TT | Tên truyện | Trân dị | Tiệp ký | truyện CDTK |
1 | Mộ Trạch Vũ tộc | Phúc ấm điệp trùng khoa hoạn địa, Huân danh hiển hách bắc nam thiên. | Tiến sĩ sào phong thủy chung linh, (Truy viễn đường kiều tùng thực tú) | Tiến sĩ sào phong thủy chung linh, (Truy viễn đường kiều tùng thực tú) |
2 | Lệ Kỳ sơn | Tự ỷ bán sơn, Sơn thượng hàn than. Chung cổ thùy khấu, Thanh triệt vân đoan. | Lệ Kỳ lĩnh cổ chung hiển dị, (Độc Tôn sơn vân vũ tạc yêu) | |
3 | Độc Tôn sơn | Bạch trú vân mông, Sơn yêu tạc khiếu. Thám ngọc hữu thần Minh minh diểu diểu | (Lệ Kỳ lĩnh cổ chung hiển dị) Độc Tôn sơn vân vũ tạc yêu | |
4 | Phù Tang am | Cổ Trâu danh thắng truyền Tang viện, Đông Cứu bi văn kỷ Cúc Pha | Phù Tang am Trưởng lão vãng du (Đại Bi tự Bắc nhân sở kiến) | |
5 | Đại Bi tự | Đại Bi thiên cổ tự, Tá trụ nhị hàng thuyên | (Phù Tang am Trưởng lão vãng du) Đại Bi tự Bắc nhân sở kiến | |
6 | Cao Sơn đại vương | Ngã diệc hữu đơn quân tín phủ, Chí Linh linh điện thị y gia. | (Trần quốc phụ thế xưng dị thuật) Cao Sơn vương nhân hiệu thần y. | |
7 | Hạ Phi dị nhân | Chí đại thôn ngưu thân trác trác, Trầm chu thủ đoạn xu kình ngạc, Thiên công sinh vật tối đa kỳ, An đắc tư mao thiên vạn lạc | Hạ Phi dị nhân toàn thuyền khước Bắc binh, (Kim Tông thần miếu hội đề toả Điền quận) | Hạ Phi dị nhân toàn thuyền khước Bắc binh, (Kim Tông thần miếu hội đề toả Điền quận) |
8 | Kiệt Đặc Lễ phi | Thiên bảng cư nhiên khuê đoạt cẩm, Địa kiềm quả nhĩ kính phi hương. | Lễ phi sinh thông tuệ, Nhất kính chiếu tam thiên. | |
9 | Trung Hàng Vũ tộc | Bùi gia cánh tốn Vũ gia hảo, Nhân dữ tranh như thần hữu chân. | Cát cục thần lưu Vũ tộc thế thừa tước lộc, (Cựu huyệt thiên táng hàn thê dựng xuất cung tần) | Cát cục thần lưu Vũ tộc thế thừa tước lộc, (Cựu huyệt thiên táng hàn thê dựng xuất cung tần) |
10 | Trâu Canh dương trạch | Thần y sơ thị tác dung y, Đới đắc đằng la thử nhất chi; Phú quý quả nhiên như địa khoá, Tín sư hà cố khước nghi sư. | Trạch tại thiềm thừ ảnh bạc nghệ nhân đắc nhập vương cung, (Túc tá giao long hình lương tâm mẫu hoạch khai giác lộ) | Trạch tại thiềm thừ ảnh bạc nghệ nhân đắc nhập vương cung, (Túc tá giao long hình lương tâm mẫu hoạch khai giác lộ) |
TT | Lời tựa sách "Trân dị" | Lời tựa " Truyện Công dư tiệp ký" |
1 | Tập Trân dị này được biên soạn trên cơ sở bản thảo cũ sách Tiệp ký | Tôi diễn truyện này không dám cậy tài năng gì mà sinh chuyện múa may để mua cười. Chỉ vì tôi đi thiết trướng, khi tan buổi học thì cảch vắng teo, tôi thiết nghĩ chỉ có kết bạn với người cổ nhân, ngôn luận tiếu đàm, thực cũng riêng một mầu thú vị. Vậy đem chuyện Công dư tiệp ký diễn ra Quốc âm. |
2 | Những chuyện quý báu nhất ở trời Nam may ra có thể từ trên chiếu mà thấy hết, chẳng phải cất công trèo non vượt biển đi tìm ở đâu xa. | Nhân chép thành thiên để cho học trò giảng tập, Nam nhân nam sự họa biết một hai. |
3 | Còn như việc gọt dũa, nhuận sắc, làm cho sách tinh thuần, không còn tì vết nữa, thì xin chờ ở các bậc tài năng vậy. | Còn như nghĩa lý cao xa, văn chương tóm tắt, tôi không dám đương, chỉ mong bậc quân tử đại nhãn lực, đại tư tưởng nhuận sắc thêm ra, thực rày ước mai ao như thế lắm. |
GIỚI THIỆU KHO SÁCH THẦN TÍCH TẠI THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM Trong Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1989 (trang 40) chúng tôi đã giới thiệu kho sách Tục lệ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong số Tạp chí này, chúng tôi tiếp tục giới thiệu về kho sách thần tích, một mảng tư liệu quý đang được nhiều địa phương, nhiều người quan tâm đến. Ngay từ thế kỷ 14, 15 Việt điện u linh, Lĩnh nam trích quái là những văn bản mở đầu cho các công trình biên soạn thần thoại dưới hình thức truyền thuyết, dã sử, thần tích, ngọc phả, nhằm biểu dương các vị thần có công cứu giúp sinh linh. Thần thường hiển linh để tỏ rõ uy quyền, thần báo mộng với những điều lành dữ, làm việc phán xét, phân xử, trông chừng sinh hoạt tốt đẹp của nhân dân. Dân chúng đến với thần để cầu đảo, cầu lợi, để tế thần ... Hình tượng các vị thần được dựng lại qua tư liệu thần tích là hình tượng các vị thần có công giúp dân cứu nước như các bậc vua chúa, tướng tài, dân binh... Hoặc là thần luôn làm việc thiện giúp ích cho muôn người, trừ tai ách, cứu sinh linh khỏi cảnh lầm than, khỏi thiên tai, dịch bệnh... Hoặc giả thần nêu tấm gương sáng về phẩm hạnh đạo đức cho người đời soi rọi như thủ tiết vì chồng, hy sinh thân mình cứu người... Thần đã được các thế hệ dân chúng thờ phụng tưởng nhớ, lớp người sau luôn có tư liệu để nhớ về cội nguồn với các truyền thống tốt đẹp. Còn các nhà nghiên cứu cũng qua tư liệu thần tích khai thác để bổ sung vào các mảng đề tài khoa học cần thiết. Các nhà nho có công biên soạn sách các thần tích có thể kể tên: Nguyễn Bính, Lê Tung, Đào Cử, Nguyễn Văn Giai. Trong đó hầu hết đều do Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc(1) (1572). Còn Nguyễn Hiền là người sao chép nhiều vào những năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (1735). Có sách được soạn vào những năm đầu niên hiệu Hồng Đức (1470). Sau này học viện Viễn Đông Bác cổ đã tập hợp và sao chép lại thành những bộ sách thần tích riêng như hiện nay. Sách mang ký hiệu AE (là kí hiệu chung cho sách thần tích), các kí hiệu chữ a,b kèm theo các chữ số để biểu thị địa danh các tỉnh, như a6 (tỉnh Hải Dương); a20 (Hải Phòng). Kho tư liệu thần tích hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm gồm có 568 sách ghi chép sự tích các thần được thờ cúng ở 95 huyện, phủ, châu, thuộc 22 tỉnh phía Bắc từ Nghệ An trở ra (xem bảng thống kê cuối bài viết). Những nét cơ bản trong mảng tư liệu thần tích kể trên: có 2 loại thần được thờ tự là Nhiên thần và Nhân thần. Chia thành 2 loại Nhiên thần và Nhân thần cũng chỉ là tương đối mà thôi. Rất nhiều Nhiên thần đã được nhân hóa thành Nhân thần mà truyền thuyết và sử sách đã từng ghi như những nhân vật lịch sử thực thụ. Ngược lại những nhân vật lịch sử thật sự lại được huyền thoại hóa thành vị thần linh có tính cht hoang đường. Sự chuyển hóa lẫn nhau đó khiến ta có thể xem thần tích như những tư liệu vừa có tính cht lịch sử, vừa là huyền thoại hoang đường. Chính vì vậy việc chắt lọc tư liệu qua thần tích phải được xem xét nghiên cứu nghiêm túc. Chẳng vậy mà ta có thể gặp trong các sách thần tích những tình trạng cùng một vị thần mà ghi chép ở nhiều nơi đã thêm bớt khác nhau cả tên tuổi và sự kiện lại cũng có hiện tượng ghi chép về các vị thần khác nhau mà có những đoạn sự kiện lại na ná gần như nhau, nhất là phần mở đầu của các sự tích. Ví như vị thần Cao Sơn đại vương theo thống kê của chúng tôi có tới hơn 100 khác nhau địa danh có ghi sự tích của thần với các tên tước hiệu như: Cao Sơn Cao các đại vương, Cao Sơn Đại vương, Cao Sơn hiển hựu thượng đẳng phúc thần, Cao Sơn linh quang uy chn dũng dược đại vương, Cao Sơn hiển ứng đại vương, Cao Sơn linh không đại vương, Cao Sơn trường hiển đại vương... Như vậy vấn đề đặt ra là có bao nhiêu thần Cao Sơn đại vương và sự kiện nào sẽ là chuẩn xác ứng với thần đó, là vấn đề sẽ phải nghiên cứu. Hoặc ví như sự tích của ỷ Lan phu nhân, có đoạn sự kiện ghi về nguồn gốc xuất xứ của thần gần giống như truyện cổ tích Tấm Cám, chỉ khác là (được mệnh danh là Cám), lại là nhân vật tấm trong chuyện cổ Tấm Cám. Đây là sự chuyển hóa, vay mượn, gán ghép hay là đúng sự thật cũng là vấn đề cần xem xét. Hoặc giả các đoạn chép về hoàn cảnh thần sinh và thần hóa của nhiều thần có những nét tương tự như nhau. Thường là do cha mẹ nằm mộng thấy được trao vật báu, được cưỡi rồng, được gặp thần tiên, gặp sư si, hoặc có rắn, chim nhảy vào thuyền... rồi có mang và đều sinh quý tử. Như Ngọc Hoa công chúa được sinh ra trong hoàn cảnh mẹ bà nằm mộng thấy một ông già tóc bạc giao cho viên ngọc quý và nói rằng: Đây là của quý trời cho, bà sẽ sinh được quý tử đáng bậc phúc thần. Sau bà sinh được một người con gái đẹp đặt tên là Ngọc Hoa. Còn mẹ Quý công và Hiển công thì mộng thấy mình cưỡi rồng vàng bay lên trời nuốt hai ngôi sao vào bụng, sau sinh được hai người con trai sinh đôi là Quý Công và Hiển Công. Cha mẹ Khố Nương công chúa thường đi chùa cầu tự rồi một hôm bà mộng thấy một nhà sư cho Kim quy báu vật, bà nhận về rồi sau có mang. Một bà mẹ gặp một con rắn nhẩy vào thuyền đánh cá của mình rồi sau sinh ra một cái bọc trong suốt như thủy tinh trong đó có một con rắn cuộn tròn đó chính là thần Hổ Mang. Không gian thần ra đời thường là một căn phòng tỏa hương thơm nức, khí lành rạng rỡ, hào quang sáng rực. Hoàn cảnh thần hóa được mô tả bao giờ cũng là cái chết rất nhẹ nhàng, tự nhiên, hòa đồng với trời đất, chết linh thiêng thoải mái, đều rất khác với cái chết đời thường. Hiện tượng thần tượng hóa là phổ biến trong thần tích. Sự tích các vị thần thuộc loại nhân thần có thể kể là các bậc vua quan, tướng lĩnh anh minh dũng cảm luôn làm yên dân bằng chiến công chống giặc ngoại xâm giữ nước và bằng đức độ cao minh, như Đinh Tiên Hoàng, vua nước Đại Cồ Việt; Lý Nam Đế (tức Lý Bí), vua nước Vạn Xuân; Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục); Trần Hưng Đạo đại vương, Phùng Hưng - Bố Cái đại vương; Thái úy Lý Thường Kiệt; Chiêu Thiền đại vương (tức Trần Khát Chân)... Có thể kể tên rất nhiều và có nhiều địa phương ghi chép thần tích về các ông. Đây cũng là các nhân vật lịch sử nổi tiếng mà ai ai cũng biết đến. Các nhân thần có những công trạng khác với nhiên thần, như giúp dân mở trường dạy học, truyền bá văn hóa, gây dựng phong tục tập quán tốt đẹp hoặc hy sinh vì nghĩa cả, hoặc nêu cao đạo đức trong sáng cho dân noi theo. Chẳng hạn Chu Văn An, người xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, mở trường dạy học, ở xã Huỳnh Cung và dạy học cho các hoàng tử, công tử trong triều. Tam Trinh đại vương đã có công lập hành cung bên dòng Kim Ngưu trại Mai Động dậy học giúp dân mở mang kiến thức. Chàng trai làng Lệ Mật Gia Lâm có công nhảy xuống sông cứu nàng công chúa thoát chết, được vua ban thưởng cho lập 13 trại ấp quanh Hà Nội ngày nay. Vũ Phục người Phong Châu cùng vợ hy sinh thân mình để chữa bệnh cho vua. Nhân thần là các vị nữ thần cũng được ghi chép khá nhiều: Khố Nương công chúa, người Hà Nội, cắt tóc giả trai xông trận đánh dẹp giặc Nguyên Mông, và giữ vẹn toàn kho lương của toàn quân. Ngọc Hoa công chúa có công giúp vua Lý dẹp giặc Ma Na. Thụ La công chúa văn chương chữ nghĩa tinh thông, dệt vải thêu hoa đều giỏi, được tuyển vào cung để dạy học và dạy nữ công cho các công chúa và con quan. Sự tích các vị thần thuộc loại các nhiên thần phần lớn đều đã được nhân hóa nên nhiều khi không còn phân biệt được nhân thần hay nhiên thần như thần sông, thần rùa, rắn, thần đá, thần đt, thần núi...Ví như thần tích thôn Thượng xã Yên Phong viết về gia đình ông Vũ Hồng và bà Nguyễn Thị Kiên ở huyện Giao Thủy phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam. Sau lần nằm mộng thấy có một người từ trên trời xuống tay cầm tờ thi chưởng có 4 câu thơ nói rằng ông bà sẽ sinh được thần rồng. Sau quả nghiệm, trên chiếc thuyền đánh cá sinh nhai, một lần có một con rắn nhảy vào đầu thuyền, sau bà sinh ra rắn. Được nhà vua biết chuyện sai dân đào giếng bỏ vào rồi lập hành cung ở trên giếng đêm ngày trông nom nuôi dưỡng đó chính là thần Hổ Mang. Khi có giặc Thục sang xâmchiếm, thần Hổ Mang đã trở thành chàng trai đường bệ uy nghi, bái tạ vua và được vua sai đi dẹp giặc rồi được phong thần. Thần thuộc loại nhiên thần xuất hiện không nhiều so với nhân thần. Trên đây đã giới thiệu vài nét về thần tích thuộc kho kí hiệu AE. Ngoài ra trong số các sách Hán Nôm kí hiệu A, AB, VHv... với số lượng hàng trăm sách có ghi chép thần tích dưới các dạng thế phả, hành trạng, sự tích, thần tích, thánh tích như Từ đại thánh sự tích (A.2825), Giáo Dục xã thần tích (VHv.1231), Cố Lê danh thần phả (A.160)... Trong số các sách có ghi chép thần tích trên đây chắc chắn sẽ có nhiều sự tích các vị thần đã được chép trong sách có kí hiệu AE. Song cũng sẽ có nhiều sự tích chưa được ghi trong các sách có kí hiệu AE, ví như: Trạch Hải đại vương sự tích, ghi trong sách VHv.1229, Kiểu đại vương thượng đẳng thần ghi trong sách A.2625... Nguồn tư liệu thần tích từ các sách ngoài kí hiệu AE sé bổ sung thêm hoặc làm sáng rõ hơn cho nhau để khắc họa hoàn chỉnh chân dung các vị thần. Trong phạm vi bài viết có tính chất giới thiệu tư liệu, chúng tôi không có điều kiện đi sâu vào nội dung. Chúng tôi có dự định kế hoạch biên soạn giới thiệu bộ "Thư mục thần tích" nhiều tập nhằm tóm tắt nội dung của tất cả các vị thần đã được ghi chép trong các sách thần tích có kí hiệu AE. Trước mắt khi chưa đủ điều kiện làm bộ sách đó chúng tôi đã biên soạn cuốn " Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã "870 trang, với 2821 lượt địa danh làng xã, trong 568 cuốn sách thần tích kí hiệu AE, nhằm giúp bạn đọc tra tìm được những nơi có ghi chép thần tích và biết ở đó đang thờ vị thần nào (Sách sẽ được xuất bản trong năm 1996). Tóm lại có rất nhiều vấn đề qua mảng tư liệu thần tích có thể nghiên cứu để lý giải và rút ra những kết luận về nhiều khía cạnh có liên quan tới lịch sử, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán... của dân tộc Việt Nam thời xa xưa. Người biên tập: Nguyễn Văn Nguyên Bảng thống kê các thần tích hiện còn |
STT | Tên địa danh tỉnh huyện | Số lượng | Ký hiệu |
(1) 1 2 3 4 5 (2) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 (3) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 (4) 1 2 3 4 (5) 1 (6) 1 2 3 4 5 6 7 8 (7) 1 (8) 1 2 3 4 5 6 7 (9) 1 2 3 4 5 (10) 1 2 (11) 1 2 3 4 5 (12) 1 2 3 4 5 (13) 1 2 3 (14) 1 2 3 4 5 6 7 (15) 1 2 (16) 1 (17) 1 2 3 4 5 6 (18) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 (19) 1 2 (20) 1 2 (21) 1 (22) 1 |
Bắc Giang Hiệp Hòa huyện Phất Lộc Phượng Nhãn Việt Yên Yên Dũng Bắc Ninh Đông Ngạn Gia Bình Gia Lâm Lương Tài Quế Dương Tiên Du Thuận Thành Văn Giang Võ Giàng Hà Đông Chương Mỹ Đan Phượng Hoàn Long Phú Xuyên Sơn Lãng HoàiĐức Thanh Oai Thanh Trì Thượng Phúc Hà Nam Duy Tiên Kim Bảng Nam Xương Thanh Liêm Hà Nội Hoàn Long giáp Hải Dương Cẩm Giàng Đông Triều Gia Lộc Kim Thành Thanh Lâm Thanh Hà Tứ Kỳ Vĩnh Lại Hải Phòng Hải An Hưng Yên Ân Thi Đông An Đông An-Kim Động-Phù Cừ Kim Động Phù Cừ Văn Lâm Yên Mỹ Kiến An An Dương An Lão Kiến Thụy Thủy Nguyên Lạng Sơn Lạng Sơn Cao Lộc châu Văn Uyên châu Nam Định Giao Thủy Hải Hậu Mỹ Lộc Trực Ninh Vụ Bản Ninh Bình Gia Khánh Gia Viễn Kim Sơn Yên Khanh Yên Mỗ Nghệ An Diễn Châu Nghi Lộc Hưng Nguyên Phú Thọ Cẩm Khê Hạ Hoà Hạ Trì Phù Ninh Sơn Vi Tam Nông Thanh Ba Phúc Yên Đông Anh Yên Lãng Quảng Yên Yên Hưng Sơn Tây Bất Bạt Phúc Thọ Tiên Phong Tùng Thiện Thạch Nhất Yên Sơn Thái Bình Chân Định Duyên Hà Đông Quan Hưng Nhân Quỳnh Côi Thanh Quan Thần Khê Thụy Anh Thư Trì Thái Nguyên Phổ Yên phủ Phú Bình Thanh Hóa Đông Sơn Thọ Xuân Tuyên Quang Yên Bình phủ Vĩnh Yên Bạch Hạc |
24 8 5 4 4 3 30 9 2 1 8 1 6 1 1 1 103 8 5 25 9 12 17 1 11 15 33 14 7 11 1 1 1 27 8 1 3 1 2 7 4 1 3 3 46 2 2 1 1 1 11 28 26 5 3 5 8 5 3 1 2 34 3 6 9 7 9 41 8 8 5 11 9 14 1 4 9 42 8 6 2 8 7 2 8 15 4 11 3 3 29 1 6 6 2 5 9 69 9 7 6 7 6 10 12 1 11 4 3 1 19 10 9 1 1 1 1 |
AE a14 AE a14/1 đến a14/8 a14/9 đến a14/13 a14/14 đến a14/17 a14/18 đến a14/21 a14/22/ đến a14/24 AE a7 AE a7/1 đến a7/9 a7/10 đến a7/11 a7/12 a7/13 đến a7/20 a7/21 a7/22 đến a7/27 a7/28 a7/29 a7/30 AE a2 AE a2/1 đến a2/8 a2/9 đến a2/13 a2/14 đến a2/38 a2/39 đến a2/47 a2/48 đếna2/58 và a2/102 a2/59 đến a2/74 và a2.103 a2/75 a2/76đến a2/86 a2/87 đến a2/101 AE a13 AE a13/1 đến a13/14 a13/15 đến a13/21 a13/22 đến a13/32 a13/33 AE a1 AE a1/1 AE a6 AE a6/1 đến a6/8 a6/9 a6/10 đến a6/12 a6/13 a6/14 đến a6/15 a6/16 đến a6/22 a6/23 đến a6/26 a6/27 AE a20 AE a20/1 đến a20/3 AE a3 AE a3/1 đến a3/2 a3/3 đến a3/4 a3/5 a3/6 a3/7 a3/8 đến a3/18 a3/19 đến a3/46 AE a12 AE a12/1 đến a12/5 a12/6 đến a12/8 a12/9 đến a12/13 a12/14 đến a12/21 a12/22 đến a12/26 AE a17 AE a17/1 a17/2 đến a17/3 AE a15 AE a15/1 đến a15/3 a15/4 đến a15/9 a15/10 đến a15/18 a15/19 đến a15/25 a15/26 đến a15/34 AE a4 AE a4/1 đến a4/8 a4/9 đến a4/16 a4/17 đến a4/21 a4/22 đến a4/32 a4/33/ đến a4/41 AE b1 AE b1/1 b1/2 đến b1/5 b1/6 đến b1/14 AE a9 AE a9/1 đến 9/8 a9/9 đến a9/14 a9/15 đến a9/16 a9/17 đến a9/24 a9/25 đến a9/31 a9/32 đến a933 a9/34 đến a9/42 AE a11 AE a11/1 đến a11/4 a11/5 đến a11/ 15 AE a19 AE a19/1 đến a19/3 AE a10 AE a10/1 đến a10/2 đến a10/ 7 a10/8 đến a10/13 a10/14 đến a10/15 a10/16 đến a10/20 a10/21 đến a10/29 AE a5 AE a5/1 đến a5/9 a5/10 đến a5.16 a5/17 đến a5/22 a5/23 đến a5/29 a5/30 đến a5/35 a5/36 đến a5/45 a5/46 đến a5/56 a5/57 a5/58 đến a5/68 AE a18 AE a18/1 đến a18/3 a18/4 AE b2 AE b2/1 đến b2/8 và b2/18 đến b2/19 b2/9 đến b2/14 và b2/15 đến b2/17 AE a16 AE a16/1 AE a8 AE a8/1 |
SÁCH CÓ NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH HIỆN TÀNG TRỮ TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM Gia đình là hạt nhân của xã hội, bởi vậy gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước có quốc pháp, nhà có gia lễ; lễ giúp pháp thực thi có hiệu quả và ngược lại, pháp phải dựa vào lễ để ổn định xã hội. Gia đình có một vai trò quan trọng như vậy nên việc giáo dục gia đình là vấn đề luôn được đặt ra ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Trong thời gian gần đây vấn đề này càng được chú ý nhiều. Trên báo Nhân Dân (số ra ngày 3-4-1996) có đăng thông báo của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề gia đình ở nước ta. Thông báo nêu rõ “Gia đình là nơi duy trì nòi giống con người, luôn tái tạo ra thế hệ con cháu ngày càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, chuẩn bị hành trang cho cá nhân hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Gia đình giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục con người, bảo tồn văn hóa truyền thống, chống lại các tệ nạn xã hội. Gia đình là yếu tố đảm bảo cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Với mục đích phục vụ cuộc vận động nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục gia đình đang được đặt ra một cách bức thiết hiện nay, chúng tôi xin được giới thiệu sơ lược những sách thuộc bài giáo dục gia đình hiện tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm để bạn đọc cùng tham khảo. Sau đây là bảng thống kê các cuốn sách đó (xếp theo ABC…) có kèm theo kí hiệu xếp giá, niên đại biên soạn, tác giả, tóm tắt nội dung và đặc điểm của sách. |
TT | TÊN SÁCH | KÝ HIỆU | NIÊN ĐẠI | TÁC GIẢ | NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM SÁCH |
1 | Bùi gia huấn hài | VHv364/1-2 (in) VHv.1832/1-2 (in) VHv.1245/1-2 (in) A.2990/1-2 (in) A.884/1-2 (in) A.253 (viết tay, viết tay) |
1787 | Bùi Dương Lịch | 2000 câu thơ dạy trẻ em các kiến thức phổ thông về trời đất, con người, sử Trung Quốc, sử Việt Nam, các trường phái học thuật. |
2 | Bút Hương Trai khuê huấn ca | VNv.295 (vt) | 1861 | Nguyễn Hòa Hương | 5 bài thơ thể 6-8, khuyên dạy con gái trong nhà: thờ cha mẹ, thờ bố chồng, thờ mẹ chồng, thờ chồng, hòa thuận trong anh em, bỏ tham lam, kiêu nịnh, ghen tuông. |
3 | Châu Xuyên gia huấn | VHv.2018 (vt) | 1910 | Bùi Tử Lạc | Sách giáo dục trong gia đình gồm: Q.Thượng: giảng về trời đất, trăng sao, Hà đồ, Lạc thư, Bát quái, địa lý, cơ thể con người. Q.Trung: giảng về lễ nghĩa, đạo đức, tu dưỡng, học tập. Q.Hạ: thơ viết theo thể Đường luật, 1 bài châm, 1 bài huấn khuyên con cái giữ gìn đạo đức. |
4 | Cư gia khuyến giới | A.166 (in) | 1901 | Đặng Xuân Bảng | Những câu danh ngôn trong thư tịch cổ Trung Quốc khuyên răn con cháu trong nhà giữ đạo luân thường, bỏ thói hư tật xấu. Q1: khuyên làm điều nhân đức, giữ đạo hiếu, lễ. Q.2: khuyên dạy con cái cần kiệm, liêm, thứ, xa tửu sắc. Q.3: khuyên đừng tham của cải, kiện tụng, đố kỵ, nghiện ngập. |
5 | Cùng đạt gia huấn | VHv.286 (vt) | 1733 | Hồ Phi Tích | Những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời Hồ Phi Tích, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng xa xỉ, đắm chìm trong tửu sắc. |
6 | Cần kiệm vựng biên | VHv.245 (in) VHv.707 (in) VHv.708 (in) A.1418 (in) |
1780 | Nguyễn Đức Đạt | Sách chia làm 10 mục với nhiều chủ điểm khác nhau: 1/ Huấn cần, cần chính, cần thức, cần học, cần nghiệp. 2/ Huấn kiệm: chủ kiệm, phụ kiệm, tập kiệm. |
7 | Dương Công Khuê giám mục | VNv.235 (vt) | Khuyết danh | Viết về những điều phụ nữ cần biết khi thai nghén. | |
8 | Đông Tác Nguyễn thị gia huấn | A.673 (vt) | 1849 | Nguyễn Văn Lý |
Gồm 4 bài văn: Chiêu cáo tổ tiên (báo cáo tổ tiên), Từ đường ký (ghi chép về nhà thờ), Gia huấn (dạy con trong nhà), Phệ khuyết (nói về vận hạn dòng họ). |
9 | Gia huấn ca | AB.20 (in) | 1909 | Khuyết danh | Bài ca Nôm thể 6-8 răn dạy con cái giữ đạo đức tốt, trọn đạo luân thường, con trai siêng năng học tập, cần mẫn với chức nghiệp; con gái trau dồi công dung ngôn hạnh. |
10 | Gia huấn truyện | AB.643 (vt) AB,296 (vt) |
Khuyết danh | Trong Quốc âm thi ca tạp lục, gồm những lời khuyên con cái trong gia đình. Viết theo thể 6-8. | |
11 | Gia huấn trường thiên Chu tử gia huấn | VHv.452 (vt) |
Khuyết danh | Trong Danh thi hợp tuyển. - Gia huấn trường thiên: thơ 7 chữ nói việc dạy con cái trong nhà. - Chu tử gia huấn: nói về giáo dục trong gia đình. |
|
12 | Giáo huấn | A.2807 (vt) | Lê Toàn Thành | Trong Lê tộc phả ký: khuyên dạy con cháu tu đức để nối nghiệp tổ tông. | |
13 | Giáo huấn diễn ca | VNb.44 (vt) | 1919 | Khuyết danh | Thơ Nôm thể 6-8 răn dạy con cháu trau dồi đạo đức, cần kiệm ngay thẳng. |
14 | Giáo nữ di quy | AC.200 (in) QC.698 (in) |
1742 | Trần Hoành Mưu | Răn dạy phụ nữ trau dồi công dung ngôn hạnh. |
15 | Hành tham quan gia huấn | AB.108 (in) | Bùi Huy Bích | Dạy con cháu trong gia đình cần giữ gìn đạo đức, đối xử với gia đình cũng như làng xóm sao cho đúng phép. | |
16 | Huấn hài | AB.562 (in) | 1802 | Mạc Đĩnh Chi | Trong Thiền tông bản hạnh, dạy con trẻ trong gia đình thành người. |
17 | Huấn nữ diễn âm ca | AC.552 (in) | 1899 | Nguyễn Đình Thiết | - Bài ca Nôm dạy con gái về công dung ngôn hạnh. - Diễn Nôm kinh A Di Đà, khuyên chị em giữ nết na, biết cách đối xử với mọi người. |
18 | Huấn mông tập | A.278 (vt) | Khuyết danh | Sách giáo khoa dạy các lớp sơ học: Đạo thống: nói về đạo lý của bậc thánh hiền; Tam tài: thiên-địa-nhân; Sự ký: nói về luân lý chính trị; Nhân sự; Quân sự; Vật loại: nói về cỏ cây, vị thuốc, cảnh vật, địa dư. | |
19 | Huấn nữ tử ca | AB.85 (in) | 1875 | Khuyết danh | Bài ca Nôm, thể 6-8. Dạy con gái 4 đức lớn: công, dung, ngôn, hạnh. |
20 | Huấn tử ca | AB.640 (vt) | Khuyết danh | Trong Lưu Bình trò. Khuyên dạy con cháu trong gia đình nhớ ơn và tôn kính cha mẹ, hòa thuận với anh với chị em. | |
21 | Huấn nữ tử giới | VHv.2389 | Khuyết danh | 5 điều dạy con cái trong gia đình. | |
22 | Huấn nữ tam tự thư | AB.22 (in) | Khuyết danh | Sách dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh. Lời khuyên phụ nữ phải có trách nhiệm đối với gia đình và đất nước. | |
23 | Huấn tử quốc âm ca | AB.287 (in) | 1895 | Đặng Xuân Bảng | Trong Huấn tục quốc âm ca. Dạy con cái ăn ở hiếu kính với cha mẹ, hòa thuận với anh em, đối xử tốt với mọi người. |
24 | Khuyến hiếu ca | AB.532 (vt) | Khuyết danh | Bản dịch Nôm bài khuyến hiếu của viên quan họ Vương đời Đường. | |
25 | Khuyến hiếu thư | VNv.157(in) VN.255(in) VNv.61(in) AB.13 (in) VNv.130(in) VNv.193(in) AC.13 (in) |
1870 | Lý Văn Phức, Đỗ Giám Hồ, Trần Tú Dĩnh | Bài văn giáng bút của Văn Xương Đế quân và khuyến hiếu thiện, hiếu thảo với bố mẹ Diễn Nôm truyện Nhị thập tứ hiếu (24 người con có hiếu của Trung Quốc). |
26 | Khuyến phu ca | VHb.73 (in) | 1923 | Khuyết danh | Lời khuyên trung thực với vua, hiếu với cha mẹ, chăm chỉ đèn sách. |
27 | Lã Tổ sư huấn thế văn | AC.447 (in) | Thiện Chí Lâm | Văn giáng bút của Lã Tổ khuyên hiếu thảo với cha mẹ, nhường nhịn anh em, giữ lòng tin với mọi người, làm điều nghĩa, chăm đọc sách, tránh tà dục thô bạo. Một số lời bàn về đạo làm người và khuyên làm điều nhân đức. | |
28 | Ngô Công huấn tử văn | A.2219 (vt) | Ngô Duy Viên | Bài thơ dài, mỗi câu 5 chữ, khuyên con gái chăm học, sửa mình, giữ gìn nét thảo hiền, không hám danh lợi. | |
29 | Ngô Thị gia huấn | A.1073 (vt) | Thơ 5 chữ mang nội dung giáo dục gia đình. Có bài Quân phu tử phu của Ngô Thì Sĩ. | ||
30 | Nguyễn Thị gia huấn | A.2942 (vt) | 1849 | Nguyễn Mai Hiên | Sách dạy con cháu trong gia đình về đặt tên, kiêng tên, đội mũ, hôn nhân, tang lễ… Có dẫn một số sự tích và câu cách ngôn để minh họa. |
31 | Nữ huấn truyện | AB.423 | Trịnh Huy Giản | Thơ 6-8, dạy phụ nữ cách ăn ở với chồng con, xóm làng, cách giữ gìn vệ sinh. | |
32 | Nữ học diễn ca | AB.437 (vt) | 1914 | Khuyết danh | Răn dạy phụ nữ trau dồi công, dung, ngôn, hạnh. Có dẫn truyện của Trung Quốc để minh họa. |
33 | Phụ nữ bảo châm | VNv.59 | Khuyết danh | Bài ca dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh và cách đối xử với mọi người. | |
34 | Thái thị gia huấn | VHv.2832 (in) | Khuyết danh | Sách dạy con em trong gia đình họ Thái gồm 24 chương nói về cách đối xử với cha mẹ, chú bác, ăn ở với anh em, vợ chồng, cách giao tiếp với bạn bè, láng giềng, người ở… Phải biết lập chỉ, sống tiết kiệm, cẩn thận, cần cù. | |
35 | Xuân đình gia huấn | VHv.13 (in) | 1893 | Lê Hữu Tập | Cuốn sách dạy con cháu trong gia đình, soạn bằng thơ 4 hoặc 5 chữ: - Thơ 4 chữ: cách cư xử giữa cha con, anh em, vợ chồng, vua tôi, bạn bè, thầy trò. Không nên uống rượu, mê sắc đẹp, cờ bạc, tranh giành, dối trá… Thơ 5 chữ: dạy trẻ em, khuyên kẻ làm quan, kêu gọi biết giữ mình, biết lập chí. |
Qua bảng thống kê trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau: 1. Tất cả các sách trên đều mang nội dung giáo dục gia đình, tuy nhan đề có khác nhau. Có cuốn được gọi là “Gia huấn”, như Ngô thị gia huấn, Nguyễn Thị gia huấn, Châu Xuyên gia huấn… Có cuốn được gọi là “huấn ca”, như Gia huấn ca, Bút Hương Trai khuê huấn ca, Giáo huấn diễn ca… thường mang nội dung răn dạy con cháu trong gia đình được viết theo thể văn vần hoặc theo thể thơ 6-8. Cũng có cuốn chỉ được gọi là “huấn”, như Huấn mông tập, Huấn hài, Huấn nữ tử ca… thường mang nội dung giáo dục lứa tuổi và giới tính. Nhìn chung tên gọi của sách phần nào phản ánh được nội dung và hình thức thể hiện của sách. 2. Về tác giả: tình hình khá đa dạng. Có thể nói phần lớn các tác giả đều là những soạn giả, nhưng cũng có khi họ chỉ là những dịch giả hoặc trích tuyển những tác phẩm đã có sẵn. Trường hợp là soạn giả như Bùi Dương Lịch (Bùi gia huấn hài), Bùi Tử Lạc (Châu Xuyên gia huấn), Bùi Huy Bích (Hành tham quan gia huấn). Trường hợp là dịch giả như Nguyễn Đình Thiết, Lê Nhật Huyến (diễn Nôm Huấn nữ diễn âm ca). Trường hợp là người trích những tác phẩm đã có sẵn như Thiện Chí Lâm trong Lã Tổ sư huấn thế văn có trích văn giáng bút của Lã Tổ; Đỗ Giám Hồ, Lý Thế Phức, Trần Tú Dĩnh trong Khuyến hiếu thư có trích văn giáng bút khuyến hiếu của Văn Xương Đế Quân… 3. Về nội dung sách: đối tượng chủ yếu của loại sách này là người trong gia đình. Sách nêu ra nhiều mối quan hệ trong gia đình như cha con, vợ chồng, bạn bè… thông qua đó nêu lên cách đối xử với nhau thế nào cho phải. Quan hệ trong gia đình, gia đình luôn được đặt ra trong mối quan hệ hai chiều, có đi có lại. Nói đến quan hệ cha con, sách khuyên con cái đối với cha mẹ phải hiếu thảo, kính trọng, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, ngược lại cha mẹ đối với con cái thì phải thương yêu, dạy dỗ: Phụ mẫu ư tử, Con cái đối với cha mẹ phải kính hiếu: … Phàm vi nhân tử, Nói về sự phụng dưỡng cha mẹ, sách Hành tham quan gia huấn dạy: Sự thân cho phải hết nghì, - Quan hệ anh em cũng là vấn đề luôn được đặt ra trong loại sách mang nội dung giáo dục gia đình. Đó là những lời khuyên anh đối với em phải thương yêu, em đối với anh phải kính trọng, không vì của cải, giầu nghèo mà làm mất đi tình cảm anh em đáng quý đó: Huynh đệ nãi phụ mẫu chi thể giã. Đệ nghi đốc kính kỳ huynh, huynh nghi thân ái kỳ đệ. Vật dĩ điền sản nhi tranh tụng, chí ư cốt nhục tương tàn. Vật dĩ bần phú nhi sơ ly chí ư thư túc thư bất cố. (Anh em cùng mẹ đẻ ra. Em nên hết lòng kính trọng anh. Anh nên thương yêu em. Không nên vì ruộng vườn, tài sản mà tranh giành, kiện tụng lẫn nhau dẫn đến cốt nhục tương tàn. Không nên vì giàu nghèo mà chia rẽ dẫn đến anh em không được gần nhau). Anh em nên hết lòng vì nhau: Bên cạnh mối quan hệ cha con, anh em, loại sách giáo dục gia đình này còn chú ý rất nhiều đến quan hệ vợ chồng, mối quan hệ không thể thiếu được trong mỗi gia đình. Sách khuyên những người làm vợ làm chồng phải có trách nhiệm với nhau, thương yêu, thủy chung, hòa thuận với nhau, cùng nhau chia ngọt xẻ bùi: Phu phụ dĩ duyên hợp, Sách còn trích những câu tục ngữ răn dạy đạo làm vợ, làm chồng: Nam phu do thiếp an Sách khuyên: Tuy chuyết thả ngu, duy ngã chi phu. Sách khuyên muốn để gia đình tốt lành thì vợ chồng phải: Phu nghĩa phụ thuận, hảo phu nghi gia 4. Giáo dục giới tính luôn được đặt ra trong loại sách này. Sách nêu ra những tiêu chuẩn đạo đức của từng giới và khuyên họ nên thực hiện như thế nào cho phải. Đối với con gái, sách khuyên phải biết giữ gìn và trau dồi công, dung, ngôn, hạnh. Đó là năm phẩm cách đáng quý của người con gái ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào của xã hội: Gái thời học nghiệp cửi canh, Sách khuyên người con gái phải nói năng chân thật, không được dối trá: Phụ chi đức Sách cũng khuyên phải coi trọng chữ trinh: Phụ chi đạo Khi lấy chồng, làm dâu nhà người khác, sách có khuyên: Ấu tại gia sự phụ mẫu Đối với người con trai sách khuyên không nên uống rượu, mê sắc đẹp, không nên cờ bạc, lười biếng, nhiễm những thói hư tật xấu: Một răn du đãng bạc cờ, Sách khuyên dù là con trai hay còn gái cũng phải ngay thẳng, giữ lấy gốc của nhân cách: Nhân trọng cương thường - Bên cạnh vấn đề giáo dục giới tính, loại sách này cũng chú ý đến giáo dục lứa tuổi thanh thiếu niên bởi đó là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, cần được trang bị những kiến thức đạo đức để trở thành những người tốt, có ích cho xã hội: Hài đề chi thời, giáo dĩ xưng hô, thúc thị thúc, bá thị bá, huynh thị huynh, dì thị dì, bất hứa trực hô kỳ danh. Ẩm thực giáo nhượng mỹ ư nhân. Tọa lập giáo dĩ cư hạ. Bộ xu giáo dĩ tư hành. Kiến tôn trưởng giáo dĩ kính lễ tác ấp. Bất hứa ngạo mạn, bất hứa thuyết hoang. Xuất ngoại giáo dĩ hòa xử chúng, bất hứa tranh đấu, bất ác ngữ mà. Nhân bất hứa giảng thích. Ngũ bất hứa tập bì ngoan. (Lúc còn nhỏ dạy cách xưng hô. Chú thì gọi là chú, bác thì gọi là bác, anh thì gọi là anh, dì thì gọi là dì, không được gọi trực tiếp tên của họ. Ăn uống dạy phải nhường miếng ngon cho người khác. Đứng ngồi dạy phải ngồi ở dưới. đi lại dạy phải từ tốn. Thấy người lớn dạy phải kính lễ chắp tay mà vái. Không được ngạo mạn, không được nói dối. Ra ngoài đối xử với mọi người phải hòa thuận, không được tranh giành, không được chửi nhau, không được dạy đời, không được làm theo những đứa trẻ ngu độn thiếu giáo dục. Về nuôi dạy trẻ nhỏ, Châu Xuyên gia huấn viết: Vi nhân phụ mẫu, 5. Không chỉ dừng lại ở mối quan hệ gia đình, những muốn sách gia huấn còn đề cập đến các quan hệ xã hội như: cách ăn ở với hàng xóm láng giềng, anh em bạn bè. Với hàng xóm láng giềng, sách Thái thị gia huấn viết: Vô nhân gia bất hữu lân hương, - Đối với anh em, bạn bè, sách khuyên nên giữ chữ tín, cùng giúp đỡ lẫn nhau: Kiến thiện tương dữ, Trong cách đối xử nhân thế, sách viết: Xử thế tu yếu khiêm, cung, hòa khí. Khiêm tắc năng hạ nhân. Dịch viết Khiêm thụ ích. Cung tắc năng kính nhân. Mạnh Tử viết: Kính nhân giả, nhân hằng kính chi. Hòa khí tắc túc dĩ cảm nhân, như xuân phong hòa húc, vạn vật phát sinh, lệnh nhân khả ái, thụ nạp mãn đường chi cát khánh. (Sống ở trên đời cần khiêm, cung, hòa khí. Khiêm thì mới có thể nhún nhường với người khác. Kinh Dịch: nhún nhường sẽ có lợi. Cung thì mới có thể kính trọng người. Mạnh Tử nói: kính trọng người khác thì luôn được người khác kính trọng mình. Hòa khí đủ để cảm hóa con người, như gió xuân ấm áp, vạn vật sinh sôi. Khiến người ta yêu mến mình, đầy nhà được phúc). Qua nội dung giới thiệu ở trên, chúng ta phần nào hiểu được cách giáo dục trong gia đình của ông cha ta ngày trước. Ở đây có những mặt tích cực, cần khẳng định, phát huy. Nhưng cũng không ít nội dung đã bị lịch sử vượt qua, nay không còn thích hợp nữa. Sách mang nội dung giáo dục gia đình là một mảng đề tài khá phong phú, chiếm một số lượng không nhỏ trong các sách Hán Nôm. Trong bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát toàn bộ, mà bước đầu chỉ có thể giới thiệu những cuốn tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất để bạn đọc tham khảo. Vì sách được viết chủ yếu bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm nên hiện nay không phải ai cũng đọc được. Chúng tôi thiết nghĩ công việc chỉnh lý, dịch và giới thiệu một số tác phẩm ưu tú trong các sách đó để mọi người, nhất là các bậc làm cha, làm mẹ, làm thầy, những người có trách nhiệm trong việc giáo dục thanh thiếu niên được tham khảo là cần thiết./. |
VỀ BỘ SÁCH ĐỎ "BÁCH KHOA TOÀN THƯ - TINH TUÝ VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC" Gần đây nhiều hiệu sách ở Hà Nội có bày bán một bộ sách bìa đỏ, ngoài đề: "Bách khoa toàn thư - Tinh túy văn học cổ điển Trung Quốc", sách do Nhà xuất bản Đồng Nai in trong các năm 1995,1996, bìa sau có dấu đóng khung "Phát hành tại cửa hàng sách 56A Bà Triệu - Hà Nội". Theo bảng thống kê ở cuối mỗi quyển thì bộ sách này gồm cả thảy 52 quyển, đều là những tác phẩm quan trọng của văn hiến cổ đại Trung Hoa như: Thượng Thư, Luận ngữ. , Mạnh Tử, Lão tử, Trang Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Liệt Tử, Hàn Phi Tử, Tả truyện, Chiến Quốc sách, Lễ Ký, Thi Kinh, Sở từ... Bộ sách do một nhóm các nhà nghiên cứu và giảng dạy Trung văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh "biên soạn" và "hiệu đính". Trần Kiết Hùng, giảng viên văn học Trung Quốc và Phó Chủ nhiệm khoa Trung văn của Trường là người viết giới thiệu và hiệu đính cho tất cả 52 quyển; có nhiều quyển đã tái bản lần thứ nhất và nghe nói sách bán rất chạy. Kể ra với một khối lượng kiến thức đồ sộ như vậy mà chỉ biên soạn trong vòng hai năm quả thật là một công việc vĩ đại, góp phần nâng cao hiểu biết cho độc giả về một mảng kiến thức vô cùng quan trọng của Trung Hoa cổ đại đã từng ảnh hưởng nhiều đến nền văn hoá Việt nam. Chính vì nghĩ vậy nên tôi cố xoay được vài quyển, thầm trách mình không mua được trọn gói toàn bộ. Đem về nhà, đọc kỹ nội dung từng quyển, cứ thấy ngờ ngợ về mấy chữ "biên soạn" và "hiệu đính". Thường biên soạn thì có Chủ biên và các đồng tác giả, còn biên dịch mới cần hiệu đính. Mở cuốn Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ thấy ở bìa ngoài ghi Võ Ngọc Liên biên soạn (Tôi giật mình không biết Võ Ngọc Liên hay người xưa biên soạn Thượng Thư ?), dưới ghi Trần Kiết Hùng hiệu đính. Lật sang bìa 2 cũng tên sách ấy lại thấy ghi Biên dịch: Võ Ngọc Liên !! Thành thử người đọc cứ ngớ ra không hiểu đây là sách viết hay dịch. Đọc lời giới thiệu ở đầu mỗi quyển, người đọc cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thử nói về lời giới thiệu sách Thượng Thư (ta tập trung vào một quyển này cho gọn) thấy có đoạn viết: "Tạp chí Văn Nghệ Hán Thư có viết: Thượng Thư đã có từ xa xưa... "Tra các tạp chí của Trung Quốc không thấy có tạp chí nào mang tên này, ngẫm ra người đọc mới chợt hiểu: thì ra đó là Thiên Nghệ văn chí trong sách Hán Thư (Hán Thư Nghệ văn chí) mà người giới thiệu đã dịch nhầm ra như vậy. Dòng 11 lại có câu: "về tính chất mà nói, Thượng Thư là bộ Kinh Thư, còn gọi là Chánh Thư... "Tại sao lại nói "về tính chất mà nói"? Vì Thượng Thư và Kinh Thư chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một cuốn sách. Cuốn này vốn được gọi gọn là Thư (Trong Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu). Từ sách Hán Thư mới có cách gọi ngũ kinh nên Thượng Thư được gọi là Thư kinh, vậy không có gì cần so sánh về tính chất cả. Dòng 12 viết: "Cho nên nội dung của phạm vi sách rất rộng, từ đạo lý cử phàm nội thánh ngoại vương...". Câu này thì chắc hẳn người viết cũng không hiểu, nói gì đến người đọc! ở dòng 17, người viết dẫn câu chữ Hán "Phù! Thượng Thư giả, thất kinh chi Quán miện, bách thị chi khâm tựu..." rồi dịch rằng: về Thượng Thư từ quán Miện thất kinh đến khâm sai bách thị...", nghe như một câu đố và tất nhiên chẳng ai giải được. Thực ra câu này nghĩa là: "Ôi! sách Thượng Thư đứng đầu cả bảy kinh, là thành tựu của trăm nhà". Cuối bài giới thiệu dài một trang rưỡi này có đoạn: "Thượng Thư còn nêu lên chủ trương "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn" tức là khái quát được đặc điểm biểu hiện tư tưởng tình cảm của nhà văn, cũng đề cao tác dụng nhận thức và tác dụng giáo dục của thi ca, đây là cương lĩnh mở đầu cho một nền lịch sử thi ca của thời cổ đại Trung Hoa, có sự ảnh hưởng to lớn đối với nền lí luận văn học đời sau... Sự thật có đúng thế không? Ta hãy đọc đoạn sau trong chương Thuấn điển sách Thượng Thư: "Vua Thuấn bảo: Qùy, ta ra lệnh cho ngươi nắm giữ âm nhạc, dạy dỗ con trưởng cho được cương trực mà ôn hòa, khoan dung mà trang nghiêm, cứng rắn mà không bạo ngược, giản dị mà không kiêu căng. Thơ để nói chí, ca nối cho dài lời (Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn). Thanh dựa vào độ dài(1), luật hòa với thanh, dùng bát âm mà hòa theo làm cho hòa hợp khiến cho không xâm phạm đến nhân luân, thần và người đều hòa đồng với nhau. Rõ ràng ở đoạn này, Thượng Thư nói về âm nhạc chứ không đề cập về thơ ca, cũng như ý Khổng Tử nói: "hưng ư thi thành ư nhạc (nổi lên từ thơ, nhờ nhạc mà trọn vẹn). Tuy có nói: "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn" nhưng câu này được nói trong bối cảnh nhấn mạnh tác dụng của âm nhạc là phương tiện giáo dục để thanh lọc ý nghĩ tà ác, khiến huyết mạch lưu thông đặng di dưỡng tinh thần, điều hòa đạo đức làm cho các khí chất không bị thiên lệch. Hướng đi của tâm gọi là chí, tâm chuyển động theo hướng sẽ phát ra thành lời cho nên "Thi ngôn chí" đã hình thành ra lời rồi thì tất phải có dài ngắn khác nhau cho nên dùng tiếng hát cho lời được dài. Có dài ngắn tất có cao, thấp, thanh, đục, cho nên nói "ca ỷ vĩnh" (tiếng ca dựa vào độ dài). Thanh đây trỏ cung, thương, giốc. chủy, vũ... đại để tiếng dài mà đục là cung; chậm, trong và ngắn dần sinh ra thương, giốc, chủy, vũ; đấy chính là thanh dựa vào độ dài; đã có dài ngắn tất có cao thấp, thanh đục tất phải dùng 12 luật hòa theo thì mới có văn vẻ mà không loạn; giả như "hoàng chang" là "cung" thì "thái thốc" là "thương", "cô tẩy" là "giốc", "lâm chung" là "chủy" và "nam cung" là "vũ". Vậy là lấy 3 (cao -thấp, trong - đục, dài - ngắn) thêm vào bớt đi mà sinh ra nhau. Tiếng của con người đã hòa thì thêm bát âm vào thanh mà thành nhạc, không có gì là không hòa hợp, không làm xâm loạn mất luân lí, cho nên có thể tấu ở nơi triều đình chốn tông miếu để thần và người được hòa đồng. Thánh nhân làm ra âm nhạc để di dưỡng tính tình, dạy con người biết thờ thần linh, hòa trên thuận dưới, là gốc của rễ, cái thể và dụng của nhạc có công dụng lớn lao sâu sắc biết bao! Vậy ở đây, Thượng Thư chủ yếu nhấn mạnh tác dụng của âm nhạc đối với lời nói chứ không hề "đề cao tác dụng nhận thức và tác dụng giáo dục của thi ca và là cương lĩnh mở đầu cho một nền lịch sử thi ca của thời cổ đại Trung Hoa" như lời người giới thiệu. Trong các bài giới thiệu khác, các nhà "biên soạn" và "hiệu đính" đã tỏ ra không nắm được nguyên tác, nói gì đến bình luận, khen chê về nó. Các chương mục và các câu trích dẫn đều bị hiểu lầm. Trang 16 trích sai một câu trong Luận ngữ. "Trí giả lạc thủy, nhân giả ái sơn" (?). Nguyên tác là "nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy" nghĩa là: "bậc có lòng nhân vui với núi (vì lòng nhân là gốc không thể xê dịch giống như quả núi), người có trí vui với sông nước (vị trí phải luôn thích ứng uyển chuyển theo thực tế ví như sự mềm mại của nước)". ở đây có nhiều tên sách, tên thiên quen thuộc mà các nhà "biên soạn" nhầm lẫn lung tung. Trang 9 dòng 16 viết: "Ví dụ sách Luận ngữ vi chính biên có viết..." thực ra là "Thiên Vi chính ở sách Luận ngữ có viết...". Trang 10 dòng 13 viết "chương thượng Mạnh tử thắng văn công". Làm gì có chương sách nào như vậy? Đây là thiên Đằng Văn Công (thượng) sách Mạnh Tử. Trang trên, dòng 22 có câu: "Trong sách Tuân tử khuyến học cũng có nói: cố thư giả chính sự chi kỉ dã, có nghĩa là "Sở dĩ tôi nói: Thượng Thư ư? Đó là sách ghi chép chính sự". Thứ nhất, không có sách nào tên là "Tuân tử Khuyến học"; thứ hai, người dịch thêm bớt chữ làm cho câu văn méo mó, khó hiểu. Trang 14, 15, 16, 17... tên thiên trong Luận ngữ đều dược ghi thành tên sách, ví dụ thiên Hiến vấn ghi là "sách Hiến vấn", thiên Học nhi, ghi là "sách Học nhi", thiên Tử Hãn ghi là "sách của Tử Hãn", thiên Ung dã ghi là "sách của Ung Dã"... còn các câu trích từ nguyên tác thì bị dịch sai hẳn nguyên ý. Một ví dụ câu: Khổng Tử chi thời, Chu thất vi, nhi lễ nhạc phế, thi thủ khuyết bị dịch là "Thời Khổng Tử vì phòng dạy học hẹp nên bỏ bớt lễ nhạc, còn Thi, Thư thì không đủ". Đúng ra câu này phải dịch là Thời Khổng Tử, do nhà Chu suy vi mà lễ nhạc bị bỏ phế, Thi, Thư, cũng bị bỏ khuyết. Ta biết xưa Khổng tử dạy học trò không dùng phòng dạy học. Cũng như Platon và Aristote ở phương Tây cổ đại, các ông dạy học ở trong vườn, ai không hiểu gì thì hỏi, thầy trả lời từng người một. Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đại, học trò hàng ngàn người, giỏi thì có 72 người (thất thập nhị hiền) và cũng dạy học theo kiểu căn cứ vào tính cách và sức tiếp thu của từng người một. Ông là người mở ra nền tư học dạy tư tưởng của mình, không theo các nhà nhà tường nhà tự đời Chu cho nên không dùng đến lớp học thì làm gì có lớp học hẹp hay rộng! Cũng không thể vì lớp học hẹp mà bỏ bớt môn lễ, nhạc. Trang 17 dòng 6 có câu: Sách học nhi (?) có viết: Tử viết xảo ngôn lệnh sắc tiển hĩ nhân và dịch: "lời nói khéo có tác dụng như sắc lệnh, lời nói tốt đẹp như vậy chỉ có ở người nhân đức). Câu dịch hòan toàn sai đến ngờ nghệch, phản lại ý của nguyên tác. Vốn nghĩa của nó là: "những người dùng lời nói khéo léo và giỏi điều khiển nét mặt (ý nói không chân thật - NS) thì rất ít có lòng nhân. Liền sau đó tác giả viết: Câu nói trên cũng giống như các câu trong sách "Thượng Thư Cao Đào": hà vị hồ xảo ngôn lệnh sắc khổng nhâm". Trước nhất, không có sách "Thượng Thư Cao Đào" mà chỉ có chương Cao Dao mô trong sách Thượng Thư. Câu trên nghĩa là: "há còn sợ gì kẻ khéo dùng lời dối trá giỏi điều khiển sắc mặt, đó là nhiệm vụ lớn vậy thay! Trang 34 từ dòng 9 xuống cũng lại có mấy chỗ sai: thiên ích tắc thì gọi là "Cái tắc", thiên Dận chinh thì gọi là thiên "Dật chưng", thiên Trọng Hủy chi cáo thì gọi là thiên "Trọng Hủy chi tạo", thiên Sái Trọng chi mệnh thì gọi là "Thái thúc chi mệnh". Trang 40 từ dòng 20 có một câu hết sức vô nghĩa: Nếu như lúc đó Khổng An quốc vẫn còn sống hoặc có thể viết đại tự đi chăng nữa thì thực tế là lúc đó Khổng An quốc đã từ giã thế gian từ lâu rồi (!!!). Trang 41 dòng 16 viết: "Dị viết: Hà xuất đồ Lạc xuất thư thánh nhân tắc chi cố thi chi sơ khởi viên hĩ, chí Khổng Tử soạn yên" và tác giả dịch "Trong Kinh Dịch có viết rằng: Lập nghiệp ở sông Hà, viết sách ở sông Lạc, đó chính là thánh nhân Khổng Tử". Không kể câu chữ Hán phiên âm sai nhiều chỗ, câu dịch cũng không đúng. "Hà đồ Lạc thư" thì ai chẳng hiểu, lại dịch là "Lập nghiệp ở sông Hà, viết sách ở sông Lạc" Cả câu dẫn trên phải dịch là: "Kinh Dịch viết: đồ xuất hiện ở Hoàng Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, bậc thánh nhân (theo hình vẽ) mà bắt chước, cho nên Thư có từ lâu rồi, đến Khổng Tử mới soạn lại". Ngoài ra còn nhiều thiếu sót khác, do khuôn khổ bài báo, chúng tôi không thể liệt kê cho hết. Tất cả 52 quyển, chúng tôi mới đọc một quyển, mà đọc một cách liệp thiệp đã thấy có rất nhiều sai sót quá ấu trĩ, điều ấy là cơ sở để chúng tôi nghĩ rằng đây không phải sách biên soạn mà là sách dịch, mà dịch còn nhiều chỗ không đúng vì người "biên soạn" không hiểu được nguyên tác chữ Hán viết bằng cổ văn. Biên soạn hay biên dịch các sách nghiên cứu các tác phẩm cổ điển là công việc hết sức công phu và khó khăn, đòi hỏi người chấp bút phải có thái độ khoa học trung thực, ghi rõ ràng công việc của mình và phải làm việc với tinh thần trách nhiệm. Mong bài viết này có thể nhắc nhở các tác giả của bộ sách đỏ trên cẩn thận hơn, trước khi đưa ra cho bạn đọc một sản phẩm tinh thần quý giá nhưng đã bị bóp méo, làm cho thất chân. Người biên tập: Phạm Văn Thắm CHÚ THÍCH (1) Thanh chỉ các độ cao gồm cung, thương, giốc, chủy, vũ, xưa dùng ống cùng cỡ lấy cái dài nhất đặt ra cung, bớt ngắn dần đi sinh ra thương, giốc, chủy, vũ... |
THỬ SOI SÁNG ĐÔI ĐIỀU TRONG A. ĐÔI HÀNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM: Ông Trần Kinh Hòa (Chen Ching Ho - TKH), nhà Việt Nam học người Hoa nổi tiếng vùng Đông Nam Á, khi sinh tiền luôn gắn bó với Việt Nam, vừa từ giã cõi đời ngày 19/11/1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh(1). Ông chuyên viết sưu khảo, nhiều tác phẩm nổi danh như: An Nam dịch ngữ khảo thích, Hà Tiên trấn hiệp trấn Mạc thị gia phả chú thích, Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo v.v. Ông biết nhiều ngoại ngữ, viết bằng chữ Hán, chữ Nhật, chữ Anh, chữ Pháp... và nhiều tiểu luận bằng Việt Ngữ đăng trên tạp chí Đại học (Huế), Khảo cổ tập san, Văn hoá Á châu ... Tác phẩm chuyên sâu, trọng tâm là văn bản cổ Việt Nam. Khoảng năm 1958 - 1963, ông được mời khảo giảng ở Đại Học Huế, Sài Gòn, Đà Lạt. Năm 1963, sau chính biến tháng 11 ở Sài Gòn, ông phải rời Việt Nam đi Hương Cảng (Hong Kong). Từ đó về sau ông dạy học tại các trường Đại học trên thế giới: Nhật, Mỹ, Pháp, Đài Loan... Năm 1995, ông quay trở lại Việt Nam, và âm thầm qua đời tại đây. Quyển "Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo" (HTMTTHK) là bản luận giải từ xa những ngôi mộ cổ tại núi Bình Sơn, Hà Tiên. Tác giả giúp cho người đọc ở xa có một nhận thức khá hệ thống về quan hệ họ hàng, thời đại sinh sống... của những người thân, hoặc bộ hạ họ Mạc, thời kỳ đầu thế kỷ XVIII về sau. Sách còn nhiều điểm cần thảo luận lại. Có nhiều lí do khách quan khiến tác giả không chủ động khắc phục; ông có nói rõ trong lời tiểu dẫn: "Năm 1962, ông Trương Bửu Lâm, Viện trưởng Viện khảo cổ Việt Nam(2) có đưa một tập văn bia những mộ cổ ở Bình Sơn thuộc Hà Tiên do Viện ấy sưu tầm được, nhờ bút giả điều chỉnh; nhưng chẳng bao lâu sau khi nhận lời, bút giả dời Việt Nam đi Hương Cảng... cho tới nay vẫn chưa thực hiện được lời hứa của mình. Bút giả nhân dịp này đem toàn tập mộ bia ra kiểm điểm lại; tham chiếu sử sách triều Nguyễn và so sánh bản lược đồ thế hệ họ Mạc ở Hà Tiên mà khảo chứng". (Sách HTMTTHK bằng chữ Hán, Hoa Cương Học báo đệ ngũ kỳ, Trừu ấn bản, Hong Kong, 1967, tr.179-180). Xin được nói thêm cho rõ, tập văn bia mà ông Trương Bửu Lâm trao cho tác giả TKH nguyên là bản chép tay, do ông Trần Thiêm Trung người Hà Tiên thực hiện. Ông Trung nhờ một người biết chữ Hán không quen làm công tác khoa học chép, thành ra không chính xác, chỗ thiếu, chỗ thừa... ông Trung cũng vẽ một sơ đồ Bình Sơn với vị trí các ngôi mộ và đánh số từ 1 đến 43. Sơ đồ này được tác giả TKH cho in sách. Nhưng số hiệu các ngôi mộ có khác và nhiều hơn bản chép tay, vì hai nhóm mộ song hồn (của hai vợ chồng) ông Trung ghi một số, tác giả TKH ghi lại thành 2 số (ví dụ 14 - 15, 32 - 33), nên số hiệu mộ bia trong sách tăng đến 45. Vì lẽ, sau năm 1963 ông TKH không thể trở lại Việt Nam, chỉ sử dụng bản chép thiếu chính xác, thế nên tác phẩm được làm ra thiếu khảo sát thực tế. Bài viết này chỉ xin đề cập 2 tấm bia của Mạc Công Tài (số 11) và Phụng Nghị Đại Phu họ Mạc (số 45).(3) B. KHẢO SÁT HAI BIA MỘ: 1/ Bia Mạc công tài: - (Sđd trang 195). Sách HTMTTHK in nguyên văn (bản chép của Trần Thiêm Trung) như sau: "Số hiệu thứ 11" "Tuế Quý Dậu niên tạo" "Đại Nam - ấm Thụ Xuất Đội húy Công Tài Mạc công chi mộ" "Nữ ngọc mai lập" (Xem ảnh chụp 1 in ở bìa 4 số tạp chí này). Tác giả TKH luận giải về mộ bia này như sau: "Mạc Công Tài là con của Mạc Tử Hoàng do người thiếp sinh ra. Tên Huý của ông, sách Thông chí quyển 5 chép là Công Thôn, nhưng sách Thực lục tiền biên, Liệt truyện tiền biên, và gia phả đều chép là Công Tài. Cho tới nay chưa biết nên theo sách nào. Nay xem tập bia mộ, số thứ 2 - 3 và 11, thấy chép là Công Tài do đó có thể biết chính tên là Công Tài vậy. Còn năm xây mộ, nguyên văn Quý Dậu (năm Gia Long thứ 12 - 1813) e không chính xác (Nguyên văn chữ Hán: Chí ư thử mộ kiến tạo chi niên đại, nguyên văn chi Quý Dậu (Gia Long thập nhị niên - 1813) khủng bất xác". Xét bia mộ của Thiên Tứ (số hiệu thứ 2, năm 1818) và của Tử Hoàng (số hiệu thứ 3, 1820) đều có tên "Hiếu Tôn" hoặc "Hiếu nam" Mạc Công Tài. Mặt khác như đã thuật, Công Tài nhận chức Quản thủ Hà Tiên năm Minh Mạng thứ 11 (1830). Mùa hạ năm thứ 14 (1833) Lê Văn Khôi nổi loạn ở Nam kỳ, Công Du, Công Tài đều nhậm chức nguỵ; việc phát giác, sắc nã về kinh tra hỏi; rồi Công Du, Công Tài bị bệnh mà chết. Như vậy thì mộ Công Tài không phải xây vào năm Quý Dậu (1813). Theo thiển kiến, Quý Dậu trên bia mộ này ắt là chữ Quý Tỵ (1833) viết lầm. (Cứ quản kiến, thử mộ bi thương chi Quý Dậu niên tất thị Quý Tỵ (1833) chi bút ngộ). Huống chi "Đại Nam" là quốc hiệu mới định, sau khi vua Minh Mạng lên nối ngôi, càng đủ chứng thực năm xây mộ là "Quý Tỵ" (năm Minh Mạng 14 - 1833). Khi nói: "Quý Dậu trên bia mộ này ắt là chữ Quý Tỵ (1833) viết lầm" có lẽ ông TKH cứ vào lẽ thường: "việc chôn cất lập mộ" được tiến hành cùng một lúc ? Nhưng tác giả quên trường hợp ngoại lệ. Có khi người ta chôn người trước, làm bia đá sau, nhất là gặp thời chiến tranh ly tán. Sách sử còn ghi rõ thời kỳ tao loạn đen tối khoảng 1833 - 1834 ở Hà Tiên. Trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, cha con Công Du, Công Tài, Hầu Di, Hầu Diệu đang quản thủ Hà Tiên, đều theo về với họ Lê. Thái Công Triều được Lê Văn Khôi giao cho nắm các tỉnh miền Tây, trong đó có Hà Tiên. Chẳng bao lâu sau, Thái Công Triều phản lại họ Lê nên đã bắt cha con họ Mạc giao cho binh triều. Mạc Công Tài chết. Quân Xiêm tràn vào chiếm cứ Hà Tiên, rồi theo kinh Vĩnh Tế lên Châu Đốc... "Quân Xiêm thả sức đốt cướp dọc đường hành quân, giết đàn ông, bắt đàn bà trẻ con mang đi..."(4). Trong số biến cố này con cháu họ Mạc không thể an cư tại Hà Tiên. Người chết không kịp dựng bia, kẻ sống phải cao bay xa chạy, thậm trí thay tên đổi họ để trốn... Về sau Đại học sĩ Trương Đăng Quế đi Kinh Lý, tổ chức lại việc cai trị ở các tỉnh vừa trải qua tai họa chiến tranh, tâu trình lên vua Thiệu Trị: "Việc mở mang đất Hà Tiên lúc ban đầu do công lao của Mạc Thiên Tứ rất lớn, nên lục dụng lại con cháu họ Mạc..."Mãi đến đời Thiệu Trị thứ 5 (1845) mới có lệnh "tìm lại con cháu họ Mạc, người nào có tài có thể dùng được thì tâu lên..."(5). Mạc Công Tài chết vẫn chưa được xét giảm tội cũ. Vì mãi đến đời Tự Đức mới có sắc lệnh chọn lấy Mạc Văn Phong - (tức Mạc Hầu Phong) - làm Đội trưởng, để coi việc thờ cúng Thiên Tứ: "Tự Đức năm thứ nhất (1848) ấm thụ cho cháu bốn đời là Mạc Văn Phong là Đội trưởng"...(6) Cứ theo sắc lệnh này của vua Tự Đức, đương nhiên trước năm 1848, bia của Mạc Công Tài - nếu có - chưa thể có chữ "ấm Thụ Xuất Đội" - việc truy phong "ấm Thụ Xuất Đội" trên bia của Mạc Công Tài chỉ xảy ra sau sắc lệnh của vua Tự Đức. Thế là niên đại Quý Dậu trên bia của ông này không thể sớm hơn 1848. Ta có thể kiểm chứng niên đại Quý Dậu trên bia Mạc Công Tài bằng cách so sánh với bia của Phụng Nghị Đại phu Mạc Tiên Sinh. (Số 45), vì cả 2 bia đồng một niên đại tạo lập. 2/ Bia Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh: - (Sđd. tr.211) - Văn bia trên đá, khắc nội dung như sau: - Chính văn: "Đại Nam" - "Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh chi mộ". - Lạc khoản phải: "Quý Dậu niên tạo" - Lạc khoản trái: "Môn nhân Trần Hữu Tạo Ö lập" (xem ảnh chụp 2 in ở bìa 4 của số tạp chí này). Nếu đặt gần nhau, người ta thấy rõ hai cái bia có những điểm giống nhau từ chất đá, kích thước, cả nét chữ đến lối sắp xếp văn bản (xem ảnh). a) - Về chất liệu: 2 bia đều bằng một loại đá sa thạch mịn, màu xám xanh, mài láng mặt trước, không có hoa văn trang trí, mặt sau có dạng đá tự nhiên có chẻ. - Về kích thước: 2 bia sít soát bằng nhau, sai lệch khoảng 1/2 phân trên mỗi cạnh; có thể lấy số gần bằng là 0,85x 0,45x0,10m. b) - Về văn bia: nhìn thư pháp trên bia, dễ phát hiện do một người tạo tác. Sự đồng dạng trên thư pháp thể hiện rõ ở hai phương diện: một là nét chữ được thấy nơi chữ Đại, Nam, Mạc, Quý, Dậu, Niên, Tạo, Lập... Hai là cách sắp xếp, có sự nhấn mạnh để tránh hiểu nhầm giữa "Tạo" và "Lập", nơi câu lạc khoản (phải + trái), hai chữ đều đặt rời xa, phía dưới câu lạc khoản độ 2 tấc: (do chỗ chữ "Lập" đặt cách tên "Tạo" quá xa, nên bản chép được in trong sách HTMTTHK thiếu mất chữ này: sách in "Môn nhân Trần Hữu Tạo"; có lẽ người chép vội vàng ? Còn câu lạc khoản bên phải của 2 bia, sách lại in dư chữ "tuế"). Do các điểm tương đồng vừa nêu, tôi cho rằng cả hai bia được tạo lập đồng thời, do một người viết, cùng một nơi sản xuất. niên đại Quý Dậu trên 2 bia vì thế không thể sai lầm. Đó không phải năm Gia Long thứ 12 (1813), cũng không phải năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (Thuộc 2 ngôi mộ mới hơn, ghi số 19 và 25 trong sách HTMTTHK). Để cho sáng tỏ điểm này, chúng ta hãy tìm hiểu về Phụng Nghị Đại phu họ Mạc và thời đại sinh tiền của ông. Xét văn bia 45 (Phụng Nghị Đại phu) có 2 điểm lạ: a/ Phần chính văn không khắc tên của Mạc tiên sinh. b/ Lạc khoản bên trái ghi trọn tên họ người lập văn bia là Trần Hữu Tạo", và trỏ mối quan hệ là "môn nhân" - tức "người trong họ". Vậy ông Tạo có quan hệ thế nào với Phụng Nghị Đại phu ? Nếu như nơi bia Mạc Công Tài đề tên con gái lập bia, ở đây Trần Hữu Tạo - tự xưng mình là "người của Mạc môn" - thì vô lý, ông là một kẻ ngoại tộc ? Theo đúng thông lệ, con trai đứng lập bia cho cha, đề chữ "Nam" hoặc "Hiếu Nam". Trong trường hợp này - Phụng Nghị Đại phu họ Mạc - nên ông Trần Hữu Tạo không thể dùng các chữ ấy. Do quy tắc chính danh, tương quan tộc hệ, ông Tạo chỉ còn cách tự xưng là "môn nhân", cho người đời sau biết rõ ông có liên hệ gần gũi. Nhưng mối liên hệ "Trần + Mạc" chặt chẽ đến mức nào ? Theo tôi nhận xét, Phụng Nghị Đại phu có thể là "anh ruột", cũng có khả năng là "cha" của ông Trần Hữu Tạo. 3) Truy tầm lý lịch Mạc tiên sinh: - Nhận xét về ngôi mộ số 45, tác giả TKH chỉ viết vẻn vẹn 2 câu: "Quý Dậu chính năm Gia Long thứ 12 (1813). Chưa rõ lý lịch Mạc tiên sinh". "Quý Dậu đương thị Gia Long thập nhị niên (1813). Vị tường thử Mạc tiên sinh ở Hà Tiên, không một ai biết tên thật của ông. Gia phả xưa của họ Mạc do Võ Thế Doanh viết, không có ghi đã đành, vì sách kết thúc năm 1818. Tất cả những người từng khảo cứu về họ Mạc và lịch sử đất Hà Tiên xưa nay, không ai đề cập, dù chỉ viết một dòng về ngôi mộ này. Nay chúng tôi xin cống hiến quý độc giả chút tư liệu khả dĩ xác định nhân vật, soi sáng một điểm "chưa biết" của tác giả sách HTMTTHK. Xin tìm hiểu hàm ý những chữ khắc trên bia: a) Đại Nam: - Quốc hiệu nước ta sau Minh Mạng năm thứ nhất. Mộ này được lập sau năm 1820, không sớm hơn. b) Phụng Nghị Đại phu: - Chức Thụy được ban cho Quan văn làm Đốc học hoặc Hồng Lô tự Thiếu khanh, trật Chánh ngũ phẩm (theo Lệ định thời Minh Mạng)(7). c) Quý Dậu niên: - Trong lời luận giải bia số 11 trên đây, ông TKH nói: "Nguyên văn Quý Dậu (...1813) e không chính xác... Huống chi Đại Nam là quốc hiệu mới định sau khi vua Minh Mạng lên nối ngôi..." Thế là tại bia số 45 này, ông lại nói "Quý Dậu chính là năm Gia Long thứ 12 (1813) mặc dù văn bia có chữ Đại Nam rành rành đó. Tác giả quên chăng ?... Chúng ta hãy xét tới năm Quý Dậu thuộc thế kỷ kế tiếp của năm 1813: ấy là năm 1873. Để dễ thấy, ta ôn lại những nét trọng đại của lịch sử. Năm đó Pháp mới chiếm Hà Tiên vừa tròn 6 năm, họ đang tiến đánh Hà Tiên và Nguyễn Tri Phương hy sinh đền nợ nước. d) Họ Trần và Họ Mạc liên hệ thế nào? Tôi nghĩ rằng Phụng Nghị Đại phu Mạc Tiên Sinh đã có thời mang họ Trần. Ông được vua Tự Đức cho cải chính để ăn theo họ Mạc, theo lệ định năm 1857. Lệ ấy như sau: "Lệ cải chánh - Năm Tự Đức thứ 10 (1857) định rằng phàm viên chức nào lúc bé lưu lạc, không rõ quán chỉ đích thực; sau khi đã thành lập mới dò hỏi được đích xác mà cải chánh, thì chuẩn miễn cho sự xử phạt. Tựu trung đã có thể nên cải chánh, mà lần chần cẩu thả không tâu xin cải chánh ngay, thì dù không có lòng riêng muốn trốn tránh điều gì cũng phải xử phạt ... ". (Xem Đại Nam điển lệ toát yếu, (Sđd phụ chú (7), tr.124-125, mục cải chánh). Trường hợp thay họ đổi tên phù hợp hoàn cảnh con cháu họ Mạc sau năm 1833 - 1834 như trên đã nói. Gần đây các học giả Việt Nam có nhắc đến một trường hợp rất cụ thể, xứng hợp các điều ghi ở bia Mạc tiên sinh(8) - Trong số các học giả ấy, nên kể đến ông Nguyễn Đổng Chi, người phát hiện lai lịch và tác phẩm của họ Mạc từng mang họ Trần, trong bài viết: Một bài hịch lưu hành ở Gia Định vào thời kỳ trước thực dân Pháp bắt đầu xâm lược. Ông viết: "Năm 1860... Nguyễn Tri Phương đã giao cho đốc học Định Tường ngày ấy là Mạc Như Đông soạn một bài hịch, lấy lời một "vị nguyên nhung" nói với quân dân Gia Định. Tác giả vạch tội ác "thần dân đều giận, săn cỏ cũng hờn" của bọn cướp Tây di... Bài hịch này soạn bằng tiếng Việt"(8). Ông Nguyễn Đổng Chi cũng nói rõ xuất xứ bài hịch: "Bài này được Trương Vĩnh Ký sưu tầm và đăng trên tập Sử loại thông khảo hoặc có tên là Thông loại khóa trình (Miscellanées) số 2 tháng 6 năm 1889 - một loại nguyệt san xưa ở Sài Gòn"(9). Nơi chú thích số 2, ông Nguyễn Đổng Chi nói rõ về lai lịch tác giả Mạc Như Đông: Quốc triều hương khoa lục ghi tên ông là "Trần Nghị Đông" và chú thích như sau: "Ông nguyên là người Hà Tiên, họ Trịnh đăng ký hộ tịch ở quê mẹ. Sau chuyển ra sinh sống ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, Phụ thí (ở trường thi Thừa Thiên). Làm quan Đốc học Định Tường" (Quyển II, tờ 52b). Theo chúng tôi QTHKL chép nhầm Mạc (莫) ra Trịnh (鄭) vì ở Hà Tiên có dòng họ Mạc rất đông đúc. Mạc Nghị Đông hay Trần Nghị Đông đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843)... (Ngày nay ta có thể dễ dàng tìm đọc trong sách Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, do Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính, Nxb. Tp. HCM, 1993, tr.233). So về niên đại, hoàn cảnh lịch sử và họ Trần đổi họ Mạc, chúng ta có thể nói: ngôi mộ có bia số 45 tên "Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh", tạo lập năm 1873 chính thật là mộ của Mạc Như Đông, xưa có tên là Trần Nghị Đông hay Mạc Nghị Đông. Xét vì năm in đầu tiên của phần chánh biên bộ Quốc triều hương khoa lục (1873)(10) đã chép về ông (có sự thay đổi từ họ Trần trở lại họ Mạc) và bia mộ Mạc tiên sinh cũng khắc vào năm này (1873) đâu phải là điều trùng hợp ngẫu nhiên, không dựa trên cơ sở nào. Tôi cho rằng cái cơ sở đó chính là lệnh cải chánh của vua Tự Đức. Nhưng khó xác định thời điểm nào ông Trần Nghị Đông cải chánh để ăn lại họ Mạc. Bởi lẽ Hoàn cảnh "lúc bé lưu lạc, không rõ quán chỉ đích thực, sau khi đã thành lập mới dò hỏi được đích xác" được ghi rõ trong "Lệ cải chánh". Bất cứ ai cũng có thể nghĩ: ông Đông đã trình bày hoàn cảnh của mình để xin cải họ; tạo thành tiền lệ cho định lệ... Đến đây có thể tóm tắt lược tiểu sử của ông như sau: Mạc Nghị Đông - hay Trần Nghị Đông - cháu nội của Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ (hay Tích) - (chưa rõ ông Đông là con ai, chỉ thấy trong tên Đông của ông có bộ Mộc (木) bàn giai với Mạc Công Du và Mạc Công Tài)(11). Năm 1833, khi xảy ra biến cố Lê Văn Khôi, họ Mạc bị khép tội. Riêng cậu Đông còn bé được mẹ đưa về quê ngoại ở xã Mộ Trạch (Hải Dương). Mộ Trạch là một làng khoa bảng sản sinh nhiều vị Tiến sĩ. Cậu đăng ký hộ tịch ăn họ mẹ và đi học. Sau vào thi nhờ ở trường Thừa Thiên (Kinh đô). Ông Đông được đỗ Cử nhân năm 1843, bổ nhậm Đốc học Định Tường. Khoảng 1860, Nguyễn Duy (em ruột Nguyễn Tri Phương) làm Tán Lý đạo Định Biên đóng ở Tân An - (Long An bây giờ) cùng với Mạc Như Đông qui tập về Gia định phục vụ trong ban đầu não của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương bảo ông làm bài hịch khích lệ quân dân chống Pháp. Trong lời hịch có những lời lẽ mạnh bạo, cứng rắn, nguyền rủa bọn Tây cướp nước: "Cớ chi một gốc Tây di khác lòng trâu ngựa, (...) Quỷ trắng đâu vùng vẫy dưới trời, (...) Thói hung bạo thần dân đều hận, dạ tham ô tuy săn cỏ cũng hờn (...)". Vì ông có quá trình chống Pháp cho nên khi ông mất (1873), người ta không để tên thật của ông trên bia, phòng hờ bọn Pháp biết được sẽ khủng bố trả thù cánh họ Mạc ở Hà Tiên. Năm 1873, bộ máy cai trị của Pháp ở Hà Tiên còn mới mẻ, chưa ổn định... Khi đưa ông về chôn ngay dưới chân Mạc Thiên Tích, hẳn người xưa nghĩ rằng Phụng Nghị Đại phu Mạc Như Đông xứng đáng nằm vào nơi vinh dự đó. Ngày nay chúng ta biết rõ lai lịch và tinh thần yêu nước kháng Pháp của ông, thời Pháp mới xâm lăng nước ta, lẽ nào ta nỡ để cho mộ phần ông bị san bằng quên lãng cách tội nghiệp ? Hà Tiên, ngày 31 tháng 5 năm 1996 Chú thích: (1) Báo Nhân Dân số 14.792 ngày Chủ Nhật 17.12.1995. (2) Viện Khảo cổ Sài Gòn dưới thời chánh quyền Ngô Đình Diệm. Tháng 11 năm 1963 có cuộc đảo chánh tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm bị giết, Chính phủ kế nhiệm không còn tin dùng những người từng phục vụ cho chế độ trước, đã cho ông Trần Kinh Hòa ngưng việc ở các Đại học miền Nam, trở về Hương Cảng (Hong Kong). (3) Trước đây trong bài viết: Truy nguyên và đính chính một số sai lệch trong sách Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt thuộc tỉnh Hà Tiên cũ”, chúng tôi đã có vạch một điểm sai do ngộ nhận về ngôi mộ số 30. Ông Trần Kinh Hòa chỉ căn cứ vào sách Đại Nam nhất thống chí nên sai về sự tích ngôi chùa Phù Dung và lịch sử bà Từ Thành Thục Nhân. (4). Tư liệu của Jackenet theo Nguyễn Phan Quang dẫn chứng trong quyển "Cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833 - 1835)”. Nxb. Tp. HCM, 1991, tr.87, chú thích số 23. Trong chú thích này tác giả Nguyễn Phan Quang nói quân Xiêm kéo sang "khoảng cuối tháng 12 năm Giáp Ngọ tức đầu năm 1835", có lẽ đã lầm. Chúng tôi đọc thấy trong Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ (IX và X), tập XIII và XIV về năm 1833 - 1834 (Nxb. KHXH, H. 1965); Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam (Nxb. KHXH. H. 1987, tr.443), tóm thuật sự việc xảy ra vào tháng Chạp âm lịch năm Quý Tỵ (1833), như sau: "Hơn 100 binh thuyền nước Xiêm xâm phạm tỉnh Hà Tiên. Hà Tiên thất thủ, triều đình phải cử binh thuyền đến An Giang chặn đánh địch". Sách Việt sử tân biên, Phạm Văn Sơn, (Q.IV - Sài gòn, 1961, trang 365-366-367-368) mô tả rõ trận này; đã viết: "Quốc vương xứ này xét cơ hội thuận tiện nên đã cho ba đạo quân tiến đánh Nam Kỳ vào tháng Chạp năm 1833. Thủy quân Tiêm La với 100 chiến thuyền từ bể xông vào Hà Tiên..." Tháng Chạp năm Quý Tỵ tức là từ ngày 10/1/1834 đến ngày 8/2/1834. Ông Phạm Văn Sơn cũng nói rõ ở trang 368, Sđd "Cuộc xung đột Việt - Tiêm khởi từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ(1834) đến hết tháng naem thì kết liễu. Ngày 1 tháng Giêng năm Giáp Ngọ là ngày 9/2/1834 và tháng Năm/Giáp Ngọ/ thuộc vào tháng 6/1834. Ông Phạm Văn Sơn cũng nói rõ đã dùng tài liệu của M.Gaultier: Minh Mạng. (5) Đại Nam thực lục chánh biên Đệ tam kỷ, Q.477, Tờ 1/a,b. (6) Đại Nam liệt truyện, Tập I (Tiền biên), Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr.183-184. (7) Nguyễn Sĩ Giác: Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb. Tp. HCM 1993, tr.22-23. (8) Xem - Nguyễn Đổng Chi - Nghiên cứu lịch sử số 2/173 tháng 3+4, 1977, tr.71-72. - Ca Văn Thỉnh: Hào khí Đồng Nai, Nxb. Tp. HCM, 1983, tr.42-43 và 134-137. - Cao Tự Thanh: Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập II, tr.94. - Nhóm Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nguyễn Khuê - Trần Khuê: Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn xưa, Nxb. Tp. HCM, 1987, tr.290 - 295. (9) Tạp chí Miscellanées của Trương Vĩnh Ký, có tên đầy đủ là "Miscellanées ou lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales et cantonales (kể từ số 4, Aout 1888 có thêm: "et les familles" par P.J.B Trương Vĩnh Ký. Sg.Imp. Commerciale Rey et Curiol 1888-1889 "Đầu trang bìa, trên chữ Miscellanées có một hàng chữ Hán, đọc từ trái qua mặt "Thông loại khóa trình" (Xem Bằng Giang: Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb. Văn học, SG 1994, tr.62. (10) Quốc triều hương khoa lục, Cao Xuân Dục, Nxb. Tp. HCM, 1993. Chúng tôi chọn năm 1873 là năm in đầu tiên của Phần chánh biên bộ sách này, do Phan Đình Toái viết bài tựa. (11) Họ Mạc truyền tử lưu tôn theo thứ tự "Thất diệp phiên hàn": Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Đồng thời trong tên riêng viết có kèm các bộ Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ - theo ngũ hành: Thế hệ Mạc Thiên Tích lót chữ Thiên, trong chữ Tích có bộ kim (金); Thế hệ thứ hai lót chữ Tử (như Tử Hoàng...) trong chữ Hoàng có bộ Thủy (氵); Thế hệ thứ ba lót chữ Công (Như Công Tài), trong chữ Tài có bộ Mộc (木); thế hệ thứ tư lót chữ Hầu (như Hầu Hi), trong chữ Hi có bộ Hỏa (火)./. |
MỘT DỊ BẢN Báo Văn nghệ số 19 (11-5-1996) trang 15 có đăng bài “Những bài độc đáo về hình thức trong thơ ca cổ điển Trung Quốc” của tác giả Phan Văn Các. Sau khi giới thiệu bài thơ “Đề Kim Sơn Tự” (Tô Thức), tác giả đã chỉ ra những cái hay vẻ đẹp, cái độc đáo của bài thơ Đường luật viết theo lối thuận nghịch đọc, từ đó, tác giả có liên hệ một bài thơ khác của Việt Nam cũng độc đáo không kém. Bài thơ đọc xuôi theo chữ Hán và đọc ngược theo chữ Nôm, đó là bài Xuân Hứng mà người viết cho rằng tác giả của bài thơ có lẽ là Vua Tự Đức (tôi gạch dưới - NCL). Bài thơ như sau: Xuân Hứng Tác giả bài báo đã liệt kê “âm đúng” và “âm chệch” của các chữ Hán được mượn nguyên hình làm chữ Nôm (gồm 21 chữ) và đọc ngược bài thơ thành bài thơ Nôm như sau: Ai quen thuộc nấy có tình u, Thế nhưng, trên tạp chí Phổ thông bán nguyệt san của Sài Gòn ngày xưa (do nhà thơ Nguyễn Vĩ làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút - rất tiếc tạp chí này đã quá cũ, đã rách gần hết nên không rõ số, năm) và trong sách Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Nam Chi tùng thư, S, 1966 đều ghi bài thơ trên là của Vũ Duy Thanh, một vị quan và là bạn thơ của nhà Vua - thi sĩ Tự Đức. Vũ Duy Thanh (1806-1861) người làng Kim Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thuở nhỏ nổi tiếng thông minh và có tài ứng đối nhưng lại lận đận trong thi cử, thiếu thời thi đến mấy lần mới đậu Cử nhân, lại mấy lần hỏng thi Hội, mãi đến năm 1851 đậu Phó bảng. Sách cũ chép rằng, sau khi treo bảng xong. Tự Đức nằm mơ thấy bỏ sót người tài nên mới mở Ân khoa (khoa thi Hoành Từ) luôn năm đó cho các Tú tài, Cử nhân, Phó bảng vào dự thi. Kỳ thi Hội khoa Hoành Từ này Vũ Duy Thanh đứng thứ nhì, sau ông Vũ Huy Dực (Bắc Ninh). Vào thi Đình, Vũ Duy Thanh được 8 phân, trúng Bảng nhãn, còn Vũ Huy Dực được 6 phân, trúng Thám hoa (ở triều Nguyễn không lấy Trạng nguyên, ở bảng đệ nhất giáp, chỉ lấy Bảng nhãn, Thám hoa). Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc tử giám, không những ông giỏi thơ văn mà còn giỏi cả khoa học. Ông là người phát hiện ra than đá ở Quảng Yên (Quảng Ninh ngày nay), là người chế tạo ra thuyền chạy bằng hơi nước; và là người khuyên Tự Đức nên tập luyện thủy binh để phòng ngự mặt biển. Rất tiếc, những phát minh và ý kiến của ông được vua tự Đức khen hay, nhưng không tin dùng ngay vì chưa cần làm. Ông mất ngày mồng 4 tháng 4 năm Tự Đức thứ 14 (1861) lúc mới 56 tuổi. Bài thơ của ông có nhan đề là “Phong hoa tuyết nguyệt”. So với văn bản mà báo Văn nghệ số 19 đã in, bài thơ này không chỉ viết theo lối thuận nghịch đọc mà còn theo lối thủ vĩ ngâm nữa (câu đầu, câu cuối giống nhau). Phong hoa tuyết nguyệt (Những chữ in đậm và cả 8 câu là khác với bản của tác giả bài trên Văn nghệ số 19). So sánh hai bài thơ thì Câu 1, Câu 2 giống nhau; Câu 3: giáp/ áp; Câu 4 khác: hồ/ biều, khuynh bạch tuyết…/ nghinh tuyết bạch; Câu 5 khác: lung trúc; ly cúc; Câu 6: tuyết án/ yến tịch; áp/ át. Câu 7: thảo am đầu…/ lĩnh đầu chiêm… và câu 8 hoàn toàn khác nhau. Dịch nghĩa: Đi giày thêu đến đài thơ, qua rặng liễu nhỏ, Đọc ngược bài thơ theo chữ Nôm như sau: Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ, Những “âm đúng” và “âm đọc chệch” từ chữ Hán làm chữ Nôm, GS. Phan Văn Các đã chỉ rõ, ở đây tôi không nhắc đến nữa. Có điều cần lưu ý là cha ông ta ngày xưa không những tiếp thu thể loại văn học Trung Quốc Thơ luật - Đường, lối thuận nghịch độc lối thú vĩ ngâm mà còn sáng tạo, đổi mới rất độc đáo. Nếu lối thơ thuận nghịch độc của Trung Quốc, đọc xuôi đọc ngược đều là chữ Hán, thì ở Việt Nam, qua bài thơ của Vũ Duy Thanh, đọc xuôi theo chữ Hán và đọc ngược thành bài chữ Nôm ý vị không kém so với bài chữ Hán. Thế mới biết văn hóa chữ Hán độc đáo vô cùng và mối giao lưu văn hóa trong khu vực sâu sắc vô cùng ! Chỉ qua một hiện tượng trên, có thể nói rằng ông cha ta ngày xưa đã biết kế thừa cái hay của nước ngoài, tiếp thu có sáng tạo để làm giàu cho văn hóa nước nhà, thể hiện rõ bản sắc dân tộc./. |
VỀ BỨC THƯ "GỬI PHỤ LÃO TOÀN QUỐC" CỦA HỒ CHỦ TỊCH TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Trên báo Người cao tuổi số 12 ra ngày 1-5-1996 có đăng ở trang đầu "Thư Cụ Nguyễn Ái Quốc gửi các vị phụ lão trong cả nước tháng 6-1941", toàn văn tiếng Việt, bằng lời lẽ sôi sục tình yêu nước, kêu gọi các bậc cao niên hồi đó tham gia sự nghiệp toàn dân đấu tranh chống Pháp Nhật, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Bài báo không ghi, thực ra đây chỉ là bản dịch, nguyên văn bức thư được viết bằng chữ Hán, và đã được phổ biến khá rộng rãi trong những năm phong trào Việt Minh hoạt động mạnh trước Cách mạng Tháng 8, và còn ở trong trí nhớ nhiều vị tuổi cao. Người viết bài này, vào năm 1963, nhân một chuyến công tác vùng nông thôn huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, đã được mấy cụ đọc thuộc cho nghe, và đã ghi lại. Các cụ cho biết bài này, vào khoảng đầu năm 1944, được truyền miệng cho nhau là chủ yếu, và nếu có giấy tờ thì cũng hủy đi ngay sau khi học thuộc vì không muốn để lại một hình tích gì cho phép bọn cầm quyền lấy cớ để khủng bố. Văn bản chữ Hán sau đây đã được ghi và được dịch từ hồi đó, đối chiếu với văn bản tiếng Việt in trên báo Người cao tuổi không khác nhau mấy, chứng tỏ nguyên bản Hán văn đã được lưu lại khá trung thực trong trí nhớ các cụ. Dĩ nhiên vì chỉ dựa vào ký ức, nên không tránh được những sai sót. Mong sao sau này sẽ sưu tầm nếu không được chính bản, thì cũng được một bản chép tay hồi đó, để được một văn bản có giá trị xác thực hơn. Dù sao, văn bản hiện có vẫn có giá trị rất lớn. Bản thân việc sưu tầm có kết quả, chứng tỏ năng lực cường ký đáng khâm phục, và nhất là tinh thần yêu nước sẵn có của các bậc cao niên, do sẵn nhiệt tâm nên dễ nhập tâm những lời kêu gọi đấu tranh cứu nước, nhất là với tên ký Nguyễn Ái Quốc, một chiến sĩ cách mạng được mọi người đương thời khâm phục, không chỉ ở nơi thành thị, mà cả những chốn thôn xóm xa xôi. Dưới đây, chúng tôi xin trân trọng bản phiên âm, dịch nghĩa và chú thích toàn văn bức thư "Gửi phụ lão toàn quốc" (Ký toàn quốc phụ lão thư) của Hồ Chủ tịch do chúng tôi từ lâu sưu tầm được . Phiên âm: Ký phụ lão toàn quốc thư. Thân ái chư vị Phụ lão, Quốc gia nhậm vụ, ngô bối phụ lão chi trách nhậm kỳ thậm đại yên. Quốc gia chi hưng, phụ lão phù chi. Quốc gia chi tồn, phụ lão trợ chi. Quốc gia chi suy, phụ lão cứu chi. Quốc gia chi vong, phụ lão vãn chi. Quốc gia chi hưng vong tồn suy, phụ lão giai hữu trọng đại chi kiên đởm dã. Hán thất chi suy, hữu Thương Sơn tứ hạo chi ưu; Tấn triều chi thịnh, hữu Trúc Lâm thất hiền chi lạc. Quốc gia chi ưu, phụ lão dĩ phân kỳ ưu, quốc gia chi lạc, phụ lão dĩ cộng kỳ lạc. Ngã tiền triều, Nguyên nhung tứ ngược, chí Minh tặc bạo hoành, Trần Hưng Đạo Lê Thái Tổ triệu chư huyện phụ lão, mưu đồ khôi phục, để kháng xâm lăng. Thượng hạ đồng tâm, quân dân nhất trí. Anh hùng sự nghiệp hiển hách đương thời; hào kiệt thanh danh vinh quang hậu thế. Diệc nhân đương đại phụ lão chi hô hào dã, chi cổ vũ dã, chi khích lệ dã. Tự tòng Pháp nhân xâm lược ngã tam kỳ, thủy nhi phạm ngã hải tần, đại hải chi ba đào diệc nộ, chung nhi chiếm ngã thổ địa, thâm sơn chi thảo mộc giai cừu. Do thị nhân dân chí sĩ, hữu tâm can giả, hữu chí khí giả, tiếp tích nhi khởi. Hà Tĩnh chi Phan Đình Phùng, Bắc Giang chi Hoàng Hoa Thám, cập Bắc Sơn, Đô Lương, Nam Kỳ khởi nghĩa, liệt liệt oanh oanh, lạc vô số ngạch đầu dĩ báo quốc thù, sái vô tận tiên huyết dĩ tẩy quốc hận. Nhãn tiền cứu quốc chi nghĩa, diệc do phụ lão chi cấu tạo yên, chi bồi dã yên, chi tẩm nhuận yên. Hiện kim Pháp quốc khốc tàn vị đoạn, hựu gia Nhật Bản bạo ngược nan đương, tăng sát hại lương dân, chiếm cứ thổ điền, tịch thu thương cốc. Ô hô! Quốc gia trầm luân, đồng bào đồ thán, tứ cố thương mang, phủ tâm tự vấn: phụ lão kỳ hữu tâm hồ? hữu ái quốc nhiệt thành hồ ? Hà tuy nhãn hoa phát bạch thủ nuy túc quyện, nhi nhất ngôn kỳ ảnh hưởng khả dĩ hưng bang, nhất động kỳ ảnh hưởng khả dĩ sát tặc. Thoát mộc kỹ (1) dĩ đả bạo ngược chi đầu; huy trúc trượng dĩ bạt hung kiêu chi cảnh. Đối ư gia đình, phụ lão hữu trọng trách chi tôn. Đối ư hương lý tông tộc, phụ lão hữu uy tín chi trọng. Phụ lão hô nhi nhân ứng chi, phụ lão hành nhi nhân tòng chi. Hô đương hô chi thanh, hành đương hành chi sự. Hữu tài giả xuất tài, hữu lực giả xuất lực. Liễm phong thành cụ; tụ yên thành vân. Toàn quốc đồng bào đương kim kiều thủ ngưỡng vọng ư ngô sài phụ lão dã. Nguyễn Ái Quốc Dịch nghiã: Thư gửi phụ lão toàn quốc (2) Các vị phụ lão thân mến, Đối với nước nhà, các phụ lão chúng ta có trách nhiệm rất lớn. Nước nhà dấy lên, phụ lão tôn phò. Nước nhà đang còn, phụ lão trợ giúp. Nước nhà suy, phụ lão ứng cứu. Nước nhà mất, phụ lão phục hồi. Nước nhà thịnh, suy, còn, mất, phụ lão đều có trách nhiệm nặng nề. Nhà Hán suy, có sự lo âu của bốn vị tóc bạc Thương Sơn (3). Nhà Tấn thịnh, có cảnh vui chơi của bẩy người hiền Rừng Trúc (4). Nước nhà lo, phụ lão chia mối lo. Nước nhà vui, phụ lão chung niềm vui. Dưới các triều trước đây ở nước ta, quân Nguyên ngang ngược, tiếp đến giặc Minh bạo tàn. Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ triệu tập phụ lão các huyện bàn việc khôi phục, chống quân xâm lăng. Trên dưới chung lòng, quân dân một chí. Sự nghiệp anh hùng đã rỡ rạng thời đó; thanh danh hào kiệt còn ngời sáng đời sau. Đó cũng là nhờ công phụ lão đương thời hô hào, cổ vũ và khích lệ. Từ khi người Pháp đánh chiếm ba kỳ nước ta, vùng bể mới bị phạm, sóng gió trùng khơi đều căm giận; đất đai sau bị chiếm, cỏ cây non thẳm cũng hận thù. Cho nên hiền nhân chí sĩ có tâm can, có khí phách đều nối tiếp nhau nổi dậy. Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Hoàng Hoa Thám ở Bắc Giang, rồi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương. Nam Kỳ, lẫy lừng oanh liệt. Bao đầu cứng đã rụng để báo quốc thù; bao máu tươi đã đổ để rửa quốc hận. Nghĩa lớn cứu nước rành rành, thực đã do phụ lão nhen nhóm, bồi đắp và nuôi dưỡng. Hiện nay, quân Pháp không ngớt tham tàn, lại thêm quân Nhật vô cùng bạo ngược, càng sát hại dân lành, chiếm đoạt ruộng đất, tịch thu thóc kho. Ôi! Nước nhà chìm đắm, đồng bào lầm than, nhìn bốn phương mờ mịt, tay đặt lên tim tự hỏi: phụ lão có tâm hồn không, có nhiệt tình yêu nước không. Dù cho mắt mờ tóc bạc, tay run chân mỏi, nhưng nói một lời, tiếng vang có thể cứu nước, làm một việc, tác dụng có thể giết giặc. Rút guốc gỗ đánh dập đầu bạo ngược, vung gậy tre phạt ngang cổ hung tàn. Đối với gia đình, phụ lão được tôn trọng vì trách nhiệm nặng nề. Đối với làng xóm họ hàng, phụ lão được tôn trọng vì uy tín lớn. Phụ lão nói mà người người hưởng ứng, phụ lão làm mà người người noi theo. Nói tất nói lời đáng nói, làm tất làm việc đáng làm. Có của bỏ của, có sức bỏ sức, góp gió thành bão, tụ khói thành mây. Đồng bào ta có nước đang nghểnh cổ trông đợi ở phụ lão chúng ta! Nguyễn Ái Quốc CHÚ THÍCH (1) Các cụ đọc là "kỹ". Theo Từ điển Khang Hy, và Hán Việt tự điển của Thiều Chửu thì âm đúng là "kịch". (2) Nguyên văn chữ Hán của bài trên được sưu tầm năm 1963 tại huyện Gia Lâm do cụ Nguyễn Văn Huệ, hồi đó 81 tuổi, người thôn Nông Vụ Đông (tức thôn Vụ Đông, xã Hội xá) đọc và cụ Hoàng Đình Oanh, hồi đó trên 60 tuổi, người thôn Vàng (xã Cổ Bi) bổ sung một số câu. Các cụ đã được biết bài này vào khoảng giữa năm 1944, và đã học thuộc lòng. Lời văn đã in sâu trong trí nhớ suốt 20 năm, trước khi được ghi lại trên giấy. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo và bổ sung theo một bản của đồng chí Chu Hà, hội Văn Nghệ Hà Nội. (3) Bốn vị tóc bạc (Thượng Sơn tứ hạo): chỉ bốn cụ già cuối đời Tần, Trung Quốc, tránh loạn ẩn ở Thương Sơn. Cả bốn vị đều trên 80 tuổi, tóc và lông mày đều bạc trắng. Hán Cao Tổ lên ngôi vua, muốn mời ra giúp việc, bốn người đều từ chối. Sau Cao Tổ muốn phế bỏ thái tử Doanh, lập Triệu vương Như ý. Lã Hậu nghe lời Trương Lương cho người đến cầu xin bốn cụ giúp. Bốn cụ theo thái tử vào nói với vua. Sau đó, vua bảo: "(Thái tử được bốn cụ giúp) thật như mọc lông cánh". Bèn thôi chuyện truất phế. (4) Bẩy người hiền Rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền): đầu đời Tấn (265 - 420), bẩy người trong đó có Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh... kết bạn, thường hội họp ở rừng trúc, vui chơi thoả thích, người đương thời gọi là "Trúc Lâm thất hiền". (Vũ Tuân Sán sưu tầm, dịch và chú thích) |
THÊM BỐN BÀI THƠ "LƯ KHÊ NHÀN ĐIẾU" CỦA MẠC THIÊN TÍCH Là người sáng lập đồng thời là người đứng đầu Tao đàn Chiêu Anh Các ở trấn Hà Tiên, Mạc Thiên Tích cũng là một nhà thơ nổi tiếng ở Đàng Trong thế kỷ XVIII. Ngoài các tác phẩm như Hà Tiên thập vịnh, Hà Tiên quốc âm thập vịnh, Thụ đức hiên tứ cảnh..., ông còn có ba mươi bài thơ và một bài phú cùng mang nhan đề Lư Khê nhàn điếu (Rạch Vược câu nhàn) in chung trong một tập lấy tên là Minh bột di ngư. Bản in đầu tiên của tập thơ này trước 1771 đã mất; còn bản in thứ hai có tên Minh bột di ngư trùng bản do Trịnh Hoài Đức cho khắc in năm 1821, từng được tác giả Ngạc Xuyên giới thiệu năm 1943 hiện cũng khó tìm lại được (1). Đây là một điều đáng tiếc đã gây nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nói chung và thơ văn Mạc Thiên Tích nói riêng trong nhiều năm qua. Bởi vì nếu những Hà Tiên tập vịnh, Thụ đức hiên tứ cảnh... là tiếng nói chung của cộng đồng Việt Nam ở trấn Hà Tiên thế kỷ XVIII, thì Minh bột di ngư lại là tiếng lòng riêng tư của bộ phận người Hoa phản Thanh phục Minh ở Hà Tiên và cả Đàng Trong buổi ấy, những người yêu nước phải đào vong tị nạn và trong quá trình đấu tranh để hoà nhập vào một không gian sống mới cũng chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần... Khía cạnh ấy sẽ ít nhiều được Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) sau này khái quát qua bài Đề bột di ngư tập hậu (Đề sau tập Minh bột di ngư) với niềm hoài cổ của một ông quan thời vong quốc trong thân phận Kim Giang tướng công: Cựu quốc hoang lương sự dĩ thù, Vì nhiều lí do, trước 1975 việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nhìn chung chưa được tiến hành rộng rãi, ngay cả khâu điều tra, sưu tầm, xác minh tư liệu. Cho đến 1977, chúng tôi chỉ mới đọc được bài phú Lư Khâu nhàn điếu trong Nam hành ký đắc của Phạm Nguyễn Du (2) và ba bài thơ Lư Khê nhàn điếu: hai bài trên tường Trung nghĩa từ thờ họ Mạc ở Hà Tiên, đã được Đông Hồ giới thiệu trong Văn học Hà Tiên, Quỳnh Lâm, Sàì Gòn, 1970 và một bài do Ngạc Xuyên giới thiệu trong Đại Việt tập chí. Năm 1985 chúng tôi lại đọc được trong một hợp tập thơ văn chữ Hán chép tay tại Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh thêm bốn bài nữa. Bốn bài này có nhan đề "Lư Khê nhàn điếu (tứ thủ)" chép lẫn giữa một số thơ văn khác về Hà Tiên, cuối hợp tập có dòng chữ "Nam triều Bảo Đại Giáp Tuất niên tam nguyệt sơ nhất nhật, An Trường Hải Nhi thư vu Hà Tiên chi lữ thứ" (ngày 1 tháng 3 năm Giáp Tuất niên hiệu Bảo Đại Nam triều - 14.4.1934, An Trường Hải Nhi (?) chép ở đất khách Hà Tiên). Sau đây là nguyên văn và thứ tự bốn bài thơ nói trên: I. Lãng bình nhân ổn tự du tai, II. Sấn tễ phù thanh triển điếu luân, III. Kỷ loan phong nguyệt nhất khê vân, IV. Nhạn hạc lô từ hiệp hữu bằng, Tạm dịch: I. Sóng yên người ổn thật vui thay, II. Mưa tạnh trời trong khẽ nhắp cần, III. Khe tràn mây khói vịnh đầy trăng, IV. Cồng cộc, le cò giỡn líu lăng, Lối sao chép thơ văn chữ Hán ít khoa học trước đây và thực trạng tư liệu quá thiếu thốn hiện nay chưa cho phép tìm hiểu nhiều hơn về lai lịch văn bản, xuất xứ tư liệu, hoàn cảnh sao chép..., nhưng cũng có thể nói thêm đôi điểm về bốn bài thơ này. Theo Ngạc Xuyên trong bài giới thiệu trên Đại Việt tập chí thì tập Minh bột ngư trùng bản 1821 có một bài phú và 30 bài thơ, ngoài ra bài phú Lư Khê nhàn điếu trong Nam hành ký đắc của Phạm Nguyễn Du cũng kết thúc với câu: "...Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vận"(Thỏa lòng ta nên ngâm nga ba chục vận). Con số 30 này ăn khớp với 30 bộ vần bình thanh trong Bội văn vận phủ gồm 15 bộ Thượng bình thanh: Nhất đông, Nhị đông, Tam giang, Tứ chi, Ngũ vi, Lục ngư, Thất ngu, Bát tề, Cửu giai, Thập khôi, Thập nhất chân, Thập nhị văn, Thập tam nguyên, Thập tứ hàn, Thập ngũ san và 15 bộ Hạ bình thanh: Nhất tiên, Nhị tiêu, Tam hào, Tứ hào, Ngũ ca, Lục ma, Thất dương, Bát canh, Cửu thanh, Thập chưng, Thập nhất vưu, Thập nhị xâm, Thập tam đàm, Thập tứ diêm, Thập ngũ hàm. Hơn thế nữa, có thể thấy hai bài mà Đông Hồ giới thiệu trong Văn học Hà Tiên là thuộc hai vần Nhất đông (Lư Khê phiếm phiếm tịch dương đông), Nhị đông (Khê thượng lưu hoàng dạ sắc dung), tức bài 1và bài 2, còn bài mà Ngạc Xuyên giới thiệu trong Đại Việt tập chí là thuộc vần Thập ngũ hàm (Thủy quốc vân hương cảnh bất phàm), tức bài 30 (3). Như vậy bốn bài thơ trên đây theo thứ tự là thuộc các vần Thập khôi, Thập nhất chân, Thập nhị văn, Thập chưng, tức các bài thứ 10, 11, 12, 25 trong 30 bài thơ Lư Khê nhàn điếu. Từ Hội thảo khoa học kỷ niệm 250 năm thành lập tao đàn Chiêu Anh Các ở Kiên Giang năm 1986 đến nay, Thư mục Các bài viết, công trình nghiên cứu về thơ văn Chiêu Anh Các đã được kéo dài một cách đáng kể. Nhưng thư mục, tư liệu và văn bản tác phẩm Chiêu Anh Các vẫn chưa có chuyển biến nào quan trọng so với những gì người ta đã biết qua Văn học Hà Tiên của Đông Hồ năm 1970. Bốn bài Lư Khê nhàn điếu này cũng chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến cần thiết ấy, vì chỉ trong phạm vi của việc tìm hiểu thơ văn Mạc Thiên Tích, hiện vẫn còn 23 bài Lư Khê nhàn điếu khác chưa tìm lại được để tái lập trọn vẹn tập Minh bột di ngư ... Người biên tập: nguyễn ngọc nhuận CHÚ THÍCH (1) Xem Ngạc Xuyên, Minh bột di ngư, một quyển sách, hai thi xã, Đại Việt tập chí, số 12, Sài Gòn, 1.4.1943. Bản Minh bột di ngư trùng bản mà ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh dùng để viết bài này vốn thuộc thư viện riêng của nhà sử học Lê Thọ Xuân, nhưng không may là thư viện này đã bị thiêu hủy sau ngày Nam Bộ kháng chiến năm 1945. (2) Ký hiệu A. 2939 hiện được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên năm 1970 Đông Hồ chỉ giới thiệu được có một đoạn của bài phú Lư Khê nhàn điếu còn sót trên tường Trung nghĩa từ ở Hà Tiên. Năm 1980 chúng tôi có thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Hà Nội nhờ sao lại. Năm 1986 bà đã trao bản ấy cho nhà Hán học Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), Sở Văn hoá và Thông tin Kiên Giang xuất bản, 1987, nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản. (3) Năm 1984, nhân dịp được gặp cố Giáo sư Ca Văn thỉnh, chúng tôi có hỏi bài thơ mà ông giới thiệu có phải là bài cuối cùng trong 30 bài Lư Khê nhàn điếu không và vì sao ông chọn giới thiệu bài ấy mà không phải là bài khác... thì ông cho biết "Lúc đó tôi lựa bài đó cho tiện vì nó là bài sau hết". Vì vậy chúng tôi cho rằng 30 bài Lư Khê nhàn điếu trong tập Minh bột di ngư trùng bản đã được xếp đúng thứ tự 30 vần từ Nhất đông tới Thập ngũ hàm - hết Thượng bình thanh tới Hạ bình thanh. |
MỘT BỨC THƯ CUỐI THẾ KỶ XVII TRIỀU ĐÌNH Chúng tôi có sưu tầm được một số tài liệu Hán Nôm trong nước đã để mất nhưng ở nước ngoài hiện còn giữ lại được, trong đó có bức thư triều đình Lê Trịnh gửi vua Pha Lan Sa. Bức thư này được kho lưu trữ cơ quan truyền giáo nước ngoài ở 1238 Rue du Bac (Paris) sao lại và giữ ở trang 124/ e tập hồ sơ V-680, là tập gồm những văn kiện liên quan đến xứ Đàng Ngoài (Tong King) chủ yếu vào khoảng những năm 1683-1686. Tài liệu này gồm một bức thư chữ Hán, một bản dịch ra Quốc Ngữ văn và một bản dịch ra Pháp văn. Việc dịch này do một người Trung kỳ hay Nam kỳ làm, sau khi người Pháp đã đặt nền thống trị ở nước ta, vì chúng tôi thấy: 1. Pha Lan Sa đã được dịch là Đại Pháp. 2. Từ ngữ thuộc lối nói không phải miền Bắc như: thư -- thơ, gửi -- gởi, đấng -- đứng, điều -- đều, nhân -- nhơn, ngẫm ngợi -- ngầm ngùi. .. 3. Người duyệt có ghi chú là bản tiếng Pháp dịch đúng nhưng kém văn phong ("cette traduction est exacte mais laise à désirer au point de vue du style"). Bức thư chữ Hán không ghi niên hiệu triều vua nào nhưng nó thuộc hồ sơ Đàng Ngoài, giai đoạn 1683-1686 và lại được cơ quan lưu trữ ghi chú là năm 1684, vậy chắc là một bức thư của triều đình Lê Trịnh, đời Chính Hòa (vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn). Dưới đây là phần phiên âm chữ Hán và bản dịch Quốc ngữ. Bản dịch có một vài điểm nhỏ chưa hoàn toàn sát nguyên văn song là những điểm phụ và tuy khác văn phong ngày nay nhưng vẫn còn hiểu được, vì vậy chúng tôi xin để nguyên về cơ bản coi như một tài liệu cổ cần tôn trọng (chỉ đổi về chính tả như thơ thành thư, đều thành điều v.v.). Bản phiên âm bức thư chữ Hán An nam quốc vương trí thư vu Pha Lan Sa quốc vương toạ hữu huệ hiểu. Thiết văn tín giả nhân sở cố hữu, nghĩa giả sự sở đương vi, nhiên tắc tín nghĩa hành vị thường bất lợi. Bản quốc chi dữ quý quốc sơ xuyên chi phong vực tuy thù, lân tỳ chi tín nghĩa như nhất. Tạc giả tiên lai cụ Khải thuật tình nghĩa cánh kiêm huệ hiến phương vật, ngưỡng chân thiên lý chí thành định vu ý biểu. Ngoạn vị tái tam, vô nhai thù tưởng. Phù nhu hoài viễn nhân nãi bản quốc chi thường sự, chủ quốc lai tân giả vô bất giao tiếp. Huống quý quốc thị nhất phương chi hùng kiệt, kim nhi ái mộ dục thông vãng lai phán mãi, kỳ tín nghĩa chi tình thù khả hâm tiển. Nhược phù dục đồng hiệu đạo, giá sự tại bản quốc cựu quy thân minh lệnh cấm cửu hỹ. Thẩn lệnh xuất duy hành, vô tín bất lập, khởi khả duyệt tư giao nhi thí thành pháp hồ? Kim quý quốc đãn đương hậu trang thái vật cánh tương mậu dịch, dĩ thông tài vi nghĩa, dĩ toàn giao vi tín, như thị tắc lân hảo chi tín nghĩa kiên như kim thạch hĩ; hà tất quy miễn đồng kỳ sở hiếu ! Thỉnh đạt kỳ tương tri. Kim thư. Sở hữu bạc tặng huệ lai cụ trần vu tả. Mạnh đông tiết, cốc nhật. cụ thảo. Bản dịch bức thư: Vua An nam gửi thư cho Vua Đại Pháp ngự trên tòa đặng hay. Vốn đã nghe biết rằng: Sự trung tín là của vững bền thuộc về đấng làm người; sự công bình là một điều đáng làm ở trong các việc. Vậy thời giữ trọn đức tín nghĩa thì chưa hề thấy điều bất lợi. Nay nước An nam này với nước Đại Pháp, tuy núi sông bờ cõi có khác nhau, song nếu làng nước giữ tín nghĩa với nhau thì chẳng khác. Thể như bức thư một ngày kia gửi lại có tỏ đủ nhân tình, lại thêm ơn trọng, vật quý. Thật xa ngàn dặm mà có lòng rất thật tỏ ý bề trong. Ngầm ngùi xét đi nghĩ lại, thì đáng khen vô ngần. Lễ ở tử tế, tiếp nước khách xa mà đến thì nước này cũng thường giữ; Khi có khách ở các nước đến thì chẳng có người nào mà chúng tôi chẳng tiếp đãi. Huống nữa, nay nước Đại Pháp là một nước anh hùng trong thiên hạ, bởi lòng ái mộ mà đến thông thương, buôn bán, đổi chác thì lòng tín nghĩa ấy cũng đáng mừng khen thay, lẽ nào chúng tôi chẳng tiếp đãi. Còn về sự đồng một ý mà dạy đạo thì nước này có lệ cũ, bởi có lệnh rõ ràng cấm điều ấy đã lâu. Huống nữa lệnh đã ra thì phải giữ, không có đức tín thì không vững. Có lẽ nào muốn cho đẹp cái nghĩa riêng mà bỏ cái lệ phép đã thành sao? Nay nước Đại Pháp trở hàng hoá đến buôn bán đổi chác để tỏ cái điều nghĩa với nhau, và lấy sự giao thiệp mà tỏ lòng tin nhau thì như vậy cũng là tình hai nước có sự tín nghĩa với nhau vững bền như vàng đá đó rồi, cần gì phải lo cho được đồng muốn một việc như nhau (là muốn giúp việc giảng đạo)(1). Xin Đức vua rõ ý chúng tôi quen biết nhau là như vậy. Nay thư lại, có lễ mọn gửi dâng với đó nữa. Đã viết thư này tiết đầu mùa đông, nhằm ngày tốt. CHÚ THÍCH (1) Chú thích của kho lưu trữ: "Những chữ này không có trong văn bản Hán" (cesmots ne se trouvent pas dans le tentechinois) |
VỀ MỘT SỐ BÀI VĂN BIA NÔM MỚI ĐƯỢC SƯU TẦM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Trên Tạp chí Hán Nôm số 2-1994(1) chúng tôi đã giới thiệu 23 thác bản văn bia Nôm hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong đó 21 thác bản khắc bằng thơ, chỉ có 2 thác bản khắc bằng văn xuôi. Để giúp các nhà nghiên cứu, giảng dạy và bạn đọc quan tâm đến mảng tư liệu này có thêm tư liệu tham khảo, bài viết này chọn giới thiệu thêm 10 bài văn bia Nôm viết bằng văn xuôi mới được sưu tầm trong những năm trong những năm gần đây. Do khuôn khổ bài tạp chí, chúng tôi chỉ xin nêu tóm tắt những đặc điểm cơ bản về nội dung, hình thức của từng bài văn bia và phiên âm giới thiệu trọn vẹn 2 văn bia để bạn đọc có một ý niệm chung. 1. Công đức nghìn năm, ở chùa Phúc Khánh (thường gọi là chùa Sở, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội). - Khổ 100 x 65cm, 16 dòng, 1 dòng ≈ 33 chữ. - Niên đại: ngày 19 - 11 -1930 (Bảo Đại 15) - Tác giả: Thị độc học sĩ Tạ Văn Thành, hiệu Phúc Khánh, Pháp danh Lưu Quang Bồ Tát, về hưu trí vâng soạn. - Nội dung : Hội tín lão (chủ yếu là các tín vãi) có công đức tu tạo chùa dựng bia đá ghi đầy đủ họ tên để kỷ niệm. 2- Ký kỵ bi ký (bia ghi việc gửi giỗ), ở Nhà thờ họ Nguyễn thôn Cổ Nhuế, xã Cổ Nhuế huyện Từ Liêm, Hà Nội. - Khổ 35 x 25 cm, 14 dòng, 1dòng ≈ 21 chữ. - Niên đại : không ghi. - Tác giả : không ghi. - Nội dung : ông tiên chỉ tên là Chính Hoạt người trong họ nhường một mảnh vườn và một cái áo để họ Nguyễn làm nơi xây dựng nhà thờ, hàng năm khi họ Nguyễn cúng giỗ tổ thì kết hợp cùng giỗ gia tiên ông Chính Hoạt. 3. Công đức bi ký, ( Bia ghi công đức) ở vách núi chùa Trầm, thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. - Khổ 90 x 45cm, 18 dòng, 1 dòng ≈ 31 chữ. - Niên đại: khoảng 1923 - 1924 (Khải Định 8 hoặc 9). - Tác giả: không ghi - Nội dung : mô tả cảnh đẹp của chùa Trầm và công đức mở mang tôn tạo chùa của Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu. 4 - Không đầu đề, ở chùa Trầm, thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. - Khổ 120 x 80 cm, 18 dòng, 1 dòng ≈ 24 chữ. - Niên đại : tháng 8 - 1914 ( Duy Tân - Giáp Dần). - Tác giả : không ghi. - Nội dung: mô tả cảnh đẹp chùa Trầm, nằm dưới chân núi Tử Trầm, coa hang động, có hồ nước, phong cảnh kỳ thú, nổi tiếng xưa nay, vì vậy được đặt tên là động Long Tiên. 5. Công đức bi ký (bia ghi công đức) ở chùa Trầm thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. - Khổ : 80 x 60cm, 15 dòng, 1 dòng ≈ 23 chữ. - Niên dại : không ghi - Tác giả : Thái tử Thiếu Bảo, Hiệp tá đại học sĩ, sĩ Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu đề. - Nội dung : Ghi lại việc bà Trần Thị Thọ sống ở miền Nam ra thăm cảnh chùa. Bà cung tiến 1000 đồng thuê thợ tạc các pho tượng đá bày trong động, làm tăng thêm cảnh đẹp và về ny nghi của chùa. 6. Trùng tu Hương tích tự bi: (Bia trùng tu chùa Hương Tích) ở nhà bia bên trái trên đường vào chùa Thiên Trù, thuộc chùa Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. - Khổ 145 x 78 cm, 17 dòng, 1 dòng≈ 25 chữ. - Niên đại: tháng 1 - 1921 (Niên hiệu Khải Định) - Tác giả : Thái tử Thiếu Bảo, Hiệp ta đại học sĩ lĩnh Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu ghi. - Nội dung : Nói về việc tu sửa chùa Hương Tích và suy nghĩ về lẽ "phúc quả" trong việc tìm đến cửa Phật. 7. Bia truyền đăng chùa Linh ứng, ở chùa Linh ứng, thôn Mai Trai, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. - Khổ 80 x 60 cm, 21 dòng, 1 dòng ≈ 30 chữ. - Niên đại : 10-9-1944 ( BảoĐại 19) - Tác giả: Tiểu tăng Như Tư, động chủ Sài Sơn, đại biểu Phật giáo tỉnh Sơn Tây soạn. Nội dung: Nêu đại lược Phật giáo truyền vào nước ta được hơn 2000 năm. Sau đó nêu các thế hệ tăng ni nối tiếp trụ trì ở chùa Mai Trai (sau đổi tên là Linh ứng): Tổ thứ nhất là cụ Thiều Quang, tháp hiệu Tĩnh Quang, người thôn Đa Sĩ Hà Đông. Thứ hai là cụ Trinh Tường, tháp hiệu Vĩnh Long. Thứ ba là cụ Đàm Chí, tháp hiệu Song Mai, người làng Mai Động, huyện Thanh Trì Hà Nội. Thứ tư là cụ Đàm Nam, tháp hiệu Linh Mai, người làng Thường Đại, tỉnh Phúc Yên. Tổ thứ năm nêu rằng đẫ ghi rõ tên hiệu ở Tháp, không chép vào bỉa. 8. Công đức kỷ niệm bia (Bia kỷ niệm công đức), ở đình thôn Cát động, xã Kim an, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. - Khổ 100 x 62cm, 14 dòng, 1 dòng ≈ 31 chữ. - Niên đại:Tháng 3-1932 ( BảoĐại 7). - Tác giả : Tú tài Hà sĩ Kính, người bản xã vâng soạn. -Nội dung: địa phận bản xã có con sông Hát chảy qua, bài sông bị nước xoáy sụt lở dần, mất đất canh tác. Có ông Tín Xương người thôn Phượng Vũ làm phúc tự bỏ ra 1000 đồng mua đá thuê người thả xuống làm kè, đất bãi không những không sụt lở nữa mà lại dần dần bồi thêm ra. Dân xã có đất canh tác, cuộc sống ổn định, nên dựng bia ghi nhớ công đức ông Tín Xương. 9. Nam mô a di đà Phật, ở chùa Diên Khánh, thôn Đống Chanh, xã Minh Cường, huyện thường tín, tỉnh Hà Tây. - Khổ 75x 42cm, 10 dòng 1 dòng≈ 19chữ -Niên đại:14 tháng 4 năm 940 (Bảo Đại 15). - Tác giả : Không ghi. - Nội dung: Ông Nguyễn Văn Bào người thôn hậu, cúng hai thửa ruộng vào chùa để gửi giỗ cho các cụ bên ngoại là Trịnh Văn Hồ và Nguyễn Thị Chấu, vì vậy dựng bia ghi sự việc để lưu truyền thực hiện. 10. Hậu bi ly kí : ( Bia gửi giỗ hậu), ở chùa thôn cầu, xã Trung Hoà, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng. - Khổ 80 x 55, 15 dòng, 1dòng ≈ 20 chữ. - Niên đại :15 - 2 - 1943 (Bảo Đại18) - Nội dung: Bà Dương Thị Phán cung tiến 60 đồng để chi cho việc tu sửa chùa. Dận thôn hứa sao này lúc bà trăm tuổi qui tiên sẽ được cúng giỗ tại đình làng. Các ông chức sắc cùng các phụ lão trong thôn dựng bia đá làm bằng cứ để làm bằng cứ đê cùng cam kết thực hiện. Theo những tư liệu do chúng tôi tập hợp được thì văn bia nôm viết băng văn xuôi chỉ cần tỉ lệ rất thấp. mười tấm bia được giới thiệu lần này số lượng tuy khiêm tốn nhưng nội dung khá phong phú, có thể khai thác về một số lĩnh vực đáng được chú ý, như tư liệu về lịch sử một ngôi chùa và qua đó góp thêm những cứ liệu cho việc tìm hiểu lịch sử phật giáo ở Việt Nam bia số 7 tư liệu của việt làm thủy lợi bia số 8 và những bài văn kêu gọi mọi người hãy biết gìn giữ những thắng tích của cha ông để lại trong 10 bài văn bia, có 5 bài không ghi tác giả và 5bài ghi rõ tên người biên soạn, có 7 bài văn bia ghi niên đại thuộc niên hiệu Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Và bài văn bia không ghi niên đại. Dưới đây chúng tôi phiên âm trọn vẹn nội dung bài văn bia trong số trên để bạn đọc tham khảo : Bia Chùa Trầm, Thôn Long Châu, Xã Phụng Châu, Huyện Hoài Đức, Phiên âm : Người ta sinh ở tên đời thú chơi có hai cảnh, một là phồn hoa, một là tịch mịch. Phồn hoa thì phải ở thành thị. Tịch mịch thì phải ở lâm tuyền. Những ở phồn hoa mãi thì chán, ở tịch mịch mãi thì buồn. Vì thế phải làm cách cho thành thị lâm tuyền thông với nhau. Trước là giải lấy trí khôn. Sau là thanh lấy niềm tục. Cách tỉnh Hà Đông không xa có bãi đồng bằng, bên hữu thì rẫy rừng, ngang bên tả thì dòng sông Hát, giữa có một tòa núi đá nổi lên gọi là núi Tử Trầm. Trong núi có động, trong động có hang thông thiên. Ngoài động có chùa. Dưới chùa có đầm quanh núi. Núi Bút Sơn bày mặt trước chùa Vô Vi. Đứng một bên là cảnh lâm tuyền, thứ nhất, trước hai trăm năm nay chúa Trịnh đã làm cung ở đó. Nơi mắc võng nơi chèo thuyền, dấu cũ đến bây giờ chưa mất. Thế chẳng phải chán phồn hao mà tìm nơi tịch mịch ? Dẫu tiếc vì cây cỏ rậm rạp, đường xa chưa thông. Cho nên trên Lan Kha (2) tìm khách đánh cờ, vào hang thúy thăm ông câu cá. Chẳng qua mấy kẻ cao nhân dật sĩ mà thôi. Ta nhân khi thong thả tới cảnh chạnh niềm. Kia như núi Đạo Hạnh(3) chùa Quan Âm(4), động Hồ Công (5), hang Từ Thức (6)cũng bởi vì người trước có công tìm kiếm mà làm cho người sau có thú vui chơi. Thế thì núi này cũng là cảnh Bụt, bầu trời đâu coa nhẽ phó mặc bóng tà cỏ úa. Vậy thì theo cảnh tự nhiên thêm công tu bổ, đưoừng càng gần thì đi càng tiện, cảnh càng đẹp thì khách đến càng đông. Từ nay mà đi kẻ lại người qua dẫu tịch mịnh cũng không lấy làm buồn, dẫu phồn hoa không lấy làm chán. Than ôi, chút tà quy chính là trách nhiệm kẻ sư nho; hậu lạc tiên ưu là chí khí kẻ quân tử. Có phải cầu Tiên cầu Phật, đem thiên hạ lấy sự hoang đường, muốn cho có cảnh có người chung thiên hạlấy sự lạc lợi. Sách có chữ rằng: " Núi không cản chi thấp với cao, có tiền thì nổi tiếng,. Nươc không cần chi sâu với cạn, có rồng thì nên thiêng. Vậy ta lấy tiên rồng mà đặt tên cho động. Tiết giữa thu năm Giáp Dần (1914) niên hiệu Duy Tân. Chú giải: (1). Tấm bia này nguyên không ghi đầu đề và tên tác giả. Đầu đề này do chúng tôi tạm đặt. (2). Lạn Kha : Theo Địa chí Hà Bắc ( Thư viện Hà Bắc xuất bản 1982, tr. 56 thì :Núi Lạn Kha xưa ở cạnh thôn Phật Tích thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh( nay là xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc). Gọi tên là Lạn Kha vì có truyền thuyết về một người tiều phu là Vương Chất một hôm đi lấy củi trên núi thấy có hai vị tiên đang đánh cờ, Vương Chất đứng xem, khi quay lại thì cán rìu đã bị mối xông mục vật. Khi trở về nhà không ai nhận ra, hỏi thăm thì Vương Chất đã là ông tổ năm đời của họ. Ngoài câu chuyện Vương chất còn có thêm những truyền thuyết khác như câu chuyện Từ Thức ở thời Trần làm Tri huyện Tiên Du, cởi áo chuộc tiên nữ ở Đông... Núi còn có tên là Phật Tích, bên sườn có chùa Phật Tích được xây dựng từ thời Lý qua nhiều lần trùng tu nổi tiếng xưa nay. (3) Núi Đạo Hạnh: Tức núi Phật Tích, nơi có Thiền sư Từ Lộ hiệu là Đạo Hạnh tu hành vào thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128). Núi Đạo Hạnh là dải núi chùa Thầy thuộc huyện Quốc Oai, Hà Tây ngày nay. (4) Chùa Quan Âm : Trước nay có nhiều ngôi chùa tên là Quan Âm, chưa rõ tác giả nêu ở đây là ngôi chùa ở vùng nào. (5) Động Hồ Công : Động trong núi Xuân Đài, nay thuộc xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Động Hồ Công cảnh đẹp lạ kỳ, tương truyền từ cổ xưa có nhiều vị tiên thường giáng xuống đây, qua nhiều niên đại thuộc nhiều vua chúa và các nhân vật danh tiếng ghé thăm nay vẫn là thắng tích. (6) Hang Từ Thức: Nơi có truyền thuyết chàng Từ Thức Tri huyện Tiên Du đi rong chơi, tới đây gặp Tiên Giáng Hương lấy làm vợ. Khi trở về thăm quê, mọi vật đã đổi dời. Thức hỏi thăm mới hay mình là ông tổ mấy đời của họ. Hang Từ Thức nay thuộc xã Nga Thiện, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (7). Nguyên văn chữ Hán :" Duy Tân Giáp Dần niên". Công đức kỷ niệm bi (1) Bia kỷ niệm ông Đinh Tín Xương xã Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông(2). Trộm nghĩ: vững cột đá đương khi sóng nổi. Can tràng(3) xem thực ít người, gánh hàng xoay lại đất bồi, hút cạn dòng ra lắm của, lợi cho mọi người ấy ai là chủ. Dân tôi ở xã Cát Động, tổng Phương Trung, huyện Thanh oai tỉnh Hà Đông, làng ở trong đồng bãi gần ngoài sông. Bể dâu khôn xiết biến dời, nay lở mai lở, bờ cõi bao giờ nguyên cũ. Ngày ngóng đêm ngóng, một hai khi hội họp hương thôn cũng toan hằng sức ba bốn thứ, rào dậu cừ sách(4) nhưng chưa nên công. May sao đất thực có tuần, trời kia khiến thứ có tên Hà Quảng Tiến là người trong làng ra hầu cụ Tín Xương ở làng Phượng Vũ. Thầy tớ thân yêu, nguồn cơn bày tỏ. Cụ đem lòng cứu khổ ra tay tế độ, xuất tiền ra cho mua đã về đổ. Nước trôi đá chẳng chuyển. Sự cán hồi thay cả hóa công (5). Sóng lặng cát lại bồi, cơ vãng phục(6) nổi len châu thổ. Nữa một mai nào bưởi, nào mía, nào vừng nào ngô, nào khoai, nào đỗ ở ngoài bãi, mầu mè tốt tươi. ấy trong làng áo cơm no đủ, muôn nghìn năm về sau dân tôi trông dải sông Hát mà nhớ đến công cụ, cùng với xây cầu làng Vàng, bắc cầu Kẻ Nương, hai dãy nhà trong chợ, một tòa chùa trước làng. Danh dự cụ thực là rực rõ. Cả thập phương công trình kể biết mấy mươi suy bổng. ấy lại gia ân làng Cát Động đền đáp gọi là một chút, tạc bia này để kỷ niệm cụ Tín Xương. Tạc rằng: Đội ơn Hàn Tín, Dựng bia ngày tốt tháng 3 niên hiệu Bảo Đại 7(1932) Tú tài người trong xã là Hà Sĩ Kính vâng soạn(8). Chú giải: (1) Bia này dựng ở Đình thôn Cát Động, xã Kim An, huyện Thanh Trì, Hà Tây. Đầu đề nguyên văn chữ Hán dịch nghĩa là : :Bia kỷ niệm công đức". (2) Câu này dịch nghĩa từ nguyên văn chữ Hán. (3) Can tràng: gan ruột, ý nói có lóng lòng can đảm. (4) Kẻ bằng tre gai. (5) ý nói sự việc ngăn lấp ấy có thể thay thể sức tự nhiên. (6) Vãng phục: qua lại. (7) Hà sa: chữ đầy đủ là " Hằng Hà sa số" tức số cát trên sông găng ga của ấn Độ. Đây ý nói nhiều không kể xiết. (8) Hai bên lề bia còn khắc đôi câu đối nôm: Gia ân nghìn bạc sông không lở Nhớ nghĩa muôn năm đá chẳng mòn. Người biên tập: Trịnh Khắc Mạnh |
TRẦN QUÍ THỊ LƯU TRẠCH BI Bài văn bia này soạn vào năm Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) và được khắc trên bia đá ở xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm, Hà Nội (Bản rập có lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu 7116 - 7119). Trong một dịp đi điền dã sưu tầm tư liệu Hán Nôm chúng tôi đã khá vất vả mới tiếp xúc được với hiện tại, bởi tấm bia này khá lớn, lại lăn lóc dưới ao làng. Mọi người ngày ngày qua lại coi nó như một hòn đá vô tri vô giác, cũng may là nó chưa bị ghè đập ra để nung vôi và cũng khó đem làm cầu ao hoặc bàn giặt, nên mới còn. Chúng tôi đã đề nghị với các cấp lãnh đạo địa phương lưu tâm gìn giữ và mau chóng có biện pháp tôn tạo, đưa tấm bia và nghuyên vị trí cũ của nó. Sau đây, chúng tôi xin dịch toàn văn bài văn bia để bạn đọc cùng tham khảo. Bia ghi ơn bà cung tần họ Trần Từng nghe: Kinh thư có câu cách ngôn: "Ai có công thì được thờ cúng" Kinh Lễ có lời minh huấn: "Ai làm ơn tất được báo đền". Điều đó thật rõ ràng vậy. Bà cung tần họ Trần, hầu trong cung vua tên là Ngọc Nhuyễn sinh năm Quí Sửu(1673), là bậc tôn quí ở xã Vạn Phần, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, Nghệ An. Sao Vu (1) rực vẻ huy hoàng, sông Bột(2) đúc khí anh tú. Lẫy lừng tứ đức(3), vẹn toàn ngôn hạnh công dung, điểm trang lục già(4), rực rỡ trâm thoa châu ngọc. Duyên may gặp gỡ, tên rạng rỡ trong sổ vàng(5), đội ơn yêu thương, tình thắm thiết nơi bệ ngọc. Lúc theo hầu nơi màn thúy lầu hồng, lời can gián rõ bậc vợ thảo. Khi nâng giấc chốn phòng tiêu cung quế, tiếng khuyên răn thực đáng vợ hiền. Bà được yêu quí nhất trong số ba ngàn cung phi, được đội ơn ban thưởng hàng trăm lạng vàng ngọc. Nhờ phúc trạch đức vua, giấc mơ gấu(6) ứng điềm sinh nam tử, mừng thấy môn mi rạng vẽ, móng chân lân(7) thể hiên vẻ con nhà. Thềm ngọc lan huệ đua tươi, hòm rương lụa vàng đấy ắp. Bà bèn chọn nơi có phong tục tốt để xây nhà, xem địa thế khắp nơi chẳng đâu bằng đất Trung Mầu. Bói ngày lành tháng tốt, cột xà chọn toàn gỗ chắc bền. Dựng xây nhà phúc, mực thước dẫn hướng trường sinh, nhà thành một dãy liên tiếp, cốt là để làm rạng rỡ đời trước, sáng tỏ đời sau, bảo tồn sự nghiệp ông cha dài lâu muôn thuở, để kế nối công lao, khắc sâu ân đức, tỏ rõ sự nối nghiệp đến vô cùng. Rồi bà lại nghĩ: phàm việc đua lụa là, khoe báu ngọc, tích tiền của chỉ phô bày vẽ hào nhoáng nhất thời, sao bằng kết thân với xóm làng, truyền lại việc hương khói, gây dựng được tiếng tăm để khen đến vạn đời. Cho nên năm Quí Mùi (1703) nhân lúc đói kém khó khăn, bà làm ơn cho xã Trung Mầu 400 quan tiền, 4 mẫu ruộng lúa tốt, 5 sào ruộng hương hỏa chia đều cho kẻ trên người dưới, mở rộng ân huệ chu cấp cho xóm làng. Tám giáp trong toàn xã từ lớn đến nhỏ người người đội công đức, nhất nhất hàm ơn, cho nên khắp từ trên xuống dưới, từ trẻ đến già đều bảo nhau rằng: Bà là bậc tôn quý, đem thực tế mà cảm hóa chúng ta, bọn ta cũng nên lấy thực tế mà báo đáp lại. Nay tôn bà làm hậu thần, ngõ hầu báo đáp công đức bà trong muôn một. Có nên chăng ? Mọi người đều dạ ran, rồi thưa lại tình thực với bà, may được bà đồng ý. Bèn cùng nhau lập Giao ước tôn bầu bà Thị nội cung tần họ Trần làm hậu thần của bản xã. Giao ước rằng: Nay đương lúc bà còn sống được phú quí sủng ái, phải kính thờ bà như bậc cha mẹ. Gặp ngày sinh thì kính biếu xôi thịt cơm rượu. Sau này khi bà mất thì thờ cúng như thần linh. Các tuần tiết như lễ cầu phúc, tế Thần nông đều thành kính cúng lễ. Đến ngày giỗ, tế tự theo đúng nghi thức, bày soạn lễ hậu, số lượng lễ vật ghi rõ ràng trong khoán ước. Cùng nhau ăn thề trước sự chứng giám của Thần linh. Ngày 15-4 năm nay là năm Canh Dần (1710) khắc vào bia đá để làm lời giao ước vững bền, khiến cho công đức của bà muôn đời không dời đổi, con cháu mãi mãi gìn giữ để phúc ấm được vẻ vang ở nơi thờ cúng, thanh danh không dời đổi chôn miếu đường. Kẻ nào không tuân theo có Trời Đất soi xét, quan trên sẽ khép vào pháp luật. Vậy phải ghi lòng tạc dạ báo đức đền ơn. Nhuộm mà không đen, mài mà không mòn. Lời Giao ước vững như núi sông, sáng như nhật nguyệt. Nhìn thấy nơi này tất nhớ tới người, nhớ đến người thì quý đến bia này, chớ vì lâu năm mà chán bỏ, luôn nghĩ đến công ơn để lại càng thơm, há chẳng tốt đẹp ru ? Nhân khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi. Ngày tốt năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6(1710). Người soạn: Nguyễn Phu(8), người Hoài Bão, Tiên Du (nay là thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc), đỗ khoa Quý Hợi Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng nguyên), chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Bồi tụng, Ngự sử đài đô ngự sử Nhập thị kinh diên. Tước Thọ Lâm Bá. Trụ quốc thượng ban(9). Người dịch: Hoàng Lê CHÚ THÍCH 1. Sao Vu: Tên ngôi sao tượng trưng cho người phụ nữ. Nói sao "rực vẻ huy hoàng" tức là nói vận mệnh người phụ nữ dó đang tốt đẹp. 2. Sông Bột: chưa rõ ở đâu. 3. Tứ đức: bốn tiêu chuẩn mà chế độ phong kiến yêu cầu người phụ nữ phải có công việc dung nhan, lời nói, đức hạnh (công, dung, ngôn, hạnh). 4. Lục già: 6 thứ ngọc trang sức ở khăn áo các bậc phu nhân sang trọng. 5. Sổ vàng: dịch chữ " nhạc tịch", tức là sổ ghi tên các nhạc sĩ, ca sĩ; 6. Giấc mơ gấu: bài Tư can trong Kinh thư có câu: "Duy hùng duy bi, nam tử chi tường" Nghĩa là: "Nằm mơ thấy con gấu là điềm lành sinh con trai" 7. Lân chỉ: gót lân, tên một bài thơ trong thiên Chu nam ở Kinh Thi, nói việc con cháu họ hàng vua Văn Vương đều trở nên người giỏi, đó là vì cái đức lớn của Văn Vương mà chung đúc nên phúc tốt. 8. Nguyễn Phu: đúng ra là Nguyễn Đăng Đạo (1651 - 1720) sau đổi tên là Đăng Liên, con Nguyễn Đăng Minh, cháu họ Nguyễn Đăng Cảo. Đỗ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683). Có đi sứ nhà Thanh để thương lượng về việc đòi lại 3 động ở Vị Xuyên thuộc xứ Tuyên Quang. Sau được thăng Binh bộ Thượng thư. Khi mất được tặng Lại bộ Thượng thư, tước Thọ Quận Công. Thọ 69 tuổi. 9. Ba mặt còn lại của bia khắc tờ giao ước của quan viên, dân chúng bản xã về việc bầu Hậu thần, liệt kê số ruộng hương hỏa, nghi lễ thờ cúng, và bài mẫu tế Hậu thần. |
MỘT CÁCH GHI NĂM ÂM LỊCH Theo cách ghi này thì tên “can chi” của năm Âm lịch không ghi là Giáp Tí, Canh Ngọ, Mậu Thân v.v… nữa mà mỗi tên “can”, tên “chi” được mang một tên khác. Chẳng hạn, về phía “can”, Giáp 甲 được gọi là Ô phùng 閼 逢 ; Ất 乙 được gọi là Chiên mông 旃 蒙 Bính được gọi là Nhu triệu 柔 兆… Cũng như thế, 12 “chi” cũng được đặt tên khác: Tý 子 được gọi là Khốn đôn 困 敦; Sửu 丑 được gọi là Xích phấn nhược 赤 奮 若 , Dần 寅được gọi là Nhiếp đề cách 聶 提 格 v.v. Như vậy, theo cách ghi này, thay vì ghi: năm Giáp Tý, ta sẽ ghi là năm Ô phùng Khốn đôn 閼 逢 困 敦; năm Ất Sửu sẽ được ghi là năm Chiên mông Xích phấn nhược 旃 蒙 赤 奮 若; năm Canh Ngọ sẽ thành năm Thượng chương Đôn tường v.v. Tất cả các cách ghi này đều được sách Nhĩ Nhã lần đầu tiên đề cập tới khi giải thích về “tuế dương” và “tuế âm” (xem Nhĩ Nhã thích thiên. Tuế dương và Tuế âm); sách Sử ký của Tư Mã Thiên về sau đã dẫn lại trong Lịch thư sách ẩn, có thay đổi một số tên gọi. Ở Việt Nam, thỉnh thoảng ta còn gặp cách ghi này trên một số văn bản. Chẳng hạn, bia Phúc Khánh tự bi có dòng lạc khoản: “Đoan Thái nhị niên, tuế tại Nhu triệu Yêm mậu”, nghĩa là Năm Bính Tuất - năm thứ 2 niên hiệu Đoan Thái (1587). Bia Nghênh phúc bi ký ghi “Hùng Trị tứ niên tuế tại Trùng quang Thiền át”, nghĩa là năm Tân Mão - năm thứ 4 niên hiệu Hưng Trị (1591)(1). Có một chuyện vui: Ở đình thôn Bái Thượng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Hà Bắc, trên câu đầu bên trái của đình, có ghi hàng chữ lạc khoản rất chững chạc: “Tuế thứ Thượng chương Đại hoang lạc 歲 次 上 章 大 荒 落, nguyệt tại Cường thát Tác ngạc 月 在 強 圉 作 噩 Cốc nhật thụ trụ. Đọc đến đây(2), tôi tò mò qui ra năm can chi thông thường, thì thấy: “Thượng chương” là Canh, “Đại hoang lạc” là Tỵ; còn tháng “Cương thát tác ngạc” là tháng Đinh Dậu - tháng 8. Nhưng mà, tìm đâu ra cái năm Canh Tỵ ? Trong âm lịch, không có năm Canh Tỵ. Bởi lẽ: Bội số chung nhỏ nhất của 10 (can) và 12 (chi) là 60. Nghĩa là mỗi “can” chỉ được phép kết hợp với 6 “chi” (10 x 6 = 60) là đi hết cái bội số chung nhỏ nhất (60) ấy, tức là hết 60 năm, tức là hết “hội”. Theo đó thì “can” Canh này chỉ được phép đi với 6 “chi” số lẻ trong 12 chi, tạo thành những năm Âm lịch: Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất mà thôi. Làm gì có năm Canh Tỵ?! May sao ở tại ngôi đình này còn có cái cột được khắc chữ cho ta biết rằng: Vào năm Tân Tỵ (1701), hai vợ chồng “lão nhiêu” là Đỗ Như Sơ và Đặng Thị Toán có góp tiền công đức một chiếc cột đình. Chi tiết này khiến ta dám chắc rằng “cụ đồ” viết câu đầu kia đã tra nhầm bảng “Thái tuế kỷ niên biểu”, thành thử đã uổng công cầu kỳ “chơi chữ” khi giúp dân làng trịnh trọng đề dòng chữ Hán lên câu đầu ! Nhầm là chuyện dễ hiểu. Vì “Canh” và “Tân” là hai cột đứng sát nhau. Tôi hình dung ra cái cảnh “xin chữ” ở thôn quê ta xưa: Có một cụ đồ nọ, sau khi được dân làng “kiếm một cơi trầu thưa với cụ” cái việc hệ trọng của đình chùa, cụ phấn khởi “đưa cay” chút đỉnh, nên đã chếnh choáng, “chữ tác đánh chữ tộ” mà việc vẫn êm xuôi ngót 300 năm qua… Cái cảnh này là một chi tiết nhỏ, nhưng sẽ khá sâu sắc trong một “xen” kịch cho những ai muốn viết về các “thầy đồ” trong một vùng quê lam lũ khi xưa. Một chuyện vui nữa, cũng liên quan tới cách ghi niên đại thời cổ: Có lần tra bộ Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu để tìm hiểu về cuốn Minh Quyên thi tập VHv.109, thấy Thư mục cho biết cuốn sách được in năm Long Tập Kỷ Mão. Tôi sững lại một lát: “Long Tập” là niên hiệu vua nào nhỉ? Giở niên biểu, tra các đời vua từ Việt Nam sang Trung Quốc, chẳng thấy có niên hiệu vua nào là “Long tập” cả ! Lần mò mãi mới biết chữ “Long Tập” này chẳng qua là chữ “Tuế thứ”, tức là “năm”. Long Tập Kỷ Mão tức là “năm” Kỷ Mão mà thôi ! Thực ra cách ghi năm tháng âm lịch là một kiến thức đã “cũ như trái đất”. Tôi chắc rằng những người làm công tác Hán Nôm lâu năm, ai cũng thừa biết. Có điều là trong học tập, tri thức đôi lúc cũng có chuyện “cũ người mới ta”. Mang tiếng là người học Hán Nôm từ lâu mà mãi gần đây tôi mới “đụng phải nó”, nên hú vía mà xem là “mới” đối với mình. Đang loay hoay lập một bảng tra cho tiện dụng sau này, thì tôi được PTS. Nguyễn Đăng Na chụp tặng cho bản “Thái tuế kỷ niên biểu” mà anh cất công mang từ Liên Xô cũ về. Qua mục Thường thức của tạp chí, tôi xin chỉ dám tặng lại các bạn Cử nhân Hán Nôm mới ra trường, như tặng một công cụ bé tí để các bạn dùng mỗi khi đi vào rừng sách cổ. CHÚ THÍCH (1) Xem Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH, H. 1996. (2) Theo Phạm Thị Vinh: Từ những hàng chữ Hán trên câu đầu của đình làng. Tham luận trình bày tại Hội nghị Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 1995. THÁI TUẾ KỶ NIÊN BIỂU |
Tuế dương biểu 歲 陽 表 |
Tuế âm biểu 歲 陰 表 |
||||
Nhĩ nhã 爾 雅 | Sử ký 史 記 | Nhĩ nhã 爾 雅 | Sử ký史 記 | ||
Giáp 甲 |
Ô phùng 閼 逢 |
Yên phùng 焉 逢 |
Tý 子 |
Khốn đôn 困 敦 |
Đồng 同 |
Sửu 丑 |
Xích phấn nhược 赤 奮 若 |
Đồng 同 |
|||
Ất 乙 |
Chiên mông 旃 蒙 |
Đoan mông 端 蒙 |
Dần 寅 |
Nhiếp đề cách 聶 提 格 |
Đồng 同 |
Bính 丙 |
Nhu triệu 柔 兆 |
Du triệu 遊 兆 |
Mão 卯 |
Đơn (3) ô 單 閼 |
Đồng 同 |
Đinh 丁 |
Cường ngữ(1) 強 圉 |
Cương ngô 疆 梧 |
Thìn 辰 |
Chấp từ 執 徐 |
Đồng 同 |
Mậu 戊 |
Trợ(2) ung 箸 雍 |
Đồ duy 徒 維 |
Tỵ 巳 |
Đại hoàng lạc 大 荒 落 |
Đồng 同 |
Kỷ 己 |
Đồ Duy 屠 維 |
Chúc lê 祝 犁 |
Ngọ 午 |
Đôn tang 敦 牂 |
Đồng 同 |
Canh 庚 |
Thượng chương 上 章 |
Thương hoành 商 橫 |
Mùi 未 |
Hiệp hiệp 協 洽 |
Đồng 同 |
Thân 申 |
Đôn than 氵君 灘 |
Đồng 同 |
|||
Tân 辛 |
Trùng quang 重 光 |
Chiêu dương 昭 陽 |
Dậu 酉 |
Tác ngạc 作 噩 |
Đồng 同 |
Nhâm 壬 |
Huyền dực 玄 黑弋 |
Hoành ngải 橫 艾 |
Tuất 戌 |
Yêm mậu 閹 茂 |
Yêm mậu 淹 茂 |
Quí 癸 |
Chiêu dương 昭 陽 |
Thượng chương 尚 章 |
Hợi 亥 |
Đại uyên hiến 大 淵 獻 |
Đồng 同 |
Chú thích: (1) Còn đọc là Vũ (2) Còn đọc là Trứ (3) Còn đọc là Thiền |
BẢO VỆ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM Ngày 21 tháng 6 năm 1996, tại giảng đường của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội đồng chấm luận văn của Khoa Ngữ văn đã tổ chức cho sinh viên chuyên ngành Hán Nôm K.37 bảo vệ luận văn tốt nghiệp. Qua một ngày làm việc khẩn trương, từ 7h30 phút sáng đến 17h chiều, 12 luận văn đã lần lượt được báo cáo trước Hội đồng giám khảo, các thầy trong chuyên ngành và các đại biểu, đông đảo anh chị em sinh viên chuyên ngành và ngoài ngành. Trong số 12 luận văn đã bảo vệ thành công, có 2 luận văn được Hội đồng nhất trí đánh giá cao: 1. Luận văn của sinh viên Vũ Thị Xuân Hương với đề tài: Phiên âm, dịch nghĩa và sơ bộ khảo cứu tác phẩm "Lãm Cổ ký". Luận văn được chia ra làm hai phần chủ yếu: Phần 1. Giới thiệu chung. Với một tư duy khoa học, tác giả đã nêu lên những luận cứ có sức thuyết phục để đánh giá tình trạng văn bản, và xác định tác giả cũng như niên đại tác phẩm. Phần này tuy không dài, nhưng cũng cho thấy cách lập luận chặt chẽ của tác giả. Phần II. Phiên âm, dịch nghĩa, chú thích, chú giải và sơ bộ có những ý kiến khảo cứu bước đầu đối với tác phẩm. Phần này là phần then chốt quyết định thành công của luận văn. Toàn bộ nội dung chiếm hơn 70 trang đánh máy, trong đó đã phiên âm và dịch nghĩa trọn vẹn một tác phẩm Hán cổ gồm 52 trang viết tay, với 44 bài ký, một số bài thơ và câu đối. Để hiểu được phần chính văn, luận văn còn có 185 mục chú giải về địa danh, nhân vật, điển cố văn học, truyền thuyết dân gian v.v. 2. Luận văn của sinh viên Nguyễn Thị Thanh Vân, với đề tài: Phiên âm, dịch nghĩa và sơ bộ giới thiệu cuốn "Đinh gia tộc phả". Đây là một đề tài có sức hấp dẫn lớn đối với những ai quan tâm tới thể loại gia phả, đặc biệt là dòng họ Đinh - một dòng họ có công lớn đối với dân tộc và đất nước, kể từ Đinh Bộ Lĩnh (sau này là Đinh Tiên Hoàng). Tác giả đã phiên âm, dịch nghĩa 136 trang sách, gồm hơn 1 vạn 4 ngàn chữ Hán cổ. Qua nội dung luận văn và phần sơ bộ khảo cứu của tác giả, chúng ta có thể rõ thêm được nhiều điều bổ ích đối với những nhân vật trong dòng họ Đinh có công với đất nước, mà trước đây chúng ta chưa biết hết được. Ngoài 2 luận văn trên, 10 luận văn còn lại cũng được Hội đồng nhất trí đánh giá tốt. Năm học 1995 - 1996, Trường Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội đã đóng góp cho xã hội thêm 12 Cử nhân chuyên Hán Nôm nữa. Đây là một ghi nhận đáng kể sự cố gắng vươn lên của thầy và trò trong chuyên ngành Hán Nôm. P.V |
BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH
|