TB

DI SẢN HÁN NÔM VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TRUYỀN THỐNG

TRẦN NGHĨA

Chưa bao giờ việc nghiên cứu truyền thống lại đặt ra một cách khẩn thiết đối với chúng ta như hiện nay. Một là vì phương Tây đang đổ xô sang nghiên cứu phương Đông, chuẩn bị hành trang tư duy cho họ khi bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ “Châu Á - Thái Bình Dương” mà họ rất quan tâm. Hai là vì chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó việc mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài phải kết hợp hài hoà với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Việc nghiên cứu truyền thống ở nước ta trước đây không phải không có. Nhiều nữa là khác. Nhưng đáng tiếc, việc nghiên cứu đó còn có phần dễ dãi, hời hợt, chưa thực sự khoa học và có chiều sâu. Chẳng hạn một dạo ta hay nói Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến, nhưng khi đòi hỏi phải chứng minh, ta lại tỏ ra lúng túng. Ta cũng thường nêu lên truyền thống này, truyền thống nọ, nhưng nếu hỏi truyền thống ấy có tự bao giờ, nó đã diễn biến như thế nào qua lịch sử, thậm chí có thật có truyền thống ấy không, thì chắc cũng không dễ mà trả lời ngay được.

Vậy thì nên nghiên cứu truyền thống như thế nào và dựa vào đâu để nghiên cứu, đó là những vấn đề cốt lõi mà bài viết này muốn đi sâu.

*
**

Trước hết, cần nói qua một chút truyền thống là gì. Đây nguyên là một từ nảy sinh trong phong trào Khải mông ở châu Âu vào các thế kỷ XVII, XVIII(1). Từ này sau đó lan ra khắp thế giới, hàm nghĩa thường được giải thích, cải biên lại cho phù hợp với hoàn cảnh nơi du nhập(2).

Trong giai đoạn hiện nay, ta có thể hiểu truyền thống là những tư tưởng, đạo đức, phong tục, nghệ thuật, chế độ v.v. do lịch sử truyền lại. Nói một cách bao quát, đó là những “ngôn” (lời nói), “hành” (việc làm) mang tính xã hội sâu sắc, được trao chuyển từ đời này qua đời khác(3) . Về đại thể, truyền thống có các đặc điểm đáng chú ý sau đây:

- Tính quá khứ: Truyền thống phải là cái đã qua. Nếu mới nảy sinh trong hiện đại, cái đó không thể coi là truyền thống.

- Tính xã hội: Truyền thống lại phải có khả năng tập hợp, cố kết mạnh mẽ đối với các thành viên của cộng đồng. Nếu chỉ đơn thuần tác động đến một thiểu số cá lẻ, cái đó không thể coi là truyền thống.

- Tính quyền uy: Do được cộng đồng tiếp nhận như một đạo lý hiển nhiên, không cần suy ngẫm, bàn cãi, truyền thống dần dần trở thành thiêng liêng, quyền uy, đôi lúc dẫn người ta đi đến chỗ mù quáng. Chính ba đặc điểm vừa nêu - tính quá khứ, tính xã hội và tính quyền uy - đã quy định các nội dung cụ thể sau đây của việc nghiên cứu truyền thống, đặc biệt là mảng truyền thống được ghi lại trên sách vở, tức tư liệu văn hiến, là đối tượng khảo sát chủ yếu của bài viết này(4):

1. Nguyên bản của truyền thống. Việc đầu tiên là phải lần tìm cho được nguyên bản của truyền thống, cùng các điều kiện cụ thể theo đó nguyên bản ra đời. Nó khác đi, cần tìm hiểu người khởi xướng (câu nói hay việc làm), kẻ tiếp nhận (câu nói hay việc làm của người khởi xướng) và hệ tham chiếu của nguyên bản (tức hoàn cảnh ra đời của nó). Để dễ hình dung, ta có thể lấy “tư tưởng nhân nghĩa” làm một thí dụ. Nếu đúng đây là một truyền thống của dân tộc Việt Nam, thì nguyên bản sớm nhất của tư tưởng nhân nghĩa mà nay còn có thể tìm thấy là ở Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:

- Việc nhân nghĩa, cốt ở yên dân... (Nhân nghĩa chi cử, vụ tại an dân).

- Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo.

(Dĩ đại nghĩa nhi diệt hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo).

Người khởi xướng là Nguyễn Trãi, vị tham mưu chủ chốt của nghĩa quân Lam Sơn. Kẻ tiếp nhận là nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc Lê Lợi. Hệ tham chiếu là dã tâm tái chiếm Đại Việt của nhà Minh được che đậy dưới chiêu bài “nhân nghĩa” giả hiệu; cuộc sống cay cực của nhân dân ta dưới ách thống trị tàn bạo của nhà Minh và quyết tâm giải phóng đất nước, khôi phục chủ quyền dân tộc của người Đại Việt v.v.

2. Từ nguyên bản đến truyền bản. Cùng với thời gian và lịch sử, nguyên bản nào được xã hội tiếp nhận, coi như chân lý vĩnh hằng, thì nó sẽ thành niềm tin, góp phần thắt chặt quan hệ cộng đồng và như vậy, nguyên bản đã từng bước trở thành truyền thống. Quá trình này có thể diễn ra theo các bước sau đây:

Các yếu tố
tiên hành
==> Nguyên bản ==> Truyền bản

“Các yếu tố tiên hành” tức tiền thân của nguyên bản. Nó chỉ mang một số yếu tố nào đó của nguyên bản mà thôi. Vẫn lấy tư tưởng nhân nghĩa làm thí dụ. Nếu hiểu “nghĩa” (trong từ nhân nghĩa) là tinh thần tôn trọng lẽ phải, thì nó đã được manh nha trong người Việt từ khi có cuộc tiến công của quân đội Tần Thủy Hoàng vào đất Lĩnh Biểu (xem sách Hoài Nam Tử Q.18, Nhân gian huấn). Nếu hiểu “nhân” (trong từ nhân nghĩa) là lòng yêu thương con người, yêu quý cuộc sống, thì nó cũng đã được thai nghén trong tác phẩm Đẻ đất đẻ nước hoặc trong truyền thuyết Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, sinh trăm trứng nở trăm con trong truyện Hồng Bàng Thị ở Lĩnh nam chích quái.

Các yếu tố trên đây đến đầu thế kỷ XV, đã kết hợp với khái niệm “nhân nghĩa” du nhập từ học thuyết Khổng, Mạnh, làm nên nguyên bản tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi.

Tư tưởng nhân nghĩa từ đó ngày một ăn sâu trong khối óc trái tim người Việt, để rồi trước mỗi thử thách lớn lao của lịch sử, nó lại được khơi dậy, bùng lên như một sức mạnh tinh thần nâng đỡ và dìu dắt nhân dân ta tiếp tục đi lên phía trước. Chẳng hạn đến giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược miền Nam nước ta, trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu từng xuất hiện những câu như:

- Trọn mình noi nghĩa ở nhân,

Bo bo giữ việc ra ân làm lành...

- Mến nghĩa bao đành làm phản nước,

nhân nào nỡ phụ tình nhà...

(Dương Từ - Hà Mậu)

Sang thế kỷ XX, “nhân nghĩa” cũng thường được thế hệ chúng ta nhắc tới, nhất là trên các lĩnh vực đạo đức, văn hóa... ở đây không cần phải dẫn chứng.

Nếu nói tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nguyên bản, thì tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu và tư tưởng nhân nghĩa của thời đại Hồ Chí Minh là các truyền bản. Nguyên bản nhân nghĩa dần dần trở thành truyền thống nhân nghĩa là như vậy.

3. Khoảng cách giữa nguyên bản và truyền bản. - Cũng như một người không thể hai lần tắm trên cùng một dòng chảy, hệ tham chiếu của nguyên bản luôn luôn thay đổi. Ngay bản thân người tắm cũng là một biến số, nguyên bản trong quá trình trao chuyển không thể vẫn như xưa. Người khởi xướng và người tiếp nhận giờ đây được thay thế bằng tác giả và độc giả; hệ tham chiếu cũ giờ đây được thay thế bằng hệ tham chiếu mới, và nguyên bản giờ đây đã trở thành truyền bản.

Giữa nguyên bản và truyền bản bao giờ cũng tồn tại một khoảng cách, dù ít dù nhiều. Thời Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” bao hàm các tư tưởng yêu nước, yêu dân, yêu hòa bình. Thời Nguyễn Đình Chiểu, “nhân nghĩa” là sống ân huệ, lương thiện, không phụ tình nhà, không quay lưng lại Tổ quốc. Và ở thời đại chúng ta, “nhân nghĩa” là một nét đẹp trong đời sống văn hóa, một chuẩn mực trong đối nhân xử thế của người Việt Nam hiện đại. Nghĩa là nguyên bản thường xuyên được đổi mới, thường xuyên được thẩm định và giải thích lại trong khuôn khổ hệ tham chiếu mới. Từ góc độ này mà nói, truyền thống là một chuỗi giải thích, tiếp tục giải thích mới đối với nguyên bản, chừng nào truyền thống vẫn còn là truyền thống.

4. Tính biện chứng của truyền thống. Như trên kia đã nói, truyền thống một mặt thường mang tính thiêng liêng, quyền uy, được quan niệm như chân lý vĩnh hằng mà nếu từ đây nhích thêm chút nữa, nó sẽ trở thành bảo thủ, trì trệ, cố chấp. Mà đã bảo thủ, trì trệ, cố chấp thì thế tất sẽ bị lịch sử vượt qua, đào thải, truyền thống háo ra xơ cứng và bị lãng quên. Có những truyền thống tồn tại trong giai đoạn lịch sử này mà vắng bóng trong giai đoạn lịch sử kia, nguyên nhân là như vậy.

Nhưng mặt khác, truyền thống lại có khả năng điều chỉnh, đổi mới để thích nghi với hệ tham chiếu mới qua việc giải thích lại nguyên bản. Truyền thống sở dĩ thành truyền thống và tiếp tục thành truyền thống, nguyên nhân là như vậy.

Tính hai mặt luôn luôn đấu tranh nhau trên đây của truyền thống quy định cảnh ngộ và số phận cụ thể của nó trong dòng đời.

Tất cả các truyền thống rốt cuộc đều phải chịu sự khảo nghiệm khắt khe của thời gian và lịch sử, phải tự chứng cho lẽ tồn tại của mình trước các hệ tham chiếu mới. Nếu vượt qua được sự khảo nghiệm này, truyền thống sẽ kéo dài thêm tuổi thọ. Bằng không, nó sẽ cáo chung.

*
**

Để có thể nghiên cứu truyền thống với thái độ nghiêm túc, cẩn trọng như trên, trong tay chúng ta phải có dồi dào tư liệu, đặc biệt là tư liệu vật chất, trong đó có tư liệu thành văn. Nếu “văn hiến bất túc chưng”, nghĩa là tư liệu thành văn chưa đủ để chứng minh, thì việc nghiên cứu truyền thống không đi quá một giả thuyết. Nói như vậy để thấy kho sách Hán Nôm của chúng ta quan trọng biết chừng nào. Dựa vào di sản Hán Nôm do cha ông truyền lại, ta sẽ càng có cơ sở để khẳng định hoặc phủ định việc tồn tại hay không tồn tại một truyền thống nào đó, và nếu thực sự tồn tại, thì nó đã diễn ra trong lịch sử như thế nào, kể cả số phận hoặc giá trị của nó trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

T.N

CHÚ THÍCH

(1) “Khải mông” có nghĩa là vén bức màn tăm tối, bằng cách phổ cập các tri thức khoa học thông thường, nhằm làm cho người ta thoát khỏi sự ngu muội và mê tín. Trên cơ sở nâng cao dân trí, phong trào Khải mông chống lại ý thức và tinh thần truyền thống phong kiến, xây dựng hệ thống tư tưởng và triết học, văn học, chính trị, đạo đức của giai cấp tư sản. Phong trào bắt đầu dấy lên ở Anh, sau đó lan sang Đức, Pháp, và cuối cùng mở rộng ra toàn Châu Âu. Tinh thần cơ bản của nó là:

- Phản đối các thiên kiến tôn giáo, đề xướng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tự nhiên.

- Coi thường các quan niệm mà phong trào này gọi là “truyền thống” (traditionalism) của xã hội phong kiến, chủ trương mọi việc đều cần có sự “hợp lý” của nó.

- Phát triển tư tưởng tự do.

Đại biểu cho phong trào này, ở Anh có Thomas Hobles (1588-1679) và John Locke (1632-1704); ở Pháp có Voltaire (1694-1778) và Diderot (1713-1784); ở Đức có Gotthold Ephraaim Lessing (1729-1781) (Xem Tân tri thức từ điển, Tân tri thức xuất bản xã, Thượng Hải, 1958).

Khi chúng tôi viết bài này, có được GS. Phan Văn Các cho biết: về mặt văn tự và ngôn ngữ, từ “truyền thống” xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc. Sách Thượng thư đã có câu “Thống thừa tiên vương”. Sách Mạnh Tử cũng có câu “Quân tử sáng nghiệp thùy thống vi khả kế giã”. Đến Hậu Hán thư, thì có hẳn từ “truyền thống” trong câu “Thế thế truyền thống”.

(2) Chẳng hạn Từ nguyên hiểu “truyền thống” (truyền thống chủ nghĩa) là một khái niệm thuộc lĩnh vực văn nghệ, chỉ sự bám giữ các thể thức, cách luật và các kiểu bình luận vốn có xưa nay. Từ hải hiểu “truyền thống” (truyền thống chủ nghĩa traditionalism) là sự tôn trọng những quyền uy về đạo đức, chế độ hoặc tôn giáo thuộc các thời đại đã qua. “Văn học truyền thống” theo Từ hải, chỉ loại văn học tôn trọng đất nước và lịch sử, nêu cao bản sắc dân tộc. Từ điển Anh-Việt (Nxb. Tp. HCM, 1993) giải thích “truyền thống” (traditionalism) là sự tôn trọng hoặc ủng hộ những tín ngưỡng hoặc phong tục được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ sau, nhất là những cái không có văn bản.

(3) Xem Trương Thế Anh: Truyền thống và hiện đại, in trong Văn Sử Triết số 3 (1994), Đại học Sơn Đông (Trung Quốc) xuất bản.

(4) Tất nhiên ngoài các tài liệu thành văn và trước rất xa các tài liệu thành văn còn có những nguồn khác như hiện vật khảo cổ, các di tích văn hóa lịch sử, các câu chuyện truyền khẩu v.v. mà ở bài viết này chúng tôi chưa đặt thành đối tượng tìm hiểu./.

TB

VÀI NÉT VỀ VĂN NGÔN

PHẠM VĂN KHOÁI

I. Văn ngôn

Khi bàn về thực thể Hán văn Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau một điểm: Hán văn Việt Nam chủ yếu là ngôn ngữ viết, nó có quan hệ chặt chẽ với văn ngôn. Do vậy, trước hết cần tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ của loại hình ngôn ngữ viết này. Bài viết này, trong một chừng mực nhất định, sẽ được dành bàn đến văn ngôn.

Thường thì văn ngôn được coi là ngôn ngữ viết hình thành trên các chuẩn mực của tiếng Trung Quốc cổ - ngôn ngữ của các văn bản Tứ thư, Ngũ kinh, ngôn ngữ các trước tác Bách gia chư tử... Nó tồn tại và hành chức trong một tiến trình lịch sử lâu dài cho đến tận những năm đầu thế kỷ XX. Tính chính xác và sự hàm súc vốn có trong diễn đạt là lợi khí làm cho văn ngôn trở thành ngôn ngữ của các văn bản khoa học, kỹ thuật và quản lý hành chính.

ở Trung Quốc từ những thế kỷ trung đại song song tồn tại với văn ngôn còn có một ngôn ngữ viết khác - bạch thoại trung đại. Ngôn ngữ viết này có quan hệ chặt chẽ, trực tiếp với khẩu ngữ đương thời. Hai ngôn ngữ viết ấy phân chia nhau phạm vi ảnh hưởng, chức năng lưu hành. Tản văn triết học, văn chính luận và truyền kỳ được viết bằng văn ngôn, còn bạch thoại lại dùng trong kịch, truyện kể, tiểu thuyết... Vậy là một môi trường song ngữ đặc thù đã hình thành.

(Đặc thù là do cả hai ngôn ngữ văn học này tồn tại trong một ngôn ngữ chung - tiếng Hán; văn ngôn ở thời trung thế kỉ và cận đại đã đứt đoạn với ngôn ngữ nói đương thời...)

Hệ quả tự nhiên của tình hình song ngữ này là giao thoa liên ngữ. Vô luận thế nào đi nữa, cả văn ngôn và bạch thoại đều chịu ảnh hưởng lẫn nhau, tác động vào nhau. Song ngữ viết văn ngôn - bạch thoại tồn tại đến đầu thế kỷ này và kết thúc bằng chiến thắng của bạch thoại đối với văn ngôn. Tuy vậy, không nên quên rằng ở nhiều lĩnh vực giao tiếp có tính chất nghi thức, hành chính, ảnh hưởng của văn ngôn không phải đã hoàn toàn bị lu mờ hay xóa sạch. Văn ngôn vẫn được những đại diện nổi tiếng của Trung Quốc sử dụng như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và đặc biệt là Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên)(1) .

Tồn tại trong một khoảng thời gian dài, nhìn chung, văn ngôn không thuần nhất. Văn ngôn đã trải qua nhiều lần cải cách, biến đổi. Có thể chia văn ngôn ra làm 2 loại: văn ngôn cổ điển (gắn chặt với các cơ sở của tiếng Trung Quốc cổ) và văn ngôn hậu kỳ. Loại thứ 2 chịu ảnh hưởng giao thoa liên ngữ mạnh hơn, và cũng giữ lại nhiều dấu ấn giao thoa hơn.

Từ những điều trình bày ở trên, hiển nhiên, muốn tìm hiểu văn ngôn, phải dựa vào các tri thức lịch sử tiếng Trung Quốc. Nghiên cứu văn ngôn cần được đặt trong mối quan hệ với các giai đoạn phát triển lịch sử của tiếng Trung Quốc. Những nghiên cứu về lịch sử tiếng Trung Quốc, đặc biệt là giai đoạn trung đại sẽ giúp ta xác định được thời điểm ra đời, phổ biến của các hiện tượng ngữ pháp của tiếng Hán, qua đó soi dọi vào thực tế văn ngôn để tìm ra những nét đặc trưng của ngữ pháp văn ngôn(2).

Những khó khăn thường gặp phải khi đọc các văn bản của tiếng Trung Quốc cổ (có thể nói các văn bản văn ngôn cổ điển) có liên quan đến cú pháp và sự hoạt dụng không chỉ của các công cụ từ mà còn của một loạt thực tù nữa. Có thể nêu ra ở đây một số ví dụ:(3)

1. Thực từ của tiếng Trung Quốc cổ ngoài các chức năng bình thường như ngữ pháp học đại cương đã xác lập, chúng lại còn đảm nhận các chức năng phụ hay không bình thường. Danh từ ngoài các chức năng bình thường như: làm chủ ngữ hay chủ ngữ chủ đề của câu, làm bổ ngữ hay bộ phận danh từ của câu vị ngữ hệ từ, nó còn đảm nhận những chức năng không bình thường như vị ngữ hay định ngữ cho vị ngữ.

2. Sau một số giới từ (ví dụ 為 vi, 與 dữ) bổ ngữ biểu thị bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba có thể được tỉnh lược.

3. Giới từ trong câu đôi khi có thể thay thế vị trí cho bổ ngữ. Điều này thể hiện ở chỗ, trật tự thông thường giới từ - bổ ngữ có thể được đổi ngược lại: bổ ngữ (+ 之 chi) + giới từ.

Những điều nêu trên làm cho văn ngôn cổ điển vốn đã khó đọc, song văn ngôn hậu kỳ do nhiều nguyên nhân khác nhau lại còn phức tạp hơn. Một mặt, ở văn ngôn hậu kỳ, các qui tắc của tiếng Hán cổ không được tuân thủ nghiêm ngặt, thường xuyên và đều đặn; mặt khác văn ngôn hậu kỳ chịu tác động và chịu ảnh hưởng của sinh ngữ đương thời người viết. Nếu như ảnh hưởng của văn ngôn đối với bạch thoại ở thời trung thế kỷ là kết quả của sự vay mượn, mô phỏng có ý thức, hay do văn ngôn có nhiều ưu thế trong diễn đạt thì ảnh hưởng của bạch thoại đối với văn ngôn lại hoàn toàn diễn ra theo con đường khác. Đó là ảnh hưởng và tác động của sinh ngữ lên ngôn ngữ viết. Văn ngôn hoàn toàn không phải là một ngôn ngữ đóng kín tuyệt đối với những chuẩn mực được xác lập mang tính bất khả xâm phạm mà ngược lại, nó thường xuyên vận động biến đổi. Những biến đổi này không hề dễ thấy, không thể hiện ở bề ngoài hời hợt mà chúng thường xuyên được che dấu đằng sau cái vỏ có vẻ không thay đổi của một số công cụ từ. Tính không thuần nhất về ngữ pháp lại càng bộc lộ rõ ở văn ngôn hậu kỳ. Điều này là do nguyên nhân sau: Về cơ bản cho đến những năm cuối thế kỷ XIX ở Trung Quốc vẫn chưa có các bộ ngữ pháp chuẩn. Những bộ ngữ pháp đầu tiên chỉ là bộ sưu tập các công cụ từ. Cho tới mãi năm 1898 bộ sách ngữ pháp cho tiếng Hán theo quan điểm của ngữ pháp học Âu Châu - bộ Mã thị Văn thông của Mã Kiến Trung mới ra đời trên cơ sở ngữ liệu Văn ngôn.

II. Một vài đặc điểm đáng chú ý của văn ngôn.

1. Văn ngôn - ngôn ngữ phi thời gian tính

Qua các dạng thức ngữ pháp của các văn bản có liên quan đến khẩu ngữ có thể xác định được thời kỳ ra đời của các văn bản này, ví dụ: Đôn Hoàng biến văn và Ngữ lục thời Đường ở mức độ nào đó đều gắn liền với khẩu ngữ đương thời. Nhiều yếu tố ngữ pháp khẩu ngữ có trong các văn bản này lại không được sử dụng trong các văn bản muộn hơn. Điều này khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các văn bản khẩu ngữ thời Đường (Đôn Hoàng biến văn, Ngữ lục...) và các văn bản khẩu ngữ thời Tống (Kinh bản thông tục tiểu thuyết...) hoàn toàn không có sự kế thừa về ngôn ngữ(4).

Ở các văn bản văn ngôn lại có tình hình khác. Tính thời gian của văn ngôn thật là khó xác lập. Ngay cả ngôn ngữ của các văn bản văn ngôn cổ điển cũng không thể đồng nhất với tiếng Trung Quốc cổ, bởi lẽ tiếng Trung Quốc cổ cũng bao gồm trong mình nhiều giai đoạn phát triển khác nhau(2). Chẳng hạn, giai đoạn thái cổ (từ thế kỷ XIV - XI trước công nguyên), giai đoạn tiền cổ điển sớm (X - VIII TCN), giai đoạn tiền cổ điển muộn (VII - VI TCN), giai đoạn cổ điển sớm (V- III TCN), giai đoạn cổ điển muộn (II TCN - II SCN), giai đoạn hậu cổ điển (III - V)(6). “Sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa văn ngôn và Hán ngữ cổ là chỗ: trong các văn bản văn ngôn có thể gặp một loạt các dạng thức ngữ pháp tiêu biểu cho Hán ngữ cổ ở các giai đoạn khác nhau, và như vậy các dạng thức ngữ pháp này mang tính phi thời gian”(7).

Những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tiếng Hán cổ như (Tả truyện, Luận ngữ, Mạnh tử Trang tử... Chúng về cơ bản thuộc vào giai đoạn từ thế kỷ V đến thế kỉ III TCN. Theo nhận xét của nhà Hán ngữ học Xô viết: C.E. Jakhontov trong công trình Tiếng Trung Quốc cổ, thì các văn bản sớm của tiếng Hán cổ về đại thể được viết theo chí ít là hai phương ngữ (hoặc là hai dạng ngôn ngữ). Dạng thứ nhất là các văn bản của trào lưu triết học Nho gia như Luận ngữ, Mạnh tử. Dạng thứ hai thể hiện ở trong các văn bản có nội dung lịch sử như : Tả truyện, Quốc ngữ...

Nhận thức về tính phương ngữ (hay đặc trưng phương ngữ) của các văn bản tiếng Hán cổ đã được nhiều nhà ngữ văn học Trung Quốc truyền thống nêu ra. Chẳng hạn Nhan Chi Thôi, một nhà ngữ văn học nổi tiếng thời Lục triều (thế kỷ VI) đã khắc họa tình hình này như sau trong tác phẩm Nhan thị gia huấn. “Dân chúng nơi Cửu châu nói mỗi nơi mỗi khác. Kinh Xuân thu Ly tao cũng viết theo các phương thức ngữ khác nhau”.

Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở các văn bản văn ngôn có hiện tượng tích hợp các công cụ từ tương ứng của các giai đoạn khác nhau của tiếng Hán cổ và các phương ngữ. Chẳng hạn như các đại từ chỉ thị sau đây rất phổ dụng trong tiếng Hán cổ như 彼 (bỉ), 此 (thử), 是 (thị), 他 (tha). Ngoài chúng ra, ở các văn bản của trào lưu triết học Nho gia còn có đại từ chỉ thị 斯 (tư) nhưng ở văn ngôn các đại từ chỉ thị này được dùng đồng thời, không có sự phân biệt. Trong các bài viết của Tôn Trung Sơn ta lại còn thấy 茲 (tư) - vốn là một công cụ từ của tiếng Hán cổ giai đoạn tiền cổ điển cũng được dùng (mặc dù là hiếm thấy). Chức năng là đại từ chỉ thị của 茲 giai đoạn tiền cổ điển của tiếng Hán cổ đã dần chuyển cho 此 ở giai đoạn cổ điển.

Đại từ nhân xưng thứ nhất trong tiếng Hán cổ gồm các từ sau đây: 吾 (ngô), 我 (ngã), 予 (dư) (có khi là 余), 朕 (trẫm) ... Tuy chúng đều là những đại từ nhân xưng nhưng trong khi hoạt động chúng cũng có những khu biệt về chức năng ngữ pháp: 吾 thường làm chủ ngữ chứ không làm bổ ngữ, 我 chủ yếu lại làm bổ ngữ; 朕 chủ yếu làm định ngữ... ở văn ngôn, sự phân biệt chức năng ngữ pháp này bị mờ nhạt đi.

Cũng cần phải nhắc đến sự khác biệt giữa 予 và 余 trong tiếng Hán cổ. 余 thường gặp ở các văn bản có nội dung lịch sử...

Danh mục các điểm và các hiện tượng ngữ pháp để chứng tỏ tính phi thời gian và phi phương ngữ của văn ngôn có thể còn được nối dài ra mãi, chẳng hạn ở văn ngôn, chúng ta gặp các nghi vấn từ 何 (hà), 奚 (hề) và 胡 (hồ). Thế nhưng ở tiếng cổ 溪 chủ yếu được dùng trong các văn bản của Nho gia, 胡 đầu tiên được dùng trong Kinh Thi... Các tổ hợp biểu thị ý nghĩa phủ định như 未 嘗 (vị thường), 未 曾 (vị tằng) được dùng lẫn lộn và tự do trong văn ngôn nhưng 未 曾 chỉ là một phủ định từ mới xuất hiện vào giai đoạn muộn của tiếng Hán cổ.

於 (ư) vốn là một giới từ của tiếng Hán cổ. Biến thể ngữ âm của nó là 乎 (hồ) lại chủ yếu chỉ được sử dụng trong các văn bản Nho gia.

Biểu bị ý nghĩa liên hệ ở văn ngôn không chỉ có công cụ từ 與 (dữ) vốn có ở tiếng Hán cổ giai đoạn cổ điển mà còn có một công cụ từ khác nữa - 及 (cập). Song cần lưu ý rằng: 及 lại được dùng ở giai đoạn tiền cổ điển của tiếng Hán cổ và rất phổ dụng trong các văn bản lịch sử.

Biểu thị giả thiết trong văn ngôn dùng cả liên từ 若 (nhược) và 如 (như), nhưng 若 hay được dùng trong các văn bản lịch sử, còn 如 thường được dùng trong các văn bản Nho gia...

Tính phi thời gian của văn ngôn không chỉ thể hiện ở mối quan hệ của nó với các giai đoạn phát triển lịch sử của Hán ngữ cổ mà còn thể hiện ở mối quan hệ của nó với bạch thoại. ở các văn bản văn ngôn đồng tồn tại nhiều dạng thức ngôn ngữ đủ mọi thời đại của bạch thoại. Cho nên, ở đây dễ nhìn thấy các đồng nghĩa ngữ pháp. Văn ngôn đã mở cửa để cho nhiều dạng thức, cấu trúc ngữ pháp của bạch thoại tràn vào đến mức vô giới hạn. Có thể một ý nghĩa ngữ pháp bất kỳ lại được diễn đạt bằng hai cấu trúc, hai công cụ từ - một của tiếng Hán cổ, một của bạch thoại ở các giai đoạn khác nhau. Ví dụ như 儕 (sài) là tiêu chí biểu thị số nhiều của tiếng Trung Quốc cổ được dùng song song vơí 等 (đẳng) mới xuất hiện trong các văn bản thời Hán.

Đại từ chỉ thị 此 (thử) khi làm định ngữ hoặc là đứng độc lập như ở Hán ngữ cổ, hoặc dùng với tiêu chí biểu thị hạn định 之 (chi), một dạng thức gặp ở các văn bản thời Hán và sau đó cũng được dùng ở các văn bản thời Đường. 此 (thử) cũng có thể được dùng làm định ngữ cho danh từ để biểu thị thời gian. ý nghĩa ngữ pháp này không có trong tiếng Hán cổ, nó vốn chỉ xuất hiện ở các văn bản thời Đường.

- Trong câu hỏi về số lượng vừa dùng từ hỏi 幾 (kỉ), 幾 何 (kỉ hà) của tiếng Hán cổ lại vừa dùng 幾 許 (kỉ hứa) vốn xuất hiện vào thời Đường. Để biểu thị ý nghĩa cấm chỉ, răn bảo, văn ngôn vừa sử dụng phủ định từ 勿(vật), 毋 (vô) của tiếng Trung Quốc cổ vừa dùng phủ định từ 不 必 (bất tất) 不 用 (bất dụng). Các phủ định từ sau xuất hiện lần đầu tiên trong các văn bản thời Đường, Tống.

Nếu bổ ngữ trực tiếp được đưa lên vị trí trước động từ - vị ngữ phải có công cụ từ 以, cách dùng này vốn có của tiếng Trung Quốc cổ, nhưng ở văn ngôn, ngoài cách này, còn có cách dùng công cụ từ 將, vốn bắt đầu được dùng từ thời Lục triều, Đường.

2. Văn ngôn - sự "giản lược" tiếng Trung Quốc cổ.

Một đặc điểm đáng chú ý nữa của văn ngôn là dường như hệ thống ngữ pháp văn ngôn biểu thị quá trình "giản lược" tiếng Trung Quốc cổ. Đương nhiên sự "giản lược" này xảy ra theo nhiều hướng khác nhau chẳng hạn như:

Nhiều công cụ từ của Hán cổ được sử dụng trong văn ngôn với những chức năng hoàn toàn khác với những chức năng chúng vốn có trong Hán ngữ cổ. Có cảm tưởng là ở văn ngôn chúng vứt bỏ dần các chức năng ngữ pháp mà chúng có ở Hán cổ. Ví dụ: đại từ phản thân 己 (kỉ) hoạt động như một định ngữ cho danh từ, nhưng không làm định ngữ cho vị ngữ hay bổ ngữ. Trong tiếng Trung Quốc cổ, 己 thường đảm nhận các chức năng ngữ pháp sau: 1) định ngữ cho danh từ; 2) định ngữ cho động từ - vị ngữ; 3) bổ ngữ (khi đó 己 đứng sau và là bổ ngữ bình thường cho động từ - vị ngữ). Trong văn ngôn 己 làm định ngữ cho danh từ (chức năng này của 己 thường thấy ở tiếng Hán thời Lục triều)(8) nhưng lại không làm định ngữ cho vị ngữ hay bổ ngữ. Cần chú ý là khi làm định ngữ cho danh từ, ở văn ngôn, 己 có thể có tiêu chí dạng thức hóa 之 đi kèm. Nét này vốn không có ở tiếng Trung Quốc cổ(9). 然 (nhiên) trong tiếng Trung Quốc cổ được dùng như một đại vị từ. Trong văn ngôn hậu kỳ nó có thể làm vị ngữ không hệ từ nhưng thường có phủ định từ đứng trước (其實不 然). Thực ra, khi đó 然 không tự mình làm vị ngữ mà nó chỉ đảm nhận vai trò này khi có phủ định từ, hay phó từ đứng trước.

Trong văn ngôn hậu kỳ, không còn thấy sự phân biệt chức năng giữa một số công cụ từ mà sự phân biệt này vốn có ở tiếng Trung Quốc cổ. Ví dụ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất 吾 (ngô) trong tiếng Trung Quốc cổ chủ yếu làm chủ, còn 我 (ngã) chủ yếu làm bổ ngữ. Trong văn ngôn hậu kỳ, cả hai đại từ này dùng lẫn lộn, sự khác biệt về chức năng ngữ pháp đã bị tiêu biến. {Trong các văn bản của Tôn Trung Sơn có thể gặp cách nói 吾 漢 人 (ngô Hán nhân) và cả cách nói 我 漢 人 (ngã Hán nhân) nữa)].

Không phải tất cả cấu trúc và công cụ từ có trong tiếng Trung Quốc cổ lại được dùng hết trong văn ngôn hậu kỳ. Một số công cụ từ và cấu trúc của tiếng Trung Quốc cổ chấm dứt hoạt động trong văn ngôn hậu kỳ, số khác lại ra ngoài phạm vi các hiện tượng ngữ pháp có khả năng sản sinh cao. Chẳng hạn, rất ít khi ta gặp các công cụ từ, 焉 (yên) 爾 (nhĩ) làm định ngữ cho vị ngữ.

Hiện tượng kiêm từ 諸 (chư) cũng ít xuất hiện. Trong khi đó, ở tiếng Trung Quốc cổ những công cụ từ này thường xuyên đảm nhận các chức năng ngữ pháp nêu trên.

3. Văn ngôn - một biến thể đặc biệt của tiếng Hán.

Khi hành chức trong văn ngôn, nhiều công cụ từ của Hán ngữ cổ đã phải chịu nhiều biến đổi các ý nghĩa ngữ pháp vốn có của mình: Song những biến đổi ấy không phải lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng. ý nghĩa ngữ pháp vốn có của chúng hoặc là bị xóa sạch đi, hoặc là được thay bằng ý nghĩa mới hoặc là cả ý nghĩa mới và cũ song hành tồn tại tạo nên nét phức hợp. Hơn nữa, ở thời trung thế kỷ, vấn đề ngôn ngữ viết cũng rất phức tạp. Ngay từ thời Tống có thể ít nhất thấy 3 loại văn bản: a) Các văn bản được biết theo khẩu ngữ đương thời (thoại bản); b) Các văn bản được viết theo tiếng Hán cổ (tản văn triết học, truyền kỳ); c) Các văn bản được viết bằng ngôn ngữ hỗn hợp (ngữ lục).

Trên cái nền ấy, văn ngôn tồn tại và tiến hóa, cho nên pha trộn ngôn ngữ là không tránh khỏi và nó trở thành một trong những biến thể khó nhất của tiếng Hán. Cái vỏ hình thức của các công cụ từ vẫn được giữ lại, song ý nghĩa ngữ pháp của chúng lại thay đổi. Nhiều người chỉ dựa vào cái vỏ hình thức của các công cụ từ không thay đổi đó đã đồng nhất văn ngôn với tiếng Trung Quốc cổ. Công cụ từ 各 (các) vốn là đại từ xác định, đứng trước vị ngữ và thuộc vào nhóm vị ngữ v.v..., nhưng ở văn ngôn hậu kỳ, nó lại được đứng trước chủ ngữ (thuộc vào nhóm chủ ngữ) hay thuộc vào bộ phận danh từ của câu).

Cấu trúc bị động 為 ... 所 vốn có ở tiếng Hán cổ, song ở văn ngôn hậu kỳ 為 (vi) chuyển từ hệ từ thành giới từ, giống như 被 (của tiếng Hán hiện đại) và trong văn ngôn xuất hiện như một cấu trúc bị động hỗn nhập mới 被 ... 所 (bị ... sở).

Giới từ 由 (do) trong văn ngôn chuyển thành tiêu chí gọi tên người hành động trong cấu trúc bị động, thành thử xuất hiện một loạt các biến thể hỗn nhập biểu thị ý nghĩa bị động sau đây:

a) Đối tượng đứng ở đầu câu được lặp lại ở vị trí sau động từ - vị ngữ bằng đại từ 之 , ví dụ: 午 也 尚 能 教 之 耕 , 馬 也 尚 能 教 之 乘 . (Ngưu dã thượng năng giáo chi canh, mã dã thượng năng giáo chi thặng - Trâu còn có thể dạy nó cày, ngựa có thể dạy nó kéo xe).

b) Công cụ từ sở được sử dụng đứng trước động từ - vị ngữ, và lúc đó cấu trúc này có ý nghĩa bị động.

Có thể thống kê ra rất nhiều các ví dụ về sự khác biệt của văn ngôn với tiếng Trung Quốc cổ. Văn ngôn không chỉ đơn thuần là "tiếng Trung Quốc cổ được giản lược" và hấp thụ vào trong mình những yếu tố nào đó của bạch thoại (cả bạch thoại trung đại và hiện đại). Tính phi thời gian cộng với sự giao thoa liên ngữ đã tạo cho nó trở thành một ngôn ngữ có một loạt các đặc trưng ngữ pháp chuyên biệt, mà tiếng Trung Quốc cổ cũng như bạch thoại không có. "Văn ngôn là ngôn ngữ được đặc trưng bởi một loạt các nét riêng vốn không có cả ở tiếng Hán cổ cũng như bạch thoại(2).

Văn ngôn không chỉ phổ biến ở Trung Quốc mà còn phổ biến ở ngoài biên giới Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy tìm hiểu những đặc trưng của văn ngôn sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu thực thể Hán văn Việt Nam - một biến thể Việt Nam của văn ngôn nói chung.

P.V.K

CHÚ THÍCH

(1) Trong bài viết này, các ví dụ về văn ngôn hậu kỳ của bộ Tôn Trung Sơn tuyển tập được dẫn ra dựa vào công trình của Tiến sĩ I.T.Zograph. Văn ngôn nghi thức. Khoa học Moxkva. 1990.

(2) Có thể kể ra ở đây các công trình về lịch sử tiếng Hán giai đoạn trung đại: I.C.Gurevich. Khảo lược ngữ pháp tiếng Hán thế kỉ III-V (dựa vào các bản dịch kinh Phật ra tiếng Hán). M, 1974.

- G.Kallgren. Studies in Sung time Clolloguial chinese as (Revealed) in Chu His tsuianshu, Stockholm 1958.

- M.A.K. Halliday. The Languge of the Chinese “Secret history of Mongols” Oxford. 1959.

- I.T. Zograph. Tiếng Hán trung đại (Sự hình thành và các xu hướng phát triển). Khoa học, Moxkva, 1979.

(3) Về những đặc điểm ngữ pháp của tiếng Hán cổ chúng tôi chủ yếu dựa vào các công trình sau:

1 - C.E.Jakhontov. Tiếng Trung Quốc cổ, M.1965.

2 - T.N. Nikitina. Ngữ pháp của các văn bản tiếng Trung Quốc cổ. Các cấu trúc cú pháp. L.1982.

3 - M.V.Kriukov..., Tiếng Trung Quốc cổ (Văn bản, ngữ pháp, chú giải từ vựng). M. 1978.

4 - Vương Lực. Hán ngữ sử cảo. Trung sách. Bắc Kinh. 1958.

5 - Lã Thúc Tương. Văn ngôn hư tự. Bắc Kinh. 1954.

6 - Lã Thúc Tương. Hán ngữ ngữ pháp luận văn tập. Bắc Kinh 1955.

(4) I.T. Zograph. Về vị trí của Đôn Hoàng biến văn trong lịch sử tiếng Trung Quốc và văn học Trung Quốc. M. 1985.

(5) C.E. Jakhontov. Tiếng Trung Quốc cổ. M, 1965.

(6) M.V.Kriukov, Khuau Suin. Tiếng Trung Quốc cổ. M., 1978.

(7) M.V. Kriukov. Sách đã dẫn. Tr.6.

(8) I.C. Gurevich. Sđd; I.T.Zograph. Khảo lược ngữ pháp tiếng Hán trung đại (dựa vào văn bản "Kinh bản thông tục tiểu thuyết"). M., 1962.

(9) C.E. Jakhontov. Tiếng Trung Quốc cổ. M., 1965.

(10) I.T. Zograph. Văn ngôn, M., 1990, tr. 13./.

TB

ĐỐI CHIẾU CÁC ÂM TIẾT HÁN - VIỆT, HÁN - HÀN VỚI CÁC ÂM TIẾT HÁN

HOÀNG TRỌNG PHIẾN

1. Đã có nhiều công trình khảo cứu riêng về lớp từ Hán - Việt, Hán - Nhật, Hán - Hàn. Việc khảo sát thuộc bình diện tiếp xúc ngôn ngữ tìm những nét chung, tính cộng đồng của các cặp Hán - Việt, Hán - Nhật, Hán - Hàn chưa có công trình ở tầm quy mô. Việc so sánh đối chiếu các yếu tố Hán chung trong tiếng Việt, tiếng Hàn hầu như mới bắt đầu(1)(2). Một công trình khảo cứu - so sánh cặn kẽ cách đọc, ngữ nghĩa, cách tạo từ mới với yếu tố Hán chung trong tiếng Nhật, Việt, Hàn sẽ là một cống hiến có ích đối với lý luận tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa giữa ba quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn hóa Trung Hoa(4). Việc vay mượn yếu tố Hán trong các ngôn ngữ này là sự vay mượn chủ động, có ý thức theo cách khúc xạ của riêng mình(5). Trong bài này chúng tôi chỉ đưa ra một số nhận xét nhỏ về cách đọc dựa vào một công trình về sự cộng đồng giữa Hán - Việt và Hán - Hàn ở mặt đọc và cấu tạo - ngữ nghĩa của một nghìn yếu tố Hán và ba trăm từ hai âm tiết có chung yếu tố Hán(3).

2. Trong các tiếng Việt, Nhật, Hàn mỗi thứ tiếng có khối lượng yếu tố Hán (đơn tiết để cấu tạo từ hai âm tiết) xấp xỉ 3.500 đơn vị được vay mượn từ các thời kỳ lịch sử khác nhau. Yếu tố Hán vào Nhật từ các vùng Hoa Hạ mà trước hết là tiếng Hán đời Ngô, rồi đến đời Đường (618 - 907), tiếp theo là tiếng Hán đọc theo phát âm đời Tống (960 - 1271), kế theo là thời Nguyên (1271 - 1368), Minh (1368 - 1644). Người Nhật mượn chữ Hán đầu tiên là thông qua con đường Hàn Quốc. Người Hàn Quốc có công đầu đưa chữ Hán vào Nhật là Wani. Ông đã đưa vào Nhật Bản sách Luận ngữ (10 tập), Thiên văn tự. Hán văn được như ngôn ngữ viết chính thức ở Nhật Bản và cũng có những bước biến cải như chữ Hán ở Triều Tiên. Một từ Nhật có cấu trúc 3 âm tiết cv cv cv mà mỗi âm tiết là một chữ Hán. Tiếp thu Hán tự và Hán ngữ, người Nhật hình thành cách đọc Hán - Nhật cho các từ chữ Hán. Một chữ Hán có hai cách đọc: on hoặc kun. Phần lớn từ có yếu tố Hán làm hình vị cấu tạo thì đọc on. Người Nhật cũng tạo ra chữ Hán - Nhật gọi là quốc tự và đọc kun theo cách Nhật. Chẳng hạn 逝 (tsuji) 烟 (hata), (Ko mi). Kiểu chữ này cũng giống như chữ Nôm của tiếng Việt. Kiểu chữ Kokuji (quốc tự) có khoảng 429 chữ được cấu tạo theo phép hội ý. Ví dụ: chữ Toge là đèo được tạo bởi phép hội ý: (sơn, thượng, hạ). So với Hán - Hàn và Hán - Việt, Hán - Nhật có biến dạng nhiều hơn trong cách đọc và từ phái sinh phong phú hơn, ngữ nghĩa cũng phát triển nhiều hơn(6). Người Nhật dùng Hiragana, Karagana, chữ Hán (Kanji) để làm văn tự chính thức. Ngoài ra còn dùng Romaji để phiên âm. Đó là hệ thống chữ viết phức tạp nhất trên thế giới. Có học giả phương Tây cho rằng, người Nhật chọn chữ Hán làm văn tự của mình là một sai lầm lớn trong lịch sử văn hóa Nhật Bản. Nói như vậy là không tính đến cách chọn lựa và cách phát triển của người Nhật. So với Hàn Quốc, Việt Nam vốn là hai nước liền núi liền sông với Trung Hoa thì Nhật lại cách biển với đất liền nên có cách chọn lọc khác, thích hợp và khúc xạ văn hóa theo kiểu khác dù cùng một nguồn tiếp thụ và ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.

3. Việt Nam và Hàn Quốc theo con đường riêng và khác Nhật Bản. Phần lớn chữ và yếu tố gốc Hán trong hai thứ tiếng này là thuộc về các phạm trù giáo lý đạo Phật, Nho, Lão, lịch sử, văn học và các quan niệm về vũ trụ, tư tưởng, văn hóa tinh thần khác.

a) Do đặc thù về lịch sử và địa lý, Hàn Quốc tiếp thu và chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa khá sớm. Theo các công trình nghiên cứu của Triệu Nhuận Tế (2) của Liu Shih Hang thì hệ thống chữ Hán có thể là du nhập vào Hàn Quốc khoảng 1122 trước Công nguyên. Năm 372 Hàn Quốc phân tam quốc là: Koguryo ở phía Bắc, Shilla và Peakche ở phía Nam, đã tiếp nhận Phật giáo từ Trung Hoa và có tổ chức học đường truyền đạo Khổng và lịch sử Trung Hoa. Vào thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Weiman (Vệ - mãn) nước Yên đến Hàn Quốc lập ra Vệ thị Hàn Quốc, sau đó năm 108 trước Công nguyên Hán Vũ Đế lập ra tứ quận là Lạc Long, Chân Thiên, Lâm Đồn, Huyền Tố, tạo cơ hội cho quan hệ Hàn - Hán(8) càng thêm gần gũi, mật thiết hơn. Vào thế kỷ thứ VII, người Hàn Quốc bắt đầu soạn sách sử, ký lục danh nhân, địa danh và dùng Hán tự. Và họ ghi tiếng Hàn Quốc theo hai cách. Một là, chỉ dùng ngữ âm của chữ để ghi âm tiết tiếng Hàn (cần chú ý là: tiếng Nhật Bản và Hàn Quốc cùng loại hình, còn tiếng Hán và tiếng Việt lại cùng một loại hình khác, ví dụ âm "Ku" để ghi chữ "cổ" Hàn Quốc. Hai là, dùng cách đọc Hàn Quốc để đọc nghĩa của từ được chữ Hán biểu thị. Theo cách này người Triều Tiên thêm yếu tố "tho" (tiểu từ và vĩ từ) thêm vào sau một ngữ đoạn và chữ Hán đọc theo cách Hán Triều. Ví dụ: 大 學 之 道 (dai hagjido nan).

Đến thời Shilla một hệ thống chữ viết IDU đã được tạo ra và cải tiến dần. Hệ thống chữ viết này dựa vào chữ triện của Trung Hoa và âm vận học Trung Hoa. Chữ mới có tự mẫu dựa theo quan niệm về vũ trụ, nhân sinh với 3 hình nét: chấm tròn biểu trưng cho trời (天), gạch ngang cho đất (地). gạch thẳng đứng cho người (人). Đó là hình dáng nguyên âm chữ viết. Sau này chữ viết tiếp tục được cải tiến và được dùng trong phạm vi hẹp, chủ yếu là cho phụ nữ, trẻ con. Chữ viết này có tên gọi là Onmun = Ngạn văn, cho đến thế kỷ XX mới coi là hệ thống chữ viết chính thức với tên gọi Hangul. Đây là hệ thống chữ viết đơn giản và sáng tạo của vua Sejong (1419 - 1451). Ngày nay trên các văn bản viết thỉnh thoảng mới có đôi chữ Hán - Hàn bên cạnh chữ Hangul. Bắc Triều Tiên dùng hoàn toàn Hangul, Đại Hàn cũng theo hướng đó nhưng vẫn còn dùng chữ Hán trong một số thể loại văn bản nhất định.

b) Trong quá trình tiếp xúc văn hóa, ngôn ngữ người Việt Nam đã tiếp thu, vay mượn chữ Hán và từ Hán làm giàu cho tiếng nói của mình. Từ gốc Hán đi vào trong tiếng Việt có đến vài chục thế kỷ(9). Các tài liệu cho biết trong vốn từ tiếng Việt yếu tố gốc Hán có đến 60% và ngày nay con số ấy tăng lên cao theo cách cấu tạo từ mới, lấy yếu tố Hán làm hình vị. Kiểu như: mạch máu, sống động, đảo lộn, chung cư, chung phòng, nhà trường, lớp học, chiếu bóng v.v... Trong quá trình vay mượn từ Hán và chữ Hán, người Việt Nam đã tạo ra cách đọc theo kiểu âm Hán - Việt. Lịch sử cách đọc âm Hán - Việt bắt đầu từ công trình của H. Maspéro cho đến Vương Lực và đỉnh cao là công trình của Nguyễn Tài Cẩn đều xác minh cách đọc âm Hán - Việt là tiếng Hán cuối đời Đường.

Do những nhân tố cùng loại hình, xã hội, nhận thức, ảnh hưởng của các thao tác khúc xạ văn hóa... đã làm biến đổi cách đọc yếu tố Hán trong tiếng Việt. Và từ tác động của sự đồng hóa ngữ âm đưa đến sự đồng hóa ngữ nghĩa. Vương Lực chia yếu tố gốc Hán thành 3 loại: âm Hán - Việt, âm cổ Hán - Việt và âm Hán - Việt đã Việt hóa. Một công trình mới đây của Nguyễn Văn Khang(10) đã đề xuất ý kiến về ba kiểu đồng hóa cách đọc Hán - Việt kéo theo sự khác biệt ngữ nghĩa.

Trong quá trình vay mượn yếu tố Hán, chữ Hán, người Việt Nam đã dùng chữ Hán rồi sáng tạo chữ Nôm và sau này dùng chữ Quốc ngữ để ghi âm từ Hán Việt. Một điều dễ nhận thấy tính độc đáo của âm Hán - Việt là: một từ gốc Hán có một cách đọc, ghi thành các chữ Hán khác nhau với các nghĩa khác nhau lại được ghi bằng Hán - Việt là một từ. Ví dụ: - 保 寶 bảo. Cũng như vậy, một từ Hán - Việt là "Hàn" chỉ có thể tương ứng với hàn vi, hàn sĩ, cơ hàn, bần hàn của tiếng Hán và ứng với hàn thuyên, hàn lâm viện - trong tiếng Trung Quốc bằng các chữ khác nhau. Hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán phân biệt nghĩa nhờ vào dạng chữ, trong Hán - Việt nhờ vào khả năng kết hợp. Chẳng hạn, thảo = cỏ ¹ thảo (bản thảo), thảo luận, cam thảo, hiếu thảo.

Việc mượn chữ Hán và yếu tố Hán trong Hán - Việt, Hán - Hàn sớm muộn khác nhau, khúc xạ khác nhau và mỗi dân tộc đều có ý thức, bản lĩnh tạo cho mình chữ viết riêng thích hợp. Tính đồng văn khu vực của Việt - Hàn và cả Nhật nữa được các cứ liệu ngôn ngữ chứng minh và bảo hiểm.

4. Cách đọc yếu tố Hán trong Hán - Việt, Hán - Hàn về cơ bản là na ná giống nhau. Mỗi tiếng có sự biến đổi phụ âm đầu, âm giữa, âm cuối theo áp lực và quy luật cấu âm và âm vị học của mình. Hán - Việt giữ lại chung âm và thay phụ âm đầu, Hán - Hàn giữ âm đầu biến đổi vần, ví dụ: (*)

Hán Hán - Việt Hán - Hàn
(shải) sắt sak
(ti) đề je
(shui) thủy su
(yuan) viên weon
(tian) thiên cheon
(ying) ứng eung
(bei) bắc buk
(biăn) biên byeon

Kết quả so sánh giữa Hán, Hán - Việt, Hán - Hàn như sau:

(1) Giống nhau phụ âm đầu và cả khuôn âm tiết (40%)

(ai) ái ae
(an) an yên an yen
(ben) bổn bản bon
(bu) bộ bo
(chăn) sản san
(dăng) đảng đang
(ge) các gak
(guan) quan qwan
(hui) hỏa hwa
(mu) mộc mok
(tu) thổ tho...

(2) Khác nhau phụ âm đầu (50%)

Hán Hán Việt Hán - Hàn
b- b- (bát) b-
® ph- (phát) ph-
c- t (tài) j-
® th (tham) ch-
tr (trắc) -
ch- ® x (xa) ch-
d- ® đ (đao) đ (0)-
(địa) j-
g- c (cải) g-
® q (quản) -
j k (kiến) g-
® gi (giáo) g (yo)
t- ® đ (đã) t
k- ® kh (khai) g (ae)
w- ® v (vạn vọng) m (an)
(vương) w (ang)
y ư) v (vũ) u

Nhận xét:

- Cách đọc Hán - Hàn gần với Hán.

- Hán - Việt khu biệt từ nhờ phụ âm đầu.

- Âm vị [k] của Hán-Việt với 3 biến thể (c, p, k) ứng với Hán và Hán-Hàn [k].

(3) Khác nhau phần vần.

Hán Hán - Việt Hán - Hàn
- i ® - i/ê/ (ái) (bệ) - e (- ye)
- a ® - a - (bát) - ai
- ai ® - a - (bách) - ae
- ai - (bái)
- ei ® - i - (bị) - i
- ian ® - iên - yeon
- ing ® - ăng (băng) - ing
- inh (bình, - yeong
kinh)
- eng ® - ăng (năng) -
eung
- iao ® - iêu (biểu) - yo
(biệt) - yeol
- u ® - ư (xử) - eo
- e ® - ích (đích, xích) - eok
- uăn ® - uyên (xuyên, thuyền) - eon
- uo ® - uôc (quốc, quả) - uk
- ua ® - oa (hoa, hòa) - wa
- wen ® - v (văn) - um

Nhận xét:

- Vần Hán sang Hán - Việt và Hán - Hàn có biến hóa.

- Vần Hán - Việt có xu hướng giữ lại và làm thành chung âm gần Hán.

- Các vần Hán - Việt có - iê - uyê ứng với Hán - Hàn là - yeo -, - ei - ye -

- Các chung âm Hán - Việt Hán - Hàn bằng phụ âm phần lớn tương ứng : -n/-n, -k/-k, -ng/-ng, -m/-m, ... Đặc biệt -t/-l (ví dụ: bút/phil, biết/byul, bất/bul, phát/bal, thiệt/seol, huyết/hyeol)

5. Từ Hán - Việt, Hán - Hàn (kể cả Hán - Nhật nữa) được cấu tạo từ hai yếu tố Hán đều giống nhau. Khảo sát gần 400 từ cho thấy:

(a) Cách đọc âm tiết Hán trong mỗi ngôn ngữ thế nào thì cũng đọc nguyên như thế trong từ ghép:

Ví dụ:

Hán Hán - Việt Hán - Hàn
第 一 đệ nhất = thứ nhất ® jo-il
第 二 đệ nhị = thứ nhì ® jo-i
第 八 đệ bát = thứ tám ® jo-phal
破 產 phá sản ® pha san
獨 立 độc lập ® doclip
保 管 bảo quản ® boquan
努 力 nỗ lực ® no liâc

b) Cùng dùng yếu tố Hán để cấu tạo từ 2 âm tiết các tiếng Hán - Việt, Hán - Hàn (cả Hán - Nhật nữa) có khả năng sản sinh giống nhau, chỉ khác nhau về trật tự từ.

Ví dụ:

Giới thiệu ® Thiệu giới
Giai đoạn ® Đoạn giai
Giới hạn ® Hạn giới

Khả năng sản sinh tạo từ với cùng yếu tố Hán ở Nhật và Hàn có phần nhiều hơn, ở tiếng Việt gần tương đương gốc Hán. Vả lại Hán - Nhật và Hán - Hàn cùng loại hình nên có thêm phụ tố để có từ loại mới. (Nhật thêm tsu-ru để có động từ). Người Hàn Quốc đọc từng từ thì theo Hán - Hàn, khi viết văn bản thì thêm phụ tố trong ngữ, ví dụ:

大 學 之 道 (dae-haeg-ji-do-nan )

在 親 民 (jae-cin-min-ha-mye )

Nghĩa chính danh của yếu tố Hán cũng như từ ghép Hán - Việt, Hán - Hàn là giống nhau. Nội hàm ngữ nghĩa có thêm nghĩa bổ sung theo cách tri giác và sự phát triển của hệ thống ngữ nghĩa mỗi thứ tiếng.

*
**

Tình hình đối chiếu trên đây cho thấy hai nước Việt, Hàn có chung mối liên hệ văn hóa ngôn từ với tiếng Hán, nhưng cách tiếp thu của mỗi thứ tiếng theo đặc trưng dân tộc. Ngày nay mỗi nước có chữ viết riêng để ghi từ Hán. Người Hàn Quốc, Nhật Bản nhìn chữ Hán có khả năng nhận biết nhanh ngữ nghĩa của chúng, còn thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay khả năng này bị hạn chế, vì không nhận nghĩa qua tự dạng. Trên sách báo của ta hiện nay đầy rẫy những sai nhầm về dùng từ và hiểu nghĩa yếu tố Hán và từ gốc Hán. Nên chăng, ta phải học tập kinh nghiệm của Hàn Quốc, Nhật Bản về việc dạy chữ Hán trong chương trình dạy Quốc ngữ. Hai nước này dạy chữ Hán từ bậc phổ thông đến Đại học theo pháp lệnh, có định lượng cho từng bậc học.

H.T.P

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Hứa Tuyên: Sơ lược về việc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam và Đông á. Tập san khoa học A. Annals ofhem University, số 1/1994.

(2) Fabre Andre, Trois ecritures à base d aradères Chinois. Le Idu (corée), les Kana (japan)et le ChưNom (ViẹtNam) . Asiatische Studier/Etudes Asiatiques, XXXIV, 2/1980.

(3) Đỗ Thông Minh, Super - Mini Dictionary. Tokyo, 1994.

(4) Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng, Viện Ngôn ngữ học, H. 1991.

(5) Phan Ngọc: Tiếp xúc ngôn ngữ Đông Nam Á, H. 1983.

(6) Trần Sơn: Khảo sát từ Hán - Nhật thông dụng (Luận án TS. 1994).

(7) Triệu Nhuận Tế, Hàn Quốc văn học sử khái luận. Hoa Cương Tùng thư, Đài Bắc (Taipei), 1969.

(8) G.J. Ramstedt, Korean grammar. Helsinki, 1939.

(9) Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt, H. 1979.

(10) Nguyễn Văn Khang: Vai trò của một số nhân tố ngôn ngữ - xã hội trong việc hình thành nghĩa của các yếu tố Hán - Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, 4/1992.

TB

CHỮ HÁN CỦA NGƯỜI VIỆT

VŨ TUẤN SÁN

I. Nhân một câu trong Truyện Kiều

Không mấy ai không nhớ câu trong Truyện Kiều, khi Thúy Kiều nhận được thư của Sở Khanh:

“Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành Tích Việt có hai chữ đề.
Cứ trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi mốt Tuất thì phải chăng ?”

Sở dĩ Thúy Kiều đoán được như trên, vì phân tích theo cách viết chữ (chiết tự) thì chữ "tích" 昔 gồm chữ "trấp" (nhị thập, tức 20, "nhất" 一 (một) và "nhật" 日 (ngày) ghép lại. Chữ "Việt" 越 gồm chữ "tẩu" 走 (chạy, trốn) và chữ "tuất" 戌 (giờ Tuất). "Tích Việt" rõ ràng có nghĩa: chạy trốn vào giờ Tuất ngày 21. Nhưng tra Khang Hy tự điển (TĐKH), thì chữ "Việt" 越 ở bộ "tẩu" 走 viết bằng chữ "tẩu" 走 cạnh chữ "việt" 戉 (một loại búa rìu thời cổ). Nếu là chữ "tẩu" cạnh chữ "tuất", thì lại là một chữ khác, âm đọc "hứa duật, huân nhập thanh", tức là chữ "huật", và có nghĩa là "chạy" (tẩu). Từ điển còn ghi thêm: "khác với chữ Việt" (dữ việt bất đồng). Tuy nhiên, từ trước, người Việt vẫn quen đọc là "Tích Việt". Và Đại Việt sử ký toàn thư, sách quốc sử của cả nước, nhan đề sách được in với chữ "Việt" gồm chữ "tẩu" bên chữ "tuất" chứ không phải bên chữ "việt". Cuốn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (ĐDA) cũng viết chữ "việt" với chữ "tuất" bên bộ "tẩu". Sách được hiệu đính do hai bậc túc nho nổi tiếng đương thời là Phan Bội Châu (ký tên Hạn Mạn Tử) và Thủ khoa Lâm Mậu (ký tên Giao Tiều - vì nhà ở gần đàn Nam Giao thành Huế) (ghi theo lời khẳng định của nhà học giả Đào Duy Anh khi còn sống). Như vậy có thể cho rằng, chữ "việt" của người Việt không phải là chữ "việt" của người Hán. Các từ điển Hán Việt sau này như Từ điển Trung Việt của Văn Tân (VT), Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (TC) viết chữ "việt" đúng như ở KHTĐ, nhưng không có chữ "huật" (tức chữ có bộ "tẩu" bên chữ "tuất". Chữ này thực ra rất ít dùng. Trong TĐKH khi giải nghĩa chữ này, không thấy ghi thí dụ trích ở sách cũ như thường thấy ở những chữ khác. Các từ điển thông dụng của Trung Quốc như Từ Nguyên (TN), Từ Hải (TH), Vương Vân Ngũ Tứ giác đại từ điển (VVN) đều không ghi chữ "huật". Như vậy, mặc dầu KHTĐ, bộ từ điển chính thức của Trung Quốc ghi dưới chữ "huật" khác với chữ "việt", người Việt vẫn viết chữ "việt" với chữ "tuất" bên cạnh bộ "tẩu" mà không cho là viết sai.

Trường hợp vẫn là chữ Hán ghi trong KHTĐ, nhưng được người Việt dùng và đọc theo cách khác, như chữ "việt" nói trên, có thể coi là hiếm. Người viết bài này mới chỉ biết thêm một trường hợp nữa, chữ , viết với chữ tịnh 並 (ngang nhau, gồm) trên chữ kiến 見 (trông, nhìn). KHTĐ có ghi chữ này, nhưng ở phần Dị khảo cuối sách, ghi âm đọc là "cánh", không ghi nghĩa. Trung văn đại từ điển (TV) Q.30, bộ kiến 見 có chữ này và ghi "nghĩa chưa rõ". Sách viết Hán Nôm của ta thường viết chữ này thay chữ 競 (cạnh), có nghĩa là tranh giành, ganh đua. Sách viết tay Lịch triều danh phú (Thư viện Viện Hán Nôm, A.366), ở bài Tần cung phụ nữ, có câu "Sính thuyền quyên ư phấn hạp hương liêm, cạnh tú lệ duy châu ư cẩm trướng" (Lả lơi khách thuyền quyên nơi hộp phấn bình hương, ganh đua vẻ xinh tươi nơi màn châu trướng gấm). Chữ "cạnh" viết theo kiểu này đã khiến GS. Hà Văn Tấn, trong sách Trạng Quỳnh (cộng tác với Nguyễn Đức Hiền, Nxb. Văn học, Nxb. Thanh Hóa, 1987), khi dịch giới thiệu bài phú này đã phiên âm lầm thành "quan" (xem, nhìn), vì không thấy trong các từ điển thông dụng (Xem thêm Tạp chí Hán Nôm số 1-1988, biểu số 1, giữa trang 24-25, trong bài của GS. Trần Nghĩa Văn bản và giá trị học thuật của Hoan châu ký, chữ trên đã được đọc đúng là "cạnh".

II. Chữ Hán viết theo lối người Việt

Trường hợp chữ Hán được Việt hóa theo cách đọc và hiểu nghĩa như trên có thể nói là hiếm. Trường hợp chữ viết theo thể “thảo” nhưng theo cách riêng của người Việt nhiều hơn, có thể thấy ở nhiều sách viết tay hiện chiếm đa số so với sách đã được in ở thời kỳ trước. Sau đây là một số chữ còn thể coi là của riêng người Việt vì không thấy ghi trong sách dạy chữ thảo của người Trung Quốc. (Có nhiều sách thuộc loại này. Bài viết dựa vào Thảo từ vựng của Thạch Thụ Am, sách in tập hợp những chữ thảo của các nhà “thảo thánh” (bậc thánh về môn chữ thảo” từ đời Hán đến đời Minh, lời Hậu tự” cuối sách viết năm Càn Long thứ 52, Đinh Mùi (1787). Người viết xin lỗi nếu có những tư liệu khác về chữ thảo Trung Quốc phủ nhận những nhận xét trong phần viết về chữ thảo của người Việt).

Về vấn đề này, có thể quy vào mấy điểm chính sau đây:

1. Sử dụng hai chấm đặt bên trái và bên phải chữ đơn:

- ... 願 (nguyện), thay chữ “hiệt” (頁) bên phải.

- ... 欲 (dục), thay chữ “cốc” 谷 bên trái.

- ... 御 (ngự), thay bộ “sách” (彳) bên trái và bộ ‘ấp” (阝 ) bên phải.

- ... 秤 (xứng), thay bộ “hòa” 禾 bên trái.

2. Dùng nét 乙 đặt bên chữ đơn:

- ... 擇 (trạch), thay nửa phần trên chữ “dịch” ().

(sương), thay bộ “vũ” 雨 .

- ... 雪 thay bộ “vũ” 雨

3. Một số chữ thông dụng:

: 留 (lưu: giữ lại)

っ : 鄉 (hương: làng)

: 謂 (vị: hảo)

: 寰 (hoàn: bờ cõi rộng lớn)

: 得 (đắc: được)

: 爵 (tước: chức tước)

: 既 (ký: đã).

4. Có những chỗ tưởng chừng không hợp lý, như ở chữ 琷viết tắt của chữ 驢 (lư: con lừa), phần bên phải 卢có thể đọc là 廬 (lư) hay là 虞 (ngu), cả hai chữ đều được chấp nhận, có lẽ theo văn cảnh mà đoán được chữ, cũng như chữ , viết thay chữ 疆 (cương) nhiều nét hơn gấp bội. Đặc biệt có một chữ không hẳn là chữ thảo, có thể gọi là chữ “kép”, chữ () đọc thành hai chữ “quốc gia”, lấy chữ “gia” (nhà) viết trong khung chữ “vi” 囗 , lối viết cổ của chữ “vi” 圍 (vây) sau dùng làm một trong 214 bộ của TĐKH. Thành ngữ về kiến trúc “nội công ngoại quốc” thực có nghĩa: công trình bên trong hình chữ “công” 工 (hai ngôi nhà được nối nhau ở quãng giữa bằng một nhà cầu ngắn, thành hình chữ này), công trình bên ngoài hình chữ “vi” [囗] (hình vuông), ta đã đọc chữ này thành chữ “quốc”.

III. Cách đọc riêng biệt của người Việt đối với một số chữ Hán

Chúng ta ai cũng biết người Việt có cách đọc chữ Hán riêng biệt khác với cách đọc của chính người Hán. Các âm Hán Việt có thể nói tuyệt đại đa số dựa vào cách “phiên thiết” ghi trong TĐKH, tuy nhiên vẫn có một số nét độc đáo so với âm thanh phương Bắc.

1. Có sự phân biệt rõ ràng thanh bằng và thanh trắc, cơ sở của luật thơ, nhất là thơ Đường, đòi hỏi sự tôn trọng chặt chẽ niêm luật. Âm Việt phân biệt dễ dàng thanh bằng thanh trắc, dựa trên cách viết chữ Quốc ngữ, không dấu hay có dấu huyền là thanh bằng, các dấu còn lại là thuộc thanh trắc. Hệ thống âm thanh tiếng Trung Hoa hiện đại không cho phép đọc thuận tiện như vậy. Tỉ như âm “pào” khứ thanh, thuộc vần trắc, gồm bốn chữ, nếu đọc theo âm Việt thì sẽ có hai chữ âm “pháo” thuộc vần trắc là ( ) (to lớn) và 炮 (súng, pháo), nhưng lại có hai chữ âm “bào” thuộc vần bằng lái “泡 (bào: bọt nước) và (bào: mụn nước trên da). Hoặc âm “bao” thanh bình gồm những chữ đọc theo âm Việt: 褒 (bao, khen), 包 (bao: bọc) là hai chữ thuộc thanh bằng, nhưng có cả chữ 剝 âm Việt là “bác” (bóc, lột) tức thuộc thanh trắc (Từ điển Trung Việt, Nxb. KHXH, 1993). Do đó làm thơ Đường luật, người Trung Hoa phải tra Thi vận để biết chữ dùng thuộc thanh bằng hay thanh trắc, còn đối với người Việt thì không cần thiết.

2. Có một số chữ mà âm đọc hoàn toàn là của người Việt, khác với cách phát âm chính thức được ghi trong TĐKH. Thí dụ:

- Từ “Tự lực cánh sinh” Chữ Hán 更 (cánh) có hai cách đọc: “cánh” có nghĩa là “càng” như “cánh hảo” (càng tốt); cũng đọc là “canh” có nghĩa là sửa đổi như “canh tân” (đổi mới). Từ điển Trung văn có thành ngữ “tự lực canh sinh” (bằng sức mình thay đổi cuộc đời). Đương đại Hán Anh từ điển của Lâm Ngữ Đường) (LNĐ) và Hán ngữ từ điển (HN) ghi từ ghép “canh sinh” (geng sheng), không có từ ghép “cánh sinh” (gèng sheng). Nhưng người Việt thường nói “tự lực cánh sinh”, không nói “tự lực canh sinh”. Từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê (HP) ghi “tự lực cánh sinh” và giảng: “Dựa vào sức mình để tự giải quyết những vấn đề khó khăn về đời sống, về kinh tế”. Giảng như vậy, thì đúng ra phải nói “canh sinh” hơn là “cánh sinh”.

- Có một chữ âm đọc hoàn toàn do người Việt đặt. Đó là chữ (呆). Chữ này được TĐKH giảng: đọc là “bảo”, dùng như chữ (保 ) (bảo: giữ gìn). Cũng đọc là “mỗ” là chữ cổ của “mỗ” (某) (đại từ phiếm chỉ). Và ghi rõ nay dùng như chữ (獃) “ngai” (ngu ngốc) Trung Hoa đại tự điển (ĐTĐ) cũng ghi như TĐKH. Các từ điển khác như TN, TH, TVĐTĐ đều chung quan điểm trên. Về các từ điển Hán Việt của ta, Đ DA ở vần “Ngai” ghi hai chữ (呆) và (獃) với nghĩa gần như nhau, không ghi âm “ngốc”. Từ điển Trung Việt của Văn Tân (VT) ở bộ khẩu 口 ghi chữ (呆), kèm âm “ai” của Trung văn, và âm “ngốc” của Hán Việt. TC ở chữ này cũng ghi âm “ngốc”. VNTĐ của Khai trí tiến đức (KTTĐ), ở vần “ngốc” ghi chữ Hán (呆 ) tức công nhận âm Hán Việt của chữ này. Có người cho rằng âm này xuất hiện sau khi Bảo Đại lên ngôi, bị giới trí thức Nho học dựa trên chiết tự gọi là “đại ngốc nhân” do chữ bảo (保 ) được viết với chữ (呆) “ngốc” ở bên cạnh chữ “nhân” đứng ( ). Nhưng trước đó, Đại Nam quốc âm ngự vị của Huỳnh Tịnh Của (HTC) in năm 1896, ở vần “ngốc” đã ghi chữ này, kèm ký hiệu “n” tức “coi như chữ Nôm”.

- Về chữ (未) TĐKH cho âm “vị” với hai nghĩa: là “chưa” và là “1 trong 12 chi”. Người Việt giữ âm này (vị) ở cả hai nghĩa, nhưng về nghĩa sau (1 trong 12 chi), thì thêm âm “mùi”, và âm này được thông dụng hơn. Người ta nói “năm Tân Vị” nhưng số đông gọi là năm Tân Mùi. Ca dao có câu: “Người ta tuổi Hợi tuổi Mùi, sao tôi lại chịu một đời tuổi Thân” (coi người tuổi Hợi, tuổi Mùi có số tốt hơn người tuổi Thân bị vất vả). Âm “mùi” không có trong các từ điển Trung Quốc. Từ điển ĐDA ghi âm “mùi” giảng là “vị thứ 8 trong địa chi” cũng đọc là “vị” và “mùi”. Từ điển HTC ở vần “mùi” cũng ghi chữ này với ký hiệu “c”, tức coi đây là chữ Hán. Tại sao lại thêm âm “mùi” bên cạnh âm “vị” ? Có thuyết cho rằng do TĐKH giảng “vị” (未) là (味), âm Hán Việt là “vị” (cảm giác do lưỡi nếm, hứng thú) như nói “thú vị”, “thi vị”, ta thường dịch là “mùi”. Từ điển HTC coi chữ này là chữ Nôm, đọc là “mùi”.

Trên đây là mấy trường hợp điển hình về cách đọc riêng biệt của người Việt đối với chữ Hán. Chắc còn nhiều trường hợp khác, vì từ điển Trung Việt cho thấy, cùng một âm Trung văn, có rất nhiều chữ với âm đọc Hán Việt khác nhau.

Có thể nói rằng người Việt đã coi chữ Hán như chữ của mình, “chữ ta” như tên thường gọi trước đây, nên sử dụng đôi khi khá tuỳ tiện, bất chấp những quy định của những từ thư, từ điển Trung văn (trường hợp chữ “việt”, chữ “cạnh” nói trên). Điều này thấy rất rõ trong cấu tạo chữ Nôm. Ta viết chữ “nói” (吶 ) với chữ khẩu (口 ) bên chữ “nội” (內) mặc dầu đây là chữ Hán âm “nột” với nghĩa “nói chậm”, “nói ấp úng”; viết chữ “tươi” (鮮) cho dù đây là chữ Hán (âm “tiên”, nghĩa là “cá tươi, tươi”); viết chữ “thuở” (課) với chữ Hán vẫn được đọc là “khóa” (thi hạch, thuế), đó là những chữ Hán, ngoài âm Hán Việt, còn được thêm âm chữ Nôm. Trong cuốn Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ học (Nxb. KHXH, 1976) ghi khá nhiều chữ coi như thuần Nôm, nhưng lại là chữ Hán có mặt trong TĐKH như “ghế” (椅), “toét” (茋) (toét mắt), “noi” (珁) (noi theo).

IV. Những chữ Hán được Việt hóa về mặt ngữ nghĩa.

Chúng ta không nói tới những từ chữ Hán trong một số bài thơ của Nguyễn Khuyến mà người Trung Hoa dù rất thông thạo cổ văn cũng không hiểu nổi, những “thiền sư” để chỉ thầy đồ ve gái (thiền: con ve sầu), “hòa cước” (“chân lúa” chỉ “chân ruộng lúa” tức độ phì nhiêu của ruộng), “đẩu niên” (“tuổi đấu”, tức dung lượng của đấu, tính bằng bát, mỗi bát là một tuổi)(1).

- Đầu tiên, có những từ Hán đã được dùng không đúng ý nghĩa thật chuẩn xác của nó: như từ “băng hà”, thường được dùng để chỉ cái chết của vua chúa.

Trạng chết chúa cũng băng hà,
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.

( Trạng Quỳnh, Nxb. Văn học, Nxb. Thanh Hóa 1987, tr.164).

Từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê giảng: “chết” (nói về vua chúa). Nhưng từ vựng Hán ngữ không có từ “băng hà”. Để chỉ vua chết, chỉ có từ đơn “băng” (崩) và từ ghép “thăng hà” (升遐) (xem các từ điển Trung Quốc và VNTĐ của hội KTTĐ). Người Việt đã ghép “băng” với “thăng hà” thành “băng hà”.

- Từ “ưu ái”: từ này được giảng trong VNTĐ của hội KTTĐ: “do chữ ưu quân ái quốc nói tắt. Lo cho vua, thương cho nước”. Chưa rõ lấy thành ngữ này ở sách nào. TVĐTĐ Đài Bắc ở từ “ưu quốc” dẫn câu trong Chiến quốc sách (Tề sách): “Quả nhân ưu quốc ái nhân, cố nguyện đắc sĩ dĩ trị chi” (quả nhân lo việc nước, yêu dân, nên muốn được kẻ sĩ để trị nước). Nói gọn “ưu ái” hay “ái ưu” đều hàm nghĩa cả bốn chữ: “ưu quân ái quốc” hay “ưu quốc ái dân”. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu thơ:

Ái ưu vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.

Chỉ cách đây ít năm, từ này không còn có nghĩa “lo việc nước, thương dân” hay “lo việc vua, yêu nước”, như trong từ “ái ưu” của câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm; và được dùng với ý nghĩa thương yêu và lo lắng cho đối với mọi đối tượng (xem Từ điển HP).

- Từ “thế chấp” (替執) VNTĐ của KTTĐ giảng “gán nợ” kèm thí dụ: “thế chấp tài sản để lấy tiền trả nợ”. Từ này có lẽ nay ít dùng, nên Từ điển HP không ghi. Từ điển HTC không có từ “thế chấp”, nhưng đã ghi sau từ “thế”: “Thế nhà đất: cầm nhà đi mà vay nợ. Nghĩa này của chữ “thế” (替) là của riêng người Việt, các từ điển Trung Hoa chỉ ghi nghĩa “bỏ đi”, “thay thế”. Còn chấp (執) Hán tự chỉ có nghĩa là “cầm giữ trong tay” không có nghĩa của từ “cầm” thuần Việt, “trao của cho người khác làm tin để vay tiền”. Như vậy có thể nói “thế chấp” gồm một từ thuần Việt “thế” có nghĩa “cầm cố” để thành từ ghép “thế chấp” với nghĩa được định trong Từ điển KTTĐ vừa nói ở trên.

- Từ “phương du”, từ này thấy trong Từ điển KTTĐ chua chữ Hán (方 ) với nghĩa “màn che dùng trong đám ma để che cho con cháu tang chủ”. Từ điển Trung Quốc không có chữ “du” () viết với chữ “do” (由) là “bởi đó”, bên chữ “cân” (巾) là “khăn”, chỉ có chữ “du” () ở bộ “phiến” (片) với nghĩa “ván ngăn để đáp tường” (từ điển TC). Ban biên tập từ điển KTTĐ gồm nhiều nhà nho có tiếng đương thời như Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, nên chắc chữ này cũng đã quá thông dụng và là một chữ Hán do người Việt đặt ra.

- Từ “phỏng nghĩ” (放 擬). Trong thư cuối năm 1859 của Tự Đức gửi Napoléon III, Hoàng đế nước Pháp (bản dịch đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 4-1995), nguyên văn có câu “Gia Ô nhị súy phỏng nghĩ”, có nghĩa “việc phỏng nghĩ (Tạp chí Hán Nôm in lầm là “không nghỉ”) của hai chánh súy Gia và Ô”. “Phỏng” chữ Hán chỉ có nghĩa là “bắt chước”. Còn “phỏng” tiếng thuần Việt, có nghĩa là “ước chừng” (Từ điển KTTĐ) hay “ước lượng trên đại thể” (Từ điển HP). ở đây phải hiểu theo nghĩa thuần Việt của chữ “phỏng” (nghĩa này không có trong chữ Hán), nên “phỏng nghĩ” không có nghĩa là “bắt chước nghĩ”, mà là “nghĩ phỏng chừng”, “dự kiến”.

Trên đây là những từ ghép thường được gọi là những từ Hán Việt, gồm hai hay nhiều từ đơn đều là Hán tự (hay tưởng như là Hán tự, như “thế” trong “thế chấp”, “phỏng” trong “phỏng nghĩ” nói ở trên, thực ra đó là những từ thuần Việt. Ngoài ra còn có những trường hợp từ ghép gồm một Hán tự, đi cùng với một hay hai từ thuần Việt, trên nguyên tắc không thể đi liền với nhau, nhưng vẫn được chấp nhận trên thực tế. ở những trường hợp này, người Việt đã coi một số Hán tự như những từ thuần Việt, nên mới có sự ghép từ như vậy.

Như từ “bỗng nhiên” gồm một từ Việt “bỗng” và một từ Hán “nhiên” (có nghĩa như thế, như vậy). Từ ghép này trước đây chưa có, vì đã có những từ thuần Việt như “bỗng chốc”, “bỗng dưng”, “bỗng đâu”... hoặc từ thuần Hán như “đột nhiên”. Từ điển KTTĐ (1931) chỉ ghi những từ “bỗng dưng”, “bỗng đâu”, “bỗng không”, không có “bỗng nhiên”. Nhưng từ điển Thanh Nghị năm 1951 đã ghi từ này, và nó liên tiếp có mặt trong từ điển HP (1988, 1992).

Một trường hợp tương tự là từ “bất” (có nghĩa là “chẳng”) được ghép với nhiều từ thuần Việt, như “bất cần” (không cần), “bất tỉnh” (không tỉnh, bị lên cơn mê sảng). Lại có thành ngữ “bất tỉnh nhân sự”, được ghi trong từ điển Trung Quốc với 2 nghĩa: “không rõ việc đời” và “hôn mê, mất tri giác” (TVĐTĐ). Từ điển HTC còn ghi cả hai nghĩa này. Nhưng hiện nay chỉ có nghĩa thứ hai như ta thấy trong Từ điển HP. Lại có trường hợp khá đặc biệt: “bất” không còn nghĩa chính của nó là “không, chẳng”, như ở từ ghép “bất chợt”, “bất thình lình”, “bất” không có nghĩa phủ định, mà trái lại, có tác dụng nhấn mạnh thêm về ý nghĩa.

Từ “ca thán”: đã có một thời nhiều người phê phán việc dùng từ này, coi như phải nói là “ta thán” mới đúng. VNTĐ của KTTĐ, Từ điển Thanh Nghị không ghi từ “ca thán”. Nhưng nó đã có mặt trong từ điển HP. Thực ra quần chúng nói “ca thán” nhiều hơn là “ta thán” và thiết nghĩ không sai. Đây chỉ là trường hợp ghép một từ thuần Việt “ca” trong “kêu ca” (có nghĩa là phàn nàn, tỏ ý không ưng) với từ Hán “thán” (than thở). Đây là cách ghép từ khá phổ biến trong tiếng Việt hiện đại, coi một số từ Hán như từ Việt, có thể đi với nhau thành từ ghép, như từ “khác biệt”, “in ấn”. Gần đây báo chí và đài phát thanh nói tới “tái lấn chiếm vỉa hè” (không nói lấn chiếm lại), coi “lấn chiếm” như một từ Hán có thể đi với “tái” như “tái tạo”, “tái sản xuất”.

V. Chữ Hán của người Việt và cuốn Từ điển Hán Việt theo đúng ghĩa của nó.

Theo sử, trong thời Bắc thuộc, việc học chữ Hán đã có từ sớm. Thời Hán Linh Đế (168-189) đã có người Giao Chỉ đỗ Mậu tài, Hiếu liêm (tương đương với Tú tài, Cử nhân sau này), và đến thời Sĩ Nhiếp (được cử làm Thái thú vào đầu thế kỷ thứ 2), việc học càng được phát triển mạnh. Nhà sử học Ngô sĩ Liên cho rằng nước ta “thông Thi, Thư; tập Lễ, Nhạc, thành một nước văn hiến” bắt đầu từ thời kỳ này. Sau khi giành lại quyền độc lập, dân Việt đã dùng chữ Hán như một văn tự chính thức, với một hệ thống phát âm được ghi trong các từ điển chính quy phương Bắc, một phần được Việt hóa do ảnh hưởng của ngữ âm bản địa, cũng như trường hợp những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ như Nhật Bản và Triều Tiên. Qua suốt nhiều thế kỷ, dân Việt đã coi chữ Hán như chữ chính của mình. Chính chữ Hán đã được dùng để tuyên cáo và xác nhận quyền độc lập dân tộc trong bài thơ mà Lý Thường Kiệt cho ngâm bên sông Như Nguyệt và trong bài Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi.

Nếu trí nhớ của người viết bài này không lầm, có lần Phan Khôi trên báo Phụ nữ tân văn có nhắc tới câu của một nhà văn Trung Quốc (có phải Lương Khải Siêu?) chê lời văn chữ Hán của mấy nhà nho nổi tiếng của ta thời đó như Phan Bội Châu là “chưa thuần”, tức chưa thật đúng văn phạm Hán ngữ. Điều này nếu đúng thực thì, thiết nghĩ cũng không có gì là khó hiểu. Thứ nhất, văn phạm Hán tự, không như nhiều ngôn ngữ phương Tây, từ trước vẫn không có gì thật chuẩn xác, nhất là với quan niệm được ghi trong sách Mạnh Tử (Thiên Vạn chương) “không vì chữ được dùng mà hại tới lời, không vì lời mà tổn hại chí người làm thơ (chỉ tác giả nói chung), phải lấy ý mình mà suy đón cái chí người đó, như thế mới được” (bất dĩ văn hại từ, bất dĩ từ hại chí, dĩ ý nghịch chí, thị vi đắc chi). Hoặc với quan niệm của Đào Tiềm “đọc sách không cầu hiểu thật tường tận” (tức chỉ chú ý đến sự ứng dụng cho chính mình, có thể không hẳn đúng với ý của sách) (Nguyên văn: “độc thư bất cầu thậm giải” - Ngũ Liễu Tiên sinh truyện). Vả chăng thời trước cũng chưa có những sách chuyên đề về văn phạm ngữ pháp để có những tiêu chí xét đoán trong địa hạt này.

Dù sao vẫn có thể khẳng định có một hệ thống chữ Hán của riêng người Việt, với cách phát âm riêng biệt đối với toàn bộ từ vựng Hán ngữ, và với cách viết, cách định nghĩa đối với một số chữ và từ, như cách viết chữ “việt”, chữ “cạnh”, cách hiểu những từ “băng hà”, “thế chấp”... vừa nói ở trên. Thiết nghĩ chúng ta cần có một cuốn từ điển thực sự là “từ điển Hán Việt”, có phần quan trọng ghi lại “chữ Hán của người Việt”, ngoài việc ghi âm và nghĩa như các từ điển Hán Việt hiện có, còn thêm cả những lối viết chữ, cách đọc và định nghĩa của riêng người Việt, như đã trình bày. Hơn thế nữa, nó còn bao gồm cả các từ ghép và thành ngữ có trong các văn bản Hán Nôm của dân Việt. Chúng ta đã có những bản chú thích khá đầy đủ các tác phẩm Hán và Nôm, những từ ngữ (và điển tích trong đó) sẽ là những từ điều và thí dụ trong cuốn từ điển Hán Việt mới. Và nhất là sẽ có mặt cả những từ ngữ không thấy ở các từ điển Trung văn, mà số lượng những từ điều này không phải là nhỏ. Đơn cử bài thơ nổi tiếng Nam quốc sơn hà do Lý Thường Kiệt cho đọc bên sông Như Nguyệt, chỉ trong bốn câu mà đã có ba từ ghép là “tiệt nhiên”, “nghịch lỗ”, “bại hư” không thấy trong các từ điển thường dùng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải. Cuốn từ điển Hán Việt mới sẽ ghi các từ ghép trên, cùng những từ khác như “Nam quốc”, “sơn hà”... kèm thí dụ lấy ở văn bản người Việt, và cả ở văn bản Trung Quốc nếu thấy cần (sẽ có ghi dấu hoa thị ở những từ điều coi như của riêng người Việt).

Ngoài ra, về mặt ghi âm đọc ở cuốn từ điển mới, chúng tôi thiết nghĩ:

- Sẽ ghi những âm đọc riêng của người Việt, như ở chữ “cạnh”, chữ “ngốc” nói trên.

- Đối với một số chữ Hán hiện được phiên âm khác nhau trên các từ điển của ta cần tiêu chuẩn hóa để thống nhất cách đọc, giúp cho việc xác định mặt chữ ở những văn bản phiên âm không có điều kiện kèm theo chữ Hán, có thể chua kèm thứ tự của chữ đồng âm được ghi ở cuốn từ điển này, giúp cho người đọc có thể xác định được chữ cần biết.

Một cuốn từ điển như vậy đòi hỏi công sức đầu tư không nhỏ.

Về việc ghi âm đọc, tuy chỉ có một số chữ có âm đọc chưa thống nhất, vẫn cần có một ban chuyên trách tiến hành việc tiêu chuẩn hóa.

Về việc thu thập các từ điều, cách giải thích, tìm thí dụ rút ra từ các văn bản Hán Nôm, việc làm phức tạp hơn nhiều. Cần rà soát lập phiếu cho hàng vạn từ điều, trên cơ sở đó, tiến hành dịch nghĩa và chọn thí dụ thích đáng. Thiết nghĩ nên phân loại các văn bản, chọn một số tiêu biểu nhất coi như thuộc loại A, để tiến hành rà soát và lập phiếu có phương pháp và triệt để. Trên cơ sở đó, có thể có một cuốn được công bố để phục vụ kịp thời và lấy ý kiến độc giả, trong khi vẫn tiến hành rà soát lấy tư liệu ở các văn bản thuộc loại B, loại C v.v... để sách này thêm hoàn chỉnh.

Theo thiển kiến, một công trình như vậy không thể thiếu sự chủ trì và lãnh đạo của Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong việc biên soạn. Đây sẽ là một đóng góp đáng kể trong việc giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc vẫn tự hào có một nền văn hiến lâu đời.

V.T.S

CHÚ THÍCH

(1) Xem bài Về những bài thơ Hán Nôm tự dịch của Nguyễn Khuyến, Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1990.

* Trong bài này có dùng một số chữ viết tắt sau đây.

1 . Từ điển Tiếng Việt:

HTC: Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của - Sai Gon, 1896

KTTĐ: Việt Nam từ điển - Hội khai trí tiến đức - Hà Nội, 1931.

ĐDA: Hán Việt từ điển - Đào Duy Anh - Hà Nội, 1931.

TC: Hán Việt từ điển - Thiều Chửu. Sai Gon, 1966 (in lần 2).

TNg: Việt Nam tân từ điển - Thanh Nghị - Sai Gon, 1931.

HP: Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê chủ biên - Hà Nội, 1992.

2. Từ điển chữ Hán:

TĐKH: Khang Hy từ điển, Tựa của Khang Hy, 1716.

TN: Từ nguyên - 1967.

TH: Từ hải - 1967.

ĐTĐ: Trung Hoa đại từ điển - Trung Hoa thư cục, 1951.

HN: Hán ngữ từ điển - Tân Hoa thư cục, 1957.

VVN: Vương Vân Ngũ Tứ giác đại từ điển - Thương Vụ ấn quán, 1930.

TVĐTĐ: Trung văn Đại từ điển, Đài Bắc, 1962-1968.

TB

CHUYỆN BÀ PHẠM THỊ HOÀI THAI TRONG "THIÊN NAM NGỮ LỤC": SỰ GIAO HÒA CỦA PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
BẢN ĐỊA

CHU QUANG TRỨ

Chuyện bà Phạm Thị hoài thai được chép khá thống nhất trong các cuốn sử chính thức xưa, tất cả đều vắn tắt, đã tước bỏ những tình tiết lý thú. Nhân dân trên địa bàn châu Cổ Pháp xưa vẫn còn thuộc và kể rất sinh động nhưng không tránh khỏi những thêm bớt chủ quan ngày nay. Để tìm hiểu thực chất huyền thoại bà Phạm Thị hoài thai phải tìm đến văn hóa dân gian, mà trong tình hình thư tịch hiện nay thì tài liệu gốc chính là bộ diễn ca lịch sử viết từ thế kỷ XVII: Thiên Nam ngữ lục rất phong phú và tương đối khách quan.

Câu chuyện về bà Phạm Thị hoài thai được chép khá dài, chúng tôi xin lược trích và tóm tắt: Bà Phạm Thị “khó khăn goá bụa, tuổi vừa đôi mươi”, phải đi làm thuê, thậm chí phải đi ăn mày. Nghe đồn chùa ứng Đại (tên đầy đủ là ứng Đại Thiên Tâm) có một thiền sư “tu thân luyện tính, chuyển thần hoàn nguyên”, nàng tìm đến và được thiền sư cho phép ở lại để “quét chùa, gánh nước, tưới cây, giữ vườn”. Thế rồi

“Giữa ngày mồng tám là ngày Bụt sinh
Đêm khuya thầy dạy tụng kinh,
Nàng dậy một mình ngồi bếp thổi xôi.
Ngậm ngùi nhớ sự khúc nhôi,
Lim dim ngủ mát, nằm ngoài táo môn.
Thấy lâu thầy mới hỏi dồn,
Tắt đèn vạc lửa, thầy liền bước qua.
Tự nhiên mới giấc hồn hoa,
Ngỡ ai đã đến giao hoà cùng ai,
Âm dương thăng giáng một hồi,
Thủy liêm mở động, ngọc lơi dề dề.
Máy trời cơ nhiệm ai hay,
Thác lấy khí thầy cho nàng chịu thai”.
(...)
“Hay tình thầy hỏi sự duyên,
Trước sau khúc trực, nàng bèn bày ngay:
Sáng ngày mùng chín ấy rầy,
Tôi nằm ngủ mát tối thầy chạm chân.
Thấy nên chuyển động tâm thần,
Có phân ngây ngất, có phân kinh lòng.
Tôi ngỡ ma quỷ hãi hùng,
Chẳng ngờ một tháng hay lòng có thai”.

Thế rồi để giữ tiếng cho thầy, nàng bèn rời khỏi chùa “một bị, một gậy” đi ăn xin. “Tuy rằng rách rưới lạc loài, song bề nhan sắc kém ai chút nào”, nên nhiều người hiếm muộn muốn hỏi nàng để nhận con, nhưng nàng đã từ chối” chi cho phàm khí lộn thai, lỗi đạo cùng trời, mất đạo cùng con”. Mười tháng sau, đến khi sắp sinh nở, nàng “đi xa lo nữa xảy chân, lần quất đến gần chùa kẻ Gia Châu”. Đêm đó trời nổi gió, rồng phun mưa, có 3 bà tiên cho thuốc, uống xong nàng “sinh ra được một con trai lạ dường” mặt mũi sáng sủa như trăng đêm rằm, như mặt trời giữa trưa. Nuôi con được 7 ngày thì ẵm đến chùa Cổ Pháp cho làm con nuôi thiền sư Lý Khánh Văn. Lên 7-8 tuổi được đưa sang chùa Lục Tổ theo học thiền sư Vạn Hạnh. Chính ở đây, Lý Công Uẩn được bồi dưỡng tài năng và chuẩn bị dư luận đầy đủ để khi có cơ hội sẽ nắm chính quền.

Còn bà Phạm Thị sau khi để lại con ở chùa Cổ Pháp, lại bị gậy đi hành khất. Một ngày kia đến đồi Mả Báng cây cối tốt xanh, là nơi xưa Cao Biền đã xác định có mạch đế vương, bỗng bị bạo bệnh mà mất, mối đùn thành mộ.

Câu chuyện bà Phạm Thị hoài thai có chung chủ để và kết cấu với chuyện Man Nương ở chùa Dâu, thậm chí có thể xem như dị bản của nhau. Tất nhiên về tình tiết có khác. Trên tập văn số 20 (năm 1991) của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tôi đã có dịp trình bày mối “Giao lưu văn hóa Việt - ấn qua huyền thoại Man Nương”, chuyện Man Nương xảy ra ở thế kỷ II trong lúc văn hóa Việt cổ chịu ảnh hưởng cưỡng bức của văn hóa Hán với âm mưu đồng hóa, thì sự tiếp nhận hoà bình văn hóa ấn Độ phải được đặt ra như một sự gắn bó hữu cơ giữa 2 thành tố Việt - ấn để tạo nên một cơ thể mới đầy đủ tố chất Việt và cũng đủ sức hòa nhập cộng đồng văn hóa khu vực. Sau gần nghìn năm đấu tranh, nền độc lập dân tộc đã được xác định vững vàng, Phật giáo hồi bấy giờ đã trở thành một tôn giáo khá phổ cập ở nước Đại Việt và đang là chỗ dựa tinh thần của dân tộc, nhiều thiền sư đang là cố vấn cao cấp của nhà nước, chùa chiền đang là trường học đào tạo nhân tài, thì việc đặt ra lúc này là cần có sự hòa đồng giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, cũng tức là văn hóa dân tộc phải được kết hợp chặt chẽ với văn hóa Phật giáo trong khu vực.

Chỉ trong huyền thoại trên với các chùa được kể đến là ứng Đại Thiên Tâm, Gia Châu, Cổ Pháp và Lục Tổ... và với những thiền sư danh tiếng như Lý Khánh Văn, Lý Vạn Hạnh... thì rõ ràng vùng châu Cổ Pháp đang là một trung tâm Phật giáo lớn. ở đấy biểu hiện của văn hóa dân tộc không còn là cô gái phương Nam ngây thơ (Man Nương) nữa, mà đã là một cô gái của thế giới nhà Phật quyền năng: Phạm Thị (chứ không thể cô gái họ nào khác), là thế giới của Phạm Thiên và Đế Thích, là cái tâm theo Phạm hạnh, là vòng quay của Phạm luân, là sự kết đọng Phạm điển của kinh Phật, là giọng nói Phạm âm cao sang của đức Phật... Cô gái ấy nếu không sống ở chùa “quét chùa, gánh nước, tưới cây, giữ vườn” thì cũng “một bị, một gậy” đi hành khất như kiểu khất thực của các nhà sư theo mệnh thanh tịnh. Cô gái ấy nghèo khó, “song bề nhan sắc kém ai chút nào”, đoan chính bỏ ngoài tai mọi lời hoa nguyệt ngay khi khốn đốn nhất “rách rưới, lạc loài” vẫn từ chối “nhiều nơi danh giá hiền hào” để giữ trọn thân tiết không bị “lỗi đạo cùng trời, mất đạo cùng con”.

Còn hiện thân của văn hóa Phật giáo ở đây là sư trụ trì chùa ứng Đại [Thiên Tâm] mà tên chùa đã có ý như chỉ vị sứ giả thông báo những ứng biến lớn lao của lòng trời, có đủ thần lực “chuyển thần hoàn nguyên”. Con người ấy:

“Vui lòng đạo đức từ bi,
Ngày tháng gia trì lạc đạo thiền kinh.
Tanh ô chẳng bợ đến mình,
Cất không lòng tục quét thanh nẻo trần”.

Mối giao cảm của hai nền văn hóa dân gian và Phật giáo được biểu hiện thành cuộc hôn phối thực hư trong mộng: “Tự nhiên mới giấc hồn hoa, ngỡ ai đã đến giao hoà cùng ai”. Mộng đấy nhưng cái hành động ân ái lại rất cụ thể: “Âm - dương thăng giáng một hồi, Thủy liêm mở động, ngọc lơi dề dề”. Để rồi khi thấy rõ hiệu quả thì chính nhà sư cũng ngỡ ngàng về cuộc giao hoan mây mưa: “Ta thương góa bụa khó khăn, chẳng ngờ mộ vũ triêu vân đấy rày”. Dường như cuộc hôn phối văn hóa ấy là nằm ngoài ý muốn chủ quan của cả hai bên, nhưng lại lòng trời ứng báo, và như thế là tất yếu.

Cuộc giao hoan ấy diễn vào đêm khuya của “ngày mồng Tám là ngày Bụt sinh”, cũng tức là “rạng ngày mồng chín”. Vậy Lý Công Uẩn theo sử cũ sinh ngày 12 tháng Hai, nhưng chính thức được tụ khí ban đầu từ ngày Phật đản năm trước. Người mẹ sinh con vuông tròn, gửi chỗ nuôi chắc chắn để có cả họ và quê, thì hóa thân để âm phù cho người sống được sung sướng. Còn đứa bé phải được nuôi dưỡng bằng dòng sữa bác học của văn hóa Phật giáo, để rồi lớn lên có đủ trí tuệ và nghị lực làm rạng danh dân tộc và đất nước.

Nếu huyền thoại về sự hoài thai của Man Nương là sự giao hoan của văn hóa dân tộc với văn hóa Phật giáo còn đầy chất ấn Độ để đưa đến cuộc sống tâm linh thần bí; thì sự hoài thai của Phạm Thị cũng của văn hóa dân tộc nhưng ở trình độ dân gian với văn hóa Phật giáo đã mang tính bác học, lại đưa đến một sự phục hưng dân tộc ở cả chính trị và văn hóa để được đàng hoàng ngang hàng với mọi dân tộc, mọi quốc gia trong khu vực.

C.Q.T

TB

VẤN ĐỀ "BIỆT LỤC" VÀ "BỔ DI" CỦA "LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC"

NGUYỄN THÚY NGA

Bộ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (LTĐK)(1) là một tài liệu khoa lục có tính chất bán quan phương, cung cấp nhiều thông tin cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu họ tên và tiểu sử các nhà khoa bảng Việt Nam. Nội dung học thuật của sách tuy đã được nhiều người đề cập đến(2), nhưng chưa có công trình nào thích hợp để đi sâu vào các vấn đề chuyên biệt. Trong bài viết này chúng tôi xin nêu lên kết quả nghiên cứu về những thông tin đăng khoa học đã được ghi trong Biệt lục Bổ di của bộ Lịch triều đăng khoa lục.

LTĐK gồm 4 quyển (Q.Thủ và Q.1 - 3), dày 184 tờ. Qua cách trình bày, chúng ta có thể nhận thấy các soạn giả có dụng ý chia tách thành 2 phần: Phần thứ nhất là Q.Thủ (14 tờ), gồm Bài tựa và danh sách 75 vị thi đỗ trong các khoa thi dưới triều Lý - Trần - Hồ. Phần thứ hai từ Q.1 đến hết là họ tên các Tiến sĩ triều Lê (cả Lê sơ, Lê Trung hưng) và triều Mạc. Q.Thủ chỉ gồm 14 tờ giấy, nhưng nội dung có thể chia làm 3 phần: a/ Bài tựa, dưới có ghi đủ họ tên, học vị, chức tước của người hiệu chính và 3 vị đồng biên tập (tờ 1a - 3b). b/ Danh sách những người thi đỗ dưới các triều Lý - Trần - Hồ (đánh số lại từ 1a - 8b). c/ Biệt lục (8b - 10b) và Bổ di (11a - 11b): Danh sách bổ sung cho phần . Tuy các soạn giả LTĐK không thuyết minh lý do phân chia danh sách này làm hai loại, nhưng nghiên cứu kỹ nội dung có thể thấy: Biệt lục bổ sung những người có biết cụ thể khoa thi đỗ, Bổ di hầu hết là những trường hợp chỉ biết đại thể thi đỗ trong khoảng niên hiệu hoặc đời vua nào đó, - có những vị chỉ có họ tên và sơ lược hành trạng chứ không ghi thi đỗ hay không (như Hồ Tông Thốc 胡 宗 鷟 ... Chu Văn An 朱 文 安 ...và Phạm Sư Mạnh 范 師 孟 ... - tờ 11a).

Để tiện phân biệt với mục là danh sách của hai phần Biệt lục Bổ di, chúng tôi tạm gọi danh sách của phần b/ là Chính lục. Số người có tên trong các phần như sau: Chính lục: 50 vị; Biệt lục, Bổ di: 25 vị ((3)).

Chúng ta đều biết danh sách những người thi đỗ từ đời Lê về sau được triều đình cho sao lục tinh xác để lưu giữ ở sảnh viện, đồng thời cho khắc vào bia đá để lưu truyền. Như vậy hệ thống bia Tiến sĩ ở Văn miếu Thăng Long và danh sách của Sử quán là nguồn tư liệu rất đáng tin cậy cho các nhà biên soạn ĐKL đời Lê. Còn các đời Lý - Trần - Hồ, Lê Quý Đôn đã ghi là “không ghi chép gì, vì thế tên người đỗ các khoa phần nhiều không khảo cứu được”(4). Vậy thì các soạn giả LTĐK đã căn cứ vào nguồn tài liệu nào để biên soạn danh sách các nhà khoa bảng đời Lý - Trần - Hồ nói chung và các phần Biệt lục, Bổ di nói riêng của sách này ?

a. Về danh sách ở phần Chính lục:

Gồm 50 vị (Lý 5: Lê Văn Thịnh 黎 文 盛 ... Mạc Hiển Tích 莫 顯 績 ... Đỗ Thế Diên 杜 世 延 ... Bùi Quốc Khái 裴 国 慨 ... Đặng Nghiêm 鄧 嚴 ... Trần 35; Hồ: 10). Đối soát giữ LTĐK với Toàn thư về từng khoa thi, chúng ta có thể thấy các soạn giả LTĐK đã căn cứ rất sát vào ghi chép của Toàn thư để khôi phục các khoa thi và danh sách người thi đỗ: 49 trong số 50 người ghi ở Chính lục nguyên đã đã có tên trong Toàn thư, chỉ chênh lệch 1 trường hợp do các soạn giả LTĐK bổ sung: Đó là trường hợp Đỗ Thế Diên 杜 世 延... (người làng Cổ Liêu huyện Đường Hào, nay thuộc xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng(5).

Về khoa Ất Tị Trinh Phù 10 (1185), Toàn thư chép: “Lấy đỗ bọn Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người” (Bản kỷ IV, tờ 20a). Trong khi đó Chính lục ghi rõ Đỗ Thế Diên đỗ đầu, xếp trước Bùi Quốc Khái và Đặng Nghiêm. Về Đỗ Thế Diên, chúng ta thấy soạn giả LTĐK có tư liệu điều tra riêng về quê quán, hành trạng, khá cụ thể so với những người khác. Lê Quí Đôn cũng ghi về khoa này: “Sử chép 3 người thi đỗ là Bùi Quốc Khái, Đỗ Thế Diên và Đặng Nghiêm” (Kiến văn tiểu lục KVTL, Bd, tr.91), chỉ có khác là ghi ông đỗ thứ hai sau Bùi Quốc Khái. Còn Cương mục Khoa mục chí (KMC) căn cứ theo Toàn thư nên cũng không ghi Đỗ Thế Diên.

B. Vấn đề của Biệt lục, Bổ di:

1. Về các khoa thi:

a. Khoa Văn học tuấn tú: Bổ di ghi một người tên là Lý Dụng Quang 李用 光 ... (không rõ quê quán) đỗ đầu khoa thi Văn học tuấn tú đời Lý Thánh Tông (1054-1072). Nếu theo tư liệu này thì đó là khoa thi Nho học đầu tiên của nước ta mà nhà khoa bảng đầu tiên là Lý Dụng Quang chứ không phải là Lê Văn Thịnh (đỗ khoa ất Mão năm Thái Ninh 4 đời Lý Nhân Tông 1075). Tuy vậy Toàn thư cũng như các sử sách khác đều không có tài liệu nào nói đến danh tính Lý Dụng Quang cũng như khoa thi này. Vì vậy các tài liệu đăng khoa lục khác (cả trước và sau LTĐK) đều căn cứ theo chính sử nên không có thông tin trên của LTĐK.

b. Về khoa thi niên hiệu Trinh Khánh: một trong những vấn đề gây nghi ngại nhiều nhất của phần Biệt lục: có 5 người được ghi là thi đỗ khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn niên hiệu Trinh Khánh 3 đời Huệ hoàng triều Lý (Phạm Công Bình 范 公 平 ..., Nguyễn Viết Chất 阮 文 質 ..., Vương Văn Hiệu 王 文 校 ... , Dương Chính 楊 政 ..., Phạm Tử Hư 范 子 虛 ... Đoạn ghi chép này vấp phải ít nhất 3 vấn đề mâu thuẫn: <1> Huệ hoàng triều Lý 李 朝 惠 皇 帝 ... chỉ có thể hiểu là triều vua Lý Huệ Tông (1211-1224). Nhưng theo chính sử thì đời vua này chỉ có một niên hiệu Kiến Gia 建 嘉 mà không có niên hiệu Trinh Khánh 貞 慶 ... <2> Đời Lý Huệ Tông cũng không có năm Mậu Thìn (năm Mậu Thìn gần nhất là năm 1208 còn thuộc đời Lý Cao Tông, nhưng đời Cao Tông có niên hiệu Trinh Phù 貞 符 ... chứ không phải Trinh Khánh. <3> Về triều Lý không thấy chính sử ghi việc phân chia người thi đỗ làm 3 giáp. Từ khoa thi Nhâm Thìn năm Kiến Trung 8 (1232) đời Trần Thái Tông sử mới ghi việc này (BK V, 7b).

Đối với những người nghiên cứu dù là ngày nay hay ngày xưa, một sử liệu quan trọng mà phạm phải đến 3 điều mâu thuẫn như đã kê trên thì phải nói là khó tin cậy. Tuy vậy, điều khiến người ta phải băn khoăn là ở chỗ: nhóm biên soạn LTĐK gồm 4 nhà sử học khá có danh tiếng thời bấy giờ, lẽ nào họ lại không chú ý đến những chi tiết mâu thuẫn đó, thậm chí cả vấn đề niên hiệu Trinh Khánh ? Hơn nữa có thể khẳng định đây không phải vấn đề lỗi của bản in, vì chính Lê Quý Đôn cũng đã từng nói “Có một tập khác chép rằng: năm Mậu Thìn niên hiệu Trinh Khánh đời Huệ Tông ...”(6). Điều này thật khó giải thích và có thể có những lý do nào đó đã khiến nhóm biên soạn vẫn đưa tư liệu đó vào phần Biệt lục. Vì vậy, các tài liệu đăng khoa lục phân chia làm 2 nhóm có cách thức xử lý khác nhau đối với tư liệu này:

Không ghi khoa Trinh Khánh: gồm các bản: Đăng khoa lục sao bản (A.1785), Lịch đại đại khoa A.2119), Thiên Nam Lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo (A.485) v.v...

Có ghi khoa Trinh Khánh: Lịch đại đăng khoa (VHv.652), Thiên Nam lịch triều tiến sĩ đăng khoa lục (VHv.289), Thiên Nam lịch triều tiến sĩ khoa thực lục (A.2040) v.v...

Đối trước vấn đề này, trong các thư tịch cổ người xưa đã từng có thái độ “dĩ nghi truyền nghi” là có ý thận trọng không gạt bỏ những vấn đề cần phải nghiên cứu tìm hiểu thêm. Do đó chúng tôi nghĩ rằng khoa Trinh Khánh tạm thời vẫn có thể ghi lại để bảo lưu thông tin của LTĐK, nhưng cần nêu rõ thông tin đó chưa được xác nhận.

c. Về khoa thi năm 1246 và năm 1274:

Theo Biệt lục, khoa thi năm Thiên ứng Chính Bình 15 (1246) lấy đỗ 3 người: Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang 阮 觀 光... (Tam Sơn h. Đông Ngàn), Bảng nhãn Phạm Văn Tuấn 范 文 俊 ... (Nghĩa Lư h. Cẩm Giàng), Thám hoa Vương Hữu Phùng 王 有 逢 ... (h. Đan Phượng); khoa Bảo Phù 2 (1274): Lý Đạo Tái 李 道 載... (Vạn Tư h. Gia Định).

ở đây có vấn đề nghi ngại: cả 2 khoa kê trên đều sát trước 1 năm với hai khoa Thiên ứng Chính Bình 16 (1247) và Bảo Phù 3 (1275) ghi trong Toàn thư và cũng đã có trong Chính lục, phải chăng có sự nhầm lẫn khoa thi năm trước ghi vào năm sau (và ngược lại) ? Nhưng họ tên người thi đỗ trong các khoa thi ấy lại không giống nhau cho nên cũng không có cơ sở để bác bỏ thông tin ấy của Biệt lục.

Để tiện theo dõi chúng tôi đã lập bảng kê các khoa thi thời Lý - Trần - Hồ (xin xem Bảng kê ở cuối bài).

2. Về danh sách người thi đỗ:

Ngoài phần Chính lục mà xuất xứ tư liệu hầu hết (49/50 trường hợp) đều được kiểm chứng ở Toàn thư, 2 phần Biệt lục Bổ di còn ghi thêm 25 người thi đỗ trong các khoa đời Lý - Trần - Hồ (Biệt lục: 15, Bổ di: 10). tiếp tục truy tìm cứ liệu, chúng tôi thấy:

a. Những người đã được ghi trong sử: 4 người. Cùng một năm Thiên ứng Chính Bình 16 (1247) có 2 khoa thi, một khoa vào tháng 2 đã lấy Trạng nguyên Nguyễn Hiền 阮 賢..., Bảng nhãn Lê Văn Hưu 黎 文 休 v.v..., còn một khoa khác tổ chức vào tháng 8 (9-1247) gọi là khoa thi Thông tam giáo, lấy đỗ 4 người: Ngô Tần 吳 瀕 ... (người Trà Lộ) đỗ Giáp khoa, Đào Diễn 陶 演 ... (Thanh Hóa), Hoàng Hoan 黃 歡 ... (Thanh Hóa) và Vũ Vị Phủ 武 謂 父 ... (người Hồng Châu) đỗ ất khoa (Toàn thư, BD V, 15a-b). Ở Chính lục đã ghi khoa thi tháng 2, nhưng không ghi người đỗ ở khoa thi tháng 8. Điều đó có thể được hiểu là các soạn giả LTĐK không coi thi Tam giáo là khoa thi chính thức như thi Nho học, nên đưa danh sách 4 người kê trên xuống phần Biệt lục.

b. Do các soạn giả LTĐK bổ sung: 21 người. Trong số này có 8 vị sau đây: Nguyễn Phi Khanh 阮 飛 卿 ... (Biệt lục); Trần Đạo Tái 陳 道 載 ..., Chu Văn An 朱 文 安 ... , Phạm Sư Mạnh 范 師孟 ..., Hồ Tông Thốc 胡 宗 鷟 .... Triệu Thái 趙 泰 ..., Phan Phù Tiên 潘 孚 先 ..., Nguyễn Thiên Túng 阮 天 縱 ... (Bổ di ) là những nhân vật có danh tiếng trong lịch sử. Tuy vậy, cũng chỉ có một số trường hợp có tư liệu trong thư tịch cổ cho biết họ thi đỗ đại khoa, như: Hồ Tông Thốc: “Tuổi trẻ đỗ cao, rất có tài danh” (Toàn thư, BK VIII, 9b; Nam ông mộng lục). Phạm Sư Mạnh: “Học trò [của Chu An] nhiều người đỗ đạt cao, vào chính phủ..., như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát 黎 伯 适 ...” (Toàn thư BK VII, 44a). Nguyễn Phi Khanh (tức Nguyễn Ứng Long) dạy học ở nhà Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau thi đỗ (Toàn thư BK, VIII 8b). Việc các soạn giả LTĐK bổ sung họ vào danh sách Biệt lục Bổ di có thể xem là có cơ sở. Đặc biệt trong Bổ di có những tư liệu rất quý mà các sử sách khác không có, chẳng hạn: theo tư liệu trong Bổ di, Triệu Thái 趙 泰 (người Hoàng Chung, Lập Thạch - nay là thôn Hoàng Chung, xã Đồng ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú) trong thời thuộc Minh sống ở Trung Quốc (có thể hiểu ông là một trong số những người nước ta bị bắt hoặc theo gia đình sang đó), khoảng niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1425) đã thi đỗ Tiến sĩ của triều Minh, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ. Sau nghe tin trong nước có cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, ông mượn cớ về thăm quê nhà rồi đăng tên dự thi và trúng tuyển khoa Minh kinh năm Thuận Thiên 2 đời Lê Thái Tổ (1429), - trong LTĐK tên ông được ghi đầu tiên. Sau ông làm quan nhà Lê đến chức Thị ngự sử, điều này Toàn thư đã chép (BK XI, 56b). Bổ di còn cho biết ông là người san định sách Quốc triều điều luật 國 朝 條 律 ... tư liệu này chưa có sử sách nào ghi chép.

Tuy vậy cách xử lý tư liệu của các soạn giả LTĐK cũng có chỗ còn chưa nhất quán. Chẳng hạn cùng một tư liệu đã dẫn trên nhưng Bổ di chỉ ghi Phạm Sư Mạnh mà không ghi Lê Bá Quát. Hoặc Toàn thư ghi chung cả sự việc về Nguyễn ứng Long và Nguyễn Hán Anh 阮漢英... và cho biết: “về sau cả hai đều thi đỗ” (BK VIII, 8b), nhưng cả Biệt lục Bổ di đều không ghi tên Nguyễn Hán Anh.

Về 2 trường hợp Phạm Tử Hư 范 子 虛 ... và Dư Nhuận Chi 余 潤 之... chính sử không nói đến, chỉ thấy chép trong Truyền kỳ mạn lục (TKML/ Phạm Tử Hư du Thiên tào lục, Túy Tiêu truyện). Nhưng vì TKML của tác giả Nguyễn Dữ là người TK XVI, lại là tác phẩm văn học thuộc thể loại truyền kỳ nên ít sức thuyết phục về tính xác thực của tư liệu. Vì thế Lê Quý Đôn đã viết: “... có người được trúng tuyển tên là Phạm Tử Hư, việc này có lẽ căn cứ vào truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ mà vay mượn khiên cưỡng, không thể tin được”. Cả trường hợp của Dư Nhuận Chi thực ra cũng tương tự, chỉ có điều trong Truyện Tuý Tiêu họ Dư được ghi đỗ cụ thể vào năm Đại Trị thứ 7 đời Trần Dụ Tông.

Về Lý Đạo Tái (tức Thiền sư Huyền Quang): chúng ta có thể biết soạn giả LTĐK đã sử dụng tư liệu của Tam tổ thực lục (in 1765). Đối với những vấn đề về lịch sử Phật giáo Việt Nam thì sách này cũng như một số sách khác tàng bản ở chùa Long Động (Yên Tử) là những tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy việc ghi Huyền Quang đỗ Trạng nguyên trước khi xuất gia (Bảo Phù 2; 1274) lại là nội dung thuộc vấn đề lịch sử khoa cử Nho giáo, cho nên vẫn cần được xác minh thêm.

10 trường hợp còn lại: Lý Dụng Quang 李 用 光 ..., Phạm Công Bình 范 公 平... , Nguyễn Viết Chất, 阮 曰 質... Vương Văn Hiệu 王 文 校..., Dương Chính 楊 政 ..., Nguyễn Quan Quang 阮 觀 光 ... , Phạm Văn Tuấn 范 文 俊 ..., Vương Hữu Phùng 王 有 逢 ... , Trần Đạo Tái 陳 道 載 ..., Nguyễn Hy Chu 阮 希 周 ... , - có thể nói trước LTĐK không tài liệu nào nói đến.

*
**

Nói tóm lại: Do vị trí hai phần Biệt lục Bổ di của Lịch triều đăng khoa liên quan đến việc nghiên cứu giai đoạn đầu tiên quan trọng trong lịch sử khoa cử của nước ta, cho nên chúng tôi đã cố gắng đối kiểm các nguồn tài liệu nhằm tìm hiểu căn cứ của những thông tin khoa lục do nó cung cấp. Kết quả cho thấy các soạn giả LTĐK một phần đã sử dụng sử liệu của Toàn thư để lập danh sách. Trong Biệt lục Bổ di, một mặt có những thông tin có giá trị (như về Triệu Thái đã nói ở trên), nhưng mặt khác cũng thấy soạn giả có phần quá rộng rãi trong việc thu lượm tư liệu, lấy cả những nhân vật trong truyện truyền kỳ như Lê Quý Đôn đã phê phán. Cả ở Chính lục cũng như Biệt lục Bổ di, nếu được các soạn giả thuyết minh dù chỉ chút ít về xuất xứ cứ liệu thì giá trị khoa học sẽ được tăng thêm rất nhiều. Hiển nhiên những vấn đề như khoa thi niên hiệu Trinh Khánh là không thể giải thích được bằng những niên hiệu mà chúng ta đã biết. Nhưng đây là vấn đề của thư tịch cổ ghi sự kiện cách nay đã ngót nghìn năm, theo chúng tôi, tất cũng có những lý do nào đó mà các soạn giả là những nhà sử học danh tiếng đã lưu lại để chờ xác minh, chúng ta nên sử dụng thận trọng chứ không gạt bỏ.

BẢNG TỞNG HỢP THÔNG TIN VỀ CÁC KHOA THI THỜI LÝ – TRẦN – HỒ

TT Khoa thi Năm DL Toàn thư Cương mục Khoa mục chí Lịch triều đăng khoa
Có ghi không / Số đỗ Có tên Có ghi không / Số đỗ Có tên Có ghi không / Số đỗ Có tên Có ghi không / Số đỗ
1 Khoa Văn học tuấn tú đời Lý Thánh Tông (1054-72) 0 0 0 + 1 (BD)
2 Thái Ninh 4 1075 + 1 + 1 + 1 + 1
3 Quảng Hựu 2 1086 + 1 + 1 + 1 + 1
4 Đại Định 13 1152 + Kt + Kt + Kt 0
5 Chính Long Bảo ứng 3 1165 + Kt 0 + Kt 0
6 Trinh Phù 10 1185 + 30 2 + 30 2 + 20 1 + 20 3
7 Thiên Tư Gia Thuỵ 8 1193 + Kt 0 + Kt 0
8 Thiên Tư Gia Thuỵ 10 1195 + Kt +Kt + Kt 0
9 Trinh Khánh 3 0 0 0 + 5 (BL)
10 Kiến Trung 3 1227 + Kt 0 + Kt 0
11 Kiến Trung 8 1232 + 5 + 5 + 1 + 5
12 Thiên ứng Chính Bình 5 1236 + Kt + Kt + Kt 0
13 Thiên ứng Chính Bình 8 1239 + 4 0 + 1 + 4
14 Thiên ứng Chính Bình 15 1246 + Kt + Kt + 44 1 + 3 (BL)
15 Thiên ứng Chính Bình 16 - Khoa THS 2-1247 + 48 3 + 48 3 + 48 1 + 40 3
16 Thiên ứng Chính Bình 16 - Khoa Tam giáo 8-1247 + 4 + 4 0 0 + 4
17 Khoa thi đời Trần Thái Tông 1225-58 0 0 0 + 1 (BD)
18 Nguyên Phong 6 1256 + 43 4 + 43 4 + 42 2 + 43 3
19 Thiệu Long 9 1266 + 47 3 0 + 47 2 + 47 3
20 Bảo Phù 2 1274 + Kt + Kt 0 + 1 (BD)
21 Bảo Phù 3 1275 + 27 2 + 27 2 + 27 1 + 24 2
22 Hưng Long 12 1304 + 44 4 + 44 4 + 44 1 + 44 6
23 Hưng Long 22 1314 + Kt + Kt + Kt 0
24 Khoa THS đời Trần Minh Tông 1314-29 0 0 0 + 2 (BD)
25 Thiệu Phong 5 1345 + Kt + Kt 0 0
26 Đại Trị 6 1363 + Kt + Kt 0 0
27 Đại Trị 7 1364 0 0 0 + 1 (BD)
28 Khoa THS năm Thiệu Khánh 1370-72 0 0 0 + 1 (BD)
29 Long Khánh 2 1374 + 4 + 50 4 + 50 1 + 50 5
30 Xương Phù 5 1381 + Kt 0 0 0
31 Xương Phù 8 1384 + 30 2 0 + 30 1 + 30 2
32 Quang Thái 6 1393 + 30 4 0 + 30 1 + 30 4
33 Quang Thái 9 1396 + Kt + Kt 0 0
34 Thánh Nguyên 1 1400 + 20 7 + 20 7 + 20 1 + 30 7
35 Khai Đại 3 1405 + 170 3 + 170 0 + 170 1 + 170 3
36 Chưa rõ khoa thi (THS cuối Trần-Hồ) 0 0 0 + 3 (BD)
489 49 432 33 572 18 528 74

Ký hiệu:

- Có ghi khoa thi: +

- Không ghi khoa thi: 0

- Có ghi khoa thi nhưng không ghi được số người và tên người đỗ... Kt

Viết tắt: Biệt lục (BL), Bổ di (BD)

N.T.N

TB

TÌM HIỂU TÁC GIẢ "TOẢN TẬP THIÊN NAM TỨ CHÍ LỘ ĐỒ THƯ" VÀ MỘT VÀI VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN

PHẠM HÂN

Đỗ Bá là tác giả của bộ Lộ đồ mang tên Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư mà nhiều người đã biết.

Thực ra, Đỗ Bá chỉ là họ chứ không phải tên tác giả. Theo gia phả dòng họ của tác giả ở thôn Cẩm Nang, xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An mới được khảo sát gần đây(1) thì tác giả có tên là “Công Luận” hay “Công Đạo”. Ông thi đậu Giám sinh rồi được bổ làm Tri huyện huyện Thạch Hà (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh). Nhưng ông không có chí làm quan. Bất bình trước họa nước ngoài quấy nhiễu biên cương, vào những năm niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) ông từ quan, giả dạng lái buôn, vượt biển vô Nam, xem xét núi sông, đường bộ, đường biển... rồi vẽ bản đồ, dâng kế Nam chinh lên chúa Trịnh. Chúa rất mừng, sai cất giữ bản đồ và giao cho ông vẽ Tứ chí lộ đồ (dưới đây gọi tắt là Lộ đồ), tức là “Bản đồ đường đi bốn ngả” của nước ta thời đó.

Qua gia phả họ Đỗ biết rằng, các tập Lộ đồ của Đỗ Bá mà nay ta còn thấy(2) đều là những bản sao Tứ chí lộ đồ mà ông thực hiện theo lệnh của chúa Trịnh.

Con người của Đỗ Bá và việc làm của ông chép trong gia phả họ Đỗ được phát hiện gần đây như trên đề cập, chứng minh năm “Chính Hòa thứ 7” (1686) đề ở trang đầu tập Toản tập An Nam l ộ trong sách Thiên hạ bản đồ (A2628) (xem Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1994) chính là niên đại của tác phẩm mà Đỗ Bá thực hiện sau chuyến vô Nam vào những năm niên hiệu Chính Hòa (1680-1705), đồng thời chứng minh Tứ chí lộ đồ tức Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư còn lưu truyền đến ngày nay là một văn kiện chính thức của quốc gia.

Tứ chí lộ đồ do Đỗ Bá soạn vẽ theo lệnh của chúa Trịnh vào thời Lê Hy Tông (1676-1705) có thể nói đây là bộ bản đồ địa lý thứ 2 của nước ta sau bộ Hồng Đức bản đ ồ được soạn vẽ theo chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) và ban hành năm 1490. Bộ bản đồ này để lại cho chúng ta những thông tin quý báu về giới hạn lãnh thổ nước Đại Việt thế kỷ XVII, trong đó có xứ Đàng Trong do chúa Nguyễn cai quản.

Nguồn thông tin có giá trị đặc biệt đối với chúng ta ngày nay là Bãi Cát Vàng thể hiện trên bản đồ cùng lời chú giải của tác giả.

Ở quyển 1, người ta thấy hình vẽ dải cát ở trong biển, có quy mô rộng lớn, ngoài khơi phủ Quảng Nghĩa, ngang với Cửa Đại Chiêm (nay là Cửa Đại) ở phía Bắc, Cửa Sa Kỳ ở phía nam với tên Nôm Bãi Cát Vàng; cùng lời chú giải như sau:

Bãi Cát vàng dài chừng 400 dặm, rộng 20 dặm ở trong biển, từ Cửa Đại Chiêm đến Cửa Quyết Mông(3). Gió Tây nam, thuyền đi bên trong trôi dạt ở đó. Gió đông bắc, thuyền đi (bên ngoài) trôi dạt ở đó, (người) chết đói, của cải bỏ lại đó. Hàng năm cuối mùa Đông, (họ Nguyễn) cho 18 chiếc thuyển đến lấy vàng bạc. Từ Cửa Đại Chiêm đến đó một ngày rưỡi. Từ Cửa Canh Sa(4) đến đó cũng một ngày rưỡi. ở đó sinh sản đồi mồi” (xem phụ lục).

Lời chú giải của tác giả chứng minh Bãi Cát vàng là quần đảo san hô ở Biển Đông. Bãi Cát vàng chỉ các đảo san hô được hình thành bằng sự tích tụ, bồi đắp lâu ngày những mảnh vụn san hô mầu vàng nhạt. Bề dài, bề rộng Bãi Cát Vàng chép ở đây cho ta một khái niệm về một quần đảo bao gồm nhiều đảo san hô có quy mô rộng lớn. Tàu thuyền trôi dạt ở Bãi Cát Vàng nói lên quần đảo san hô ở Biển Đông cực kỳ nguy hiểm đối với tàu thuyền qua lại mà Lê Quý Đôn đã chép trong Phủ Biên tạp lục(5). Bãi Cát Vàng cách “Cửa Đại Chiêm” và “Cửa Sa Kỳ” một ngày rưỡi “đường thuyền(6), chứng tỏ đây chính là quần đảo Hoàng Sa ngày nay và đội thuyền “18 chiếc” chính là “Đội Hoàng Sa” do chúa Nguyễn tổ chức chép trong Phủ biên tạp lục.

Lời chú giải tuy vắn tắt nhưng chứa đựng nội dung thông tin phong phú về vị trí, quy mô và tính chất nguy hiểm của quần đảo Hoàng Sa đối với tàu thuyền qua lại và công cuộc khai thác quần đảo này của Chúa Nguyễn đã diễn ra trước khi Đỗ Bá vô Nam và vẽ Tứ chí lộ đồ (1686).

Điều cần nêu lên là, trong các bản sao về sau, trong đó có Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư trong Hồng Đức Bản đồ đều chép lầm khoảng cách từ cửa Sa Kỳ đến Bãi Cát Vàng “Cũng một ngày rưỡi “thành” nửa ngày”. Đây là sai sót về văn bản học cần được đính chính để tránh lầm lẫn.

Hiểu rõ con người và việc làm của Đỗ Bá, đặc biệt là thời gian sống của ông, chúng ta càng thấy hết giá trị của những thông tin về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa đã được thiết lập từ nửa đầu thế kỷ XVII.

P.H

CHÚ THÍCH

(1) Đề tài khoa học lịch sử do PGS. Trần Bá Trí - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thực hiện. Thanh Mai là một trong 3 xã hiện nay thuộc xã Bích Triều ngày xưa. Thanh Chương xưa là huyện Thanh Giang.

(2) Xem bài “Tìm hiểu niên đại của Toàn tập thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của cùng tác giả, Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1994.

(3) Trên Lộ đồ là “Cửa Sa Mông”, nên hiểu như địa danh chép trên Lộ đồ, nay là cửa Sa Huỳnh.

(4) Trên bản đồ là “Cửa Sa Kỳ”, nên hiểu theo địa danh chép trên Lộ đồ.

(5) Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết “Thuyền các nước phần nhiều hư hỏng ở đảo này” (Sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ký hiệu A.184, A.1175 và VHV.1363).

(6) Theo dân chài Hải Nam (Hàn Chấn Hoa dẫn trong Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hội biên, trang (432-433) gió bình thường 1 giờ thuyền buồm đi được 5 hải lý (9,2km), gió cấp 4 một giờ thuyền buồm đi được 6 hải lý (11,1km). Như vậy, một ngày rưỡi (36 giờ) đi được từ 324 km đến 396 km. Qua đó biết được quần đảo Hoàng Sa cách bờ biển Miền trung trên 300 km.

PHỤ LỤC

Bãi cát vàng và lời chú giải trên quyển 1 Toản tập An Nam Lộ

1. Phủ Quảng Nghĩa

2. Phủ Thăng Hoa

3. Huyện Bình sơn

4. Huyện Bồng Sơn

5. Huyện Chương Nghĩa

6. Cửa Mỹ á

7. Cửa Sa Kỳ

8. Du Trường Sơn (Cù Lao Ré)

9. Cửa Đại Chiêm

10. Vịnh Hội An

11. Bãi Cát Vàng

TB

ĐI TÌM DỊ BẢN CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH "SỰ TÍCH ĐỀN CỜN"

MAI XUÂN HẢI

Trong sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, ở mục truyện “Đền ơn trả oán” có truyện Sự tích đền Cờn (1). Theo sách này, nội dung truyện có thể tóm tắt như sau: Ngày xưa, ở một nước láng giềng có một ông vua tên là Đế Bính. Vua lên ngôi giữa lúc giặc vào cướp nước. Vua tôi bị thua phải chạy ra biển, rồi gặp bão, thuyền đắm, mọi người đều bị chết đuối. Hoàng hậu và hai người con gái bíu được vào một mảnh ván trôi dạt vào một hòn đảo ở vùng cửa biển Cờn, xứ Nghệ An. Sau đó họ được sư ông trụ trì ở ngôi chùa cổ trên đảo rủ lòng từ bi cứu vớt mang về chùa chăm sóc. Khi sức khỏe hồi phục, sư ông thấy hậu xinh đẹp, đem lòng yêu. Tính hơn ba mươi năm tu luyện cũng không kìm giữ được lòng ham muốn, một đêm sư lẻn đến chỗ hậu đòi được tư thông. Nhưng nàng một mực cự tuyệt, cho dù sư ông đã cầm dao dọa giết nàng, nếu nàng không chịu. Một mặt nàng giảng giải luân thường đạo lý, một mặt doạ sẽ đập đầu vào cột chùa tự tử, nếu sư ông chạm tới người nàng. Sau đó, sư ông tỉnh ngộ hối hận, tự đâm dao vào cổ tự vẫn. Thấy vậy, nàng phục xuống bên cái thây than khóc: “Ta nhờ có sư ông mà được sống, nay sư ông lại vì ta mà phải chết, vậy ta còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa”. Rồi nàng nhảy xuống biển tự tử. Thấy mẹ chết hai cô con gái cũng nhảy xuống biển tự chết theo. Mấy ngày sau, dân chài ở cửa Cờn vớt được xác đem chôn cất. Về sau để kỷ niệm những người đàn bà tiết liệt ấy, dân làng đã tạc tượng lập đền thờ ba mẹ con gọi là đền Cờn. Trong đền còn có cả tượng nhà sư, để nhắc đến kẻ vừa là ân nhân vừa là nạn nhân của họ.

Phần chú thích cuối truyện, tác giả Nguyễn Đổng Chi cho chúng ta biết là “theo lời kể của người Nghệ An, thần tích xã Lý Trại, và Lê Hữu Trác - Thượng kinh ký sự”.

Từ lâu truyện này, đối với chúng ta cũng khá quen thuộc. Ngoài kho tàng truyện cổ tích Việt Nam ra, trong một vài ấn phẩm tiếng Việt khác cũng đã nhắc tới như trong Lịch triều hiến chương loại chí(2), Đại Nam nhất thống chí(3), Việt điện u linh(4), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam(5)... Vua Lê Thánh Tông ngày xưa nam chinh, khi nghỉ lại ở cửa biển Càn đã làm bài thơ Càn hải môn lữ thi(6) trong đó có nhắc tới ngôi đền Thánh nữ thờ ba mẹ con bà hoàng hậu trên:

Phong đào cửu tỉnh Anh Tông mộng,
Hương hỏa do khâm Thánh Nữ từ.

Nghĩa là:

Sóng cuồng tỉnh mộng Anh Tông,
Ngôi đền Thánh Nữ vẫn nồng khói hương.
(Ngô Linh Ngọc dịch)

Đây là một truyện cổ tích khá cảm động. Về phần ba mẹ con, họ đều là những đàn bà quý tộc, là hoàng hậu, công chúa, được giáo dục đầy đủ, thấm nhuần đạo đức của người phụ nữ theo giáo lý Khổng Mạnh. Vì vậy, trong hoàn cảnh tuyệt vọng dù cầu Phật cũng khó mà thoát được ấy, để giữ gìn phẩm giá và đức hạnh, nàng đã một mực cự tuyệt nhà sư, cho dù người đó có là ân nhân của mình. Khi nhà sư tự tử, nàng cũng hết sức hối hận, tự trách và tự xét mình một cách nghiêm khắc. Trong con mắt mọi người, nàng xử sự như vậy, thực tỏ ra là con người thánh thiện, xứng đáng được Thượng đế phong là thần, được mọi người thờ phụng. Sách Việt điện u linh (A.751, tờ 77a, b), cũng đã trộm bàn về nàng rằng: “Đương khi vua thì đã chết, núi sông đắm chìm, thân như cánh bèo trôi dạt, phải nương nhờ vào nơi tịnh cảnh của nhà sư. Cứu sống mình đó là ơn của nhà sư. Đòi thư thông với mình đó là tội của nhà sư. Nhờ người mà được sống, nên không nỡ để người chịu chết riêng một mình. Cái chí ấy của phu nhân cũng đáng thương lắm thay! Cái chí u phẫn ấy đã làm gió mưa phải kêu, ba đào phải khóc. Tấm lòng trinh liệt ấy cảm thông cả đá vàng, quán thông khắp vũ trụ. Một mái chèo lúc cực nguy nan, mà được nêu gương chiêm ngưỡng. Linh thiêng tỏ rõ, cầu cúng độ trì, cửa biển đền thiêng, anh thanh rực rỡ...”. Về phần nhà sư, theo truyện trên, ông là người đã quyết chí tu hành hơn ba mươi năm, ở ngoài đảo hoang xa cách cõi tục. Như thế cũng đáng khâm phục lắm. Thế mà vừa mới đứng trước người đàn bà xinh đẹp đã không cầm lòng đặng. Không làm chủ được mình, dẫn tới hành động dọa giết, cưỡng bức, thì thật đáng chê trách. (Và qua đó cũng thấy luật âm dương của Tạo hóa thật khó cưỡng nổi thay!). Tuy vậy, nhà sư sau đó đã hối hận, và tự nghiêm khắc xét xử mình. Vậy là “Phật tính” trong nhà sư có lúc bị vật dục che lấp, nhưng sau đó đã biết làm sáng trong trở lại. Cả hai tuy một đời một đạo khác nhau, thế mà người đời thì biết xử sự đúng đạo, còn người đạo, có lúc lại mắc tội lỗi rất đời. Nhưng chỗ giống nhau ở họ là đều biết “phản tỉnh”, biết tự xét mình nghiêm khắc, biết quý trọng danh dự, phẩm giá hơn cả tính mệnh của mình. Đó là điều làm xúc động chúng ta.

Nhưng trong truyện côt tích trên, bà hoàng hậu “một điều là một vận vào”, rằng “vì mình mà nhà sư phải chết”, rồi tự xét xử mình bằng cái chết, thì có là “cực đoan” lắm không? Trong hoàn cảnh ấy, đâu phải hoàn toàn là lỗi ở nàng. Nếu nhà sư chưa tẩy hết “tam độc” trong mình, thì giả sử không gặp nàng, mà gặp người con gái khác, chắc cũng dễ hành động bạo liệt như vậy lắm. Nàng tìm đến cái chết, phải chăng chỉ là vì “nghĩa nhỏ” ân oán cá nhân, được đẩy tới thái quá trong lúc xúc động bột phát dẫn đến ? Có thể lấy lời Khổng Tử trong sách Trung dung là “hiền giả quá chi, bất tiếu giả bất cập dã” (người hiền thì thái quá, còn kẻ bất tiếu lại bất cập), hoặc “trí giả quá chi, ngu giả bất cập dã” (người trí thì thái quá, còn kẻ ngu lại bất cập) để giải thích hành động của nàng được chăng? Phải chăng đó là thông bệnh của người tốt ? luôn luôn nghiêm khắc với chính mình ? Về phía nhà sư, đành rằng ở đời mọi sự đều có thể xẩy ra, nhưng với một nhà sư, mà trong truyện trên nói rằng đã “sớm tối niệm Phật, dốc chí tu hành suốt ba mươi năm ở ngoài đảo hoang”, sao lại dễ dàng phạm tội đến như vậy ? Cứ như trong truyện, thì trên đời này, liệu còn có cái gì trọn vẹn thánh thiện để ta hướng tới được không, khi mà có bậc cao nhân đã chuyên nhất “kiếm củi suốt ba mươi năm” rồi chỉ dễ dàng “thiêu trong có một phút” như hình ảnh nhà sư trong truyện này.

Thành thực đọc xong truyện cổ tích này, tôi cứ băn khoăn suy nghĩ như trên, và có ý định để tìm và khảo sát những dị bản của truyện này, ngõ hầu mong tìm được những tình tiết nào khác hơn về ba mẹ con bà hoàng hậu và nhà sư như trong truyện trên không.

Đúng như một câu nói trong Kinh Thánh “Hãy gõ cửa đi rồi cửa sẽ mở; hãy tìm đi rồi người sẽ gặp”. Chắc chắn là còn nữa, là chưa hết, nhưng cho đến nay, chúng tôi đã đi tìm và khảo sát chừng ba chục văn bản Hán Nôm khác nhau ở trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một văn bản là thần tích thôn Vo Trung, xã Nông Vụ, huyện Gia lâm không có trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm viết về “Sự tích đền Cờn” này(7). Đó là những dị bản hiểu theo cả hai nghĩa: vừa với nghĩa là thuật ngữ văn bản học, vừa với nghĩa là những dị bản ấy có rất nhiều điểm khác nhau về tình tiết của câu chuyện nữa.

Chúng tôi tạm chia những dị bản này thành 3 nhóm.

Nhóm 1: là những sách “dư địa chí” toàn quốc và địa phương, mà khi nói về cửa bể Càn ở Nghệ An đều nhắc tới câu chuyện này.

Đó là chừng 10 dị bản mà các tác giả Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam (8) đã mách bảo giúp, như: Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt dư địa chí, Đồng Khánh địa dư chí, An Nam hình thắng đồ, Các tỉnh địa dư chí, Nghệ An Hà Tĩnh sơn thủy lục v.v... Mà về cốt truyện “Cửa bể Càn” thường sơ lược, đơn giản, chỉ nhắc tới ngôi đền thờ ba, hoặc bốn mẹ con bà hoàng hậu nhà Tống nhảy xuống biển tự tử, xác trôi đến cửa biển Cờn, nhan sắc tươi như lúc sống, được dân địa phương chôn cất, thờ phụng, trở thành ngôi đền linh thiêng. Hoặc chép thêm về chuyện nhà sư đòi tư thông, bị hậu cự tuyệt, rồi xấu hổ nhảy xuống biển tự tử, giống như truyện Sự tích đền Cờn trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi.

Nhóm 2: Là những sách Hán Nôm thuộc loại truyền kỳ: Đó là các bản Việt điện u linh (A.751), Lĩnh Nam chích quá i (A.207, A.750), Thiên Nam vân lục (A.1442), Tứ vị Vương Bà sự tích văn... (AB.394). Khi tìm hiểu những dị bản thuộc loại này, chúng tôi cũng thấy hình ảnh nhà sư được miêu tả giống như một số dị bản thuộc nhóm 1 ở trên. Duy bản Tứ vị Vương Bà sự tích văn, là một văn bản Nôm miêu tả sự tích của “Tứ vị Vương Bà” bằng thể thơ Nôm song thất lục bát, ca ngợi bốn bà tự tử là vì nguyên nhân nước mất nhà tan, thề không cùng chung sống với giặc Nguyên xâm lược, chứ không phải chuyện ân oán riêng với nhà sư:

“Khiết thân duy hải trung thiên,
Đã thề rằng chẳng cùng Nguyên đội trời”.

Sau đó bốn bà được Phật độ:

“Độ bốn vị đều nên thần phúc
Hóa chân thân bốn khúc trầm hương...”

Có điều là, bản này không nhắc gì tới nhà sư cả.

Đến đây công việc đi tìm trong số dị bản câu chuyện Sự tích đền Cờn để hy vọng tìm được dị bản nào, có tình tiết nào miêu tả nhà sư khác hơn không, đặng minh oan cho nhà sư chăng, có thể coi như không kết quả, chúng tôi bèn hướng vào khảo sát trong kho tàng thần tích Việt Nam. Và cho rằng đây mới là hướng chính cần tìm hiểu. Hiện chúng tôi đã khảo sát 14 dị bản và xếp số dị bản loại thần tích này vào một nhóm, và gọi là “nhóm 3”. Đó là:

Bản 1: Thần tích xã Yên Mô Càn tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, AE a4/41 (tờ 1a-3a).

Bản 2: Thần tích xã Bình Hòa, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, AE a4/40 (tờ 2a-2b).

Bản 3: Thần tích xã Thổ Mật, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, AE a4/39 (tờ 1a-2a).

Bản 4: Thần tích xã Phú Khê, tổng Phú Khê, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An, AE a12/21 (tờ 1a-7a).

Bản 5: Thần tích khu Hạ thôn Hàm Thủy, xã Cống Thủy, tổng yên Ninh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, AE a4/30 (tờ 1a-3a).

Bản 6: Thần tích xã Phương Nại, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, AE a4/40 (tờ 1a-3a).

Bản 7: Thần tích thôn Yên Lãng, xã Hảo Hợp, tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, AE b1/3 (tờ 4a-6a).

Bản 8: Thần tích áng Lương Phúc, thôn Giáp Nhất, tổng Bồng Hải, huyên Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, AE. a4/22 (tờ 1a-11b).

Bản 9: Thần tích trại Ninh Mật, huyện Kim Sơn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, AE a4/20 (tờ 1a-3b).

Bản 10: Thần tích xã Trì Đồng, tổng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, AE a4/12 (tờ 1a-2a).

Bản 11: Thần tích xã Trung Kiên, tổng La Vân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, AE b1/4 (tờ 1a-4b).

Bản 12: Thần tích xã Cơ Xá, huyện Hoàng Long(9), AE a2/16 (tờ 8b-15b).

Bản 13: Ngọc phả lục (Giáo Dục xã phụng sự), VHv.1231 (tờ 1a-2b).

Bản 14: Thần tích thôn Vo Trung xã Nông Vụ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Bản này hiện đang lưu giữ ở địa phương, không có trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Con số này chưa phải đã là chấm hết, đã là cuối cùng. Vì ở bản 5 (AE a4/30) và bản 9 (AE a4/20) đều cho biết rằng “cả nước có tới 1964 ngôi miếu” thờ bốn vị Thánh nương này. Có lẽ nếu đúng như vậy thì đây là những vị thần được thờ phụng nhiều nhất ở Việt Nam. Vậy thì con số 14 dị bản thần tích mà chúng tôi khảo sát trên đây là có thấm tháp gì. Nhưng vì mới chừng ấy hiểu trong số những dị bản thần tích này, chúng tôi đã tìm thấy những điều mong muốn, nên chúng tôi tạm dừng lại. Bây giờ, sau khi đã khảo sát số dị bản trong ba nhóm văn bản Hán Nôm trên, nhất là những văn bản trong “Nhóm 3”, chúng tôi xin trình bầy những điều khác biệt ở trong đó như sau:

1- Không có văn bản nào nói chi tiết rằng nhà sư đã tu hành “suốt ba mươi năm”, cũng không có chi tiết là “nhà sư cầm dao dọa giết” và “đâm cổ tự tử” (mà là nhẩy xuống biển tự tử) như là trong truyện Nguyễn Đổng Chi.

2- Một số bản nói là “ba vị” (một mẹ hai con gái). Nhưng phần nhiều nói là “bốn vị” gồm ba mẹ con và một nàng hầu của hai người con gái. Đầu đề của những điều thần tích này thường là: Tứ vị thánh mẫu tôn thần, Đại Càn quốc gia Nam hải tứ vị Thượng đẳng thần (hoặc... Tứ vị công thần... Tứ vị thánh mẫu tôn thần,... Tứ vị Thánh nương phả lục), Càn hải Triệu phu nhân phả, Càn hải thần truyện v.v...

3- Một số bản nói là hoàng hậu nhà Tống này tên là Hương Liên, họ Dương, người Trung Quốc, phường Phúc Quang, Mân Châu. Hai người con gái tên là Nguyệt Thai và Nguyệt Độ (bản 4). Một số bản thì nói: hoàng hậu là người xã Hương Cát, cửa Đại Càn thuộc Hoan Châu nước Việt ta, bố là Triệu Công Bình và mẹ là Dương Thị Phấn. Hai người con gái tên là Hồng Liên công chúa và Hồng Hạnh công chúa. Nàng thị nữ cũng là người Việt (bản 12, bản 14).

4- Về tên nhà sư, có bản cho biết ông tên là Đạo Chân (bản 6), hoặc Chân Đạo (bản 7).

5- Về địa danh, nhiều bản chép khác nhau, xuất nhập trong các tên như: Càn Hải môn Hương Cần, Hương Cát, Ngải Hương, Cát Hương, Cồn Hương, Nhãn Sơn, Nhai Sơn, Na Sơn v.v...

6- Về tình tiết câu chuyện, ngoài những bản chép chuyện nhà sư có hành động xấu “lòng thiền chẳng phải là đá, lửa dục bốc cao” (thiền tâm phỉ thạch, dục hỏa thích hồng), hoặc “máy thiền dễ động, bể ái dần sinh” (thiền cơ dị động, ái hải tiệm sinh), rồi đi tới chuyện đòi tư thông, như các bản 6, 7, 8, 9, 13... ra, một vài bản khác lại có tình tiết khác hẳn. Như: bản 11 thì chép rằng: sau khi hậu bị sóng gió lật thuyền, dạt vào núi Nhãn Sơn ở biển Nam (Nam Hải), lên bờ, gặp sư ông ra tiếp; Nhưng hậu trong lòng canh cánh, không muốn lưu lại, và than rằng; “Sở dĩ người chưa chết, vượt nghìn vạn dặm muôn trùng tới đây là muốn bảo tồn họ Triệu (nhà Tống), chứ đâu phải là chuyện của riêng bản thân mình ! Nay ở nơi tha hương đất khách, việc khôi phục [xã tắc] thật khó khăn, chỉ còn cách gửi thân trong con sóng, chứ sống nào có ích gì!” Đoạn dắt tay hai người con gái nhẩy xuống biển tự tử. Còn nhà sư thấy vậy, cũng buồn rầu than rằng: “Nàng không phải là hạng phàm trần, không biết từ đâu tới mà lại thoắt bỏ đi như vậy, thì chẳng phải là tại ta gây ra sao? Than ôi, ta chẳng thể cứu vớt được người, mà lại dẫn tới chuyện chết người, thì e rằng ta cũng sẽ rơi vào vòng nghiệp chướng mất. Nói xong, cũng nhẩy xuống biển tự tử”. Như vậy, ở dị bản này, bản án đã được lật ngược lại: ba mẹ con bà hoàng hậu tự tử trước, sư ông tự tử sau. Ba mẹ con tự tử vì “nghĩa cả”, nước mất nhà tan, thân gái có sống cũng vô ích. Sư ông tự tử vì ý nghĩa quá ư thánh thiện, cho rằng mình không có “duyên” cứu sống được người, tức là đã gián tiếp gây ra cái chết cho họ. Phần sau dị bản này còn nói: “Từ đó, âm hồn họ linh dị, nhập vào khúc gỗ trầm hương, trôi dạt tới các cửa biển linh khí nghi ngút như cái tán, dân đánh cá thấy lạ, vớt lên thờ, từ đó trở đi đánh được rất nhiều cá...”

Bản 12, bản 14, quanh tình tiết này lại được chép khác rằng: Khi biết ba mẹ con và nàng thị nữ gặp nạn, thì “nhà sư thương tình, vội sai chú tiểu sửa soạn cơm chay thết đãi, rồi cho sống ở trong chùa vài tháng”. Khi biết tin họ đã vì nước quên thân, nhẩy xuống biển tự tử, thì nhà sư nghe tin cả kinh, vội sai người đến cứu. Nhưng đến nơi thì không thấy đâu nữa. Nhà sư than thở mãi không thôi, liền lập một đàn tràng trai giới bên bờ biển, làm lễ chiêu hồn cho họ. Sau đó, nhà sư lại dựng một ngôi miếu nhỏ bên cạnh chùa hương khói phụng thờ”. Về phần hoàng hậu, những dị bản cho chúng ta biết nàng tự tử vì “nghĩa cả” vì nước mất nhà tan. Đó là: sau khi được tin nước đã mất, chồng (Đế Bính) đã chết, nàng than thở với hai người con gái: “Sống vì việc nước, sống đó vẻ vang. Chết vì nạn nước, chết đó như như sống. Vả lại sống mà không báo thù được cho nước, thì thà chết mà được tiếng thơm, chứ nuối tiếc tuổi thanh xuân mà làm gì!” Rõ ràng nhân vật trong hai văn bản này, kể cả hạng tại gia hay xuất gia, họ đều là những người khả ái, đáng kính, tại gia thì có tinh thần trách nhiệm cao trước cộng đồng, xuất gia thì từ bi cứu khổ độ tử độ sinh. Họ có nhân cách, phẩm giá cao đẹp, xứng đáng được thờ phụng.

Viết đến nay, nẩy ra một vấn đề, bốn vị nữ thần này là “âm thần, thuỷ thần” được thờ ở các cửa biển, các vùng ven biển là đương nhiên và dễ hiểu. Nhưng ở các vùng sâu trong nội địa như xã Cơ Xá, xã Nông Vụ huyện Gia Lâm cũng thờ là cớ sao? Đó là lý do thế này, cũng ý nghĩa lắm, như thần tích xã Cơ Xá (AE a2/16) cho biết: Bấy giờ vào thời Hồng Đức, có một người lính tên là Lê Viết Thọ ở trang An Thuận, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, xứ Sơn Nam Thượng theo vua Thánh Tông nam chinh. Khi nhà vua đóng quân ở cửa biển Đại Càn làm lễ cầu ở đền Quốc Mẫu linh từ (tức đền thờ bà hoàng hậu cùng hai nàng công chúa và nàng thị nữ trên), Thọ cũng ngầm khấn rằng: “Vạn lạy thần linh phù hộ, sau khi đánh tan giặc thân được vẹn toàn, thì xin được rước thần hiệu về bản xã, lập miếu phụng thờ”. Một lần, ông Thọ bị vây hãm trong trận, tỳ tướng giặc là Thuần cắp ngang giáo, phi ngựa tới định bắt sống ông Thọ. Ông Thọ hô to: “Hải khẩu linh thần không thể cứu ta sao? Nỡ để Thọ tôi bị hãm chết ở đây thế này!”. Nói vừa dứt lời, quay lại thấy ngọn giáo của Thuần đã gần kề, Thọ biết khó thoát. Ai ngờ huyền diệu tối linh, đảo cầu tất ứng, bỗng thấy một nữ tướng mình cưỡi ngựa hồng, tay cầm màu vàng, hét vang một tiếng: “Ngựa ta đã tới, Phạm Thuần hãy dừng lại!”. Rồi thấy Thuần ngã ngựa mà chết. Ông Thọ quay lại chém đầu mang nộp dưới cờ, lại quay lại chém được 6 viên tùy tướng nữa. Khi thắng trận luận công, ông Thọ được phong chức Lang trung, ban thưởng rất hậu. Ông Thọ dâng biểu tâu hết mọi chuyện, xin vua được rước thần hiệu bốn vị Vương Bà về bản xã lập miếu phụng thờ. Nhà vua bằng lòng, còn ban cho 600 quan tiền kẽm để giúp vào việc trông nom thờ cúng, để thần hiệu là “Quốc mẫu Hoàng bà Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh nương”.

Thế là đã rõ. Có thể xã Nông Vụ hoặc nhiều nơi khác trong nội địa thờ Tứ vị Thánh nương này cũng có lý do tương tự.

Hoặc như thần phả xã Phú Khê, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An (AE a12/21) lại cho biết một lý do khác nữa là: “Bấy giờ vào cuối thời nhà Tống, có người Tầu họ Hoàng tên Thiện, gia thế làm nghề địa lý, tránh loạn sang nước Nam, ngụ cư ở xã Cần Hương, Hoan Châu. Thiện sinh ra Khánh, Khánh sinh ra Trung, Trung sinh ra Cần là 4 đời. Cần thích phong thủy, thường đi xem cảnh khắp nơi. Một hôm đến xã Hoài Vân, huyện Tân Minh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương thấy phong cảnh đẹp, nói với dân xã lập đền thờ phụng bốn vị Thánh nương thì rất tốt. Dân xã nghe theo, bèn rước Thần hiệu về thờ”.

Nói tóm lại, ở bài này, chúng tôi đã khảo sát chừng ba chục dị bản về truyện cổ tích “Sự tích đền Cờn”. Qua đó, thấy có nhiều điểm khác nhau, từ địa danh, nhân danh, quốc tịch, cho tới tình tiết câu chuyện. Từ trước tới nay, chúng ta đã quen với câu tình tiết như trong truyện “Sự tích đền Cờn” trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.

Nay chúng tôi xin cung cấp thêm những dị bản với những tình tiết khác. Đương nhiên, mỗi loại dị bản, một loại tình tiết đều có những cái hay riêng, có ý nghĩa giáo dục riêng của nó. Có điều là nội dung như dị bản 12, 13, 14 thuộc Nhóm 3 chưa được công bố bao giờ, sau đây chúng tôi xin dịch nguyên văn dị bản 14 là Thần phả xã Nông Vụ, huyện Gia Lâm để bạn đọc tham khảo(10).

Ghi chép về ngọc phả của bốn vị Thánh nương ở cửa biển Càn thuộc biển Nam nước ta.

(Thuộc chi Khảm, bộ thứ hai, Thượng đẳng thần, thủy thần, âm thần(11). Đây là bản chính của Bộ Lễ quốc triều).

Xưa, nước Việt ta, nhà Hùng Vương sáng nghiệp, nối truyền được 18 đời vua thì bị mất về An Dương Vương. An Dương Vương làm vua được 50 năm thì bị Triệu Đà lấy mất nước. Nhà Triệu năm đời làm vua, sau đó nước Việt ta bị nội thuộc nhà Hán. Trải các đời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương gồm hơn 300 năm. Đến nhà Tiền Lý, Hậu Lý, lại bị lệ thuộc nhà Tùy, Đường. Nam Bắc phân tranh, Ngô Vương dựng nước. Đến đây, nước Nam trải các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần... ấy là do Ngô Vương là bậc vua sáng xuất hiện ở đời, nên nước nhà liên tiếp được hưng thịnh vậy.

Bấy giờ vào thời nhà Trần, sớm ứng với vận hội Đông A, quyền hành kế nối... Vào thời vua Trần Thái Tông trị vì, ứng với năm thứ 5 đời vua Lý Tông nhà Nam Tống ở Trung Quốc, vua Nguyên Thế Tổ là Hốt Tất Liệt đem quân đánh Tống. Năm ấy, vua Lý Tông mất. Vua Độ Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Hàm Thuần. Truyền đến đời vua Cung Tông, Đoan Tông, đến đời Tường Hưng của vua Đế Bính là gồm 99 năm, Nguyên và Tống đánh nhau, chưa phân thắng bại.

Đến đời vua Thế Tổ Hốt Tất Liệt cầu viện lân quốc giúp đỡ, đem 36 vạn quân đến đánh Tống. Nhà Tống rất nguy.

Trước đó, ở nước Việt ta, vua Thái Tông hoàng đế mở tiệc chiêu đãi các quan ở cung điện. Hôm ấy là ngày 25 tháng 10, bỗng thấy trên trời có một ngôi sao to, như hình dải lụa, từ trên trời sa xuống, rồi có đến hơn trăm ngôi sao nhỏ cũng rớt xuống theo. Nhà vua lấy làm lạ, nói với các quan rằng: “Đó là điềm nhà Tống sắp mất đấy”.

Đến tháng 11, hai quân Nguyên Tống đánh nhau, quân Tống thua to, vua Tống là Đế Bình cùng thừa tướng Lục Tú Phu đều bị hãm trong trận. Bấy giờ hoàng hậu ...

Xét: Hoàng hậu vốn là người xã Hương Cát, cửa biển Đại Càn thuộc Hoan Châu nước ta. Bà là con gái ông Triệu Công Bình, lấy người trong xã là Dương Thị Phấn làm vợ. Ông bà là người thường hay giúp đỡ mọi người, thật xứng đáng là một nhà tích thiện, ắt có thừa phúc. Mấy năm gần đây, bà thường mơ thấy mình nuốt mặt trăng vào bụng, rồi từ đó có mang. Đến kỳ mãn nguyệt là ngày 1 tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Thân, lúc vợ chồng đang ngồi quăng lưới đánh cá ở cửa biển Càn thì bà Dương thị lâm bồn, sinh hạ được một người con gái ở ngay trong thuyền, nên nhân đó mà đặt tên là Càn Nương (nàng Càn).

Đến khi trưởng thành, mày như lá liễu, má tựa hoa đào, thật là một trang mĩ nữ nghiêng nước nghiêng thành. Khi ấy mối bướm mai ong đầy nhà rộn rã, nhưng nàng vẫn cung thiềm khóa kín, nhụy ngọc còn phong, túc khế lương duyên, giai kỳ chưa định, bài thờ Đào yêu(12) vẫn chưa được cất tiếng ngân lên vậy.

Khi ấy, vua Đoan Tông thường hay xa giá đi chu du ở phương Nam, đến cửa biển Đại Càn, thuộc Hoan Châu nước ta, thấy nàng có nhan sắc thì đem lòng yêu mến, đem về cung để gả cho Đế Bính kết duyên Châu Trần. Khi vua Đoan Tông mất, Đế Bính lên nối ngôi bèn lập nàng làm hoàng hậu.

Khi mới về, hậu mơ thấy một cụ già ban cho một cành hoa, nở ra hai bông, một bông như đoá hồng liên, một bông như đóa hồng hạnh, nàng vui mừng nhận lấy. Khi tỉnh dậy, hậu thưa chuyện ấy với Đế Bính. Đế Bính cười mà rằng: “Hoa nở hai bông đó là điềm sinh đôi hai con gái đấy”. Từ đó hậu có mang, vào ngày rằm tháng 8 mùa thu năm Canh Dần, sinh hạ được một bọc, nở ra hai người con gái. Cả hai đều xinh đẹp như bông hoa nở, nhan sắc như mặt trời hồng, được cha mẹ vô cùng yêu dấu, nhân cảm điềm lành trong mộng mà đặt tên là Hồng Liên công chúa và Hồng Hạnh công chúa.

Đến năm hai nàng 13 tuổi, cha mẹ lại ban cho hai công chúa một nàng thị nữ...

Xét: Nàng thị nữ cũng vốn là người châu ấy. Cha là Vương Công Trứ, mẹ là Hoàng Thị Hinh, sinh nàng vào ngày rằm tháng 8 năm Kỷ Sửu. Đến khi trưởng thành mặt mũi xinh tươi, nhan sắc diễm lệ. Nhưng nàng không chịu lấy chồng, được thiên vương tiến vào triều, hoàng hậu yêu mến, nạp vào cung làm thị nữ, cho ở cùng với hai công chúa.

Lại nói chuyện bấy giờ hoàng hậu, hai công chúa và thị nữ cùng xuống một chiếc thuyền con, trốn về phương Nam, men theo bờ biển đến nước ta. Bỗng một trận cuồng phong nổi lên, sóng gió cuồn cuộn, chiếc thuyền con bị đắm. Nhưng quả thật, người nào làm việc thiện thì trời tất sẽ báo đáp cho. Bấy giờ hoàng hậu, hai công chúa, cùng nàng thị nữ được một chiếc thuyền cưỡi trên sóng gió đưa đi, một lát sau thuyền dạt vào tới bờ biển. Bốn người xa trông, thấy một ngôi chùa cổ ẩn trong lùm cây xanh tốt, bèn nắm tay nhau dắt tới cửa chùa, rồi bước đến trước mặt nhà sư, chân tình kể hết đầu đuôi uẩn khúc. Nhà sư thương tình, vội sai chú tiểu sửa soạn cơm chay thết đãi, lưu ở chùa vài tháng.

Được ít lâu sau, hậu nghe tin Đế Bính cùng thừa tướng Lục Tú Phu đều nhảy xuống biển tự tử, các quan văn võ và các quân sĩ chết theo cũng đến vài trăm người, hậu cả kinh, nói với hai công chúa và thị nữ rằng: “Sống vì việc nước, sống đó vẻ vang. Chết vì nạn nước, chết đó như sống. Vả lại, sống không báo thù được cho nước, thì thà chết mà được tiếng thơm, chứ nuối tiếc tuổi thanh xuân mà làm gì!” Hai công chúa và nàng thị nữ cũng khóc nói: “Hơn 10 năm làm cung nhân của đại đế nơi cung vàng điện ngọc, kiếp phù sinh như thế cũng đã đủ vinh hoa rồi. Nay thà chết mà được bên nhau, còn hơn sống mà phải xa nhau vậy”. Nói xong, bốn người cúi lạy nhà sư, đoạn đi ra cửa biển, rồi nhảy cả xuống biển tự tử (hôm ấy là ngày 24 tháng 12).

Nhà sư nghe tin cả kinh, vội sai người đi cứu, nhưng đến nơi thì không thấy đâu nữa. Nhà sư than thở mãi không thôi, liền lập một đàn tràng trai giới bên bờ biển, làm lễ chiêu hồn cho họ. Sau đó, nhà sư dựng lại ngôi miếu nhỏ bên cạnh chùa, hương khói phụng thờ.

Lại nói chuyện hoàng hậu, hai công chúa và nàng thị nữ nhảy xuống biển tự tử được ba ngày, sóng gió lại đưa xác về nơi cửa biển Đại Càn. Bấy giờ nhân dân xã Hương Cát đột nhiên bị bệnh dịch hoành hành, chó cắn suốt đêm, không ai ngủ được.

Đêm ấy, mọi người làm lễ cầu đảo trời đất. Đến nửa đêm thì các bậc phụ lão đều mơ thấy một người mình mặc áo đỏ, tay cầm cây cờ đỏ, từ phương Tây đi tới tự xưng là Thiên sứ, tuyên triệu nhân dân đến mà bảo rằng: “Nay có ba mẹ con hoàng hậu nhà Tống và một người thị nữ, họ đều là những bậc tận trung chết vì chính nghĩa, được Thượng đế ban sắc phong cho làm thuỷ thần, cai quản cửa biển Đại Càn, được hưởng lộc ở địa phương ta. Mọi người hãy mau mau ra cửa biển, làm lễ mai táng, nếu không Hoàng thiên trừng phạt, bệnh dịch lan tràn. Mọi người sẽ không tránh khỏi tai hoạ đâu!”. Mọi người giật mình tỉnh dậy, hôm sau xúm cả lại kể cho nhau nghe chuyện giống nhau y hệt về giấc mộng đêm qua, rồi sai người ra bờ biển do thám xem sao. Quả nhiên thấy có bốn xác người chết nổi trên mặt biển, mặt mũi hồng hào như sống. Những người do thám trở về kể hết mọi sự, mọi người bèn làm lễ rồi ra cửa biển vớt các xác chết lên, và ngay hôm đó, chôn cất ở bên bờ biển (thuộc địa phận xã Hương Cát).

Xong xuôi, nhân dân lại dựng một ngôi miếu nhỏ ngay trên lăng mộ, viết bài vị là “Tứ vị Vương bà” (bốn vị Vương bà), rồi tuế thời thờ phụng. Phàm ai có bệnh, đến đây cầu cúng thì khỏi ngay. Thuyền buôn qua lại cầu cúng đều linh nghiệm. Họ dâng nhiều vàng bạc, phẩm vật để lễ tạ.

Trải đến đời vua Trần Anh Tông Hoàng Đế, nhà vua thân chinh cử binh đi đánh Chiêm Thành. Hôm ấy nắng xuân trong sáng, khí trời mát mẻ, buồm gấm căng phồng gió dương liễu, thuyền rồng lướt trên sóng đào hoa, tiến thẳng đến cửa biển Đại Càn, Hoan Châu. Bỗng nhiên mặt biển nổi sóng gió cuồn cuộn, quân sĩ không sao tiến lên được. Nhà vua phải neo thuyền ở đây, rồi đến nửa đêm mộng thấy người phụ nữ mặc áo tinh hồng, đeo xuyến lưu li, theo sau là ba thiếu nữ, mình mặc giáp vàng, tay cầm mâu vàng, bước tới mặt nhà vua chắp tay thưa rằng “Thiếp là hoàng hậu nhà Tống, ba mẹ con và một nàng thị nữ đều bị sóng gió bức hại, Thượng đế thương tình vô tội, phong làm thủy thần cửa biển này. Nay biết tin điện hạ nam chinh, bọn thiếp xin được đi theo điện hạ đánh giặc. Sau này đất nước thanh bình, cúi xin được ban sắc chỉ để biểu dương sự linh nghiệm”. Vừa dứt lời thì nhà vua tỉnh dậy. Hôm sau nhà vua cho triệu nhân dân vùng này đến hỏi. Mọi người kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, nhà vua thân hành đến đền cầu cúng, rồi cất quân thẳng tiến. Đầu thuyền nổi chiêng trống, nghìn dặm vang xa như chớp giật sấm ran; Dọc đường cắm tinh kỳ, hai bờ phấp phới tựa long xà vùng vẫy. Quân vua tới nơi, khác nào từ trên trời rơi xuống, thế mạnh tựa sóng lật gió rung; uy thanh như cành khô lá trút. Đánh lớn một trận, quân Chiêm thua to, bị ta phá thành chém chúa. quân ta thắng trận về tới cửa biển Càn. Nhà vua truyền cho quân sĩ và nhân dân xây dựng toà miếu vũ nguy nga, đắp cao lăng mộ, mở tiệc khánh hạ, ban sắc phong là “Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương”, lại ban cho nhân dân ba trăm quan tiền kẽm để dùng vào việc gìn giữ bảo vệ ngôi đền. Từ đó quốc đảo dân cầu, vô cùng linh ứng.

Đến cuối đời Trần, họ Hồ tranh quyền, người Minh gây loạn. Kính nghĩ đức Thái Tổ Cao Hoàng đế quốc triều ta chỉ với 3000 quân hổ lữ, trừ được họ Hồ, dẹp tan giặc Minh, lên ngôi hoàng đế ở Lam Sơn, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Trải đến đời vua Thánh Tông Thuần Hoàng đế, giặc Chiêm không phục, nhà vua tự thân là tướng thân chinh, binh uy chấn động, tiến thẳng đến cửa biển Đại Càn Hoan Châu. Nhà vua truyền cho quân sĩ mổ trâu bò kính cẩn tế lễ, rồi tự mình khấn rằng: “Thần có linh thiêng, giáng lâm hưởng lễ, phù hộ phá giặc, bảo vệ dân đen. Phá tan giặc xong, cùng nước nhà hưởng phúc mãi mãi”.

Lễ xong, nhà vua cất quân thẳng tiến, đánh nhau với quân Chiêm một trận lớn. Quân Chiêm đại bại. Quân ta chém đầu chúa giặc, tịch thu khí giới vô số đưa về kinh. Sau đó, nhà vua kéo quân khải hoàn về đến cửa biển Đại Càn, Hoan Châu làm lễ bái tạ, ban sắc phong là: “Quốc mẫu Hoàng Bà, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương”. Lại ban cho nhân dân 300 quan tiền kẽm, để nhân dân trùng tu miếu điện phụng thờ. Xuân thu nhị kỳ, nhà vua còn sai quan tới tế lễ theo đúng lễ tam sinh, và ngự đề một đôi câu đối rằng:

Phong đào hoán tỉnh Anh Tông mộng,
Hương hỏa trường lưu Quốc Mẫu từ.

Nghĩa là:

Sóng gió lay tỉnh giấc mộng Anh Tông,
Khói hương nghi ngút ngôi đền Quốc Mẫu.

Đền thờ chính tại cửa biển Đại Càn, Hoan Châu, thuộc địa phận Tam Hương.

1. Phong “Quốc Mẫu Hoàng Bà, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương, Thượng Đẳng Thần”.

2. Hàng năm, tháng giêng và tháng 7, xuân thu nhị kỳ tổ chức quốc tế, làm lễ theo lễ Tam sinh.

3. Chữ húy: Tra kỹ trong tích, đều phải tránh âm đọc. Khi làm lễ, không được mặc mầu đỏ.

4. Hàng năm, ngày sinh nhật Hoàng Bà là ngày 1 tháng 3, lễ trên tiến cỗ chay, oản quả, hát chầu văn ba ngày. Dưới dùng trâu, bò, lợn.

5. Hàng năm, ngày bốn vị Thánh nương cùng hóa là ngày 24 tháng 12, lễ trên dùng 4 cỗ chay, oản quả v.v...

Ngày lành tháng 8 năm Đinh Mão, niên hiệu Hoàng triều Bảo Đại thứ 2 (1927). Bản thôn phụng sao theo đúng chính bản của triều trước.

M.X.H

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, tập 4, tr.259-264, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, tái bản 1992.

(2) Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Tập 1, tr.70, Nxb. KHXH, H. 1992.

(3) Đại Nam nhất thống chí, Sài Gòn, 1965, tr.81, 82.

(4) Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, Nxb. Văn học 1972, tr.117.

(5) Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1991, tr.121-123.

(6) Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb. KHXH, H. 1994, tr.151.

(7) Ngoài ra, còn một văn bản “Nam Hải tứ vị Thánh nương phả lục” hiện lưu giữ ở Paris nước Pháp. Xem: Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Tập 2, tr.324, chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát.

(8) Xem: Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.121-123.

(9) Bìa sách đề là “Huyện Hoàn Long” là sai. Thực ra là xã Cơ Xá, huyện Gia Lâm. Thời Lý là ấp An Xá. Vua Lý Thái Tổ đổi đất An Xá làm nơi xây dựng cung điện, bèn cho dân An Xá rời đến đất Cơ Xá. Năm Duy Tân 5, dân thấy chữ “cơ” đồng âm với cơ hàn (đói rét), bèn xin vua đổi là Phúc Xá. An Xá là quê của Lý Thường Kiệt. (Xem bài “Phát hiện mới về Lý Thường Kiệt”, báo Đại đoàn kết số 42 ngày 25 tháng 8 năm 1995).

(10) Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn chị Nguyễn Thị Phượng, chủ biên công trình Bảng tra thần tích theo địa danh của Viện Hán Nôm đã cung cấp ký hiệu một số thần tích có liên quan.

(11) Âm thần: tức nữ thần.

(12) Đào yêu: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về chuyện cô gái đã lớn tuổi muốn đi lấy chồng mơ ước được sống hòa thuận cùng chồng và gia đình nhà chồng.

TB

TÌNH HÌNH VĂN BẢN "TÂN BIÊN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TĂNG BỔ GIẢI ÂM TẬP CHÚ" HIỆN CÒN Ở THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

HOÀNG HỒNG CẨM

I. Về tác phẩm Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú

Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục là sáng tác của Nguyễn Dữ viết bằng Hán văn từ thế kỷ XVI. Giá trị tư tưởng và văn chương của nó đã được công nhận qua nhiều thời đại, được xem là một áng văn “thiên cổ kỳ bút” (Vũ Khâm Lân), và đã gây được sự quan tâm lớn của giới nghiên cứu. Nhiều công trình tìm hiểu, đánh giá tác phẩm đã ra đời. Có bài nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục đã chú ý so sánh tác phẩm này với nhiều tác phẩm dạng tiểu thuyết truyền kỳ ở Trung Quốc(1) và Nhật Bản(2).

Ngoài văn bản Hán văn trên, Truyền kỳ mạn lục còn được dịch ra văn Nôm. Lâu nay chúng ta chú ý đến bản dịch quốc ngữ của Trúc Khê Ngô Văn Triện (nhà in Tân Dân, 1940). Các bản in gần đây đều sử dụng bản dịch của Trúc Khê. Còn bản dịch Nôm có lẽ cũng được ra đời ngay sau (hoặc giả đồng thời) với thời gian sáng tác của Nguyễn Dữ. Bản dịch đó có tên là Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (từ đây xin gọi là Tân biên).

Tác phẩm Tân biên đáng để giới nghiên cứu nước ta chú ý. Trước hết vì đây là một bản văn dịch Nôm theo thể văn xuôi. Đó là thứ văn Nôm xuôi, có thể là bước mở đầu cho các thể loại văn, phú Nôm ra đời. Còn lối văn tiểu thuyết theo ngôn ngữ bình dân thì đến nay không thấy có (hoặc giả chưa phát hiện ra). Tân biên là bộ sách gồm các truyện ngắn được dịch ra văn xuôi Nôm. Nội dung bản dịch thể hiện bản sắc ngôn ngữ dân tộc rõ nét.

II. Về việc tìm hiểu, nghiên cứu văn bản Tân biên.

Tuy nhiên hiện nay, chúng ta không có trong tay văn bản Tân biên ra đời vào thời kỳ Nguyễn Dữ hay Nguyễn Thế Nghi(3) đang sống. Không rõ tác phẩm đã được in và công bố như thế nào. Nó chỉ là tác phẩm được diễn Nôm, bình chú lưu hành nội bộ rồi mãi sau này đến đầu thế kỷ XVIII mới được in ra, hay đã có văn bản nào từ thế kỷ XVI, XVII đã được in ra mà hiện nay chưa tìm thấy? Các nhà nghiên cứu, có người đã nhắc đến Tân biên, nhưng chỉ nhắc qua vì mục đích chưa phải là đi sâu vào tác phẩm Tân biên. Có thể kể ra sau đây:

1. Người quan tâm sớm nhất đến tác phẩm Tân biên, có lẽ là Giáo sư Lê Văn Quán. Trong công trình Nghiên cứu về chữ Nôm(4) của ông có nhắc đến Tân biên, để xem xét vấn đề chữ Nôm của tác phẩm này trong việc đối chiếu với các tác phẩm Nôm khác như Chỉ nam ngọc âm; Tam thiên tự giải âm...

2. Người phát hiện ra một văn bản Truyền kỳ mạn lụ có niên đại khá sớm là Phó Giáo sư Trần Nghĩa. Trong bài Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy(5) đã có ý kiến nhắc đến vấn đề niên đại và dịch giả của Tân biên. Nhưng văn bản này hiện nay vẫn ở Pháp.

3. Phó Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na trong bài: Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện(6) đã đề cập đến vấn đề lý giải mệnh đề: “tăng bổ giải âm tập chú” của tác phẩm Tân biên.

4. Ông Kawamoto Kuniyé trong bài Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn lục. Lịch sử sáng tác, xuất bản và sự nghiên cứu tập truyện theo cách nhìn văn học so sánh(7). Qua việc nghiên cứu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, ông đã nhắc đến những văn bản Tân biên có niên đại khá sớm hiện ở Nhật (1714).

5. Tác giả người Pháp, ông Paul Scheider trong bài: Khảo cứu bản dịch Nôm Truyền kỳ mạn lục(8) cũng đề cập đến phần ngữ âm lịch sử, chứ không nghiên cứu Tân biên với tư cách là tác phẩm dịch

6. Giáo sư Trần Khánh Hạo trong tác phẩm Việt Nam Hán văn tiểu thuyết trùng san đã dành riêng 1 tập để làm đối chiếu giữa hai văn bản Cựu biên Tân biên(6).

Giáo 7. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Quang Hồng trong bài: Một tác phẩm văn xuôi tiếng Việt thết kỷ XVII: người còn gái Nam Xươn g đã phiên và chú một nửa câu chuyện này(7).

III. Những văn bản Tân biên hiện còn

Tiếp thu những ý kiến của các tác giả trên, tôi đã thử cố gắng tìm hiểu vấn đề này. Trong thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm của chúng ta, chúng tôi chưa thấy có bản nào ra đời vào các thế kỷ trước, chỉ thấy các bản vào thế kỷ XVIII. Xin điểm qua tình hình các văn bản ấy.

Toàn bộ sách có 4 quyển, mỗi quyển có năm truyện, toàn bộ có hai mươi truyện. Sự phân bố cụ thể là:

Quyển 1 gồm có: truyện Đền Hạng Vương, truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, truyện Cây gạo, truyện Gã trà đồng giáng sinh, truyện Kỳ ngộ ở Trại Tây.

Quyển 2 gồm có: truyện Đối tụng ở Long Cung, truyện Nghiệp oan của Đào thị, truyện Chức Phán sự ở đền Tản Viên, truyện Từ Thức ở các trang của truyện Từ Thức lấy tiên, truyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào.

Quyển 3 gồm: truyện Yêu quái ở Xương Giang, truyện Đối đáp của người tiều phu núi Nưa, truyện Ngôi chùa hoang ở Đông Triều, truyện Nàng Túy Tiêu , truyện Bữa tiệc đêm ở Đà Giang.

Quyển 4 gồm: truyện Người con gái Nam Xương, truyện Lý tướng quân, truyện Lệ Nương, truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa, truyện Tướng Dạ Xoa.

Tình hình phân bố các truyện như trên được thể hiện ở các văn bản hiện còn tại Thư viện Viện Hán Nôm như sau:

1. Bản mang ký hiệu A.1021. Sách gồm 137 tờ, in trên giấy dó khổ 25x16cm, đã cũ nát sờn rách nhiều, không còn bìa cậy, đã được đóng bằng bìa mới. trang sách mất hết 6 tờ đầu (2tờ mục lục và 4 tờ thuộc phần chính văn), tờ 124 mất hẳn một nửa trên, có những tờ đầu mất gần hết những dòng dọc ở mép sách, có chỗ mất 2,3 chữ (tờ 7a, 8a,135,136,137a-b). Gồm nội dung của hai quyển 1 và 2 có 10 truyện đầu.

2. Bản mang kí hiệu A.3165. Sách dày 93 tờ chép tay trên khổ giấy 25x15cm. Văn bản mất hẳn tờ đầu sách. Đến phần chính văn, trước lúc vào truyện thứ nhất, có dòng chữ “Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm dịch nghĩa quyển chi nhất. Từ tờ 1 đến tờ 4 của sách sờn rách mép nhiều nên mất hẳn gần 2 dòng sát mép sách. Những trang tiếp theo tình hình có đỡ hơn, nhưng vẫn ảnh hưởng một số chữ ở dòng ngoài sát mép sách. Còn một số tờ khác lại mất hẳn 1 góc trên, dưới hoặc có lúc vào giữa trang như ở các tờ 7,8,9,10,11,12,13,14. Càng về sau càng đỡ rách, nhưng các trang cuối từ 90,91,92,93 lại sờn mép sách phần giữa. Sách đã được đóng ép bìa mới ra ngoài bìa cậy cũ. Nội dung chỉ có 5 truyện đầu của quyển 1.

3. Bản mang kí hiệu VHv.1641. Sách dày 145 tờ, in trên giấy dó khổ 17x16cm. Văn bản tuy có sờn rách mép nhưng số chữ mất không đáng kể (tờ 65b mất 2 chữ). Văn bản này được đóng gộp hai quyển: ba (79 tờ) và bốn (66 tờ), đã được ép bìa mới ra ngoài bìa cậy cũ. Trong văn bản, ở đầu và cuối mỗi quyển đều ghi rõ: "Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi tam", và "Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi tam chung tất". ở quyển 4 tình hình cũng tương tự. Chữ khắc to sắc rõ nét và đều đặn. Nội dung 10 truyện cuối của bộ sách, không có Tựa và Mục lục. Do vậy cũng không rõ văn bản được khắc in năm nào, và rông hơn nưa do ai khắc in và thơ văn bản nào...

4. Bản mang ký hiệu A.176. Bộ sách gồm 282 tờ chép tay viết trên khổ giấy 26x15cm, được đóng thành 2 tập.

Tập 1: ở đầu sách ghi: "Tân biên truyền kỳ mạn lục", trang tiếp theo ghi bài Tựa và Mục lục, dòng dầu Mục lục ghi: "Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú". Cuối Mục lục có ghi niên đại và tên người trùng san. "Liễu Tràng xã Nguyễn Bích gia bản trùng san" và "Cảnh Hưng nhị thập tứ niên xuân cốc nhật". Sách đánh riêng số trang của Mục lục và phần chính văn. Đầu phần chính văn có ghi: "Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bô giải âm tập chú quyển chi nhất" cuối tờ 79 lại ghi: "Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bô giải âm tập chú quyển chi nhất chung tất. Tiếp đến quyển 2, số trang được đánh lại từ đầu đến tờ 77, ở đầu và cuối cũng tương tự ở quyển 1. Cả tập gồm có 10 truyện đầu của tác phẩm.

Tập 2: là văn bản đóng gộp hai quyển còn lại. Quyển 3 gồm 70 tờ, quyển 4 có 66 tờ. Trên cơ bản tập này cũng có ghi tên đề mục ở đầu và cuối mỗi quyển. ở mép sách cũng có ghi rõ về thứ tự các quyển tờ... của tân biên. Sách hơi quăn mép nhưng không mất chữ. Riêng quyển 4 gồm có 66 tờ, chất giấy có trắng và dày hơn các phần trước, chữ viết thô hơn.

Cả bộ (trừ quyển 4) được viết bằng chữ bé nhưng sắc sắc, có 2 tập còn bìa cậy, giấy trong chưa bị rách. Phần chữ Hán viết to hơn một tý, còn phần chú và dịch Nôm bé hơn.

Đây là văn bản mà ông Trần Khánh Hạo có nhắc đến với tính chất là văn bản đại diện cho tác phẩm này ở Việt Nam (bên cạnh các văn bản ở Pháp và Trung Quốc).

5. Bản mang ký hiệu A.3201. Sách chép tay, gồm 4 quyển đóng riêng biệt: quyển 1 có 84 tờ, quyển 2 có 70 tờ, quyển 3 có 77 tờ, quyển 4 có 70 tờ. Tất cả đều được chép trên khổ giấy 30x20cm. Cách trình bày trái với thông lệ của văn bản Hán Nôm, văn bản chép từ trái sang phải. Phần chữ Hán viết hơi nghệch ngoạc, còn phần dịch Nôm được ghi thay bằng chữ Quốc ngữ (kiểu chữ đầu thế kỷ). Cả 4 quyển đều được đóng bìa mới.

Ở quyển 1: ở tờ 1 có ghi “Tân biên truyền kỳ mạn lục”. Tiếp theo có bài Tựa, Mục lục và cũng ghi niên đại và tên người trùng san y hệt văn bản A.176. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi ngờ rằng văn bản này được sao chép từ một văn bản nào đó cũng giống như bản A.176 (hoặc chính văn bản ấy).

6. Bản mang ký hiệu VHv. 1491. Cả bộ sách cũng gồm có 4 quyển riêng biệt. Nội dung được khắc trên khổ giấy 14x24cm, chữ khắc khá đều đặn.

Quyển 1: Không có tờ đầu sách, dày 78 tờ, bắt đầu từ tờ có ghi bài Tựa và Mục lục. Cuối lời tựa có ghi: “Cảnh Hưng tam thập ngũ niên xuân nguyệt cốc nhật” và “Liễu Tràng xã xã trưởng Nguyễn Đình Lân gia bản trùng san”. Trang tiếp có ghi: “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú mục lục”. Tờ tiếp theo là tờ 1 của chính văn, cũng ghi ở đầu: “Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi nhất”, và vào ngay truyện thứ nhất (truyện Đền Hạng Vương). Cuối tờ 77a có ghi “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi nhất chung” và cũng vừa hết truyện thứ 5 (truyện kỳ ngộ ở trại Tây). Cũng như các bản in khác, văn bản này có ghi ở mép sách ở phía trên là: “Truyền kỳ quyển nhất và dưới số trang (ghi tách riêng phần Mục lục và chính văn), nhưng tình hình này chỉ còn ở một số trang, phần còn lại chủ yếu bị sờn rách cả mép và góc sách, có góc mất đến ba, bốn chữ (các tờ 2b, 3a, 6a, 8a) có lúc ở gần gáy sách cũng mất chữ (tờ 6b). Có trường hợp mất 1 chữ (9a; 13a; 14a;b; 15a; 20a; 30a) mất nửa chữ theo dòng dọc sát mép sách (16b, 18a, 25a, 31a, 32a-b, 33a-b, 34a, 37a-b, 39a-b, 57a, 63a).

Đây là quyển bị rách nhất trong 4 quyển, một phần do thời gian, một phần do sử dụng quá nhiều. Cho nên dù vẫn còn bìa cậy cũ nhưng sách sờn rách rất nhiều.

Quyển 2: cũng không có tờ đầu, chỉ bắt đầu vào chính văn với dòng chữ: “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi nhị”. Sách dày 79 tờ, vẫn được khắc in trên cùng chất giấy và một kiểu chữ, những ở quyển này đỡ rách hơn. Nhưng chữ ở dòng sát mép bị mất ít hơn, nhưng ở trong trang sách lại có tình trạng mất hẳn nửa, hoặc 1, có khi 2 chữ (ở các tờ: 40a, 51a, 75a, 78b). ở phần mép sách của những trang còn nguyên vẹn có ghi cả tên truyện, như “Từ Thức lấy vợ tiên. Có trường hợp mất ở mép góc (như tờ 53b, 58a). Tờ 79 có ghi: “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi nhị chung” góc dưới của trang này bị mất hẳn.

Quyển 3: cũng mất tờ đầu sách, tờ đầu của truyện Yêu quái ở thành Xương Giang (tờ 2a bắt đầu có ở sách) cũng mất khoảng 5 chữ ở góc trong sách. Phần còn lại khá nguyên vẹn, chữ khắc rõ ràng. Tuy vậy vẫn còn một số chữ bị mất ở giữa trang (ở các tờ: 11a, 12a, 25a, 45a, 47a, 65a, 67a). ở trang cuối cùng “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi tam chung”.

Quyển 4: quyển này cũng mất tờ đầu nhưng còn từ tờ 1a của chính văn. Mở đầu cũng ghi: “Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú quyển chi tứ” và vào ngay truyện thứ 16 (Người con gái Nam Xương). Sách dày 68 tờ, phần đầu và cuối có sờn nhiều hơn nhưng không mất chữ. ở giữa một số trang lại bị mất 1 chữ (tờ 5a, 11a, 37a), riêng trang 40a và 42a mất hẳn một góc trái. Từ trang 60a trở đi, mép sách cũng bị sờn quăn, và đến trang 68b, mép sách bị sờn sâu vào và mất gần nửa dòng chữ dọc: “Tân biên Truyền kỳ... quyển chi tứ chung”.

Bộ sách này là bản in có tính thống nhất từ tập 1 đến tập 4 về chất giấy, kiểu chữ, cách bố trí, sắp xếp thứ tự... mặc dầu văn bản đã có quyển rách ít, có quyển rách nhiều.

Trên đây là tình hình cụ thể của các văn bản Tân biên hiện còn ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Phần lớn các văn bản đều bị sờn rách (hiện đang được phục chế). Trong các văn bản có sự thống nhất về:

- Trình bày: chữ Hán chính văn viết to rõ, chữ Nôm và chữ Hán chú thích viết nhỏ đều nhau.

- Thứ tự: được sắp xếp đều đặn, cứ mỗi quyển 5 truyện (nếu ghép hai quyển, có 10 truyện), phù hợp với thứ tự ở Mục lục.

- Bố trí nội dung của từng truyện: mở đầu kể về lai lịch và tiểu sử nhân vật (Quan thừa chỉ - họ Hồ tên là Tông Thốc, hay chưng thơ-cùng dài chưng lời dạy dỗ, lời trêu ghẹo...), rồi đến cốt chuyện và cuối là lời bình. Mở đầu lời bình của mỗi truyện đều có hai chữ “Ô hô” và dịch ra chữ Nôm là “Hỡi ôi”.

Sự khác biệt duy nhất có lẽ là ở văn bản A.3201 (chép từ trái sang phải).

Như vậy văn bản tác phẩm Tân biên còn có 3 bộ (cả in và viết) đầy đủ và 3 bộ không còn đủ số truyện (cũng vừa in vừa viết).

IV. Nên tiếp tục tìm hiểu Tân biên

Tuy hiện nay chúng ta chưa có được bản Tân biên của thời điểm nó ra đời, hoặc được công bố trước thế kỷ XVIII, nhưng những văn bản còn lại trên đây vẫn là nguồn tư liệu vô cùng quý báu của chúng ta. Chúng ta cho rằng có thể đây là đối tượng quan trọng cho việc nghiên cứu văn bản tác phẩm Tân biên:

1. Có thể có khả năng chọn một văn bản tốt nhất để làm bản chính, cho dù đó là bản có sau nguyên bản đến hàng trăm năm, nhưng về căn bản không có gì là phản lại tác giả và dịch giả.

2. Xác định được văn bản là bước cơ bản để đi đến một tác phẩm dịch, đồng thời là tác phẩm văn xuôi Nôm trước thế kỷ XVIII. Đây cũng chính là một đóng góp đối với nền văn học nước nhà. Vì cho đến nay, ngoài tác phẩm Tân biên, chúng ta chưa phát hiện được một tác phẩm văn Nôm xuôi có tính chất dài hơn nào trong dòng văn học từ thế kỷ XVIII trở về trước.

3. Có văn Nôm dịch thế kỷ XVIII, ta có thể có điều kiện đối chiếu với văn dịch thế kỷ XX. Chúng ta sẽ so sánh bước tiến từ Nguyễn Thế Nghi đến Ngô Văn Triện để thấy được sự phát triển cả về văn chương và ngôn ngữ.

4. Một vấn đề nữa là dịch giả. Nếu đúng Nguyễn Thế Nghi là dịch giả thì chúng ta cũng chưa biết về ông được bao nhiêu. Ông đã là lá cờ đầu trong nền dịch thuật Việt Nam. Lá cờ đầu và có thể là lá cờ độc nhất trong việc dịch văn xuôi Hán và văn xuôi Nôm. Quả thực, xung quanh tác phẩm này còn nhiều việc phải làm. Rất mong được sự quan tâm chỉ giáo của bạn đọc gần xa.

H.H.C

CHÚ THÍCH

(1) Trần Nghĩa: “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiến đăng tân thoại”, Tạp chí Hán Nôm số 1 (1987), tr.3.

(2) Nguyễn Thị Oanh: Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ với Truyền kỳ mạn lục. TCHN số 1 (1995), tr.38.

(3) Theo Công dư tiệp ký: Nguyễn Thế Nghi là dịch giả của Tân biên. Các tác giả Trần Nghĩa và Paul Scheider cũng đồng quan điểm.

(4) Nxb. KHXH, H. 1981.

(5) Tạp chí Hán Nôm, số 2/1985, tr.90.

(6) Tạp chí Hán Nôm, số 2/1988, tr.45.

(7) Kỷ yếu 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1992.

(8) Tạp chí Hán Nôm, số 2/1995.

(9) Đài Bắc - Pháp Quốc Viễn đông học viện 1986. Ông chỉ dùng các văn bản ở Pháp và Trung Quốc là chính.

(10) Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6/1995. tr.17.

TB

ĐI TÌM ĐỊA CHỈ NGÔ CHÂN LƯU

HOÀNG VĂN LÂU

Trong số những nhân vật lịch sử kiệt xuất của thế kỷ thứ 10, một thế kỷ đầy những biến động lịch sử dữ dội, tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp khôi phục độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phục hưng văn hóa Đại Việt, thì nhà sư “Khuông Việt” Ngô Chân Lưu nổi bật lên như một nhà tri thức lớn, tinh thông cả Nho, Phật, Lão, một nhà văn hóa đầy tài năng, đã phục vụ có hiệu quả công cuộc bảo vệ nền độc lập non trẻ ở cả hai triều đại chính thống đầu tiên của lịch sử dân tộc là triều Đinh và triều Lê.

Chính sử ghi chép về hai triều Đinh-Lê rất ngắn, nhưng cũng dành cho Ngô Chân Lưu những dòng trân trọng:

“Tân Mùi, [Thái Bình] năm thứ 2 (971), Tăng Thống Ngô Chân Lưu được ban tên Khuông Việt đại sư” (Toàn thư, Bản kỷ Q1, t.3b).

“Đinh Hợi [Thiên Phúc] năm thứ 8 [987], Nhà Tống sai Lý Giác sang ta... Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát để tiễn... ( Toàn thư, Q1, t.18b).

“Bài hát” mà Ngô Chân Lưu sáng tác để tặng sứ Tống, được Toàn thư chép lại nguyên văn.

Về tiểu sử của Ngô Chân Lưu, sách sớm nhất hiện được biết có viết về ông là Thiền Uyển tập anh (A.3144 Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Sách này cho biết: Khuông Việt đại sư chùa Phật Đà, hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, trước tên là Chân Lưu, là người Cát Lợi, họ Ngô, dòng dõi Ngô Thuận Đế”.

Những tên (hương) “Cát Lợi”, (huyện) “Thường Lạc” là những địa danh cổ, mà suốt tiến trình lịch sử biến động lâu dài của nó, chưa thấy có sách nào ghi chú.

Giáo sư Đào Duy Anh, trong Đất nước Việt Nam qua cỏc đời, đó căn cứ theo Thỏi Bỡnh hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, núi huyện Thường Lạc sau đổi là huyện An Thuận, ở về Đụng nam chõu Ái, cho rằng hương Cỏt Lợi huyện Thường Lạc thuộc Tĩnh Gia, Thanh Húa ngày nay. Thơ văn Lý - Trần Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.208), cũng theo thuyết này.

Giáo sư Bùi Văn Nguyên, chưa rõ căn cứ vào tài liệu nào, đã khẳng định trong một công trình của ông xuất bản gần đây rằng: “Tăng Thống Ngô Chân Lưu, họ Ngô, người Chân Định, Nam Chân(1).

Về tên hương “Cát Lợi”, Toàn thư có một lần nhắc tới. ấy là khi ghi lại sự kiện Nguyễn Bặc, Đinh Điền kéo quân về đánh Lê Hoàn, bị thất bại và chết. Phạm Hạp cũng bỏ chạy: “Điền, Bặc đã chết. Quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở “Bắc Giang” ( Toàn thư, Bản kỷ, Q 1, tờ 7a).

Bắc Giang là chỉ một vùng đất rộng lớn phía bắc sông Hồng, gồm tỉnh Bắc Ninh cũ và một phần đất tỉnh Vĩnh Yên cũ. Vì thế, vị trí cụ thể của hương Cát Lợi, rất khó xác định.

Thiền Uyển tập anh khi kể về những hoạt động của Ngô Chân Lưu, có một đoạn đáng lưu ý: “Ông thường đi lại vùng núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, ưa phong cảnh yên tĩnh tươi đẹp nơi đây, định dựng am để ở”, có thể nghĩ rằng, hương Cát Lợi, có chùa Phật Đà, quê hương của Ngô Chân Lưu cũng không xa vùng núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, nên Ngô Chân Lưu mới năng lưu tới nơi đó.

Từ suy nghĩ ấy, chúng tôi để tâm tìm tòi những tư liệu của các thôn xã vùng này.

Sau các đợt sưu tầm di văn của các di tích lịch sử, văn hóa Hà Nội, và các chuyến sưu tầm tài liệu Hán Nôm hàng năm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm gần đây, chúng tôi có điều kiện tiếp xúc với 2 tấm bia nói tới Ngô Chân Lưu như một danh nhân của “quê hương mình”.

Hai tấm bia này, hiện còn lưu giữ ở chùa Cửa Rừng, thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn.

Tấm thứ nhất ghi niên đại Chính Hoà thứ 12 (1691), tháng 8, có tên là Tư văn bi ký. Phần đầu bia ghi lời khấn tiên thánh, tiên sư và các tiên hiền của xã. Nguyên văn có đoạn: “Cung duy: Tiên thánh, Tiên sư tính bản xã tiên hiền: Đinh triều Quốc sử Khuông Việt, Trần triều Thái thú Trịnh quân, chỉ huy nho Nguyễn công, tự Túc Hiên tiên sinh...”

Bia khẳng định Quốc sư Khuông Việt triều Đinh là tiên hiền của “bản xã”.

Tấm bia do những người có chân khoa trường như Nguyễn Đăng Dụng, Nguyễn Cao Tuấn, Nguyễn Đình Quý, những người dự giáp tư văn như Nguyễn Phú, Ngô Vĩ... Hội trưởng Nguyễn Chính, xã trưởng Nguyễn Trần Ngôn... dựng lập.

Nội dung bia có đoạn (dịch):

“Nghe rằng: Tư văn dựng hay bỏ, liên quan đến thế đạo; phong tục tốt hay xấu, gắn liền với lòng người. ấp ta trước đây văn vật, rất hanh thông, các bậc chân Nho nối nhau ra đời. Có người quyền to như quân sư Khuông Việt, cổ vũ phong hóa ở Kinh đô(1), có người chức trọng như vị chỉ huy Nho học, tưới nhuần mưa giáo nơi thôn xóm(2). Có người làm Thái thú giúp vua, có người cai trị nơi phiên trấn, cũng có người coi dân nơi phủ huyện. Trong triều, ngoài nội, cùng lúc được dùng; cha con, anh em nối nhau đỗ đạt. Dùng trong một nước thì chính sự hoàn thành; dùng ở một làng thì phong tục thuần mĩ. Chẳng những văn vật tốt đẹp mà cũng là dân phong hưng thịnh vậy!”.

Tấm bia được dựng trong bối cảnh chủ trương chấn hưng văn hóa dân tộc của vua Quang Trung đã xuống đến cơ sở thôn xã. Toàn dân thôn Đoài, xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hướng, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, mà tiêu biểu là những người dự giáp tư văn, ông hội trưởng, ông xã trưởng... tự hào tưởng niệm các bậc tiên hiền của xã, mà tiêu biểu là “Quốc sư Khuông Việt”.

Vì “Quốc sư Khuông Việt” triều Đinh này, có thể là ai khác ngoài Tăng Thống Ngô Chân Lưu thế kỷ thứ 10 không?

Trong lịch sử tồn tại 13 năm ngắn ngủi của mình, (968 - 980), nhà Đinh chỉ một lần ban danh hiệu “Khuông Việt đại sư” cho Tăng Thống Ngô Chân Lưu vào năm 971 (năm Tân Mùi, niên hiệu Thái Bình thứ 2). Ngoài ra, không một nhà sư nào được tặng danh hiệu cao quí ấy.

Như vậy là: với hai tấm bia có niên đại cách nhau 100 năm hiện còn giữ lại được (Tư văn bi ký dựng năm 1691 và Bản thôn tạo thạch bi ký dựng năm 1792), ta có thể khẳng định: quê quán của Ngô Chân Lưu, hiệu Khuông Việt đại sư, làm Tăng thống triều Đinh Lê, là ở thôn Đoài, xã Do Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà (địa danh thế kỷ XVII - XVIII); mà trước đây, thời Đinh Lê, có tên là hương Cát Lợi. Điều này phù hợp với ghi chép của chính sử: “hương Cát Lợi ở Bắc Giang”; cũng phù hợp với ghi chép của Thiền Uyển tập anh nói rằng Ngô Chân Lưu thường đi lại vùng núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ.

Đến đây, có thể ghi địa chỉ của Ngô Chân Lưu như sau: Tăng Thống Ngô Chân Lưu, được ban danh hiệu Khuông Việt đại sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

H.V.L

CHÚ THÍCH

(1) Nguyên văn bia ghi là “Hoa Hạ”, được dùng với nghĩa là “trung tâm văn hóa”, là “Kinh đô”.

(2) Nguyên văn bia ghi là “Lý nhân, nơi ở của bậc hiền tài, được dùng với nghĩa là nơi hương thôn./.

TB

BIA VỀ CÁC THÁI GIÁM TRIỀU LÊ TẠI KINH BẮC

THÙY VINH

Trong quá trình nghiên cứu các văn bia thời Lê của xứ Kinh Bắc, chúng tôi đã tập hợp được hơn 100 thác bản bia nói về các Thái giám. Đây là nguồn tư liệu phong phú chưa được khai thác, vì thế trong bài viết này, chúng tôi bước đầu giới thiệu một cách tương quan về số bia nói trên.

Sau đây là những nội dung chính mà chúng tôi muốn đề cập sau khi đã thống kê, phân tích số bia trên.

1. Về niên đại bia:

Trong số 100 bia (xin lấy tròn số) về các Thái giám bia có niên đại sớm nhất là Vĩnh Tộ 2 (1620), bia có niên đại muộn nhất là Cảnh Hưng 40 (1779). Như vậy tuy gọi là bia thời Lê nhưng thực chất chỉ tập trung vào giai đoạn Lê trung hưng - từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII, trong vòng 160 năm. Đây là số lượng bia theo từng niên đại.

- Niên đại Vĩnh Tộ 2 (1620): 1 bia

- Phúc Thái (1643 - 1649): 1 bia

- Thịnh Đức (1653 - 1657): 3 bia

- Vĩnh Thọ (1658 - 1661): 1 bia

- Cảnh Trị (1663 - 1671): 3 bia

- Dương Đức (1672 - 1673): 3 bia

- Đức Nguyên (1674 - 1675): 1 bia

- Vĩnh Trị (1676 - 1680): 3 bia

- Chính Hòa (1680 - 1705): 29 bia

- Vĩnh Thịnh (1705 - 1719): 10 bia

- Bảo Thái (1720 - 1729): 4 bia

- Vĩnh Khánh (1729 - 1732): 2 bia

- Long Đức (1732 - 1735): 2 bia

- Vĩnh Hựu (1735 - 1740): 7 bia

- Cảnh Hưng (1740 - 1786): 26 bia

- Chỉ ghi là Lê triều: 4 bia.

Như vậy bia về các Thái giám tập trung nhất vào niên đại Chính Hòa, Cảnh Hưng, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hựu. Nhiều nhất vẫn là bia Chính Hoà: trong vòng 25 năm, có 29 bia.

2. Về địa điểm đặt bia.

Bia về các Thái giám có mặt hầu hết ở tất cả các phủ huyện của Kinh Bắc, tuy mức độ nhiều ít có khác nhau. Nếu tính về phủ, thì phủ Từ Sơn có nhiều bia nhất: 44 bia. Tiếp đến là phủ Bắc Hà: 23 bia, phủ Lạng Giang: 21 bia, phủ Thuận An: 12 bia. Số bia tính theo huyện, xin xem bảng dưới đây:

Phủ Từ Sơn Thuận An Bắc Hà Lạng Giang
H
U
Y

N
Yên Phong: 21 bia Gia Lâm: 8 bia Hiệp Hoà: 15 bia Yên Dũng: 19 bia
Đông Ngàn: 9 bia Siêu Loại: 3 bia Yên Việt: 8 bia Phượng Nhãn: 1 bia
Tiên Du: 14 bia Gia Định: 1 bia Bảo Lộc: 1 bia
Quế Dương: 1 bia
Vũ Giang: 1 bia

Bảng thống kê trên cho thấy huyện Yên Phong có nhiều bia về Thái giám nhất. Tiếp đến là huyện Yên Dũng, huyện Hiệp Hoà, huyện Tiên Du, huyện Đông Ngàn, huyện Gia Lâm, huyện Yên Việt. Các huyện Siêu Loại, Gia Định, Quế Dương, Vũ Giang, Phượng Nhãn, Bảo Lộc chỉ có từ 1 - 3 bia.

Trong số các xã có bia Thái giám, xã có nhiều bia nhất là Quang Biểu huyện Yên Việt phủ Bắc Hà: 8 bia. Tiếp đến là xã Phù Ninh huyện Đông Ngàn: 4 bia. Các xã Trung Màu, huyện Tiên Du phủ Từ Sơn, xã Đông Viên, huyện Tiên Du phủ Từ Sơn, xã Khương Tự, huyện Siêu Loại, đều có 3 bia.

17 xã khác có 2 bia là:

- Xã Hữu Chấp, xã Đông An, xã Dũng Liệt, xã Ân Phú, xã Lạc Nhuế (5 xã) thuộc huyện Yên Phong phủ Từ Sơn.

- Xã Vân Cối, xã Phúc Tằng, xã Phúc Long huyện Yên Dũng (3 xã).

- Xã Mai Đình, xã Mai Thượng, xã Thái Thọ, xã Đức Thắng huyện Hiệp Hoà (4 xã).

- Xã Lệ Mật huyện Gia Lâm (1 xã).

- Xã Phù Đổng, xã Thịnh Lâm huyện Tiên Du (2 xã).

Còn lại 45 xã trong các phủ huyện của Kinh Bắc có 1 bia. Tổng số xã của 4 phủ 13 huyện của Kinh Bắc có bia Thái giám là 67 xã. Nếu so với 318 xã của Kinh Bắc có bia thời Lê mà chúng tôi đã thống kê, thì số xã có bia Thái giám chiếm tỉ lệ 67/318 »1/5.

Tên các đơn vị hành chính từ cấp xã, đến huyện, phủ nói trên là hoàn toàn dựa trên văn bia ở chính thời điểm đó chứ không phải dựa vào địa danh hành chính thời Nguyễn hoặc sau này.

3. Những nội dung chính được phản ánh qua văn bia.

Tất cả các bia đã nêu ở trên đều được tạo dựng để ghi nhớ công đức của các Thái giám đối với các làng xã. Số bia đó phần lớn được dựng trên chính quê hương của họ và một số xã lân cận. Số bia này đề cập đến nhiều nội dung phong phú nhưng nổi bật nhất vẫn là sự đóng góp tiền của cho các làng quê. Chúng tôi tạm phân chia các nội dung được phản ánh như sau:

- Xây đình: 22 bia

- Tiểu sử, hành trạng: 17 bia

- Xây đền, miếu, am: 5 bia

- Ghi công đức chung, không cụ thể: 21 bia

- Xây quán chợ: 1 bia

- Cứu trợ dân khi mất mùa, đói kém, bệnh dịch: 8 bia

- Xây điếm: 1 bia,

- Sửa chữa chùa: 12 bia,

- Giúp dân giải quyết các vụ kiện: 4 bia

- Được lập sinh từ: 2 bia,

- Xin giám các suất đinh, công dịch cho dân: 1 bia

- Giao tiền, ruộng cho dòng họ: 3 bia

- Ghi gia phả: 1 bia.

Qua sự phân loại trên, ta thấy các Thái giám có mặt hầu hết ở các hoạt động làng xã bấy giờ. Từ việc cứu trợ dân lúc khó khăn, giải quyết các vụ kiện tụng kéo dài, rồi xây đình, sửa chùa, dựng đền miếu đến việc xin với Chúa giám các suất đinh, giảm công dịch... Điều đó nói lên, tuy họ ở trong Nội cung nhưng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với quê hương làng xóm. Không ít trong các Thái giám thời Lê ở Kinh Bắc là những võ tướng đánh đông dẹp bắc. Họ được phong phẩm hàm cao, chức trọng. Vì thế, hiển nhiên họ có điều kiện để “công đức” các làng quê. Sự “công đức” đó không chỉ một lần, mà nhiều lần, và thường trong khoảng thời gian không cách xa nhau lắm. Xin đơn cử một vài trường hợp tiêu biểu.

Tư thiếu giám Đồng tri giám sự Nguyễn Công Chiêm quê xã Trung Màu huyện Tiên Du phủ Từ Sơn đã giúp cho quê ông và vùng quê xứ Bắc 1 vạn 100 quan sử tiền và 17 mẫu ruộng trong những năm Chính Hòa 11 (1690), Chính Hòa 13 (1692), Chính Hòa 22 (1701)(1). tại các nơi sau:

- Năm Chính Hòa 11 (1690) ông cho xã Trung Màu quê ông 1.000 quan để cứu đói cho dân.

- Năm Chính Hòa 13 (1692) ông đã 3 lần công đức: lần thứ nhất cho 6 xã trong huyện Tiên Du 4.100 quan sử tiền và 13 mẫu 1 sào ruộng; lần thứ hai ông cho tiếp 6 xã thuộc hai huyện Tiên Du và Gia Lâm cũng 4.100 quan sử tiền và 12 mẫu 4 sào ruộng; lần thứ 3 ông cùng với vợ là Nguyễn Thị Ngọc Thưởng công đức cho xã Thịnh Lân huyện Tiên Du 700 quan sử tiền, 2 mẫu ruộng để xây đình, dựng bia, mua gỗ xây đình.

- Năm Chính Hòa 22 (1701) ông lại cho xã Trung Màu 200 quan sử tiền để xây điện thờ trong chùa.

Nội giám Nguyễn Thái Đường (tước Quận công) quê xã Phù Minh huyện Tiên Du phủ Từ Sơn đã công đức 3 lần vào các năm sau:

- Năm Thịnh Đức 5 (1658) ông đã xây dựng cho xã Phù Minh quê ông một ngôi đình - Lúc này ông là Thái giám Tham tri giám sự, tước Minh lương hầu(2).

- Năm Vĩnh Thọ 3 (1660) ông cho 2 xã Phù Minh, Phù Đổng huyện Tiên Du 5 mẫu 5 sào ruộng 20 dật bạc 10 con trâu 13 con bò 23 con lợn, 56 mâm xôi 50 vò rượu. Lại cho xã Trung Màu 4 mẫu 5 sào ruộng, cho xã Phù Viên (huyện Tiên Du) 25 dật bạc 5 con bò 8 con lợn 13 mâm xôi rượu. Ông được lập sinh từ tại xã Phù Đổng huyện Tiên Du(3).

- Năm Cảnh Trị 5 (1666) ông xây cho 2 xã Phù Đổng, Phù Viên 2 ngôi đình - Cho 3 xã Phù Minh, Phù Đổng, Phù Viên 5 mẫu 5 sào ruộng 106 quan, 24 con trâu, 4 con bò, 40 con lợn, 20 dật bạc trinh, 48 mâm xôi rượu. Đặc biệt ông còn cho tất cả dân xã Phù Minh từ 10 tuổi trở lên, mỗi người 1 quan tiền. Thời kỳ này ông đã được thăng tước Quận công chức Nội giám. Khi ông mất, được phong là “Đương cảnh thành hoàng”(4).

Tổng Thái giám Ngô Túc Cần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, đã 2 lần công đức cho xã Hữu Chấp và xã Đặng Xá huyện Yên Phong vào năm Chính Hòa 20 (1699):

- Cho xã Đặng Xá 200 quan, 3 mẫu ruộng, 1 cái ao. Lại mua gỗ làm đình với giá 160 quan.

- Cho xã Hữu Chấp 315 quan sử tiền, mua 35 cây gỗ lim cùng số ruộng tốt có sản lượng 42 gánh(5).

Tổng Thái giám Đoàn Đặng Đán, tước trung hầu đã 4 lần công đức vào thời Cảnh Hưng:

- Năm Cảnh Hưng 36 (1775) ông đã 3 lần cho tiền, ruộng các nơi sau:

- Cho thôn Trung Đồng sở Đại Lẫm huyện Yên Phong 250 quan, 4 mẫu 3 sào ruộng để sửa đình(6).

- Cho thôn Lũng xã Vân Cối, huyện Yên Dũng 100 quan cổ tiền, 3 mẫu ruộng xây cho xã 1 cái điếm (7).

- Cho thôn Văn Khê, xã Hành Quán, huyện Yên Dũng 5 mẫu ruộng để chi phí cho việc xây đình(8).

Năm Cảnh Hưng 38 (1777) ông cho thôn Khê, xã Tư Mai, huyện Yên Dũng 550 quan sử tiền, 4 mẫu 7 sào ruộng để xây đình, lại cho thôn thêm tiền để sửa chùa(9).

Tổng Thái giám Cai quản Đề đốc Nguyễn Thế Nho người xã Quang Biểu, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà đã 4 lần công đức:

- Năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) cho xã Quang Biểu quê ông 200 quan 1 mẫu ruộng và 1 quả chuông(10).

- Năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) cùng với các quan chức và các Thái giám khác, ông đã công đức vào chùa An Thổ của bản xã 2 quan sử tiền(11).

- Năm Chính Hòa 21 (1700) ông xây cho làng ông một ngôi đình, lại cho 4 mẫu hạ điền, 600 dật tiền(12).

- Cũng trong thời kỳ đầu của thế kỷ XVIII, ông lại cho xã Đại Liễn Thượng, huyện Vũ Giang, phủ Từ Sơn 1 mẫu ruộng 250 dật tiền. ở tấm bia này dân làng qui định lễ mừng sinh nhật ông phải như thế nào, khi ông trăm tuổi thì tế tự ra sao...(13).

Có những trường hợp nếu không dựa vào địa vị của các quan Thái giám thì khó lòng giải quyết được công việc. Ví dụ: Năm Cảnh Hưng 27 (1766) dân xã Hạc Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà nhờ Tổng Thái giám Thuyên trung hầu Nguyễn Thái Lai người bản xã tâu xin với chúa Trịnh giảm số suất đinh của làng từ 40 người xuống 15 người. Bởi vì xã ông số dân đinh ít, dân rất vất vả khổ sở. Ông còn cho thêm xã 400 quan tiền và 4 mẫu ruộng để chi phí việc quan(14).

Như vậy bằng các quan hệ thân tín, gần gũi với chúa Trịnh, các quan Thái giám đã trực tiếp can thiệp giúp dân những lúc khó khăn, làm lợi cho quê hương mình.

Trong những việc làm trên, các Thái giám đã góp phần quan trọng xây dựng các công trình làng xã như đình, chùa, đền, miếu... Các làng quê vào thế kỷ XVII, XVIII thường đua nhau xây đình, sửa chùa, củng cố những nơi mà dân thờ cúng. Đặc biệt là việc xây đình, trung tâm sinh hoạt làng xã, là công sở cho các quan viên sắc mục bàn bạc việc làng. Đối với nhiều làng xã, việc xây đình là công việc rất khó khăn. Chẳng hạn xã Thổ Hà, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà khi xây đình làng vào những năm cuối thế kỷ XVII đã phải bổ đầu đóng góp mỗi người (từ 5 tuổi trở lên) 4 quan sử tiền và 200 bát gạo. Như thế đủ biết sức dân phải gánh nặng thế nào khi có việc xây đình. Xã Thổ Hà ngay từ thời đó đã là một xã có nghề gốm nổi tiếng, kinh tế khá phát triển, mà trẻ con từ 5 tuổi cũng phải đóng góp. Vậy khi các Thái giám đã tự nguyện đóng góp để tạo dựng nên những ngôi đình xứ Bắc, dù là với mong mỏi được thờ cúng về sau, nhưng cũng phản ánh một tình cảm và trách nhiệm với quê hương. 22 tấm bia ghi việc xây đình do các Thái giám đã góp phần tạo ra những ngôi đình xứ Kinh Bắc, tôn thêm nép đẹp văn hóa cho vùng đất này. Ngày nay giới nghiên cứu đang tìm hiểu sự ra đời của đình làng Việt Nam, qua đó để hiểu thêm sự vận động phát triển của làng Việt truyền thống.

Tất cả các Thái giám sau khi làm việc công đức đều được dân bầu là hậu Thần, hậu Phật. Có một vài trường hợp lại được tôn làm Thành hoàng làng như Nội giám Quận công Nguyễn Thái Đường vừa nêu ở trên là một ví dụ. Điều này nói lên cách nhìn nhận, đánh giá của người dân Kinh Bắc thời Lê mạt không bị câu chấp bởi những định kiến của Nho giáo là coi thường các hoạn quan. Khi đương chức, các Thái giám được triều đình trọng dụng, khi về làng, họ được cộng đồng tiếp nhận, tôn kính bởi những đóng góp thực tế của họ đối với quê hương. Có thể nói các Thái giám quê ở Kinh Bắc trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã có những đóng góp quan trọng tạo nên sắc diện mới cho làng quê của họ và những vùng lân cận. Tất cả điều đó đều được phản ánh qua văn bia thời kỳ này, mà bài viết của chúng tôi chỉ mới bước đầu phác họa.

T.V

CHÚ THÍCH

(1) Điều đó được phản ánh trong các bia sau:

Phụng tự Nguyễn gia từ chỉ bi ký (2 bia), kí hiệu 2164-67 và ký hiệu 7098; Lưu truyền tự sự bi ký, kí hiệu 2168 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

(2) Bia Hưng tạo minh đình bi, kí hiệu 2355-56.

(3) Bia Hưng minh sinh từ bi, kí hiệu 2148-49.

(4) Bia Vĩnh Trấn am bi, kí hiệu 2345-47.

(5) Bia lưu truyền tự sự bi, kí hiệu 2168.

Bia Thừa tự bi, kí hiệu 5210-13.

(6) Bia Hậu thần bi ký, ký hiệu 7015-16.

(7) Bia Hậu thần bi ký, ký hiệu 7030-31.

(8) Bia Hậu thần bi - 7089, 9934-35.

(9) Bia Hậu thần bi - 7093 - 94.

(10) Bia Hậu thần bi - 7166 - 69.

(11) Bia Hưng công tu tạo bi ký - 7102-03.

(12) Bia Phụng sự bi - 7152-55.

(13) Bia Hậu thần bi ký - 5370 - 71.

(14) Bia Hậu thần bi ký, - 9815 - 18./.

TB

VỀ VỊ THẦN THỜ Ở ĐỀN BẠCH MÃ PHỐ HÀNG BUỒM, HÀ NỘI

MAI HỒNG

Trong số 4 vị thần trấn giữ bốn phương của Hà Nội thời xưa (tứ thần tứ trấn): bắc Trấn Võ, nam Cao Sơn, tây Linh Lang, đông Bạch Mã) thần Bạch Mã đã đi vào lịch sử kinh đô ngàn năm nước Việt ta với bức hoành đại tự “Đông trấn chính từ” (đền chính thờ thần trấn giữ phía đông)(1). Đáng tiếc là cho đến nay, trong thư tịch cổ vẫn còn một vài ghi chép chưa thật nhất quán về thần Bạch Mã mà chưa được tìm hiểu giải thích đầy đủ.

Trước khi bàn về vấn đề này, xin nhắc lại một chút sự tích thần Bạch Mã hiện được chép trong các sách cổ như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái.

Như chúng ta biết xưa kia, khi Cao Biền người nhà Đường sang cai trị nước ta, có cho bồi đắp thành Đại La. Một hôm Biền đang vơ vẩn dạo chơi ngoài thành cửa đông, thấy có đám mây 5 mầu rực rỡ bốc lên từ mặt đất, rồi tụ lại ở không trung. Giữa đám mây mông lung mờ ảo, Biền thấy hiện ra một người cưỡi rồng vàng, đầu đội mũ hoa đỏ, mình mặc áo tía xiêm thêu, giầy đỏ. Rồi mùi thơm tỏa ra ngào ngạt tiếng nhạc vang lừng, hồi lâu mới tan đi. Đêm hôm đó Biền mộng thấy người gặp lúc ban chiều. Người ấy bảo Biền rằng: “Ta là Long Độ vương khí quân, thấy ông mở rộng kinh thành thì đến xem chơi, chớ có ngờ”. Biền tỉnh dậy sai bọn thủ hạ dựng đền tô tượng, rồi ngầm dùng một tấn sắt đồng làm bùa trấn yểm. Bỗng một trận cuồng phong nổi lên quật đổ cây to, làm cho tất cả đồ yểm bằng sắt đồng đều biến thành cát bụi. Biền than thở: “Ta sẽ phải về đất Bắc thôi”. Quả nhiên sau đó, Biền phải trở về Trung Quốc.

Đến đời Lý Thái Tổ (1010), khi vua dời đô về đây, muốn mở rộng phủ thành, nhưng đắp thành nhiều lần không được. Vua cho người đi hỏi dân chúng, mới biết ở đất này có hiển linh từ trước, vua bèn sai biện lễ cầu đảo. Đêm ấy vua nằm mộng gặp thần tới chúc mừng và dặn nhà vua rằng cứ theo dấu vó ngựa mà đắp, tất sẽ thành công. Bấy giờ vua thấy có con ngựa trắng phi thẳng vào đền rồi biến mất. Hôm sau, nhà vua thấy có dấu chân ngựa in trên mặt đất thành đường vòng tròn, bèn sai người cứ theo đó mà xây thành đắp lũy, xây tới đâu được chắc tới đấy. Nhà vua sai tạc một con ngựa trắng để thờ và ban sắc phong cho thần làm “Thăng Long Thành hoàng Đại vương”. Vì thế gọi đây là đền Bạch Mã (đền Ngựa trắng).

Suốt từ đời Lý Thái Tông sang tới đời Trần, phố xá chợ búa ở Thăng Long trải bao phen bão dông làm đổ nhà đổ cửa, nhiều lần hoả hoạn phố xá cháy hết, nhưng riêng đền thờ thần Bạch Mã vẫn nguyên vẹn. Vua vì thế gia phong cho thần được hưởng lộc: các kỳ nghinh xuân đều cử hành tại đây.

Thái sư Trần Quang Khải từng có thơ(2) đề rằng:

Tích văn hách trạc Đại vương linh,
Kim nhật phương tri quỉ mị kinh.
Hoả bắc tam khu thiêu bất tận,
Phong lôi nhất trận phiến nan khuynh.
Chỉ huy vọng lượng tam thiên chúng,
Hô hấp tiễu trừ bách vạn binh.
Nguyện trượng dư uy thanh Bắc khấu,
Đôn linh vũ trụ lạc thăng bình.

Tạm dịch:

Hiển hách từng nghe tiếng Đại vương,
Nay hay quỉ quái thảy kinh nhường.
Lửa đốt bao phen không thể cháy,
Phong ba một trận chẳng hề long.
Ra tay trừ diệt loài hung quỉ,
Thét lớn một lời dẹp vạn binh.
Nguyện cậy dư uy trừ giặc Bắc,
Khiến cho thiên hạ sống thanh bình.

Sự tích thần đền Bạch Mã vốn dĩ là như vậy. Nhưng về sau lại nảy sinh một số ghi chép không thống nhất.

Trước hết, đền Bạch Mã thờ ai ? Khi đọc tấm văn bia nói về việc trùng tu đền, dựng năm Đinh Mão, niên hiệu Chính Hoà 8 (1687) và sách thờ cúng ở đền, đền này thờ Mã Phục Ba đời Hán, tức Mã Viện từng giữ chức Phục Ba tướng quân. Nhưng theo các sách cổ như VĐUL hay LNCQ như chúng ta vừa thấy, đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ (hay Long Độ) của đất Đại La, tức Thăng Long, nay là Hà Nội.

Sở dĩ có sự nhầm lẫn này, đúng như Trịnh Tuấn Am trong Bạch Mã thần từ khảo chính(2) từng phân tích, là do nhân việc trùng tu đền Bạch Mã vào năm Đinh Mão (1687), bấy giờ bức tường đằng đông bị đổ nát, bọn thương nhân Bắc quốc như Chiêm Trọng Liên đứng ra quyên góp tiền bạc của nhân dân để tu bổ lại đền. Tác giả BMTTKC ngờ rằng rất có thể vào dịp đó người ta (chỉ bọn Trọng Liên) đã đưa tên hiệu của Mã Viện, một nhân vật lịch sử của Trung Quốc vào sách thờ ở đây, từ chữ “Bạch Mã” họ đã chữa ra Mã Viện, điều này không khó. Tác giả kết luận: “Cái cảm ngư lỗ truyền ngoa chi ngộ” tức cảm thấy đây là một sự lầm lẫn, chữ “ngư” đánh thành chữ “lỗ”, nhất thiết phải đính chính, để khỏi truyền mãi cái sai về sau. Cho nên cần phải hiểu đó là nơi thờ thần đất Hà Nội.

Tác giả họ Trịnh còn dẫn ra một số đạo sắc của các triều phong cho thần Bạch Mã mà không hề có một chữ nào nói tới: “Hán Phục Ba tướng quân”. Như các đạo sắc: năm Cảnh Trị 8 (1670), Dương Đức 3 (1674), Vĩnh Khánh 2 (1730), Cảnh Hưng 42 (1782) v.v.

Vấn đề thứ hai, “Long Độ” hay “Long Đỗ”, “Quảng Lợi” hay “Quảng Lại”?

Đây là những từ liên quan đến vị thần thờ ở đền Bạc Mã được chép trong Viện điện u linh dưới tiều đề “Quảng Lợi thánh hựu uy tế phu ứng đại vương”(4) và trong Lĩnh Nam chích quái dưới tiêu đề “Long Đỗ vượng khí truyện (4).

Trong Việt điện u linh, qua 6 dị bản hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà chúng tôi đã có dịp khảo sát, tình hình sử dụng các từ trên cụ thể như sau:

Số TT Kí hiệu Long độ Long đỗ Quảng lợi Quảng lại
1 A.751 X X
2 A.1919 X X
3 A.47 X X
4 A.2879 X X
5 A.335 X X
6 VHv.1503 X X

Trong Lĩnh Nam chích quái, qua 7 trong số 9 dị bản cũng hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà chúng tôi đã có dịp khảo sát, tình hình diễn ra là:

Số TT Kí hiệu Long độ Long đỗ Quảng lợi Quảng lại
1 A.2914 X X
2 A.2107 X
3 A.750 X
4 A.1300 X
5 A.1200 X X
6 VHv.1473 X
7 VHv.1266 X

Qua các bảng thống kê trên, ta thấy “Long Độ” hay “Long Đỗ”, “Quảng Lợi” hay “Quảng Lại”, các bản ghi chép đều không thống nhất. Như trong khi Lĩnh Nam chích quái chép là “Long Đỗ”, thì Việt điện u linh chỉ có một bản chép là “Long Đỗ”, còn hầu hết đều chép là “Long Độ”. Cũng vậy, trong khi Việt điện u linh chép là “Quảng Lợi”, thì ở Lĩnh Nam chích quái, có một trường hợp chép là “Quảng Lợi” và một trường hợp chép là “Quảng Lại”.

Hiểu như thế nào về những chỗ không nhất trí trên đây, và rốt cục, trường hợp nào chép đúng, trường hợp nào chép không đúng?

Hãy bàn về hai từ “Long Độ” và “Long Đỗ”. “Long Độ”, theo Trấn Vũ quán lục A.1040 (Thư viện Viện Hán Nôm), là tên đất Long Biên vào cuối thời Hùng Vương: Long Đô hương. Sĩ Nhiếp khi làm Thái Thú Giao Châu, được phong tước “Long Độ đình hầu”. Thần Bạch Mã, theo truyền thuyết, là biểu tượng của khí thiêng đất Long Độ, nên gọi truyện thần Bạch Mã, là “Long Độ vượng khí truyện”, không phải không có chỗ hợp lý của nó. Đến đời Trần, sử chép có lệ kiêng húy tên Thái sư Trần Thủ Độ, phải chăng chữ “Độ” trong “Long Độ. Vì vậy được viết thành “Long Đỗ”? “Long Đỗ” là bụng của con rồng, nghĩa cũng gần gũi với đất Thăng Long được thành danh từ đời Lý Thái Tổ.

Trong đền thờ thần Bạch Mã hiện còn đôi câu đối:

Xích cầu vân củng lại Long Đỗ,
Bạch Mã thần du nhiễu Phượng Thành
(Rồng đỏ mây chầu Long Đỗ xứ,
Ngựa trắng thần chơi chốn Phượng Thành).

Ở đây, chữ “Long Đỗ” được dùng để đối với chữ “Phượng Thành”, cả hai đều chỉ đất Thăng Long, điều này càng ủng hộ nhận định của chúng tôi cho rằng Long Đỗ là một cách gọi kiêng húy của từ “Long Độ”?

Còn trường hợp “Quảng Lợi” và “Quảng Lại”? “Quảng Lợi” nguyên là “thần hiệu” của Bạch Mã, theo Việt điện u linh. Truyện Quảng Lợi thánh hựu uy tế phu ứng đại vương trong sách này chép “Đến đời nhà Lý, dựng đô ở đây (chỉ Đại La, cũng tức là Long Độ - MH), vua Thái Tông cho mở phố chợ về cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát tới bên đền (chỉ đền Bạch Mã - MH), rất là huyên náo. Muốn dựng đền ra một chỗ khác, song vua lại nghĩ: “Một ngôi đền cổ không nên dời đi”, mới đem sửa sang lại đền, liền với các nhà ngoài phố, riêng để một ngôi nhà làm nơi thờ thần. Đến đêm, thần liền hiển linh, nổi trận gió bấc rất to, các nhà bên đền đều đổ, duy đền thờ thần vẫn nguyên vẹn (...). Liền xuống chiếu cho sửa lễ tế và đặt lệ mỗi năm cứ đầu mùa xuân lại đến đền làm lễ cầu phúc. Lại sắc phong thần là Quảng Lợi đại vương(5). “Quảng Lợi” ở đây có thể hiểu là “làm lợi rộng khắp”. Sang thời Lê, theo sách Bạch Mã thần từ khảo chính, “vì kiêng húy Thái Tổ là Lê Lợi” mà đổi chữ “Lợi” trong “Quảng Lợi” thành chữ “Lại” trong “Quảng Lại” vậy”? “Lại” là “chỗ dựa”, thần Bạch Mã là một chỗ dựa của nước của dân, như thế cũng giữ được ý nghĩa của thần hiệu “Quảng Lợi”.

Tóm lại, vị thần thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội là thần bản địa. “Long Độ”, sau vì kiêng húy, mà đổi thành “Long Đỗ”, đều chỉ đất Hà Nội thời xưa. “Quảng Lợi”, sau cũng do kiêng húy mà đổi thành “Quảng Lại”, đều chỉ thần hiệu của Bạch Mã. Thiết nghĩ các cặp từ đó đều khả dĩ thay thế cho nhau, dù xuất xứ của chúng là thế nào chăng nữa.

M.H

CHÚ THÍCH

(1) ở Hà Nội, thần Bạch Mã còn được thờ ở đình Cối Vũ, giáp Vũ Đông xưa, nay ở số nhà 85 phố Hàng Gai.

(2) Bài thơ này chép vào biển gỗ, nay vẫn để thờ ở tại đền.

(3) Có 2 dị bản không chép truyện thần Bạch Mã.

(4) Có bản chép là “Quảng Lợi đại vương” hoặc “Quảng Lợi hựu thiên đại vương”.

(5) Có bản chép là “Long Đỗ chính khí thần truyện”. Trong Tô Lịch giang thần truyện cũng có chép về thần Bạch Mã.

(6) Xem Việt điện u linh, Bd của Trịnh Đình Rủ, Nxb. Văn học (tái bản), H. 1972, tr.86.

TB

PHÁT HIỆN Ư? KHIÊM NHƯỜNG Ư?

PHAN VĂN CÁC

Không ! Trái lại ! Không hề có phát hiện, chỉ có sự thiếu hiểu biết cộng với thói huyênh hoang vô lối khoác cái áo “khiêm nhường”!

Đó là điều tôi muốn báo cáo với đông đảo độc giả về cách đánh giá và thái độ của tôi đối với “tập sách” Một phát hiện hay là trò chơi khiêm nhường (giải mã chữ Hán) (1).

Không hề có phát hiện mà chỉ có sự thiếu hiểu biết, bởi vì cái mà Nguyễn Quốc Thái, tác giả “tập sách” coi là “lý thuyết mới”, là “luật phổ quát” (tr.30 “khám phá”, “chinh phục chữ Hán bằng những công cụ do mình mới tìm lại được” (tr.17) đồng thời dự đoán “sẽ khai sinh một môn học mới với tên gọi tự diện học” (tr.27) vân vân và vân vân, cùng với bản phụ lục “phân tích hiệp tự 1000 chữ Hán” chiếm ngót 30 trang cuối sách (Tác giả còn cho biết đã làm xong 10.000 chữ), chẳng qua chỉ là phép “phiên thiết” của người Trung Quốc dùng để ghi chú cách đọc từng chữ Hán mà Nguyễn Quốc Thái đã ngộ nhận, tưởng đó là con đường cấu tạo chữ Hán theo một “luật hiệp vận chặt chẽ, cho chữ Hán một độ tin cậy 100%, như với các thứ chữ khác trên thế giới đương đại” (tr.30).

Phép “phiên thiết” được sáng tạo ra từ khoảng cuối đời Hán (đầu thế kỷ II) và từ đầu thế kỉ III được sử dụng khá phổ biến. Bất cứ một người nào có trình độ Hán học sơ đẳng đều biết rằng đó là cách dùng hai chữ Hán A và B để ghi chú âm đọc của một chữ Hán thứ ba X nào đó, trong đó A biểu thị thanh mẫu (thanh mẫu của X trùng với thanh mẫu của A) và B biểu thị vận mẫu (vận mẫu của B trùng với vận mẫu của X). Như vậy để ghi chú âm đọc của một chữ Hán X, người ta có thể dùng các cặp AB, A’B’ hoặc A” B”... và cũng có thể dùng AB’, AB”, hoặc A’B, A’B”, hoặc A”B, A”B”... khác nhau, và về lí thuyết số cách phiên thiết cho một chữ Hán gần như vô hạn.

Lấy một chữ Hán bất kỳ như chữ khung 芎 (là chữ thứ 4 trong phụ lục 1000 chữ của “tập sách” đang xét) chẳng hạn thì cách phiên thiết khẩu + cung mà Nguyễn Quốc Thái nêu ra dưới tên gọi “phân tích hiệp tự” chỉ là một trong vô vàn cách phiên thiết mà thôi. Bởi vì cũng chữ đó, sách “vận thư” (sách vần) cổ của Trung Quốc đã cung cấp nhiều lối phiên thiết khác nhau: Đường vận ghi là khứ 去 + cung宮, Tập vận ghi là khâu 丘 + cung弓, Chính vận lại ghi là khâu 丘 + trung 中 v.v...

Không hiểu nguyên tắc đơn giản đó, Nguyễn Quốc Thái lúng túng vì tưởng lầm là cách cấu tạo chữ nên đã đi đến giải thích lung tung. Thấy người ta dùng Hào + Mục để ghi chú cách đọc chữ Học, lại tưởng là nguyên tắc cấu tự nên nói bừa là “dựa vào chữ hào biến khẩu [?!] đi (dựa vào chữ ở giữa) theo vận chữ mục (thầy mở mắt cho học trò) [??!!]” (tr.20) Với chữ Tàm (con tằm) thì sự lúng túng và lung tung của Nguyễn Quốc Thái càng thể hiện cao độ thành một sự nói liều: “Phải suy nghĩ nhiều hơn, với chữ Tàm nếu để ý sẽ thấy tiên biến khẩu (nhờ 曰, theo chữ Hàm sẽ có Tàm. “[!!!]. Nguỵ biện đến thế là cùng!

Chừng như cũng có chút ý thức về sự vô lí trong lập luận của bản thân, chính Nguyễn Quốc Thái cũng phải mở ngoặc, tự hỏi: (chữ Hàm nằm ở đâu?).

Thật ra làm sao mà tìm được chữ Hàm nằm ở đâu, bởi lẽ đơn giản là làm gì có chữ Hàm trong chữ Tàm. Chẳng qua người ta mượn vần “àm” trong “hàm” để ghép với thanh mẫu “t” trong “tiên”, nhằm chú thích cách đọc “tàm” mà thôi. Cũng cần nói thêm rằng ngay chữ Tiên là chữ A trong cặp chữ phiên thiết A+B (Tiên + Hàm) cũng không hề có mặt trong “tự diện” của Tàm. Chữ Tiên 先 mà Nguyễn Quốc Thái tìm thấy chẳng qua là sự nhầm lẫn vô tình hay cố ý mà thôi, chứ đúng ra trong mặt chữ Tàm 蠶 , trên đầu chỉ có hai chữ 旡 đứng trên một chữ viế t @ làm thành bộ phận biểu âm, kết hợp với hai chữ trùng 虫 là bộ phận biểu ý trong một hình chữ thuộc loại hài thanh mà thôi.

Vả lại, như trên kia đã nói, để chú thích cách đọc Tàm, đâu phải chỉ có một cách phiên thiết Tiên + tàm. Đường vận ghi Tạc hàm thiết, các sách Tập vận, Vận hội, Chính vận ghi Tồ hàm thiết. Tiên hay tồ hay tạc đều chỉ cốt lấy thanh mẫu T mà thôi.

Đến đây, tưởng đã quá đủ để chỉ rõ sự ngộ nhận của Nguyễn Quốc Thái đối với phép phiên thiết. Không chỉ có thế, sự thiếu hiểu biết và nhảm nhí còn thể hiện ở nhiều chỗ, như nói rằng “lục thư là sách 6 chứ không phải sáu cách viết [!] (tr.25), “cấu trúc 3 phần âm dương rõ ràng” (tr.30) v.v... Có cả những câu chắc chắn không ai hiểu nổi, như câu sau đây ở cuối tr.26:

“Lại có những chữ như chữ viết, tử, yêu đã có lúc đóng vai trò vĩ âm, như các cặp đơn nét (-)(+) khác [???!!!].

Trở lên trên là một số dẫn chứng nêu ra làm ví dụ về sự thiếu hiểu biết. Điều đáng nói hơn là sự thiếu hiểu biết ấy lại gắn với một thói huyênh hoang rất vô lối. Nào là “để chinh phục những đỉnh cao, bằng vào tình yêu chưa đủ, còn phải hiểu biết thật sâu rộng nữa” (tr.19). Nào là “lượng thông tin có tính phát hiện khảo cổ học” (tr.18), nào là “với chữ Hán, một cách nhìn mới” (tr.22), nào là “thứ chữ của hàng tỉ người, được soi tỏ dưới ánh sáng, trở thành vật sở hữu của số đông tất cả mọi người” (tr.24), “có tầm ứng dụng rộng lớn không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiêu nước khác” (tr.27). Vân vân và vân vân.

Tưởng không còn sự ba hoa khoác lác nào hơn cách Nguyễn Quốc Thái tự quảng cáo như sau: “Đến nay chúng tôi đã soạn xong cuốn Tự điển Hán - Việt 10.000 chữ có ghi phụ âm (-), nguyên âm (+) và vĩ âm (-+)(2). Trong cuộc hành trình chinh phục Hán ngữ, ở đỉnh cao Hymalaya, một lá cờ đã được cắm lên, vào ngày hôm nay, đó là lá cờ Việt Nam” [!!!] và “với lý thuyết mới... chúng ta sẽ đào tạo được rất nhiều nhân tài, như và hơn ông Quách Mạt Nhược” [!]. Hẳn rằng Nguyễn Quốc Thái, cha đẻ của “lí thuyết mới” phải “khiêm nhường” mà tự nhận là một nhân tài gấp nhiều lần Quách Mạt Nhược ?!

Bài “điểm sách” này tưởng đã quá dài đối với một “tập sách” mỏng, đầy dẫy những điều nhảm nhí khiến bất cứ một người có trình độ Hán học sơ đẳng nào cũng phải nghi ngờ trạng thái tâm thần của tác giả.

Thật ra nếu chỉ là phát ngôn tùy tiện của một người thích đùa tếu chẳng hạn thì hà tất phải nhắc đến làm gì.

Tiếc thay, và nguy hại thay, những nội dung phi khoa học ấy lại được một nhà xuất bản cấp quốc gia, xưa nay được chúng tôi yêu mến là Nhà xuất bản Văn học ấn hành, bìa bóng, chữ Hán ngoài bìa viết đẹp, khá bay bướm, trong sách có 2 ảnh chụp tranh chữ rất duyên dáng và trân trọng.

Không những thế, có cả lời giới thiệu tâng bốc tận mây xanh của một vị Tiến sĩ (có tên họ, chức danh hẳn hoi). Nào là “cách cấu tạo Hán tự theo phát hiện mới vận dụng Dịch lí một sinh hai, hai sinh bốn ...” (tr.9), nào là “Với phát hiện này, chữ Hán được nhìn nhận một cách khác mới lạ” (tr.10), “với phát hiện này, việc học chữ Hán trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn trước rất nhiều”... Và vì là của một Tiến sĩ, cho nên bài giới thiệu không chỉ đề cập đến chữ Hán mà còn dẫn hết chữ Ai Cập cổ, Babylon cổ, Latinh, Hy lạp, Slave, Ả rập, Ba Tư, Hin Di, Pali, vân vân và vân vân (thật vô cùng uyên bác!). Để nhấn mạnh ý nghĩa của “Phát hiện mới” người viết bài giới thiệu còn ngụ ý bác bỏ quan niệm của Vương Lực về cách đọc Hán Việt “mà nhà ngôn ngữ có tiếng ở nước ta Nguyễn Tài Cẩn cũng đồng tình” (tr.10).

Rõ khốn khổ cho Vương Lực và Nguyễn Tài Cẩn !

Xem ra vị Tiến sĩ viết bài giới thiệu này còn huênh hoang hơn nhiều, huênh hoang đến trình độ bậc thầy của tác giả Nguyễn Quốc Thái nữa kia (!), khi khẳng định rằng:

“Với phát hiện này, âm Hán Việt không chỉ là cách phát âm của người Trung Hoa [?] trong đời Đường hay trong thiên niên kỉ I sau Công nguyên mà thời điểm xuất hiện của nó được kéo dài ra rất nhiều [“thời điểm” lại được “kéo dài’], nó được chào đời cùng với thời điểm xuất hiện chữ Hán hoàn chỉnh.

Và người ta cũng phải xem lại Hán tự được ra đời tại Hoàng Hà hay nó là sản phẩm của văn minh Dương Tử, trong vùng đất của các tộc Bách Việt thời Cổ đại, trước khi Tần thống nhất Trung Hoa, làm chủ Trung Nguyên và tràn xuống Giang Nam bình Bách Việt”. [!!!] Ghê chưa, học giả này dường như muốn “phát huy tự hào dân tộc” giành quyền sáng tạo chữ Hán về cho người Việt Nam chắc ?!

Chưa hết, “phát hiện” của Nguyễn Quốc Thái còn được một Giáo sư, nhân danh Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, ca ngợi: “Điều quan trọng nhất mà tôi muốn lưu ý bạn đọc là anh Nguyễn Quốc Thái đã đưa ra thuyết hợp tự để giải mã chữ Hán theo cách đọc Hán Việt. Bằng thuyết này, tác giả đã giải mã thấu triệt [PVC nhấn mạnh] một khối lượng tư liệu đáng tin cậy là 10.000 chữ, mà trong cuốn sách này tác giả mới chỉ đưa ra ví dụ 1000 chữ.

Cơ sở của thuyết hợp tự có liên quan đến truyền thống triết học Đông phương” (thể hiện ở Kinh Dịch) giả thiết về diễn tiến lịch sử của khu vực Bách Việt (thời Việt Vương Câu Tiễn, Khổng Tử).

Theo thiển nghĩ của tôi thì những luận cứ và tư liệu mà tác giả đưa ra là có sức thuyết phục. [PVC nhấn mạnh].

Tóm lại, một sự thiếu hiểu biết cộng với thói huênh hoang tối kị trong khoa học, đã dẫn đến hậu quả tai hại là dựa trên những suy luận phi khoa học, vô căn cứ, người ta đã xúc phạm cả giới Hán học và giới ngôn ngữ học lẫn giới sử học trong nước và trên thế giới. Bởi vì cứ như sách này, thì có một sự thực sờ sờ ra đấy là “chữ Hán là chữ ghi âm, chữ Hán cấu tạo trên cơ sở âm đọc Hán Việt” mà mấy ngàn năm nay học giả Việt Nam, Trung Quốc và thế giới đều chẳng biết gì cả, nay nhờ Nguyễn Quốc Thái “chỉ ra”, trở nên hết sức hiển nhiên và sáng tỏ. [!]

Tưởng chừng đề cao Việt Nam, nhưng “yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau”!

Một cuốn “sách” nhảm nhí như vậy mà được một Tiến sĩ và một giáo sư Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam tâng bốc đến thế, chẳng rõ vì lí do gì ?!

Thiết tưởng nếu cuốn sách đến tay các nhà ngôn ngữ học Trung hoa, và các nhà Hán học thế giới thì người ta sẽ đánh giá giới hạn học và giới ngôn ngữ học Việt Nam như thế nào!

Vì những lẽ trên, chúng tôi buộc lòng phải viết bài này để bày tỏ quan điểm một cách chính thức. Và ước ao giá có phép thần thông gì để ngăn chặn sách khỏi đến tay học giả nước ngoài (nhưng chắc chắn là không có phép thần thông ấy)!

Chúng tôi muốn qua Tạp chí Hán Nôm, cơ quan học thuật chuyên ngành có vai trò nhất định trong việc hướng dẫn dư luận đánh giá những vấn đề về chữ Hán và chữ Nôm, để nói lên một điều tha thiết: Nếu chẳng may cuốn sách đã đến tay các vị học giả nước ngoài thì xin các vị biết cho rằng đó chỉ là sự hiểu biết nông cạn và thói huênh hoang tếu của một vài cá nhân chứ giới Hán học - và cả giới ngôn ngữ học Việt Nam nữa - không hề thừa nhận nó.

P.V.C

TB

"THU THANH" HAY LÀ "THUNG THANH"

HOÀNG HỮU XỨNG

Trên Tạp chí Hán Nôm số 1/87 ông Nguyễn Quảng Tuân ở thành phố Hồ Chí Minh đã nêu đôi câu đối ở đền Kiếp Bạc (Hải Hưng).

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí;
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh”.

Ông cho rằng hai chữ “Thu thanh” nên sửa là Thung thanh mới đúng, vì Thu Thanh chỉ là tiếng mùa thu, còn Thung thanh mới là tiếng đóng cọc trên sông Bạch Đằng.

Tôi rất tâm đắc với ông Nguyễn Quảng Tuân, và muốn cho nhiều người biết được vấn đề nêu ra để có sự đồng tình rộng rãi của độc giả, nên tôi đã nêu vấn đề này lên ở tuần báo Văn nghệ số 23 ngày 10-6-1995. Thì ngay trên số báo 26 ngày 1-7-1995, ông Nguyễn Hồng Lam liền có bài cho là ý kiến của tôi “không có cơ sở”, vì theo ông Hồng Lam thì Thu thanh lấy điển tích ở bài Thu thanh phú của Âu Dương Tu đời Tống bên Trung Quốc.

Tôi đã xem lại bài Thu thanh phú ấy. Bản dịch là của ông Phan Ngọc, một nhà ngôn ngữ học và nghiên cứu Hán Nôm có uy tín ở Hà Nội. Ông Phan Ngọc cũng cho rằng “bài phú ấy không nói gì đến chiến tranh cả”, mà chỉ có đoạn nói rằng: “ Thu là hình quan, lại là biểu tượng binh đao. Thường nó chủ trương tiêu hủy, giết chóc...”

Đành rằng các cụ ta xưa, khi làm văn chương, hay chuộng điển cố. Nhưng trong trường hợp này chúng ta hãy thử xem lại có phải ông Thám Hoa Vũ Phạm Hàm vì chuộng điển cố mà coi nhẹ sự thật lịch sử xưa nay vốn đã gắn chặt với sông nước Lục Đầu hay không?

Trước hết hãy xem ông Vũ Phạm Hàm sáng tác ra đôi câu đối này để làm gì và trong hoàn cảnh nào?

Ông Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong quyển Giai thoại làng nho, xuất bản từ năm 1966 - kỳ thực thì mục Vũ Phạm Hàm ông còn viết trước đó nhiều năm - đã ghi rằng: “Từ chức Đốc học Hà Nội, ông thăng án sát Hưng Hóa, sau về án sát Hải Dương. Qua chơi Kiếp Bạc, ông có đề câu đối đến nay còn treo trong đền:

“Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí;
Lục Đầu vô thủy bất trang thanh(1).

Những núi ở Vạn Kiếp đều có kiếm khí, nước ở sông Lục Đầu chỗ nào cũng có tiếng đóng cọc, đóng chông, bày thế trận để bắt sống quân Tàu (ở các ngã sông Lục Đầu mấy lần ta thắng giặc đều do mẹo đóng cọc đóng chông ngang sông. Khi thủy triều lên, nước ngập không nhìn thấy chông, thuyền giặc kéo vào. Quân ta đợi cho thủy triều rút, thuyền giặc bị nghẽn mới ra đuổi đánh...”.

Rõ ràng khi ông Vũ Phạm Hàm đến sông Lục Đầu, ở đó có đền thờ Trần Hưng Đạo, thì phong cảnh ấy, đền đài sông nước ấy đã gợi cho ông cái cảm xúc đầu tiên để sáng tác đôi câu đối chính là chiến công oanh liệt của vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng. Ông sáng tác câu đối là để ca ngợi vị anh hùng Trần Hưng Đạo đã phá quân Nguyên chính trên vùng sông nước này. Cái sự kiện lịch sử này có một sức gợi cảm mãnh liệt gấp trăm nghìn lần một điển cố mờ nhạt “tiếng thu” lấy trong sách vở. Cái động cơ sáng tác mạnh mẽ ấy đã khiến Vũ Phạm Hàm phải dùng đến biện pháp tu từ: hai tiếng phủ định đi liền nhau (vô và bất) để nhấn mạnh vào cái tiếng đóng cọc còn như văng vẳng bên tai ông. Nên ông đã viết thung thanh để diễn tả cái thứ tiếng ấy. Hơn nữa đây lại là một câu đối thơ. Xúc cảm của hồn thơ lẽ nào lại không chịu sự tác động của hiện thực hùng hồn ấy, mà lại phải dùng đến một điển cố xa vời ?

Không phải là “ngẫu nhiên mà có sự trùng hợp với sự kiện lịch sử sông Bạch Đằng” như ông Nguyễn Hồng Lam đã viết. Vì nếu thế thì chẳng hóa ra; may mà có sự kiện sông Bạch Đằng để nó “ngẫu nhiên trùng hợp” với Thu thanh phú của Âu Dương Tu, chứ nếu không có sự trùng hợp ấy thì sự kiện lịch sử này không đáng làm đề tài để sáng tác ra đôi câu đối trên hay sao?

Ông Nguyễn Quảng Tuân là người đầu tiên nêu lên vấn đề này cũng đã viết “nếu là thu thanh thì sông nào chẳng có tiếng thu khi gặp gió lớn sóng to? Nếu là thung thanh thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi.

Hai chữ thung thanh ấy đã được tìm thấy trong bài văn tế bằng chữ Hán vẫn thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo ngày 20 tháng 8 âm lịch mỗi năm:

Sinh tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật;
Tử hậu lẫm như khí tiết, hạp kiếm lôi minh.

Hai chữ “Thung thanh” ấy lại được tìm thấy trong một đôi câu đối của ông cử nhân Nguyễn Văn Bình:

“Đằng giang vi nhị thứ chi chiến thắng trường, tang hải bất vi thung thực tích;

Vạn lĩnh thị thiên thu chi linh ứng địa, phong lôi trường hưởng kiếm minh thanh”.

Nhưng cái lý hùng hồn nhất, không thể chối cãi được là: Sông Lục Đầu với sông Bạch Đằng chỉ là một con sông. Bên thượng lưu là Lục đầu, bên hạ lưu là Bạch Đằng, như bản đồ kèm theo đây về các trận đánh quân Nguyên hồi thế kỷ XIII đã chỉ rõ.

Không phải tôi là người duy nhất đồng tình với vấn đề ông Nguyễn Quảng Tuân nêu lên, mà thậm chí ở hải ngoại (Mỹ) còn có một cụ già Việt Kiều, năm nay đã trên 80 tuổi cũng vì cái chân lý lịch sử ấy, đã viết thư về hưởng ứng, như ông Nguyễn Quảng Tuân cho biết. Đó là cụ Nguyễn Khắc Kham.

Vì những lẽ trên, tôi vẫn cứ xin giữ ý kiến của tôi là: “Một ông Thám hoa như Vũ Phạm Hàm lẽ nào lại dùng hai chữ thu thanh hầu như không có trọng lượng ở đây? Mà chỉ có thung thanh mới nói lên được cái hào khí Đông A đã một thời oanh liệt mà cả dân tộc Việt Nam ta có quyền tự hào với muôn đời về sau”.

Và xin cứ vẫn đề nghị Bộ Văn hóa nên xem xét để đính chính chữ thu ra chữ thung. Nếu cần thì nên có một Hội thảo quốc gia để cho các bậc cao minh tham gia tranh luận cho sáng tỏ vấn đề.

H.H.X

CHÚ THÍCH

(1) Chữ Thung còn có âm đọc trang hay chang nữa (H.H.X).

TB

NGÀY XUÂN ĐIỂM THƠ XƯA (NHÂN ĐỌC LẠI CUỐN "TÌM HIỂU CÁC TÁC GIA HÁN NÔM
HẢI HƯNG
")

DUY PHI

Ngày xuân, đến với hoa và thơ. Theo các bậc “tao nhân” thì thơ cũng là một thứ hoa. Do vậy mới có câu “Bút thụ hữu hoa huynh đệ lạc”.

Đọc lại tập Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng(1) chừng 130 tác gia, mới thấy văn học Hán Nôm Hải Hưng thật phong phú... Bài này, chỉ xin điểm lại mấy bài thơ ngắn - thơ bốn câu - tứ tuyệt.

Mở lại tập I Thơ đường(2) thấy tuyển trên dưới 200 bài thơ các thể, trong đó thơ 4 câu có 107 bài. Các thi nhân xưa cũng trọng loại thơ ngắn lắm. Thơ 4 câu thường có hai loại. Loại 7 chữ mỗi câu, cả bài 28 chữ; loại 5 chữ mỗi câu, cả bài 20 chữ. Có 28 hoặc chỉ 20 chữ mà có ý có tứ, có hình ảnh truyền đạt được cảm xúc, kí thác được nỗi niềm, lại đứng vững được trước sự xoay vần biến cải.

Xem thế mới biết ngôn ngữ tài tình, văn thơ kỳ diệu. Xưa đi học, mấy ai không thuộc bài Thuật hoà i của Phạm Ngũ Lão (1255-1320).

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Dịch thơ:

Múa giáo non sông đã mấy thu,
Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu.
Công danh nam tử chưa xong trả,
Luống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu

Dịch là “Múa giáo non sông” đã mất ý “Hoành sóc”. Hình ảnh “Múa ngang ngọn giáo” cụ thể và khí phách hơn. Câu “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”, ý thơ lạ, táo bạo, như một sự thăng hoa, có thể gọi là “diệu cú”. Đọc Thuật hoài chợt nhớ Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo. Song ý thơ ở đây có tâm trạng cụ thể, chừng nào, chưa dẹp yên giặc, chưa trả nợ được cho non sông, thì còn hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu (Gia Cát Lượng đời Hậu Hán, Trung Quốc). Thơ Phạm Ngũ Lão nói chí mà vẫn hào mại, trữ tình.

Nếu Thuật hoài là thơ thời chiến thì bài Đông Sơn tự hồ thượng lâu của Phạm Sư Mạnh coi như thơ thời bình.

Phạm Sư Mạnh người làng Hiệp Thạch, Kinh Môn, thế kỷ XVI, từng làm quan đến chức Nhập nội hành khiển, coi Viện khu mật. Bài Đông Sơn tự... như sau:

Trì hoàn cổ tự quỳnh dao xế,
Tùng trúc nhất sơn phong vũ lai,
Chí kim bạch phát thôn tiền tẩu,
Do đạo thái sư bình tặc hồi.

Dịch thơ:

Ao quanh chùa cổ xây thềm ngọc,
Tùng trúc trên đồi toả gió mưa.
Phụ lão trong thôn đầu đã bạc,
Bình Chiêm kể chuyện Thái sư xưa.

Chợt nhớ câu “Bạch đầu cung nữ tại. Nhàn hạ thuyết Huyền Tông”. Song ở đây, khung cảnh khác, các vị phụ lão, tóc bạc “cựu chiến binh” ngồi kể lại chuyện về vị tướng của mình (Thái sư - chỉ Thái sư Tả Thánh, đi đánh giặc phía Nam).

Bài thơ mộc mạc dân dã, như bức tranh đồng quê, vài nét chấm phá mà cảm động.

Về chùa chiền, thiền tăng, còn có bài Sơn tự lão tăng của Nguyễn Bành (thế kỷ XVI, người Đường An, Cẩm Bình). Ông làm quan đến chức “Quốc tử giám Giáo thụ, nhưng lại thích du ngoạn, ẩn dật xa lánh việc đời. Tính “tự do tự tại” của ông bộc lộ rất rõ:

Sơn trung lão chúc phát,
U tự cửu thế thiền.
Độc ngọa vân thâm xứ,
Vô nhân lai vấn niên.

Dịch thơ:

Sư già ở chùa Trong Núi
Gọt đầu tu trong núi,
Chùa xa trải tháng ngày.
Mây sầu người chiếc bóng,
Thăm hỏi tuyệt không ai.
(Theo HVTVT)(3)

Bài Lễ Đễ Sơn Tự của Lê Thiếu Dĩnh (Thế kỷ XV, người Mộ Trạch, Đường An) lại cũng đề tài ấy.

Sơn thâm thanh giản tịch,
Tự cổ bạch vân nhàn.
Khách chí tăng vô thoại,
Tùng phong tự khải quan.

Dịch thơ:

Núi sâu khe vắng vẻ,
Chùa cổ mây trắng bao.
Khách đến sư không hỏi,
Gió tùng đẩy cửa vào.
(Theo HVTVT)

Nguyễn Bành viết “Độc ngọa vân thâm xứ - Vô nhân lai vấn niên”, đã rõ nhà sư trụ trì ở chốn thâm sơn, cô tịch đến hoang lạnh. ý thơ đã hay. Đến bài Lễ Đễ sơn tự của Lê Thiếu Dĩnh ý thơ càng lạ: Mây trắng bao quanh chùa cổ. Khách đến nhà sư không hỏi han. Khách đến rồi khách đi, tự nhiên như ngọn gió thôi. Còn ngọn gió cũng tự nhiên như khách, qua rặng tùng cứ tự đẩy cửa mà vào chùa.

Lê Thiếu Dĩnh đã có sự gạn lọc từ ngữ. Bài thơ đạt đến độ siêu ảo.

Dù trong hoàn cảnh nào, xung quanh thi nhân cũng là vạn vật, hình sắc. Lương Như Hộc (thế kỷ XV, người Thanh Liễu, Tứ Lộc) tỏ ra tinh tế trong việc nắm bắt những biến đổi.

Túc Tứ Kỳ cảng khẩu
Thiên hàn tí dạ Ngọc thằng đê,
Nguyệt sắc mông lung chiếu thiển khê;
Trào thoái thủy ngân sơ xuất thạch,
Chẩm biên thời thính thủy cầm đề.

Dịch thơ:

Ngọc thằng xuống thấp lúc canh khuya,
Bóng nguyệt tờ mờ giọi xuống khe;
Triều rút đá vừa nhô ngấn nước,
Tiếng chim bên gối vẫn thường nghe.

Trời lạnh, nửa đêm, sao Ngọc thằng (một ngôi sao trong chòm Bắc đẩu) xuống thấp. Bóng trăng, khe cạn, triều lui, nhô đá... và vẫn nghe tiếng chim nước kêu. Thiên nhiên ở đây chẳng những được phản ảnh, còn được cảm thụ - một hồn quê lai láng. Với Lương Như Hộc, thiên nhiên như thế. Với Vương Sư Bá (Thế kỷ XVI, Đông Yên, Châu Giang) thiên nhiên lại khác:

Xuân
Liễu tơ đình viện ngọ âm âm,
Liêm mạc đê thùy thụy yến thâm.
Nhàn ỷ lan can cùng vật hoá,
Khước y hình sắc hiện thiên tâm.

Dịch thơ:

Mùa xuân
Một sân tơ liễu bóng im rơi,
Rèm phủ màn che én nghỉ ngơi.
Ngồi dựa lan can suy lẽ vật,
Nhận theo hình sắc thấy lòng trời.
(Theo HVTVT)

Hai câu đầu chỉ là mô tả một buổi trưa. Cảnh tĩnh. Đến câu ba, câu bốn thì mạch thơ bỗng chuyển thành động Thiên nhiên không còn được thụ cảm bằng giác quan, đã được nhận thức bằng trí tuệ.

Thơ thiền thời Lý, có câu: “Càn khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”. Mảy lông chứa cả càn khôn rộng. Hạt cải thu gồm nhật nguyệt trong.

Có lẽ cũng là thấm sâu triết lý của Dịch học, thơ thiền thời Lý chỉ rõ quan hệ giữa vạn vật là sự khép. Còn thơ Vương Sư Bá nghiêng về phía cảm nhận, có độ mở... Và “lòng trời” bao giờ cũng huyền vi hơn những triết lý màu xám”.

Đọc thơ 4 câu, khó mà quên được bài Nguyên nhật của Lê Cảnh Tuân, thế kỷ XV. Ông người làng Mộ Trạch, Đường An (Cẩm Bình). Ông từng viết “Vạn ngôn thư” đòi giặc phải lập lại nhà Trần để “Nam quốc... nam đế cư”, nếu không thà “đi câu cá, cày ruộng để trọn nghĩa”, chứ quyết không chịu cộng sự với giặc. Giặc giam ông tại ngục Kim Lăng. Bài thơ Nguyên nhật được làm trong những tháng ngày bị giam hãm nơi đất khách, động lòng cố quốc:

Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân phục lai.
Quy kỳ hà nhật thị,
Lão tận cố hương mai.

(Đã có bản dịch thơ:

Đất khách ngày bao trải,
Trời xuân năm thứ hai.
Kỳ về còn chửa định,
Quê cũ đã chồi mai.)
(Theo Nam phong - 1927)

Câu thứ nhất “Lữ quán khách nhưng tại”, dịch là “đất khách ngày bao trải” còn gọi là được. Câu thứ hai “Khứ niên xuân phục lai” có ý “Năm đã qua đi, mùa xuân lại về”.

Để lấy vần, đưa cả số từ thứ tự “thứ hai” vào. Gượng ép. Nguyên văn đâu có nói xuân thứ hai thứ ba, hay thứ sáu (theo sử sách, 6 năm). Đến câu thứ ba “Quy kỳ hà nhật thị” ý là “Ngày về nước biết đến bao giờ đây”? Thế mà dịch “Ngày về còn chưa định”. Kẻ bị giam hãm, còn trông chờ vào rủi may, số phận, định sao được ngày về ? Dịch giả đã làm lạc ý tác giả. Câu thơ mất phần chua xót tai oán.

Đến câu cuối “Lão tận cố hương mai”, ý câu thơ: “Cây mai nơi làng cũ hẳn già lắm rồi. “Lão tận” là già hết, có thể không còn gì nữa, dịch: “Quê cũ đã chồi mai”, thì lại có ý đẹp.

Câu thơ dịch hẹp, nông. Dịch như vậy, đúng nghĩa là phản. ấy thế mà bản dịch này lại là bản dịch thơ duy nhất dùng trong một “Hợp tuyển thơ văn” toàn quốc dày dặn, nghiêm túc, đang có trong các giá sách nhà trường thư viện.

Nhóm làm sách Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng có lẽ tinh ý và thận trọng, đã chọn bản dịch trong Hoàng Việt thi văn tuyển:

Quê người khách hãy còn đây,
Mùa xuân năm ngoái hôm nay lại về.
Còn ta biết đến bao giờ,
Cố hương e đã mai già còn chi.

Tuy từ thất ngôn chuyển thành lục bát, hai lần buông vần lấy ý, nhưng bản dịch còn giữ được sự nhuần nhị tinh tế.

Nhân đây, xin mạnh dạn cung cấp một bản dịch nữa để bạn đọc tham khảo, rộng chọn:

Còn đây, nơi đất khách,
Ngày tháng đi, xuân về.
Bao giờ ta trở lại ?
Mai già còn đất quê ?

Thơ tứ tuyệt Hải Hưng phải kể đến bài Mộ xuân tức sự của Nguyễn Trãi (1380-1442):

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

Dịch thơ:

Ngày nhàn khép chặt cửa phòng văn,
Khách tục không ai bén tới gần;
Tiếng cuốc gào xuân, xuân sắp hết,
Hoa xoan mới nở điểm mưa nhuần.
(Ngô Văn Triện dịch)

“Tận nhật bế thư trai”, khép cửa phòng văn suốt ngày... không có khách tục tới. Hoàn toàn được tĩnh lặng. Người thường sống với vạn vật, giao cảm với vạn vật. “Bậc tao nhân” Lại muốn được như ngoại vật” (cái thân ngoại vật là tiên trên đời).

Khép cửa phòng văn để sống với tâm linh, nhưng không phải là ẩn dật xa lánh cõi đời, như những thiền sư. Nguyễn Trãi, vẫn nghe cuộc sống quanh mình và cuộc sống chính là mùa xuân thúc gọi: tiếng cuốc gào, mùa xuân sắp hết, nhưng kìa một sân “sơ vũ” mưa nhỏ, lất phất, lác đác, đủ để hoa xoan nở... Cốt cách một tiên ông, và câu thơ thì nhuần nhị, đầm ấm, hương vị dư ba... Bốn câu cũng rõ bút lực của đại thi hào...

Tập Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng ra đời đã trên 20 mùa xuân, là một công trình công phu có giá trị. Nếu có điều kiện có thể làm lại để nâng lên tầm mới. Nên in cả phần chữ Hán. Tiểu sử tác gia nên liền với phần thơ văn trích, chọn. Và cũng nên xem lại cả nội dung tuyển chọn. Làm sao để mỗi bài thơ văn của tiền nhân giữ nguyên thế đẹp như những lão mai, nở hoa tỏa hương mãi mãi.

D.P

CHÚ THÍCH

(1) Ty Văn hóa Hải Hưng, xuất bản, 1973.

(2) Nxb.Văn học, 1962.

(3) Bùi Huy Bích, Nxb. Văn hóa, H. 1957.

TB

THÊM MỘT CUỐN SÁCH NÓI VỀ CÁC
NHÀ KHOA BẢNG "ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA THỰC LỤC"

NGUYỄN QUANG KHẢI

Lâu nay, các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về tình hình khoa cử nước ta, thường nhắc đến những cuốn sách:

- Đại Việt lịch triều Tiến sĩ khoa thực lục,

- Đăng khoa lục sưu giảng.

- Đăng khoa lục hợp biên

- Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.

- Lịch triều đăng khoa lục

- Lêtriều lịch đại khoa Tiến sĩ đề danh bi ký.

- Quốc triều hương khoa lục.

- Quốc triều khoa bảng lục.

- Tam khôi lục.

- Tam khôi bị lục.

- Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo .

- Thiên Nam lịch triều Tiến sĩ đăng khoa lục.

Nhưng giường như chưa có ai nhắc đến quyển: Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục.

Đây là một quyển sách chữ Hán chép tay của một gia đình có truyền thống khoa bảng của huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc. Sách đã bị rách một số tờ đầu và mất một số tờ cuối. Do một số tờ đều bị rách và trong sách thỉnh thoảng có tờ bị mất nên việc xác định tên người biên soạn và năm biên soạn gặp khó khăn. Nhưng việc tìm hiểu nội dung cuốn sách không vì thế mà gặp trở ngại.

Hiện tại, sách còn 197 tờ, viết trên giấy dó mỏng nhưng dai. Sách có khổ 27x18cm, bìa được bồi kỹ bằng giấy bản phết cậy; sách được đóng bằng sợi giấy dó xe kỹ; gáy và các mép sách đều được phết cậy để bảo quản được lâu. Chữ viết dễ đọc, trong đó tên triều đại, khoa thi và tên người đỗ được viết to; tên xã, huyện, học vị, chức tước, sự nghiệp, đời tư... được viết chữ nhỏ và đá thảo.

Tờ đầu kê tổng số người đỗ đại khoa của Đông Ngàn từ thời Tiền Lê cho đến Hậu Lê, với tổng số là 127 vị, trong đó ghi: Xã Tam Sơn 15; Hương Mạc 9; Phù Khê 7; Trang Liệt 7; Hà Lỗ 6; Kim Thiều 7; Vĩnh Kiều 10; Hà Khê 2; Nghĩa Lập 2; Phù Ninh 3; Đông Sơn 3; Cẩm Giang 2; Phúc Khê 3, v.v...

Tờ 2a và đến giữa tờ 2b ghi một bài tựa, nhưng bị rách mất nhiều đoạn. ở cuối tờ 2b và đầu tờ 3a có ghi:

“Lê (mất một chữ) Vĩnh (mất một chữ) thất niên, ngũ nguyệt, cốc nhật. Tứ (mất 4 chữ) sỹ, Vương phủ Tham tụng, Binh bộ Thượng thư kiêm Thiêm sự, chưởng Hàn lâm Viện Thị giảng, Thiếu phó, Diễn Gia hầu (mất 5 chữ) soạn, Nông Cống huyện, Cổ Định xã”.

Tờ 4a có dòng chữ: “Quốc triều thế khoa đường đồ” và ghi: Kinh Bắc 10, Hải Dương 6, Nam 2, Đoài 2, Nghệ 1, cộng là 21 hộ. Sau đó kê họ tên cha, con, cháu, học vị, năm đỗ, chức tước của 22 dòng họ có nhiều người đỗ đại khoa của các trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Nghệ An. Đó là các dòng họ:

- Họ Thân Nhân, xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng (Kinh Bắc).

- Họ Trần, xã Lương Xá, huyện Chương Đức (Sơn Tây).

- Họ Ngô, xã Tam Sơn, huyện Đông Ngạn (Kinh Bắc).

- Họ Phạm, xã Man Nhuế, huyện Thanh Lâm (Hải Dương).

- Họ Nguyễn, xã Lý Hải, huyện Yên Lãng (Sơn Tây).

- Họ Nguyễn, xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai (Sơn Nam).

- Họ Ngô, xã Phù Vệ, huyện Đường Hào (Hải Dương).

- Họ Nguyễn, xã Vĩnh Thế, huyện Siêu Loại (Kinh Bắc).

- Họ Nguyễn, xã Vĩnh Kiều, huyện Đông Ngạn (Kinh Bắc).

- Họ Ngô, xã Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong (Kinh Bắc).

- Họ Ngô, xã Lý Trai, huyện Đông Thành (Nghệ An).

- Họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Đường An (Hải Dương).

- Họ Nguyễn và họ Phạm xã Kim Đôi, huyện Vũ Giàng (Kinh Bắc).

- Họ Thân, xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng (Kinh Bắc).

- Họ Ngô, xã Tam Sơn, huyện Đông Ngạn (Kinh Bắc).

- Họ Nhữ, xã Mộ Trạch, huyện Đường An (Hải Dương).

- Họ Lê, xã Phan Xá, huyện Đường Hào (Hải Dương).

- Họ Trần, xã Chân Trì, huyện Chí Linh (Hải Dương).

- Họ Tạ, xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng (Sơn Tây).

- Họ Nguyễn, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm (Kinh Bắc).

- Họ Nguyễn, xã Phật Tích, huyện Tiên Du (Kinh Bắc).

- Họ Trần, xã Bảo Triện, huyện Gia Bình (Kinh Bắc).

Từ tờ 9a đến tờ 197b (không kể những tờ tiếp theo đã bị mất), chép danh sách Tiến sĩ của cả nước đỗ từ khoa ất Sửu thời Lý Nhân Tông (1075) đến khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 thời Lê Hiển Tông (1769), gồm 2206 vị của 116 khoa thi, với các mục: họ tên, quê quán (xã, huyện), năm đỗ, loại học vị, chức tước, sự nghiệp và những chi tiết đặc biệt về đời tư.

*
**

Tìm hiểu kỹ cuốn sách này, chúng tôi thấy:

1. Như trên đã đề cập, ở cuối tờ 2b và đầu tờ 3a, chúng ta còn đọc được “Lê (mất một chữ) Vĩnh (mất một chữ) thất niên”. Chữ bị mất sau chữ Lê chắc là chữ triều. Còn chữ mất sau chữ Vĩnh chắc là gì? Theo Niên biểu Việt Nam (in lần thứ 2 có bổ sung) của Vụ Bảo tồn Bảo tàng (Nhà xuất bản KHXH, H.1970) thì niên hiệu thời Lê, chữ đầu là Vĩnh, có Vĩnh Tộ (1619-1628), Vĩnh Thọ (1658-1661), Vĩnh Trị (1676-1680), Vĩnh Thịnh (1705-1719), Vĩnh Khánh (1729-1732), Vĩnh Hựu (1735-1740). Trong số những niên hiệu này, chỉ có niên hiệu Vĩnh Tộ (1619-1628) và niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1740) là có thời gian trên 7 năm, còn không có niên hiệu nào kéo dài quá 6 năm cả.

Tìm trong sách Lịch triều hiến chương loại chí (tập I - Mục Nhân vật chí) thì trong thời Lê Trung hưng (1533-1788) ở xã Cổ Định, huyện Nông Cống (Thanh Hóa) có một người có chức tước giống như chức tước của soạn giả cuốn Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục. Đó là Tiến sĩ Lê Bật Tư. Sách đó (Lịch triều hiến chương loại chí) viết như sau:

“Lê Bật Tư: người xã Cổ Định, huyện Nông Cống (Thanh Hoá). Năm 36 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, năm Quang Hưng thứ 21 (1598). Đầu năm Hoằng Định được phong tước Diễn Gia hầu. Năm Bính Ngọ (1606) làm Chánh sứ đi sang nhà Minh tạ ơn về việc [Vua Lê được] phong vương.

Mùa hạ năm Mậu Thân (1608), đi sứ về. Vì có công nên được thăng Tả thị lang bộ Hộ. Thần Tông lên ngôi, thăng ông làm Thượng thư bộ Binh. ít lâu sau cho vào làm Tham tụng trong phủ Chúa. Trải phong đến Thiếu phó.

Mùa đông năm Đinh Mão (1627), ông mất, thọ 65 tuổi. Tặng Thái bảo, tước Diễn quận công, tên thụy là Hòa Nghĩa(1).

Như vậy, chúng ta có thể biết được là soạn giả của cuốn Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục là Lê Bật Tư, người xã Cổ Định, huyện Nông Cống (Thanh Hóa), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Mậu Tuất.

Về thời điểm biên soạn cuốn sách: Như ở trên chúng tôi đã trình bày là trong số những niên hiệu có chữ đầu là Vĩnh chỉ có niên hiêụ Vĩnh Tộ và niên hiệu Vĩnh Thịnh là có thời gian trên 7 năm. Nhưng xét ra, chỉ có niên hiệu Vĩnh Tộ mới phù hợp với thời kỳ Lê Bật Tư còn sống cùng với những chức tước của ông. Điều này càng giúp chúng ta khẳng định soạn giả cuốn sách Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục là Lê Bật Tư, người xã Cổ Định, huyện Nông Cống (Thanh Hóa) chứ không phải ai khác. Những chữ bị mất ở cuối tờ 2b và đầu tờ 3a cần được khôi phục lại là:

“Lê triều Vĩnh Tộ thất niên, ngũ nguyệt, cốc nhật. Tứ Mậu Tuất khoa Tiến sĩ, Vương phủ Tham tụng, Binh bộ Thượng thư kiêm Thiêm sự, chưởng Hàn lâm viện Thị giảng, Thiếu phó, Diễn Gia hầu, thần Lê Bật Tư phụng soạn. Nông Cống huyện, Cổ Định xã”.

Như vậy, cuốn Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục mà chúng tôi hiện có trong tay được Tiến sĩ Lê Bật Tư soạn vào ngày tốt, tháng 5 năm 1625, cách ngày nay (1995) 370 năm.

2. Nhưng, không kể những tờ đã mất ở cuối sách thì ở tờ 197b còn ghi những vị Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 (1769) và ở tờ 8b còn ghi tên Trần Danh án người xã Bảo Triện, huyện Gia Định là người đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên - 1787 (trong mục “Quốc triều thế khoa đường đỗ” chép 21 dòng họ có nhiều người đỗ trong cả nước) thì chứng tỏ sách này đã được người đời sau sao chép lại và chép thêm. Những đoạn chép thêm là từ tờ 2a đến tờ 8b và từ khoa Mậu Thìn (1628) cho đến khoa Đinh Mùi (1787).

Thời điểm chép lại là từ bao giờ? Căn cứ vào mục “Quốc triều thế khoa đường đỗ” (từ tờ 4a đến tờ 8b) chỉ chép đến người đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi thời Lê Chiêu Thống (1787), thì có thể đoán được là lần chép lại và chép thêm này diễn ra vào năm 1787 hoặc 1788. Và chép lại dựa vào cuốn của Tiến sĩ Lê Bật Tư soạn vào năm 1625.

Như trên đã dẫn, ở tờ đầu kê tổng số người đỗ đại khoa của huyện Đông Ngạn từ thời tiền Lê đến hậu Lê, trong đó có địa danh Hương Mặc. Như chúng ta đã biết, địa danh Hương Mặc chỉ có từ năm 1821 (trước đó gọi là Ông Mặc). Như vậy chúng ta có thể biết rằng, tờ đầu vốn trước kia được để trắng, sau này (từ 1821 trở đi) mới được chép thêm vào.

3. Đây là một tài liệu ghi chép hành trạng các vị đỗ đại khoa của nước ta từ thời Lý đến thời Lê tương đối tỷ mỷ hơn những cuốn đăng khoa lục khác. Mặc dù bị mất một số tờ cuối, nhưng chúng tôi thấy đây là một trong những tài liệu quý mà những người có tâm với sự học của nước nhà còn giữ gìn được. Đặc biệt, qua tài liệu này, chúng ta biết được thêm một người có công biên soạn loại sách khoa bảng ở nước ta, bên cạnh những vị: Lê Nguyên Trung, Lê Đình Diên, Vũ Miên, Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lăng, Vũ Duy Đoán, Cao Xuân Dục v.v... Đó là Lê Bật Tứ.

N.Q.K

CHÚ THÍCH

(1) Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1 - Nhân vật chí, Nxb. KHXH, H.1992, tr.271,272.

TB

MỘT TẤM BIA VỪA PHÁT HIỆN, CÓ NHIỀU MẶT LIÊN QUAN ĐẾN TIỂU SỬ NGUYỄN VĂN SIÊU

TRẦN LÊ SÁNG

Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là một trong những nhà học giả lớn của nước ta ở thế kỷ XIX. Không ít người đã nghiên cứu về ông; song trong tiểu sử của ông vẫn còn một số điểm chưa rõ, như về năm sinh, học trò, các con, tên thụy, v.v... Nay chúng tôi sưu tầm, giới thiệu tấm bia Thần đạo có liên quan đến nhiều phương diện còn đang nghi vấn như vừa nêu trong việc nghiên cứu về danh nhân Phương Đình Nguyễn Văn Siêu.

Tấm bia này dựng ở khu lăng Chí Đạo tại Kim Lũ (làng Lủ), xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Bia cao 1m3, rộng 0,7m hai mặt đều có chữ; bia có nhà bia chắc chắn, song hiện nay một vài dòng, một số chữ trong văn bia đã bị mòn, bị mờ.

Ngày 29 tháng 11 năm 1995, tôi đã cùng các nhà nghiên cứu Hán Nôm là Mai Ngọc Hồng, Nguyễn Hữu Tưởng, Ngô Vương Anh đến khảo sát và rập tấm bia này. Sau khi bản dịch hoàn thành, chúng tôi lại được sự góp ý thêm của nhà nghiên cứu Hán Nôm Hoàng Văn Lâu. Xin trân trọng cảm ơn.

Sau đây là bản dịch toàn bộ bài văn khắc trên bia.

Bia thần đạo ở lăng tiên sinh
Phương Đình thụy chí đạo
(Phương Đình Chí Đạo Tiên sinh Thần đạo bi)

Người sĩ quân tử gặp thời vận, được làm quan thì coi việc giấy tờ, giúp vua giúp nước, khiến dân no ấm, lui về thì dạy học, làm sáng đạo hiếu đễ trung tín, giúp đời đào tạo nhân tài; cảnh ngộ tuy khác nhau, song Đạo vẫn là một. Nền giáo dục nước ta thịnh vượng, đào tạo được nhiều hiền tài; đó là nhờ sự coi trọng chính học kinh điển. Trong đó, người làm sáng Đạo xưa, nổi tiếng trong giới nhà Nho, xứng đáng đứng đầu của lớp học sau phải kể đến Phương Đình Nguyễn Tiên sinh. Tiên sinh qui về cõi đạo đã hơn hai mươi năm, các học trò bàn với nhau muốn soạn bài văn khắc bia để làm sáng tỏ cuộc đời sự nghiệp học thuật và đức độ của Tiên sinh. Thiết nghĩ, Tiên sinh là người mà tôi ngưỡng vọng, công đức của Tiên sinh phải được truyền mãi cho đời sau; nhưng Trọng Hợp(1) tôi là người ngu tối, không thể biết hết công đức ấy, dù chỉ trong muôn một. Vậy làm sao có thể đương nổi việc nặng này. Nhưng các vị học trò của Tiên sinh nhiều lần kiên quyết đến thúc tôi viết, tôi không thể chối từ được, phải viết đôi điều. Tiên sinh huý là Văn Siêu, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình, còn Chí Đạo là tên thụy do các học trò riêng đặt cho Tiên sinh.

Từ cụ thủy tổ đến đời Ông của Tiên sinh, trải tám đời, đều ẩn đức ở quê, thân phụ Hoằng Nghị Công mới theo nghiệp Nho; học rộng, hiệu cổ. Xem kỹ bản Thế phả mà Trọng Hợp tôi có, Tiên sinh là con trưởng.

Tiên sinh khi mới sinh đã có tướng lạ; thân thể mạnh mẽ, mặt vuông, lòng bàn tay đỏ như tô son, tiếng vang; nhìn đã thấy uy nghi, cứng cỏi. Khi còn nhỏ đã lỗi lạc, tuổi mới thiếu niên đã nói những câu kinh dị. Hoằng Nghị Công thường vẫn lấy tiết tháo để khuyến khích thậm chí khí của Tiên sinh. Đến tuổi thành niên, Tiên sinh theo học Lập Trai Phạm Công(2) Tiên sinh càng thêm chuyên tâm về việc học, tung hoành ở văn từ cổ, không chịu gò bó với kiểu học thường tục, nổi tiếng học giỏi. Năm ất Dậu (1825), đời Minh Mệnh, Tiên sinh nhiều lần nhận được giấy chiêu hiền, nhưng Tiên sinh từ chối, không đi dự tuyển. Tiên sinh ở nhà phụng dưỡng cha mẹ và dạy dỗ các em, sau hơn mười năm mới đi thi và đậu Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838) được nhận chức Kiểm thảo ở Viện hàn lâm. Đầu thời Triệu Trị, Tiên sinh nhận chức Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; vì có việc bị miễn, sau lại được phục chức Thừa chí ở Nội các. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Tiên sinh được thăng lên chức Thị giảng Học sĩ. Năm sau, Tiên sinh lại làm Phó sứ sang nhà Thanh. Trong thời gian đi Sứ, Tiên sinh sáng tác tập thơ Vạn lý. Đi Sứ về, Tiên sinh được bổ chức ở Viện Tập hiền sung Kinh diên Khởi cư chú. Sau đó làm án sát sứ tỉnh Hà Tĩnh, một thời gian ngắn, đổi ra tỉnh Hưng Yên. Thời gian này có việc bàn luận về sự bỏ đê, Tiên sinh viết điều trần nói thẳng thắn; bởi vậy, năm Tự Đức thứ 7, tức năm Giáp Dần (1854), vì việc nghị luận ấy mà phải hạ ba cấp. Nhân đó, Tiên sinh lấy cớ ốm yếu, xin về quê nhà.

Về quê, Tiên sinh dựng trường dạy học tại chỗ nhà cũ ở giáp Giang Nguyên, huyện Thọ Xương; không còn ý làm quan nữa. Nhưng khi quận bên có giặc, Tiên sinh đã lấy của nhà đóng góp cho việc canh giữ; quan sở tại đã viết tờ tâu công trạng của Tiên sinh, Tiên sinh được ban hàm Thị độc trí sự Viện hàn lâm.

Từ sau khi thôi làm quan, bởi văn tài của Tiên sinh từng được vua các triều trước quý trọng(3), vì vậy triều đình đương thời mỗi khi có việc lớn, các giấy tờ quan trọng phần nhiều vẫn nhờ Tiên sinh viết. Vua Hiến Tổ thường khen văn chương của Tiên sinh uẩn súc(4). Vua Tự Đức khi chưa lên ngôi đã rất quý trọng Tiên sinh, khi đã lên ngôi càng thêm quý trọng Tiên sinh. Khi Tiên sinh đi Sứ, vua Tự Đức có dặn: “Khanh học vấn uyên bác, lần này đi, nên ghi chép kỹ phong vật núi sông, chờ ngày về, dâng cho trẫm xem sách ấy”. Nhà vua quý trọng Tiên sinh đến như vậy. Tiên sinh đã nổi tiếng, lại gặp thời thịnh, danh tiếng càng vời vợi như mây ráng, các bậc danh sĩ đương thời đều khâm phục. Đến khi tuổi cao, danh đức càng đầy; Tiên sinh dạy lớp hậu học, tuy sắc mặt hiền hậu, lời nói dịu dàng, nhưng người được tiếp vẫn thấy mình như được lên cửa rồng. Về việc học. Tiên sinh đi sâu vào nghĩa lý kinh sách, xem chú giải của tiên Nho, gặp chỗ khó đáng ngờ thì nghĩ rộng ra để tìm nghĩa lý bên trong. Nhờ vậy mà học trò của Tiên sinh nhiều người có thành tựu.

Những trước tác của Tiên sinh có: Tuỳ bút lục, Địa dư chí cùng nhiều tập thơ văn khác. Trước tác của Tiên sinh nội dung phong phú, khảo cứu công phu. Tiên sinh viết nhiều, so với các tác giả lớn đương thời chỉ có hơn chứ không kém.

Tiên sinh mất ngày mồng bảy tháng sáu năm Nhâm Thân (1872), sinh ngày mồng Ba tháng Bảy năm Kỷ Mùi (1799); hưởng thọ bảy mươi tư tuổi. Trước, Tiên sinh lấy bà họ Hoàng, sau lấy bà họ Bùi, có ba người con trai. Ông Tập Hinh mất trước, ông thứ là Dĩnh được di mệnh làm chủ việc tế; nay giữ chức Biên tu ở huyện Kim Sơn. Ông thứ ba là Xiển. Con gái có bốn người, người trưởng gả về họ Vũ ở Lương Đường; chồng chết, thủ tiết đến năm gần năm mươi tuổi. Vua nghe tin, ra sắc khen ngợi. Người út gả cho án sát sứ Hải Dương là ông Trịnh Tiên Sính, người Định Công. Hai người khác cũng đều lấy chồng ở họ có danh tiếng. Tháng mười một quy táng ở xứ Trại, làng Kim Lũ; nơi đất do Tiên sinh chọn trước.

Tiên sinh cùng dòng thủy tổ với tôi, đến đời thân phụ của Tiên sinh mới dời ra giáp Giang Nguyên, huyện Thọ Xương, làm nhà ở đó. Tiên sinh là người rất nhớ công đức Tổ tiên, ông bèn lập nhà thờ thủy tổ tại làng này; các tiểu tông có người thi đỗ, được ăn lộc quan đều đặt ruộng tế. Hàng năm, đến ngày Đông chí, họp họ đến tế. Giáp này còn dựng đền thờ thần sông Tô Lịch; triều đình có sắc cho xuân thu hợp tế Tiên sinh với Đô Đài công là Tiến sĩ đời Trần(4). Nếu không tế ở đây thì tế ở xã. Việc như vẫn còn đây! Nhưng vẫn còn đây!

Vậy làm bài Minh rằng:

Sông Tô nước đầy, chảy mạnh lâu dài;
Tích đức được báo, các đời thịnh vượng.
Đất sinh danh nhân, đó là điềm lành;
Kinh sách uyên bác, tất thành văn chương;
Rực rỡ toả sáng, nước nhà vinh quang.
Lễ nghi Chu, Khổng, phong hóa Ngu, Đường;
Lưỡng Hán văn chất, Sáu Kinh phép thường;
Đâu thiếu tài đức, lui cốt thiện tàng.
Làm gương mực thước, tư văn đống lương;
Nghiền tinh đạo nghĩa, rèn cặp văn chương;
Vui được anh tài, học sĩ mãn đường.
Lấy Đạo mà về, tuy tối mà sáng;
Tích công dưỡng tính, trường thọ an khang;
Không sai không sót, gặp nhiều cát tường.
ở chốn Cảnh Sơn, mãi mãi thơm hương;
Trong sáng trác tuyệt, đức âm không quên.

Đồng Tiến sĩ khoa ất Sửu (1865), Phủ. Chính đại thần Đặc tiến Vinh lộc Đại phu, Văn Minh điện Đại học sĩ sung Cơ mật viện Đại thần, Quốc sử quán Tống tài kiêm quản Khâm thiên giám sự Vụ Vĩnh Trung Tử Trọng Hợp cẩn soạn(5).

Thành Thái năm thứ 6

Ngày tốt tháng giêng năm Giáp Ngọ (1894).

Học trò trường Giang Nguyên:

Tú tài Thiết Trụ Nguyễn Cẩn, Tú tài Bài Nhiễm Vũ Duy Khôi, Tú tài Hữu Miện Nguyễn Phấn, ấm sinh Trịnh Đình Vũ, Viên tử Hương Mặc Đàm Thận Vĩnh, Cẩm Khê huyện Huấn đạo Kim Lũ Cung Hữu Khác, Điển bạ lĩnh Lập Thạch huyện Tri huyện Phú Diễn Nguyễn Trang, Bát phẩm Phú Thị Nguyễn Nghi Vịnh, nguyên lĩnh Khoái Châu phủ Tri phủ Đông Ngạc Cao Duy Trân, Thị độc lĩnh Quảng Uy phủ Giáo thụ Thanh Trì Nguyễn Chất, nguyên Phú Bình phủ Tri phủ Hoạch Trạch Lê Như Nhạc, Hàn lâm viên Thị độc Nhân Mục Nguyễn Khắc Chước, Thị độc nguyên lĩnh Hải Dương án sát sứ Đông Hoàng Nguyễn Giáp, Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Hà Yên Tổng đốc Vĩnh Xương Trần Lưu Tuệ, Thự Hiệp biện Đại học sĩ sung Bắc Kỳ Kinh lược nha Thương tá Bình Hồ Nguyễn Khắc Vĩ, Quang lộc tự khanh gia nhất trật nguyên lĩnh Ninh Bình Tuần phủ ty nhạc Vũ Cẩn, Thị giảng Học sĩ lĩnh Hải Dương án sát sứ Định Công Trịnh Tiên Sính, nguyên Ngự sử Kim Bài Lê Văn Xuân, Tri phủ lĩnh ý Yên phủ Đồng phủ Kim quan Đinh Gia Phong, Tu soạn lĩnh Đa Phúc phủ Giáo thụ Kim Lũ Cung Đạo Thành, Tu soạn lĩnh Gia Lâm huyện Huấn đạo Mai Lĩnh Nguyễn Trác, Biên tu lĩnh Phúc Thọ huyện Huấn đạo Tây Tựu Nguyễn Ngoạt, Trường Khánh phủ Giáo thụ Thanh Oai Ngô ái, Điển tịch Tự Tháp Vũ Gia Cẩn, Hàn lâm cung phụng Nhân Mục Nguyễn Chiêu, Tú tài Yên Trung Đặng Hiển Ngoạn, Tam Ngọc Phạm Phẩm, Vô Song Nguyễn Xuân Huy, Tự Tháp Vũ Tá Thiện, Tây Hồ Nguyễn Huy Kỳ.

Phụng viết vào đá: Cổ lương Đào Vĩnh Ngôn.

Phụng giám khắc: Xuân Lôi Nguyễn Văn Hướng, Nghi Tàm Hoàng Bảng.

T.L.S

CHÚ THÍCH

(1) Trọng Hợp: tức Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902); người làng Kim Lũ, Thanh Trì, Hà Nội. Ông đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Văn Minh đại học sĩ, Bắc Kỳ Kinh lược sứ.

(2) Lập Trai Phạm Công: tức Phạm Quý Thích (1759-1825); người Hoa Đường, Đường An, Hải Hưng. Ông đậu Tiến sĩ, giữ chức Thị trung học sĩ.

(3) Đây là chỉ vua Minh Mệnh và vua Thiệu Trị.

(4) Vua Thiệu Trị từng nói về Nguyễn Văn Siêu rằng: “Người này văn học uẩn súc, từ tảo anh hoa như vậy mà không đỗ Tiến sĩ, thực cũng lạ”.

(5) Đô Đài Công là Tiến sĩ đời Trần: tức Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370); người huyện Ân Thi, Hải Hưng. Ông làm quan qua năm triều vua đời Trần, được phong Thân Quốc Công.

(6) Từ đây trở lên là bài văn ở mặt trước của bia; trở xuống là mặt sau của bia.

TB

"VŨ GIA THẾ PHẢ" VÀ LAI LỊCH MỘT VỊ TƯỚNG CỦA VUA QUANG TRUNG

ĐỖ THỈNH

Vừa qua trong khi sưu tầm, biên soạn lịch sử địa phương, chúng tôi đã tìm được cuốn Vũ gia thế phả biên soạn từ năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) ở làng Hoè Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, trong đó có giới thiệu lai lịch một vị tướng của vua Quang Trung.

1/ Về cuốn Vũ gia thế phả và các tư liệu:

Vũ gia thế phả là cuốn gia phả của dòng họ Vũ do Vũ Văn Trinh (đời thứ 7) biên soạn năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), sau đó được cháu nội ông Trinh là Vũ Trọng Thụy biên soạn tiếp và dịch ra Quốc ngữ năm Bảo Đại thứ 16 (1941).

Theo cuốn gia phả này thì dòng họ Vũ quê gốc ở xã Quang Liệt, huyện Thanh Oai, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng di cư đến ở làng Hòe Thị, xã Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, đến ông Trinh đã là 7 đời.

Đời thứ nhất đến Hòe thị đầu tiên là cụ Vũ Linh Công thụy Phúc Tâm, con trai là Vũ Đăng Khoa thụy Phúc An có người con gái là Vũ Thị Xô làm vợ kế Quốc Tử Giám Thừa Chính sứ Vũ Hầu (?). Đời thứ ba là Vũ Đăng Vy thụy Phúc Trân, sinh người con trai trưởng là Vũ Thiều làm đến chức Cai hợp tước Phúc Lai Công. Vũ Thiều tiên sinh văn học tinh thông, kẻ sĩ đương thời tôn là mẫu mực. Con trai thứ ba ông Vu là Vũ Pháp Bảo lấy tên là Nguyễn Khuông, làm quan trong điện Cần Chánh, tước Bá thời vua Lê Vĩnh Hựu (1735-1740). Ông Khuông đã dâng một cô gái đẹp họ Trần người làng Ngọc Mạch cùng xã Hương Canh vào cung, sau được vua yêu mến, sinh công chúa Lê Thị Thoa. Khi công chúa trưởng thành, vua gả cho quan Quốc Tử giám - Thừa Chính sứ Vũ Hầu. Sau đó ít lâu, công chúa mất, Vũ Hầu lấy Vũ Thị Xô. Đời thứ tư là Vũ Thuật sinh năm 1699, mất năm 1752, sinh con trai (đời thứ 5) là Vũ Thuyết (1728-1781). Ông Vũ Thuyết lấy 2 vợ, vợ cả người địa phương sinh ra Vũ Thưởng và vợ hai quê ở huyện Bất Bạt trấn Sơn Tây có công nuôi Vũ Thưởng trưởng thành, sau là tướng Tây Sơn.

Đời thứ bẩy là Vũ Văn Trinh con trưởng của Vũ Thưởng. Vũ Văn Trinh sinh năm Cảnh Hưng thứ 5 (1797), năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) đi thi Hương chỉ trúng nhất trường (kỳ thứ nhất) không được thi tiếp nên trở về nhà dạy học, biên soạn sách Gia lễ và Vũ gia thế phả.

Từ đời ông Vũ Văn Trinh, dòng họ chia làm ba chi: chi Giáp tổ là ông Vũ Văn Trinh con trưởng của Vũ Thưởng, em trai ông Trinh là Vũ Đăng Trì tổ chi ất và em trai thứ ba ông Trinh là Vũ Đăng Doanh tổ chi Bính.

Vũ Đăng Doanh (1808-1892) có bốn người con trai, đáng kể nhất là người con trai thứ hai tên Vũ Đăng Hán, bí danh Vũ Trác (1842-1926), năm 21 tuổi, Tự Đức thứ 14 (1862) đi thi Hương đỗ Tú tài, sau đó 4 khóa nữa đi thi cũng chỉ đỗ Tú tài. Vua Tự Đức vời vào kinh cử làm ở Viện Hàn Lâm nhưng ông Trác từ chối. Trên đường từ Huế ra Bắc, cùng đi với ông có Kinh lược Bắc Kỳ Khê quận Công Nguyễn Hữu Độ rất luyến trọng ông, bảo ra làm quan nhưng ông một mực từ chối để về nhà mở trường dạy học. Năm 1907 làm Trưởng giáo ở trường Đông Kinh nghĩa thục dạy nhiều học trò làm nên như Cử nhân Phạm Ngô Hoè (Đông Ngạc), Cử nhân Phạm Ngọc Hùng làm quan tới chức Tham tri, các Tú tài Nguyễn Đỗ Mục (Xuân Tảo), Phạm Gia Mô, Lê Quyền, Lê Đại (Thịnh Hào) v.v.

Con trai Vũ Trác là Vũ Trọng Thụy (1883-1960) năm 1907 cùng cha tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục, ông Thụy được phân công mở hiệu bán thuốc Bắc ở Vĩnh Yên để góp qũy cho nhà trường. Năm 1913 nhân vụ Hà Thành đầu độc bị lộ, ông Thụy bị Pháp bắt đầy đi Sơn La 7 năm. Sau khi ra tù mới lập gia đình, viết tiếp Vũ gia thế phả. Năm 1945, sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Vũ Trọng Thụy tham gia công tác Mặt trận Liên Việt huyện Hoài Đức.

2/ Về lai lịch vị tướng của vua Quang Trung

Vũ gia thế phả cho biết ông Vũ Thưởng tự Đức Hoằng hiệu Hoè Lý, sinh năm 1761 ở làng Hòe Thị xã Hương Canh, mới được 100 ngày mẹ chết, mẹ kế cùng cha đưa lên xã Thịnh Uyên, huyện Bất Bạt, trấn Sơn Tây để nuôi. Năm lên 10 tuổi bắt đầu đi học, “Thụ nghiệp Lê Uyên Trai tiên sinh ở xã ấy. Năm 15 tuổi lại theo cha cùng á thất họ Nguyễn trở về làng thụ nghiệp Trần Yến Lý tiên sinh, năm (Vũ Thưởng) 19 tuổi cha mất, năm 22 tuổi lấy vợ người thôn nhà, con gái thứ 6 của Cụ Nguyễn Nhiêm...” Vũ Văn Trinh viết tiếp: “Cha ta sinh vào thời loạn nên đành bỏ học theo Đại vương Lý Trần Quán(1) ở Vân Canh để giữ lấy nghiệp nhà. Vì duyên cớ ấy mà Người am tường binh pháp, phép đánh trống trận (chỉ huy tiến binh, lui binh). Năm Mậu Thân (1788) Người tòng quân và chăm chỉ luyện tập nghề võ. Có đêm canh gác gặp tiết trời lạnh. Người đem trống ra đánh chơi. Vị tướng nghe thấy tiếng trống bèn xuống binh trường hỏi xem ai làm náo động. Cha ta riêng nhận không chối. Vị tướng mới hỏi về phép đánh trống trận tiến quân, lui quân, Người trình bày rành mạch. Thấy vậy, vị tướng cất nhắc lên làm chức Cai đội...”. “Về sau vua Quang Trung sai Vũ Văn Nhậm ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh, thanh thế uy quyền mỗi ngày một gia tăng, rồi lại đại phá quân Tôn Sĩ Nghị khiến Lê Chiêu Thống phải chạy sang Tầu... Người được tấn phong trong thời gian ấy ...”

Vũ Thưởng tham gia đại phá quân Thanh lập chiến công nên năm Quang Trung thứ 2 (1789) được phong tước bá và năm Quang Trung thứ 3 (1790) được “khâm mộng sắc tứ phong thực thụ hầu tước” tức Hòe Lý hầu.

Năm 1941 Vũ Ngọc Thụy viết trong Gia phả: Năm Tân Tỵ, nhân dịp chuyển dịch Gia phả ra Quốc ngữ và viết tiếp, ta tìm được sắc phong tước bá (1789) của tổ. Sắc viết trên giấy tiên màu vàng khổ 1x0,6m có nền hoa văn vân mây long, ly, quy, phượng. Chắc rằng sắc phong tước hầu của tổ bị thất lạc, xin trân trọng dịch âm và dịch nghĩa vào Gia phả:

Lệnh

Huyện Từ Liêm, xã Hương Canh,

Vệ binh Vũ Thưởng,

Tráng khí dũng mãnh như có áo giáp vàng,

Ném đá lớn theo gió mạnh,

Dạy lính thật nghiêm minh.

Có sức mạnh đè ngàn lực sĩ,

Dũng cảm như hùm gấy.

Từng trải ngày đêm lo lắng,

Dư trăm trận mà đánh đâu được đấy.

Cần cù lo liệu việc công,

Nên chiến thắng mà quân không mệt.

Vì thế gia thưởng:

Thừa chức Cai đội, thưởng tước Võ bá.

Người khá lo toan cố gắng quả cảm kiên nghị hơn nữa,

Chốn doanh trại thêm phần cẩn mật xứng đáng với danh hiệu: Tướng quân Thiết Sơn;

Ngoài biên ải nơi đỉnh núi muôn dặm càng làm sáng tỏ công trạng trụ vững như cột đồng. Nghe chưa !

Quang Trung năm thứ hai (1789) tháng 3, ngày 27.

Sau khi nhà Tây Sơn mất, Vũ Thưởng về quê sống ẩn dật. Đến năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) tháng 8, ngày 25 khi ốm sắp mất mới cho gọi con cháu lại căn dặn: “Đời ta bình sinh giữ tròn đạo trung, hiếu. Từ nay về sau ta có 3 điều ước:

- Con cháu ta không kể trai gái phải có nết hiền hạnh;

- Con cháu ta không kể giàu nghèo nên có học thức;

- Con cháu ta đều biết ăn ở với nhau hoà thuận.

Nói xong người nhắm mắt, hôm sau thì mất...”

Đ.T

CHÚ THÍCH

(1) Lý Trần Quán đỗ Tiến sĩ năm 1766 làm quan tới chức Thiêm sai Lại phiên.

TB

MỘT BẢN DỊCH "TRUYỆN KIỀU"
ĐỘC ĐÁO

THẾ ANH

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm thơ ca cổ điển nổi tiếng của dân tộc ta, nó chiếm một vị trí hết sức đặc biệt, vua mang tính chất văn chương bác học, lại vừa mang tính phổ cập bình dân, được đông đảo quần chúng từ gần hai thế kỉ nay ưa chuộng. Truyện Kiều đã vượt qua biên giới quốc gia để đi đến các dân tộc khác trên thế giới và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Đức, Rumani, Nhật Bản, Nga... Riêng tiếng Pháp từ bản dịch Truyện Kiều đầu tiên kể từ 1884 của Anben đê Misen (Abel des Michels) đến nay đã có 7 bản dịch khác, trong đó bản dịch cuối cùng (1965) của Nguyễn Khắc Viện được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là bản dịch tốt nhất. Nhà báo đồng thời là nhà sử học Pháp Saclơ Phuôcniô (Charles Fourniau) đã nhận xét bản dịch “Vừa có lời văn chải chuốt, vừa trung thành với nguyên tác”.

Đầu năm nay Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh lại vừa mới cho ra mắt bạn đọc một bản dịch Truyện Kiều độc đáo. Đó là cuốn Kim Văn Kiều - Nam âm thi tập của dịch giả Trương Cam Vũ - một thầy thuốc Đông y yêu thích văn học. Sách dày 284 trang khổ 19x13cm, in đẹp, trình bày trang nhã. Toàn bộ 3.254 câu của Truyện Kiều được dịch thành 812 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt và một bài thất ngôn bát cú (nhiều hơn nguyên tác hai câu). Mỗi bài thơ dịch đều in phần chữ Hán có phiên âm và được trình bày theo hình thức song ngữ rất tiện lợi cho người đọc đối chiếu với nguyên bản. Theo chỗ chúng tôi biết, thì trước đây cũng có một số người trích dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra Hán văn, nhưng chưa có ai dịch toàn bộ. Phan Mạnh Danh đã dùng những câu cổ thi của Trung Quốc (tập Hán thi) để dịch những đoạn trong Truyện Kiều (khoảng 184 câu). Ví dụ: Cụ đã lấy 4 câu rút trong các bài cổ thi để dịch 4 câu Kiều sau đây:

Đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quít cho cam sự đời.
Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.
(Bích đào tiên chủng bản phi phàm,
Đáo thủ hề phương nhiệm nhĩ tham.
Tối thị Lạc Dương hoa hạ khách,
Giã ư hoa sự vị tằng am).

Còn đối với Kim Vân Kiều - Nam âm thi tập, Trương Cam Vũ đã sáng tác trên 800 bài thơ Đường với hình thức niêm luật chặt chẽ, bám sát tối đa nội dung của nguyên bản để dịch ra Hán văn. Điều đó nói lên việc làm nghiêm túc, cần mẫn của một nhà nho - một thầy thuốc đông y yêu thích văn học, say mê sáng tạo, trân trọng những giá trị tinh thần của ông cha để lại.

Trong tác phẩm này, Trương Cam Vũ đã chuyển dịch được nhiều đoạn trong Truyện Kiều sang thể thơ cổ điển của Trung Hoa rất thanh thoát, giàu chất thơ và nhạc điệu, mà vẫn giữ được nội dung của nguyên tác. Chúng tôi xin nêu một số đoạn để bạn đọc tham khảo. Ví dụ:

So dần dây vũ, dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung, thương
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.
Mạn lộng khinh nhiên văn vũ âm,
Cung thương đại tiểu tứ huyền tầm.
Hà lai Hán Sở sa trường điệu,
Kim thiết giao minh sát khí sâm.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu.
Khúc tấu Chiêu Quân xuất tái quan,
Bán hoài quân quốc bán gia san.
Thanh ư huyền hạc hoành không lệ,
Xúc nhược bôn tuyền bán hạ than.
Táp táp hồn như phong lượng quá,
Tiêu tiêu sậu tự vũ phương lan.
Huỳnh huỳnh nhất trản đăng minh diệt,
Tọa khách sầu sinh tiều tụy nhan.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Hải khẩu sầu Khan dục mộ thiên,
Y thùy phàm ảnh quái phong yên.
Nguyên đầu hoạt thủy thao thao khứ,
Phiêu bạc tàn anh hà xứ biên.
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Sầu khan nguyên thượng thảo ly ly,
Nhất bích liên thiên vân cước đê.
Phong quyển lãng hoa phiên hải diện,
Đào thanh hàm tọa ảnh thương thê.

Chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu vào các khía cạnh của kỹ thuật dịch, nhất là đối với một tác phẩm văn học lớn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng rõ ràng đây là một đóng góp đáng quý cần được khích lệ và đánh giá đúng mức đối với người có tâm huyết mong muốn bảo tồn và phát huy những di sản văn học quý giá của dân tộc./.

T.A

TB

CHỮ HÁN - DẠNG THỂ VÀ CÁCH
CẤU TẠO

THỌ NHÂN

Chữ Hán ra đời cách đây khoảng 3500 năm. Nhưng cũng có người cho rằng thời điểm xuất hiện chữ Hán còn sớm hơn, từ 2300 đến 2400 năm trước Công nguyên, nghĩa là suýt soát hoặc không mấy muộn hơn so với chữ viết xuất hiện ở lưu vực sông Nil hoặc sông Lưỡng Hà cách đây chừng 5000 năm(1).

Sau khi ra đời, chữ Hán được thể hiện qua nhiều cách viết. Chủ yếu có: Giáp cốt văn, Kim văn, Tiểu triện, Lệ thư, Khải thư, Thảo thư và Hành thư.

1. Giáp cốt văn: thể chữ khắc trên mai rùa hoặc xương thú, được sử dụng vào thời Thương - Chu. Còn gọi là “Khế văn”, “Bốc từ”, “Quy giáp văn tự”, “Ân Khư văn tự”.

“Khế văn” tức chữ khắc bằng “khế đao” - một thứ tiền cổ. “Bốc từ” tức chữ dùng để ghi chép những điều bói toán. “Quy giáp văn tự” tức chữ viết trên mai rùa, “Ân Khư văn tự” tức chữ phát hiện ở vùng Ân Khư, kinh đô cũ của nhà Thương, nay thuộc huyện An Dương, tỉnh Hà Nam của Trung Quốc. Mỗi cách gọi như trên đều nhằm nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của Giáp cốt văn tự.

Số chữ đơn phát hiện được tính đến nay, có khoảng 4500 chữ, trong đó, các nhà nghiên cứu đã giải mã được chừng 1700 chữ.

2. Kim văn: thể chữ khắc hoặc đúc trên đồ dùng bằng đồng thau, cũng được sử dụng vào thời Thương - Chu. Còn gọi là “Chung đỉnh văn”, tức chữ viết trên nồi, vạc...

Kim văn đời Thương có hình thể gần giống với Giáp cốt văn. Kim văn cuối đời Chiến Quốc hình dạng lại gần giống với Tiểu triện.

Trong số 5000 đến 6000 chữ đơn thu thập được, nay phần lớn đều có thể giải mã.

3. Tiểu triện: còn gọi là “Tần triện”, tức thể chữ thông dụng vào đời nhà Tần, được hình thành trên cơ sở Đại triện, tức Trụ văn (còn đọc là Trứu văn), thứ chữ của nước Tần thời Xuân Thu - Chiến Quốc trước đó.

Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất Trung Quốc, theo đề nghị của Lý Tư, đã lấy Tiểu triện làm thể chữ chính thức. Từ đây, các cách viết khác với Tiểu triện thuộc các địa phương đều bị bãi bỏ, và như vậy, nhà Tần đã tiến thêm một bước trong việc quy phạm hóa chữ Hán.

Về phương diện hình dạng, Tiểu triện cũng tỏ ra cân đối, ngay ngắn hơn các thể chữ trước đó.

4. Lệ thư: còn gọi là “Tá thư”, “Sử thư”... một thể chữ do các cách viết trước đó diễn biến và đơn giản hóa mà thành.

Đặc điểm của loại chữ này là biến các nét tròn và cong ở chữ Triện thành nét vuông và gãy. Về mặt kết cấu, chuyển chữ theo hình vẽ thành chữ viết theo nét bút, cốt tiện viết, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của chữ Hán. Đó là giai đoạn “Cổ văn tự” chuyển sang “Kim văn tự”.

Thể chữ này bắt đầu xuất hiện lẻ tẻ vào đời Tần và được sử dụng phổ biến ở các đời Hán, Ngụy sau đó.

5. Khải thư: còn gọi là “Chính thư”, chữ chính thức, hoặc “Chân thư”, chữ viết chân phương, bắt đầu xuất hiện từ cuối đời nhà Hán và được lưu hành mãi cho đến tận ngày nay.

Đặc điểm của loại chữ này là viết ngay ngắn, thẳng thắn, cân đối, nhiều nhà thư pháp đời sau đã nổi tiếng nhờ viết thể chữ này.

6. Thảo thư: thể chữ này xuất hiện trước Khải thư, tức vào khoảng đầu đời nhà Hán. Hồi bấy giờ được dùng phổ biến là loại “Thảo lệ”, tức chữ Lệ viết tháu. Sau dần dần phát triển thành “Chương thảo”. Đến cuối đời Hán, tương truyền nhà thư pháp Trương Chi đã cải tiến Chương thảo bằng cách làm cho nét bút khi viết thoát ra khỏi dấu vết chữ Lệ, để đạt đến một lối viết liền một mạch giữa chữ này với chữ kia, các bộ mạch giữa chữ này với chữ kia, các bộ thủ vay mượn lẫn nhau, gọi là “Kim thảo”, cũng tức là “Thảo thư”. Đến đời nhà Đường, Trương Húc Hoài Tố từ “Kim thảo” đã tạo ra một lối viết phóng túng hơn, nét bút liền mạch, uốn lượn như phượng múa rồng bay, gọi là “Cuồng thảo”.

7. Hành thư: một thể chữ nằm giữa Khải thư và Thảo thư. Nó không hoàn toàn bay bướm như Thảo thư, cũng không hoàn toàn chân chất như Khải thư. Trong khi viết, nếu chất Khải thư nhiều hơn Thảo thư, thì gọi là “Hành khải”. Ngược lại, là “Hành thảo”.

Tương truyền Hành thư đã có từ cuối đời Hán và được dùng mãi cho đến ngày nay.

*
**

Về mặt cấu tạo, chữ Hán được làm ra chủ yếu bằng sáu cách gọi là “lục thư” sau đây theo sự quy nạp của người xưa: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, giả tá và chuyển chú.

1. Tượng hình: cách tạo chữ dựa vào hình dáng của vật thể. Thí dụ chữ xa (車) là hình vẽ một cái xe; chữ mã (馬 ) là hình vẽ một con ngựa; chữ vũ (雨 ) là hình vẽ bầu trời và những giọt mưa. Cách cấu tạo này thường dành cho những chữ ghi chép về đồ vật, động vật hoặc hiện tượng tự nhiên.

Chữ tượng hình trở thành nền tảng cho các cách cấu tạo chỉ sự, hội ý, hình thanh.

2. Chỉ sự: còn gọi là “tượng sự” hay “xử sự”, tức cách tạo chữ dựa vào các phù hiệu tượng trưng để chỉ nghĩa. Có thể chia thành hai loại chữ chỉ sự. Loại thứ nhất gồm những phù hiệu thuần tuý, như chữ Thượng (上 ) là “trên”, thời cổ viết (二 ), chữ hạ (下 ) là “dưới”, thời cổ viết ( ). ở đây, vạch ngang dài là phù hiệu chỉ đường chân trời, vạch ngang ngắn là phù hiệu chỉ phương hướng muốn nói. Loại thứ hai được tạo nên bằng cách thêm một phù hiệu chỉ sự vào một chữ Hán có sẵn như chữ mạt (末) là “ngọn” gồm một chữ mộc (木) là “cây” được thêm vào một vạch ngang dài bên trên làm phù hiệu chỉ sự để chỉ bộ phận cây muốn nói: chữ bản (本) là “gốc” gồm chữ mộc (木) là “cây” được thêm vào một vạch ngắn bên dưới làm phù hiệu chỉ sự để chỉ bộ phận cây muốn nói.

3. Hội ý: còn gọi là “tượng ý”, tức những chữ Hán được tạo nên bằng cách ghép mấy chữ đã có sẵn lại với nhau để thể hiện một nghĩa mới. Thí dụ để tạo nên chữ minh (明) là “sáng tỏ”, người ta ghép chữ nhật (日) là “mặt trời” với chữ nguyệt (月) là “mặt trăng” lại với nhau. Hay để tạo nên chữ tung (嵩) là “cao vút”, người ta ghép chữ sơn (山 ) là “núi” với chữ ca (高 ) là “cao” lại với nhau.

4. Hình thanh: còn gọi là “tượng thanh” hay “hài thanh”, chỉ việc tạo chữ bằng cách ghép hai chữ Hán có sẵn lại với nhau, một chữ dùng để chỉ ý nghĩa, gọi là “ý phù” (hình) và một chữ dùng để chỉ âm đọc, gọi là “âm phù” (thanh). Thí dụ chữ luận (論) là “bàn luận” được tạo nên bằng cách ghép chữ ngôn (言) (ý phù) với chữ luân (侖) (âm phù). Trong Hán tự, chữ hình thanh chiếm hơn 80%.

5. Giả tá: có một số từ chưa tạo được chữ riêng, người ta bèn chọn trong những chữ hiện có một chữ có âm đọc giống hoặc gần giống với nó để đại diện cho nó, chữ được vay mượn ấy gọi là “giả tá”. Thí dụ chữ lai (來) nguyên nghĩa là lúa “tiểu mạch”, được vay mượn để ghi từ lai với nghĩa là “lại”. Hay chữ “求” nguyên nghĩa là “áo cừu” được vay mượn để ghi từ cầu với nghĩa là “cầu xin”.

6. Chuyển chú: một chữ do phát triển về nghĩa, dẫn tới sự thay đổi về hình dạng. Như trường hợp chữ lão (老) và chữ khảo (考), ban đầu có cùng một nghĩa và cách viết cũng na ná như nhau. Về sau, hai chữ dần dần khác nghĩa: chữ “lão” dùng để chỉ người già hay kẻ có kinh nghiệm, còn chữ “khảo” thì dùng để chỉ việc sống thọ hoặc người cha sau khi qua đời. “Khảo” từ đó chuyển sang chữ “hình thanh”, và người ta gọi là “chuyển chú”. Có người cho đây là “hình chuyển”. Nhưng cúng có người cho đây là “âm chuyển”, hoặc “nghĩa chuyển”.

Ngày nay, theo ý kiến nhiều nhà nghiên cứu, “giả tá” và “chuyển chú” thực chất chỉ là cách dùng chữ, không liên quan gì tới cách tạo chữ. Mặt khác, trong quá trình phát triển, không ít chữ Hán đã từ cách cấu tạo này chuyển sang cách cấu tạo kia, không phải bao giờ cũng “nhất thành bất biến” - đã hình thành rồi thì không còn thay đổi nữa.

T.N

CHÚ THÍCH

(1) Xem Luc Binyi: Nghiên cứu văn bản mới về chữ Hán khắc trên đồ đồng. Tin Tân Hoa xã, 30-8-1987.

TB

HỌP CỘNG TÁC VIÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM NĂM 1996

Để tổng kết công tác Tạp chí Hán Nôm năm 1995 và bàn về phương hướng hoạt động của Tạp chí năm 1996, sáng ngày 10 tháng 2 năm 1996, Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức cuộc họp mặt cộng tác viên tại hội trường Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tới dự hội nghị này, ngoài một số cộng tác viên từ lâu đã gắn bó với Toà soạn hiện đang công tác tại Hà Nội, còn có các nhà Hán học lão thành, các nhà nghiên cứu tại các địa phương như cụ Vũ Đình Ngạn (Thái Bình) v.v. cùng các cán bộ nghiên cứu hiện đang công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Đồng chí Trần Nghĩa, Tổng biên tập Tạp chí Hán Nôm đã đọc bài phát biểu trước hội nghị, tổng kết công việc của Tạp chí trong một năm qua. Bản tổng kết cho biết: năm 1995, Tạp chí Hán Nôm đã ra được 4 số đúng kỳ hạn, trong đó đăng tải được 70 bài nghiên cứu về nhiều mặt của 73 tác giả. Các bài viết trên đây, nhìn chung đều có giá trị phát hiện, có những đóng góp nhất định cho ngành Hán Nôm học.

Về phương hướng hoạt động của Tạp chí trong năm tới, Tổng biên tập Trần Nghĩa nhấn mạnh: trước nhiệm vụ giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trước nhu cầu phục hưng của ngành Hán Nôm học và sự hội nhập, giao lưu văn hóa với các nước, Tạp chí Hán Nôm cần có nhiều bài về vấn đề truyền thống, vấn đề quốc học. Tạp chí Hán Nôm cần cải tiến hơn nữa cả về nội dung lẫn hình thức, để đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu khoa học của chuyên ngành, vừa sát thực, gần gụi với đời sống văn hóa, nhằm phục vụ tốt hơn cho các đối tượng bạn đọc.

Tại hội nghị, nhiều cộng tác viên đã phát biểu những ý kiến đóng góp cho phương hướng hoạt động của Tạp chí trong năm 1996. Ngoài những ý kiến khen ngợi hoạt động Tạp chí trong năm 1995, các cộng tác viên cũng đã đóng góp nhiều sáng kiến, tìm cách làm cho Tạp chí càng có nhiều bạn đọc hơn.

Tạp chí không những chỉ có những bài nghiên cứu chuyên sâu mà phải dành một tỉ lệ bài viết thích đáng cho việc phổ biến kiến thức về Hán Nôm cho đông đảo quần chúng. Và phải chăng ngay từ năm 1996 này, Tạp chí Hán Nôm nên mở thêm chuyên mục Hán Nôm với nhà trường, Hán Nôm với xã hội ?

Tiếp thu những ý kiến xây dựng cho Tạp chí, thay mặt toà soạn, Tổng biên tập Trần Nghĩa đã tỏ lời cảm ơn tất cả các cộng tác viên xa gần và hứa sẽ cố gắng cải tiến Tạp chí theo hướng những ý kiến mà hội nghị đã đóng góp. Trước mắt, năm 1996 này, Tạp chí sẽ tăng trang, thêm mục và nếu có thể, sẽ tăng số lượng phát hành. Để làm được những điều trên, bên cạnh sự nỗ lực của mình, Tạp chí còn trông cậy rất nhiều ở sự ủng hộ, cộng tác nhiệt tình của các cộng tác viên của Tạp chí.

P.V

TB

THƯ BẠN ĐỌC

LTS. Nhân dịp xuân Bính Tý, cụ Vũ Đình Ngạn, một cộng tác viên lâu năm của Tạp chí Hán Nôm, hiện ở tại 572 xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có gửi tới Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm 2 bài thơ: 1 bài viết bằng chữ Hán, có cả phần phiên âm và dịch thơ, đề tặng Tạp chí Hán Nôm, và 1 bài nữa viết bằng chữ Nôm, đã được phiên âm ra Quốc ngữ, làm theo lối “thuận nghịch độc” (đọc ngược hay đọc xuôi đều thành thơ có ý nghĩa), trình bày theo kiểu hình xoáy trôn ốc, nhằm góp phần vui xuân cùng cả nước. Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm xin trân trọng giới thiệu cả 2 bài thơ vừa nói của cụ Ngạn để bạn đọc cùng chia sẻ.

敬 題 贈 漢 喃 雜 誌
千 紅 萬 紫 慶 春 陽
對 景 踶 詩 獻 一 章
越 國 文 両 持 本 色
漢 喃 寶 院 馥 書 香
武 功 文 德 曾 揚 顯
遺 稿 殘 書 可 寶 臧
四 海 為 家 逢 盛 會
炎 邦 文 獻 萬 年 長
丙 子 年 春
蘭 亭 武 廷 彥 敬 祝

Kính đề tặng

Thiên hồng vạn tử khánh xuân dương,
Đối cảnh đề thi hiến nhất chương.
Việt quốc văn phong trì bản sắc,
Hán Nôm bảo Viện phức thư hương.
Võ công, văn đức tằng dương hiển,
Di cảo, tàn thư khả bảo tàng.
“Tứ hải vi gia” phùng thịnh hội,
Viêm bang văn hiến vạn niên trường.
Bính Tý niên xuân
Lan đình Vũ Đình Ngạn kính chúc

Dịch nghĩa:

Muôn hồng nghìn tía đón xuân sang,
Trân trọng thơ Nôm viết mấy hàng:
Nước Việt văn minh nêu bản sắc,
Hán Nôm viện sách ngát mùi hương.
Người xưa thành tích còn lưu dấu,
Di sản văn chương phải bảo tàng.
“Bốn bể là nhà” vui hội mới,
Việt Nam văn hiến mãi vinh quang.

2. vui xuân

(Thuận nghịch độc, trình bày theo kiểu xoáy trôn ốc).


Vũ Đình Ngạn
Tán Thuật, Kiến Xương, Thái Bình

TB

VIETNAMESE-LATIN DICTIONARY BY PIGNEAU DE BE'HAINE (CONT.)