TB

BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT MÔN LOẠI "ÂM TỰ" TRONG "VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ" CỦA
LÊ QUÝ ĐÔN

PHẠM VĂN KHOÁI

I

1. Âm tự là môn loại thứ sáu trong bộ bách khoa toàn thư Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn. Mục đích, tôn chỉ cho Âm tự được Lê Quý Đôn trình bày trong Lời dẫn: “Âm thanh mô tả hết tính tình của thiên hạ, văn tự mô tả hết hình tượng của thiên hạ, tên các sự vật, việc mô tả và đọc chúng ở vạn quốc hải ngoại khác nhau, nhưng ý nghĩa của chúng giống nhau. Âm nhạc không cần cứ phải bắt chước luật lã, văn tự không bắt buộc quay lại triện lệ, cứ cái gì giản tiện, họa bình sẽ được người sử dụng. Vì thế cho nên làm ra Âm tự thiên thứ sáu”(1)

Bằng một lời dẫn như vậy, Lê Quý Đôn cho ta thấy vai trò của môn loại Âm tự trong mối quan hệ với các môn loại khác. Âm tự trên thực tế đã đề cập đến tất cả những vấn đề cơ bản của ngữ văn học Việt Nam và ngữ văn học Trung Hoa truyền thống. Trong bài viết này, chúng tôi bước đầu tiến hành tìm hiểu Âm tự từ các nguyên tắc viết, nguồn tư liệu được sử dụng, cho đến hệ vấn đề nội dung.

Âm tự không phải là môn loại lớn nhất trong Vân đài loại ngữ. Tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1962 do một nhóm các nhà dịch thuật tài năng, đứng đầu là Trần Văn Giáp. Theo bản dịch này, Âm tự gồm 111 điều. Chúng tôi đã đối chiếu bản dịch này với nguyên bản văn ngôn mang kí hiệu A.141 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nhìn chung, nội dung hai bản không có gì khác biệt quá lớn, song chúng tôi cũng phải nói một số điểm đáng lưu ý.

2. Âm tự có 8.312 chữ Hán. Sự khác biệt giữa bản dịch và bản văn ngôn trước hết thể hiện ở cách phân chia độ dài các điều (thực ra trong bản văn ngôn các điều các mục không được đánh số, ranh giới giữa chúng chỉ là các khuyên tròn). Có khi trong bản văn ngôn là 1 điều thì ở bản dịch lại chia làm 2 điều hoặc 3 điều, chẳng hạn các điều 2, 4, 28, 32... (bản văn ngôn) tương ứng với các điều 2, 3, 5, 6, 32, 37, 38... (bản dịch); các điều 13, 47... (bản văn ngôn) tương ứng với các điều 14, 15, 16, 53, 54, 55 (bản dịch). Có khi 2 điều ở bản văn ngôn lại được quy thành 1 điều ở bản dịch (các điều 8, 9 và 36, 37... của bản văn ngôn tương ứng với các điều 10, 42 của bản dịch...).

Cũng cần lưu ý là ở các điều 30, 58, 74, 93 những ghi chép ngắn gọn về từ nguyên học và thán từ có trong bản dịch nhưng lại không có trong bản văn ngôn. Song nhìn chung, cho dù có những khác biệt nhất định, có những chỗ hoặc do in ấn, hoặc dịch sai đáng tiếc(2), nhưng theo chúng tôi, bản dịch của nhóm Trần Văn Giáp vẫn là bản dịch có giá trị, mọi trích dẫn trong bài viết này đều được sử dụng theo bản dịch đó.

3. Vân đài loại ngữ nói chung, Âm tự nói riêng được Lê Quý Đôn viết trong nhiều năm. Bài tựa do tác giả viết vào năm 1773, đã chứa đựng những nguyên tắc soạn bộ loại thư này: “Tôi thường xuyên đọc và trích những tư liệu từ các nguồn khác nhau và sắp xếp chúng lại theo trật tự, bổ sung chúng bằng những nhận xét của mình”(3). Nguyên tắc biên soạn này cũng được quán xuyến trong môn loại Âm tự. Con số thống kê của chúng tôi sau đây chứng minh điều đó: 32 điều thuần túy trích dẫn, không có bổ sung bất kì nhận xét nào; 48 điều vừa có trích dẫn vừa có lời bình luận của Lê Quý Đôn; 11 điều được xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ của Lê Quý Đôn có kèm trích dẫn; 20 điều hòan toàn là ngôn ngữ của nhà bác học, không hề có trích dẫn. Những điều lí thuyết hay khái quát hóa về bản chất của ngôn ngữ, văn tự, chúng đều được diễn đạt chính bằng ngôn ngữ của nhà bác học.

Bảng 1

Đặc điểm của các điều
Tổng số
các điều
Trích dẫn
thuần túy
Trích dẫn kèm bình luận của nhà bác học Lời của nhà bác học kèm theo trích dẫn Lời của nhà bác học không kèm trích dẫn
111 32 48 11 20

Nguồn tư liệu được trích dẫn thuộc vào hai loại: kinh điển và phi kinh điển. Khi sử dụng các tài liệu của các trào lưu triết học, Lê Quý Đôn cũng thường đưa ra các nhận xét của mình dưới góc độ Huấn hỗ học. Đáng chú ý là nguồn tài liệu phi kinh điển gồm 87 tên sách trích dẫn (xem bảng 2).

Bảng 2

Sách kinh điển 13 Sách phi kinh điển 87
Biên niên sử Văn học, thơ Ghi chép, khảo cứu Loại thư Ngôn ngữ, văn tự
9 9 39 7 23

Bảng kê này cho thấy đa phần các sách được trích dẫn là các loại “ghi chép”(4), khảo cứu, hay có liên quan đến ngôn ngữ văn tự. Trong số các sách được trích dẫn cũng có rất nhiều sách liên quan đến miền nam Trung Hoa.

Ngoài ra còn một điểm đáng chú ý nữa ở Lê Quý Đôn là ông rất chú ý sưu tập tài liệu theo phương pháp mà ngày nay gọi là điều tra điền dã. Ông có mặt ở nhiều nơi, đích thân nghe và ghi chép lấy nhiều cứ liệu về ngôn ngữ và văn tự.

Trong Âm tự Lê Quý Đôn thường trích dẫn những sách có liên quan đến khẩu ngữ đến ngôn ngữ sống động đương thời, đến phương ngữ, đặc biệt là khẩu ngữ của các phương ngữ miền nam Trung Hoa, như trong Hoài Nam tử, Quảng Đông tân ngữ, Tục hồ tiển lục...

Thống kê vốn từ được sử dụng trong Âm tự cho phép rút ra kết luận sơ bộ là ngoài các từ công cụ ra thì các từ liên quan đến các thuật ngữ ngôn ngữ học truyền thống phương Đông có tần số cao hơn cả.

Những điều nêu lên ở trên đây có liên quan đến các nguyên tắc và phương pháp cũng như chất liệu xây dựng Âm tự. Chúng có ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu nội dung của nó.

II
HỆ VẤN ĐỀ NỘI DUNG CỦA ÂM TỰ

Thoạt nhìn, chúng ta không dễ dàng vạch ra ranh giới các vấn đề được đề cập đến, cơ hồ như chúng được thể hiện trong một phức thể tổng hợp, chúng nằm rải rác, xen kẽ nhau, thậm chí có khi lại đảo lộn, song nếu chúng ta đi vào phân tích nội dung cụ thể của các điều và gộp qui chúng lại, có thể hình dung hệ vấn đề nội dung sau đây của Âm tự:

1. Những vấn đề chung

2. Về âm nhạc.

3. Về phương ngữ và chuẩn.

4. Những nhân tố đồng đại và lịch đại.

5. Về từ nguyên và về khẩu ngữ.

6. Về quốc âm.

7. Về văn tự.

8. Về thư pháp học và in ấn.

1. Những vấn đề chung

Những vấn đề chung của Âm tự liên quan đến mặt triết học của ngôn ngữ. Văn tự được mở đầu bằng một định đề có tính chất khái quát hóa cao. “Văn tự là biểu hiện của thanh âm. Thanh âm là biểu hiện của tính. Đạo kiền (trời) biến hóa, muôn vật nhờ đó mà đều chính tính mệnh. Có tính mệnh mới có hình thể và thanh âm. Thánh nhân đặt ra văn tự để mô tả thanh âm” (điều 1).

Có thể coi đây là một định nghĩa vắn tắt về ngôn ngữ và văn tự. Xem xét ngôn ngữ trong mối liên hệ trực tiếp với văn tự vốn là một quan niệm rất phổ biến trong các nền ngôn ngữ học truyền thống Viễn đông (Trung Quốc, Nhật Bản, ...)(5). Định nghĩa về ngôn ngữ của ông được xây dựng trong mối quan hệ của ba thành tố chính: tính mệnh – hình thể - thanh âm. Khái niệm “tính mệnh” Lê Quý Đôn dùng ở đây có thể được hiểu như cái hình nhi thượng, cái trừu tượng, cái khái quát, cái liên quan đến bản chất của sự vật; Khái niệm hình thể được hiểu như cái hình như hạ, cái biểu hiện cụ thể.

Mặc dù các khái niệm trên đây không được Lê Quý Đôn giải thích cụ thể, song chúng ta có thể nói rằng ông đã quan tâm đến mặt triết học của ngôn ngữ, cho dù ở dạng thô sơ, vắn tắt, bề mặt... Đó chính là cống hiến của ông cho nhận thức về đối tượng của ngôn ngữ học.

2. Về âm nhạc

Những ghi chép về âm nhạc đứng ngay sau phần khái quát bản chất ngôn ngữ. Lê Quý Đôn, coi âm nhạc có liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ (thanh âm).

Ở Trung Hoa xưa kia, âm nhạc luôn là chủ đề được quan tâm đến. Có thể xem Khổng Tử là nhà lí luận âm nhạc đầu tiên, người nghe nhạc với tất cả ham thích thú đến quên cả ăn, quên cả ngủ. Nhiều nhà văn nổi tiếng ở các thời đại khác nhau cũng đã bàn về âm nhạc như Vương Hữu Xứng, Viên Khoản, Tô Tuân v.v.. Tô Tuân trong Nhạc luận có những ý kiến tuyệt vời về âm nhạc(6. Song, với những người này âm nhạc được xem xét đến dựa trên những nguyên tắc âm nhạc thầm tưởng, nó là đối tượng của thơ ca, là phương tiện quản lý nhà nước và xã hội, là lễ: “Âm nhạc là cái mà thánh nhân chế tạo ra, nhờ nó mà xã hội ổn định, có đạo cha con, huynh trưởng, đệ thứ... Những gì mà bằng lễ không thể đạt được, thì sẽ đạt được bằng nhạc(7). Âm nhạc đó là sự tiếp tục của lễ(8).

Các nhà thông thái Trung Quốc ca ngợi vai trò của âm nhạc, nhưng họ ít đề cập đến mặt kỹ thuật phối âm, đến hệ thống thuật ngữ, đến cách chế tác nhạc cụ, đến các nghi thức cụ thể khác, Chúng ta có thể tìm thấy những điều này qua những ghi chép về âm nhạc trong Âm tự...

Âm nhạc cổ điển Trung Quốc dựa vào luật -, những nguyên tắc của chúng đòi hỏi phải được tuân thủ một cách triệt để, song cái đáng chú ý hơn là ở chỗ Lê Quý Đôn đã có sự nhận thức về sự biến đổi trong âm nhạc qua các đời. Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự biến đổi là động lực cho ông ghi lại một đôi nét về nhạc lí và kĩ thuật phổ nhạc đương thời: “Nhạc thái thường ngày nay cũng vẫn là 16 thanh cũ nhưng chỉ dùng thanh hồ của Hoàng chung, thanh xừ của thái thốc, thanh nhì của cổ tiển, thanh xang của trung lã, thanh câu của sanh tân, thanh xế của lâm chung, thanh cống của nam lã, thanh cấu “trong” của ứng chung, thanh lúi “trong” của Hoàng chung, thanh ú của thái thốc... còn các thanh khác để đó mà không dùng”... (điều 9).

Lê Quý Đôn nêu ra sự biến đổi và chức năng xã hội của âm nhạc. “Nhạc của đời thượng cổ thì hài hòa vì thanh âm thấp; nhạc của đời sau thì không hài hòa vì thanh âm cao... Âm quí trung hòa, ta nói cổ thanh thấp là vì so với thanh đời Lục triều (420-581) và Ngũ đại (907-959) càng cao thì vận nước càng ngắn, cả khoảng giữa đời Đường, Tống cũng vậy” (điều 7).

Những tư tưởng và ghi chép về âm nhạc của Lê Quý Đôn hiển nhiên thật là hấp dẫn cho những người quan tâm đến âm nhạc hiện nay. Chúng tôi ở đây chỉ muốn nhấn mạnh đến cái cảm nhận hay ấn tượng của Lê Quý Đôn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và âm nhạc như là một chỉnh thể biểu hiện tâm hồn con người.

3. Về phương ngữ và ngôn ngữ chuẩn

Khác hẳn với nhiều nhà nho đương thời, những người chỉ biết chữ Hán, Lê Quý Đôn lưu ý rằng: “Vạn quốc ở hải ngoại, non sông xa tít, khí trời chỗ nhẹ, chỗ nặng, chỗ trong, chỗ đục khác nhau nên tiếng nói cũng khó phân biệt, phải sáng tạo ra văn tự riêng. Sách chữ Phạn (Phật), sách chữ Phiên, sách chữ Hồi Hồi, sách chữ Nữ Nhân, sách chữ Tây Dương đều chữ khác, nghĩa khác, cũng để tả thanh âm của một nước, không thể cố chấp chính âm mà tìm ra được” (điều 2).

Không chỉ vạn quốc ở hải ngoại có tiếng nói khác nhau mà ngay trong phạm vi Trung Quốc, ngữ âm của các vùng cũng khác nhau. Lê Quý Đôn muốn diễn đạt tư tưởng này bằng lời trích dẫn sau đây: “Thi thoại của Thái Khoan Phụ nói: Âm của ngũ phương không giống nhau” (điều 19). Ngũ phương ở đây trước hết là Trung Quốc, hay nói cách khác trong tiếng Hán có nhiều phương ngữ. Những tri thức về phương ngữ trong Âm tự trước hết dành cho phương ngữ tiếng Hán. Trong lịch sử, phương ngữ luôn là vấn đề thời sự cho mọi thế hệ. Nhiều công trình ngôn ngữ học nổi tiếng trong lịch sử ngữ văn học Trung Quốc chính là những công trình về phương ngữ, chẳng hạn: Phương ngôn của Dương Hùng (thế kỉ I TCN), Hoài Nam Tử, Nhan Thị gia huấn, Quế Hải ngu hành chí... Lê Quý Đôn đã nhắc đến các phương ngữ khác nhau của tiếng Hán: Phương ngữ Sở, phương ngữ Bì Lăng, tiếng vùng Kinh Khẩu v.v.. (điều 19).

Các phương ngữ hình thành là kết quả của một loạt các nhân tố địa lí, kinh tế, dân số,... Các phương ngữ làm phong phú cho bản thân một ngôn ngữ, song công cuộc xây dựng một nhà nước tập trung thống nhất đòi hỏi phải có một ngôn ngữ chuẩn. Lê Quý Đôn nhắc đến khái niệm chính âm trong bối cảnh như vậy.

Lê Quý Đôn lập luận rằng “thanh âm ngôn ngữ trong thiên hạ mỗi nơi một khác. Đến như làm văn làm thơ thì bằng, trắc, thượng, hạ, khứ, nhập đều giống nhau cả. Đó là chính âm tự nhiên” (điều 12). Ngôn ngữ chuẩn trước tiên phải là ngôn ngữ trong thơ ca, mà vận luật của nó phải làm đúng như trong các từ điển ngữ âm (vận thư). Ở Trung Quốc và cả Việt Nam xưa kia việc nắm luật thơ, cách gieo vần trong thơ là bắt buộc cho tất cả mọi người đi thi trong các kì thi tuyển quan lại. Những thí sinh này, sau khi trúng tuyển và nếu họ gia nhập bộ máy thư lại, họ sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phổ biến “chính âm tự nhiên” đó. Và khi bàn đến chính âm tự nhiên ông trước hết nhắc đến ngôn ngữ viết: “Đến như làm văn, làm thơ, thì bằng, trắc, thượng, hạ, khứ, nhập đều giống nhau cả”.

Những ghi chép về phương ngữ và ngôn ngữ chuẩn tập trung trong 16 điều. Đó là một con số đáng kể, song cái quan trọng hơn, đáng kể hơn đối với Lê Quý Đôn và chúng ta lại là ở chỗ khác, bởi lẽ trên cơ sở các thành tựu và kinh nghiệm của ngôn ngữ học truyền thống Trung Hoa, về xây dựng ngôn ngữ chuẩn và những nét tương đồng của chữ Hán và chữ Nôm Lê Quý Đôn đã có ý niệm về chính tự cho tiếng Việt. Ông buồn bã vì quốc âm ta không có chính âm, không có hệ thống chữ viết thống nhất cho nên khi viết thì mọi người tùy tiện thêm bớt cho nên sai lệch đi nhiều. (điều 23).

Xây dựng ngôn ngữ chuẩn cả chính âm lẫn chính tự không phải là một việc giản đơn. Ở Trung Quốc nó luôn diễn ra với sự giúp đỡ của Nhà nước. Sự chú ý của Lê Quý Đôn - một nhà bác học và cũng là một nhà hoạt động nhà nước - đến vấn đề “chính tự” có thể được coi như một trong những biểu hiện của sự quan tâm đến chính sách ngôn ngữ, song vì nhiều nguyên nhân nó đã không trở thành hiện thực trong các điều kiện xã hội Việt Nam thể kỷ XVIII.

4. Những yếu tố của đồng đại và lịch đại

Những nhận thức về đồng đại và lịch đại thể hiện qua những nhận xét của ông về các bản dịch kinh Phật ra tiếng Hán vào các giai đoạn khác nhau, chẳng hạn ở điều 14 ông viết: “Nước Thân Độc đời Hán sau gọi sai là nước Càn đốc và Thiên trúc... Người dịch chỉ lấy những tiếng nói cùng tựa như tiếng Trung Quốc mà nói, cho nên tuỳ thời biến đổi, không nhất định”.

Hay ở điều 15 khi đọc các văn bản kinh Phật dịch ở đời Hán và đời Đường... ông rút ra nhận xét: “không phải là nội điển khác nhau, chính là cách diễn dịch khác nhau” (điều 15). “Cách diễn dịch khác nhau thể hiện ở hai phong cách ngôn ngữ viết đại diện cho hai giai đoạn phát triển của tiếng Hán: Văn chư tử và văn tập loại. Văn chư tử là ngôn ngữ viết của tiếng Hán cổ dựa trên khẩu ngữ thời Chu - Tần; văn tập loại vốn là ngôn ngữ viết giai đoạn Đường - Tống, đó là một thứ ngôn ngữ hỗn nhập, vừa có yếu tố của ngữ pháp của văn ngôn, vừa có yếu tố ngữ pháp của bạch thoại trung đại(9).

Những chú dẫn về lịch sử tiếng Hán của Lê Quý Đôn gợi cho phép chúng ta liên tưởng đến những nhận thức về đồng đại và lịch đại, đó là một lối nhận thức mang tính chất khoa học.

5. Về từ nguyên và về khẩu ngữ

Một trong những đóng góp đáng chú ý của Lê Quý Đôn là những ghi chép về từ nguyên học của một số từ tiếng Hán và tiếng Việt. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì từ nguyên học vốn là một lĩnh vực rất phát triển của ngữ văn học Đông Á.

Ghi chép về từ nguyên học có đến 69 điều. Từ nguyên học của các từ và cụm từ được Lê Quý Đôn xem xét trong mối quan hệ với khẩu ngữ. Con số các điều có liên quan đến khẩu ngữ lên tới 30. Thường thì cấu trúc của các điều này có hai phần: ý nghĩa từ nguyên học và sau đó là ý nghĩa hiện dùng. Ý nghĩa hiện dùng của một từ nào đó thường là ý nghĩa đang dùng trong khẩu ngữ.

Lê Quý Đôn có nêu lên một ý kiến vô cùng sắc bén và cần nghiên cứu một số từ trong các kinh điển cổ trên cơ sở ngôn ngữ học chứ không phải tán dóc. Ở điều 19 ông viết: “Ta thiết nghĩ, trong kinh Thượng thư có chữ “đô” cũng là phát ngữ từ của cổ nhân. Tiên nho bảo “đô” là chỗ người quân tử ở, khen chỗ ấy đẹp thì gọi là “đô”. Ta thấy nói tựa như thế là tán nhảm.

Ngôn ngữ thông tục, khẩu ngữ không bị ông coi thường như nhiều nhà nho khác. “Lời phát ngữ của người nước Sở là “khương”, là “kiển”, lời thốt ngữ (lời sau rốt) là “ta”. Một khi họ Khuất, họ Tống đã lấy dùng, đời sau cho là giai cú” (điều 19). Lời nói thông tục sẽ thành mỹ từ bởi con người biết sử dụng chúng. Ngôn ngữ văn học được phát triển trên cơ sở của khẩu ngữ. Luận điểm này có ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện xã hội phong kiến, khi mà chỉ được coi là ngôn ngữ văn học nếu như nó cầu kì, siêu thoát... còn dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày thì bị chê là thấp hèn, thiếu giáo dục. Những nhận thức như vậy làm cơ sở cho những ghi chép về quốc âm được trình bày ở dưới đây.

6. Về quốc âm

Có 16 điều đề cập đến quốc âm. Ngữ liệu về quốc âm chủ yếu là các thán từ, từ tượng thanh, từ hô gọi, tên gọi của một số đồ vật.

Những trường hợp Lê Quý Đôn bàn đến quốc âm thường được nêu lên khi bàn về tiếng Hán.

Tiếng Hán là một nguồn cung cấp từ vựng đáng kể cho tiếng Việt, vì vậy từ nguyên của một loạt từ tiếng Việt cần được xem xét trong mối quan hệ với từ nguyên tiếng Hán. Chẳng hạn các từ ngữ “bột”, “đánh trống qua cửa nhà sấm”, “phát lôi”, “ăn quả vun cây”..., vốn có nguồn gốc từ tiếng Hán.

Đáng chú ý là Lê Quý Đôn nhận ra rằng tiếp xúc Hán - Việt không chỉ là tiếp xúc một chiều, tiếng Việt vay mượn tiếng Hán mà còn có chiều ngược lại, có rất nhiều từ tiếng Việt đi vào tiếng Hán như ở điều 56 ông viết: “Danh từ “túy như nê” (nghĩa là say như bùn) là ở trong câu thơ của Đỗ Phủ, “Tiên bàn nhất ẩm túy như nê” (uống liều một bữa say như bùn). Theo sách Năng cải trai lục của Chu Trạch, đời Hán, nước Nam có một thứ giun không có xương, gọi là nê (bùn); ở dưới nước thì sống, lên cạn thì say mềm như một cục bùn. Vậy “túy như nê” nghĩa là say như con giun nê, chứ không phải say như bùn.

Những ghi chép về quốc âm bao giờ cũng thể hiện sự trân trọng của ông về tiếng mẹ đẻ. Những từ “người nước ta”, “tiếng nước ta” luôn vang lên với tất cả lòng tự tin. Ông không đồng nhất tiếng Việt với một phương ngữ nào đó ở miền nam Trung Quốc, không đồng nhất chữ Nôm với các biến thể tục tự của Trung Quốc. Tuy còn giản đơn song đó là phôi thai cho việc nghiên cứu tiếng Việt và chữ Việt trong lịch sử.

7. Về văn tự

Số điều có liên quan đến văn tự lên đến 16.

Khi nói đến sự đa dạng của ngôn ngữ, Lê Quý Đôn cũng đề cập đến sự đa dạng của các dạng thức chữ viết của các dân tộc. “Vạn quốc ở hải ngoại, non sông xa tít, khí trời chỗ nhẹ chỗ nặng, chỗ trong chỗ đục khác nhau, nên tiếng nói cũng khó phân biệt, phải sáng tạo ra văn tự riêng” (điều 2).

Bằng cảm nhận khoa học của mình, Lê Quý Đôn phân loại văn tự trên thế giới mà ông biết đến hoặc nghe đến làm hai loại: “Văn tự Trung Quốc và văn tự ngoài Trung Quốc. Trung Quốc viết chữ, nghĩa lí ở chữ không có âm; ngoại quốc chép âm, nghĩa lí ở âm chứ không ở chữ. Văn tự Trung Quốc từ chỗ trông thấy chữ mà sinh ra tưởng ngộ (nghĩ ra rồi hiểu), nếu tìm ở âm thì sai. Học thanh âm của ngoại quốc thì từ chỗ nghe mà biết được nghĩa, nếu tìm ở chữ viết thì bế tắc” (điều 17).

Trên cơ sở nghiên cứu chữ Hán ông nêu ra một định đề mà nó phản ánh cái hạn chế cơ bản của loại văn tự này trong việc cố định sự phong phú của ngôn từ “Âm vô cùng mà chữ Hán có hạn” (điều 2).

Lê Quý Đôn cũng quan tâm đến quá trình tiến hóa của văn tự Trung Quốc. Ông nhấn mạnh rằng quá trình tiến hóa ấy đi từ việc cải biên những chữ phức tạp để có những chữ đơn giản. “Trình Tử Mịch đổi chữ triện làm chữ lệ, từ chỗ khó vào chỗ dễ, thì đem dùng được, còn Dương Hùng đổi chữ lệ làm chữ lạ, là từ chỗ dễ vào chỗ khó, thì không phải, cho nên phải bỏ” (điều 13).

Lê Quý Đôn không quên đề cập đến một lĩnh vực đầy thú vị trên cơ sở văn tự Trung Quốc - chơi chữ (các điều 62, 63, 87...). Chơi chữ tiềm ẩn trong mình hệ thống quan niệm của các nhà ngữ văn về ngữ âm, ngữ nghĩa, từ nguyên dân gian và nhiều nhân tố lịch sử - văn hóa khác nữa.

8. Về thư pháp và in ấn

Những điều cuối cùng của Âm tự được Lê Quý Đôn dành cho thư pháp và in ấn. Thư pháp gắn liền với quá trình tiến hóa của văn tự Trung Quốc và trong chừng mực nhất định gắn liền với việc học tiếng Hán. Nhiều bộ sách giáo khoa như Thiên tự văn, Tam thiên tự v.v.. ngoài việc dạy chữ còn dạy cả tiếng Hán theo vần nữa.

Bằng những ghi chép của mình, Lê Quý Đôn đã khảo sát thư pháp từ nhiều mặt khác nhau, từ việc nêu ra tên tuổi các nhà thư pháp nổi tiếng, đặc điểm bút pháp của họ, lịch sử ra đời của thư pháp, và cuối cùng ông không quên chú ý đến một bộ phận có tính chất ứng dụng và thực hành của thư pháp, đó là những thao tác viết chữ, qui tắc viết chân, thảo, hành...

Thường thì người ta cho rằng thư pháp nảy sinh vào thời Tấn (265-419), nhưng trên cơ sở khảo sát của mình, Lê Quý Đôn thấy nó ra đời sớm hơn nhiều. Ông viết: “ta xét trong sách Tập cổ lục của Âu Dương Tu có nói: “Lương Vũ Đế tìm được 1000 chữ viết của Vương Hy Chi, sai Chu Hưng Tự viết phóng những chữ ấy ra. Nay trong Quan pháp thiết có hơn một trăm chữ của Hán Chương để viết trong đó cũng có câu “Hải hàm, hà đạm” (nước biển mặn, nước sông nhạt). Vậy, đời trước học viết chữ, hay tập những câu ấy, không những Vương Hy Chi” (điều 103).

Thư pháp trong những ghi chép của Lê Quý Đôn không bị đẩy thành một thứ cầu kì khó hiểu và bí hiểm. Thư pháp không hề đóng cửa bất kì một ai, từ các em bé mới đi học còn đang học cầm bút đến các đại gia. Ông nhấn mạnh đến yếu tố chủ động và khổ luyện của người đi học chữ: “Muốn mô phỏng lối chữ của cổ nhân thì đừng tiếc giấy bút. Trước hết phải định vị thứ, nhận cốt cách, cổ tay và ngón tay như thế nào đã. Khi thành thục rồi thì thần tình sẽ đúng (điều 105).

Những điều về thư pháp trong Âm tự có tác dụng giáo dục học sâu sắc. Yêu quí chữ đẹp, sưu tầm chúng, trân trọng sách vở... là những hệ quả có giá trị văn hóa trong hệ vấn đề về ngôn ngữ và văn tự.

Những ghi chép về kĩ thuật in ấn tuy không nhiều song nó nằm trong một chỉnh thể của những suy nghĩ của Lê Quý Đôn được thể hiện trong Âm tự. In ấn cùng với văn tự là phương tiện hữu hiệu để cố định ngôn ngữ lại ở dạng viết.

Như vậy, môn loại Âm tự có thể được coi như một bộ sưu tập mà trong đó chứa đựng khá nhiều tri thức của ngữ văn học truyền thống Á Đông. Nó không chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu truyền thống ngữ văn Việt Nam mà còn có ý nghĩa trong việc nghiên cứu các truyền thống ngữ văn học trong khu vực.

Nếu như Vân đài loại ngữ là đỉnh cao về những tri thức khoa học Việt Nam thế kỷ XVIII thì môn loại Âm tự, không nghi ngờ gì nữa, là đỉnh cao của những tri thức về ngữ văn học ở Việt Nam thế kỉ XVIII. Những đóng góp của Lê Quý Đôn trong Âm tự cho chúng ta thấy ông là người Việt Nam đầu tiên đã coi ngôn ngữ, văn tự là đối tượng để suy nghĩ, nhận thức. Những tri thức được đề cập đến trong Âm tự hẳn là rất có ích cho thời bấy giờ như trong việc xây dựng và hòan thiện chữ Nôm, phát triển quốc âm cả về mặt chức năng xã hội lẫn vốn từ, biên soạn sách giáo khoa dạy cho học trò, chú giải các văn bản cổ v.v..

CHÚ THÍCH

(1) Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ (bản dịch), H. 1962, tr.49.

(2) Xem Đinh Công Vĩ - Lê Việt Nga. “Về bản dịch Vân đài loại ngữ của Trần Văn Giáp”. Tạp chí Hán Nôm số 1- 1987.

(3, 4) Lê Quý Đôn, sđd, tr.46.

(5) Xem Lịch sử các học thuyết ngôn ngữ (tiếng Nga) (Phương đông trung cổ), khoa học, Moxkva. 1981.

(6) Xem V.M.Alekceev. Văn học Trung Quốc, Khoa học, Moxkva 1978, tr.406-407.

(7) V.M.Alekceev Sđd. tr.406-407.

(8) Như trên, tr.408.

(9) Xem I.T Zograph: Tiếng Hán trung đại. (Sự hình thành và các xu hướng phát triển) M. 1979./.

TB

ĐÓNG GÓP CỦA CỨ LIỆU CHỮ NÔM TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC TỔ HỢP PHỤ ÂM KL, PL\BL, TL VÀ ML

HOÀNG DŨNG

1. Sự tồn tại của các tổ hợp phụ âm đầu KL, PLBL, TL và ML trong tiếng Việt là điều được khẳng định qua những bằng chứng trực tiếp. Bốn tổ hợp phụ âm sau xuất hiện trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes, trong đó BL, TL và ML(1) thể hiện qua các mục từ, còn được nhắc đến trong phần phụ lục, nhan đề “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh” như sau: “Cũng có đôi khi, nhưng khá họa hiếm, người ta còn thêm L vào với P, thí dụ plàn, douoluere (lăn), người khác thì đọc là làn, không có P”. Còn KL thì không phải như ý kiến của Jemery H.C.S. Davidson: “Bằng chứng về sự tồn tại của chùm này trong tiếng cổ Việt vẫn còn tính chất nghiên cứu (speculative)”(2). Bởi vì KL tồn tại trong tiếng Việt không phải chỉ như sản phẩm của nhà khoa học thông qua các thao tác so sánh, tái lập, mà đã được bắt gặp trên thực tế John Barrow trong cuốn du ký Un voyage à la Cochinchine cho biết năm 1792 ông còn nghe thấy ở Đà Nẵng, trăm được phát âm là klang(3).

2. Chữ Nôm đã phản ánh các tổ hợp phụ âm trên như thế nào? Trả lời câu hỏi này, từ trước đến nay người ta cho rằng có ba hình thức:

a, Ghi lại cả yếu tố thứ nhất lẫn yếu tố thứ hai. Ví dụ: trái viết là cự + lại hoặc ba + lại 迀.

b, Ghi lại chỉ yếu tố thứ nhất. Ví dụ: trót viết là tốt 卒 .

c, Ghi lại chỉ yếu tố thứ hai. Ví dụ: trên viết là thượng + liên 珕 .

Theo nhiều nhà nghiên cứu, KL và PL chỉ là hình thức cổ, theo thứ tự, TL và BL. Còn sự biến đổi của các tổ hợp phụ âm khác thì ngay từ những năm đầu thế kỷ này đã được xác định như sau: ở phương ngữ Bắc Bộ, BL biến đổi thành GI, TL thành CH, ML thành NH; ở phương ngữ Bắc Trung Bộ và Nam Bộ, BL và TL nhập một thành TR, ML thành L(4). Nếu giới hạn sự biến đổi của các tổ hợp phụ âm đầu vào sơ đồ trên tất sẽ dẫn đến suy luận lôgic các trường hợp (b) và (c) là do hệ thống âm vị tiếng Hán không có tổ hợp phụ âm đầu và do người viết chữ Nôm viết thiếu(5).

3. Tuy nhiên, nếu soát xét lại tư liệu, người ta thấy tình hình có phức tạp hơn, làm cho cách giải thích trên không phải ở trường hợp nào cũng có sức thuyết phục.

3.1. Trước hết, thuộc vào trường hợp (c) có không ít ví dụ chữ Nôm có thể đọc cả hai cách TR và L đều có nghĩa như nhau. Chẳng hạn:

+ lánh 另 đọc tránh hay lánh (cf.tlánh(6))

+ túc + ½ liêu 足寮 đọc trèo hay leo (cf.tlèo)

+ luận 論 đọc là trọn hay lọn (cf.blọn/tlọn)

Thậm chí nhiều chữ Nôm biểu âm bằng L mà căn cứ vào tiếng Việt hiện đại, chỉ có thể đọc với TR, nhưng thực sự đã từng tồn tại hình thức phụ âm đầu L tương ứng(7).

+ trả từng có cách phát âm khác là lả (cf.blả/tlả), chữ Nôm viết là 呂.

+ trai-lai (cf.blai/tlai); nam + lai 瞾.

+ trái-lái (cf.blái); quả + lai

+ tràn-làn (cf.blàn); lan 瀾

+ trau-lau (cf.blau); thủ + lao墹

+ trăng-lăng(8) (cf.blăng); nguyệt + lăng 斏

+ (trối) trăng - lăng(9) (cf.blăng); mịch + lăng 綾

+ tro-lo (cf.blo); lò 炉

+ trót-lót (cf.blót); luật 律

+ trối-lối (cf.blối); khẩu + lỗi 虝

+ trở-lở (cf.blở); phản + lã 寉

+ trời-lờ (cf.blời); thiên + lệ

+ trườn-lườn ; thủ + lan

Như thế, ML rụng yếu tố thứ nhất để chỉ giữ yếu tố thứ hai là hiện tượng không phải cá biệt riêng với ML, mà là chung cho các tổ hợp âm khác. Điều này đã được phản ánh qua cứ liệu chữ Nôm.

3.2. Khảo sát trường hợp (c), cần lưu ý đến hiện tượng TR đọc là T xảy ra ở hàng loạt thổ ngữ ven biển từ Thái Bình đến Thừa Thiên(10); hơn nữa, trong tiếng Việt phổ thông vẫn tồn tại một số các từ song thức TR-T; chẳng hạn: trụt-tụt, trịt-tịt, truột-tuột, tròi-tòi, truốt-tuốt. Do đó, trong những chữ Nôm chúng ta nghĩ dùng T để ghi TR, rất có thể có trường hợp đã ghi một số từ có phụ âm đầu T thực sự. Chữ Nôm viết hỏa + ½ 焠 tôi đọc là tôi hay tui (tôi rèn), mà cũng đọc là trui, cùng nghĩa. Trong được viết là công 工 , trước đây người ta cho “phản ánh dạng cổ của trong là klong”(11). Nhưng thực ra, klong từng rụng yếu tố lỏng, thành công, bằng chứng từ điển Génibrel ghi nhận công hay cuông có nghĩa là trong, công “trong” còn bắt gặp trong tiếng Thái(12). Như vậy có thể chữ Nôm phản ánh đúng đắn sự biến đổi này, chứ không phải trực tiếp dạng klong, cổ hơn. Từ liễn/lẫn viết Nôm là miễn 免. Đào Duy Anh cho rằng “hiện nay có khi còn thấy có người nói nhịu liễn thành miễn(13). Thế hẳn là đã có biến đổi: *mliễn>miễn/liễn. Chữ Nôm viết biến 遍 có thể đọc là bân hay lần(14), cho phép suy đoán *blần>bận/lần.

4. Tóm lại, các tổ hợp phụ âm KL, PL/BK, TL và ML ngoài các biến đổi đã xác định ở (2), còn có hai biến đổi khác: rụng yếu tố thứ nhất hay yếu tố thứ hai. Điều này được phản ánh qua một số trường hợp thuộc dạng (a) và (b) đã dẫn(15). Việc tìm kiếm sâu rộng hơn theo hướng giả định này chắc hẳn sẽ cung cấp nhiều cứ liệu chữ Nôm hơn nữa.

CHÚ THÍCH

(1) Trong tổng số 26 từ có tổ hợp ML, Từ Điển Việt-Bồ-La ghi nhận ba từ mlầm, mlặt, mlẽ còn có hình thức mnhầm, mnhặt, mnhẽ, chứng tỏ MNH chỉ là biến thể của ML.Michel Ferlus (“Vietnamien et proto-vietmuong”. ASEMI, VI, 4, 1975, tr.46) do đếm không kỹ, bảo chỉ có 23 từ có ML và chỉ có 2 từ (mlầm, mlẽ) xuất hiện thêm hình thức MNH.

(2) Jemery H.C.S. Davidson: A new Version of Chinese - Vietnamese Vocabulary of the Ming Dynasty, BSOAS, I, 1975, tr. 305

(3) Xem Martine Piat: Un vocabulaire “cochinchinois” du XVI siècle, BSEINS, tome XL IV, N.53 et 4, 1969. “Thứ tiếng Việt, do John Barrow thu thập có lẽ từ một người Hoa nói tiếng Bạch thoại hay phương ngữ Nam Xương, vì không phát âm được âm cuối –m” (ý kiến của Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb. KHXH, H. 1989, tr.227-228).

(4) Xem Henri Maspéro: Etudes sur la phonétque historique de la langue annamite, lesinitiales. BEFEO, tome XII, 1912,tr.76

(5) Chẳng hạn ý kiến của Hoàng Thị Châu: Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thông báo khoa học, Tập II, Nxb. Giáo dục, H. 1966, tr.100; Nguyễn Phú Phong: A propos du Nôm, écritute démotique vietnamienne, Cahiers de Linguistique Asie Orientale, Septembre, No4, 1987, tr.51-52; Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981, tr.102.

(6) Các từ có tổ hợp phụ âm đầu dẫn ra ở bài này là lấy từ Từ điển Việt-Bồ-La.

(7) Những từ có phụ âm L dẫn ra trong mục này dưới đây là theo J.F.M. Génibrel (Dictionnaire annamite - francais, Sài Gòn, 1898), trừ khi có chú thích riêng.

(8) Dẫn theo Bửu Cầm: Dẫn nhập nghiên cứu chữ Nôm, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, niên khóa 1964-1965 (ronéo).

(9) Philipphê Bỉnh: Sách sổ sang chép các việc, Viện Đại học Đà Lạt, 1968, tr.83.

(10) Xem thêm Hoàng Thị Châu: Vài nét về sự thay đổi ngữ âm của tiếng Việt trong nông thôn hiện nay (qua kết quả điều tra thổ ngữ ở Vĩnh Linh và Thái Bình), Ngôn ngữ số 4, 1972.

(11) Lê Văn Quán, sđd, tr.109.

(12) Điêu Chính Nhìm và Jean Donaldson, Ngữ vựng Thái-Việt-Anh, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1970.

(13) Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ hai, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.704.

(14) Xem Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, Tập san Khoa học xã hội, số 3, Paris, tr.2.

(15) Xác định âm trị do chữ Nôm phản ánh không nhất thiết dẫn đến việc phiên âm Nôm phải thay đổi tương ứng. Xem Hoàng Dũng, Nguyễn Tiến Mâu, Đinh Văn Thiện: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngôn ngữ số 4, 1992; Nguyễn Tài Cẩn: Một vài suy nghĩ xung quanh vấn đề đọc Nôm, phiên Nôm, Nghiên cứu Hán Nôm, số 2, 1985.

TB

VỀ DIỄN BIẾN CẤU TRÚC CỦA CHỮ "CỬA" NÔM TRONG MỘT SỐ VĂN BIA HÁN NÔM

TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

Chữ Nôm đã trải qua gần mười thế kỉ hình thành và phát triển; việc nghiên cứu sự diễn biến về mặt cấu trúc của hệ thống chữ Nôm. Do vậy là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Các văn bản Nôm hiện còn lại rất đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung. Việc nghiên cứu sự diễn biến của chữ Nôm không thể không xem xét nó trên mọi loại hình văn bản: văn bản in, văn bản chép tay, văn bản khắc v.v.. Riêng về loại hình văn bản khắc, văn bia có tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta biết rằng tuỵêt đại đa số văn bia còn lại đến nay làn nguyên bản, thường có niên đại và xuất xứ rõ ràng, trường hợp “tam sao” là rất hiếm. Do đó, mặc dù số lượng chữ Nôm trong các văn bia Hán không nhiều, nhưng có độ tin cậy cao về niên đại cũng như về cấu trúc, giúp thêm những cứ liệu chắc chắn để nghiên cứu lịch sử hình thành cùng sự diễn biến về mặt cấu trúc nội tại của chữ Nôm. Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn tìm hiểu sự diễn biến về mặt cấu trúc của chữ “cửa” trong một số văn bia Hán, một loại hình văn bản có độ tin cậy cao như trên đã nói, mong góp phần vào việc nghiên cứu, diễn biến của chữ Nôm nói chung. Về trường hợp chữ “cửa” Nôm trên các văn bản in và chép tay, trước đây lẻ tẻ cũng đã có người đề cập tới. Chẳng hạn như: GS. Nguyễn Tài Cẩn nêu ra trong mục: Một số chữ Nôm cổ đã gặp trong các văn bản có niên đại chính xác (từ thế kỉ XII đến thế kỷ XVII):

- Cửa 1: 1173; 1561; 1583; 1612; 1664.

- Cửa 2: 1531; 1612; 1638; 1671; 1677.

- Cửa 3: 1587; 1677; 1690; 1695.

- Cửa 4: 1698.

Tiếc thay, chữ cửa 4, trong phần viết chữ Nôm không thấy ghi, có lẽ do thiếu sót trong in ấn. Chúng tôi đành để trống(1).

Từ một số văn bản tiêu biểu cho mấy thế kỉ, PGS. Lê Văn Quán cũng dẫn ra mấy cách viết chữ “cửa” như sau:

Thế kỷ XV: Quốc âm thi tập:

Hồng Đức Quốc âm thi tập:

Thế kỉ XVII: Chỉ nam ngọc âm:

Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú:

Thế kỉ XVIII: Tam thiên tự

Thế kỉ XIX: Đại Nam quốc sử diễn ca:

Đoạn trường Tân thanh: (ở tr.4).

Riêng đối với loại hình văn bản khắc, ở đây chủ yếu là văn bia, ta có thể xem hành trình của chữ “cửa” thể hiện qua bảng thống kê của chúng tôi sau đây (dựa vào kho bản rập văn bia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm):

chữ CỬA NIÊN ĐẠI SL VB KÝ HIỆU BẢN RẬP
Mạc: 1530, 1541, 1544, 1562
Lê: 1612, 1640, 1658, 1661
4 8098-9, 9841-2, 1554, 16926,
5489-90, 3272, 11789, 899-901
Lý: 1171
Mạc: 1579, 1583, 1586
Lê: 1603, 1660, 1661, 1675, 1680
15 10755-61
10286, 8534, 4368,-9
277-78, 10597-98, 5477-78,
5871-74, 3057-58
Mạc: 1570
Lê: 1679
2
1
11706, 12812-13
3655-58
Lê: 1668, 1735, 1759, 1768, 1770, 1773, 1775, 1790, 1797, 1779
Nguyễn: 1804, 1809
10

2
5079-80, 162-63, 5262-63, 4220- 23, 4605-08, 8886, 4377-78,
12509-10, 3612-13, 11689, 4245-46
4379-82, 17443-44
Lê: 1700,1731,1737,1738 4 7152-55, 9409-08, 3171-74,
7156-59
Nguyễn: 1813 1 17443-44
Nguyễn: 1925 1 1845

Tổng hợp lại, chúng ta thấy những chữ do GS. Nguyễn Tài Cẩn nêu ra có hai dạng cấu trúc:

1. Cấu trúc đơn, có hai cách viết: xuất hiện từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII; và xuất hiện từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII.

2. Cấu trúc kép (âm + ý) xuất hiện từ thế kỷ XVI. Như vậy, loại chữ “cửa” viết đơn xuất hiện trong những văn bản sớm hơn chữ “cửa” có cấu trúc kép. Trong văn bia Hán tình hình cũng diễn ra tương tự. Qua bảng thống kê trên, ta thấy từ thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XX có 7 cách viết chữ “cửa”, qui lại vẫn chỉ có hai loại cấu trúc chính:

1. Cấu trúc đơn chỉ mượn một chữ Hán có âm “cử” đọc chệch đi. Loại này có 3 cách viết xuất hiện từ thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XVII.

2. Loại cấu trúc kép gồm hai chữ Hán “cử” và “môn” ghép lại với bốn cách viết khác nhau:

+ Cách viết xuất hiện từ thế kỷ XVII đến XIX về sau.

+ Cách viết và 翓 thường chỉ thấy trong các văn bia thời Nguyễn từ cuối thế kỷ XIX.

Như vậy cũng tương tự như một số chữ “cửa” do GS. Nguyễn Tài Cẩn nêu ra, diễn biến cấu trúc của chữ “cửa” trong những văn bia Hán mà chúng tôi đọc được, ở thế kỷ XVII có sự chuyển tiếp từ cách viết đơn (mượn âm) sang cách viết (âm + ý), trong đó cách viết đơn có niên đại thường cổ hơn.

Trở lên là các cách viết của chữ “cửa” trong những loại hình văn bản có niên đại chính xác.

Tuy nhiên nếu so sánh với các cách viết trong các văn bản do PGS. Lê Văn Quán dẫn ra, lại có sự khác biệt một chút ở chỗ: cách viết kép lại xuất hiện trong hai tác phẩm của thế kỷ XV.

Sự khác biệt này gợi ý điều gì ? Chúng ta đều biết rằng Quốc âm thi tập được Dương Bá Cung sưu tập và cho khắc in vào năm 1868. Hồng Đức Quốc âm thi tập được PGS. Lê Văn Quán trích dẫn cũng là một văn bản chép tay về sau”.

Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa, hiện còn 3 bản in khá tin cậy đã cho biết nó xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI – XVII(3) có cách viết đơn: Về văn bản Hồng Đức Quốc âm thi tập chính PGS. Lê Văn Quán cũng đã nhận định: “Ở giai đoạn này có quyển Hồng Đức Quốc âm thi tập, nhưng ở thư viện KHXH chỉ có bản chép tay chữ viết ít nhiều đã có những sửa đổi”(4).

Từ sự so sánh trên đây chúng tôi thấy rằng có nhiều khả năng cách viết chữ “cửa” trong hai văn bản Quốc âm thi tập Hồng Đức quốc âm thi tập đã chịu ảnh hưởng của cách viết thời Nguyễn. Cách viết “cửa” trong sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa vẫn giữ đúng được cách viết của thời điểm đó.

Với trên hai vạn thác bản văn bia hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, công việc quả là hết sức trường kỳ và phức tạp. Bài viết này mới chỉ bước đầu nêu lên như vậy, mong được sự chỉ giáo thêm của độc giả.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Một số vấn đề về chữ Nôm Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985, các trang 252, 256, 273.

(2) Xem Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, 1981, tr.180.

(3) Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, tr.60.

(4) Lê Văn Quán: Sách đã dẫn, tr.174./.

TB

PHẠM HY LƯỢNG
CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM

VIỆT ANH

Cùng với chiều dài lịch sử, nền văn học trung cận đại Việt Nam đã có một đội ngũ đông đảo các sử gia, các nhà thơ nhà văn với nhiều phong cách khác nhau. Có những tên tuổi được đời sau lưu tâm nghiên cứu, có những tác giả chỉ mới được nhắc sơ qua. Phạm Hy Lượng - một nhân sĩ dưới triều Tự Đức - ở vào trường hợp thứ hai này. Trong nhiều bộ sách về danh nhân Việt Nam như Việt Nam danh nhân từ điển(1), Việt Nam nhân vật chí vựng biên(2) đều chưa nói đến Phạm Hy Lượng. Ngay cả phần nhân vật chí của các tỉnh trong bộ Đại Nam nhất thống chí(3), rồi cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm(4) cũng không thấy đề cập. Trong khi đó, đối với di sản Hán Nôm nước ta, tác phẩm của Phạm Hy Lượng dù không đồ sộ, vẫn có những đóng góp nhất định.

Tìm hiểu cuộc đời và tác phẩm của ông, tức là một lần nữa chứng minh sự phong phú của dòng văn học chữ Hán ở Việt Nam thời cận đại.

Phạm gia là một dòng họ lớn ở xã Hoa Đường, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Hoa Đường là vùng đất có truyền thống văn học, là nguyên quán của nhiều danh sĩ có văn tài và đạo đức như Tiến sĩ Phạm Quý Thích (1759-1825), Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1804-1862). Phạm Hy Lượng từng là học trò của thầy Vũ Tông Phan, và trước đó, Vũ Tông Phan là học trò của thầy Phạm Quý Thích. Điều đặc biệt, Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan và Phạm Hy Lượng đều gắn bó với đất Thọ Xương của Hà Thành văn vật và từ đó làm nên sự nghiệp của mình.

Phạm Hy Lượng tự Hối Thúc, húy Hy Lượng, hiệu Ngư Đường, sinh năm Giáp Ngọ, 1834 (Minh Mệnh 15). Theo gia phả(5) của dòng họ thì cha ông húy Lam, hiệu Phục Thiện, thụy Đoan Lương, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, là đời thứ 10 trong họ. Mẹ ông là bà Trần Thị Duyên, hiệu Diệu Nhu. Đời thứ 10, gia đình chuyển lên Hà Nội, cư trú tại phường Nam Ngư huyện Thọ Xương (nay là phố Nam Ngư, quận Ba Đình, Hà Nội). Phạm Hy Lượng là con thứ tư trong gia đình. Dòng họ của ông từng có người ra ứng thí, giữ một vài chức quan nhỏ nhưng chưa có gì nổi bật. Về sự nghiệp, có thể nói ông là người hiển đạt nhất trong dòng họ của mình.

Năm 19 tuổi, Phạm Hy Lượng đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý Tự Đức 5 (1852). Năm 29 tuổi, đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất (1862), được bổ Tri huyện huyện Yên Dũng. Sau đó ông về Kinh làm Hộ bộ viên ngoại. Năm Canh Ngọ, 1870 (Tự Đức 23), ông được thăng hàm Quang Lộc tự thiếu khanh, Biện lý Hình bộ sự vụ. Mùa đông năm ấy, vua sai sứ mang hòm biểu, vật phẩm địa phương sang tạ ơn vua Thanh đã cho quân hiệp lực dẹp giặc Ngô Côn trên biên giới. Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập sung Chánh sứ. Phó bảng Phạm Hy Lượng sung Phó sứ thứ nhất. Trần Văn Chuẩn sung Phó sứ thứ hai. Trước lúc sứ bộ lên đường, vua Tự Đức dụ rằng: "Giữ chức trách ứng đối, quan hệ đến quốc thể, phải cùng lòng cùng lo, cho được việc thiết thực(6).

Khi đó, trên chính trường, triều chính Việt Nam rất rối ren. Sáu tỉnh Nam Kỳ đã mất vào tay giặc Pháp. Biên giới Việt Trung vẫn bị dư đảng giặc từ nước Thanh kéo sang quấy nhiễu. Vua Tự Đức căn dặn sứ thần phải cẩn trọng đối đáp để khỏi sinh những mâu thuẫn khác, không nên khoa trương, nhưng cũng không khuất phục. Bút đàm nếu liên quan đến việc người Tây(7) phải thu lại ngay, không để sót chữ nào ra ngoài.

Năm 1872, sau chuyến đi sứ này, Phạm Hy Lượng được thăng hàm Quang lộc tự khanh. Ông có lưu lại Hà Thành một thời gian, cùng bạn đồng môn dự lễ khánh thành từ đường thờ vị thầy học đạo cao đức trọng đã quá cố của mình là Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) Vũ Tông Phan, rồi cùng các nho sĩ dự bình văn và tranh luận về việc người Tây, nên hòa để thông thương hay nên đánh. Giặc Pháp luôn luôn muốn lấn tới, khiến những người dĩ hòa vi quý cũng không thể cam tâm. Phạm Hy Lượng đồng lòng cùng nhân sĩ Bắc Hà quyết đánh. Năm 1873, ông lãnh Bố chánh Nghệ An. Bọn giặc Trần Tấn, Đặng Như Mai ở đây hòanh hành, khiến triều đình nhiều lần đưa thêm quân mà chưa dẹp được. Tổng đốc Tôn Thất Triệt, Bố chánh Phạm Hy Lượng, Án sát Nguyễn Đôn nhiều lần bị giáng cấp. Cuối cùng, giặc cũng bị dẹp tan nhưng tỉnh thần đều bị cách chức, cho làm việc chuộc tội. Khi Pháp đánh Bắc Kỳ, Phạm Hy Lượng mộ quân chống giặc, trái ý triều đình, bị sung vào phục vụ quân đội.

Năm 1883 (Tự Đức 36), ông được phục chức, lĩnh án sát Ninh Bình, rồi giữ quyền Tuần phủ Ninh Bình. Năm sau (Kiến Phúc nguyên niên, 1884), ông cáo bệnh lui về dạy học tại quê nhà. Trong số học trò của ông, có Chu Mạnh Trinh (Đồng Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, 1892) sau trở thành con rể.

Về năm mất của ông, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam(9) viết: "Năm Giáp Thân, 1884 ông mất, hưởng dương 50 tuổi". Nhưng các bộ sách khác như Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập(10), Lược truyện các tác gia Việt Nam(11), Các nhà khoa bảng Việt Nam(12) đều khẳng định ông mất năm Bính Tuất, 1886 (Đồng Khánh 1), thọ 53 tuổi. Trong khi đó, gia phả của dòng họ Phạm không chép năm mất của ông, chỉ cho biết ngày giỗ Phạm Hy Lượng là 16 tháng 1 âm lịch, mộ táng tại xứ Phượng Nhãn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).

Về phương diện trước thuật, tác phẩm của Phạm Hy Lượng còn lại đến nay không nhiều. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục(13) cho biết trong thời gian đương nhiệm, Phạm Hy Lượng có góp phần xét duyệt, hòan chỉnh bộ sử này. Ngoài ra, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được hai tập thơ, văn của Phạm Hy Lượng sáng tác trên đường đi sứ Thanh (1870), và một bài văn bia do Phạm Hy Lượng chấp bút trên đường công vụ. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu chi tiết, từng tác phẩm vừa kể của ông.

1. Phạm Ngư Đường Bắc sà nhật ký

Sách nằm tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.848. Có 1 bản viết tay khổ 29x21cm, 172 trang. Tình trạng văn bản còn khá tốt.

Sách ghi từ ngày 25 tháng 10 năm Canh Ngọ (1870), lúc sứ bộ vào Văn Minh điện bái mệnh ra đi, đến ngày 8 tháng 9 năm Nhâm Thân (1872), khi trở về bệ kiến. Cuối sách có bài bạt do Song Đồng Nguyễn Xuân Yến viết vào tháng 12 năm Nhâm Thân.

Đường sang Thanh của đoàn sứ bộ lần này, như tác phẩm cho thấy, bắt đầu từ kinh đô Huế, ra Hà Nội, vượt sông Hồng tới Lạng Thành. Trên đất khách, đoàn đi từ Thụ Hàng Thành, Nam Ninh Phủ Thành, Hòanh Châu, qua sông Bạch Thủy, tỉnh Hồ Nam, Hoàng Hà, tỉnh Trực Lệ, Dịch Thủy rồi tới Tứ Địch Quán yết kiến triều đình nhà Thanh. Đường về của sứ bộ cũng gần giống đường đi, có qua huyện Hàm Đan, bãi Ngũ Hiểm, châu Ninh Minh, Bằng Tường rồi tới Lạng Thành, qua Bắc Ninh, về Hà Nội.

Nhiều danh lam thắng cảnh như miếu Phục Ba, bãi Ngũ Hiểm, di tích về Liễu Tông Nguyên, đài Đồng Tước... từng nghe sách xưa người trước kể lại, nay được tận mắt chiêm ngưỡng, là điều vô cùng lý thú đối với sứ bộ, nhất là Phạm Hy Lượng. Nhiều lần, Phạm Hy Lượng đã thốt lên: "Cảnh không khác gì so với những điều ông Vân Lộc(14) từng kể". Có nhiều nơi, Phạm Hy Lượng chú thích tỉ mỉ về nguồn gốc, giai thoại liên quan đến di tích đó.

Qua Bắc sà nhật ký, người đọc có thể thấy một cách cụ thể tình cảnh người đi sứ, từ việc họ được lân bang nhiệt tình đón tiếp như thế nào, đến việc họ tận mắt ngắm nhìn vẻ tuyệt mỹ của thiên nhiên: "Tuyết rơi đến đêm mới ngừng. Bốn bề trắng xóa như rắc muối. Ôi, đẹp sao!" (tờ 61b). Nhưng cũng có khi thật trớ trêu, như việc quan Phó sứ thứ nhất của ta bị mất trộm tất cả triều phục, mũ mão (tờ 46); hay "gặp lúc mưa liên tục (...) Phòng ở thì trên dột dưới ẩm thấp. Không có nơi nào tránh được. Đành ngồi trên giá trúc, lấy giấy dầu che đầu. Cảnh lữ khách như vậy, nực cười thay!" (tờ 48).

Với nội dung ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ, Bắc sà nhật ký là sự bổ sung đáng quý cho nguồn tư liệu về nước ngoài của nước ta. Lời bạt của Song Đồng Nguyễn Xuân Yến cuối cùng sách Bắc sà là sự đánh giá khá trân trọng về tác dụng của cuốn nhật ký này:

"Đọc thơ đi sứ của Ngư Đường tiên sinh, cho rằng làm thơ khó thay. Lại đọc nhật ký đi sứ của ông, cho rằng viết ký khó thay. Nếu không có tài vận dụng, làm sao viết được. Nếu không có vốn học sâu xa, làm sao viết được. Nếu không có tri thức tinh thông, làm sao viết được. Viết ký lại làm thơ, dễ dàng được sao?".

"Người xưa nói rằng:

Muốn đáng mặt bậc nam tử trong thiên hạ
Phải đặt dấu chân lên vạn nẻo đường.

Vạn nẻo đường, đâu phải ai cũng trải qua được. Nhưng đọc cuốn ghi chép này thì cũng coi như đã từng đi. Vậy không đáng vui sao ? Huống chi lại được bốn phương quan tâm, càng bổ ích thay !"

Khách quan mà xét, trong khi dụng tâm ghi chép hiện thực trên đường đi, Phạm Hy Lượng không chú trọng lắm đến việc làm hoa mỹ ngôn từ, nhưng hành văn trong Bắc sà nhật ký không vì thế mà chểnh mảng. Lời văn giản dị, trong sáng và khúc chiết, thể hiện rõ ý đồ của tác giả là ghi chép trung thực những gì nhìn thấy trên lộ trình vạn dặm.

2. Bắc Minh sồ vũ ngẫu lục

Tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có hai ký hiệu sách:

- VHv.19: là bản viết tay; khổ 27x15cm; 137 trang. Mở đầu là bài tựa của viên lại huyện Ngạc Cương (Trung Quốc) tên Viên Phác Liêm (đề tháng Mạnh Xuân, năm Nhâm Thân, niên hiệu Thanh Đồng Trị thứ 12, tức tháng 1, năm 1872).

Sách có 182 bài thơ, gồm 105 bài thất ngôn; 76 bài ngũ ngôn và 1 bài từ (Thượng than từ).

- A.245: là bản viết tay, khổ 32x23cm; 128 trang. Mở đầu sách là dòng chữ Giáp sứ thi tập nhất quyển rồi mới đến dòng chữ Bắc Minh sồ vũ ngẫu lục. Sau đó là bài tựa của Viên Phác Liêm.

Sách bao gồm 219 bài thơ, trong đó có 130 bài thất ngôn, 88 bài ngũ ngôn và 1 bài hành (Thượng than hành).

Về bài tựa đầu sách Bắc Minh, tuy 2 bản chép có khác nhau một vài chữ, nhưng nội dung không thay đổi. Viên Phác Liêm - một nho sĩ của triều đình Thanh Mục Tông - lấy làm vinh hạnh vì được quen biết và đề tựa tập thơ sứ trình của Quang lộc tự thiếu khanh, Phó sứ Phạm Hy Lượng. Viên Phác Liêm coi cuộc hạnh ngộ này là "hàn mặc chi túc duyên, phong tần chi giai thoại" (mối duyên vốn có của văn chương, câu chuyện đẹp trong cõi trần).

Giữa hai ký hiệu VHv.19 và A.245 có những bài thơ hiện diện cả trong hai bản sách. Nhưng ở mỗi bản cũng lại có một số bài riêng mà bản kia không có. Cụ thể: bản VHv.19 có 17 bài thơ mà bản A.245 không thấy chép. Bản A.245 lại có 61 bài thơ không thấy chép trong bản VHv.19.

Mặc dù Bắc Minh sồ vũ ngẫu lục với hai ký hiệu khác nhau, có sự sai biệt về số lượng bài thơ, nhưng đề tài chủ đạo không thay đổi. Mấy trăm bài thơ chủ yếu là thơ thù tặng bạn hữu và những người mới gặp, thơ ngâm vịnh danh lam cổ tích và những niềm cảm hòai, chiêm nghiệm trước cuộc đời. Cũng như nhiều tác giả cùng thời, thơ Phạm Hy Lượng chứa đựng niềm hòai cổ:

Không Tang di tích tại,
Tích Tuyết cổ từ minh.

(Di tích Không Tang(15) còn đó
Miếu cổ Tích Tuyết(16) sáng ngời)
(Tờ 11b - Bình Nam hòai cổ)

Nhưng đằng sau đó, nhiều khi tác giả lại kín đáo ký thác những tâm sự khó nói ra trong cái hỗn loạn của nhân tình:

Dĩ trưng tam mã đồng tào thực,
Hà khổ quần qua nhất đỉnh phân.

(Đã rõ điềm ba ngựa ăn chung một máng(17).
Cớ sao phải khổ vì tranh phân ngôi vị)
(Tờ 32b - Quá Chương Hà hòai Ngụy Vũ Đế).

Anh hùng khuất tử tâm hà tử,
Miếu xã bình trầm sự mạc như.

(Anh hùng chết oan, nhưng tấm lòng làm sao chết được,
Xã tắc dần yên, việc phụng sự ai bằng ông).
(Tờ 32 - Yết Nhạc vương từ)

Nãi tri danh lợi chân hữu quyền,
Bạch liễu nhân đầu tráng nhân phủ.

(Mới biết danh lợi quả thật có quyền,
Làm bạc cả mái đầu người hãy còn sung sức).
(Tờ 22b - Tương giang thời vũ khai thuyền).

Dưới lớp áo của vị sứ thần Phạm Hy Lượng là một nho sĩ của chế độ phong kiến, một nhà thơ nhiều học vấn và một người Việt Nam đang khó xử trước họa Tây Dương. Thơ của ông có nỗi nhớ quê nhà đau đáu của người đi xa:

Tô kiều lộ thượng nhân như hải,
Vô hạn lý tình vạn điệp ba.

(Trên cầu Tô người qua lại đông như bể,
Tình biệt ly lai láng như muôn lớp sóng trào).
(Tờ 4b - Xuất môn khẩu chiếm tẩu ký chư hữu).

Tẩu mã hòai hương tục
Thương xa trướng viễn trình.

(Ngựa đi, nhớ về phong tục quê hương
Xe mỏi, buồn vì đường xa diệu vợi).
(Tờ 39a - Bạch Hà dịch trung thu)

Vạn lý khách hòai chu bất hệ
(Cách vạn dặm đường, nỗi nhớ nhà của người lữ khách cứ chơi vơi như con thuyền không buộc).
(Tờ 21b - Tương Ly đạo trung)

Dưới ngòi bút của Phạm Hy Lượng, con người không mấy thanh thản đều giao hòa với thiên nhiên, có chăng chỉ là ánh trăng cũng cô đơn như người lữ khách:

Thiên niên trần tích nguyệt đồng cô
(Di tích tự ngàn xưa, có trăng cũng cùng cô đơn với ta).
(Tờ 21b - Tương Ly đạo trung)

Còn thiên nhiên có khi đẹp mềm mại, có khi hào tráng dữ dội, nhưng tất cả đều buồn, hay ẩn giấu những cạm bẫy, thử thách:

Vân khởi sơn đầu vũ,
Phong lai thụ diệp đàn,
Y hy nguyên thấp thượng,
Hoa ý vị thăng hàn.

(Mây lên đầu núi nhảy nhót,
Gió tới lá cây rì rào.
Thấp thoáng những nơi nước đọng,
Màu hoa chưa chịu nổi khí lạnh).
(Tờ 13b - Giang vũ)

Bằng Di thị xứ cố tương kiêu,
Bôn thoan quá tảng chu tao bạch.
Nộ thạch vô ngôn lịch loạn hiêu,
Phi trạo cộng khan tình bất thuấn,
Chuyển loan chỉ giác ngạn toàn diêu.

(Thủy thần ở nơi đây còn kiêu ngạo với ta,
Nước xiết trào quá mặt khiến sóng xô trắng xóa bồn bề.
Đá ngầm không nói cũng phải kêu réo,
Sải mái chèo cũng trợn mắt nhìn không chớp.
Đến khúc quanh có cảm giác bờ chao đảo).
(Tờ 11a - Ngũ Hiểm Than).

Tóm lại, trong tập thơ đi sứ của Phạm Hy Lượng, dù là thơ thù tặng hay vịnh cảnh thì đằng sau đó, nội tầng sâu xa của những bài thơ ấy vẫn là tâm sự nước nhà của một người con đất Việt.

3. An Dương Vương từ bi ký

Bia đặt ở xứ Dạ Từ, thờ An Dương Vương (Dạ Từ thuộc xã Tập Phúc, tổng Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu; nay là xã Tập Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Thác bản được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn khá tốt, ký hiệu No2377. Bia có một mặt, khổ 110x65cm. Không có trán bia và hình trang trí. Toàn văn chữ Hán, được khắc chân phương, có 10 dòng, khoảng 200 chữ.

Năm Tự Đức 27 (1874), trong dịp công cán tại Nghệ An, nhân khảo cứu danh lam cổ tích, thấy đền Dạ Từ tương truyền là nơi An Dương Vương bị nạn chết, Phạm Hy Lượng bèn cho dựng bia này, khắc lời cảm hòai của mình về công tích đế vương, và hi vọng di tích sẽ được hậu thế gìn giữ lâu dài. Lời văn trang nhã và tha thiết, thể hiện niềm trân trọng và ngưỡng mộ đối với bậc tiền bối oanh liệt này.

Nhìn lại lịch sử nước ta, có thể nói thế kỷ XIX là thế kỷ của nhiều biến động quan trọng. Cuộc đời Phạm Hy Lượng lại gói trọn trong thời kỳ sôi sục nhất của thế kỷ ấy. Đọc văn và thơ Phạm Hy Lượng, thấy trĩu nặng nỗi nhớ nước thương nhà và trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc của tác giả. Văn của ông trong Bắc sà nhật ký là nguồn tư liệu quý cho người đương thời và hậu thế hiểu thêm về thế giới bên ngoài Việt Nam, trong khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn cương quyết thực hiện bế quan tỏa cảng. Thơ của ông trong Bắc Minh sồ vũ ngẫu lục là tâm tư của một người Việt Nam trong rất nhiều người Việt Nam, là sự tiếp nối của một thế hệ trong rất nhiều thế hệ, bồi đắp nên nền văn hiến có bề dày thời gian, không gian và chất lượng.

Sau đây, chúng tôi xin trích giới thiệu một số bài thơ trong Bắc Minh sồ vũ ngẫu lục của Phạm Hy Lượng, để bạn đọc có một ý niệm chung về thơ ông.

Bài 1:

Xuất môn khẩu chiếm tẩu ký chư hữu
Phong tuyết phân phân độ Nhĩ Hà,
Thập niên du tử hựu từ gia.
Tô kiều lộ thượng nhân như hải,
Vô hạn ly tình vạn điệp ba.

(A.245)

Dịch nghĩa:

Ra khỏi nhà, ứng khẩu vài lời, ghi vội gửi bạn hữu.
Qua sông Nhị trong gió mưa tầm tã,
Mười năm kẻ lang bạt lại từ biệt quê nhà.
Trên cầu Tô người qua lại đông như bể,
Tình biệt ly lai láng như muôn lớp sóng trào.

Bài 2:

Sứ trình chí Ninh Minh cải chu. Thời lạp vọng lập xuân dã. Ức khứ niên, giáp sứ Vân Lộc ông chí tự Yên, dĩ thị tịch, xả trang lữ hạ. Phú dĩ chí chi(17).
Lộ nhập Minh giang nhãn giới tân,
Chu liêm tú hạm dục mê tân(18).
Ngạn tiền thố nhận cố hương thụ,
Nguyệt hạ mang thôi lai tuế xuân.
Mộc thác loan phong do đới cựu(19),
Liễu dung mai ý tiệm nghi nhân(20).
Khứ niên thử nhật Yên(21) thiều lữ,
Kinh để quy viên chính tẩy trần.

Dịch nghĩa:

Sứ bộ đến Ninh Minh(*) thì đổi đi bằng thuyền. Khi ấy là 15 tháng 12 lập xuân. Nhớ năm ngoái, ông Phó sứ thứ nhất Vân Lộc từ Yên Kinh về, lúc đó là buổi chiều, hạ hành trang nghỉ tại đây. Nhân đó mà ghi lại.
Đường vào sông Ninh Minh khiến mắt nhìn mới lạ,
Mành đỏ rèm thêu như lạc vào bến mơ.
Trước bờ nhận lầm là cây cối nơi quê nhà,
Dưới trăng giục giã mùa xuân đến.
Cây san sát, vịnh ôm kín còn mang dấu cũ,
Vẻ mai ý liễu dần thích hợp với con người.
Nhớ ngày này năm ngoái bạn từ Yên Kinh tới,
(Ngày nào) xe trở lại kinh đô thì chính là lúc tẩy trần.

Bài 3:

Ngũ Hiểm than
Thế lộ quần tư nhiếp kịch khiêu,
Bằng Di(22) thì xứ cố tương kiêu.
Bôn thoan quá tảng chu tao bạch,
Nộ thạch vô ngôn lịch loạn(23) hiêu.
Phi trạo cộng khan tình bất thuấn(24),
Chuyển loan chỉ giác ngạn toàn diêu(25).
Thiết chu dao(26) kiến thiên thu liệt,
Thả đối thanh sơn yết(27) tửu biều.

Dịch nghĩa:

Bãi Ngũ Hiểm
Đường đời nghĩ khó trăm bề, phải nhón chân đi,
Thủy thần ở nơi đây còn kiêu ngạo với ta.
Nước xiết trào qua mặt khiến sóng xô trắng xóa bốn bề,
Đá ngầm vốn không nói gì cũng phải kêu réo.
Sải mái chèo cùng trợn mắt nhìn không chớp.
Đến khúc quanh có cảm giác như bờ sông chao đảo,
Từ thuyền lớn nhìn ra thấy vẻ hùng tráng của ngàn năm.
Lại cùng với non xanh nâng bầu rượu.

Bài 4:

Giang vũ
Nhất lãm quải(28) giang can,
Liên triêu tố cấp than,
Thủy thanh thường tại chẩm,
Vũ sắc hốt hòanh lan.
Vân khởi sơn đầu vũ,
Phong lai thụ diệp đàn.
Y hy nguyên thấp(29) thượng,
Hoa ý vị thăng hàn.

Dịch nghĩa:

Mưa trên sông
Neo thuyền bên bờ sông,
Mấy sáng liên tiếp nước ngược chảy xiết.
Tiếng nước chảy thường róc rách bên gối,
Giọt mưa chợt hắt ngang mái hiên.
Mây lên đầu núi nhảy nhót,
Gió tới lá cây rì rào.
Thấp thoáng trên những vũng nước đọng,
Màu hoa chưa chịu nổi khí lạnh.

Bài 5:

Hoa kiều dạ bộ
Khách sầu xuân tự(30) kết,
Giang khúc nhật quýnh hòan.
Triêu quá Phần Thủy lãnh,
Mộ trở thạch kiều biên.
Lãng bộ thính phi hưởng,
Khiêu châu dạng chuyển viên.
Tứ vọng nhân thanh tiễu,
Trường Canh(31) dao tại thiên.

Dịch nghĩa:

Buổi đêm dạo bước cầu hoa
Mùa xuân mới sầu lữ khách ngưng đọng.
Mặt trời bên khúc sông từ xa trở về.
Buổi sáng vượt qua dải Phần Thủy,
Buổi chiều tắc lại bên cầu đá.
Thả bộ nghe tiếng gió vọng,
Bước qua những khóm hoa, thấy ánh trăng chiếu thành vòng tròn trên mặt đất.
Bốn bề tiếng người buồn thương,
Sao Hôm xa lắc trên trời.

Bài 6:

Tương Ly đạo trung
Quế Ngạc giang sơn cổ Việt khu,
Thôi song lịch lãm kiến tam ngung.
Giang tòng Phần Thủy nguyên lưu biệt,
Sơn đáo Toàn Châu khí cách thù.
Vạn lý khách hòai chu bất hệ,
Thiên niên trần tích nguyệt đồng cô.
Bình thường vị giải lao yên mã,
Bồng để hoàn bi bễ nhục vô.

(A.245)

Dịch nghĩa:

Giữa đạo Tương Ly(32)
Quế, Ngạc(33) là vùng đất Việt cổ xưa,
Mở cửa sổ nhìn khắp ba phía.
Sông theo dải Phần Thủy tách ra hai dòng khác nhau,
Núi đến đất Toàn Châu đổi sang một ngả khác.
Cách vạn dặm đường, nỗi nhớ nhà của người lữ khách cứ chơi vơi như con thuyền không buộc,
Di tích tự ngàn xưa, có trăng cùng cô đơn với ta.
Thường ngày chưa hiểu nỗi vất vả trên yên ngựa,
Mà nay trong thuyền lại buồn vì đã xuống sức rồi.

Bài 7:

Hành Sơn huyện dạ thiếu
Sầu đáo duy cao thiếu,
Giang không đãn minh âm.
Sơn hòanh thương vũ quách,
Tinh lưu lục ba thâm.
Lữ khách nan vi dạ,
Biển chu bất hệ tâm.
Cựu du thiên lý ngoại(34).
Nghĩ hướng túy trung tầm(35).

Dịch nghĩa:

Đêm không ngủ ở huyện Hành Sơn
Nỗi buồn tới, không ngủ được đành chong mắt nhìn,
Trên sông chỉ thấy tối mịt mờ.
Núi xanh chạy ngang thành quách,
Sao sáng rập rờn trên mặt nước xanh thẳm.
Lữ khách khó lòng ngủ được,
Trong lòng chơi vơi như con thuyền không buộc.
Đã đi xa ngàn dặm,
Đành tìm cái say để quên đi.

Bài 8:

Bạch Hà dịch trung thu
Thất tĩnh chỉ song minh,
Vi vân quách thái thanh.
Trung thu kim dạ nguyệt,
Vạn lý cố viên tình.
Tẩu mã hòai hương tục,
Thương(36) xa trướng viễn trình
Hốt văn cách tường ngoại(37),
Tiếu hưởng tạp ca thanh.

Dịch nghĩa:

Tết Trung thu ở trạm Bạch Hà
Phòng yên tĩnh, ánh sáng rọi qua cửa sổ dán giấy,
Mây lớt phớt trên bầu trời.
Đêm nay trăng trung thu,
Đường xa muôn dặm, nhớ về vườn cũ.
Ngựa đi còn nhớ phong tục quê hương,
Xe mỏi buồn vì đường xa xôi.
Chợt nghe phía ngoài tường,
Vọng vào tiếng cười lẫn tiếng hát.

Bài 9:

Kỳ Dương tân thứ đãi(38) nguyệt
Ly gia tằng(39) thập tải,
Từ(40) quốc lộ tam thiên.
Tiêu giang cố sơn nguyệt,
Dạ dạ chiếu vô miên.

Dịch nghĩa:

Đỗ thuyền ở bến Kỳ Dương đợi trăng
Xa nhà hơn mười năm ròng,
Cách nước ba ngàn dặm đường.
Sông Tiêu, vầng trăng trên núi cũ,
Đêm đêm chiếu mãi không ngừng.

Bài 10:

Vĩnh Tế kiều
Niên tiền mộng chí nhất xứ.
Bàng hữu bát giác đình.
Đương đạo hữu hòanh biển chu lục đề.
Đáo thử, hoảng nhiên nhược tằng chí giả.
Nhân tri sinh khứ vãng, gia hữu định phận.
Bất an mệnh giả hà ngu dã(41).
Chỉ điểm Yên Đài lộ,
Sơ quá Trác Quận kiều.
Tình hà đê tiếp ảnh,
Thu thủy ám thông triều.
Mã cước trùng lan thúc(42),
Xa thanh sổ lý hiêu.
Bất do thân sở lịch.
Mỗi nhạ mộng hồn diêu(43).

Dịch nghĩa:

Cầu Vĩnh Tế
Năm ngoái mộng thấy đến một nơi, bên cạnh có lầu bát giác, phía trước có một tấm biển, chữ màu xanh đỏ. Nay đến cầu này, có cảm tưởng như mình đã từng qua. Thế mới biết người đời đi hay ở đều được xếp đặt cả rồi. Kẻ không an mệnh chẳng phải người ngu hay sao?
Hướng về đường Yên Đài,
Mới qua cầu Trác Quận.
Ráng mây soi liền bóng nước,
Nước mùa thu tiếp với sóng triều.
Chân ngựa thúc mạnh vào thành cầu,
Tiếng xe đi vang xa mấy dặm.
Không phải vì thân đã từng qua,
Mà cứ luôn ngờ là hồn mộng lang thang tới chốn này rồi.

CHÚ THÍCH

1. Nguyễn Huyền Anh soạn. In lần thứ 3, Sài Gòn, Khai trí, 1972.

2. Thái Văn Kiểm, Hồ Đắc Hàm soạn. Sài Gòn, Bộ Quốc gia giáo dục, 1962.

3. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Nxb. KHXH, H. 1969-1971.

4. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.

5. Dòng họ của Phạm Hy Lượng có một cuốn gia phả bằng chữ Hán, nay đã thất lạc. Hiện chỉ còn bản dịch ra chữ Quốc ngữ do một người trong họ thực hiện, chủ yếu chép ngày sinh và mất những người trong gia quyến. Những ghi chép trong gia phả phần nhiều phù hợp với các bộ chính sử. Những điều nào gia phả là nơi duy nhất ghi chép, chúng tôi sẽ nói rõ để bạn đọc tiện tham khảo.

Bản dịch gia phả này, chúng tôi được ông Phạm Huy Quỳnh cho mượn. Nhân đây, xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của ông.

6. Đại Nam thực lục, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Tập 32: Chính biên, Nxb. KHXH, H. tr.56.

7. Chỉ người Pháp (thực dân Pháp).

8. Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Bá Thế, Nxb. KHXH, H. 1991, tr.730.

9. Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1569, Q.38.

10. Trần Văn Giáp soạn. In lần thứ 2, Nxb. KHXH, H. 1971. Tập I, tr.447.

11. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.855.

12. Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ký hiệu A.1/1-9

13. Tức Nguyễn Tư Giản (1823-1890); hiệu Vân Lộc, Thạch Nông; đi sứ nhà Thanh năm 1868.

14. Tên đất cổ. Nay ở phía tây huyện Khởi, tỉnh Hà Nam, có thành Không Tang (Từ nguyên).

15. Tên di tích. Nay thuộc tỉnh Quảng Tây (Từ nguyên).

16. Chỉ việc họ Tư Mã gồm Tư Mã Ý, Tư Mã Chiêu, Tư Mã Viêm cướp nhà Ngụy của họ Tào.

17. Bản VHv.19 chép: “Lạp vọng lập xuân thị nhật đăng chu. Hồi ức khứ niên sứ bộ dĩ thị nhật xả trang. Nhân phú” (15 tháng 12 lập xuân là ngày lên thuyền khởi hành. Nhớ năm ngoái ngày nào, đoàn sứ bộ trước hạ hành trang ở đây. Nhân đó làm bài thơ này).

18. Bản VHv.19 chép: “Chinh phu tòng thử, thủy tri tân” (Kẻ chinh phu từ đây mới được biết bến sông này).

19. Bản VHv.19 chép: “Lan duệ đường chu đô nhập họa” (Chèo lan thuyền mộc, cảnh đẹp đều như vào tranh).

20. Bản VHv.19 chép: “Mai dung liễu ý tiệm nghi nhân” (Vẻ mai ý liễu dần thích hợp với con người).

21. Yên: Tức Yên Kinh, nay là Bắc Kinh.

(*) Ninh Minh: tên huyện, thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

22. Bằng Di: một tên gọi của thủy thần hay thần sóng, được dùng trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử.

23. Bản VHv.19 chép: “Nộ thạch vô ngôn lịch lạc hiêu” (Đá ngầm vốn không nói gì cũng phải kêu réo).

24. Bản VHv.19 chép: “Khoảnh khắc phi nhiêu tình bất thuấn” (Trong chốc lát sải mái chèo mà trợn mắt nhìn không chớp).

25. Bản VHv.19 chép: “Thương Hoàng lệ đạ ngạn toàn diêu” (Vột vàng chỉnh bánh lái, thấy bờ nghiêng ngả).

26. Bản VHv.19 chép: “Thiết chu tưởng kiến thiên thu liệt” (Từ thuyền lớn tưởng như thấy cả vẻ hùng tráng của ngàn năm).

27. Bản VHv.19 chép: “Thả đối thanh sơn địch tửu biều” (Cùng với non xanh dốc bầu rượu).

28. Bản VHv.19 chép: “Nhất lãm duệ giang can” (Neo thuyền lại bên bờ sông).

29. Bản VHv.19 chép: “Y hy nguyên tập thượng” (Thấp thoáng trên những vũng nước đọng).

30. Bản VHv.19 chép: “Khách sầu xuân phục kết” (Mùa xuân mối sầu lữ khách lại ngưng đọng).

31. Trường Canh: còn gọi là Kim Tinh, Thái Bạch, Minh Tinh, Khải Minh; ta quen gọi là Sao Hôm (khi nó mọc vào chiều tối) hoặc gọi là sao Mai (khi nó mọc vào sáng sớm). Thật ra đây chỉ là một ngôi sao.

32. Tương Ly: tên hai con sông. Ly Giang còn gọi là Quế Giang. Hai con sông này cùng nguồn, cùng dòng chảy, sau chia làm hai hướng khác nhau. Đời sau gọi là Ly Tương hoặc Tương Ly. Chữ “Tương Ly” là xa cách nhau cũng từ đó mà có.

33. Quế: tên vùng đất cổ, nay thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Ngạc: tên vùng đất cổ, nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Hồ Bắc (Trung Quốc).

34. Bản VHv.19 chép: “Dao chiêm Hòanh Nhạc lộc” (Xa nhìn chân núi Hòanh Nhạc).

35. Bản VHv.19 chép: “Vân khí đậu u sầm” (Khói mây tụ âm u).

36. Bản VHv.19 chép: “Khu xa trướng viễn trình” (Xe ngựa buồn vì đường xa).

37. Bản VHv.19 chép: “Thích văn hà thượng điếm” (Chợt nghe từ trong lều trên bờ sông”.

38. Bản VHv.19 chép: “Kỳ Dương tân thứ kiến nguyệt” (Đỗ thuyền ở bến Kỳ Dương gặp trăng).

39. Bản VHv.19 chép: “Ly gia kim thập tải” (Xa nhà đến nay là mười năm)

40. Bản VHv.19 chép: “Khứ quốc lộ tam thiên” (Cách nước ba ngàn dặm đường).(1) Bản VHv.19 chép: “Niên tiền mộng du lịch nhất sở, đương đồ hữu đình hữu biển, tằng dĩ ngữ Vân Lộc công: thị tự Vĩnh Tế kiều. Đáo thử hoảng nhiên, quanh cảnh nhược tằng chí giả” (Năm trước mơ thấy đi đến một nơi, giữa đường có ngôi đình có biển đề. Ông Vân Lộc từng nói: có lẽ giống cầu Vĩnh Tế. Đến đây có cảm tưởng, quanh cảnh như đã từng tới).

41. Bản VHv.19 chép: “Mã túc trùng lan thúc” (Chân ngựa thúc mạnh vào thành cầu).

42. Bản VHv.19 chép:

“Hề minh tầm mộng cảnh,
Đề ngạch hỏa trùng miêu”
(Ban ngày tìm thấy cảnh từng nằm mộng,
Biển đề miêu tả lại)./.

TB

THỬ GIẢI THÍCH MỘT TRƯỜNG HỢP
DỊ TỰ TRONG CÁC DỊ BẢN CỦA
"KHAI NGHIÊM BI KÝ"

ĐÀO PHƯƠNG CHI

Năm Khai Hựu thứ 11 (1339) Trương Hán Siêu đã soạn bài văn chùa Khai Nghiêm để khắc vào bia, lưu truyền cho đời sau, theo sự nhờ cậy của Chu Tuế - một vị quan trong Nội mật viện, người đã cùng dân làng đứng ra xây dựng lại chùa Khai Nghiêm, thuộc thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc - để ghi lại sự tích của chùa, "cho khỏi mai một mất dấu xưa". Bài văn này sau đó đã được khắc thành tấm bia Khai Nghiêm bi ký (開 嚴 碑 記). Tấm bia khắc lần đầu ấy hiện nay không còn nữa. Người ta đã khắc lại tấm bia đó vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). (Chúng tôi ngờ rằng tấm bia được khắc năm Khai Hựu thứ 11, vì trên tấm bia khắc lại vẫn còn lờ mờ nét hoa văn của bia trước mà chúng tôi đoán là hoa văn đời Trần).

Từ cổng chùa vào, bia nằm phái bên tay trái Khai Nghiêm bi ký được đặt trên một con rùa đá đã mất đầu. Bia khắc hai mặt (mặt sau là niên đại khắc lại của bia) có kích thước 117x74cm. Riềm trước của bia rộng 7cm, riềm sau rộng 8cm. Lòng bia được đánh sâu vào khoảng 0,5cm.

Khai Nghiêm bi ký hiện có rất nhiều bản sao. Ngoài tấm bia được khắc lại vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (trong bài viết này chúng tôi gọi là Bản 1) trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn có 6 bản sao, đó là:

1. Vọng nguyệt xã cổ tự bi 忘月 社 古 寺 碑 (Bản 2): được chép trong sách Kim Âu tự bi chí 金 甌 寺 碑 志 kí hiệu A.2620, ở các trang 9-10-11.

2. Yên Phong huyện Vọng Nguyệt xã cổ tự bi văn 安 豐 縣 忘 月 社 古 寺 碑 文 (Bản 3): được chép trong Bắc Ninh tự miếu bi văn 北 寧 寺 廟 碑 文 kí hiệu A.277, ở các trang 13,14,15.

3. Khai Nghiêm tự bi ký 開 嚴 寺 碑 記 (Bản 4): được chép trong Hoàng Việt văn tuyển 皇 越 文 選 (bản in), kí hiệu A.3163, ở các trang 31,32,33.

4. Khai Nghiêm tự bi ký (Bản 5): được chép trong Hoàng Việt văn tuyển (bản chép tay), ký hiệu A.203, ở các trang 31, 32, 33.

5. Khai Nghiêm tự bi ký (Bản 6): được chép trong Quốc triều thi văn tạp kí 國 朝 詩 文 雜 記 , kí hiệu VHv.403, ở các trang 21a,b, 22a.

6. Khai Nghiêm tự bi ký (Bản 7): được chép trong Hàn các tùng đàm 翰 閣 叢 談 kí hiệu A.268/2, ở các tr.106b, 107a,b.

Đối chiếu Bản 1 với 6 bản còn lại, ta thấy có rất nhiều điểm sai khác. Những điểm sai khác này phần nhiều thuộc các trường hợp sau: Sai lầm vô ý do tự dạng gần giống nhau; sai lầm cố ý của người sao chép: chép thừa; chép thiếu; chép đảo.

Trong số những sai khác ấy, nhiều trường hợp có thể khẳng định ngay rằng chữ dùng của Bản 1 là chính xác hơn, có trường hợp còn phải cân nhắc giữa Bản 1 và các bản khác (như hai chữ khác nhau có nghĩa tương đương, hoặc hai chữ khác nhau có cùng âm, cùng nghĩa...). Những trường hợp này, vì khuôn khổ của một bài tạp chí, chúng tôi không thể trình bày hết được. Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở một trường hợp mà chúng tôi thấy tương đối lý thú. Đó là chữ "Trần" trong đoạn văn sau: (...) 維 北 江 路 上 伴 如 兀 甲 次 二 社 開 嚴 寺 乃 陳 朝 月 生 公 主 所 刱 也 .

Phiên âm: (...) Duy Bắc Giang lộ thượng bạn Như Ngột giáp Thứ Nhị xã Khai Nghiêm tự nãi Trần triều Nguyệt Sinh công chúa sở sáng dã.

Dịch nghĩa: Chùa Khai Nghiêm ở xã Thứ Nhị, giáp Như Ngột, miền trên lộ Bắc Giang (là ngôi chùa) do công chúa Nguyệt Sinh triều Trần xây dựng.

Nếu chỉ dựa vào Bản 1 và Bản 2 thì chúng ta thấy rằng chùa Khai Nghiêm được một công chúa thời Trần dựng nên. Nhưng ở các bản còn lại (trừ Bản 3, vì bản này còn thiếu mất chữ đang khảo sát), chữ Trần 陳 đã được thay bằng chữ Lý 李 . Vậy là, theo thông tin từ các bản vừa đề cập, ngôi chùa lại được người triều Lý xây cất.

Trần 陳 và Lý李 là hai chữ có tự dạng khác xa nhau, đồng thời là tên gọi của hai triều đại, không thể lẫn làm một được. Vậy công chúa Nguyệt Sinh được nhắc trong Bản 1 là người nào ? Đâu là chữ trong nguyên bản ?

Trong khi chưa tìm ra lời giải đáp, thì may thay qua một chuyến điền dã về địa phương, chúng tôi đã được tới thăm nghè thờ Công chúa Nguyệt Sinh ở thôn Vọng Nguyệt. Trong nghè còn giữ được tấm bia Bản thần bi ký, ghi chép về công chúa Nguyệt Sinh, người được bản xã thờ làm Phúc thần Đại vương. Trên tấm bia không ghi năm khắc lần đầu, mà chỉ ghi năm khắc lại là Dương Hòa 8 (1626). Nguyên văn tấm bia như sau:

Phiên âm:

Thường văn ngã ấp cổ hiệu Ngột giáp Nhị xã. Cựu hữu phụng sự hà thần, kinh cửu bất tri. Chí Lý triều Kiến Gia nhị niên, ngã Nguyệt Sinh trưởng công chúa phò mã Thượng Thể thừa Huệ Tông phân thiên hạ ví nhị thập tứ lộ. Lộ phân, công chúa cư chi. Phụng đắc phân binh giáp tạo chiến thuyền. Hậu Chiêu Hoàng thất thủ, vi Trần sở di. Chí Trần triều Kiến Trung nhị niên, công chúa phò mã cử binh báo phục. Hợp trận vu Thái Nguyên trấn Vườn Cau xứ. Công chúa thế cùng, thất cơ tử trận, hóa vi cự mộc nhất điều, lưu chí Hiệp Hòa huyện Tiểu Mai xã giang bạn, lưu đình tại bãi cát biên bất phục. Thượng hạ, linh ứng. Âm báo bản xã kì lão. Nhưng đắc cứ cựu sinh phần. Cáo từ táng tại Đồng Nương xứ Tiểu Mai xã địa phận. Đồng Nương xứ tự hậu âm phù quốc mạch, bảo hộ phương dân, nẫm hữu linh ứng. Ngã ấp sự vi Phúc thần Đại vương. Nhị vị kỳ thần mộ táng điền nhất khu. Đông giáp Tiểu Mai xã dĩ quan đê vi giới. Tây giáp Tiểu Mai xã địa phận dĩ Ngô Hến vi giới. Nam giáp giang thủy. Bắc giáp Tiểu Mai xã địa phận dĩ tiểu lộ vi giới.

Minh thử thạch bi lưu truyền vạn đại.

Dương Hòa bát niên mạnh xuân nguyệt cát nhật trùng khắc.

Dịch nghĩa:

Bản ghi về vị thần xã ta

Thường nghe ấp của ta vốn có tên là xã Nhị giáp Ngột. Trước đó phụng thờ thần nào, từ lâu không ai biết. Đến triều Lý năm Kiến Gia thứ 2 (1212), Huệ Tông chia nước làm 24 lộ. Công chúa và phò mã được phân lộ cho ở, vâng mệnh phân xuất binh lính, tu tạo chiến thuyền. Về sau, khi Chiêu Hoàng thất thủ, cơ nghiệp chuyển về tay nhà Trần. Năm Kiến Trung thứ 2 đời Trần (1226), công chúa cùng phò mã cử binh báo phục, giao chiến ở xứ Vườn Cau thuộc trấn Thái Nguyên. Công chúa về sau thế cùng, thất cơ tử trận, hóa thành một cây gỗ lớn, trôi tới bên bờ sông của xã Tiểu Mai, huyện Hiệp Hòa thì dạt vào bãi cát, linh với đất trời, báo mộng cho các cụ già xã ta. Dân xã ta vẫn giữ sinh phần cũ, xin chôn cất tại Đồng Nương xã Tiểu Mai. Xứ Đồng Nương từ đó về sau được âm phù quốc mạch, bảo vệ phương dân, đã từ lâu linh ứng. Ấp ta bèn thờ phụng, làm Phúc thần Đại vương.

Mộ của hai vị chôn tại một khu ruộng phía đông giáp xã Tiểu Mai, lấy quan đê làm ranh giới, phía tây giáp xã Tiểu Mai, lấy Ngõ Hến làm ranh giới, phía nam giáp sông, phía bắc giáp xã Tiểu Mai, lấy con đường nhỏ làm ranh giới.

Nay khắc bài bia này lưu truyền vạn đại.

Khắc lại vào ngày lành tháng giêng năm Dương Hòa thứ 8 (1626).

Như vậy là, khác với bản 1 và bản 2, tấm bia trong nghè thờ công chúa Nguyệt Sinh cũng cho biết là người triều Lý. Vậy chúng ta nên theo chữ nào đây, "Lý" hay "Trần".

Để giải đáp điều băn khoăn này, chúng tôi đã tìm cách kiểm tra lại tính xác thực của Bản 1 và Bản thần bi ký bằng cách xem kĩ về giao đoạn Lý - Trần trong các sách chính sử, nhưng chúng tôi không hề thấy có nhân vật Nguyệt Sinh. Tuy vậy xét kĩ Bản thần bi ký, bên cạnh phần hư cấu mang tính huyền thoại, đặc trưng của dã sử, chúng tôi vẫn thấy tấm bia này có những thông tin liên quan tới lịch sử, đáng để chúng ta lưu tâm.

Chi tiết thứ nhất là việc vua Huệ Tông chia nước thành 24 lộ (ở đây có một sai khác nhỏ giữa Bản thần bi ký Đại Việt sử ký toàn thư cũng như Việt sử lược. Đại Việt sử ký toàn thư Việt sử lược chép rằng Huệ Tông chia nước thành 24 lộ vào năm Kiến Gia thứ 12 (1222) còn Bản thần bi ký lại là năm Kiến Gia thứ 2 (1212). Chúng tôi ngờ rằng ở Bản thần bi ký đã bị sót chữ 十 Lẽ ra phải là 十 二 年 thì lại khắc thành 二 年 ).

Chi tiết thứ hai là việc Nguyệt Sinh công chúa nổi dậy chống nhà Trần vào năm Kiến Trung thứ 2 (1226), tức là một năm sau khi nhà Trần cướp ngôi nhà Lý một cách nhẹ nhàng bằng một đám cưới giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Sự chống đối đó, tất nhiên, cũng không thấy chép trong chính sử. Nhưng việc phát hiện tấm bia nghè cho phép ta đặt giả thiết rằng: phải chăng, sự kháng cự của người thuộc tông thất nhà Lý (hay ít nhất cũng là người trung thành với triều Lý) trong thời điểm ấy, là điều có thật ?

Chi tiết thứ bao là các địa danh gắn liền với cái chết của Nguyệt Sinh như Ngõ Hến, xã Tiểu Mai, huyện Hiệp Hòa, cùng lăng mộ của bà được ghi trong bia hiện vẫn còn cho đến ngày nay. Các chi tiết đó, theo chúng tôi, là vô cùng lý thú, làm chúng ta có thể tin rằng có một nhân vật Nguyệt Sinh trong triều Lý. Bà chính là người đã đứng ra xây dựng chùa Khai Nghiêm (như trong Bản 1 đã ghi), rồi lại dấy binh chống lại nhà Trần, cố gắng giành lại vương triều nhà Lý từ tay nhà Trần. Và có lẽ, theo chúng tôi, cũng như nhiều trường hợp khác trong dã sử, bà vốn không phải là công chúa, nhưng vì yêu quý bà, muốn để cho hình ảnh của bà được đẹp thêm, dân gian đã gắn thêm cho bà tước vị công chúa. Và nếu việc nổi dậy của bà là có thật, thì phải chăng, việc chuyển cơ nghiệp đất nước từ triều Lý sang triều Trần không êm thấm, nhẹ nhàng như chính sử đã ghi lại, mà thực ra đã có những đợt sóng phản kháng, dù là yếu ớt.

Vì mới chỉ là bước đầu tìm hiểu, tư liệu cùng vốn hiểu biết còn hạn hẹp, trong khi chưa tìm thêm được tư liệu nào có những bằng chứng thuyết phục hơn, chúng tôi cho rằng, việc chọn chữ Lý 李 ở Bản thần bi ký và ở các Bản 4, 5, 6, 7 thay cho chữ Trần 陳 ở Bản 1 và Bản 2 là có cơ sở thỏa đáng hơn.

Nhưng khi đã đặt chữ Lý thì một câu hỏi nữa được đặt ra: Tại sao lại có sự sai khác giữa chữ 陳 và 李 ? Với hai chữ hòan toàn khác nhau về tự dạng như vậy, không thể có sự sai lầm vô ý, mà phải do sự sửa đổi của người sao chép. Vậy lý do nào dẫn đến sự sai khác này? Theo chúng tôi, nguyên nhân của nó thuộc về một biến đổi lịch sử. Như ở trên đã trình bày, tấm bia chùa Khai Nghiêm được Trương Hán Siêu soạn vào đời Trần (Khai Hựu thứ 11 - 1339). Thời điểm này, tất cả những người họ Lý đều đã bị đổi thành họ Nguyễn(1). Cho nên, khi làm bài văn này, Trương Hán Siêu chắc chắn cũng phải tuân thủ phép nước, dù có biết rõ Nguyệt Sinh họ Lý chăng nữa, ông vẫn phải đổi họ của bà ra họ Nguyễn.

Vậy vì sao từ chữ Nguyễn 阮 ở bản gốc lại thành chữ Trần 陳 trong bản bai khắc lại? Điều này, theo sự suy đoán của chúng tôi, có lẽ là vì, cho đến khi bia được khắc lại, trải qua thời gian 460 năm (1339-1799), bia đã bị mòn, chữ 阮 có thể không còn rõ nữa. Hơn nữa chữ阮 và chữ 陳 lại có cùng bộ liễu leo 阝bên trái nên khi khắc lại bia, có thể người khắc thấy bài văn bia vốn được viết ở đời Trần, đã suy đoán đó là chữ 陳rồi khắc vào bia như chúng ta đã thấy. Còn những bản chép là 李, như chúng tôi đã nói ở trên, là do người sao chép biết được Nguyệt Sinh là người triều Lý, nên đã sửa từ Trần thành (nếu chép lại từ bia năm Cảnh Thịnh thứ 7), hoặc từ Nguyễn thành (nếu chép lại từ bản gốc năm Khai Hựu thứ 11).

Trên đây là những suy nghĩ của chúng tôi trong bước đầu tìm hiểu về Khai Nghiêm bi ký. Trong khi chưa có cứ liệu nào khác hơn, chúng tôi xem đây là một ý kiến mạnh dạn nêu lên với mục đích góp phần cùng các nhà nghiên cứu khôi phục lại bộ mặt ban đầu của một bài văn bia hiện đang được nhiều người quan tâm.

Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của bạn đọc.

CHÚ THÍCH

(1) "Nhâm Thìn Kiến Trung thứ 8 (1232. Tháng 6, ban bố các chữ quốc hóa và miếu húy. Vì nguyên tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn. Vả lại, cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý" (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb. KHXH, .H. 1972)./.

TB

BƯỚC ĐẦU KIỂM KÊ LẠI NHỮNG TÁC PHẨM CỦA ĐẶNG XUÂN BẢNG TRONG
KHO SÁCH HÁN NÔM

HOÀNG VĂN LÂU

Đặng Xuân Bảng là một nhà hoạt động xã hội, nhà giáo dục học... Nhưng ông rất có ý thức hoạt động sáng tác ở mọi hòan cảnh. Khi lên nhận chức Bố chính ở Tuyên Quang, bọn tàn quân Ngô Côn(2) đánh phá khắp nơi thổ phỉ nổi lên như ong “Quê khách gặp người toàn chuyện giặc, khắp nơi làng bản chỉ quân binh”(3). Thế mà ông vẫn làm thơ. Số thơ này, sau tập hợp thành tác phẩm Như Tuyên thi tập.

Lại, thời gian bị đầy ở Đồn Vàng, Hưng Hóa, rừng thiêng, nước độc, ông bị ngã nước, bị lên nhọt, nhưng vẫn tận dụng thời gian biên soạn bộ Nam phương danh vật bị khảo. Ông nói: “Tôi đi làm quan các nơi, mỗi khi gặp sự vật gì, thì đều cho kiểm tra lại, rồi thuận tay cầm bút ghi chép. Thường tiếc là các sách của bậc tiền bối còn nhiều thiếu sót và sơ lược. Năm Kỷ Mão (1879) bị đầy ở Đà Giang, tôi nhân dịp ấy đem các sách của cổ nhân và chư vị tiền bối nước ta, sách Nhất thống chí của bản triều và những gì bản thân ghi chép được hàng ngày ra khảo đính lại, chỗ còn thiếu thì bổ sung, chỗ sai lầm thì đính chính, chỗ chưa biết thì để trống, chia thành môn loại, chú âm Việt, ghi rõ hình trạng để làm tài liệu tham khảo” (Nam phương danh vật bị khảo tự).

Khi ông còn sống, Nguyễn Xuân Chức đã nêu một danh mục tác phẩm của ông gồm 12 tên sách: Nhân sự kim giám thư, Nam phương danh vật bị khảo, Độc sử bị khảo, Cổ kim thiện ác kinh, Cổ nhân ngôn hành lục, Cư gia khuyến giới tắc, Diễn huấn tục quốc âm, Thiện Đình thi, Thiện Đình văn, Kinh Truyện toát yếu, San bổ thông giám tập lãm tiện đọc sử, Tuyên Quang phú(4).

15 năm sau khi ông mất, năm 1925 Đặng Nguyên Khu có kiểm lại tác phẩm của ông đưa ra một danh mục như sau: 1. Cổ nhân ngôn hành lục. 2. Nam phương danh vật bị khảo. 3. Bắc sứ thông giám tập lãm. 4. Huấn tục. 5. Nam sư tập lãm. 6. Sử học bị khảo. 7. Thiện ác kinh. 8. Cư gia khuyến giới tắc(5).

Lại, 60 năm sau khi ông mất, cụ Trần Văn Giáp đã liệt kê một danh mục 18 tác phẩm của ông: Độc sử bị khảo, Diễn huấn tục quốc âm, Thiện Đình thi, Thiện Đình văn, Khâm định tập vận trích yếu, Huấn tử quốc âm ca, Cư gia khuyến giới tắc, Cổ kim thiện ác kinh, Thánh Tổ hạnh thực diễn ca, Bắc sử thông giám tập lãm tiện độc sử, Nam sử tiện lãm, Nam phương danh vật bị khảo, Huấn tục ca, Tuyên Quang phú, Như Tuyên thi tập(6).

Riêng Ban Hán Nôm, nay là Viện Nghiên cứu Hán Nôm, là trung tâm lưu giữ sách Hán Nôm lớn nhất, vào năm 1977, biên soạn Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả, ở mục Đặng Xuân Bảng, đã liệt kê một danh mục 11 tác phẩm của ông:

1. Huấn tục quốc âm ca. AB.287.

2. Nam phương danh vật bị khảo. VHb.288.

3. Sử học bị khảo. AB

4. Tiên nghiêm hội định thí văn. VHv.2377.

5. Thiện Đình Khiêm Trai văn tập. VHv.1600

6. Cổ nhân ngôn hành lục. VHb.285/1-3.

7. Cư gia khuyến giới tắc .A.166.

8. Việt sử chính biên tiết yếu. VHv.2737

9. Việt sử cương mục tiết yếu. VHv.2383.

10. Nhị độ mai truyện. AB.419.

11. Thánh tổ hạnh thực diễn âm ca. VHv.2380(7).

Nhận thấy các danh mục nêu trên có nhiều điểm chưa nhất trí, chúng tôi đã tiến hành công việc xem xét lại toàn bộ số tác phẩm của Đặng Xuân Bảng, chủ yếu là số sách hiện lưu giữ tại Viện NCHN. Sau đây là kết quả điều tra của chúng tôi:

1. Tiên nghiêm hội đình thí văn: sách chép tay, ký hiệu VHv.2384, VHv.2377; sưu tập các bài thi của Đặng Xuân Bảng trong khoa thi Hội năm Bính Thìn (1856) và bài thi Đình. Gồm:

a, Quyển thi Hội, có 4 kỳ: Kỳ đệ nhất có 4 bài kinh nghĩa; Kỳ đệ nhị có 1 bài văn sách; Kỳ đệ tam có 1 bài thơ, 1 bài phú; Kỳ đệ tứ có 1 bài chiếu, 1 bài biểu, 1 bài luận.

b, Bài văn sách thi Đình

Ngoài ra, sách còn có: Biểu tạ ơn thi đỗ của Đặng Xuân Bảng; Tờ tâu của Tổng đốc Định - Ninh Cao Xuân Dục xin khai phục chức hàm cũ cho Đặng Xuân Bảng; Bản đồ Hà Nội năm 1889...

2. Khâm định nhân sự kim giám: 13 tập. Nội các triều Nguyễn, trong đó có Đặng Xuân Bảng, biên soạn theo lệnh vua. Bản chép tay của Thư viện Long Cương. Ký hiệu VHv.419/1-13.

Thư mục đề yếu(8) ghi Cao Xuân Dục, hiệu Long Cương biên soạn. Nhưng xét ra, đây là một tác phẩm lớn (13 tập, 2748 trang) nội dung đều bàn về đạo “đế vương”, được biên soạn theo lệnh của Hoàng đế nên mới dùng chữ “Khâm định”. Xét các mục của tập sách như Đế hiếu, Đăng dung, Tiềm hối. Sáng nghiệp, Trung hưng... Hoàng hậu, Thái tử, Thái tôn, Hoàng phi, Công chúa... đều là những nội dung về đường lối, phương pháp, chính sách, đạo đức của Đế vương, đúc kết từ hàng trăm tác phẩm thuộc các bộ Kinh, Sử , Tử, Tập. Chính trong tờ tâu gửi về triều đình, Cao Xuân Dục cũng khẳng định. Năm Tự Đức 10 (1857), Đặng Xuân Bảng được sung vào Nội Các để tu sửa Nhân sự kim giám(9). Như vậy, bộ Khâm định nhân sự kim giám là do một tập thể tác giả trong Nội các triều Nguyễn biên soạn, trong dó có Đặng Xuân Bảng.

3. Tuyên Quang tỉnh phú: biên soạn năm Tự Đức 14 (1861). Ký hiệu A.964.

Sách này, Mục lục tác giả không đưa vào danh mục tác phẩm của Đặng Xuân Bảng. Thư mục đề yếu (tập III, tr 472-473) không ghi tên tác giả.

Xét: Lời Tựa ở đầu sách có đoạn (Dịch): Tháng 3, năm thứ hai hồi tôi coi phủ Yên Bình, Lê hầu (Lê Dụ, người La Sơn, Nghệ An) từ Thanh Hóa đổi ra làm Bố chính Tuyên Quang. Yên Bình là đất của Tuyên Quang. Tôi đến chào Lê hầu. Ông bảo tôi làm bài phú về Tuyên Quang...”

Năm Tự Đức 14 (1861) (niên đại biên soạn Tuyên Quang tỉnh phú) đúng là năm thứ 2 Đặng Xuân Bảng làm Tri phủ Yên Bình. Tác phẩm này do Đặng Xuân Bảng biên soạn đã rõ.

Đây là bài phú nói về địa lý, lịch sử và truyền thống văn hóa của các dân tộc ở Tuyên Quang. Sách đã được viên Đại tá người Pháp Bonifacy dịch ra tiếng Pháp(10).

4. Như Tuyên thi tập: biên soạn năm 1868, vào dịp tác giả làm Bố chính Tuyên Quang. Ký hiệu VHv.2384 (đóng chung với sách Tiên nghiêm hội đình thí văn), gồm 25 bài thơ chữ Hán. Phần lớn đều nói về việc tiễu phỉ và quan hệ với các tướng lĩnh quân Thanh sang dẹp phỉ.

5. Nam phương danh vật bị khảo: biên soạn vào các năm 1876-1878. In năm Thành Thái Nhâm Dần (1902). Ký hiệu VHb.288. Đây là một bộ từ điển song ngữ Hán - Việt (Nôm), đồng thời cũng là bộ từ điển tường giải “ghi lại hình dạng (sự vật) để tham khảo”. Các từ trong sách được xếp theo 30 chủ điểm để dịch và giải thích.

6. Huấn tục quốc âm ca: Khắc in năm Thành Thái 7 (1895). Hành Thiện Nhị thánh từ tàng bản. Ký hiệu AB.287.

Ba bài ca Nôm khuyên giữ phong tục thuần hậu:

a, Huấn tử ca: nguyên của ông Hoàng Giáp họ Phạm soạn, Đặng Xuân Bảng san bổ, nhuận sắc và khắc in.

b, Vương trung thư khuyến hiếu ca: Phạm Đình Toái người xã Quỳnh Đôi (Nghệ An) biên soạn. Đặng Xuân Bảng nhuận sắc và khắc in.

c, Thái Thượng cảm ứng thiên quốc âm ca: Đặng Xuân Bảng soạn. Bản dịch Thái Thượng cảm ứng thiên ra thể thơ Nôm 6-8.

7. Cổ nhân ngôn hành lục: Đặng Xuân Bảng biên soạn, Đặng Ngọc Toản bình điểm, Đặng Xuân Hồn hiệu đính. In năm 1895, Hành Thiện Nhị Thánh từ tàng bản, 3 quyển, ký hiệu A.1058.

Bộ sưu tập những lời nói hay, hành vi đẹp của danh nhân các đời, chia theo chủ điểm, như Trau dồi phẩm chất (Lập nhân phẩm) , Hiếu kính với cha mẹ (Hiếu phụ mẫu), Thân ái trong anh em (Hữu huynh đệ).

8. San bổ Thông giám tập lãm tiện độc hay Thông giám tập lãm tiện độc: Đặng Xuân Bảng biên tập, 13 quyển, khắc in năm 1817. Nhị Thánh từ tàng bản. Ký hiệu AC.241.

Tóm tắt lịch sử Trung Quốc từ thời Bàn Cổ đến Quế Vương nhà Minh. Về sự kiện lịch sử, dựa theo bộ Thông giám tập lãm của nho thần nhà Thanh. Về nghị luận của các tiên nho, thì dựa theo bộ Thiếu Vi tiết yếu của Bùi Huy Bích.

9. Thánh Tổ hạnh thực diễn âm ca: Đặng Xuân Bảng biên soạn, Đặng Xuân Khanh chép năm 1962 theo bản in năm 1898. Nguyễn Tấn Minh kiểm duyệt. Ký hiệu VHv.2380.

Bài ca Nôm theo thể thơ 6-8 kể sự tích thánh Không Lộ, họ Dương, húy Minh Nghiêm, ở hương Giao Thủy, phủ Hải Thanh...

10. Cổ huấn nữ ca: Đặng Xuân Bảng biên soạn. Chép trong Thánh tổ hạnh thực diễn âm ca ký hiệu VHv.2380/

Lời khuyên con gái ăn ở nết na, hiếu kính với cha mẹ.

11. Cư gia khuyến giới tắc: Đặng Xuân Bảng biên tập. In năm 1901. Hạnh Thiện Nhị Thánh từ tàng bản. Ký hiệu A.166.

Những lời nói hay, hành vi đẹp của tiên hiền, dùng để khuyên răn trong gia đình. Có 8 điều khuyên và 8 điều răn gồm 16 mục.

12. Nhị độ mai truyện: Đặng Xuân Bảng biên dịch. Đặng Ngọc Toản bình điểm. Bản chép tay. Ký hiệu AB.419.

Bản dịch Nôm theo thể thơ 6-8 truyện Nhị độ mai của Trung Quốc từ vận giao thái, tức từ đoạn giữa đến hết.

13. Thiên Đình Khiêm Trai văn tập: Đặng Xuân Bảng soạn, sách chép tay. Ký hiệu VHv.1600.

Sưu tập văn của Đặng Xuân Bảng, có bài phú nói về việc xây dựng cầu Long Biên, câu đối, trướng, làm trong các dịp chúc thọ, mừng thi đỗ, viếng tang... Có một số bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền và Vũ Phạm Khải.

14. Sử học bị khảo: Đặng Xuân Bảng biên khảo. Sách chép tay, 2 ký hiệu A.1490 và A.8.

3 chuyên khảo về lịch sử Việt Nam: Khảo về Thiên văn, khảo về địa lý, khảo về quan chế. Phần Địa lý khảo được Đào Duy Anh đánh giá là “một công trình nghiên cứu địa lý học lịch sử quan trọng nhất trong giới học thuật Việt Nam thời phong kiến(11).

15. Việt sử cương mục tiết yếu: Đặng Xuân Bảng biên tập. Sách chép tay. Các ký hiệu VHv.161/1,4,5,6 và VHv.2737/II, III, IV, VII, VIII. Trọn bộ gồm 8 quyển. Lời tựa viết năm Thành Thái 17 (1905).

Bộ sử Việt Nam từ Hùng Vương đến Tây Sơn, trình bày sự kiện một cách cô đọng, theo lối “cương mục”, có các phần chú, án, bình, khảo của tác giả và nhiều sử gia khác(12). Sách này còn bản VHv.2383, có bài tựa, trích thơ vịnh sử, bải Tổng luận lịch sử Việt Nam (thiếu) và nội dung tóm tắt lịch sử Việt Nam, có thể xem như đề cương của bộ Việt sử cương mục tiết yếu.

Trên đây, là những tác phẩm của Đặng Xuân Bảng còn giữ được ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Ngoài ra, trong Văn đàn bảo giám(13), có sưu tập 10 bài thơ Nôm của Đặng Xuân Bảng, chưa rõ xuất xứ.

Lại, trong Hành Thiện xã chí, có 2 tác phẩm của Đặng Xuân Bảng là Thánh Tổ sự tích viết về đức thánh Không Lộ họ Dương húy Minh Nghiêm và Thánh Tổ sự tích khảo bạt, đính chính sai lầm của Hậu lục và truyền văn về đức Không Lộ(14).

Với gần 20 tác phẩm còn giữ lại được, chúng ta thấy hoạt động sáng tạo của Đặng Xuân Bảng thực phong phú và đa dạng. Tác phẩm của ông thuộc cả bình diện sáng tác và nghiên cứu, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, như văn học, ngôn ngữ, đạo đức, giáo dục, tôn giáo, lịch sử... Ông xứng đáng được liệt vào hàng ngũ những tác gia quan trọng của nửa cuối thế kỷ XIX mà chúng ta cần chú ý khai thác, nghiên cứu và học tập.

CHÚ THÍCH

1. Về tiểu sử của Đặng Xuân Bảng, xin xem: Việt sử cương mục tiết yếu, vài nét về tác giả và tác phẩm, TCHN, số 3 -1995, tr.21-25.

2. Ngô Côn, Ngô Kính là tàn quân của Thái bình thiên quốc, bị quân triều đình nhà Thanh đánh bại.

3. Như tuyên thi tập, ký hiệu VHv.2384, tờ 41a.

4. Dẫn theo Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập I, Nxb. Văn hóa, H. 1984, tr.310.

5. Đặng Nguyên Khu: Hy Long dĩ thặng, Nam phong số 139-140, tháng 6-7 năm 1929.

6. Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, Nxb, KHXH, H. 1970.

7. X. Ban Hán Nôm: Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả, Bản in Rônéo, tr.443.

8. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Tập II, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.22.

9. Tiên nghiêm hội đình thí văn, ký hiệu VHv.2384, tờ 38b, dòng 2.

10. X. La province de Tuyên Quang composition littéraire de M.Dang Xuan Bang, duitéeet annotée par M.le colonel Bonifacy. Revue In dochinoise No.9,10, 1922, P138-139.

11. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. KHXH, H. 1961, tr.5.

12. Xin xem: Về văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu. Tạp chí Hán Nôm, số 4- 1994, tr.32-36.

13. X. Trần Trung Viên: Văn đàn bảo giám. Q.II, Mặc Lâm xuất bản, 1968, tr.33-37.

14. X. Đặng Xuân Viên: Hành Thiện xã chí, Hành Thiện tương tế hội ấn hành. Gia Định, 1974, tr19-24./.

TB

THẦN SIÊU DỰNG PHƯƠNG ĐÌNH
DẠY HỌC TỪ BAO GIỜ?

VŨ THẾ KHÔI

Một số sách như Lược truyện các tác gia Việt Nam (1962). Các nhà khoa bảng Việt Nam (1993) viết: sau khi cáo quan về hưu, tức sau 1855, Nguyễn Văn Siêu dựng Phương đình dạy học. Các sách khác như Danh nhân Hà Nội (1973), Tự điển văn hóa Việt Nam (1993) không nêu rõ.

Trong khi sưu tầm thơ văn của tiến sĩ Vũ Tông Phan chúng tôi phát hiện chùm thơ có nhan đề chung Phương Đình Nguyễn tửu diên nhất xướng nhất họa (Các bài thơ xướng họa ở tiệc rượu của Nguyễn Phương Đình), chép từ tờ 6b đến tờ 14a trong Chư gia thi văn tuyển (CGTVT), có đóng dấu Thư viện trường Viễn đông Bác cổ, hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.357. Sau đề có câu chú: “Kiến tân đình cố hữu thử yến” (Xây đình mới nên có tiệc này) và danh sách 7 vị tham dự là: Phương Đình Nguyễn (Nguyễn Siêu), Chu Thần Cao (Bá Quát), Hy Vĩnh Lê (Duy Trung), Hoán Phủ Vũ (Tông Phan), Khoái Ông Nguyễn (?), Thận Tư Trần (Văn Vi) và Di Xuân Diệp (Xuân Huyên). Như vậy là trong “chiếu bạn bút nghiên” của Thần Siêu vắng Ngô Thế Vinh, lúc ấy đang làm lang trung ở bộ Lễ, và Nguyễn Văn Lý mà nhóm bạn này vừa mới tiễn về Huế nhận chức mới.

Sự có mặt và tham gia xướng họa của Cao Bá Quát giải thích cho chúng ta lý do tại sao trong các tập thơ văn của Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Siêu không hề một chữ nhắc tới cuộc xướng hoạ nhân dịp xây Phương đình này: sau khi Cao Bá Quát hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và gia tộc ông bị án tru di, đương nhiên bạn bè ông phải thiêu hủy mọi dấu tích liên quan với “bạn nghịch”.

May thay, trong Cao Chu Thần thi tập (CCTTT) cũng do trường Viễn đông Bác cổ thuê sao lại sau này, hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.299, chúng tôi thấy có chùm thơ nhan đề Phương đình yến tập, chủ nhân dụng đình vận chiêu thi, dư đắc ngũ ngôn (Tại yến tiệc ở Phương đình, chủ nhân lấy vần “đình” mời làm thơ, tôi được làm bài ngũ ngôn). Chẳng những bài ngũ ngôn của Cao Bá Quát chép ở đây hòan toàn khớp với bài xướng của ông chép trong CGTVT, mà những bài ông họa vần thơ của người khác (chẳng hạn, họa bài xướng vần “đình” của Vũ Tông Phan) cũng trùng hợp. Điều này xác nhận quả đã có cuộc thù tạc của nhóm sĩ phu Hà thành tập hợp quanh Phan - Siêu nhân dịp khánh thành Phương đình.

Bản thân sự tham dự của Vũ Tông Phan (mất năm 1851)(1) và Cao Bá Quát (cuối năm 1853 đã đứng đầu nghĩa quân Mỹ Lương và hy sinh năm 1851)(2) khẳng định Nguyễn Văn Siêu dựng Phương đình dạy học trước khi ra làm quan, tức trước năm 1838.

Cả hai chùm thơ dùng vần “đình” để xướng họa trong Cgtvt và CCTTT đều không ghi niên đại. Vì việc xác định thời điểm dựng Phương đình dạy học của Nguyễn Văn Siêu khá quan trọng đối với sự tìm hiểu hoạt động của nhóm sĩ phu Hà thành tập hợp xung quanh Phan - Siêu, chúng tôi đã cố gắng thực hiện điều đó qua đối chiếu văn bản số bài thơ và sử liệu liên quan. Cụ thể như sau:

Cũng trong Cgtvt, ở tờ 27a chúng tôi bắt gặp bài thơ vần “đình” nhan đề Tân tiến quán dữ Phương đình tương cách tài nhất khê thủy, nhân phú trình (Mới đến “quán” chỉ cách Phương đình một lạch nước, nên làm bài phú trình). Bài thơ không đề tên tác giả, không ghi niên đại, nhưng có câu rất cụ thể, đại ý: phía sau “quán” tôi đối diện với ngôi đình của bác, cách nhau chỉ một lạch nước luôn luôn cạn. Câu này gợi ý chúng tôi thử tìm trong thơ văn của Nguyễn Văn Siêu xem có gì khả dĩ soi tỏ tác giả và niên đại bài thơ trên không. Quả nhiên trong Phương Đình anh ngôn thi tập (PĐANTT), quyển 1, ký hiệu A.188/1, lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ở tờ 35a có chép bài thơ cũng vần “đình” nhan đề Họa đáp Trần Thận Tư ngâm thưởng Phương đình nhất thủ, (Họa đáp thơ của Trần Thận Tư vịnh khen Phương đình. Một bài) có câu tương ứng về ý: lại yêu xóm tôi lân cận, cùng bác qua lại đã lâu. Vậy tác giả bài Tân tiến quán... là Trần Văn Vi. Cụ Trần Văn Giáp trong tác phẩm Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (1970), Tập 1, ghi ông người phường Đông Các, huyện Thọ Xương (khoảng Hàng Bạc ngày nay), nhưng về tiến sĩ Trần Huy Tích, con trai ông, lại ghi là người phường Dũng Thọ. Sách Thượng Phúc tiến sĩ Lê đại phu hành trạng (ký hiệu VHv.2606, Viện Nghiên cứu Hán Nôm), ở tờ 7b ghi: “Trần Văn Vi, hiệu Thận Tư, Dũng Thọ cử nhân”. Như vậy hẳn ông là người phường Đông Các, nhưng dựng “quán” mới ở cùng phường với Nguyễn Văn Siêu, sau truyền lại cho con trai. “Quán” của Trần Văn Vi là nhà dạy học, vì trong CCTTT, có chùm thơ Tục đề Thận Tư học quán hựu thứ Phương đình vận cửu thủ (Lại vịnh nhà dạy học của Thận Tư, lần nữa họa vần của Phương Đình).

Bài Hoạ đáp Trần Thận Tư ngâm thưởng... của Nguyễn Văn Siêu cũng không ghi niên đại cụ thể, nhưng PĐantt được biên tập cẩn thận và khắc in, các bài thơ xếp sắp theo trình tự thời gian, nên có thể đối chiếu với những sự kiện có ghi chép trong quốc sử để xác định niên đại. Trong quyển 1 PĐANTT bài Họa đáp Trần Thận Tư ngâm thưởng... được khắc in tiếp sau bài Phỏng Hoán Phủ Kiếm Hồ âu cư (Thăm ngôi nhà u tịch của Hoán Phủ bên hồ Gươm), mà theo Đại Nam thực lục thì tháng 5/1833 Minh Mạng cử Bùi Trần Đản ra làm đốc học Bắc Ninh thay Vũ Tông Phan, như vậy ông Phan trở về thôn Tự Tháp ven hồ Gươm chậm nhất cuối hè 1833. Ngôi nhà u tịch Thần Siêu nhắc tới đây lại là “tân cư” (Bệnh quy đắc tân cư), chính là ngôi nhà tranh của ông cha làm, cũng vẫn thơ của Thần Siêu cho biết, ông Phan mới sửa sang lại (Số duyên trúc lý bổ mao tân - với mấy cột kèo sửa mới nếp tranh trong khóm trúc) chắc hẳn vào cuối năm 1833. Các bài trong chùm thơ xướng họa ở cuộc rượu mừng khánh thành Phương đình luôn láy đi láy lại “xuân nhật”, “xuân phong”, “xuân hoa”, thậm chí chỉ đích xác: “Cửu thập phong quang dĩ bán qua” (Chín chục ngày phong quang đã hơn nửa trôi qua).

Các bài thơ trên đây của Nguyễn Văn Siêu trong PĐANTT đều khắc in ở trước bài thơ nhan đề Tiên phu tử húy nhật lễ thành giai chư hữu du Hoán Phủ Vũ đài hồ cư - viết về lễ kỵ kỷ niệm 10 năm ngày mất của vị tôn sư Phạm Quý Thích. Lập Trai tiên sinh hành trạng lại cho biết chính xác Phạm Quý Thích mất ngày 29-3 (â.l)-1825. Như vậy Nguyễn Văn Siêu sáng tác bài thơ về ngày giỗ thầy và cuộc thăm viếng ngôi nhà ven hồ của Vũ Tông Phan năm 1835.

Đến đây có thể kết luận: các bài thơ xướng họa nhân dịp dựng xong Phương đình của Nguyễn Văn Siêu và học quán của Trần Văn Vi đều có niên đại: xuân 1834.

Vậy là Nguyễn Văn Siêu, và cả Trần Văn Vi nữa, đã dựng trường dạy học cùng một lúc với Vũ Tông Phan. Trong nhóm sĩ phu Hà thành tập hợp xung quanh Phan – Siêu chí ít ra Cao Bá Quát và Lê Duy Trung cũng đã dạy học từ trước đó: Cao Bá Quát ở đâu đó gần khu vực Quán Thánh, Lê Duy Trung - mới đầu ở phường Hà Khẩu (nay là Hàng Buồm), sau chuyển về Dương Liễu (nay là Dương Liễu, ngoại thành Hà Nội). Các trường này không hoạt động riêng lẻ mà có quan hệ với nhau, bởi vì thơ văn thù tạc - mà bấy lâu nay dường như bị coi là “vô bổ”! - hé mở cho bọn hậu sinh chúng ta những điều tâm đắc và ý nghĩa sâu sắc trong việc làm của họ.

Nhưng đó là đề tài của một câu chuyện khác.

CHÚ THÍCH

1. Về đính chính năm sinh, năm mất của Vũ Tông Phan (1800-1851) xin tham khảo bài viết của chúng tôi Về thân thế Tiến sĩ Vũ Tông Phan đăng Tạp chí Hán Nôm, số 3/ 1993.

2. Thơ văn Cao Bá Quát, in lần thứ ba. Nxb, Văn học, H. 1984, tr.39-40./.

TB

"CA TỲ TỬ" (OTOGIBOKO) VÀ "VŨ NGUYỆT VẬT NGỮ" (UGETSUMONOGATARI) VỚI "TRUYỀN KỲ MẠN LỤC"

NGUYỄN THỊ OANH

Truyện Truyền kì mạn lục là loại hình văn học được ưa chuộng ở xứ sở mặt trời mọc. Từ xa xưa trong các tác phẩm văn xuôi nổi tiếng của Nhật Bản như: Nhật Bản linh dị ký (Nihonryoiki) (日本靈異記) năm 813, Kim tích vật ngữ tập (Konjakumonogatarishu) (今 昔 物 語 集) khoảng đầu thế kỷ XII. Cổ kim trứ vật ngữ (Konkochonomogatari) (古 今 著 物 語) năm 1254, đều chứa đựng trong nó những yếu tố kì lạ. Các tác phẩm nói trên ít nhiều đều chịu ảnh hưởng truyền thuyết quái dị Trung Quốc. Ở Trung Quốc có rất nhiều tác phẩm quái dị như Tây dương tạp trở (西 陽 雜 俎), Kê thần lục (稽 神 錄), Thanh dị lục (清 異 錄) Sưu thần kí (搜 神 記)... Các tác phẩm như Tiễn đăng tân thoại (剪 燈 新 話), Tiễn đăng dư thoại (剪 登 與 話) , Liêu Trai chí dị (聊 齋 志 異), sau khi ra đời không những có ảnh hưởng đối với trong nước mà còn ảnh hưởng tới các nước trong khu vực có cùng sử dụng ngôn ngữ văn tự Hán. Tiễn đăng tân thoại (TĐTT) du nhập vào Triều Tiên, người Triều Tiên cải biên thành Kim Ngao Tân thoại (KNTT). Sau đó TĐTT và KNTT du nhập vào Nhật Bản. Người Nhật Bản khéo léo xóa đi những gì dính líu đến đạo Lão để mô tả một cách thanh nhã quan niệm và đức hạnh của người Nhật và một Ca tỳ tử (伽 婢 子) đã ra đời. Sau Ca tỳ tử hơn một thế kỷ, một tác phẩm được coi là kiệt tác trong dòng văn học truyền kì thời kì Edo (thế kỉ XVII-XIX) là Vũ nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatari) (雨 月 物 語) ra đời cũng chịu ảnh hưởng của TĐTT. Ở Việt Nam Truyền kì mạn lục (TKML) của Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng của TĐTT. Nhưng TKML và KNTT được viết bằng chữ Hán, còn Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ được thể hiện dưới dạng văn hòa trộn giữa chữ Hán và chữ Kata.

Ở Việt Nam từ lâu mối quan hệ giữa TKML với TĐTT được các học giả trong và ngoài nước đi sâu nghiên cứu so sánh(1). Dù còn có những ý kiến khác nhau nhưng tựu trung đều khẳng định tính sáng tạo của Nguyễn Dữ trong việc xây dựng tác phẩm, đồng thời khẳng định cách chọn đề tài của ông. Kiểu mẫu của TĐTT là gợi ý quan trọng giúp Nguyễn Dữ làm nên kiệt tác của mình. Ở Nhật Bản Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ trong mối liên hệ với TĐTT cũng được nhiều học giả đi sâu nghiên cứu so sánh. Giáo sư Tiến sĩ Thế Xuyên Chủng Lãng (Sasagawa Tanero) trong sưu tập Tiểu thuyết quái dị thời Cận thế đã so sánh sự ảnh hưởng của tiểu thuyết truyền kì Trung Quốc, trong đó có TĐTT, với tiểu thuyết truyền kì thời kì Edo. Hay Giáo sư Phạn Chủng Lãng (Lizukaro) trong cuốn sách dịch Tiễn đăng tân thoại, xuất bản năm Chiêu Hòa (1965) cũng đã so sánh ảnh hưởng của TĐTT với các tác phẩm truyền kì thời kì Edo như Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ, từ đó rút ra những điều mà các tác giả của hai tác phẩm đã nêu tiếp thu và sáng tạo.

Việc so sánh các tác phẩm phóng tác từ tiểu thuyết Trung Quốc giữa ba nước Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản từ lâu cũng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Năm 1992, Giáo sư Điền Trung Ưu Tử (Tanaka Yuko) trường Đại học Hosei trong bài viết “Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam” đăng trên tạp chí Shinika tháng 2 đã đề cập tới nhiều vấn đề, trong đó có so sánh Mộc Miên thụ truyện ở TKML của Nguyễn Dữ với Mẫu đơn đăng ký ở TĐTT và Mẫu đơn đăng lung Ca tỳ tử của Nhật. Trong Hội thảo quốc tế “90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam”, do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia và Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp tổ chức tại Hà Nội, tháng 12 năm 1992, Giáo sư Xuyên Bản (Kawanmoto Kurunie), Đại học Tổng hợp Keio đã có bài tham luận với tựa đề Những vấn đề khác nhau liên quan đến “Truyền kì mạn lục” (Lịch sử sáng tác, xuất bản và sự nghiên cứu tập truyện theo cách nhìn của văn học so sánh) (Bản tiếng Pháp, Ngân Xuyên dịch). Ngoài việc đi sâu nghiên cứu tác giả và văn bản TKML, tác giả cũng so sánh phương pháp cải biên của TKML với Ca tỳ tử và đưa ra những nhận xét về sự khác biệt trong thái độ văn học của tác giả hai nước.

Trong thời gian ở Nhật, tôi có dịp đọc tác phẩm Ca tỳ tử của Thiển Tỉnh Liễu Ý (Asai Ryoi) (淺 井 了 意)(2). Gần đây tác phẩm này mới được biết đến ở Việt Nam, song chưa có ai có điều kiện đi sâu tìm hiểu Ca tỳ tử chịu ảnh hưởng của TĐTT thế nào, có gì giống và khác nhau trong phương pháp cải biên từ TĐTT...

Trong bài viết này chúng tôi muốn thử so sánh Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ với TKML trên những chi tiết có liên quan đến TĐTT.

1. Ca tỳ tử thuộc thể loại giả danh thảo tử (假 名 草 子)(3), gồm 13 quyển, 13 sách, in năm Khoan Văn (Kamon) (寬文) thứ 6 (1666), là thể loại tiểu thuyết phóng tác theo truyện truyền kì Trung Quốc như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Tiễn đăng dư thoại của Lý Xương Kì. Ca tỳ tử nghĩa là hình nộm trẻ em làm để trừ ma tà. Theo lời tựa thì đây là sách khuyến thiện trừng ác nên đặt tên như vậy.

Sách gồm 68 truyện, trong đó có Nhân quả báo ứng, Dị cảnh đàm, Linh hồn đàm, Siêu nhân đàm, Yêu quái biến hóa đàm... Mặc dù các cốt truyện đều dàn dựng trên những tình tiết hoang đường kỳ ảo, song ông không hề có ý dẫn dắt người đọc thoát ly hòan toàn khỏi thế giới hiện thực. Trái lại ông vẫn hướng ngòi bút trở về với hiện thực bằng ý nghĩa giáo huấn của tác phẩm. Vì vậy mặc dù là tiểu thuyết được cải biên theo truyền kì Trung Quốc nhưng với ngòi bút tài tình của Thiển Tỉnh Liễu Ý, Ca tỳ tử đã trở thành tác phẩm mở đầu cho dòng văn học truyền kì thời cận thế ở Nhật Bản. Ngay cả trong phần tục biên Cẩu trương tử (Inuhariko) (狗 張 子) cũng để lại ảnh hưởng lớn trong văn học hậu thế Nhật Bản.

Theo Giáo sư Phạn Chưng Lãng, trong 68 truyện của Ca tỳ tử, có 19 truyện được cải biên tuyệt đối theo Tiễn đăng tân thoại. Thần Tỉnh Liễu Ý đã cải biên truyện gốc như thế nào? Nguyễn Dữ và Asai Ryoi có điểm chung gì trong phương pháp mô phỏng cốt truyện? Chúng tôi thử làm một so sánh giữa Mẫu đơn đăng lung (Botan doro) (Truyện chiếc đèn mẫu đơn) với Mộc Miên thụ truyện (Truyện Cây gạo) trên những chi tiết chính có liên quan đến Mẫu đơn đăng kí (Truyện chiếc đèn mẫu đơn) của TĐTT (Xem Bảng A). Và một bảng nữa Zigoku o mite yomigaeru (Truyện sống lại sau khi xuống âm phủ) với Hạng Vương từ kí; Tản Viên từ Phán sự lục; Long đình đối tụng trên những chi tiết có liên quan đến Lệnh Hồ sinh minh mộng lục của TĐTT). (xem Bảng B).

Bảng A: BẢNG SO SÁNH GIỮA MỘC MIÊN THỤ TRUYỆN VỚI BOTAN DORO TRÊN NHỮNG CHI TIẾT CHÍNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN MẪU ĐƠN ĐĂNG KÝ CỦA TĐ TT

BOTAN DORO MỘC MIÊN THỤ TRUYỆN
* Địch Nguyên Tân Chi Thừa (Ogihara Shinnojya) góa vợ, đêm rằm tháng bảy đứng tựa cửa nhìn ra thấy một cô hầu quảy chiếc đèn mẫu đơn đi trước, theo sau là một mỹ nữ trạc 20 tuổi. * Trình Trung Ngộ nhà rất giầu, thường thuê thuyền xuống vùng chợ Nam Xang buôn bán. Dọc đường gặp một thiếu nữ xinh đẹp từ thôn Đông đi ra, theo sau là một cô hầu nhỏ.
* Địch Nguyên thấy mỹ nữ đẹp như tiên sa, bỗng thấy hồn xiêu phách lạc, không dằn lòng được, bèn lẽo đẽo bước theo nàng, lúc thì ở phía trước, lúc thì ở phía sau. * Trung Ngộ thấy thiếu nữ là một giai nhân tuyệt sắc, song đất lạ quê người không tiện hỏi, đành thầm yêu trộm nhớ mà thôi.
* Chàng tìm cách làm quen được và đưa nàng về nhà mình. * Sau chàng tìm cách làm quen được với nàng và đưa nàng về thuyền mình.
* Địch Nguyên hỏi thăm tên họ cửa nhà, nàng nói là con gái út của Nhị Giai Đường Chính (Nikaido Gyó) họ Đằng (Fuchi), là dòng họ có tiếng thời bấy giờ. * Trung Ngộ hỏi thăm tên họ, cửa nhà. Nàng nói mình họ Diệp, tên Khanh, cháu gái ông cụ họ Hối, một họ danh giá trong làng.
* Sau đêm hạnh phúc, họ chia tay nhau. Từ đó ngày nào cũng vậy, cô gái sớm đi tối đến, kéo dài khoảng 20 hôm. * Sau đêm hạnh phúc, họ chia tay nhau. Từ đó ngày nào cũng vậy, Diệp Khanh sáng đi tối đến, kéo dài trong hơn một tháng.
* Có ông cụ nhà bên, tối nào cũng thấy nhà Địch Nguyên có tiếng phụ nữ cười nói, bèn dòm qua khe cửa chỉ thấy bộ xương trắng ngồi đối diện dưới đèn cùng Địch Nguyên. Ông già không nói gì chỉ khuyên Địch Nguyên hãy đến chỗ ở của cô gái dò xét. * Bạn bè có người sinh nghi, khuyên Trung Ngộ nên xem xét cẩn thận tung tích Diệp Khanh.
* Địch Nguyên tìm đến nơi ở của cô gái, phát hiện ra chiếc quan tài trên đó có đề dòng chữ "Tức nữ di tử ngân tùng viện lệnh nguyệt thiền định ni" (Lyakoginshoinrei getsuzenjyani) con gái của quan Nhị giai đường tả vệ úy chính tuyên (Nikaidosa Imonojya Masanofu) bên cạnh là hình nộm trẻ em đằng trước có ghi tên Thiển Mai (Asaji), phía trước có treo một chiếc đèn mẫu đơn. * Diệp Khanh đưa Trung Ngộ đến nơi ở của mình ở thôn Đông. Trong nhà có quan tài trên phủ tấm lụa đỏ có ghi mấy dòng chữ "Linh cữu của Nhị Khanh". Cạnh đó là tượng một cô hầu nặn bằng đất ôm chiếc đàn hồ cầm.
* Địch Nguyên sợ quá, chạy về kể hết với ông cụ nhà bên. Ông cụ bảo đi tìm Công Khanh (Kyonokimi) là người có pháp thuật trừ ma quái đến trấn yểm. Từ đó cô gái không tới nữa. Một hôm Địch Nguyên đi lễ tạ Khanh Công trở về, say rượu quên lời dặn, đi thẳng đến chỗ cô gái. Vừa thấy Địch Nguyên, cô gái nói: “May mà còn gặp chàng, chàng nói suốt đời ở bên nhau, sớm tối cùng có nhau. Nay vì lão Khanh Công mà tình ta ngăn cách. Hôm nay may còn gặp được chàng. Hãy vào đây cùng thiếp”. Nói rồi dắt tay Địch Nguyên đưa xuống mồ. * Trung Ngộ sởn gai dựng tóc định chạy, thì Diệp Khanh đã chặn ngay lối ra và bảo: “Chàng đã từ xa tới đây đâu có lý gì để chàng về. Huống chi trong bài thơ hôm trước còn lấy cái chết để hẹn hò cùng nhau. Xin sớm theo nhau cùng chung một huyệt. Nằm vò võ một mình như vậy, lẽ đâu dễ dàng bỏ nhau đến thế. Bèn xông đến túm lấy áo, may vạt áo bở, chàng giật rách mà chạy được. Nhưng chỉ ít lâu sau, Trung Ngộ lại đi ra chỗ Diệp Khanh, ôm áo quan mà chết.
* Từ đấy về sau, vào những ngày âm u, những đêm tối trời, Địch Nguyên và cô gái dắt tay nhau đi. Cô hầu quảy chiếc đèn mẫu đơn đi trước, ai gặp về phát ốm ngay, người làng ai cũng sợ. * Từ đấy về sau, những đêm tối trời, thấy Trung Ngộ và Diệp Khanh dắt tay nhau cùng đi, lúc hát lúc cười, bắt dân làng phải khấn cầu lễ vật, nếu không được như ý thì làm vạ. Người làng đấy không chịu nổi, đến đào mộ hai người đem hài cốt vất xuống sông.
* Gia đình Địch Nguyên thấy vậy rất khổ tâm, bèn mang ngàn bộ kinh ra tụng. Tụng xong, hôm sau sai người sao chép lại gấp ra rồi đem chôn xuống mộ. Từ đó vong linh hai người không thấy xuất hiện nữa. * Vong linh hai người lại đến ở cây gạo ven chùa bên sông, tiếp tục tác oai tác quái. Dân làng phải mời đạo sĩ đến trấn yểm. Chỉ một lúc sau đã thấy sáu bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người dẫn đi.

BẢNG B: BẢNG ĐỐI CHIẾU HẠNG VƯƠNG TỪ KÝ; TẢN VIÊN TỪ PHÁN SỰ; LONG ĐÌNH ĐỐI TỤNG VỚI ZIKOKU OMITE YOMIGAERU

TRUYỆN SỐNG LẠI SAU KHI XUỐNG ÂM PHỦ (ZIKOKU OMITE YOMIGAERU) HẠNG VƯƠNG TỪ KÝ (TKML.Q1/4)
* Thiển Nguyên (Asahara Shinnojya) là con út của gia đình Tam Bồ Đạo thốn (Sanura Dosun) sống ở Khiêm Thường (Kamakura). Chàng giỏi Nho học, thông minh tài trí, lại có tài biện luận, không tin quỷ thần. Nghe nói có người chết nhờ đốt nhiều giấy tiền vàng mã mà được sống lại, bèn làm một bài thơ chế giễu. Thơ làm xong ngâm đi ngâm lại, vừa ngâm, vừa vỗ tay cười. Đêm hôm đó đang ngồi một mình trước đèn có hai quỷ sứ tới kéo tay chàng lôi xuống âm phủ. * Quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc có tài làm thơ, lại giỏi làm thơ châm biếm. Khoảng cuối đời Trần đi sứ phương Bắc qua đền Hạng Võ, ông có làm một bài thơ chế giễu Hạng Vương. Đề xong về nhà trọ nghỉ. Đang lúc rượu say mơ màng muốn ngủ, thì có người đến nói rằng: Vâng lệnh đức vua tôi, mời ngài đi tiếp chuyện.
TẢN VIÊN PHÁN SỰ LỤC (TKML,Q.3/3)
* Quan dưới âm phủ đưa Thiển Nguyên đi được nửa dặm về phía bắc, thấy thành bằng sắt cao sừng sững, mây đen che kín bầu trời, tiếng gào thét vang cả lòng đất, quỷ đầu trâu mặt ngựa đứa nào đứa nấy cầm giáo sắt, dao sắt đứng canh hai bên cửa... * Đến nửa đêm, bệnh tình Tử Vân càng nặng thêm, rồi thấy hai quỷ sứ bắt đi rất gấp, dẫn chàng đi về thành phía đông. Đi được nửa ngày có thành bằng sắt cao ngất. Chàng được lệnh đi ra phía bắc, gặp một con sông lớn, trên sông có chiếc cầu dài, gió tạnh, sông đen ngòm. Hai bên cầu có mấy vạn quỷ Dạ xoa, mắt xanh, tóc đỏ, hình thù nanh ác.
LONG ĐÌNH ĐỐI TỤNG (TKML, Q.2/1)
* Sau khi xem xong cảnh Địa Ngục, Thiển Nguyên được quan âm phủ đưa trở về cõi trần thế. Bừng tỉnh, chàng bỗng thấy mình sống lại. Từ đó chàng bỏ Nho học đi tu ở chùa Kiến Trường (Kencho), sau trở thành một đạo nhân nổi tiếng. * Long Vương tuyên án xong, thần Thuồng luồng cúi đầu đi ra. Tả hữu cũng đưa mắt cho Trịnh bảo lui. Long hầu về nhà đặt tiệc mừng, tặng văn tê, đồi mồi. Vợ chồng họ Trịnh bái tạ trở về, bà con làng xóm ai cũng mừng cho vợ chồng họ Trịnh.

Khi so sánh Mộc miên thụ truyện Mẫu đơn đăng lung chúng tôi chú ý đến những nhận xét xác đáng của các Giáo sư Nhật Bản và có lẽ không có ý kiến gì khác hơn với những ý kiến cho rằng ở Mộc miên thụ truyện Mẫu đơn đăng lung, thế giới của TĐTT từ nhân vật, địa điểm, và thời đại cho đến phong tục tập quán đã được thay đổi sang Việt Nam và Nhật Bản. Ở Việt Nam không có cảnh đèn lồng trong đêm hội rằm tháng bảy như ở Nhật Bản, vì vậy khi cải biên theo truyện Mẫu đơn đăng kí của TĐTT, Nguyễn Dữ đã dùng hình ảnh cây gạo làm nhan đề cho câu chuyện của mình. Ở Việt Nam trong các câu chuyện từ ngàn xưa còn lưu lại, chuyện ma cây đề, tinh cây gạo là đề tài mà bất cứ làng quê nào cũng có. Nói đến cây đa, cây đề, cây gạo là nói đến hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam. Cũng như ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn lồng trong đêm rằm tháng bảy là hình ảnh thân quen trong đời sống tín ngưỡng của người dân Nhật Bản.

Giáo sư Điền Trung Ưu Tử trong khi so sánh Mộc miên thụ truyện Mẫu đơn đăng lung cũng cho rằng: “Cảm hứng nghệ thuật và quan niệm của hai nhà văn cùng giống nhau ở chỗ, trong khi kể chuyện, cả hai đều không cố ý tăng thêm sự khiếp đảm thông qua việc xét xử dưới Địa Ngục như TĐTT của Cù Hựu. Ở Mộc miên thụ truyện, thông qua pháp thuật của đạo sĩ, các hiện tượng thiên nhiên kì quái đã xảy ra dữ dội trên bầu trời, dưới mặt đất, trên sông... trong chốc lát không cần xét xử họ đã bị đưa xuống Địa Ngục. Ở Mẫu đơn đăng lung cũng vậy, khi vong linh hai người xuất hiện, không có cảnh xét xử và cảnh lính đầu trâu mặt ngựa dẫn đi, chỉ có cảnh người nhà chàng trai mang ngàn bộ kinh ra đọc và hôm sau sai người sao ra rồi đem chôn xuống mộ”. (Bđd).

Điểm khác nhau nổi bật trong phương pháp cải biên của hai tác giả là ý muốn sáng tác. Đúng như Giáo sư Xuyên Bản nhận xét: “Nguyễn Dữ đã không có ý vay mượn trung thành nội dung tập truyện Trung Quốc”, trong khi đó Thiển Tỉnh Liễu Ý “muốn cải biên theo đúng bản chất truyện gốc. Nói cách khác, trong khi chuyển nhân vật, thời đại, địa điểm và phong tục sang Nhật Bản, ông vẫn có ý thức viết sao cho tác phẩm của mình gợi nhớ lại nguyên tác, ngay cả khi người đọc không biết điều đó” (Bđd). Qua chuyện Chuyện sống lại khi xuống Âm Phủ (Zigoku o mite yomigaeru) ta thấy rõ hơn ý đồ sáng tác của ông. Trong khi đó, Nguyễn Dữ bằng việc mượn một số mô típ có sẵn của Lệnh Hồ sinh minh mộng lục đã xây dựng lại nhân vật, tổ chức lại kết cấu, nhằm tạo ra một tác phẩm có phong thái hòan toàn mới lạ. Hơn thế nữa, trong khi cải biên theo truyện gốc, Nguyễn Dữ đã làm nổi lên một tinh thần văn học đặc biệt ở chỗ cho các mô típ phát triển trên nền các sự kiện lịch sử có thật ở Việt Nam. Đúng như các học giả đi trước cho rằng nhiều tình tiết thuộc về lịch sử dân tộc. Do vậy tác phẩm của Nguyễn Dữ mang tính dân tộc ở một mức độ nhất định”. Thiển Tỉnh Liễu Ý cũng vậy, khi chuyển sang từ bản gốc sang tiếng Nhật, ông cũng khéo léo loại bỏ những gì có liên quan đến đạo Lão để mô tả một cách trữ tình quan niệm và đức hạnh của người Nhật, trong đó có tinh thần võ sĩ đạo. Còn Nguyễn Dữ đã không theo cách cải biên tuyệt đối tất cả các truyện của mình theo TĐTT như Thiển Tỉnh Liễu Ý. Ông vẫn tôn trọng thế giới văn học của văn bản, đồng thời đi tìm những đề tài và mô típ đáng chú ý, nhằm sáng tạo ra một thế giới hòan toàn khác lạ. Và quan niệm này về chừng mực nào đó đã trùng hợp với quan điểm sáng tác của Thượng Điền Thu Thành (Ueda Akinari) cách sau Thiển Tỉnh Liễu Ý hơn một thế kỷ.

2. Trong thể loại tiểu thuyết truyền kì thời kì Edo, Vũ nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatari) (雨月物語) của Thượng Điền Thu Thành (上田 秋 成 )(4) là tác phẩm nổi tiếng và là đỉnh cao của thể loại truyền kì trong văn học Nhật Bản.

Vũ nguyệt vật ngữ thuộc thể loại Độc bản (Yomihon)(5), 5 quyển, 5 sách. Bản thảo được Thượng Điền Thu Thành hòan thành vào năm Minh Hòa (Meiwa) (明 和) thứ 5 (1768), in năm An Vĩnh (Anei) (安 永) thứ 5 (1776), là sưu tập tiểu thuyết truyền kì được xây dựng trên cơ sở có chịu ảnh hưởng các vật ngữ (chuyện kể) và truyện cổ tích Nhật Bản trong quá khứ, như Nguyên thị vật ngữ (Genzi monogatari) (源 氏 物 語), Kim tích vật ngữ (Konjaku monogatarishu) (今 昔 物 語 集) v.v.. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc như Cổ kim tiểu thuyết (古 今 小 說), Tây Hồ giai thoại (西 湖 佳 話) và cũng là tác phẩm chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu.

Theo GS. Phan Chũng Lãng trong 9 truyện của Vũ nguyệt vật ngữ có 2 truyện có liên quan đến TĐTT như truyện (Túp lều trong bãi sậy) Asazigayado (ảnh hưởng của Ái Khanh truyện); (Điềm chiếc nồi hơi) Kibitsu no gana (ảnh hưởng củ Mẫu đơn đăng kí). Ngay cả nhan đề Ugetsu (Vũ nguyệt) (雨 月) cũng được lấy từ câu “Thiên âm vũ thấp chi dạ, Nguyệt lạc tham hòanh chi thần” có trong cảnh của Mẫu đơn đăng kí. Song Thượng Điền Thu Thành với ngòi bút điêu luyện và tài năng sử dụng tuyệt diệu vốn ngôn ngữ Nhật Bản đã thành công trong việc khắc họa những điển hình trong văn học.

Trong khi tìm hiểu tiểu thuyết truyền kì thời kì Giang Hộ (1600-1867), tôi đã đọc tác phẩm Vũ nguyệt vật ngữ. Từ năm 1989 ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học đã cho in tập truyện này với nhan đề Hẹn mùa hoa cúc do Nguyễn Trọng Địch dịch và giới thiệu qua bản tiếng Pháp của René Siettcnt; Gallinard-1956. Nhưng cũng như Ca tỳ tử, độc giả Việt Nam chỉ biết Vũ nguyệt vật ngữ là tác phẩm có chịu ảnh hưởng của TĐTT, còn thực tế sự ảnh hưởng đó như thế nào thì cho tới nay vẫn còn là những câu hỏi chưa có điều kiện giải đáp.

Đi sâu tìm hiểu Vũ nguyệt vật ngữ, bên cạnh những câu chuyện ly kì, đầy sức hấp dẫn, mang đậm phong cách Nhật Bản, cũng có câu chuyện gợi lên trong ký ức chúng tôi một hình ảnh quen thuộc. Cũng cảnh bờ lau bãi sậy, trăng tà dọi cửa, rêu biếc đầy sân... và hình ảnh người phụ nữ tiễn chồng đi xa, sống mòn mỏi trong cô đơn và chờ đợi. Câu chuyện Túp lều trong bãi sậy có cái gì đó gần cận với truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu trong TKML của Nguyễn Dữ. Phải chăng cốt truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu cũng được xây dựng từ truyện Ái Khanh trong TĐTT? Nhưng một số học giả khi so sánh TĐTT với TKML đã không tính truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu trong số các truyện có liên quan đến TĐTT. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, chúng tôi đã thử so sánh các truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu; Nghiệp oan Đào thị (TKML) với Ái Khanh truyện (TĐTT). Đồng thời cũng so sánh truyện Ái Khanh với Túp lều trong bãi sậy, Vũ nguyệt vật ngữ đề thấy rõ hơn phương pháp cải biên của Ueda Akinari và mối quan hệ gần cận giữa TKML với tác phẩm này của Nhật (Xem Bảng C).

BẢNG C: BẢNG ĐỐI CHIẾU GIỮA KHOÁI CHÂU NGHĨA PHỤ TRUYỆN; ĐÀO THỊ NGHIỆP OAN KÝ (TKML) VỚI ÁI KHANH TRUYỆN (TĐTT); VÀ ASAZIGA YADO (ÔTOGIBOKO)

ASAZIGA YADO ÁI KHANH TRUYỆN (TĐTT, Q.3/14) KHOÁI CHÂU NGHĨA PHỤ TRUYỆN
* Cung Mộc (Miyaki) là thiếu phụ nhan sắc, thông minh, vợ của Thắng Tứ Lang (Katsu Shiro). * Ái Khanh là cô gái thông minh tài sắc kết duyên cùng con trai họ Triệu. Từ khi về làm dâu khéo giữ lề lối gia phong, lời lẽ khiêm nhường, lại biết cách cư xử nên được chồng hết mực thương yêu. * Nhị Khanh là người con gái có nhan sắc, kết duyên cùng với Trọng Quỳ con trai họ Phùng. Từ khi về nhà chồng, Nhị Khanh khéo biết cách cư xử hòa mục với họ hàng, và thờ chồng rất cung thuận, ai cũng khen ngợi.
* Hàng ngày Tước Bộ Tằng Thú (Sasabeno Soji) từ kinh thành xuống vùng mua tơ lụa về bán. Vốn quen thân với người này, Thắng Tứ Lang ngỏ ý muốn được theo lên chốn kinh kỳ buôn bán. Được Tước Bộ Tằng Thú đồng ý, Thắng Tứ Lang bèn bán hết số ruộng đất còn lại lây tiền mua tơ lụa chờ ngày trảy kinh. Được tin Cung Mộc hết sức lo lắng, song vẫn chuẩn bị cho chồng lên đường * Có người cùng họ với cha chàng giữ chức Sư bộ Thượng thư ở Kinh đô gửi thư đến muốn chàng ra nhận chức ở Giang Nam. Thấy chồng có ý băn khoăn, Ái Khanh nhẹ nhàng khuyên bảo, cuối cùng chàng quyết định từ biệt gia đình lên đường nhậm chức. * Cha Trọng Quỳ vốn tính hay nói thẳng, bị đình thần ghét. Lúc đó ở vùng Nghệ An có giặc bèn hùa nhau tiến cử. Nhị Khanh không muốn để cha phải đi một mình, bèn khuyên Trọng Quỳ cùng đi theo.
* Người mẹ ở quê nhà nhớ con sinh ra ốm nặng. Ái Khanh chăm sóc hết mực tận tình, thuốc thang chữa chạy, nửa năm trời nhưng cuối cùng bà cụ vẫn qua đời. Ái Khanh thương xót vô hạn, làm tang lễ, mai táng ở thôn Bạch Vu. * Cha mẹ Nhị Khanh nối nhau qua đời. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong đến ở chung với bà cô họ Lưu.

Qua bảng so sánh chúng ta có thể thấy truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu có chịu ảnh hưởng của Ái Khanh truyện (cố nhiên không phải được cải biên hoàn toàn theo Ái Khanh truyện). Mặt khác truyện Đào thị nghiệp oan kí chỉ mượn một phần của Ái Khanh truyện chứ không hòan toàn là "nội dung na ná" như một số học giả trước đây nhận định. Cũng qua bảng so sánh chúng ta có thể thấy Túp lều trong bãi sậy có chịu ảnh hưởng của Ái Khanh truyện song chỉ trên một số chi tiết lớn.

Một sự so sánh nữa giữa Nguyễn Dữ và Thượng Điền Thu Thành cho thấy, khác với Thiển Tỉnh Liễu Ý, cả hai ông đều không có ý định vay mượn trung thành nguyên tác trong phương pháp cải biên, mà phát triển đề tài theo nghệ thuật hư cấu. Cũng có khi bám sát một mô hình có sẵn, cũng có khi chỉ mượn những nét lớn của đề tài rồi từ những chi tiết nhỏ bồi đắp tái tạo thành một hình tượng mới.

Từ chỗ đóng vai trò là một người sưu tập và ghi chép đến chỗ tự thân sáng tác, từ chỗ chỉ phản ảnh những hành trạng, và sự hiển linh của các vua chúa, anh hùng dân tộc sau khi mất đến chỗ phản ánh khá sâu sắc những xung đột của xã hội và số phận của con người là cả một quá trình không đơn giản dẫn đến sự hình thành nhân cách của nhà văn.

Trong khi nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Việt Nam và Nhật Bản, điều chúng tôi cảm nhận được là dù ở đâu, Trung Quốc, Việt Nam hay Nhật Bản, dù là nhà văn nào, Cù Hựu, Nguyễn Dữ, Thiển Tỉnh Liễu Ý hay Thượng Điền Thu Thành đều có chung một cảm hứng nghệ thuật, một quan niệm thẩm mĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Chính sự tương đồng gần cận trong tài năng, hòai bão, tâm sự cùng cảnh ngộ, cũng như thời đại lịch sử, phong tục tập quán, những mối quan hệ gia đình xã hội trong mối liên quan giữa các nước láng giềng đã có từ lâu đời, khiến cho họ xích lại gần nhau, trong nét riêng độc đáo còn có cái chung mà chỉ có các nhà văn trong cùng khu vực sử dụng ngôn ngữ văn tự Hán mới có.

Tư liệu tham khảo

1/ Tiếng Nhật:

* SASAGAWA TANERO (学支 川 種 郎) Sưu tập Tiểu thuyết quái dị trong cuốn Cận đại Nhật Bản văn học đại hệ, tập 13, Quốc dân đồ thư chu thức hội xã xuất bản năm 1927, 1034 tr.

* CÙ HỰU: Tiễn đăng tân thoại Lizu Karo dịch. Đông dương văn khố số 48, xuất bản năm 1965, 289 tr.

* MITAYA EIIRA (三 谷 榮 一) và YAMOTO KENNICHI (山 本 健 一): Từ điển văn học sử Nhật Bản. Giác Xuyên thư điếm, xuất bản năm 1982, 572 tr.

* ASANO SANEN (淺 野 三 年) Nghiên cứu về Ueda Akinari Đào phong xã xuất bản năm 1985.

* TAKADA E (高田衛) và NAKAMURA HIROYASU (中村博保) “Ugetsumonogatari và Harusamemonogatari” Chu thức hội xã tiểu học quán xuất bản năm 1989, 450 tr.

* SHINDO YUTAKA (神 藤 豐): Lịch sử văn học Nhật Bản Phoenix xuất bản năm 1991, 277 tr.

* TANAKA YUKO (田 中 優 子) Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Tạp chí Shinika tháng 2 năm 1991, tr.8-17.

2/ Chữ Hán

* NGUYỄN DỮ: Truyền kì mạn lục, bản in năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712). Thư viện Đông Dương văn khố, kí hiệu X.3.10

* CÙ HỰU: Tiễn đăng tân thoại. Bản in năm Kiền Long Tân Hợi (1791). Thư viện Viện Nghiên cứu Đông phương trường Đại học Tokyo, kí hiệu 24.1, Tử tiểu thuyết dị văn.

* CÙ HỰU: Tiễn đăng tân thoại. Nhà xuất bản Văn học cổ điển, Thượng Hải, 1957. Thư viện Viện nghiên cứu Đông phương trường Đại học Tokyo, Tử tiểu thuyết dị văn.

3/ Tiếng Việt

* K.L.GÔN-LƯ-GHI-NA Nghiên cứu truyện ngắn Trung Quốc thời trung cổ, chương Cù Hựu và truyện truyền kỳ Việt Nam. Nxb, KHXH Mát-xcơ-va 1980.

* TRẦN NGHĨA: Thử so sánh Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân thoại. Tạp chí Hán Nôm số 1 (2)-1987.

* PHẠM TÚ CHÂU: Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại Truyền kì mạn lục. Tạp chí Văn học số 3, năm 1987. tr.71-77.

* G.B.SANSON: Lược sử văn học Nhật Bản. Nxb. KHXH, H. 1989.

* UEDA AKINARI: Ugetsumonogatari, Nguyễn Trọng Địch dịch qua bản tiếng Pháp của René Siettcnt. GalLimard-1956 lấy tựa đề Hẹn mùa hoa cúc. Nxb. Văn học, H. 1989, 126tr.

* HỘI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC: Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết luận cứu Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản năm 1989, 186tr.

* KAWAMOTO KURUNIE: Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn lục (Lịch sử sáng tác, xuất bản và sự nghiên cứu tập truyện theo cách nhìn của văn học so sánh). Ngân Xuyên dịch theo bản tiếng Pháp, đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “90 năm nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam” do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia và Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tổ chức.

CHÚ THÍCH

1. Xem thư mục các bài viết có liên quan ở mục Tư liệu tham khảo.

2. Thiển Tỉnh Liễu Ý (Asaii Ryoi): không rõ năm sinh, mất năm Nguyên Lộc (Genroku) (元 祿) thứ 4 (1691), là tác giả của thể loại Giả danh thảo tử (Kanazoshi) (假 名 草 子). Asai Ryoi hiệu là Tùng Vân (Matsukumo) (松雲), Biều Thủy Tử (Hyusuishi) ( 瓢 水 子), Chiếu Nghi Phuờng (Shogibo) (照 儀 坊). Cha ông trụ trì ở chùa Bản Chiếu (Honsho), huyện Tam Bảo Giang (Santoe) tỉnh Nhiếp Luật (Setsu), sau không hiểu nguyên cớ gì bị đuổi ra khỏi chùa. Có lẽ ông đã sống với cha mình suốt cả năm tháng tuổi thơ nơi cửa Thiền. Từ năm Vạn Trị (Manji) (萬 治) (1661-1673) ông đã cho ra đời tác phẩm đầu tiên ở thể loại Giả danh thảo tử như Kham nhẫn ký (Kanninki) (堪 忍 記), Đông hải đạo danh sở ký (Tokaidomeishoki) (東 海 道 名 所 記 ): Khả tiếu ký bình phán (Kashokihehan) (可 笑 記 評 判), Ca tỳ tử (伽 婢 子) v.v.. Từ cuối năm Khoan Văn (Kanmon) (寬 文) đến đầu niên hiệu Diên Văn (Enbo) (延文) (1673-1681), lúc này Ryoi khoảng hơn 60 tuổi, ông về trụ trì ở chùa Shogen ở Kyoto. Thời kỳ này ông ít sáng tác Giả danh thảo tử mà trước thuật rất nhiều sách Phật giáo. Liễu Ý đã vượt qua số phận bi đát của người cha và trở thành người được kính trọng. Ông mất năm Nguyên Lộc (Genroku) (元 祿) thứ 4 thọ khoảng 80 tuổi.

3. Cuối thời Trung thế, tiểu thuyết ở Nhật Bản được thể hiện bằng thể loại Ca thảo tử (Otogizoshi) (伽 草 子) cách gọi chung cho các loại đoản thiên tiểu thuyết được sáng tác vào khoảng giữa thời kỳ Thất Đinh (Muromachi) (1392-1573). Đây là loại tiểu thuyết viết với bút pháp đơn giản, miêu tả bằng đủ loại tình tiết cho một đối tượng là phụ nữ và trẻ em. Tiếp Ca thảo tử là Giả danh thảo tử, ngoài mục đích giáo huấn, còn là loại tiểu thuyết mang tính thực dụng. Văn chương thể hiện dưới dạng Hòa văn (chữ Hán và chữ Kata). Tác giả là công khanh, võ sĩ và nhà sư.

4. Thượng Điền Thu Thành (Ueda Akinari): sinh năm Kyoho (亨保) thứ 19 (1734), mất năm Bunka (文化) thứ 6 (1809). Ông là tác giả của thể loại Độc bản và Phù thế thảo tử (Ukiozoshi), là nhà quốc học và nhà thơ. Thuở nhỏ ông tên là Tiên Thứ Lang (Senziro) (仙 次 郎) thường được gọi là Đông tác (Tosaku) (東 作) tự là Thu Thành (Akinari) (秋成) hiệu là Vô Trường (Muchion) (無 腸) Dư Trai (Yosai) (余齋)... Mẹ đẻ là con gái của dòng họ Cựu Gia Tùng Vĩ (Kyukamatsuo), quê ở thôn Hino, huyện Katsugami tỉnh Yamato (nay thuộc Nara). Không rõ về cha đẻ của ông, cũng có người cho rằng cha ông là con cháu của dòng họ Tiểu quật viễn châu (Enshu Masakazu). Năm lên 4 tuổi, ông được một thương gia buôn dầu và giấy thuộc dòng họ Thượng Thành ở Osaka nhận về làm con nuôi. Năm lên 5 tuổi, bị mắc bệnh đậu mùa, sau khi chữa chạy xong các ngón tay bị liệt tới mức không thể cầm nắm được. Sau do khổ công rèn luyện, các ngón tay của ông trở nên bình thường. Thời niên thiếu ông được gia đình Ueda cho theo học ở Hội Đức Đường (Kaidokudo). Năm 20 tuổi ông đã thành thạo thể thơ Haikai, sau đó tự học Hòa ca. Năm 30 tuổi ông đã cho in tập Chư đạo thính nhĩ thế gian viên (Shodo kikimimi sekenzaeu) (諸 道 聽 耳 世 間猿). Năm 35 tuổi với tập sơ cảo Vũ nguyệt vật ngữ, ông trở thành tác giả nổi tiếng của thể loại Độc bản. Không may do hỏa hoạn, gia tài mất hết, ông chuyển sang học nghề y ở Tsukateisho và năm 1766 ông về khai nghiệp ở Osaka. Cũng trong năm này tác phẩm Vũ nguyệt vật ngữ ra đời. Thời gian này ông đi sâu vào Quốc học và cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Trong những năm cuối đời ở Kyoto, vợ mất sớm, trong cảnh mù lòa và túng thiếu, ông vẫn không rời bỏ cây bút và tiếp tục công bố nhiều công trình có giá trị. Trước khi mất, ông còn để lại tập bản thảo Xuân vũ vật ngữ (Harusame monogitari) (春 雨 物 語) là tác phẩm được coi là kiệt tác trong thể loại tiểu thuyết thời cận thế Nhật Bản.

5. Độc bản (Yomihon) (讀本) là loại tiểu thuyết trường thiên được sáng tác trong khoảng thời gian từ trung kỳ đến mạt kỳ thời kỳ Giang Hộ (1799-1867). Độc bản ra đời trong bối cảnh các loại tiểu thuyết Bạch thoại của Trung Quốc đang được lưu hành rộng khắp. Độc bản đã loại trừ dần khuynh hướng tả thực trong thể loại giả danh thảo tử và thêm vào đó tính truyền kỳ và tư tưởng. Tác giả tiêu biểu là Thượng Điền Thu Thành (上 田 秋 成) và Khúc đình mã cầm (Kyokutei Bakin) (曲 亭 馬 琴).

* Bài viết đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của Giáo sư Suenari Michio Trường đại học Tổng hợp Tokyo và Giáo sư Ishibe Shoko Trường đại học Keio. Nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn./.

TB

MẤY Ý KIẾN NHÂN ĐỌC "TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH THÀNH NGỮ GỐC HÁN"

TRẦN NGỌC THUẬN

Cuốn sách có bìa đẹp, in nổi bật:

Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia

Viện Ngôn ngữ học

* Như Ý

* Nguyễn Văn Khang

* Phan Xuân Thành

Nhà xuất bản Văn hóa đã gây được sự thu hút với độc giả.

Mục lục sách ghi rõ cuốn sách có ba phần:

- Phần giải thích thành ngữ gốc Hán.

- Phần chú thích nghĩa gốc các yếu tố trong mỗi thành ngữ gốc Hán.

- Phần đối chiếu thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt với thành ngữ tương đương trong tiếng Hán.

Chính phần thứ ba này đã thúc giục người đọc mở xem trước. Bởi vì, nếu quả thật có được một bảng đối chiếu hơn hai ngàn thành ngữ Việt - Hán thì thật đáng quý đối với những người đọc sách và dịch sách tiếng Hán. Nhưng không phải ! Bảng đối chiếu chỉ cung cấp cho ta những chữ Hán (có nhiều chữ viết sai) tương ứng với những chữ Quốc ngữ ở cột bên trái. Hay nói cách khác, cột bên trái chỉ là sự phiên âm Hán - Việt của những chữ Hán ở cột bên phải, trừ hai trường hợp: số 518: tiếng Việt: “Hương hỏa ba sinh”, chữ Hán “Hương hỏa tam sinh”; số 1940: tiếng Việt: “Vô sư vô sách”, chữ Hán: “Vô sư vô thư”.

Do đó, bảng đối chiếu này chỉ có thể gọi là bảng đối chiếu chữ Việt - Hán rập theo đúng thứ tự của phần chữ Việt ở bên trái. Vì vậy nhiều đoản ngữ, tuy được viết bằng chữ Hán, nhưng lại theo trình tự ngữ pháp tiếng Việt nên không thành một đoản ngữ tiếng Hán, và tất nhiên, không thể coi là thành ngữ tiếng Hán. Thí dụ:

- “Anh hùng cái thế”, tiếng Hán phải là: “Cái thế anh hùng”.

- “Ca khúc khải hòan”, tiếng Hán là: “Tấu khải nhi qui”.

- “Chước quỉ mưu ma”, “Mưu ma chước quỉ”, tiếng Hán là: “Âm mưu quỉ kế” (thành ngữ này rất phổ biến trong tiếng Việt, nhưng không thấy có trong từ điển).

- “Chước quỉ mưu thần”, tiếng Hán là: “Thần cơ diệu toán”.

- “Cung thương chi điểu”, tiếng Hán chỉ có: “Kinh cung chi điểu”.

- “Dân quốc sinh kế” (?) tiếng Hán chỉ có: “Quốc kế dân sinh”.

- “Đái công thục tội”, “Đái tội thục công”, tiếng Hán là: “Lập công thục tội”, “Đái tội đồ công”.

- “Đa nghi như Tào Tháo”, tiếng Hán không nói như thế.

- “Địa ngục trần gian”, tiếng Hán là: “Nhân gian địa ngục”.

- “Kết duyên Tần - Tấn”, tiếng Hán là: “Tần Tấn chi duyên”.

- “Quyền sinh quyền sát”, tiếng Hán phải là: “Sinh sát chi quyền”.

- “Tai biến bất kỳ”, “Tai họa bất kỳ”, tiếng Hán đều chỉ nói: “Vô vọng chi tai”.

- “Thâm nghiêm cùng cốc”. Không có thành ngữ này, chỉ có: “Thâm sơn cùng cốc”.

- “Vũ trượng hoang viên”, tiếng Hán phải là: “Hoang viên vũ trượng”.

- “Giang sơn cẩm tú”, tiếng Hán phải là: “Cẩm tú giang sơn”.

- “Lương đống triều đình”, tiếng Hán phải là: “Triều đình lương đống”.

- “Ngôn vi thanh tâm”, tiếng Hán phải là: “Ngôn vi tâm thanh”.

Chúng tôi quan niệm rằng, thành ngữ tương đương giữa hai ngôn ngữ là những thành ngữ của hai ngôn ngữ khác nhau cùng chứa một nội hàm ý nghĩa nhưng có thể được biểu hiện bằng các câu chữ khác nhau. Thí dụ giữa:

- “Vừa ăn cướp, vừa la làng” (Việt) với: “Tặc hám tróc tặc” (Hán).

- “Chó cùng dứt giậu” (Việt) với: “Cẩu cấp khiêu tường” (Hán).

- “Giấu đầu hở đuôi”, hoặc: “Lạy ông tôi ở bụi này” (Việt) với: “Thử địa vô ngân tam bách lượng” (Hán).

- “Mất bò mới lo làm chuồng”, hoặc “Mất trộm mới rào giậu” (Việt) với: “Vong dương bổ lao” (Hán).

Những thí dụ như trên hoặc tương tự không được nêu trong bảng đối chiếu này, nên đã không đáp ứng được mong đợi của độc giả sau khi đọc lời giới thiệu ở đầu sách và xem mục lục.

Trong bảng, có khá nhiều chữ Hán viết sai, làm cho câu chữ Hán trở thành vô nghĩa hoặc biến nghĩa. Thí dụ:

- “Bách xuyên qui hải”, xuyên không thể là 穿 (xuyên qua), mà phải là 川 (sông).

- “Bất giáo nãi thiên”, thiên không thể là 天 (trời), mà phải là 迁 (chuyển dời).

- “Ca khúc khải hòan”, hoàn không thể là 还 , mà phải là 旋 .

- “Bế quan tỏa cảng”, tỏa 锁 viết lầm thành tiêu 销.

- “Chung minh lậu tận”, chung không thể là 終 , mà phải là 鐘 .

- “Dị tướng kỳ hình”, kỳ không thể là 其 , mà phải là 奇 .

- “Kế thế công hầu”, thế không thể là 势 , mà phải là 世 .

- “Hữu tài vô hạnh”, hạnh không thể là 幸 , mà phải là 行 .

- “Khẩu mật phúc kiếm”, mật không thể là密, mà phải là蜜.

- “Ngũ đại đồng đường”, đại không thể là 大 , mà phải là 代 .

- “Oan gia túc trái”, “Tiền oan túc trái”, túc không thể là 足, mà phải là 夙.

- “Suất nhĩ nhi đối”, nhĩ không phải là 耳 , mà phải là 尔v.v..

Về phần giải thích là phần chính của từ điển, chúng tôi có mấy nhận xét:

+ Rất nhiều thành ngữ được lấy thí dụ minh họa từ các thư tịch cổ Trung Quốc mà không chỉ ra được xuất xứ của chúng từ thư tịch Hán Nôm của ta như Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Vân đài loại ngữ v.v.. như lời “tâm đắc” của nhà xuất bản đã nêu. Điều này gây nên điều nghi ngại trong độc giả là liệu chúng có phải thành ngữ tiếng Việt gốc Hán không, hay chỉ là thành ngữ tiếng Hán ? Trong khi không chứng minh về xuất xứ Việt của thành ngữ thì chưa thể “tâm đắc” về số lượng lớn (khoảng 2.500 đơn vị) thành ngữ tiếng Việt gốc Hán thu thập trong từ điển này.

+ Trong khi giải thích thành ngữ, các tác giả chắc chắn hẳn đã tham khảo sách vở tiếng Hán. Điều đó là cần thiết, nhưng tiếc thay, các tác giả đã đọc sai nhiều chữ Hán, hiểu sai nghĩa nhiều chữ và nhiều câu tiếng Hán, khiến cho việc giải thích bị sai lạc. Thí dụ:

Về các thành ngữ: “tam thập nhi lập”, “tứ thập nhi bất hoặc”, “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, từ điển đã giải thích: “Ba mươi tuổi thì lập thân”, “Ở tuổi bốn mươi là ổn định về mọi mặt, có thể biết được công danh tài lộc của mình (không còn nghi ngờ về bản thân nữa)”, “Tuổi năm mươi là bước vào già, có thể biết được sức khỏe của mình (sống được bao lâu nữa)...” Những ai có tri thức Hán học đều biết rằng những thành ngữ đó được rút trong sách Luận ngữ, thiên Vi chính, trích lời Khổng Tử: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh...”: Ta mười lăm tuổi thì dốc lòng vào việc học, ba mươi tuổi thì có chỗ đứng trong xã hội, bốn mươi tuổi thì không mơ hồ lầm lẫn, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời... “Khi được sử dụng làm thành ngữ, những mệnh đề trên vẫn giữ những ý căn bản: ba mươi tuổi là độ tuổi lập thân vững vàng, bốn mươi tuổi là độ tuổi đã tích lũy đủ tri thức để phân biệt chân lý và sai lầm, năm mươi tuổi là độ tuổi đã có đủ tri thức và kinh nghiệm để hiểu biết được quy luật thịnh suy, hưng vong... chứ không hề có nghĩa như từ điển đã giải thích.

Việc đọc sai chữ Hán đã khiến các tác giả “phát hiện” ra mấy thành ngữ vốn không hề có trong tiếng Hán: đó là thành ngữ: “Mao Toại tự tồn” (?) Thực ra, đó là chữ tiến 荐 có nghĩa tiến cử bị đọc nhầm. Do lầm lẫn này dẫn tới chữ tiến ở trên, lại được viết lầm thành 進 , có nghĩa tiến lên. Tương tự, thành ngữ “Phá kính trùng viên” đã được đọc lầm thành “Phá cảnh trùng viên” và chúng ta có hai thành ngữ số 1122 và 1125 được viết chữ Hán y hệt như nhau. Cũng do đọc lầm mà trong thành ngữ “Bất nhập hổ huyệt, yên đắc hổ tử”, Ban Siêu bị lầm thành Ban Triệu, và Tây Vực bị lầm thành Tây Tạng. Trong thành ngữ “Bách xuyên qui hải”, “Hòai Nam Tử” bị đọc thành “Chuẩn Nam Tử” v.v..

Nhiều nhất là những trường hợp do hiểu sai nghĩa, dẫn tới giải thích sai. Thí dụ:

- “A kỳ sở hiếu”, có nghĩa là a dua theo những ham thích của người khác, chứ không phải “a dua theo người mà mình ưa thích, bênh vực cho người mình quí mến, có cảm tình”.

- “Ác quán mãn doanh”. Chữ quán có nghĩa là xâu, chuỗi, “ác quán” là xâu (chuỗi) tội ác, chứ không phải là thói quen độc ác.

- “Ẩm thủy tư nguyên”, câu “ẩm kì lưu giả hòai kỳ nguyên” có nghĩa: “uống nước của dòng sông nào thì nhớ tới dòng sông đó”, chứ không phải là “uống nước ở đâu thì nhớ nguồn ở đó”, vì sông và nguồn sao có thể ở cùng một chỗ?

- “Ca khúc khải hòan”, chữ khả i chỉ có nghĩa là “thắng lợi” chứ sao có thể có nghĩa là: “hát mừng thắng lợi trở về”?

- “Dã mã vô cương”, chữ cương ở đây là “cương giới”, “phạm vi”, chứ không phải là “dây cương”.

- “Điểm kim thành thiết” và “Điểm thiết thành kim”. Hai thành ngữ này nói về việc sửa chữa văn chương của người khác, có thể làm hỏng một bài văn hay (Điểm kim thành thiết) hoặc khiến một bài văn dở trở thành hay (Điểm thiết thành kim), chứ không phải như được giải thích là: “phủ nhận bài viết, tác phẩm của người khác, nói tốt thành xấu”, và “tô hồng bài viết của người khác, nói xấu thành tốt”...

- “Giao long đắc thủy” là thành ngữ nói về người có tài năng gặp được cơ hội phát huy bản lĩnh, ví như rồng gặp mây, chứ không nhằm nói về “có điều kiện phù hợp mới có thể phát huy hết khả năng của mình”.

- “Khán phong sử đà”, đà là “bánh lái”, chứ không phải “mái chèo”.

- “Hữu dũng vô mưu”. Có dẫn câu trong Tam quốc diễn nghĩa: “Ngô Liệu Lã Bố hữu dũng vô mưu, bất túc lự dã” có nghĩa là: “Ta nghĩ Lã Bố (là kẻ) hữu dũng vô mưu, không đáng lo”, chứ không phải là “... suy nghĩ không chín”.

- “Kim thị tạc phi” là thành ngữ rút ra từ bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm. “Thực mê đồ kỳ vi viễn, giác kim thị nhi tạc phi” có nghĩa là: “Hiện nay đi vào con đường mê còn chưa xa, biết rằng nay là phải mà xưa là trái”. Thành ngữ này hàm ý hối tiếc về sai lầm đã qua, chứ không phải như lời giải thích “Giá trị chân lý luôn luôn thay đổi, phụ thuộc vào hòan cảnh, vào thời cuộc, ví như cái ngày nay cho là phải thì ngày trước cho là trái”.

- “Liêm Tuyền, Nhượng Thủy” là thành ngữ rút từ Nam sử - Hồ Hải Chi truyện, nói tới các địa danh “Liêm Tuyền”, “Nhượng Thủy” là những nơi có phong tục, tập quán tốt đẹp, chứ không phải “dòng suối Liêm Tuyền... cung cấp một loại nước có tên gọi Nhượng Thủy”...

- “Liên hương tích ngọc” là thành ngữ chỉ tình cảm ái mộ với những người con gái đẹp, chứ không phải là sự “háo sắc, ham chuộng tình dục”.

- “Minh tranh ám đấu” được dịch là “Ở ngoài sáng thì tranh nhau, trong tối thì đánh nhau”. Dịch như vậy là chưa nắm được kết cấu của thành ngữ và nghĩa của hai chữ “minh”, “ám”. Thực ra, kết cấu này chính là sự biến dạng của “minh ám tranh đấu”, tương tự như kết cấu “ra lườm vào nguýt”, “đá thúng đụng nia”. “Lên xe xuống ngựa” trong tiếng Việt. Còn hai chữ Hán “minh”, “ám” trong trường hợp này có nghĩa là công khai và ngấm ngầm. Do đó thành ngữ phải được hiểu là: “Đấu tranh, giành giật nhau vừa công khai vừa ngấm ngầm”.

- “Nạp thái vu qui” được giải thích là “đưa đồ sính lễ qua nhà gái để xin rước dâu về”. Sự thực, “nạp thái” là lễ đầu tiên trong sáu lễ mà nhà trai tiến hành, là: nạp thái (Chạm ngõ), vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghinh (đón dâu), còn "vu qui" là lễ về nhà chồng của người con gái.

- "Ngọc bất trác, bất thành khí" được dịch nghĩa: "Ngọc không mài thì không thành đồ kim khí". "Ngọc" là một loại đá, sao có thể trở thành "đồ kim khí" được ? đúng ra, "khí" ở đây là đồ trang sức.

- "Ngô đầu Sở vĩ" được giải thích: "đầu thì ở nước Ngô, còn đuôi thì lại ở nước Sở...", "... địa phận nước Ngô ở thượng lưu, địa phận nước Sở ở hạ lưu" (?). Giải thích như vậy là sai với thực tế địa lý. Đúng ra, thành ngữ này nguyên nói về vị trí của vùng Dự Chương (Giang Tây ngày nay) ở vào khoảng giữa nước Sở và nước Ngô thời Xuân thu, Chiến Quốc. Dòng Trường Giang chảy qua nước Sở xuống nước Ngô. Thành ngữ này nhằm chỉ một địa điểm tiếp giáp giữa hai vùng, không có ý nghĩa gì giống với thành ngữ "đầu Ngô mình Sở" của ta.

- "Trướng trung khởi vũ". Được giải thích "...ví như Hạng Vũ xưa bị Lưu Bang vây kín mọi nơi bèn ở trong màn múa kiếm đàn hát cùng với Nàng Ngu Cơ". Đây là thành ngữ nói về sự tích "Hạng Vũ biệt Cơ" đầy bi tráng, được Sử ký ghi chép: Trước giờ phá vây quyết tử, Hạng Vũ ở trong trướng múa gươm và hát để quyết biệt với nàng Ngu Cơ. Lời hát đầy cảm khái: "Lực bạt sơn hề khí cái thế: thời bất lợi hề Chuy bất tạ; Chuy bất tạ hề khả nại hà; Ngu hề Ngu hề nại nhược hà?" (Sức nhổ núi, khí trùm đời, ngựa Chuy chùn lại, bởi thời không may! Ngựa chùn biết tính sao đây! Nàng Ngu, biết tính sao đây hỡi nàng?). Ngu Cơ khóc, hát họa theo rồi tự sát. Sau đó Hạng Vũ phá vây chạy. Giải thích như trong từ điển không nói lên được tính chất bi tráng của hòan cảnh và gây hiểu sai về tính cách Hạng Vũ. Sao lại "múa kiếm trong màn" ? "Trướng" ở đây là chỉ "trướng hổ" vây quanh Sở chỉ huy của Hạng Vũ, chứ không phải là "màn".

Vì khuôn khổ bài báo nên chúng tôi không dẫn thêm những sai lầm khác nữa. Muốn cho cuốn sách có được chất lượng và độ tin cậy cao, các tác giả cần soát kỹ và sửa chữa trong lần tái bản. Bài viết này cũng chỉ nhằm đóng góp vào công việc đó./.

TB

"GIẢI MÃ CHỮ HÁN" - MỘT PHÁT HIỆN HAY LÀ MỘT TRÒ ẢO THUẬT

THẾ ANH

Trên giá của quầy giới thiệu của Nhà xuất bản Văn học ở 49 Trần Hưng Đạo có trưng bày cuốn sách mỏng bìa đỏ với đầu đề chữ Hán rất hấp dẫn Hán tự giải mã thư bên cạnh là đầu đề bằng tiếng Việt: “Một phát hiện hay là một trò chơi khiêm nhường” của Nguyễn Quốc Thái(1). Vì có võ vẽ một ít chữ Hán nên tôi đã mua cuốn sách đó, mong tìm ra được vấn đề giải mã của thứ chữ độc đáo này. Xem qua mục lục thấy có lời giới thiệu của GS. Hoàng Văn Hành - Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, và bài Phát hiện mới về chữ Hán của TS. Đặng Việt Bích, rồi tiếp đến những bài viết của tác giả như:

- Có một cánh rừng nguyên sinh như thế.

- Để chinh phục những đỉnh cao trong Hán học.

- Với chữ Hán một cách nhìn mới…

Và bản phụ lục:

+ Phân tích hiệp tự gồm 1000 chữ.

+ Sơ đồ cấu trúc Hán tự và sơ đồ Bát quái trong Kinh dịch.

Những đầu đề thật hấp dẫn và nhất là ở đầu đề phía sau có trích dẫn câu của tác giả: “Ôi, còn gì vui thích hơn, khi thứ chữ của hàng tỉ người được soi tỏ dưới ánh sáng mới, trở thành vật sở hữu của số đông tất cả mọi người”, nên tôi liền đọc một mạch cuốn sách với mong muốn tìm ra những điều phát minh mới của tác giả mà từ trước đến nay chưa ai đề cập tới. Trong lời giới thiệu, GS. Hoàng Văn Hành nói: “Anh Nguyễn Quốc Thái đã đưa ra thuyết hợp tự để giải mã chữ Hán theo cách đọc Hán - Việt. Bằng cách này, tác giả đã giải mã thấu triệt một khối lượng tư liệu đáng tin cậy là 10.000 chữ mà trong cuốn sách này tác giả chỉ mới đưa ra ví dụ 1.000 chữ”. Hấp dẫn hơn nữa là trong bài viết của TS. Đặng Việt Bích có đoạn giới thiệu như sau “…Phát hiện này cho thấy Hán tự cũng là một văn tự ghi âm, được xây dựng hết sức công phu và rất khoa học, không phải xây dựng một cách hàm hồ, mơ hồ, ngẫu nhiên và ngẫu hứng. Với phát hiện này, việc học chữ Hán trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn rất nhiều. Chính nó là công cụ lợi hại để thiên hạ nói chung, mà trước hết người Việt Nam mình học chữ Hán và hiểu nó một cách nhanh chóng, hữu hiệu, trong một thời đại bừng tỉnh của vùng Đông Á - Thái Bình Dương”…

Theo ông Nguyễn Quốc Thái thì cấu trúc chữ Hán cũng có nguyên âm, phụ âm và cả vĩ âm (!) nữa. Vĩ âm là âm câm (!) nó biến dạng 6x6=36 cách. “Vĩ âm được coi như “cặp tai thỏ”, nó cho phép ta nhận thỏ nhờ tai, biến hóa kỳ ảo như xúc xắc 6 mặt chỉ định vị trí. Chữ Hán khi viết ra, được soi sáng bởi triết học cổ đại Trung Quốc là Kinh Dịch. Qui luật quan trọng của truyền thuyết đó là: Thái cực - Lưỡng nghi - Tứ tượng (một sinh hai, hai sinh bốn)”, (tr.23). Tác giả cho rằng “thuyết lưỡng cực âm dương” cho phép viết chữ Hán gần như chữ Quốc ngữ của Việt Nam, đơn giản như ta viết Đ-ông, T-ây, N-am, B-ắc, rồi kết luận như đinh đóng cột “không còn nghi ngờ gì nữa, vấn đề giải mã chữ Hán đã được giải quyết trọn vẹn” (tr.26), Đó là toàn bộ lý thuyết về vấn đề giải mã chữ Hán của Nguyễn Quốc Thái. Phải nói ngay rằng giá trị của Kinh Dịch hiện nay đang tiếp tục khai thác trên nhiều phương diện cả ở phương Đông và phương Tây. Riêng ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu Kinh Dịch một cách nghiêm túc và khoa học, nhưng không nên quá lạm dụng để trở thành một “nạn dịch” như đã có người nói một cách hài hước. Không hiểu tác giả căn cứ vào những tiêu chí nào để định ra nguyên âm, phụ âm và vĩ âm. Và để tránh việc giải thích, tác giả nói “… Không muốn đi sâu lắm vào việc phân tích lỹ lẽ vì sợ làm rác tai bạn đọc”.

Đọc xong mấy dòng lý thuyết về giải mã chữ Hán ở trên, tôi thấy như lạc vào một cánh rừng nguyên sinh không tìm nổi lối ra, tôi bèn xem kĩ phần phụ lục phân tích hiệp tự 1.000 chữ ở cuối sách mong tìm ra lời giải đáp, nhưng càng xem càng thấy như mình đang lạc vào trận đồ bát quái. Tôi xin đơn cử một vài trường hợp phân tích hiệp tự của Nguyễn Quốc Thái để bạn đọc tham khảo. Ví dụ: cũng là những chữ có bộ ngôn (言), nhưng chữ “ngoa” (訛) thì được phân tích là “ngoa = ngôn hóa” (gồm hai thành tố ngôn hóa kết hợp lại), còn những chữ khác như chữ “thảo” (討) gồm hai thành tố “ngôn” và “thốn” thì lại được phân tích là “Thảo = thập giao”, chữ “thỉnh” (請) là “thỉnh = thập sinh”…; những chữ có bộ thảo () như chữ “trà” (茶) được phân tích là “Trà = trảo xà”, Bồng (蓬) được phân tích là “Bồng = bao công”…

Qua vài điều dẫn chứng và trình bày sơ lược ở trên, chắc bạn đọc cũng đã hình dung được công trình “giải mã chữ Hán” của Nguyễn Quốc Thái. Điều tôi muốn nói ở đây là trong các bài viết ngắn, Nguyễn Quốc Thái đã có những cách hiểu không bình thường và táo bạo như “Lục thư” là “Sách 6”, chứ không phải là 6 cách cấu tạo chữ Hán (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá). Tất nhiên không phải “Lục thư” đặt ra trước, rồi sau đó người ta mới căn cứ vào “Lục thư” để tạc chữ mà ngược lại, trên cơ sở kho chữ phong phú về một số lượng và loại hình, nhà văn tự học mới nghiên cứu các mặt kết cấu, hình thể và ý nghĩa mà qui nạp thành “Lục thư”, chỉ riêng Nguyễn Quốc Thái phủ nhận và cho là “Sách 6” thì quả là vô cùng độc đáo (!).

Dựa vào kết cấu và mối quan hệ giữa các mặt hình thể - âm học - ý nghĩa, người ta đã phân loại kho chữ Hán thành bộ, rất tiện lợi cho việc nghiên cứu và học tập chữ Hán. Đó là một cống hiến lớn lao cho ngành văn tự học Trung Quốc (Hứa Thận đã phân chia chữ Hán thành 540 bộ, về sau Mai Ứng Tộ đời Minh đã sắp xếp lại thành 214 bộ và đến nay người ta vẫn lấy 214 bộ làm chuẩn), nhưng Nguyễn Quốc Thái đã phủ nhận, phê phán và đưa ra thuyết “lưỡng cực âm dương” để giải mã chữ Hán bằng cách nêu lên vài khái niệm mù mờ về nguyên âm, phụ âm và vĩ âm, rồi lại qui kết cho lý thuyết của mình được soi sáng bởi triết học cổ đại Trung Quốc là Kinh Dịch. Không hiểu “công trình này đã được cơ quan khoa học nào đánh giá và kết luận mà Nguyễn Quốc Thái đã lớn tiếng” Lý thuyết mới đóng một vai trò quan trọng trong học tập và nghiên cứu. Nó có thể khai sinh một môn học, với tên gọi “tự diện học”. Nó có tầm ứng dụng lớn, không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước khác” (!) (tr.24). Và tác giả còn đi xa hơn nữa: “Trong cuộc hành trình chinh phục Hán ngữ, ở đỉnh cao Himalaya, một lá cờ đã được cắm lên, vào ngày hôm này, đó là lá cờ Việt Nam” (tr.23). Chúng ta sẽ đào tạo được rất nhiều nhân tài, như và hơn ông Quách Mạt Nhược, trên cơ sở phổ cập lý thuyết mới về Hán tự. Chúng tôi mạnh dạn nói lên điều đó, vì giờ đây, tấm màn bí mật của chữ Hán đã được gỡ bỏ, và đã có “luật buộc” với chữ Hán… Tôi tha thiết mong mỏi lý thuyết sớm được thừa nhận và được mở rộng tầm ứng dụng ở nhiều nước” (tr.30-31).

Có lẽ không cần phải bình luận và trích dẫn thêm, bạn đọc cũng thấy được tầm cờ của nhà “học giả” đẻ ra môn lý luận đó.

Là một độc giả bình thường, không am hiểu nhiều về Hán học, tôi có một vài nhận xét nhỏ nhân đọc cuốn Hán tự giải mã thư, có điều gì bất cập xin tác giả và bạn đọc lượng thứ. Mặt khác, tôi cũng mong các nhà chuyên môn nghiên cứu vấn đề này và nếu thức sự là một phát hiện mới thì nên đưa ra ứng dụng và sẽ là một đóng góp đáng kể cho vấn đề nghiên cứu và học tập chữ Hán.

CHÚ THÍCH

1. Nguyễn Quốc Thái: Một phát hiện hay là trò chơi khiêm nhường (Giải mã chữ Hán), Nxb. Văn học, H. 1995./.

TB

BÀN VỀ MỘT CHỮ TRONG BÀI THƠ CỔ

HOÀNG TIẾN

Một bài thơ không biết từ đời nào chỉ có bốn câu, nói về bốn mùa, bằng chữ Hán, thường được truyền tụng trong lớp người yêu thích văn chương ở ta:

春 遊 芳 草 地
夏 賞 綠 荷 池
秋 飲 黃 花 酒
冬 吟 白 雪 詩

Dịch âm:

Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm Hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.

Dịch nghĩa:

Mùa xuân đi chơi cỏ thơm đầy mặt đất
Mùa hạ thưởng ngoạn sao sen biếc
Mùa thu uống rượu hoa cúc vàng
Mùa đông ngâm thơ tuyết rơi trắng.

Bài thơ hay. Thôi khỏi nói. Nhưng của ta hay Trung Quốc? Không ai rõ xuất xứ. Có người bảo, nước chúng ta không có tuyết, bài thơ ghi tuyết trắng (bạch tuyết) thì chắc phải là của Trung Quốc. Nhưng những mô - típ: phong, hoa, tuyết, nguyệt; cầm kỳ, thi, họa; ngư, tiều, canh, mục; điểu, thú, trúc, mai v.v.. là những mô - típ văn học giao lưu lâu đời giữa hai nền văn hóa ta và Trung Hoa. Nó mang tính ước lệ trong thủ pháp miêu tả nghệ thuật thay thế cho nhận thức thẩm mỹ sự vật thực tế. Có thể tìm thấy vô khối những tỉ dụ trong những sáng tác của cha ông ta xưa. Còn nếu bài thơ là của ta thì chứng cứ ở đâu? Không có tác giả. Tất nhiên đầu tiên phải có một người làm, rồi thấy hay thì truyền tụng. Biến dịch thành khuyết danh.

Nhưng của ta hay của Trung Quốc, không phải là chủ ý của bài viết này. Bài viết này chỉ muốn bàn về một chữ trong bài thơ trên. Nếu thấy hợp lý, phải lẽ, may ra có thể khôi phục được gốc bản chăng (còn của ta hay của Trung Hoa xin các bậc hiểu biết chỉ bảo cho sau).

Ấy là chữ phương thảo (芳草) cỏ thơm. Cỏ thơm, một cảm xúc rất thơ. Vấn đề đặt ra là, các chữ thứ ba trong toàn bài thơ trên đều chỉ về màu sắc: lục (xanh biếc) Hoàng (vàng) bạch (trắng). Sao chữ thứ ba trong câu nhất lại nói về mùi vị: phương (thơm)?

Bài thơ được bố cục chặt chẽ, đối xứng như lối dựng đình chùa xưa, các cây cột giằng kéo nhau tạo thành một khối hình chắc chắn. Tên các mùa (xuân, hạ, thu, đông) được dùng làm chủ ngữ đặt ra ở đầu các câu. Tiếp là các động từ (du, thưởng, ẩm, ngâm) ở chữ thứ hai trong các câu. Tiếp nữa là các tính từ (phương, lục, Hoàng, bạch) chỉ tính chất các danh từ đứng làm tân ngữ trong câu (thảo, hà, hoa, tuyết); và sau hết là các trạng từ chỉ nơi chốn cùng sự vật (địa, trì, tửu, thi). Tổng cộng có 20 từ.

Hai mươi viên gạch xếp thành lâu đài chứa đựng cả không gian và thời gian 365 ngày, với những chi tiết mang tính điển hình của từng mùa. Gây một cảm xúc thẩm mỹ rất thơ, thoát tục.

Vì thế, dịch để đạt được cái hay của bài thơ chữ Hán này thật khó. Và cũng vì thế mà thấy chữ phương (芳thơm) tính từ chỉ mùi vị trong câu đầu trở thành trật khớp. Nó không hòa nhập với các tính từ chỉ sắc mầu của các câu sau (lục, Hoàng, bạch).

Mùa xuân người ta thường nói đến màu xanh:

Cỏ non xanh dợn chân trời
(Kiều
- Nguyễn Du)

Thiển nghĩ, có thể nguyên bản của câu thơ là thanh thảo chăng ? (青 草 cỏ xanh). Từ thanh về ngữ âm cũng vần bằng, loại đoản bình thanh như từ phương (芳). Thanh là (青) tính từ chỉ mầu sắc vào đây hợp lý hơn, tạo thành một khối nhất quán lóng lánh sắc mầu của toàn bài.

Còn từ phương (芳 thơm) ở đây, chẳng khác gì giữa đám 20 viên gạch chỉ bỗng lẫn vào một viên gạch hoa. Vả lại, cỏ cũng có loại thơm và loại cỏ không thơm.

Kẻ hậu học, lo rằng còn nông cạn, đâu dám bắt bẻ người xưa, chỉ dám trình bày để những bậc túc nho cao thâm chỉ bảo, ngõ hầu đưa câu thơ trở lại dạng nguyên bản thì thật là quý hóa./.

TB

"VIỆT SỬ LƯỢC" VỚI BẢN TIẾNG NGA CỦA A.B PÔLIACỐP

NGUYỄN ĐĂNG NA

Việt sử lược (VSL)(1) là tác phẩm Việt Nam đầu tiên dịch từ nguyên văn chữ Hán ra tiếng Nga. Hiện có hai dịch bản: bản thứ nhất của I.N.Ma-ski-na(2) và bản thứ hai của A.B.Pô-li-a-cốp(3).

Bản thứ nhất (viết tắt là M), in năm 1978, nằm trong chuyên luận Trung Hoa và Việt Nam thế kỷ III-XIII và được xếp vào phần phụ lục sau hai chương của phần chính: chương “Sự thôn tính lãnh thổ phương Nam và cuộc đấu tranh của người Việt chống bọn xâm lược Trung Hoa” và chương “Sự hình thành quan hệ qua lại của Trung Hoa với Đại Việt” (cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XIII). Như vậy, M chỉ là phần phụ, làm nhiệm vụ minh họa cho phần chính: Trung Hoa và Việt Nam thế kỷ III-XIII. Tuy là phần phụ, M vẫn được chú giải hết sức kỹ lưỡng, dài 54 trang. Ngoài ra còn có các bảng chỉ dẫn bằng Hán ngữ cho phần chú giải và các bảng tra tên người, tên đất…

Bản thứ hai (viết tắt là P), in năm 1980, nằm trong công trình gồm hai phần:

Phần I: (95 trang): Vị trí của Việt sử lược trong khoa lịch sử học Việt Nam, gồm sáu mục:

1. Nguồn sử liệu Việt Nam thời tiền (VSL) và vấn đề niên đại của VSL.

2. Niên đại và tác giả VSL.

3. Quan điểm triết học - tôn giáo của các tác giả VSL.

4. Phân tích theo kiểu so sánh những ghi chép về một số sự kiện lịch sử trong VSL và trong các tác phẩm muộn hơn.

5. Đối chiếu VSL với các nguồn sử liệu thời Trung đại ở các nước Đông và Đông Nam Á.

6. Phàm lệ dịch VSL.

Phần II: (183 trang) gồm:

1. Dịch: Đề yếu Tứ khố toàn thư Việt sử lược, chiếm 132 trang.

2. Chú thích (19 trang) và các bảng tra tên người, địa phương, dân tộc… (25 trang).

Từ kết cấu và nội dung của hai công trình trên, ta thấy, nếu như ở bản M, VSL được nghiên cứu dưới giác độ sử học, thì ở P, VSL được nghiên cứu dưới giác độ văn bản học. Điều đó nói nên rằng, A.B.Pô-li-a-cốp là người Nga đầu tiên giới thiệu, nghiên cứu văn bản Việt sử lược một cách toàn diện nhất(4). Có lẽ ý thức được như vậy, nên tác giả đã đặt tên cho công trình của mình là VIỆT SỬ LƯỢC. Với nhan đề đó, dĩ nhiên bản P tạo được sự chú ý và niềm tin của bản đọc Liên Xô trước đây đối với VSL hơn là bản M. Qua bản P, bạn đọc sẽ hiểu lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam từ thế kỷ XIII trở về trước. Vì bản P có ý nghĩa quan trọng như vậy, nên tôi có đôi điều bàn về dịch thuật của dịch giả.

Dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia là một khoa học và là một nghệ thuật, đòi hỏi người dịch phải am hiểu sâu sắc nền văn hóa của cả hai dân tộc mà mình đang chuyển dịch ngôn ngữ của họ. Dịch văn ngôn ra tiếng Nga càng khó hơn. Song, dịch văn ngôn do người Việt viết sẽ gặp tầng khó khăn thứ ba là: trong văn bản Hán Việt thường có chữ Nôm xen vào. Gặp trường hợp đó, nếu không biết chữ Nôm và không thông thạo tiếng Việt hiện đại thì, chắc chắn không thể dịch nổi. Chẳng hạn, sự kiện Đỗ Anh Vũ năm 1148, VSL viết: “Anh Vũ ra vào nơi cung cấm, làm nhiều điều ô uế, tiếng lan ra cả bên ngoài” (tr.142). Cho nên, ba quân mà đại diện là Nguyễn Dương muốn giết y. Nhưng khi Dương cầm giáo định đâm Vũ, thì Đàm giật lấy giáo và nói: “quan điện tiền bảo tôi rằng, tội Anh Vũ tuy đáng chết, nhưng trước hết phải xin mệnh trên” (tr.142). Dương tức giận chửi: “Điện tiền thị Vũ Cát, phi Vũ Đái dã”. Chả là, quan điện tiền bấy giờ là Vũ Đái [武 帶]. Do không biết chữ CÁT [吉] và ĐÁI [帶] phải đọc theo âm Nôm, nên bản M. đã phiên chúng ra Hán ngữ hiện đại là U Txư [Ү цзи] và U Đai [Ү Даи], rồi chú nghĩa U Txư là Vũ Hạnh phúc [Ү Сҹаптьc] và U Đai là Vũ Thắt lưng [Y Пояс](5). Bản P dịch: “Дисң тисң Қыт а ңe By даи” (tr.186). Trước hết người Nga không thể hiểu Дисң тисң là cái gì cả, bởi bản P. đã phiên âm chức tước người Việt Nam ra tiếng Nga và không chú thích. Nhưng đáng khen rằng, bản P đã diễn đúng hai chữ Қыт và даи: “chữ 吉 và 帶 tiếng địa phương phát âm là Cưt và Dai, có nghĩa là cứt [Кaл] và nước đái [Mo чa] (tr.247). Chú thích được như thế, chứng tỏ A.B.Pô-li-a-cốp rất sành tiếng Việt hiện đại và biết cả chữ Nôm. Nhưng nếu ông giỏi tiếng Việt hiện đại và chữ Nôm bao nhiêu, thì đối với Hán cổ, ông lại tỏ ra lúng túng bấy nhiêu, mà theo lời phàm lệ, bản P được dịch trực tiếp từ văn ngôn, bản Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải 1936, cho nên cần phải bàn đến. Dưới đây tôi tạm nhặt ra bốn điểm để bàn.

1. Cách hiểu từ ngữ

Từ đơn âm tiết trong Hán ngữ cổ chiếm tỷ lệ rất cao, nhưng điều đó tuyệt nhiên không có nghĩa là chúng không có từ đa âm tiết. Gặp từ đa âm tiết mà không nhận ra, lại đem tách thành hai từ khác nhau để dịch thì khó tránh khỏi sai lầm. Chẳng hạn từ SỨ QUÂN [使 君] trong đoạn sau: Đăng Chi bắt giam Phòng Pháp Tông và cướp quyền của ông ta. Trong tù, Pháp Tông xin Đăng Chi cho mượn sách đọc. Đăng Chi đáp: “( 使 君) an cư do khủng động tật khởi khả khán thư?”. Bản P đã tách SỨ QUÂN thành từ và dịch là SỨ QUÂN “Если Вы” (tr.119)-- giả sử ông, nếu như ông… Ta biết rằng, Phòng Pháp Tông vốn là quan Thứ sử thời Tề Minh đế (494-498), mà trước đấy, từ thời Hán, người ta đã gọi quan Thứ sử là SỬ QUÂN. Do đó, sử quân được dùng thay cho chức Thứ sử của Pháp Tông và phải dịch là “SỬ QUÂN ngồi không…”. Lại nữa, trước đây, Phục Đăng Chi vốn là quan trưởng lại(6) dưới quyền của Thứ sử Pháp Tông. Y không những cướp quyền của Pháp Tông, lại bắt giam ông ta. Khi Pháp Tông xin mượn sách đọc, y mỉa mai gọi ông là SỬ QUÂN, một chức vụ mà hiện thời ông không còn. Chỉ một chi tiết nhỏ đó, tác giả VSL đã tỏ thái độ phê phán bản chất tàn nhẫn của Phục Đăng Chi. Dịch sử Trung đại, khó chính là ở chỗ đó.

Trong quá trình phát triển ngôn ngữ, từ ghép hình thành khá nhiều và theo quy luật, một số từ trở thành “tử ngữ”, chỉ còn bảo lưu trong một số văn bản cổ. Gặp trường hợp này, nếu dùng nghĩa của từ hiện đại mà dịch, thì sẽ sai. Chẳng hạn, QUỐC TỬ [國子] là khái niệm dùng để chỉ con em nhà quý tộc quyền chức. Nhưng bản P lại dịch là Con em của đất nước [Дети страны], (tr.200) nghĩa là bản P đã tách nó thành hai từ QUỐC và TỬ để dịch.

Lại có trường hợp một số từ đơn âm tiết làm định ngữ cho từ đơn âm tiết khác. Do thói quen sử dụng, sự kết hợp này đã làm chúng trở thành cụm từ có kết cấu tương đối chặt chẽ và mang một ý nghĩa khác. Nếu tách chúng thành hai từ độc lập và nhất nhất dịch theo nghĩa đen từng chữ thì sẽ sai. Ví như từ CAO NHÂN [高 人]. Năm 822 đời Đường Mục Tông, Nguyễn Nguyên Hỷ làm An Nam Đô hộ phủ và xây thành con. Khi đang xây, một thấy tướng số đến nói: “Quân lực bất túc tu đại thành, ngũ thập niên hậu tất hữu CAO NHÂN vi thử định đô kiến phủ giã”. Chữ CAO trong trường hợp này khá thú vị, bởi trước hết, nó trùng với họ của một người, mà 50 năm sau, đúng như lời tiên tri của thầy tướng số, sẽ đến đây xây thành Đại La. Đó là Cao Biền. Nhưng CAO lại có nghĩa phái sinh là CAO TÀI, CAO THỦ. Bản P biết mỗi một nghĩa của CAO (chỉ không gian, quảng tính) nên dịch: “Sức ông không đủ để xây thành lớn. Sau 50 năm, một người cao [сокии чељовек] sẽ dựng đô kiến phủ ở ấp này” (tr.121). Và để người đọc tin rằng, mình am hiểu chữ Hán, bản P còn chú thích: “Chữ tượng hình cao (高) có nghĩa là Высокии” (tr.239). Ngược với P, bản M đã dịch CAO NHÂN là Выдающии чељовек (tr.151). Tiếng Nga Выдающии có nghĩa là trác việt, trứ danh, ưu tú, kiệt xuất… Trong trường hợp này, I.N.Ma-ski-na am hiểu văn ngôn và phong cách của văn bản VSL hơn A.B.Pô-li-a-cốp.

Mỗi dân tộc, mỗi khu vực văn hóa có những biểu tượng thẩm mỹ riêng của mình. Đối với phương Đông, con rồng tượng trưng cho Hoàng đế. Bởi thế, cái gì liên quan đến Hoàng đế, người ta thường ghép thêm chữ long như: long bào, long kiệu, long sàng, long nhan… Nhưng ở Nga, con rồng дракон lại biểu trưng cho bệnh tật, chiến tranh, chết chóc. Rồi quan niệm tướng số cũng chi phối việc miêu tả nhân vật. Các tác giả, văn cũng như sử đều rất quan tâm đến vấn đề này. Vì thế, chân dung nhân vật thường được phác họa bằng một số công thức mang ý nghĩa ẩn dụ - thẩm mỹ. Chẳng hạn chân dung Lý Nhân Tông (1072-1121), một trong những ông vua được dân tộc Việt Nam kính trọng: “Vương vi nhân nhật giác long nhan”. Bản P đã hiểu NHẬT [日] là ánh sáng và GIÁC [角] là cái sừng, nên dịch: “Vua là người có những cái sừng sáng và mặt rồng” (tr.163). Ở đây, bản P lại tưởng NHẬT GIÁC là hai từ và cũng chỉ biết mỗi một nghĩa GIÁC là cái sừng. Thực ra, GIÁC còn nghĩa nữa là ngạch cốt (xương trán, gò trán) và NHẬT GIÁC “vị ngạch thượng chi cốt, long khởi như nhật giã. Cổ dĩ vi thiên tử chi tướng” (Từ nguyên, trang 689) - nói, gò trán nhô cao như mặt trời. Xưa cho đó là tướng của bậc thiên tử. Một người có tướng đế vương, qua bản P đã trở thành quái vật có hai SỪNG SÁNG [светлыерога]. Lại nữa, Lý Anh Tông, một vị anh quân thời Lý có khuôn mặt “long chuẩn long nhan”. Bản P cho LONG CHUẨN [隆準] là hai từ và hiểu LONG là to [болъшои] CHUẨN là mũi [нос] nên dịch: “Vua là người có cái mũi to và mặt rồng” (tr.183). Thật là hết chỗ nói. LONG CHUẨN là mũi cao, mũi dọc dừa. Có lẽ P tưởng rằng, cao là từ chỉ về quảng tính, nên phải dùng chữ to [болъшои] để thay thế. Trước A.B.Pô-li-a-cốp, năm 1978, I.N.Ma-ski-na đã dịch câu trên như sau: “Vương là người như khuôn mẫu của sự hào hoa và khuôn mặt rạng rỡ” (tr.218)(7). Bà hòan toàn có lý khi dịch như vậy, vì (великолепие) và (величестве-нныи) là những từ mà người Nga hay dùng để chỉ đấng tối thượng, tương đương với chữ HOÀNG [皇] ở Việt Nam. Đó là chưa nói đến LONG NHAN dịch là mặt con rồng. Khái niệm MẶT CON RỒNG (лицо дракона) sẽ tạo nên nỗi khiếp sợ đối với bạn đọc Nga. Thế là, qua bản P, hai ông vua tài năng và đức độ của Việt Nam - Lý Nhân Tông và Lý Anh Tông đã thành dị dạng, người có những cái sừng sáng, kẻ thì có cái mũi to và cả hai đều có khuôn mặt đáng sợ của con rồng (theo quan niệm Nga).

Hiểu từ ngữ đã vậy, ngắt câu thì sao?

2. Cách ngắt câu.

Hiểu từ đã khó, ngắt câu cho đúng còn khó hơn. Có ngắt câu đúng mới hiểu đúng văn bản và ngược lại, có hiểu văn bản mới ngắt được câu. Bản P có nhiều trường hợp ngắt câu sai. Xin đưa ra 2 trường hợp.

Năm 1182 thời Lý Cao Tông, có Thái sư phụ chính Đỗ An Thuận, em trai Thái hậu Đỗ thị. Y cậy thế lộng quyền, nuôi đội quân tay sai hung dữ là cân xa nhi. Để vừa phản ánh cái “oai” của y, vừa diễu cợt sự lộng hành của y, VSL viết: “Thời ưu nhân dĩ nhất nhân vi Hình bộ Thượng thư, sai tư [lại] truy ngục bất chí, viết: Nhữ hà bất xưng Thái sư cân xa nhi hồ ? Như kỳ ngôn quả hoạch”. Bản P và M ngắt câu khác nhau, đặc biệt là câu cuối cùng. “Vào lúc đó, các nghệ nhân đã biểu diễn. Một người đóng vai Thượng thư bộ Hình. Người ta sai quan đi bắt tội phạm, không kết quả. [Thượng thư] nói: “Vì sao mày không xưng là cân xa nhi của Thái sư ? Nếu mà mày nói như vậy, thì sẽ bắt được” (Bản P, tr.196). Bản M dịch: “Phường trò khi đó đùa, cho một người (trong bọn họ) đóng vai Hình bộ Thượng thư. [Hình bộ Thượng thư] phái một viên tư lại đi truy bắt tội nhân, nhưng [người đó] không bắt được. [Khi đó, ông ta] nói: “Mày vì sao không xưng là phu đánh xe ngựa của Thái sư”. [Bấy giờ, người phường trò] làm theo như lời ông ta nói và quả là bắt được [tội nhân] (tr.233). So sánh bản P với bản M, ta thấy rõ ràng M dịch chuẩn xác từng từ, ngữ và đúng phong cách văn bản. Ưu nhân không thể dịch là nghệ nhân (актер) mà phải dịch là phường trò (Щуты), tư lại không thể dịch là quan (чниовник), nếu đã là quan rồi thì làm sao lại xưng là cân xa nhi? Bản M dịch tư lại tiểu lại (Мелкии служащии) và cân xa nhi phu đánh xe ngựa. Nếu chỉ phiên âm cân xa nhi (кан са ни) như bản P thì người Nga không thể hiểu là cái gì cả. Riêng câu cuối cùng, hiển nhiên P không hiểu văn bản, nên ngắt câu sai, cho rằng “như kỳ ngôn quả hoạch” là lời nói của người đóng vai Thượng thư và dịch “như …. quả” là “nếu như… thì sẽ”, nghĩa là ông chẳng hiểu gì chữ quả và văn lý cả. Đoạn trên là một màn kịch nhỏ, có nhân vật, có lời nói, có hành động. Song bản P dịch chỉ còn có một lời nói nhạt nhẽo làm mất cả giá trị nghệ thuật của đoạn văn.

Văn ngôn không có các phạm trù ngữ pháp giống, số, cách như Nga ngữ. Vì vậy, chấm câu đúng càng quan trọng. Có thể coi đoạn dịch về Trưng Trắc và Thi Sách là một ví dụ tiêu biểu, bởi Trưng Trắc là đàn bà (thuộc phạm trù mà Nga ngữ gọi là giống cái), còn Thi Sách là đàn ông (thuộc phạm trù giống đực trong Nga ngữ). Nguyên văn đoạn này như sau: “Mê Linh huyện nhân Trưng Trắc, Lạc tướng chi nữ giã, giá vi Chu Diên huyện nhân Thi Sách thê, tính thậm hùng dũng, sở vi bất pháp. Thái thú Tô Định thằng chi dĩ pháp. Trắc nộ nãi dữ kỳ muội Nhị khởi Phong Châu binh”… Đoạn trên có câu. Hãy xét câu thứ nhất. Dễ nhận thấy chủ ngữ của nó là Trưng Trắc và 4 vị ngữ của Trưng Trắc là:

1. Lạc tướng chi nữ giã - là con gái Lạc tướng [giã (也) là dấu hiệu của vị ngữ].

2. Giá vi Chu Diên huyện nhân Thi Sách thê - lấy Thi Sách, người huyện Chu Diên (với tư cách mình) làm vợ [Động từ làm vị ngữ].

3. Tính thậm hùng dũng - tính rất hùng dũng [tính từ làm vị ngữ].

4. Sở vi bất pháp - việc làm không theo pháp luật [phủ định từ làm vị ngữ].

Không thấy được logic toàn mạch văn, bản P đã dịch: “Người đàn bà huyện Mê Linh mang tên Trưng Trắc, là con gái Lạc tướng, đã lấy người ở huyện Chu Diên là Thi Sách - một con người rất hùng dũng và đi ngược lại pháp luật” (tr.113). Vì tưởng rằng Thi Sách rất hùng dũng và đi ngược lại luật pháp, nên bản P dịch tiếp: “Thái thú Tô Định ràng buộc ông ta bằng những luật nghiêm khắc (tr.113). Dịch như vậy, chứng tỏ bản P không hiểu ngữ pháp văn ngôn. Nếu chú ý đến vị ngữ thứ 2 của câu 1 ta dễ nhận ra sai lầm đó. Kết cấu “giá vi… thê” đã khóa chặt chữ Thi Sách ở trong (giá vi… Thi Sách thê), do đó, chữ Thi Sách không còn mối liên hệ ngữ pháp gì với các từ sau chữ “thê”. Hơn nữa, chữ hùng (雄) để chỉ giống đực chữ dũng (勇) chỉ sức mạnh của người đàn ông. Tác giả VSL muốn miêu tả Trưng Trắc có khí chất đàn ông, không chỉ nổi giận, công hãm các quận huyện, lược định 65 thành, mà còn tự lập làm vương. Bản M ngắt câu chuẩn hơn vì hiểu văn bản chính xác và đã dịch: “[Trưng Trắc] là người huyện Mê Linh, con gái của tướng Lạc. Bà đã lấy chồng người huyện Chu Diên là Thi Sách. Theo bản tính, [bà] là người dũng cảm, [nhưng] việc làm [của bà] không theo pháp luật. Thái thú Tô Định dùng luật pháp ràng buộc bà” (tr.140).

Hai thí dụ trên cho thấy, A.B.Pô-li-a-cốp hết sức lúng túng trong việc ngắt câu vì không hiểu mạch lý câu văn. Ông đã dịch đàn bà thành đàn ông(8) và tỏ ra không tường phép viết sử của các sử gia Trung đại.

3. Cách hiểu đại từ “chi” (之).

Trong Hán ngữ cổ, đại từ Chi (之) vừa là giống đực vừa là giống cái, vừa là số ít, vừa là số nhiều, nói cách khác, nó hòan toàn không giống đại từ tiếng Nga. Người ta cho rằng, tiếng Nga là kính chiếu yêu, làm hiện nguyên hình trình độ hiểu biết đại từ CHI của người dịch. Trường hợp đại từ CHI thay cho Trưng Trắc mà bản P. đã dịch thành Thi Sách là một ví dụ. Dưới đây, một trường hợp đơn giản hơn nhiều nhưng không kém phần thú vị.

Nói về việc dựng nước buổi đầu, VSL ghi: “Chí Chu Thành Vương thời, Việt Thường thị thủy hiến bạch trĩ, Xuân thu vị CHI khuyết địa, Đái ký vị CHI điêu đề” - Đến thời Chu Thành Vương, họ Việt Thường mới dâng chim trĩ trắng, sách Xuân Thu gọi CHI là Khuyết địa, sách Đái ký gọi Chi là điêu đề.

Đại từ CHI ở đây thay thế cái gì - Việt Thường hay chim trĩ trắng? Câu hỏi có vẻ lẩm cẩm chăng? Không đâu! Vì hai bản P và M hiểu theo hai cách khác nhau. Nếu tinh ý, ta nhận ra ngay rằng, chữ địa (地) là đất đai, chữ khuyết (闕) là hoang vắng, bỏ trống. Song điêu (雕) lại là một loài chim, khiến bản P tưởng là nói về con chim trĩ trắng. Nhưng đang nói về nước Đại Việt buổi đầu, lẽ nào sử gia lại lẩm cẩm kể lể rườm rà về tên gọi một con chim, nhất là anh ta viết theo phong cách SỬ LƯỢC? Chưa cần tra sách Xuân thu Đại đái, ngay Từ nguyên trang 1590 đã cho biết, sách Đái ký ghi: “Nam chi viết man, Điêu đề Giao Chỉ”. Giao Chỉ là tên nước Việt khi chưa đòi lại được độc lập. Ấy thế mà bản P dịch như vầy: “Sách Xuân thu gọi [con chim trĩ trắng ấy] là “Khuyết địa”, sách Đái ký gọi [con chim trĩ ấy] là “Điêu đề” - Чунъ цюназываст’ |ЕТОГО ΦЛЗАНА| “Цюз ди Даинзи Дяоти” (tr.109).

Ô hô ! địa danh trong VSL qua bản P đã trở thành chim danh ! Và, trường hợp này, bản M vẫn dịch đúng: “Trong sách Xuân thu, chúng (tức là đất đai của bộ lạc) được gọi là đất hoang. Trong sách Đái ký, chúng được gọi là Điêu Đề” (tr.136). Bản M. còn chú thích: “Điêu Đề là một trong những bộ lạc Man miền núi. Khái niệm Man trong sách sử Trung Hoa dùng để gọi các bộ tộc không phải Trung Hoa, sống ở vùng phía Nam…” (tr.279).

Một ví dụ trên đây đủ nói lên trình độ hiểu lịch sử và chữ nghĩa của bản P.

4. Cách hiểu động từ

Đồng từ trong Nga ngữ cũng là hòn đá thử vàng để kiểm tra trình độ văn ngôn của người dịch. Chỉ xin đưa ra 2 động từ trong bản P.

a, Động từ “Sử” [使] - sai khiến. Động từ này rất giống động từ sai khiến trong tiếng Nga về mặt ngữ pháp. Hãy xét câu dưới đây: “Hán Vũ Đế… sử Hàn Thiên Thu đẳng tương binh nhị thiên nhân dĩ công Gia”. Câu này quá đơn giản: Hán Vũ Đến… sai Hàn Thiên Thu đem 2000 quân để đánh [Lữ] Gia. Nhưng không hiểu tại sao, A.B. Pô-li-a-cốp lại dịch: “Vũ đế triều Hán… ra lệnh cho Hàn Thiên Thu và các tướng khác với 2000 quân tấn công Gia” (tr.112). Nếu Hàn Thiên Thu và tướng là hai bổ ngữ đồng đẳng, thì giữa chúng phải có từ nối “dữ” [與]. Vả chăng sau Hàn Thiên Thu đã có chữ “đẳng” [等] thì chữ “tướng” (phải đọc là “tương” mới đúng) không thể đứng sau “đẳng” được. Hơn nữa, sau động từ, “sử” [使] còn có “dĩ” [以] (chỉ mục đích) thì bổ ngữ thứ nhất phải là một mệnh đề có kết cấu chủ - vị. Bản M hiểu được như vậy, nên dịch rất chuẩn: “Hán Vũ đế… sai bọn Hàn Thiên Thu cầm đầu 2000 lính tấn công [Lữ] Gia” (tr.139). Trong trường hợp này, ở bản P, động từ vị ngữ bị biến thành danh từ, và câu đúng ngữ pháp thành câu què.

b. Động từ trí sử bị động.

Nga ngữ cũng có động từ bị động. Không nắm vững chúng rất dễ dịch ngược, biến người sống thành người chết, kẻ thua thành thắng, nạn nhân thành tội nhân… Hãy xét câu dưới đây sẽ rõ: “Tự Khánh dẫn binh phạt Ma Lôi nhân Đinh Cảm bại chi nhi hòan”. Có hai cách ngắt câu:

- Tự Khánh dẫn binh phạt Ma Lôi nhân// Đinh Cảm bại chi nhi hòan.

- Tự Khánh dẫn binh phạt Ma Lôi nhân Đinh Cảm// bại chi nhi hòan.

Nếu ngắt câu theo cách thứ nhất, thì phải dịch: “Tự Khánh dẫn quân đến đánh người Ma Lôi, Đinh Cảm đánh bại [Tự Khánh] mà trở về”. Nhưng Đinh Cảm không từ nơi khác tới ấp Ma Lôi, nên không thể trở về nơi nào cả. Vả chăng, Đinh Cảm giả sử co trở về nơi nào đó, thì Tự Khánh không thể đến Ma Lôi đánh Đinh Cảm lần thứ hai như VSL đã ghi: “Mùa đông, tháng 10, Tự Khánh lại đánh ấp [Ma Lôi] ấy…, giết, bắt được rất nhiều. Cảm chạy vào vùng sơn lao”. Vậy người trở về phải là Tự Khánh: Tự Khánh dẫn quân đến đánh, Tự Khánh TRỞ VỀ; Tự Khánh LẠI đến đánh. Logic đoạn văn là vậy, cho nên phải ngắt câu theo cách thứ hai: “Tự Khánh dẫn quân đến đánh Đinh Cảm người Ma Lôi, đánh bại [Đinh Cảm] mà trở về”. Nhưng Đinh Cảm đã bị thua, thì ắt là bị bắt hoặc bỏ chạy và Tự Khánh không cần đến đánh lần thứ hai. Mấu chốt ở chỗ, hiểu BẠI CHI [ 敗 之] như thế nào cho đúng. BẠI là động từ trí sử bị động, nên CHI là chủ thể của hành động đánh bại, do đó phải dịch là “Tự Khánh bị đánh bại bởi Đinh Cảm”. Mạch văn thông: “Tự Khánh dẫn quân đến đánh Đinh Cảm - người Ma Lôi, bị Đinh Cảm đánh bại mà trở về”. Động từ trí sử bị động đầy rẫy trong văn ngôn. Chẳng hạn: “Nguyễn Huệ đồ Phú Xuân thành, Trịnh tướng tử chi” - Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân, tướng của chúa Trịnh bị chết bởi Nguyễn Huệ(9). Hoặc “Trịnh Khải dữ tặc chiến vu Tây Long tân, bại tẩu bị chấp, Lý Trần Quán tử chi” - Trịnh Khải đánh nhau với giặc ở bến Tây Luông, thua chạy bị bắt. Lý Trần Quán vì Trịnh Khải mà chết(10) v.v… Trong các trường hợp trên, không thể dịch “Trịnh tướng tử chi” là “tướng của chúa Trịnh làm chết Nguyễn Huệ, cũng không thể dịch “Lý Trần Quán tử chi” là “Lý Trần Quán giết chết Trịnh Khải”. Không nắm được kết cấu bị động của động từ trí sử, bản P. dịch đoạn về Tự Khánh như sau: “Tự Khánh kéo quân đến đánh Đinh Cảm - người Ma Lôi, đem đến cho Đinh Cảm sự thất bại và trở về” (tr.215). Một lần nữa A.B Pô-li-a-cốp lại dịch sai và lần này ông biến người chiến thắng (Đinh Cảm) thành kẻ chiến bại. Riêng bản M vẫn dịch đúng: “[Trần] Tự Khánh đem quân đến đánh người Ma Lôi. Đinh Cảm đã đánh bại nó và [nó] trở về”. (tr.256).

Bốn điểm nêu trên, thực chất chỉ có 2: chữ nghĩa. Những chỗ sai ở bản P. chủ yếu là, biết chữ mà ít biết nghĩa. Hơn nữa, bản P không nắm được đặc trưng của sử bút Trung đại phương đông. Thời đó, các sử gia đều quan niệm, dù vô, thức rằng “lời khen [của sử] vinh hơn hoa cổn, lời chê [của sử] nghiêm hơn búa rìu”(11). Cho nên trong sử, từng từ, từng chữ đều nhất nhất được chọn lọc nghiêm cẩn. Vì thế, dịch sách sử, quả là cực kỳ khó khăn. Và, ai đã làm công việc dịch thuật, ắt chẳng bao giờ dám bảo rằng mình dịch không có sai lầm, huống chi dịch một công trình như VIỆT SỬ LƯỢC ? Còn như cho rằng “dịch là diệt” thì nhân loại làm sao có thể giao lưu văn hóa được? Dịch chỉ “diệt” khi “bạo hổ bằng hà”(12). Người viết bài này, mặc dù đã hết sức đắn đo, nhưng chắc chắn rằng, không tránh khỏi những điều bất cập hoặc thái quá. Mong được lượng thứ.

M.9-1990; HN.9.1995

CHÚ THÍCH

1. Theo Tứ khố toàn thư đề yếu, tác phẩm nguyên tên là Đại Việt sử lược. Dưới đây, viết tắt là VSL. Khi trích VSL bằng chữ Hán, chúng tôi dùng bản Thương vụ ấn thư quán (Thượng Hải, 1936); bằng tiếng Việt, dùng bản do GS. Trần Quốc Vượng dịch (Nxb. Văn Sử Địa, H. 1960), và chỉ ghi số trang.

2. И.H. МАШКИНА: КИТАИ И. ВЪЕТНАМ III-XIII BB HAYKA, M, 1978, M.1978. Dưới đây trích dẫn chúng tôi chỉ ghi số trang.

3. A.Ъ, ПОДЯКОВ. КРАТКАЯ ИСТОРИЯ ВЪЕТА, НАУКА. M.1980. Dưới đây trích dẫn chúng tôi chỉ ghi số trang.

4. Nhân đây, xin cảm ơn ông A.B.Pô-li-a-cốp đã giới thiệu VSL với bạn đọc Liên Xô trước đây.

5. Nguyên văn: МНАЧАЛ, НИК - ЗТОУЦЗИ (*УСЧАСТЪЕ"), а НЕУДАИ (*У ПОЯС")

6. VSL viết là trưởng sử e nhầm. Đại Việt sử ký toàn thư ghi là trưởng lại .

7. Nguyên văn: КAК ЧЕЛОВЕК КОРОЛЪ ЪЫЛ ОЪРАЗЦОМ ВЕЛИКОЛЕПИЯ И С ВЕЛИЧЕСТВННЬЫМ ЛИЦОМ.

8. Tiếng Nga, đại từ chỉ đàn ông là OH, đàn bà là OHA

9. Tây sơn thực lục, tờ 1a.

10. Đại Việt quốc sử chính biên. Q.10, tờ 25a.

11. Đại Việt sử ký toàn thư, KHXH, tập 1 , H. 1967, tr.10.

12. Tay không bắt hổ, chỉ những người liều lĩnh./.

TB

HOÀNG ĐẾ NƯỚC ĐẠI NAM (1) KÍNH PHÚC ĐÁP HOÀNG ĐẾ NƯỚC ĐẠI PHÚ LANG SA, TRƯỚC ĐIỆN XEM THƯ (2)

TỐ AM NGUYỄN TOẠI

Nay trang trọng tiếp thư quí quốc do chánh súy ÔDê (Ohier) hiện trú ở Gia Định phái quan năm Khoanh Cade (Caillet) của hỏa thuyền BaLăng (Legailard) đưa đến.

Trong thư quí quốc nói quan súy cũ Gia Lang Di Y [La Giandière] đã chuyển thư của bản quốc và nói về những điều khoản của giao ước giữa hai nước. Quí Hoàng đế chưa từng khoảnh khắc nào không để tâm, đã chăm chú ủy cho chánh súy Nam Kỳ Ô Dê được toàn quyền lập ước, cùng các đại thần bản quốc cùng nhau thương lượng, cho phép đạt tới đạo công bằng, và mong sớm tạo được niềm vui mới, mãi mãi giữ vững niềm tin lớn lẫn nhau(3).

Xem thư, thành thực thấy Quí Hoàng đế coi trọng nghĩa lân bang, bản tâm muốn cùng vui cùng lợi, mãi mãi được sự tốt lành (bản quốc) khôn xiết vui vẻ hài lòng. Ôi ! đạo giao hảo giữa các nước láng giềng, lấy thành thực giữ tính làm quí, bản quốc và quí quốc hòa đảo đến nay đã tám năm, mọi việc đi lại thù đáp nhất thiết đều mở lòng thành, vững đức tín, tưởng không còn có gì đáng nói.

Xét sáu tỉnh Nam Kỳ, ba tỉnh ngoài do quí quốc cai quản, ba tỉnh trong do bản quốc cai quản đã có điều ước năm Nhâm Tuất (1862). Từ năm Quí Hợi (1863) bản quốc sai sứ đưa thư, thương thuyết giao hảo, quan Đại học sĩ quí quốc Đô duy anh Đê Luy [Drouyn de lhuys](4) từng nói: nếu như bản quốc chịu đem ba tỉnh Vĩnh Long, An Hà(5) trao cả cho quý quốc cai quản, thì tiền bối thường được bãi bỏ hết, ngoài ra nếu đòi thêm một khoản tiền bạc nào đó, cũng sẽ được giao trả đủ số. Sứ thần bản quốc khước từ, cho rằng về thổ địa và nhân dân, người trước từng gian khổ khai thác đất, vỗ yên dân, người sau phải cẩn thận gìn giữ, không dám khinh suất đồng ý.

Đến bậc quí quốc có lòng tốt đồng ý cho chuộc ba tỉnh ngoài, thì chánh súy Gia(6) cố giữ lại, nói là phải tuân theo điều ước cũ. Bản quốc thận trọng, không trái ý ông ta(7), cũng vì bản điều ước còn đó cần được các bên tuân thủ, thành thật không có lòng dạ nào khác.

Năm Đinh Mão (1867) cựu chánh súy Gia thấy tại các hạt ở Nam Kỳ có một vài người dân hèn mọn nhớ cái cũ, lạ cái mới, gây chuyện làm mất trật tự. Ông nghĩ rằng có sự xúi bẩy của quan lại ở đất tiếp giáp bèn lấy đó làm điều, dùng thế mạnh lấy ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Bản quốc thận trọng không vi phạm điều ước nên không tranh giành, chứ không có chuyện xúi bẩy, mong được hiểu rõ. Thế rồi, chánh súy Gia gửi thư đến, muốn bản quốc nhượng giao ba tỉnh ấy, cùng nhau thương lượng, nói rằng đó là xuất phát từ ý định của triều đình quí quốc. Bản quốc ở chốn xa xôi cách trở, cũng chưa thể biết rõ. Chỉ nghĩ rằng chuyện cương giới giữa bên này với bên kia, nếu như có khoảnh đất liền nhau, thuận tiện liên lạc đem đổi lẫn nhau, thì hai bên đều được ngang nhau về quyền lợi. Một đại thần đã được phái tới Gia Định để thương thuyết cùng chánh súy Gia. Lần ấy, theo chánh súy Gia dự kiến, không bàn bạc về việc trao đổi đất đai, mà chỉ nói về khoản bản quốc còn thiếu của Quí quốc tiền bồi hoàn một trăm vạn nguyên(8) thì miễn trừ hết, và còn chờ thiếu của y Pha Nho tiền bồi hòan một trăm vạn, trong đó sáu mươi vạn nguyên quí quốc trả thay, còn bốn mươi vạn nguyên do bản quốc nộp trả. Ngoài ra các khoản khác cũng tăng thêm, sửa đổi nhiều. Như vậy điều ước vô cớ bị vi phạm, bản quốc đã mất đất, tiền bồi hòan vẫn như cũ. Thứ hai, như vậy do ý kiến nhất thời của chánh súy Gia, chưa hẳn là do mệnh lệnh của triều đình quí quốc. Nghĩ rằng hai nước chúng ta, cùng nhau giao hảo đã thành anh em, trong thư Quí Hoàng đế, tình thương yêu lẫn nhau thật là thắm thiết, vậy không nên kể đến lợi hại. Vả chăng quí quốc bờ cõi rộng lớn, tài sản rất phong phú, khoảnh đất nhỏ nhoi đó, lợi ích tổn hại đáng kể gì mà đề mất tình anh em hết sức thân thiết, các nước bàn tán xôn xao, tưởng triều đình Quí Hoàng đế chẳng chịu để xảy ra chuyện như thế.

Vậy nên năm ngoái, bản quốc đã liền gửi thư đến Quí Hoàng đế nói rõ sự tình ba tỉnh phía trong, mong được đại lượng châm chước, để bản quốc không bị thiệt quá và để tỏ rõ những tình ý tốt đẹp vì tính công bằng và lòng nhân ái của Quí Hoàng đế. Chỉ tự thẹn là có một tấm khổ tâm của bản quốc chưa được thấu đạt hết, đến nỗi Quí Hoàng đế lại sắc lệnh ủy quyền cho chánh súy Ô cùng các đại thần bản quốc bàn định một hiệp ước mới. Bản dự thảo bước đầu của chánh súy Ô được gửi tới, và đã được quan quản lý Thương bạc của bản quốc tâu lên đầy đủ sự việc. Dự thảo điều ước đó gồm 11 khoản, đại khái chiểu theo điều ước cũ năm Nhâm Tuất (1862) có sửa đổi chút ít, những về ba tỉnh bên trong và ba tỉnh bên ngoài Gia Định, Biên Hòa, Định Tường đều bị gộp vào địa hạt của quí quốc, còn về tiền bồi thường hai trăm vạn nguyên chỉ được miễn trừ có một trăm ngàn nguyên. Và chánh súy Ô lại giữ một thư khác tới quan Thương bạc bản quốc, nói rằng chánh súy mới Cô Nô (De Cornulier) tới thay cũng sẽ theo đó mà làm tiếp. Quan Thương bạc đã đem sự việc làm tờ tâu lên, bản quốc đã nhiều lần đọc kỹ, và đối chiếu với thư trả lời của Quí Hoàng đế, có nói việc ủy một vị toàn quyền của quí quốc cùng với các đại thần bản quốc cùng nhau thương lượng, hợp ý với nhau cùng nắm lấy cơ hội, châm chước khiến cho hai phía đều được lợi ngang nhau. Ý tốt của Quí Hoàng đế là như vậy, nhưng ý nghĩ của chánh súy Ô lại cho khác, e rằng chưa hợp với nghĩa giao lân và chưa tỏ rõ đạo công bằng của quí quốc.

Chánh súy Ô hiện đã về Tây, chánh súy mới cũng chưa tới, mà thư quí quốc do bản quốc nhận được lại không nên để chậm trả lời. Huống nữa, sự tình bên trong lại có những chỗ cần nói kỹ, không thể không biện bạch thêm. Vì vậy [xin có thư(9) ] trao cho viên quan hiện tạm thay, chánh súy Ô gửi tới đô thành BaLê, kính thăm an hảo, cầu mong triều đình quí Hoàng đế coi trọng để suy xét lại. Ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đối với bản quốc là đất xa xôi cách trở, địa thế sát cạnh Cao Mên về hướng đông, nơi quí quốc vừa tới sắp đặt nền cai trị, chưa tiện trao lại, bản quốc cũng không muốn cố tranh biện nhiều. Chỉ mong (quí quốc) châm chước lượng xét, đưa ba tỉnh ngoài(10) tách ra trả lại bản quốc quản trị để cho thấy quí quốc có đức tốt không muốn lấy lợi ở đất đai của người. Như thế cũng đủ đem lại lợi ích trong việc đi lại giữa hai bên, hà tất đòi hỏi gì nhiều hơn nữa.

Như không thể được thì một tỉnh Biên Hòa có con sông lớn làm giới hạn có thể coi là đường phân chia cương giới để canh giữ. Rất mong tỉnh này được đem trả về quyền quản trị của bản quốc. Còn vì khoản tiền bồi thường, nguyên thuộc vào thời kỳ trước khi bản quốc mất ba tỉnh phía trong(11), nay quí quốc đã được ba tỉnh này, lợi ích đã nhiều, thì số tiền bồi hòan còn thiếu bao nhiêu, nghĩ nên nhất thiết không bàn tới nữa, để bản quốc không đến nỗi bị thiệt hại quá nhiều và như vậy mới hợp đạo công bằng.

Tiếng tốt về mỹ ý của quí quốc vang khắp biển phương Tây, thư trả lời của quí quốc rõ ràng sâu nặng tình giao hảo. Há lại cạn hết tình người, thương tổn bản tính người, để phụ sự mong đợi của các nước bạn, quí quốc tất không cho việc đó là đúng. Song việc không nghĩ của hai chánh súy Gia và Ô nối tiếp nhau(12), e rằng chưa thể hiện được đầy đủ tâm trí của triều đình quí quốc. Đây là việc lớn về bờ cõi, các nước đều chú ý quan sát nghe ngóng, cần do hai vua chúa tự định liệu, hợp ý với nhau mới xong việc. Nghĩa vụ kẻ bề tôi không dám tự chuyên. Các khoản trao đổi đất đai, miễn trừ tiền bồi thường, mong quý Hoàng đế lượng xét giải quyết thỏa đáng, xong xuôi, và sớm ban thư phúc đáp, sai phái trao bản quốc để được yên lòng. Rồi sẽ cùng nhau hội họp, lập bản điều ước mới để vun đắp nghĩa giao hiếu mãi bền lâu. Còn các điều khoản khác sẽ theo điều ước cũ năm Nhâm Tuất. Hoặc có khoản nào quý Hoàng đế muốn đổi khác hoặc lược bỏ, hoặc sửa lại, sẽ do Hội đồng thương lượng xem xét giải quyết. Không nên sửa đổi tất cả, để tránh việc hoang mang lo lắng. Được như vậy, cả hai đều được lợi ngang nhau, tình giao hiếu mãi mãi bền chắc; và lòng tốt ơn dày của quí quốc sẽ càng ngời đẹp đối với các nước ở phương Đông và phương Tây. Lần này, được giãi bày khúc nhôi rõ ràng, chính mong đạo giao hiếu được vẹn toàn, việc xét định sẽ không khó.

Đương tiết một hỏa dương(13), từ chốn xa xôi, kính chúc an vinh, hạnh phúc.

Nay kính phúc đáp.

Tự Đức năm thứ 12, tháng 11, ngày 28.

Tố Am Nguyễn Toại sưu tầm và dịch.
TảoTrang hiệu đính và chú thích.

CHÚ THÍCH

1. Trước dòng chữ này, ở bên phải là 1/3 tờ giấy để trắng, có 2 chữ “tác phục” (kính phúc đáp) bên trên hình con dấu vuông có 6 chữ “Đại Nam Hoàng đế chi tỉ” (ấn của Hoàng đế Đại Nam).

2. Nguyên văn: “điện tiền thanh chiếu”: trước điện, (mắt) xanh xét; trang trọng xem xét. Điển tích: Nguyên Tịch (210-263) khi tiếp người quí trọng thì có “mắt xanh”, tức nhìn thẳng, cho thấy cả lòng đen của mắt (có thể là màu xanh ở một số người). Còn đối với người mình coi thường thì có “mắt trắng” (bạch nhãn) vì nhìn ngang hay ngước lên trên, khiến chỉ cho thấy lòng trắng mắt.

3. Nguyên văn: Có 3 chữ “các đẳng tình” (mọi thứ tình tiết), không dịch, vì chỉ là cách hành văn ước lệ trong từ Hán, dùng để cho thấy việc trình bày một văn bản, một sự việc đã kết thúc.

4. Drouyn de lhuys (Ediriord) (1805-1861) Bộ trưởng ngoại giao Pháp thời kỳ Đế chế thứ 2.

5. Tức Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

6. Tức Gia Lang Di Y (La Giandière) có nói tới ở trên.

7. Nguyên văn: “Trọng vị kỳ ý”: thận trọng trong việc làm trái ý ông ta, tức ngại làm trái ý ông ta. Câu văn không thật rõ nghĩa, nên hiểu và dịch theo văn cảnh.

8. Theo hiệp ước năm Nhâm Tuất (1862) triều đình Huế phải bồi thường chiến phí cho Pháp 4.000.000 đôla (tương đương 2.000.000 lạng bạc). Lịch sử Việt Nam, Tập II của UBKHXH Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.43.

9. Nguyên bản có 2 hay 3 chữ bị dấu ấn đóng đè lên, không đọc được. Tạm đoán là hai chữ “hữu thư” 有 書 .

10. Tức 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã phải nhượng cho Pháp theo điều ước năm Nhâm Tuất (1862).

11. Ba tỉnh phía Tây Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vừa bị quân Pháp đánh chiếm giữa năm 1867.

12. Nguyên văn “Tiết thứ Gia Ô nhị súy phỏng nghĩ…”, “tiết thứ” dịch là “nối tiếp nhau” là đoán nghĩa theo văn cảnh. “Phỏng nghĩ” trong từ kép Hán “phỏng” có nghĩa là bắt chước, còn “phỏng” tiếng Việt lại có thêm nghĩa “ước chừng” (Việt Nam Tự điển, Khai trí tiến đức) như trong từ “phỏng đoán”. Cả hai từ “tiết thứ, phỏng nghĩ” Không thấy ghi trong từ điển Trung Quốc thường dùng như Từ nguyên, Từ hải, Hán ngữ từ điển (của ban biên soạn Trung Quốc đại từ điển).

13. Tức tháng 11 âm lịch. Theo thuyết âm dương trong thời tiết, vào tháng này một hào dương xuất hiện, tháng chạp có 2 hào dương, sáng tháng Giêng tiết đầu xuân ấp áp có 3 hào dương./.

TB

BẢN NÔM "LỤC VÂN TIÊN", TRUYỆN CỔ NHẤT DO QUẢNG THẠCH NAM
PHÁT THỤ

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Trên Nam K ỳ tuần báo, số đặc biệt ra ngày 26-6-1943, trong bài Những bản Lục Vân Tiên đã sưu tầm được Khuông Việt có giới thiệu quyển “Lục Vân Tiên, bản in chữ Nôm do Duy Minh Thị sao lục Tôn Thọ Tường trông nom in. Chợ Lớn hiệu sách Quảng Thạnh Nam. 1865”.

Bản Nôm này được coi là bản Nôm cổ nhất nhưng hồi đó chưa sưu tầm được.

Theo Ngạc Xuyên trong bài thơ Lục Vân Tiên thử xem những chỗ dị đồng trong vài bản sách cũng được đăng trên số Nam Kỳ tuần báo đó thì ông chỉ sưu tầm được “bản Nôm in do nhà Bảo Hoa các, xuất bản tại Quảng Đông Thiền Phước Lộc đại nhai có Duy Minh Thị ở Gia Định đính chính, không rõ in năm nào”.

Bản này, theo ông “lưu hành rất nhiều bằng cớ là chỉ tìm nơi mươi nhà có học chữ Hán trong vùng Bến Tre đã gặp ngay ba bổn ấy”.

Gần đây, năm 1989, nhân một chuyến đi công tác sáng Pháp, Trần Nghĩa có tìm thêm được tại thư viện Trường Sinh ngữ Phương Đông, Paris (Ecole des langues orientales, Paris) một bản Nôm Lục Vân Tiên truyện của Duy Minh Thị đính chính, in ở Phật Trấn Việt Đông do Kim Ngọc lâu tàng bản. Bản này trên bìa sách có đề rõ là khắc in năm Giáp Tuất, tức năm 1874.

Năm 1994, Nhà xuất bản Khoa học xã hội có in quyển truyện Lục Vân Tiên ấy do Trần Nghĩa - Vũ Thanh Hằng phiên âm, khảo dị, chú thích và giới thiệu.

Trong lời giới thiệu, ông Trần Nghĩa khi nói đến bản “Lục Vân Tiên, do Quảng Thạnh Nam, Chợ Lớn phát hành năm 1865” vẫn còn ghi: “Đáng tiếc là bản này hiện chưa tìm được”.

Chúng tôi, nhân dịp đi thăm các chùa trong 15 tỉnh ở Nam Bộ, ngày 25-3-1993 đã may mắn tìm thấy được ngôi chùa Kim Giang, tỉnh Long An bản Nôm cổ nhất do Quảng Thạnh Nam phát thụ ở chợ Lớn.

Chúng tôi đã giới thiệu sơ lược quyển truyện Lục Vân Tiên ấy trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 179 ra ngày 10-7-1995 và trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu đầy đủ hơn về cả ba quyển Lục Vân Tiên truyện do Duy Minh Thị đính chính.

1. LỤC VÂN TIÊN TRUYỆN. Việt tỉnh Phật Trấn Phước Lộc đại nhai. Quảng Thạnh Nam phát thụ. Bảo Hoa các tàng bản (gọi tắt là bản A).

2. LỤC VÂN TIÊN TRUYỆN. Phật Sơn. Thiền Phước Lộc đại nhai. Bảo Hoa các phát hành. Bảo Hoa các tàng bản (gọi tắt là bản B).

3. LỤC VÂN TIÊN TRUYỆN. Việt Đông Phật Trấn Phước Lộc đại nhai. Kim Ngọc lâu tàng bản (gọi tắt là bản C).

Căn cứ vào BẢN A, chúng tôi xin giới thiệu chi tiết như sau:

Sách khổ 20,5x13,5cm, dầy 46 tờ kép tức 92 trang, không kể tờ bìa. Mỗi trang khắc 12 dòng, tầng trên là các câu lục, tầng dưới là các câu bát, tổng cộng là 24 câu. Riêng trang 5b vì có bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú nên chỉ có 7 dòng tức 14 câu lục bát. Trang 46b chỉ có ghi: “Vân Tiên lục thứ quyển chi chung”.

Bìa sách ghi:

Ở cột giữa:

LỤC VÂN TIÊN TRUYỆN

Cột bên phải:

Gia Định thành

Duy Minh Thị đính chính

Quảng Đông nhai

Quảng Thạnh Nam phát thụ

Cột bên trái:

Việt tỉnh - phật trấn

Phước Lộc đại nhai

Bảo Hoa các tàng bản

Toàn truyện dài 2174 câu(1), trong đó có một câu ở trang 41b đã bị khắc in thiếu mất ba chữ câu 1937:

Nguyệt Nga là gái trung trinh

Chỉ có ba chữ gái trung trinh mà thiếu mất ba chữ Nguyệt Nga là

Ở trang 6a, câu 231:

Xem thời biết ý gần xa

Hai chữ gần xa đã được khắc thêm vào trong khi bản Bảo Hoa các phát hành (bản B) lại thiếu hai chữ gần xa.

Câu 233:

Có câu độc(2) cảnh tình hòai.

Hai chữ tình hòai đã được khắc thêm vào trong khi bản Bảo Hoa các phát hành (bản B) lại thiếu hai chữ tình hòai.

Ở trang 17a, câu 760:

Tuổi này là tuổi giầu sang trên đời đã được khắc sửa lại ở bên mép giấy là:

Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình như bản Kim Ngọc lâu (bản C).

Ở trang 5b, sau câu 222 có bài thơ bằng chữ Hán, nguyên văn như sau:

Toại xa thiên lý cấp bôn hành
Chàng ngộ Phong Lai đoạt lộ trình.
Thục nữ lâm nguy vô thoát miễn
Quân tử hạnh phùng triển bình sinh.
Lưỡng tự ân tình nan phân giải,
Bán đồ khổ liệu lượng hà thành.
Thỉnh lại hồi quán do nghiêm mẫu
Chiến hữu văn thư hiển thanh danh.

Chúng tôi xin tạm dịch là:

Một chiếc xe đi gấp dặm ngàn
Phong Lai đâu gặp cướp trên đàng.
Lâm nguy thục nữ không ngờ thoát,
Hạnh ngộ anh hùng cứu đằng an.
Hai chữ ân tình không giãi tỏ,
Nửa đường tâm sự tính sao đang.
Xin mời về phủ trình cha mẹ,
Hẳn có thư truyền tiếng vẻ vang
N.Q.T dịch

Bài thơ chữ Hán này cũng được chép nguyên văn như trên trong bản B.

Vì nhận thấy bài thơ ấy bị thất luật nên trong bản C đã được sửa lại như sau:

Biền xa thiên lý nhất thân khinh,
Chàng ngộ Phong Lai bán lộ trình.
Dĩ liệu nguy nan vô tự thoát,
Hạnh phùng chẩn cứu đắc dư sinh.
Ân tình lưỡng tự tâm hà giải,
Báo đáp thiên ban vị bình.
Dục thỉnh ân nhân quy cố lý,
Hồi tường phụ mẫu đắc tường minh.

Chúng tôi xin tạm dịch là:

Một xe song mã nhẹ băng ngàn,
Bỗng gặp Phong Lai ở giữa đàng.
Đã tưởng nguy nan không cách thoát,
Nào ngờ giải cứu được thân toàn.
Ân tình hai chữ lòng sao gỡ,
Báo đáp nghìn phương ý chửa đang.
Muốn thỉnh ân nhân về cố lý,
Thưa cùng cha mẹ được am tường.
N.Q.T

Đó là đại cương những khác biệt chính giữa bản A và hai bản B-C.

Nếu đi vào chi tiết mà so sánh bản A với bản B thì, cơ bản không có gì khác nhau mấy nhưng nếu so sánh hai bản A và B với bản C thì có tới trên 100 chỗ khác nhau.

1. Khác nhau do viết sai hoặc khắc sai.

Như chúng ta đã biết, quyển Lục Vân Tiên truyện đã được khắc in ở Phật Trấn, Việt Đông (Trung Quốc) nên có nhiều chữ Nôm đã bị khắc sai đi, nhất là ở hai bản A và B. Bản C do Kim Ngọc Lâu tàng bản, khắc in năm 1874 đã sửa lại được một số chỗ.

Sau đây chúng tôi xin nêu ra một vài thí dụ:

Câu 45: Thịnh suy chưa biết làm sao (C).

Bản A và B đã khắc sai chữ 衰 (suy) thành chữ 展 (triển).

Câu 106: Người đều sợ nó có tài khôn đương (C).

Bản A và B đã khắc sai chữ 当 (đương) thành chữ 立 (lập).

Câu 178: Nào ai tính thiệt so hơn làm gì (C)

Bản A và B đã khắc sai chữ (nào) thành chữ (điếu), chữ (so) thành chữ 無 (vô) và chữ (gì) thành chữ 明 (minh). Có điều đáng chú ý là tất cả các chữ (gì) đều đã bị khắc sai thành chữ 明 (minh) như ở các câu 208, 358, 590, 806…

Câu 252: Trăm năm cho trọn lòng son cùng chàng (C)

Bản A và B đã khắc sai chữ 炧 (trăm) thành chữ 普 (phổ).

Câu 296: Một mình mang gói mà đi việc gì (C).

Bản A và B đã khắc sai chữ 腅 (mà) thành chữ 腅 (?)

Câu 469: Quán rằng: “Vật thực bảo yêu (C).

Bản A và B đã khắc sai chữ 夭 (yêu) thành chữ 天 (thiên)

Ngoài mấy thí dụ trên có nhiều chữ ở các câu 114 (sất phu), 116 (trây), 136 (ngay), 180 (cố), 233 (xúc), 254 (sinh), 278 (muốn), 309 (xuống), 318 (khâm), 364 (chơi), 405 (hồng), 438 (địa), 528 (núi), 631 (hậu), 649 (thưa), 732 (trăm), 780 (voi), 857 (mặt trời), 1560 (đóng)… thì đều phải đoán ra mà đọc như chữ núi 倂lại được khắc là , chữ hậu 後 lại được khắc là bỉ 彼 , chữ mặt lại được khắc là xuân 春 .

Nói chung hai bản A và B đã có rất nhiều chữ bị khắc sai nếu so với bản C.

2. Khác nhau do hiệu đính lại.

Có rất nhiều chữ đã được hiệu đính lại nếu bị khắc sai nếu so sánh hai bản A và B với bản C như ở các câu 7, 18, 27, 48, 63, 70, 80, 85, 96, 100, 108, 110, 111, 113, 118, 122, 128, 148, 174, 188, 192, 196, 197, 198, 215, 219, 265, 302, 312, 345, 356, 388, 395, 412, 460, 470, 487, 518, 529, 535, 550, 568, 574, 584, 593, 627, 634, 654, 694, 730, 741, 748, 751, 752, 765, 773, 817, 818, 839, 873, 909, 913, 947, 1027, 1052, 1059, 1067, 1088, 1820, 2111.

Cũng có những chữ ở bản C hiệu đính đã làm cho câu thơ được hay hơn như:

Câu 80: Ngùi ngùi lại ngó vào nơi học đường.

(A-B: … sân trường)

Câu 85: Ngày nào ngư thủy gặp duyên

(A-B: … hội duyên)

Câu 110: Cảm thương hai ả nữ nhi mắc màn.

(A-B: … hai đứa…)

Câu 460: Họ Bùi, tên Kiệm, ước chừng đôi mươi.

(A-B: … trạc chừng…)

Câu 538: Một mình một cõi, ai hầu chi ai.

(A-B: … một núi…)

Câu 627: Ta đà đặng chốn an nhàn

(A-B: … thoát chốn…)

Câu 654: Giữa đường khó liệu, trong rừng khôn toan.

(A-B: Trong đường… giữa rừng…)

Câu 1088: Biết trong mình gã có bài thuốc tiên.

(A-B: … thuốc thiêng).

Câu 1820: Hay là ta có động chi chăng là.

(A-B: Hay là có động động chi…)

Lại cũng có những chữ nguyên ở bản A và bản B thì hay hơn bản C nhưng đã được hiệu đính như trong mấy thí dụ sau đây:

Câu 96: Việc chi gấp gấp bon bon chạy hòai

(C: … gấp rút…)

Câu 111: Con ai vóc ngọc mình vàng

(C: … xác ngọc…)

Câu 148: Nàng là phận gái, ta là phận trai.

(C: Đó là… đây là…)

Câu 302: Chốn này đã gặp, lẽ nào làm khuây.

(C: … làm lơ)

Câu 312: Cha già những đợi, mẹ già những mong

(C: cha già mẹ già những đợi những trông)

Câu 574: Trời ơi ! Trời nỡ phụ tài người ngay.

(C: … bao nỡ… ).

Qua hai phần trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy bản A tuy cổ hơn bản C nhưng đã có nhiều chữ bị khắc sai. Qui cách viết chữ Nôm cũng còn chưa được rõ rệt như ở bản C.

Thí dụ:

1. Chữ TRƯỚC: bản A viết 略 (lược) trong khi bản C viết 苉 , có thêm chữ 先 (tiên) để gợi ý.

2. Chữ VIỆC: bản A viết 役 (dịch) trong khi bản C viết 事役 , có thêm chữ 事 (sự ) để gợi ý.

3. Chữ CÓ: bản A viết 固 (cố) trong khi bản C viết 固有 , có thêm chữ 有 (hữu) để gợi ý.

4. Chữ Ở: bản A viết 於 (ư) trong khi bản C , có thêm chữ 在 (tại) để gợi ý.

5. Chữ TUỔI: bản A viết 歲(tuế) trong khi bản C viết 迃, có thêm chữ 年 (niên) để gợi ý.

6. Chữ CHỜ: bản A viết chữ 除 (trừ) trong khi bản C viết , có thêm chữ 待 (đãi) để gợi ý.

7. Chữ CHƯA: bản A viết 渚 (chử) trong khi bản C viết , có thêm chữ 未 (vị) để gợi ý.

Bản C tuy đã cẩn thận trong cách viết chữ Nôm nhưng vẫn còn một số chữ bị viết sai hoặc bị khắc sai.

Thí dụ:

1. Câu 239: Nghĩ mình mà ngán cho mình chữ 仭(nghĩ) đã bị khắc sai thành 拱 (cũng).

2. Câu 302: Chốn này đã gặp lẽ nào làm khuây. Chữ (khuây) ở bản A đã bị khắc sai là 嚧 (lơ) ở bản C, như vậy câu thơ bị lạc vần:

Nhớ câu bằng hữu chi giao

Chốn này đã gặp, lẽ nào làm khuây.

Nên rừng há dễ một cây.

LÀM KHUÂY theo Đại Nam quốc âm tự vị có nghĩa là làm ngơ.

3. Câu 476: Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ. Chữ Vòng đã bị viết sai là 匇(dòng) vì ở Nam Bộ người ta quen đọc âm chữ V thành âm chữ d ( - dô, về - dề). Gặp những chữ viết sai như vậy thì khi phiên âm chúng ta phải sửa lại chính tả chữ Quốc ngữ cho đúng.

4. Câu 712: Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai.

Chữ ĐÀN đã bị viết sai thành 唐 (đàng). Ở cả ba bản A-B-C đều viết sai như vậy. Đúng ra chữ ấy phải viết là 壇 (đàn). Đại Nam quốc âm tự vị đã giảng ĐẶT ĐÀN là đặt cuộc, đặt thưởng buộc người ta làm cho được việc gì (thường nói về sự chữa bệnh).

5. Câu 893: Nay đà hai ngả cách nhau, chữ (NHAU) ở bản C đã bị khắc sai là

6. Câu 773: Đồng rằng: “Nghe tiếng thầy đây, chữ ĐÂY ở bản A-B đã bị sửa lại thành 処(hay) vì muốn tránh trùng vần với chữ đây ở câu 772.

Pháp rằng: “Trẻ ở đâu tìm,
Hay là mắc phải lấy điềm chi đây?”
Đồng rằng: “Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma tróc quỷ, bùa thầy rất hay”.

(bản A)

Bản C sửa chữ đây thành chữ hay đã làm cho câu thơ kém ý nghĩa đi và vẫn không tránh được việc nhắc lại vần hay ở câu 774.

7. Câu 1258: Nàng sao quen thói quen người nguyệt hoa.

Chữ 花 (HOA) ở cả ba bản A-B-C đều bị khắc sai là 老 (lão).

Đó là một số ví dụ chúng tôi nêu ra để chứng minh cho sự khác biệt giữa bản A và bản C.

Còn như nếu đem ba bản Nôm A-B-C mà đối chiếu với bản Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký sao lục và chú thích thì sự khác biệt không phải ở các chữ mà ở cả từng đoạn, có khi là 2 câu, có khi là 4 câu, có khi là 8 câu và có khi tới trên cả 10 câu nữa.

Như vậy, có thể nói, chính sự khác biệt ấy đã cho ta thấy được phần đính chính của Duy Minh Thị, đặc biệt là ở đoạn kết mà ông đã thêm vào tới 82 câu nói về việc Lục Vân Tiên đền ơn đáp nghĩa và được vua Sở nhường ngôi cho.

Để kết luận cho bài viết này, chúng tôi nhận thấy rằng bản Nôm Lục Vân Tiên do Duy Minh Thị đính chính đã là một công trình sưu tầm công phu, rất cần cho các nhà nghiên cứu về văn bản cổ.

CHÚ THÍCH

1. Ông Trần Nghĩa trong quyển Lục Vân Tiên truyện (Nxb. KHXH, 1994) cho biết bản B dài 2180 câu nhưng trong phần Khảo dị không thấy có ghi một câu nào của bản B khác với bản C (bản của Kinh Ngọc lâu tàng bản, khắc in năm 1874, chỉ dài có 2174 câu).

2. Đúng ra là xúc cảnh./.

TB

ĐỀN DI ÁI VÀ TÀI LIỆU HÁN NÔM
TẠI ĐÂY

BÙI XUÂN ĐÍNH

Cách trụ sở UBND huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh) khoảng 700 mét về phía thành phố Hạ Long, ở sát đường 18 A bên tay trái, có một di tích tồn tại như một phế tích, song bên trong chứa đựng một số tài liệu quý giá về vương triều Tây Sơn. Đó là Di Ái từ (đền Di Ái) thuộc thôn Trạo Hà, xã Đức Chính.

I. Hiện trạng di tích và những tài liệu Hán Nôm

Đền Di Ái nằm trên sườn núi Chiêng làng Trạo Hà, trong một cụm di tích. Nhìn từ ngoài đường 18 vào, thoạt đầu là đình làng Trạo Hà. Tiếp đó là đình hàng phủ. Trong cùng là đền Di Ái gồm vọng cung (chỉ là một ngôi nhà cấp 4 nhỏ hẹp) và phần mộ chí xây theo kiểu vòm cuốn. Bên trong có một lăng mộ gồm những phiến đá lớn và dày ghép lại với nhau bằng các mộng và cũng theo kiểu vòm cuốn. Trước cửa lăng có 4 chữ Đông Cảnh linh từ. Hai mặt bên và mặt sau của lăng đều khắc chữ Hán.

Trong Kháng chiến chống Pháp, hai ngôi đình bị tàn phá. Mãi đến 1994, dân làng mới dựng lại ngôi đình trên nền đình làng Trạo Hà cũ. Còn khu vực có đình hàng phủ hiện chỉ là khoảng đất trống giữa đình làng và đến Di Ái còn tương đối nguyên vẹn. Cả hai ngôi đình và đền Di Ái từ đều có liên quan tới một người là Nguyễn Quang Huy làm quan dưới triều Lê Cảnh Hưng và Tây Sơn. Tại đây có một số văn bia nói về thân thế và sự nghiệp của ông. Các văn bia này đã được một số nhà nghiên cứu xem xét, tuy nhiên, chưa có ai khảo cứu kỹ qua các bài viết. Dưới đây, chúng tôi trình bày nội dung văn bia tại khu di tích này.

1. Bia Cảnh Hưng

Được đặt trong vọng cung trên một bệ đá hai cấp. Bia chóp hình khối chữ nhật chóp bia cao 42 cm. Mặt trước và mặt sau khổ 87cm, 49cm (lòng bia là 71x37cm). Hai mặt bên khổ 87x27cm (lòng bia 71x14cm).

Mặt trước bia có tiêu đề Lập tri ân bi ký (Bài ký ghi việc dựng bia tri ân) gồm 4 hàng chữ, mỗi hàng 34 chữ. Nội dung nói về lòng biết ơn của dân làng Trạo Hà đối với Nguyễn Quang Huy, thời Lê Cảnh Hưng là Đồng tri phủ phủ Hải Đông. Ông là người đã chiêu tập dân vạn chài trong vùng khai hoang, lập ra làng Trạo Hà, dựng đình làng, quân phân ruộng đất cho dân làng cày cấy(1). Dân làng tôn ông làm Phúc thần, dựng đền Di Ái để phụng thờ.

Mặt bên trái có 4 hàng chữ. Nội dung nói về quy định mời vợ cả của Nguyễn Quang Huy về đến phối hưởng khi có tế lễ.

Mặt bên phải gồm 4 hàng chữ, khắc tên những người lập bia.

Mặt sau có 3 hàng chữ khắc thời điểm dựng bia (ngày tốt tháng ba năm Cảnh Hưng thứ 36, tức 1775) và tên các xã trưởng xã An Lâm và các thôn trưởng thôn Trạo Hà(2).

2. Các sắc phong, chiếu chỉ trên lăng bia mộ.

Như đã trình bày, ở hai mặt bên và mặt sau của lăng bia mộ đều có khắc chữ. Chữ được khắc trong các ô vuông, khổ 1cmx 1cm, chân phương, rất dễ đọc. Tuy nhiên, do kẻ xấu xâm phạm (theo các cụ, vào khoảng năm 1971) làm hai mặt bên của lăng mộ bị vỡ, phải gắn xi măng nên nhiều chữ không thể đọc được. Bởi thế ở đây chúng tôi xin tóm lược những nội dung chính.

a, Mặt phải lăng bia mộ dài 105cm, cao 67cm, lòng bia 81x50cm, gồm 23 hàng, mỗi hàng 17 chữ, 11 hàng đầu là sắc phong đề ngày 2 tháng 9 năm Thái Đức thứ 11 (1788). Sắc phong cho Đông Phái hầu (tước của Nguyễn Quang Huy(3) vì “có chí bắt hổ, nuốt trâu, làm việc siêng năng, dẹp yên giặc giã, vỗ về dân xa, lo đủ lương thực để nuôi ba quân, được Đại tướng Lân Ngọc hầu tiến cử nay phong làm Đô chỉ huy sứ, Đông Phái hầu, Hiệp trấn xứ An Quảng”. Như vậy, qua sắc phong này, có thể đoán biết, sau khi phong trào Tây Sơn tiến ra Bắc đập tan các thế lực phong kiến phản động, Nguyễn Quang Huy đã tham gia nghĩa quân, trở thành vị quan, vị tướng có nhiều đóng góp với vương triều Tây Sơn nên được phong chức tước. Việc trở thành vị quan, vị tướng của Tây Sơn của ông chắc chắn có sự tiến cử của đại tướng Lân Ngọc hầu (có nhiều khả năng là Đô đốc Phan Văn Lân).

Tiếp đó là chiếu của vua Quang Trung đề ngày 2 tháng 3 năm thứ hai (1789) phong Nguyễn Quang Huy làm Đô chỉ huy sứ, Đông Phái hầu, Khâm sai An Quảng xứ kiêm Hiệp trấn thủ phủ Kinh Môn vì đã “thu phục lòng dân ở nơi vãng trấn, cùng với Đô đốc, Nghị Chĩnh hầu (chưa rõ là ai) lo tròn các việc lương tiền, thuế khóa, từ tụng, binh phu tại phủ Kinh Môn”…

b, Mặt sau: rộng 66cm, cao 67cm (lòng bia 59x50cm) gồm 16 hàng chữ, có hai hàng 30 chữ, các hàng còn lại đều có 25 chữ. Đây là phần tiếp chiếu của vua Quang Trung về việc cho phép hai xã Đoàn Xá và Nguyễn Xá chịu trách nhiệm trông nom đền Di Ái, tứ thời sóc vọng cúng lễ tại đây; lại cho được 1 sào ruộng trầu hương lại cho 15 xã thôn khác được thờ cúng Nguyễn Quang Huy vào ngày 15 và 16 tháng 2 hàng năm với số ruộng được giành ra để thờ cúng tại các xứ đồng.

c, Mặt bên trái có kích thước như mặt bên phải, có 25 hàng chữ, mỗi hàng có 23 chữ. Đây là một quy định được lập ngày tốt tháng ba năm Cảnh Thịnh nguyên niên (1793) về việc cho các xã rước tên hiệu của Nguyễn Quang Huy vào đình để thờ phụng. Tiếp đó là danh sách 43 xã thôn thuộc các huyện Đông Triều, Thủy Đường, Hiệp Sơn, Chí Linh thờ phụng ông, diện tích và vị trí số ruộng mà các xã giành ra để thờ phụng (xã nhiều nhất 5 mẫu, bình quân từ 1-2 mẫu).

Phía trong lăng mộ có một bài vị ghi đầy đủ chức tước của Nguyễn Quang Huy “Khâm sai An Quảng xứ, Đô chỉ huy xứ, Đông Phác hầu kiêm Kinh Môn phủ, Hiệp trấn thủ”.

3. Bia Gia Long: ở bên phải đền, là khu vực đình hàng phủ xưa kia.

Bia có 4 mặt chữ.

- Mặt trước có tiêu đề “Các lệ bi ký” gồm 12 hàng, mỗi hàng 29 chữ, có nội dung: các sắc mục, xã trưởng, tổng trưởng của 43 xã thôn trong vùng, theo lệ cũ, cùng thống nhất thờ cúng Nguyễn Quang Huy vào ngày 16 tháng 2 hàng năm.

- Mặt sau: không có tiêu đề, gồm 12 hàng, mỗi hàng 37 chữ. Ghi tên những người mua hậu thần nhân việc dân làng dựng ngôi đình hàng phủ thờ phụng Nguyễn Quang Huy (khởi công năm Quý Dậu, 1813; khánh thành năm Mậu Dần, 1818).

Mặt phải có tiêu đề “Bản từ tế văn” gồm 5 dòng 33 chữ, khắc nguyên văn bài văn tế tại đền vào dịp 16 tháng 2 hàng năm.

Mặt trái có 11 hàng, mỗi hàng từ 10-36 chữ, khắc ngày lập bia (ngày tốt tháng ba năm Gia Long thứ 18-1819) và danh sách những người đứng ra dựng bia.

Ngoài ra, ở bên trái đền còn có một tấm bia khắc năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) và Khải Định thứ 8 (1923), nội dung nói về việc trùng tu đền Di Ái.

II. Đôi điều nhận xét.

1. Đền Di Ái là một di tích độc đáo vì trong lăng mộ, có ba văn bản ghi niên hiệu ba ông vua triều Tây Sơn. Đáng lưu ý là, các chữ Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh trên lăng bia mộ vẫn còn nguyên hình nét, không bị đục chạm như ở nhiều bia, chuông, khánh Tây Sơn ở nhiều di tích khác, do sợ phải chịu sự trả thù của nhà Nguyễn sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi. Điều đặc biệt là, ngay ở cửa đền Di Ái, trong khu vực đình hàng phủ có tấm bia dựng năm Gia Long nói về việc các hào lý của 43 xã thôn trong vùng thống nhất thờ cúng Nguyễn Quang Huy vào ngày 16 tháng 2 hàng năm, theo lệ cũ (tức theo chiếu của vua Quang Trung ngày 2 tháng 3 năm Kỷ Dậu, 1789). Đây cũng là điều hiếm có trong các di tích Tây Sơn ở nước ta.

2. Nhân vật được thờ tại đền Di Ái là Nguyễn Quang Huy, từ một vị quan dưới triều Lê Cảnh Hưng (1740-1786), trở thành vị quan, vị tướng có nhiều đóng góp với vương triều Tây Sơn. Đây là nguồn sử liệu quý giá vì dường như chưa có cuốn sử nào nhắc đến nhân vật này. Đi sâu khai thác các tài liệu Hán Nôm tại đền Di Ái, kết hợp với các nguồn tài liệu khác như lưu truyền dân gian, địa danh học, văn hóa dân gian… sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề khoa học về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Quang Huy, tập trung vào các mặt: công lao, đức độ và uy tín của ông đối với nhân dân, sự tôn kính của nhân dân đối với ông (thể hiện ở việc 43 xã của 4 huyện thờ phụng ông), quá trình chuyển biến của ông từ một vị quan thời Lê thành một vị quan, vị tướng của triều Tây Sơn, những đóng góp của Nguyễn Quang Huy với vương triều Tây Sơn v.v..

3. Các tài liệu Hán Nôm lưư giữ tại đền Di Ái còn là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu tên gọi và tổ chức các làng xã, chế độ ruộng đất, tục lệ, phân tầng xã hội (qua hệ thống các quan viên ghi trong văn bia) của các làng xã trong vùng từ giai đoạn cuối thời Lê qua thời Tây Sơn đến hết đời vua Gia Long.

4. Đền Di Ái nằm trong quần thể di tích bao gồm đình làng Trạo Hà và đình hàng phủ. Điều ấy không chỉ gợi ra một hướng nghiên cứu về tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt (qua lịch thờ cúng cùng các nghi lễ, qua các chức danh trưởng từ, giám từ…) mà còn cho thấy sự tôn kính, sự nâng niu trân trọng và một cách thức bảo vệ, giữ gìn của nhân dân đối với các di tích liên quan đến vương triều Tây Sơn.

Đền Di Ái thật sự là di tích có giá trị cần được giữ gìn, tôn tạo làm tài liệu để đi sâu nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở vùng Đông Bắc giai đoạn 30 năm cuối thế kỉ XVIII và 20 năm đầu thế kỷ XIX.

CHÚ THÍCH

1. Cho tới trước cải cách ruộng đất (1956), tuyệt đại bộ phận ruộng đất của làng Trạo Hà là ruộng công. Mọi đinh nam từ 18 tuổi trở lên đều được chia một đầu ruộng công gồm một sào đồng, 2 sào bãi, 3 sào vườn. Người đi lính được ưu tiên nhận 3 sào vườn ở nơi đất màu mỡ, thuận tiện gieo trồng nhất.

2. Xã An Lâm hồi cuối Lê đầu Nguyễn gồm 2 thôn An Lâm và Trạo Hà thuộc tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương.

3. Cả ba văn bản Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh đều không nhắc đến họ tên Nguyễn Quang Huy.

TB

CHÙA THÁNH QUANG, NƠI TU HÀNH CỦA CÔNG CHÚA TÚC TRINH

ĐỖ THỈNH

Ở làng Yên Nội, xã Liên Mạc có ngôi chùa cổ xây dựng từ đời Trần (thế kỷ XIII), nơi tu hành của công chúa Trần Thị Túc Trinh.

Theo truyền thuyết và thư tịch còn lại ở địa phương thì vào năm Ất Sửu (1265) sau bảy năm chiến thắng quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258), để phát triển sản xuất nông nghiệp, làm cho đất nước giàu mạnh, Vua Trần Thánh Tông (1258-1278) đã “xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán…, để khai khẩn ruộng hoang”. Hưởng ứng lời kêu gọi của nhà vua, công chúa Trần Thị Túc Trinh con gái thứ tư của vua Trần Thánh Tông đã rời bỏ cung điện trong kinh thành Thăng Long ra vùng phía Tây Bắc kinh thành lúc đó còn hoang hóa làm nhà ở. Công chúa đã bỏ tiền bạc ra chiêu tập dân nghèo, cấp vốn cho họ mua trâu bò, nông cụ, thóc giống, lương thực, làm nhà ở v.v.. để khai khẩn ruộng hoang.

Lúc đầu dân đến còn ít, lập ra xóm vườn và trại Noi ở xa làng. Về sau thấy Công chúa có lòng nhân từ không ham của cải nên dân các nơi kéo đến ngày càng đông, lập ra hai làng mới là thôn Cổ Nhuế Viên và Cổ Nối (sau đổi Yên Nội). Kết thúc thời kỳ khai hoang, số ruộng của thôn Viên có 400 mẫu và Yên Nội có 250 mẫu Bắc bộ.

Khi mới ra, bà Túc Trinh làm nhà ở thôn Viên (gọi là khu vườn Dinh). Bà sống rất giản dị, gần gũi nhân dân. Sau bà xây dựng chùa Thánh Quang rồi đi tu, ăn chay niệm phật.

Chùa Thánh Quang xây theo kiểu “nội công ngoại quốc” (bên trong hình chữ Công, bên ngoài hình chữ Quốc) theo hướng Nam nhìn ra cánh đồng mới khai hoang của Yên Nội theo hình quạt giấy mở. Tam bảo năm gian rộng, hậu cung ba gian, tam quan ở sau hậu cung có treo quả chuông khắc bản Di chúc của công chúa đề niên hiệu Vua thứ tư triều Trần, tức Trần Anh Tông (1293-1314). Hai bên đầu hồi chùa là dãy hành lang 10 gian, phía sau là hậu điện có tượng Công chúa Túc Trinh.

Chùa được tu sửa lớn thời Lê năm Bảo Thái thứ tư (1723) và thời Nguyễn năm Tự Đức thứ 28 (1875). Trong chùa còn nhiều di vật đời Trần, đời Lê có giá trị như hai chiếc lư đồng hun, nghê bằng gốm v.v.. Đặc biệt có quả chuông khắc nguyên văn Di chúc của công chúa Túc Trinh trước khi qua đời bằng chữ Hán dịch nghĩa như sau:

“Vua thứ tư triều Trần, nước Việt. Công chúa Túc Trinh, đúc quả chuông lớn nặng bốn trăm cân, để ở hương Từ Liêm, chùa Thánh Quang (…). Thiết nghĩ ta đây:

Suốt đời chẳng trồng quả tốt,
Nay sinh chẳng sửa duyên lành.
Lo đã chịu là hữu thân,
Tôi lại gặp là vô hậu.
Mắt dẫu chưa nhắm,
Tình thời đã thương,

Cho nên phải chia ruộng đất cho nô tỳ và cả anh em trong họ. Ai cũng phải giữ gìn phần mộ cùng với quý vật của Tam bảo… vì cớ ấy:

Ta ghi lời dặn lúc còn sống
Thay làm chúc thư sau khi chết,
Khắc ở chuông này,
Truyền để đời sau.
Trên nhờ phép thường của Nhà nước,
Dưới mong lòng thuận của anh em.
Nếu trái lời trong chuông,
Khó tránh khỏi lưới pháp luật.

Từ nay: Ruộng đất chia cấp cho hương lửa nô tỳ cấy sinh sống và ruộng đất tiến làm của Tam bảo đã có phân biệt. Nếu trong nô chúng có người không chịu phụng sự hương hỏa, lại tự tiện xâm chiếm ruộng đất của Tam bảo thì nô chúng phải cùng nhau tố cáo lên triều đình luận tội.

Nếu anh em người nhà ta cậy thế chiếm đoạt ruộng đất của Tam bảo, trễ nải việc hương hỏa, thì nô chúng phải cùng nhau tố cáo lên triều đình luận tội:

Ghi chú (trong chuông): Nguyên chuông cũ (đúc từ thời Trần) bị phá mất không biết duyên cớ và từ năm nào. Nhân dân địa phương cho đúc chuông mới, đồng ba trăm cân, thiếc tám cân, vàng hai mươi tám phân, lời văn y như chuông cũ, treo ở Tam quan.

Tự Đức Ất Hợi (1875) tháng hai, đúc xong quả chuông, khắc bài văn chuông làm ghi(1).

Bài văn chuông có giá trị nghiên cứu lịch sử xã hội thời Trần. Ngoài chùa Thánh Quang, bà Túc Trinh còn xây dựng chùa Anh Linh ở thôn Cổ Nhuế Viên xã Cổ Nhuế. Bà Túc Trinh mất, mộ để ở gò Đống Trại (thôn Viên), nhân dân hai làng Viên và Yên Nội đều lập đền thờ bà. Hằng năm đền ngày giỗ bà (2 tháng 8 âm lịch) có tục cúng cơm gạo xay với muối vừng theo thói quen khi bà còn sống. Ở đền thờ bà Chúa thôn Viên còn lại bài ca bằng chữ Nôm làm từ thời vua Khải Định (1916-1925) trong có đoạn:

“Chúa phụng chiếu khai hoang lập ấp,
Mộ nhân dân chiêu tập thành gia;
Thổ, điền quân cấp mỗi nhà,
Đội công đức chúa biết là đến đâu…”

Cho đến trước năm 1945, thôn Viên có 81 mẫu ruộng công do bà Chúa để lại, hằng năm chia cho trai đinh (18 tuổi trở lên) mỗi người 2 sào. Nhờ vậy mà đời sống bớt khó khăn.

CHÚ THÍCH

1. Trích bản dịch của cụ Nguyễn Văn Côn ở thôn Yên Nội, xã Liên Mạc.

TB

THƯ MỤC VIỆT NAM HỌC BẰNG CHỮ HÁN Ở THƯ VIỆN HARVARD YENCHING MỸ

PHAN VĂN CÁC

I. Vài nét về Thư viện Harvard-Yenching

Thư viện Harvard – Yenching (TVHY) là thư viện đại học lớn nhất ở thế giới phương Tây ở lĩnh vực Đông Á học. Mặc dù được chính thức thành lập chỉ từ 1928, bộ sưu tập của TVHY có thể được tính ngược lên đến năm 1879 khi tiếng Hán lần đầu tiên trở thành môn học thường xuyên của Trường Đại học Tổng hợp Ha-vơt (Harvard). Năm đó một nhóm người Boston hoạt động thương mại ở Trung Quốc đã mời GS. Quách Côn Hoa, một học giả Trung Quốc ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang sang Ha-vơt dạy tiếng Hán. Một bộ sưu tập sách được mua để phục vụ cho việc giảng dạy đó, trở thành “phông” sách đầu tiên của TVHY về một ngôn ngữ Đông Á.

Bộ sưu tập sách tiếng Nhật cũng hình thành tương tự vào năm 1914 khi hai Giao sư Nhật Bản của Trường Đại học Tổng hợp Hoàng gia Tokyo là Hattori Unokichi và Anesaki Masaharu đến giảng dạy ở Harvard đã tặng TVHY một số bộ sách quan trọng của Nhật về Trung Quốc học và Phật học.

Vào năm 1928, cả hai bộ sưu tập ấy (4.526 sách tiếng Hán và 1.668 sách tiếng Nhật) đều còn rất nhỏ bé. Chỉ một thập kỷ sau, số sách đã tăng lên nhanh chóng, số quyển lên đến 110.000 nghĩa là gấp 18 lần số sách ban đầu.

Sau đó là các bộ sưu tập tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ, tiếng Mãn Châu. Năm 1951, đến lượt tiếng Triều Tiên, và mãi đến 1973, tiếng Việt.

Thoạt đầu chỉ có các sách khoa học nhân văn, nhưng từ sau Đại chiến Thế giới thứ II bắt đầu có sách khoa học xã hội và từ giữa thập kỷ 60, sách khoa học xã hội tăng lên nhanh chóng.

Năm 1965, từ tên cũ là Thư viện Hán - Nhật của Học viện Harvard - Yenching, cơ cấu này được mang tên TVHY như ngày nay để phản ánh đúng hơn nội dung thư tịch được tàng trữ ở đây.

Đến nay, kho sách của TVHY chứa hơn 815.000 sách, trong đó tiếng Hán 461.000, tiếng Nhật 219.400, tiếng Triều Tiên 81.100, các ngôn ngữ phương tây 37.500, và bốn thứ tiếng Việt, Tạng, Mông, Mãn 16.000. Ngoài ra còn có hơn 13.000 loại tạp chí, 600 loại báo, 46.800 cuộn microfilm, 13.600 tấm microfiche.

Nhìn chung, các bộ sách sưu tập đều có chung một đặc trưng là về mỗi nước, chúng cung cấp những tri thức toàn diện trên các lĩnh vực lịch sử, ngôn ngữ và văn học, triết học và tôn giáo, nghệ thuật và những nguồn tư liệu nghiên cứu thời đương đại trên lĩnh vực khoa học xã hội. Tuy nhiên, mỗi bộ vẫn có những nét độc đáo riêng.

Phông sách tiếng Hán mạnh về báo chí địa phương (có khoảng 3.800 loại), các “tùng thư” (khoảng 1.500 loại), các tác phẩm đời Minh (1368-1644) và đời Thanh (1644-1912), các sách hiếm (từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX), các nguồn tư liệu gốc hoặc bản sao để nghiên cứu về Quốc dân đảng và Đảng cộng sản Trung Quốc, cũng như về lịch sử Trung Quốc thời hiện đại và đương đại.

Phông sách tiếng Nhật giàu về lịch sử, văn học và về sự phát triển chính trị xã hội và kinh tế của Nhật Bản hiện đại và sau thế chiến II. Phông này còn có bộ sưu tập Phật học Petzold 6.500 quyển, bao gồm một số sách xuất bản dưới thời Edo (1600-1867) và khoảng 200 bản thảo viết tay có niên đại thế kỉ XIV. Các trước tác của người Nhật về Trung Quốc học cũng khá phong phú. Được biết bộ sưu tập microfilm 12.000 cuộn của các sách in thời Minh Trị (1867-1912) là bộ sưu tập giá trị duy nhất của nước Mỹ.

Phông sách Triều Tiên gồm một tập hợp gia phả tộc phả và các sách khâm định binh chế từ thế kỷ XVII. Phông này cũng khá mạnh về sưu tập các thi văn tập cổ. Các nguồn tư liệu nghiên cứu sự phát triển sau thế chiến II ở Nam và Bắc Triều Tiên được tập hợp khá tốt.

Phông Mãn Châu, ngoài các bản dịch Tứ thư, Ngũ kinh Nho giáo và một số sách Kinh, Sử, Tử, Tập của Trung Quốc, còn có một số sách và tư liệu nguyên bản tiếng Mã.

Phông Tây Tạng có cả ba bản rất quý hiếm của Tripitaka xuất bản vào các năm 1700, 1732, và 1933. Thêm vào đó là sách của những người Tạng lưu vong sang Ấn Độ.

Phông Mông Cổ có cả bản “chu sao” của Kanjur Mông Cổ in ở Bắc Kinh năm 1724.

Riêng phông sách Việt Nam sẽ được giới thiệu cụ thể hơn ở phần sau.

Phông các ngôn ngữ phương Tây gồm phần lớn sách chuyên khảo và tạp chí nghiên cứu Đông Á học cùng bản dịch các tác phẩm văn học Á Đông cổ điển và hiện đại. Ngoài ra còn có những sưu tập microfilm trọn bộ của những tờ báo quan trọng như Nhật Bản thời báo Bắc nhật báo.

TVHY còn có một số sưu tập trân bản như database toàn văn Nhị thập ngũ sử Trung Quốc, một tập hợp sách viết tay của dân tộc Nakhi (một dân tộc thiểu số ở Vân Nam, Trung Quốc) bằng văn tự đồ hình Hồ sơ của Ban quản trị tại Lĩnh Nam đại học (một trường đại học do phái đoàn truyền giáo lập ra ở Quảng Đông) 1884-1952; các sách chữ Hán của các đoàn truyền giáo trong đó có các bản dịch Kinh Thánh ra nhiều phương ngữ; các sưu tập văn thư cá nhân như của Hồ Hán Dân, một chính khách Quốc dân đảng tiền bối, của George A.Fitch một người nhiều năm cộng tác với các phái đoàn truyền giáo ở Trung Quốc, của Joseph Bultinger, nhà Việt Nam học, v.v..

II. Danh mục Thư tịch nghiên cứu Việt Nam (bằng chữ Hán)

Nhìn chung phông sách Việt Nam học còn nghèo nàn và cũng chưa có hệ thống lắm, chưa rõ vì nguyên nhân gì.

Danh mục dưới đây, để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi sắp xếp theo trật tự chữ cái tên thư tịch phiên theo âm Hán Việt. Trong mỗi danh mục thư tịch, nếu là tác phẩm dịch, sẽ có kèm theo tên gốc của sách. Các tác giả, dịch giả là người nước ngoài, sẽ ghi chú tên quốc tịch, NB = Nhật Bản, v.v.. để bạn đọc dễ phân biệt.

STT TÊN THƯ TỊCH KÍ HIỆU THỜI GIAN VÀO SỔ ĐĂNG KÝ
1 A lục ca (truyện anh Lục) Nguyễn Huy Tưởng [VN] trước, Nhan Bảo [TQ] dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1963. 5803.6/7194 6-XI.1964
2 Á ba đích tửu điếm (Quán rượu người câm) Nguyễn Sáng [VN] trước, Nam phương giải phóng xuất bản xã, 1970. 5803.6/7182 nt
3 An Nam chí lược: 19 quyển Lê Trắc (VN) tự Cảnh Cao hiệu Đông Sơn (Nguyên) soạn, Nhật Bản Minh Trị thập thất niên (1884) Đông Kinh Lạc Thiện Đường bài ấn bản. Tứ sách, nhất hàm. 3544/2322A ?
4 An Nam chí lược: Thượng Hải Lạc Thiện Đường duyên ấn bản Tứ sách, nhất hàm. 3544/2322B 14.III.1960
5 An Nam kỷ lược: Toàn quốc đồ thư quán văn hiến súc vi phục chế trung tâm biên; Nguyên toản: Thanh Phương lược quán. Chỉnh lý: Ngô Phong Bồi [TQ] Peking: Thư mục văn hiến xuất bản xã, 1986, 209 (Trung Quốc văn hiến trân bản tùng thư). 3544/3068 ?
6 An Nam thông sử: Nham Thôn Thành Doãn (Iwamura Shigemitsu [NB] 1874-?) trước, Hứa Vân Tiêu [TQ] dịch. Nhất cửu ngũ thất niên Tinh Châu thế giới thư cục duyên ấn bản. 3544/2422 15.IV 1964
7 Anh hùng đích cố hương (quê hương anh hùng) Thanh Hải [VN] trước, Vi Bình [TQ] đẳng dịch, Thượng Hải Tác gia xuất bản xã, 1965. 5803.63/5235 ?
8 Anh hùng đích thiên không hòa hải dương (Trời biển anh hùng): Chế Lan Viên (VN) đẳng trước, Hoàng Vĩnh Giám (TQ) đẳng dịch, Thượng Hải Tác gia xuất bản xã, 1965. 5803.63/4421 11.II 1966
9 Ấn Chi phong vân lục: Bàn Cổ "Ấn Chi vấn đề biên tả tổ Hương Cảng Bàn Cổ xuất bản xã, 1976.
3544/2474 ?
10 Ấn Độ Chi Na vấn đề đại sử ký yếu (1940-1954) niên: Thế giới tri thức biên tập ủy viên hội biên, 1954. 3544/4680 ?
11 Ấn Độ Chi Na vấn đề giảng thoại: Hồ Kì An (TQ) trước, Thượng Hải Tân tri thức xuất bản xã. 3544/4243 30.III 1965
12 Ấn Độ Chi Na vấn đề văn kiện vựng biên: Thế giới tri thức xuất bản xã biên tập, Bắc Kinh, 1959. 3455/4680.1
13 Bả cừu hận tập trung tại thương khẩu thượng (Trút căm thù lên đầu súng) (Việt Nam bắc phương nhân dân nghiêm trừng Mĩ quốc cường đạo kỷ thực): Xuân Vũ (VN) đẳng trước, Hoàng Vĩnh Giám [TQ] đẳng dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1965.
14 Bắc thuộc thời kì đích Việt Nam (Trung Việt quan hệ sử chi nhất): Lã Sĩ Bằng [TQ] trước, Hương Cảng Trung văn đại học Tân Á nghiên cứu sở Đông Nam Á nghiên cứu thất, Hương Cảng, 1964. (Đông Nam Á nghiên cứu chuyên san chi tam). ?
15 Bất khuất: Nguyễn Đức Thuận [VN] trước, Hà Nội, Việt Nam ngoại văn xuất bản xã, 1969. 5803.65/7122 ?
16 Chiêm Bà sử: Mã Tư Bồi La [Pháp, Maspéro] trước, Phùng Thừa Quân [TQ] tự Tử Hành dịch, Thượng Hải Thương vụ ấn thư quán duyên ấn bản, 1933 (Thượng Chí học hội tùng thư). 2. IX.1941
17 Chiến đấu đích Việt Nam: Thế giới tri thức xuất bản xã biên tập, Bắc Kinh, 1965 (Thế giới tri thức tùng thư) 3V 5803.66/4680 V.2:11.II.1966
V.1&3:21.VII
1966
18 Chiến đấu đích Việt Nam nam phương thanh niên: Tiên Phong đẳng trước, Diệp Linh đẳng dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1965.V.2,3 5803.66/6724 V2:11.II.1966
V3:14.VII.1966
19 Chiến sĩ: Nguyễn Đình Thi [VN] trước, Tùng Liễu đẳng dịch Thượng Hải Tác gia xuất bản xã, 1965. 5803.63/7100 ?
20 Cộng đảng đích kỳ vị thậm ma thị hồng đích: Ngô Vọng Nghiêu [ĐL] trước, Đài Bắc Dân ý nguyện san xã, 1978. 3544.85/2304.4 ?
21 Dương quang dữ thổ nhưỡng (ánh sáng và phù sa). Chế Lan Viên [VN] trước, Hoàng Vĩnh Giám [TQ] đẳng dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1965. 5803.6/2246 ?
22 Đại Nam chính biên liệt truyện, 2 tập (quyển 1-25): Lưu Đức Xứng [VN] đẳng biên toản, Cao Xuân Dục [VN] đẳng toản tu. FC 2468 30.VI.1971
23 Đại Nam chính biên liệt truyện, 2 tập (quyển 26-46) FC 2486 (p) nt
24 Đại Nam nhất thống chí 17 quyển: Cao Xuân Dục [VN] đẳng toản tu (Nhật Bản Chiêu Hòa thập lục niên 1941, Đông Kinh Ấn Độ Chi Na nghiên cứu hội cứ Duy Tân tam niên 1910 An Nam quốc sử quán san bản ảnh ấn. 3544/0250 ?
25 Đại Nam sử kí quốc ngữ ca: (Việt Nam tùng thư) Đông Kinh, Đại An, 1961. 3544/4435 20.VI.1972
26 Đại Nam thực lục: Đông Kinh, Khánh Ưng nghĩa thục đại học ngữ học nghiên cứu sở Chiêu Hòa 36 (1861) - Chiêu Hòa 43 (1868) 3075/4438 ?
27 Đại Nam thực lục chính biên (3 quyển) Phụ: Dã sử tập biên (quyển 1-8) FC 333 (p) VI.1968
28 Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ (Thánh tổ Nhân Hoàng đế thực lục) Minh Mệnh đế (quyển 1-27): Tô Trân [VN] đẳng biên toản, Trương Đăng Quế [VN] đẳng toản tu, Phan Thanh Giản [VN] đẳng tục toản. FC 2451(p) 30.VI.1970
29 Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỉ (Thánh tổ Nhân Hoàng đế) Minh Mệnh đế (quyển 28-56) FC 2452(p) 30.VI.1971
30 - nt - (quyển 57-80) FC 2453(p) nt
31 - nt - (quyển 81-108) FC 2454(p) nt
32 - nt - (quyển 109-132) FC 2455(p) nt
33 - nt - (quyển 133-160) FC 2456(p) nt
34 - nt - (quyển 161-187) FC 2457(p) nt
35 - nt - (quyển 188-212) FC 2458(p) nt
36 - nt - (quyển 213-220) FC 2459(p) nt
37 Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tam kỉ (Hiến tổ Chương Hoàng đế) Thiệu Trị đế (quyển 1-27) Tô Trân [VN] đẳng biên toản, Trương Đăng Quế [VN] đẳng toản tu, Đỗ Đăng Đệ [VN] đẳng tục toản. FC 2460(p) nt
38 - nt - (quyển 28-61) FC 2461 (p) nt
39 - nt - (quyển 62 - 72) FC 2462(p) nt
40 Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỉ (Dực Tông Anh Hoàng đế), Tự Đức đế (quyển 1 - 13): Hoàng Hữu Xứng [VN] đẳng biên toản, Nguyễn Hữu Độ [VN] đẳng toản tu, Trương Quang Đản [VN] đẳng tục toản. FC 2462 B(p) nt
41 - nt - (quyển 14-30) FC 2463(p) nt
42 - nt - (quyển 31-49) FC 2464(p) nt
43 - nt - (quyển 50-66) FC 2465(p) nt
44 - nt - (quyển 67-70) *9.70 Hiệp Hòa đế FC 2466(P) nt
45 Đại Nam thực lục chính biên, Đệ ngũ kỉ (Giản Tông Nghị Hoàng đế) Kiến Phúc đế, Hàm Nghi đế (quyển 1-8): Nguyễn Hoan [VN] đẳng biên toản Trương Quang Đản [VN] đẳng toản tu.
46 Đại Nam thực lục chính biên, Đệ lục kỉ, Đồng Khánh đế (quyển 9-11) FC 2467(p) nt
47 Đại Việt sử kí toàn thư: Ngô Sĩ Liên [VN] đẳng biên tập, Nhật Bản Minh Trị nhất thất niên (1884), Thực Sơn Đường phản khắc bản, thập sách nhị hàm. 3545/2643 ?
48 Hiền Lương kiều bạn: Ba Kim [TQ] (Lí Phế Cam) trước, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1964. 3545/4444 6.V.1965
49 Hoang nghênh Việt Nam hiệp định đích kiềm đính: Bắc Kinh Nhân dân xuất bản xã, 1973. 3544.84/4344
50 Hướng Trung Quốc trí kính (Chào Trung Quốc): Tố Hữu [VN] đẳng trước, An Chí Tín [TQ] đẳng dịch Bắc Kinh, Nhân dân văn học xuất bản xã, 1959. 5803.6/2561 4.II.1963
51 Hữu cảm ư Việt Nam chi vong quốc: Cô Ảnh [TQ] trước, Đài Bắc, Trung ương nhật báo, 1976 (phụ: Ngụy Ma Lan tướng quân hồi ức lục, Giang Quỳ Triển dịch) 3544.84/1362 ?
52 Khai đầu đích khốn nan: Kim Đình [VN] trước, Đào Trọng Hợi [VN] dịch, H. Phổ thông xuất bản xã duyên ấn bản. 5803.6/8104 ?
53 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ: 11 cuộn (quyển 1-96), dương bản. 5803.6/8104 ?
54 Kiếp hậu Tây Cống: Tây Cống luân vong kí tục tập: Âu Thanh Hà [TQ] trước, Thời báo văn hóa xuất bản sự nghiệp hữu hạn công ti, Đài Bắc, 1979. 3545/7833.1 ?
55 Kim nhật Việt Nam: Tô Tử [TQ] biên, Cửu Long tự do xuất bản xã, Hương Cảng, 1952. 3544/4914 25.VI.1952
56 Luận Việt Nam dân tộc giải phóng chiến tranh: Trường Chinh [VN] trước, Trương Quảng Tiêu [TQ] dịch, Thượng Hải Bát nguyệt xuất bản xã, 1950. 3544/1321 ?
57 Nã thương đích mẫu thân (Người mẹ cầm súng) Nguyễn Thi [VN] trước, Việt Nam ngoại văn xuất bản xã, H. 1966. 5803.6/7104 ?
58 Nam hải huyết lệ: Lí Nguyên Bình [TQ] trước, Đài Bắc Thanh niên chiến sĩ báo, 1979. 3544.85/4411 ?
59 Nam phương lai tín (Từ tuyến đầu tổ quốc) Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1964. (Cứ Việt Nam ngoại văn xuất bản xã Trung văn bản trùng bài)
FC 88-89 ?
60 Nam phương phong bạo (Bão táp miền Nam) Giang Nam [VN] đẳng trước, Đại Học [TQ] đẳng dịch, Thượng Hải Tác gia xuất bản xã, 1965 5803.6/2242 ?
61 Nhân dân tại tiền tiến (nhân dân tiến bước) Tú Nam [VN] trước, Nhan Bảo dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1956. 5803.6/2242 ?
62 Pháp Khả sơn nhất nhật: Quảng Châu quân khu chính trị bộ biên, Quảng Tây nhân dân xuất bản xã, Nam Ninh, 1982 3544.85/0377 III.1984
63 Phong hoả trung đích Việt Nam: Mã Kiện Tân [TQ] biên, Tân thế kỉ xuất bản xã, Đài Nam, 1969 (Tân thế kỉ tùng thư 2). 3544/7220 XII.1970
64 Quan ư tại Việt Nam kết thúc chiến tranh khôi phục hòa bình đích hiệp định: Nhân dân xuất bản xã, Bắc Kinh, 1973. 3544.84/7044 1973
65 Quan ư Việt Nam vấn đề đích quốc tế hội nghị đích chủ yếu văn kiện: Nhân dân xuất bản xã, Bắc Kinh, 1973. 3544.84/7144 1973
66 Quận huyện thời đại chi An Nam: Lê Chính Phủ [TQ] trước, Trung Khánh Thương vụ ấn thư quán, 1945. 3544/2315 ?
67 Quận huyện thời đại chi An Nam: Lê Chính Phủ [TQ] trước, Thượng Hải thương vụ duyên ấn bản, 1945. 3544/2316 ?
68 Quốc sử di biên: Phan Thúc Trực [TQ] tập, Hương Cảng, Hương Cảng Trung văn Đại học Tân Á nghiên cứu sở Đông Nam Á nghiên cứu thất, 1965 (Đông Nam Á sử liệu chuyên san) 3544/3624 23.XI.1965
69 Tại liệt hỏa trung (Việt Nam nam phương tiểu thuyết tuyển): Việt Nam ngoại văn xuất bản xã, Hà Nội, 1965. 5803.65/4195 ?
70 Tân Việt Nam: La Tư (Roth, Andrew, 1887-?) trước, Di Mô [TQ] dịch, Thượng Hải thời đại thư báo xuất bản xã, 1948 3544/6142 ?
71 Tây Cống đích nguyệt quang: Chu Vĩ Minh [TQ] trước, Hoa Hân văn hóa sự nghiệp trung tâm, Đài Bắc, 1974 3545/2926 1975
72 Tây Cống luân vong ký: Âu Thanh Hà [TQ] trước, thời báo văn hóa xuất bản công ty, Đài Bắc, 1978 3545/7833 1978
73 Tây đê liên khu địa đồ: Ngô Thanh Phủ [VN] biên chế, Đê Ngạn, Trung Hoa thư điếm, 1955 M 3545/2335 1973
74 Thập cá xuân thiên: Nhân dân nhật báo phỏng Việt đại biểu đoàn thông tấn tập. Bắc Kinh, Nhân dân nhật báo xuất bản xã, 1964 3544/4851
75 Thực dụng công văn tình thức (Việt Hoa Pháp văn đối chiếu): Quách Tích Hoa [VN], Cao Xuân Phôi [VN] biên dịch, Việt Nam Đê Ngạn Tân Hoa thư cục duyên ấn tam bảo, 1955
5803.6/0284 1957
76 Tổ quốc đồng tường (Thành đồng Tổ quốc): Hoàng Lương Du, Anh Thơ [VN] đẳng trước, Nhạc Thắng [TQ] đẳng dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1965 5803.6/3684 1972
77 Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc chính phủ thanh minh (Nhất cửu thất nhất niên nhị nguyệt thập nhị nhật): Hương Cảng Tam liên thư điếm, Hương Cảng, 1971. 3544.84/5487 1978
78 Tùng thực dân địa đáo độc lập đích An Nam: Trương Quảng Tiêu [TQ] trước, Bắc Kinh, Thế giới tri thức xã, 1951. 3544/1304 ?
79 Tự do đích bi kịch: Tả cấp niên khinh đích nhất đại: Ngô Vọng Nghiêu [TQ] trước, Dân ý nguyệt san xã, Đài Bắc, 1978 3544.85/2304.2 1980
80 Tượng tha ná dạng sinh hoạt: Phan Thị Quyên [VN] khẩu thuật, Trần Đình Vân [VN] chỉnh lí, Anh Chi, Linh Vọng [TQ] dịch, Nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1965. 5803.65/3674 11.II.1966
81 Việt Bắc: Tố Hữu [VN] trước, Nhan Bảo [TQ] dịch, Bắc Kinh Tác gia xuất bản xã, 1956. 5803.6/5944 9.VIII.1957
82 Việt chiến chi chân tướng: Kha Viễn Phần [TQ] trước, Quốc phòng nghiên cứu viện, Dương Minh Sơn, 1970 3544/4243
83 Việt công huyện ngục cửu bách thiên: Ngô Vọng Nghiêu [TQ] trước, Liên hợp báo xã, Đài Bắc, 1977 (Liên hợp báo tùng thư) 3544.85/2304 1978
84 Việt - Liêu - Giản (Việt - Lào - Campuchia) tam quốc thông giám: Quách Thọ Hoa [TQ], Đài Bắc, Trung ương văn vật cung ứng xã kinh tiêu, 1966 (Á châu thông giám đệ lục tập) 3544/0244 1977
85 Việt Nam: Hoàng Trạch Thương [TQ] biên, Thượng Hải Thương vụ duyên ấn bản (Sử địa tiểu tùng thư), 1934 3545/4834 5.II.1957
86 Việt Nam: Ngô Quan Kì [TQ] biên tả, Trung Quốc thanh niên xuất bản xã (Địa lí tiểu tùng thư), 1965. 3545/2371 1966
87 Việt Nam: Nguyên Nhạc [TQ] trước, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1972 (Địa lý tri thức độc vật) 35457972 1973
88 Việt Nam chiến tranh: Vương Tử Xung [TQ] biên trước, Đài Loan Chí thành xuất bản xã, Đài Nam, 1968. 3544/1113 1973
89 Việt Nam chiến tranh hồi ức lục: Ngô Viêm Lâm [TQ] Khoa Hoa. 3544/4462 12.VI.1987
90 Việt Nam chiến tranh thực lục: Giải Lục Phu [TQ] Thế giới tri thức xuất bản xã, Bắc Kinh, 1993 (Đương đại chiến tranh thực lục hệ liệt) 3544.84/2545 30.VIII.1994
91 Việt Nam cổ đại sử: Đào Duy Anh [VN] trước, Lưu Thống Văn [TQ] Tử Việt [TQ] dịch. Bắc Kinh, Khoa học xuất bản xã, 1959.
3544/7224 ?
92 Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc thập niên lai đích thành tựu: Hồ Chí Minh [VN] đẳng soạn, Trung Quốc Thanh niên xuất bản xã biên tập 3544/4435
93 Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc thập niên lai đích thành tựu: Trần Hán Chương [TQ], Trần Thanh Quang [TQ], Công Kính Chi [TQ] dịch, Thế giới tri thức xã, Bắc Kinh, 1956.
3544/7930 9.VIII.1957
94 Việt Nam dân gian cố sự (Truyện dân gian Việt Nam): Chu văn [VN] đẳng tả, Lưu Thống Văn [TQ] đẳng dịch Thiếu niên nhi đồng xuất bản xã, Thượng Hải, 1956. 5803.6/2904 5.XI.1956
95 Việt Nam dân tộc giải phóng chiến tranh (Chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam): Võ Nguyên Giáp [VN] trước, Hà Nội, Việt Nam ngoại văn xuất bản xã, 1971 3544/1416 1972
96 Việt Nam dân tộc vận động sử: Dương Nghĩa Kì [TQ] biên, 1945, Thượng Hải dân tộc sử địa nghiên cứu hội duyên ấn bản. 3544/5280 10.V.1952
97 Việt Nam địa dư giáo tài: Lương Trúc Đàm [VN] trước, An Nam Duy Tân nhị niên (1908), thạch ấn bản, nhất sách nhất hàm, thư danh diệp đề; Nam quốc địa dư. 5803.6/448 1976
98 Việt Nam đoản thiên tiểu thuyết tập: Bùi Đức Ái [VN] đẳng trước, Ngũ Hán [TQ] đẳng dịch Thượng Hải Tác gia xuất bản xã, 1964. 5803.6/448 1976
99 Việt Nam đoản thiên tiểu thuyết tập: Thượng Hải văn nghệ xuất bản xã, 1062 5803.6/1322 4.II.1963
100 Việt Nam đoản thiên tiểu thuyết tập: Nhân dân văn học xuất bản xã biên dịch, Bắc Kinh, 1973 5803.6/4488 ?
101 Việt Nam giới thiệu: Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc trú Hoa đại sứ quán tân văn xứ biên, Bắc Kinh. 3545/4407 ?
102 Việt Nam hành: Quách Viên [TQ] trước, Tự do Thái Bình Dương nguyệt san xã Đài Loan biện sự xứ, Đài Bắc, 1959. 3545/0241 10.I.1962
103 Việt Nam hiện thế: Trần Dĩ Lệnh [TQ] trước, Trung Hoa văn hóa xuất bản sự nghiệp ủy viên hội, Đài Bắc, 1957 (Hiện đại quốc dân cơ bản tri thức tùng thư đệ tứ tập). Phụ: Việt Nam đình chiến hiệp địch toàn văn, Việt Nam cộng hòa quốc hiến pháp. 3544/7928 ?
104 Việt Nam kinh vĩ: Hứa Minh Hùng [TQ] trước, Chính trị tác chiến học hiệu ấn loát, Đài Bắc, 1973 3544.84/0464 1976
105 Việt Nam luận tùng: Tưởng Quân Chương [TQ] trước, chính trị tác chiến học hiệu ấn loát, Đài Bắc, 1973. 3545/441 23.XI.1962 3545/441 23.XI.1962
106 Việt Nam nam phương đoản thiên tiểu thuyết tập: Nhân dân văn học xuất bản xã biên dịch, Bắc Kinh, 1972 5803.6/4440 ?
107 Việt Nam nhân dân đích vĩ đại thắng lợi: Nhiệt liệt khánh hạ Việt Nam nam phương nhân dân giải phóng Tây Cống hòa hoàn toàn giải phóng Việt Nam nam phương: Bắc Kinh, Nhân dân xuất bản xã, 1975 3544/4487 ?
108 Việt Nam nhân dân họa báo (1956 niên 1 nguyệt) Việt Nam nhân dân họa báo xã, H. 1956. 3545/4487 ?
109 Việt Nam nhân dân phản đế đấu tranh sử: Lữ Cốc [TQ] trước, Thượng Hải Đông phương thư xã, 1951. (Tân thời đại Á châu tiểu thùng thứ 2) 3544/6644 ?
110 Việt Nam sử yếu, 3 quyển: Hoàng Cao Khải [VN] soạn, Việt Nam Duy Tân 8 (1914). 3544/4803 ?
111 Việt Nam tạp kí: Lí Văn Hùng [VN] trước, Đê Ngạn (Chợ Lớn), 1948 3544/4404 ?
112 Việt Nam tân chí: Mai Công Nghị [TQ] trước, Trùng Khánh Trung Hoa thư cục duyên ấn bản, 1945 (Tân Á-tế-á học hội tùng thư) 3545/4580 ?
113 nt 3545/4580B ?
114 Việt Nam tân văn: Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc trú Hoa đại sứ quán tân văn xứ biên. 3545/4407 ?
115 Việt Nam tập lược: Từ Diên Húc [TQ] biên, Thanh Quang Tự tam niên, Ngô Châu quận thự san bản. 3545/2914 29. IX.1930
116 Việt Nam thông giám: Quách Thọ Hoa [TQ] trước, Ấu sư thư điếm, Đài Bắc, 1961. 3545/0244 ?
117 Việt Nam thụ hàng nhật kí: Chu Khiết [TQ] tự Bá Thương (1907-?) trước, 1946, Thượng Hải Thương vụ bài ấn bản. 3544/2923 12. IX.1947
118 Việt Nam văn pháp đại toàn: Lí Văn Hùng [VN] biên soạn, Tân Hoa thư cục, Đê Noạn, 1961 5803.607/4404 ?
119 Việt Nam vấn đề: Trung ương điện tấn xã điều tra xứ biên, Nam Kinh trung ương điện tấn xã, 1940 3544/5510 ?
120 Việt Nam xã hội phát triển sử nghiên cứu (Tìm hiểu lịch sử phát triển xã hội Việt Nam). Minh Tranh (VN) trước, Phạm Hồng Quý (TQ) dịch, 1963, Bắc Kinh, Sinh hoạt - Độc thư - Tân tri tam liên thư điếm 3544/6225 11. IX.1963

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT-LATINH CỦA PIGNEAU DE BÉHAINE