TB

SÁCH HÁN NÔM TẠI
THƯ VIỆN VƯƠNG QUỐC ANH

TRẦN NGHĨA

Tiếp tục thực hiện dự án hợp tác về Hán Nôm với Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (École francáie d’ Extrême - Orient) - biên soạn tập IV, tập cuối cùng của bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu gồm 4 tập mà 3 tập đầu đã xuất bản(1) - mới rồi tôi sang làm việc 3 tháng tại Paris và dành ra gần 2 tuần lễ để đi Anh, với mục đích đọc và nghiên cứu các thư tịch, tài liệu Hán Nôm Việt Nam hiện tản lạc ở đảo quốc sương mù đầy quyến rũ này. Đáng lẽ phải đi cho khắp các tàng thư có liên quan đến công việc của mình ở Luân Đôn như Khoa nghiên cứu Phương Đông và châu Phi (School of Oriental and African Studies), Xã hội vua chúa châu Á (Royal Asiatic Society) v.v... thì do thời gian hạn hẹp (từ 18-5-95 đến 30-5-95), tôi chỉ có thể đến làm việc tại Thư viện Vương quốc Anh (The British Library), với ý nghĩ rằng đây là nơi tiêu biểu nhất.

Thư viện Vương quốc Anh gồm nhiều chi nhánh. Chi nhánh mà tôi đến là Phân kho sách Phương đông và Ấn Độ (Oriental and India Office Collections) nằm trên đại lộ Blackfriars(2). Trước tôi, đã có một số nhà nghiên cứu Việt Nam tới đây đọc sách và sau đó cũng đã viết những bài giới thiệu về tình hình chung, hoặc về khía cạnh này khía cạnh khác của Thư viện(3). Nhưng đối với mảng thư tịch và tài liệu Hán Nôm thì cho tới nay, vẫn chưa ai thực sự đi sâu. Bài viết này của chúng tôi vì thế có thể xem như là một bổ sung cần thiết.

Để tiện theo dõi, ta có thể chia toàn bộ sách Hán Nôm hiện tàng trữ tại Thư viện Vương quốc Anh thành 2 bộ phận lớn:

- Sách Hán Nôm do người Việt Nam soạn thảo;

- Sách Hán Nôm do người nước ngoài soạn thảo (có liên quan tới Việt Nam).

Sau đây là tình hình cụ thể thuộc từng bộ phận sách.

Sách Hán Nôm do người Việt Nam soạn thảo.

1. AN NAM CHÍ LƯỢC 安 南 志 略

Cổ Ái Đông Sơn Lê Trắc 黎 崱 biên soạn.

1 bản in, 1 bản viết tay, 7 tập, 20 quyển.

15408.g.86

An Nam chí lược, chữ in, Vương Vân Ngũ 王 云 五 chủ biên, bản sách quý hiếm gồm 7 tập của Tứ khố toàn thư 四 庫 全 書 , Tường hiệu quan Giám sát Ngự sử Tra Oánh 查 瑩 hiệu đính, Kiểm thảo Đức Sinh 德 生 xem lại. Có dấu ấn “Càn Long Ngự giám chi bảo” bằng mực đỏ ở trang đầu các quyển 1, 6, 10 và bằng mực đen ở trang cuối các quyển 14, 20. Riêng trang đầu quyển 15 có dấu ấn “Văn uyên các bảo” bằng mực đỏ. Cuối phần Tự sự ở Q.20, có để chữ “khuyết”. Trong sách cũng còn có chỗ để “khuyết” như vậy.

Đây là sách mới nhập kho Thư viện Vương quốc Anh.

ADD.MSS.1623

An Nam chí lược, chữ viết trên hai mặt a và b của những tờ giấy bản gấp đôi, khổ 25x15,3cm, có giấy lồng ở giữa để bảo vệ. Mỗi mặt 8 dòng, mỗi dòng có từ 19 đến 20 chữ. Cuối phần Tự sự ở Q.20 có để chữ “khuyết”. Sách được đóng thành 7 tập: tập 1 gồm 2 quyển; các tập 2, 3, 4, 5, 6 mỗi tập gồm 3 quyển; tập 7 gồm 4 quyển. Các tập được đựng chung trong một hộp giấy bằng bìa cứng bọc vải, có khuy cài bằng ngà (xương) theo kiểu truyền thống.

* Cả hai bản đều giống nhau về câu chữ, cách chia tập và chia quyển. Chỗ khác nhau giữa chúng là một đằng thì in, một đằng thì viết tay. Đặc biệt ở phần Đề yếu (Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu), trong khi bản in chép: “An Nam chí lược 20 quyển”, thì bản viết tay lại chép: “An Nam chí lược 19 quyển”, dù rằng trên thực tế, bản viết tay vẫn có đủ 20 quyển như bản in. Chưa rõ vì sao có hiện tượng này và cũng khó đoán biết giữa 2 bản, bản nào ra đời trước.

Cần nói thêm rằng hiện nay, tại Tĩnh Gia Đường văn khố 静 嘉 堂 文 庫 ở Tokyo, Nhật Bản cũng có 1 bản An Nam chí lược chép tay gồm 20 quyển, đây là truyền sao bản của Văn Lan Các 文 瀾 閣 傳 抄 本 . Theo Trần Kinh Hòa, bản này “không có mục lục và các bài tựa”(4), tức là cùng một loại bản với bản in và bản chép tay hiện tàng trữ tại Thư viện Vương quốc Anh.

Nếu so sánh loại bản An Nam chí lược 20 quyển này với loại bản An Nam chí lược 19 quyển hiện hành(5), ta sẽ thấy chúng khác nhau 2 điểm:

a. Loại bản 19 quyển có Quyển thủ gồm 14 bài tựa và bài Đề yếu, trong khi lại bản 20 quyển lại không có Quyển thủ, mà chỉ có bài Đề yếu trong Quyển thủ thôi.

b. Về việc chia quyển, trong khi loại bản 19 quyển xếp Lịch đại cơ thần, Triệu Thị thế gia và Ngũ đại thời tiếm thiết vào Q.10, và Lê Thị thế gia vào Q.11, thì loại bản 20 quyển lại xếp Lịch đại cơ thần vào Q.10, Triệu Thị thế gia, Ngũ đại thời tiếm thiết, Đinh Thị thế gia Lê Thị thế gia vào Q.11. Cũng vậy, trong khi bản 19 quyển xếp Chí Nguyên dĩ lai danh hiền phụng sứ An Nam thi Ngọc đường chư công tặng tống thiên sứ thi tự vào Q.17, An Nam danh nhân thi vào Q.18, Đồ chí ca Tự sự vào Q.19, thì loại bản 20 quyển lại xếp Chí Nguyên dĩ lai danh hiền phụng sứ An Nam thi vào Q.17, Ngọc đường chư công tặng tống thiên sứ thi tự vào Q.18, An Nam danh nhân thi vào Q.19, Đồ chí ca Tự sự vào Q.20.

Trừ mấy điểm nêu trên, phần còn lại của 2 loại bản An Nam chí lược nhìn chung không có gì khác nhau lắm.

Điều đáng nói là trong 2 loại bản vừa nêu đều thiếu phần Danh công đề vịnh “An Nam chí” vốn có trong thủ cảo An Nam chí lược của Lê Trắc. Nghĩa là nó nằm trong phần “khuyết” của cả loại bản 19 quyển (tương đương với Q.20 lẫn loại bản 20 quyển (tương đương phần cuối của Q.20).

Việc phát hiện các bản An Nam chí lược 20 quyển tại Thư viện Vương quốc Anh cho thấy vần đề đặt ra hiện nay không phải làm thế nào tìm cho được Q.20, mà là cố sức sưu tầm những bài thơ người Trung Quốc đề vịnh An Nam chí lược của Lê Trắc khi tác giả hoàn thành bộ sách.

Cả 2 bản sách này trong nước đều chưa có.

2. BẮC SỨ THỦY LỤC ĐỊA ĐỒ 北 使 水 陸 地 圖

Không đề tên tác giả. Vẽ năm Tự Đức Canh Thìn (1880).

1 bản, 138 tr., 31,4x18cm, vẽ bằng 3 loại mực đen, đỏ và xanh.

OR. 14907

138 trang bản đồ, vẽ theo lối cũ, về lộ trình đi sứ Trung Quốc bằng đường bộ (mực đỏ) lẫn đường thủy (mực xanh) từ Bắc Thành (tên thủ đô Hà Nội dưới triều Nguyễn) đến Bắc Kinh. Có vẽ cả đường về, nhiều đoạn không trùng hợp với đường đi. Trên bản đồ, có ghi độ dài các cung đường tính bằng dặm, cùng những sông, núi, danh thắng, công trình kiến trúc... dọc hai bên đường.

Bản sách này trong nước chưa có.

3. CHIẾU 詔

Hai tờ chiếu của vua Cảnh Thịnh gửi những người trong sứ bộ Anh.

2 bản, chữ viết cỡ lớn bằng mực đen trên giấy vàng nền có vẽ hình rồng. Lạc khoản có dấu ngọc tỉ màu đỏ. Cả 2 bản được đựng chung trong một bọc bằng vải.

OR. 14817/a

Chiếu của vua Cảnh Thịnh gửi cho Vương thân Đại thừa tướng v.v.. nước Anh. Toàn văn như sau:

“Tờ chiếu gửi Vương thân Đại thừa tướng Dầu, Khâm sai Ma Khiêu Nhĩ Nê, và... (mất 2 chữ) thuộc nước Hồng Mao Anh Cát Lợi.

Vì sóng to gió lớn, các khanh phải ghé thuyền vào biên cảnh nước trẫm để ẩn náu, có làm tờ biểu tâu lên, nói rằng hiện đang thiếu lương thực, ngỏ ý muốn mua. Lại gửi một số quà tặng nhằm tỏ tình giao hảo. Quan trấn thủ địa phương đã vì các khanh mà chuyển đạt mọi ý kiến với trẫm rồi.

Vả lại, bản triều thâu tóm cả Nam Hải. Phàm tàu viễn dương các nước muốn đến náu nơi chợ búa vùng này để buôn bán, hoặc vì sóng gió mà trôi dạt tới đây, mong được yên ổn, no đủ, trẫm đều lấy lòng nhân mà đối xử, cùng sinh cùng nuôi, coi người trong bốn biển như anh em một nhà.

Huống chi các khanh vâng lệnh quý quốc vương đi sứ Thiên triều (chỉ Trung Quốc - TN), giữa đường thiếu thốn, trẫm biết làm sao đây? Đặc biệt cấp cho các khanh 3.000 hộc gạo để dùng vào việc đi đường cũng như tiến hành buôn bán. Và thưởng thêm cho Vương thân Đại thừa tướng của quý quốc một đôi ngà voi cùng 5 gánh hạt tiêu để tỏ lòng quý mến, thông cảm với khách đường xa. Cung kính thay, đặc biệt ban tờ chiếu !

Ngày 1 tháng 5 năm Cảnh Thịnh 1 (1793)

OR.14817/b

Chiếu của vua Cảnh Thịnh gửi cho Tướng quân Mã Kim Đa v.v.. nước Anh. Toàn văn như sau:

“Tờ chiếu gửi Tướng quân Mã Kim Đa, Đại học sĩ Nghĩa Lan, Ngự sử Mã Tư Ích, Đại bút sử Bố Tư Ách và Á Di Nhĩ, Dương thế tập Án sát ty Bả La Ni nước Hồng Mao Anh Cát Lợi để biết.

Trẫm nghe từ xưa các nước đi lại với nhau thường có quà tặng cho người từ nơi xa đến. Các khanh vâng lệnh quý quốc vương vào cống Thiên triều, bị bão nên thiếu lương thực, hiện đậu thuyền ở xứ Quảng Nam thuộc nước trẫm, quan trấn thủ địa phương đã đề đạt mọi việc lên trên.

Trẫm nghĩ quý quốc ở cách xa hàng nghìn vạn dặm đường biển, vì mến đức mà sai sứ tới, giữa đường bị bão, phải trôi giạt vào đây. Thần tử của quý quốc cũng là thần tử của ta. Các khanh là những bậc tôi hiền, chịu đựng vất vả, trẫm thấy rất đáng khen. Vậy đặc biệt ban chiếu chỉ sai quan trấn thủ địa phương cung cấp thực phẩm cho các khanh để tỏ lòng quý mến, thông cảm với khách đường xa. Các khanh một lòng trung tín, mong được thuận buồm xuôi gió vượt trùng dương đi sứ phương xa. Không bao lâu công việc hoàn thành, được nước nhà tin sủng, đáp lại kỳ vọng của quốc vương, tấm lòng các khanh thật đáng khen. Cung kính thay, đặc biệt ban tờ chiếu!

Ngày 20 tháng... (mất 1 chữ) năm Cảnh Thịnh... (mất 2 chữ)

* Tờ chiếu này tuy không ban ra cùng ngày với tờ chiếu đầu, nhưng xét về nội dung cũng như về câu chữ, ta thấy giữa 2 tờ chiếu có sự nhất quán với nhau. Từ đó có thể nghĩ các chữ bị mất ở lạc khoản tờ chiếu thứ 2 không khác với các chữ đã xuất hiện trong tờ chiếu đầu, tức vẫn là tháng “5” năm Cảnh Thịnh “1” (nguyên niên)

Cả hai tờ chiếu này trong nước đều chưa có.

4. HÒA ƯỚC THƯ 和 約 書

Soạn năm Tự Đức 15 (1862) tại Gia Định.

1 bản in, 16 tr, 26,5x16cm, chữ Hán. Mỗi trang có 8 dòng, mỗi dòng có từ 15 - 18 chữ. Các trang đều có khung viền kép. Trên bìa sách có dòng chữ Pháp mới viết thêm vào: “Texte chinois du Traite de paix et d’amitie’ conclu, entre la France et I’Espagne d’unepart, et le royaume d’Annam, d’autre part, le 5 Juin 1862”.

15241.c.5

Bản hòa ước gồm 12 điều khoản, được ký kết tại Gia Định (TP. Hồ Chí Minh) ngày 9 tháng 5 năm Tự Đức 15 (5-6-1862) giữa Thiếu tướng Bô Na (Bonard) đại diện cho nước Pháp (la France), Đại tá Ba Lãng Ca (Palanca) đại diện cho nước Y Pha Nho (I’Espagne) một bên, và bên kia là sứ thần nước Nam gồm Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp.

* Xem thêm Di sản Hán Nôm… Sđd, Tập 3, tr.802, mục sách 1417.

5. KIM VÂN KIỀU HỘI BẢN 金 雲 翹 繪 本

Không đề tên tác giả. Không ghi nơi và năm làm sách.

1 bản, 146 trang, 34x21cm, 1 tiểu dẫn, có chữ Hán, chữ Nôm.

Sách gồm những tờ giấy bản gấp đôi, có lót giấy tây ở giữa. Bìa sách bọc vải màu vàng, trêu thêu hình rồng và một số họa tiết bằng các loại chỉ xanh, trắng và vàng nhạt.

OR.14844

146 bức vẽ (mỗi trang giấy 1 bức) minh họa sách Kim Vân Kiều tân truyện với những chủ đề lựa chọn như: “Kim Vân Kiều tân truyện” (bức vẽ 1); “Thúy Kiều truyện tiểu dẫn” (bức vẽ 2); “Diễn Thúy Kiều tổng mạo” (bức vẽ 3); “Mỹ Viên ngoại tam tử” (bức vẽ 4); “Mỹ Thúy Kiều tài sắc” (bức vẽ 5); “Thúy Kiều du thanh minh” (bức vẽ 5); “Thúy Kiều thanh minh quy” (bức vẽ 7) v.v..

Hình vẽ chiếm nửa dưới các trang sách. Nửa trên dành cho các lời dẫn hoặc bài văn, đoạn thơ tương ứng trích từ Kim Vân Kiều tân truyện, cùng lời bàn về ý nghĩa đoạn trích, và các chú giải, nếu cần. Hãy nêu một thí dụ: bức vẽ 4 với tiêu đề Mỹ Viên ngoại tam tử = Ca ngợi 3 con người của Viên ngoại. Mở đầu là câu văn Nôm viết bằng mực đen: “Đây là nói ba con ông bà Viên ngoại: Vương Quan là con trai thứ ba thời làm nghề học, chị thứ nhất là Thúy Kiều, chị thứ hai là Thúy Vân đều là con gái tốt đẹp”. Tiếp đó là đoạn thơ Kiều liên quan tới bức vẽ, từ câu “Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh” đến câu “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, viết bằng mực đỏ. Sau đến lời bình bằng văn Hán, viết bằng mực đen, dịch ra như sau: “Vương Viên ngoại vốn thuộc dòng hoa, con nhà danh vọng, cũng bực anh hào. Vợ ông cầu khấn ở Hành Sơn, mộng thấy một cụ già trao cho ba cành đào: một cành hoa đã kết trái, một cành hoa vừa hé nở, và một cành hoa tàn một nửa. Lúc tỉnh dậy, bà ghi nhớ những điểm căn bản, hớn hở cho rằng giấc mộng vừa rồi chắc không ngoa, vội vàng trở về mách cùng Viên ngoại. Viên ngoại nói: “Trời cho ta một cành kết trái, ắt sinh con trai; hai cành nở hoa, ắt sinh hai con gái, dáng hình lại kiều diễm, tiếng tăm nhà ta chưa hết, hẳn là nhờ ở đây chăng?”. Cuối cùng là một chú thích cũng bằng văn Hán, viết bằng mực đen, dịch ra như sau: [“Mây thua nước tóc” ] xuất ý từ câu “Chẩn phát như vân, bất tiết thế giã = Râu tóc như mây, chẳng cần tóc giả” trong bài Quân tử giai lão ở phần Dung phong trong Kinh Thi [“Tuyết nhường màu da” ] xuất ý từ câu “Cơ nhược bạch tuyết = Da trắng như tuyết” trong bài Hảo sắc phú của Tống Ngọc.

* Trang bìa trong của sách có ghi mấy chữ tiếng Ý, viết bằng bút sắt: “Anno 1894); trang cuối sách có ghi dòng chữ tiếng Pháp, cũng viết bằng bút sắt: “Paul Pelliot, acheté 432 Fr, Porte Sully, Juin 1929, No 518”. Nếu những ghi chép trên đây là chính xác, thì các bản vẽ được hoàn thành vào năm 1894; đến năm 1929, Paul Pelliot, một học giả người Pháp mua được, và cuối cùng, sách được nhập vào kho Thư viện Vương quốc Anh.

Bản sách này trong nước chưa có.

6. NGUYỄN THUẬT VÃNG TÂN NHẬT KÝ 阮 述 往 津 日 記

Trần Kinh Hòa 陳 荊 和 biên chú, dựa vào bản sao Vãng Tân nhật ký, sách do Paul Demiéville tàng trữ. Có bài Đại tự và bài Giải thuyết của Trần Kinh Hòa soạn năm 1979, cùng bài Bạt của Nhiêu Tông Di 饒 宗 頤 . Tủ sách sử liệu (in đợt 1) của Sở Nghiên cứu Văn hóa Trung Quốc thuộc trường Đại học Trung văn Hương Cảng. Trung văn Đại học xuất bản xã xuất bản năm 1980.

1 bản, 93 tr. 22,6x15,4cm, 1 tựa, 1 thay lời tựa, 1 giải thuyết, 1 bạt, chữ Hán, có chữ Pháp. Sách yên theo phương pháp hiện đại, nhưng vẫn giữ một vài cách thể hiện truyền thống: viết theo hàng dọc, từ phải sang trái v.v..

1565.f.19

Bản chỉnh lý và chú giải sách Vãng Tân nhật ký của nguyễn Thuật, với các phần chính sau đây:

- Thay lời tựa (Đại tự).

- Giới thiệu (Giải thuyết): Chính sách đóng cửa, cấm đạo của triều Nguyễn và sự can thiệp của nước Pháp. Đường đi sứ Trung Hoa của Nguyễn Thuật.

- “Vãng Tân nhật ký” của Nguyễn Thuật; Bài tựa sách Vãng Tân nhật ký, do Vi Dã Lão Nhân viết. Vãng Tân nhật ký. Chú thích. Phần Bút đàm. Câu đối (trích).

- Bài bạt, viết cho bản sao Vãng Tân nhật ký của Nguyễn Hà Đình do Nhiêu Tông Di, người Hồng Kông soạn.

* Xem thêm Di sản Hán Nôm… Sđd, Tập 3, tr.533, mục sách 4169: Vãng sứ Thiên Tân nhật ký.

7. SẮC 敕

Sắc của vua Khải Định phong cho thần Đông Hải (1917), thần Nam Hải (1924) và thần Phạm Công (1924).

3 bản, chữ viết cỡ lớn bằng mực đen trên giấy màu vàng. Lạc khoản có dấu ngọc tỉ màu đỏ. Mỗi bản mang một ký hiệu riêng của Thư viện.

OR.14631

Nhân dịp lên ngôi, vua Khải Định ban sắc chỉ gia phong cho Tôn thần Đông Hải hiện thờ ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương làm “Trung đẳng thần”.

Đạo sắc đề ngày 18 tháng 3 năm Khải Định 2 (1917).

OR.14632

Nhân dịp thọ 40 tuổi, vua Khải Định sắc phong cho thần Phạm Công hiện thờ ở xã Văn Lâm, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương làm “Tôn thần”.

Đạo sắc đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924).

OR.14665

Nhân dịp thọ 40 tuổi, vua Khải Định ban sắc chỉ gia phong cho Trung đẳng thần Nam Hải hiện thờ ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương làm “Thượng đẳng thần”.

Đạo sắc đề ngày 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924).

8. THIẾU VI TIẾT YẾU 少 微 節 要

Tên đầy đủ của sách là Tân san bổ chính Thiếu vi thông giám tiết yếu đại toàn 新 刊 補 正 少 微 通 鋻 節 要 大 全 Đa Văn Đường khắc in lại năm Tự Đức 16 (1863) theo nguyên bản của họ Bùi 裴 氏 原 本 , Chung Viên 鐘 袁 tăng đính.

1 bản in (4T, 28Q), 4602 tr., 27x16cm.

15287.b.2

Tóm lược bộ sử Thiếu vi của Trung Quốc: lịch sử Trung Quốc từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến năm Nguyên Chí Chính 27 (1367).

Xem Di sản Hán Nôm… Sđd, Tập 3, tr.246, mục từ 3557: Thiếu vi tiết yếu đại toàn.

9. THƯƠNG ƯỚC, TÂN HÒA ƯỚC 商 約 新 和 約

Soạn năm Tự Đức 27 (1874), tại thành Gia Định

1 bản viết, 80 tr., 31x19cm, chữ Hán.

OR. 11683

1, Một bản Thương ước gồm 29 điều khoản do nước Pháp và nước Nam ký kết tại Gia Định ngày 20 tháng 7 năm Tự Đức 27 (31-8-1874). Đại diện nước Nam có Khâm sung giảng định Thương ước toàn quyền đại thần, Hình bộ Thượng thư Kỹ Vĩ bá Nguyễn Văn Tường và Lại bộ Thị lang Nguyễn Tăng Doãn. Đại diện nước Pháp có Ca Lăng (Krantz), v.v..

Nội dung Thương ước quy định việc mở thêm đường buôn bán từ cửa Ninh Hải tỉnh Hải Dương ngược sông Nhị đến địa giới tỉnh Vân Nam nước Thanh; mở thêm các điểm buôn bán như Hà Nội, Thi Nại cho người nước ngoài; tỷ lệ thuế xuất nhập khẩu; việc tàu hoa tiêu nước Nam dẫn tàu hoa tiêu nước ngoài vào cảng; thủ tục hải quan; các quy định đối với thuyền nhân nước ngoài; việc làm “cấp chiếu”; việc bốc hàng giỡ hàng và thời gian quy định; việc tàu buôn nước Nam khi tới buôn bán ở Pháp hoặc các thuộc địa của Pháp v.v..

2, Một điều khoản bổ sung nhằm tránh sự hiểu lầm về một số câu chữ trong Thương ước đối với Hòa ước 1862; cần đặt Lãnh sự của hai nước Pháp và Nam tại Hà Nội để thu thuế các thương nhân nước ngoài. Văn kiện này được ký kết ngày 20 tháng 7 năm Tự Đức 27 (31-8-1874). Các bên ký kết giống như ở bản Thương ước.

3, Một văn kiện do Nguyễn Văn Tường đại diện nước Nam và Ca Lăng (Krantz) đại diện nước Pháp ký ngày 15 tháng 10 năm Tự Đức 27 (23-11-1874) cốt làm rõ thêm khoản 2 của Thương ước, có liên quan tới việc buôn bán của người Thanh ở nước Nam.

4, Bản Tân hòa ước gồm 22 khoản do nước Pháp và nước Nam ký tại thành Gia Định ngày 27 tháng 1 năm Tự Đức 27 (15-3-1874) để thay cho bản Hòa ước ký ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất, Tự Đức 15 (5-6-1962). Đại diện nước Pháp có Du Bi Lê (Dupré).

* Xem thêm Di sản Hán Nôm… Sđd, Tập 1, tr.803, mục sách 1418: Hòa ước, Thương ước.

10. TUỒNG VIỆT NAM (VIETNAMESE THEATRE)

Phần lớn không ghi tên tác giả hoặc người sao chép (trừ 7 vở: Lưu Bình - Dương Lễ ca truyện, Ngũ hổ bình Liêu truyện, Ngự Văn Quân truyện, Phong lưu ca truyện, Tây du Đường Tăng cầu kinh ca truyện, Trương Viên tiết nghĩa ca truyện và Vũ Nguyên Long ca truyện có ghi “Lê Quý vâng lệnh chép” 黎 贵 奉 寫 ) cũng như năm sáng tác (trừ vở: Sự tích ra tuồng có ghi “Làm vào ngày lành tháng tốt năm Tự Đức 3 (1850)” 嗣 德 三 年 轂 月 日 造 ).

1 bộ gồm 10 tập, 6.540 tr., 26x21, chữ Nôm, có Hán, có dấu ấn “Bảo tàng Vương quốc Anh” (British Museum).

IX. OR. 8218

Gồm 46 vở tuồng, trong đó có bộ tuồng pho Tam quốc chí (TQC) gồm 9 vở. Sau đây là tên các vở tuồng (xếp theo thứ tự A, B, C... ).

TT TÊN VỞ TUỒNG Số hồi, thứ tiết Tập
1 An triều kiếm 安 朝 劍 3 7
2 Châu Lý Ngọc truyện 珠 李 玉 傳 3 4
3 Đà Hắc Báo truyện 陀 黑 豹 傳 1 2
4 Đào Phi Phượng truyện 桃 飛 鳳 傳 4 2
5 Đào Tư Huệ truyện 陶 思 惠 傳 4 7
6 Đương Duơng Trường bản (TQC) 當 揚 長 版 (三 國 志) 1 6
7 Giang Tả cầu hôn truyện (TQC) 江 左 求 婚 傳 (三 國 志) 1 6
8 Hán Sở tranh hùng truyện 漢 楚 爭 雄 傳 1 9
9 Hoa chúc truyện (TQC) 花 燭 傳 (三 國 志) 1 6
10 Hoa Dung truyện (TQC) 華 容 傳 (三 國 志) 1 6
11 Hồ Thạch Hổ truyện 胡 石 虎 傳 3 3
12 Kim Thạch kỳ duyên truyện 金 石 奇 緣 傳 3 7
13 Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳 3 4
14 Kinh Châu phó hội truyện (TQC) 荊 州 赴 會 傳 (三 國 志) 1 6
15 Lã Chu Hy truyện 呂 朱 希 傳 1 6
16 Lạc Phượng Pha truyện (TQC) 落 鳳 坡 傳 (三 國 志) 1 6
17 Lê Ngụy Khôi truyện 黎 偽 魁 傳 3 6
18 Liễu Nhứ truyện 柳 絮 傳 9
19 Lưu Bình Dương Lễ ca truyện 劉 平 揚 禮 歌 傳 1 10
20 Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai truyện 劉 阮 入 天 台傳 1 9
21 Lý Thiên Long truyện 李 天 龍 傳 4 1
22 Mã Đăng Long truyện 馬 登 龍 傳 3 1
23 Mã Sĩ truyện 馬 士 傳 3 2
24 Nghĩa thích Nghiêm Nhan truyện (TQC) 義 釋 嚴 顏 傳 (三 國 志) 1 6
25 Ngũ hổ bình Liêu truyện 五 虎 平 遼 傳 1 10
26 Ngự Văn Quân truyện 御文 君 傳 4 10
27 Nhạc Hoa Linh Truyện 岳 花 靈 傳 5 5
28 Phong lưu ca truyện 風 流 歌 傳 1 10
29 Sơn hậu truyện 山 後傳 3 3
30 Sự tích ra tuồng 事 迹 韠 木旬 1 5
31 Tam cố mao lư (TQC) 三 顧 茅 蘆 (三 國 志 ) 1 6
32 Tam úy tân truyện 三 畏 新 傳 2 8
33 Tây du Đường Tăng cầu kinh ca truyện 西 遊 唐 僧求 經 歌 傳 1 10
34 Thạch Kim Anh truyện 石 金 英 傳 3 7
35 Thù thế tân thanh truyện 酬 世 新 聲 傳 6 9
36 Thuyết Đường truyện 說 唐 傳 1 8
37 Tiệt giang truyện (TQC) 截 江 傳 (三 國 志 ) 1 6
38 Tống Từ Minh truyện 宋 慈 明 傳 3 1
39 Trần Bồ truyện 陳 蒲 傳 2 9 và 10
40 Trần Nhạc Vũ truyện 陳 岳 武 傳 3 2
41 Trương đồ nhục truyện 張 屠 肉 傳 1 8
42 Trương Viên tiết nghĩa ca truyện 張 員 節 義 歌 傳 1 10
43 Tứ tinh giáng thế truyện 四 星 降 世 傳 3 4
44 Tửu hội truyện 酒 會 傳 1 7
45 Vũ Nguyên Long ca truyện 武 元 龍 歌 傳 3 10
46 Vũ Thành Lân truyện 武 成 璘 傳 2 5

Sách nguyên tên là Đại Việt sử lược 大 越 史 略 , do một tác giả Việt Nam khuyết danh đời Trần soạn xong vào năm Xương Phù ! (1377). Tiền Hi Tộ 錢 熙 祚 (người Trung Quốc) đời Thanh hiệu đính và in trong Thủ sơn các tùng thư, Sử bộ 守 山 閣 叢 書 , 史 部 .

I. Chưa có ký hiệu thư viện

Lịch sử Việt Nam từ Hùng Vương đến Lý Huệ Tông. Có bảng kê niên hiệu và số năm ở ngôi của các vua triều Trần, từ Trấn Thái Tông đến Trần Dụ Tông.

* Gần đây, có người cho rằng tác giả Đại Việt sử lược là Sử Hy Nhan 史 希 顏 (Can Lộc, Hà Tĩnh), đỗ Trạng nguyên vào đời Trần Duệ Tông (1373-1377). Trước kia, Trần Văn Giáp đoán là Lê Chu Phổ (Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập 1, Nxb. Văn hóa, H. 1984, tr.190). Xem thêm Di sản Hán Nôm… Sđd, Tập 3, tr.608, mục sách 4315: Việt sử lược.

II. Sách Hán Nôm do người nước ngoài soạn thảo

Bên cạnh những sách Hán Nôm do người Việt Nam viết, Thư viện Vương Quốc Anh còn tàng trữ một số thư tịch, tài liệu Hán Nôm do người nước ngoài soạn thảo có liên quan tới Việt Nam. Đáng chú ý hơn cả là những tác phẩm sau đây:

1. DICTIONARIUM ANNAMITICO LATINUM (NAM VIỆT DƯƠNG HIỆP TỰ VỊ)

Editum AJL. Taberd. Serampore (India): Marsham; 1838.

ORW.1986.a.880

Đây là một trong số những bộ từ điển được biên soạn trên cơ sở bộ từ điển viết tay Anamitico - Latinum của Pigneau de Béhaine (1741-1799) làm từ 9-1772 đến 6-1773 tại miền Nam Việt Nam.

Xem thêm Trần Nghĩa: Một bộ từ điển Việt - Latinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được, Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, 1984, tr.127-136.

2. TECHNIQUE DU PEUPLE ANNAMITE (KỸ THUẬT DÂN TỘC VIỆT NAM)

Henri Oger, cựu học sinh Trường Thuộc địa (Ecole coloniale) và Trường Cao học thực hành (Ecole pratique des Hautes - Etudes) ở Sorbone, Paris, biên soạn với sự cộng tác của một số người Việt Nam trong các năm 1908 và 1909 tại Hà Nội. Công trình gồm 1 tập chuyên luận và 1 bộ tranh vẽ. Tập chuyên luận do Hiệu sách Geuthner, 68 rue Mazarine (VIe) và Nhà in Jouve & Cie, 15 rue Racine (VIe) xuất bản tại Paris năm 1910. Bộ tranh vẽ được khắc in tại chùa Vũ Thạch (nay là Vũ Thạch linh từ, 13 phố Bà Triệu), Hà Nội vào thời gian trước đó (1908-1909).

1 bản, 161 tr., 27x21,5, chữ Pháp in trên giấy tây (Volume de Textes = Tập chuyên luận).

1 bộ (2T, 14Q), 700 tr., khổ lớn, mỗi tờ sách gồm một số tranh vẽ in trên một mặt giấy dó sản xuất tại Bưởi, Hà Nội. Một số tranh vẽ có chú thích chữ Nôm hoặc chữ Hán bên cạnh (Volume de Planches = Bộ tranh vẽ).

OR.T.C.4

1, Phần chuyên luận: nghiên cứu kỹ thuật của dân tộc Việt Nam qua các bản vẽ về nguyên liệu (nông nghiệp, ngư nghiệp, săn bắn, vận tải, hái lượm); chế biến các nguyên liệu (làm giấy, mộc, gốm, sành sứ, đan lát, ươm tơ, dệt vải, thuộc da...); sử dụng các nguyên liệu đã được chế biến (buôn bán, vẽ và sơn, chạm trổ và nặn tượng, đồ thờ, máy, mứt kẹo…); đời sống riêng và chung của người Việt Nam (sinh hoạt cộng đồng, cuộc sống riêng tư, dụng cụ âm nhạc, đồng bóng bói toán, thuốc men trị liệu, lễ hội, trò chơi, tranh dân gian…).

2, Phần tranh vẽ: Khoảng 4000 bức vẽ gồm tranh (gravure), ký họa (croquis), bình đồ (plan) về các thứ công cụ, đồ dùng, máy, tư thế làm việc trong các ngành nghề, cùng các sinh hoạt cá nhân và cộng đồng của người Việt nam ở miền Bắc.

* Đây là một trong những nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về kỹ thuật cũng như về dân tộc học, xã hội học, kể cả tự dạng chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam đầu thế kỷ XX.

3. TĨNH TỊNH TRAI ĐỆ BÁT TÀI TỬ THƯ HOA TIÊN KÝ 静 净 齋 第 八 才 子 書 花 箋 記

Tĩnh Tịnh Trai 静 净 齋 bình luận. Thánh Thán 聖 嘆 ngoại thư. Khảo Văn đường tàng bản.

2 sách, 6 quyển, 16 x 11, chữ Hán.

XI. 15334.a.3

Mở đầu sách, có 5 tranh vẽ:

- Tranh vẽ hình Lương Phương Châu, với câu “Tiềm lai hoa hạ tiếu tầm phương 潛 來 花 下 笑 尋 芳” của Ái Nguyệt Chủ Nhân.

- Tranh vẽ hình Dao Tiên, với câu “Phù dung diện sắc liễu mi trường 芙 容 面 色 柳 眉 長 của ấp Mỹ Đường.

- Tranh vẽ hình Vân Hương, với câu “Hồng lâu tiết lậu xuân tiêu tức 紅 樓 泄 漏 春 消 息 ” của Thảo Đường.

- Tranh vẽ hình Bích Nguyệt, với câu “Mãn diện xuân phong tần đới tiếu 滿 面 春 風 頻 帶 笑” của Lâm Xuyên thư ốc.

- Tranh vẽ Ngọc Khanh, với câu “Yên thủy mang mang táng thiếp sầu 煙 水 茫 茫 葬 妾 愁

Tiếp đó là phần chính văn truyện Hoa Tiên, gồm 6 quyển.

* Đây là tác phẩm mà Nguyễn Huy Tự (1743-1790) người Việt nam đã dựa vào để soạn truyện Hoa Tiên bằng thơ Nôm, thể lục bát, dài 1826 câu.

4. VIỆT NAM ĐỊA DƯ ĐỒ 越 南 地 與 圖

Sa Khâu Từ Diên Húc 沙 邱 徐 延 旭 người Trung Quốc đời Thanh vẽ. Góc dưới, bên trái tấm bản đồ, có bài chí nhan đề: Việt Nam quốc toàn đồ thuật lược 越 南 國 全 圖 述 略 của tác giả.

1 bản vẽ, 103 x 62, giấy bản bồi trên vải mịn, mực vẽ gồm 4 màu: đen, xanh, vàng và đỏ. Có 1 bài chí.

OR.11682

Bản đồ địa lý của nước Việt Nam vào thời Tự Đức, vẽ theo lối truyền thống (cũng đã cải tiến chút ít như đưa phương Bắc lên trên). Có địa giới cả nước và các tỉnh. Vị trí núi, biển, sông ngòi.

Trên bản đồ, màu xanh là nước, màu vàng là đường sá, màu đỏ là các đường biên giới.

* Từ Diên Húc đồng thời là tác giả bộ sách Việt Nam tập lược 越 南 輯 略 gồm 2 quyển Thượng và Hạ, soạn vào năm Quang Tự 3 (1877)(6).

CHÚ THÍCH

(1) Xem Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Han Nom), 3 tập, PGS. Trần Nghĩa và GS. François Gros đồng chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.

(2) Orental and India Office Collections, 197 Blackfriars Road, London SE 1 8NG.

(3) Xem PTS Nguyễn Quang Ngọc: Kho sách Việt Nam ở Thư viện Anh, báo Quân đội nhân dân, số 11287, Chủ nhật 25-10-1992, tr.1; Quang Vinh; Kho sách Việt Nam tại Thư viện Anh, Nội san Hướng về nguồn của Hội người Việt Nam tại Anh, số 17, tháng 12-1993, tr.12; Nguyễn Văn Hoàn : Tìm thấy bản Kiều quí ở Luân Đôn, báo Nhân dân Chủ nhật, số 36 (292), 4-9-1994, tr.9; v.v..

(4) Xem Trần Kinh Hòa: “Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược” in trong An Nam chí lược, Bd. của Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế, Huế, 1960, tr.XV.

(5) Xem Bd. An Nam chí lược vừa dẫn, có in kèm nguyên văn chữ Hán ở cuối sách.

(6) Xin chân thành cảm tạ Bộ Ngoại giao Pháp đã giúp đỡ về kinh phí và Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp đã tạo mọi điều kiện để tác giả bài viết này có thể sang làm việc một thời gian ngắn tại Anh quốc. Đồng thời cũng tỏ lòng biết ơn Ô.G W Shaw, Phó giám đốc Thư viện Vương Quốc Anh và Ô. Nguyễn Ngọc Trí, người phụ trách kho sách Việt Nam tại Thư viện, đã tận tình giúp đỡ tác giả trong những ngày đọc sách ở The British Library - TN./.

TB

VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH VĂN BẢN CỦA BẢN
GIẢI ÂM "PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH"

HOÀNG THỊ NGỌ

Bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh (xin viết tắt là PTĐBPMATK và gọi tắt là Phật Thuyết) là một cuốn sách kinh Phật, nội dung thuyết giáo về việc trả ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Lời kinh bằng chữ Hán, được dịch ra chữ Nôm kèm theo. Đây là một văn bản có lẽ thuộc loại cổ nhất trong số các văn bản Nôm hiện còn. Trong văn bản chứa đựng nhiều mã chữ Nôm cổ, nhiều dạng chữ đặc biệt, nhiều dấu vết của tiếng Việt cổ… Đó là những cứ liệu rất quí giá cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: văn tự học, tiếng Việt lịch sử, quá trình phát triển chữ Nôm. Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số nét xung quanh tình hình văn bản, niên đại và dịch giả của bản giải âm PTĐBPMATK này.

PT ĐBPMATK là một văn bản được nhiều người quan tâm nhưng số người thực sự khai thác nghiên cứu thì rất ít. Có một số người đã đề cập đến văn bản như sau:

Ông Cao Hữu Lạng đã sơ bộ phiên âm, chú thích văn bản dưới dạng tư liệu năm 1980(1). Bản phiên âm này chưa làm rõ được đặc trưng và giá trị của văn bản. Hầu hết những mã chữ Nôm có liên quan tới các vấn đề ngữ âm lịch sử, từ cổ, cấu trúc chữ Nôm cổ… đều chưa giải quyết được. Phần chú thích phần lớn là dẫn câu chữ Hán để giải thích những chữ Nôm còn tồn nghi trong văn bản.

Ông Linh Chi có trích dịch, giới thiệu nội dung bản kinh (phần chữ Hán) trong bài “Kinh ơn cha mẹ sâu nặng khó báo đáp”(2). Ông Vũ Văn Kính có đề cập đến cuốn sách này dưới dạng điểm sách trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh năm 1994.

Cũng có những người do thiếu tư liệu đã đi tới những kết luận thiếu chính xác về văn bản này. Họ cho “Trịnh Thị Ngọc Trúc còn là tác giả của PTĐBPMATK là một tác phẩm có giá trị nghiên cứu về Phật học ở nước ta. Cả hai tác phẩm (PTĐBPMATK và Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa) hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với bút danh là Trịnh Thị Ngọc Trúc (?)(3).

Người đề cập đến văn bản nhiều hơn cả là Nguyễn Ngọc San. Nhưng Nguyễn Ngọc San cũng chỉ khai thác một số cứ liệu để làm cơ sở cho việc nghiên cứu chữ Nôm và các âm cổ tiếng Việt(4).

Nhìn chung cho đến nay văn bản PTĐBPMATK vẫn chưa được khai thác, nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để.

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VĂN BẢN PTĐBPMATK LÀ LAI LỊCH CỦA BẢN GIẢI ÂM HIỆN CÓ

1. Nguồn gốc của bản PTĐBPMATK

Bản PTĐBPMATK được dịch ra chữ Nôm và đang lưu truyền ở Việt Nam vốn có nguồn gốc từ bản Phụ mẫu ân trọng kinh của Trung Quốc. Theo Phật Quang Đại từ điển (do Phật Quang xuất bản xã xuất bản năm 1988, trang 1503) thì bản Phụ mẫu ân trọng kinh này được tìm thấy ở Đôn Hoàn g, hiện nay nằm trong tập 85 của bộ Đại Chính tạng. Cuốn từ điển này còn cho biết thêm: “Sách Khai Nguyên Thích giáo lục cho rằng bộ kinh này là kinh giả do người nước ta làm. Nói chung nhiều ý kiến cho rằng sách được làm giả vào đời Đường hoặc trước đời Đường. Bản Phụ mẫu ân trọng kinh lưu hành ở nước ta và Nhật Bản có nhiều điểm chú thích có liên quan với nhau…”. Như vậy ở Nhật Bản cũng có một bản Phụ mẫu ân trọng kinh và bản này cũng có nguồn gốc từ bản ở Trung Quốc. Ngoài ra, cũng trong mục này của cuốn sách trên có cho biết là “Ngày nay, ở Triều Tiên, Nhật Bản còn lưu truyền một bộ Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh nội dung có nhiều chỗ giống khác so với bản Đôn Hoàng”.

Bản PTĐBPMATK được giải âm bằng chữ Nôm ở Việt Nam không được nói tới trong Phật Quang đại từ điển nhưng thực tế thì nó được lưu truyền tương đối sớm ở nước ta. Một nghiên cứu sinh Nhật Bản là Shimizu Masa Aki, trong bản tóm tắt luận văn Thạc sĩ năm 1994 (tài liệu do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cung cấp) đã so sánh đối chiếu cụ thể bản đang lưu truyền ở Nhật với phần kinh bằng chữ Hán của bản được dịch Nôm Việt Nam. Qua việc so sánh đối chiếu đó có thể thấy rằng đây là hai dị bản có nhiều điểm tương đồng dị biệt, cùng có tên là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh.

Văn bản PTĐBPMATK mà chúng tôi đang sử dụng để nghiên cứu là bản được sao chụp từ bản đang được lưu giữ tại Paris. Theo ông Tạ Trọng Hiệp (Việt kiều tại Pháp) cho biết thì bản này nguyên là thuộc tủ sách của Giáo sư Demieville (1894-1979). Vào những năm 1922-1924, vị Giáo sư này làm nghiên cứu viên cho BEFEO tại Hà Nội đã mua được cuốn sách này và mang về Pháp. Sau năm 1979, cả tủ sách được gia đình Giáo sư biếu Hội Á Châu học trong đó có cả cuốn PTĐBPMATK. Hiện nay, văn bản này vẫn được lưu giữ tại đó với ký hiệu PD 2350 (địa chỉ: 52 Rue du Cardinal Lemoine, 75005, Paris). Văn bản gốc này đã được ông Tạ Trọng Hiệp bồi dán lại rồi sao chụp và mang về nước tặng giới Hán Nôm trong nước năm 1979(5). Đây là một cuốn sách thuộc loại quý hiếm mà ta may mắn tìm lại được. Ngoài tác dụng truyền giáo, văn bản còn là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá đối với những người quan tâm đến lịch sử phát triển chữ Nôm và ngôn ngữ dân tộc

2. Tình hình Văn bản của bản giải âm PTĐBPMATK.

Toàn văn bản sách gồm 91 trang. Khổ sách ở bản photocopy là 23,5x19cm. Văn bản thiếu trang đầu tiên. Từ trang 41a đến trang 46b có một vết rách ngang ở nửa dưới trang sách, chiều rộng của vết rách 1cm, chiều dài khoảng từ 6 đến 8,5cm. Vì vậy mỗi trang mất ít nhất từ 1/2 đến 2 chữ. Trang cuối cùng ở góc bên trái, phía dưới bị rách mất một góc, dự đoán mất khoảng 3 đến 6 chữ Hán.

Bên trong có phần lời kinh bằng chữ Hán to, bên cạnh về phía tay phải là phần giải âm bằng chữ Nôm nhỏ hơn. Trong văn bản, phần chữ Hán được khắc rõ ràng, cẩn thận; phần chữ Nôm có nhiều chữ khắc sai nét hoặc thiếu nét. Mỗi trang có 10 dòng chữ, xen kẽ một dòng chữ Hán là một dòng chữ Nôm. Dòng chữ Hán có khoảng từ 13 đến 15 chữ; dòng chữ Nôm có khoảng từ 15 đến 20 chữ. Tổng số mã chữ trong phần giải âm là 5735, trong đó có 1095 chữ mượn Hán và 4640 mã chữ Nôm. Cũng cần lưu ý thêm rằng nếu phần dịch giữ nguyên chữ Hán (cả âm và nghĩa) thì thường là có hai hình thức chỉ dẫn, đó là dùng gạch chéo x hoặc là dùng dấu ㄡ để biểu thị.

Xem kỹ trong văn bản có thể thấy có nhiều nét bút thêm vào, hoặc chữa chữ, hoặc viết thêm ngay bên cạnh. Điều đó chứng tỏ rằng bản in giữ lại được tương đối trung thực những mã chữ mà đời sau ít thấy xuất hiện hoặc không còn tồn tại nữa. Qua tình hình văn bản như vậy có thể thấy rằng việc khai thác nghiên cứu văn bản sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nó đòi hỏi phải có những cơ sở tri thức nhất định mới có thể trả lại những mã chữ của người xưa.

Trong sách còn có 19 bức tranh vẽ minh họa. Nét vẽ đơn giản, cốt để minh họa cho lời kinh. Trong đó, 10 bức tranh đầu là để minh họa cho ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Chín bức tranh sau minh họa cho những tấm gương trả ơn nặng công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

II. VẤN ĐỀ NIÊN ĐẠI Và DỊCH GIẢ CỦA VĂN BẢN PTĐBPMATK

1. Những thông tin từ các cuốn gia phả họ Trịnh

Trong văn bản không ghi rõ niên đại và tên người chuyển dịch văn bản ra chữ Nôm. Vì vậy việc xác định niên đại và dịch giả của văn bản là một việc làm hết sức khó khăn, phức tạp. Chúng tôi chỉ thấy ở trang cuối cùng của văn bản (trang 47a) có ghi 4 dòng chữ Hán như sau:

“Đại Việt quốc Thanh Hoa Thừa Tuyên Thiệu Thiên phủ Vĩnh Phúc huyện Sóc Sơn xã Ốc Biện Thượng hương Hậu Hòa quân doanh Trung quân Đô đốc phó Đô tướng Chưởng phủ sự... (mất chữ) Thái tể Tuyên Quận công Trịnh Quán tự Chân Tùng (mất chữ)”. (Thái tể Tuyên Quận công Trịnh Quán tự Chân Tùng được phong Hậu Hòa quân doanh Trung quân Đô đốc, Phó Đô tướng Chưởng phủ sự... (mất chữ) ở làng Biện Thượng, xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, Thừa Tuyên Thanh Hoa nước Đại Việt).

Qua mấy dòng ghi này có thể thấy rằng đây là một cái mốc của văn bản PTĐBPMATK. Vậy cái mốc này nói lên điều gì và nó nằm trong thời điểm nào của lịch sử? Thái tể Tuyên Quận công Trịnh Quán là ai và có vai trò như thế nào đối với văn bản ?

Về Tuyên Quận công Trịnh Quán, qua sử sách và gia phả các dòng họ chúng tôi thấy rằng: chỉ có Trịnh Quán trong dòng họ chúa Trịnh ở làng Biện Thượng, xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hoa là đáng lưu ý hơn cả.

Trong cuốn Trịnh gia ngọc phả ký, cuốn này còn có tên là Kim tỏa thực lục (gia phả của một chi nhánh họ chúa Trịnh ở xã Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây) có ghi về Trịnh Quán như sau: Hoằng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc sinh được 12 người con. Trịnh Quán được ghi xếp vào thứ 9 “quan Tông Nhân phủ Tông Nhân lệnh là Quốc Lão Tuyên Trung quân được phong Mậu công tên là Trịnh Quán” (Trang 30).

Trong một cuốn phả khác là Trịnh Vương ngọc phả, bản này còn gọi là Kim giám thực lục, bản này còn gọi là Kim giám thực lục (sách tại gia đình ông Trịnh Di, Hà Nội) cũng có ghi về Trịnh Quán. Trang 27 của cuốn phả này có ghi rõ 12 người con của Hoằng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc như sau: “Sinh 12 con: Mậu Quận công, Thiệu Quận công, Đường Quận công, Chiêu Căn tổ (?), Khang Vương, Lý Trung công, Điều Nghĩa công, Thiều Quận công, Tuyên Quận công, Liêm Quận công, Trà Quận công”. Còn một người nữa là con gái. Cũng trong cuốn phả đó, ở trang 28 có ghi rõ hơn về thân thế từng người. Về Tuyên Quận công đã ghi như sau: “Tôn Nhân phủ Tôn Nhân lệnh Quốc lão Tuyên Trung công phong Mậu công húy Quán” (Quan Tôn Nhân, phủ Tôn Nhân lệnh là Quốc lão Tuyên Trung công được phong Mậu công tên là Quán).

Trong một cuốn phả nữa của họ chúa Trịnh là Trịnh gia chính phả do Nhật Nham Trịnh Như Tấu soạn cũng có ghi về 12 người con của chúa Trịnh Tạc. Đoạn ghi về Trịnh Quán như sau: “Ông Quốc lão Tuyên Trung công tiến phong Mậu công là Trịnh Quán”.

Qua khảo sát một loạt các cuốn phả của họ Trịnh ở Biện Thượng, Sóc Sơn, Thanh Hoa ta thấy có nhiều khả năng để nghĩ rằng: Thái Tể Tuyên Quận công mà trong văn bản nói tới có lẽ chính là Thái Tể Tuyên Quận công Trịnh Quán, con của chúa Trịnh Tạc. Địa danh trong văn bản cũng chính là quê của các chúa Trịnh. Chúa Trịnh Tạc sinh năm 1606, mất năm 1682. Như vậy, Trịnh Quán sống vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Theo sách Đại Việt Sử Ký tục biên thì Trịnh Quán được ban tước Tuyên Trung công năm 1730. Từ đó có thể thấy rằng bản giải âm PTĐBPMATK xuất hiện muộn nhất là vào khoảng đầu thế kỷ XVIII.

2. Những cứ liệu chữ Hán, chữ Nôm trong văn bản giải âm PTĐBMATK.

Nhưng phải chăng Trịnh Quán là người chuyển dịch kinh Phật Thuyết ra chữ Nôm hay ông chỉ in lại từ một bản đã có trước đó? Để hiểu rõ hơn điều này, chúng tôi xin nêu một số điểm đáng lưu ý trong nội tại văn bản:

a. Việc ghi kỵ húy

Trường hợp thứ nhất là chữ Lợi. Chữ Lợi xuất hiện 6 lần trong phần chữ Hán.

- 3 lần xuất hiện dưới dạng bình thường 利 , ở trang 25b dòng 4; trang 44a dòng 10; trang 45a dòng 4.

- 1 lần dưới dạng (hòa + lực) ở trang 41b dòng 4.

- 1 lần dưới dạng (hòa + đao) ở trang 25a dòng 2.

- 1 lần dưới dạng ở trang 6a dòng 6. Trường hợp thứ hai là chữ Trần, ở phần chữ Hán, chữ Trần xuất hiện 2 lần với hai dạng chữ khác nhau:

- Dạng bình thường 陳 ở trang 22b dòng 4.

- Xuất hiện dưới dạng ở trang 42b dòng 10

Ở phần chữ Nôm, Trần cũng được dùng để ghi âm gìn (trong gìn giữ), cũng xuất hiện 2 lần với 2 dạng chữ:

- Dưới dạng bình thường ở trang 32a dòng 3, trong câu “Mặc danh hiệu ấy mày sá vâng gìn (陳)

- Dưới dạng () ở trang 31b dòng 9, trong câu “Sá óc là kinh gì rằng sao mà vâng gìn...”.

Chúng ta đã biết rằng ở đời Lê có lệ kiêng húy. Theo ông Ngô Đức Thọ(6) đời Lê Sơ gồm có 25 chữ Húy. Hai chữ Lợi Trần chúng tôi nói tới ở trên là có liên quan đến tên húy của Lê Lợi và vợ ông là Phạm Thị Ngọc Trần. Trường hợp chữ Lợi viết là cách viết húy tên Lê Lợi. Chữ này là một trong 4 chữ húy: Khoáng, Thương, Lợi, Long nằm trong văn bản Cao Thượng Ngọc Hoàn g bổn hạnh tập kinh âm thích do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn phát hiện và công bố năm 1979(7). Trường hợp chữ Lợi (hòa + lực) là người viết cố ý viết nhô đầu chữ đao 刀 thành chữ lực 力 để thể hiện cách viết biến dạng của chữ húy. Trường hợp chữ Lợi viết là Trần viết là là viết theo lối cổ. Hai dạng chữ này đều có trong từ điển Khang Hy nhưng thực tế trong các văn bản chữ Hán do người Việt Nam viết không thấy 2 dạng chữ này. Việc dùng những dạng chữ cổ đặc biệt như vậy để ghi có thể nói cũng là một kiểu ghi kỵ húy của người xưa. Từ cách ghi như vậy cho thấy rằng văn bản còn giữ lại những dấu vết của sự kỵ húy thời Lê Sơ. Điều đó cho phép giả định: phần kinh bằng chữ Hán có thể được lưu truyền sang nước ta ít nhất là từ thời Lê Sơ.

b. Hiện tượng dùng hai mã chữ Nôm để ghi một từ .

Hiện tượng dùng hai mã chữ tách rời để ghi một từ đơn tiết rất hiếm thấy trong các văn bản ở vào khoảng thế kỷ XVI, thế kỷ XVII trở về sau. Dấu vết của một số tổ hợp phụ âm đầu như: b1, km, t1 còn lại cũng chỉ là thể hiện trên một mã chữ. ở một số văn bản từ thế kỷ XV, đời Lê Sơ (bản in lại) còn có ghi lại hiện tượng này. Ví dụ bản Nôm Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi do Dương Bá Cung sưu tập và cho in lại năm 1868 còn thấy ít nhất 2 trường hợp dùng 2 mã chữ Nôm để ghi một từ như:

ngựa 馭 để ghi ngựa

la đa 多 để ghi đá

Khi khảo sát văn bản PTĐBPMATK chúng tôi thấy hiện tượng dùng hai mã chữ Nôm tách rời để ghi một từ là khá phổ biến.

Ví dụ:

Kmắng (nghe) được ghi 車 + 莽 (cư mãng)

Nát (rữa nát) được ghi 波 + 涅 (ba niết)

Sáu (số 6) được ghi 破 了 (phá liễu)

Hiện tượng dùng hai mã chữ riêng biệt để ghi một từ ở trong văn bản thường là để ghi một trong các trường hợp sau: các tổ hợp phụ âm đầu, các âm tiền tắc họng hóa…

Trong văn bản PTĐBPMATK có 75 từ được ghi bằng hai mã chữ với tần số xuất hiện 95 lần. Thực ra có rất nhiều điểm phải bản tới xung quanh hiện tượng này. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin điểm qua 2 trường hợp có thể giúp ta hiểu thêm về thời điểm ra đời của văn bản.

- Trường hợp ghi các tổ hợp phụ âm đầu bằng hai mã chữ riêng biệt

Trong các văn bản hiện còn ở gần thời điểm thế kỷ XVII, hầu hết các tổ hợp phụ âm đầu xuất hiện dưới dạng một mã chữ. Mã này có thể là gồm 2 thành tố cùng biểu âm, ví dụ:

Trăng được ghi (ba + lăng)

(Thiên Nam minh giám)

Ở bản PTĐBPMATK các tổ hợp phụ âm đầu được ghi bằng một mã chữ cũng xuất hiện khá nhiều, ví dụ:

Trỗi được ghi (bả + lỗi)

Trông được ghi 曡車 (cư + long)

Trai được ghi (ba + lai)

Trẻ được ghi (cá + lễ)

Trưa được ghi (cá + lô)

Trời được ghi (ba + lệ)

...

Điều đặc biệt ở văn bản PTĐBPMATK là các tổ hợp phụ âm đầu được ghi bằng hai mã chữ riêng biệt, ví dụ:

Mlăn mlóc được ghi 麻 鄰 碌 (ma lân ma lộc)

Mlận được ghi 麻 吝 (ma lận)

Mlớn được ghi 麻 吝 (ma lận)

Kmắng được ghi 車 莽 (cư mãng)

Blọc (trọn) ghi 婆 論 (bà luận)

Klông được ghi 个 籠 (cá lung)

Việc ghi các tổ hợp phụ âm đầu bằng hai mã chữ như vậy chứng tỏ văn bản giữ lại trung thực cách ghi về âm đọc đương thời. Càng về sau, một trong hai thành tố càng bị đọc lướt đi hoặc được thay thế bằng một phụ âm khác theo quy luật ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Nhưng ở văn bản, tổ hợp phụ âm đầu được ghi bằng hai mã chữ tách rời như vậy chứng tỏ thời đó còn giữ lại cách đọc hai thành tố như nhau. Điều đó cho phép ta suy nghĩ rằng văn bản được giải âm ra chữ Nôm rất sớm chữ không phải ở thời điểm Trịnh Quán in bản kinh này.

- Trường hợp dùng hai mã chữ để ghi những âm tiền tắc họng hóa còn lại trong tiếng Việt lịch sử, ví dụ:

Dùng 多 朋 (đa bằng) ghi ? bằng

Dùng 阿 貶 (a biếm) ghi ? băm

Dùng 波 欲 (ba dục) ghi ? dượt

Dùng 阿 計 (a kế) ghi? gầy

Dùng 多 己 (đa kỷ) ghi ? ghê (nhiều)

Dùng 多 芃 (đa bồng) ghi? vỏng

Dùng 阿 盃 (a bôi) ghi ? vội

Dùng 可 耶 (khả da) ghi? xa

Dùng 阿 律 (a luật) ghi ? rót

Dùng 阿 龍 (a long) ghi ? rỗng

Theo Haudricourt, Sokolovskaja và Nguyễn Ngọc San(7) khoảng thế kỷ XII, thế kỷ XIII tiếng Việt đã có các âm tiền tắc họng hóa như: ?b, ?d, ?j, ?g. Khi khảo sát chữ Nôm trong văn bản chúng tôi thấy rằng những âm đó được phản ánh khá đầy đủ. Ngoài ra còn có những trường hợp khác nhau cho phép ta nghĩ rằng có thể còn có những âm tắc họng nữa. Tất nhiên cần phải phân biệt nó với những từ đôi vốn có trong một số ngôn ngữ. Một số ví dụ chúng tôi đưa ra ở trên cho thấy rằng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, vào thời của Tuyên Quận công Trịnh Quán không còn giữ lại cách đọc như vậy trong tiếng Việt. Hiện tượng này chỉ có thể xuất hiện trước thế kỷ XVII.

Như vậy là có nhiều lý do để đi đến nhận định rằng: văn bản giải âm PTĐBPMATK đã được Trịnh Quán in lại từ một văn bản đã có từ trước đó, xuất hiện vào khoảng đời Lê Sơ, tức là vào khoảng thế kỷ XV.

CHÚ THÍCH

(1) Xin xem Cao Hữu Lạng, bản đánh máy, ký hiệu D.1015, Thư viện Viện Hán Nôm.

(2) Xin xem Linh Chi, Nội san Nghiên cứu Phật học, số 3, năm 1994, trang 38.

(3) Xin xem Trịnh Quang Vũ: “Người đàn bà Việt Nam đầu tiên soạn từ điển và giáo sĩ De Rhodes”, tạp chí Xưa & Nay, số 5, năm 1995.

(4) Xin xem Nguyễn Ngọc San “Góp vài ý kiến về âm đầu tiếng Việt cổ qua cứ liệu Nôm trong sách PTĐBPMATK, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3 năm 1982; Cơ sở Ngữ Văn Hán Nôm, Nxb. Giáo dục, 1987.

(5) Nhân đây xin chân thành cảm ơn ông Tạ Trọng Hiệp đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong việc tìm hiểu lai lịch văn bản gốc của bản giải âm PTĐBPMATK.

(6) Xin xem Ngô Đức Thọ: Chữ húy thời Lê sơ, Tạp chí Hán Nôm số 2, năm 1991.

(7) Xin xem Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt, Nxb. KHXH, H. 1979.

(8) Theo Nguyễn Ngọc San, Sđd./.

TB

"VIỆT SỬ CƯƠNG MỤC TIẾT YẾU"
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM(*)

HOÀNG VĂN LÂU

Đặng Xuân Bảng, tên tự là Hy Long, tên hiệu là Thiện Đình, và Văn Phủ, sinh ngày 18 tháng 7 năm 1828 tại làng Hành Thiện, tổng Hành Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, nay là làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà.

Đặng Xuân Bảng xuất thân từ một gia đình có truyền thống nho học. Ông nội Đặng Xuân Bảng là Đặng Nguyên Quế, tục gọi là Xã Quế, là nhà nho nghèo, dạy học, từ Hành Thiện dời nhà đến xã An Dương, Hải Phòng. Phụ thân Đặng Xuân Bảng là Đặng Viết Hòe, tục gọi là cụ mèn Hòe (1807-1877), theo cha ra Hải Phòng sinh sống, theo học cha, đậu tú tài thì trở về Hành Thiện dạy học. Cụ 7 lần thi đỗ Tú tài, có khóa cùng đi thi với con là Đặng Xuân Bảng.

Đặng Xuân Bảng thi đỗ Tú tài năm 1846 và 1848, đỗ Cử nhân năm 1852, đỗ Tiến sỹ khoa Bính Thìn 1856, cùng khóa với ông Đình nguyên, Thám hoa Ngụy Khắc Đản.

Sau khi thi đỗ Cử nhân (1852), ông làm Giáo thụ phủ Ninh Giang. Năm 1857, một năm sau khi đỗ Tiến sỹ ông được điều về kinh đô Huế, sung vào Nội các, để tham gia chỉnh lý bộ Nhân sự kim giám, một bộ sách bàn về đạo đế vương do triều đình chỉ đạo biên soạn. Năm 1860, ông được bổ làm Tri phủ Yên Bình. Thời gian này ông soạn Tuyên Quang tỉnh phú. Năm 1861, ông được điều về Huế làm Giám sát ngự sử, có nhiều kiến nghị dâng lên triều đình, như can vua Tự Đức không nên sai Phan Thanh Giản đi “chuộc lại” ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã rơi vào tay quân Pháp; dâng sớ trình bày các việc về tài chính, quân chính và dân chính. Trong sớ, ông phân tích nguyên nhân của tình trạng tài chính thiếu hụt, quân lực suy yếu, dân tình náo động... và nêu những biện pháp khắc phục. Năm 1863, ông giữ chức Chưởng ấn ở Lại khoa. Năm 1864 ông bị điều ra làm Án sát sứ Quảng Yên, theo Trương Quốc Dụng đi đánh dẹp bọn giặc biển. Năm 1868, ông làm Bố chính sứ Tuyên Quang, theo Nguyễn Bá Nghi đi đánh dẹp bọn thổ phỉ và bọn Tầu Ô, ông có dâng sớ về triều đình, trình bày kế sách giữ gìn vùng biên cương đất nước. Năm 1869 ông làm Bố chính sứ Thanh Hóa, xin phép về quê thăm gia đình không được, xin rước cha mẹ đến nhiệm sở cũng không được, liền xin từ chức về quê phụng dưỡng cha mẹ, nên được đổi giữ chức Bố chính Hà Nội, vài tháng sau lại đổi giữ chức Bố chính Sơn Tây. Năm 1870, ông được cử làm Tuần phủ Hưng Yên. Năm 1872 ông được đổi làm Tuần phủ Hải Dương. Ông dâng biểu về triều đình, xin mở cửa sông Cấm làm nơi buôn bán, mời các nước phương Tây sang thông thương để giữ thế chủ động giao thiệp với nước ngoài, nhưng bị Tự Đức bác bỏ. Cuối năm 1873 Hải Dương mất vào tay quân Pháp, ông bị gọi về Kinh đô Huế chờ xử tội. Năm 1876, ông bị đày ra Hưng Hóa, theo Hoàng Kế Viêm đi mở đồn điền để chuộc tội. Thời gian này, ông biên soạn tác phẩm Nam phương danh vật bị khảo. Năm 1878, có lệnh cho về Kinh đô, ông lấy cớ có mẹ già, xin về quê nuôi mẹ. Năm 1886, theo lời đề nghị của Phan Đình Phùng, ông được cử làm Đốc học Nam Định. Năm 1888, được lệnh về Kinh thăng chức, nhưng ông lấy cớ già yếu, xin về an dưỡng. Từ đó, đến khi mất (ngày 7 tháng 12 năm 1910) ông ở nhà dạy học, viết sách và tổ chức khắc in nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm.

Đặng Xuân Bảng là người ham đọc sách, say mê nghiên cứu. Lúc làm quan cũng như khi bị biếm truất, tay luôn không rời sách, có tác phong của một nhà khảo cứu nghiêm túc: “Mỗi khi gặp sự vật gì, thì đều cho kiểm chính lại, rồi thuận tay cầm bút ghi lại” (Nam phương danh vật bị khảo tự). Ông nghiên cứu rộng, ở nhiều lĩnh vực, như thiên văn, địa lý, chính trị, sử học, văn học, ngôn ngữ, quân sự…

Khi đọc sách của người xưa, ông thường tiếc là sơ lược và có nhiều thiếu sót sai lầm, nên để tâm sức tra cứu sâu rộng các nguồn thư tịch Việt Nam và Trung Quốc để đính chính lại. Ông cho là người nước ta chỉ đọc Bắc sử, ít đọc Quốc sử, nên đặc biệt lưu tâm biên soạn và khảo chứng về lịch sử và địa lý nước nhà. Là một nhà giáo dục, Đặng Xuân Bảng rất chú ý đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Ông để tâm sưu tầm những tấm gương đạo đức ngày xưa, biên tập thành các sách Cổ nhân ngôn hành lục Cư gia khuyến giới tắc. Ông biên soạn Huấn tục quốc âm ca để cổ vũ cho một phong tục thuần hậu. Ông là một nhà ngôn ngữ, nhà văn có tài. Sách Nam phương danh vật bị khảo của ông là một quyển từ điển song ngữ Hán - Việt, giải thích các từ Hán theo chủ điểm, bằng chữ Nôm, chú trọng lối nói khẩu ngữ. Ông đã diễn Nôm truyện Nhị độ mai và viết Thánh tổ hạnh thực diễn âm ca bằng chữ Nôm. Sáng tác thơ văn của ông hiện còn giữ được, có Thiện Đình Khiêm Trai văn tập Tiên Nghiêm Hội, Đình thí văn.

Thành tựu nổi bật của Đặng Xuân Bảng thể hiện ở lĩnh vực sử học. Giới sử học nước ta đã từng biết đến bộ Sử học bị khảo của ông, một bộ sách khảo cứu công phu về lịch sử địa lý, về bộ máy hành chính Việt Nam qua các đời. Riêng phần Địa lý khảo của bộ sách này, đã được Đào Duy Anh đánh giá là “một công trình nghiên cứu địa lý học lịch sử quan trọng nhất trong giới học thuật Việt Nam thời phong kiến”. (Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. KHXH, H. 1961, tr.5). Tuyên Quang tỉnh phú là bài phú dài, nói về địa lý, lịch sử, và truyền thống văn hóa của các dân tộc ở Tuyên Quang. Thông giám tập lãm tiện độc là lịch sử (tóm tắt) Trung Quốc từ khởi thủy đến hết nhà Minh. Việt sử cương mục tiết yếu, lịch sử Việt Nam, từ thời Hùng Vương đến khi nhà Tây Sơn chấm dứt (1802), có kèm theo các công trình khảo chứng và bình luận.

Việt sử cương mục tiết yếu là một bộ thông sử, gồm 8 quyển, 1200 trang, chia làm 2 phần: phần Tiền biên, từ thời Hùng Vương đến thời kỳ 12 sứ quân (năm 967). Phần Chính biên từ kỷ Đinh Tiên Hoàn g đến kỷ Tam Quốc (968 - 1802). Kỷ Tam Quốc là do Đặng Xuân Bảng đặt cho một giai đoạn lịch sử 15 năm, từ khi Quang Trung lên ngôi vua (1788) đến khi Nguyễn Ánh tiêu diệt triều đình Quang Toản (1802). Thời kỳ đó, trên thực tế, ở nước ta tồn tại song song 3 chính quyền (ba triều đình, mà tác giả gọi là ba “nước”): Nguyễn Ánh ở Gia Định, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Quang Trung và Quang Toản đóng đô ở Huế.

Về độ dài lịch sử, Việt sử cương mục tiết yếu so với Đại Việt sử ký toàn thư dài hơn 127 năm (từ năm 1675 đến năm 1802), so với Khâm định Việt sử thông giám cương mục dài hơn 15 năm (1788-1802).

Là một nhà sử học sinh ra, lớn lên và được đào tạo dưới triều đại chuyên chế nhà Nguyễn tới học vị Tiến sỹ, làm quan tới chức Tuần phủ, nhưng Đặng Xuân Bảng phần nào vượt lên trên thành kiến đương thời, phê phán cách nhìn thù địch, thiển cận đối với nhà Tây Sơn của triều đình, khẳng định nhà Tây Sơn là một triều đại chính thống. Ông nói: (Triều đại Tây Sơn) “bên trong dẹp yên giặc cướp, bên ngoài đuổi đánh quân Thanh, làm cho non sông Hồng Lạc vẫn vững vàng như cũ. Huống chi, bấy giờ, nhà Lê đã mất, triều ta chưa lên. Sự truyền nối các triều Đinh, Lý, Trần, Lê đối với đất Bắc Kỳ trong 18 năm ấy, không thuộc Tây Sơn thì còn thuộc về ai nữa?” (Xem Kỷ Tam Quốc). Theo ông, tiêu chuẩn để xem xét một triều đại có phải là chính thống hay không, chính là có “giữ yên được bên trong, chống lại được giặc ngoài” hay không. Đối với các triều đại đang lên, cũng không quên vạch rõ những thiếu sót, hạn chế của nó, như phê phán chính sách tô thuế hà khắc của triều Trần... Khi phân tích nguyên nhân thành bại của các triều đại, Đặng Xuân Bảng ít nói đến “mệnh trời”, ít nói đến sự hồi hoàn của thịnh suy, hưng vong, mà chú ý tới những nhân tố bên trong, nhân tố con người, như triều đình Quang Toản sở dĩ mau chóng thất bại vì nội bộ lục đục, chém giết lẫn nhau, khiến cho kẻ địch tận dụng được thời cơ đó. Ông nói “Nhà Tây Sơn sở dĩ mất chỉ vì bề tôi có tài nhiều người theo về (Nguyễn Ánh). Nguyễn Văn Trương đầu hàng nên Nam Kỳ bị mất, Lê Tông Chất đầu hàng mà Phú Xuân bị hạ. Nước không còn người tài thì trống rỗng”. “Quang Toản mất, tội đầu hàng là do Diệu và Dũng. Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Diệu giết Hồ Công Diệu, Thí bỏ Lê Văn Ứng. Giặc mạnh ngay trước mặt, đại thần giết hại lẫn nhau. Bên trong thì tướng sỹ lìa lòng, bên ngoài thì lòng dân nao núng, chỉ dựa vào mấy vạn quân lính múa may vùng Quy Nhơn và Phú Yên thì có ích gì?”

Tiết yếu đã tham khảo nhiều nguồn sử liệu ở trong và ngoài nước, của triều đình và của tư gia, có nhiều tài liệu mà ngay Quốc sử quán của triều Nguyễn khi biên soạn bộ Cương mục cũng không có, nên đã bổ sung được nhiều sự kiện. Tác giả khéo xử lý nguồn tài liệu có trong tay, dựng lại được nhiều sự kiện lịch sử một cách thuyết phục, như trận đánh thắng quân Tống của Lê Hoàn, cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt sang hai châu Liêm, Ung, Trung Quốc, các trận chiến đấu của quân dân nhà Trần chống quân xâm lược Mông Cổ, tình hình bang giao giữa triều Mạc và nhà Minh... Lối chép sử của tác giả là ngắn gọn, chú ý tính hệ thống, không bỏ sót sự kiện quan trọng.

Một nét đặc sắc của Tiết yếu là có nhiều chuyên luận rất công phu về nhiều mặt của lịch sử. Tác giả chú ý nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, có nhiều luận điểm tiếp cận với quan điểm ngày nay. Tác giả bắt đầu bộ sử từ thời Hùng Vương, nhưng phủ nhận thủy tổ nước Việt là dòng dõi Thần Nông của Trung Quốc. Về nước Văn Lang của người Lạc Việt, ông giải thích Văn Lang là tên sông (sông Thao ngày nay), lấy tên sông làm tên nước. Ông phê phán nhiều sử gia lầm lẫn các dân tộc Lạc Việt với người nước Việt thời Chu của Trung Quốc. Theo ông, Âu Việt hay Đông Âu (thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc) cùng Mân Việt hay Đông Việt (tỉnh Phúc Kiến) mới là dòng dõi của Câu Tiễn nước Việt xưa. Dương Việt, cũng gọi là Bách Việt hay Nam Việt, là họ Thiên, cùng thủy tổ với nước Sở. Nước Việt cổ thuộc nước Lạc Việt, địa bàn ở vùng Bắc Bộ ngay nay, không liên can với nước Việt của Câu Tiễn và Dương Việt của họ Thiên. Về nước Âu Lạc, ông cho rằng đó là sự kết hợp hai nước Văn Lang của người Lạc Việt với nước Tây Âu (châu Uất Lâm của Quảng Tây, Trung Quốc), phủ nhận Thục Phán là con vua Thục như nhiều sử gia đã ngộ nhận, cho rằng Thục Phán là người Tây Âu, họ Thục, tên Phán. Tiết yếu chú ý khảo sát lãnh thổ Việt Nam qua các đời, nêu rõ vùng đất đã bị mất và phân tích nguyên nhân mất đất.

Tiết yếu rất thành công khi nghiên cứu địa danh lịch sử, dẫn nhiều nguồn sử liệu trước đó chưa ai chú ý, phê phán Cương mục “lấy tên đất ngày nay để chú tên đất ngày xưa mà không khảo cứu kỹ “Ông chỉ rõ: Long Biên đời Hán thì ở Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn… Long Biên từ Tấn Ngụy về sau thì ở phủ Từ Sơn, Bắc Ninh và Hà Nội. Ái Châu đời Lương (tức Cửu Chân đời Hán) nay là các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (Sách Lĩnh biểu lục dị chép: Thứ sử Ái Châu là Vi Công Cán muốn phá hủy cột đồng ở Hưng Nguyên. Hưng Nguyên ở Nghệ An. Như thế thì thời xưa, từ sông Lam trở ra Bắc thuộc Ái Châu, trở vào Nam thuộc Hoan Châu), còn Ái Châu từ Đinh, Lê trở về sau là Thanh Hóa.

Tiết yếu có nhiều chuyên khảo về bộ máy hành chính, tổ chức quân đội, chế độ thuế khóa, thi cử, qui định mũ áo, nghi lễ triều đình… của các triều đại rất có giá trị.

Là một sử gia đứng trên lập trường chính thống phong kiến, Đặng Xuân Bảng khi viết Tiết yếu cũng có những hạn chế và thiếu sót nhất định. Điều này thể hiện khá rõ ở cách đánh giá của tác giả đối với các triều đại không phải là chính thống, như nhà Hồ, nhà Mạc, họ Trịnh. Đối với nhà Tây Sơn, mặc dù ở phần mở đầu kỷ Tam Quốc, tác giả khẳng định đó là triều đại chính thống, nhưng khi viết về giai đoạn Tây Sơn, tác giả bỏ qua nhiều sự kiện quan trọng, tiêu biểu cho thắng lợi của triều đại Tây Sơn, như trận đánh lớn phá tan quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút, hoặc miêu tả sơ sài, như trận đại phá quân xâm lược nhà Thanh, việc bang giao giữa triều Quang Trung với triều đình nhà Thanh. Có thể thông cảm với tác giả phải soạn thảo trong điều kiện chuyên chế nghiệt ngã, thiếu thốn mọi thứ tư liệu về phong trào Tây Sơn, nhưng người đọc vẫn cảm thấy đáng tiếc. Về các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Lê Trịnh, tác giả có chú ý tìm nguyên nhân ở phía bọn thống trị “chơi bời phóng túng vô độ, bán quan mua tước, thuế khóa nặng nề, không việc gì mà chúng không làm”, dẫn tới chỗ “lòng người mong loạn”. Kết quả là nhiều người khởi binh, xưng hiệu “Dân vùng đông nam vác cuốc cầm gậy đi theo, đông đến hàng vạn”. Về một lãnh tụ của phong trào nông dân miền Bắc là Nguyễn Hữu Cầu, tác giả viết: “Vào các năm Canh Thân, Tân Dậu, liền năm mất mùa, Hải Dương nặng nhất, Hữu Cầu cướp bóc các thuyền buôn, được bao nhiêu thóc gạo, đem phát không cho dân, rất nhiều người nhờ đó mà sống sót”. Cho nên “khi Cầu dơ tay hô hào, trong khoảnh khắc, người ta tụ hội như mây”. “Tuy nhiên dưới ngòi bút của tác giả, họ đều là “giặc”. Còn những viên tướng đàn áp dã man phong trào khởi nghĩa thì được miêu tả như những anh hùng.

Về phương pháp biên soạn, Tiết yếu theo nguyên tắc của Cương mục. Nói chung, tác giả đã khai thác được lợi thế của phương pháp này, như hệ thống hóa vấn đề, phát huy vai trò của những lời “án”, “chú”, “bình”, “khảo”… Nhưng có lúc quá cứng nhắc, hình thức. Như thời kỳ Lê - Trịnh, năm nào, vào tháng giêng, ngày mùng 1, cũng có mục: Tế Giao. Điều này xuất phát từ lập trường chính thống, phủ nhận họ Trịnh. Nhưng khi viết ra, lại thành rườm rà, hình thức. Ngoài ra cũng như nhiều bộ sử khác, Tiết yếu cũng có chỗ này, chỗ khác viết chưa đúng sự thực lịch sử, hoặc phần khảo cứu, có chỗ chưa thỏa đáng, đó cũng là điều dễ hiểu.

CHÚ THÍCH

(*) Bộ sử này vốn bị tàn khuyết, gần đây, đã tìm lại được trọn bộ. Xin xem: “Về văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu”. Tạp chí Hán Nôm, số 4-1994, tr.32-36./.

TB

QUẢN GIÁM BÁCH THẦN NGUYỄN HIỀN, ÔNG LÀ AI?

NGUYỄN HỮU MÙI

Thần phả, ngọc phả, sự tích hay gọi chung là loại hình văn bản thần tích xuất hiện ở nước ta từ khá sớm. Khi nói đến tác giả của văn bản loại hình này, chúng ta thường thấy nói đến Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền. Về Nguyễn Bính, tuy mới được phát hiện, nhưng đã được giới thiệu trong Lược truyện các tác gia Việt Nam(1) Từ điển văn học(2). Còn Nguyễn Hiền, do thiếu tư liệu nên cho đến nay, vẫn chưa có gì rõ ràng về mặt tiểu sử.

Thấy đây là một tác giả có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thần tích cần được tìm hiểu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát lại toàn bộ số văn bản thần tích lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bao gồm văn bản thần tích của 2024 làng, xã, phường, trang trại, đóng trong 568 tập mang ký hiệu AE và số văn bản cùng nội dung ở 48 xã, thôn khác rải rác trong ký hiệu A và VHv. Sau đây là những tư liệu có phần xuất xứ ghi ở cuối mỗi văn bản.

Tài liệu thứ nhất: Hùng triều Trần Thị Ngọc Dung cung phi sinh đắc thủy thần Đại Hải Long Vương, hậu phụ Hùng Duệ vương phạt Thục vương phả hữu lục của xã Do Nghĩa và Vịnh Lan, huyện Sơn Vi, tỉnh Phú Thọ (AEa 9/26). Theo kê khai trong phả thì trước đó, sự tích thờ thần của hai xã chỉ là khẩu truyền. Đến năm Tự Đức 3 (1850), mới tìm được văn bản tại đàn xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây. Tại đây, các vị chức sắc trong xã cho biết, sở dĩ có được văn bản này vốn là của một người trước từng giữ chức lớn, phụng mệnh Quản giám bách thần. Giấy tờ sự tích cũ hiện còn(3).

Tài liệu thứ hai: Việt Thường thị Thục vương triều Hùng triều công thần Báo Quốc linh thông, Chiêu ứng đại vương ngọc phả cổ lục của 3 giáp xã Hải Thiên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, do Nguyễn Bính sọan ngày 15, tháng giêng, năm Hồng Phúc 1 (1572); Nguyễn Hiền sao lại ngày mồng 1, tháng 5, năm Vĩnh Hựu 3 (1737). Bản thần tích này đóng trong Nam quốc lịch đại thế thứ niên biểu thần phả (A.705, tờ 106a), có ghi: “Tháng 2, năm Bính Thìn (1856), bản xã nghe thấy ở xã Bằng Đắng, tổng Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây có Tô Thế Huy, đỗ Tiến sỹ thời Lê, làm việc ở bộ Lễ, nắm sự tích ngọc phả bách thần của nước. [Bản xã] bàn bạc cử người đến hỏi…Đến tháng 7, ông Đoàn Khoan lĩnh được ngọc phả mang về đình(4).

Tài liệu thứ ba: Việt Thường Thị Hùng triều công thần nhị vị nhân thần, nhị vị thủy thần ngọc phả lục của xã Khai Thái, tổng Khai Thái, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, do Nguyễn Bính soạn ngày tốt, tháng 2 năm Hồng Phúc 1 (1572); Nguyễn Hiền sao lại vào ngày tốt, tháng 10, năm Vĩnh Hựu 5 (1739) (AEa2/40), tờ 20a, phả ghi như sau: “Ngày 15, tháng 2, năm Mậu Ngọ, niên hiệu Tự Đức 11(1858). Cai tổng, Kỳ mục, Lý dịch cùng mọi người dân xã Khai Thái (trước là Khang Thái) tổng Khai Thái, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông nghe thấy bản chính cũ ghi sự tích Thánh [Có ở nhà] quan Nguyễn Hiền xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Họ tộc ấy lưu giữ thần tích. Đến nay, họ mang các bản cũ ấy đến nhà ở tại cửa Nam của tỉnh Hà Nội (tức cửa Nam của thành Hà Nội - N.H.M) để giao lại cho dân các nơi đến lĩnh mang về lưu giữ. Bản xã đến đó, làm lễ, mở ra xem, phụng lĩnh sự tích mang về đình(5).

Tài liệu thứ tư: Việt Thường Hùng triều Duệ Vương công thần Cương Nghị, Bảo An nhị vị đại vương ngọc phả cổ lục của xã Hà Phương, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, do Nguyễn Bính soạn ngày mồng 10, tháng giêng, năm Hồng Phúc 1 (1572); Nguyễn Hiền sao lại vào ngày tốt, tháng 2 năm Vĩnh Hựu 3 (1737) (A1545). Ở tờ 8b, cột niên đại thứ ba của văn bản này (sau cột niên đại Hồng Phúc và Vĩnh Hựu), cũng có ghi như sau: “Ngày lành đầu tháng 6 năm Hoàng Triều Tự Đức 12 (1859). Mới tìm thấy bản cũ ngọc phả của triều trước ở từ đường Nguyễn Hiền xã Bằng Đằng, tổng Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Phụng mệnh sao lại”(6).

Tài liệu thứ năm: Thần tích của thôn Đoài, xã Phú Khê, huyện Thần Khê, tỉnh Thái Bình, do Nguyễn Bính soạn vào ngày tốt , tháng 1, năm Hồng Phúc 1, (1572); Nguyễn Hiền sao lại vào ngày tốt, tháng 3, năm Vĩnh Hựu 2 (1736). (Aea5/52). Khác với 4 tài liệu trên, ở tờ 9b tài liệu này nói rõ về Nguyễn Hiền cũng như cơ sở tàng trữ thần tích của ông. Đây là lời ghi nhận của Cử nhân Lương Quy Chính(7) đề năm Tự Đức 12 (1859): Nguyên bản thần tích này từ đời Vĩnh Hựu (1735-1740) do Nguyễn Công giữ chức Quản giám bách thần (ông là người xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây). Sao lại theo bản chính của triều trước, đem dựng trong hòm đồng, giấu vào trong tường nhà [ông]. Trải nhiều năm, con cháu không để tâm khảo cứu. Đến khoảng niên hiệu Tự Đức (1848-1883), tường nhà đổ, lộ ra hòm đồng. Mở ra xem thấy có sự tích bách thần. Dân thôn cứ theo nguyên bản đó sao lại rõ ràng(8).

Trên đây là 5 nguồn tư liệu có trong 5 văn bản thần tích ở 5 tỉnh Trung du và đồng bằng Bắc Bộ (cũ) mà chúng tôi thu được trong quá trình điều tra tư liệu về Nguyễn Hiền. Những tư liệu này do chính các chức sắc địa phương và người địa phương là Cử nhân ghi lại từ giữa thế kỷ XIX khi họ đi tìm thần tích cho địa phương mình. Chúng ta thấy, tuy ở 5 địa phương khác nhau (Phú Thọ, Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Thái Bình), viết vào 4 thời điểm khác nhau (1850, 1856, 1858, 1859) nhưng đều khẳng định đến hai người Tô Thế Huy và Nguyễn Hiền, mà hai người này có nhiều điểm giống nhau: Cùng giữ chức Quản giám bách thần đời Vĩnh Hựu; cùng tàng trữ văn bản thần tích cho đời sau đến sao: cùng ở xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây.

Vậy, Tô Thế Huy và Nguyễn Hiền - tuy hai tên khác nhau nhưng phải chăng chỉ là một người ?

Theo hướng này, chúng tôi rà soát trong các thư tịch chữ Hán viết từ giai đoạn 1697 đến 1740 là thời gian Tô Thế Huy đỗ Tiến sĩ và làm quan trong triều để tìm mối quan hệ, song không thấy kết quả. Một số sách qui tụ được nhiều đầu việc như Đại Việt sử ký tục biên(9) cũng chỉ thấy nhắc đến Tô Thế Huy mà không thấy nhắc đến ai có tên Nguyễn Hiền. Trong lời kê khai của Lý trưởng làng Bình Trù (Bằng Đắng) năm 1937 như chúng tôi đã dẫn nguyên văn bằng tiếng Việt trên Tạp chí Hán Nôm số 1.1995(10) cũng không đả động đến.

Trước tình hình đó, chúng tôi lại trở về chính quê của Tô Thế Huy để tìm sự giúp đỡ từ dòng họ. Nhân đây, chúng tôi cũng nói rằng, lần trước, khi trở về quê ông, do chưa có tư liệu nên chúng tôi vẫn tự coi Tô Thế Huy như là người đồng thời với Nguyễn Hiền. Lần này được cụ Tô Thị Uẩn cho hay: Nguyễn Hiền chỉ là một trong ba tên của Tô Thế Huy lúc sinh thời, Là Tô Thế Huynh (tên hồi nhỏ của Tô Thế Huy), Tô Thế Huy (tên khai để thi Tiến sĩ) và Nguyễn Hiền (tên bút danh của Tô Thế Huy khi làm Quản giám bách thần). Cụ Uẩn còn cho biết, cho đến nay, dòng họ Tô của cụ còn giữ được lệ kiêng húy ba tên HUYNH, HUY, HIỀN. Nghĩa là con cháu họ Tô đều không gọi và không đặt tên trùng với ba tên ấy.

Như vậy, nếu 5 nguồn tư liệu trên không nói rõ Nguyễn Hiền là tên khác của Ngô Thế Huy thì nhờ vào sự giúp đỡ của dòng họ Tô đã bổ sung cho ta điều đó. Lời kể của cụ Uẩn trùng hợp với điều khẳng định Nguyễn Hiền là người xã Bằng Đắng như đã ghi trong những văn bản kể trên nên hoàn toàn tin cậy được.

Đến đây, cho phép ta khẳng định Nguyễn Hiền chính là một biệt danh của Tô Thế Huy. Còn vì sao Tô Thế Huy lấy đó làm bút danh thì cần phải tìm hiểu tiếp. Song, đối với một nhà nho, nhất là nhà khoa bảng, có thể có một hoặc nhiều bút danh khác nhau là điều bình thường. Tên bút danh không có nghĩa là đổi họ.

Vậy, căn cứ vào các tư liệu hiện có, kết hợp với điều tra thực địa tại địa phương của tác giả, bước đầu có thể khôi phục tiểu sử của Nguyễn Hiền như sau:

Nguyễn Hiền sinh năm 1666(11) trong một gia đình nông dân ở xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Lúc nhỏ, có tên là Tô Thế Huynh. Trước khi đỗ tiến sĩ, ông từng làm Huấn đạo(12). Sau đổi tên là Tô Thế Huy để thi Tiến sĩ và đỗ năm 1697, đời Lê Hy Tông.

Thời gian từ sau khi đỗ Tiến sĩ đến năm 1719, chưa rõ ông đảm nhận những chức gì.

Năm 1720, ông giữ chức Tả thị lang và thăng tước Hầu(13). Năm sau, 1721, ông được cử làm Phó sứ cùng Hồ Phi Tích (làm Chánh sứ) và Đỗ Lệnh Danh đi sứ sang nhà Thanh(14).

Năm 1725, bị giáng chức từ Tả thị lang bộ Công xuống Hữu thị lang bộ Công(15).

Năm 1729, thăng - Bồi tụng Lễ bộ Hữu thị lang(16).

Đến tháng 5-1732, tình hình trong triều trở nên rối ren. Các đại thần ỷ vào vua đang cử tang, có nhiều nết xấu nên bày việc phế vua. Ông bị coi “là bề tôi giảng dạy vua mà dựa dẫm phụ họa, không biết giúp vua về đạo đức”, bị giáng làm thừa chính sứ An Quảng(17).

Đến niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), sau những lần thăng trầm trên đường hoạn lộ, ông được chuyển về làm việc tại bộ Lễ. Thời gian này, trước tình hình các văn bản thần tích lưu tại bộ Lễ do Nguyễn Bính biên soạn từ niên hiệu Hồng Phúc (1572) đã cũ nát, triều đình có chủ trương cho sao lại. Lần này, do tính chất công việc, triều đình đặt ra chức Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh và giao chức đó cho người giỏi về chiêm tinh là ông đảm nhận. Khảo sát trên văn bản được biết, việc sao thần tích của ông được chính thức bắt đầu từ năm Vĩnh Hựu 2 (1736) và kết thúc vào năm Vĩnh Hựu 6 (1740)(18), đều lấy bút danh Nguyễn Hiền ghi thống nhất trong toàn bộ hệ thống văn bản thần tích.

Năm 1740, ông ngoài 70 tuổi và về trí sĩ ở thời điểm này(19). Tại quê, ông dựng ngôi đền thờ bách thần, trong lưu giữ nhiều văn bản thần tích do ông thu thập trong thời gian làm Quản giám bách thần. Đến cuối thời Lê (khoảng những năm từ 1744 đến 1751), ngôi đền này bị nghĩa quân của Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo) cướp phá(20). Con cháu ông thu gom những văn bản còn lại cất giữ trong hòm đồng. Về sau, đến thời Nguyễn, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XIX trở đi, đây là cơ sở chính thu hút các làng xã đến sao thần tích mang về thờ.

Nguyễn Hiền mất ngày 24 tháng 4 (chưa rõ năm) tại quê nhà. Triều đình truy tặng chức thượng thư(21) và được dân thôn phối thờ tại đình làng.

Nguyễn Hiền, hiệu Vạn Chuyết, tước Cảo Quận công, là người có nhiều đóng góp cho nền văn hóa dân tộc ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVIII, gắn liền các đời vua Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Đế Duy Phường, Lê Thần Tông và Lê Ý Tông. Ngoài những văn bản thần tích do ông sao chép thấy ở khắp các làng xã từ Nghệ An trở ra cũng như số văn bản hiện còn tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay, hiện chúng tôi mới được biết một bài tựa ông viết cho sách Quần hiền phú tập vào năm Bảo Thái 10 (1729)(22) và bài trướng mừng Nguyễn Bá Lân đỗ Tiến sĩ chép trong Bách liêu thi tập(23). Ngoài ra, ông còn là tác giả của hai bài văn bia Phụng từ La công sinh từ bi ký(24) Bản xã Văn hộ bi chí(25).

Như vậy, việc tìm hiểu về Nguyễn Hiền đã thu được kết quả và chứng minh Nguyễn Hiền là một biệt danh của Tô Thế Huy chứ không phải là một người nào khác. Những hoài nghi về nhân vật này từ đây cũng được giải tỏa, để trả lại cho ông vị trí của một tác gia Hán Nôm. Nếu nhìn rộng ra thì phải khẳng định rằng, với tất cả thông tin tư liệu, đặc biệt là mấy chục văn bản thần tích ghi xuất xứ tại xã Bằng Đắng và đền Hùng Vương mà chúng tôi mới thu thập được trong thời gian gần đây là cả một nguồn tư liệu khoa học có giá trị. Một mặt, nó là tiêu chí tin cậy nhất vạch ra những văn bản do chính Nguyễn Bính soạn từ thế kỷ XVI, tức nhờ nó đề tìm về nguồn một cách hiệu quả. Mặt khác, nó giúp vào việc tìm hiểu quá trình vận động của loại hình văn bản thần tích trong lịch sử. Từ đó, tạo cơ sở cho các bước nghiên cứu tiếp theo.

CHÚ THÍCH

(1) Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp (chủ biên), Tạ Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tường Phượng, Đỗ Thiện, Nxb. KHXH, H. 1971, Tập 1, tr.259.

(2) Từ điển văn học. Nxb. KHXH, H. 1984, Tập 2, tr.48.

(3) Tiền hữu lệnh công chức, phụng mệnh Quản giám bách thần. Sự tích cổ chi hiện tồn. AE a9/26, tờ 13b.

(4) Ư Bính Thìn niên, nhị nguyệt, bản xã văn đắc Sơn Tây tỉnh, Vĩnh Tường phủ, Bạch Hạc huyện, Đồng Phú tổng, Bằng Đắng xã, tiền Lê triều Tiến sĩ, Lễ bộ Tô Thế Huy, chưởng thông quốc bách thần ngọc phả sự tích. Nghị sử nhân thám phỏng... Chí thất nguyệt, Đoàn Khoan lĩnh đắc ngọc phả tương hồi tại đình”.

(5) Hoàng triều Tự Đức thập nhất niên, tuế thứ Mậu Ngọ, nhị nguyệt, thập ngũ nhật. Hà Nội tỉnh, Thường Tín phủ, Phú Xuyên huyện, Khai Thái tổng, Khai Thái xã (do cựu tục Khang). Cai tổng, Kỳ mục, Lý lịch, nhân dân đồng xã đẳng văn thanh thánh tích chính cựu bản tại Sơn Tây tỉnh, Vĩnh Tường phủ, Bạch Hạc huyện, Bằng Đắng xã (thần quan Nguyễn Hiền). Cai tộc phụng thử lưu tích. Chí tư cai tộc tương các cựu bản tựu Hà Nội tỉnh Nam môn trú sở phụng chi. Phát giao các dân tương hồi phụng thủ. Bản xã tựu xứ, hành lễ, khai khán, phụng lĩnh tương hồi đình sở”.

(6) Hoàng triều Tự Đức thập nhị niên, lục nguyệt, sơ cát nhật. Thủy kiến tiền triều ngọc phả cựu bản tại Sơn Tây tỉnh, Vĩnh Tường phủ, Bạch Hạc huyện, Đồng Phú tổng, Bằng Đắng xã Nguyễn từ đường. Phụng sao.

(7) Lương Quy Chính: Người xã phú Khê, huyện Thần khê, tỉnh Hưng Yên, đỗ Cử nhân năm Canh Tuất niên hiệu Tự Đức 3 (1850). Ông từng làm Kinh lược ở 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Sau đổi làm Thượng thư bộ Hộ rồi về vị trí sĩ. Quốc triều hương khoa lục. 36/2, tờ 28a.

(8) “Phụng thần tích nguyên bản, Vĩnh Hựu niên gian, Quản giám bách thần Nguyễn Công (công Sơn Tây tỉnh, Bạch Hạc huyện, Bằng Đắng xã nhân). Phụng sao tiền triều chính bản, trữ nhập đồng hàm, tàng chi ốc bích. Kinh dĩ hữu niên, tử tôn bất phục chí khảo. Đãi Tự Đức niên gian, ốc bích hoại, lộ xuất đồng hàm. Khai khán, nãi thị bách thần sự tích. Dân thôn phụng tái tuân nguyên bản tường sao”.

(9) Đại Việt sử ký tục biên (ĐVSKTB) Giai đoạn 1676-1789). Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hùng dịch và khảo chứng. Nguyễn Đổng Chi hiệu đính. Nxb. KHXH, H. 1991.

(10) Nguyễn Hữu Mùi: “Những khía cạnh văn bản liên quan đến mảng thư tịch thần tích”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1995, tr.31-33.

(11) Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa lục, A.485/1, tờ 64b.

(12) Lịch đại đại khoa lục, A.2119, tờ 160b.

(13) ĐVSKTB, tr.77

(14) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, phần Bang giao chí. Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam. Nxb. KHXH, H. 1992, tr.246.

(15) ĐVSKTB. tr.99.

(16) Phụng từ La công tiên sinh bi ký. No8597 -

(17) ĐVSKTB. tr.136.

(18) Trong quá trình khảo sát văn bản, chúng tôi thấy một số văn bản ghi vượt khung niên đại Vĩnh Hựu (1735-1740) như Vĩnh Hựu 8, Vĩnh Hựu 10 v.v.. Vì sao có hiện tượng này ? Đây là điều đáng tiếp tục tìm hiểu.

(19) Xã chí, phần Cổ chỉ của xã Bằng Đắng. AJ1/30

(20) Xung quanh việc ngôi đền thờ bách thần của Nguyễn Hiền bị nghĩa quân Nguyễn Danh Phương cướp phá hiện còn nhiều cách ghi khác nhau. ĐVSKTB cũng ghi nhận địa bàn huyện Bạch Hạc là nơi chiếm cứ và cướp phá của Nguyễn Danh Phương. Ở đây tôi chỉ nêu đầu việc, chờ xác minh thêm bằng nhiều nguồn tư liệu về sau.

(21) Sơn Tây đăng khoa lục. VHv.1289, tờ 58b.

(22) Bài: Đỉnh thuyên Quần hiền phú tập. A.575/tờ 1-2b.

(23) Bài: Cổ Đô Thượng thư quan đăng Tiến sĩ đệ hạ trướng, A.553, tờ 1-76.

(24) Thác bản No8597 - 8600

(25) Thác bản No13791-13794./.

TB

VÀI NÉT VỀ ẤN DẤU CỦA
BA DANH TƯỚNG ĐẦU THỜI NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Quân đội nhà Nguyễn có tiền thân từ thời các chúa Nguyễn. Trong thời kỳ chiến tranh với nhà Tây Sơn, quân đội là lực lượng căn bản để thành lập nhà Nguyễn; và sau này, khi nhà Nguyễn đã giành quyền thống trị, thì quân đội trở thành một bộ phận của nhà nước phong kiến Việt Nam đương thời.

Thời Gia Long Nguyễn Ánh cho đến giai đoạn đầu triều Minh Mệnh, tướng lĩnh trong quân đội giữ vị trí then chốt trong chính quyền nhà Nguyễn. Hầu hết các Tướng đứng đầu Năm quân đều là những đại thần quan trọng của triều đình. Chức vụ và quyền hạn của tướng lĩnh hơn hẳn các văn quan, mặc dù phẩm trật có ngang nhau. Sự biến đổi nhanh chóng từ những đại tướng cầm quân trong chiến trận trở thành viên quan cai trị về mặt hành chính các cấp là một đặc trưng nổi bật của tổ chức hành chính, quan chế đầu thời Nguyễn.

Trở lại thời kỳ phong trào Tây Sơn mới nổi dậy, Kinh đô Đàng trong thất thủ, quân chúa Nguyễn tan tác chạy vào Sài Gòn. Chúa Duệ Tông chết, Nguyễn Anh mới 17 tuổi được tôn làm Đại nguyên soái. Những tướng theo phò Nguyễn Ánh như Nguyễn Văn Nhân mới ở chức Khâm sai cai cơ, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Phong giữ chức Cai đội, còn Lê Văn Duyệt chỉ là một hoạn quan. Những tướng giỏi giữ chức vụ cao hơn lúc đó như Dương Công Trừng, Chu Văn Tiếp v.v.. và sau đó là Võ Tánh đều lần lượt tử trận. Trải hơn 20 năm vào sinh ra tử, khi chiến tranh chấm dứt, những tướng lĩnh trung thành với họ Nguyễn nói trên may mắn vẫn còn sống sót. Nguyễn Văn Thành làm đến chức Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân, tước quận công. Nguyễn Văn Nhân được phong chức Khâm sai chưởng hữu quân Bình Tây tướng quân. Lê Văn Duyệt từ một quan thái giám trở thành một vị tướng tài ba, năm 1802 được phong chức Khâm sai chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân. Còn người em ruột Lê Văn Duyệt là Lê Văn Phong giữ chức Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách.

Những viên tướng nói trên khi được phong chức bao giờ cũng được nhận bộ Ấn Kiềm. Ấn Kiềm ở đây biểu thị cho quyền lực của viên tướng và pháp lệnh của vương triều, bên trong thì đối với quân đội và bên ngoài thì đối với dân chúng.

Thời kỳ còn chiến tranh, vàng - tiền dồn cho chiến đấu, nên Ấn của các tướng lĩnh cao cấp cũng chỉ được làm bằng đồng. Sử liệu đã giúp ta biết được Ấn của năm tướng đứng đầu Năm quân đều được làm bằng đồng. Phần núm trên ấn chạm đúc hình con kỳ lân, mặt dấu hình vuông, kích thước 2 tấc 1 phân 6 ly.

Như ta đã biết, Kim Ngọc Bảo Tỷ của Hoàng đế triều Nguyễn bao giờ cũng được đúc theo hình rồng và hình lân(1). Ngoại trừ trường hợp các hoàng tử, vương công trong hoàn g tộc, còn các đại thần và tướng lĩnh ấn thường được đúc theo hình vật khác như hổ, sư tử v.v.. Ở đây thể hiện rõ vai trò đặc biệt quan trọng của các đại tướng trong thời kỳ chiến tranh và ngay sau chiến tranh, cũng như dụng ý của Gia Long Nguyễn Ánh trong việc dùng người. Năm viên tướng đứng đầu Năm quân được dùng ấn có chạm kỳ lân. Trọng lượng và thể tích của quả ấn này rất lớn, chỉ sau một số Bảo Tỷ của Hoàng đế Nguyễn. Từ khi những chiếc ấn đó ra đời cho đến nay, đã trải qua biết bao phen binh hỏa, thời gian tuy chưa phải là nhiều, với trên dưới 200 năm, nhưng những hiện vật quý báu đó hầu hết đã bị chôn vùi.

Hiện vật tuy đã mất, nhưng dấu tích vẫn còn. Ở kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và kho sách Châu bản triều Nguyễn của Cục Lưu trữ, hiện vẫn còn lưu giữ đầy đủ nguyên bản một số hình dấu nói trên. Trong cuốn Công văn cựu chỉ(2), dấu của Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân Nguyễn Văn Thành vẫn nổi bật với màu son đỏ. Dấu hình vuông, có kích thước 9,3x9,3cm, viền ngoài để rộng 1,2cm không khắc họa tiết trang trí. Bốn chữ triện bên trong xếp theo hai hàng, nét khắc sâu đậm, với lối triện tự vuông vức. Đó là bộ chữ “Tiền quân chi ấn” 前 軍 之 印. Dấu được đóng ở đoạn cuối dòng ghi niên hiệu “Gia Long nguyên niên bát nguyệt sơ thất nhật”. Trước trang có hình dấu là trang có dòng chữ Hán “Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân quận công” 欽 差 掌 前 軍 平 西 大 將 軍 郡 公.

Việc khẳng định con dấu này là của Nguyễn Văn Thành là chính xác. Sách Đại Nam thực lục chính biên ghi lại: “Cho Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây Tiền tướng quân Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân điều bát chư đạo Bộ binh Quận công(3). Con dấu “Tiền quân chi ấn” của Đại tướng Nguyễn Văn Thành được đóng vào ngày mồng 7 tháng 8 năm Gia Long thứ nhất (1802) trong một văn bản chữ Hán ngắn gọn nói về huyện Lạc Thổ, Phủ Thiên Quan, xứ Thanh Hoa Ngoại(4).

Nguyễn Văn Thành theo phò Gia Long Nguyễn Ánh từ năm 1778, khi còn ở chức Cai đội. Thành là người có học, văn võ kiêm toàn, cùng Nguyễn Ánh qua bao thăng trầm, lập nhiều chiến công. Năm 1787 được thăng Khâm sai Tổng nhung Cai cơ hiệu úy Tiền chi dinh Trung quân. Đến năm 1801 được phong chức Khâm sai chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân, tước Quận công, hơn hẳn các tướng đứng đầu Năm quân. Khi Nguyễn Ánh đã hoàn thành việc thống nhất đất nước, Nguyễn Văn Thành được phong làm Tổng trấn Bắc Thành. Sử cũ chép: “Lấy Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, ban cho sắc ấn, 11 trấn nội ngoại đều lệ thuộc, phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng đều được tùy tiện mà làm rồi sau đó mới tâu lên(5). Nguyễn Văn Thành từ một đại tướng cầm quân với ấn “Tiền quân chi ấn” đã trở thành một đại quan cai trị một miền Bắc Hà rộng lớn, với chức năng quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực. Nguyễn Văn Thành với chức Tổng trấn, được lĩnh nhận bộ ấn Kiềm với ý nghĩa khác hẳn ấn của Đại tướng quân. Đó là ấn “Bắc Thành tổng trấn chi ấn”. và Kiềm nhỏ “Bắc Thành”. Những đặc điểm này có thể giúp phần nào cho các sử gia trong việc nghiên cứu lịch sử và tổ chức hành chính, quan chế thời Nguyễn.

Kho sách Châu bản triều Nguyễn đã giúp chúng tôi tìm lại được dấu tích của một số tướng lĩnh khác ngoài Nguyễn Văn Thành. Trong tập Chư bộ nha, Q2, đời Gia Long(6), có hình dấu lớn màu son đỏ. Dấu hình vuông cỡ 9,3x9,3cm; về kích thước, bố cục, tự dạng đều giống như dấu “Tiền quân chi ấn” của Nguyễn Văn Thành. Chỉ khác ở chỗ 4 chữ triện bên trong là “Hữu quân chi ấn” 右 軍 之 印 . Trang bên còn ghi rõ dòng chữ Hán “Khâm sai chưởng Hữu quân thần Nguyễn Văn Nhân” 欽 差 掌 右 軍 臣 阮 文 仁, chữ “thần” nhỏ bằng nửa các chữ khác và viết hơi thụt vào.

Cũng như Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Nhân theo binh nghiệp từ thuở còn trẻ, thời chúa Duệ Tông đã giữ chức Cai đội. Năm 1778 Nguyễn Ánh được tôn làm Đại nguyên soái và thăng Nguyễn Văn Nhân lên chức Khâm sai Cai cơ vệ Thần sách dinh Trung quân. Trải hơn 20 năm trận mạc, trung thành với Nguyễn Ánh và với nhiều chiến tích, khi chiến tranh chấm dứt, Nguyễn Văn Nhân làm tới chức Khâm sai chưởng Hữu quân Bình Tây tướng quân. Là một trong năm tướng cao cấp nhất đứng đầu Năm quân. Khâm sai chưởng Hữu quân Nguyễn Văn Nhân được sử dụng bộ ấn lớn “Hữu quân chi ấn” và Kiềm nhỏ đóng hai chữ Triện “Hữu quân”. Sự nghiệp của Nguyễn Văn Nhân có nhiều điểm giống Nguyễn Văn Thành. Từ một tướng quen trận mạc, trở thành người quản lý cả một vụng lãnh thổ Nam Bộ. Vào mùa xuân năm Gia Long 7 (1808), Gia Long thấy địa thế Gia Định rộng lớn nên cho đổi Gia Định Trấn làm Gia Định Thành, cho quản lý năm trấn. Đại Nam thục lục chính biên có ghi: “Đến tháng 9 năm 1808 bắt đầu đặt chức Tổng trấn Gia Định Thành... Lấy Nguyễn Văn Nhân làm Tổng trấn, Trịnh Hòai Đức(7) làm Hiệp tổng trấn. Ban ấn Tổng trấn thành Gia Định (ấn bạc núm hình con sư tử)(8).

Như vậy Nguyễn Văn Nhân khi làm Tổng trấn Gia Định Thành được sử dụng bộ ấn “Gia Định Thành Tổng trấn chi ấn” và Kiềm nhỏ “Gia Định Thành”. Tất cả mọi việc như bổ nhiệm, bãi miễn thuộc quan, hình luật v.v.. quan trọng trong khu vực trực tiếp quản lý đều được làm trước tâu sau.

Từ thời Gia Long cho đến đầu triều Minh Mệnh, xã hội Việt Nam chưa ổn định nên nhà Nguyễn bắt buộc phải áp dụng chính sách “tản quyền”. Hoàn g đế và triều đình trực trị khu vực Trung Kỳ và gián tiếp quản lý hai miền Nam, Bắc. Trên thực tế lúc bấy giờ chức Tổng trấn ở Bắc Thành và Gia Định Thành chẳng khác gì những ông vua nhỏ, được định đoạt mọi việc rồi sau mới tấu trình lên Hoàng đế. Những hình dấu nói trên biểu thị quyền lực rất lớn của các quan Tổng trấn trên địa bàn mà họ quản lý.

Quyền lực đều lớn, sự nghiệp giống nhau, nhưng số phận của hai viên Tổng trấn - nguyên là những danh tướng - kết cục mỗi người một khác. Vì bị một số quyền thần ghen ghét mà chủ yếu là mâu thuẫn với Tả quân Lê Văn Duyệt, đồng thời quan điểm chính trị, có đôi điểm khác ý vua, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành bị vu cáo và phải uống thuốc độc tự tử khi án tử hình của Gia Long chưa đến với ông. Trước khi chết, ông làm một bài biểu trần tình trong đó có câu “Vua bắt bầy tôi phải chết mà bầy tôi không chết là bất trung”. Người Đại tướng anh dũng trong chiến trận, tận tụy trong công việc(9), kết cục lại bi thảm như vậy, âu cũng là quy luật của muôn đời trong xã hội phong kiến Việt Nam xưa.

Còn Nguyễn Văn Nhân mãi đến năm 1820 đời vua Minh Mệnh thứ 1, vì già yếu, xin thôi chức Tổng trấn Gia Định Thành chuyển về Kinh đô Huế và vẫn giữ chức Khâm sai chưởng Hữu quân.

Nói đến các danh tướng đầu thời Nguyễn, không thể không nhắc đến Lê Văn Duyệt. Duyệt xuất thân là một quan thái giám trẻ tuổi, năm 1778 đã đứng dưới cờ của Nguyễn Ánh ở Sài Gòn. Là một người thông minh đang độ trai trẻ, Lê Văn Duyệt dũng cảm trong chiến đấu, qua nhiều gian hiểm vẫn tận trung với họ Nguyễn. Trong chiến tranh, Duyệt giữ chức Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách, từng lập nhiều chiến công. Năm 1802, ông được phong chức Khâm sai chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân.

Cũng trong Châu bản triều Nguyễn đời Gia Long(10), chúng tôi đã tìm thấy ấn dấu của Lê Văn Duyệt. Dấu có kích cỡ, hình thức, bố cục, tự dạng màu son giống như ấn dấu của Tiền quân Nguyễn Văn Thành và Hữu quân Nguyễn Văn Nhân. Chỉ khác ở chỗ 4 chữ Triện trong dấu là “Tả quân chi ấn” 左 軍 之 印. Như vậy khi được phong chức Khâm sai Tả quân, Lê Văn Duyệt cũng được sử dụng bộ ấn Kiềm bằng đồng “Tả quân chi ấn”.

Khi chiến tranh chấm dứt, trong hàng ngũ tướng lĩnh, Lê Văn Duyệt là người tuổi còn trẻ, lại có nhiều mưu lược và kinh nghiệm chiến đấu. Do đó Gia Long đặc chỉ cho Duyệt chuyên dẹp loạn, vỗ về các nơi xa xôi hiểm trở như Thanh, Nghệ và các vùng Xiêm Lạp, Cao Miên.

Gần 20 năm đóng góp trong công cuộc củng cố và xây dựng chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, bộ ấn Kiềm đã theo viên Tả quân rong ruổi đến nhiều vùng đất xa xôi. Nhiều bản công văn tấu trình có ấn dấu “Tả quân chi ấn” được gửi về Kinh, là những tài liệu quan trọng giúp Gia Long trên nhiều lĩnh vực.

Tư liệu cũ ghi lại, thời kỳ làm Khâm sai, Tả quân Lê Văn Duyệt bị kẻ thù nội bộ định ám hại bằng thuốc độc, việc không thành, kẻ gian đó đã thay việc giết người bằng lấy trộm bộ ấn “Tả quân chi ấn” rồi bỏ trốn. Lê Văn Duyệt đuổi bắt được và thu lại bộ ấn Kiềm đó. Cứ liệu này cho ta thấy cái vô giá của Ấn Triện trong thời phong kiến xưa. Có thể đánh đổi sinh mệnh con người bằng Ấn Triện mà vua đã ban.

Đến mùa thu năm Minh Mệnh thứ 1 (1820), Lê Văn Duyệt lĩnh chức Tổng trấn Gia Định Thành thay Nguyễn Văn Nhân. Ngày Lê Văn Duyệt nhận chức cũng là ngày Nguyễn Văn Nhân trao lại bộ ấn Kiềm “Gia Định Thành Tổng trấn chi ấn” cùng toàn bộ giấy tờ quan trọng cho viên Tổng trấn mới. Cuộc đời Lê Văn Duyệt lại lặp lại giống hai viên Tổng trấn nguyên là Cựu đại tướng kia: từ một tướng lĩnh chuyên đánh dẹp trở thành một Tổng trấn với chức năng cai trị quản lý khu vực. Khi Lê Văn Duyệt chết, dân Gia Định tôn thờ như vị chúa riêng của họ(11).

Người em ruột Lê Văn Duyệt là Lê Văn Phong cũng theo anh giúp Nguyễn Ánh từ năm 1778. Đến năm 1800, được thăng Vệ úy Vệ Diệu Võ Tả dinh. Năm 1802 được thăng chức Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách, thay chức của người anh. Khi Nguyễn Văn Thành chết, Lê Văn Phong được thăng làm Hiệp Tổng trấn Bắc Thành, cùng Tổng trấn Lê Chất(12) quản lĩnh Bắc Hà.

CHÚ THÍCH

(1). Công văn Cựu chỉ, sách chữ Hán, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ký hiệu A.3032.

(2). Đại Nam thực lục chính biên, Tập II, Nxb. Sử học, H. 1963, tr.424. Đoạn này trong Đệ nhất kỷ, Q.XIV. Nguyên văn: “Tân Dậu, năm thứ 22 (1801)” tức trước năm Gia Long thứ nhất một năm.

(3). Lạc Thổ, Thiên Quan, xứ Thanh Hoa Ngoại, nay thuộc Huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.

(4). Đại Nam thực lục chính biên, tập III, tr. 80. Sđd.

(5). Châu bản triều Nguyễn trước năm 1992 còn lưu giữ tại kho Lưu trữ II, Tp. Hồ Chí Minh. Trong đợt công tác vào Sài Gòn năm 1990, chúng tôi đã in lại được nhiều hình dấu, trong đó có dấu “Hữu quân chi ấn” ở Chư bộ nha Q2, đời Gia Long, nay ở kho Lưu trữ của Cục lưu trữ Quốc gia, Hà Nội.

(6). Trịnh Hoài Đức theo giúp Nguyễn Ánh từ khi còn chiến tranh, giữ chức Tham tri bộ Hộ. Năm 1808 làm Hiệp tổng trấn Gia Định Thành. Nay ở thị xã Biên Hòa còn lăng mộ, bia đá.

(7). Đại Nam thực lục chính biên, Tập 3, tr.394, Sđd.

(8). Khi làm Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành nhiều lần dâng sớ điều trần những việc đúng đắn như: Xin đặt kinh diên giảng quan; định luật mới để quan lại; dân chúng theo điều tốt bỏ điều xấu; đặt Sử quan để làm quốc sử; đặt Ngự sử đài để nghiêm phép nước v.v..

(9). Chư bộ Nha, Q2, Sđd.

(10). Hiện nay tại trung tâm quận Bình Thạnh (Gia Định cũ) Tp. Hồ Chí Minh còn khu lăng mộ, điện thờ Lê Văn Duyệt, được bảo quản và xếp hạng di tích Lịch sử.

(11). Lê Chất nguyên là một hàng tướng, được Gia Long tin dùng. Năm 1802 được thăng Khâm sai chưởng Hậu quân Bình Tây tướng quân. Khi Nguyễn Văn Thành chết, Lê Chất thay làm Tổng trấn Bắc Thành.

TB

"MAI HỒ THI THẢO",
TIẾNG THƠ BI PHẪN TRƯỚC THỜI CUỘC

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN

Nguyễn Hữu Cương (1855-1912) tự Tử Thăng, hiệu Mai Hồ, quê làng Động Trung, tổng Xuân Vũ, phủ Kiến Xương (nay là xã Vũ Trung), con cả nhà văn thân yêu nước Nguyễn Mậu Kiến. Ông đến tuổi thành niên là lúc thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất (11-1883). Ba cha con ông liền đứng lên mộ nghĩa chống Pháp. Nguyễn Hữu Cương là một trong những người chỉ huy nghĩa quân dũng cảm, xông xáo. Giặc Pháp rất sợ ba cha con ông, Francis Garuier chỉ huy mặt trận Thái Bình đã hứa trọng thưởng những ai cắt được đầu 3 cha con ông(1).

Phong trào kháng chiến của nhân dân đang lên cao thì triều đình Huế ký hòa ước Giáp Tuất (1874) và vua Tự Đức ra lệnh bãi binh. Bất bình trước điều sỉ nhục lớn ấy, ba cha con ông không bãi binh. Bọn đầu hàng bấy giờ lột hết chức tước của cha ông và sung vào lính ở quân thứ Thái Nguyên - Tuyên Quang.

Giặc Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ 2 (2-1883) thì cha ông đã mất được 4 năm ở sơn phòng Hưng Hóa. Nguyễn Hữư Cương nối chí cha đã cùng hai em là Nguyễn Hữu Phu, Nguyễn Hữu Bản lại mộ quân chống giặc.

Trong cuộc trận giao tranh, ông bị bắt lần thứ nhất. Vượt ngục ra, ông tiếp tục chiến đấu, lại bị bắt lần thứ 2 cùng với người con trưởng là Nguyễn Công Vân và bị giam tại tỉnh Cần Thơ và Cà Mau, cho đến khi hai cha con cùng phẫn uất mà mất tại ngục Cần Thơ năm 1912.

Mai Hồ thi thảo là tên tập thơ của Nguyễn Hữu Cương gồm ngót trăm bài thơ chữ Hán, gồm các thể Đường luật, ngũ ngôn, tứ tuyệt... do người con thứ ba tác giả là Nguyễn Công Riệu sưu tập lại.

Lần theo ghi chú năm tháng của một số bài thì biết đây là tập thơ được sáng tác từ khi phong trào Cần Vương thất bại (1895) đến năm tác giả mất (1912). Nội dung tập thơ chủ yếu là tiếng nói bi phẫn của một tấm lòng yêu nước thương dân nồng nàn của tác giả, phê phán thời cuộc, phủ nhận hiện thực ngột ngạt trong xiềng xích thực dân.

Thực dân Pháp dùng đủ mọi thủ đoạn đe dọa, tống giam, tra tấn cực hình, hạ lệnh xử tử, đào mả thân phụ, kẻ cả việc mua chuộc tác giả bằng con đường đầu hàng ra làm quan cho chúng, song Nguyễn Hữu Cương vẫn trung thành với lý tưởng và ý chí cứu nước của mình, quyết không đầu hàng thỏa hiệp với bọn bán nước và cướp nước:

Sinh phi điểu thú quần thùy dữ !
Tảo tận thi thư địa thục thu ?

(Ta sinh ra không phải loài cầm thú thì nhập bọn với ai được!
Đem quét sạch cả sách vở đi thì đất nước làm sao khôi phục?).
(Cảm tác khi xem địa đồ)

Như thách thức với kẻ thù, ông lấy biệt hiệu là “Mai Động ngọa giả”, có nghĩa là người nằm trong động Mai. Mời ra làm quan không ra, tự gọi là “cư sĩ” đã là điều ngạo nghễ với thời cuộc. Ở đây ông dùng hai tiếng “ngọa giả” lại càng tỏ sự miệt thị đến cao độ với kẻ thù.

Ở lớp tuổi ông, thi cử còn đang được trọng vọng. Với trình độ học vấn của mình, ông có thể “tranh khôi đoạt giáp”. Song đứng trước tình thế thù nhà nợ nước cấp bách như vậy, Nguyễn Hữu Cương đã sớm từ bỏ con đường khoa hoạn, dấn thân vào con đường mưu đại sự với tất cả chí căm thù và nhiệt huyết của mình. Ông xác định rất rõ quan điểm này:

Hữu sở tác vi giai sự nghiệp,
Danh quý khả truyền, tích khả pháp.

(Làm được việc gì phục vụ cho Tổ quốc thì đó là sự nghiệp. Điều đáng quý là danh tiếng được lưu truyền, hành động được người ta noi theo).

(Thư trả lời Giáo sư Nhật Bản Thạch Xuyên thị Sĩ Nguyên Jshikawaze - Shiwara ở Tôkyô).

Một con người xem khinh kẻ thù, coi thường công danh phú quý như vậy, nên trong suốt tập thơ của ông không thấy gợn một chút nào thỏa hiệp hay an phận. Kẻ địch cũng rất giảo quyệt, bằng việc thuyết phục trực diện không thành, chúng thông qua một vài bè bạn cũ của ông đã bị chúng mua chuộc làm trung gian thuyết phục ông, song ông cũng dùng lời lẽ thân mật để từ chối:

Tiếu dư nhãn trung nhân
Đài cử hà túc vân
Đãn năng hậu tương ái
Hội ngộ đa lương thần.

(Đáng cười cho tôi, lúc được ông trông là vừa mắt (thì lại già rồi!).

Đủ nói chi đến chuyện đài cử nữa

Thôi miễn là giữa chúng ta có tình thân ái nồng hậu.

Sẽ có nhiều thì giờ tốt đẹp gặp gỡ nhau).

(Trả lời theo nguyên vần bài thơ tặng của Cử nhân Hoàng Hữu Lập, di ngụ ỏ Phú Xuyên).

Ngay những bài vịnh hoa, vịnh cây, những loài thảo mộc tưởng như chẳng liên quan mấy đến đời sống chính trị của tác giả, ông cũng ký thác tâm hồn mình kín đáo và tự nhiên.

Bài thơ “Mai” ông viết:

Húc khí vị tằng chí,
Hoa chi tảo dĩ khai.
Dã tri thử hương sắc,
Bản tự tuế hàn lai
.
(Hơi xuân ấm chưa từng đến
Hoa đã sớm nở ở đầu cành
(Ta) vẫn biết chỉ có hương sắc ấy
Vốn đến từ trong lạnh giá của mùa đông).

Ông là người rất yêu hoa mai, giống như nhà thơ ẩn dật thời Tống Lâm Hòa Tĩnh từng cưới mai làm vợ. Với ông, hoa mai, cây mai như một cố nhân, một người tình rất mực thủy chung, cao khiết. Nhớ đến bài Tài mai của Cao Bá Quát có một nét gì đồng điệu:

Thí tương mai tử trịnh sơn gian,
Nhật ác thanh tư ký bích loan.
Ký thủ lai thời xuân sắc hảo,
Dữ nhân công tác họa đồ khan.

(Hạt mai gieo ở non cao
Thanh tao giống quý gửi vào núi xanh.
Mai sau xuân sắc đầy cành,
Thiên nhiên thành một bức tranh cho đời).

Tuy nhiên trước bao khó khăn đau khổ phải chịu, bao phen thất bại lại đứng lên, tóc râu đã bạc mà tráng trí vẫn còn, thật đáng cảm động về một con người có nghị lực mạnh mẽ như vậy.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà trong những bài thơ đầu tiên trong tập này ra đời trong những năm cuối của thập kỷ 80 thế kỷ trước, cho đến khi tác giả qua đời ở trong ngục Cần Thơ (1912). Giai đoạn lịch sử này có thể nói vận mệnh của dân tộc và của mỗi gia đình đang rất đen tối. Sau nhiều năm nỗ lực chiến đấu dưới lá cờ Cần Vương, các sĩ phu yêu nước và đông đảo quần chúng trung kiên lần lượt hy sinh. Đây đó sự chống trả ách thống trị chỉ còn dăm ba ngọn lửa le lói, song trong lòng quần chúng vẫn ngầm bùng sôi lửa giận không chịu khuất phục và không bao giờ chịu khuất phục.

Bài thơ Qua ngã ba đồn Độc Bộ của Phạm Văn Nghị của Nguyễn Hữu Cương là một trong những bài thơ hay nhất thốt lên những cảm khái bi hùng về cuộc chiến đấu ấy và ông không thể không phẫn nộ lên án triều đình nhà Nguyễn:

Quân khan: đại bị cửu bất tu
Ngự khấu chỉ hữu tuy lai du
Phu văn: bất đắc khí thành khứ
Thốn thổ, thốn kim, từ hậu đồ
Nội triều ngoại quận tổng nguyên giải
Phấn nhiên nhất diện thành quả trù.

(Hãy xem: Việc lớn từ lâu không được chuẩn bị
Việc chống giặc chỉ còn có mẹo lui quân
Còn truyền lệnh rằng: “Không được bỏ thành chạy
Tấc đất, tấc vàng, sẽ dần dà mưu tính sau!”
Những người trong triều, ngoài quận thảy đều ngã lòng.
Thế mà hăng hái một mặt nào đó thì thật là mưu toan đơn độc).

Nguyễn Hữu Cương phẫn nộ chỉ trích các ngài tự xưng là “quân tử” là “mặt mũi quốc gia”.

Ta tai càn khôn khí số hội
Chuyển tỉ, thức thời, đạt biến thùy ?
Năng kỷ thư sinh úng dũng đàm đế vương ?
Kinh cú, luận chương, thành mạc tỉ !
Nhất đán trí thân đăng miếu đường
Ngộ nhân hoàn phụ bình sinh chí
Lục kinh tao bách tảo thành câu
Cử mục sơn hà kim tự thử !

(Than ôi! Đất nước gặp vận bĩ
Đổi thay thời thế ai là kẻ?
Hay chỉ có mấy chàng thư sinh trong cửa bàn chuyện đế vương ?
Dẫn kinh, trích sách ai dám ví !
Một sớm vọt lên chốn triều đường.
Lầm người, phụ mình bình sinh chí
Cặn bã lục kinh quét đổ thành
Ngước nhìn non sông nay đến thế,

Bài thơ có ý nghĩa khái quát rộng, không chỉ những nguyên nhân thất bại của cuộc chiến đấu đơn độc ở Độc Bộ mà còn có giá trị tổng kết khá chính xác những nguyên nhân bại vong của cuộc đối đầu lịch sử của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa tư bản phương Tây thuở ấy mà ông vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân.

Những bài thơ có ý nghĩa minh triết, triết luận rải rác suốt tập như các bài Thiên học (Học về trời), Tùng (Cây thông), Mai (Cây mai), Sen, Cúc... song không nhiều. Cái cảm hứng chủ đạo là sự buồn thương cho vận nước, tiếng nói bi phẫn trước thời cuộc mà không bi lụy. Tiếng nói tập trung nhất, đặt ra chỉ một câu hỏi nhưng là câu hỏi bức xúc nhất đối với những ai nặng lòng với quê hương, với non sông đất nước với bề dầy truyền thống oanh liệt, chiều dầy của một nền văn hóa phong phú đáng tự hào - đó là bài Duyệt địa đồ cảm tác (Cảm tác khi xem địa đồ):

Tọa quan thiên lý giang sơn thắng,
Đốn giác đương thời nhĩ mục tu ?
Đế tạo vương hưng tầng nhật tịch,
Linh chung tú dục khởi kim hưu ?
Sinh phi điểu thú quần thùy dữ,
Tảo tận thi thư địa thục thu ?
Quân thị thủ gian tư phú tái,
Ninh giao tang hải tự du du?

Dịch thơ:

Nghìn dặm non sông đẹp tuyệt vời,
Mà nay nhìn ngắm tủi cho ai?
Đế vương nghiệp lớn xưa từng mở,
Non nước khôn thiêng nay bỏ rơi ?
Muông thú đâu mà bầy dễ họp,
Thi thư quét sạch đất sao hồi?
Chở che cùng đội ơn Trời, Đất,
Há để non sông mặc đổi dời ?

Đó cũng là tiếng lòng đau đáu của cả một thế hệ những bậc nghĩa khí đương thời, của những kỳ sĩ, những anh hùng đang cơn bế tắc.

Thật có lý khi các tác giả Việt Nam nghĩa liệt sử (Đặng Bằng và Phan Bội Châu) đã viết về Nguyễn Hữu Cương những lời hết sức cô đọng, hùng hồn:

“Tính ông hào mại, tầm mắt thông suốt, có tài hùng biện. Lúc cụ án sát tuẫn nạn, ông còn trẻ mà vẫn có chí phục thù cho cha. Lớn lên càng hăng, bao lần mưu đánh giặc, thất bại cũng nhiều mà chí không thay đổi”(2).

Bởi vậy mà những nỗi băn khoăn, những câu hỏi bức xúc về hoàn cảnh cá nhân, gia đình mình, tác giả không chỉ đặt trong bối cảnh chung đất nước mà cụ thể trong địa phương mình, địa phương Kiến Xương - không những thế còn mở rộng ra tầm thế giới - đúng như lời nhận xét của Đặng Bằng - Phan Bội Châu. Cái mới của Mai Hồ đáng quý, đáng trân trọng là ở đây. Bởi lẽ những người trí thức, thời nào cũng vậy, khi mà họ gắn bó với dân tộc, muốn cho dân tộc mình sớm hội nhập với sự phát triển chung của cả nhân loại, tin yêu dân tộc mình, dù là ở nơi thôn dã vẫn nắm bắt kịp những xu thế của thời đại. Thời bấy giờ những média quần chúng, những thông tin còn rất hạn chế. Vậy mà Nguyễn Hữu Cương bám rất sát thời sự nóng hổi trên thế giới - Có ý thức chuẩn bị lực lượng sẵn sàng hưởng ứng thời cơ.

Chúng ta hãy nghe bài thơ sau đây lấy cảm khái từ một đêm đông, ốm đã lâu, giật mình trở dậy:

Táo liệu khương thang nhất ngọa viên,
Song đầu minh nguyệt cận tam viên.
Bắc giao đại mạch toàn cung thuế,
Nam phố hoàng hoa bán tựu san.
Hữu khứ Tây Sơn không tin tức,
Thiên khuynh Đông hải cửu đằng phan.
Thái Bình nhân khởi tri hà kế?
Tả thủ thư biên ký bích căn.

Tạm dịch thơ:

Từ hôm thuốc táo thang gừng,
Trăng kia nhòm cửa đã từng ba phen.
Lúa dồn hết thuế quan trên,
Hoe vàng hoa cải, vườn bên vãn rồi.
Non Tây bạn bặt tăm hơi,
Biển Đông trời lật sóng sôi bấy chầy.
Thái Bình nổi dậy sao đây?
Góc tường gửi nỗi lòng này vào thơ.

Theo chú thích của tác giả, câu 5 nói về việc người đồng chí, người bạn Trần Mộng Phương vào Thanh Hóa lo chuẩn bị cơ sở tại đồn điền huyện Thọ Xuân. Câu 6 là nói về cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1905).

Những câu hỏi dồn dập, bức xúc ở hai bài thơ trên không phải nói cho đẹp lời. Những mỹ tự suông mà thực sự thôi thúc tác giả lại một lần nữa xống áo lên đường bước vào cuộc đấu tranh mới.

Khi phong trào Đông Du nổi lên, trước đó ông đã có liên hệ bắt mối với một Giáo sư Nhật Bản Jshikawaze Shiwara, chuẩn bị đường dây liên lạc và tổ chức cho thanh niên sang Nhật du học, và Phan Bội Châu, một trong những nhà cách mạng tiền bối trước khi sang Nhật đã qua nhà ông trao đổi tình hình, bàn bạc kế hoạch bảo đảm cho chuyến đi của Phan an toàn trót lọt.

Gia đình ông là một trong vài tụ điểm quan trọng của Bắc Kỳ lúc ấy trực tiếp tổ chức đường dây cho thanh niên sang Nhật. Ông đã đem tài sản riêng ra thế chấp để vay hiệu Thuận Xương ở thị xã Thái Bình một khoản tiền lớn để giúp vào việc nghĩa ấy. Về sau không trả được, tòa án Pháp đã tịch thu tài sản của ông (trích hồ sơ số 71894. F6.G.86 Cục Lưu trữ Quốc gia I - Hà Nội).

Trong một bức thư gửi cho Phan Bội Châu đang ở Nhật Bản, ông viết: “Các nhân sĩ Trung, Nam, Bắc thề cùng trời đất, mưu việc non sông, cùng sang Nhật Bản bàn việc thương lượng. Đồng bào ta bấy lâu yêu nước nồng nàn, ghét quân xâm lược, nên đồng tâm hiệp lực cùng lo giết giặc. Nơi góc bể chân trời chờ mong tin tức”.

Do ảnh hưởng của ông và sự vận động trực tiếp của mình cùng một số đồng chí, ở Thái Bình lúc ấy có một loạt thanh niên xuất dương. Có thể kể đến Ngô Quang Đoan (con cả Ngô Quang Bích), Lê Văn Tập - Hoàng Chuyên (thôn Phú Cốc, xã Nam Bình, có tên trong Việt Nam nghĩa liệt sử), Phan Thường, Nguyễn Phác, Nguyễn Đệ (xã Minh Tân, Kiến Xương), Phạm Tư Tề (Nguyên Xá, Vũ Thư, có tên trong Việt Nam nghĩa liệt sử).

Ông đã hoạt động tích cực, sôi nổi trong phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục (1907), đã hưởng ứng cuộc kháng thuế Trung Kỳ (1908), viết báo, viết hiệu triệu, gửi kiến nghị lên Thống sứ, Toàn quyền đòi tha Phan Chu Trinh. Thực dân Pháp chú ý theo dõi ông từ lâu, đến mức chúng không thể nhân nhượng được nữa và chúng bắt ông và con cả là Nguyễn Công Vân đày biệt xứ.

Công sứ Thái Bình Ô e (Auer) trong một bản báo cáo một lên cấp trên đã viết: “Một số nhà nho Thái Bình đầy tham vọng, bất bình với Chính phủ Bảo hộ đã lao vào hành động một cách mạo hiểm chống lại chính sách của chúng ta. Nhiều hội kín được thành lập, có rất nhiều hội viên trong tỉnh, trong đó Nguyễn Hữu Cương là tên đầu sỏ nguy hiểm nhất. Gia đình y có tư tưởng xấu và căm thù cao độ chống lại chúng ta” (Tài liệu đã dẫn).

Và viên mật thám Simôni đã báo cáo và kiến nghị lên Toàn quyền Đông Dương: “…Tôi cần nói thêm rằng tên Cương được coi như có thói quen chỉ trích lung tung chính quyền Nhà nước và luôn duy trì quan hệ với đảng cấp tiến của người bản xứ mà những đảng viên chính lại cư trú ở Hà Nội (...) Tôi đề nghị, cần phải bắt giam tên Cương ở một tỉnh thuộc Nam Kỳ, đến lúc hoàn cảnh cho phép hồi hương mà không có gì nguy hiểm cho xứ Bắc Kỳ”. (Tài liệu đã dẫn).

Nghe tin ông mất, Phó bảng Đoàn Thụy Giáp (Hải Hưng) đã viết một áng văn đầy cảm khái để viếng ông:

“Vận nước đương rối bời, bậc hào kiệt không làm cho thông được. Ôm tấm lòng khảng khái thì thời vận không làm cho cùng cực được!

“Than ôi ! Ông Mai Động ! Ông là bậc quốc sĩ có chí khí hay là bậc anh hùng vô danh? Tôi không dám vội bình luận, nhưng ông đã hết lòng vì nước, chu tất thủy chung. Ông nhờ nghiệp lớn của tiền nhân mà không tự có giàu sang, gắng sức về học vấn, danh tiếng đã đến nhà vua. Vào kinh đô rồi khởi nghĩa, lại bỏ của cải mà theo đuổi việc quân, nêu nghĩa lớn vì nước vì dân. Nhà nước bảo hộ vờ tha ông, lại chẳng được bọn đương đạo bao dung. Đương lúc tân trào vừa nổi lên, ông đem bàn tay kéo lại vận hội, đương lúc sóng lớn cuồn cuộn bừng bừng. Thời vận ôi chửa tới! Ông ngồi đó mà chịu xiềng gông. Ông mất thật xứng đáng, tự an ủi được hòai bão xưa! Tôi với ông là nghĩa bạn bè đã lâu, đau xót lắm trong lòng!

Than ôi ! Mây núi ảm đạm sao, nước biển mênh mông ! Non nước Cần Thơ cách trở Nam Trung, như có người tiều tụy trùng phùng ! Sương tuyết dày vò thân thể mà lửa đốt trong lòng !...”

Có thể coi đây là bài tổng kết cuộc đời trung dũng thủy chung của ông với dân với nước.

Mai Hồ thi thảo là một tập thơ dồn nén những bi phẫn toát ra bằng ý, bằng lời qua một hồn thơ phong phú tao nhã và rất chân thực. Thơ ông là một tấm gương phản ánh một giai đoạn lịch sử cực kỳ sôi động, bi thương và phức tạp, nó mang sức nặng hiện thực, phê phán hiện thực mà tác giả đã sống, đấu tranh phủ nhận nó. Nhưng từ hiện thực ấy, tin vào nội lực của cả dân tộc đã lóe sáng và sẽ tỏa sáng mãi mãi - một đất nước Việt Nam ở phương trời Châu Á - Thái Bình Dương, như trong bài Đông tùng của ông:

Thúy sắc năng trường tại,
Phương tâm bất khả dân.
Tiêu tiêu phong tuyết lý,
Tiếp dẫn nhất thiên xuân.
(Sắc biếc xanh mãi mãi,
Ruột thơm chẳng hả dần.
Dãi dầu trong gió tuyết,
Tiếp dẫn một trời xuân).

“Tiếp dẫn một trời xuân” là một phát hiện mới, một lời tiên tri về cây thông. Và cây thông, đó là biểu trưng khá chuẩn xác của Mai Hồ Nguyễn Hữu Cương và có thể là của chúng ta hôm nay, những người đang làm cho mùa xuân đất nước mãi mãi thêm xuân.

Vũ Trung - nguyên tiêu
Ất Hợi 1995

CHÚ THÍCH

(1) Trần Văn Giàu: Sách Bắc Kỳ kháng Pháp, tr.67, Nxb. Xây dựng, H. 1957.

(2) Đặng Đoàn Bằng - Phan Thị Hán (tức Phan Bội Châu): Việt Nam nghĩa liệt sĩ Bản dịch của Tôn Quang Phiệt, Nxb. Văn học, H. 1972, tr.87./.

TB

GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM VÀ
HỘI NHẬP CÙNG VĂN HOÁ KHU VỰC NHỜ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
(*)

NGÔ THẾ LONG

Nước ta là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Hiện nay trong số 54 dân tộc của Việt Nam đã có 26 dân tộc có chữ viết riêng, các loại chữ viết của Việt Nam có nguồn gốc từ các hệ thống Latinh, Hán, Pali.

Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam không phải chịu ảnh hưởng của tiếng Hán như ngôn ngữ phổ thông (tiếng Kinh), mà một số tiếng dân tộc lại có quan hệ gần gũi với ngôn ngữ vùng Nam Á, vì có quan hệ giao lưu từ lâu đời.

Vài chục năm trước đây, khi Tổng thống Sukarno của Indonesia phát biểu trên đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, thì nhiều đồng bào ta ở Tây Nguyên nghe đài đã hiểu được nhiều từ. Mấy năm trước đây, một nhà dân tộc học người Thái ở Việt Nam đã giải mã được tấm bia lớn khắc trên núi đá ở bang At-Sam bên Ấn Độ được viết cách đây khoảng 700 năm. Lại có vị chuyên gia kinh tế của ta sang làm việc tại Băng-la-đét, khi nghe câu nói thông thường của người dân ở đó thấy có nhiều từ của tiếng Thái - Việt Nam. Hiện tượng gần gũi đến mức có thể giao tiếp gần như bình thường giữa tiếng Thái Việt Nam với tiếng Lào và Thái Lan thì nhiều người đã biết... Những hiện tượng trên cho thấy cư dân khu vực Đông Nam Á có quan hệ thân thuộc đã lâu đời.

Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc là công cụ giao tế của họ, là tài sản và vốn quý của quốc gia, của dân tộc, nó thuộc về bản sắc của từng dân tộc, một bộ phận cấu thành của nền văn minh nhân loại.

Xưa kia, khi công cụ lưu trữ và truyền tin còn thô sơ lạc hậu, khi người ta mới chế ra chữ viết, thì vì nhu cầu giữ tin và truyền tin của người này cho người khác và cho thế hệ sau, người ta đã phải dùng dao, dùng dùi vạch chữ lên tre, gỗ, lá cây, xương thú, mai rùa, đất đá. Đến thời kì có giấy, có bút mực thì người ta sao chép bằng tay, rồi khắc ván in cả trang giấy cố định. Dần dần về sau mới nghĩ ra cách in ghép các con chữ rời...

Chính do kĩ thuật thông tin tiên tiến chậm chạp, nên việc trao truyền thông tin, phổ biến kiến thức bị nhiều hạn chế: mỗi con người không dễ dàng truyền thông tin và kiến thức của mình cho người khác một cách nhanh chóng và thuận tiện. Muốn làm việc đó hoặc họ dùng thủ công hoặc họ phải nhờ tay người chuyên nghiệp: nhà in.

Hiện nay, chúng ta nói được rằng chúng ta sắp sửa bước vào kỉ nguyên của nền Văn minh Thông tin chính là nhờ sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin với các phương tiện thiết bị thông tin hiện đại, trong đó quan trọng nhất là vai trò của máy tính. Có thể hình dung rằng trong tương lai không xa, ở nước ta và nhiều nước khác, mỗi gia đình, và thậm chí mỗi cá nhân đều biết dùng máy tính, và có máy tính để sử dụng. Như vậy thì ai cũng có một "xưởng in" riêng, có một "kho lưu trữ" tư liệu riêng, nằm ngay trong một chiếc máy tính; muốn in ra văn bản gì, muốn gửi ý kiến của mình cho ai là họ lập tức có thể làm được, không cần phải đợi đưa đến nhà in, phải chờ xếp chữ, chờ in ấn và đóng xén thành sách, rồi mới trao truyền được. Quả thật là thuận tiện !

Các máy vi tính do phương Tây chế tạo trong những năm trước chỉ có chữ Anh và một số chữ châu Âu (có dấu). Ngay đến cả chữ Nga, chữ Hán là những loại chữ có nhiều người dùng (có thị trường rộng lớn) cũng không được đưa vào. Mãi tới những năm gần đây, công nghệ thông tin tiến lên, người ta mới đưa các chữ Hán, Nga, Nhật, A-rập vào máy.

Chữ Quốc ngữ của Việt Nam cũng mới được đưa vào máy cách đây không lâu, nhưng phải khắc phục nhiều khó khăn chứ không dễ dàng như các thứ chữ khác, nguyên nhân do bộ mã kí tự 8 bít không đủ chỗ để chứa tất cả các kí tự có dấu thanh của Việt Nam.

Đầu thập kỷ 90 này các nhà khoa học công nghệ thông tin chủ trương lập ra một bảng mã kí tự chung, chứa đựng mọi loại chữ viết đã có của thế giới. Có hai phương án được nhiều người quan tâm. Phương án thứ nhất do Công ti UNICODE đề xuất (gọi là bộ mã UNICODE, chứa tối đa 65536 điểm mã); phương án 2 có tên là ISO-10646 do tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế đứng làm hậu thuẫn, kế thừa và mở rộng kết quả của phương án thứ nhất. Bộ mã ISO-10646 cho tối đa hơn 4 tỉ 271 nghìn 400 điểm mã, (tức là về lí thuyết, có thể chứa được hơn 4 tỉ chữ cái khác nhau).

Nước ta từ trước khi Mỹ bỏ cấm vận đã tham gia tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO, và yêu cầu đưa chữ Nôm tham gia vào bảng mã chuẩn quốc tế. Việc này đã được tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế chấp thuận. Cần bảo vệ chữ Nôm vì chữ Nôm là tiêu biểu cho nền văn hóa chữ viết của dân tộc ta phát triển liên tục hàng nghìn năm, trước khi chúng ta chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ.

Ngoài chữ Nôm của người Kinh, kho tàng văn hóa chữ viết của Việt Nam còn có sách vở và những ghi chép của các dân tộc anh em khác mà nay chúng ta được thừa hưởng như chữ Nôm Tày, Nôm Dao, chữ Thái, chữ Chàm, chữ Khơ me Nam Bộ... Trong kho tàng đó có những tác phẩm thơ ca nổi tiếng như "Xóng chụ xon xao", "Chàng Lú nàng úa", "Tiếng hát làm dâu", sách dạy làm người, có văn học dân gian, lịch pháp và sách thuốc... Khối di sản phong phú đó ta chưa có điều kiện khai thác và giới thiệu được nhiều...

Hiện nay thấy lợi ích và khả năng to lớn của bảng mã ISO, nhiều nước đang tìm cách đưa chữ viết của mình vào đó, chẳng những chỉ chữ viết phổ thông của dân tộc đa số, mà cả chữ viết của dân tộc thiểu số. Ví dụ Trung Quốc, ngoài việc đưa chữ Hán là chữ phổ thông, còn đưa chữ IGUR là một loại chữ thiểu số. Đưa được vào bảng mã chuẩn như vậy có nhiều ích lợi: sử dụng được công nghệ thông tin trong nhiều việc, tiết kiệm công sức trong việc tạo "phông" và làm các hệ chuyển đổi (loại công việc mà người chỉ học sử dụng bình thường khó mà làm nổi). Có bảng mã chuẩn chính là tạo quy hoạch mở đường để cải tiến và phát triển các ứng dụng rất phong phú của công nghệ thông tin, để sử dụng con chữ lâu dài, để mọi người ở xa nhau, sống cách nhau nhiều thế hệ vẫn trao truyền được thông tin cho nhau.

Đối với nước ta, việc đưa các loại chữ viết của các dân tộc vào máy vừa là việc làm thiết thực bảo vệ di sản văn hóa của ta trong "bộ nhớ" của nhân loại về lâu về dài, đồng thời trước mắt cũng có công cụ tốt để làm việc, trao đổi thông tin trong cộng đồng và trao đổi với khu vực (các nước láng giềng gần gũi). Như vậy từng bước một, theo sự thuận tiện sẵn có, ta hòa nhập vào cộng đồng thế giới mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mình.

Năm trước, được sự chấp thuận của Nhà nước, dưới sự chỉ đạo của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, và của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã cộng tác chặt chẽ cùng Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường và Chất lượng, với các nhà khoa học trong và ngoài nước xây dựng bảng mã chữ Nôm chuẩn của Việt Nam đăng kí vào bảng mã chuẩn quốc tế (hiện nay mới xong phần 1 gồm chữ Nôm của người Kinh, công việc còn tiếp tục).

Nay, dưới sự bảo trợ của Viện Ngôn ngữ học và Chương trình nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc do Giáo sư Hoàng Văn Hành chủ trì, chúng tôi cùng nhau hợp tác để dần dần đưa chữ viết của các dân tộc Việt Nam vào máy tính, trước hết là để có công cụ dùng in ấn sách báo song ngữ, tam ngữ (hòa các chữ dân tộc với chữ Quốc ngữ). Như thế là một cách làm vừa là để hòa nhập trong nội bộ cộng đồng, nhưng hòa nhập đồng thời để giữ gìn bản sắc riêng của từng dân tộc; rồi sau đó sẽ có cách tiến lên hòa nhập với thế giới, trên cơ sở giữ được cốt cách riêng về mặt chữ viết.

Đó là ý nghĩa công việc và mục tiêu mà chúng tôi cố gắng vươn tới. Công việc mang tính tất yếu phải làm, và có tính chất đặt nền cho các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong việc bảo vệ các di sản văn hóa của dân tộc, trong bối cảnh hiện tại, đây là một việc làm cấp bách. Nếu làm tốt, cũng là một hoạt động đem công nghệ hiện đại phục vụ sự nghiệp đổi mới và mở cửa phát triển kinh tế và văn hóa xã hội mà toàn Đảng toàn dân ta đang nỗ lực thực hiện, nhằm xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và ổn định lâu dài...

CHÚ THÍCH

* Bài viết nhân dịp công bố chữ Thái Việt Nam./.

TB

THỬ TÌM HIỂU NHỮNG YẾU TỐ BIỆN CHỨNG CHẤT PHÁC TRONG "CHU DỊCH"

LÊ VĂN QUÁN

Sách Chu Dịch gồm có hai phần: kinh (Kinh Dịch) và truyện (Dịch truyện). Qua sách Chu Dịch, chúng ta thấy Trung Quốc cổ đại tồn tại phép biện chứng kiểu Trung Quốc. Yếu tố biện chứng chất phác biểu hiện ở Dịch Kinh Dịch truyện.

1- Những yếu tố biện chứng chất phác trong Dịch Kinh.

Rất nhiều học giả đều thừa nhận, khi biên soạn quái từ (lời quẻ), hào từ (lời hào), người xưa biểu hiện "gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật" (Cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật), lợi dụng tri thức tự nhiên lúc bấy giờ rút ra được những quan niệm về tự nhiên có tư tưởng biện chứng.

Dịch Kinh tuy bao trùm tư tưởng thần học thiên mệnh, quỷ thần, xem bói mê tín, nhưng trong việc xem quẻ để biết việc người tốt, xấu... lại đi vào từng sự việc và con người cụ thể. Vì vậy, mặc dù Dịch Kinh là hệ thống thần học, nhưng đã tổng kết những kinh nghiệm về cuộc sống của con người và phản ánh những hiện tượng mâu thuẫn của xã hội và tự nhiên.

1.1. Quan niệm về đối lập

Tác giả Dịch Kinh không tự giác nghiên cứu mâu thuẫn từ trong bản chất đối tượng, nhưng đã phản ánh hiện tượng mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt xã hội và tự nhiên một cách trực quan, không tự giác, có mầm mống quan niệm mâu thuẫn đối lập.

Trước hết, tác giả Dịch Kinh cho là giới tự nhiên đang tồn tịa hiện tượng đối lập:

"Bất minh, hối, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa".
(Minh di, thượng lục).

(Không sáng, tối, lúc đầu lên cao tới trời, rồi sau vào đất)
(Minh Di, hào thứ 6, âm).

"Kiền, lợi tây nam, bất lợi đông bắc, lợi kiến đại nhân"
(Kiền, quái từ).

(Quẻ Kiền, đi về hướng tây nam thì lợi, về hướng đông bắc thì không lợi, gặp bậc đại nhân thì lợi,...).
(Kiền, lời quẻ).

"Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kỳ phúc"
(Ký tế, cửu ngũ).

(Hàng xóm bên đông mổ bò [tế lễ lớn], không bằng hàng xóm bên tây tế thược [tế sơ sài] mà thật được phúc).
(Ký tế, hào thứ 5, dương).

Qua ba ví dụ trên, lời hào, lời quẻ nói rõ giới tự nhiên: sáng - tối, trời - đất, tây nam - đông bắc, đông lân - tây lân là những cặp đối lập.

Không những giới tự nhiên tồn tại hiện tượng đối lập mà trong xã hội cũng tồn tại hiện tượng đối lập:

"Đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng"
(Sư, thượng lục)

(Vua có mệnh mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ tiểu nhân) (Sư, hào thứ 6, âm)

"Trưởng tử suất sư, đệ tử dự thi..."
(Sư, lục ngũ)

(Người lão thành làm tướng cầm quân ra trận, nếu dùng bọn trẻ (tài kém) thì phải chở xác về,...) (Sư, hào thứ 5, âm).

"Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư"
(Bác, thượng cửu)

(Quân tử được xe, tiểu nhân đổ nhà)
(Bác, hào thứ 6, dương).

Ở đây, đại quân - tiểu nhân, trưởng tử - đệ tử, quân tử - tiểu nhân... đều biểu hiện mâu thuẫn đối lập trong xã hội.

1.2. Quan niệm về vận động biến đổi.

Quan niệm biến dịch trong Dịch Kinh là trên cơ sở biến đổi của vạch ngang liền (-) và vạch ngang đứt (- -).

Trên đại thể, người xưa quan sát trực tiếp sinh thực khí con trai, con gái(1). Tuân Tử nói: "Dịch chi hàm (cảm), kiến phu phụ" (thiên Đại lược) (Dịch là sự giao cảm, gặp vợ chồng).

Do trai gái âm dương giao cảm mà nảy sinh biến hóa. Bất cứ một quẻ kinh (quẻ đơn), hoặc quẻ kép, chỉ cần một trong sáu hào biến đổi, hào dương đổi thành hào âm, hoặc hào âm đổi thành hào dương thì sẽ biến thành một quẻ hoàn toàn khác với quẻ nguyên gốc. Thí dụ:

Quẻ Kiền , hào sơ cửu (hào thứ 1, dương) biến thành hào âm (- -) thì trở thành quẻ Cấu .

Quẻ Khôn , hào sơ lục (hào thứ 1, âm) biến thành hào dương (-) thì biến thành quẻ Phục .

Quẻ Cấu , hào cửu nhị (hào thứ 2, dương) biến thành hào âm (- -) thì trở thành quẻ Độn .

Quẻ Phục , hào lục nhị (hào thứ 2, âm) biến thành hào dương thì trở thành quẻ Lâm .

Tác giả Dịch Kinh có được quan niệm về những sự vận động biến hóa đó, hiển nhiên là do quan sát từ hiện tượng mâu thuẫn trong tự nhiên và xã hội:

"... mật vân bất vũ, tự ngã tây giao"
(Tiểu súc, quái từ)

(... mây dày đặc, không mưa, ở cõi phía tây của ta).
(Tiểu súc, lời quẻ).

"Thái: tiểu vãng đại lai, cát, hanh"
(Thái, quái từ)

(Quẻ Thái: cái nhỏ đi, cái lớn đến, tốt, hanh thông)
(Thái, lời quẻ).

Trong sự vật tồn tại vận động biến hóa. Như cái nhỏ qua đi, cái lớn lại đến, cái lớn qua đi, cái nhỏ lại đến, là nói thế gian không có gì vĩnh viễn, không thay đổi. Hay là, mây dày đặc nổi lên ở phía tây, đó là sự biến đổi khí tượng để dẫn đến mây to gió lớn. Khẳng định sự vật biến hóa là sự suy đoán rất quý của Dịch Kinh.

1.3. Quan niệm về chuyển hóa mâu thuẫn.

Tác giả Dịch Kinh suy đoán trong quá trình vận động biến đổi, đôi bên mâu thuẫn có thể chuyển đổi lẫn nhau.

"Khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi".
(Đại quá, cửu nhị).

(Cây dương khô mọc rễ mới, ông già lấy được vợ trẻ, rất có lợi) (Đại quá, hào thứ 2, dương).

"Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cửu vô dự"
(Đại quá, cửu ngũ).

(Cây dương khô nở hoa, bà già lấy được chồng trai tráng, không chê cũng không khen). (Đại quá, hào thứ 5, dương).

Ở đây, "khô" và "đề", "khô" và "hoa", vốn là mâu thuẫn đối lập, nhưng có thể chuyển đổi cho nhau. Khô chuyên thành đề (= rễ mới phát triển) hoặc chuyển hóa thành hoa vinh, đó tức là sự vật đến cực điểm thì sẽ chuyển hóa, chuyển khô thành vinh (= tốt tươi), chuyển chết thành sống. Nếu nói về con người, thì ông già, bà già tuổi tác đã cao không thể lấy vợ, lấy chồng, nhưng "già" đã chuyển hóa thành trẻ và cuối cùng đã lấy được vợ trẻ, chồng trẻ.

Tác giả Dịch Kinh cho rằng, từng cặp mâu thuẫn đối lập nhau phải trải qua một quá trình:

"Lý sương, kiên băng chí"
(Khôn, sơ lục)

(Đạp lên sương mà biết băng dày sắp đến).
(Khôn, hào thứ 1, âm)

"Lý sương" có nghĩa là dẫm lên sương giá, ở Kinh Thi, (Đại đông Cát cú) có câu thơ:

"Củ cư cát lũ, khả dĩ lý sương" (Đi dép bện bằng dây sắn (dây gai), có thể dẫm lên sương). "Lý sương" có thể giải thích, dẫm lên sương xuân; cũng có thể giải thích, dẫm lên sương thu. Nhưng trong câu trên, "Lý sương" dùng liền với "kiên băng chí" hiển nhiên là nói dẫm đạp lên sương thu, thì biết băng cứng, lạnh giá, mùa đông sắp đến. Từ "lý sương" đến "kiên băng" phải có một quá trình phát triển biến hóa.

Dịch Kinh tuy có nhân tố tư tưởng biện chứng chất phác nguyên thủy, nhưng lại có cả hệ thống thần học, duy tâm khách quan tin tưởng vào Thượng đế, quỷ thần, xem bói, hỏi quẻ.

Trước hết, tác giả Dịch Kinh cho rằng mâu thuẫn là tương đối, không phải là tuyệt đối. Điều đó tức là nói, trong quá trình phát triển của mỗi sự vật không phải là mâu thuẫn vận động từ đầu đến cuối, mà chỉ tồn tại ở một hoặc ở những giai đoạn nào đó trong quá trình phát triển của sự vật. Điều đó chẳng những là tính hạn chế của tư tưởng biện chứng chất phác, mà còn là sự đảo ngược mang tính siêu hình.

Mặc dù Dịch Kinh cho rằng giới tự nhiên, xã hội loài người và những hoạt động của bản thân con người đều tồn tại mâu thuẫn đối lập, riêng chỉ có Thượng đế, trời là bậc tối cao chi phối nhân gian, tự thân không tồn tại mâu thuẫn, cho nên không biến đổi. Lưu Hy trong sách Thích danh đã từng giải thích: "Dịch, một từ mà bao hàm ba nghĩa; giản dịch (dị), biến dịch, bất dịch". Trịnh Huyền viết Dịch tán Dịch luận cũng nói: "Dịch, một tên gọi mà gồm có ba nghĩa: một là giản dịch (dị), hai là biến dịch, ba là bất dịch".

Người đời sau đều hiểu "Dịch" là như vậy.

Chính vì tác giả Dịch Kinh chưa tách "biến dịch" và "bất dịch" một cách tuyệt đối, cho nên không thấy trong mâu thuẫn vừa có đối lập lại vừa có thống nhất. Do đó, sau khi chia tách "bất dịch" ra khỏi "biến dịch" bèn coi đặc tính của bất dịch là thần cao nhất. Nó sắp đặt một vị thần biến hóa mâu thuẫn, chủ tể thế gian vạn vật. Như vậy, thần trở thành nguồn gốc của biến dịch. Do đó, không tránh khỏi có sự đảo ngược mang tính siêu hình.

Tác giả Dịch Kinh khi nói đến mâu thuẫn đối lập chuyển hóa lẫn nhau, không cho rằng tính tĩnh của cả quá trình là tương đối, và tính biến động của một quá trình chuyển hóa thành quá trình khác là tuyệt đối. Đặc biệt, đối với tầng lớp thống trị, tác giả Dịch Kinh lại cho rằng hai mặt mâu thuẫn đối lập là cố định, không thể chuyển hóa thành các phương diện trái ngược:

Quân - thần (bề tôi), đại nhân - tiểu nhân, quân tử - tiểu nhân.

Quân, đại nhân, quân tử... chỉ ở địa vị quân và quân tử. Thần, tiểu nhân chỉ ở địa vị bề tôi, tiểu nhân. Nghĩa là mâu thuẫn đối lập chỉ có tính tĩnh mà không có tính biến động. Quân (= vua) vĩnh viễn không thể chuyển hóa thành thần (= bề tôi); thần cũng vĩnh viễn không thể chuyển hóa thành quân. "Đại nhân" vĩnh viễn không thể chuyển hóa thành "tiểu nhân"; "tiểu nhân" cũng vĩnh viễn không thể chuyển hóa thành "đại nhân".

Tác giả Dịch Kinh còn cho rằng, sự vật vận động biến hóa là một quá trình tuần hoàn, lặp đi lặp lại: "Phục hanh, xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu, phản phục kỳ đạo"
(Phục, quái từ).

(Quẻ Phục), hanh thông, ra vào không tai nạn, bạn đến không có lỗi, vận trời tráo đi trở lại).
(Phục, lời quẻ).

"Hưu phục, cát" (Phục, lục nhị).

(Vui mừng mà trở lại, tốt)
(Phục, hào thứ 2, âm)

"Mê phục, hung... " (Phục, thượng lục).

(Mê muội mà trở lại, xấu) (Phục, hào thứ 6, âm).

Nhưng trên thế giới tất cả mọi sự vật đều vận động, cuộc sống đang biến đổi, sức sản xuất đang tăng trưởng, quan hệ cũ bị phá vỡ. Đó tức là bản chất của cuộc sống.

2. Những yếu tố biện chứng chất phác trong Dịch truyện.

Dịch truyện là những lời chú giải, thuyết minh cổ xưa nhất của Chu dịch. Nói chung, nó có hệ thống tư tưởng biện chứng chất phác. Tác giả Dịch truyện đã có những đóng góp quan trọng về quan niệm biện chứng chất phác, về sự xét đoán quy luật đối lập thống nhất. Trong Dịch Kinh chỉ có một số mầm mống tư tưởng biện chứng chất phác, nhưng đến Dịch truyện điều này phản ánh khá rõ nét.

Tác giả Dịch truyện cho rằng "biến" là quy luật phổ biến trong thế giới. Dịch truyện nói:

"Ở trên trời thành ra nhiều hình tượng, ở dưới đất thành ra nhiều hình thể, sự biến hóa đã hiện rõ. Ấy cho nên cứng và mềm cọ nhau, giao nhau mà thành tám quẻ, tám quẻ luân chuyển (chồng lên nhau thành sáu mươi tư quẻ. Cổ động (muôn vật) bằng sấm sét (chỉ quẻ Chấn), thấm nhuần (muôn vật) bằng gió mưa (chỉ quẻ Tốn), mặt trời, mặt trăng xoay vần, hết lạnh tới nóng; có đạo Kiền (khí dương) thành giống đực, có đạo khôn (khí âm) thành giống cái" (Hệ Từ thượng).

"Đến cùng cực thì biến (đổi), biến (đổi), thì thông, nhờ thông mà được lâu dài) (Hệ Từ hạ).

Ở đây, chúng ta có thể thấy: trời đất biến đổi, mặt trời, mặt trăng vận hành, mùa đông qua mùa xuân đến, biến động không ngừng.

Giới tự nhiên chẳng những có "biến" mà còn có "thông". Điều gọi là "biến" và "thông", Hệ Từ thượng truyện ghi.

"Ấy cho nên đóng cửa gọi là Khôn, mở cửa gọi là là Kiền. Đóng rồi lại mở gọi là biến, qua lại không ngừng gọi là thông".

Trong vũ trụ thay đổi tức là sự vật tan và hợp. Sự vật tan ra và hợp lại tức là trái đất mở, đóng; vừa hợp rồi lại tan, vừa tan rồi lại đóng gọi là "biến"; ngưng tụ lại mà thành hình tượng tức là "vãng"; qua lại không cùng thì gọi là là "thông". Do biến đổi mà thông và thông mãi.

Vì muôn vật trong giới tự nhiên đều ở trong tình trạng "thiên hạ rất biến động mà không thể hỗn loạn" (Hệ Từ thượng), nhưng không phải ngưng tĩnh mà không biến đổi. Điều đó tức là nói vận động là tuyệt đối. Đồng thời, sự vận động của giới tự nhiên lại có quy luật nhất định. Do đó, tác giả Dịch truyện lại càng coi sự biến đổi là quy luật phổ biến của vũ trụ, và gọi nó là "đạo biến hóa". Tác giả Dịch truyện viết:

"Vì đạo (Dịch) thường thay đổi, biến động không ngừng, xoay quanh sáu cõi (sáu hào trong quẻ), ngôi trên ngôi dưới không nhất định, cương, nhu (dương, âm) thay đổi nhau, không làm khuôn mẫu nhất định được, chỉ có biến hóa mới thích hợp, ra vào có mức độ" (Hệ Từ hạ).

Nhưng động lực, nguyên nhân vận động của sự vật trong giới tự nhiên là tính mâu thuẫn trong nội bộ bản thân muôn vật của thế giới tự nhiên hay là bên ngoài của sự vật. Tác giả Dịch truyện cho rằng, bản thân sự vật trong giới tự nhiên đang tồn tại mâu thuẫn đối lập. Tác giả viết:

"Bớt dưới thêm trên, đạo ấy đi lên,... bớt cứng thêm mềm có lúc (có thời); bớt thêm, đầy rỗng đều đi cùng thời". (Quẻ Tốn, lời Thoán).

"Trời trên đầm dưới là quẻ Lý, quân tử coi tượng đó mà phân biệt trên dưới, định chí dân". (Quẻ Lý, lời Tượng).

"Quẻ Cổ, cứng trên mà mềm xuống, khiêm tốn mà dừng lại... (có) sau có trước, là sự vận hành của trời đất).
(Quẻ Cổ, lời Thoán).

Qua các ví dụ trên ta thấy:

Bớt - thêm; cứng - mềm; đầy - rỗng, trên - dưới.. đều ở trong mâu thuẫn đối lập. Tác giả Dịch truyện nhận thức mâu thuẫn vẫn là đối xứng nhau mà tồn tại, mặt này không có mâu thuẫn thì mặt khác cũng có mâu thuẫn. Nếu không có trên thì dưới không tồn tại được, hai mặt vẫn cùng một sự vật và tạo thành từng cặp mâu thuẫn. Tác giả Dịch truyện còn suy đoán đôi bên mâu thuẫn là sự chuyển hóa lẫn nhau. Tác giả nói:

"Bác là gọt, là nhu (mềm) biến thành cương (cứng).
(Quẻ Bác, lời Thoán).

"Mặt trời chính giữa (giữa trưa) thì phải sang chiều, mặt trăng tròn thì phải khuyết, trời đất đầy rỗng, theo thời mà tiêu sinh, huống chi với người, huống chi với quỷ thần nhỉ ? (Quẻ Phong, lời Thoán).

Ở đây, nhu với cương, chính giữa và nghiêng chiều, tròn khuyết v.v.., Dịch truyện đề cập đến đều là hai mặt mâu thuẫn đối lập. Chúng đều chuyển theo hướng trái ngược nhau, tức là nhu chuyển hóa thành cương. Khi mặt trời đến giữa trưa, chuyển hóa lệch về phía tây. Khi trăng đã tròn sẽ chuyển hóa sang khuyết. Thái là thông nhưng sự vật không thể vĩnh hằng thông thái, do đó, thông thái sẽ chuyển hóa sang mặt trái là bế tắc (bĩ). Nhưng sự vật không thể cứ bế tắc mãi, cho nên lại chuyển hóa sang hướng phản diện với nó...

Sự vật trong phát triển, đôi bên đối lập mâu thuẫn, dựa vào nhau, liên hệ với nhau tạo thành một thể thống nhất, nhưng đôi bên đối lập mâu thuẫn thì chuyển hóa theo hướng ngược nhau. Đó tức là tính đồng nhất, tính thống nhất của mâu thuẫn. Tác giả Dịch truyện sơ bộ nhận thức tính thống nhất của mâu thuẫn và đề ra phạm trù "trung" (đạo trung). Tác giả nói:

"Quẻ Đồng nhân, mềm được ngôi vị, đắc trung (được ngôi giữa), mà ứng với Kiền, gọi là đồng nhân".
(Đồng nhân, lời Thoán).

"Cương quá mà được giữa, khiêm tốn mà đẹp lòng tiến đi thì lợi, bèn hanh thông".
(Đại quá, lời Thoán).

"Cho nên đến lại, tốt, bèn được ngôi giữa". (Quẻ Giải, lời Thoán).

Ở đây, tư tưởng "chuộng Đạo trung" của Dịch truyện có nghĩa là "không quá" (bất quá). Nếu quá cứng và quá mềm đều là không tốt, cần phải "thượng trung" (chuộng đạo trung). Nếu quá cương (cứng), quá nhu (mềm) thì đều là thiên lệch.

Đôi bên mâu thuẫn cùng ở trong một thể thống nhất, thể thống nhất lại không ngừng phân chia ra mặt đối lập. Tác giả Dịch truyện bước đầu tiếp xúc với thể thống nhất có thể phân ra hai loại đối lập. Tác giả nói:

"Dịch có thái cực, thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra tám quẻ".
(Hệ từ thượng).

"Thái cực" tức là thể thống nhất cao nhất của tính vạn vật khi trời đất còn chưa chia tách. Thể thống nhất này lại chia thành hai mặt mâu thuẫn, đó tức là âm (- -) và dương (-) hoặc trời (kiền ), đất (khôn ). Âm dương hoặc trời đất từng cặp mâu thuẫn lại phân chia thành hai mặt mâu thuẫn, tức là "tứ tượng", dùng hình tượng quẻ để biểu thị hai nét ngang liền xếp chồng nhau gọi là thái dương (=); nét ngang đứt nằm trên nét ngang liền là thiếu âm ( ); nét ngang liền nằm trên nét ngang đứt là thiếu dương ( ); hai nét ngang đứt xếp chồng nhau la thái âm (= =).

Thiếu dương tượng trưng mùa xuân, thái dương tượng trưng mùa hè, thiếu âm tượng trưng mùa thu, thái âm tượng trưng mùa đông.

Nếu nói những cái đó có thể gọi là âm dương sinh tứ tượng, thế thì, cũng có thể gọi "trời đất" sinh bốn mùa. Vì thế, Hệ từ thượng nói:

"Khuôn phép hình tượng không gì lớn bằng trời, biến thông không gì lớn bằng bốn mùa".

Tứ tượng lại chia ra làm hai, sản sinh kiền (trời), khôn (đất), chấn (sấm), tốn (gió), khảm (nước), ly (lửa), cấn (núi), đoài (đầm), tức là tám loại vật chất. Tám quẻ chia thành 16, 16 chia thành 32, 32 chia thành 64 quẻ.

Nói về thái cực sinh ra lưỡng nghi, có thể gọi là "một phân làm hai", nhưng xét về lưỡng nghi sinh tứ tượng, thì lại không thể gọi "một phân làm hai". Do đó, tác giả Dịch truyện gọi cái đó là "phân nhi vi nhị" (chia tách thành hai), nhưng chia tách thành hai này đề là "tượng lưỡng" (hình tượng lưỡng nghi), cho nên gọi là "phân nhi vi nhị dĩ tượng lưỡng".

Tác giả Dịch truyện xuất phát từ cách phân đôi (lưỡng phân), coi xã hội và giới tự nhiên là quá trình "phân thành hai". Tác giả viết:

"Có trời đất, rồi sau có muôn vật; có muôn vật, rồi sau có trai gái; có trai gái, rồi sau có vợ chồng; có vợ chồng, rồi sau có cha con" (Tự quái).

"Đạo lập nên trời, là âm và dương. Đạo lập nên đất, là nhu và cương. Đạo thành người, là nhân và nghĩa". (Thuyết quái).

Đạo trời phân ra làm hai, là dương và âm; đạo đất phân ra làm hai là nhu và cương; đạo người phân ra làm hai là nhân và nghĩa. Ba đạo thiên, địa, nhân (trời, đất, người) bao gồm cả tự nhiên và xã hội.

Hệ từ thượng, chương thứ V viết: "Sinh sinh chi vị dịch" (Sinh sinh hóa hóa gọi là dịch). Tác giả Dịch truyện coi quy luật phổ biến của vũ trụ là "biến", nguyên nhân sản sinh đạo biến hóa là âm dương. Căn cứ âm dương biến đổi để xây dựng 64 quẻ, nhưng trong sự vật nhiều phức tạp, nhiều biến đổi, Chu Dịch đã đề xuất khái niệm quan trọng trời, đất, người, lấy nó làm cương yếu để nghiên cứu cụ thể quy luật sự vật phát triển. Hệ Từ hạ, chương thứ X chỉ rõ:

"Sách Dịch bao la (rộng lớn) gồm đủ cả: có đạo trời, có đạo người, có đạo đất".

Rõ ràng Dịch truyện đã phát huy quan niệm về tam tài: trời, đất, người. Dịch truyện coi "trời", "đất", là hiện tượng tự nhiên hoặc lực lượng tự nhiên, mà không phải là "thần" theo như ý nghĩa của phương tây. Trên trời chủ yếu là mặt trời, mặt trăng. Mặt trời mặt trăng lệ thuộc ở trời. Điều đó chứng minh trời là giới tự nhiên, không phải trời là "đạo thần" hư vô phiêu diêu.

Chu Dịch nói về con người và tự nhiên, đã đề xuất quan điểm điều hòa lẫn nhau:

"Như kẻ đại nhân thì cái đức của người cùng hợp với cái đức của trời, cái sáng của con người cùng hợp với cái sáng của mặt trời, mặt trăng,..."
(Kiền, văn ngôn).

Nhưng con người không phải tiêu cực thuận theo đạo trời đất, mà là: "Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức" (Kiền, lời tượng) (Trời vận hành mạnh mẽ, người quân tử theo đó mà tự cường chẳng nghỉ).

Dịch truyện đề xuất, người quân tử cũng phải giống như trời, luôn luôn tự cường. Điều này nói rõ, con người nên lấy đức đẹp của trời đất làm tiêu chuẩn, phát huy tích cực tinh thần tiến thủ.

Trời, đất, người, theo quan niệm của tác giả Dịch truyện là một chỉnh thể, sau này được ứng dụng vào rất nhiều mặt: nông nghiệp, y dược, binh pháp v.v.., từ đó xuất hiện học thuyết "Thiên nhân cảm ứng", "Thiên nhân hợp nhất".

Tác giả Dịch truyện còn đẩy mạnh sự đấu tranh và thống nhất của mặt đối lập thành sự vận động của vật, gọi là "tương đãng" (chồng lẫn lên nhau), "tương ma" (cọ nhau), từ đó đề xuất phạm trù giao cảm. Tác giả nói:

"Trời đất giao cảm mà muôn vật hanh thông, trên dưới giao cảm mà chí giống nhau" (Quẻ Thái, lời Thoán).

"Trời đất không giao cảm mà muôn vật không hưng thịnh, quẻ quy muội là đầu và cuối của loài người".
(Quy muội, lời Thoán).

"Trời đất không giao cảm mà muôn vật không hưng thịnh, quẻ quy muội là đầu và cuối của loài người".
(Quy muội, lời Thoán).

"Cứng mềm chuyển đổi nhau (giao cảm) mà sinh ra biến hóa"
(Hệ Từ thượng).

Qua các dẫn liệu trên, chúng ta có thể thấy:

Ở giới tự nhiên, trời đất đối lập, giao cảm nhau thì muôn vật biến hóa vô cùng tận. Trái lại, trời đất đối lập, hai bên không giao cảm nhau, muôn vật không biến thông.

Trong xã hội, trên dưới đối lập, giao cảm nhau thì trên (kẻ thống trị, quân tử), dưới (người bị thống trị, tiểu nhân) sẽ đồng nhất với nhau. Trái lại, trên dưới đối lập, không giao cảm thì đất nước không tồn tại được, bọn thống trị không thể cai trị tốt đất nước.

Nếu trời đất không có đối lập thống nhất, tức là không có giao cảm thì muôn vật sẽ không hưng thịnh, muôn vật không thể có biến hóa nảy sinh.

Kết hợp tính thống nhất và tính đấu tranh tạo thành mâu thuẫn, vận động nảy sinh cái mới trong muôn vật, từ đó sản sinh ra muôn vật. Đó tức là tư tưởng cơ bản về giao cảm của Dịch truyện.

Tư tưởng biện chứng đối lập thống nhất chất phác của Dịch truyện đã nảy sinh ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong lịch sử triết học Trung Quốc. Chẳng những các nhà triết học duy tâm mà cả các nhà triết học duy vật cũng rất chú ý đến phần tác phẩm này. Từ trong đó họ có thể thu thập được những tư liệu để phát huy và xây dựng các hệ thống tư tưởng triết học của mình. Nhưng do tính hạn chế của thời đại và giai cấp, cho nên Dịch truyện không quán triệt đến cùng tư tưởng biện chứng đối lập thống nhất, trong một số vấn đề lại sa vào siêu hình.

Tác giả Dịch truyện tuy đã thấy một loại tư tưởng quan trọng, không có bất cứ một hiện tượng nào không chuyển hóa thành mặt đối lập của mình, nhưng họ không có đủ nhận thức về kết quả đấu tranh của hai bên đối lập mâu thuẫn, chuyển hóa lẫn nhau trong điều kiện nhất định. Ở đây, điều kiện là quan trọng. Không có điều kiện nhất định, đôi bên đấu tranh đều không thể chuyển hóa.

Do tác giả Dịch truyện không lưu ý đến điều kiện chuyển hóa, cho nên địa vị mặt đối lập "nhị" (hai) trong "phân nhị vi nhị" (chia thành hai) đã được coi như cố định, chết cứng, không thể chuyển hóa. Đặc biệt khi tác giả đưa tư tưởng đó vào lĩnh vực xã hội, nói về vấn đề quan hệ con người với con người, tình hình này biểu hiện khá rõ. Tác giả nói:

"Trời cao đất thấp (thánh nhân) vạch ra quẻ Kiền, quẻ Khôn. Cao thấp lấy đó mà xếp đặt, định ngôi vị sang hèn".
(Hệ Từ thượng).

Đó là nói địa vị tôn với ty, sang với hèn đều đã xác định, không thay đổi. Kẻ cao sang ngôi vị cố định ở trên, người thấp hèn ngôi vị cố định ở dưới, tức là nhân dân lao động, chỉ có thể làm những việc của bậc tiểu nhân. Người cao sang ở ngôi trên, tức là giai cấp thống trị, kẻ thống trị nhân dân lao động.

Bài viết này chỉ giới hạn đề cập đến vấn đề "Những yếu tố biện chứng chất phác trong Chu Dịch", nhưng còn có những vấn đề khác, do thời kỳ lịch sử nó ra đời và giai đoạn xã hội phát triển, cho nên trong cách diễn tả của nó mang màu sắc thần bí và nội dung mê tín. Chúng tôi cho rằng, nếu vứt bỏ phần duy tâm và cái áo khoác thần bí, điều hợp lý chính xác của nó có thể phản ánh những quy luật khách quan nào đó của sự phát triển điều hòa giữa trời, đất và con người, có thể gọi là vốn quý của văn hóa Trung Quốc.

CHÚ THÍCH

(1) Theo ông Quách Mạt Nhược thì: "Cội rễ của bát quái chúng ta có thể thấy rất rõ ràng, là dấu vết thời xưa sùng bái sinh thực khí, vẽ một nét là giống dương vật, chia làm hai là giống âm hộ" (Sinh hoạt xã hội thời đại Chu Dịch Trung Quốc cổ đại xã hội nghiên cứu. Nhân dân xuất bản xã, 1954, tr.26). Luận đoán này tương đối phù hợp với ý nghĩa nguyên thủy, tương ứng với sự phát triển xã hội và trình độ phát triển tư duy. Gần đây, trong một di chỉ ở Độ Gia Cương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc đã đào được mũi tên đá, rìu đá... và đào được cả thạch tố, (vật thờ tổ tiên bằng đá), phản ánh sùng bái nam tính, tức là nam tính sinh thực khí. (Lê Văn Quán: “Khảo luận tư tưởng Chu Dịch”, Nxb. Giáo dục, H. 1993, tr.155.

TB

BÀN THÊM VỀ BÀI THƠ
"ĐỘC TIỂU THANH KÝ" CỦA NGUYỄN DU

TẠ NGỌC LIỄN

Phiên âm:

Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu tình liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Đây là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, nhưng cũng là một bài thơ khó dịch. Khó dịch ngay từ đầu đề của nó, bởi chữ "ký". Các cụ Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh, Quách Tấn dịch "ký" là "bài ký" (Đọc bài ký truyện Tiểu Thanh(1), "Đọc bài ký về Tiểu Thanh(2)). Hai cụ Lê Thước - Trương Chính và cụ Đào Duy Anh không dịch chữ "ký" mà xem Tiểu Thanh ký là tên một cuốn sách "Đọc tập Tiểu Thanh ký"(3), "Đọc sách Tiểu Thanh ký"(4).

Theo một số từ điển của Trung Quốc giải thích, chữ "ký" có gần 10 nghĩa khác nhau. Thí dụ "ký" là "ghi chép" (động từ): Công dư tiệp ký (Ghi chép nhanh lúc việc công nhàn rỗi), Thượng kinh ký sự (Ghi việc ở kinh đô) v.v..; "Ký" là "một thể văn": Nhạc Dương lâu ký (Bài ký về Lầu Nhạc Dương), Mai Đình mộng ký (Bài ký về giấc mộng Đình Mai) v.v..

Chữ ký; ở Độc Tiểu Thanh ký không phải là động từ. Khi dịch thành "bài ký", nhóm cụ Bùi Kỷ hiểu "ký" là một thể văn. Xét về phương diện ngữ pháp cổ văn, dịch như các cụ Bùi Kỷ, Phan Võ, Quách Tấn là đúng. Song về tập quán ngôn ngữ, khi viết về cuộc đời một nhân vật, thời xưa người ta thường dùng thể truyện chí, chẳng hạn Kim Vân Kiều truyện, Giả Nghị truyện v.v.. Hoặc dùng từ "hành trạng", "sự tích", như Bùi Tồn Am tướng công hành trạng, Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu sự tích...

Trong tự điển Từ hải chú "ký" có 7 nghĩa khác nhau, trong đó có một nghĩa là "sách vở". Từ hải viết: "Kinh tịch dã, hựu phàm ký tái sự vật chi thư, giai viết ký". Nghĩa là: [ký] là sách vở, phàm các sách ghi chép về sự vật đều gọi là ký". Chúng ta có rất nhiều dẫn chứng: Lễ ký, Sử ký, Tây du ký, Nghệ An ký, Hoan Châu phong thổ ký, Lưu hương ký...

Các cụ Lê Thước - Trương Chính, Đào Duy Anh có lẽ đã căn cứ vào nghĩa này để dịch Tiểu Thanh ký thành "Tập Tiểu Thanh ký", "Sách Tiểu Thanh ký". Tôi tán thành với cách dịch của các Cụ, nhưng có lẽ nên viết gọn lại: "Đọc Tiểu Thanh ký" (giống như nói đọc Tây sương ký, đọc Sử ký...).

Trong bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, câu thứ hai, tức câu thừa đề, "Độc điếu song tiền nhất chỉ thư", theo tôi là câu có hai từ "điếu" và "nhất chỉ thư" cần được cân nhắc kỹ để dịch. Trong cả 4 bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du dẫn trên, "điếu" đều được dịch là "viếng". Còn "nhất chỉ thư", trừ bản của cụ Đào Duy Anh dịch là "tờ thư" (... viết một tờ thư viếng), 3 bản kia dịch "tập sách" (Viếng nàng qua một tập sách - Lê Thước - Trương Chính, Quách Tấn) và "tập giấy" ("Viếng một tập giấy" - Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh).

Nghĩa thứ nhất của "Điếu" là "vấn chung": thăm hỏi, thăm viếng người chết (Từ Hải). Với người mới chết, "điếu khách" tới thăm viếng tang chủ và dự tang lễ. Người chết đã chôn rồi thì viếng thăm phần mộ. Thơ văn đời xưa thường có nhiều bài viết về chủ đề này. Thí dụ: Điếu cổ chiến trường (Thăm viếng bãi chiến trường xưa) của Lý Hoa, Điếu Sở Tam Lư Đại phu (Viếng quan Tam Lư Đại phu nước Sở (Khuất Nguyên)) của Ngô Thì Nhậm v.v..

"Điếu" là động từ. Nếu "nhất chỉ thư" trong câu "Độc điếu song tiền nhất chỉ thư" là "tập giấy", thì về ngữ pháp, dịch như các cụ Bùi Kỷ, Phan Võ "viếng một tập giấy" là không sai. Nhưng tại sao lại "viếng một tập giấy"? Rõ ràng không xuôi rồi. Có lẽ vì thế cụ Lê Thước, Trương Chính, mới dịch lại "Viếng nàng qua một tập sách". Chữ "nàng" (Tức Tiểu Thanh) do các cụ thêm vào cho câu thơ hợp lý hơn. Mặc dầu vậy, ở đây vẫn còn sự "Bất ổn" - Trên thực tế không ai viết (hoặc nói), chẳng hạn, "tôi viếng nàng Kiều qua Truyện Kim Vân Kiều. Cổ văn chữ nghĩa hiểm hóc quá! Tôi lại đành phải "độc điếu" mấy tập từ điển và thấy trong Từ Hải giải thích "điếu" còn có nghĩa là treo (huyền quải). Trong Hiện đại Hán ngữ từ điển(5) cũng chú "điếu" là treo đồng thời đưa thí dụ từ ghép "điếu song", nghĩa là cửa sổ treo, theo cách gọi thời cổ. Như vậy, trong câu thơ của Nguyễn Du, "điếu" không phải là "viếng" mà là "điếu song", chỉ cửa sổ. "Độc điếu song tiền" là "Một mình trước cửa sổ".

Bây giờ xin bàn đến "nhất chỉ thư". Đã có mấy cách hiểu khác nhau về cụm từ này: "một tập giấy" (nhóm cụ Bùi Kỷ), "một tập sách" (Lê Thước - Trương Chính), "một tờ thư" (Đào Duy Anh)...

Qua ba lời dịch trên, chúng ta thấy cả ba đều hiểu "nhất" là lượng từ. Nhưng "chỉ thư" thì có sự hiểu không giống nhau. Trong các từ điển của Trung Quốc không có cặp từ "chỉ thư", mà chỉ có "chỉ" và "thư". "Chỉ" là giấy. Còn "thư"? Trong bài Mấy điều suy nghĩ về bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" của Nguyễn Du, (Văn nghệ, số 28), anh Trần Đình Sử viết: "Tôi nghĩ, (...) Nói "viếng qua một tập sách" cũng không hợp, bởi chữ "thư" đây trong Hán văn cổ không phải là sách. Nó có nghĩa là "viết chữ", "chữ viết" và "Bức thư". Không hiểu anh Trần Đình Sử dựa vào đâu để nói trong chữ Hán cổ "thư" không phải là sách? Tra Thuyết văn giải tự là cuốn tự điển cổ nhất Trung Quốc do Hứa Thận người đời Hán soạn, thấy ở đó chú về chữ "thư" như sau: "Trứ ư trúc bạch vị chi thư" (Trước thuật trên tre, trên lụa, gọi đó là thư). Thời cổ chưa có giấy, người ta dùng thẻ tre, mảnh lụa để viết, nên mới có sách tre (trúc thư). Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn nhà nho, gọi là "Phần thư khanh nho". Từ điển Từ hải giải thích rất rõ: "Sách vở gọi chung là thư". "Thư mục" là mục lục sách. "Thư lâu" là lầu chứa sách ("Thư lâu nhà họ Lý có hàng vạn quyển" - Đường thư).. Trong thơ văn cổ, chữ "thư" nghĩa là sách rất nhiều: "Vạn ban giai hạ phẩm, Duy hữu độc thư cao", "Độc thư phá vạn quyển", "thập tải độc thư bần đáo cốt"... Chữ "thư" ngoài nghĩa "viết chữ", "thư tín", còn có nghĩa là "sách". Theo nghĩa của từng chữ mà hiểu, "chỉ thư" là lá thư, trang sách. Có lẽ không thể hiểu khác được. Trước Nguyễn Du, Dương Cự Nguyên thời Đường trong bài tuyệt cú Thôi nương thi (Thơ nàng Thôi) đã dùng từ "nhất chỉ thư":

Phong lưu tài tử đa xuân tứ,
Trường đoạn Tiêu nương nhất chỉ thư.

(Phong lưu tài tử bao tình tứ,
Đứt ruột nàng Tiêu một cánh thư).

Còn Nguyễn Du, ngoài bài Độc Tiểu Thanh ký, ở bài Sơn cư mạn hứng của ông cũng có "nhất chỉ thư".

Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.

(Em trai, em gái ở quê nhà vắng bặt tin tức, không được một lá thư để biết có bình yên không) "Nhất chỉ thư" trong bài Độc Tiểu Thanh ký, theo tôi, nên hiểu là trang sách, nó vừa tiếp ứng đề bài, vừa thể hiện sự tài tình, sáng tạo của Nguyễn Du trong sử dụng ngôn ngữ. "Nhất chỉ thư" có thể đổi thành "nhất quyển thư", nhưng Nguyễn Du không dùng chữ "quyển", vì "quyển" dày, nặng quá so với số kiếp quá mỏng manh của Tiểu Thanh. Nếu Tiểu Thanh là một người con trai, một người đàn ông, chắc chắn Nguyễn Du không dùng "nhất chỉ thư". "Nhất chỉ thư" là để giành nói về một người con gái mệnh bạc, đoản mệnh, cuộc đời ngắn ngủi vừa đủ chép trong vài ba trang sách mỏng.

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

"Trước cửa sổ một mình (với) một trang sách".

Về hai câu thực của bài thơ:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Tôi thấy có nhiều cách hiểu trái ngược nhau về chữ "thần", chữ "mệnh", về cấu trúc câu và ý nghĩa của cả câu:

- Các cụ Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh: "Son phấn như có thần, sau khi chết, người ta còn thương tiếc, Văn chương còn có số mệnh gì mà làm cho người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại sau khi đốt".

- Nhóm cụ Lê Thước - Trương Chính: "Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết, Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở".

- Cụ Đào Duy Anh: "Son phấn có thần, nên để lại niềm xót thương sau khi chết. Văn chương không có duyên phận, nên đốt rồi mà lụy vẫn còn sót lại".

Vì sợ bài dài, tôi không bình luận thêm về mấy cách dịch trích dẫn trên mà xin nêu ý kiến riêng như sau: "Chi phấn" là son phấn khi Tiểu Thanh sống vẫn dùng để tô điểm nhan sắc hàng ngày. Sau khi Tiểu Thanh chết, son phấn ấy như có "thần" cũng thương xót Nàng. (Theo quan niệm người xưa, "thần" (tức tinh thần) có thể nhập vào các đồ vật - Từ điển Từ hải). Còn "văn chương" là thơ văn do Tiểu Thanh sáng tác ra. Văn chương đó vốn đâu phải là sinh mệnh như một con người mà cũng mắc liên lụy bị thiêu đốt đi ("mệnh" là tính mệnh, sinh mệnh). Người vợ cả vì căm tức Tiểu Thanh nên đốt thơ của Tiểu Thanh (Giống như Tần Thủy Hoàng theo "pháp trị" (Pháp gia), ghét Nho gia, đã đốt sách vở của Nho gia).

Vì hai câu thực này, Nguyễn Du dường như không chỉ nói riêng về số phận Tiểu Thanh, số phận những bài thơ, bài từ của Nàng, mà ông còn muốn khái quát, nói rộng hơn, về thân phận bi thảm của những bậc tài hoa, tài tử, và về cái nghiệp Văn chương bạc bẽo, đớn đau muôn đời?.

Những câu thơ khác trong bài Độc Tiểu Thanh ký không có chữ nghĩa nào khó hiểu cả. Tôi xin dịch lại nghĩa bài thơ:

Vườn hoa bên Tây Hồ(6) đã thành bãi hoang cả,
Trước cửa sổ một mình với trang sách.
Son phấn như có thần cũng thương xót sau khi nàng chết,
Văn chương không phải một sinh mệnh mà vẫn liên lụy bị thiêu đốt.
Nỗi oán hận xưa nay thật khó hỏi trời,
Ta vốn dễ ở trong cảnh oan phẫn lạ lùng của kẻ phong nhã.
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ có người nào khóc Tố Như?

Khi dịch và bàn luận bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, chúng ta không thể không hiểu biết đôi nét về nhân vật Tiểu Thanh. Tôi có đọc lại phần chú thích về Tiểu Thanh trong các bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du thì thấy có một số chi tiết bị nhầm lẫn cần phải đính chính lại.

- Tên họ Tiểu Thanh và chồng nàng - Hai cụ Lê Thước - Trương Chính chú thích "Nàng họ Phùng, lấy lẽ một người cũng tên là Phùng, vì tránh tên chồng, nên gọi là Tiểu Thanh". Từ hải là cuốn từ điển đáng tin cậy, ghi: "Tiểu Thanh họ Phùng, tên là Huyền Huyền, lấy lẽ Phùng sinh (tức Phùng Tử Hư - TNL). Vì kiêng cùng họ nên lấy tên chữ để xưng hô". Rõ ràng chồng Tiểu Thanh họ Phùng chứ không phải tên là Phùng. Còn nguồn gốc chữ Tiểu Thanh, cũng theo Từ hải, ở Trung Quốc thời cổ, người ta gọi những nàng hầu (tì thiếp) là "Thanh y" hoặc "Tiểu thanh".

- Tiểu Thanh sống ở thời kỳ nào? Các Cụ Lê Thước - Trương Chính viết Tiểu Thanh sống vào đầu đời Minh. Triều Minh bắt đầu từ năm 1368 với niên hiệu Hồng Vũ thứ nhất, Nói đầu đời Minh là giai đoạn Hồng Vũ từ 1368 tới 1400. Trong bài đã dẫn trên của Trần Đình Sử, anh cho biết: "Theo truyện thì Tiểu Thanh chết vào năm Nhâm Tí niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, 1492". Ở đây có sự nhầm lẫn không biết từ tài liệu anh Trần Đình Sử đã đọc, hay tại nơi nhà in: Niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh là thời gian từ năm 1573 đến 1619. Trong niên hiệu Vạn Lịch có một năm Nhâm Tí là năm 1612. Còn 1492 là năm Nhâm Tí niên hiệu Hoằng Trị (1488-1505). Các học giả Trung Quốc nói Tiểu Thanh chết lúc 18 tuổi. (Từ hải). Nếu bài thơ Độc Tiểu Thanh ký được Nguyễn Du viết vào năm ông đi sứ Trung Quốc, 1813 và lấy đây làm mốc để tính theo giả định Nguyễn Du khóc thương Tiểu Thanh 300 năm trước thì có thể xác định, người con gái họ Phùng ấy không sống vào đầu triều Minh (vì sẽ cách Nguyễn Du hơn 400 năm), mà nàng cũng không chết vào năm Nhâm Tí niên hiệu Vạn Lịch cuối nhà Minh (chỉ cách Nguyễn Du khoảng 200 năm). Tất nhiên những số từ (như "thiên lý ngoại", "bách vạn hùng sử"...) trong thơ văn cổ thường mang tính chất tượng trưng, không chính xác. Song, có thể khẳng định là Tiểu Thanh sống ở đời Minh. Từ hải ghi rõ: Tiểu Thanh là người con gái ở Giang Đô, thời Minh. Cuộc đời Tiểu Thanh đã được nhà soạn tạp kịch nổi tiếng đời Minh là Từ Hội, phổ thành khúc kịch Xuân Ba ảnh.

CHÚ THÍCH

(1). Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà Nxb. Văn hóa, 1959.

(2). Tố Như thi, An Tiêm, Sài Gòn, 1973.

(3). Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn học, 1965.

(4). Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn học, 1988.

(5). Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, 1991.

(6). Tây Hồ: ở phía tây Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, cũng có tên là "Hồ Tiền Đường", "Hồ Kim Ngưu" ba mặt núi vây quanh, phong cảnh bốn mùa trong đẹp (theo Từ hải)./.

TB

VÌ SAO THẦN TÍCH LẠI TÀNG TRỮ Ở ĐỀN HÙNG

HOÀNG LÊ

Tạp chí Hán Nôm số 1 (22)-1995 có bài: "Những khía cạnh văn bản liên quan đến mảng thư tịch Thần tích" của anh Nguyễn Hữu Mùi. Phải nói rằng đây là một bài viết có nhiều tìm tòi và cách làm việc thực sự là khoa học. Vấn đề anh nêu ra là "có nhiều văn bản ghi xuất xứ từ hai nơi tàng trữ ở Bằng Đắng và đền Hùng Vương" là có thực. Anh đã đưa ra 7 dẫn chứng, thế cũng đã đủ làm minh chứng. Anh lại tìm hiểu đến mảng thư tịch Xã chí, hơn thế nữa, còn lần đến tận quê cụ Tô Thế Huy ở thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, cách Hà Nội 70 cây số, gặp gỡ các cụ trong dòng họ Tô để biết tường tận vì sao không để thư tịch thần tích ở Bằng Đắng mà lại chuyển lên đền Hùng.

Là một trong những người nghiên cứu quan tâm đến mảng thư tịch thần tích, tôi xin được bổ sung đôi điều làm rõ thêm nguồn gốc. Không hoàn toàn là do Tô Thế Huy "biên chép, sưu tầm" như anh Nguyễn Hữu Mùi nhận xét đâu. Vì nếu cụ Huy biên chép lại, ắt là cụ đã ghi rõ họ tên mình, năm tháng biên chép và cả địa điểm làm công việc đó, chẳng khác Nguyễn Hiền - người đương thời với Cụ - trong một cuốn thần tích của xã Hạ Dương huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dương Hà, huyện Gia Lâm, Hà Nội) do ông Thạch Đan Quế, Tú tài khoa Ất Mão (?) người thôn Thượng của bản xã cùng Đỗ Thiện Kế: Lại khoa, Phạm Nhuận Hiệp: Bá hộ, Nguyễn Văn Cam: Lý trưởng và các vị cựu Lý trưởng, các vị kỳ mục của xã đã đích thân đến xã Bằng Đắng "phụng đem ngọc phả chính bản trở về. (H.L nhấn mạnh). Nhưng vì đã trải qua thời gian dài tới 241 năm, dù có để thần phả trong hộp đồng nhưng quá lâu ngày nên giấy má biên chép ngõ hầu cũng bị hư nát. Cho nên phải sao chép ra để "Truyền lại cho đời sau". Thần phả được sao chép vào ngày lành tháng 8 năm Bính Thìn, niên hiệu Khải Định nguyên niên (1916). Cuối cuốn thần phả có ghi rõ: "Bản thần tích này do Thượng Thư Nguyễn Bính soạn từ niên hiệu Hồng Phúc triều Mạc(1), truyền đến đời Lê Vĩnh Hựu, trải qua hơn trăm năm, giấy bị mục nát, cho nên sai Nội Các sao chép lại. Đến cuối đời Lê, vận nước suy vi, kinh thành gặp cơn biến loạn. Lúc bấy giờ có Lễ bộ Thượng thư Tiến sĩ họ Tô, người xã Bằng Đăng(2), huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên, sợ rằng sự tích của bách thần sẽ bị binh hỏa thiêu cháy, bèn gói tất cả thần tích lại đem về dấu vào bức vách ở nhà. Ấy là ông học cách dấu sách của họ Khổng (Khổng Tử). Trải năm, sáu mươi năm không ai biết việc đó. Về sau nhân quân của Quận He(3) ban đêm cướp phá ở từ đường, hủy hoại tường vách, bỗng thấy một chiếc hộp bằng đồng, bên trong đựng toàn sách, bèn vứt ra ngoài đồng. Sáng sớm hôm sau cháu ba đời đi tìm của, thấy sách vở vứt bừa bãi ở ngoài đồng, bèn sắp xếp lại mang về. Lúc ấy mới biết rõ sự việc, không dám cất ở nhà, liền mang lên để ở miếu thờ vua Hùng, giúp cho các xã thôn nào để thất lạc mất thần tích thì tới đó mà sao chép lại".

Qua tư liệu trên, ta thấy thần tích được tàng trữ ở đền Hùng, trước đó là ở xã Bằng Đăng huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên là bản sao của Nguyễn Hiền từ chính bản của Nguyễn Bính triều Lê.

Lý do vì sao đang tàng trữ ở bộ Lễ đặt tại Kinh đô lại di chuyển về Bạch Hạc, Vĩnh Yên, đã rõ. Và cũng vì vậy mà các bản sao thần tích của một số địa phương, có bản ghi xuất xứ ở Bằng Đăng, có bản lại ghi ở đền Hùng Vương cũng là điều dễ hiểu. Còn 2 lý do(4) mà các cụ trong dòng họ Tô đã nêu trong bài viết của anh Nguyễn Hữu Mùi chỉ là một vài giả thiết đặt ra có thể đúng mà cũng có thể chưa đúng so với thời điểm đó. Song cũng đáng trân trọng trong cách nghĩ của con cháu hậu duệ của vị Cảo Quận công.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyên bản ghi "niên hiệu Hồng Phúc triều nhà Mạc" là sai - Người biên tập.

(2) Nguyên bản ghi xã "Bằng (Bình) Đăng". Trong văn bản khác và cả ở địa phương thường gọi là "Bằng Đắng" (Chữ Đăng + Thổ) - Người biên tập.

(3) Tức Nguyễn Hữu Cầu quê ở xã Lôi Động, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Hưng, đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ... Sau khi những cuộc khởi nghĩa này thất bại, ông ra sức xây dựng lại lực lượng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu kiên quyết chống lại trật tự phong kiến suốt 10 năm (1741-1751). Ông là một anh hùng nông dân kiệt xuất của thế kỷ XVIII. Ông nêu khẩu hiệu "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo".

(4) Xem Tạp chí Hán Nôm số 1 (22) 1995, trang 33.

TB

CHÙA PHỔ TẾ, NƠI HỘI NGỘ CỦA CÁC DANH SĨ ĐỜI TÂY SƠN

NGUYỄN MINH ĐĂNG

Phổ Tế là tên gọi một tòa danh lam cổ sái nằm giữa cánh đồng giáp giới ba thôn Trung Thịnh, Yên Trường, Đống Vũ thuộc xã Trường Thịnh huyện Ứng Hòa tỉnh Hà Tây. Phổ Tế là tên chữ của chùa, có nghĩa là cứu độ hết thảy chúng sinh. Còn nhân dân địa phương lâu nay lại căn cứ vào tập tục dân ba thôn cùng đến đèn hương lễ Phật, nên gọi là chùa Ba Thôn. Tuy thế, tên gọi Phổ Tế từ lâu đã đi vào lòng người qua câu ca xóm ngõ:

Thứ nhất là chùa Cổ Loa

Thứ nhì Phổ Tế, ba là Pháp Vân.

Rõ ràng trong tiềm thức của người dân lao động, chùa Phổ Tế được xếp hàng thứ hai trong mấy ngôi chùa danh tiếng trong vùng. Ngày nay quy mô của chùa chẳng còn lộng lẫy như xưa. Tòa tam bảo thờ Phật khiêm tốn ẩn mình giữa vườn cây hoa trái xanh tốt bốn mùa. Chùa tuy không lớn, song hệ thống tượng Phật lại hết sức đầy đủ trang nghiêm... Các đồ tế khí như chuông, mõ, bát hương, biển thờ cũng được bài trí rất hợp lý, càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm vốn có ở chốn tùng lâm. Cổng chùa thật sự đơn sơ, chỉ là mấy cành tre uốn xuống cong cong, tay tre đan ngang đan dọc tạo dáng như cánh càn khôn khép mở, đầy vẻ cổ kính. Bên trong, sư cụ trụ trì ở chùa mới xây cất thêm một chiếc cổng gạch, cũng chỉ là để ngăn cách trần duyên. Bốn chung quanh lũy tre dày đặc, tre già tre non tầng tầng kế nối, cộng thêm là hàng chục loại dây leo tự nhiên như mảnh bát, bìm bìm quấn quýt lấy nhau, giúp cho lũy tre càng thêm bền chắc. Dễ tưởng bụi trần khôn bề xâm nhập. Một con ngòi nho nhỏ lượn vòng ôm ấp bên ngoài lũy tre, nước trong leo lẻo. Khách đến thăm chùa lễ Phật, dễ dàng nhận ra những nét tự nhiên hư vô của chốn Thiền lâm. Cái tự nhiên kỳ ảo đó đã cho người ta những cảm giác sâu lắng dễ chịu. Nghĩ rằng chúng sinh về đây sẽ tìm được lẽ sống tự nhiên, sẽ chẳng còn vương vấn tục trần. Người xưa quả không lầm, đã biết chọn nơi đây để xây dựng già lam, tạo ra một khung cảnh trang nghiêm giúp cho tâm mình tĩnh lặng.

Người xưa là ai đó? Khách đến thăm chùa đã bao lần đặt ra câu hỏi và cố gắng lục lọi tìm cách trả lời. May thay ở ngay cửa tam quan chùa còn thấy dựng mấy tấm bia đá rêu phong mấy lớp, phủ kín bụi trần, cạo làn rêu phủ, lần đọc từng hàng bia đá, chúng ta có thể dần dần hiểu biết thêm về lịch sử xây dựng chùa và công tích của những người khai sáng.

Văn bia cho biết, nơi đây xa xưa là nền cũ của chùa Phổ Cứu, một ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng trong vùng mà dân gian quen gọi là chùa Ma. Sư cụ ở chùa và các bô lão ở thôn Đống Vũ còn cho biết ở vùng này vẫn lưu truyền câu nói:

Thứ nhất chùa Ma

Thứ ba chùa Thiện

Chùa Thiện là ngôi chùa dựng ở xứ đồng Thiện, thuộc thôn Bạt Trung xã Liên Bạt gần đó, còn chùa Ma là tên gọi cổ xưa của chùa Phổ Tế.

Văn bia cho biết thêm người có công khai sáng chùa Phổ Tế là Hi Thiền Trương Bá Hoãn. Ông là người thôn Trung, tổng Bạch Sam, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên, nay xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, hiệu là Bích Khê và Thông Huyền, biệt hiệu là Hi Thiền: Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ông nội là Hoằng Đạo tiên sinh thi hương đỗ Tứ trường, làm Tri huyện huyện Thuận Thành, thân phụ là Hạo Hiên tiên sinh thi hương đỗ Giải nguyên, làm Tri phủ phủ Từ Sơn. Từ nhỏ Trương Bá Hoãn đã được dạy bảo thi thư rất có nền nếp. Năm 16 tuổi, ông đi thi hương, đỗ Hương cống, được bổ làm quan ở huyện rồi ở phủ. Bấy giờ chính quyền phong kiến Lê Trịnh đã mục ruỗng, triều đình chia bè phái tranh chấp quyền lợi, nhân dân rất khốn khổ, quân Tây Sơn kéo ra Bắc Hà làm cho triều đình Lê Trịnh sụp đổ hoàn toàn, Trương Bá Hoãn liền từ quan lui về quê vui thú điền viên. Năm 1789, Quang Trung đem quân ra Bắc tiêu diệt hoàn toàn đội quân viễn chinh nhà Thanh, giành lại quyền độc lập. Bấy giờ các sĩ phu Bắc Hà theo giúp nhà Tây Sơn rất đông, Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm được cử trông coi việc bang giao với nhà Thanh, ông bèn tiến cử Trương Bá Hoãn với Quang Trung. Trương Bá Hoãn liền ra làm quan với nhà Tây Sơn, lúc đầu làm việc từ hàn giao thiệp với nhà Thanh. Sau đó có tài, lập được nhiều công tích, vua Quang Trung vời về kinh đô Phú Xuân giữ chức Hiệu Thảo ở Viện Hàn lâm. Ít lâu sau ông lại xin từ quan trở về làng cũ. Lần này ông bèn xuất gia nương bóng cửa Thiền. Năm 1792 thấy cảnh chùa làng hoang phế, ông đã đứng ra lập Hội thiện, vận động nhân dân địa phương và thiện tín các nơi xây dựng lại chùa. Sau khi hoàn thành, ông bèn đặt tên chùa là Phổ Tế, rồi cho mời người viết văn dựng bia ghi lại. Bấy giờ tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp vùng, nơi nào có Phật sự lớn như tô tượng, đúc chuông đều mời ông đến dự. Hiện nay trong chùa ở các thôn Trần Đăng, Miêng Hạ còn giữ được các bài ký khắc trên Chuông của ông viết vào đời Cảnh Thịnh (1793-1801). Tiếng tăm của ông còn vang xa hơn nữa. Năm 1794 Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm biệt hiệu Ngộ Thiền người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội đã đến thăm chùa. Lúc này Ngô Thì Nhậm đang đảm đương nhiều chức vụ quan trọng trong triều Tây Sơn như Thượng thư bộ Binh, tước Tình phái hầu. Ông tìm về chùa Phổ Tế thăm Trương Bá Hoãn. Khi thấy Hi Thiền Trương Bá Hoãn đích thân xắn tay lo liệu xây dựng chùa, ông bèn tán thán công đức: "Còn việc đi ở ẩn của ông Hi Thiền thì ta lại mừng rằng vì đó mà cảnh chùa chẳng còn hoang phế nữa. Ông Hi Thiền đã thấu hiểu lẽ mầu nhiệm Tam diểu Tam bồ đề, thật là cùng một chí hướng với ta. Ta sẽ cùng ông uống rượu, ngâm thơ, luận bàn về đạo Phật ở ngay chốn Thiền Lâm"(1).

Danh lam Phổ Tế không phải chỉ là nơi các vị Đầu đà xuất gia tu hành đạo nghiệp, mà còn là nơi các bậc tao nhân mặc khách, các bậc thiện trí thức ở đời thường xuyên lui tới luận bàn về đạo Phật. Sau Ngô Thì Nhậm ít lâu Tiến sĩ Nguyễn Du cũng đến tham Thiền ở chùa Phổ Tế. Nguyễn Du người làng Nguyệt Viên, huyện Chương Mỹ, thi đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa Ất Tị (1785) đời Lê Cảnh Hưng, sau cũng theo giúp nhà Tây Sơn, làm quan đến Thị thư Viện Hàn lâm, tước Ứng Xuyên bá, hàm Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu. Đến thăm chùa Phổ Tế, vị Đình nguyên Hoàng giáp làng Nguyệt Viên cũng được mời viết ký, song đứng trước cây đại bút Ngộ Thiền Ngô Thì Nhậm, ông đành lắc đầu ghi nhận: "Ngày khánh thành chùa, vừa hay đào được một tấm bia đá cũ. Bia chỉ có hình dáng mà không thấy khắc chữ. Ông (chỉ Trương Bá Hoãn) nhân đó muốn mời tôi viết văn ghi lại. Thế nhưng Thượng thư Tình Phái hầu chẳng đã viết ký rồi sao. Văn hay cực kỳ, tôi chẳng thể nói thêm được điều gì nữa"(2).

Quả đúng như vậy, trong bài Trùng tu Phổ Tế tự bi ký, Ngộ Thiền Ngô Thì Nhậm đã bàn luận rất sâu về diệu lý của đạo Thiền, đã giảng giải tường tận thế nào là thô thiền, thế nào là tinh thiền(3), thật xứng với biệt hiệu Ngộ Thiền. Hoàng giáp Nguyễn Du chẳng biết nên bàn thêm điều gì nữa, chỉ đành viết lại lai lịch của người khai sáng ra chùa Phổ Tế mà thôi.

Văn bia cũng cho biết, chùa được tu sửa nhiều lần. Đến đầu thế kỷ XX này, dân ba thôn Trung Thịnh, Yên Trường và Đống Vũ lại góp công sức đúc một quả chuông đồng, và chính thức ghi nhận tên chùa vào bài ký trên chuông là Tam Thôn tự chung (chuông chùa Tam Thôn). Hơn 200 năm nay, chùa Phổ Tế đã chứng kiến cuộc hội ngộ của biết bao danh sĩ có người vì hâm mộ đạo Thiền (Hi Thiền) mà treo ấn từ quan về ở cửa Thiền, có người lại giác ngộ đạo Thiền (Ngộ Thiền) tìm đến chùa Phổ Tế để uống rượu ngâm thơ và đàm đạo về đạo Thiền. Cũng có người vì mến mộ đạo từ bi mà tìm đến tham Thiền. Chùa Phổ Tế quả không phụ với cái tên cứu độ rộng khắp chúng sinh. Ngày nay quy mô của chùa chẳng còn được như xưa, nhưng bia đá chuông đồng còn đó, hào tre ngăn cách bụi trần còn đó, chắc hẳn cái ý tưởng phổ tế của người xưa chẳng chút lu mờ.

CHÚ GIẢI

(1) Trùng tu Phổ Tế tự bi kí, No15575, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(2) Bi hậu kí, No11350, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(3) Xem Tuyển tập văn bia Hà Tây, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây, 1933.

TB

VÀI NÉT VỀ BẢN THÚC ƯỚC QUỐC NGỮ VĂN CỦA LÀNG HỮU LẬP, XÃ QUỲNH LẬP, HUYỆN QUỲNH LƯU, NGHỆ AN

TRẦN MINH THÚY

Trước Tháng 8/1945, hàng năm dân làng Hữu Lập (nay là xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) thường tổ chức lễ Kỳ phúc (cầu phúc) vào dịp rằm tháng ba âm lịch. Lễ hội kéo dài ba ngày đêm 15, 16 và 17.

Lễ hội không những thu hút hầu hết các tầng lớp nhân dân trong làng cùng đông đảo nhân dân các thôn xã lân cận... mà còn là một dịp để các cư dân của làng, do hoàn cảnh kinh tế, đã rời quê hương đi làm ăn sinh sống ở các tỉnh, thành phố, nhất là sinh sống ở các tỉnh phía Bắc về thăm quê hương và cùng dự Hội làng.

Sau khi đại tế các thần linh, một bô lão nho học được dân làng cử ra tuyên đọc bản Thúc ước. Tiếp đó, các nho sinh trong làng khăn áo chỉnh tề, lần lượt vào đọc bản Thúc ước. Ngoài mục đích giới thiệu nội dung, việc đọc này còn là dịp thử sức thi tài đọc thuộc, đọc hay, biết phân câu chiết tự. Người đọc phải tốt giọng, lên bổng xuống trầm, đúng với từng chữ, từng câu, từng đoạn trong bản Thúc ước. Bản Thúc ước của làng Hữu Lập, với nội dung hiện thực phong phú, súc tích... do đó đã được lưu truyền hàng trăm năm nay trong nhân dân, đặc biệt là trong các thế hệ nho sinh làng Hữu Lập, bằng cách sao chép ra hàng trăm bản và chuyển cho nhau học thuộc lòng.

Về nguyên bản, cách đây hàng trăm năm, các vị chức sắc trong làng đã cho thêu bản Thúc ước bằng chữ Hán Nôm trên tấm nỉ màu đỏ sẫm, cỡ 2,5x2,00m, chung quanh có dải viền màu xanh lá mạ. Trên dải viền này có thêu tứ linh và hoa lá, phía trên cùng có thêu hình lưỡng long triều nguyệt.

Do thời gian lâu và số lần sử dụng nhiều, có không ít hàng chữ thêu đã bị bong, tróc nét. Nếu không thuộc lòng từ trước thì các vị chức sắc cũng như các nho sinh trong làng không thể trông vào bản thêu mà đọc được bản Thúc ước trong buổi lễ tuyên đọc.

Để bảo tồn, cuối năm 1941, các vị chức sắc trong làng đã quyết định thêu lại bản Thúc ước theo khuôn mẫu bản cũ. Cụ Tú Nhân (tên thật là Trương Hữu Tuệ, người có học vị Tú tài cuối cùng của làng dưới triều Nguyễn) được cử đi Hà Nội để thêu lại. Rất tiếc, bản Thúc ước thêu lại này về sau đã bị một người vô ý thức lấy về nhà và hủy hoại vào năm 1952 ! (Cụ Hồ Sỹ Vượng, một cán bộ của xã từ sau Cách mạng tháng 8/1945, nay là Hội trưởng Hội bảo thọ của xã cho biết việc hủy hoại này).

Cũng may mà cho đến nay, nhiều cụ theo học chữ Hán trước Cách mạng tháng Tám 1945, thậm chí có một số cụ bà, còn thuộc lòng toàn bài hoặc từng đoạn, từng phần bản Thúc ước nói trên. Nhờ vậy mà chúng tôi, bằng vào trí nhớ của các cụ, đã chép lại được toàn văn bản Thúc ước để giới thiệu cùng bạn đọc.

Thúc ước quốc ngữ văn(1)

Đức vua muôn muôn năm chi thọ!

Phủ Diễn Châu, huyện Quỳnh Lưu, Tổng Hoàng Mai, xã Phương Cần, thôn Hữu Lập; Vị hữu "nhập tịch kỳ phúc" Thúc ước quốc ngữ văn!(2)

Mừng nay:

Chúa thánh lỏi sinh,

Vận lành may gặp;

Thống xa thư(3) một múi tóm thu,

Cơ tạo hóa bốn mùa mở khép.

Tám cõi lừng vang sấm sét, mọi loài cáo thỏ đã tan không!

Chín châu nhuần rưới mây mưa, đôi chốn nhãn hường(4) đều đượm khắp!

Trải muôn phương phổ suất tế bàn(5)

Gồm bốn chữ thăng bình phú cấp!

Áng ta nay: Đồ đất rộng thinh,

Thuở trời xây đắp:

Trước minh đường(6) lẻo lẻo nước soi gương,

Sau huyền vũ(7) đùn đùn mây xếp lớp,

Cánh thanh long(8) uốn lại suối sôi tiền(9) cuồn cuộn chảy tuôn,

Đầu bạch hổ(10) chầu vào non chứa phúc(11) từng từng vây rập.

Cảnh thiên nhiên xưa khéo đặt bày,

Gót thần tích(12) nay còn ghi chép:

Sóng muôn dặm một lòng tiết nghĩa(13),

Chín tầng trời thăm thẳm cũng gần gần.

Vận ba trăm(14) hai chữ cương thường,

Năm đỉnh núi(15) cao cao còn thấp thấp

Nền đế vương cơ dậu một mai,

Loài di dịch vương mà mấy kiếp!

Thù thiên nhượng sá chung triều Tất Liệt(16)

Gót tiên đành bia tạc non Quy(17)

Chữ ba đào(18) xui tỉnh mộng Anh Tông(19)

Điềm thần hải(20) gương lầu giấc điệp(21).

Nước non Mông Cổ áo đã đổi mầu(22),

Dòng dõi Tống hoàng mạo(23) còn rạng nét.

Sặc sỡ lầu gác tía(24),

Chốn lửa hương một áng nguy nga.

Rỡ ràng chiếu phượng thư son(25),

Vẻ Huê cổn muôn thu trùng điệp!

Hải hà câu đúc khí thiêng liêng,

Tung, Nhạc(26) trở sinh tài giúp rập.

Võ, tham đốc quận công hiệu úy;

Thú ngư hà lỏi đấng công khanh(27)

Văn, hàn lâm ngự sử đô đài;

Miền Cần Hải nỗi danh khoa giáp(28)...

Quan mười phần danh đã vẹn nên,

Dân bốn nghiệp(29) lòng càng thỏa thiếp:

Sỹ ta tài cả bén duyên,

Số may gặp dịp,

Thang vượt lên mây nhẹ bước,

Quế cung thiềm(30) thẳng bẻ một cành,

Cá mừng được nước phải duyên,

Sóng của vũ(31) nhẩy lên ba cấp,

Trải nhiều thu gần gũi phượng trì,

Rọi muôn kỷ (32) rỡ ràng nhạn tháp.

Nông ta mõ cốc(33) khuya rung,

Áo tơi sớm cắp,

Đủng đỉnh cày mây cuốc nguyệt,

Vui vầy muôn khóm cỏ huê cười.

Dồi dào của nước lộc trời,

Giầu sẵn bốn mùa non núi xếp.

Người đồng nhân hớn hở môn đình,

Khúc đại hữu ca xang(34) thiên thập!

Dây mực ông Du(35) nẻ nét,

Nghề công năng tay thợ lảu thông.

Cánh buồm chàng Phạm(36) rong chơi,

Của thương bản khuôn trời thu góp.

Bốn dân hộn(37) đã vẻ vang,

Tứ thú(38) thêm càng sum họp:

Ngư nọ kẻ xe loan ban sớm rước,

Vất cần câu sửa việc kinh luân,

Tiều kia ai chiếu phượng buổi hôm vời,

Xếp búa củi cầm quyền điều nhiếp.

Tám trăm năm mặc sức mở mang(39),

Ngàn muôn dặm ra tài sửa dẹp.

Canh nọ thoắt buông giày cỏ,

Vai a hành(40) một gánh quân dân.

Mục kia chợt vẳng ca sừng(41),

Tay khanh tướng mười phần sự nghiệp.

So xem mọi vẻ mọi mầu,

Gẫm thấy mỗi chiều(42) mỗi đẹp:

Trống điểm tuần ty mấy tiếng,

Loài gian khôn lọt thuở ra vào.

Chuông kêu phật tự ba hồi,

Niềm tục dễ tan khi thức nhấp(43).

Chợ đông người họp,

Mọi vẻ sẵn sàng,

Gió bắc buồm về(44)

Bốn dân sum họp(45)

Thuyền long mã vẩy chèo son bốn giáp(46),

Cướp tiêu xuân(47) dậy tiếng reo hò,

Áng thu thiên bay người ngọc(47) giữa trời,

Hứng cuộc hạ(48) thỏa lòng nô nức.

Cỏ hoa một áng chạm hường(49),

Chăn chiếu mười phần ấm áp !

Nay vừa tiết năm dương tuần trung cán(50) gặp thuở thái bình,

Kính mở ca một tiệc lệ tôn thần vẹn lề hương ấp.

Áo xiêm văn võ rộng chật hai hàng,

Trống phách sênh ca om sòm mấy nhịp.

Đàn phụ tài giải uẩn gẩy năm cung tinh tính tình tinh(51)

Trống gióng phúc trừ tai dạo ba lúc tập tầm vông tập(52)

Khúc thi ca đàn sáo lỏi chen,

Trường lễ nhạc cân đai dìu dập.

Tha thướt gấu quần chân dép,

Mầu nhởn nhơ khách thị khách thành,

Lẳng lơ ngọn quạt đầu vai,

Tiếng bẻ bót(53) cô đào cô kép.

Đã đành một áng tôn nghiêm,

Vậy phải mấy lời giới trấp(54):

Trong, mấy kẻ giáo phường dốc hý, hát hay đàn ngọt, thôi thôi đừng tiếng lỡm lờ.

Ngoài, những người vãng khách bàng quan, đứng lặng ngồi im, chăm chắm gìn lòng khép nép.

Kẻ quen người lạ, ngồi đứng có nơi,

Con gái con trai nói cười phải phép.

Chớ quen xấc lấc xôn xao,

Chẳng được hỗn hào lấp tấp(55).

Lòng thành giầu nhịn(56) có thừa,

Phúc cả âu là chẳng hẹp.

Mừng thấy mắt thánh rạng soi,

Tay thần nhiệm giúp,

Phúc trăm vạn lộc gồm trăm vạn!

Bức hoa(57) bút rộn chép bày,

Xuân tám ngàn(58), thu dậy tám ngàn(59),

Thể hạc tuổi thêm chồng chập(60).

Vẻ vụ tinh(61) gương những làu làu,

Tán thung thụ(62) năm càng rợp rợp.

Chốn chốn gió hòa mưa thụy(63),

Đã phải thời Nghiêu - Thuấn thái bình,

Người người cõi thọ nền xuân,

Lọ mượn phép kiêu, tùng, thổ, nạp(64)

Chữ đa phú đa nam đa thọ!

Câu đắc vị đắc lộc đắc danh!

Kể trong Phủ Diễn huyện Quỳnh Lưu,

Đâu dễ ví Phương Cần(65) - Hữu Lập!

Đức vua muôn muôn năm chi thọ!

Hữu bảng thông tri(66)! (67)

CHÚ THÍCH

(1) Thúc ước quốc ngữ văn: bài văn chúc ngắn gọn, súc tích, nói lên những điều mong ước của nhân dân.

(2) Nhân có lễ cầu phúc, là dịp tuyên đọc bản Thúc ước này.

(3) Thống xa thư: cụm từ nói về đất nước thống nhất.

(4) Nhãn hường (hồng): ý nói vua để mắt, ban ơn đến mọi lớp nhân dân.

(5) Phổ suất tế bàn: ý nói khi đất nước đã được bình yên, mọi người bàn bạc, trù tính công việc làm ăn của mình để được yên vui, giầu có.

(6), (7) Minh Đường và Huyền Vũ: ngôi đền chính của làng Hữu Lập. Trước đền là sông Mai Giang chảy ra cửa lạch Trắp. Từ năm 1312, Trần Anh Tông sắc phong lập đền Cần Hải. Từ đó gọi tên là cửa Cờn (tên Nôm ngày xưa là Càn, đời Lê - Trịnh, vì phạm húy, đổi là Cờn - tên chữ là Cần Hải).

(8), (9) Cánh thanh long và khe Tiền: chỉ khe Dong ở bên phải ngôi đền chính, có nước chảy quanh năm cùng với nước khe Tiền (nay chỉ khi trời mưa to mới có nước chảy) ở bên trái ngôi đền.

(10),(11) Đầu bạch hổ và non chứa phúc: chỉ mõm núi Đồ có hình thù giống đầu hổ (gọi là đầu ông Cộc) chầu vào núi Phốc, tên chữ là núi Phúc và ngôi đến chính lại tựa lưng vào núi Phốc này (ngày nay gọi núi Phốc là núi đền Thánh - thờ Khổng Tử).

(12),(13) Nói về sự tích đền chính của làng thờ bốn vị (Tứ Vị) thần nhà Tống (Trung Quốc), gồm Tống Phi, mẹ vua Đế Bính (1278-1279), Hồng Hạnh (em Đế Bính). Sau khi bị Mông Cổ xâm chiếm (1280-1368), các bề tôi trung thành đã đưa Đế Bính và một số người thuộc hoàng tộc xuống thuyền chạy ra biển, đi xuống phía Nam lánh nạn. Do gặp gió bão thuyền bị đắm. Bốn vị trôi dạt vào cửa lạch Trắp và hóa thành cây gỗ thiêng. Dân làng Cờn sợ đẩy cây gỗ ra biển trôi vào hòn Ói (tên chữ núi Quy Lĩnh - hình giống con rùa đang nằm, nay là xã Quỳnh Bảng, Quỳnh Lưu (Nghệ An).

(14) Vận ba trăm: nhà Tống lấy nền tảng tam cương, ngũ thường cai trị nước, ở ngôi được 320 năm (Bắc Tống 167 năm, Nam Tống 153 năm từ năm 960 - 1279).

(15) Năm đỉnh núi: nhà Tống dời xuống phía nam, vùng Quỳnh Nhai (Quảng Đông). ở đây có ngọn núi cao, có năm đỉnh cùng chỉ lên trời, gọi là Ngũ Chỉ Sơn (Theo tác giả).

(16) Tất Liệt: tức Hốt Tất Liệt, người cầm đầu cuộc xâm lược Trung Quốc và Việt Nam thế kỷ XIII.

(17) Non Quy: tức là hòn Ói, tên chữ là Quy Lĩnh đã nói trên kia.

(18), (19), (20), (21) Vua Trần Anh Tông (1293-1313) tháng 12 năm Tân Hợi (1311) thân chinh đi đánh Chiêm Thành (vì vua nước ấy là Chế Chí phản trắc đem quân đi quấy rối các tỉnh từ Nghệ An trở vào). Khi đoàn thuyền chiến đi đến lạch Trắp, gặp biển động vua phải đóng quân ở đây chờ ngày biển lặng. Tương truyền đêm hôm đó, vua chiêm bao thấy nữ thần đến khóc và nói: "Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng gió bị chết đuối, trôi dạt đến đây, được Thượng đế phong cho làm thần biển ở đây đã lâu. Nay thấy bệ hạ đem quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công". Khi thức dậy, vua cho gọi các bô lão ở đây hỏi sự thực. Vua ban tế lễ rồi thì biển không nổi sóng, đoàn thuyền chiến tiến thẳng tới thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm đem về. Tháng 6 năm Nhâm Tý (1312) vua về đến Kinh đô, vua sai quan Hữu ty lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải (theo Đại Việt sử ký toàn thư).

(22) Sau khi chiếm được đất đai nhà Tống, Mông Cổ bắt nhân dân Trung Quốc phải thay đổi y phục, tập quán... như người Mông.

(23) Mạo: dáng mạo vua. Tuy nhà Tống bị diệt, hình dáng các vua nhà Tống vẫn tồn tại trong ký ức nhân dân Trung Quốc.

(24) Chỉ ngôi đền và sự thờ cúng tôn nghiêm của nhân dân Hữu Lập đối với "Tứ vị thần linh".

(25) Sau khi được vua Trần Anh Tông sắc phong lập đền thờ Tứ vị, nhiều vị vua thuộc các triều đại phong kiến đời sau đã tiếp tục ban sắc phong cho 4 vị thần nói trên. Hiện nay vẫn còn lưu giữ được một số đạo sắc phong thời Lê Cảnh Hưng và thời Nguyễn.

(26) Tung, Nhạc: 2 ngôi núi cao ở Trung Quốc. Cả câu này ý nói nhờ khí thiêng Hun đúc, nhờ thần linh hỗ trợ, dân làng Hữu Lập, với sức lao động cần cù bao đời nay của các lớp người sỹ, nông, công thương... đã tạo lập nên cuộc sống đương thời mà tác giả đã nêu trong bản Thúc ước của làng.

(27), (28) Hai người, một võ, một văn, có chức vụ cao nhất ở làng Hữu Lập trong thời phong kiến mà tác giả biết trong khi sáng tác bản Thúc ước này. Chưa rõ tên cụ thể.

(29) Dân bốn nghiệp: bốn tầng lớp sỹ, nông, công, thương.

(30) Quế cung thiềm: bẻ cành quế ở cung trăng, đây chỉ việc đỗ đạt cao.

(31) Sóng cửa Vũ: tương truyền cá chép muốn trở thành rồng, phải vượt qua cửa Vũ (lý ngư việt Vũ môn). Đây ý nói việc thi cử.

(32) Kỷ: Một giáp, tức là mười năm.

(33) Ở vùng rừng núi hoặc vùng cây cối rậm rạp, người nông dân nuôi trâu bò thường buộc mõ bằng gỗ vào cổ trâu bò. Mỗi khi trâu bò bị lạc vào rừng, nghe tiếng mõ kêu, người nông dân dễ dàng tìm thấy. Do đó, mỗi buổi sáng đi cày ruộng, người nông dân dắt trâu bò đi đến đâu, tiếng mõ kêu lốc cốc đến đó.

(34) Ca xang: còn được gọi là ca xoang, tức là hát những bài dân ca giàu âm điệu theo từng thiên, từng hồi, từng đoạn.

(35) Ông Du: chỉ Ban Công Du, người thợ khéo nổi tiếng Trung Quốc thời cổ.

(36) Chàng Phạm: chỉ Phạm Lãi, một chính khách nước Việt cổ của Trung Quốc, sau trở thành nhà buôn lừng danh.

(37) Hộn: tập hợp lại.

(38) Tứ thú: bốn lớp người lao động: ngư (người đánh cá), tiều (người hái củi), canh (người cày ruộng), mục (người chăn nuôi súc vật).

(39) Hai vị ngư, tiều đã có công giúp nhà Chu ở ngôi hơn 800 năm.

(40) Vai a hành: người có tài đức, có thể tin cậy khi giao trọng trách.

(41) Người chăn dắt trâu, bò, dê dùng sừng trâu làm kèn để thổi.

(42) Mỗi chiều: mỗi bề, mọi phía đều thấy đẹp đẽ.

(43) Thức nhấp: thức giấc.

(44) Các thuyền chạy bằng buồm nhờ sức gió, khi chở nước mắm ra bán ở các tỉnh phía bắc, đợi khi nào trời trở gió bắc mới đưa thuyền về quê (Nghệ An) được.

(45) Về cuối năm thường có gió mùa đông bắc, cũng là dịp những người đi làm ăn xa trở về thăm quê hương và dự lễ hội làng vào dịp đầu năm mới.

(46) Thuyền bơi trãi của bốn giáp Nhất, Nhị, Tam, Tứ; tương ứng với bốn vị thần linh thờ ở đình làng.

(47) Cọc tiêu cắm dưới sông giới hạn chiều dài cuộc bơi.

(48) Cảnh chơi đánh đu.

(49) Cuộc vui xem đánh đu.

(50) Từ địa phương, nói về mầu hồng.

(51) Thời tiết vào giữa xuân, đã ấm áp.

(52) Đàn phụ tài, một loại đàn cổ, khi gẩy gây hưng phấn cho người nghe...

(53) Mô phỏng các âm thanh khi đánh trống: tùng, tùng, tùng, cắc.

(54) Tiếng hát lảnh lót hoặc lánh lót.

(55) Lời khuyên răn dân làng tới dự lễ hội.

(56) Tiếng địa phương, có nghĩa là "hấp tấp".

(57) Giầu lòng nhẫn nhịn.

(58) Nói về khuôn viên tờ giấy, sau thành bức thêu bản Thúc ước.

(59), (60) Theo sách Trang Tử, có cây xuân lớn, người đương thời lấy tám ngàn năm làm một mùa xuân và tám ngàn năm làm một mùa thu. Vì thế sau này, người ta dùng chữ xuân để chúc thọ.

(61) Hạc (và rùa) là loài vật được người xưa dùng làm biểu tượng cho người cao tuổi.

(62) Vụ tinh: chòm sao có hình dáng giống ngời vũ nữ, thường mọc ở phía đông vào các buổi sáng mùa thu. Theo truyền thuyết Trung Hoa cổ, có cụ Lai Tử rất hiếu thảo với cha mẹ. Ngoài việc chăm lo đời sống vật chất, tuy mình đã có tuổi, cụ thường làm các trò vui múa hát để cha mẹ được vui vẻ tuổi già.

(63) Thung thụ: Cây thung, được người xưa dùng làm biểu tượng cho người cha (cũng như chữ huyên, một loài rau được người Trung Hoa xưa trồng quanh nhà để tiện cho khi cần sử dụng - được biểu tượng người mẹ).

(64) Có nghĩa như "mưa thuận".

(65) Bốn loại hình phạt thời phong kiến xưa: kiêu, tội nhân bị chém rồi bêu đầu lên cọc cây; tùng, tức là tội nhân bị tùng xẻo, cứ đánh một tiếng trống lại bị xẻo một miếng thịt cho đến chết; thổ, là bị chôn sống; nạp, là bị bắt giam trong trại tù.

(66) Xã Phương Cần, nay là Quỳnh Phương, bên hữu ngạn sông Mai Giang, đối diện với xã Quỳnh Lập, cùng có nghề nghiệp sinh hoạt giống như nhau và thời xa xưa cùng thờ thần Tứ Vị.

(67) Hữu bảng: Là những điều ghi bên phải bảng.

(68) Tương truyền người soạn bài Thúc ước này là Nguyên Tiến Triều, tên húy là Nguyễn Giai, sống vào thời Lê Cảnh Hưng./.

TB

NHÂN ĐỌC "GIAI THOẠI HÁN NÔM"(1)

ĐỒ VƯỜN

Một anh bạn biết Đồ Vườn tôi cũng "nho nhoe" chút ít Hán tự tới khoe mới mua được cuốn Giai thoại Hán Nôm, đọc thấy thú vị, nên đem đến cho tôi xem, đồng thời muốn được giải đáp một số điều thắc mắc. Mới nhìn thấy sách khá hấp dẫn. Bìa hơi tối, nhưng có hình "song phượng trình thư", giữa những làn mây lượn mềm mại. Vẻ trang nghiêm của bìa kết hợp hài hòa với vẻ bay bướm của bốn chữ đầu đề sách, và những bức viết chữ Hán Nôm được cách điệu hóa đầy sáng tạo ở mặt ngoài bìa sau và rải rác trên nhiều trang trong sách.

Sách chia làm 3 phần: Đặc điểm tượng hình của chữ Hán Nôm; Giai thoại Hán Nôm; Thành ngữ Việt Hán thông dụng. Như vậy, có thể nói chỉ có phần 2 là sát với tên sách. Phần 1 có thể coi là một thứ dẫn luận (introduction) cho phép hiểu kỹ phần 2. Còn phần 3 chỉ là một "phụ lục". Để đáp ứng điều yêu cầu của anh bạn đầy nhiệt tình, và cũng hưởng ứng lời đầu sách của Nhà xuất bản, mong nhận được sự góp ý của độc giả, xin có một số nhận xét như sau về từng phần cuốn sách. Mong đây cũng là một đóng góp nhỏ vào việc giới thiệu một số nét về ngành Hán Nôm.

Phần 1: "Đặc điểm tượng hình của chữ Hán Nôm". Đúng ra, đặc điểm này chỉ thuộc về chữ Hán. Về mặt cấu tạo, chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, bản thân nó không có "đặc điểm tượng hình".

Phần 2: "...Chữ Hán là loại chữ tượng hình". Thiết tưởng nên nói chính xác hơn: "Chữ Hán chủ yếu (hay khởi đầu) là loại chữ tượng hình". Vì tượng hình chỉ là một trong 6 cách cấu tạo chữ Hán (lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hài thanh, chuyển chú và giả tá).

Cũng trang trên, sách cho thí dụ: "Chữ Mộc 木 nghĩa là 'cây gỗ" một kiểu chữ tượng hình có dạng ngọn cây, cành lá và thân cây" và cho biết chữ Lâm 林 là 'rừng' gồm hai chữ Mộc ghép với nhau, "Khi ghép 3 chữ Mộc cạnh nhau, lại là chữ Sâm 森 tức là 'bụi cây' (gồm nhiều cây)". Định nghĩa chữ Sâm như vậy khiến người đọc ngỡ ngàng: 2 cây thành rừng, 3 cây có lẽ lại phải hơn rừng. sao chỉ là 'bụi cây'? Thực ra "Sâm" (do 3 chữ Mộc ghép lại) chủ yếu là tính từ, có nghĩa "rậm rạp nhiều cây". Từ điển Khang Hi giảng "mộc đa dạng" (có vẻ nhiều cây).

Tr.12: "Bản mạt... có nghĩa là điều quan trọng, điều cơ bản với điều không quan trọng hoặc điều thứ yếu". Nhưng khi trên đã giảng "bản là gốc, mạt là ngọn cây", thì nghĩa chính của "bản mạt" là "từ gốc đến ngọn, từ lúc khởi đầu đến lúc kết thúc". Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng: như chữ “thủy mạt” tức "từ đầu đến cuối".

Tr.12-13 "khi chữ Nhật nằm ở ngay đầu chữ Mộc, ta có chữ Quả, nghĩa là "quả cây, trái cây" "果". Nhưng đúng ra, nếu chữ Nhật nằm trên chữ Mộc, sẽ hình thành chữ 杲 âm đọc là Cảo, có nghĩa là "sáng" (mặt trời trên ngọn cây). Còn chữ Quả 果 được kết cấu với chữ Mộc ở dưới, bên trên không phải chữ Nhật 日 mà là chữ Điền 田 (ruộng), đúng hơn, đó là hình quả cây (xem L. Wieger Caractères chinois Hien Hien 1932. Phần Lecons étymologiques. (dẫn giải về tự nguyên) mục 120F.

Cũng tr.13 có nói tới việc "xếp chữ Mộc 木 bên trên chữ Khẩu 口 ta có chữ 杏 Hạnh là cây hạnh.., xếp chữ Mộc ở dưới chữ Khẩu thì lại là chữ Ngốc 呆 có nghĩa là "ngu ngốc, ngu si". Thiết tưởng ở đây cũng nên nói thêm về lý do thành nghĩa của chữ mới, được hình thành sau khi ghép hai chữ đơn, như đã được làm ở tr.12 đối với các chữ Cảo và Diểu. Theo Wieger, chữ Hạnh chỉ Cây (mộc) mang Quả (được thể hiện bằng chữ Khẩu 口 hình quả). Còn chữ Ngốc, vì là một chữ mới không được thích nghĩa trong sách Thuyết văn (cuốn sách cơ bản về tự nguyên). Wieger đoán "có lẽ chỉ đầu (hình chữ khẩu) bằng gỗ (Mộc) (Sách và Phần sách đã dẫn, mục 119, 1 và J).

Trang này còn ghi "khi chữ Khẩu nằm bên trái chữ Mộc: nghĩa là "Cái nắp, cái nút đẩy". Không thấy ghi âm đọc. Đây là một chữ rất ít dùng, không thấy trong các từ điển thông dụng, như Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Từ điển Trung Việt của Văn Tân (1956), và của Nxb. KHXH (1993). Riêng Khang Hi tự điển ghi âm đọc: Hoát hay Dinh. Sách viết tiếp: "Còn nếu chữ Khẩu nằm ở chính giữa chữ Mộc, thì lại là chữ Thúc 束 nghĩa là "một bó, sự trói buộc". Lý do sự hình thành nghĩa của chữ Thúc, được đặt ở giữa chữ Mộc, không phải là chữ Khẩu, mà là chữ Vi (囗) cũng viết với 3 nét thành hình vuông, nhưng to hơn, và chiều cao nhỉnh hơn. Wieger ở sách dẫn trên giảng: "Vi (囗) mới đầu là một vòng tròn thể hiện ý "bao quanh". Thúc là bao quanh, bó lại (Vi 囗) một cây (Mộc 木 ), nghĩa mở rộng: bó một vật nào đó nói chung (Sđd, mục 74A và 75A).

Tr.13-14: "...khi chữ Nhân có thêm một nét ngang ở giữa trở thành chữ Đại 大 nghĩa là "to lớn, lớn lao" để khẳng định vị trí lớn của con người". Có lẽ cần nói rõ: Chữ Đại 大 nghĩa đầu tiên của nó là con người. Đây là chữ tượng hình, với dáng một người với 2 tay 2 chân, thân ở giữa, hình đầy đủ hơn chữ Nhân 人 với hình người chỉ có hai chân.

Chính chữ Đại với nghĩa đầu tiên của nó (con người) đã tạo nên chữ Thiên (trời) với một nét ngang (chỉ trời) trên chữ Đại (người). Cũng như chữ Di 夷 với nghĩa đầu tiên là người (chữ Đại 大) mang cung 弓, sau dùng để chỉ người thiểu số ở phía đông nước Trung Hoa xưa, sau lại thêm nghĩa là mọi rợ (man di), chỉ biết dùng cung tên, thiếu văn hóa.

Tr.14: "Chỉ cần thêm dấu chấm ở trên chữ Thiên, sẽ trở thành chữ Phu 夫 là "chồng, người chồng". Nhưng nói như thế, thì chữ Phu có 5 nét: một nét chấm thêm 4 nét của chữ Thiên. Thực ra chữ Phu chỉ có 4 nét: một nét ngang đặt trên chữ Đại, nhưng khác với chữ Thiên ở chỗ nét phẩy bên trái nhô đầu lên trên. Trên chữ Đại (người) là nét ngang với nét nhỏ nhô lên ở giữa, tượng hình cái trâm cài trên đầu người lớn tuổi (lệ cũ: Con trai 20 tuổi mới được cài trâm đội mũ, gọi là tuổi nhược quan). (X.Wieger Sđd, mục 60A và 60J). Từ nghĩa chính là người lớn tuổi, chữ này sau mới có nghĩa là người chồng.

Tr.15-16: "ghép chữ Nữ bên cạnh chữ Tử là con trai, để tạo ra chữ Hảo 好. Hảo nghĩa là tốt, hay, sung sướng, bằng lòng. Chữ Hảo được cấu tạo bởi hai chữ Nữ và Tử, phải chăng người xưa muốn nói đến sự cân bằng nam-nữ, cân bằng âm dương của đạo Trời-Đất". Thực ra, Tử 子 nghĩa đầu tiên không phải là con trai, mà là con nít, con trẻ. Chữ tượng hình, dáng đứa trẻ mới đẻ: đầu, hai tay giơ, mình quấn tã nên không thấy đủ hai chân. Chữ 好 (âm Hảo; tốt lành: cũng đọc là Hiếu: ưa thích) là chữ "hội ý": đàn bà và con trẻ được coi như biểu tượng của vẻ đẹp và sự tốt lành (hảo) và được người ta yêu thích (hiếu) (X. Wieger Sđd mục 94a và 67b).

Tr.17-18: "Có người cho rằng chữ Ngôn với (sic) ý nghĩa tượng hình: Hai cái miệng nói với nhau những điều tâm đắc, ý nghĩa sâu xa". Đó chỉ là lời đoán dựa trên lối viết hiện đại, vốn xuất phát từ cách viết cổ, tuy đã biến thiên nhiều qua các triều đại. Chữ Ngộn cổ được viết với chữ Khiên trên chữ Khẩu. Sách Thuyết văn giải thích "Ngôn là nói thẳng, với chữ khẩu 口, chữ Khiên, chỉ âm thanh" (Ngôn, trực ngôn viết ngôn... lòng Khẩu, Khiên thanh) (X. Trung văn đại từ điển. Đài Bắc 1968 Q.30 tr.426). Wieger có lẽ dựa vào định nghĩa của Thuyết văn (ngôn: lời nói thẳng), cho chữ khiên có ý nghĩa: Sự bật phát (khiên) từ miệng (khẩu). Tiếng của con tim (tâm thanh), như lời sách cổ giải thích (Wieger Sđd mục 73C).

Tr.18: "Chữ Tự 寺 nghĩa là sự nối tiếp, kế thừa. Chữ Tự, bên trên là chữ Sĩ 士 nghĩa là người có tài nghệ, người có học" nói về những điều nghiêm túc, mực thước, vì bên dưới chữ Sĩ là chữ Thốn nghĩa là cái thước để đo". "Nhưng ở chữ Tự, bên trên chữ Thốn không phải là chữ Sĩ 士 mà là chữ Chi 之 viết theo lối cổ, một vẻ một cây con bắt đầu mọc trên mặt đất, chỉ việc phát triển.

Tự: chỉ một nơi mà những qui tắc, mực thước (thốn) được liên tục (chi) thực hiện: Chỉ nơi chùa chiền, nghĩa mở rộng chỉ cơ quan (như Đại Lý tự, trông nom về hình pháp dưới thời phong kiến X. Wieger Sđd mục 79b).

Thực ra việc tìm hiểu nguồn gốc chữ Hán có nhiều điều thú vị và một phần nào giúp cho việc ghi nhớ cách viết và ý nghĩa của chữ. Có thể bắt đầu từ những chữ đơn giản nhất, như chữ số từ Nhất đến Cửu, những chữ chỉ bộ phận cơ thể như Khẩu (miệng), Nhĩ (tai) Thủ (tay) Túc (chân) v.v.. Nhưng cách giải thích, muốn bảo đảm tính khoa học, phải dựa vào lối viết nguyên thủy của chữ, không thể chỉ theo cách viết hiện đại.

Phần 2 cuốn sách gồm 22 "Giai thoại Hán Nôm", những "câu chuyện hay" liên quan đến hai loại từ này, chủ yếu là loại chữ Hán. Nhiều câu chuyện lý thú, cho thấy trí thông minh và tài ứng đối của các nho sĩ. Tuy nhiên, giá xác định hướng chính trong thứ tự trình bày (Nên chăng theo trình tự thời gian?) và nhất là trong phạm vi tuyển chọn thì vẫn hơn. Có lẽ chỉ nên ghi những giai thoại có liên can trực tiếp đến cách viết, âm và nghĩa chữ Hán (như vậy phù hợp với phần đầu sách). Nếu đưa vào sách những chuyện về những bài thơ như "Răng cắn lưỡi" (tr.31) "Tặng Võ Công" (tr.38), "Nam quốc sơn hà" thì, phạm vi quá rộng. Có thể nói tuyệt đại đa số các giai thoại văn học đều liên can đến chữ Hán chữ Nôm. Như thế, những câu đối như "Li mị võng lượng, tứ tiểu quỉ - Cầm sắt tì bà bát Đại Vương" (của Mạc Đĩnh Chi đối lại người Tàu, khi đi sứ), hay "Đứng giữa làng Trung lập - Dấy trước phủ Tiên Hưng" (vế đối của Kỳ đồng) nếu có mặt trong sách sẽ hợp hơn những bài thơ nói trên.

Xin có đôi ý kiến về hai giai thoại.

- Chuyện "Tài quan và quan tài" (tr.28-29). Sách ghi câu văn tế: "Sinh vi Tài quan - tử nhập quan tài". Theo sách, "Tài quan là một chức quan võ thời phong kiến). Tra các từ điển, không thấy ghi chức vụ này. (Chữ "Tài" 裁 được viết trên sách có nghĩa cắt may quần áo). Chuyện kể có người đến xin Tiến sĩ Vũ Thọ Dĩnh bài văn khắc vào bia mộ cho bố có chức "Tài quan", không ghi chi tiết gì thêm về lý lịch người đã khuất. Thế mà hai câu trên, nhất là câu "tử nhập quan tài" có giọng trào lộng không hợp với tính cách trang trọng của lời văn nói tới người đã mất. Và chữ Tài trong "tài quan", Khang Hi tự điển cho biết có thể dùng thay thế với chữ Tài 財 là tiền bạc. Chúng tôi cho rằng "tài quan" có nghĩa "quan tiền tài, quan thích tiền tài". Do đó, mới có lối chơi chữ đầy tính cách châm biếm lên án như trên. Vả cả 2 câu sau "Kỳ sinh dã vinh - Kỳ tử dã ai"(1) là câu thường được dùng để ca ngợi người chết, với ý nghĩa: "Sống được tôn vinh - Chết được thương tiếc, thì ở trường hợp hiện tại, đặt sau 2 câu nói ở trên, phải hiểu theo nghĩa hơi khác. Cả 4 câu có thể dịch như sau:

"Sống làm quan tiền tài

Chết bỏ vào quan tài

Sống được vẻ vang

Chết đáng thương hại".

- Chuyện "Một vạch ngang lưng" (tr.24-25): chuyện kể có chỗ thầy đồ bắt học trò (tức Trần Tế Xương) "nằm xuống và rút roi ra (...) vừa hỏi; "Con đang nằm giống hình chữ gì?" (Trò đáp) "Con đang nằm giống chữ Nhân. Điều này không hợp lý. Học trò nằm để chờ bị đánh đòn, không bao giờ dạng chân để thành hình chữ Nhân. Câu chuyện tôi được nghe kể lại hơi khác, có mấy chỗ không phù hợp với sách GTHN. Xin kể lại vắn tắt, để thêm một dị bản cho giai thoại khá lý thú này. Một toán học trò chữ Hán còn nhỏ tuổi, sau buổi học ra tắm ở ao làng. Bơi đùa xong, họ lên bờ, chưa kịp mặc quần áo. Một cậu tinh nghịch (chuyện không nói là Trần Tế Xương), đứng giang chân để các bạn đoán là chữ gì. Các bạn đồng thanh: "Chữ Nhân !". Cậu bé vẫn giang chân, dang thêm hai cánh tay, đố tiếp. Các bạn cùng kêu: "Chữ Đại, ai mà không biết!". Cậu bé lắc đầu: "Không phải!". Rồi lấy tay chỉ xuống hạ bộ, kêu ầm lên, đắc thắng: "Chữ Thái ! Không phải Đại ! Đây là Thái!" không ngờ vừa lúc ấy có cụ Lý cựu trong làng tên là Thái đi ngang qua tưởng bọn trẻ trêu chọc hỗn xược với mình, túm lấy cậu bé đưa vào mách thầy dạy. Thầy biết bọn trẻ vô tình phạm lỗi, nhưng nể vị hào mục tuổi tác đang bực tức, thầy bắt cậu bé thủ phạm nằm xuống, cầm roi hỏi:

- "Trò có phải là người không?".

- "Thưa, phải".

- "Trò có biết: Người, chữ Hán là gì không?".

- "Thưa Thầy, là chữ Nhân".

- "Vạch một nét ngang trên chữ Nhân là chữ gì?".

- "Thưa, là chữ Đại".

- "Đúng, Đại là lớn. Để ta đánh một roi ngang mé trên lưng con, để thành chữ Đại, cho con nhớ cố thành người lớn, chừa những trò con trẻ như vừa rồi".

Và sau roi đòn, thầy bắt cậu bé tới tạ tội đối với cụ Lý Thái.

Một ưu điểm của sách GTHN là ở phần 1 cũng như phần này, đều ghi thêm chữ Hán khi cần thiết. Chữ kiểu viết tay, có mấy chỗ sai cần sửa: tr.54 "hầu" trong ai công hầu, sửa 侯 (không có nét sổ ngắn bên phải bộ Nhân đứng); tr.60: "biên" trong vô biên sửa 边 (chữ Lực thay chữ Đao trong quai xước): tr.61 "tiền" trong "đình tiền" sửa 前 (viết cả chữ thay cho chữ chỉ có 3 nét đầu của chữ này - Lỗi này cũng thấy ở tr.63). Tr.61: "cảnh" trong "đoản cảnh" sửa 頸 hay 颈 tr.70; "Dịch" trong "mâu nhi vô dịch", sửa 腋 ? (dịch là nách, không phải dịch là việc).

Phần 3 gồm 19 trang cuối sách, có mào đề "Thành ngữ Việt Hán thông dụng", có lẽ nên đổi là "thành ngữ Hán Việt", vì đều gốc chữ Hán đọc theo âm Việt. Trừ một số trường hợp cá biệt, còn hầu như toàn bộ là những thành ngữ 4 tiếng, có kèm theo chữ Hán kiểu chữ in, khác với chữ Hán kiểu viết tay ở 2 phần trên. Các thành ngữ được xếp theo mẫu tự ABC, rất tiếc là không thích nghĩa. Có lẽ các soạn giả cho rằng các thành ngữ như "Bạo hổ bằng hà", "Bát li tri thù", "Cao đàm khoát luận", "Cúc cung tận tụy"... Không phải ai cũng hiểu được rõ ràng. Dù sao, chỉ liệt kê mà không giải thích, thì tác dụng rất hạn chế: người biết thì không cần đến, người không biết thì dễ ngỡ ngàng khi gặp phải chỗ mình chưa thật hiểu nghĩa.

Một số chữ Hán in sai cần sửa; Dương trong "Bán âm bán dương"; trong "Bỉ sắc tư phong" (tư viết dưới "thảo đầu" là sai) Ca trong "Ca công tụng đức"; Tướng trong "Công hầu khanh tướng" (chữ Tướng là Tể tướng - quan văn, không phải là Tướng soái - quan võ); Tụy trong "Cúc cung tận tụy"; Cứu trong "Cứu vãn tình thế"; Đắc trong "Dương dương tự đắc" (in sai là Đức); Kích trong "Dương đông kích tây" (in sai là Hệ); ứng trong "Đồng thanh tương ứng" (in sai là Âm) sinh trong “Hữu sinh vô dương” (in sai là Sản). Khoáng trong "Không tiền khoáng hậu" (in sai là Khuếch); Cứ trong "Long bàn hổ cứ" (in sai là Cự); Thiên trong "Lưu danh thiên cổ" (Thiên là nghìn, không phải Thiên là trời).

Những sai lầm trên, chắc một phần do nhà in, dù sao cũng đáng tiếc. Càng đáng tiếc không hiểu sao bảng "Thành ngữ" lại chấm dứt nửa chừng ở vần L, mà không có một lời giải thích ?

Cuối cùng, xin nói tới những bức viết chữ Hán có thể coi như "minh họa" cuốn sách. Những bức viết này không thấy ký tên, nhưng giới hiểu biết đều nhận ra ngay là của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, chủ biên cuốn sách, đã được nhiều người biết tới và mến mộ tài nghệ về mặt này. Chữ viết không có những nét thường thấy của bút lông, nhưng bay bướm và nhiều sáng tạo, như 2 chữ Nôm "Chuông Chùa" viết thành hình cái chuông, 4 chữ Nôm - Hán "Bên Cầu Tơ Liễu" thành hình chiếc cầu bên cây liễu rủ (tr.30 và 62). Bên cạnh chữ Hán Nôm có ghi tiếng Việt, nhiều khi thêm cả tiếng Nhật (La tinh hóa) hay Quốc tế ngữ. Nhưng cũng có chỗ không thấy ghi, như hai câu thơ 5 chữ ở trang 7. Phải chăng là "Thư trung tự hữu họa - Họa lí tổng nghi thi"? (Còn chữ ở trong hình góc trang bên phải không đọc được). Dù sao nghĩ cũng nên chua tiếng Việt. Và nên chăng đổi chữ "Thư" thành "Thi" trong "Thi trung hữu họa", "họa trung hữu thi" lời khen tài thơ và tài vẽ của Vương Ma Cật (tức Vương Duy) đời Đường, có thể coi như những thành ngữ, và có thể, hai câu viết trong GTHN mới thật đối. Dù sao, những bức viết Hán Nôm "minh họa" cũng tăng thêm sức hấp dẫn của sách, rất đáng hoan nghênh.

Trên đây chỉ là một số ý kiến nhỏ mọn, mong đóng góp việc tìm hiểu và thưởng thức chữ Hán (và chữ Nôm), thứ văn tự của kho tàng văn hóa cổ truyền của dân tộc. Chắc chắn bài viết không tránh được nhiều chỗ thiển hậu, của một anh "đồ vườn". Rất mong được sự trao đổi ý kiến sâu rộng hơn.

CHÚ THÍCH

(1) Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Bích Hằng, Nguyễn Văn: Giai thoại Hán Nôm. Nxb Văn hóa - Thông tin 1993. Trong bài này viết tắt thành GTHN.

(2) Sách GTHN ghi: "giã vinh... giã ai 2 (theo cách viết trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh). Xin được sửa: "dã vinh... dã ai" cho đúng chính tả theo cách phiên thiết trong Khang Hi tự điển và theo cách viết của Hán Việt từ điển Thiều Chửu./.

TB

HỘI THẢO KHOA HỌC "BẢO TỒN, TÔN TẠO VÀ PHÁT HUY TÁC DỤNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI"

CỔ MINH TÂM

Thủ đô Hà Nội đang tiến vào thế kỷ XXI với kỷ niệm trọng đại: 1000 năm ra đời của mình. Trong khoảng thời gian dài đó, Hà Nội đã mang trong mình rất nhiều dấu tích lịch sử mà cụ thể là các di tích vật chất của nhiều thời đại: đó là những ngôi đình, chùa, miếu, văn chỉ, lăng tẩm..., và cả một khu phố cổ sầm uất. Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng những di tích này ở Thủ đô đang có một vị trí quan trọng và được sự quan tâm của mọi người.

Được sự đồng ý của UBND thành phố, Sở VHTT Hà Nội và sự tài trợ kinh phí của tổ chức ACCT (tổ chức hợp tác - văn hóa và kỹ thuật của cộng đồng các nước nói tiếng Pháp), Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội đã tổ chức một cuộc Hội thảo khoa học "Bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng các di tích lịch sử - văn hóa của Thủ đô Hà Nội". Cuộc Hội thảo đã diễn ra trong hai ngày 26-27/6/1995 tại hội trường viện Bảo tàng Cách mạng và khu di tích Cổ Loa và đã thu được kết quả hết sức tốt đẹp.

Với 39 tham luận của nhiều nhà nghiên cứu và quản lý di tích ở Trung ương và Hà Nội, của một số nhà khoa học Pháp, Canađa, Bỉ tập trung vào ba chủ đề chính: Thứ nhất là vấn đề lý thuyết chung, trong đó các học giả nước ngoài đã nêu các kinh nghiệm về nghiên cứu và bảo tồn di tích trong quá trình phát triển đô thị hiện đại của một số nước trên thế giới. Thứ hai là giới thiệu cụ thể về một số di tích tiêu biểu của Thủ đô, trong đó có những bài tham luận chuyên khảo về mang tư liệu hiện vật cổ; mảng hiện vật có khắc chữ để trên cơ sở đó suy nghĩ về những biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích đó. Thứ ba là các tham luận trình bày kinh nghiệm quản lý, nghiên cứu trong nhiều năm của mình, từ đó đề xuất các giải pháp về bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa Thủ đô.

Trong cuộc Hội thảo này, một lĩnh vực được đề cập đến nhiều là việc tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản Hán Nôm có trong di tích. Qua các tham luận của những nhà nghiên cứu Hán Nôm, có thể thấy rằng: tư liệu Hán Nôm của Hà Nội còn lại khá nhiều, cần được sưu tập, giữ gìn và khai thác Tư liệu Hán Nôm trên giấy, gỗ, đá, đồng là những bản thông điệp về quá khứ. Muốn bảo tồn di tích thì trước hết phải hiểu về di tích và muốn hiểu biết di tích thì trước hết cần phải hiểu được những thông tin từ các bản thông điệp này.

Hội nghị đã có nhiều ý kiến trao đổi sôi nổi và đã đi đến thống nhất thông qua bảo kêu gọi với tiêu đề: "Lời kêu gọi từ Cổ Loa" hãy bằng mọi giá giữ lấy khu di tích Cổ Loa và các di tích của Hà Nội trong quá trình xây dựng Thủ đô và đất nước hiện đại vì đó là bằng chứng và phách hồn của một Thủ đô "ngàn năm văn hiến".

TB

16 CỬ NHÂN CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM RA TRƯỜNG

Ngày 19-6-1995 tại giảng đường Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hội đồng chấm luận văn Cử nhân chuyên ngành Hán Nôm đã tổ chức cho sinh viên K35 (1991-1995) bảo vệ luận văn tốt nghiệp. 16 luận văn đã lần lượt được báo cáo trước Hội đồng cùng các vị đại biểu của các ngành bạn có liên quan (Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm, Trường Đại học Văn hóa...) và đông đảo sinh viên của ngành Hán Nôm và các ngành khác của khoa Ngữ Văn.

Đây là khóa học thứ 3 được đào tạo theo chương trình cải cách 2 giai đoạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sinh viên trong khóa học này được đào tạo theo một chương trình đồng bộ và ổn định hơn so với những khóa trước. Với 16 đề tài luận văn đa dạng, phong phú, đã được các thầy hướng dẫn sát đúng với yêu cầu và mục đích đào tạo của chuyên ngành, lấy văn bản làm trung tâm đi sâu giải mã, khảo sát và xử lý những di văn cổ viết bằng chữ Hán chữ Nôm như: Khảo sát văn bản Hán Nôm khắc gỗ ở những chùa, đình tiêu biểu thuộc khu vực Đống Đa Hà Nội, Tìm hiểu về thể tài gia phả; Khảo sát hư từ dùng trong ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi; Giá trị của lệ làng qua khảo sát Cổ Ninh hương khoán; Tìm hiểu tư liệu Hán Nôm ở khu di tích đình Loa thành v.v..

Cả 16 đề tài đã được Hội đồng Giám khảo đánh giá tốt. Đặc biệt luận văn của sinh viên Đinh Thanh Hiếu được Hội đồng nhất trí đánh giá xuất sắc.

Đề tài luận văn của Đinh Thanh Hiếu là: "Giới thiệu tác phẩm Thăng Long cổ tích khảo tính hội đồ" (văn bản này hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu VHv.2471, của tác giả Đặng Xuân Khanh, hiệu Mai Phong). Luận văn nay do Giáo sư Tổng biên tập Tạp chí Hán Nôm hướng dẫn. Với độ dày hơn 400 trang đánh máy (kể cả phần phụ lục) luận văn gồm 3 phần chính:

Phần 1: Giới thiệu chung về đất Thăng Long ngàn năm văn vật, nơi đã từng là chứng nhân lịch sử của bao thế hệ chói ngời vinh quang... Tác phẩm Thăng Long cổ tích khảo tính hội đồ đã trung thực ghi lại diện mạo của thành Thăng Long xưa trên nhiều lĩnh vực; lịch sử hình thành, thành hào, đền chùa, cửa ô, quán chợ, núi sông, cổ tích, nhân vật v.v.. Trong phần 1 người viết luận văn còn nói về tác giả Mai Xuân Khanh, tình trạng văn bản tác phẩm, niên đại và nội dung chủ yếu của tác phẩm... Trên mỗi vấn đề như vậy người viết luận văn cũng sơ bộ trình bày cách lý giải của mình.

Phần 2: Phiên âm, dịch nghĩa và chú giải tác phẩm, (phần chính của luận văn). Với 237 trang đánh máy, tác giả luận văn đã chuyển mã toàn bộ phần địa danh, cổ tích, sông núi, miếu quán, nhân vật v.v.. của kinh thành Thăng Long từ nguyên văn tiếng Hán sang tiếng Việt. Có 30 bài thơ vịnh cảnh đẹp của Thăng Long (Thăng Long tam thập vịnh) và đặc biệt có 528 điều mục chú thích về từ ngữ, điển cố, địa danh, nhân danh... liên quan đến tác phẩm. Đây là một cố gắng vượt bực của người làm luận văn, thể hiện trình độ Hán Nôm khá tốt của một sinh viên Hán Nôm so với quỹ thời gian đào tạo rất hạn hẹp hiện thời (4 năm: 2 năm Đại cương và 2 năm Chuyên ngành).

Phần 3: Kết luận. Trải qua biến động của lịch sử, Hà Nội ngày nay đã có một diện mạo khác xưa rất nhiều. Không ít di tích lịch sử quan trọng đã bị tàn phá qua chiến tranh, hoặc đổ nát vì khí hậu khắc nghiệt, hoặc do sự hủy hoại vô ý thức của con người. Thăng Long cổ tích khảo tính hội đồ (khảo cứu về Thăng Long có kèm theo bản đồ) có giá trị như một bằng chứng lịch sử khả khảo, giúp chúng ta muốn tìm lại quá khứ của Thăng Long ngàn năm văn vật. Luận văn đã góp một dấu nối giữa thế hệ ngày nay mà phần đông không đọc được chữ Hán với Thăng Long cổ xưa. Đây chính là một đóng góp nhỏ bé của tác giả luận văn đối với nhu cầu của xã hội hiện nay./.

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH CỦA PIGNEAUX DE BE'HAINE