tiếp thu cái mới, không định kiến, không cầu toàn trách bị...
* Giáp Thìn khoa điện thí văn: gồm những bài văn thi đình năm Giáp Thìn, tức 1844, thời Triệu Trị, do Nguyễn Bá Nghi và Trương Đăng Quế chấm, phê duyệt.
* Diệu Liên tập (phần lạm bình): là những lời nhận xét, ghi bằng mực màu xanh của Trương Đăng Quế trên từng bài thơ của Trinh Thận, hiệu Mai Am, con gái thứ 25 của Minh Mệnh, trong Diệu Liên tập, còn có tên là Lại Đức công chúa Diệu Liên tập. Qua những lời phê bình nhận xét cũng thấy được phần nào quan niệm của Trương Đăng Quế về thơ ca phản ánh cuộc sống, cùng nghệ thuật làm thơ. Ở Diệu Liên tập, ngoài nhận xét của Trương Đăng Quế, còn có lời bình của các nhà thơ như Thương Sơn, Vi Dã, Phan Lương Khê, Nguyễn Nhiệm Sơn, có thể giúp ta tìm hiểu phần nào về lý luận phê bình văn học ở nước ta giữa thế kỷ XIX.
Qua tình hình kiểm kê, phân loại và sơ bộ đánh giá các tác phẩm trên đây, có thể thấy tài năng và ngọn bút của Trương Đăng Quế được thử thách trên nhiều lĩnh vực học thuật và sáng tác, và trên bất cứ lĩnh vực nào, ông cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, rất đáng để chúng ta dày công nghiên cứu, phát huy mặt giá trị của nó. Đáng tiếc là về phần này trong sự nghiệp Trương Đăng Quế lâu nay lại quá ít người quan tâm tìm hiểu.
CHÚ THÍCH
Vào tháng 12-1993, nhân kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh Trương Đăng Quế (1793-1993), tỉnh Quảng Ngãi quê ông có tổ chức “Hội thảo khoa học về Trương Đăng Quế lần thứ nhất”./.
|