|
VĂN BIA Ở DI TÍCH CỔ LOA
NGUYỄN DOÃN TUÂN
Cổ Loa kinh đô của nước Âu Lạc, của triều đại An Dương Vương và là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến độc lập với vua Ngô Vương Quyền năm 939. Đây là một di tích đặc biệt, bao gồm thành Cổ, giếng Ngọc, đình, chùa, am thờ Mỵ Châu, điện thờ An Dương Vương, văn chỉ thờ các bậc tiên hiền, v.v… Di tích Cổ Loa hiện chứa đựng ba nguồn sử liệu chính: 1- Những hiện vật không có chữ viết năm trên mặt đất và nằm trong lòng đất. 2- Những hiện vật có khắc chữ Hán bao gồm các câu đối, hoành phi, bia đá, sắc phong. 3- Những truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa, những câu chuyện về Mỵ Châu-Trọng Thủy… Từ lâu nhà nước đã có kế hoạch nghiên cứu, tìm hiểu toàn bộ giá trị quần thể di tích này và đến nay, công việc đang được tiến hành một cách khoa học. Hiện đã có một số thành tựu nghiên cứu về mảng hiện vật đã được khai quật từ trong lòng đất. Đã có nhiều bài viết khảo cứu về câu chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu. Thế nhưng mảng hiện vật có khắc chữ dường như chưa được đề cập đến. Bài viết này chúng tôi bước đầu giới thiệu mảng hiện vật có khắc chữ. Trước hết là các tấm bia đá.
Theo số liệu chung tôi điều tra được, hiện có 16 tấm bia được tạo dựng ở khu di tích Cổ Loa. Con số này chắc chắn chư phản ánh hết số lượng bia đã được tạo dựng ở đây. Có thể còn có bia bị vùi lấp trong lòng đất mà chưa phát hiện ra được.
Căn cứ vào dòng chữ khắc niên đại ta thấy số lượng bia nêu trên chủ yếu được tạo dựng vào hai triều đại: Triều Lê và triều Nguyễn. Tấm bia mang niên đại sớm nhất mang tiêu đề “Cung phụng sắc lệnh tôn phong chuẩn cấp nhiêu miễn tô dịch khắc chí”. Năm dựng là Chính Hoà 10 (1689). Tấm bia mang niên đại muộn nhất mang tiêu đề “Tuế thứ Giáp Dần”, thuộc niên hiệu Duy tân 8 (1914). Căn cứ vào vị trí dựng bia, 16 tấm bia ở di tích Cổ Loa có thể sắp xếp như sau:
I. AM MỊ CHÂU, ĐÌNH, ĐIỆN THỜ AN DƯƠNG VƯƠNG
1. Cung phụng sắc lệnh tôn phong chuẩn cấp nhiêu, miễn tô dịch khắc chí.
Năm dựng: Chính Hoà 19 (1689). Bia 2 mặt, khổ 0,99m x 0,73m, 62 dòng, dòng 3-35 chữ. Diềm bia chạm rồng, hoa văn. Bài văn khắc sắc chỉ của chúa chuẩn cho xã Cổ Loa phụng thờ An Dương Vương; các đạo sắc phong cho An Dương Vương từ Cảnh Trị đến Chính Hoà; sự ưu ái của nhà chúa miễn thuế ruộng, miễn sưu dịch cho người trông coi đền.
2. Chính pháp điện thạch bi.
Năm dựng: Chính Hoà 10 (1689). Bia 2 mặt, khổ 1,40m x 0,83m, 65 dòng, dòng 2-48 chữ. Diềm bia chạm hổ, rồng. Bài văn bia do Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) là Đặng Đình Tướng soạn. Bài văn ghi việc trùng tu đến thờ An Dương Vương; sắc chỉ của vua về việc trùng tu đền.
3. Pháp điện sắc lệnh
Năm dựng: Vĩnh Thịnh 13 (1717). Bia 4 mặt, khổ 1,84m x 0,80m, mỗi mặt 11 dong, mỗi dòng 4-90 chữ. Bài văn khắc trên bia ghi lại sự tích An Dương Vương; sắc phong của các triều đại phong cho An Dương Vương; nội dung vụ xét xử hoạn quan thúc Lộc bá phải trả lại ruộng của đền cho dân làng thờ cúng; 4 lệnh chỉ của chúa Trịnh ở các năm Thịnh Đức 2 (1654), Vĩnh Thọ 2 (1659), Cảnh Trị 7 (1669) và Chính Hoà 5 (1684). Nguyên văn lệnh chỉ năm Thinh Đức 2 (1654) như sau:
Phiên âm: Đại nguyên soái Thống quốc chính thượng chúa sư phụ công cao nhân thánh Thanh vương lệnh dụ Đông Ngạn huyện họ nhi Cổ Loa xã quan viên tịnh tướng thần xã thôn trưởng Lại Đức Quảng, Nguyễn Doãn Tín, Nguyễn Kim Dung, Chu Đăng Minh, Nguyễn Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tiến, Đỗ Đổng, Nguyễn Hữu Lâm, Lê Văn Giai, Đỗ Ngọc Chi Đào, Phú gia Hoàng Toàn cơ, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn Tu Minh, Nguyễn Văn Hoà, Chu Đức Đại, Nguyễn Hữu Vinh, Trương Văn Tư, Đào Như Mai, Nguyễn Tuân Đắc, Hoàng Kim Bảng, Nguyễn Công Nhậm, Hoàng Đắc Bố, Nguyễn Hữu Sỹ, Chu Đức Minh, Hoàng Thế Đăng, Lại Văn Bùi, Chu Đình Chế, Đỗ Văn Tích, Chu Nãi Năng, Hoàng Kim Long, Trương Hữu Tài, Lê Trí Trung, Nguyễn Tông Liệu, Hoàng Đắc Lộc, Nguyễn Văn Quán, Nguyễn Kim Thạch, Hoàng Văn Trị, Hoàng Tỉ Nhân, Phạm Tién Đảng đẳng hệ sơ khải văn vị nguyên bản xã hữu Cổ Loa thành tiền đại đế quân An Dương Vương hiển hữu linh ứng đa năng hộ hựu quốc vương trường trị cửu an diễn tông xã ức vạn niên vô cương chi phúc, dĩ phụng lệnh chỉ chuẩn cấp bản xã binh quân dân trục hạng tịnh xã nội quan điền tô bề trì thị thổ kiều khê cập chư thuế ngạch đẳng hạng điền tịnh đài đệ sứ thần, bồi trúc, trúc lập đê lộ khai hạng cống khẩu cập hộ phần sưu sai các dịch tịnh chuẩn nhiêu vi hộ nhi tạo lệ, hương hoả phụng sự. Chí tư lệnh dĩ kinh cửu, hủ cựu, sở bị các đẳng nha môn nhiễu câu, bản xã nan ư phụng sự. Cung hất chỉ chuẩn đẳng nhân ứng nãi chuẩn như nguyên tiền hữu dĩ cung phụng sự thọ quốc mệnh. Kỳ phụng sai quan đẳng kha môn đệ niên nghi phụng chuẩn trừ tiền hạng các dịch, bất đắc nhiễu câu. Tư hậu bản xã mỗ nhân do nửu cựu tục ỷ thế tranh hành bất thuận cập vọng cáo tra đắc hữu tội. Tư lệnh dụ.
Thịnh Đức nhị niên thập nhị nguyệt nhị thập tứ nhật.
Lệnh dụ
Dịch nghĩa: Đại nguyên soái Thống quốc chính thượng chúa sư phụ công cao nhân thánh Thanh vương lệnh dụ: Các quan viên, tướng thần xã thôn trưởng cùng toàn xã hộ nhi Cổ Loa huyện Đông Ngạn là Lại Đức Quảng, Nguyễn Doãn Tín, Nguyễn Kim Dung, Chu Đăng Minh, Nguyễn Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tiến, Đỗ Đổng, Nguyễn Hữu Lâm, Lê Văn Giai, Đỗ Ngọc Chi Đào, Phú gia Hoàng Toàn Cơ, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn Tu Minh, Nguyễn Văn Hoà, Chu Đức Đại, Nguyễn Hữu Vinh, Trương Văn Tư, Đào Như Mai, Nguyễn Tuân Đắc, Hoàng Kim Bảng, Nguyễn Công Nhậm, Hoàng Đắc Bố, Nguyễn Hữu Sy, Chu Đức Minh, Hoàng Thế Đăng, Lại Văn Bùi, Chu Đình Chế, Đỗ Văn Tích, Chu Nãi Năng, Hoàng Kim Long, Trương Hữu Tài, Lê Trí Trung, Nguyễn Tông Liệu, Hoàng Đắc Lộc, Nguyễn Văn Quán, Nguyễn Kim Thạch, Hoàng Văn Trị, Hoàng Tỉ Nhân, Phạm Tiến Đảng dâng tờ khải tâu rằng xã này nhờ phụng đức An Dương Vương có nhiều linh ứng phù dân giúp nước, Quốc vương trị nghiệp lâu dài, xã tắc hưởng phúc khôn xiết. Bản xã đã được lệnh chỉ cho phép bản xã quân dân theo các hạng, các thứ tô thuế ruộng công, ao chợ, cầu cống theo các ngạch; cùng các việc khiêng võng sứ thần, bồi đắp đê điều đường xá, mở cửa cống và các sai dịch đều được miễn trừ, để làm hộ nhi tạo lệ, thắp hương thờ cúng. Tới nay vì lâu ngày lệnh chỉ cũ nát. Kính vâng chỉ chuẩn của vua, nay ban lệnh chỉ, chuẩn cho dân xã được hưởng lệ cũ để vận nước trường tồn mãi mãi. Các quan phụng sai và các nha môn, hàng năm phải dâng chuẩn miễn trừ các khoản như cũ cho dân, không được gây phiền nhiễu. Từ nay về sau, nếu ai trong xã còn quen thói cũ ỷ thế tranh giành, không chấp hành, lại gian giảo, tra ra sẽ chịu tội. Nay dụ;
Ngày 24 tháng 12 năm Thịnh Đức thứ 2 (1654).
4. Trúc đài đối liễn
Bia không ghi năm dựng, 4 mặt, khổ 1,10m x 0,25m, mặt 4 dòng, dòng 11-13 chữ.
5. Cổ Loa chính pháp điện thạch bi
Năm dựng: Vĩnh Thịnh 13 (1717). Bia 4 mặt, khổ 1.30m x 0,67m, 108 dòng, dòng 5-69 chữ. Diềm bia chạm hoa lá. Nội dung văn bia ghi: 1- Bảy đạo sắc phong của vua Lê; 2- Ghi việc ba người chiếm ruộng và giếng rửa hạt chân đã phải trả lại cho làng để phụng thờ tế lễ; 3- Ghi việc xét xử vụ kiện tranh chấp địa giới của xã Cổ Loa với xã Dục Tú.
6. Tuế thứ Giáp Dần
Năm dựng: Duy Tân 8 (1914). Bia 1 mặt, khổ 1m x 0,5m, 15 dòng, dòng 12-32 chữ.
II. CHÙA XÃ CỔ LOA.
1. Hậu phật bi ký:
Năm dựng: Vĩnh Thịnh 14 (1718). Khổ 0,45 x 0,25m, 12 dòng, dòng 12-15 chữ.
2. Trúc ðài bi ký:
Năm dựng: Vĩnh Hựu 2 (1736). Bia 4 mặt, khổ 0,88 x 0,20m, 13 dòng, dòng 8-48 chữ.
3. Trúc ðài bi:
Năm dựng: Vĩnh Thịnh 2 (1736). Bia 4 mặt, khổ 0,85m x 0,16m, 14 dòng, dòng 4-50 chữ.
4. Bảo Sõn tự hậu phật bi:
Năm dựng: Cảnh Hưng 25 (1764). Bia 1 mặt, khổ 0,75m x 0,52m, 13 dòng, dòng 10-36 chữ.
5. Cổ Loa xã bi:
Năm dựng: GiaLong 2 (1803). Bia 1 mặt, khổ 0,66m x 0,47m, 12 dòng, dòng 1-25 chữ.
6. Hậu phật bi ký:
Năm dựng: Tự Đức 6 (1853).
7. Ðông Thành bi ký:
Năm dựng: Duy Tân 8 (1914). Bia 1 mặt, khổ 1.10m x 0,60m, 10 dòng, dòng 3-34 chữ.
8. Khắc thạch ký:
Bia 1 mặt, không ghi năm dựng, khổ 0,78m x 0,44m, 15 dòng, dòng 1-26 chữ.
III. VĂN CHỈ XÃ CỔ LOA.
1. Đông Anh văn tự bi ký:
Bia dựng năm: Thành Thái 11 (1899). Bia 1 mặt, khổ 1,30m x 0,85m, 51 dòng, dòng 8-52 chữ. Diềm bia chạm rồng, mặt trời.
2. Trùng tu bi ký:
Năm dựng: Thành Thái 12 (1900). Bia 2 mặt, khổ 1.35m x 0,70m, 34 dòng, dòng 5-47 chữ. Bia ghi lại sự việc xây dựng văn chỉ năm Tự Đức 34 (1881) và các lần tu sửa văn chỉ.
Nhận xét:
1. Nhìn vào số lượng bia tạo dựng ở các di tích, 8 tấm bia đời Lê, 6 tấm bia đời Nguyễn, 2 tấm bia không ghi năm dựng, ta thấy cụm di tích Am, đình, điện, nơi thờ An Dương Vương và Mỵ Châu có 8 tấm bia có kích cỡ cao hàng mét trở lên. Số lượng bia tuy không nhiều nhưng những tấm bia này đã chuyển tải nhiều thông tin quý gia cho việc tìm hiểu nghiên cứu về những khía cạnh văn hoá của người xưa. Chỉ riêng những tấm bia dựng thời Chính Hoà 10 (1689) khắc 7 đạo sắc phong của các đời vua phong cho An Dương Vưong; 4 đạo chỉ dụ của chúa Trịnh chuẩn miễn tô thuế, tạp dịch cho dân xã Cổ Loa, việc khắc hơn 500 tên người trong xã được làm dân tạo lệ, trông nom quét doạn hương khói thờ phụng An Dương Vương. Những thông tin này phần nào cho thấy thái độ của nhà nước phong kiến tôn kính, quan tâm tới di tích, mặt khác chúng ta cũng thấy được tấm lòng của người dân Cổ Loa luôn chăm lo, bảo vệ cho di tích trường tồn.
2. Văn bia trình bày khá cụ thể vụ kiện tranh chấp địa giới, cho thấy những thế lực cậy quyền chiếm dụng ruộng hương hoả của di tích, chiếm dụng đất công đều được đem ra xét xử. Chỉ trong 30 năm chúa Trịnh chấp chính, đã phải ra bốn lệnh chỉ, khẳng định thái độ của triều đình bảo vệ di tích cũng như răn đe những tham quan, nha môn nhũng nhiễu hạch sách nhân dân. Điều này chỉ báo cho ta thấy sự lộng hành của những hoạn quan, những nha môn, và việc chấp hành luật pháp ở thời kỳ này không được nghiêm chỉnh.
3. Những tấm bia đá tạo dựng trong quần thể di tích Cổ Loa chỉ là một phần trong các hiện vật có khắc chữ viết ở di tích này. Việc sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa toàn bộ những văn bản bằng chữ Hán chữ Nôm ở đây chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ cho việc nghiên cứu toàn diện quần thể di tích Cổ Loa, kinh đô đầu tiên của đất Việt.
|