TB

TỪ “LOI” CỦA ĐẠO CƠ ĐỐC VÀ “PHÁP” CỦA ĐẠO PHẬT, LÝ GIẢI ”ĐẠO” CỦA LÃO TỬ(*)

TRẦN NGHĨA

Để hiểu dễ dàng hơn khái niệm “Đạo”của Lão Tử, đúng như GS. Đặng Thai Mai từng gợi ý, chúng ta nên liên hệ với khái niệm “Pháp”của đạo Phật và khái niệm “Loi” của đạo Cơ đốc (x. Xã hội sử Trung Quốc, Nxb. KHXH, H.1984, tr.144).

Hãy nói trước hết về “Loi” của đạo Cơ đốc. Sáng thế kỷ trong Kinh thánh có kể chuyện Thượng đế sáng tạo ra thế giới như sau: Buổi đầu trời đất chưa phân, còn là một khối hỗn độn.Thượng đế sáng tạo ra không gian bằng cách nói: “Hãy để cho bầu trời, đất liền và biển cả tồn tại!” Vậy là có ánh sáng.Thượng đế gọi ánh sáng là “ngày” và ngược lại với nó là “đêm”. Vân vân và vân vân... Tóm lại Thượng đế đã làm ra vạn vật. Chữ “Loi” của đạo Cơ đốc có nghĩa là “làm ra vạn vật”. “Sáng thế kỷ” là những ghi chép về việc Thượng đế sáng tạo ra vạn vật, sáng tạo ra thế giới. Chữ “thế giới” ở đây, theo tôi hiểu, trước hết là chỉ thế giới nhận thức, thế giới hiểu biết của con người. Có thể hình dung buổi đầu con người đứng trước một khối hỗn mang, chưa ý thức được gì về nó cả. Dần dần, từng tí một, con người vén tấm mạng che mặt của mình lên, tiến hành việc phân loại và đặt tên thế giới hiện tượng nguyên sơ mà mình xúc tiếp. Do nhu cầu mệnh danh, phân loại, cũng tức là nhu cầu hiểu biết mà đẻ ra khái niệm, ngôn ngữ. “Thượng đế”(có thể hiểu là NHÂN LOẠI) dùng khái niệm, ngôn ngữ để sáng tạo ra vạn vật. Vũ trụ khi chưa đi vào ý thức nhân loại, đối với chủ thể con người mà nói thì nó là “vô”. Một khi Thượng đế tức nhân loại vì tạo vật mà nói ra các từ ngữ, khái niệm như trời, đất, biển, ngày, đêm v.v... thì có nghĩa là quy định ranh giới cho các sự vật vốn dĩ chưa được phân loại, chưa được mệnh danh, để có sự phân biệt giữa chúng với nhau và cho chúng mỗi thứ một tiêu chí. Qua việc phân loại, mệnh danh, người ta mới có thể nhận thức sự vật cụ thể. Thông qua phân loại, mệnh danh, cái “có” được sinh ra từ cái “không”. Cái “Loi” của đạo Cơ đốc nói lên quá trình con người “làm ra vạn vật”, qúa trình làm cho “từ không ra có” trong thế giới nhận thức, thế giới hiểu biết của con người với tư cách là chủ thể, trước tồn tại khách quan vô thuỷ vô chung với tư cách là khách thể.

Quá trình tạo vật “từ không ra có” trên đây được đạo Phật quan niệm và diễn đạt theo lối khác. Ta hãy nghe đoạn đối thoại khá thú vị giữa Thanh Biện và Huệ Nghiêm chép trong sách Thiền uyển tập anh của Việt Nam:

Thanh Biện tu ở chùa Cổ Giao (Hà Bắc) từ năm 12 tuổi, chuyên đọc kinh Kim cương. Một hôm có vị Thiền khách đến thămvà hỏi: “Kinh này là mẹ của chư Phật ba đời, nghĩa của chữ “mẹ Phật” ở đây là thế nào?” Thanh Biện đáp: “Bấy lâu đọc kinh Kim cương mà thú thật tôi chưa hiểu nghĩa của kinh là gì”. Khách hỏi: “Đã đọc trong bao lâu?” Thanh Biện đáp: “Tám năm”. Khách nói: “Đọc tám năm mà một câu kinh cũng không hiểu, thì dù có đọc trăm năm nữa, phòng ích lợi gì!” Thanh Biện hỏi làm sao cho tấn tới, khách bảo đến chùa Sùng Nghiệp nhờ Huệ Nghiêm chỉ vẽ cho.Thanh Biện theo lời, vừa đến chùa Sùng Nghiêm, Huệ Nghiêm hỏi: “Ngươi đến có việc gì? Thanh Biện đem chuyện vừa rồi kể lại. Huệ Nghiêm than rằng: “Ngươi quên đấy thôi. Trong kinh Kim cương đã chẳng nói Phật ba đời cùng giáo pháp của Phật đều từ kinh này mà ra đó sao,vậy kinh không phải “mẹ Phật” thì là gì?” Thanh Biện đáp: “Vâng, chính con đã mê muội đó”. Huệ Nghiêm lại hỏi: “Kinh này do ai thuyết?” Thanh Biện nói: “Há chẳng phải Như Lai thuyết sao?”. Huệ Nghiêm lại hỏi: “Trong kinh có nói Phật từng bảo với Văn Thù là “ròng rã 49 năm ông không hề thuyết một lời”. Vậy nếu bảo kinh này không phải do Phật thuyết, thì là nói xấu kinh; còn bảo kinh này do Phật thuyết, thì là nói xấu Phật. Ngươi làm thế nào, nói mau, nói mau!” Thanh Biện định mở mồm, bỗng bị Huệ Nghiêm lấy phất trần đánh vào miệng. Thanh Biện bừng tỉnh ngộ” (x. Thiền uyển tập anh, Q. Hạ, Đệ tứ thế nhất nhân).

Hiểu như thế nào về cách “truyền tâm ấn” trên đây giữa Thiền sư Huệ Nghiêm mà ta có thể coi như là Giáo sư hướng dẫn, với Hành giả Thanh Biện mà ta có thể coi như là nghiên cứu sinh?

Các nhà Thiền học không đối lập một sai lầm với một chân lý. Quan niệm A hoặc là B hoặc là phi B, theo họ, đều có lý do của nó và chỉ có giá trị tương đối. Họ chủ trương nên nhìn sự vật dưới ánh sáng của một chuỗi chân lý nối tiếp, cái nọ có thể đầy đủ, sâu sắc hơn cái kia và tất cả đều bổ sung cho nhau. A hoặc là B, hoặc là phi B, hoặc vừa là B vừa là phi B hoặc phi B phi phi B. “Có”, “không”, “vừa có vừa không”, “không có không không”, đó là 4 cung bậc từ thấp đến cao dần trong việc nhận thức chân lý, nhận thức thế giới hiện tượng. Các nhà Thiền học gọi 4 cung bậc trên là “tức cú phân biệt”, tức 4 mệnh đề. Nhưng chưa hết. Khả năng nhận thức của con người, theo các nhà Thiền học, còn có thể đi xa hơn thế nữa, đến chỗ thâm sâu nhất của sự vật, nơi mà hết thảy ngôn từ hữu hạn của thế giới hiện tượng “hình, danh, sắc, tướng” đều bất lực, không tài nào mà tả nổi. Đó là cõi “bất khả tư nghị”, không thể suy nghĩ luận bàn về nó, chỉ có thể dùng “trực giác Thiền” để tiếp cận nó mà thôi. Nói khác đi, đó là “Như Lai”, “Chân Như” hay “Pháp thân”, “Pháp”, sự thật nguyên vẹn của đối tượng nhận thức mà đứng trước nó, con người “giác ngộ” bao giờ cũng giữ thái độ im lặng, vì cảm thấy viết không thể hết lời, nói không thể hết ý, nghe không thể không chệch choạc... bởi sự gò bó nhiều mặt của ngôn từ, hoàn cảnh, người nói, người nghe, người viết, người đọc v.v...Vậy mà NCS Thanh Biện lại định mở mồm phát biểu về cái không thể biện thuyết đó, chả trách bị GS hướng dẫn lấy phất trần đánh vào miệng.

Phật nói với Văn Thù “ròng rã 49 năm ông chưa hề thuyết pháp” là muỗn chỉ cái “pháp thân”bất khả tư nghị kia, cái “sự thật nguyên vẹn” của đối tượng nhận thức mà ông không thể nói ra được, chỉ có thể trực quan cảm nhận nó mà thôi.

Sau khi biết qua về “Loi” của đạo Cơ đốc và “Pháp” của đạo Phật, ta hãy đến với khái niệm “Đạo” của Lão Tử.

Đạo đức kinh của Lão Tử chép: “Đạo khả đạo phi thường đạo; danh khả danh phi thường danh”. Ba chữ “đạo” trong câu “Đạo khả đạo phi thường đạo” vốn mang những ý nghĩa khác nhau. Chữ “đạo” thứ nhất chỉ cái phần thựctại khách quan đã lọt được vào trong nhận thức của con người; chữ “đạo” thứ hai chỉ sự mô tả của con người về cái phần thực tại khách quan đã lọt được vào đầu óc của mình đó; và chữ “đạo” thứ ba, cái “thường đạo”, cái “đạo” vĩnh hằng”, chỉ thực tại khách quan nguyên vẹn tồn tại ngoài ý thức con người. Nó làvô hình, vô trạng, vô vật. Nó là vật tự thân. Cũng thế, ba chữ “danh” trong câu “Danh khả danh phi thường danh” đều có ý nghĩa không giống nhau. Chữ “danh” thứ nhất chỉ cái tiêu chí, cái tên gọi mà con người gán cho phần thực tại khách quan đã lọt được vào đầu óc của mình; chữ “danh” thứ hai là sự gọi tên phần thực tại khách quan đó; và chữ “danh” thứ ba, cái “thường danh”, chỉ tên gọi của cái thực tại khách quan nguyên vẹn tồn tại ngoài ý thức con người. Nó là vô danh.

“Đạo khả đạo phi thường đạo”có thể hiểu là: cái “đạo” có thể mô tả được thì không phải là cái “thường đạo”; “danh khả danh phi thường danh” có thể hiểu là: cái “tên” có thể gọi ra được không phải là cái “thường danh”. “Đạo” của Lão Tử là chỉ cái “thường đạo - thường danh” ấy, cũng tức là cái “vô vật - vô danh”. Nó có chỗ giống với cái “Loi”(làm ra vạn vật) của đạo Cơ đốc và cái “Pháp” (bất khả tư nghị) của đạo Phật.

Đạo đức kinh viết tiếp: “Vô danh, thiên địa chi thuỷ; hữu danh, vạn vật chi mẫu”. Đạo thì vô vật, vô danh, tức vô. Còn vạn vật thì hữu hình, hữu danh, tức hữu. Quan hệ giữa “đạo” và “vạn vật” là quan hệ giữa “vô” và “hữu”. Cái “hữu” này là sinh ra từ cái “vô”. Cái “vô” này là cội nguồn vô tận trong quá trình chủ thể con người thông qua hoạt động nhận thức để tạo nên của cải tinh thần cho họ. Khi một bộ phận nào trong cái “vô” ấy chui vào được ý thức con người, thì qua việc phân loại đặt tên, sẽ trở thành sự vật cụ thể, có tên gọi, có hình dạng. Chính vì vậy mà GS Đặng Thai Mai đã lưu ý chúng ta: “Vô là cái mình không thấy, không hiểu, không nắm được toàn diện, chứ không phải là hư vô” (Xã hội sử Trung Quốc, Sđd, tr.144).

Tất cả những điều trình bày trên đây cũnglà những mặt quan trọng trong “vô danh luận” của Lão Tử. Vô danh luận có quan hệ mật thiết với “huyền học”đời Ngụy Tấn, và có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của văn học nghệ thuật Trung Quốc về sau.

Như ta biết, ở Trung Quốc đời Hán, kinh học và thi học của Nho giáo ngự trị, triết học Lão Trang chưa phát huy được tác dụng. Đến đời Ngụy Tấn, “vô danh luận” của Lão Tử và “ngôn bất tận ý”, “đắc ý vong ngôn” của Trang Tử mới có điều kiện xúc tiếp với sáng tác thơ ca; “huyền học” từ đó dấy lên, “thi học” và “văn học” dần dần phát triển. Khi tìm hiểu về tính chất và đặc trưng của tác phẩm văn học, nhàvăn tiếp thu ý tưởng “ngôn bất tận ý”, “đắc ý vong ngôn” của triết học Lão Trang, điển hình nhất là Kê Khang và Nguyễn Tịch. Họ coi “đạo” là cảnh giới tinh thần cao nhất, cho nguồn gốc của văn học nghệ thuật là từ “đạo” mà ra, vì vậy cái hay, chỗ kỳ diệu của văn học nghệ thuật là ở “tượng ngoại chi tượng”, “cảnh ngoại chi cảnh”, “vận ngoại chi vận”, “vị ngoại chi vị”, “dĩ thiểu ngụ đa” v.v... tìm tới những cái nằm bên ngoài câu chữ để khắc phục khoảng cách luôn luôn tồn tại giữa “vạn vật” và “đạo”, giữa “khái niệm”, “ngôn ngữ” và “vật tự thân” siêu khái niệm siêu ngôn ngữ.

Điều này cũng giải thích vì sao trong mỹ họchiện đại người ta chủ trương ở tác phẩm nên có những “mảng trắng”, những vùng “không xác định”, đòi hỏi người thường thức phải phát huy trí tưởng tượng, tính năng động và sáng tạo bản thân khi tiếp cận tác phẩm, từ đó nâng cao năng lực thẩm mỹ của mình. Lý luận về “tiếp nhận văn học” hiện nay cũng liên quan tới vấn đề này (1).

CHÚ THÍCH

* Bài viết nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất cố GS. Đặng Thai Mai (1984-1994).

Tài liệu tham khảo

- Đạo đức kinh

- Kinh thánh

- Thiền uyển tập anh

Tống Hiệp Lập: “Ngôn ý chi biện”: ngữ ngôn đích cục hạn dữ văn học đích trọng yếu tính. Song nguyệt san Văn sử Triết của Đại học Sơn Đông, Số 2-1994.

TB

TIẾNG NHẬT VÀ VIỆC DÙNG CÁC THÀNH TỐ HÁN ĐỂ BIỂU THỊ Ý NGHĨA TRONG HỆ THỐNG WAJI HỘI Ý

LÃ MINH HẰNG

Một điểm rất thú vị khi nghiên cứu ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên là ở chỗ nó mang khá nhiều nét tương đồng. Phải nói rằng cả ba ngôn ngữ này cùng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Trung Quốc ở một thời điểm nào đó.

Xét về mặt ngôn ngữ, tiếng Việt cùng loại hình ngôn ngữ với tiếng Trung Quốc nên có điều kiện để chịu sự đồng hoá ngôn ngữ một cách triệt để. Trong khi đó tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên khác với tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ mang tính đơn lập cao, chúng thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính. Do đó, sự đồng hoá ngôn ngữ có nét khác hẳn. Có lẽ một trở ngại lớn cho việc phổ biến nhanh chóng chữ viết ở Nhật Bản là việc dùng những kí hiệu nói lên một từ đơn âm tiết của tiếng Trung Quốc để biểu hiện từ trong thứ ngôn ngữ chắp dính đa âm tiết như tiếng Nhật, hơn nữa các âm tiếng Hán lại rất khác so với âm tiếng Nhật. Trong khi chờ đợi phát triển một phương pháp thích hợp cho người Nhật lợi dụng được đầy đủ chữ Hán, người Nhật đã phải đọc tiếng Hán, một thứ tiếng khác xa với tiếng Nhật về từ vựng và cú pháp.

Vào khoảng thế kỉ VI, Nhật Bản không có hoặc rất ít có giao thiệp trực tiếp với Trung Quốc, và chịu ảnh hưởng nhiều từ Triều Tiên về mặt học vấn. Đó là lí dolàm chậm trễ sự phát triển chữ viết ở Nhật Bản. Trong thời gian dài nhà nước phong kiến Nhật Bản chỉ chú ý đến lợi ích của văn học. Còn các nhà quý tộc thì coi việc viết chữ như một công việc máy móc, không khác gì lắm so với việc dệt vải hay vẽ. Bởi vậy, họ cho rằng những công việc đó có thể giao cho các nhà chuyên môm làm mà bản thân họ không việc gì phải chịu khổ để học đọc và viết tiếng Trung Quốc. Mãi cho đến khi nhận thức ra một điều: Chữ viết là phương tiện chuyển tải một thứ tôn giáo mới và một thứ triết học chính trị mới thì giai cấp thống trị mới thấy cần đến nó. Đó là động lực tác động mạnh mẽ nhất và rộng lớn nhất cho việc học chữ Hán ở Nhật Bản.

Đầu tiên là việc hình thành cách đọc ON do nhu cầu của việc phiên âm, chú giải các kinh Phật. Tiếp đó, người Nhật Bản đã biết tiếp thu triệt để nền văn hoá Trung Hoa, khéo léo dùng văn tự Hán để tạo cho mình một thứ văn tự mới. Họ đã biết gắn chữ Hán mang hình, âm giống với từng âm tiết trong tiếng Nhật, hình thành một qui ước nhất định giữa chữ và âm, đồng thời giản lược hoá và tự mẫu hoá những chữ Hán ấy đi. Với phương pháp này, người Nhật có thể dùng các chữ Hán (thuộc ngôn ngữ đơn âm tiết) giản lược đó để biểu thị các âm tiết trong tiếng Nhật (vốn là ngôn ngữ đa âm tiết). Đối với người sử dụng thì thật là tiện lợi. Họ chỉ cần ghi nhớ một số lượng chữ Hán nhất định, hay là ghi nhớ Hiragana (dạng chữ Hán đã giản lược hoá) là hoàn toàn có thể ghi lại từng âm tiết tiếng Nhật mà không cần ghi nhớ âm và nghĩa của chữ Hán đó. Đây là một thành cônglớn trong lịch sử ngôn ngữ văn tự Nhật Bản.

Ở thời kì NARA (thế kỷ VIII), sự tiếp xúc giữa hai dân tộc Trung Quốc và Nhật Bản chưa đủ để cho ngôn ngữ nói Trung Quốc trở thành thứ tiếng nói quen thuộc ở Nhật Bản và dù sao cái mà người Nhật Bản muốn học ở Trung Quốc là được viết bằng bút lông Trung Quốc. Bởi vì khi đó người Nhật chưa có chữ viết nên họ không thể dịch những từ Trung Quốc sang tiếng Nhật được và hơn nữa vốn từ vựng Nhật Bản còn nghèo nàn, thiếu tên gọi cho biết bao sự vật và khái niệm. Bên cạnh việc mượn âm đọc của chữ Hán, việc dùng chữ Hán giản lược để biểu thị toàn bộ hệ thống âm tiết tiếng Nhật, người Nhật còn biết dùng các chất liệu Hán để tạo nên những chữ Nhật mới (Waji). Tình hình này rất giống với chữ Nôm Việt Nam.

Ta hãy thử xem xét qua về hiện tượng mượn Hán ở Việt Nam (hiện tượng chữ Nôm) và ở Nhật Bản. Việt Nam và Nhật Bản đều có hiện tượng vay mượn văn tự Hán, có khi là vay mượn cả hình âm, có khi mượn chữ Hán và có cải biên đi chút ít. Đặc biệt cả Việt và Nhật đềucó hiện tượng mượn các yếu tố Hán để cấu tạo nên chữ của riêng dân tộc mình. Hiện tượng vay mượn này có thể xảy ra mấy trường hợp sau:

1. Phần mượn nguyên hình và âm:

- Chữ Nôm có loại mượn nguyên hình chữ Hán và đọc theo âm Hán Việt và âm cổ Hán Việt. Ví dụ: 才(Tài); 命 (Mệnh); 符 (Bùa).

- Ở Nhật Bản nảy sinh cách đọc ON (Một chữ Hàn vào Nhật ở các thời kì khác nhau tạo ra các cách đọc khác nhau. Đó là lí do giải thích vì sao một chữ Hán ở Nhật Bản lại có nhiều cách đọc) và sau đó là cách đọc KUN. Ví dụ chữ 神 ở Nhật có ba cách đọc: Shin, Zin và kami.

2. Phần mượn có cải biến:

- Chữ Nôm có hiện tượng mượn hình và nghĩa của chữ Hán. Ví dụ: 爪 vuốt (mượn nghĩa chữ Hán), hoặc hiện tượng mượn hình và âm (âm đọc giống hoàn toàn nhưng không lấy nghĩa, hay âm đọc có cải biến đôi chút). Ví dụ: chữ Nôm mượn chữ 沒 (một) trong tiếng Hán để nói về số đếm (một, hai…).

- Nhật Bản đã cải biến mặt hình của chữ Hán bằng cách giản lược hoá Ú Tạo thành hệ thống Hiragana. Ví dụ:

dùng 加 giản lược thành 刀 (Ka)

dùng 世 giản lược thành (Se)

dùng 仁 giản lược thành ا | (Ni)

đùng 利 giản lược thành @ (Ri)

3. Phần sáng tạo hoàn toàn.

Đây là phần khá thú vị, nó thể hiện trí thông minh, óc sáng tạo muốn vươn lên khẳng định có một thứ văn tự riêng cho dân tộc mình.

Chữ Nôm mượn chữ Hán và bộ thủ Hán để cấu tạo nên các chữ Nôm theo cấu trúc âm-âm, ví dụ (Blái); âm-ý, ví dụ (ăn); hay cấu trúc ý-ý, ví dụ (trời).

Cũng giống như người Việt, người Nhật Bản đã dùng chữ Hán và các bộ thủ để cấu tạo nên chữ Waji. Hệ thống này chia làm 2 loại:

a/. Kết hợp 2 âm ON với nhau (giống như dạng kết hợp âm-âm của chữ Nôm), ví dụ Kume, Maro, Moku.

b/. Kết hợp 2 chữ Hán theo phương thức hội ý. Sau đây ta sẽ chủ yếu tìm hiểu loại này.

Người Nhật sử dụng chữ Hán để biểu thị ý nghĩa như thế nào?

Phải khẳng định rằng tiếng Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Trung Quốc. Sau khi đã thông thạo Hán Văn, bên cạnh việc hình thành nên hệ thống ON (Do ảnh hưởng âm đọc tiếng Hán đương thời ở Nhật Bản) và sau đó là âm KUN, và việc hình thành nên hệ thống ký hiệu biểu âm cho tiếng Nhật, người Nhật Bản còn sáng tạo ra hàng loạt chữ Waji để đáp ứng cho sự thiếu vắng tên gọi của một số khái niệm và sự vật. Sự sáng tạo ra hệ thống chữ Waji này đã chứng tỏ người Nhật đương thời đã đạt được một trình độ Hán học rất cao. Đặc biệt khi quan sát hệ thống chữ Waji hội ý thì thấy; cũng như tiếng Hán, đây là một hệ thống ghi tập hợp ý, nó khiến cho người nhìn chữ có thể nghĩ đến ý nghĩa của chúng. Điều này khác hẳn với các ngôn ngữ ghi âm: “Nó cần đến cái mắt nhiều hơn cái tai”.

Ta tạm gọi các bộ thủ hay chữ Hán tham gia vào việc cấu tạo nên các chữ Nhật này là các thành tố Hán. Các thành tố Hán có vai trò rất khác nhau trong việc tạo nên một cấu trúc ngữ nghĩa của dạng chữ Waji này: Có khi 2 thành tố có quyền ngang nhau trong việc tạo nghĩa, cũng có khi một trong hai thành tố có vai trò chính, còn thành tố kia có vai trò phụ. (Trường hợp này tạo thành các từ có tác dụng phân loại, có thể xem giống như dạng ghép phân nghĩa trong tiếng Việt). Đôi khi nghĩa của chữ lại dựa vào hình ảnh, vào sự liên tưởng mà hai thành tố Hán tạo nên nó gợi cho ta biết… Căn cứ vào vai trò của các thành tố Hán và vị trí kết hợp của chúng mà ta có thể phân dạng chữ này thành.

Ý nghĩa của toàn chữ là tổng hợp ý nghĩa của hai thành tố Hán, trong đó có một thành tố mang nghĩa chính (thành tố chính nói lên khái niệm chung nhất của loài). Thành tố phụ có tác dụng phân biệt từng nhóm nhỏ hơn. Ví dụ: cá heo, cá tuyết … “Cá” là thành tố chính, còn “heo” và “tuyết” là thành tố phụ. Loại này cũng tương tự như dạng ghép phân nghĩa trong tiếng Việt. Có điều tiếng Việt và tiéng Nhật khác nhau cơ bản về loại hình, do đó ta không thể đem các khái niệm hình vị, âm tiết trong từ ghép tiếng Việt vào đây được. Ta chỉ có thể xem xét cụ thể vị trí, hoạt động của các thành tố chính và phụ trong việc hình thành cấu trúc chữ Waji:

1a.Yếu tố chính ở bên phải, yếu tố phụ ở bên trái. Ví dụ:

Kuruma: xe ngýời kéo.

車 Yếu tố chính chỉ xe nói chung

亻 phụ, phân biệt xe ngýời kéo với các loại xe khác.

Taberu: ăn.

食 Yếu tố chính, bộ Thực nghĩa là ăn;

口 chỉ mồm ăn (phụ nghĩa)

Hatake: ruọng nương.

田 Điền , nghĩa: ruộng;

火 bộ Hoả (phụ nghĩa) ® ruộng nương.

Hataraku: làm.

動 chỉ động tác làm;

亻 người phát ra động tác ® Tạo nghĩa: làm nói chung.

1b.Yếu tố chính ở bên trái, yếu tố phụ ở bên phải chữ. Ta có:

- Dùng 魚 làm thành tố chính, chỉ loài cá nói chung, kết hợp với một thành tố Hán khác để chỉ các giống cá khác nhau:

Iwashi: Cá xác đin. Loài cá nhỏ ở biển có đặc điểm ra khỏi nước lập tức chết ngay, do đó có chữ 弱 để phụ nghĩa.

Tara: Cá tuyết (loài cá biển có thịt trắng như tuyết) nên có 雪 để phụ nghĩa.

Như vậy thành tố phụ có mang đặc điểm hay màu sắc của con vật.

Dùng bộ 木 chỉ cây cối làm thành tố chính, còn thành tố phụ để phân biệt các dạng cây khác nhau và nằm bên phải chữ. Ví dụ:

Soma: loại cây lấy gỗ mọc trên núi. Như vậy thành tố phụ chỉ địa điểm xuất hiện hay tồn tại của vật đó.

Shikimi: loại cây thường dùng để cúng Phật, có vỏ và lá cây dùng làm hương thơm. Thành tố phụ chỉ tác dụng của vật đó.

Kashinoki: loại cây tự mọc ở vùng ấm, gỗ cứng có thể làm khí cụ, do đó dùng 堅 làm thành tố phụ chỉ thuộc tính.

Sakaki: loại cây có cành và lá dùng để cúng thần. Thành tố phụ chỉ tác dụng.

1c. Thành tố chính bao bên ngoài, Ví dụ: Nagi, nagu: lặng gió. Thành tố chính chỉ gió nói chung, còn 止 có nghĩa dừng. Gió dừng hay gió đứng, lặng gió cũng vậy.

Thuộc kiểu này còn có trường hợp Koggarashi, nhưng chữ này nếu xét về ý nghĩa, nó có nét khá đặc biệt. Nó không đơn giản là việc gộp đơn thuần nghĩa của hai thành tố Hán. Chữ này sẽ nói kĩ ở sau.

Trong dạng ghép này còn có một dạng chữ không phải đơn giản là ghép nghĩa của hai thành tố Hán. Đây là một dạng ghép đặc biệt: Ở thành phần chính, ý nghĩa của chữ Hán biểu thị một khái niệm nào đó. Ý nghĩa của toàn chữ là nghĩa của khái niệm đó và thành tố phụ có tác dụng phụ nghĩa thêm. Ví dụ:

Omokage, sugata: hình dáng.

弟 là em của người anh ® có khuôn mặt dáng vóc của người anh, và bộ nhân phụ nghĩa chỉ người ® dáng vóc, hình dáng của con người.

2/. Ý nghĩa của toàn chữ không phải là tổng hợp ý nghĩa của hai thành tố tạo nên chữ. Các thành tố Hán gợi cho ta hình ảnh về sự vật và hiện tượng. Và nghĩa của toàn chữ là tổng hợp kết quả do hai hình ảnh đó gợi nên.

Suberu: trượt chân.

Bộ 辶 (hay 足) gợi cho ta hình ảnh cái chan. Chữ - gợi hình ảnh của một mặt phẳng. Cái chân chuyển động nhẹ trên bề mặt của một vật đã gợi lên hình ảnh bàn chân bị trơn và không đứng lại được ® tạo nét nghĩa trượt chân (động từ).

Tsuji: ngã tư đường.

Gồm 辶 và 十 gợi hình ảnh của hai con đường giao nhau ® Nghĩa: ngã tư đường.

Komu: Đông.

Chữ 入 nghĩa là đi vào. Và ở đây người ta có thể nhìn thấy những bước chân đi vào và hình dung đến một sự đông đúc.

Tsukaeru: Chặn, chướng ngại.

門 : cửa 山 núi. Gợi nên hình ảnh ở trước cửa có một dãy núi sừng sững, thế thì đâu còn gió mát? Và làm sao có thể phóng tầm mắt nhìn cảnh vật ở xa nữa? Tạo nét nghĩa: Chặn, chướng ngại.

Tako: cái điều.

gió: 巾 cái khăn. Gợi hình ảnh một vật như cái khăn lay trước gió ® khiến người ta nghĩ tới cái điều (mà trẻ con vẫn hay chơi thả).

Shizuku: Giọt nước.

雨 Mưa; 下 Rơi xuống. Khi mưa xuống, đó là hình ảnh của những giọt nước mưa ® Tạo nghĩa: Giọt nước nói chung

Tasuki: Sợi dây buộc vắt lên vai những tay áo khi làm việc cho khỏi vướng. Ở đây bộ 衣 và chữ 舉 không cho ta chút gì nghĩa của từ. Tay áo được nâng lên và nó giữ nguyên được hình ảnh đó là nhờ có cái dây. Và sợi dây này đã trở thành nghĩa của từ. Như vậy nghĩa của từ không đơn giản là sự kết hợp của hai hình ảnh mà hai thành tố Hán gợi nên. Khái niệm mà nó biểu thị nằm ẩn sâu ở đằng sau cái hình ảnh mà hai thành tố Hán gợi nên. Ở đây đã thể hiện đôi chút tính có lí do của nghĩa từ.

3/. Nghĩa của từ có được là nhờ sự liên tưởng một việc hay một sự vật khác do hai thành tố Hán tạo nên.

Chữ Kogarashi: Gió lạnh. Chữ này do hai thành tố và 木 tạo nên. Bản thân nghĩa “Gió” và “Cây” cũng chẳng giúp ta có được nét nghĩa “Gió lạnh”. Gió đập vào cây, bình thường người ta không nhận thấy tiếng động của nó, nhưng vào giữa mùa đông giá lạnh người ta nhận thấy rất rõ tiếng gió đập vào cây này. Nó gợi cho con người ta một cảm giác hịu quạnh. Tạo nét nghĩa: Gió lạnh.

Ở đây xét về cấu tạo chữ, nó thuộc loại chính phụ (Yếu tố phụ để khu biệt các kiểu gió khác nhau). Về mặt cấu trúc ngữ nghĩa, nó thuộc liên tưởng, gợi cho ta liên tưởng đến một cái gì ở phía sau của hai thành tố đó.

Kutabireru: Mệt mỏi.

Chữ này do hai thành tố 艸 và 枕 tạo nên, bản thân hai thành tố này không cho ta nghĩa “mệt mỏi”. Từ điển có chú thích nghĩa của từ này như sau: “Được tạo thành từ ý nghĩa do mệt mỏi nằm gối đầu lên cỏ mà ngủ”. Như vậy từ hai thành tố 艸 và 枕 giúp ta liên tưởng đến một việc không bình thường: “Gối đầu lên cỏ mà ngủ”, hẳn là quá mệt mỏi không còn để ý gì nữa và bạ đâu cũng có thể lăn ra ngủ được ® Tạo nghĩa: mệt mỏi.

Hanashi: Chuyện bịa: 口 mồm luôn nói ra điều mới, những chuyện đó rất có thể là những điều bày đặt ra không đáng tin cậy ® Nghĩa: chuyện bịa.

Shisuke: Rèn luyện, huấn luyện. Bình thường nếu chỉ nhìn hai thành tố 身 và 美 ta có thể nghĩ đến nghĩa của nó là “Người đẹp”? Nhưng không, con người này không đơn giản chỉ có vẻ đẹp của nội dung bên trong. Vẻ đẹp đó hẳn là do kết quả của quá trình tự rèn luyện và được huấn luyện. Nghĩa của từ phản ánh một quá trình mà 身 không ngừng được 美 đẹp lên ® Tạo nét nghĩa: Rèn luyện.

4/. Trong hệ thống Waji còn có dạng kết hợp đặc biệt, nó không phải do hai thành tố Hán mà là ba thành tố Hán tạo thành. Sự kết hợp của chúng gợi cho ta một hình ảnh rõ nét về vật mà từ đó biểu thị.

Tooge: Đèo.

Chỗ giao nhau của hai quả núi, tại đó là chỗ đi xuống của quả núi này và lại tiếp đến là lối đi lên của quả núi tiếp theo.

Kamishimo: Váy. Bộ 衣 chỉ quần áo nói chung. Bộ quần áo này có cả phần trên (áo) và phần dưới (quần) ® váy.

Tiếng Nhật không phải là ngôn ngữ đơn tiết tính như tiếng Trung Quốc, bởi vậy khi sáng tạo ra chữ Waji người Nhật Bản không thể sử dụng phương pháp hình thanh được và họ chỉ có cách sử dụng nhiều dạng kết hợp ý-ý. Tình hình này không giống hiện tượng chữ Nôm tự tạo (bằng các phương pháp hình thanh, ghép âm-âm, ghép ý-ý). Ta hãy thử xem xét 2 ví dụ sau:

1/. Từ hai thành tố Hán để tạo thành một hình chữ hệt nhau, nhưng ở chữ Nôm Việt và chữ Waji Nhật đi theo hai phương thức cấu tạo chữ khác nhau:

NÔM: theo dạng cấu tạo hình thanh,

2/. Hay để biểu thị cùng một khái niệm, người Việt và người Nhật đã dùng các thành tố Hán khác nhau và cấu tạo theo các phương thức khác nhau để biểu thị:

NÔM: dạng cấu tạo hình thanh

Ngay cả khi nghiên cứu cùng một phạm trù ý nghĩa, ví dụ “đông đúc” thì thấy người Việt đã sử dụng ba thành tố Hán để gợi nên một hình ảnh về sự việc, hiện tượng. Trong khi đó người Nhật chỉ cần dùng đến hai thành tố, nó không chỉ gợi nên hình ảnh của một hiện tượng mà qua đó đòi hỏi phải có sự liên tưởng đến hiện tượng khác để gợi nên khai niệm (và ý nghĩa của chúng nằm ở tầng thữ hai này). Như vậy trong chữ Waji có nhiều chữ thể hiện sự liên tưởng gợi hình ảnh hiều hơn ở chữ Nôm hội ý.

Do cấu tạo âm tiết tiếng Nhật có nét khác biệt, người Nhật không thể sử dụng phương pháp hình thanh để tạo chữ và họ đã sử dụng triệt để các thành tố Hán kết hợp theo phương pháp hội ý (kết hợp chính phụ, gợi hình ảnh hay gợi sự liên tưởng) để tạo nên số lượng chữ tối đa. Nó tạo thành một hệ thống chữ Waji này sẽ đem lại cho ta khá nhiều điều thú vị. Bên cạnh dạng kết hợp chính phụ và dạng gồm ba thành tố Hán như trong chữ Nôm, người Nhật đã vận dụng khả năng quan sát tinh tế các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan để tạo nên các chữ hội ý bằng sự liên tưởng và bằng sự tổng hợp những hình ảnh mà các thành tố Hán gợi nên. Chữ Waji tựa như những bức tranh nhỏ cho ta một hình ẳnh toàn diện về sự vật hiện tượng. Ví dụ:

1. Tsukaerr

2. Kamishimo

3. Shizuku

4. Tooge

Không những vậy, nó đòi hỏi người tạo chữ phải thực sự tinh thông Hán văn và có một khả năng quan sát tinh tế các sự vật hiện tượng. Và để hiểu được nội dung ý nghĩa ẩn tàng bên trong đôi khi cần có một sự liên tưởng sâu xa (bởi vì nghĩa của chữ không phải nằm trần trụi ở ý nghĩa của hai thành tố Hán tạo nên chúng hay hình ảnh mà chúng tạo nên). Ví dụ:

1. Kutabireru

2. Shitsuke

Tóm lại, có thể nói đứng trước một vốn chữ Hán, nguời Nhật đã có cách xử lí rất nhanh nhẹn, thông minh, có óc quan sát tinh tế và sự liên tưởng sâu xa đối với các sự vật hiện tượng trong thế giớ khách quan để có thể tạo ra một hệ thống chữ Waji hội ý phong phú, đa dạng, mặc dù có sự khác nhau rất lớn về loại hình giữa hai ngôn ngữ Hán và Nhật.

L.M.H

TB

KHẢO CỨU BẢN DỊCH NÔM
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

SCHNEIDER PAUL

1.- Vài nét về thư mục:

Truyền kỳ mạn lục là tập truyện viết bằng chữ Nho của Nguyễn Dữ, đỗ Hương Tiến ở đầu thế kỷ thứ XVI. Tập truyện này đã được diễn tả trong lần tái bản vào năm 1763 với tên sách: Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú. Truyền kỳ mạn lục (1). bản in mới, có thêm phần dịch bằng chữ Nôm kèm theo nguyên bản chữ Nho. Nguyễn Thế Nghi đã dịch toàn bộ các truyện trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ra chữ Nôm, kèm theo những lời giải thích bằng chữ Hán.

Những truyện dịch Nôm có thể được ghi lại vào khoảng thế kỷ XVI. Tôi có thể chứng minh điều này bằng cách so sánh với những bài cùng thời kỳ, chẳng hạn, tập thơ Bạch Vân Am Quốc ngữ thi tập(2) viết bằng chữ Nôm.

Những truyện viết bằng chữ Nho đã được Ngô Văn Triện (Tân Việt, Sài Gòn 1952) dịch ra tiếng Việt, và một bản dịch với lời nói đầu bằng tiếng Pháp của bác sĩ Nguyễn Trần huân (Gallimard, Paris 1962).

Phần truyện viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Thế Nghi là những mẩu văn xuôi rất quý ở thế kỷ thứ XVI. Đến ngày nay cuốn sách đó chưa được nghiên cứu một cách tổng quát. Ông Đào Duy Anh, trong tác phẩm: Chữ Nôm - nguồn gôc - kết cấu- diễn biến. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1975) đã phiên âm một đoạn văn ngắn của truyện thứ hai (Người con gái tiết hạnh ở Khoái Châu) để minh hoạ những cách cấu tạo khác nhau của những chữ Nôm thông tục.

Ngoài những đặc tính văn học, những truyện này còn tập hợp những tài liệu văn xuôi đầu tiên để nghiên cứu tiếng Việt, cùng với Bạch Vân Am Quốc ngữ thi tập ở thế kỷ thứ XV, và từ điển Alexandre de Rhodes(3) và những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, như Ngoạ long cương, Thiền tông bản hạnh truyện Trinh thử ở thế kỷ thứ XVII.

2.- Lược thuật nội dung tác phẩm:

Hai mươi truyện được xếp vào bốn quyển. Mỗi quyển có năm truyện, đề tài của các truyện, có truyện hoang đường, có truyện thực tế, các cốt truyện đều nằm vào trong mỗi thời kỳ lịch sử dưới đây:

Triều đại Lý (1010 - 1225), Trần (1225 - 1400), Hồ (1400 - 1407), thời kỳ chiếm đóng của giặc Minh (1408 - 1427), triều đại Lê đến cuối đời vua Lê Uy Mục (1428 - 1509).

Dưới đây xin dẫn một vài truyện, như khúc đầu truyện thứ năm (Truyện kỳ ngộ ở trại tây).

“Hà Nhân, người học trò quê ở trấn Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình trú ngụ ở Kinh đô để theo học thầy Ức Trai. Mỗi buổi đi học đều phải đi qua phường Khúc Giang, ở đó thấy có khu nhà cũ của quan Thái sư triều Trần”.

Năm Thiệu bình (1434 - 1439) tương ứng với niên hiệu đầu của vua Lê Thái Tông (1434 - 1442), nhà chính trị và văn chương đại tài, tác giả nhiều tác phẩm viết bằng chữ No như Lam Sơn bi ký Quốc âm thi tập(4).

Ngoài ra, quan Thái sư triều Trần có thể là Trần Nguyên Đán (1320 – 1390), ông ngoại của Nguyễn Trãi.

Hay là truyện Người con gái có tiết hạnh ở Khoái Châu, một sự kiện lịch sử đầu tiên quan trọng được nêu lên trong một câu đơn giản: “Đến vua Lê Thái Tổ ra gươm đất Lam Sơn hai con lấy quân theo đấy”.

Truyện thứ mười sáu Người con gái Nam Xương, khoảng cuối năm Khai Đại (1403 - 1404). Và thảm kịch đó có thể đặt một cách chính xác vào trong thời gian, nhờ có câu đã ghi trong truyện: “Đến sang năm giặc Chiêm lệ tới chịu trói”. Đúng như vậy, Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu: “Canh Ngọ ngày 23 tháng giêng (1390), tướng Trần Khát Chân trên sông Hải Triều (sông Luộc, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình và huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) đã thắng trận trở về. Chế Bồng Nga đã bị giết trong trận thủy chiến, quân đội Chàm rút chạy”

3.- Ngữ âm lịch sử và sự biến đổi văn tự.

Lịch sử là khung cảnh rộng lớn, trong đó hòa nhập vào cuộc sống nhân dân. Nhưng Truyền kỳ mạn lục cũng có thể cung cấp một bộ mặt chi tiết có ích cho việc nghiên cứu ngữ văn. Tôi sẽ dẫn ra đây một vài đường hướng giúp cho việc nghiên cứu.

3.1. Lối viết chữ Nôm có quan hệ với chữ Hán.

Chữ Nôm có quan hệ họ hàng với chữ Hán (n.a.c). Tất cả những từ gốc, nói chung đều là những tiếng thường dùng, cùng một từ nguyên của từ Hán Việt (s.v), nhưng cách cấu tạo, phần ngữ âm mà nó biểu thị thường có trường hợp cổ hơn tiếng Hán - đôi khi cùng một ý nghĩa - nhưng ít hay nhiều khác với nghĩa của từ Hán Việt tương ứng. Ví dụ:

Chữ 巫 vu: thầy bói, từ Hán phát âm lập lại như vậy, là bởi:

B. Karlgren(5): âm Hán thượng cổ / Hán trung cổ / Hán hiện đại miwo* / miu/wu

Từ này cho biết ở thế kỷ thứ X, âm Hán Việt là VU quán âm là MO, tương ứng với tiếng Hán thượng cổ hay tiếng Hán trung cổ có trong bảng từ Hán Việt Tam Thiên Tự (1776):

巫 : 柴 謨 vu : thầy mo.

Tôi đã lập lại trong Từ điển lịch sử của những chữ ghi ý tiếng Việt (1992), khoảng 2.000 n.a.c(6).

Và đã lập lại 200 từ Hán thượng cổ (chạy dài suốt từ nguồn gốc đến thế kỷ thứ V sau Công nguyên, trong bảng phân loại của Bernhard Karlgren).

Ví dụ: 12 trường hợp dưới đây:

1.- 放 n.a.c buông/BUÔNG

T.K.M.L.XVI buông sống bèn buông sống đấy.

放 GSR 74 Oi ghi: piwang / piwang / fang. S.V.(7) phóng.

Phụ âm đầu: p - / b -

Vần: - iwang / - uAg

2.- 醋 n.a.c chua / CHUA

T.K.M.L.V: 珠 冷 nhà nuôi vắng vẻ, mùi mẽ chua lạnh.

醋 AD 777 ts’uo / ts’o - . S.V. thố

Phụ âm đầu: ts’ - / ch -

Vần: - uo / - ua

3.- 悠 n.a.c DẶC: xa: dặc dặc,

T.K.M.L.II: 弋 弋 chẳng vậy thì trọn đời dặc dặc.

chẳng chốn nào khá gặp gỡ vậy.

悠 GSR 1077a diôg / yau / yu . S.V. du

Phụ âm đầu: di - / z -

Vần: - iôy/ - ak

4.- 焠 n.a.c đốt/ ĐỐT

T.K.M.L.III: chờ thiếp đốt đèn lại vậy.

焠 GSR 490g ts’wad / ts’uâi - / ts’uêi. S.V Thối.

Phụ âm đầu: ts’ - / d -

Vần: - wad / - ot

Chữ biểu âm ở T.K.M.L.III là 出 :

GSR 496a - e t’iwat / ts’ iuet

5.- 代 n.a.c đời / ĐỜI

T.K.M.L.I: 代 đời sau

代 GSR 918i d’ag/ d’ag / d’âi - / tai. S.V. đại

Phụ âm đầu: d - / đ-

Vần: - ag/ - ay

6.- 鏡 n.a.c gương / GƯƠNG

T.K.M.L.IV: Ta mắng tiếng đạo trời công sáng dường như nhắc cân, cầm gương.

鏡 GSR 752c Kiăng / Ki ng - / king. S.V. kính.

Phụ âm đầu: K - / J -

Vần: - iăng/ - WAN

7.- 鍼 n.a.c kim / KIM

T.K.M.L.V: 針 kim chỉ

GSR 6710 - tiam / ts’iam / chen

鍼 Tùng T’ung - hô(8) p.247 kiam S.V. châm phụ âm đầu: k - / k-

Vần: - iam/ - im

8.- 退 n.a.c / LUI

T.K.M.L.IV: Bèn khiến lui ra dãy nhà bên đây nghỉ ngơi.

退 GSR 812a – t’wad/ t’uâi - / t’uei. S.V thoái

hl- > t’ - Bodman - Baxter 1984

Phụ âm đầu: hl - / l -

Vần: - wad/ - uy

9.- 篩 n.a.c rêy / RÂY

T.K.M. XVIII: 篩 rây xương làm lương ăn.

GSR 559a Siar / Si/Shi. S.V Si.

Phụ âm đầu: KS - / r-

Vần: - iar/ - AY

10.- n.a.c reo / REO

T.K.M.L.IV: 嘹 cùng reo gọi nhau rằng

Génibrel 嘹 chim reo

GSR 1036a Sog / Sâu - / Sao. S.V Táo

Phụ âm đầu: S - / r – Spiratisution KS- > r –

Vần: - âu / - EW

Chú ý:

1/ Những vần ít bị thay đổi bởi những phụ âm đầu.

Không có thanh điệu. Trong những trường hợp, 3, 4, 5. Vấn đề không phải một thanh điệu, mà là biến đổi ngữ điệu do chấp nhận những vần có phụ âm tác: - you – d.

3/ Tiếng Việt, trong lớp những n.a.c là ngôn ngữ còn giữ nét phát âm của tiếng Hán cổ.

Ví dụ: 鍼 n.a.c kim. S.V châm

Herbert A.Giles: Trong Từ điển Hán Anh đã ghi:

鍼 615: C. chêm

H. Chim

F. cheing

W. tsang

N. toing

M. trên

Y -

SZ. Chên

K. ch’ien

J. Shin

Nhận xét những chữ Nôm có quan hệ với chữ Hán:

a) Đa số các chữ đã mất cách viết nguyên thủy ở thời kỳ Truyền kỳ mạn lục.

b) Còn những chữ khác trong Truyền kỳ mạn lục, có thể sẽ sửa đổi ở những thế kỷ tiếp theo.

c) Cuối cùng là những chữ giữ nguyên vẹn cách viết vốn có của nó cho đến ngày nay, có thể là những chữ hay sử dụng nhất.

S.V CHỮ VIẾT N.A.C Q. TKML AR TAM THIÊN TỰ T.TH.T
quyết cột (colonne) cột
các gác (étage) gác
hấp hớp (unegarge’c) hớp
lẽ (raison) mlẽ
si rây (filtle) rêy
tha (faire grâce) tha
thám Thăm (rechrecher) thăm
viên vượn (gibbon) vượn (?) vượn
việt vượt (franchin) vượt vượt

Trên đây chúng tôi so sánh lập lại các chữ ở từng giai đoạn:

3.2. Sự tiến triển trong cấu trúc chữ Nôm.

Những chữ liên quan đến cách cấu tạo chữ Nôm. Người ta nhận thấy sự tiến triển là ở chỗ, những chữ Nôm vốn là chữ Hán, đa số là vay mượn ngữ âm. Bên cạnh việc dùng chữ Hán biểu âm, còn cho ta một quan niệm về ngữ nghĩa.

Sự tiến triển (biến đổi) này có thể so sánh trong cách viết ở T.K.M.L (thế kỷ thứ 16) với Tam Thiên Tự (T.Th.T) ở thế kỷ thứ 18.

Những chữ Nôm bổ sung thêm yếu tố ngữ nghĩa được sử dụng ở thế kỷ XVIII.

TKML AR T.TH.T
Con con
đặt đặt
đêm đêm
đủ đủ
đua đua
gặp gặp
Mai mai
Mlầm (9). mlầm
Mong mong
No no

Việc bổ sung yếu tố ngữ nghĩa là nhu cầu cần thiết để phân biệt những chữ đồng âm. Nó đã cho ta một ý niệm về nghĩa, đó là xu hướng chung, nền tảng của cấu tạo văn tự khối vuông, hoặc không thay đổi, còn chữ viét thì thay đổi.

3.3 Sự biến đổi chữ viết gắn liền với biến đổi ngữ âm.

a) Ngữ âm đã biến đổi, nhưng vẫn còn một số chữ biến đổi chậm. Văn tự biến đổi là tuỳ thuộc vào chữ Nôm chưa được tiêu chuẩn hoá. Chúng ta có thể nhận thấy, những sự thay đổi đó xảy ra trong cách phát âm. Những ký hiệu đưa ra bằng chữ cái La tinh đã xác minh điều nhận xét đó.

Những sự thay đổi xảy ra trong cách phát âm của nhóm phụ âm đầu cũng như những phụ âm đầu trong cách viết các chữ Nôm dưới đây:

TKML AR T.TH.T
Blang trăng
bắn vắn
Bời vời
Thưa trưa
Bảy vảy

Phát âm thay đổi, chữ viết thay đổi, nhà nghiên cứu nên quan tâm đến cả hai yếu tố thay đổi là điều rất bổ ích.

b) Một số chữ Nôm vay mượn yếu tố âm đọc Hán Việt. Ví dụ:

n. Săn / SĂN

T.K.M.L XV: năm Bính Dần vua Phế Đế đời nhà Trần ra đi săn.

AR Săn: aller à la chasse

P.B (10) muông săn - chien de chasse

T.Đ.T.C du điền: chơi săn

Gén(11) săn lưới, chasser au filet.

Chữ săn thấy ở T.K.M.L XV. Theo sự hiểu biết của tôi thì không tìm thấy ở bất cứ văn bản nào khác. Tại sao nó có sự thay đổi như vậy? Bởi vì phụ âm đầu Hán S- của 先 sien / Sien/Sien, biến đổi thành t- Hán Việt “tiên” ở thế kỷ thứ XV hoặc ở thế kỷ thứ XVI. Từ điển Anmitico Latinum của Pigneau de Béhaine soạn năm 1772 đã chứng thực, sự thay đổi chữ viết đã xảy ra ở giai đoạn đó, do chấp nhận yếu tố ngữ âm 山 , phụ âm đầu sh-của tiếng Hán được giữ lại trong từ Hán Việt (Nôm).

Sự biến đổi ngữ âm không gắn liền với biến đổi văn tự.

Yếu tố ngữ âm của chữ viết không thay đổi, trong trường hợp này người ta có thể phát hiện sự biến đổi ngữ âm là dựa vào bảng từ hay từ điển song ngữ. Những từ tiếng Việt xen giữa những từ tiếng Hán trong cách phát âm của nó ở thời kỳ Hoa Di dịch ngữ(12), thời kỳ Latinh hoá (AR).

TKML AR T.TH.T
Blời trời
cương gương
Khuở 課 thuở
lâu trâu
Tlẻ trẻ
rước trước

Ngữ âm thay đổi, chữ viết không thay đổi.

Chữ trời là một chữ hội ý, đã sử dụng ở thế kỷ thứ XV. Nó còn giữ cách viết cổ nhất của từ blời trong Quốc âm thi tập, bài 96 viết h40, có đầy đủ hai yếu tố ngữ âm và ngữ nghĩa: yếu tố nghĩa ở trên, và yếu tố âm 例 liài ở dưới.

Chữ 課 thuở là một từ Nôm có quan hệ bà con với tiếng Hán và vẫn giữ vững nguồn gốc chữ viét, nhưng ngữ âm đã biến đổi từ khuở sang thuở ở thế kỷ thứ XVII (AR). Phân tích kết cấu chữ Nôm là con đường mới rất thích hợp. J.Davidson đã nhận ra điều đó và khuyên rằng, trong việc nghiên cứu nên “Phân tích những chữ Nôm sử dụng trong văn học Việt Nam cùng thời với những từ vựng”. Sự thật như vậy, những bài văn cơ bản phải được phân tích một cách kỹ lưỡng. Phần nhiều những bài này là bản in khắc gỗ hay là chép bằng tay có ghi thời gian lúc tạo thành tác phẩm gốc (văn bản nguyên thủy) và người ta tạo trở lại những bài này sau khi đã thu thập những tài liệu cũ nhất mà ngày nay đã mất, chắc chắn có dung lượng chữ viết cùng thời với triều đại biên soạn.

4.- Nghiên cứu ngữ nghĩa:

Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú là một tác phẩm văn học vĩ đại viết bằng chữ Nôm. Tác phẩm này sẽ cung cấp cho chúng ta những cứ liệu mới để bổ sung và đính chính tùy theo những định nghĩa còn lưu lại trong các từ điển, có ví dụ để minh hoạ ý nghĩa của tử, chỉ rõ sự tiến triển ngữ nghĩa từ thế kỷ XV đến ngày nay. Dưới đây xin đề cập những khía cạnh nghiên cứu đó.

4.1. Những từ ý nghĩa thay đổi:

盎 áng n.a.c: dồi dào, phong phú, nơi tụ họp, chỉ rõ vị trí trước nhóm danh từ.

Ví dụ:

Áng can qua: chiến tranh (QÂ18)

Áng công danh: đường công danh (B.V.11)

Áng ngồi: cử toạ (T.K.M.L. XI)

Áng hát: gánh hát, đội hợp xướng (AR)

Áng nguyệt hoa: nhà thổ (P.B)

Áng mây: đám mây (Gðnibrel)

Áng văn chương: kiệt tác văn học

班 ban: đương, lúc, suốt.

Ví dụ:

ban muộn: vào lúc khuya (QÂ118)

Đêm đã ban nửa: đã nửa đêm (T.K.M.L XVIII).

Ban không còn dùng nhiều, chỉ còn dùng trong: ban ngày, ban chiều, ban đầu.

cõi n.a.c: biên giới, giới hạn.

Ví dụ:

Một màu biếc liền trời chẳng có cõi, (T.K.M.L VII)

Với chúng ta ngày nay, cõi chỉ có nghĩa: miền, vùng, khu, khoảng không gian hay là nơi chốn.

cổi: cởi, tháo, mở.

Ngày nay không còn dùng trong các trường hợp sau:

俗 cổi tục: giải thoát tục (Q.Â2)

Việc sự lữ mới cổi (= bỏ, giải ngữ) T.K.M.L XVI)

沈 chìm n.a.c. bị ngập

Với nghĩa đạo đức, tinh thần chìm đắm: Ngươi phải sông dục sóng đam mê chìm đến thế ấy. (T.K.M.L IV).

奴 no: no nê, thoả thuê, chán chê; có nghĩa rộng hết thảy, tổng số, như trong:

no nước uống: đủ nước uống (Q.Â1)

no kỳ: kỳ hạn đã hết (T.K.M.L.IV)

no mọi nước: Omnia regna (AR)

女 nữa: so sánh tính hơn, sự cao hơn.

Ví dụ: mỏng nữa tơ: mỏng hơn chỉ tơ (T.K.M.L.V) (dễ vỡ, dễ gãy, mảnh dẻ).

永 văng (văng mắt): đưa mắt

Ngày nay không còn nói nữa.

Quan Thái thú hằng lên lầu văng mắt xem (T.K.M.L.VI)

4.2. Những từ và ngữ đã bị bỏ, không dùng nữa.

Ví dụ:

bẵng: bằng, giống như, tương tự.

Ví dụ:

Một bầu, một bát bẵng sơn tăng. (B.V.18)

Gửi thân thế bẵng cái phù du. (T.K.M.L.VII)

Chi bẵng: tốt hơn là … (P.B)

悲 bây: này, ấy, cái ấy, việc ấy, mày.

Ví dụ:

Phương chi nàng bây thuở bình minh sáng nhẹ nhưng khác thói thường. (T.K.M.L.VI)

Rằng bây 浪 悲 : dicens (P.B)

bui n.a.c: duy, chỉ. Ví dụ:

Bui lệ tuyết xâm, xương mỏi (T.K.M.L.V). “Bui” còn tìm thấy trong sách Sơ học vấn tân (1882): Bui bên nho là chính.

谷 cóc, n.a.c. 覺 S.V giác: giác ngộ thức tỉnh, nhận biết.

Ví dụ: Nếu mà cóc, tội ắt đã không, phép học lại thông. (Cư trần lạc đạo phú, thế kỷ thứ XIV).

Có thân thì xá cóc chưng thân (Q.Â.33)

Mới cả sợ cóc biết (T.K.M.L.XVII)

Cóc biết biết rõ (P.B)

chỉn: thực ra, sự thực là, chỉ. Ví dụ:

Bạo hung chỉn đã gươm mài đá. (B.K.M.L.1)

Giễu: trọc ghẹo, trêu ghẹo.

Ví dụ:

Sơn tăng giễu khách xui người bấy (B.V.41).

Giễu ngạo: châm biếm (T.K.M.L.XII)

Giễu gião là do Génibrel và Gonin đưa ra. Tôi không tìm thấy ví dụ giễu ngạo ở bất cứ tài liệu nào khác.

默 mặc: dùng, sử dùng (dịch từ chữ 以 dĩ của tiếng Hán).

Ví dụ: Khoe trên mặc cầu cao, quên ơn mà báỏ nghĩa (T.K.M.L.I)

tó: đào bới, moi (móc), lục soát.

Ví dụ:

Trong Qùy đánh được, lấy tiền bằng tó chưng của trong túi (T.K.M.L.II)

tó táy: toucher a tout (= sờ mó) (Génibrel)

xa xắc: xa xăm, xa xôi. Ví dụ:

Đường sá xa xắc. (T.K.M.L.II)

xa xắc: remnotus, a, um (P.B)

nhẹm ghẹo: xu nịnh, tán tỉnh một cách kín đáo.

Ví dụ: Muốn lấy lời xa nhẹm ghẹo (T.K.M.L.III).

冉 nhẹm: hay che dấu, che đậy, nơi ẩn náu (Gðnibre), Ví dụ: Vua ta dâng của ấy vả gửi lòng nhẹm (T.K.M.L.VI).

mắt mũi: mắt và mũi, mặt. Một từ kép gần với từ nguyên của Bahnar: muh mặt(13).

Ví dụ: Dầu chàng mới chẳng bỏ, lấy đến mắt mũi tàn. (T.K.M.L.II).

Chữ mắt là vết tích của thời kỳ mà người ta đã nói: mắt mũi. Tiếp đó, do sự hoà nhập của thanh sắc nặng, mắt đổi ra thành điệu thấp: mặt mũi, mltuo (AR).

Sau đó, mặt là từ đơn và có nghĩa là mặt. Nó tồn tại là bởi sự biến đổi thanh điệu.

Tôi nghĩ những cặp ví dụ dưới đây để minh hoạ cho điều này:

bét bẹt
bít bịt
bốp bộp
bốt bột
chét chẹt
choáng choạng
chém chụm
lết lệt
lốt lột
mít mịt
móp mop
ngút ngụt
mống mộng
nhuốm nhuộm
rót rọt
tét tẹt
túm tụm
tuốt tuột
trái trại
tróc trọc
vót (mây) vọt
xóc xọc
xước xược

Chú ý:

1) Vấn đề mở rộng nghĩa của một từ là biến đổi hạ thấp thanh điệu săc nặng, không phụ thuộc vào sự chia tách ngữ điệu đi liền với hiện tượng mất thanh và âm xát hẹp đã xảy ra ở thế kỷ thứ X.

2) Ngoài ra, còn phải nhận rõ, có trường hợp những từ này bị đồng hóa, như trong:

Hai mươi mốt, ba mươi mốt, v.v…

3) Cũng là tiếng đó, nhưng mà chia tách làm hai, lấy nghĩa phụ bằng cách biến đổi thấp thanh điệu.

4.3. Vấn đề sử dụng những từ Nôm thay từ Hán Việt

Đây là nhận định theo những từ Nôm có trong Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm cũng như ở Quốc âm thi tập Bạch Vân Am thi tập. Người ta đã dùng một số từ Nôm thay cho từ Hán Việt.

Ví dụ:

cổi việc sư lữ, thay cho giải binh (T.K.M.L.XVI)

Cùng nhớ thay cho tương tư. T.K.M.L/VI

giềng hằng thay cho cương thường. (T.K.M.L.VI)

lòng muông ngựa thay cho tình khuyển mã. (T.K.M.L.VI).

Người ta lại dùng một số từ Hán Việt thay cho những từ Nôm. Ví dụ:

耕 canh: cày. Ví dụ:

“Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, …” (Tề thư) (Đào giếng lấy nước mà uống, cày ruộng lấy gạo mà ăn, …) (F.QÂ102).

khát ngủ (= muốn ngủ) là nhắc lại “khát thụy hán” của Âu Dương Tu.

5. Cấu trúc tiếng cổ.

Điều đáng ghi nhớ, một số chữ và từ trong Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú cấu tạo bằng những từ kép thành từ láy và mang đặc tính ngữ điệu của tiếng Việt cổ.

5.1. Lấy toàn phần:

Những từ kép hay còn gọi là những từ láy toàn phần làm thành bởi hai từ giống nhau về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Sự lặp lại một từ với mục đích tăng thêm hoặc giảm bớt ý nghĩa.

Cấu trúc này thay đổi theo dạng thức của Nguyễn Hiến Lê và Trương Văn Chỉnh thiết lập(14). Nó yêu cầu chính xác và đầy đủ bằng những ví dụ đã đưa ra, những từ cổ có thứ tự niên đại. Quả nhiên, người ta nhận thấy, những sự biến đổi đó xuất hiện ở thế kỷ thứ XVII như sau:

Trong những từ có vần âm tắc hay âm mũi:

Vần âm tắc của từ đầu sẽ biến thành vần âm mũi, và ngược lại, thanh điệu biến đổi cả nhóm, không biến đổi xuống thấp.

Trong những từ có vần là nguyên âm: từ đầu biến đổi thành điệu, nhưng cũng có trường hợp từ thứ hai biến đổi thanh điệu. Ví dụ:

Dặc: dài lâu: dài dặc & dằng dặc

Thoáng: thoáng qua: thoáng thoáng & thấp thoáng.

Mảy: bé nhỏ, chút xíu: mảy mảy & mảy may.

Ngỗn: nhiều, đầy: ngỗn ngôn & ngồn ngỗn.

Dưới đây là vài ví dụ trích trong Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú.

弋 弋 dặc dặc - Chẳng vậy thì trọn đời dặc dặc, chẳng chốn nào gặp gỡ vậy (T.K.M.L.II).

倘 倘 thoáng thoáng - thấy nàng Lệ nương thoáng thoáng mà đến (T.K.M.L.XVIII).

濕 倘 thấp thoáng - Xa trông thấy thấp thoáng đèn khuya cách lều (Phan Trần 652).

mảy mảy - Nát còn được mảy mảy lễ táng tước Lỗ công (T.K.M.L.I).

枚 mảy may - Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may (Kim Vân Kiều 3.148).

言 言 ngỗn ngỗn – Lấy chưng mình ngỗn ngỗn tám thước (T.K.M.L.I).

言 言 ngồn ngỗn (Génibrel)

Chúng ta tin rằng, nếu xem xét trong Bạch Vân thì cách phát âm của hai chữ của một từ láy toàn phần cũng giống như những từ đã dẫn ở thế kỷ thứ XVI:

(sáng) vặc vặc.

Ái ưu vặc vặc trăng im mước.

Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. D (B.V.1).

Chúng ta nên chú ý vặc vặc đối lập nhau, từ với từ theo quy luật tính song song có lâng lâng.

Bằng chứng chắc chắn, hiển nhiên, từ vặc vặc là cách phát âm giống như thời Nguyễn Bỉnh Khiêm ghi trong từ điển Taberd và J.S. Thuerel (Ninh Phú 1877).

“Sáng vằng vặc” có thể là chữ viết còn lưu lại trong những bài ở Bạch Vân, khi ngữ âm đã thay đổi.

Cũng như “ngút ngút” đối lập với hiu hiu trong Bạch Vân bài 3.

Trong từ điển của Alexanche de Rhodes ghi:

濕 倘 thấp thoáng

thoăn thoắt

nhớp nhái

Ở thế kỷ thứ XVIII, những chữ viết mới nêu lên, là điều không thể chối cãi những cách phát âm mới.

Từ 濕 倘 thấp thoáng trong Phan Trần 652.

濡 nhấp nhô trong Cung oán.

5.2. Cấu trúc của câu và đoản ngữ.

Người ta đổi khá nhiều những lối nói của từ và ngữ, cách viết đó trái với quy tắc nhất quán của chúng ta ngày nay, bổ ngữ đặt trước từ chủ yếu.

Ví dụ:

Ngươi Trình liếc con mắt ít xem. (T.K.M.L.III).

求 Kẻ giàu thì nào cầu là chẳng được (T.K.M.L.II).

Nhân no hỏi trước sau. (T.K.M.L.II).

Hoa tường vi nhiều nở bằng ráng đỏ muôn điểm. (T.K.M.L.VI).

定 Số trời yên đặt chăng là chẳng trước định. (T.K.M.L.II).

Cách nói này là bắt chước theo cách của từ ngữ Hán Việt. Sau này, các nhà văn nhà thờ đều bỏ cách nói đó, bổ ngữ đặt trước từ chủ yếu và viết theo cách nói của tiếng Việt.

6. Vài lời kết luận.

Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú cho ta một ý niệm phong phú về tính chất văn xuôi mà cho đến ngày nay vẫn bị lãng quên.

Hán Việt cũng giống như chữ Nôm là quốc âm, phát âm rất đẹp, hoàn toàn Việt Nam. Từ ngữ thấm đượm tinh thần văn hoá dân tộc tuyệt với, câu ngắn gọn có đủ khả năng biểu đạt những ý nghĩ và tình cảm tế nhị nhất. Nó mang đặc thù “Việt Nam” mà các nhà văn lớn Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX đã trao cho nó: Văn bia Lam Sơn cũng như Quốc âm thi tập. Đó là những âm vang sâu sắc trong tâm hồn Việt Nam, và là cán cân thăng bằng không ưu tiên cho chữ Nho và thiệt hại cho chữ Nôm.

Những từ, những câu trong Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú như những cánh tay thân mật, quen thuộc mở ra cho chúng ta thấy: Nó tràn đầy tính tự nhiên và lành mạnh, tính bình dân và sâu sắc, những từ tượng thanh và những cảnh gây ấn tượng. Những lời nói bóng gió, những câu dân ca ngạn ngữ, tục ngữ phản ánh nội dung phong phú, những từ láy biểu tả nhịp điệu. Nó quấn chặt tất cả trong ánh sáng cảm động hiện thực và phi thường: những con chim và ngọn núi, những làng quê và con sông, những cây đa và cây tre, những con trâu và con cò, những ngôi chùa và ngôi mộ, những nhà Nho và người nông dân, những vị thần và ông tiên để tạo nên bản giao hưởng: đất đai, những người con trai và con gái cùng với tiếng nói của họ.

CHÚ THÍCH

(1) Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Nguyễn Thế Nghi (viết tắt T.K.M.L)

(2) Bạch Vân Am Quốc ngữ thi tập (viết tắt là B.V) của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).

(3) Dictionarium annamiticum lusitanum et latinum (viết tắt là AR).

Quốc âm thi tập (viết tắt là Q.Â)

(4) Grammata serica recensa (Stockholm 1972) tr.105a.

(5) n.a.c: Nôm apparenté du Chinois (Nôm phát sinh từ chữ Hán).

(6) S.V: Sino-Vietnamien (Hán Việt).

(7) Trung T’ung-ho: Tentative Archaie phonologicai, page tables.

(8) Trong Phan Trần, thế kỷ thứ 18.

(10) P.B: Dictionarium anamitico - latinum, manuscrit de Pigneau de Bðhaine (1772). Bibliothèque nationale, Paris.

(11) Gén: Từ điển Génibrel.

(12) Hoa Di dịch ngữ: E.gaspardone: Le lexique annamite de Ming J.A.1953; J.Davidson: “Anew version of the Chinese Vietnamese vocabularg of the ming dynarty” (B.SO.AS 1975).

(13)P.Guilleminet de j.Alberty: Dictionnaire bahner-francais (E.F.E.O. Paris 1963).

(14) Nguyễn Hiến Lê, Trương Văn Chình: Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (université de Huế 1963). Trương Văn Chình: Structure de la langue Viet-namienne (Paul geuthner, Paris 1970).

TB

QUA VĂN THƠ NÔM, TÌM HIỂU CÁCH PHÂN ĐỊNH TỪ LOẠI CỦA NGƯỜI XƯA

NGUYỄN NGỌC SAN

Qua số tác phẩm bằng chữ Nôm hiện còn, ta thấy đại bộ phận là thơ, sau đó đến các thể văn sử dụng các câu biền ngẫu và đối xứng như phú, văn tế, ca trù và nói lối. Văn xuôi phát triển muộn và chiếm một tỉ lệ khá thấp.

Dù viết văn, thơ, phú, văn tế hay nói lối v.v… các nhà văn thơ xưa đều hay dùng đến kiến trúc đối xứng hay đỗi ngẫu. Ngay cả khi làm thơ lục bát, các thi sĩ thiện tài như Nguyễn Du cũng chú ý sử dụng những cấu đối xứng để làm cho thơ mình sáng tạo trong sự đều đặn và đa dạng trong sự bất biến. Việc đưa kiến trúc đối xứng vào trong lời nói vốn là đặc điểm chung của các ngôn ngữ đơn tiết có thanh điệu như tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Tày Nùng, tiếng Thái v.v…

Ở đây cần phân biệt rõ hai khái niệm: sự cân xứng và kiến trúc đối xứng. Sự cân xứng thì ở ngôn ngữ nào cũng có và cũng được dùng làm một biện pháp tu từ. Nhà nghiên cứu văn chương Pháp là V.Albalat đã khẳng định rằng: “Biết được sự cân đối là đã biết được ba phần tư nghệ thuật viết văn”. Cân đối là sự tương ứng giữa hai vế có số lượng đơn vị từ vựng - ngữ nghĩa bằng nhau (couplet), còn kiến trúc đối xứng phải gồm hai câu đối chọi nhau từng tiếng (âm tiết) một về thanh và ý và chỉ xuất hiện trong các ngôn ngữ đơn tiết có thanh điệu như đã nói. Trong cân đối thì tự đối nhau có thể có số lượng âm tiết khác nhau và sự cân xứng ở đây là sự đối xứng về từ vựng - ngữ nghĩa. Kiến trúc đối xứng hay hình thức “Câu đối” chỉ xuất hiện trong các ngôn ngữ không có biến thái và các từ có thể chuyển dịch tự do. Các ngôn ngữ châu Âu có sự phân cấp rành mạch giữa chính tố và các phụ tố như tiền tố, trung tố, hậu tố, vĩ tố… và các yếu tố này không thể lẫn lộn với nhau được. Còn trong các ngôn ngữ đơn tiết thì không có yếu tố nào chỉ đóng một vai trò duy nhất, giữ một vị trí duy nhất. Ví dụ tâm có thể đứng trước trong các từ: tâm sự, tâm trạng, tâm địa, tâm lý… nhưng lại có thể đứng sau trong các từ: lương tâm, thành tâm, hảo tâm, ác tâm, duy tâm… do đó mà một tiếng cổ có thể di chuyển linh hoạt trong lời nói để tạo ra nhiều dạng đối xứng.

Ở Trung Quốc, kiến trúc đối xứng (đối thanh + đối ý) được sử dụng từ phú đời Hán gọi là đối phú, đến thời lục triều đối bắt đầu được sử dụng trong thơ, sang đời Đường đã rất thịnh hành gọi là đối thơ. Còn câu đối thì đến đời Tống mới thành một thú chơi văn chương phổ biến. Ở kiến trúc đối xứng các vế đối chọi nhau từng tiếng về ý nghĩa và thanh điệu. Trong tiếng Việt đối thanh chỉ được áp dụng từ thế kỉ XII vì tới thế kỷ XII hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt mới xuất hiện đầy đủ và đều đặn. Câu văn đối nhau về thanh điệu nghe sẽ êm tai, hài hoà dễ nhớ, dễ thuộc. Còn sự đối nhau về ý nghĩa muốn chặt chẽ thường phải dựa vào từ loại, nhưng người xưa chưa có khái niệm rành mạch về từ loại như ngày nay. Họ không chia từ ra thành các loại như đại từ, danh từ, động từ, phó từ, giới từ v.v… như cách phân chia ngày nay, nhưng trong quá trình sáng tác ra các kiểu kiến trúc đối xứng họ thường lấy âm tiết làm bản vị và cũng không phải hoàn toàn không thấy được mối quan hệ giữa các âm tiết nhưng họ chú trọng đến mối quan hệ về cái mà ngày nay ta gọi là chức năng ngữ pháp, đó là mối quan hệ về các thế đối. Bằng cảm thức ngôn ngữ họ vẫn thấy giữa các từ có những phẩm chất và chức năng khác nhau, họ dựa vào tiêu chuẩn gọi là nặng nhẹ để phân các từ ra làm hai loại là thực từ và hư từ. Hai loại này rõ ràng mang những chức năng khác nhau trong câu đối và không thể lẫn lộn với nhau được. Nhưng sự phân chia bước đầu này chỉ có giá trị trong câu tản văn chứ chưa đủ tiền đề để nêu ra một qui tắc nhằm đạt được những câu đối thực chỉnh. Do đó có nhu cầu tiếng tục dựa vào tiêu chuẩn nặng nhẹ để chia thực từ thành các loại nhỏ hơn. Nói chung, họ chia tất cả các từ thành các loại sau:

- Loại nặng: gồm các danh từ và đại từ nhân xưng ngày nay..

- Loại hơi nặng: gồm động từ và tính từ đơn tiết ngày nay.

- Loại hơi nhẹ: gồm những từ chỉ trạng thái tính thừ song tiết) như xanh ngắt, đỏ au… và những từ láy âm.

- Loại nhẹ: gồm các hư từ như thán từ (ru, nhé, nhỉ, bấy), quan hệ từ (thì, hoà, cùng), phó từ (chẳng, mựa, sá, tua, đà…).

Sự phân định này nhìn qua có vẻ sơ lược và khó hiểu, nhưng xét ra không mâu thuẫn với cách phân định từ loại ngày nay mà ngược lại, nó chứng tỏ casi cảm thức ngôn ngữ của ông cha ta rất nhạy bén và chính xác. Họ phân chia rành mạch giữa danh từ và động từ, nhưng không phân biệt động từ với tính từ đơn tiết, vì giữa động từ với tính từ đơn tiết biểu thị trạng thái hay tình cảm không có sự khu biệt rõ rệt. Ví dụ có thẻ nói chị ấy rất đẹp hay chị ấy đang đẹp, anh ấy già anh ấy sẽ già. Họ còn phân biệt giữa tính từ đơn tiết thuộc loại hơi nặng với tính từ song tiết thuộc loại hơi nhẹ, cách phân chia này có phần hợp lý hơn so với cách phân chia từ loại ngày nay. Ở đây có cái mã về số lượng âm tiết mà ai làm thơ phú và câu đối mới nhận thức được. Tính từ đơn tiết khác với tính từ song tiết về chức năng ngữ pháp, chẳng hạn nó có thể đứng trước danh từ như trẻ người non dạ, dài lưng tốn vải, xấu người đẹp nết. Tính từ song tiết không có khả năng ấy, không thể nói trẻ trung người non nớt dạ, hay xấu xí người đẹp đẽ nết. Khi tính từ song tiết hay nhóm từ, ví dụ:

- Phơ phơ đầu bạc ông câu cá
Leo lẻo doành xanh con mắt mèo

Nguyễn Trãi

- Chỉnh chện áo dài đai rộng
Nghênh ngang đông cả bác dài

Lê Thánh Tông

- Mẹ già phơ phất mái sương
Đoàn Thị Điểm

Họ không phân biệt giữa tính từ song tiết và từ láy âm vì từ láy âm phần lớn cũng là tính từ song tiết biểu thị trạng thái như trong các ví dụ vừa nêu. Nhưng từ láy âm có vị trí tương đối tự do hơn, có thể đứng trước hoặc sau danh từ, ví dụ:

- Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

Nguyễn Trãi

- Kinh Pháp hoa giảng đã mưa nhộc nhộc đượm áo nạp đầm đầm;
Phiến bối diệp tụng thổi gió hiu hiu quét lòng trần thay thảy.

Lê Thánh Tông

Nó cũng có thể đứng sau động từ làm bổ ngữ trỏ trạng thái, ví dụ:

- Rửa không thay thảy thằng Ngo chạy,
Giã mỏi lâng lâng khách việt hầu

Thơ Hồng Đức

- Khói quán mây ngàn tuôn ngụt ngụt,
Chợ quê sóng bể dậy ù ù.

Thơ Hồng Đức

Thuộc loại nhẹ gồm có các hư từ. Nhưng người xưa không chia hư từ thành các loại giới từ, thán từ, liên từ, phó từ… như ngày nay. Người viết văn thơ xưa đã rất chú ý đến cách vận dụng các hư từ mà họ cho là các từ mấu chốt trong nghề viết văn, nhất là văn xuôi, đấy là những từ “chi, hồ, giả, dã…” Hán văn buổi đầu còn dùng rất ít hư từ, văn càng cổ thì hư từ càng ít. Các sách Thượng thư, Xuân thu… câu văn ngắn, rắn chắc, chỉ một số từ mà bao hàm bao nhiêu ý tứ không rõ ràng nên người sau hiểu không thống nhất, tốn bao công sức để viết chú, sớ, truyện; cho mãi đến đời Thanh người ta vẫn còn tranh luận nhiều về ý nghĩa các trước tác thời Tiên Tần.

Theo với đã phát triển của tư duy lí luận, của nhu cầu diễn đạt chính xác và cụ thể, các hư từ dần dần xuất hiện. Các hư từ trong tiếng Hán cũng như tiếng Việt phần lớn đều biến đổi từ các thực từ, do đó xảy ra hiện tượng trong một thời gian nào đó một từ vừa là thực từ vừa là hư từ. Ví dụ của vừa là của cải vừa là giới từ quan hệ sở hữu, tính chất mập mờ ấy còn thể hiện trong tục ngữ của ai nấy dùng. Một số hư từ tiếng Việt còn có nguồn gốc Hán như: mựa, sá, chỉn, hoà, cùng… Mựa là do từ phẩu (không, chẳng) có âm thượng cổ là (piau) lúc đầu sang tiếng Việt là biều sau do xu hướng biến đổi b > m mà có âm mựa; chỉn là do từ Hán chỉ sang tiếng Việt lúc âm cuối - 1 còn phổ biến, sau - 1 đổi thành - n và cuối cùng thành (i); hoà sau biến âm thành và, còn cùng biến âm từ cộng

Do viết thơ văn dùng kiến trúc đối xứng, người xưa có ý thức phân biệt rất rõ các vị trí của hư từ trong câu. Hẳn là các hư từ ở những vị trí khác nhau có giá trị nhất định trong việc tạo lập nên câu đối. Ở các vị trí khác nhau nó có thể chuyển một từ hay nhóm từ thành câu, ví dụ:

Từ, Nhóm từ Câu
hiềm nghi mựa hiềm nghi!
nghỉ ngơi sá nghỉ ngơi
quán, đò nọ quán nọ đò
có cô nương bui có cô nương
thảnh thơi thảnh thơi tá
ngao ngán ngao ngán nhẽ
phải người quen phải người quen ru

Từ đó họ chia hư từ thành ba loại theo các vị trí khác nhau và không thể nào lẫn lộn với nhau được.

- Ví trí đầu câu: mựa, tua, sá, nọ…

- Vị trí giữa câu: liễn, thì, chưng, nhẫn…

- Vị trí cuối câu: vậy, tá, nhẽ, ru…

Sau đây là các ví dụ:

Hư từ đầu câu:

Mựa

- Thế gian mựa biết nhàn làm tiện (NBK)(1).

- Duật nọ mựa còn đua với bạng (NBK)

- Áng công danh cắp tay (NBK)

- đành tạm nghỉ nơi hàng quán (LTKN).

Chỉn

- Chỉn thực quan nhân dạ sắt vàng (LTKN)

- Thấy loài vật bé chỉn thương thay (LTKN)

Bui

- Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con liễn đạo làm tôi (QÂTT)

- Trăm năm bui nối nghiệp công khanh LTKN)

Ban

- Ban khi trống một mới thu canh (HĐ)

No

- No nọ Bàn Khê công nghiệp cả
Xuân thu lần kể tám mươi dư (QÂTT)

Hư từ giữa câu:

Liễn

- Già liễn chiền là nơi ăn ở
Khói cùng mây ấy chốn láng giềng (TGCH)

Thì

- So nghỉ đều thì kém hết hai QÂTT)

- Vô sự thì hơn kẻo phải lo (NBK)

Chưng

- Chưng sau danh lợi dầu hai vẹn
Trong thuở tao khang nhớ chút cùng (LTKN)

- Kham khổ nằm chưng trường ốc
Đêm ngày đọc sách thánh hiền (TGCH).

Đà

- Khách đà lên ngựa người còn ngoái theo (K)

Hoà

- Ắt là khôn hết cả hoà hai (NBK)

- Hai em phương trưởng hoà hai (K)

Nọ

- Rước ai nọ quán đưa ai nọ đò (DDT)

Nhẫn

- Cổ tối nhẫn kim sinh thời có hoá (TGCH)

- Suốt từ một khắc nhẫn năm canh (HĐ).

Thửa

- Tuy đã nhiều non nhiều nước, mạnh thửa thành trì (NGT).

- Thú vui thửa thú ngu hà (DDT)

- Chẳng hiềm thửa vụng xây ngâm chép làm (HSK)

Khắng

- Mảy chút trần ai chi khắng lụy (LTKN)

- Lộc nặng quên ơn chúa nặng (NBK)

- Tái ông thất mã chau mày (NBK)

Lọ

- Miễn có thân giàu lọ ước ao (NBK)

Hư từ cuối câu:

Vậy

- Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai (K)

- Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao (K)

- Đêm chia nửa khéo hay (HĐ)

- Tranh chi nên nỗi đôi co vậy là (DDT)

- Ông nào thổi địch thanh thơi (HĐ)

- Chồng con đấu ! Tính danh là gì (K)

Nhẽ

- Trên trướng gấm có hay chăng nhẽ ! (CPN)

- Ông tơ thật nhẽ ! đa đoan (K)

- Đạm Tiên nàng nhẽ ! Có hay (K)

Ru

- Công đeo đẳng chẳng thiệt thòi lắm ru (K)

- Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru (K)

Trong quá trình viết văn, khi cần phải đặt những câu đối xứng, người xưa tuân thủ theo nguyên tắc: nặng đối với nặng, hơi nặng đối với hơi nặng, hơi nhẹ đối với hơi nhẹ và nhẹ đối với nhẹ. Vậy mà câu đối vẫn chỉnh và chững chạc. Nếu đem tri thức ngữ pháp ngày nay mà phân tích ta thấy vẫn không có gì sai phạm. Đó là điều kỳ diệu mà người xưa đã làm được khi ngành ngữ pháp của người Hán và người Việt còn chưa được phát triển. Và đây là điều khiến chúng ta cần phải suy nghĩ để tìm ra những mã sáng tác của người xưa.

CHÚ THÍCH

(1) Viết tắt: NBK: Nguyễn Bỉnh Khiêm, LTKN: Lâm tuyền kỳ ngộ; QÂTT: Quốc âm thi tập; TGCH: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. PT: Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh; K: Kiều; DDT: Đào Duy Từ; NGT: Nguyễn Giản Thanh; HSK: Hoàng Sĩ Khải; CPN: Chinh phụ ngâm.

TB

NHỮNG KHÍA CẠNH VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN MẢNG THƯ TỊCH THẦN TÍCH

NGUYỄN HỮU MÙI

Thần tích là một loại hình văn bản ghi về lai lịch và công trạng của các vị thần được thờ tại các đình, đền, miếu ở nước ta. Loại văn bản này vốn được lưu trữ ở bộ Lễ triều Lê, do Nguyễn Bính(1) soạn vào niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573) và Nguyễn Hiền(2 sao lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740). Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay cũng lưu trữ được một số lượng khá lớn những văn bản thuộc thể loại này, do Học viện Viễn đông Bác cổ trước đây sao lại từ các địa phương(3). Khi tiếp xúc với số tư liệu này, chúng tôi thấy một hiện tượng khá phổ biến là có nhiều văn bản ghi xuất xứ từ hai nơi tàng trữ ở xã Bằng Đắng và đền Hùng Vương(4).

Trong phạm vi một bài viết, chúng tôi chỉ xin nêu một số ví dụ:

1. Thần tích xã Ngọc Tào, tổng Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (cũ) thờ Ngọc Quang đại vương đánh giặc Thục thời Hùng Duệ Vương, sao tại xã Bằng Đắng ngày mồng 6, tháng 10, năm Tự Đức 3 (1850) [Tự Đứctam niên, thập nguyệt, sơ lục nhật, bản xã tựu Bạch Hạc huyện, Bằng Đắng xã thừa sao - AE a10/6, tờ 7a].

Thần tích thôn Thụy Lâm, xã Đông Xá, tổng Tử Dương, tỉnh Hưng Yên (cũ), thờ Đạo Thành, người có công đánh giặc Chiêm Thành thời Lý Nhân Tông, sao tại từ đường gia đình quan Thượng thư thời Lê, xã Bằng Đắng, tổng Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên ngày mồng 1, tháng 8, năm Thành Thái 19 (1907). [Thành Thái thập cửu niên, trọng thu, sóc nhật, phụng đắc chính bản tại Vĩnh Yên tỉnh (cổ hiệu Sơn Tây), Vĩnh Tường phủ, Bạch Hạc huyện, Đồng Phú tổng, Bằng Trù (cổ hiệu Bằng Đắng) xã, cố Lê Thượng thư gia từ - A a3/46, tờ 5b]

3. Thần tích khu Bảo Tháp, trang Đông Cứu (Hà Bắc) thờ Cao Doãn, một công thần của Trưng Nữ Vương, sao tại từ đường quan Thượng thư đời Lê, xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây vào tháng 2 năm Thành Thái Giáp Ngọ (1894) [Thành Thái Giáp Ngọ niên, nhị nguyệt, phụng sao thần tích chính bản tại Sơn Tây tỉnh, Bạch Hạc huyện, Bằng Đắng xã, Lê triều Thượng thư quan từ - A262, tờ 11b]

4. Thần tích xã Cao Xá, tổng Thủy Cam, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông thờ ba vị đại vương: Ứng Thiện, Ứng Đạo và Hiển Hựu, đánh giặc Thục, do dân xã sao tại đền Hùng Vương ngày 12, tháng 10, năm Nhâm Tý, niên hiệu Duy Tân 6 (1912) [Duy Tân lục niên, tuế thứ Nhâm Tý, thập nguyệt, thập nhị nhật, chức sắc, kỳ mục, lý dịch tựu Hùng Vương từ phụng lĩnh sự tích, phụng sao vu hậu- AEa2/75, tờ 25b].

5. Thần tích xã Văn Giáp, tổng Thượng Hồng huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông thờ hai vị Lý Thường Minh (thời Hùng Vương) và Lê Phụng Hiểu (thời Lý), sao tại đền Hùng Vương ngày mồng 1 tháng 4, năm Canh Tuất niên hiệu Duy Tân 4 (1910) [Duy Tân tứ niên, tuế thứ Canh Tuất, tứ nguyệt, sơ nhất nhật, Văn Giáp xã tựu tại Hùng Lĩnh từ phụng sao- AEa2/99, tờ 9b].

6. Thần tích thôn Mao Thọ, xã Ôn Xá, tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên thờ Lê Văn Hưu, nhà sử học đời Trần, sao tại đền Hùng Vương ngày 15, tháng 3, năm Thành Thái 17 (1905) [Thành Thái thập thất niên, tam nguyệt, thập ngũ nhật, phụng sao linh tích chính bản tại Hùng Vương từ. Đồng xã phụng sự- AEa3/16, tờ 3b]

7. Gần đây, trên Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1987, có công bố một tấm bia đồng ở đình làng Quan Nhân, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Theo tấm bia này, vị Trung nghĩa đại vương thờ tại đình Quan Nhân được dân làng tìm thấy sự tích tại xã Bằng Đắng vào tháng 4, năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức 4 (1851), và đến năm Tự Đức 6 (1853), đem sự tích ấy khắc lên bia đồng để lưu truyền về sau(5).

Vậy lai lịch của hai nơi tàng trữ thần tích này là thế nào? Trong quá trình tìm hiểu vấn đề, chúng tôi quan tâm nhiều đến mảng thư tịch XÃ CHÍ(6), đây là những văn bản đề cập nhiều mặt về làng xã, do chức sắc địa phương kê khai, có ký tên và đóng dấu. Và ở mục 4, phần Cổ chí, ký hiệu AJ1/30 có ghi lời kê khai của Lý trưởng làng Bình Trù, tổng Đồng Phú, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (cũ), đề ngày 8.8.1937. Nguyên văn bằng tiếng Việt như sau: “Trong dân không có giấy má gì là cổ chỉ. Còn như xưa nay có tiếng đồn: làng Bằng Đắng có sự tích bách thần cho các nơi đến sao thì từ 20 năm về trước có, mà nay thì không còn gì. Nguyên quan thượng Bằng Đắng chính là người làng Bình Trù này-nguyên tiền Bằng Đắng thôn, hậu cải vi Bình Trù xã = nguyên trước là thôn Bằng Đắng, về sau đổi là xã Bình Trù), tên ngài là Tô Thế Huy (Tô Thế Huy Lê triều Đinh Sửu khoa Đệ tam giáp Tiến sĩ, Quan chí Công bộ Thị lang kiêm Lễ bộ Thượng thư. Vinh phong(7) Hiển lộc đại phu, tước phong Cảo quận công-Tô Thế Huy đỗ đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Đinh Sửu triều Lê làm quan đến chức Công bộ Thị lang kiêm Thượng thư bộ Lễ. Vinh phong Hiển lộc đại phu, tước phong Cảo quận công). Ngài làm quan ba triều. Ngoài 70 tuổi cáo lão. Sau hai con ngài một ông làm Chánh hiến sứ, một người làm Phó hiến sứ. Khi ngài cáo về, nhà ngài có đền thờ sự tích bách thần, năm nào cũng có các dân các nơi về sao. Chừng 20 năm nay, ông trưởng họ ngài là Tô Thế tân chết rồi, thấy nói con cháu người đó đã đem thần tích lên gửi ở đền Hùng (xã Cổ Tích tỉnh Phú thọ) không biết có đích không. Hiện nay ở trong dân không thấy có. Người họ ngài chỉ còn 4 đinh đều sa sút đi làm xa. Chỗ nhà ngài nay đã thành ruộng”.

Tiếp đó, sách còn ghi lại 3 đôi câu đối viết về Tô Thế Huy:

1)

國 忠 臣 家 孝 子 天 下 完 人
文 進 士 武 郡 公 朝 廷 顯 宦

Quốc trung thần, gia hiếu tử, thiên hạ hoàn nhân;
Văn Tiến sĩ, võ Quận công triều đình hiển hoạn.

(Với nước là trung thần, với nhà là con hiếu, là người vẹn toàn trong thiên hạ;
Văn đỗ hàng Tiến sĩ, võ ở hàng Quận công, làm quan danh vọng chốn triều đình).

2)

揆 席 十 三 年 輔 德 渥 心 高 德 悅
使 輅 千 萬 里 重 朝 安 社 弼 如 遼
(黎 朝 正 和 御 賜)

Qủi tịch thập tam niên, phụ đức, ốc tâm, cao đắc duyệt;
Sứ lộ thiên vạn lý, trọng triều, an xã, bật như liêu.
(Lê triều Chính Hoà ngự tứ)

(Mưu sự mười ba năm, giúp điều đức độ, tấm lòng nhuần nhuyễn, luôn hưởng niềm vui;
Đi sứ ngàn vạn dặm, triều đình được trọng, xã tắc yên vui, thêm vững lâu dài).
(Vua Lê Hy Tông tặng)

3)

北 袞 追 思 當 正 在
南 人 罕 見 御 書 香
(北 國 贈 )

Bắc cổn truy tư đường chính tại;
Nam nhân hẫu kiến ngự thư hương.
(Bắc quốc tặng).

(Nghĩ đến áo cổn vua phương Bắc tặng tại đây;
Người nước Nam ít thấy ai thơm tho như ông).
(Người nước Thanh tặng).

Qua lời kê khai, chúng ta thấy việc tàng trữ thần tích ở xã Bằng Đắng rồi sau đó chuyển lên đền Hùng Vương là của gia đình nhà khoa bảng Tô Thế Huy. Song, do đâu mà Tô Thế Huy có nguồn thần tích ấy thì bản kê khai này không nói rõ. Chúng tôi đã xét trong các sách Đăng khoa lục lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm như Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.2140/3, tờ 37a), Thiên Nam lịch triều liệt truyện đăng khoa lục (A.485/1. tờ 64b) và Sơn Tây đăng khoa lục (VHv.1289, tờ 58b) thì thấy tuy có chỗ xuất nhập, song đều thống nhất ghi rằng: Ông là người xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc. Năm 32 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Sửu niên hiệu Chính Hoà 18 (1694) đời Lê Hy Tông. Từng đi sứ sang nhà Thanh. Làm quan trải Lễ bộ Tả thị lang, tước Cảo quận công. Khoảng niên hiệu Vĩnh Khánh (1729-1732), bị giáng chức làm Thừa chính sứ An Quảng. Sau được thăng đến Công bộ Hữu thị lang. Được về trí sĩ. Khi mất, được tặng chức Thượng thư.

Sách Đại Việt sử ký tục biên cũng ghi việc ông bị giáng chức làm Thừa chính sứ An Quảng khi đang giữ chức Tả thị lang Bộ Lễ (tháng 5-1732) và cho biết thêm: “Huy vốn giỏi về chiêm tinh. Khi ở toà kinh diên thường dâng sách âm dương cho vua(8).

Từ các nguồn tư liệu dã sử, chính sử trên đây, chúng ta có thể khẳng định Tô Thế Huy là người giỏi về chiêm tinh, lại từng làm việc trong Bộ Lễ, nơi đang lưu trữ thần tích bách thần, nên ông có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp xúc, biên chép, sưu tầm thần tích. Nói cách khác, nguồn gốc số thần tích tàng trữ ở xã Bằng Đắng là do kết quả của những năm Tô Thế Huy làm việc tại triều, đặc biệt là ở Bộ Lễ triều Lê.

Để vấn đề được sáng tỏ hơn, chúng tôi có trở về chính quê hương của Tô Thế Huy tìm hiểu thêm tư liệu. Quê ông hiện nay là thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, cách Hà Nội chừng 70 km về phía Tây Bắc. Tại đây, chúng tôi đã gặp gỡ các cụ trong dòng họ Tô, trong đó có cụ To Thị Uẩn, 84 tuổi, là người cao tuổi nhất. Hiện tại, tuy dòng họ Tô không còn lưu giữ được bất cứ một thứ tài liệu gì, nhưng các cụ đều khẳng định việc tàng trữ thần tích của dòng họ là có thực, đúng như lời kê khai của Lý trưởng làng Bình Trù. Các cụ cho biết, những năm gần đây vẫn có người các nơi đến đây tìm thần tích(9). Theo các cụ, sở dĩ đem thần tích lên gửi đền Hùng Vương (đền Thượng) để các nơi đến sao là vì hai lý do. Thứ nhất, đến đầu thế kỷ này, khoảng niên hiệu Khải Định (1916-1925) thì dòng họ đã sa sút đi nhiều nên thiếu người trông nom, quản lý thần tích. Thứ hai là để được gần gũi và nhớ đến một người tài hoa nhưng bất hạnh của dòng họ là Tô Thị Ngọc(10), em gái của Tô Thế Huy.

Ngoài ra, các cụ còn cho biết, số thần tích gửi ở đền Hùng Vương về sau do Ty Văn hoá tỉnh Phú Thọ quản lý rồi thiêu hủy đi ít lâu sau vì bị mối mọt.

Như vậy, việc tàng trữ thần tích ở xã Bằng Đắng và đền Hùng Vương như đã được ghi trong hàng loạt các văn bản là có cơ sở và đã được làm rõ. Nó chứng tỏ rằng nếu ở thời Nguyễn, khi loại văn bản này không còn lưu trữ ở bộ Lễ như ở thời Lê, thì đây có thể xem như hai “thư viện” lớn, chuyên cung cấp một loại hình văn bản thần tích cho các làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong gần cả thế kỷ qua. Tìm hiểu những khía cạnh văn bản liên quan đến mảng thư tịch thần tích không chỉ có ý nghĩa về mặt văn bản học mà còn giúp ta hiểu thêm về các mặt dân tộc học, tín ngưỡng cũng như Văn học dân gian. Đó là một trong các đặc điểm quan trọng của loại hình thần tích mà chúng ta cần chú ý khi sử dụng.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Bính: Theo Từ điển Văn học (Tập II, Nxb KHXH, H.1984), ông là người xã Sơn Đồng, huyện Đan Phượng, Hà Nội, sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16, giữ chức Hàn lâm viện đại học sĩ đông các, làm việc ở bộ Lễ. Ông là người được triều đình giao soạn thảo nhiều văn bản thần tích ở thời Lê Anh Tông (1557-1573).

(2) Nguyễn Hiền: hiện mới chỉ biết ông sống vào nửa đầu thế kỷ 17, từng làm việc ở Bộ Lễ, giữ chức Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh.

(3) Lâu nay khi dẫn số liệu Thần tích mang ký hiệu AE dùng trong bài viết và công trình khoa học, nhiều tác giả đưa ra con số không thống nhất. Thực tế sách Thần tích mang ký hiệu AE ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm là 568 cuốn. Ngoài ra còn rải rác trong các ký hiệu A; VHv và trên các thác bản văn khắc Hán Nôm.

(4) Đền Hùng Vương (đền Hùng) hiện nằm trên địa phận các xã Hy Cương, Phù Ninh, Kim Đức và Chu Hoá của huyện Phong Châu tỉnh Vĩnh Phú.

(5) Xem: “Về tấm bia đồng tại đình làng Quan Nhân huyện Từ Liêm, Hà Nội” của Phạm Văn Thắm, Tạp chí Hán Nôm số 1-1987, tr.79-81.

(6) Xã chí: là kết quả điều tra của Hội Phong tục học thuộc Học viện Viễn đông Bác cổ được tiến hành từ năm 1936 đến đầu năm 1946, theo 11 đề mục viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán và ở một số cuốn có chua thêm chữ Pháp. Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 107 cuốn mang ký hiệu AJ.

(7) Nguyên văn viết là “Vinh quang”. Chúng tôi sửa lại là “Vinh phong” cho hợp nghĩa.

(8) Đại Việt sử ký tục biên (167601789). Ngô Thế Long-Nguyễn Kim Hưng dịch và khảo chứng. Nguyễn Đổng Chi hiệu đính. Nxb KHXH. H. 1991, tr.136.

(9) Khi chúng tôi về quê Tô Thế Huy, các cụ cho biết thỉnh thoảng lại có đoàn người ở các nơi đến đây tìm thần tích cho địa phương mình. Gần đây nhất (tháng 11-1993) là một số cụ ở tỉnh Nam Hà).

(10) Về bà Tô thị Ngọc, các cụ kể rằng bà vốn là người thông minh, hiếu học. Năm 22 tuổi, đã cải trang thành nam giới đi thi Tiến sĩ nhưng bị phát giác nên không thực hiện được ước nguyện. Bà cắt tóc đi tu ở chùa Quán Sứ (Hà Nội), sau về tu ở chùa Thiên Quang trong khu đến Hùng và mất ở chùa này. Hiện ở chùa Thiên Quang vẫn còn mộ bà. Chúng tôi tạm ghi ra đây để cùng tham khảo.

TB

ẤN TRIỆN Ở PHỦ TÔN NHÂN
TRIỀU NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Phủ Tôn nhân - cơ quan quản lý hoàng tộc triều Nguyễn được đặt ra từ thời Gia Long Nguyễn Ánh. Người đứng đầu phủ Tôn nhân do nhà vua trực tiếp đặt cử. Tôn nhân lệnh là chức cao nhất với phẩm hàm trên hàng nhất phẩm; thứ là Tả Tôn chính và Hữu Tôn chính, có phẩm hàm Chánh nhất phẩm. Dưới là Tả Tôn nhân và Hữu Tôn nhân đều dùng hoàng tử và hoàng thân tước công kiêm nhiếp việc giữ sổ sách, phân hàng chiêu mục, phân chia tước lộc cho đều trong hoàng tộc. Dưới nữa là các chức Tả, Hữu Tôn khanh; Tả, Hữu Tá lý; Tư giáo (Tộc trưởng), mỗi chức một người của Ty thừa biện. Tất cả các chức trên nhà vua đều lấy những người có năng lực và đức độ trong hoàng tộc cho đảm nhiệm chức vụ.

Chủ trương “Thân thân” của các vua Nguyễn thể hiện rõ sự ưu đãi đặc biệt trong hoàng tộc. Hoàng tử, Hoàng thân và người trong hoàng tộc đều hưởng chế độ đãi ngộ riêng biệt. Từ việc đặt tên, phong cấp, phong tước, ban lộc nhất nhất đều được Hoàng đế quan tâm và phủ Tôn nhân thực hiện. Hầu hết người trong hoàng tộc đều nắm những trọng trách chủ yếu ở Lục Bộ, Lục Tự, Chủ Nha, ở chính quyền cấp tỉnh và ở hệ thống kế cận nhà vua.

Ấn triện ở phủ Tôn nhân triều Nguyễn có những nét đặc thù riêng không giống các cơ quan khác. Phủ Tôn nhân được ban cấp một bộ ấn kiềm dùng cho cả hoàng tộc. Khi làm tờ khải, biểu lên hoàng đế, hoặc công việc với các cơ quan ngang hàng, hoặc công văn truyền xuống cấp dưới, tức là tất cả các việc công ngay cả những việc trong hoàng tộc, Phủ Tôn nhân đều sử dụng bộ ấn kiềm “Tôn nhân phủ ấn”. Điểm đặc biệt là các hoàng tử, hoàng thân, chư công trong phủ Tôn nhân khi được phong tước, tập tước mỗi người đều được ban ấn riêng cùng cặp với sách phong. Hoặc cá biệt có hoàng tử, hoàng thân được ban ấn riêng ngoài lệ chung. Những ấn tín này đại diện cho mỗi phủ đệ riêng của hoàng tử, hoàng thân, chư công trong văn bản giấy tờ ở tất cả các công việc riêng và chung.

Ngay từ thời Gia Long phủ Tôn nhân đã được ban cấp bộ ấn kiềm “Tôn nhân phủ ấn”. Các đời vua Nguyễn sau đó còn làm tiếp những ấn gần như ấn cũ để lưu giữ, hoặc ban thêm cho Phủ Tôn nhân ấn mới loại nhỏ để dùng vào công việc khác. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi: “Năm [Minh Mệnh] thứ 17 (1836) dụ chuẩn: lấy giờ tốt đúc chế một quả ấn bằng bạc cho Tôn nhân phủ 2 tầng, núm chạm con kỳ lân, vuông 2 tấc 1 phân, dày 3 phân 6 ly. Một dấu kiềm cũng bằng bạc… khi đúc xong vẫn giao cho Nội các cất giữ, đợi sau ban cấp sử dụng(1). Hay đời Thiệu Trị năm đầu vua cùng sai nha Hữu Tư theo kiểu mẫu làm cho phủ Tôn nhân một ấn và kiềm nhỏ bằng ngà để khi đi theo hộ giá hiền hạnh vài ba ngày trở lên, viên quan của phủ Tôn nhân mang theo để dùng, khi về lại phong khóa cất một nơi(2).

Trên các văn bản chữ Hán trong châu bản triều Nguyễn chúng tôi thấy xuất hiện rất nhiều hình dấu ấn lớn “Tôn nhân phủ ấn” và kiềm nhỏ “Tôn nhân”. So sánh các hình dấu “Tôn nhân phủ ấn” và “Tôn nhân” trong các tập sách khác nhau, qua nhiều đời vua thời Nguyễn khác nhau, chúng tôi thấy những con dấu này có sự thay đổi. Không phải thay đổi về ngoại hình, hoa văn… mà điều đặc biệt ở đây là sự thay đổi hoàn toàn chữ “Tôn” trong dấu: Hai chữ “Tôn” khác nhau: Đồng âm nhưng khác tự dạng. Trong Châu bản triều Nguyễn, tính từ đời Gia Long đến trước đời Đồng Khánh, dấu của phủ Tôn nhân có hình vuông. Mạt dấu có kích thước 9x9cm. Viền vòng ngoài để cỡ 0,7cm. Bốn chữ Triện bên trong xếp theo khuôn hình vuông cỡ 3x3cm. Đó là 4 chữ “Tôn nhân phủ ấn” 宗 人 府 印 .

Hình dấu kiềm của phủ Tôn nhân cùng đi liền với dấu lớn trên. Dấu kiềm hình vuông. Kích thước 2x2cm. Bên trong khắc hai chữ Triện khuôn theo hình chữ nhật để cân đối với bố cục dấu hình vuông. Đó là 2 chữ “Tôn nhân” 宗 人 (3).

Ở quyển Lễ bộ đời Đồng Khánh trong Châu bản lại thấy xuất hiện dấu “Tôn nhân phủ ấn” với kích thước nhỏ hơn dấu “Tôn nhân phủ ấn” nêu trên. Ở con dấu này bố cục chữ không thay đổi, nhưng chữ “Tôn” 宗 đã được thay thế bằng chữ “Tôn” 尊 Nét chữ uốn lượn cũng không thay đổi mấy. Bốn chữ trong dấu đời Đồng Khánh là “Tôn nhân phủ ấn” 尊 人 府 印 (Ảnh 3).

Ở dấu kiềm cũng có thay đổi. Kiềm dấu đời Đồng Khánh có kích thước nhỏ hơn kiềm dấu đời trước. Và điều khác biệt là chữ “Tôn” 宗 trong dấu cũng được thay thế bằng chữ “Tôn” 尊. Hai chữ trong dấu Kiềm đời Đồng Khánh là “Tôn nhân” 尊 人 (4). (Ảnh 4).

Như vậy ta thấy ý nghĩa 2 chữ “Tôn” khác hẳn nhau:

Chữ “Tôn” 宗 nghĩa là tông tộc; còn chữ “Tôn” 尊 nghĩa là tôn kính. Sự khác nhau rõ rệt của hai hình dấu này, phải chăng là sự khác biệt về quan điểm, lập trường chính trị của vua Đồng Khánh và những ông vua Nguyễn trước đó, trước biến cố của xã hội Việt Nam đương thời, khi người Pháp đã thôn tính gần xong nước Đại Nam của các vua Nguyễn. Giở lại những trang sử của năm 1885, ta thấy có các sự kiện như Kinh đô Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết - một đại thần đồng thời cũng là một người của phủ Tôn nhân đã phò vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành để xây dựng một chiến thuyền đối mặt với Pháp và Đồng Khánh sau đó.

Khi ra đi, vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có mang theo một sô ấn triện quý như “Ngự tiền chi bảo” v.v Do vậy dưới sức ép của người Pháp, khi tổ chức lại chính quyền, thay đổi ít nhiều thang quan chế, Đồng Khánh có làm lại và thay đổi một số ấn triện. Cho nên không chỉ một ấn “Tôn nhân phủ ấn” có thay đổi mà một số ấn triện khác cũng có thay đổi theo.

Lật giở những trang chữ Hán đời Thành Thái trong Châu bản triều Nguyễn, chúng tôi lại thấy xuất hiện một loạt dấu lớn “Tôn nhân phủ ấn” và kiềm nhỏ “Tôn nhân”. Những dấu này có kích thước 7,2x7,2cm, còn tự dạng thì tất cả giống y như dấu “Tôn nhân phủ ấn” và kiềm dấu “Tôn nhân” ở các đời vua trước đời Đồng Khánh. Như vậy vua Thành Thái đã dùng lại chữ Tôn 宗 của tiên đế mình và bỏ chữ Tôn 尊 của đời Đồng Khánh trong dấu “Tôn nhân phủ ấn” và kiềm dấu “Tôn nhân”(5). Như ta biết Ấn triện có gắn bó mật thiết với tổ chức hành chính quan chế triều Nguyễn. Do vậy suy ngược lại vấn đề thì việc tổ chức hành chính, quan chế đời Thành Thái cũng có ít nhiều thay đổi? ở đây chúng tôi chỉ xin cung cấp một số cứ liệu và những nhận định chung như vậy, còn việc đánh giá, khẳng định… xin dành cho các nhà viết sử.

*
**

Ngay từ thời Gia Long đã có lệ dùng sách ấn vàng tấn phong Hoàng Thái tử. Sách ấn bằng bạc mạ vàng phong tước cho các Hoàng tử, Hoàng tôn, Hoàng thân tước công trở lên. Lễ sách lập Hoàng Thái tử diễn ra với nghi lễ hết sức long trọng trong mấy ngày đêm liền. Hoàng Thái tử cùng đại thần văn võ, Hoàng tử, Hoàng thân phủ Tôn nhân quỳ lạy nghe chiếu, rồi Hoàng Thái tử làm lễ nhận sách vàng ấn vàng và ngồi vào vị trí của người kế vị sau này. Sử cũ ghi lại: “Gia Long năm thứ 15 [1816] có chỉ: “Chuẩn cho làm sách tấn phong Hoàng Thái tử thì dùng vàng 5 tờ… ấn làm bằng vàng, núm ấn đúc hình con rồng ngồi, vuông 2 tấc 4 phân, dầy 3 phân 2 ly(6).

Ngoài lễ tấn phong sách vàng ấn vàng cho Hoàng Thái tử theo lệ chung, còn có trường hợp Hoàng Thái tử được ban ấn tín riêng. Đó là việc cuối đời Gia Long không thực hiện việc truyền ngôi kế thừa theo dòng trưởng. Nhẽ ra Gia Long phải truyền ngôi cho con trai Hoàng tử Cảnh là Hoàng Tôn Đán, nhưng với một nhãn quan chính trị đúng đắn, ông đã đặt giang sơn vào tay Nguyễn Phúc Đảm là người con thứ (tức vua Minh Mệnh sau này), bất chấp sự bất đồng của một số đại thần. Việc vua Gia Long ban thêm ấn “Hoàng Thái tử thủ tín” cho Hoàng Thái tử Phúc Đảm cũng nằm trong định hướng này. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi: [Gia Long] năm thứ 19 [1820] có chỉ: “Chuẩn cho đúc ấn thủ tín nhỏ và vuông bằng bạc cho Hoàng Thái tử (vuông 6 phân 7 ly, dầy 3 phân) núm đúc con rồng ngồi trong khắc 5 chữ Triện: Hoàng Thái tử thủ tín”(7). Như vậy trước khi lên ngôi, Minh Mạng đã được dùng ấn riêng có giá trị rất cao về mặt pháp lệnh, hơn hẳn những ấn được phong cùng với sách vàng.

Trên những văn bản chữ Hán - kho Châu bản triều Nguyễn còn in lại nhiều dấu “Hoàng Thái tử thủ tín”. Dấu hình vuông có kích thước 3,2x3,2cm. Bên trong khắc 5 chữ Triện “Hoàng Thái tử thủ tín” 皇 太 子 守 信 theo bố cục: Chữ “Tử” … dài gấp đôi các chữ khác để cân đối các chữ khác để cân đối với bố cục chữ hình vuông xem xét những văn bản có đóng dấu “Hoàng Thái tử tủ thủ tin” thì đều là những văn bản quan trọng, điều này chứng tỏ cho luận cứ chúng tôi nêu ở trên(8).

Lễ sách phong sách ấn cho Hoàng tử, hoàng tôn cũng diễn ra nghi thức gần bằng lễ tấn phong Hoàng Thái tử. Sách sử đã ghi: “… Hoàng tử, Hoàng tôn được phong tước công… ban ấn bằng vàng mạ, núm ấn đúc hình rồng, vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dầy 2 phân 7 ly. Hoàng tử, Hoàng tôn được 10 sách mạ vàng mười 10 ấn mạ vàng mười… núm ấn hình rồng của mỗi chiếc ấn vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dầy 2 phân 4 ly(9).

Đối với những hoàng tử, hoàng tôn tuổi còn nhỏ quá thì sách vàng vẫn ban phong, duy có ấn thì chưa trao cho vội, sợ rẳng trẻ nhỏ chưa phân biệt rõ mọi việc, dùng ấn tín có sự lầm lỡ. Đợi đến khi nào hoàng tử, hoàng tôn đó lớn thì Phủ Tôn nhân mới theo lệnh vua cấp cho để dùng.

Đối với Hoàng thân công, việc phong sách ấn cũng được Tôn nhân phủ thực hiện theo đúng quy chế. Nghi thức lễ phong cũng giống như lễ phong sách ấn cho hoàng tử. Ngay từ năm Gia Long 16 (1817) đã quy định lễ sách phong cho hoàng thân công đều làm sách ấn nền bạc mạ vàng. Nhưng trên thực tế các hoàng thân có lúc được ban ấn bằng gỗ thơm chứ không phải là vàng mạ cả. Như trường hợp Thiệu Hóa quận vương năm Minh Mạng thứ 5 (1824) được ban sách bạc mạ vàng, 1 ấn bằng gỗ thơm, núm ấn hình rồng vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dầy 2 phân 7 ly. Con trai của Thiệu Hóa quận công lại được ban ấn bạc. Sách chép rằng: “Năm [Minh Mạng] 16 có nghị: chuẩn cho Thiệu Hóa quận vương đã quá cố được tập phong làm Thiệu Hóa quận công… 1 quả ấn bạc núm hình kỳ lân, vuông 2 tấc 7 ly, dầy 2 phân 7 ly(10).

Các hoàng thân sau khi được phong sách ấn, nếu làm tờ khải lên hoàng đế thì xưng là thần và ấn dấu được phong quy định phải đóng ở dưới chữ niên hiệu. Nếu có công văn truyền xuống dưới, dùng chữ “giáo” ở trên chữ “truyền sai”. Còn ấn dấu chỉ được đóng ở dưới chữ hoàng hiệu thôi.

Ấn Triện của các Hoàng tử, Hoàng thân công tuy ở mỗi phủ đệ riêng biệt, nhưng vẫn phải tuân thủ theo quy chế của phủ Tôn nhân cũng như của hoàng đế ban hành: về việc cất giữ, niêm phong hòm ấn, chìa khóa hòm ấn phải chính người được phong cất giữ. Mọi công việc ở phủ nào thì phải đóng dấu hoàng tử, vương công phủ ấy. Những quan hệ giữa các phủ Hoàng tử, Hoàng thân đối với Chử Nha, Lục Bộ v.v. trong vấn đề văn bản giấy tờ đóng dấu cũng phải thực hiện đúng như quy định.

Năm 1990 trong đợt công tác ở các tỉnh phía Nam, chúng tôi đã in chụp được một số ấn Triện tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Trong số ấn Triện đó có một quả ấn bằng đồng lớn của một vương công thuộc hoàng tộc triều Nguyễn. Xin được giới thiệu quả ấn đồng đó ở phần cuối bài viết này.

Ấn có ký hiệu BTLS-1262. Chất liệu bằng đồng. Về hình thể quả ấn đúc hình con kỳ lân ở thế đứng hơi khụy chân sau. Đầu và thân lân tròn có chạm hình xoáy, dáng nét đơn giản hơn nhiều so với Bảo Tỷ hình rồng triều Nguyễn. Trên thành bệ con lân phía bên trái khắc 5 chữ Hán “Trọng tam cân ngũ lượng”. Phía bên phải khắc 6 chữ Hán “Hoài Đức quận vương chi ấn”. Mặt ấn không thấy khắc dòng niên đại(11). Mặt dấu của ấn hình vuông có kích thước 7,8x7,8cm. Viền ngoài dấu đẻ nét đầm cỡ 1,3cm. Bên trong khắc 6 chữ Triện xếp theo 3 hàng, mỗi hàng 2 chữ. Đó là 6 chữ “Hoài Đức quận vương chi ấn” 懷 德 郡 王 之 印 . Đây là ấn dấu của “Hoài Đức quận vương”.

Việc xác định niên đại quả ấn không được chính xác vì mặt trên ấn chỉ ghi trọng lượng nặng 3 cân 5 lạng, mà không ghi năm chế tạo ấn. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nghiên cứu xác định một cách tương đối về chủ sở hữu của quả ấn này.

Từ thời Gia Long đã có việc phong tước lấy thực ấp để đặt tên, như Thân vương thì lấy tên tỉnh đặt; quận vương, thân công, quận công thì lấy tên phủ đặt; Huyện công, huyện hầu thì lấy tên huyện đặt; Hương công, hương hầu, đình hầu thì lấy tên xã đặt. Hoài Đức quận vương là vị quận vương thời Nguyễn được phong tước lấy đất thái ấp, phủ Hoài Đức đặt tên(12).

Vì chưa có điều kiện tra cứu phả hệ các vua Nguyễn, xem trên sách sử ghi lại, chúng tôi chỉ thấy tên Hoài Đức quận công. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép rằng: “Thiệu Trị năm thứ 6 dụ: Sai triệu các hoàng tử, hoàng đệ chưa được phong tước… Hoàng đệ Miên Lâm cho tấn phong làm Hoài Đức quận công, chuẩn cho bộ Lễ tra lệ thi hành(13).

Theo lệ tập phong ở phủ Tôn nhân thời Nguyễn: Những người tập phong thì cha ông họ phải có công lớn với nước và con cháu đời đời tập phong. Mà người con tập tước của cha phải thấp hơn một cấp so với tước nguyên phong của người cha.

Như vậy Hoài Đức quận công Miên Lâm là con của Hoài Đức quận vương. Hoài Đức quận vương là thúc bá ruột của vua Thiệu Trị, là anh em ruột của vua Minh Mạng và tức là con của vua Gia Long.

Thời điểm Hoài Đức quận vương được phong tước và ban ấn chỉ ước tính từ cuối đời Gia Long đến hết đời vua Minh Mạng. Cho nên việc xác định niên đại của quả ấn chúng tôi cũng chỉ ước tính khoảng thời gian từ 1810 đến 1840.

Hoài Đức quận công Miên Lâm là người có năng lực, được các vua Nguyễn tin dùng, đặt vào vị trí cao trong phủ Tôn nhân. Đến đời Đồng Khánh, Hoài Đức công Miên Lâm giữ chức Tôn nhân phủ Hữu Tôn chính kiêm giữ chức lưu kinh thân thần, là một trong các đại thần có thế lực và là người thân tín của Hoàng đế lúc bấy giờ.

Vì điều kiện không cho phép, chúng tôi chỉ giới thiệu ấn Triện ở phủ Tôn nhân một cách sơ lược như vậy; về chi tiết xin được trình bày trong một dịp khác.

CHÚ THÍCH

(1) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 6, Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tr.298 và 308.

(2) Cứ liệu này ghi trong “Đại Nam thực lục chính biên” , Đệ tam kỳ. Thiệu Trị năm thứ nhất, tr.403.

(3) Hai dấu này đóng trong quyển 5. Thiệu Trị nguyên niên - chư bộ vệ. Châu bản triều Nguyễn. Cục Lưu trữ quốc gia Hà Nội.

(4) Hai dấu này đóng trong quyển 1. Đồng Khánh nguyên niên - Lễ bộ. Châu bản triều Nguyễn. Tài liệu đã dẫn.

(5) Hai dấu này đóng ở quyển 13. Thành Thái nhị niên, Lễ bộ. Châu bản triều Nguyễn. Tài liệu đã dẫn.

(6) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 1 tr.127, Sđd.

(7) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Tập 1, tr.127, Sđd.

(8) Dấu “Hoàng Thái tử thủ tín” đóng trong quyển II, đời Gia Long 4. Châu bản triều Nguyễn. Tài liệu đã dẫn.

(9) Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ Tập 1, tr.127 - 129. Sđd.

(10) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Tập 1, tr.127, Sđd.

(11) Ảnh hình quả ấn do bà Trịnh Thị Hòa cán bộ Viện Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh cung cấp.

(12) Phủ Hoài Đức thời Gia Long thuộc Bắc Thành (tổng trấn trực tiếp quản lý). Nay thuộc tỉnh Hà Tây.

(13) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Tập 1, tr.127, Sđd./.

TB

THƯ PHÁP CỦA HOÀNG HY ĐỖ

KIM ANH

Thư pháp, thư hoạ là sản phẩm của nền văn hoá dùng chữ viết tượng hình. Có thể thấy, ở tất cả các nước dùng loại chữ tượng hình, chữ khối vuông đều có môn học về thư pháp và nghệ thuật thư pháp. Chữ viết tượng hình ngay từ khởi thủy đã được chú trọng về mặt thư pháp và thư pháp được coi như một nghệ thuật. Càng về sau nghệ thuật này càng phát triển và trở thành một bộ môn nghệ thuật sang trọng, quý phái. Đặc biệt ở Trung Quốc và Nhật Bản, như có người nói, nghệ thuật này đã được nâng lên đến mức siêu tuyệt “không phải dòng mực mà là hơi thở từ trái tim người nghệ sĩ đang theo cán bút thoát ra đầu ngọn bút mà hiện thành chữ trên giấy”. Rất nhiều bút pháp của các nghệ sĩ cổ đại cũng như hiện đại được giới quan tâm đến nghệ thuật này thán phục.

Riêng ở Việt Nam, bộ môn này ít được chú trọng hơn so với các nước đồng văn khác và những người “chơi” nghệ thuật này cũng rất hiếm hoi. Phạm Đình Hổ, một học giả thế kỷ XVII-XVIII khi khảo cứu về nghệ thuật này đã phải than thở: “Từ đời Tần đời Hán trở xuống, lấy chữ tốt nổi tiếng ở đời thì đời nào cũng có. Như Thái Ung, Chung Do đời nhà Hán; Vệ phu nhân và cha con Vương Hy Chi đời nhà Tấn. Lề thói di truyền, kẻ trước người sau, nổi tiếng chữ tốt cũng nhiều. Vua Đường Văn hoàng là bậc thiên tử có muôn cỗ xe mà còn ưa lối chữ phi bạch. Vua Lương Vũ Đế và Vương Dật Thiếu cũng nổi tiếng chữ tốt. Các vị công khanh có tiếng đời nhà Đường như Ngụy Trưng, Trữ Lượng, Ngu Thế Nam, Trử Toại Lương cho đến các họ Nhan, Liễu, hàn, Bạch, đều là danh gia có tiếng chữ tốt cả. Đời nhà Tống hơn 300 năm, các bậc trên nho cũng nhiều, như là thầy Chu, thầy Trình, họ Trương, họ Chu, họ Ngụy cùng với họ Tô, họ Hoàng, họ Tống, đến nay vẫn hãy còn truyền bút tích lại, xem ra cực tốt… Nước ta có tiếng là văn hiến không khác gì nước Trung Hoa, thế mà về một việc viết chữ lại cho là việc của kẻ thơ lại, không ai thèm lưu ý đến, không biết tại sao?(1).

Tuy nhiên, hiếm không có nghĩa là không có. Cũng chính Phạm Đình Hổ đã cho chúng ta biết đến bút pháp “hùng tú tự nhiên” của vua nhà Lý và các lối chữ đáng được lưu ý trên các tấm bia bức hoành ở các đời khác nhau(2). Ngoài ra, chúng ta còn được nghe truyền nhắc về bút pháp nổi tiếng của Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, cùng nhiều ông vua triều Nguyễn, Kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ nhiều văn bản Hán cổ chép tay với bút pháp đáng được nghiên cứu.

Cũng trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã giới thiệu tương đối kỹ một nhà thư pháp đời Lê mạt: Hoàng Hy Đỗ.

Hoàng Hy Đỗ là một người trong nhóm bạn tâm giao của Phạm Đình Hổ ở Kinh thành Thăng Long vào cuối thế kỷ XVIII. Ông nguyên là người Quảng Đông, phố Tấn Hội. Đến đời cha mới sang ngụ ở Hoa Dương, trấn Sơn Nam, rồi trở thành người Việt Nam. Phạm Đình Hổ viết về ông như sau: “Ông thông minh dĩnh ngộ, các sách tiểu thuyết dã sử đều xem qua hết. Ông lại thích về nghề thơ từ ngâm vịnh. Phàm thơ của các danh gia từ đời Hán, Ngụy, Đường, Tống, Minh ông đều xem qua và đọc thuộc cả. Ông thường có câu thơ vịnh ngọc lan: “Sắc đẹp lượt là thường mộng thấy; Hương thơm bát ngát đáng xưng vương”. Lại có câu: “Trân trọng chớ hiềm tri kỷ ít; Tào đàn từng đã dự bình chương”. Hay có câu tả lúc ở đất khách nghe chim nhạn: “Nếu bay qua tới hương quan đó, Nhủ báo thư về cúc nở hoa”. Xem những câu thơ ấy tự khắc biết người vậy. Ông lúc nhỏ viết lối hành thảo rất tốt, bắt chước được lối chữ của Mễ Nam Cung, Đổng Kỳ Xương, hễ cầm bút lên thì rụt rè như thế không viết được, nhưng lúc đã đặt bút xuống giấy thì nét chữ tươi tắn, có cái ý nhị của hoa đào đọng giọt mưa bụi, lá dương phủ làm khói nhẹ”(3).

Phạm Đình Hổ có nhờ Hoàng Hy Đỗ chép cho mình một tập thơ gồm hơn 100 bài, điều này đã được Nguyễn Ánh(4), người viết tựa cho tập thơ xác nhận: “Hữu nhân Hoàng Hy Đỗ vị chi thư” (Người bạn là Hoàng Hy Đỗ chép lại cho). “Tập tất tương hữu truyền yên Hy Đỗ chi thư diệc đắc nhân nhi truyền yên” (tập thơ tất sẽ được truyền tụng (…). Chữ viết của Hy Đỗ nhân đó cũng được lưu truyền(5). Như vậy qua miêu tả của Phạm Đình Hổ và qua sự xác nhận gián tiếp của Nguyễn Ánh, những người cùng thời với Hoàng Hy Đỗ, chúng ta có thể khẳng định Hoàng Hy Đỗ là một nhà thư pháp đời Lê mạt Nguyễn sơ và tập thơ của Phạm Đình Hổ hiện còn với tiêu đề Đông Dã học ngôn thi tập A.1871 là do chính tay Hoàng Hy Đỗ chép lại. Tập thơ gồm hơn 100 bài này, từ trang đầu đến trang cuối được viết bằng lối chữ nửa chân nửa thảo tuyệt đẹp. Dưới đây xin giới thiệu vài trang để chúng ta có một ý niệm chung về thư pháp Hoàng Hy Đỗ.

CHÚ THÍCH

(1) (Phạm Đình Hổ: Vũ trung tuỳ bút, Nxb. Trẻ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr.30-31.

(2) Vũ trung tuỳ bút, Sđd.

(3) Vũ trung tuỳ bút Sđd.

(4) Nguyễn Ánh (1770-1815): bạn thân của Phạm Đình Hổ. Ông người làng Du Lâm, huyện Đông Ngạn, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Làm quan dưới triều Nguyễn, cùng viết chung với Phạm Đình Hổ tác phẩm Tang thương ngẫu lục.

(5) Đông Dã học ngôn tập tự. Xem Đông Dã học ngôn thi tập, kí hiệu A.1871. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

TB

ĐỊA DANH "BÃI CÁT VÀNG" TRONG
SỬ SÁCH

PHẠM HÂN

Ngày nay nói đến hai chữ Hoàng Sa thì ai cũng hiểu đó là một trong hai quần đảo ở Biển Đông và là lãnh thổ Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay. Nhưng nói đến địa danh Bãi Cát Vàng hẳn không khỏi có người còn bỡ ngỡ.

Thật vậy, địa danh Bãi Cát Vàng người Việt Nam xưa dùng để chỉ quần đảo san hô ở Biển Đông từ lâu đã dần biến mất sau khi địa danh âm Hán Việt Hoàng Sa (Cát vàng) được dùng thay tên Nôm Bãi Cát Vàng vào đầu triều Nguyễn.

Ngày nay, người ta chỉ tìm thấy địa danh Bãi Cát Vàng được người Việt Nam xưa dùng để chỉ quần đảo san hô ở Biển Đông là xuất phát từ đặc trưng về cấu tạo (mảnh vụn san hô) và màu sắc (màu vàng nhạt) của các đảo san hô mà họ quan sát được trong quá trình khai thác quần đảo này.

Địa danh Bãi Cát Vàng lần đầu tiên xuất hiện trên tập bản đồ thể hiện hệ thống đường sá Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, do Đỗ Bá Công Đạo soạn vẽ năm Chính Hoà thứ 7 (1686)(1).

Tập bản đồ này được biên tập trong bộ sưu tập bản đồ mang tên Thiên hạ bản đồ, khuyết danh, A.2628, có niên đại sau đời Vĩnh Thịnh (1705-1719).

Ở quyển 1 thể hiện đường giao thông từ kinh thành Thăng Long đến nước Chiêm Thành (lúc này, nước Chiêm Thành đã ở vào phía tây sông Phan Rang).

Phía trên bản đồ, tác giả ghi chú: “Bãi Cát Vàng dài chừng 400 dặi(2 )rộng 20 dặm, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Quyết Mông(3). Gió tây nam, thuyền đi ở bên trong trôi dạt ở đó, gió đông bắc thuyền đi (bên ngoài) trôi dạt ở đó, người đều chết đói, của cải đồ vật để lại nơi đó. Hàng năm, mùa đông, (Chúa Nguyễn) cho 18 chiếc thuyền đến lấy vàng bạc. Từ cửa Đại Chiêm đến đó một ngày rưỡi. Nơi đó sinh sản đồi mồi”.

Tập bản đồ do Đỗ Bá Công Đạo thực hiện trên đay về sau biên tập trong các bộ sưu tập về bản đồ như Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư của Dương Nhữ Ngọc năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770), An Nam hình thắng đồ (khuyết danh) có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII. Hồng Đức Bản đồ (khuyết danh) có niên đại sau năm Tự Đức thứ 9 (1856). Trên các bộ sưu tập này, lời chú giải của tác giả được chép lại tương tự.

Địa danh Bãi Cát Vàng xuất hiện lần thứ 2 trên Giáp Ngọ Bình Nam đồ, một bản đồ tình báo do Đoan quận công Bùi Thế Đạt vẽ dâng chúa Trịnh năm Giáp Ngọ (1774) khi ông giữ chức Đốc trấn Nghệ An, phục vụ cho cuộc Nam tiến của Chúa Trịnh năm đó.

Trên bản đồ, Bãi Cát Vàng được vẽ tượng trưng bằng hình bầu dục nằm giữa Cù Lao Chàm và Cù Lao Ré (được vẽ dưới dạng những quả núi) bên ngoài bờ biển huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi).

Từ ngữ “Bãi Cát Vàng” xuất hiện lần thứ 3 trong Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1776). Ở đây từ ngữ này đã được sử dụng để chỉ đảo san hô trong các quần đảo san hô, trong câu: “Trong đảo có bãi cát vang, dài chừng hơn 30 dặm bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy”.

Sang thời Nguyễn, địa danh chữ Nôm Bãi Cát Vàng được thay bằng hai từ chữ Hán là Hoàng Sa (cát vàng).

Ngày nay, Bãi Cát Vàng tuy chỉ còn là một địa danh trong lịch sử, nhưng nó có giá trị trong việc chứng minh chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo ở Biển Đông, từ thế kỷ XVII đã được nhà nước phong kiến Việt Nam khai thác và đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Xem bài “Tìm hiểu niên đại của toản tập thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Phạm Hân, Tạp chí Hán Nôm số 1 (18) 1994.

(2) 1 dặm = 1/2 km.

(3) Trên bản đồ là “cửa Sa Mông”, trên các dị bản về sau là “Cửa Sa Vinh”, này là cửa Sa Huỳnh.

(4) Trên bản đồ không có địa danh nay. Trên các dị bản về sau là “Cửa Sa Kỳ”, này vẫn mang tên này, nằm giữa xã An Hải (bắc), và An Vĩnh (nam) ở Mũi Ba Làng An.

TB

TỪ CÁCH DỊCH ĐẾN CÁCH HIỂU NỘI DUNG BÀI THƠ NGÔN HOÀI CỦA THIỀN SƯ KHÔNG LỘ

TRẦN NGỌC CHUỲ

Văn thơ viết bằng chữ Hán vốn là một phần tinh hoa trong văn học nước ta. Nhiều tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy ở trường Phổ thông cơ sở và Phổ thông trung học. Song đó chủ yếu chỉ là các bản dịch, phần phiên âm nguyên tác, chỉ để tham khảo. Trong số các bản dịch thơ cũng có bản đạt đến trình độ cao, lột tả được nội dung, tinh thần nguyên tác. Nhưng đa số các bản dịch, do khuôn khổ chật hẹp về số câu số chữ, về niêm luật khắt khe v.v. đã làm hạn chế đến việc thể hiện tinh thần của nguyên tác. Bởi vậy đã dẫn đến tình trạng có những đánh giá khác nhau về cùng một tác phẩm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc truyền thụ tri thức văn học cho học sinh.

Trong bài viết này, tôi xin đề cập đến một trường hợp cụ thể là bài thơ Ngôn hoài của Thiền sư Không Lộ (được chọn giảng ở chương trình văn học lớp 10 phổ thông trung học).

Trước hết xin đề cập đến các bản dịch bài thơ hiện đang lưu hành, có đôi chỗ phải đính chính.

Bản dịch nghĩa và dịch thơ in trong sách giáo khoa Văn 10 (Nxb. Giáo dục-Hà Nội 1991), nguyên văn như sau:

Ngôn hoài
(Tỏ lòng)

Phiên âm:

Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Dịch nghĩa:

Chọn được mạch đất long xà (rồng rắn) là nơi ở được,
Tình quê suốt ngày vui không chán.
Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ trọi,
Kêu dài một tiếng lạnh cả bầu trời.

Dịch thơ:

Kiểu đất long xà chọn được nơi,
Tình quê nào chán suốt ngày vui.
Có khi đỉnh núi trèo lêu thẳng,
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.
Phan Võ dịch

(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập II. Nxb. Văn hoá, 1962). Bản in trong Thơ văn Lý Trần tập 1, (Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977) phần dịch nghĩa cũng tương tự như vậy, chỉ khác vài ba chữ như: Câu dịch đầu là: “Chọn được kiểu đất long xà rất hợp, có thể ở được”. Câu 3: thay “trơ trọi” thành “trơ vơ”. Còn trong phần dịch thơ (dịch giả Kiều Thu Hoạch) chỉ có hai câu 2 và 3 dịch khác như sau:

Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi…

Hai câu còn lại (1 và 4) giữ nguyên như bản dịch của cụ Phan Võ (nêu ở phần trên).

Cả hai bản dịch thơ đều có chung một ưu điểm là giữ được thể thơ tương xứng và giữ đúng “niêm luật” thơ Đường. Tuy nhiên cả hai bản dịch nghĩa và dịch thơ, ở hai tập sách đã dẫn đều có nhiều chỗ cần phải bàn lại như sau:

1) Đầu đề “Ngôn hoài” dịch là “Tỏ lòng” hoặc “Tỏ nỗi cảm hoài” (Thơ văn Lý Trần) là chưa đúng. Ngôn có nghĩa là: nói, nói ra, bày tỏ; hoài: lòng, nỗi lòng, nói ra nỗi lòng, mới đúng vì chủ thể của hai động từ “tỏ” và “bày tỏ” hoàn toàn khác nhau.

2) Cả hai bản dịch thơ đều bỏ từ sau không dịch: Khả cư (đáng ở), cô phong (chóp núi đơn lẻ).

Dịch sai hoặc chưa chính xác một số từ, mà lại là những từ quan trọng (nhãn tự), đó là các từ dưới đây:

- Dã tình: Không thể dịch là “tình quê”. Trong 6 nghĩa của từ “dã” trong từ điển, không có nghĩa nào là “quê” (kể cả nghĩa quê mùa, quê kệnh). Ở đây nghĩa là “không bị câu thúc, ràng buộc” (nghĩa thứ 6), theo Từ Hải).

Vậy “dã tình” nghĩa là tình cảm tự nhiên không bị câu thúc.

- Vô dư: Vô: không; dư: thừa. Ở đây có nghĩa không lúc nào thừa thời gian. Dịch là “lai láng chẳng hề vơi”, hoặc “nào chán” đều quá xa với nghĩa nguyên tác.

- Trực thướng: (phiên âm “trực thượng”, là không chính xác). Nghĩa là: lên thẳng, “trực” còn hàm ý đi một lèo. Không băn khoăn lưỡng lự, hoặc rẽ ngang rẽ tắt, không chỉ đơn thuần chỉ chiều hướng của động tác. Vì vậy dịch là “xông thẳng” (Thơ văn Lý Trần) hoặc “trèo lên thẳng”, trái với hàm ý nhẹ nhàng, thanh thoát trong nguyên tác, quá nghiêng về động tác cụ thể, mất ý nghĩa ước lệ mà nguyên tác muốn nói tới.

- Trường khiếu: Không thể dịch là “kêu dài”. Trong các từ điển hán ngữ “khiếu” có 4 nghĩa, thì có hai nghĩa có thể vận dụng vào trường hợp từ “trường khiếu” ở bài này. Một là “huýt sáo”, “huýt gió” (súc khẩu nhi xuất thanh) dùng cho người, ví dụ: Đăng cao trường khiếu (lên cao huýt sáo dài…). Kinh Thi có câu: “Kỳ khiếu nhị ca” = “Huýt sáo theo điệu hát”. Sở từ cũng có câu: “Lâm thâm uyên nhi trường khiếu = Đứng trước vực nước sâu mà huýt sáo”. Thơ Trúc Lý quán của Vương Duy cũng có câu: Đàn cầm phục trường khiếu của = Dạo đàn lại huýt sáo. Đủ thấy con người chỉ “trường khiếu” (huýt sáo chứ không phải là “kêu dài”, khi tâm hồn lâng lâng thanh thoát…

Còn nghĩa thứ hai của “khiếu” là: kêu, gào, gầm… dùng với vật. Ví dụ: hổ khiếu (hổ gầm), làng khiếu (sói gào), viên khiếu (vượn kêu)… Thơ Đăng cao của Đỗ Phủ có câu: “Phong cấp thiên cao viên khiếu ai = Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu buồn thảm”. Thơ Lý Bạch bài Kinh Hạ Bì Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng cũng có câu “Tử Phòng vị hổ khiếu, Phá sản bất vi gia = Chàng Tử Phòng khi “hổ chưa gầm”, tiêu hết của cải không cần nhà cửa”. Phạm Trọng Yêm, trong Nhạc Dương lâu ký cũng có câu: Bạc mộ minh minh, hổ khiếu viên đề = Chiều hôm u ám, hổ rống vượn kêu”.

- Thái hư: dịch là “trời” chưa đủ. “Thái hư” là nơi tận cùng của trời. Trong giáo lý nhà Phật, “Thái hư” được hiểu là cõi vĩnh hằng, nơi “không sinh không diệt”. Vậy theo nguyên tác, nghĩa bài thơ phải được diễn dịch như sau:

Bày tỏ nỗi lòng

Chọn được thế đất hình “rồng rắn” rất đẹp dáng ở mãi. Tình cảm tự nhiên suốt ngày không lúc nào không vui. Có khi lên thẳng một mạch đến đỉnh chóp núi đơn lẻ. Huýt một tiếng sáo dài làm ớn lạnh đến tận cõi Thái hư.

Trong sách giáo khoa Văn 10, phần hướng dẫn học bài Ngôn hoài, ở câu hỏi 2, người hướng dẫn viết: “… Tại sao đang nói ý tươi vui với tình quê như thế lại chuyền sang nói ý một mình trèo thẳng lên đỉnh núi trơ trọi kêu dài một tiếng làm lạnh cả bầu trời? Ở đây tư thế và khát vọng của con người là như thế nào?” Câu hỏi hướng dẫn như vậy, không thể hiều khác là hướng cả người dạy và người học vào một triết lý nhân sinh của con người “thế tục”, không phải triết lí của một nhà tu hành từng được coi là đã : “ngộ đạo”, thoát tục như Thiền sư Không lộ (Xem Thiền uyển tập anh).

Sở dĩ hiểu như vậy, có lẽ người hướng dẫn đã bị những từ dịch sai nghĩa là “Xông thẳng”, “kêu dài” dẫn dắt mạch suy nghĩ.

Cũng chính vì căn cứ vào bản dịch và tinh thần những lời hướng dẫn trên, tác giả Nguyễn Phạm Hùng trong bài viết hướng dẫn thay sách lớp 10 cải cách của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc năm 1990, sau khi phân tích tỉ mỉ về “tâm thức thiền” của tác giả, anh đã kết luận: “Con người trong bài thơ, con người đam mê giữa mênh mông không gian, thiên nhiên sống động kỳ tuyệt, giữa vô tận thời gian của niềm khoái cảm tột cùng, bỗng đột khởi một hành động phi thường, vụt lớn lên chót vót như đỉnh núi cao có tầm vóc kỳ vĩ, đối diện với cả vũ trụ lớn lao làm cho cả bầu trời phải thay đổi trước một tiếng kêu dài sảng khoái” (trang 108)… cuối cùng tác giả còn khẳng định một lần nữa về chủ đề của tác phẩm: “Bài thơ thể hiện niềm say mê yêu đời và tâm trạng sảng khoái, hào hùng của tác giả, ngợi ca vẻ đẹp kỳ vĩ và sức mạnh phi thường của con người trong thế giớ rộng lớn”. (Trang 108 - Hướng dẫn giảng dạy văn học lớp 10 - tài liệu bồi dưỡng thay sách).

Những lời đánh giá này về nội dung tác phẩm, nếu lấy bài thơ dịch làm gốc thì còn đượ, nhưng nếu đem gán cho nội dung nguyên tác thì thật quá xa.

Theo tôi, nội dung và chủ đề bài thơ chỉ giản dị và chân thực là: thể hiện tầm lòng vui với đạo của tác giả. Đó là tình cảm thanh thản thoát tục khi tìm được nơi ở thích hợp giữa núi rừng thanh tĩnh, giữa vạn vật thiên nhiên, hợp với tình cảm “tự nhiên nhi nhiên”, (dã tình) hoà đồng với thiên nhiên với vũ trụ của người tu hành, thể hiện tư tưởng “vạn vật nhất thể” của Thiền học. Chính trong cái cảm giác lâng lâng, thanh thản không hề biết đến sự chuyển kvkận của thời gian (chung nhật lạc vô dư), tác giả đã đi thẳng một mạch đến đỉnh cao chót vót của ngọn núi. Hành vi thanh thản đi thẳng lên ngọn núi không chỉ lài cái thú thưởng ngoạn thiên nhiên, ở đây còn là biểu tượng của con đường thẳng dẫn đến đỉnh cao chân lý, đỉnh cao của sự “giác ngộ” mà tựa như chỉ có riêng tác giả (Không Lộ) mới đạt tới được bằng con đường chuyên nhất thẳng tới chân lý nhà Phật không một băn khoăn do dự (“trực thướng” là vậy chứ đâu phải là “xông lên”, “trèo lên”). Ngược lại chỉ có từ trên đỉnh cao duy nhất của sự “giác ngộ” (cô phong) thì “tuệ nhãn” mới mở rộng tầm “thức nhận” chân lý, đúng với nghĩa “đăng phong tạo cực” (lên tới đỉnh cao thấy được hết tầm). Đó cũng chính là quá trình nhận thức giáo lí Phật: Từ thấp đến cao, từ cao đến sâu rộng. Và khi đã đạt đến đỉnh cao của sự “giác ngộ”, thì cái bản thể nhỏ bé đã hoà đồng vào vạn vật, trở thành một tế bào của vũ trụ. Chứng minh cho chân lý ấy chẳng có gì khó khăn: Chỉ một làn hơi thở trong tiếng huýt sáo giữa lúc sảng khoái nhất khi tâm hồn đã ngộ đạo, một rung động cơ năng của bản thể giữa lúc vô tình ấy thôi cũng đủ làm ớn lạnh (hàn) đến tận cùng của “ba ngàn thế giới”, cõi “Thái hư”, nơi vô thủy vô chung, vô sinh vô diệt. Đó thực mới chính là “nỗi lòng” (hoài) mà nhà sư muốn bày tỏ (ngôn) mà đây cũng là dấu ấn “Thiền” trong thi phẩm của một nhà tu hành từng cõi công danh phú quý ở cõi đời là thứ phù du.

Mặt khác, dù cho vô tình ta vẫn nhận ra đằng sau bóng nhà tu hành Không Lộ, thấp thoang ẩn hiện một nhà thơ Không Lộ. Tâm hòn thi sĩ như phảng phất hiện ra sau hai từ “cô” và “hàn”. Cảm giác “đơn lẻ” và “ớn lạnh” đó, đâu phải là cảm giác của nhà tu hành chuyên tâm “thiền định”, càng không phải là cảm giác của đỉnh núi vô tri và cõi “Thái hư” vô hình, mà hoàn toàn là cảm nhận bằng giác quan của thi nhân thế tục! Đây lại cũng chính là nét “nhân văn” còn lại trong tác phẩm.

Giáo sư Đặng Thai Mai còn tinh và sâu hơn, cho ta một nhận xét thú vị rằng: Tâm hồn nhà sư thi sĩ này còn nhuốm thêm cả mầu sắc của đạo học, hay đúng hơn là của một thầy “phong thủy” (xem bài: Mấy lời tâm đắc về một thời đại Văn học - Đặng Thai Mai - Thơ văn Lý Trần tập 1).

Song theo tôi “thế đất long xà” ở đây chưa hẳn là thể hiện sự chọn lựa chỗ ở của một “thầy phong thủy” (địa lý) mà nhà sư chỉ muốn mượn cái khái niệm đẹp ấy để ca ngợi chốn thiên nhiên thích hợp với sự tu hành của mình mà thôi. Đọc tiểu sử của nhà sư ta thấy không có chi tiết nào nói đến việc nhà sư đi tìm mạch đất tốt để làm nhà! Mà chỉ thấy nói: ông là người sống bình dị, thuần phác, không màng danh lợi…

Trên đây là một vài kiến giải của tôi về bài thơ Ngôn hoài. Tôi không khẳng định những kiến giải đã trình bày trên đây là chân lý. Chỉ mong góp một cách hiểu để làm sáng tỏ thêm nội dung bài thơ. Có gì sai sót mong các thức giả xa gần chỉ giáo.

TB

NHỮNG BÀI DỊCH ĐƯỜNG THI ĐẦU TIÊN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Nói đến những bài dịch Đường thi người ta thường nghĩ đến bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, do Phan Huy Vịnh (1) dịch hoặc bài Thu hứng(2) của Đỗ Phủ do Ngô Thế Vinh dịch ra quốc âm. Hai bài thơ dịch này sở dĩ được phổ biến sâu rộng vì đã được các đào nương xưa, thường hát trong các xóm bình khang và cũng vì các khách yêu ca trù hết sức ưa thích. Ngoài hai bài kể trên còn có các bài Thu hứng (bài thứ tư) của Đỗ Phủ (Nguyễn Công Trứ dịch), bài Văn lân gia lý tranh của Từ An Trinh (Trương Minh Ký dịch), bài Há Chung Nam sơn, quá Hộc Tư Sơn Nhân túc, trí tửu của Lý Bạch (Nguyễn Khuyến dịch) cũng được nhiều người biết đến. Nhưng đó chỉ là những bài dịch về sau này vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, còn những bài dịch Đường thi đầu tiên phải kể đến những bài đã được dịch từ thế kỷ thứ XV và được sưu tầm trong bộ Hồng Đức quốc âm thi tập (đời vua Lê Thánh Tôn) như bài Xuân tịch lữ hoài dịch của Thôi Đồ và bốn bài dịch ở chùm thơ Thiên Thai của Tào Đường.

Bài Xuân tịch lữ hoài nguyên văn bằng chữ Hán như sau:

春 夕 旅 懷
水 流 花 謝 雨 無 情
送 盡 東 風 過 楚 城
蝴 蠂 夢 中 家 萬 里
子 規 枝 上 月 三 更
故 園 書 動 經 年 絕
華 發 春 惟 滿 鏡 生
自 是 不 歸歸 便 得
五 湖 烟 景 有 誰 爭
崔 涂

XUÂN TỊCH LỮ HOÀI
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình,
Tống tận đông phong quá Sở thành.
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
Tử quy chi thượng nguyệt tam canh.
Cố viên thư động kinh niên tuyệt,
Hoa phát xuân duy mãn kính sinh.
Tự thị bất qui, qui tiện đắc,
Ngũ hồ yên cảnh hữu thùy tranh

THÔI ĐỒ

Dịch nghĩa:

ĐÊM XUÂN ĐẤT KHÁCH NHỚ NHÀ
Hoa bay nước chảy cũng vô tình,
Gió quyến xuân đưa đến Sở thành.
Hồ điệp mơ màng nhà vạn dặm,
Tử qui khắc khoải nguyệt ba canh.
Thư nhàn dễ cách lòng nên bạc,
Tóc tuyết khôn cầm thức lại xanh.
Nẻo ấy chẳng về, về ắt được,
Năm hồ cảnh vắng có ai tranh.
KHUYẾT DANH

Bài dịch sang quốc âm đã rất thanh thóat nên các nhà sưu tầm về sau đã tưởng là thơ Nôm sáng tác và đã đưa vào bộ Hồng Đức quốc âm thi tập.

Bộ này còn có bốn bài dịch chùm thơ Thiên Thai của Tào Đường.

1. LƯU NGUYỄN NHẬP ĐỘNG

Cỏ rợp non tiên một nẻo phân,
Đất chăng bụi bụi cỏ êm chân.
Khói xanh bóng tiễn xem đương mặt,
Nước biếc duyên ưa nọ có thân.
Dải non cao, chăng khối nguyệt,
Doành sông thắm, một dường xuân.
Chẳng hay người ấy về đâu tá?
Niệm đến Đào Nguyên hỏi chủ nhân.

2. LƯU NGUYỄN ĐỘNG TRUNG NGỘ TIÊN TỬ

Cây khói xanh xanh thức biếc tương,
Trước đông thuở dãi bóng trì đường.
Mây che cửa chim bay hết,
Suối thay cầm tiếng nhặt xoang.
Sông có bích đào non nước dẫy,
Cõi nhiều hồng hạnh tháng ngày trường.
Cánh hoa dầu chẳng ngươi tiêu rước,
Chó sủa âu là hẳn ấy lang.

3. TIÊN TỬ HOÀI LƯU NGUYỄN

Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường,
Một phút chiêm bao một phút thương.
Thuở động ngày chầy xuân vắng vẻ,
Khi người đường cách nguyệt mơ màng.
Đất nhiều có ngọc qua ưa biếc,
Nước có hoa đào hết tấc hương.
Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo.
Thân này khôn chước hỏi lưu lang.

4. LƯU NGUYỄN TÁI ĐÁO, BẤT KIẾN TIÊN TỬ

Ngọc châu lại đến hỏi chưng đây,
Rầy đã rêu rêu bụi bụi đầy.
Ca khúc rền rền cách núi,
Làng doanh văng vẳng khóa mây.
Thức mây chẳng phải xanh phen nọ,
Điểm khói nào còn biếc bầy chầy.
Mặt nước hoa trôi lành lạnh đấy.
Người tiên mời rượu ở đâu rầy?
KHUYẾT DANH

Nguyên văn bốn bài thơ của Tào Đường bằng chữ Hán như sau:

入 天 臺
樹 入 天 臺 石 路 新
雲 和 草 靜 迥 無 塵
烟 霞 不 省 生 前 事
水 木 空 疑 夢 後 身
往 往 鸡 鳴 岩 下 月
時 時 犬 吠 洞 中 春
不 知 此 地 歸 何 處
須 就 桃 源 問 主 人

1. NHẬP THIÊN THAI

Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân,
Văn hòa thảo tĩnh quýnh vô trần.
Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
Thủy mộc không ghi mộng hậu thân.
Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
Bất tri thử địa qui hà xứ,
Tu tựu Đào nguyên vấn chủ nhân.

TÀO ĐƯỜNG

洞 中 遇 仙 人
天 和 樹 色 靄 蒼 蒼
霞 重 岩 深 路 渺 茫
雲 寶 滿 山 無 鳥 雀
水 聲 沿 澗 有 笙 簧
碧 沙 洞 里 乾 坤 別
紅 樹 枝 邊 日 月 長
願 得 花 開 有 人 出
兔 令 仙 犬 吠 劉 郎
曹唐

2. ĐỘNG TRUNG NGỘ TIÊN NHÂN

Thiên hòa thụ sắc ái thương thương,
Hà trọng nham thâm lộ diểu mang.
Vân đậu mãn sơn vô điểu tước,
Thủy thanh duyên giản hữu sênh hoàng.
Bích sa động lý càn khôn biệt,
Hồng thụ chi biên nhật nguyệt trường.
Nguyệt đắc hoa gian hữu nhân xuất,
Miễn linh tiêu khuyển phệ Lưu lang.

TÀO ĐƯỜNG

洞 中 有 懷
不 將 清 瑟 理 霓 裳
塵 夢 那 知 鶴 夢 長
洞 里 有 天 春 寂 寂
人 間 無 路 月 茫 茫
玉 沙 瑤 草 沿 溪 碧
流 水桃 花 滿 澗 香
曉 露 風 燈 易 零 落
此 生 無 處 問 劉 郎

4. ĐỘNG TRUNG HỮU HOÀI

Bất tương thanh sắt lý Nghê thường,
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo duyên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang.

再 到 天 臺
再 到 天 臺 訪 玉 篌
蒼 苔 白 石 已 成 塵
笙 歌 寂 寞 閑 深 洞
雲 鶴 簫 條 絕 舊 鄰
草 樹 總 非 前 度 色
煙 霞 不 似 往 年 春
桃 花 流 水 依 然 在
不 見 當 時勸 酒 人
曹唐

5. TÁI ĐÁO THIÊN THAI

Tái đáo Thiên Thai phỏng Ngọc Chân,
Thương đài bạch thạch dĩ thành trần.
Sênh ca tịch mịch nhàn thâm động,
Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân.
Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc,
Yên hà bất tự vãng niên xuân.
Đào hoa lưu thủy y nhiên tại,
Bất kiến đang thời khuyến tửu nhân.

TÀO ĐƯỜNG

Như vậy có một bài thơ chữ Hán của Tào Đường đã không được dịch ra quốc âm. Đó là bài Thiên Thai tống biệt (bài thứ ba)

天 臺 送 別
殷 鴰 相 送 出 天 臺
仙 景 那 能 欲 再 來
雲 液 既 歸 須 強 飲
玉 書 無 事 莫 頻 開
花 流 洞 口 應 長 在
水 到 人 間 定 不 回
惆 悵 溪 頭 從 此 別
碧 山 明 月 照 蒼 苔

3. THIÊN THAI TỐNG BIỆT

Ân cần tương tống xuất Thiên Thai,
Tiễn cảnh na nàng khước tái lai.
Vân dịch ký qui tu cưỡng ẩm,
Ngọc thư vô sự mạc tần khai.
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài.

TÀO ĐƯỜNG

Bài này, trong Hồng Đức quốc âm thi tập có tới năm bài vịnh cùng đề tài (Thiên tử tống Lưu Nguyễn hoặc Lưu Nguyễn từ tiên tử) nhưng không có bài nào dịch theo bài thơ của Tào Đường. Chúng tôi chỉ xin dẫn ra một bài:

3. LƯU NGUYỄN TỪ TIÊN TỬ

Một niềm nhớ chúa một âu nhà,
Cửa động dùng dằng ngại bước ra.
Hương tứ phiêu khi gió thổi,
Cố viên lạc thuở trăng tà.
Nom cao mây phủ dư ngàn dặm,
Sông thẳm sầu đeo mấy phút hoa.
Dầu nhẫn bắc nam đường có cách,
Bao nhiêu cảnh cũ mựa quên mà.
KHUYẾT DANH

Đọc bài thơ Nôm sáng tác này và bốn bài thơ dịch ra quốc âm ở trên chúng ta nhận thấy có nhiều chữ cổ và thể thơ còn có chỗ viết theo thể lục ngôn.

Về chữ cổ thì như: tiển (ưa thích), làng doành (làng xóm), mựa (chớ).

Về các câu đặt theo thể lục ngôn thì có:

Dải non cao, chăng khối nguyệt,
Doành sông thắm, một dường xuân.

(LƯU NGUYỄN ĐỘNG TRUNG NGÔ TIÊN TỬ)

Hương tứ phiêu, khi gió thổi,
Cổ viên lạc, thuở trăng tà.

(LƯU NGUYỄN TỪ TIÊN TỬ)

Ca khúc rền rền cách núi,
Làng doành văn vẳng khóa mây.

(LƯU NGUYỄN TÁI ĐÁO, BẤT KIẾN TIÊN TỬ)

Thể lục ngôn này chúng ta thường thấy có trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi:

Khách đến vườn còn hoa lác,
Thơ nén cửa thấy nguyệt vào

(BÀI XIII)

Mắt hòa xanh, đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn, lộc nên từ

(BÀI XVI)

Quét trúc bước qua lòng suối,
Thưởng mai về đạp bóng trăng.

(BÀI XIX)

hoặc trong Bạch Vân âm quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Am Bạch Vân, rồi nhàn hứng,
Dặm hồng trần vắng ngại chen.

(BÀI XIII)

Giàu có phận là ơn chúa
Được làm người bởi đức cha

(BÀI XVI)

Đêm đợi trăng cài bóng trúc,
Ngày chờ gió thổi tin hoa.

(BÀI XIX)

Theo nhận xét trên thì mấy bài dịch quốc âm chùm thơ Thiên Thai của Tào Đường có thể được coi là xưa nhất, từ thời Lê vào thế kỷ thứ XV, xưa hơn cả bài dịch Tàn xuân lữ xá của Thôi Đồ đã được viết đúng theo thể thất ngôn bát cú và không có chữ cổ nào.

Sở dĩ bốn bài thơ Nôm dịch chùm thơ Thiên Thai (thiếu bài số 3) không đủ nên các cụ ta xưa khi nghe hát ả đào thường cho hát đủ cả năm bài thơ chữ Hán của Tào Đường và ở dưới mỗi bài thơ lại có mấy câu thổng tóm tắt đại ý bài thơ bằng quốc âm theo thể lục bát như sau:

I
Cổ cây chẳng chút bụi trần,
Lối vào không biết rằng gần hay xa.
Xinh thay hỡi thú yên hà,
Nguồn Đào ướm hỏi ai là chủ nhân.

II
Mây che khói tỏa khắp đường,
Lối vào xa thẳm mơ màng bâng khuâng.
Phách khe đàn suối vang lừng,
Ước gì được kẻ tỏ chừng cho hay.

III
Ngậm ngùi ra cửa Thiên Thai,
Tưởng chừng nước chảy hoa trôi lạnh lùng.
Tiễn đưa luống ngẩn ngơ lòng,
Đầu non xanh ngắt nguyệt lồng rêu in.

IV
Hoa trôi man mác suối vàng,
Hỡi ai nhớ khúc Nghê thường ngày xưa.
Trăng kề cửa động trơ trơ,
Xuân về luống những ngẩn ngơ vì chàng.

V
Cỏ cây xem bẵng tần ngần,
Yên hà năm trước mươi phần kém xa.
Vẫn còn lưu thủy đào hoa,
Mà người mời rượu biết là tìm đâu.
(KHUYẾT DANH)

Các câu thổng ấy rất hay nên các bài Thiên Thai dịch hay sáng tác trong Hồng Đức quốc âm thi tập đã không được các cụ ưa thích ca trù đem ra để các đào nương hát hoặc ngâm - như bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị dịch Nôm hay bài Thu hứng (bài thứ nhất) của Đỗ Phủ dịch Nôm - và do đó đã không được phổ biến rộng rãi mà cũng không ai để ý đó là những bài thơ Nôm dịch Đường thi đầu tiên trong văn học Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Nay có thuyết cho là của Phan Huy Thực

(2) Thu hứng gồm 8 bài: Ngô Thế Vinh dịch bài thứ nhất, Nguyễn Công Trứ dịch bài thứ tư.

TB

VĂN BIA Ở DI TÍCH CỔ LOA

NGUYỄN DOÃN TUÂN

Cổ Loa kinh đô của nước Âu Lạc, của triều đại An Dương Vương và là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến độc lập với vua Ngô Vương Quyền năm 939. Đây là một di tích đặc biệt, bao gồm thành Cổ, giếng Ngọc, đình, chùa, am thờ Mỵ Châu, điện thờ An Dương Vương, văn chỉ thờ các bậc tiên hiền, v.v… Di tích Cổ Loa hiện chứa đựng ba nguồn sử liệu chính: 1- Những hiện vật không có chữ viết năm trên mặt đất và nằm trong lòng đất. 2- Những hiện vật có khắc chữ Hán bao gồm các câu đối, hoành phi, bia đá, sắc phong. 3- Những truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa, những câu chuyện về Mỵ Châu-Trọng Thủy… Từ lâu nhà nước đã có kế hoạch nghiên cứu, tìm hiểu toàn bộ giá trị quần thể di tích này và đến nay, công việc đang được tiến hành một cách khoa học. Hiện đã có một số thành tựu nghiên cứu về mảng hiện vật đã được khai quật từ trong lòng đất. Đã có nhiều bài viết khảo cứu về câu chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu. Thế nhưng mảng hiện vật có khắc chữ dường như chưa được đề cập đến. Bài viết này chúng tôi bước đầu giới thiệu mảng hiện vật có khắc chữ. Trước hết là các tấm bia đá.

Theo số liệu chung tôi điều tra được, hiện có 16 tấm bia được tạo dựng ở khu di tích Cổ Loa. Con số này chắc chắn chư phản ánh hết số lượng bia đã được tạo dựng ở đây. Có thể còn có bia bị vùi lấp trong lòng đất mà chưa phát hiện ra được.

Căn cứ vào dòng chữ khắc niên đại ta thấy số lượng bia nêu trên chủ yếu được tạo dựng vào hai triều đại: Triều Lê và triều Nguyễn. Tấm bia mang niên đại sớm nhất mang tiêu đề “Cung phụng sắc lệnh tôn phong chuẩn cấp nhiêu miễn tô dịch khắc chí”. Năm dựng là Chính Hoà 10 (1689). Tấm bia mang niên đại muộn nhất mang tiêu đề “Tuế thứ Giáp Dần”, thuộc niên hiệu Duy tân 8 (1914). Căn cứ vào vị trí dựng bia, 16 tấm bia ở di tích Cổ Loa có thể sắp xếp như sau:

I. AM MỊ CHÂU, ĐÌNH, ĐIỆN THỜ AN DƯƠNG VƯƠNG

1. Cung phụng sắc lệnh tôn phong chuẩn cấp nhiêu, miễn tô dịch khắc chí.

Năm dựng: Chính Hoà 19 (1689). Bia 2 mặt, khổ 0,99m x 0,73m, 62 dòng, dòng 3-35 chữ. Diềm bia chạm rồng, hoa văn. Bài văn khắc sắc chỉ của chúa chuẩn cho xã Cổ Loa phụng thờ An Dương Vương; các đạo sắc phong cho An Dương Vương từ Cảnh Trị đến Chính Hoà; sự ưu ái của nhà chúa miễn thuế ruộng, miễn sưu dịch cho người trông coi đền.

2. Chính pháp điện thạch bi.

Năm dựng: Chính Hoà 10 (1689). Bia 2 mặt, khổ 1,40m x 0,83m, 65 dòng, dòng 2-48 chữ. Diềm bia chạm hổ, rồng. Bài văn bia do Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) là Đặng Đình Tướng soạn. Bài văn ghi việc trùng tu đến thờ An Dương Vương; sắc chỉ của vua về việc trùng tu đền.

3. Pháp điện sắc lệnh

Năm dựng: Vĩnh Thịnh 13 (1717). Bia 4 mặt, khổ 1,84m x 0,80m, mỗi mặt 11 dong, mỗi dòng 4-90 chữ. Bài văn khắc trên bia ghi lại sự tích An Dương Vương; sắc phong của các triều đại phong cho An Dương Vương; nội dung vụ xét xử hoạn quan thúc Lộc bá phải trả lại ruộng của đền cho dân làng thờ cúng; 4 lệnh chỉ của chúa Trịnh ở các năm Thịnh Đức 2 (1654), Vĩnh Thọ 2 (1659), Cảnh Trị 7 (1669) và Chính Hoà 5 (1684). Nguyên văn lệnh chỉ năm Thinh Đức 2 (1654) như sau:

Phiên âm: Đại nguyên soái Thống quốc chính thượng chúa sư phụ công cao nhân thánh Thanh vương lệnh dụ Đông Ngạn huyện họ nhi Cổ Loa xã quan viên tịnh tướng thần xã thôn trưởng Lại Đức Quảng, Nguyễn Doãn Tín, Nguyễn Kim Dung, Chu Đăng Minh, Nguyễn Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tiến, Đỗ Đổng, Nguyễn Hữu Lâm, Lê Văn Giai, Đỗ Ngọc Chi Đào, Phú gia Hoàng Toàn cơ, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn Tu Minh, Nguyễn Văn Hoà, Chu Đức Đại, Nguyễn Hữu Vinh, Trương Văn Tư, Đào Như Mai, Nguyễn Tuân Đắc, Hoàng Kim Bảng, Nguyễn Công Nhậm, Hoàng Đắc Bố, Nguyễn Hữu Sỹ, Chu Đức Minh, Hoàng Thế Đăng, Lại Văn Bùi, Chu Đình Chế, Đỗ Văn Tích, Chu Nãi Năng, Hoàng Kim Long, Trương Hữu Tài, Lê Trí Trung, Nguyễn Tông Liệu, Hoàng Đắc Lộc, Nguyễn Văn Quán, Nguyễn Kim Thạch, Hoàng Văn Trị, Hoàng Tỉ Nhân, Phạm Tién Đảng đẳng hệ sơ khải văn vị nguyên bản xã hữu Cổ Loa thành tiền đại đế quân An Dương Vương hiển hữu linh ứng đa năng hộ hựu quốc vương trường trị cửu an diễn tông xã ức vạn niên vô cương chi phúc, dĩ phụng lệnh chỉ chuẩn cấp bản xã binh quân dân trục hạng tịnh xã nội quan điền tô bề trì thị thổ kiều khê cập chư thuế ngạch đẳng hạng điền tịnh đài đệ sứ thần, bồi trúc, trúc lập đê lộ khai hạng cống khẩu cập hộ phần sưu sai các dịch tịnh chuẩn nhiêu vi hộ nhi tạo lệ, hương hoả phụng sự. Chí tư lệnh dĩ kinh cửu, hủ cựu, sở bị các đẳng nha môn nhiễu câu, bản xã nan ư phụng sự. Cung hất chỉ chuẩn đẳng nhân ứng nãi chuẩn như nguyên tiền hữu dĩ cung phụng sự thọ quốc mệnh. Kỳ phụng sai quan đẳng kha môn đệ niên nghi phụng chuẩn trừ tiền hạng các dịch, bất đắc nhiễu câu. Tư hậu bản xã mỗ nhân do nửu cựu tục ỷ thế tranh hành bất thuận cập vọng cáo tra đắc hữu tội. Tư lệnh dụ.

Thịnh Đức nhị niên thập nhị nguyệt nhị thập tứ nhật.

Lệnh dụ

Dịch nghĩa: Đại nguyên soái Thống quốc chính thượng chúa sư phụ công cao nhân thánh Thanh vương lệnh dụ: Các quan viên, tướng thần xã thôn trưởng cùng toàn xã hộ nhi Cổ Loa huyện Đông Ngạn là Lại Đức Quảng, Nguyễn Doãn Tín, Nguyễn Kim Dung, Chu Đăng Minh, Nguyễn Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tiến, Đỗ Đổng, Nguyễn Hữu Lâm, Lê Văn Giai, Đỗ Ngọc Chi Đào, Phú gia Hoàng Toàn Cơ, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn Tu Minh, Nguyễn Văn Hoà, Chu Đức Đại, Nguyễn Hữu Vinh, Trương Văn Tư, Đào Như Mai, Nguyễn Tuân Đắc, Hoàng Kim Bảng, Nguyễn Công Nhậm, Hoàng Đắc Bố, Nguyễn Hữu Sy, Chu Đức Minh, Hoàng Thế Đăng, Lại Văn Bùi, Chu Đình Chế, Đỗ Văn Tích, Chu Nãi Năng, Hoàng Kim Long, Trương Hữu Tài, Lê Trí Trung, Nguyễn Tông Liệu, Hoàng Đắc Lộc, Nguyễn Văn Quán, Nguyễn Kim Thạch, Hoàng Văn Trị, Hoàng Tỉ Nhân, Phạm Tiến Đảng dâng tờ khải tâu rằng xã này nhờ phụng đức An Dương Vương có nhiều linh ứng phù dân giúp nước, Quốc vương trị nghiệp lâu dài, xã tắc hưởng phúc khôn xiết. Bản xã đã được lệnh chỉ cho phép bản xã quân dân theo các hạng, các thứ tô thuế ruộng công, ao chợ, cầu cống theo các ngạch; cùng các việc khiêng võng sứ thần, bồi đắp đê điều đường xá, mở cửa cống và các sai dịch đều được miễn trừ, để làm hộ nhi tạo lệ, thắp hương thờ cúng. Tới nay vì lâu ngày lệnh chỉ cũ nát. Kính vâng chỉ chuẩn của vua, nay ban lệnh chỉ, chuẩn cho dân xã được hưởng lệ cũ để vận nước trường tồn mãi mãi. Các quan phụng sai và các nha môn, hàng năm phải dâng chuẩn miễn trừ các khoản như cũ cho dân, không được gây phiền nhiễu. Từ nay về sau, nếu ai trong xã còn quen thói cũ ỷ thế tranh giành, không chấp hành, lại gian giảo, tra ra sẽ chịu tội. Nay dụ;

Ngày 24 tháng 12 năm Thịnh Đức thứ 2 (1654).

4. Trúc đài đối liễn

Bia không ghi năm dựng, 4 mặt, khổ 1,10m x 0,25m, mặt 4 dòng, dòng 11-13 chữ.

5. Cổ Loa chính pháp điện thạch bi

Năm dựng: Vĩnh Thịnh 13 (1717). Bia 4 mặt, khổ 1.30m x 0,67m, 108 dòng, dòng 5-69 chữ. Diềm bia chạm hoa lá. Nội dung văn bia ghi: 1- Bảy đạo sắc phong của vua Lê; 2- Ghi việc ba người chiếm ruộng và giếng rửa hạt chân đã phải trả lại cho làng để phụng thờ tế lễ; 3- Ghi việc xét xử vụ kiện tranh chấp địa giới của xã Cổ Loa với xã Dục Tú.

6. Tuế thứ Giáp Dần

Năm dựng: Duy Tân 8 (1914). Bia 1 mặt, khổ 1m x 0,5m, 15 dòng, dòng 12-32 chữ.

II. CHÙA XÃ CỔ LOA.

1. Hậu phật bi ký:

Năm dựng: Vĩnh Thịnh 14 (1718). Khổ 0,45 x 0,25m, 12 dòng, dòng 12-15 chữ.

2. Trúc ðài bi ký:

Năm dựng: Vĩnh Hựu 2 (1736). Bia 4 mặt, khổ 0,88 x 0,20m, 13 dòng, dòng 8-48 chữ.

3. Trúc ðài bi:

Năm dựng: Vĩnh Thịnh 2 (1736). Bia 4 mặt, khổ 0,85m x 0,16m, 14 dòng, dòng 4-50 chữ.

4. Bảo Sõn tự hậu phật bi:

Năm dựng: Cảnh Hưng 25 (1764). Bia 1 mặt, khổ 0,75m x 0,52m, 13 dòng, dòng 10-36 chữ.

5. Cổ Loa xã bi:

Năm dựng: GiaLong 2 (1803). Bia 1 mặt, khổ 0,66m x 0,47m, 12 dòng, dòng 1-25 chữ.

6. Hậu phật bi ký:

Năm dựng: Tự Đức 6 (1853).

7. Ðông Thành bi ký:

Năm dựng: Duy Tân 8 (1914). Bia 1 mặt, khổ 1.10m x 0,60m, 10 dòng, dòng 3-34 chữ.

8. Khắc thạch ký:

Bia 1 mặt, không ghi năm dựng, khổ 0,78m x 0,44m, 15 dòng, dòng 1-26 chữ.

III. VĂN CHỈ XÃ CỔ LOA.

1. Đông Anh văn tự bi ký:

Bia dựng năm: Thành Thái 11 (1899). Bia 1 mặt, khổ 1,30m x 0,85m, 51 dòng, dòng 8-52 chữ. Diềm bia chạm rồng, mặt trời.

2. Trùng tu bi ký:

Năm dựng: Thành Thái 12 (1900). Bia 2 mặt, khổ 1.35m x 0,70m, 34 dòng, dòng 5-47 chữ. Bia ghi lại sự việc xây dựng văn chỉ năm Tự Đức 34 (1881) và các lần tu sửa văn chỉ.

Nhận xét:

1. Nhìn vào số lượng bia tạo dựng ở các di tích, 8 tấm bia đời Lê, 6 tấm bia đời Nguyễn, 2 tấm bia không ghi năm dựng, ta thấy cụm di tích Am, đình, điện, nơi thờ An Dương Vương và Mỵ Châu có 8 tấm bia có kích cỡ cao hàng mét trở lên. Số lượng bia tuy không nhiều nhưng những tấm bia này đã chuyển tải nhiều thông tin quý gia cho việc tìm hiểu nghiên cứu về những khía cạnh văn hoá của người xưa. Chỉ riêng những tấm bia dựng thời Chính Hoà 10 (1689) khắc 7 đạo sắc phong của các đời vua phong cho An Dương Vưong; 4 đạo chỉ dụ của chúa Trịnh chuẩn miễn tô thuế, tạp dịch cho dân xã Cổ Loa, việc khắc hơn 500 tên người trong xã được làm dân tạo lệ, trông nom quét doạn hương khói thờ phụng An Dương Vương. Những thông tin này phần nào cho thấy thái độ của nhà nước phong kiến tôn kính, quan tâm tới di tích, mặt khác chúng ta cũng thấy được tấm lòng của người dân Cổ Loa luôn chăm lo, bảo vệ cho di tích trường tồn.

2. Văn bia trình bày khá cụ thể vụ kiện tranh chấp địa giới, cho thấy những thế lực cậy quyền chiếm dụng ruộng hương hoả của di tích, chiếm dụng đất công đều được đem ra xét xử. Chỉ trong 30 năm chúa Trịnh chấp chính, đã phải ra bốn lệnh chỉ, khẳng định thái độ của triều đình bảo vệ di tích cũng như răn đe những tham quan, nha môn nhũng nhiễu hạch sách nhân dân. Điều này chỉ báo cho ta thấy sự lộng hành của những hoạn quan, những nha môn, và việc chấp hành luật pháp ở thời kỳ này không được nghiêm chỉnh.

3. Những tấm bia đá tạo dựng trong quần thể di tích Cổ Loa chỉ là một phần trong các hiện vật có khắc chữ viết ở di tích này. Việc sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa toàn bộ những văn bản bằng chữ Hán chữ Nôm ở đây chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ cho việc nghiên cứu toàn diện quần thể di tích Cổ Loa, kinh đô đầu tiên của đất Việt.

TB

TÀI LIỆU HÁN NÔM TẠI CỤM DI TÍCH NGUYỄN CÔNG TRIỀU Ở LÀNG
ĐÔNG LAO (HOÀI ĐỨC - HÀ TÂY)

BÙI XUÂN ĐÍNH

Trong lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XVIII, có một vị võ quan có nhiều đóng góp với triều đình Lê-Trịnh được sử sách nhắc đến. Đó là Nguyễn Công Triều quê làng Đông Lao (nay là xã Đông La, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) hiện còn cả một cụm di tích liên quan tới ông.

I. Mấy nét về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Công Triều

Căn cứ vào các nguồn tài liệu thì Nguyễn Công Triều sinh ngày 17 tháng 10 năm Giáp Dần (1614) trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Đông Lao (hồi cuối thế kỷ XVII thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây). Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ, phải theo mẹ đi làm thuê kiếm sống. Rồi mẹ mất, Nguyễn Công Triều phải nương nhở ở chùa Đại Bi. Năm 18 tuổi, nghe lời khuyên của sư chùa, ông ra kinh thành Thăng long để tìm cơ lập nghiệp. Sau một thời gian, ông được sung vào lính dạy voi. Một viên quan thấy ông dị tướng và có tài, đã khuyên ông nên hoan, rồi đưa ông vào cung của Tây vương Trịnh Tạc và được chúa Trịnh tin dùng. Chỉ ít lâu sau, ông được thăng chức Ty lễ giám hữu đề điểm, kiêm Thái giám, tước Hầu. Từ đây, ông nhanh chóng tiến bước trên đường hoạn lộ và có nhiều đóng góp với triều đình. Đáng chú ý nhất là các sự kiện sau đây:

Năm 1653, phá tan dư đảng nhà Mạc xưng tôn hậu va dụ dỗ dân chúng ở vùng Nam Dã nổi dậy chống triều đình. Do có công đó, ông được thăng chức Nội phủ giám, Tham tri giám sự, Tham đốc quân vụ.

Năm 1661, lại phá tan dư đảng nhà Mạc ở Hoàng Sơn, được thăng làm Đề đốc thân vũ tứ vệ quân vụ sự, tuớc Quận công, được chúa Trinh thưởng tiền và vua Lê phong thực ấp.

Chắc chắn, khoảng thời gian trước 1673, tức trước khi kết thúc cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Công Triều đã tham dự các trận đánh nhau của quân Trịnh với quân của chúa Nguyễn ở Đàng trong nên sách Lịch triều tạp kỷ đã ghi nhận ông “có công trong cuộc Nam chinh”(1).

Năm 1673, Nguyễn Công Triều được phong làm Đề lĩnh tứ thành Trấn thủ Kinh Bắc.

Năm 1674 là Bắc quân đô đốc phủ, rồi làm Trấn thủ Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang.

Từ 1681-1683 là Tả đô đốc.

Từ năm 1683, dẹp được âm mưu làm phản của người huyện Lập Thạch, trấn Sơn Tây.

Năm 1685, Vũ Công Tuấn là tướng triều đình làm phản từ trước, trốn sang Vân Nam (Trung Quốc), dựa vào thổ quan họ Nùng ở đây để quay về tập hợp binh lính người thiểu số cướp bóc dọc vùng biên giới Tuyên Quang, Hưng Hoá. Nguyễn Công Triều được lệnh đi đánh dẹp thành công.

Năm 1686, dư đảng nhà Mạc do Mạc Kính Khoan cầm đầu cướp bóc vùng biên giới Tuyên Quang, Hưng Hoá, Nguyễn Công Triều lại được lệnh đi đánh dẹp. Mạc Kính Khoan chạy sang Trung Quốc(2).

Năm 1689, Nguyễn Công Triều bí mật liên kết và giao hiếu với viên Tri huyện huyện Mông tự (Vân Nam) nên bắt được 20 tên dư đảng Mạc Kính Khoan(3). Từ đây, vùng biên giới yên ổn. Do có nhiều công lao với triều đình nên ông được phong làm Đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân, Tả đô đốc, Thiếu bảo kiêm Quận công.

Ngày 29-5 năm Canh Ngọ (1690) Nguyễn Công Triều từ trần khi còn đương nhiệm Trấn thủ trấn Sơn Tây, hưởng thọ 77 tuổi được truy phong là Phúc thần.

Nguyễn Công Triều không chỉ có công với triều đình mà còn có công với làng xóm. Qua văn bia và theo truyền thuyết thì làng Đông Lao xưa kia gồm hai làng Kẻ Trước và Kẻ Sau. Sau khi thành đạt, Nguyễn Công Triều trở về quê, bàn với quan viên hương lão hai làng nhập thành ấp Trung Tín, sau đổi thành làng Đông Lao. Ông bỏ ra 1000 quan tiền để dân hai làng dựng đình chung, lập chợ chung gọi là chợ Mới, sửa sang các đền chùa khác, vận động dân làng và các làng bên đào con ngòi tiêu nước cho cả vùng, định ra các tục lệ giản tiện… Dân làng Đông Lao coi Nguyễn Công Triều là ân nhân của mình, tôn ông làm thành hoàng làng.

II. Các di tích về Nguyễn Công Triều và tài liệu Hán Nôm

1. Đình Đông Lao:

Thờ Nguyễn Công Triều cùng hai vị Thiên thần và Địa thần. Đình cũ đã bị thực dân Pháp đốt cháy ngày 4-7-1947, mới được dựng lại năm 1992. Trong đình hiện còn lưu giữ một số tài liệu quý như:

a. 14 sắc phong của các triều vua phong kiến cho Nguyễn Công Triều, trong đó, đạo có niên đại sớm nhất vào ngày 21-1 năm Thịnh Đức I (1653), 8 đạo sắc phong khi ông còn sống. Các sắc phong đều ghi rõ ông là “Lộc hầu trụ quốc” (sắc năm 1653), “Thượng tướng quân” (1657, 1664), “Thượng trụ quốc” (1674, 1678, 1681, 1683, 1686), “Thái bảo” (1690), “Tham đốc thần vũ” (1715), “Đại vương” (1710, 1730, 1740, 1780).

b. Bia trụ: Bia có niên đại “Cảnh Trị vạn vạn niên chi thất, mạnh đông, tiết cốc nhật” (ngày lành, tháng trọng đông năm Chính Hoà 7 tháng 10 năm 1687), hiện dựng ở sau đình trên một khối đá có kích thước 132 x127x25cm. Bốn mặt bia đều có kích thước 146 x 77cm, trong đó lòng bia là 112x 64cm. Bốn mặt đều bị vỡ nham nhở, mất nhiều hàng chữ và bị đắp vôi. Có hiện tượng đó là do trước đây bia được dựng ở hiên đình, trận cháy đình năm 1947 làm cháy vỡ. Song, nhờ cụ Nguyễn Kim Lương 75 tuổi hiện còn lưu giữ một quyển sách chép tay toàn bộ nội dung các tấm bia trong làng (chép trước 1945). Đối chiếu cuốn sách này với nội dung các tấm bia còn nguyên vẹn và với những đoạn còn lại của bia này, chúng tôi thấy trùng khớp với nhau. Vì vậy, có thể tin tưởng độ chính xác của tài liệu này. Theo đó thì bia này có nội dung như sau:

Mặt tiền có tiêu đề Kinh kiến Nguyễn Lệnh công và mặt hậu San lưu bản xã ân nghĩa nói về sự biết ơn của dân làng Đông Lao đối với Nguyễn Công Triều-người đã bỏ tiền bổng lộc để dân dựng đình, sửa chùa, đào ngòi tiêu úng nên được dân làng thờ làm phúc thần, thờ ở đình.

Mặt hữu, Hậu thần sinh từ chi ký: nói về việc quan hương lão và dân làng Đông Lao thống nhất tôn thờ Nguyễn Công Triều ở đình.

Mặt tả, Cung tế tự chi ký: về việc phân bổ 13 mẫu ruộng mà Nguyễn Công Triều cúng cho làng để thò phụng ông. 8 giáp trong làng có trách nhiệm cúng tế ông vào các dịp tứ thời bát tiết hàng năm. Sự phân bố số ruộng trên ở các xứ đồng.

Tấm bia cho biết rõ việc phí tổn cho quá trình dựng đình, họ tên và tước vị của các quan viên của 8 giáp, trong đó có khá nhiều người là võ quan trung cao cấp, có các tước hầu, bá, nam.

2. Linh Quang từ (Dân làng gọi là Am Đại Vương)

Am gồm hai bộ phận: đền chính và lăng đá. Đền chính là 3 ngôi nhà 5 gian nằm song song kiến trúc đơn giản vì mới được sửa chữa. Tại đây có bức hoành phi 4 chữ “Nam quốc vi nhân” và 4 câu đối ca ngợi Nguyễn Công Triều.

Kề bên đền thờ là một lăng đá gồm hai tầng. Trước cửa lăng có một tấm bia nhỏ khổ 62x35cm có tiêu đề Tu tạo tác từ (sửa sang, xây dựng đền). Bia có niên đại ngày tốt tháng 11 năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678). Theo đó thì đền và lăng do Hoàng Văn Tá người xã Hộ Xá, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách (Hải Dương) là chánh đội trưởng, tước Dĩnh Lộc hầu, được Nguyễn Công Triều phái về xây dựng trong hai năm 1677-1678 (cũng xin lưu ý Hoàng Văn Tá cũng được Nguyễn Công Triều phái về phục dịch việc xây dựng đình Đông Lao năm 1669 và chùa Đại Bi năm 1681).

3. Từ đường (nhà thờ họ Nguyễn Công Triều)

Được xây dựng cùng thời điểm 1677-1678, song mới được sửa chữa năm Kỷ Hợi 1899 (căn cứ vào hàng chữ trên nóc). Tại đây còn lưu giữ hai tư liệu quý:

Sách đồng: Tài liệu quý giá này được cố giáo sư Sử học Văn Tân giới thiệu trên tạp chí Khảo cổ học số 3-1983(4) và sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam cũng có giới thiệu qua(5). Ở đây, chỉ xin nhắc lại một số đặc điểm chính của cuốn sách. Sách gồm 18 tờ (36 trang), khổ 13x 20cm, có niên đại ngày tốt tháng trọng đông năm Chính Hoà thứ 2 (1681). Nội dung sách này nói về công ơn của Nguyễn Công Triều đối với dân làng nên được dân làng thờ phụng. Tiếp đó là các quy định phân bổ 8 giáp trong làng phải cúng tế Nguyễn Công Triều vào các dịp 30 tết, mồng 2 tết, Tết Đoan Ngọ, Rằm tháng 7, 1-10 v.v… và số ruộng đất ở các xứ đồng giành cho việc thờ phụng ông. Đây thực chất là bản khoán ước bằng đồng của làng Đông Lao về việc thờ phụng Nguyễn Công Triều. Một bản khoán ước bằng đồng hiếm hoi còn lại ở nước ta.

b. Bia trụ niên hiệu Chính Hoà 8 (1687). Bia làm bằng một loại đá kiểu đá Granitô, ánh đẹp và sáng bóng. Đề bia là một khối đá ba cấp. Bốn mặt bia đều có kích thước 136x72cm, lòng bia là 112 54cm. Nóc bia hình chóp-tứ giác đắp công phu. Bia có chữ cả 4 mặt với khổ chữ to trong ô vuông 4 x4 cm. Chỉ có mặt trước có 8 hàng chữ, còn các mặt khác đều có 11 hàng nhiều nhất 29 chữ. Nội dung bia nói về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Công Triều. Bia có niên đại ngày lành tháng trọng đông năm Chính Hoà 8 (1687).

4. Đền thờ Nguyễn Công Triều

Đền đặt ở phía sau chùa Đại Bi, dựng năm Chính Hoà thứ 2 (1681), song mới được sửa chữa năm 1932. Theo văn bia và theo các bô lão trong làng thì sau khi thành quan, Nguyễn Công Triều đã bỏ tiền tu sửa chùa Đại Bi để tạ ơn nhà chùa đã cho ông nương nhờ thuở hàn vi. Nhớ ơn Nguyễn Công Triều, dân làng lập đền thờ ông ở sau chùa. Tại đền, có bức tượng Nguyễn Công Triều bằng đá hoa tạc khi ông còn sống, hai đôi câu đối và một tấm bia trụ quý giá bằng loại đá Granitô, ánh đẹp. Bia được đặt trên một bệ đá 4 cấp. Bốn mặt bia đều có kích thước 154x74cm (lòng bia 116x54cm). Bia chỉ có hai mặt chữ. Mặt trái (theo hướng đền) có 24 hàng, 69 chữ, mặt sau 8 hàng 27 chữ. Nội dung cả hai mặt ca ngợi công đức Nguyễn Công Triều đối với nhà chùa và việc quan viên hương lão xã thôn trưởng 8 giáp trong làng lập đền thờ ông, dành ra 4 mẫu ruộng cho việc thờ phụng đó.

III. Một số nhận xét

1. Các tài liệu Hán Nôm được lưu giữ tại cụm di tích Nguyễn Công Triều ở làng Đông Lao là những tài liệu quan trọng và quý giá để đi sâu nghiên cứu về Nguyễn Công Triều-một vị hoạn quan, một nhân vật quan trọng của Tây vương Trịnh-Tạc và Định Nam vương Trịnh Càn.

2. Bi ký và sách đồng ở cụm di tích Nguyễn Công Triều còn là nguồn tài liệu quý để tìm hiểu làng Đông Lao cuối thế kỷ XVII trên nhiều mặt:

- Dòng họ và tổ chức phe giáp: trên tấm bia ở đình và bia ở đền thờ Nguyễn Công Triều ghi rõ họ tên các quan viên hương lão, xã thôn trưởng thuộc gần 50 dòng họ và 8 giáp trong làng.

- Hệ thống ngôi thứ của làng qua các chức danh quan viên tử, quan viên tôn, xã trưởng, xã chính v.v… được ghi ở 2 bia trên.

- Sự phát đạt về “ngạch binh” của làng Đông Lao. Trong số 26 người có chức danh Nhà nước ghi tại hai tấm bia trên có 1 Phó vương phủ, 1 Đội trưởng, 17 Quản lĩnh và Phó quản lĩnh, 2 người làm Nội giám, 1 Vệ uý, 1 Đô sử… 1 người có tước hầu, 19 người tước bá, 4 người tước nam. Bên cạnh đó lại có 10 người đỗ Sinh đồ. Nếu kể thêm một tấm bia niên hiệu Chính Hoà 2 (1681) liên quan tới một vị võ quan khác thì số người thành đạt theo đường binh nghiệp của làng còn nhiều hơn (39 người).

- Việc thờ phụng Nguyễn Công Triều của dân làng Đông lao (các lễ tiết, lễ vật, số ruộng đất phục vụ thờ cúng…) được ghi trong khoán ước bằng đồng và hai tấm bia trên.

Đi sâu nghiên cứu các mặt trên sẽ góp phần tìm hiểu làng xã và xã hội Việt Nam thời Lê-Trịnh.

CHÚ THÍCH

(1) Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp ký, Nxb. KHXH, H.1975, tập 1, tr.122.

(2) Sách Đại Viẹt sử ký tục biên (Nxb KHXH.H.1991, trang 31, chú rằng giặc Khoan “có lẽ là Vũ Công Tuấn tức Khoan quận công”

(3) Đại Viẹt sử ký tục biên ghi số người này là hơn 120 người.

(4) Xem Văn Tân: Một quyển sách bằng đồng thau mới phát hiện ở Hà Nội, Khảo cổ học số 3-1983, tr.52-56.

(5) Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H.1993, tr.696.

TB

HIỆP TRẤN HOÀNG NGUYỄN THỰ VÀ BÀI VĂN CHÚC MỪNG QUAN
TÂN HIỆP TRẤN

NGUYỄN THỊ TRANG

Hoàng Nguyễn Thự hiệu là Đông Hy, tự là Nghệ Điền, sinh năm 1749 tại làng Đông Bình, huyện Gia Định, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc. Sau khi đỗ Hương cống, ông lấy bà Phạm Thị Hội người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, rồi nhập cư vào đây, và trở thành thủy tổ họ Hoàng ở vùng này. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, người ông và người cha của Hoàng Nguyễn Thự đều làm quan dưới triều Lê, nên Hoàng Nguyễn Thự được dạy bảo rất chu đáo. Năm 25 tuổi, thi đỗ Hương cống, thi Hội nhiều lần không đỗ. Sau ông đến học với ông Tiến triều Tri Công phiên Phạm Gia Huệ ở làng Đông Ngạc và được thầy học mến tài, đem con gái gả cho. Năm 1787, ông đã 38 tuổi, thi đỗ Đồng Tiến sĩ, rồi được bổ giữ chức Binh khoa Cấp sự trung. Khi Tây Sơn ra Bắc, ông đem gia đình trốn tránh ở Đan Phượng, Thạch Thất. Gia cảnh lúc này cực kì khốn quẫn, chưa đầy một tháng mà mấy người ruột thịt là em trai, mẹ đẻ, bố đẻ lần lượt qua đời. Sau do Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch tiến cử, ông theo giúp nhà Tây Sơn. Năm 1793, ông vào Kinh đô Phú Xuân giữ chức Tả Thị lang Bộ Hình. Đầu năm 1795 ông được giao trọng trách lên làm Hiệp trấn xứ Lạng Sơn. Ở Lạng Sơn, Hoàng Nguyễn Thự đã dốc toàn tâm toàn ý chăm lo mọi công việc binh dân, và ông đã phục vụ triều Tây Sơn cho đến hơi thở cuối cùng. Năm 1801 ông mất tại nhiệm sở. Ông cũng là vị quan Hiệp trấn Lạng Sơn cuối cùng của triều Tây Sơn. Khi nhận mệnh đi nhậm chức, các quan đồng liêu ở Bộ Hình đã viết văn chúc mừng quan Tân hiệp trấn. Bài văn được chép trong sách Đông Hoàng gia phả, sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.954, do Hoàng Bích Sơn biên tập, khổ 21x31, chữ viết tay gồm 324 trang. Cuốn sách ghi gia phả họ Hoàng ở xã Đông Bình, huyện Gia Định, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cùng hành trạng Tiến sĩ Hoàng Nguyễn Thự. Từ trang 153a đến trang 156a ghi bài văn, chúng tôi chưa xác định rõ là ai, chỉ thấy trong sách ghi: Ông Lang trung Bộ Hình là Trạm Thành tử viết thay Bộ Hình đưa đến chúc tụng Tả thị lang Hoàng Nguyễn Thự được bổ làm Hiệp trấn Lạng Sơn. Tác giả đã khéo léo sử dụng lối văn đàm thoại giữa chủ và khách để giới thiệu toàn diện về xứ Lạng. Qua ngòi bút của tác giả, đất Lạng Sơn hiện lên xinh tươi duyên dáng. Các danh thắng như động Tam Thanh, núi Kỳ Lừa, hòn Kháo Me, hòn Kháo Con đều được mô tả rất quyến rũ. Xứ Lạng không chỉ được thu hút bởi thiên nhiên phú cho nhiều cảnh non nước hùng vĩ mà còn được biết đến bởi nguồn tài nguyên giàu có, nguồn hàng hoá dồi dào. Tác giả cũng khéo léo tán dương cách sử dụng nhân tài của vương triều Tây Sơn và việc tận tụy hết lòng của Hiệp trấn Hoàng Nguyễn Thự đã chứng thực cho nhận định “Triều đình dùng được người tài” của tác giả. Đọc xong bài văn, chúng ta thấy phảng phất hương vị của Bài phú Xích Bích của họ Tô thuở trước.

Đây là một tư liệu rất quí, có thể dùng để tìm hiểu thêm về Xứ Lạng cũng như về nhà Tây Sơn. Do vậy, chúng tôi xin dịch và giới thiệu toàn bộ bài văn đó để bạn đọc cùng tham khảo.

*
**

“Các quan ở Bộ Hình(1) cùng đến chúc mừng quan Thị lang(2) họ Hoàng được bổ làm Hiệp trấn(3) Lạng Sơn.

Lang trung(4) bản bộ là Trạm Thành tử kính cẩn nghĩ suy, cùng đến chúc mừng:

Nơi biên cương trấn trị,
Sổ khoa hoạn rõ ràng,
Mấy lời tuy thô lậu,
Cốt diễn ý kính dâng.

Lời rằng:

Ngày tháng Tiểu hàn năm Đinh Tỵ (Nguyên chú: Tức trung tuần tháng 9 năm Cảnh Thịnh 5 đời Tây Sơn), Tả Thị lang bộ ta là Quý hầu họ Hoàng vâng mệnh giữ chức Hiệp trấn Lạng Sơn. Sau khi bái mệnh, sắp sửa đi nhậm chức, các quan trong khoa bộ ta cùng đến chúc tụng. Trên đường đi qua cửa nam thành, chợt gặp một người khách, liền rủ nhau vào quán rượu. Vừa ngồi yên chỗ, khách đã lên tiếng hỏi:

- Hôm nay chư vị quan tử mừng vui hiện ra trên mặt, hẳn là đến chúc tụng quan Tân hiệp trấn vừa mới được ban sủng mệnh(5) chăng?

Đáp:

- Đúng vậy.

Khách liền nói:

- Nước Nam ta có mười ba đạo(6), Lạng Sơn là ngoại phủ vàng lộ đồng sinh, đất đai chẳng hiếm của quí; hàng buôn vật bán, chung quanh của cải dư thừa. Chẳng hạn như các loại da ngựa, lộc hươu. Nào cỏ tiên mao thơm, nào củ vũ dự hiếm. Lại còn các hàng hoá giá từ Trung Quốc ùn ùn đưa sang, chư vị quân tử đến mừng các thứ này chăng?

Đáp:

- Nói như vậy là ý làm sao? Anh quả là người thô thiển nông cạn.

Khách lại nói:

- Đất Lạng Sơn núi non trùng điệp, khe suối quanh co. Kìa non Lưỡng Kháo càng nhìn càng lắm vẻ, đây động Tam Thanh đến đâu cũng thấy xinh. Pha Sơn đá gấm phô kỳ; Tiên Tình(7) dòng trong khoe lạ. Suỗi reo chim hót, cách ngạn đàn ca; sớm móc chiều mây, nửa trời gấm vóc. Khi lam chướng mà lắm cảnh thanh u; núi chót vót càng nhiều cảnh kỳ tú, những người tận mắt nhìn thấy, khác nào chắp cánh bay cao. Hẳn là chư vị quân tử thấy quí hầu ta là bậc nhân giả, trí giả(8) vui vì đắc kì sở, mà đến chúc tụng phải không ?

Đáp:

- Nghe lời anh nói, chẳng khác nào kẻ lấy gáo đong nước biển, dùng ống sậy nhìn lên trời cao. Lạng Sơn ta là một trấn nhỏ, song đường thông nam bắc, người Kinh người Thổ(9) ở xen lẫn, khác nào một tiểu đô hội. Núi non cao ngất, khe suối hẹp sâu, cũng là một tiểu danh thắng vậy. So với các xứ khác, ở đây có tài sản đất mỏ Tống Tinh, mỏ Tụ Long; hàng hoá khách buôn đưa tới lắm nhất phải tính đến chợ Vạn Ninh, chợ Mục Mã. Châu báu trăm ngàn, đất đai sinh sản; buôn bán xa gần, tàu xe nườm nượp. Đem so với các xứ thì mười phần Lạng Sơn may ra mới được một. Còn vẻ thắng cảnh non nước thì ở xứ nào mà chẳng có. Trời đất đặt bày, xem cho thật kĩ ắt thấy kì; hoa rơi nước chảy, tình cảm nảy sinh ắt là thấy thú. Động Tam Thanh sao sánh nổi cùng non Tam Đảo, chợ Kì Lừa đâu dám ví với đất Thăng Long. Còn Tây Hồ, Tản Viên, Sài Sơn, Yên Tử đều là danh thắng xếp hạng đệ nhát vậy. Xem thế thì biết rằng Lạng Sơn cũng chỉ là một trongmuôn vàn mà thôi.

Khách ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Thế thì chư vị quân tử chúc mừng thiên lệch mất rồi. Từng thấy các vị Hiệp trấn ở các xứ Hải Dương, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thanh Hoá, đều là từ chức Thị Lang được cử ra giữ biên trấn, há chẳng phải người của Bộ ta hay sao. Các vị tước chưa thấy ai được chúc mừng. Vậy thì lần chúc mừng này là vì cái chung hay vì cái riêng? Đây cũng là điều mà tôi chưa hiểu nổi. Bọn tôi mỉm cười nói:

- Câu hỏi thực nông cạn quá. Làm sao có thể hiểu được lẽ sâu sắc cậy?

Liền rời khỏi chiếu, giũ áo toan đứng dậy. Khách lại tráng chén rót thêm một tuần rượu nữa, rồi nói rằng:

- Tôi thật là kẻ quê mùa, xin được cho nghe mấy lời vàng ngọc.

Đáp:

Ôi ! Tình có nông sâu, cảnh có đồng dị, không thể nào khái quát hết được. Nay Quí hầu ta từng đã thi đỗ Tiến sĩ cập đệ khoa Đinh Mùi (1787), văn chương đức vọng của ngài đáng để cho bọn ta suy tôn lắm. Nay quan ngài đủ cân đai mũ mãng ra trấn giữ biên thùy, có đầy đủ tài năng ra giúp đời, đó là điều đáng mừng thứ nhất.

Khách nói:

- Mừng là phải lắm. Xin được tặng thêm một câu:

Vũ Môn vượt quá ba tầng sóng,
Đất Hán cho coi vạn lí thành.

Bọn ta lại nói:

Quí hầu ta được mời vào Kinh năm Qúi Sửu (Nguyên chú: Năm Cảnh Thịnh 1) rồi thăng làm Thị lang bộ ta. Mùa xuân năm Ất Mão, ngài vâng mệnh đến thành này thi hành công cụ. Phàm các án tụng đều xét đoán hết. Công chức đều thông, sự việc đều ổn. Sớm tối cậy nhờ, tả hữu tương trợ. Nay đã được đủ bốn năm, tình phận đã đến mức thế. Một sớm đón lấy ân mệnh, được ra cai quản trấn thành, khác nào cá côn được rời bờ bể cạn, hoặc như chim hồng tung cánh thẳng trời cao. Đó là điều đáng mừng thứ hai.

Khách lại xin được phụ hoạ thêm một câu nữa:

Bốn năm công vụ đà xong nhỉ,
Một lối đường mây thoả chí xưa.

Bọn ta lại nói:

- Lạng Sơn là đất biên ải, ngoài việc là nơi ngựa xe bưu dịch ra, còn là nơi giao thông nam bắc xung yếu. Có sứ thường xuyên sang thiên triều, đúng là bang quốc văn hiến. Ân điển triều đình giáng xuống, thư từ giao thiệp vãng lai. Các triều trước của nước ta thường xuyên tuyển chọn bậc hùng văn đại bút cho ra làm Đốc trấn(10) để lo việc ứng đối thù tiếp. Nay Quí hầu ta là người sớm đã thoả chí tang bồng, khoa mục đã có đại danh, chính sự lại thêm ưu hạng, minh mẫn, tinh thông, nhanh nhẹn, cái gọi là người quân tử ở nơi biên quận thì biên quận trở nên hệ trọng, có lẽ là để chỉ vào sự việc này đây. Sau khi ngài đến trấn nhậm thì thanh danh của ngài ắt sẽ lừng lẫy gần xa. Bảy châu(11) của trấn này đều được hưởng cảnh xuân phong hoà khí, mà bọn ta đây cũng sẽ được hưởng phúc khánh tốt lành. Vậy há chẳng vui hay sao? Đó là điều đáng mừng thứ ba.

Khách hớn hở cất lời ca rằng:

Xưa ở đất nam chừ xuân muôn hộc,
Nay lên ải Bắc chừ nguyệt ba thu!

Đáp:

- Đây cũng nên mừng rằng triều ta đã chọn được người tài. Khách quay lại vái thêm lần nữa. Bọn ta bèn thu thập mấy lời, rồi rủ nhau đến chỗ Trưởng quan ở Bộ rồi xin ngài hiệu chính lại cho. Đại quan xem đi xem lại mấy lần rồi nói:

- Thật cũng đáng được chúc mừng lắm sao?

Lúc ấy quan Tả Thị lang Cẩm Xuyên hầu đứng ở bên cũng nói:

Hay lắm ! Tuy gọi là tán tụng mà chẳng hề có chút xu nịnh.

Bọn ta liền giắt trong tay áo đi vào phủ chúc tụng”.

CHÚ THÍCH

(1) Bộ Hình: Một trong sáu bộ của bộ máy chính quyền trung ương thời Phong kiến, có chức năng trông coi về pháp luật, hình ngục…

(2) Thị lang: Quan chức ở cấp bộ, xếp dưới Thượng thư. Thị lang có hai viên là Hữu Thị lang và Tả Thị lang Bộ Hình.

(3) Hiệp trấn: Chức quan ở cấp Trấn. Theo qui chế cũ, ở cấp trấn, cơ quan cai trị cao nhất là Đốc trấn hay Trấn thủ, có quan phò tá là Hiệp trấn.

(4) Lang trung: Chức quan ở cấp bộ, xếp dưới Thị lang.

(5) Sủng mệnh: Ân mệnh đặc biệt tin yêu của vua.

(6) Mười ba đạo: Thời Lê nước ta chia làm 13 đạo, còn gọi là 13 trấn. Đến đời Tay Sơn về cơ bản vẫn giữ như thế. Mười ba đạo đó là: Sơn Nam, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây, An Quảng, Thái Nguyên, Lạng sơn, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá và Quảng Nam.

(7) Tiên tỉnh: Giếng tiên, nằm ở khu vực động Tam Thanh, nước giếng rất trong và mát, tương truyền chư tiên thường đến lấy nước ở đây.

(8) Nhân giả, trí giả: lấy ý ở câu cổ ngữ: “Nhan giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy = Người có nhân thường thích núi, người có trí thường thích nước” (Luận ngữ).

(9) Người Thổ: chỉ chung các dân tộc ít người ở vùng Lạng Sơn, gồm người Tày, người Nùng v.v…

(10) Đốc trấn: viên quan đứng đầu một trấn.

(11) Bảy châu: trấn Lạng Sơn thời đó gồm 7 câu là : châu Ôn, châu Thoát Lăng, châu Văn Quan, châu Văn Uyên, châu Thất Tuyền, châu Lộc Bình và châu Yên Bái.

TB

BẢN DI CHÚC THẮM ĐƯỢM TÍNH
NHÂN VĂN

PHẠM QUỐC BẰNG

Cụ Lương Văn Can, danh nhân của quê hương Nhị Khê - là một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa thục, một phong trào cổ vũ lòng yêu nước đầu thế kỷ XX.

Cụ qua đời năm 1927 tại Hà nội, Cụ có đôi dòng di bút ước mong mọi người đừng bao giờ quên nỗi đau mất nước mà hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử đã biết đến. Còn trong gia tộc thì cụ có để lại bản di chúc phần mở đầu bằng chữ Hán và phần nội dung bằng chữ Nôm. Bản di chúc này đã được cụ Lương Ngọc Lâm (con trai của cụ Cử Can) ghi vào cuốn Lương gia thế phả hiện còn để tại nhà thờ họ Lương làng Nhị Khê, tỉnh Hà Tây. Cụ Lương Ngọc Lâm đậu Cử nhân khoa Mậu Tý (1888).

Tìm hiểu nội dung bản di chúc, càng thấy nhân cách cao cả, thắm đượm tính nhân văn trong cuộc đời và sự nghiệp của cụ Lương Văn Can, người mà cách đây 7 thập kỷ (năm 1924) đã tự xuất tiền của xây dựng cho quê hương Nhị Khê ngôi trường tiểu học. Nhân kỷ niệm 70 năm khánh thành “Nhị Khê học đường” chúng tôi xin dịch, phiên âm toàn bộ nội dung bản di chúc của cụ Cử Can (biệt hiệu là Ôn Như) để bạn đọc cùng tham khảo.

LỜI DI CHÚC CỦA ÔN NHƯ
PHẦN MỞ ĐẦU
(nguyên bằng chữ Hán)

Ngày xưa anh em họ Điền dự định chia nhau tài sản trong gia tộc thì cây hoa kinh liền khô héo, đến khi họ hợp chung tài sản lại thì cây ấy trở lại xanh tươi. Từ ngàn năm nay giai thoại này còn truyền mãi. Nay nhà ta đang ở vào cảnh dở giàu dở nghèo dở sang và không sang; trong việc giáo dục con cháu, ta chỉ mong các con nên giữ gìn tài sản chứ đừng có tranh giành nhau; sau khi ta qua đời, các con phải biết nhường nhịn nhau, chớ tranh hơn tranh thiệt, làm hại đến gia phong. Ai không ghi nhớ lời này, sẽ không phải là con cháu ta vậy!

PHẦN NỘI DUNG
(nguyên bằng chữ Nôm)

Xưa có một nhà anh em muốn chia của, thì cây kinh tự héo, hợp của thì cây kinh lại tươi. Giống vô tri còn không muốn phân lìa, huống là người mà chẳng bằng thảo mộc hay sao? Nhà ta hai người thành, cẩn, cần, kiệm, mới gọi là lập nên, môn hộ; có được trung gia sản nghiệp. Đương buổi đời nay, thương chiến kịch liệt, khôn sống mống chết hơn được kém thua; cứ như bấy nhiêu tư vốn hợp lại thì còn đủ xoay xở; chia ra thì không thể đua tranh. Phàm trong nhà con và cháu đều nên đồng tâm hiệp lực; cùng làm cùng lo; đừng nghĩ tiền chung mà tiêu hoang; đừng nghĩ của chung mà làm biếng; ăn cũng cùng vị; mặc cũng cùng sắc. Trẻ con phải bắt học cho sớm, chớ để lớn lên mà vô nghiệp. Cứ giữ chữ công, chữ nhẫn mà ở với nhau. Mỗi năm tính vốn một lần, chia lợi ra làm bốn phần, hai phần để làm chi tiêu; một phần để thêm vào làm vốn; một phần để làm sự công ích hoặc đợ người gặp nạ. Ai cũng có lòng liêm nhượng; không có sinh lòng phân cách. Như thế thì dù chưa được như cổ nhân chín đời cùng của, nhưng cũng nên tiếng là một nhà túc mục, ta hai người cũng ngậm cười dưới cửa tuyền, mà không di hối gì nữa. Các con, cháu, dâu, rể phải nhớ lấy mà đừng quên.

Lời chúc này chuyên nói về một việc: khoản tiền tài; như đạo lý làm người ở đời, phải cứ cách gia huấn mà học tập, thì nhân cách mới được hoàn toàn.

TB

THÊM MỘT BẢN ĐỊA BẠ ĐỜI THÁI ĐỨC

HUỲNH CÔNG BÁ

Vừa qua, trong quá trình đi nghiên cứu điền dã tại làng Quảng Hoá, nay thuộc xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, chúng tôi lại tìm thêm được một bản địa bạ đời Thái Đức (Nguyễn Nhạc) năm thứ 8 (1785)(1). Đây là loại địa bạ xưa, còn lại rất ít trong các làng xã ở Quảng Nam - Đà Nẵng, mà thỉnh thoảng những người nghiên cứu thực địa mới lại bắt gặp.

Còn ở các cơ sở lưu trữ thì không thấy. Chẳng hạn ở Cục lưu trữ I Hà Nội hiện có 935 tập địa bạ thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng (mới đưa từ Cục lưu trữ II tại TP. Hồ Chí Minh ra), nhưng thảy đều là địa bạ đời Gia Long trở về sau. Còn trong thư mục của Thư viện Viện Hán Nôm thì không thấy có địa bạ thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng, và ở đó hầu hết cũng là loại địa bạ từ đời Gia Long trở đi. Dưới thời Pháp thuộc, trong những năm 1943-1944, các phái đoàn sưu tra lịch sử, di tích và cổ chỉ của Học viện Viễn đông Bác cổ đến Quảng Nam, thỉnh thoảng đôi nơi họ có bắt gặp loại địa bạ này và họ gọi là “Tiền bộ” để phân biệt với “Hậu bộ” là bộ Gia Long, và họ đã sử dụng nó như là một trong những cơ sở để xác định vấn đề “tiền hiền khai khẩn” tại các làng xã Quảng Nam. Đối với loại bộ xưa hơn nữa ở Quảng Nam Đà - Nẵng, chúng tôi mới chỉ tìm được một số bộ đinh niên hiệu Cảnh Hưng, chứ bộ điền Cảnh Hưng thì chưa bắt gặp. Như vậy, có thể nói địa bạ Thái Đức là một trong những loại tư liệu gỗc quý hiếm, cần thiết cho công tác nghiên cứu lịch sử, biên soạn địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng và mảnh đất miền Trung nói chung.

Bản địa bạ đời Thái Đức của làng Quảng Hoá mà chúng tôi vừa tìm được, gồm có 6 tờ (tức 12 trang), viết trên giấy bổi, khổ 29,5cm x 18,5cm, chữ Hán, Nôm. Văn bản bị mất tờ đầu, chỉ còn lại 5 tờ ruột và cuối, gồm 10 trang. Cách ghi chép của bản địa bạ có khác với bản địa bạ châu Bàu Tròn mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu. Ở bản địa bạ này không có mục ghi cụ thể từng sở đất của từng chủ hộ và phần “đông tây tứ cận” của nó. Mà cùng với nó, mỗi chủ hộ ở đây có một bản kê khai riêng, cũng có dấu chứng nhận của nhà nước, trong đó kê rõ từng thửa đất của mình, nơi “toạ lạc” và “đông tây tứ cận”, xuất xứ sở hữu và chế độ thuế khoa v.v… Chúng tôi có tìm được một văn bản thuộc loại này của chủ hộ Lê Thế Lưu, gồm 5 tờ (10 trang), kê biên 17 sở đất thuộc 3 “xứ toạ lạc” là Cây Gạo, Trung Đồng và Cây Dừa, tổng cộng là 5 mẫu 4 sào 2 thước. Văn bản đề ngày 19 tháng 10 năm Thái Đức 8, có đóng dấu “Phó chấp bằng - Phụ chính”. Như vậy, có thể nói, bản địa bạ Thái Đức làng Quảng Hoá là một loại địa bạ ghi chép theo lối tổng hợp, bao gồm 3 đề mục cơ bản. Trước hết là tổng diện tích ruộng đất đã khai thác từ trước (do tổ tiên ông cha khai phá để lại cho con cháu) và hiện đang được canh tác và nộp thuế cho nhà nước của toàn bổn châu. Thứ hai là tổng số loại ruộng đất mới vừa được tiến hành khai khẩn, dưới thời chính quyền Tây Sơn, do chính sách khẩn hoang mở rộng diện tích, và loại ruộng đất phế canh trong những năm “tao loạn binh cách”, mới vừa được phục canh do chính sách phục hoá, phục hồi sản xuất nông nghiệp của nhà nước Tây Sơn. Thứ ba là phần liệt kê tổng hợp số ruộng đất của 20 chủ hộ, có đất đai toạ lạc tại bổn châu, cũng gồm 2 loại: loại “dĩ nộp quan thuế” và loại “thủy canh vị nộp quan thuế”. Cuối cùng là lời cam đoan đã khai đầy đủ, đúng thực, họ tên và dấu “điểm chỉ” của những người đại diện cho bổn châu đứng khai, chữ ký của người “tá bộ”. Nhật kỳ và niên hiệu của văn bản ghi là “Thái Đức bát niên, thập nhất nguyệt, thập tam nhật” (tức ngày 13 tháng 11 năm Thái Đức thứ 8 -1785) có đóng dấu “Phó chấp bằng” của quan “phụ chính” và ấn son của nhà nước. Từ đầu của bản địa bạ bị mất, nhưng qua các văn bản ruộng đất khác cũng của làng này cũng do những người như trên đứng khai và được viết cùng một năm (Thái Đức 8) với bản địa bạ, cách một vài tháng, chúng tôi thấy có thể phục hồi đầu đề của bản địa bạ như sau: “Ất Tỵ niên: Quảng Hoá Đại Châu - Phú Châu thuộc - Thổ số” (tờ 1a). Và ở tờ 1b đoạn đầu có thể nội dung như sau: “Điện Bàn phủ nội phủ, Diên Khánh huyện, Phú Châu thuộc, Quảng Hoá Đại Châu (làng này về sau đổi là Quảng Hoá Châu). Tiện nghi Xã Chúc Lê Thế Lưu, giáp Nhiêu Lê Thế Điển, giáp Lục Huỳnh Văn Lan, bổn châu đẳng thân kê (Đây cũng là những người đã đứng tên “điểm chỉ” ở cuối văn bản). Sau đây chúng tôi xin tổng hợp thống kê số ruộng đất của 20 chủ hộ dựa trên nội dung của văn bản.

SỐ TT HỌ VÀ TÊN CHỦ HỘ SỐ ĐÂT THUỘC DIỆN ĐÓNG THUẾ SỐ ĐẤT MỚI BẮT ĐẦU CANH TÁC CHƯA NỘP THUẾ TỔNG CỘNG ĐẤT SỬ HỮU
1 Xã Chúc Lê Thế Lưu 4m 4s 0 t 0 t 0 p 1m 0 s 2 t 0 t 0 5m 4 s 2 t 0 t 0
2 Giáp Nhiêu Lê Thế Điền 4 - 9 - 1 - 6 - 0 - 1 - 6 -14 - 2 6 -6 - 0- 8 – 0 -
3 Giáp Lục Huỳnh Văn Lan 2 - 0 - 1 - 5 - 0 - 0 - 2 - 3 - 6 - 2 - 2 - 5 - 1 - 0 -
4 Thẳng Biện Huỳnh Văn Biện 1 - 2 -12- 0 - 0 - 0 - 5 - 8 - 4 - 1 - 8 - 5 - 4 - 0 -
5 Lão Hải Nguyễn Đăng Trung 2 - 7 - 0 - 0 - 0 - 0 - 2 - 1 - 0 - 2 - 9 - 1 - 0 - 0 -
6 Giáp Bái Nguyễn Văn Nếm 0 - 3 - 0 - 0 - 0 - 0 - 1-10 - 1 - 0 - 4 -10- 1 - 0 -
7 Cha Thực Huỳnh Văn Xu 1 - 3 - 0 - 0 - 0 - 0 -5 -11 - 5 - 1 - 8 -11- 5 - 0 -
8 Lão Trụ Nguyễn Văn Châm 2 -4 -10 - 5 - 0 - 0 - 6 - 3 - 0 - 3 - 0 -10- 8 - 0 -
9 Mụ Thạc Nguyễn Thị Mai 5 - 8 - 9 - 0 - 0 - 1 - 7 -10- 7 - 7 - 6 - 4 - 7 - 0 -
10 Con Thân Nguyễn Thị Việt 1 - 9 -12- 7 - 5 - 0 - 7 -13- 5 - 2 - 7-11 - 2 - 5 -
11 Thự Huy Nguyễn Tiến Tuân 0 - 2 - 0 - 0 - 0 - 0 - 0 - 8 - 0 - 0 - 2 - 8 - 0 - 0 -
12 Mụ Kiệt Lê Thị Diện 0 - 2 - 0 - 0 - 0 - 0 - 0 - 1 - 5 - 0 - 2 - 1 - 5 - 0 -
13 Giáp Tường Lê Phúc Kiên 0 - 4 - 3 - 0 - 0 - 0 - 3 - 5 - 6 - 0 - 7 - 8 - 6 - 0 -
14 Thằng Hiên Nguyễn Văn Hiên 0 - 5-13 - 5 - 0 - 0 - 2 - 7 - 7 - 0 - 8 - 6 - 2 - 0 -
15 Mụ Đắc Trịnh Thị Mẫn 0 - 2 - 0 - 0 - 0 - 0 - 1 - 0 - 0 - 0 - 3 - 0 - 0 - 0 -
16 Thằng Nhiên Nguyễn Văn Nhiên 0 - 2 - 7 - 5 - 0 - 0 - 0-10 - 5 - 0 - 3 - 3 - 0 - 0 -
17 Mẹ Yển Nguyễn Thị Doãn 0 - 0 - 0 - 0 - 0 - 0 - 1 - 3 - 5 - 0 - 1 - 3 - 5 - 0 -
18 Trùm Năm Lê Tất Sĩ 0 - 2 - 0 - 0 - 0 - 1 - 2 - 9 - 5 - 1 - 4 - 9 - 5 - 0 -
19 Trưởng Thành Lê Viết Năng 0 -1- 11 - 2 - 5 - 0 - 0 - 0 - 0 - 0 -1- 11 - 2 - 5 -
20 Thằng Cách Trương Văn Chiến 0 - 2 - 7 - 5 - 0 - 0 - 0 - 7 - 5 - 0 - 3 - 0 - 0 - 0 -

Tổng cộng đất canh tác của toàn châu là: 39 mẫu 0 sào 8 thước 2 tấc. Trong đó:

- Loại “Cựu thổ dic nộp quan thuế” là : 29 mẫu 7 sào 0 thước 1 tấc.

- Loại “thủy khai vị nộp quan thuế” là : 9 mẫu 8 sào 9 thước 1 tấc. Loại này bao gồm 2 bộ phận:

+ Bộ phận “cựu phế canh hoàn thực” là 3 mẫu 3 sào.

Bộ phận “thuỷ tăng ngoại ngữ thổ” là 5 mẫu 5 sào 9 thước 1 tấc.

*

Những thông tin từ bản địa bạ là tư liệu gốc để hiểu biết tình hình lịch sử khai phá đất Quảng Hoá, đặc biệt là công cuộc khai hoang phục hoá ở Quảng Hoá dưới thời Tây Sơn, nó góp phần xác định những tộc họ tiền hiền ở làng này, nó cho biết về tên gọi làng xã và vấn đề phân cấp hành chính tại địa phương này lúc bấy giờ, nó cung cấp những hiểu biết về tổ chức xã thôn và thứ bậc xã hội của cư dân địa phương, nó cũng cho biết về số hộ và có thể phỏng đoán cả về nhân khẩu của địa phương lúc bấy giờ. Ngoài ra, bản địa bạ còn là một minh chứng hùng hồn, cụ thể và xác thực về chính sách quản lý ruộng đất, chính sách khẩn hoang, phục hoá và bao trùm lên là chính sách khuyến nông, phục hồi kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp của chính quyền Tây Sơn, ngay sau khi họ giải phóng đất Quảng Nam. Đó là một trong những mặt tích cực của nhà nước Tây Sơn, mà người đề xuất những việc làm này có thể là phụ chính Nguyễn Huệ. Và có thể đó là một bước thực hiện ban đầu, chuẩn bị cho sự ra đời của một chính sách lơn: chiếu khuyến nông dưới niên hiệu Quang Trung sau này.

CHÚ THÍCH

(1) Năm 1993 chúng tôi có tìm được một bản địa bạ đời Thái Đức thuộc châu Bàu Tròn và đã giới thiệu trên tạp chí Hán Nôm số 4 (17) 1993)./.

TB

VỀ ĐẠO SẮC "TỬ DƯƠNG THẦN TỪ" SỚM NHẤT HIỆN CÒN

CUNG KHẮC LƯỢC
CHU QUANG TRỨ

Làng Tử Dương, tên Nôm gọi làng Tía thuộc xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.

Làng ấy theo Hương phả(1) có rất nhiều vị làm Thầy: Thầy đồ dạy chữ và Thầy lang chữa bệnh, có nhiều người đỗ đạt cao, có nhiều người làm quan trong Viện Thái y các triều Lê-Nguyễn. Từ thời Lê, nhiều người làng ra Kinh thành Thăng Long, đã tụ lại lập hẳn một phường gọi là: “Đông Hoa Thị” có đền thờ riêng, nay ở số 8 Hàng Buồn, Hà Nội, và hiện vẫn còn bia đá với lòng văn, dựng từ năm Cảnh Hưng 28 (1767)(2).

Đình ở quê mới được trung tu, còn đền ở Hàng Buồn thì đã trở thành nhà dân. Thần phả gôc không còn. Dân làng nhớ hội lệ, nhưng không hiểu thật rõ sự tích Thành hoàng. Tuy nhiên một loạt câu đối, hoành phi còn lại đều tập trung ca ngợi công đức của vua Lê Đại Hành (ở Đình quê) và của đức Hưng Đạo Đại Vương (ở Đền Hàng Buồn). Hai vị anh hùng dân tộc này đã thành các Phúc thần của người Tử Dương; song biết đâu đó chả thuộc vào lớp văn hoá (tín ngưỡng) muộn? Chúng tôi muốn hiểu tận nguồn một cách chính thức, bằng con đường tư liệu Hán - Nôm, nên đã ra công lục tìm ở địa phương sở tại và cả ở Hà Nội qua những người quê gốc Tử Dương. Kết quả bước đầu phát hiện ra nhiều bia đá (chỉ riêng trong 1 ngôi chùa làng đã có hơn 30 tấm bi ký), chuông đồng, hương ước, hương phả… được viết trong các thế kỷ 17-18-19 và đầu thế kỷ 20. Song tất cả chưa hé một tia sáng mới nào. Thế rồi nhớ ra rằng, trước đây Vụ Bảo tồn-Bảo tàng Bộ Văn hoá Thông tin vào những năm của thập kỷ 60 đã tiến hành thu thập và bảo quản được một số sắc phong Thần. Có thể trong số đó có sắc của Tử Dương? Theo hướng tìm này, đến cơ quan nói trên, được ông A.Vụ Trưởng cho phép, được bà Thời và ông Nhất là các cán bộ nghiệp vụ ở đây tận tình giúp đỡ, chúng tôi đã tìm thấy đạo sắc góc trên mặt sau ghi 4 chữ Hán viết bằng son theo hàng dọc, đọc theo âm Hán Việt là “Tử Dương Thần tự”. Văn bản này mang số đăng ký là 01, vốn gốc ở đền thôn Tử Dương (Tía) tỉnh Hà Đông (cũ).

Sắc rộng chừng 1m40 cao 45cm, cùng khuôn khổ với nhiều đạo sắc thuộc các đời vua trong ba triều đại Lê, Tây Sơn và Nguyễn, làm bằng loại giấy dó chuyên để viết sắc, có màu vàng đậm, khá dày. Nền nổi hiện hình rồng mây vẽ tay thuộc phong cách trang trí thời Mạc. Cuối sắc, trên dòng niên hiệu vua có đóng tỉ ấn hình vuông to màu son với 4 chữ Triện: Sắc Mệnh Chi Bảo”, khẳng định đây là bản chính của triều đình phong tặng. Mép Sắc một số đoạn giấy bị sờn, nhưng không ảnh hưởng đến chữ nào cả.

Toàn văn đạo Sắc được viết thành 12 cột chữ Hán, nói chung mỗi cột 7 chữ, riêng cột đầu có thêm chữ “Sắc” viết nhô dài lên, cột 11 cuối nội dung Sắc chỉ cơ 2 chữ “Cố Sắc”, sau đó cách một khoảng xa thì đến cột niên đại gồm 10 chữ với dấu son.

Xin phiên âm Hán-Việt toàn văn với sự ngắt câu của chúng tôi, như sau:

“Sắc

Dực tĩnh phù tế, phổ thí hồng trạch, uyên hựu đại long vương. Thiên địa chi linh, nhạc đọc chi tú. Biến hoá vô phương, Thần vận bất trắc, Nhị Ngũ Khí chi tinh anh; Cảm thông phất viễn, mặc tướng khổng hoằng, vạn ức niên chi hiển ứng. Giải tác phổ thí ư hồng trạch; Hoán bao tặng diệu ư Long ân. Khả thăng THƯỢNG ĐẲNG THẦN TỪ.

Cố sắc!

Sùng Khang cửu niên thập nhất nguyệt sơ lục nhật.

“Sắc Mệnh Chi Bảo”

Biết rằng câu chữ trên Sắc rất cô đọng, mỗi từ hàm nhiều ý, nên chúng tôi đã gắng tra cứu từ điển, tạm dịch có ken thêm đôi chữ của chúng tôi viết trong ngoặc đơn để cho câu văn tiếng Việt lọn nghĩa:

“Sắc (phong): Dực tĩnh Phù tế Phổ thí Hồng trạch uyên hựu Đại Long Vương: Sự linh thiêng của trời đất, vẻ tươi đẹp của núi sông; Biến hoá muôn phương, Thần thông khó đoán, gộp tinh anh của khí ngũ hành; cảm thông gần gũi, phù hộ khắp nơi, hiển linh ứng suốt, muôn vạn năm; Cởi dữ làm lành, rộng ban ân trạch; Tặng khen rạng rỡ, long trọng ơn trên. Khá thăng (là) Đền Thần Thượng Đẳng.

Nay Sắc (phong)!

Ngày mùng 6 tháng 11 niên hiệu Sùng Khang năm thứ 9 (tức năm 1574) Con dấu) Sắc Mệnh chi bảo.

Với niên đại 1574, chúng tôi được biết đây là đạo sắc sớm nhất ở nước ta còn giữ được đến nay. Chỉ điều này thôi cũng khẳng định đạo sắc này là một di vật lịch sử - văn hoá - nghệ thuật quí báu. Niên hiệu Sùng Khang là của Mạc Mậu Hợp. Ông vua này lên ngai vàng từ khi còn 2 tuổi, rồi trị vì những 30 năm (1562-1592), là vua cuối cùng của triều nhà Mạc ở Thăng Long, từng thay đổi niên hiệu tới 6 làn với ý mỗi khi gặp phải “vận đen”, thì thay tên đổi hiệu, để tìm cầu vận hội mới tốt đẹp hơn. Chính đời Mạc Mậu Hợp chiến tranh với Lê - Trịnh diễn ra liên miên, song thủ công nghiệp và kinh tế hàng hoá lại phát triển, nhiều di tích văn hoá - nghệ thuật được xây dựng và rất được lòng dân, nhất là với xứ Đông quê hương của nhà Mạc.

Đạo Sắc đền Thần ở Tử Dương (Tía) cũng tương ứng với loạt Thần Phả sớm nhất, hiện được biết, do Hàn lâm Viện Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn, với niên đại Hồng Phúc nguyên niên (1572), theo niên hiệu của vua Lê Anh Tông thuộc Nam triều. Như vậy có lẽ vào nửa thế kỷ 16, trong lúc chiến tranh Nam-Bắc triều gia tăng, các triều đinh Lê-Trịnh và Mạc đều tìm đến sức mạnh Thần Linh, tranh thủ phong Thần và nâng cấp đến thờ Thần. Và nhờ đó, về văn hoá và lịch sử, chúng ta có thêm một nguồn tài liệu thành văn nữa là Thần phả và sắc phong, văn tự hoá được nhiều tư liệu truyền miệng đương thời.

Trở lại nội dung đạo sắc, chúng ta nhận diện được một tầng văn hoá cổ nhất ở Tử Dương (Tía) (chí ít với tư liệu mà hôm nay có được): Thành hoàng là NHIÊN THẦN; nhân cách hoá một sức mạnh siêu nhân của NƯỚC với hình tượng ĐẠI LONG VƯƠNG, còn dư vang bóng dáng RỒNG RẮN. Thần là sự kết hợp nhuần nhuyễn của 2 khí ÂM - DUƠNG, của 5 tố chất NGŨ HÀNH tạo nên VŨ TRỤ và điều hành sự phát triển của vũ trụ.

Với người dân Tử Dương (Tía) đang phụng thờ Thần, thì Thần vừa cao xa với vợi “sâu xa khôn dò”, “biến hoá muôn phương”, con người “không thể đoán được Thần vận”… cũng lại vừa như luôn luôn ở bên, để lúc nào cũng “cảm thông gần gũi, giúp đỡ âm thầm”. Thần là vị Phúc thần gắn chặt với “Trời đất thiêng liêng” và “núi sông tươi đẹp”, tồn tại bất diệt “muôn vạn năm hiển ứng”. Và sự hiển ứng của Thần là để “chở che rộng khắp, phù việc trị an, vớt kẻ hoạn nạn, gia ơn cho mọi người”. Chính vì thế Thần là chỗ dựa tin cậy nhất của dân làng với sự kỳ vọng “cởi dũ làm lành”, “rộng ban ân trạch nhuần hoà cho muôn vật”. Nhà nước trung ương với quyền lực bao trùm xã hội phải thừa nhận công đức của Thần, tặng ban Sắc phong và khẳng định nơi thờ là “Đền Thần Thượng Đẳng”!

Lớp văn hoá này gắn với văn minh nông nghiệp lúa nước, thuộc cơ tầng văn hoá xóm làng Việt trong thời dựng nước lâu dài, nó phù hợp với hội lễ Xuân - thu ở miền đồng bằng nổi trội các trò chơi đua thuyền, đá cầu, thả diều, đánh đu… để cầu mưa và cầu phồn thực.

Nhưng với gây cấn của một xă hội nhiễu nhương và nhất là những gay cấn của thời giữ nước, lớp văn hoá trên bị mờ dần, để rồi phủ lên một lớp văn hoá mới thờ các vị anh hùng dân tộc nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống ngoại xâm.

Giới thiệu đạo sắc “Tử Dương Thần Từ” với niên đại 1574, mà bao nhiêu năm nay được cất kỹ trong kho tư liệu của ngành văn hoá, chúng tôi muốn đưa của báu từ trong rương trong hòm ra tủ kính để chúng ta cùng chiêm ngưỡng và suy ngẫm. Đạo sắc sớm này có thể xem là mẫu chuẩn cho Sắc của các thời sau ở cả chất liệu, khuôn khổ, trang trí nền, nghệ thuật trình bày và chữ viết; là chứng chỉ công nhận di tích và liệt hạng cao nhất của triều đình nhà Mạc. Đặt nó vào hoàn cảnh xã hội phong đương thời, chúng ta có thể nhận ra một lối ứng xử văn hoá-chính trị khôn khéo của xã hội quân chủ xưa, đồng thời cũng bóc tách rõ các tầng văn hoá ở địa phương để nhận diện một tầng văn hoá cơ sở nhất.

Cuối cùng, dù sao những suy nghĩ trên đây cũng vẫn chỉ là một giả thiết - một giả thiết để nghiên cứu - mong được đồng nghiệp trao đổi và các quí vị cao minh chỉ giáo, đó là hạnh phúc mà chúng tôi không dám mong hơn.

CHÚ THÍCH

(1), (2) Xem: Di sản Hán Nôm làng Tử Dương, Nxb.Văn hoá, H.1994./.

TB

BÀI THƠ XUÂN CỦA TRẦN NGỌC DƯ (1841-1925)

VŨ ĐÌNH NGẠN

Trần Ngọc Dư (1841 1925) người làng An Bồi, huyện Trực Định nay là huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, là học trò môn sinh trưởng tràng của nhà văn thân yêu nước Nguyễn Quang Bích. Ông đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) triều Tự Đức, được bổ làm Tri huyện Phong Doanh (Nam Định), rồi Tri huyện Nghi Lộc (Nghệ An). Chán ghét chế độ thực dân phong kiến, ông bỏ việc quan rồi lên chiến khu Tây Bắc theo thầy học là Nguyễn Quang Bích dựng cờ khởi nghĩa chống Pháp.

Để trả thù ông, giặc Pháp ra lệnh truy lùng ráo riết, do đó, một số người sợ liên lụy, không dám đi lại thăm hỏi như trước.

Nhân ngày tết ông bí mật về thăm làng, thấy quê hương bị giặc Pháp dầy xéo, trong lòng đã đau xót lại ghét thói đời lạnh nhạt, ông làm bài thơ tức cảnh như sau:

Xuân nhật quy cố hương
Tự Tây châu chiến luỹ,
Xuân nhật quy cố hương,
Tâm trung đa cảm khái,
Tặc đảng tứ xương cuồng!
Pháp tặc lệnh tróc dư,
Bô trung bằng hữu ty,
Hoàng khuyển ngoạ sài môn,
Kiến dư bất thăng hỉ!
Ái chủ tình nghĩa thâm,
Dũng được dao kỳ vĩ,
Khủng liên lụy đẳng nhân,
Đối khuyển chân khả quý!
(An Phong thi tập)

Tạm dich:

Ngày xuân về thăm làng
Từ chiến khu Tây Bắc,
Ngày xuân về thăm làng,
Trong lòng bao cảm khái.
Lũ giặc đang ngông cuồng!
Giặc Pháp truy lùng ta,
Gặp nạn bạn bè tránh,
Nằm cổng con chó vàng,
Thấy ta nó mừng quýnh!
Mến chủ tình nghĩa sâu,
Chồm lên nó mừng rỡ,
Bỏ bạn lúc nguy nan,
Thấy chó đáng xấu hổ!
(Vũ Đình Ngạn sưu tầm và dịch thơ)

TB

TẠP CHÍ HÁN NÔM HỌP CỘNG TÁC VIÊN
ĐẦU NĂM

Vừa qua, nhân đầu năm 1995, TCHN đã tổ chức cuộc họp mặt với cộng tác viên để điểm lại tình hình tạp chí năm qua và bàn phương hướng cho các số tạp chí sắp tới. Đông đảo cộng tác viên đang có mặt tại Hà Nội đã đến dự.

Thay mặt Ban biên tập tạp chí, GS.Trần Nghĩa đã báo cáo công tác tạp chí năm 1994, nêu những cố gắng của tạp chí trong việc nâng cao chất lượng cả về nội dung bài vở lẫn hình thức trình bày, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc.

Trong năm 1994, TCHN đã ra đủ 4 số, với khoảng 70 bài viết lớn nhỏ của hơn 80 tác giả. Nhiều tư liệu mới về Hán Nôm, trong đó có địa bạ, địa chí, gia phả, thần sắc, thần phả… được công bố, nhiều thành tựu nghiên cứu mới về văn tự, văn bản, thư tịch, văn hiến khu vực… được giới thiệu. Tạp chí cũng đã tổ chức được một số cuộc tranh luận học thuật bổ ích, nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề khoa học còn tồn nghi trên lĩnh vực Hán Nôm. Những bài đọc sách đăng trên tạp chí tuy ngắn gọn, cũng đã có những tác dụng nhất định đối với công tác in ấn, xuất bản hiện nay.

Về hướng tạp chí năm 1995, báo cáo của GS. Trần Nghĩa nhấn mạnh việc tiếp tục công bố tư liệu mới trên tạp chí tăng hàm lượng thông tin trong các bài viết; đẩy mạnh hơn nữa việc thảo luận, tranh luận các vấn đề Hán Nôm học; nhận xét, góp ý kiến cho các công trình Hán Nôm xuất bản, v.v…

Những người dự họp đã nhất trí về cơ bản với các phương hướng trên đây của tạp chí và cùng bàn thêm phương cách để tạp chí tiếp tục “ăn nên làm ra”.

P.V

TB

TIN ĐÀO TẠO

Năm 1993 Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã được Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo trên đại học (Tiến sĩ và phó Tiến sĩ) chuyên ngành Hán Nôm. Cuối năm 1994, Viện Nghiên cứu Hán Nôm lại tiếp tục được giao nhiệm vụ đào tạo cao học (Thạc sĩ) chuyên ngành Hán Nôm theo quyết định số:3853/GD-ĐT ngày 13 tháng 12 năm 1994 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chương trình đào tạo cao học Hán Nôm do Viện soạn thảo theo quy chế mới của Vụ Sau đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) về đào tạo cao học trong nước nhằm đào tạo những người có trình độ học vấn vững vàng, đồng thời có một kỹ năng tinh thông, thích ứng với sự phát triển của khoa học, giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra và có thể học lên đạt học vị cao hơn.

Khung chương trình:

+ Kiến thức chung bắt buộc bao gồm các môn: Triết học, Ngoại ngữ và Ngôn ngữ văn tự với 30m đơn vị học trình;

+ Chuyên môn bắt buộc bao gồm các môn: Kinh điển nho gia, Bách gia chư tử,

Hán văn Trung Quốc và Hán Nôm Việt Nam với 30 đơn vị học trình.

+ Chuyên môn tự chọn bao gồm các môn: các chuyên đề và các môn phụ trợ với 10 đơn vị học trình.

+ Luận án Thạc sĩ Hán Nôm.

Hình thức đào tạo:

+ Hệ tập trung 2 năm

+ Hệ tại chức 3 năm.

Bằng cấp:

+ Khi tốt nghiệp học viên được cấp bằng Thạc sĩ Hán Nôm. Hiện nay Viện đang chuẩn bị tuyển sinh cao học Hán Nôm khoá I vào quý II năm 1995.

Được sự đồng ý của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, sắp tới Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ mở lớp Bồi dưỡng kiến thức Thư pháp học.

Học viên theo học được hướng dẫn về những kiến thức cơ bản của Thư pháp học, chương trình bao gồm:

+ Cơ sở lý luận Thư pháp học.

+ Lịch sử thư pháp (Trung Quốc và Việt Nam).

+ Thư pháp thực hành.

Thời gian học: 3 tháng.

Sau khoa học, học viên được cấp chứng chỉ của cơ sở đào tạo.

TB

TIẾN TỚI ĐẠI HỘI LẦN THỨ VI
HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM

Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Hội nhà báo Việt Nam khoá V đã ra nghị quyết về việc tổ chức Đại hội lần thứ VI của Hội nhà báo Việt Nam dự định họp vào thượng tuần tháng 3 năm 1995 tại Thủ đô Hà Nội. Đây là dịp sinh hoạt chính trị, nghiệp vụ, và đạo đức nghề nghiệp của những người làm báo. Đại hội có trách nhiệm đánh giá phong trào báo chí đổi mới vì sự nghiệp đổi mới đất nước chính trị năm qua, đồng thời xác định phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục đổi mới và phát triển báo chí phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hơn nữa chất lượng tổ chức và hoạt động của tổ chức Hội từ Trung ương đến cơ sở.

Để chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc, Chi hội Tạp chí Hán Nôm đã tiến hành Đại hội cơ sở vào ngày 6/10/1994 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đại hội đã thảo luận sôi nổi và đóng góp nhiều ý kiến vào các văn kiện do Ban thư ký Hội nhà báo Việt Nam gửi tới trong đó có bản Đề cương dự thảo báo cáo của Ban chấp hành khoá V tại Đại hội lần thứ VI Hội nhà báo Việt Nam dưới tiêu đề: “Báo chí vì sự nghiệp đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, cùng một số tài liệu khác như “Điều lệ Hội nhà báo Việt Nam” (sửa đổi), “Quy ước về đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam”, v.v.

Đại hội Chi hội Tạp chí Hán Nôm cũng đã bầu được 1 đại biểu (theo quy định) di dự Đại hội cấp trên.

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH CỦA PIGNEAU DE BE'HAINE

LTS: Bộ sách nguyên mang tên Dictionnarium Anamitico Latinum, bản thảo viết tay, do Pierre Pigneau do Béhaine (1741 - 1700) soạn tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII.

Pigneau do Béhaine (gọi tắt là Pigneau) có tên Việt là Bá Đa Lộc hay Bi Nhu, người Pháp, đến Việt Nam vào năm 1765. Từ 1780 trở về trước, ông chủ yếu là một nhà truyền giáo. Ông có bị Chúa Đàng ngoài là Trịnh bắt giam khoảng một tháng rồi được thả. Từ 1780 trở về sau, ông có liên hệ với Nguyễn Ánh trong việc chống lại chúa Trịnh, rồi sau đó là phong trào Tây Sơn. Ông mất tại Việt Nam vào năm 1799, mộ ông hiện còn tại Tp. Hồ Chí Minh.

Do lâu năm sống và hoạt động trên đất nứoc ta, Pigneau khá quen thuộc với đồng đất, con người miền Nam và thông thạo tiếng Việt. Ông còn giỏi cả chữ Hán lẫn tiếng Trung Quốc. Ngoài bộ từ điển Việt - Latinh, ông còn soạn các sách như Chinois- Annamite- Latin (Từ điển đối chiếu giữa ba thứ tiếng Trung Quốc, Việt Nam và Latinh) và Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ (bằng chữ Nôm, soạn năm 1774, in năm 1782 tại Quảng Đông).

Riêng bộ Từ điển Việt- Latinh có các đặc điểm như sau: sách được biên soạn xong vào năm 1773, tại miền Nam nước ta, dày 732 trang (64+4+664), cỡ 34,5 x 24cm, bản thảo viết tay, gồm phần tra cứu chiếm 67 trang và phần chính văn chiếm 662 trang (không kể vài ba trang phụ). Phần tra cứu gồm một bảng đối chiếu chữ Nôm và chữ Quốc ngữ và một bảng hướng dẫn cách tra một số chữ Nôm khó. Phần chính văn gồm 5.943 mục từ, nếu kể cả các từ kép hoặc cụm từ trong phần hạng nghĩa, số từ vựng dễ chừng lên tới bốn năm vạn(1).

Xét thấy, đây là một bộ từ điển rất quý, có thể giúp ích chúng ta trong việc nghiên cứu về tiếng Việt cổ, chữ Quốc ngữ cổ, đặc biệt chữ Nôm thế kỷ XVIII, Tạp chí Hán Nôm bắt đầu từ số 1 (14)-1993 lần lượt đăng thành nhiều kỳ toàn văn bộ từ điển để bạn đọc cùng tham khảo. Phần chính văn sẽ được đăng trước, phần tra cứu sẽ đăng cuối cùng.

Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Văn khố của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris (Séminaire des missions étrang res, Paris) nơi hiện đang tàng trữ bản thảo bộ từ điển, cùng Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Đông Á hiện đại (Centre d’estudes et de recherches IÁsie orientale contemporaine) thuộc Trường Đại học Nice nước Cộng hoà Pháp, và các ông Paul Schneider (tức Xuân Phúc), Pierre Pichard Féray (Trường Đại học Nice), bà Christiane Rageau (Học viện Viễn đông bác cổ Pháp), các ông J.Vérinand, J.Guennou (cán bộ lưu trữ của Hội Thừa sai ngoại quốc Paris) đã tận tình giúp đỡ, để chúng tôi có được cái hân hạnh giới thiệu bộ từ điển cùng bạn đọc hôm nay.

Kỹ thuật in ấn hiện còn rất hạn chế, mong quý vị lượng thứ cho(2).

Chú thích:

(1) Tập san Nghiên cứu Hán Nôm số 1-1995 có bài giới thiệu khá kỹ về bộ từ điển này, bạn đọc có thể tham khảo.

(2) Xem Tạp chí Hán Nôm từ số 1(14)-1994.