TB

NGHIÊN CỨU CÁC DÒNG HỌ -
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA

PHAN VĂN CÁC

1. VÀI NÉT LỊCH SỬ

1.1. Dòng họ

Dòng họ là một hiện tượng lịch sử - xã hội đặc biệt mang tính phổ quát của nhân loại. ý thức về dòng họ là dấu hiệu quan trọng đánh dấu bước phát triển của xã hội loài người từ mông muội đến văn minh.

1.1.1. Dòng họ ở nước ngoài.

Nói về dòng họ, người Trung Hoa từ thời cổ đại đã có hai từ khác nhau là Tính * và Thị * . Tính là ký hiệu nói rõ gia tộc đã sản sinh ra một con người nào đó. Bộ từ điển chữ Hán cổ nhất tương đối hoàn chỉnh là Thuyết văn giải tự hoàn thành vào năm 100 (SCN) giải thích về chữ Tính như sau:

"Nhân sinh dĩ vi tính, tòng nữ sinh"

Mọi người đều biết, thời cổ đại xa xưa, loài người đã trải qua chế độ thị tộc mẫu hệ, trong đó chế độ hôn nhân là ngoại tộc quần hôn. Cả một tốp những người nam cùng lứa của thị tộc A được đưa đến thị tộc B làm chồng của cả một tốp người nữ cùng lứa. Con đẻ ra tất nhiên không biết bố, mà chỉ sống với mẹ. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới việc tạo chữ Tính bằng cách ghép chữ Nữ với chữ Sinh.

Rất nhiều họ thời cổ đại ghi lại trong Thuyết văn giải tự đều viết với bộ Nữ như họ Khương * được chú thích là họ của Thần Nông, đẻ ra Khương Thủy, họ * được chú thích là họ của Hoàng Đế, đẻ ra ở Cơ Thủy, họ Diêu * được chú thích là họ Ngu Thuấn đẻ ra ở Diêu Khư... và nhiều họ khác như họ Cật *, họ Vân* , họ Hảo *, họ Doanh * v.v. Đó là những minh chứng cho thấy Tính (họ) khởi nguồn từ xã hội mẫu hệ.

Nói rằng "họ" là sản phẩm của xã hội mẫu hệ không có nghĩa là tất cả các "họ" đều có từ xã hội thị tộc mẫu hệ. Trái lại, xã hội phát triển, thì "họ" cũng phát triển. Sau khi xã hội phụ hệ thay thế cho xã hội mẫu hệ, con cháu sinh sôi ngày một đông, một thị tộc chia thành nhiều chi, thì thường thường các con có thể phân hóa thành nhiều họ.

Nếu như Tính bắt nguồn từ xã hội mẫu hệ thì Thị * lại là sản phẩm của xã hội phụ hệ. Nhân loại từ bầy người nguyên thủy sang xã hội mẫu hệ đã là một bước phát triển lớn khiến chất lượng nhân khẩu được nâng cao đáng kể. Từ xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ, chế độ hôn nhân càng chặt chẽ hơn, con cháu ngày một sinh sôi nhiều hơn, sau khi những thế hệ con cháu độc lập thành những chi phái riêng, mỗi chi phái có ký hiệu riêng của mình, đó là Thị. Sau khi ra đời xã hội có giai cấp, thì Thị chẳng những là ký hiệu phân nhánh của Tính, mà còn là tiêu chí khu biệt địa vị thân phận của người đàn ông.

Sách Bạch hổ thông cho biết:

Đặt ra Thị để làm gì ? Là để "quý công đức, tiện kỹ lực" hoặc là lấy chức quan làm "họ", hoặc lấy nghề làm "họ"... Con của bậc vương giả thì gọi là Vương tử, cháu của bậc vương giả là Vương tôn, con của chư hầu thì gọi là Công tử, con của Công tử là Công tôn. Các con của Công tôn thì lấy tên tự của bố làm Thị.

Phát triển đến đời Thương đời Chu, khanh đại phu có ấp phong thì lấy tên ấp phong làm họ, con cháu thì hoặc lấy đất ở làm họ, hoặc lấy thụy của bố làm họ. Thế là dần dần hình thành một sơ đồ đẳng cấp trong quan hệ "Tính Thị": trong nội bộ giai cấp quý tộc phân biệt cao thấp; người bình dân thì chỉ có Tính mà không có Thị, còn nô lệ thì chỉ có tên mà thôi. Bởi thế quý tộc thời Tiên Tần, đàn ông gọi Thị, đàn bà gọi Tính. Sách vở gọi đó là "Tính biệt hôn nhân, Thị biệt quý tiện" nghĩa là Tính thì phân biệt huyết thống hôn nhân, Thị phân biệt sang hèn.

Rất nhiều Thị bắt nguồn từ quan chức hoặc nghề nghiệp:

* Chúc Thị bắt nguồn từ chức Chúc là thầy cúng.

* Vu Thị bắt nguồn từ chức Vu là ông đồng.

* Bốc Thị bắt nguồn từ chức Bốc là thầy bói.

* Sử Thị bắt nguồn từ chức Sử là quan chép sử.

* Cầu Thị bắt nguồn từ nghề làm áo da.

* Cung Thị bắt nguồn từ nghề chế cung nỏ.

Lấy địa danh đất phong hoặc nơi cư trú làm họ (thị), thì "họ" đều viết chữ có bộ " ấp" * (tức là thành ấp) như các họ Uất * , Dung * , Đặng * , Vân* ,Tuần *, Chí *, Trịnh *, Chu* , Viêm*, Ngạc* , Trâu*, Hác *, Ô *, Thiệu*, Hi* , Bính *, Quách* , Phân*, Thai*, Hậu* , Sâm*, Cáo* , Vận* , Lang* , Dĩnh* , Quyên* , Giáp*, v.v.

Hoặc bộ "phụ" * như : Trần* , Đào*, , Nguyễn*, Hiệp*, Lục*, Thấp*, Hình*, Ngỗi*, Lăng* , Âm *, v.v.

Người xưa thường làm nhà trên bờ sông tựa lưng vào vách núi, nhiều họ viết bằng bộ Thủy: Tất*, Tào*, Kì*, Phù*, Hoài*, Cam*, Trạm*, Phan*, Bộc*, Tế*, Tri*, Cấp*, Tự*.

Ngày nay, các họ ở Trung Quốc có họ là Tính, có họ là Thị của thời cổ. Nay không còn phân biệt Tính với Thị nữa. Việc xóa bỏ sự phân biệt Tính hay Thị xảy ra sau thời Tần. Bởi vì ở thời Xuân thu và nhất là thời Chiến quốc, chư hầu công phạt nhau liên miên, các nước nhỏ bị diệt vong, các công tộc, đại phu và hậu duệ của họ sa sút thành bình dân. Sau khi Tần diệt sáu nước, nhiều công tử vương tôn và quý tộc nhiều họ đều trở thành thần dân của Tần, địa vị thân phận không còn nữa, sự phân biệt sang hèn bằng Thị không có lý do và điều kiện tồn tại.

Người Trung Quốc rất coi trọng "họ", một phần quan trọng là do ảnh hưởng của tư tưởng "kính tông pháp tổ" của Nho gia. Đổi họ có nghĩa là đổi tổ tông, đó là điều sỉ nhục lớn nhất. Cho nên viết sai họ, bị xem là một sự xúc phạm.

Ý thức về dòng họ gắn liền với ý thức về tổ tông. Theo sự nghiên cứu của các học giả về văn tự giáp cốt thì chữ tổ * thoạt đầu không có bộ thị, viết tựa như chữ thả* sau này. Trong giáp cốt văn có các hình chữ * * * * , còn trong kim văn sơ kỳ thì có * và * , và đó là chữ tượng hình, tượng cái hình của bộ phận sinh dục nam tính , tượng trưng cho khái niệm "tổ tiên", gắn liền ý thức sùng bái vai trò trọng yếu của người bố trong việc diên tục huyết thống của gia tộc, của dòng họ.

Ở Trung Quốc có "họ" đơn (một âm tiết), lại có "họ" kép (hai âm tiết) như Âu Dương, Tư Mã, Tây Môn, Đông Quách, Đông Môn, Công Tôn, Công Tây, Công Dương, Công Dã, Bách Lý, Thuần Vu, Thiên Vu, Đoan Mộc, Cốc Lương, Hách Liên, Hô Diên, Hoằng Phủ, Giáp Cốc,Tấn Sở, Huống Hậu, Lương Khâu, Lệnh Hồ, Lư Khâu, Lục Lý, Mộ Dung, Mặc Cáp, Mặc Kỳ, Nam Môn, Nam Cung, Niên ái, Nhượng Tứ, Nhữ Yên, Thượng Quan, Thân Đồ, Thúc Tôn, Tư Không, Tư Khu, Tư Đồ, Thái Thúc, Đạm Đài, Thác Bạt, Văn Nhân, Vu Mã, Hạ Hầu, Hiên Viên, Dương Thiệt, Uất Trì, Nhạc Chính, Chung Li, Gia Cát, Chuyên Tôn, Tôn Chính...

Bảng "Bách gia tính" của Trung Quốc hiện nay cho một tổng số 926 họ.

Về các dòng họ ở Hàn Quốc, nhiều học giả căn cứ vào sự ghi chép trong Tam Quốc sử ký Tam Quốc di sự, chủ trương rằng 6 họ Lý *, Thôi *, Tôn*, Trịnh*, Bùi*, Tiết*, do đời vua thứ ba của Sin - la là Nho Lý Vương ban cho sáu bộ thôn (năm 32 sau CN) là thủy tổ của các họ ở Hàn Quốc.

Học giả Hàn Quốc Lý Tương Phi căn cứ vào Nhật Bản thư kỷ dẫn trong Hàn Quốc sử đại hệ niên biểu nêu ra 5 tên người Pai - si (Bách Tế) là Tân - tề - đô - viên, Nộ - lợi - tư - trí - khế, Thi - đức - tam - cân, Quý - đức - dĩ - ma - thứ và Quý - đức - tiến - mô đi sứ Nhật Bản đều là tên bốn âm tiết hoặc năm âm tiết so với những tên người đó trong sử thư Trung Quốc ghi bằng 2 hoặc 3 chữ Hán, để đoán định rằng cách ghi của người Nhật là cách phiên âm gần đúng âm chữ Hán, còn sử sách Trung Quốc ghi tắt theo tập quán Trung Quốc.

Nhưng ông Tô Tính Hựu, Chủ tịch Hội Tộc phả Hàn Quốc thì cho rằng lịch sử các dòng họ ở Hàn Quốc phải đẩy lên sớm hơn nhiều vào thời Thượng cổ vì mấy lý do:

(1) Lịch sử dân tộc Hàn (Pê-Ta) rất lâu đời, chỉ tính đến thời Hoàn Hùng thiên vương đã có đến sáu ngàn năm.

(2) Dân tộc này đã có ngôn ngữ riêng từ rất xưa.

(3) Hơn bốn ngàn năm trước, dân tộc này đã có chữ viết riêng gọi là chữ Ka-lin-đô.

Theo ông, từ thời Thượng cổ, dân tộc này đã có các họ Hàn, Giải, ất Chi (88), ất, Cao, Dư ... được ghi chép trong các sách xưa. Họ của Cao Cú Lệ có: Cao, ất, Lễ, Tùng, Vu, Chân, Ưu, Nhuân, Dư, Minh Lâm **.

ất Chi, Phù Dư (** )... tất cả hơn 20 họ. Hiện nay ở Hàn Quốc có cả thảy 274 họ, chia làm 3435 chi phái.

Nước Anh có khoảng 16.000 họ.

Nhật Bản nhiều họ nhất, 100.000 họ, nhiều nhất thế giới (một tỉ dân Trung Quốc chỉ có không đến 1000 họ).

1.1.2. Dòng họ ở Việt Nam.

Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính xác các dòng họ ở Việt Nam .

P.Gourou (1930) nói ở đồng bằng Bắc bộ có 202 dòng họ. Dã Lan Nguyễn Đức Dụ trong cuốn Gia phả - Khảo luận và thực hành của ông ước tính "chỉ vào khoảng gần 300 họ". Mới đây, kỹ sư Vũ Mạnh Hà cung cấp con số 191 họ (?), chắc chắn là còn thiếu nhiều .

Thật ra cũng còn xa mới có thể có được một con số chuẩn xác. Trước mắt có thể hy vọng một số liệu về tổng số các họ đang dùng có tính đồng đại tại một thời điểm nhất định, ví dụ như ở một cuộc điều tra dân số sắp tới chẳng hạn.

Nhưng xét theo quan điểm lịch đại, thì những con số ấy đều chỉ có giá trị hết sức hạn chế. Bởi vì những người mang cùng một họ - như họ Nguyễn chẳng hạn - chưa hẳn là đồng tông và ngược lại, những người mang họ khác nhau hiện nay lại rất có thể vốn là chung nhau một ông tổ. Kết quả "tìm nguồn" gần đây cho biết họ Mạc đã có người đổi sang các họ sau đây:

Bế, Bùi, Bùi Đăng, Bùi Đình, Bùi Thái, Bùi Trần, Cát Chử, Đặng, Đoàn, Đỗ, Hoàng, Hoàng Đăm, Hoàng Đỉnh, Hoàng Văn, Huỳnh, Hoa (Khoa), Hồ Đăng, Lê, Lê Đăng, Lều, Lều Vũ, Nông, Nguyễn, Nguyễn Công, Nguyễn Phương, Nguyễn Trọng, Phạm, Phạm Bá, Phạm Văn, Phạm Đăng, Phan Viết, Thách, Thái, Thái Doãn, Thái Dung, Thái Khắc, Thái Văn, Trần, Vũ Như, Vũ Tiến, Vũ Trọng...

Thay đổi tên họ là điều thường xảy ra ở Việt Nam, nhất là sau những cái mốc thay đổi triều đại, chủ yếu là để tránh sự bức hại của dòng họ đối địch đã thắng thế trên chính trường. Ngoài ra còn các nguyên nhân khác như nhận con nuôi, ban quốc tính v.v...

Lịch sử đã từng biết: Hồ Quý Ly gốc Chiết Giang (Trung Quốc), tổ tiên là Hồ Hưng Dật sang định cư ở Quỳnh Lưu (thế kỷX), đến Hồ Liêm (cụ nội Hồ Quý Ly) làm con nuôi nhà Lê Huấn đổi sang họ Lê, đến năm1400 dứt được nhà Trần , Quý Ly trở lại họ Hồ; Nguyễn Trãi từng được ban quốc tính thành Lê Tri; Huỳnh Đức (hổ tướng của Gia Long) được ban quốc tính thành Nguyễn Huỳnh Đức v.v...

1.2. Gia phả và tộc phả.

Hình thái sớm nhất của tộc phả khởi đầu từ đế vương niên biểu, hình thành trên cơ sở lấy hệ thống đế vương làm trung tâm. Về sau mới bắt đầu có tộc phả cá nhân.

1.2.1. Tộc phả ở Trung Quốc và một số nước phương Dông.

Tộc phả ở Trung Quốc ít nhất đã khởi nguồn từ đời Chu, dần dần hưng thịnh ở đời Hán, đến Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, do nặng về ý thức dòng dõi, môn đệ, nên nhà nước chọn quan lại, gia đình kén dâu rể đều lấy tộc phả làm căn cứ tham khảo. Xuống đến Tống Nguyên, do chế độ khoa cử nghiêm ngặt, bỏ dần việc đề cử, nên quan niệm môn đệ, dòng dõi mờ nhạt dần, tộc phả chủ yếu chỉ nhằm mục đích hòa mục yêu thương họ hàng. Thời Minh Thanh, có khuynh hướng từ tộc phả hướng sang gia sử, với yêu cầu "vô trưng bất tín" (không có chứng cứ thì không tin), phần nhiều soạn tộc phả theo hướng giáo dục xã hội, đề cao nhân tài, biểu dương thuần phong mỹ tục.

Nói chung từ Tống Nguyên về sau, nội dung ký sự của tộc phả đã gia tăng rất nhiều, bao gồm từ cội nguồn và các dòng phái Tính Thị, thế hệ tổ tiên, địa phương cư trú, từ đường từ sản, nghĩa điền nghĩa trang, tiên nhân truyện ký, thơ phú văn chương, gia huấn gia quy cùng mọi việc khác trong gia tộc đều ghi chép cả, vì thế trở thành một kho tàng quý hóa của người xưa.

Tộc phả Hàn Quốc khởi nguồn từ thời đại Tam Quốc (Cao Cú Lệ, Pai - xi, Sin - la) của bán đảo này,và cũng bắt đầu bằng việc ghi chép hệ thống vương thất: Vương đại thực lục của Kim Khoan Nghị và Duệ nguyên lục của Nhậm Cảnh Túc thời trung diệp Cao Lê, ghi chép tỉ mỉ các tôn tử và tôn nữ trong vương thất dưới dạng tộc phả.

1.3. Gia phả học (phả hệ học)

1.3.1. Gia phả học Châu Âu

Gia phả học hay phả học (Généalogie, Genealogy) châu Âu có thể coi là chính thức ra đời vào nửa sau thế kỷ XVI với các cuốn Lịch sử tổng quát các vương quốc Jérusalem, Chypre, Arménie (1575-1579), khảo về nguồn gốc các vua chúa thân vương và các nhà đại quý tộc và Gia phả của 67 nhà quý phái đại gia Pháp và ngoại quốc(1586), của Delusignan, một nhà tu hành người Pháp ở vương quốc Chypre, phát triển ở thế kỷ XVIII, cực thịnh ở thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng trong ngành học này có thể kể : Nguồn gốc lịch sử dòng họ quý phái 20 tập của Gustave Chaix DEst.Ange xuất bản trong khoảng 1903 - 1929, khảo cứu hàng trăm dòng họ hiện hữu, Gia đình và phả hệ của Nam tước A. De Maricourt năm 1943, và Phương pháp phê bình gia phả học của Tử tước De Marsay năm 1945.

Lịch sử còn ghi nhận các Hội nghị Gia phả học quốc tế lần thứ nhất năm 1929 ở Barcelone, lần thứ hai năm 1953 ở Naples, lần thứ ba ở Madrid năm 1955 (lần này có 408 học giả thuộc 76 tổ chức đến từ 31 nước).

1.3.2. Tộc phả học phương Đông

Tộc phả học Trung Quốc chính thức ra đời ở thời Nam Bắc triều với trước tác đồ sộ, trong đó có Thị tộc yếu trạng và nhân danh thư của Giả Uyên, tự là Hi Kính, người Tề, thuộc Nam triều.

Tộc phả Hàn Quốc khá hoàn bị về thể chế và phương pháp ghi chép đồng thời lại có mức độ phổ cập quốc gia rất cao, trên phạm vi thế giới Hàn Quốc được coi là nước phát triển về tộc phả. Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến Hội nghị Tộc phả học thế giới mùa hè năm 1991 tại Seoul có học giả trên 180 nước và khu vực tham gia.

Xét về khoa nghiên cứu tộc phả và lịch sử gia tộc (Family history) thì Trung Quốc có lịch sử lâu đời nhất, có hệ thống nhất, phải nói là đứng hàng đầu thế giới.

Tộc phả Trung Quốc phát triển rất sớm, tôn chỉ và nội dung của phả học cũng không ngừng đổi mới, lần lượt truyền bá đến các nước láng giềng ở châu Á trong đó có Việt Nam .

1.3.3. Phả hệ của phương Đông luôn luôn lấy vị tổ tiên chung của cả họ (tộc) làm cội nguồn để viết từ trên xuống dưới, viết cho đến thời điểm hiện tại. Còn cách làm gia phả của phương Tây thì lấy bản thân làm trung tâm mà truy ngược dần lên tổ tiên, theo phương thức tìm nguồn.

Hiện nay, trong các trường đại học của Mỹ, nhiều trường đã đặt môn gia tộc sử hoặc lịch sử gia đình thành môn riêng: trường Đại học Rut-giơ (Rutgers University), trường Đại học Los Angeles bang California (UCLA), trường Đại học Ai-ơ-vain (Irvine) bang California, trường Đại học Brai-ham Yang (Brigham Young University)...

Cơ quan lưu trữ gia phả lớn nhất hiện nay có lẽ là thư viện gia phả của nhà thờ Jesus Christ Đức thánh Ngày tận thế (The Genealogical Library of the Church of

Jesus Christ of Lather - day Saint) ở thành phố Salt Lake bang Yo ta với hơn năm trăm thư viện chuyên nghiệp và hơn bốn trăm người tòng nghiệp tự nguyện không hưởng lương, bình quân hàng tháng trả lời trên năm nghìn lượt thư độc giả giải đáp các vấn đề liên quan đến gia phả, kho sách của thư viện này có trên một triệu cuốn Microfilm, và mỗi tháng bổ sung thêm khoảng 4.000 cuốn.

Tác phẩm "gốc rễ" (Root) của nhà văn da đen nổi tiếng thế giới Alex Haley được viết trên cơ sở sử dụng tư liệu chủ yếu ở thư viện này.

Tại Seoul Hàn Quốc, năm1993 chúng tôi đã có dịp đến thăm cơ sở của một trung tâm tộc phả mang tên "Hồi tưởng xã", tại đó chúng tôi đã phát hiện bộ gia phả hai quyển dày của Lý Long Tường ở Hoa Sơn. "Hồi tưởng xã" đã có lịch sử trên bốn mươi năm, hiện lưu giữ khoảng 2250 cuốn gia phả, tộc phả.

Việc nghiên cứu gia tộc sử ở Mỹ ngày nay dần dần gắn với gia phả học và dựa vào thành quả của gia phả học. Xu hướng của bản thân việc nghiên cứu gia tộc chủ yếu nhằm vào số phận của một số gia tộc nào đó ở một vùng, trong một thời kỳ, nhằm vẽ ra bức tranh thu nhỏ của xã hội vùng đó ở thời kỳ đó, cùng với quá trình hình thành những biến thiên xã hội ấy. Đó cũng là nguyên nhân khiến một số trường đại học Mỹ xếp gia tộc sử vào phạm vi xã hội. Vì thế nghiên cứu tộc phả và gia đình sử ở Mỹ đi theo hướng khoa học xã hội.

Nghiên cứu tộc phả và gia truyện (lịch sử gia tộc, ở Trung Quốc và á Đông nói chung, ngoài ý nghĩa sử học ra, còn đặc biệt chú trọng khía cạnh đạo đức luân lý.

Nhưng dù mục đích và phương pháp có khác nhau như thế nào thì nhận thức của học giả đông tây đều hết sức nhất trí trong sự đánh giá cao tầm quan trọng của ngành học này.

2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA HÔM NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT.

2.1. Hiện nay, xu hướng tìm về cội nguồn đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và đi vào chiều sâu. Khắp thành thị và nông thôn, người ta chắp nối gia phả, trùng tu từ đường, quy tập nghĩa trang. Khuynh hướng chung là lành mạnh, có ý nghĩa văn hóa quan trọng phù hợp với đường lối đổi mới, hòa hợp dân tộc, hội nhập và giao lưu quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, chung chiều hướng với chương trình Thập kỷ văn hóa thế giới (1987 - 1997) của UNESCO.

Văn hóa một dân tộc, một quốc gia bao giờ cũng có cội nguồn từ gia đình và dòng họ. Trong qua khứ, một cách tự phát, các dòng họ đã đóng góp ở mức độ khác nhau cho sự hình thành và phát triển của dân tộc và quốc gia, cho công cuộc chinh phục thiên nhiên và kháng ngự ngoại xâm xây dựng xã hội và phát triển đất nước, thúc đẩy cuộc sống đi lên.

Với tính huyết thống như một sợi dây tinh thần xuyên suốt, mỗi dòng họ thường có một địa bàn cư trú ban đầu, dần dần thành địa bàn cư trú lâu dài, có xu hướng cố định hóa, rồi đến những thời điểm nhất định gắn với một biến thiên lịch sử nào đó của đất nước, của dân tộc, có sự thiên di bộ phận hay toàn thể đến một hoặc nhiều địa bàn mới để sinh cơ lập nghiệp, các dòng họ dần dần phát triển các chi phái, vô hình trung thực hiện việc lan tỏa văn hóa, tiếp xúc và hòa quyện văn hóa giữa các vùng miền của đất nước.

Hai lĩnh vực hoạt động trọng yếu nhất mang tính phổ quát đối với mọi dòng họ và nổi trội lên ở những dòng họ lớn mạnh là hoạt động kinh tế dẫn tới sự ra đời các nghề truyền thống và hoạt động giáo dục theo nghĩa rộng của từ này làm nảy nở các nhân tài ưu tú, các danh nhân kiệt xuất.

Nhưng bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu đó, đời sống các dòng họ cũng đã vô tình làm nảy sinh những khía cạnh tiêu cực:

tình thương yêu họ hàng đùm bọc "giọt máu đào hơn ao nước lã" vượt ngưỡng sẽ gây ra tệ vây cánh và bệnh hẹp hòi phân biệt phái, kiểu "chi bộ họ ta"; quan hệ trên kính dưới nhường, trên bảo dưới nghe, "chết cha còn chú, sẩy mẹ bú dì" vượt quá giới hạn sẽ dẫn đến tệ gia trưởng độc đoán, "cả vú lấp miệng em" trở ngại cho sự phát huy dân chủ sáng tạo.

2.2. Vấn đề đặt ra là : làm sao phát huy được mặt tích cực của dòng họ trong việc xây dựng xã hội Việt Nam hiện tại và tương lai ? Vai trò của các dòng họ trong việc thực hiện chiến lược con người của đất nước Việt Nam đang đi vào công nghiệp hóa hiện đại hóa ? Giữ gìn, tôn vinh, và khai thác phát huy như thế nào những tinh hoa tốt đẹp của đời sống dòng họ loại trừ những tiêu cực, hạn chế ?

2.3. Như trên đã nói, hiện nay ở khắp nơi có rất nhiều hoạt động của các dòng họ. Trên bình diện tổ chức, theo chúng tôi, Đảng và Nhà nước nên ủng hộ và tạo điều kiện cho một hội quần chúng nhằm tập hợp và hướng dẫn các hoạt động dòng họ trong nước theo tinh thần khoa học tiến bộ và có thể đứng ra lãnh nhận trách nhiệm hợp tác quốc tế với các tổ chức tương ứng của nước ngoài.

Có nhiều ngành khoa học có thể góp phần tích cực : Sử học, Hán Nôm học, Gia phả học, Văn hóa học,... sẽ giúp nâng cao tính học thuật, tính khoa học liên ngành của hoạt động dòng họ.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm với chức năng sưu tầm, bảo quản và khai thác các văn bản Hán Nôm, phần quan trọng của di sản văn hóa thành văn của dân tộc, với đội ngũ hàng chục chuyên gia Hán Nôm học, với kho thư tịch hàng mấy trăm bản gia phả và hàng ngàn thư tịch tài liệu có liên quan, có thể và cần phải góp phần tích cực của mình.

TB

MỘT VÀI NÉT KHÁC BIỆT VỀ MẶT NGÔN NGỮ (NGỮ PHÁP) GIỮA HAI NHÓM VĂN BẢN HÁN VĂN TRONG THƠ VĂN LÝ - TRẦN (TẬP I)

PHẠM VĂN KHOÁI

Làm quen với các văn bản Hán văn được sưu tầm trong bộ Thơ văn Lý - Trần, Tập I (1), nếu dựa vào phương diện nội dung chúng ta có thể chia chúng thành hai nhóm: Nhóm các văn bản có liên quan đến công việc tổ chức Nhà nước (nhóm I) và nhóm các văn bản Phật giáo (nhóm II).

Đi sâu vào phân tích các yếu tố ngụn ngữ của hai nhúm văn bản này chúng ta thấy chúng không chỉ khác nhau về nội dung mà còn khác nhau về ngôn ngữ.

Các văn bản Hán văn Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII là sản phẩm trực tiếp, cụ thể của việc sử dụng tiếng Hán của thời độc lập, tự chủ, bởi vậy, chúng, một mặt là chứng tích cho sự nối tiếp với thời kỳ tiếng Hán còn được dùng như là một sinh ngữ trong những năm dưới thời Bắc thuộc, mặt khác nó là cơ sở cho sự phát triển, biến đổi của Hán văn các thế kỷ tiếp theo. Qua cứ liệu ngôn ngữ của chúng, chúng ta phần nào có thể thấy được sự chuyển biến của xã hội Việt Nam thời trung thế kỷ về một số mặt: học thuật và các thiết chế chính trị - xã hội để xây dựng nhà nước độc lập. Bài viết này bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm ngôn ngữ (trước hết là các đặc điểm ngữ pháp) của hai nhóm văn bản này, để nêu lên những nét khác biệt về ngôn ngữ giữa chúng.

Nhóm văn bản có liên quan đến công việc Nhà nước (nhóm I) bao gồm các văn kiện tổ chức Nhà nước như: Thiên đô chiếu (Công Uẩn), Khuyến Lý Công Uẩn tức đế vị; Bình Nùng chiếu; Xá thuế chiếu Dữ tả hữu nghị sự; Ngộ đại hàn vi tả hữu bách quan; Phạt Tống lộ bố văn; Nam quốc sơn hà; … Thỉnh hoàn Vật dương, Vật các nhị động; Lâm chung di chiếu…(2). Những văn bản này thường được trích từ các văn bản sử (Việt sử lược; Đại Việt sử ký toàn thư…).

Trong tập I của Thơ văn Lý - Trần còn có 8 bài văn bia được khắc trên những tấm bia dựng ở các chùa (như An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký; Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi; Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh; Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh…). Nội dung của chúng vừa đề cập đến giáo lý của Phật giáo vừa đề cập đến cuộc đời của nhiều nhà hoạt động Nhà nước. Người soạn chúng có khi là các thiền sư, có khi lại là các quan chức Nhà nước… ngôn ngữ của các văn bản này giống với các văn bản có liên quan đến công việc tổ chức Nhà nước, bởi vậy chúng tôi xếp chúng vào nhóm I. Như vậy có 36 văn bản thuộc nhóm I, số còn lại thuộc nhóm vào II. (Trong Thơ văn Lý - Trần có 136 đơn vị văn bản cả thảy).

Nhóm II gồm các bài thơ của các nhà sư, các văn bản ngữ lục của các thiền sư… “Văn nói hay văn ngữ lục chiếm số lượng khá cao trong các tác phẩm Phật giáo Lí - Trần”(3). Chúng được viết theo một ngôn ngữ khác hẳn với một ngôn ngữ của nhóm I. Dưới đây chúng tôi đi vào phân tích một số nét chủ yếu của hai nhóm văn bản.

ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ CỦA CÁC VĂN BẢN NHÓM I

Như trên đây đã nói, các văn bản nhóm I có liên quan đến công việc tổ chức Nhà nước, và đương nhiên mô hình tổ chức Nhà nước trong điều kiện bấy giờ chỉ có thể tìm trong các kinh điển của Nho giáo, do vậy dễ nhận ra nhóm I nhiều trích đoạn, nhiều công cụ từ của tiếng Hán cổ giai đoạn cổ điển hay giai đoạn hậu kỳ.

Trong tiếng Hán cổ, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất được biểu thị bằng các từ sau: 吾 (ngô), 我 (ngã), 余 (dư), 朕 (trẫm)… nhưng các đại từ này có phân biệt nhau về chức năng trong khi sử dụng: 吾 thường làm chủ ngữ, ít khi làm bổ ngữ, trong khi 我 đó lại chủ yếu làm bổ ngữ, 朕 chủ yếu được dùng làm định ngữ(4). Các đại từ này có thể biểu thị ý nghĩa số nhiều ngay cả khi không có tiêu chí biểu thị số nhiều. Còn tiêu chí chỉ số nhiều của tiếng Hán cổ là 儕 (sài), 曹 (tào), 屬 (thuộc). Trong các văn bản Hậu Hán thường gặp những tiêu chí 等(đẳng), 輩(bối)(5). Ở các văn bản nhóm I tình hình trên cũng cơ bản được phản ánh lại. 吾 thường gặp nhất, chủ yếu làm chủ ngữ của câu.

吾 必 執 公 送 官 (tr.233)

Ngô tất chấp công tống quan - “Tôi phải bắt ông nộp quan mới được”.

吾 誠 不 避 死 (tr.233)

Ngô thành bất tị tử - “Tôi thật chẳng sợ chết”.

吾 安 忍 告 公 (tr.233)

Ngô an nhẫn cáo công - “Tôi đâu nỡ cáo giác ông”.

吾 明 公 意 與 萬 行 無 異 (tr.233)

Ngô minh công ý dữ Vạn Hạnh vô dị - “Tôi đã rõ ý ông không khác gì Vạn Hạnh”.

我 (ngã) ở nhóm I cũng thường được dùng, nhưng không phổ dụng bằng 吾 (ngô) trong chức năng chủ ngữ của câu.

我 于 兄 弟 無 所 毫 負 (tr.248)

Ngã vu huynh đệ vô sở hào phụ - “Ta với anh em không một chút gì phụ bạc)

我 何 面 目 與 三 王 見 乎 (tr.248)

Ngã hà diện mục dữ tam vương kiến hồ - “Ta còn mặt mũi nào trông thấy tam vương nữa).

吾 có thể làm định ngữ, song nói chung là ít thấy, chẳng hạn:

使 自 退 伏 以 全 吾 骨 (tr.248)

Sử tự thoái phục dĩ toàn ngô cốt - “Khiến họ tự rút quân về để trọn tình cốt nhục của anh em ta”.

Tiêu chí chỉ số nhiều của tiếng Hán cổ có nhiều nhưng ở nhóm I chủ yếu dùng (đẳng). Hầu như đại đa số trường hợp biểu thị ý nghĩ số nhiều đều dùng.

Ví dụ: 卿 等 如 何 ? (tr.229)

Khanh đẳng như hà - “Các khanh nghĩ như thế nào?”

朕 以 恭 行 天 討 ,俘 存 福 等 五 人 (tr.245).

Trẫm dĩ cung hành thiên thảo, phù Tồn Phúc đẳng ngũ nhân - “Trẫm cung kính thi hành mệnh trời trách phạt, bắt bọn Tồn Phúc gồm 5 người”.

汝 等 行 看 取 敗 虛 (tr.321)

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư - “Chúng bay hãy xem, sẽ chuốc lấy thất bại”.

Các đại từ ngôi thứ nhất của nhóm I về cơ bản được sử dụng giống như ở tiếng Hán cổ, nhưng tiêu chí biểu thị số nhiều thì ở nhóm I có hiện tượng “giản lược tiếng Hán cổ”, vốn là tiêu chí chỉ số nhiều mới dùng ở thời Hậu Hán, Lục triều. Vậy là trong cái chung với tiếng Hán cổ về hệ thống đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, nhóm I vẫn mang nét riêng của mình khi sử dụng các tiêu chí số nhiều.

Đại từ chỉ thị trong tiếng Hán cổ bao gồm 彼 (bỉ), 此 thử), 是 (thị), 他 (tha). Riêng ở nhóm các văn bản Nho gia lại còn có 斯 (tư) được dùng với ý nghĩa như đại từ chỉ thị 此 , hay được dùng trong Luận ngữ, chẳng hạn ở thiên Thuật nhi có câu:

子 在 齊 ,聞 韶 三 月 不 知 肉 味 曰 不 圖 為 樂 之 至 斯 也

Tử tại Tề, văn Thiều, tam nguyệt bất tri nhục vị. Viết: bất đồ vi nhạc chi chí tư dã - “Khổng Tử ở nước Tề, nghe nhạc Thiều, 3 tháng không biết đến vị thịt. Ông nói: Chẳng ngờ nhạc có thể đạt đến mức này vậy”. Hay trong thiên Tử Hãn có câu: 有 美 玉 於 斯 Hữu mỹ ngọc ư tư, “Có ngọc đẹp ở đây”(6). Đến thời Hậu Hán, 斯được thay thế bằng 此 (thử). 斯bị đẩy ra khỏi số các đại từ chỉ thị thường dùng. Thế nhưng ở nhóm I, 斯 rất hay được dùng, chẳng hạn:

遍 覽 越 邦 斯 為 勝 地 (tr.230)

Biến lãm Việt bang tư vi thắng địa - “Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa”;

願 斯 須 勿 死 以 觀 德 化 (tr.215)

Nguyện tư tu vật tử dĩ quan đức hóa - “Mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa”.

Trong văn bia “Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi do Nguyễn Công Bật soạn có đến 11 lần 斯 được dùng như chữ 此 để tổng kết, nhấn mạnh một vấn đề nào đó. Có thể dễ dàng gặp 斯 (tư) trong nhiều văn bản của nhóm I.

茲 cũng là một đại từ chỉ thị của tiếng Hán cổ giai đoạn tiền cổ điển, nhưng chỉ hay dùng trong các văn bản kinh điển Nho gia, chẳng hạn:

念 斯 在 斯

Niệm tư tại tư;

好 生 之 德 合 于 民 心 , 茲 用 不 犯 于 有 司

Hiếu sinh chi đức hợp vu dân tâm, tư dụng bất phạm vu hữu tư.

(Cả hai ví dụ đều lấy từ Kinh Thư. Đại vũ mô. Sách Nhĩ nhã giải thích rằng: 茲 , 此 也 Tư, thử dã).

茲 ít dùng trong các văn bản sử, và bị đẩy khỏi số đại từ chỉ thị ở giai đoạn hậu kỳ tiếng Hán cổ(7), 此 đã thay thế vị trí của茲. Có thể nói 此 đã tích hợp cả đại từ chỉ thị 斯 và 茲để dần thành đại từ chỉ thị gần như vạn năng trong tiếng Hán cổ giai đoạn hậu kỳ.

Ở các văn bản nhóm I, 茲lại đặc biệt hay dùng. Chúng tôi thấy nó trong Thiên đô chiếu và trong nhiều văn bia. Chẳng hạn:

常 安 厥 邑 于 茲 (tr.228)

Thường an quyết ấp vu tư - “Cứ đóng yên đô thành ở nơi ấy”.

憑 茲 勝 利 (tr.393)

Bằng tư thắng lợi - “Nhờ thắng lợi này”

覽 茲 梵 宇 (tr.421)

Lãm tư Phạn vũ - “Ghé thăm cảnh chùa này”.

Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ ở nhóm I để chúng minh có hiện tượng “cổ hóa” các dạng thức ngữ pháp ở đây. Việc các đại từ chỉ thị 斯 và 茲 vốn là những từ rất cổ của tiếng Hán cổ hay được dùng đã chứng minh điều đó.

Cũng cần lưu ý đến trường hợp 厥 (quyết) được dùng với tư cách là đại từ chỉ thị với chức năng như một định ngữ. Chẳng hạn:

朕欲因此地利以定厥居 (tr.229).

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư - “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ấy”

厥 後 乃 誓 于 師 (tr.206)

Quyết hậu nãi thệ vu sư - “Rồi đó ông thề trước ba quân”

厥 祖 元 屬 (tr.328)

Quyết tổ nguyên thuộc… - “Tổ của ông ấy vốn thuộc…”

Có thể liệt kê ra mối tương ứng của hàng loạt công cụ từ của các văn bản nhóm I với tiếng Hán cổ, đặc biệt là các văn bản của trào lưu triết học Nho gia. Ngoài các từ tiêu biểu của tiếng Hán cổ nói chung, lại còn có của những phó từ đặc trưng riêng cho các văn bản Nho gia như 允 (doãn) cũng được dùng ở đây.

Những điều nêu trên cho phép chúng ta nghĩ rằng ngôn ngữ của các văn bản nhóm I rất giống, thậm chí có thể nói đó là sự mô phỏng ngôn ngữ của các kinh điển Nho gia nhất là Kinh Thư Luận ngữ. Kinh Thư vốn là bộ sách tập hợp các văn kiện xây dựng nhà nước (The Classic of Documents) theo lý tưởng của Nho gia. Nhu cầu xây dụng Nhà nước độc lập giai đoạn này đã buộc các nhà hoạt động Nhà nước phải trực tiếp chú ý đến kinh điển, và do vậy, sự vay mượn, mô phỏng các ngôn ngữ văn bản gốc là không tránh khỏi. Xét theo nghĩa đó chúng ta có thể giải thích và hình dung được nguyên nhân của xu hướng “làm sống lại”, “mô phỏng lại” các dạng thức ngữ pháp cổ của tiếng Hán được thể hiện trong các nhóm văn bản I nói riêng và cả ở các thế kỷ sau nữa của Hán văn Việt Nam như Hán văn thời Trần, thời Lê… Văn ngôn Việt Nam do không trực tiếp chịu áp lực của khẩu ngữ tiếng Hán cho nên đã hoàn toàn “tự tin”, “ung dung” mô phỏng và lưu giữ những dạng thức ngữ pháp mà có lẽ vào cùng thời điểm đó tình hình của văn ngôn ở Trung Quốc cũng đã có nhiều nét khác(8).

ĐẶC TRƯNG CỦA NGÔN NGỮ CÁC VĂN BẢN NHÓM II

Nhóm II gồm những văn bản Phật giáo mà tựu trung có thể gọi là những Ngữ lục. Nhóm này có nhiều đặc trưng ngôn ngữ khác với nhóm I. Những văn bản Phật giáo này gợi ta tưởng đến sự nối tiếp của chúng đối với tiếng Hán trung đại nói chung và đặc biệt là ngôn ngữ viết của nó nói riêng - bạch thoại trung đại. Chúng còn lưu giữ lại dư âm của một thời mà ngôn ngữ sinh hoạt tôn giáo (Phật giáo) gắn liền với bạch thoại (trung đại), nó là hậu duệ gần gũi của tiếng Hán ở các thời mà tiếng Hán còn được coi là sinh ngữ ở Giao Châu.

Nếu như các văn bản Nho gia cơ bản được xây dựng trên cơ sở khẩu ngữ Chu Tân, thì ngôn ngữ các văn bản Phật giáo lại được xây dựng trên cơ sở khẩu ngữ của một giai đoạn muộn hơn nhiều (từ thế kỷ III trở đi)(9) (Chủ yếu bằng cách dịch các kinh điển của Phật giáo từ tiếng Phạn ra tiếng Hán). Do vậy ngôn ngữ các bản dịch kinh Phật khác với ngôn ngữ các văn bản Tứ thư, Ngũ kinh về căn bản.

Nếu như trong văn bản nhóm I dùng đại từ nhân xưng吾 (ngô) nhiều hơn 我 (ngã) thì ở trong Nhóm II có xu hướng ngược lại, 我được dùng là chủ yếu. Nghi vấn từ 誰 (thùy) dùng nhiều hơn孰 (thục). Đã xuất hiện một loạt nghi vấn từ và dạng thức nghi vấn vốn không hề có trong tiếng Hán cổ và đến bây giờ trong chừng mực nhất định chúng vẫn được dùng trong tiếng Hán hiện đại, như 什 么 (thập ma ?); 為 什 麽 (vị thập ma ?); 作 什 麽 (tác thập ma ?); 恁 麽 (nhậm ma ?); 那 (ná ?)(10).

為 什 麽 如 此 (tr.268)

Vị thập ma như thử ? - “Vì sao như vậy ?”

而 今 作 什 麽 (tr.272)

Nhi kim tác thập ma? - “Thì nay làm thế nào?”

Trong tiếng Hán cổ đôi lúc 是 (thị) được dùng như là hệ từ nhưng ngay cả trong trường hợp này, 是vẫn chưa phải hẳn ý nghĩa của đại từ chỉ thị của mình (Dương Thụ Đạt giải thích 是dùng như為 (11). 是 được dùng như một hệ từ theo đúng nghĩa của từ này chỉ vào giai đoạn cuối của tiếng Hán cổ (thế kỷ III-IV)(12). Ở các văn bản chuyển tiếp từ Hán cổ sang tiếng Hán trung đại như các bản dịch kinh Phật và ở tập truyền kỳ (Sưu thần ký), 是 mới được dùng như một hệ từ chính cống.

Nhóm II lưu giữ khá nhiều trường hợp是 (thị) dùng như một hệ từ. Đơn cử ra ở đây một vài ví dụ:

身 是 生 滅 法 (tr.316)

Thân thị sinh diệt pháp - “Thân người là hiện tượng sinh diệt”.

種 種 取 舍 皆 是 輪 回 (tr.288).

Chủng chủng thủ xả giai luân hồi - “Bao thủ xả, bấy luân hồi”;

空 是 色 ,色 即 空 (tr.353)

Không thị sắc, sắc tức không - “Không là sắc, sắc tức là không”

是 là hệ từ luôn đi với cặp nghi vấn từ 如 何 (như hà) để cho câu hỏi có tính chất khẩu ngữ, trần thuật hơn, chẳng hạn:

如 何 是 大 道 (tr.269)

Như hà thị đại đạo - “Thế nào là đạo lớn”.

如 何 是 開 明 (tr.270)

“Như hà thị khai minh - Thế nào là khai sáng”.

Những nghi vấn từ trên đây đã nêu chủ yếu trong bạch thoại trung đại (Đôn Hoàng biến văn; Ngữ lục thời Đường)(13).

Hệ thống những pho từ biểu thị sự ngăn cấm, khuyên bảo cũng rất phong phú trong nhóm II, bởi lẽ các lời khuyên của các bậc cao tăng có khá nhiều trong đời sống tôn giáo cho nên việc xuất hiện nhiều phó từ biểu thị ý nghĩa ngăn cấm và khuyên răn cũng là tự nhiên. Chúng gồm các phó từ sau:

休 (hưu); 勿(vật); 無 (vô); 莫 (mạc); 不 須 (bất tu)… Trong số này phổ dụng nhất là phó từ 休 (hưu).

休 鄉 如 來 行處 行 (tr.521)

Hưu hướng Như lai hành xứ hành - “Đừng đi theo hướng đi của Như Lai”).

為 報 門 人 休 戀 著 (tr.347)

Vị báo môn nhân lưu luyến trước - “Khuyên các môn đồ chớ vì ta mà quyến luyến”.

勞 生 休 問 色 兼 空 (tr.459)

Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không - “Thôi đừng hỏi sắc với không cho thêm mệt cuộc đời”.

道 侶 不 須 傖 永 別 ,院 前 山 水 是 真 形 (tr.336)

Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt; Viện tiền sơn thủy thị chân hình - “Các bạn tu hành chớ nên đau thương về nỗi vĩnh biệt; Sông núi trước chùa chính là hình ảnh chân thực của người”.

Tiếng Hán cổ dùng các từ 勿 (vật); 無 (vô); 莫 (mạc) để biểu thị ý nghĩa ngăn cấm, khuyên răn; còn ở Nhóm II lại dùng một loạt từ cấm chỉ tiêu biểu cho tiếng Hán trung đại như 休 (hưu), 不 須 (bất tu). Các từ như 休 , 不 須 , 不 必 dùng với ý nghĩa cấm chỉ, khuyên, từ thời Lục triều và thời Đường(14).

Trong một số trường hợp chúng ta có cảm tưởng rằng động từ đã được dạng thức hóa này là 了(liễu) và 著 (trước).

雖 染 實 際 解 了 世 間 皆 如 變 化 (tr.255)

Tuy nhiên thực tế giải liễu thế gian giai như biến hóa - “Dù đắm trong thực tế vẫn hiểu thế gian là biến hóa”.

覺 了 身 心 本 凝 寂

Giác liễu nhân tâm bản ngưng tịch – “Hiểu thấu ‘thân tâm’ vốn lặng lẽ”.

Có khi 了 liễu đứng trước động từ:

了 悟 身 心 開 慧 眼 (tr.501)

Liễu ngộ nhân tâm khai tuệ nhãn - “Hiểu thấu được “thân tâm”, bừng mở “con mắt trí tuệ”;

Chúng tôi còn gặp 著 (trước) được dùng như là tiêu chí biểu thị ý nghĩa tiếp diễn:

漁 翁 睡 著 無 人 喚
過 午 醒 來 雪 滿 船 (tr.386)

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

“Ông chài ngủ say tít không ai gọi,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền”.

Nếu như ở tiếng Hán cổ thường dùng giới từ 以 (dĩ) để đưa bổ ngữ lên trước động từ vị ngữ, thì ở nhóm văn bản II, bên cạnh kiểu dùng như thế lại dùng thêm cách dùng có công cụ từ 將 (tương)

為 何 將 語 以 傳 心 (tr.535)

Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm. - “Cớ sao lại đem ngôn ngữ để truyền tâm cho người?”.

Ở trường hợp này, 將được dùng như công cụ từ 把 (bả) của tiếng Hán hiện đại hay 以 của tiếng Hán cổ. 將 được dùng theo ý nghĩa ngữ pháp như vậy chỉ lẻ tẻ ở các văn bản thời Lục triều và phổ dụng ở các văn bản thời Đường(15).

Nhóm II chủ yếu là các văn bản thơ, do đặc trưng thể loại, ngôn ngữ của các văn bản thơ khác với ngôn ngữ văn xuôi, khả năng phản ánh một cách đầy đủ các hiện tượng ngữ pháp hẳn bị hạn chế, song qua một số ví dụ tiêu biểu trên đây, có thể cho phép rút ra một số kết luận rằng: các văn bản Hán văn Phật giáo (Nhóm II) thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XIII được viết theo một ngôn ngữ khác hẳn các văn bản của nhóm I - Các văn bản chịu ảnh hưởng nhiều của các kinh điển Nho giáo.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng các văn bản văn bia nhóm I cũng có pha nhiều hiện tượng ngữ pháp mới vốn không có trong tiếng Hán cổ và trong các kinh điển Nho gia. Có trường hợp ở trong văn bản nhóm này, 是 được dùng như một hệ từ.

阮 公 是 高 宗 代 提 公 長 孫 (tr.540)

“Nguyễn công thị Cao Tông đại Đề công trưởng tôn. - Nguyễn công là cháu trưởng Đề công dưới triều Cao Tông hoàng đế”.

Song những trường hợp như thế không nhiều. Nhiều chỗ nếu bàn đến giáo lý của Phật giáo, ta lại thấy có nhiều hiện tượng ngữ pháp giống với các văn bản Phật giáo. Điều ấy càng chứng tỏ: rõ ràng các văn bản Phật giáo đã được viết theo một ngôn ngữ riêng, khác hẳn với các văn bản nhóm I vốn được viết bằng ngôn ngữ của tiếng Hán cổ.

Các văn bản của Nhóm II về cơ bản phản ánh cơ cấu ngữ pháp của tiếng Hán trung đại (ở dạng không đầy đủ). Đương nhiên ngay cả trong một số văn bản ngữ lục, bên cạnh các công cụ từ của tiếng Hán trung đại còn pha thêm một số công cụ từ của tiếng Hán cổ. Ý nghĩa nghi vấn được diễn đạt bằng một số công cụ từ không chỉ tiêu biểu cho tiếng Hán trung đại mà còn có phần giống tiếng Hán hiện đại (nhậm ma, vị thập ma…) song lại còn dùng cả từ 奚 (hề) của tiếng Hán cổ, mà nghi vấn từ này thường chỉ được dùng trong các văn bản Khổng giáo.

Các văn bản ở nhóm I đã thu vào mình quá nhiều cách nói, trích đoạn từ các văn bản kinh điển Nho giáo. Điều này cùng với 1 số hiện tượng ngữ pháp nêu trên cho phép nhận xét rằng: cơ cấu ngôn ngữ của các văn bản này về cơ bản được mô phỏng theo cơ cấu ngôn ngữ (ngữ pháp) của các văn bản Nho gia nói riêng và của tiếng Hán cổ nói chung.

Các văn bản Nhóm II (Phật giáo) lại thu vào mình nhiều yếu tố của tiếng Hán trung đại (bạch thoại trung đại). Nếu như việc tổ chức Nhà nước cần đến mô hình Nho giáo, kinh điển Nho giáo thì tự nhiên cũng phải vay mượn, mô phỏng cả ngôn ngữ của các văn bản này và ngược lại, việc đọc giáo lý của Phật bằng các bản dịch ra tiếng Hán (phần lớn chúng được dịch từ thế kỷ III trở đi, nhất là vào thời Lục triều và thời Đường…) thì khi viết cũng mô phỏng luôn cả ngôn ngữ của các bản dịch này - một kiểu ngôn ngữ gắn liền với khẩu ngữ của đa số dân chúng (và đấy cũng là lợi khí để Phật giáo đi vào quảng đại quần chúng nhân dân Trung Quốc). Các văn bản Hán văn Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XIII đã thể hiện điều đó. Vậy là sự khác biệt về ngôn ngữ của hai nhóm văn bản được giải thích bằng nguyên lý: vay mượn tư tưởng đồng thời cũng vay mượn luôn cả phương thức diễn đạt nó - Vay mượn ngôn ngữ.

Các văn bản Hán văn thời Lý (hay đúng hơn từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIII) là nền tảng cho Hán văn Việt Nam sau thời độc lập. Chúng trở thành một chỗ dựa quan trọng cho học thuật nước nhà trong bao nhiêu thế kỷ sau đó “Nước ta từ khi xây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài từ vua Tiền Lê tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được. Hai vua Thánh Tông, Nhân Tông nhà Lý đều giỏi sách hay thơ…” đó là nhận xét của Lê Quý Đôn nhà bác học, nhà bách khoa toàn thư lớn thế kỷ XVIII của Việt Nam, trong Toàn Việt thi lục về vai trò Hán văn thời Lý nói riêng hay của Hán văn thế kỷ X - nửa thế kỷ XIII nói chung. Những nét chung về ngôn ngữ của văn bản Hán văn Việt Nam sau thời kỳ độc lập đã được hình thành ngay từ thời Lý. Chúng ở các mức độ khác nhau đã thể hiện trong các văn bản Hán văn của các thời kỳ sau đó.

Những ảnh hưởng của tiếng Hán trung đại đối với các văn bản Phật giáo còn là bằng chứng về sự ảnh hưởng của tiếng Hán khi nó còn như một sinh ngữ trên đất Giao Châu ở thời Bắc thuộc. Những dấu tích của bạch thoại trung đại còn lưu lại trong nhóm văn bản Phật giáo phần nào cho ta thấy vai trò của tiếng Hán thời Đường trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam.

Hán văn Việt Nam giai đoạn X - nửa đầu XIII nói chung và nhất là các văn bản nhóm I lặp lại nhiều dạng thức ngữ pháp của tiếng Hán cổ (nhất là kinh điển Nho giáo). Khi đọc nó người ta có cảm tưởng rằng nó “làm sống lại” nhiều dạng thức cổ của tiếng Hán cổ đủ các giai đoạn. Nó là một trong những phiên bản mang tính hỗn nhập của ngôn ngữ nói chung.

Cuối cùng, các văn bản Hán văn Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XIII đã phản ảnh đời sống học thuật, đời sống chính trị của một nước độc lập, thể hiện sự hiện diện của hai nhân tố cơ bản trong cuộc sống học thuật lúc bấy giờ: Nho và Phật, thể hiện sự cần thiết của Nho giáo đối với các vương triều phong kiến như thế nào, và càng về cuối, xu hướng này đã phát triển thành cuộc cạnh tranh Nho - Phật. Những nét đó trong cuộc sống tinh thần của nước nhà buổi đầu độc lập còn thể hiện ngay trên phương diện ngôn ngữ của các văn bản nữa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Thơ văn Lý - Trần. Tập I. Nxb. KHXH. H. 1977.

(2) Tất cả các tên gọi của các văn bản, ví dụ trích dẫn chúng tôi đều lấy từ bộ sách nêu trên, (1).

(3) Sách đã dẫn, tr.167.

(4) S.E.Jakhontov. Tiếng Trung Quốc cổ. M.1965. tr. 66-68.

(5) Lã Thúc Tương. Hán ngữ ngữ pháp luận văn tập. Bắc Kinh. 1955, tr.149-150.

I.S.Gurevic. Lược khảo ngữ pháp tiếng Trung Quốc thế kỷ III - V (Dựa vào bản dịch sang tiếng Hán các tài liệu Phật giáo) M., 1974, tr.62.

(6) Dương Thụ Đạt. Cao Đẳng quốc ngữ văn pháp. Thương vụ ấn thư quán, 1955.

(7) S.E.Jakhontov. Sđd, tr.69.

(8) Ở Trung Quốc đã có nhiều cuộc vận động cải cách văn ngôn, để cho ngôn ngữ viết này phù hợp với khẩu ngữ, chẳng hạn cuộc cải cách ở thời Đường do Hàn Dũ đề xướng theo chủ trương: “Pháp thánh nhân về tư tưởng nhưng không pháp thánh nhân về ngôn ngữ”. (xem M.V.Sophronov. Tiếng Trung Quốc và Xã hội Trung Quốc. M. Khoa học, 1979. (tiếng Nga).

(9) I.S.Gurevic. Sđd. M,. tr.1974.

(10) I. T. Zograph. Tiếng Hán trung đại Sự hình thành và các xu hướng phát triển. M. Khoa học. 1979.

(11) Dương Thụ Đạt, Sđd; Dương Bá Tuấn. Trung Quốc văn pháp ngữ văn thông giải. Thượng Hải. 1957. tr.53.

(12) S.E.Jakhontov. Sđd.

(13),(14),(15): T.Zograph. Sđd. M., 1979.

TB

TÌM HIỂU TÍNH CHẤT "CỔ" CỦA CHỮ NÔM TRONG TÂN BIÊN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TĂNG BỔ GIẢI ÂM TẬP CHÚ

HOÀNG HỒNG CẨM

Khi đi vào nghiên cứu một văn bản, một việc làm không thể thiếu, đó là vấn đề ngôn ngữ tác phẩm. Vì thế, chúng tôi muốn có một nhận xét để mong chứng minh thêm về sự xuất hiện của văn bản này trong khung cảnh ngôn ngữ thời đại. Và, tiếng Việt ở thời Nguyễn Thế Nghi là như thế nào ? So với tiếng Việt ở các sách khác có khác nhau không? Phải chăng vào khoảng thế kỷ 15, 16, ngôn ngữ của các tác phẩm này là trên cùng một bình diện?

Trong tác phẩm Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú cũng như trong các tác phẩm Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc âm thi tập, Thiên nam ngữ lục v.v. còn lưu lại khá nhiều chữ Nôm cổ. Tính chất cổ được phản ánh qua âm đọc tiếng Việt cổ và âm Hán Việt cổ trong kết cấu chữ Nôm. Có thể thấy trong cách đọc chữ Nôm cổ của TBTKML được thể hiện ở các phần phụ âm đầu, vần và thanh điệu của từng âm tiết. Nhưng ở đây với nội dung của một bài báo, chúng tôi chủ yếu trình bày phần phụ âm đầu và vần .

I. Chữ Nôm phản ánh phụ âm đầu tiếng Việt cổ .

Cụ thể chúng ta có thể thấy như sau:

1. Dùng phụ âm đầu Hán Việt là b để ghi âm đọc Nôm V

Chữ Nôm "vua" được viết là: * (gồm hai bộ phận : vương ghi ý; bố ghi âm)

Từ này được xuất hiện ở các câu :

- "Đến vua Thái Tổ ra gươm đất Lam Sơn" (TBTKML - II - tr. 31a - dd4 ).

- "Ngày ấy khắc ấy khá đến dưới miếu vua Trưng Vương cùng đợi" (TBTKML - II - tờ 29a - dd6).

Hay: - "Song vua sáng chủ hiền hằng muốn trừ mà chẳng hay được đấy" (TBTLML / III - III - tờ 41a - dd5)

2. Dùng phụ âm đầu Hán Việt : Ph - ghi âm đọc Nôm V -Chữ Nôm "vậy *" vốn là từ âm Hán Việt "phỉ" Chữ này được xuất hiện trong câu:

- "Xảy vậy lìa tiệc" (TBTKML - II - tờ 27a - gd6)

- "Ít gặp một chốc nhân duyên vậy” (TBTKML / II - X - tờ 3a - gd4) .

Hay: -"Thửa người thầy ấy chẳng hại vậy " (TBTKML / III - XI - tờ 5a - dd4)

Nếu theo bộ vị cấu âm thì các trường hợp trên là những âm môi. Xét về mặt ngữ âm lịch sử thì âm V/V/ của tiếng Việt được bắt nguồn từ âm b- , W- , và ph- (1). Điều này chứng minh chữ Nôm đã dùng phụ âm Hán Việt b- , ph- , để ghi âm đọc Nôm V- và chính điều này thể hiện rằng: người viết chữ Nôm đã ghi đúng âm đọc ở thời kỳ sản sinh ra nó.

3. Dùng phụ âm đầu Hán Việt đ- ghi âm đọc Nôm d-

Chữ "đốc * " được đọc sang âm Nôm là "đốc". Từ này xuất hiện ở các câu:

- "Lòng yêu càng dốc " (TBTKML - IV - 51a - dd1)

- "Song dốc ý ở người đẹp" (TBTKML - V - 72b - dd2).

Hay:- "Bèn dốc hết thuốc thửa sắm lấy bình bát con hòa làm tễ" (TBTKML / III - XI - tờ 15a - dd7)

Trong hệ thống chữ Nôm, cũng có hiện tượng dùng phụ âm đầu Hán Việt đ- ghi âm đọc Nôm d- . Đây chính là hệ quả của quá trình biến đổi từ đ- đến d- (gi-) của tiếng Việt. Hiện nay, trong tiếng Việt, bên cạnh các từ "cây đa, con dao" ta còn có "cây đa, con đao". Hàng loạt từ có d- mà vùng khu VI còn phát âm thành đ- như:

da (đa), dối (đối), dưới (đưới) ... (2)

4. Dùng phụ âm đầu Hán Việt s- ghi âm đọc Nôm th- :

Chữ Hán Việt "sài *" ghi âm đọc Nôm "thầy". Từ này xuất hiện ở các câu:

- "Người thầy đạo ngờ thửa trai gái cưu lòng xuân, nhân khi trăng cùng bày hẹn"

(TBTKML - III - tờ 42a - dd3).

Hay:- "Thửa người thầy ấy lấy bùa gieo đấy" (TBTKML - XI - tờ 5b - gd3).

Hoặc:- "Người thầy đạo rằng chẳng vậy đâu" (TBTKML - IV - 56a - cd6)

Hoặc tương tự ở trường hợp dùng chữ Hán Việt "sơ *" ghi âm đọc Nôm "thưa".Từ này xuất hiện trong câu:

"Lưới tuy thưa mà chẳng lọt" (TBTKML - IV - tờ 53b - dd6)

Riêng phụ âm đầu th- của tiếng Việt có nguồn gốc như sau:

Qua sơ đồ trên, chúng ta thấy có hai nguồn gốc chính: Một là nguồn gốc âm bật hơi, một nguồn gốc là âm sát (3). ở đây, chúng ta thấy cụ thể có hiện tượng s'- chuyển thành th-. Vì vậy, việc dùng chữ Hán có phụ âm đầu s- để ghi âm Nôm th- là thể hiện chữ Nôm còn giữ dấu vết của âm Việt cổ.

5. Hiện tượng hữu thanh hoá:

Ở tiếng Việt có quá trình hữu thanh hoá k > g' thì chữ Nôm ở đây cũng phản ánh điều đó.

Ví dụ: Chữ Nôm gạo * được cấu tạo bởi hai thành tố: Bộ mễ * ghi ý và chữ cáo * ghi âm. Từ này xuất hiện ở câu:

- "Cho có một thăng một cáp gạo thổi no chưng dạ nghìn quân" (TBTKML/III - XIII - tờ 38a - đd4).

Hoặc từ Nôm "gang" được ghi bằng chữ Hán Việt "cang". Từ này được thấy ở câu:

- "Song gang thước chốn tiên ở chưa từng đi lại" (TBTKML - III - tờ 38b - đd6)

Hay từ Nôm "ghen *" được cấu tạo bởi hai thành tố: bộ "tâm *" ghi ý và chữ "kiên *" ghi âm. Từ này xuất hiện ở câu:

- "Thửa phu nhân chửa có con mà hay ghen " (TBTKML/II - VII - tờ 20b - đd5).

6. Hiện tượng tổ phụ âm đầu:

Đặc biệt trong văn bản TBTKML còn có chữ Nôm phản ánh tổ hợp phụ âm đầu bl- , kl- .

Tổ hợp phụ âm bl-, như chữ Nôm trăng * gồm có hai chữ Hán: "ba * " và "lăng *" ghi âm; chữ "nguyệt *" (trăng) ghi ý. Từ này xuất hiện ở các câu:

- "Đủ nghiệp sống chưng búa trăng rìu gió" (TBTKML/ III - XII - tờ 22b - gd7).

hay: -"Thời ấy trăng sáng sao nhạt" (TBTKML / III - XI - tờ 1b - cd8).

Và tổ hợp phụ âm kl như chữ Nôm "sang *" được cấu tạo bằng hai thành tố đầu ghi âm: "* cự" và "* lang - klang - sang". Từ này xuất hiện ở câu:

- "Tiếng sang tan đã lâu" (TBTKML - V - tờ 75a - đd8).

Hay:-"Bèn lên chưng chức sang vậy" (TBTKML - IV - 51b - dd).

Hoặc: -"Phúc mà sang chưng người Sầm Lâu" (TBTKML/II - XII - tờ 26a - đd2)

Đấy là những trường hợp chữ Nôm trong TBTKML đã phản ánh rất rõ dấu ấn của phụ âm đầu tiếng Việt cổ.

II. Chữ Nôm phản ánh phụ âm đầu Hán Việt cổ .

Như ta đã biết, khi tiếng Hán chuyển sang tiếng Việt, lẻ tẻ có những trường hợp vần giữ nguyên âm đọc ở thời thượng cổ. Chính vì lẽ đó, cho nên có những trường hợp chúng ta tưởng là từ đó chỉ đơn thuần được đọc theo nghĩa mà không thấy được là nó đã bắt nguồn từ âm Hán Việt cổ. Khi tiếng Hán chuyển sang tiếng Việt thì trong bản thân nó cũng đang từng bước trên đường phân tách: âm môi môi ra âm môi răng; âm đầu lưỡi ra âm mặt lưỡi ... Cho nên trong chữ Nôm của văn bản này, mới có các trường hợp sau:

1. Dùng phụ âm đầu Hán Việt ph- để ghi âm đầu Nôm b-

- Chữ hán Việt là "phàm *" ghi âm đọc Nôm là "buồn". Từ này xuất hiện ở câu:

- "Xảy trong nửa bữa ăn một sức buồm gió như vậy" (TBTKML / III -XI- tờ 2b - gd7).

Hay:- "Một buồm gió một thuyền lá" (TBTKML / II - IX - tờ 54a - dd7)

Nhưng ngược lại, chính "buồm" là âm Việt cổ của "phàm". Vì ở thời Tiên Tần Lưỡng Hán hai phụ âm b- , f- và ph- còn

nhập làm một, và mãi khoảng cuối đời Đường mới có hiện tượng chia tách b- và ph- . Về hiện tượng biến đổi này Tiền Đại Hân, nhà Cổ âm học đời Thanh đã đưa ra nhiều dẫn chứng như:

Phục Hy tức là Bào Hy
Phù Phục tức là Bồ Bặc
Phụ Lâu tức là Bộ Lâu ...

Qua nghiên cứu, Giáo sư Vương Lực cũng đã khẳng định "buồm" là âm cổ của "phàm" (4)

2. Dùng phụ âm đầu Hán Việt v để ghi phụ âm đầu Nôm m-

Như chữ "vụ" ghi âm đọc Nôm "mùa". Từ này xuất hiện trong câu:

- "Sự ấy nửa mùa mà thôi" (TBTKML - V - tờ 71b - gd6)

Và tương tự như trên, chính "mùa" là âm Hán Việt cổ của "vụ".

3. Dùng phụ âm đầu Hán Việt tr- ghi phụ âm đầu Nôm đ-

Trường hợp chữ Hán Việt "trì *" ghi âm đọc Nôm là "Đìa". Từ này xuất hiện ở câu:

- "Thiếp thửa mặc đầm đìa lâu ngày, thiếu một chốc thác như nàng Lục Châu" (TBTKML/III - XIV - tờ 56a - đd4).

Hay:- "Đầm đìa bệnh ở mình ấy" (TBTKML - II - tờ 22a - đd1)

"Đìa" cũng là âm Hán Việt cổ của "trì".

4. Hoặc chữ Hán Việt "Trọc *" ghi âm đọc Nôm "đục".

Từ này xuất hiện ở nhóm từ "Đời đục":

- "Mình còn ở điện Ngọc mà tòng còn đời đục " (TBTKML/ II - IX - tờ 61a - gd7).

Hay:- " Chưng sao loài nhơ đục dám luông thói lung lăng" (TBTKML / III - XI - tờ 10b - gd4)

Ở đây "đục" cũng là âm Hán Việt cổ của "trọc".

5. Dùng phụ âm đầu Hán Việt nh- ghi phụ âm đầu Nôm ng- :

Chữ Hán Việt là "nha *" ghi âm đọc Nôm "ngà". Từ này xuất hiện ở câu:

- "Nghiêng mình nhịn cười qua giường ngà" (TBTKML/IV - XIX - tờ 41b - dd4)

"Ngà" là âm Hán Việt cổ của "nha".

Tóm lại, các từ "mùa", "đìa", "đục", "ngà" đã được các nhà Hán ngữ học chứng minh và khẳng định đấy là các từ Hán Việt cổ (5). Vì thế ở đây chúng tôi không chứng minh lại nữa.

III. Dấu vết vần Việt cổ và vần Hán Việt cổ :

Nếu đi sâu nghiên cứu về vần chúng ta cũng sẽ thấy chữ Nôm ở TBTKML vần có trường hợp còn giữ được dấu vết vần Việt cổ. Chẳng hạn, dùng chữ Hán Việt "ni *" ghi âm đọc Nôm "này", từ này xuất hiện ở các câu:

- "Hội này ắt để truyền sự tốt".

Hay:- " Chửa ai có chước lạ mưu thẳm vì dân này lo vậy" (TBTKML / III - XII - tờ 29b - đd3).

Hoặc: -"Ngươi yêu thì lại về phiền vì cư sĩ này tạ đấy" (TBTKML / III- XII- tờ 29b- dd5).

Trong trường hợp dùng chữ Hán Việt "lã *" để ghi âm đọc Nôm "lửa". ở TBTKML chữ "lửa *" cũng được cấu tạo bởi hai thành tố: Bộ "* hỏa" ghi ý và chữ "lã *" ghi âm. Từ "lửa" này cũng xuất hiện nhiều lần trong văn bản, chẳng hạn như các câu:

- "Như lửa kíp mau làm" (TBTKML - III - tờ 43a - dd2).

Hay: -"Hoặc đuổi chưng tinh thổi lửa " (TBTKML / III - XI - tờ 8b - đd2).

Hoặc:- "Liền năm binh lửa đốt cháy hầu hết" (TBTKML / III - XIII - tờ 33a - gd5).

Dựa vào các cứ liệu phương ngôn, chúng ta thấy các từ "này", "lửa" vẫn còn dấu vết ở các vùng phương ngôn khu IV và Việt Mường, chúng ta đọc là "ni", "lả" như ở cụm từ: "cơm nác, củi lả", hay ở câu ca dao:

"Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông !"

Chính điều này chứng minh rằng những chữ Nôm ở đây còn giữ dấu vết vần Việt cổ.

Ở TBTKML, chữ Nôm chẳng những giữ dấu vết vần Việt cổ mà còn lưu lại vần Hán Việt cổ.

Các nhà Hán ngữ học đã từng chứng minh các vần: im - ip là vần Hán Việt cổ của -âm, -ấp. (6)

Qua âm đọc Nôm, chúng ta lại thấy ở TBTKML cũng sử dụng các vần như thế. Các chữ Hán Việt có vần -âm, -ấp ghi âm đọc Nôm có vần -im, -íp thể hiện dấu vết của âm đọc Hán Việt cổ trong chữ Nôm của tác phẩm. Đó là những trường hợp sau:

1. Dùng chữ Hán Việt: "tầm *" để ghi âm đọc Nôm "tìm". Thí dụ:

- "Há khó lấy chưng cố tìm hạt châu mà lây chưng hàm rồng đen vậy thay" (TBTKML - XIV - tờ 56a - gd1).

Hay:-"Xe ngọc chốn nào tìm người cưỡi xe loan" (TBTKML - XIX - tờ 43b - gd2)

2. Dùng từ Hán Việt "trầm * " để ghi âm đọc Nôm "chìm".

Từ này thấy ở một số câu như:

-"Người phải sóng dục sông đắm mê chìm đến thế ấy" (TBTKML -IV- tờ 53a- dd4).

Hay:-"Chúng mày chìm đắm, nghiệp chướng chỉn lắm" (TBTKML-IV-tờ 57b - gd8)

3. Dùng chữ Hán Việt "cấp *" ghi âm đọc Nôm "kíp".

Từ này cũng xuất hiện khá nhiều, ví dụ như câu:

- "Kíp dậy làm chia" (TBTKML - II - tờ 31a - gd2).

Hay: -"Kíp hơi người cầm sào" (TBTKML - IV - tờ 57b - dd4).

Hoặc: -"Kíp tới vây bắt đòi mắt thửa ổ" (TBTKML / III - XIII - tờ 34a - cd6).

4. Dùng từ Hán Việt "cập *" ghi âm đọc Nôm "kịp".

Từ này cũng xuất hiện ở các câu:

-"Bồi hồi muốn trở lại đã chẳng kịp vậy" (TBTKML/III - XII - tờ 17a - dd5).

Hay: "Thửa người ấy liệu chẳng được khỏi càng kịp nghe đòi" (TBTKML / III - XIII - tờ 37a - đd6)

Như vậy các từ Nôm "tìm", "chìm", "kíp", là từ Hán Việt "tầm", "trầm", "cấp", "cập".

IV. Vấn đề chữ Nôm ghi âm cổ ở TBTKML .

Điểm qua vài nét về âm cổ trong tác phẩm chúng tôi lại thấy có chữ Nôm ghi âm cổ đã xuất hiện ở Quốc âm thi tậ p thì nay đến TBTKML vẫn giữ nguyên không thay đổi. Về vấn đề này, Giáo sư Vương Lực (7) đã chứng minh :

Từ "bia" là âm Hán Việt cổ của từ Hán Việt "bi *"

Từ "lìa" là âm Hán Việt cổ của từ Hán Việt "ly *"

Từ "tựa" là âm Hán Việt cổ của từ Hán Việt "tự *"

Từ "chuông" là âm Hán Việt cổ của từ Hán Việt "chung *".

Nếu đem so sánh đối chiếu hai văn bản Quốc âm thi tậ p và TBTKML, chúng ta thấy cách viết của các từ ấy hoàn toàn giống nhau:

Bia * : - "Bia Ngụy Trưng Cao, há nối tông?" (QA.130)

- "Kẻ xưa nay lại quan khanh tướng, đá bia rêu phủ" (TBTKML / III - XII - tờ 16b - dd1)

Lìa * : -"Lửng thửng chia lìa dưới trần" (QA.33)

- "Hai người lấy rằng cách lìa ngày đã lâu" (TBTKML - II - tờ 24b - gd1)

Hay: -"Lìa chia là sự thường thác cũng nào khôn" (TBTKML - II - tờ 26b - gd7)

Tựa *: - "Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy" (QA.2)

- "Thửa dạng chữ tựa ngươi Lựu, ngươi Tư chủng thích viết" (TBTKML / III - XII - tờ 30b - dd4)

Chuông * : - "Rang rảng người rằng chuông ấy thanh" (QA.61)

- "ở thì có chuông hoa linh ngừa gác". (TBTKML - IV - 52a - dd6).

Có thể nói qua việc nghiên cứu các âm cổ còn lưu lại trong chữ Nôm ở tác phẩm TBTKML, chúng ta có thể biết được chữ Nôm cổ ở hai tác phẩm Quốc âm thi tập và TBTKML là không có sự khác biệt lắm. Tác phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ra đời ở thế kỷ XV, nhưng văn bản do người đời sau chép lại. Cho nên về mặt chữ Nôm cổ rất gần với TBTKML.

Kết quả nghiên cứu này phần nào giúp chúng ta làm sáng tỏ thời kỳ xuất hiện văn bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú.

Người biên tập: Nguyễn Tá Nhí

CHÚ THÍCH

(1) Lê văn Quán - Nghiên cứu về chữ Nôm. Nxb. KHXH. H. 1981, tr.100-101.

Nguyễn Tài Cẩn - Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo dục 1995, tr.58-62.

(2) (3). Nguyễn Tài Cẩn, Sđd, tr. 63.

(4). Vương Lực - Hán ngữ sử luận văn tập - Bắc Kinh 1958, tr. 363.

(5). Vương Lực - Hán ngữ sử luận văn tập, Bắc Kinh.1958, tr. 383-390. Bernhard Karlgren "Etudes sur la phonologie chinoise" Goteberg 1926.

(6). La Thường Bồi, Chu Tổ Mô: Hán Ngụy Tấn Nam Bắc triều vận bộ diễn biến nghiên cứu - Khoa học xuất bản xã, 1958, tr.54.

(7). Vương Lực - Hán Ngữ sử luận văn tập. Bắc Kinh. 1958, tr.383.

TB

THỬ TÌM HIỂU
TÊN CHÚA NGUYỄN ĐỜI THỨ NĂM

ĐOÀN KHOÁCH

Trong khi sưu tập và giới thiệu thơ văn các chúa Nguyễn, chúng tôi có dịp tìm hiểu thêm về tiểu sử các vị chúa này. Điều làm chúng tôi phải suy nghĩ là sự bất nhất của các sử sách trong việc ghi chép tên chúa Nguyễn đời thứ năm mà đương thời gọi là chúa Nghĩa. Sử sách trước đây hầu hết viết bằng chữ Hán. Bộ Việt sử đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ là Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim đã ghi tên vị chúa này là "Hoằng Quốc Công Nguyễn Phúc Trăn 阮 福 溱 (1687 - 1691) truy tôn là Anh Tông Hiếu nghĩa Hoàng đế, đương thời gọi là chúa Nghĩa..."(1). Trong khi đó, các bản Hệ phổ của họ Nguyễn Phước bằng quốc văn do con cháu trong các Hệ cất giữ mà chúng tôi đã tham khảo được thì lại ghi khác. Hoằng Quốc Công là Nguyễn Phúc Thái, còn Trăn là tên của Cương Quận Công, em cùng cha cùng mẹ với chúa Nghĩa(2).

Vậy Hoằng Quốc Công được truy tôn là Anh tông Hiếu nghĩa Hoàng đế tên thật là "Trăn" hay là "Thái" ?

Thông thường thì tài liệu của các Hệ phổ c ó một độ tin cậy cao, vì Hệ phổ do các vị tư giáo sung làm tộc trưởng các Hệ, là người có trách nhiệm ghi chép, khai báo và sao lục từ Tôn phổ cho từng Hệ. Có điều, mấy bản Hệ phổ trên đây mới chỉ là bản dịch ra chữ Quốc ngữ chứ chưa phải là bản chữ Hán. Trong khi đó, bộ Sử lược của họ Trần lại được học giới tín nhiệm học hỏi và tham khảo. Cứ xem những bộ Việt sử sau đó như Việt sử khảo lược của Tôn Thất Dương Kỵ, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang, Việt sử toàn thư của Phạm Văn Sơn, cho đến phần chú thích trong các bản dịch Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục tiền biên , cũng đều chép tên chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Trăn giống như sách của họ Trần(3). Cũng nên biết thêm, trước đó, vào năm 1914, trong Bulletin de l'Ecole Francaise d'Extrême Orient và trong Bulletin des Amis du Vieux Huế cũng đã ghi gần gần như thế(4). Do đó trong bài này, chúng tôi muốn xác minh cho đúng tên húy của vị chúa Nguyễn thứ năm.

1. Tên "Trăn" và "Thái" bằng chữ Hán viết như thế nào ?

Cả hai chữ Thái 溙 và Trăn 溱 đều có trong Khang Hy Tự Điển, đều thuộc bộ Thủy氵. Ngoài hình bên trái là bộ Thủy氵, hình bên phải của hai chữ hơi giống nhau nhưng âm lại khác hẳn, một chữ là Thái 泰 phần bên dưới là chữ Thủy 水 , còn một chữ là Tần 秦 thì phần bên dưới là chữ Hòa 禾 . Hình chữ hơi giống nhau này có thể làm cho người kém thận trọng dễ nhìn nhầm mà phiên âm "Trăn" thành "Thái" hoặc "Thái" thành "Trăn" chăng ? Có điều nếu nhầm là nhầm hai tên của một người. Nhưng ở bản Hệ phổ của họ Nguyễn Phước lại chép hai tên là của hai người riêng biệt. Vậy ở đây ai tên là "Trăn" và ai tên là "Thái" ?

Theo sự tìm hiểu của ông Nguyễn Phúc Lôi là hậu duệ đời thứ chín của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, thì Thần chủ thờ các chúa Nguyễn trước đây có ghi rõ tên tuổi, đã bị thất lạc trong chính biến năm Giáp Ngọ (1774). Từ thời Gia Long về sau các chúa được truy tôn, tên tuổi được ghi chép vào các Long vị để thờ trong Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu và Thế miếu. Tất cả miếu hiệu ở các Long vị đều được chép thành sách Miếu húy chư tôn tự để thờ trong điện Phụng Tiên.

Ngọc phổ nói chung là phổ hệ của dòng họ Nguyễn Phúc gồm có Ngọc điệp ghi chép dòng dõi tên tuổi các vua chúa triều Nguyễn và Tôn phổ ghi chép tên tất cả bà con trong hoàng tộc nhà Nguyễn. Trước đây, việc biên tu Ngọc điệp Tôn phổ cứ hai năm một lần, vào các năm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý do một Ban biên tập gồm có Toản tu, Đằng lục, đúng đầu là một văn quan hàm Chánh Nhị phẩm làm Tổng tài. Ngọc điệp được chép thành hai bản, bản chính cất vào hòm vàng ở điện Càn Thành, bản phụ để vào hòm vàng ở Quốc sử quán. được chép làm ba bản. bản chính dâng vào Đại nội, hai bản phụ thì một để ở Quốc sử quán, một giao cho phủ Tôn nhơn lưu trữ ở Phủ đường để sao thành nhiều bản cho các Hệ cất giữ và theo dõi. Còn các bộ sử như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Hội điển sự lệ..., thì đã được ấn hành tương đối rộng rãi. Gần đây các sử sách đó lại được dịch ra chữ Quốc ngữ để lưu hành.

2. Cách ghi tên các vua chúa triều Nguyễn trong các tài liệu sử sách nói trên:

Cách ghi chép tên các vua chúa triều Nguyễn trong các tài liệu sử sách trên đây không phải hoàn toàn giống nhau. Tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ hoàn cảnh mà cách ghi chép có khác nhau.

Để hiểu thêm vấn đề này, thiết tưởng cũng nên biết qua tục kỵ húy của cha ông mình thời trước. "Nhập gia vấn húy" là thái độ trân trọng trong lối "sử thế tiếp vật" của người xưa. Gặp nhau thường ít gọi thẳng tên, mà chỉ gọi nhau bằng thứ tự trong gia đình, như bác Cả, chú Tư, anh Sáu..., bằng vai vế trong làng xóm, như cụ Hương, bác Lý..., bằng chức tước, khoa hoạn trong xã hội, như cụ Thượng, quan Đốc, cụ Tú, anh Phán.... Con cháu kiêng gọi tên tổ tiên, dân chúng kiêng gọi tên vua chúa là để tỏ lòng kính trọng những người trên trước, mất cũng như còn. Nhưng trong chế độ quân chủ chuyên chế, việc kiêng cữ trở thành điều cấm kỵ, cấm gọi cũng như viết tên vua chúa như lối viết chữ thông thường. Sách Đại Nam hội điển sự lệ có ghi rõ những phép tắc kỵ húy, đại để có những chữ cấm đọc chính âm mà phải đọc trại ra, như "hoàng" phải đọc là "huỳnh", "thái" phải đọc là "thới"..., có những chữ khi viết phải thay bằng chữ khác, như chữ "nhậm" 任 phải thay bằng chữ "dụng" 用, chữ "chủng" 種 phải thay bằng chữ "thực" 植 ..., có những chữ khi viết cần thêm nét 巛 , như chữ "hoa" 華 , chữ "thực" 植 ..., có những chữ cần bớt nét, như chữ "miên" 綿 được viết là *, chữ "tông" 宗 được viết là *..., có những chữ khi viết phải chia ra từng phần, bên trái chữ gì, bên phải chữ gì v.v..., để người đọc tự ghép lại mà nhận ra, như bên trái chữ "hoà" 禾 bên phải chữ "trọng" 重 tức là chữ "chủng" 種 ...(5). Những ai lỡ phạm những nguyên tắc kỵ húy nói trên, tuỳ trường hợp nặng nhẹ phải chịu những hình phạt thích đáng.

Cách chép tên húy này cũng là cách chép trong tập Miếu húy chư tôn tự để thờ ở điện Phụng Tiên, chép lại từ các Long vị ở Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, và Thế miếu. Trường hợp ở Long vị của Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế thờ ở án thứ hai bên hữu trong Thái miếu ghi: "Đế húy tả tòng Thủ氵hữu tòng Thái 泰 " (tên húy của vua: bên trái chữ "Thủy" bên phải chữ "Thái", tức chữ "Thái" 溙).

Tài liệu độc nhất không theo lối tả mặt chữ "bên trái chữ gì, bên phải chữ gì" mà được viết thẳng chữ tên húy các vua chúa triều Nguyễn là Ngọc điệp. Hai bản Ngọc điệp trước đây để trong hòm vàng của điện Càn Thành và tại Quốc sử quán, theo ông Nguyễn Phúc Lôi, hiện nay đều đã bị thất lạc. Tuy nhiên bằng vào sách Tiên nguyên toát yếu phổ của Liên Đình Tôn Thất Hân viết bằng chữ Hán đã căn cứ ở "Ngọc điệp tôn đồ, Thực lục, Liệt truyện, cùng biên bản các nhà để lại...", do Ưng Bình và Ưng Tôn dịch ra Quốc văn(6), thì cũng thấy được đầy đủ tên húy của các chúa Nguyễn, cụ thể như trường hợp Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế "Tên là Phước Thái, lại tên Ngạn, con thứ hai của vua Hiếu Triết, mẹ là Hoàng hậu họ Tống...".

Tóm lại, căn cứ vào: Long vị, sách Miếu húy chư tôn tự, các Dụ trong Đại nam thực lục, sách Tiên nguyên toát yếu phổ, húng ta có thể kết luận:

Chúa Nghĩa (1687-1691) tức Hoằng Quốc Công truy tôn là Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế có tên húy là Thái 溙, Nguyễn Phúc Thái 阮 福 溙(1649-1691).

Còn "Trăn" là tên của ai đây ?

Sách Hoàng triều tôn phổ tiền biên quyển 4 viết về con cháu Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế, đã ghi về bốn hoàng tử đầu như sau:

- Hoàng tử thứ hai tức Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế (xem rõ ở Ngọc điệp),

- Hoàng tử trưởng húy là Diễn 演 , con bà Hoàng Hậu họ Châu, - Hoàng tử thứ ba húy là Trăn 溱 , con bà Hoàng Hậu họ Tống,

- Hoàng tử thứ tư húy là Hiệp 協 , nguyên húy là Thuần 淳 vì trùng Tôn húy phải đổi, con bà Hoàng Hậu họ Châu,

Các sách Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên Tiên nguyên toát yếu phổ cũng đều ghi tương tự như thế. Do đó chúng ta có thể nói được rằng:

Nguyễn Phúc Trăn 阮 福 溱 tước Cương Quận Công là em cùng cha cùng mẹ với chúa Nghĩa.

3. Sự sai khác giữa các tài liệu chữ Hán và các sử sách Quốc văn gần đây:

Từ các tài liệu trích dẫn trên, tưởng cũng nên xem lại chỗ sai khác về điểm nói trên của hai học giả tiền bối Richard Orband và Trần Trọng Kim cùng một số trường hợp rải rác khác.

a/ Richard Orband trong "Les Tombeaux des Nguyễn", tuy ghi đủ bốn hoàng tử đầu con của chúa Hiền là:

1. Diễn 演 appelé aussi Hán 漢

2. Nguyễn Phúc Trăn 阮 福 溱

3. Trăng 溱 appelé aussi Huyền 玄

4. Thuần 淳 nhưng lại có hai điểm khác với những sử liệu của triều Nguyễn nói trên: một là ở số 2 - chữ "Thái " 溙 ghi ra chữ "Trăn" 溱 ; hai là ở số 3 - chữ 溱 ghi là "Trăng" thiết tưởng có phần gượng ép, bởi vì chữ 溱 không phải là một chữ Nôm. Trong các Tự điển có ghi chữ Nôm thì chữ "Trăng" nếu có nghĩa là "mặt trăng, ánh trăng v.v." thì ghi là 斏 hay 筗 hoặc 疩; còn chữ "Trăng" nếu có nghĩa là "trối trăng, đóng trăng, trói trăng" thì ghi là 綾. Hơn nữa nếu đã có chữ 溱 là tên Chúa ở số 2-, thì theo đúng lệ kỵ húy, chữ 溱 ở số 3- phải đổi thành chữ khác, như trường hợp chữ Thuần 淳 ở số 4- phải đổi thành chữ Hiệp 協 như đã ghi trong Tôn phổ.

b/ Còn cụ Trần trong bản "Nguyễn Thị thế phổ" sách Việt Nam sử lược lại ghi chúa Hiền chỉ có ba hoàng tử đầu là: Diễn 演 , Anh Tông Hiếu Nghĩa - Hoằng Quận Công Nguyễn Phúc Trăn 阮 福 溱 và Hiệp 協 . Chưa rõ cụ Trần đã dựa vào những sử liệu nào khác những sử liệu triều Nguyễn nói trên để có quyết định này. Riêng về Anh Tông Hiếu Nghĩa, nếu căn cứ vào hai cuốn Việt sử xưa hơn viết bằng tiếng Pháp mà cụ Trần có ghi trong phần "Những sách soạn giả dùng để kê cứu"(7), chúng ta vẫn thấy chúa Nghĩa tức Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế đều có tên húy là Nguyễn Phước Thới (Phước Thới là ghi âm kỵ húy của Phúc Thái).

Ngoài ra, cái nhầm "Thái" 溙 ra "Trăn" 溱 ở một số nơi trong các bản dịch Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện..., của Viện Sử học, có lẽ hoặc do thiếu cẩn trọng hoặc do sự quá chủ quan của một số dịch giả khi chú thích(8).

Trong khi đó ý hẳn để giúp độc gia đỡ tốn thời giờ về phần sưu tra cần thiết, nên Đại học Khánh ứng ở Nhật Bản, đã cho điền thêm tên các vua chúa nhà Nguyễn vào chỗ trống sau mỗi chữ húy trong các bộ Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện trước khi đem in lại.(9)

Thật ra, tên Chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái và tên người em cùng cha mẹ với Chúa là Cương quận công Nguyễn Phúc Trăn, không phải là chuyện xa lạ chi đối với bà con trong hoàng tộc hằng lưu tâm đến dòng họ. Có điều một sự thật nếu không được trình bày và phổ biến sâu rộng, thì điều nhầm lẫn lúc đầu có thể vô tình được lặp đi lặp lại, lắm lúc dễ trở nên chân lý. Việc tìm hiểu tên húy của chúa Nghĩa ở đây ngoài tình cảm "uống nước nhớ nguồn"của một người Việt tha hương, còn nhằm ở một mức độ nào đó góp phần "trả sự thực quá khứ cho lịch sử ".

San Diego, 6 - 1995.

CHÚ THÍCH

(1) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, I và II, Imprimerie Trung bắc Tân Văn, H. 1920.

(2) - Hệ Phổ: Tài liệu chép tay của ông Tôn Thất Chi ở Hoa Kỳ và tài liệu của ông Tôn Thất Đông ở Việt Nam - Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, tài liệu in của ông Tôn Thất Lôi ở Huế.

(3) - Tôn Thất Dương Kỵ, Việt sử khảo lược, Quyển I, Tiên Hoa, Thuận Hóa, 1960.

- Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư, Thư Lâm ấn thư quán, Sài Gòn, 1960.

- Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Khai Trí, Sài Gòn, 1970.

- Quốc sử quán, Việt sử thông giám cương mục, Viện Sử học Việt Nam biên dịch và chú giải, Tập XVI, Nxb. Sử học, H., tr.1557.

- Quốc sử quán, Đại Nam thực lục tiền biên, tập I, Nxb. Sử học, H., tr.132.

(4)- Richard Orband, "Les tombeaux des Nguyễn", B.E.F.E.O., 1914.

- "Généalogie des Nguyễn avant Gia Long", B.A.V.H., 1914.

(5) Xem Đại Nam Hội điển sự lệ Đại Nam Hội điển sự lệ tục biên, bản dịch của Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1993 (phần tránh chữ húy).

(6) Trích bài "Tự phổ Tiên nguyên toát yếu” trong Tiên nguyên toát yếu phổ (Tiền biên) của Thái tử Thiếu phó, Cần chánh điện Đại học sĩ, Phó Quang quận công, Liên đình Tôn Thái Hân soạn Hán văn và xuất bản năm 1917, được Lễ bộ Thượng thư trí sự là Ưng Bình và Ưng Tôn dịch ra Quốc văn và xuất bản năm 1935. Tác giả và dịch giả đều là những người đức vọng cao nhất trong Hoàng tộc, lại cũng là những học giả, văn thi gia nổi tiếng thời cận đại, có trách nhiệm viết lại lịch sử của chính tổ tiên mình. Các ông đã căn cứ vào những sử liệu căn bản nhất để viết, nên thiết tưởng sách phải có độ tin cậy cao.

(7) - Cours d'Histoire Annamite à l'usage des Ecoles de la Basse Cochinchine par P.J.B. Trương Vĩnh Ký, lère édition, Saigon, Imprimerie du Gouvement, 1877, 2è volume, p.155.

- Alfred Schreiner, Abrégé de l'Histoire d'Annam, Deuxième édition. Revue et Augmente de la période comprise entre 1858 et 1889. Saigon, chez l'Auteur; 37, rue de Bangkok, 1906, p.80.

(8) Ví dụ trong bản dịch Đại Nam thực lục tiền biên, trang 129 đã có đoạn: "Mùa thu, tháng 8, hoàng tử thứ ba là Chưởng Cơ Trăn (lại tên là Huyền) mất, tặng Thuần Tín Công thần hữu quân đô đốc phủ Chưởng phủ sự Thiếu bảo Cương quận công...", như vậy là đã biết hoàng tử thứ ba là Cương quận công Nguyễn Phúc Trăn rồi, thế mà đến trang 132 gặp tên húy người con thứ hai của Thái Tông là Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế, người dịch cũng lại chú là (Phúc Trăn) nữa !

(9) Xem ví dụ trường hợp tên húy của Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế ở nguyên bản in của Quốc sử quán triều Nguyễn (Quyển 6, tờ 1a), đối chiếu với bản in lại của Đại học Khánh Ưng ở Nhật Bản, tr.87./.

TB

VẤN ĐỀ TÁC GIẢ VÀ MẶT ĐÓNG GÓP CỦA "NAM THIÊN TRÂN DỊ TẬP"

TRẦN NGHĨA

Nam Thiên trân dị tập (gọi tắt là Trân dị) không ghi tên tác giả, được biên soạn vào mùa thu năm Đinh Tị, niên hiệu Khải Định 2(1917).

Hiện có một bản viết tay duy nhất (độc bản) về sách này được tàng trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu A.1517. ở Học viện Viễn đông Pháp tại Paris (EFEO) có một bản vi phim (chụp lại bản A.1517) mang ký hiệu MF.1/2/242 (x. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, T.2, Nxb KHXH, 1993, tr.353, mục 2293).

Sách gồm 2 quyển, cộng 173 tờ giấy bản gấp lại, khổ 30 x19 cm. Mỗi tờ được viết lên cả 2 mặt a và b, mặt 9 dòng, dòng 19 chữ, chữ Hán chân phương. Tai sách (thư nhĩ) có đề 4 chữ "Nam Thiên trân dị".

Đầu sách có bài tựa của tác giả. Tiếp đó là Q.1 (Nam Thiên trân dị tập quyển nhất) gồm 70 truyện, rồi đến Q.2 (Nam Thiên trân dị tập quyển nhị) gồm 65 truyện. Dưới mỗi đề mục thường có lời bình luận (bình) của tác giả. Cuối một số truyện còn có lời nhận xét của người sưu tập.

Theo lời tựa tác giả thì tập Trân dị này được biên soạn trên cơ sở bản thảo cũ Công dư tiệp ký (gọi tắt là Tiệp ký) của Vũ Phương Đề. Lý do biên soạn là sách Tiệp ký của họ Vũ bấy giờ chưa được in, nhiều người đời sau đã tự ý biên chép thêm vào đó, có kẻ chia thành loại mục, có kẻ đặt tiêu đề cho các truyện, sách thành ra hỗn tạp, không còn thuần nhất nữa. Giữa các bản sao chép lại thường có hiện tượng chữ nọ sọ chữ kia, vàng thau lẫn lộn, "thật khó mà phân biệt bài nào là do chính tay tác giả viết, bài nào là của đời sau thêm vào, người muốn tìm về bản cổ do vậy không khỏi phân vân". Để góp phần vào việc chỉnh lý văn bản, tác giả Trân dị đã "cố gắng tham duyệt các bản, chỗ nào thấy sai thì chữa lại cho đúng, chỗ nào thấy thiếu và còn sơ lược thì bổ sung vào cho đủ". Vô hình trung Trân dị đã ra đời như là một tập đại thành của các bản Tiệp ký mà tác giả đang có dưới tay vào năm 1917 và như vậy, Trân dị rõ ràng vượt Tiệp ký của Vũ Phương Đề về tầm bao quát cũng như nguồn tư liệu để viết. Có thể nêu một dẫn chứng. Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, theo Phan Huy Chú, nguyên chỉ có một quyển gồm 43 truyện được xếp thành 12 nhóm là: 1. Thế gia; 2. Danh thần; 3. Danh nho; 4. Tiết nghĩa; 5. Chí khí; 6.ác báo; 7.Tiết phụ; 8. Ca nữ; 9. Thần quái; 10.âm phần dương trạch; 11. Danh thắng; 12. Thú loại ( x. Lịch triều hiến chương loại chí, Q.45, Văn tịch chí). Nhưng đến Trân dị, mặc dù người sưu tập nói là "muốn tìm về bản cổ"của họ Vũ (Lời tựa), trên thực tế, vẫn bao quát cả phần Hậu biên, Tục biên, Bổ di v.v. của người đời sau, nghĩa là số truyện đưa vào Trân dị vượt xa số 43 truyện vốn có ở Tiệp ký của Vũ Phương Đề, nếu so sánh về nội dung, ta cũng thấy Trân dị đã viết lại một cách đầy đủ hơn, chính xác hơn, khá hấp dẫn người đọc. ấy là một nét son đáng kể của tác giả tập Trân dị, với tư cách người đến sau, vừa thừa kế, vừa nâng cao thành quả mà các thế hệ trước đã đạt được.

Như trên đã nói, Nam Thiên trân dị tập không ghi tên tác giả. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm, ta vẫn có thể tìm thấy một vài manh mối.

Trước hết là ở Lời bình luận chung quanh các câu chuyện được ghi chép, xuất hiện như những "độc pháp" hoặc "hồi bình" thường thấy ở tiểu thuyểt cổ. Lời bình luận trong Trân dị thường được viết bằng văn xuôi. Nhưng thỉnh thoảng, và đây là điều đáng chú ý, có những câu bình luận được viết bằng thơ từ 2 đến 6 câu, có trầm bổng, có đăng đối... Hiện tượng này xuất hiện ở các bản Tiệp ký bằng chữ Hán mang ký hiệu A.44; A.1893; VHv. 1324; kể cả bản Tiệp ký soạn bằng chữ Nôm Truyện Công dư tiệp ký mang ký hiệu AB. 481. Chỗ khác nhau là nếu ở Trân dị, các câu thơ như trên được dùng làm Lời bình luận cho 1 đề mục, thường là một truyện, thì ở Tiệp ký hay Truyện Công dư tiệp ký lại được dùng làm "hồi mục" cho 2 đề mục độc lập, thường là 2 truyện. Có thể xem bảng đối chiếu sau đây giữa Trân dị, Tiệp ký Truyện Công dư tiệp ký ở một số truyện có "Lời bình luận" hoặc "Hồi mục" tương ứng được soạn bằng thơ:

TT Tên truyện Trân dị Tiệp ký truyện CDTK
1 Mộ Trạch Vũ tộc Phúc ấm điệp trùng khoa hoạn địa, Huân danh hiển hách bắc nam thiên. Tiến sĩ sào phong thủy chung linh, (Truy viễn đường kiều tùng thực tú) Tiến sĩ sào phong thủy chung linh, (Truy viễn đường kiều tùng thực tú)
2 Lệ Kỳ sơn Tự ỷ bán sơn, Sơn thượng hàn than. Chung cổ thùy khấu, Thanh triệt vân đoan. Lệ Kỳ lĩnh cổ chung hiển dị, (Độc Tôn sơn vân vũ tạc yêu)
3 Độc Tôn sơn Bạch trú vân mông, Sơn yêu tạc khiếu. Thám ngọc hữu thần Minh minh diểu diểu (Lệ Kỳ lĩnh cổ chung hiển dị) Độc Tôn sơn vân vũ tạc yêu
4 Phù Tang am Cổ Trâu danh thắng truyền Tang viện, Đông Cứu bi văn kỷ Cúc Pha Phù Tang am Trưởng lão vãng du (Đại Bi tự Bắc nhân sở kiến)
5 Đại Bi tự Đại Bi thiên cổ tự, Tá trụ nhị hàng thuyên (Phù Tang am Trưởng lão vãng du) Đại Bi tự Bắc nhân sở kiến
6 Cao Sơn đại vương Ngã diệc hữu đơn quân tín phủ, Chí Linh linh điện thị y gia. (Trần quốc phụ thế xưng dị thuật) Cao Sơn vương nhân hiệu thần y.
7 Hạ Phi dị nhân Chí đại thôn ngưu thân trác trác, Trầm chu thủ đoạn xu kình ngạc, Thiên công sinh vật tối đa kỳ, An đắc tư mao thiên vạn lạc Hạ Phi dị nhân toàn thuyền khước Bắc binh, (Kim Tông thần miếu hội đề toả Điền quận) Hạ Phi dị nhân toàn thuyền khước Bắc binh, (Kim Tông thần miếu hội đề toả Điền quận)
8 Kiệt Đặc Lễ phi Thiên bảng cư nhiên khuê đoạt cẩm, Địa kiềm quả nhĩ kính phi hương. Lễ phi sinh thông tuệ, Nhất kính chiếu tam thiên.
9 Trung Hàng Vũ tộc Bùi gia cánh tốn Vũ gia hảo, Nhân dữ tranh như thần hữu chân. Cát cục thần lưu Vũ tộc thế thừa tước lộc, (Cựu huyệt thiên táng hàn thê dựng xuất cung tần) Cát cục thần lưu Vũ tộc thế thừa tước lộc, (Cựu huyệt thiên táng hàn thê dựng xuất cung tần)
10 Trâu Canh dương trạch Thần y sơ thị tác dung y, Đới đắc đằng la thử nhất chi; Phú quý quả nhiên như địa khoá, Tín sư hà cố khước nghi sư. Trạch tại thiềm thừ ảnh bạc nghệ nhân đắc nhập vương cung, (Túc tá giao long hình lương tâm mẫu hoạch khai giác lộ) Trạch tại thiềm thừ ảnh bạc nghệ nhân đắc nhập vương cung, (Túc tá giao long hình lương tâm mẫu hoạch khai giác lộ)

Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy có sự trùng hợp lý thú giữa Tiệp Ký Truyện Công dư tiệp ký. Tác giả Truyện Công dư tiệp ký là Vũ Xuân Tiên. Vậy các câu thơ đăng đối xuất hiện như là những "hồi mục" ở Tiệp ký cũng là của Vũ Xuân Tiên. Và điều này đồng thời cũng chỉ báo rằng những câu bình luận soạn bằng thơ ở Trân dị, hay nói rộng ra, toàn bộ tác phẩm Nam Thiên trân dị tập là do Vũ Xuân Tiên soạn.

Nếu so sánh thêm lời tựa sách Trân dị với lời tựa Truyện Công dư tiệp ký, ta lại càng thấy những nhận định trên là có cơ sở. Sau đây là những đoạn văn mang ý tưởng tương đồng giữa hai bài tựa:

TT Lời tựa sách "Trân dị" Lời tựa " Truyện Công dư tiệp ký"
1 Tập Trân dị này được biên soạn trên cơ sở bản thảo cũ sách Tiệp ký Tôi diễn truyện này không dám cậy tài năng gì mà sinh chuyện múa may để mua cười. Chỉ vì tôi đi thiết trướng, khi tan buổi học thì cảch vắng teo, tôi thiết nghĩ chỉ có kết bạn với người cổ nhân, ngôn luận tiếu đàm, thực cũng riêng một mầu thú vị. Vậy đem chuyện Công dư tiệp ký diễn ra Quốc âm.
2 Những chuyện quý báu nhất ở trời Nam may ra có thể từ trên chiếu mà thấy hết, chẳng phải cất công trèo non vượt biển đi tìm ở đâu xa. Nhân chép thành thiên để cho học trò giảng tập, Nam nhân nam sự họa biết một hai.
3 Còn như việc gọt dũa, nhuận sắc, làm cho sách tinh thuần, không còn tì vết nữa, thì xin chờ ở các bậc tài năng vậy. Còn như nghĩa lý cao xa, văn chương tóm tắt, tôi không dám đương, chỉ mong bậc quân tử đại nhãn lực, đại tư tưởng nhuận sắc thêm ra, thực rày ước mai ao như thế lắm.

Tóm lại, Nam Thiên trân dị tập do Vũ Xuân Tiên soạn. Ông người xã Phú Khê, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương cũ, là Hàn lâm viện trứ tác, từng lĩnh chức Giáo thụ phủ Nho Quan (theo Lời tựa Truyện CDTK).

Đúng như Vũ Xuân Tiên nói, mặt đóng góp đáng quý của Nam Thiên trân dị tậpc là ở chỗ nêu cao cái hay, cái lạ ở chính ngay trên đất nước mình, mà "chẳng phải cất công trèo non vượt biển đi tìm đâu xa".

Dưới đây, chúng tôi xin tạm dịch 3 truyện trong sách Trân dị để bạn đọc có một ý niệm chung về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.

1.Trạng nguyên họ Giáp

(Giáp Trạng nguyên)

Lời bình luận:

Người đàn bà ở Công Luận không hám tích lũy tiền của, mà cam tâm sống nghèo khổ với túp quán tranh bên đường. Trời đã nhìn thấy lòng lành của bà, muốn cho nhà bà phát Trạng nguyên, Tể tướng. Nhưng không có môi giới thì không được. Bởi vậy mới dẫn tới việc một người khách phương Bắc bỏ quên túi vàng để làm nền câu chuyện. Rồi lại dẫn tới việc một người nghèo nhưng phúc đức ở Bát Tràng đến gây mầm mống, về sau sẽ có chỗ sử dụng. Đã sinh ra người, không thể không có người nuôi dạy. Vì thế lại dẫn tới việc một người giầu nhưng từ thiện ở Dĩnh Kế cầm thầy dạy học để mài giũa thành tài. Tuy nhiên, nếu không có dấu tích làm bằng chứng thì vị quan vinh hiển kia làm sao nhìn nhận bà cụ nghèo khổ ? Cho nên khi con bà sinh ra mới có một nốt ruồi ở chân, để một ngày kia mẹ con còn nhận được nhau. Ông trời kể cũng dày công dàn dựng thật ! Mà lại hết sức chu đáo, chặt chẽ nữa là khác. Bày ra mấy mươi năm đào tạo công phu, ấy cũng chỉ vì nhằm đáp lại tấm lòng tốt của bà cụ !

Ông Giáp Hải (1), mẹ người Công Luận, Văn Giang (2), nghèo xác nghèo sơ, dựng một túp quán bên đường bán nước chè độ nhật.

Một hôm có người khách phương Bắc đến quán mẹ ông uống nước, bỏ quên gói vàng. Đi hơn nửa ngày, khách mới quay lại tìm. Mẹ ông mang tất cả chỗ vàng trả lại cho khách. Khách lấy một nửa số vàng biếu bà để tạ ơn, nhưng bà nói:

- Thiếp không bị tiền tài cám dỗ nên mới cô quạnh đói rét như thế này. Thiếp không muốn lấy cái không phải của mình. Thiếp chỉ định giữ cái túi này để trả lại cho bác thôi.

Bà cố từ chối không nhận. Khách rất mực cảm phục đức độ của bà, bèn nói:

- Mộ cụ nhà ta hiện ở đâu ? Tôi xin tìm chọn cho ngôi đất tốt để đền ơn vậy.

Mẹ ông nói:

- Thiếp chẳng có anh em gì, mà năm nay cũng đã ngoài 40 tuổi rồi, dẫu có được ngôi đất tốt, biết bao giờ mới phát ?

Khách nói:

- Nếu xem đất cho cẩn thận, thì dù là gái vẫn phát phúc.

Mẹ ông bèn dẫn khách đến chỗ mộ của cha mình. Khách liền chọn cho ngôi cát địa và dời mộ đến đó. Táng xong, khách dặn rằng:

- Thấy ai gặp nạn, hãy hết lòng cứu giúp, ắt sẽ được báo đền.

Được chừng nửa năm, có người ở xã Bát Tràng đi làm thuê về, vừa tới quán mẹ ông thì gặp mưa to gió lớn. Người ấy xin vào quán tránh mưa. Thấy anh ta quần áo ướt sũng, chân tay run rẩy, mồm cóng gần như không nói được, mẹ ông liền đốt lửa cho sưởi ấm, hồi lâu mới tỉnh lại. Anh lúc này bèn nói rõ nguyên nhân và xin một bữa cơm. Mẹ ông cùng ăn với anh ta. Nhà chỉ có một manh chiếu, thương anh ta cơ hàn, đến lúc ngủ mẹ ông nhường cho anh ta đắp. Đến nửa đêm trời rét quá, mẹ ông không chịu nổi, nhân chui vào chiếu nằm chung với anh ta. Lửa dục bốc lên khó bề ngăn nổi, chỉ trong chốc lát anh ta tắt thở. Mẹ ông cả sợ, bèn kéo xác ra sau quán đào lỗ chôn. Và cũng từ đó mẹ ông có mang.

Qua mấy tháng, người khách phương Bắc ghé thăm. Mẹ ông không giấu giếm, đem câu chuyện vừa qua kể lại hết cho khách nghe, và dẫn khách ra xem chỗ chôn người bất hạnh. Khách nói:

- Đây là ngôi đất tốt. Nếu quả bà có mang, thế nào cũng sinh ra Trạng nguyên, Tể tướng.

Đến ngày, mẹ ông sinh ra ông, tư chất khác thường. Lúc 4, 5 tuổi, ông ra chơi ở bến sông. Bấy giờ có một người xã Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn vừa đi thuyền tới nơi, lén bắt ông đem về nhà nuôi. Mẹ ông tìm mãi không thấy, tưởng ông đã chết đuối, chỉ còn biết gào khóc.

Người ở Dĩnh Kế từ ngày đem ông về, rất đỗi yêu thương, tìm thầy dạy cho học. Ông sắc sảo một cách kỳ lạ, được gọi là thần đồng(3).

Năm 23 tuổi, ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Tuất (1538), niên Đại Chính triều Mạc. Ngày vinh quy, người trong ấp phải phục dịch cực nhọc, những người biết chuyện bảo nhau:

- Người ở đâu tới đây làm khổ cả dân thôn!

Ông nghe được, không hiểu họ nói về gì. Một hôm đi thăm mộ tổ, thấy nơi mai táng không phải là ngôi đất phát, ông rất nghi ngờ, liền hỏi những người thân quen. Có kẻ đã nói thực mọi điều với ông. Ông xót xa đi ngay sang Công Luận dò hỏi. Thấy bên đường có bà cụ rất khốn khổ, ông cho người tới hỏi, cụ kể lại hết đầu đuôi. Nghe cụ nói, ông đoán đây là mẹ đẻ của mình. Ông liền bảo:

- Cụ tuổi già, không ai săn sóc, liệu để ta nuôi dưỡng có được không ?

Bà cụ nói:

- Được đại nhân rủ lòng thương đối với già, thật là tình tử sinh cốt nhục !

Ông bèn đón bà cụ về nhà. Chân ông có nốt ruồi đỏ, một hôm ngồi chơi để lộ ra ngoài. Bà cụ cứ nhìn chằm chằm vào cái nốt ruồi, khiến bọn gia nô phải nhắc nhở. Bà cụ nói:

- Già trước đây sinh một cậu con trai cũng có cái nốt ruồi hệt như quan lớn, lòng già thấy xúc động, bất giác cứ dán mắt vào cái nốt ruồi !

Bọn gia nô đem những lời vừa nghe nói lại với ông. Ông bèn gọi bà cụ đến hỏi cặn kẽ rồi buồn bã nói:

- Con một đời lang bạt, không biết có mẫu thân. Nay mẹ con gặp nhau, âu cũng do trời run rủi.

Từ đó sớm hôm ân cần phụng dưỡng mẹ già.

Được ít lâu, ông sung làm Đề điệu trường thi Hương ở Sơn Nam, ra đề thi hóc hiểm, khiến sĩ tử la ó, xuýt xảy ra chuyện bất trắc. Ông bèn dùng lời dịu ngọt an ủi và thay bằng đề thi khác, trường thi mới trở lại yên tĩnh. Bấy giờ có kẻ tóm được người đầu têu dẫn tới, ông sai lôi ra cổng trường hành quyết. Người kia lấy lý do con một, nài nỉ xin tha và hứa nộp 100 quan tiền để chuộc mạng nhưng ông không chịu, cứ hạ lệnh chém đầu.

Về sau con trai ông là Giáp Lễ đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1568) niên hiệu Sùng Khang, làm quan đến chức Hàn lâm, năm 30 tuổi không đau ốm gì mà lăn đùng ra chết. Rồi bốn người con trai khác và hai người con gái của ông cũng nối nhau qua đời, ông đau buồn khôn xiết. Các thứ phù phép, đồng bóng đều không đem lại hiệu quả, ông cho rằng thầy pháp chỉ dối lừa, nhân tâu xin ngăn cấm. Nhưng chỉ ít lâu, có một đạo sĩ quần áo rách rưới tự xưng là tinh thông phép thuật xin ông cho thử một phen. Ông liền bảo đánh đồng thiếp. Đạo sĩ mời ông ngồi yên nhắm mắt, rồi thư bùa niệm chú. Chỉ trong chốc lát ông ngã soài người ra. Ông thấy sứ giả dẫn ông đến một nơi nhà cửa thâm nghiêm, bên trong đặt ba chiếc ghế xếp, cạnh đó có một bộ phản và một cái cùm mầu đỏ. Ông hỏi đây là đâu, sứ giả đáp:

- Đây là chỗ Diêm Vương. Cái cùm mầu đỏ kia là để đợi Trạng nguyên Dĩnh Kế.

Ông nghe nói thế, vội vàng lui ra. Sứ giả lại dẫn ông đến một nơi có đình râm, gác thuý, cảnh vật đáng yêu. Tại đây Lễ đang cùng một viên quan ngồi đối diện đánh cờ. Thấy ông đến cứ chằm chằm nhìn vào Lễ, viên quan bèn hỏi tại sao giữa ông và Lễ dường như có quyến luyến nhau. Lễ chậm rãi đáp:

Mỗ trước đây, khi còn ở cõi đời từng cư ngụ tại nhà ông ấy hơn 30 năm. Không hiểu sao ông ấy lại giết người vô tội, liền bị quả báo, nên mỗ không lưu trú ở đấy nữa. Nay chợt thấy ông ấy đến, chưa thể quên hết tình xưa.

Ông nghe xong những lời đó tiu nguỷu bước ra. Sứ giả đưa ông về, thì đã chết được một ngày. Sau lúc tỉnh lại ông mới biết đây là món nợ oan gia, thuyết báo ứng của nhà Phật quả không ngoa truyền. Ông lập tức sai người đi gọi thân nhân của anh học trò Sơn Nam bị chết ngày trước đó trao cho 100 quan tiền để làm chay giải oan, từ đó nhà ông mới được yên ổn.

Ông 5 lần đỗ đạt (4), 3 lần nắm ấn quan to. Lúc gần 60 tuổi mộng thấy làm tờ biểu xin trí sĩ, lúc tỉnh dậy chỉ còn nhớ mỗi một câu :

U kính ư trung duy cầu thần đạo sở chỉ chi địa,
Nhi tác nhi tức nguyện an đế lực hà hữu chi thiên.

Nghĩa là:

Nào kính nào trung, giữ đạo bề tôi, một niềm son sắt;
Dù làm dù nghỉ, mong yên ngôi chúa, chẳng chút tư riêng.

Mười năm sau, ông từ chân Lại bộ Thượng thư, Thái bảo, Sách quốc công về trí sĩ, quả đúng như trong mộng.

Thơ bạn bè lưu tặng ông, có bài như sau:

Ngũ thế vu tư bật thánh minh,
Đồ nhiên ngoạn khái lịch sương tinh.
Xanh trì cảm vị kình thiên lực,
Tinh bạch duy chiêu quán nhật thành.
Nhất đức võng cư Â n tướng sớ,
Tứ lưu bất tận Tống tham minh.
Kiều tùng tuế nguyệt huân hoa đán,
Tượng thái bình thân khai thái bình,

(Tiến thoái cách)(5)

Dịch thơ:

Giúp Mạc năm đời những thánh minh,
Bỗng dưng chuyển ý chán công danh.
Góc trời chống đỡ bao tâm lực,
Vừng nhật xuyên ngang một tấm thành.
Giữ đức không sờn dâng bản sớ (6),
Roi truyền bất tận để bài minh(7)
Tùng cao năm tháng hoa thơm ngát,
Cảnh đấy người đây hội thái bình.

Trướng mừng ông có câu:

Trạng đầu, Tể tướng, đẩu nam tuấn;
Quốc lão, đế sư, thiên hạ tôn.

Nghĩa là:

Trạng nguyên, Tể tướng, trang tuấn kiệt ở cõi đời;
Quốc lão, thầy vua, bậc tôn vinh trong thiên hạ(8).

Ông mất năm 81 tuổi. Sinh thời ông từng nhận xã Bát Tràng làm quê cha đất tổ của mình.Đền tiên hiền huyện Gia Lâm ghi tên ông vào danh mục thờ cúng. Về sau Nguyễn Mậu Thịnh (9) lấy cớ ông người Dĩnh Kế, lại ra làm quan với nhà Mạc, bàn nên thôi đừng cúng giỗ ông nữa.Thế là ngay đêm hôm ấy, Thịnh mộng thấy ông bảo :

- Ta tội tình chi mà gạt bỏ tên ta ? Chớ cậy sinh sau mà khinh suất xúc phạm đến thế hệ trước, rồi sẽ bị quả báo cho mà xem!

Lúc tỉnh dậy, Thịnh sợ hãi, bèn bỏ ý định trên. Nay trong danh mục thờ cúng ở Gia Lâm vẫn còn để tên ông, mà xã Bát Tràng thì cũng xuân thu tế tự (10).

Chú thích:

(1) Nguyên chú :"Sau đổi là Trừng"

(2) Văn Giang: tên huyện, nay là một phần huyện Mỹ Văn và huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng.

(3) Nguyên chú: "Có lần ông thầy ra đầu đề "ba tiêu"để học trò tập làm thơ. Ông cũng muốn bắt chước làm thơ cùng các anh lớn tuổi, khốn nỗi mới học khai tâm, chưa biết dùng chữ gì để làm. Ông bèn hỏi người bên cạnh: "Tiếng ngắn, tiếng dài dùng chữ gì ?"Người kia viết chữ "sảo"(hơi hơi) và chữ "trường" (dài), "đoản" (ngắn) đưa cho ông xem. Thế là ông chắp lại, thành bài : "Sảo trường sảo đoản, đoản sảo trường, v.v. "Ông thầy thấy lạ, bèn nói: "Tứ thơ về Ba tiêu, các anh đều thua cậu bé này. Chỉ quanh quẩn 3 chữ mà nói được hết những ý cần nói về cây chuối ! Cậu ta lớn lên, chắc sẽ nổi tiếng văn chương trong thiên hạ".

(4) Nguyên văn: "Công ngũ tiễn đẩu giai * * * * * " chưa rõ nghĩa gì, tạm dịch như trên, chờ tra cứu thêm.

(5) Tiến thoái cách: một cách dùng vần trong thơ luật, còn gọi là "tiến thoái vận". Câu 2 và câu 6 dùng vần A chẳng hạn, thì câu 4 và câu 8 lại dùng một vần B nào đó có thể hiệp được với vần A, tức bàng vận. ở bài thơ trên, A là vần inh, B là vần anh.

(6) Nguyên văn: "Â n tướng sớ = bài sớ của Tể tướng đời Ân", chưa rõ điển gì.

(7) Nguyên văn: "Tống Tham minh = Bài minh của Tham quân đời Tống", cũng chưa rõ điển gì.

(8) Nguyên chú : "Bài thơ Phó Kinh Lưu giản như sau: "Cống trực ngu biểu quý bất tài, Minh thời đắc tạ miễn triều sai. Khê Đô cung trướng quan trâm diệu, Đường luật mỹ chương cẩm ngọc giai. Tức hạ tiếp thừa tri hữu hạnh, Tình thâm chiêm ngưỡng cảm vô nhai. Thái bình khang tế chư hiền lực, Tứ tự nhàn niên hưởng phúc hài"(Vụng dại lời ngay thẹn bất tài, Minh thời mừng được khỏi đeo đai. Khê Đô màn trướng ngời trâm mão, Đường luật gấm thêu ắp những bài. Gánh nặng trao đưa may dịp tới, Tình sâu chiêm ngưỡng rộn lòng thay. Thái bình yên ấm nhờ chư vị, Nhàn nhã tư mùa chút phút lây).

(9) Nguyên chú: "Người Kim Sơn, đậu Tiến sĩ khoa Tân Mùi".

(10) Nguyên chú : "Ông trước thuật khá nhiều, nay chỉ còn thấy các tác phẩm như Cao lâu tì bà ký và Tạ sĩ biểu, cùng các bài văn bia Kim Khê, Ngọc Kiều. Ông còn biên soạn các sách Thuận minh, Cổ kim bang giao nay vẫn lưu hành"

2. Ngự sử họ Nguyễn

(Nguyễn Ngự sử)

Lời bình luận:

Viên thổ hào nhiều lần thắng kiện, đến tay ông xử lại thua kiện. Ông thật là người thanh liêm chính trực. Điều này khiến người thua kiện đã đón ông về nhà, ca ngợi ông, kính trọng ông. Sự ngay thẳng của ông đã đi vào lòng người, không bị mai một là như vậy.

Nguyễn Mậu là người xã Du La, huyện Thanh Hà(1), đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) niên hiệu Cảnh Thống (1498-1504).

Ông làm quan thanh liêm, chính trực, giỏi phát hiện vấn đề, nhân dân không ai bị oan khuất. Có một viên thổ hào hay kiện tụng với người làng ông, lần nào y cũng thắng kiện. Nhưng khi đến tay ông xử, ông độc cho y thua kiện, kiện tụng từ đó chấm dứt.

Sau việc triều chính ngày một hỗn loạn, ông không thích làm quan nữa, xin từ chức về quê. Bấy giờ giặc cướp hoành hành, đường sá bị ngáng trở, ông vẫn áo mão dù lọng đàng hoàng mà lên đường, không sợ gì cả.

Lúc về đến vùng Gia Lâm, thấy có một tốp binh mã đón đường. Ông ngước mắt trông, kẻ cầm đầu hoá ra là viên thổ hào ngày nọ. Những người theo hầu ông đều đưa mắt nhìn nhau, không biết đối phó ra sao. Viên thổ hào tiến đến trước mặt mời ông vào nhà y chơi. Ông bất đắc dĩ phải nhận lời. Vào đến nhà, thấy bàn ghế xếp đặt ngay ngắn, sạch sẽ. Trên bàn bày một con lợn chín cùng xôi rượu. Ông cảm thấy bị bất ngờ. Khi chủ khách ngồi đâu vào đấy, viên thổ hào gọi ba người vợ của mình ra chào khách, rồi nói :

- Ngày nay, chỉ có ngài là xứng đáng làm quan thôi ! Bộc(2) ở thôn quê, nghe nói quan lại triều đình đếu trong sạch, ngay thẳng nên cố tình gây ra một số vụ kiện rồi đi hối lộ các nơi để xem sao. Kết quả, tuy bộc chẳng có lý lẽ gì mà vẫn được các quan kia xử cho thắng kiện. Chỉ có ngài là không ăn hối lộ và phân biệt được phải trái, nên bộc rất kính phục. Hôm nay đón ngài về đây là để tỏ lòng biết ơn !

Ông cười nói :

- Tôi vốn tính ngay thẳng, không ưa thiên lệch(3). Khanh hiểu được điều đó, tôi rất cảm ơn !

Viên thổ hào giữ ông ở lại một đêm, ân cần khoản đãi, sáng hôm sau sai 100 gia nhân đưa ông về quê.

Sau, Mạc Đăng Dung được nhường ngôi, cho ông là một viên quan cũ thanh liêm nổi tiếng, nên đã bổ nhiệm lại, làm chức Đài trưởng, sau thăng đến Thượng thư(4).

Chú thích:

(1) Nay là thôn Phương La, xã Cẩm Chế, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng. Sách chép ông người huyện Thanh Liêm

(2) Bộc : tiếng khiêm xưng, ngôi thứ nhất.

(3) Nguyên văn : "vô thích mịch", xuất ý từ câu "vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa chi dữ tị = không hậu, không bạc, chỉ lấy lẽ phải làm chuẩn mực"trong thiên Lý nhân, sách Luận ngữ.

(4) Nguyên chú: " Ông được tặng Thái bảo Lễ quận công.

3. Trạng nguyên họ Đào

(Đào Trạng nguyên)

Lời bình luận:

"Gặp gái"là tiếng đùa, "Tiến sĩ thấm tháp gì" lại là lời thật. Ông Cổ Lễ(1) đã cầm chắc hai chữ "Khôi nguyên" trong tay rồi, đâu phải đợi người khác nói ra rồi mới nghiệm !

Đào Sư Tích người huyện Nam Chân. Hôm đi dự khoa thi Hội vào năm Giáp Dần (1374) niên hiệu Long Khánh (1373-1377) đời Trần, ông vừa ra cổng thì gặp một thiếu nữ. Ông xẵng giọng nói:

- Ta đi thi mà gặp gái !

Người thiếu nữ kia vốn thông minh, liền bảo:

- Ông đi thi thì ông đỗ Tiến sĩ, việc gì đến chị em ?

Ông mắng luôn:

- Tiến sĩ thì thấm tháp gì ?

Thiếu nữ nói:

- Không đỗ Tiến sĩ thì đỗ Trạng nguyên vậy, được chưa ?

Ông nói:

- Thế thì được !

Khoa ấy, ông đậu Trạng nguyên thật(2)

Gần đây ở làng Phù Chẩn thuộc huyện Đông Ngạn có một cống sĩ làm bài phú Trấn quốc gia phủ bách tính(3) có câu :

Kham ta, ân thiểu Cao Hoàng,
Nhẫn phụ công đa tướng quốc !

Nghiã là :

Cao Hoàng ban ơn ít sao đang,
Nỡ phụ công to của Tể tướng !

Mọi người đua nhau truyền tụng, gọi cống sĩ là "thánh non". Đến ngày thi Hội, bác lái đò đêm nằm mộng thấy thần nhân mách bảo ngày mai có tân Tiến sĩ qua sông, hãy chuẩn bị sẵn sàng thuyền để đón. Ngày hôm ấy, bác lái đò thấy có cống sĩ tới, liền kể lại cho nghe giấc mộng đêm qua và nói :

- Khoa này anh nhất định đỗ Tiến sĩ !

Cống sĩ mắng bác lái đò một trận rồi nói :

- Tiến sĩ chắc gì đã trúng !

Bác lái đò chẳng hiểu cống sĩ nói gì, đành im lặng. Tiếp đó, lại có một cống sĩ nữa tới. Bác lái đò nói :

- Anh này chẳng biết có giống anh lúc nãy không, bộc vừa mới bị chửi một thôi một hồi !

Rồi đem chuyện vừa xảy ra kể lại cho cống sĩ nghe. Cống sĩ cười và xin sẵn sàng gánh hết. Khoa thi đó quả nhiên anh ta đỗ, còn anh chàng chửi bới kia thì trượt suốt đời.

Lại có một triều sĩ đi cầu mộng, thần bảo cứ về hỏi ngay chị em trong thôn, người ta nói ra điều gì thì đó chính là tiền trình. Triều sĩ liệu chừng chị em thường đốp chát, nếu hỏi họ, cầm chắc chẳng có điều hay. Triều sĩ bèn dùng một kế : vừa gặp một phụ nữ trong thôn, bèn gọi ngay chị ta là "Tiến sĩ". Người phụ nữ kia không hiểu "Tiến sĩ" là gì, giận dữ nói :

- Ông Tiến sĩ không được sao, lại cứ gán cho tôi ?

Triều sĩ nhanh nhảu đáp :

- Vâng, thì để tôi cũng được !

Khoa ấy quả nhiên đỗ Tiến sĩ.

Vậy lời nói há chẳng thiêng sao ?

Chú thích :

(1) Cổ lễ : tên làng, thuộc huyện Nam Chân nay là Thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà.

(2) Nguyên chú: "Từ khi thi Hương đến thi đình, ông đều đỗ đầu, làm quan tới chức Nội hành khiển".

(3) Trấn giữ đất nước, vỗ về trăm họ.

Người biên tập: Nguyễn Văn Bến

TB

TÍNH KẾ THỪA VÀ SÁNG TẠO
TRONG PHƯƠNG PHÁP THƯ MỤC HỌC CỦA
TRẦN VĂN GIÁP (QUA THƯ MỤC TÌM HIỂU KHO SÁCH HÁN NÔM)
*

TRỊNH KIM CHI

Ở nhiều nước trên thế giới người ta đã biên soạn những thư mục dân tộc - hồi cố để phản ánh kho tàng sách phong phú của dân tộc mình trong những giai đoạn lịch sử lâu dài.

Thí dụ:

Ở Anh có sách chỉ nam thư mục về tài liệu Anh của William thomas Lowdes xuất bản năm 1883 gồm các sách hiếm, quý, hữu dụng được xuất bản ở Anh liên quan đến nước Anh và Airơlan từ khi phát minh ra nghề in.

Ở Mỹ có Thư mục Mỹ của Charles Evans xuất bản năm 1941 tập hợp tất cả các ấn phẩm của Mỹ từ 1839 đến 1920.

Ở Đức có Thư mục các tác phẩm của các tác gia Đức nổi tiếng của John Tritheim xuất bản năm 1495.

Ở Pháp có thư mục Tài liệu Pháp thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX của Joseph Marie Querand xuất bản năm 1827 - 1864.

Ở Nga có thư mục Trong rừng sách của N.A. Rubakin phản ánh tất cả các xuất bản phẩm ở Nga trước Cách mạng tháng Mười 1917.

Ở Trung Quốc có bộ thư mục Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu được biên soạn năm 1795 (đời Thanh) thâu tóm toàn bộ sách của Trung Quốc có từ trước đó.

Ở Việt Nam, những thư mục dân tộc đầu tiên là Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú. Sau đó không kể những thư mục của người Pháp soạn về Việt Nam thì Trần Văn Giáp là người thứ ba biên soạn thư mục dân tộc tổng hợp với một quy mô lớn với tác phẩm Tìm hiểu kho sách Hán Nôm xuất bản năm 1971 bao gồm những tác phẩm tiêu biểu của Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX bằng chữ Hán và chữ Nôm.

Khi biên soạn bộ thư mục trên, Trần Văn Giáp đã sử dụng phương pháp thư mục học đặc biệt, đó là phương pháp thư mục học Việt Nam.

Trần Văn Giáp vốn được học nhiều về Hán học, sử học Trung Hoa nên ông rất am tường về phương pháp thư mục học của phương Đông. Ông lại được học khoa thư mục ở Pháp và nắm được phương pháp thư mục học của phương tây. Song khi vận dụng vào thực tiễn biên soạn thư mục, Trần Văn Giáp đã trở về với cội nguồn dân tộc để kế thừa và phát triển nền học thuật của nước nhà.

Nói về tinh thần kế thừa, chính Trần Văn Giáp đã ghi trong bài Mở đầu thư mục của mình: "Soạn tập sách này, chúng tôi lấy hai thiên Kinh tịch chí của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú làm gốc " (Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, T1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội,1971,tr.28).

Trong thực tế Trần Văn Giáp đã nghiên cứu, xử lý toàn bộ số tên sách của hai thư mục cổ cùng với số sách đáng kể ông sưu tầm thêm được. Mặt khác ông đã lọc lấy tất cả những thông tin mà các vị tiền bối đã cung cấp về sách trong thư mục. Đó là những thông tin về tên sách, số tập, số quyển, số tờ, tên tác giả, tiểu sử tác giả, nội dung chính và giá trị tác của phẩm, tình hình biên soạn, công bố tác phẩm... Những thông tin đó thật là quý giá, đặc biệt đối với những sách đã ra đời cách đây hàng mấy trăm năm, giúp ích choa các nhà nghiên cứu ngày nay. Sự kế thừa còn thể hiện rõ ở chỗ: dưới các yếu tố mô tả tác phẩm, Trần Văn Giáp đã chú thích thêm: tác phẩm nằm ở mục nào trong thư mục của Lê Quý Đôn và ở mục nào trong thư mục của Phan Huy Chú để tiện cho người đọc tra cứu, so sánh.

Về việc phân loại sắp xếp trong thư mục Trần Văn Giáp đã sử dụng phương pháp sắp xếp theo nội dung tác phẩm, đó là phương pháp khoa học mà Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú đã làm. Từ đó ông đã xây dựng nên một bộ thư mục có giá trị và độ tin cậy cao.

Cùng với sự kế thừa là sự sáng tạo trong phương pháp thư mục học của Trần Văn Giáp. Chỉ xem xét một số mặt như việc giám định văn bản và về phân loại, sắp xếp tài liệu ta cũng thấy rõ điều này.

Trần Văn Giáp coi mỗi tác phẩm là một đề tài nghiên cứu, do đó ông đã làm việc hết sức tỉ mỉ, cẩn trọng, tìm thấy sự chính xác cao nhất cho các văn bản. Điều này quả là khó khăn bởi vì sách Hán Nôm có đặc tính chung là cũ nát, được nhân bản bằng chép tay hoặc in thủ công, nhiều khi bị "tam sao thất bản", thật giả lẫn lộn, đúng sai khó phân biệt. Để khắc phục điều này. Trần Văn Giáp đã nghiên cứu sau nhiều văn bản khác nhau cùng những tài liệu liên quan đến mỗi tác phẩm, tìm ra những sở cứ cho sự khẳng định của mình. Trong nhiều trường hợp ông đã chính xác hoá được nhiều yếu tố (tác giả, tác phẩm, sự kiện...).

Thí dụ: Qua phân tích nhiều sử liệu ông khẳng định:

- Bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu là bộ chính sử đầu tiên của nước ta còn lại, không như một số người cho sách này "trùng tu" từ tác phẩm trước đó.

- Lam Sơn thực lục do Lê Thái Tổ làm, còn Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Lý Tử cấu là những người được Lê Lợi giao cho việc biên sửa từ Lam Sơn thực lục để hoàn chỉnh tác phẩm này.

- Lê triều thông sử là tên đúng của bộ sử do Lê Quý Đôn biên soạn, không phải là Đại Việt thông sử vì Lê Quý Đôn chỉ soạn sử triều Lê, hơn nữa Phan Huy Chú cũng đã giới thiệu tên sách này trong Nghệ văn chí".

Trần Văn Giáp cũng phân biệt rõ những tác phẩm dễ nhầm lẫn để đồng nhất hoá văn bản cho từng bộ sách. Thí dụ:

- Phân biệt bộ Đại Nam thực lục chính biên không rõ tác giả với Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên) do Sử quán triều Nguyễn biên soạn.

Còn Hoàng triều đại điển của Trương Hán Siêu và Nguyến Trung Ngạn soạn, có sách lại ghi là Trần triều đại điển. Có những tác phẩm lại có nhiều bản khác nhau, Trần Văn Giáp đã giới thiệu từng bản đó.

Thí dụ: Ức Trai tập của Nguyễn Trãi có tới 4 bản, mỗi bản có những chi tiết khác nhau, Đại Việt sử ký toàn thư có 3 bản, mỗi bản có những phần đúng sai, thêm bớt.

Hầu hết các tác phẩm còn được Trần Văn Giáp giới thiệu cấu trúc của nó nội dung chính của từng phần, các bài bạt, bài tựa và nhiều tài liệu, sự kiện liên quan.

Từ đó việc ghi chép, giới thiệu sách của thư mục được Trần Văn Giáp phân thành 3 mảng:

1) Miêu tả sách

2) Nội dung sách

3) Tiểu truyện các tác giả.

Các mảng này Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú cũng làm, song Trần Văn Giáp đã đi sâu, phát triển hơn nhiều. Điều đó khiến người đọc tra cứu được kỹ lưỡng về tác phẩm như đi vào một khu rừng đại ngàn mà được hướng dẫn đầy đủ chi tiết đến từng thân cây, ngọn cỏ.

Về mặt phân loại,sắp xếp tác phẩm ta càng thấy sự độc lập, sáng tạo của Trần Văn Giáp. Như trên đã nói, ông phân loại, sắp xếp tài liệu theo nội dung khoa học của chúng. Và theo cách gọi các môn khoa học hiện nay, các sách trong thư mục được phân thành 8 môn loại:

I - Lịch sử

II -Địa lý

III - Kỹ thuật

IV - ngôn ngữ

V- Văn học

VI - Tôn giáo

VII - Triết học

VIII - Sách tổng hợp

Trong mỗi môn loại lại chia thành các đề mục nhỏ, thí dụ :

Lịch sử có : 1. Lịch sử nói chung
2. Khảo cổ
3. Tổ chức Nhà nước
4. Giáo dục
5. Truyện ký
6. Phả lục

Để thấy rõ cách phân loại sắp xếp của Trần Văn Giáp, ta có thể lập bảng so sánh một số cách phân loại trong các thư mục khác của Việt Nam hoặc về Việt Nam (các thư mục tổng hợp).

Như vậy ta thấy: không giống như tác giả các thư mục trên, Trần Văn Giáp đã xây dựng một bảng phân loại mới cho thư mục. Ông không phân chia sách thành 4 loại như Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú. (Cách chia thành 4 mục tuy có thích hợp với số lượng sách thời đó, song không có các phần chi tiết làm hạn chế độ chính xác khi sắp xếp tài liệu ).

Ông cũng không phân chia sách theo cách phân loại của Tứ khố toàn thư (Trung Quốc cổ) hoặc tứ bộ có mở rộng như Tụ Khuê thư viện tổng mục sách, Lê Thị tích thư ký. Cách này không phu hợp với nội dung sách của Việt Nam. Cách phân chia theo khu vực địa lý như Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục cũng không thích hợp với một thư mục dân tộc tổng hợp.

Trần Văn Giáp cũng không làm như các thư mục của người Pháp biên soạn về Việt Nam. Họ chủ yếu phân loại sắp xếp tài liệu theo hình thức tài liệu và thứ tự chữ cái. Có một vài thư mục sắp xếp tài liệu theo chủ đề song sự xác định chỉ đề cũng chưa thật khoa học. Nnhững cách này cũng không thích hợp với các tài liệu Hán Nôm và thư mục dân tộc.

Ngoài ra Trần Văn Giáp còn xây dựng các bảng tra bổ trợ (bảng tra tên tác giả và bảng tra tổng hợp tên tác giả và tên sách). Đây là điều mà các thư mục dân tộc trước ông đã không làm. Các bảng tra giúp độc giả sử dụng thư mục dễ dàng, đồng thời thể hiện tính khoa học cao của thư mục.

Tóm lại cách trình bày và cấu trúc thư mục Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp không những phát huy được phương pháp thư mục học của dân tộc, mà còn tiếp cận được với phương pháp thư mục học hiện đại.

Trong bối cảnh những năm 6o, hoạt động thư mục ở nước ta chưa phát triển mạnh thì công trình thư mục của Trần Văn Giáp là một bước tiến có ý nghĩa, tạo tiền đề cho những thư mục ra đời phong phú đa dạng từ những năm 70 trở đi.

Ngày nay nhiều thư mục Hán Nôm đã ra đời sau thư mục của Trần Văn Giáp với dung lượng tài liệu lớn hơn, song thư mục Tìm hiểu kho sách Hán Nôm vẫn là cái mốc quan trọng trong lịch sử thư mục học Việt Nam, có giá trị như một nguồn tư liệu văn học sử học Việt Nam, đồng thời có giả trị đặc biệt về phương pháp thư mục học khoa học và thấm đượm tính dân tộc

Người biên tập: Nguyễn Văn Bến.

CHÚ THÍCH

* Bài viết nhân 25 năm ra đời (1971-1996) của Tìm hiểu kho sách Hán Nôm.

SốTT Tên thư mục Tác giả Phương pháp phân loại sắp xếp tài liệu Phân chia đề mục
1 Nghệ văn chí Lê Quý Đôn 4 môn loại 1.Hiến chương loại
2.Thi văn loại
3.Truyện ký loại
4. Phương ký loại
2 Văn tịch chí Phan Huy Chú 4 môn loại 1.Hiến chương loại
2.Kinh sử loại
3.Thi văn loại
4.Truyện ký loại
3 Tụ Khuê thư viện tổng mục sách Tứ khố toàn thư
(Tứ bộ)
1.Kinh
2.Sử
3.Tử
4.Tập và Tây thư
4 Lệ thị tích thư ký Lê Nguyên Trung Tứ khố toàn thư
(Tứ bộ có mở rộng)
1.Kinh
2.Thư
3.Sử
4.Tử
5.Tập
6.Cử nghệ
7.Tạp trứ
5 Hoàng Nguyễn , tứ khố thư mục Lê Trọng Hàm và nhóm Đông thiên hội Khu vực địa lý 1.Thần Kinh (Huế)
2.Bắc Kỳ
3.Trung Kỳ
4.Nam Kỳ
5.Các nữ sĩ
6 Bibliographie Annamite Alphabet Barbie Dubocage I - Sách (A -B -C)
II -Xbp định kỳ
7 Bibliotheca
Indochinica
H. Cordier Đề mục chủ đề 18 đề mục
8 Première Etude Les Saurces Annamites De L Histoire D Annam L.Cadiere et
P. Pelliot
Nét, bộ chữ Hán 58 nét, bộ chữ

TB

GIỚI THIỆU KHO SÁCH THẦN TÍCH TẠI THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Trong Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1989 (trang 40) chúng tôi đã giới thiệu kho sách Tục lệ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong số Tạp chí này, chúng tôi tiếp tục giới thiệu về kho sách thần tích, một mảng tư liệu quý đang được nhiều địa phương, nhiều người quan tâm đến.

Ngay từ thế kỷ 14, 15 Việt điện u linh, Lĩnh nam trích quái là những văn bản mở đầu cho các công trình biên soạn thần thoại dưới hình thức truyền thuyết, dã sử, thần tích, ngọc phả, nhằm biểu dương các vị thần có công cứu giúp sinh linh. Thần thường hiển linh để tỏ rõ uy quyền, thần báo mộng với những điều lành dữ, làm việc phán xét, phân xử, trông chừng sinh hoạt tốt đẹp của nhân dân. Dân chúng đến với thần để cầu đảo, cầu lợi, để tế thần ...

Hình tượng các vị thần được dựng lại qua tư liệu thần tích là hình tượng các vị thần có công giúp dân cứu nước như các bậc vua chúa, tướng tài, dân binh... Hoặc là thần luôn làm việc thiện giúp ích cho muôn người, trừ tai ách, cứu sinh linh khỏi cảnh lầm than, khỏi thiên tai, dịch bệnh... Hoặc giả thần nêu tấm gương sáng về phẩm hạnh đạo đức cho người đời soi rọi như thủ tiết vì chồng, hy sinh thân mình cứu người... Thần đã được các thế hệ dân chúng thờ phụng tưởng nhớ, lớp người sau luôn có tư liệu để nhớ về cội nguồn với các truyền thống tốt đẹp. Còn các nhà nghiên cứu cũng qua tư liệu thần tích khai thác để bổ sung vào các mảng đề tài khoa học cần thiết.

Các nhà nho có công biên soạn sách các thần tích có thể kể tên: Nguyễn Bính, Lê Tung, Đào Cử, Nguyễn Văn Giai. Trong đó hầu hết đều do Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc(1) (1572). Còn Nguyễn Hiền là người sao chép nhiều vào những năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (1735). Có sách được soạn vào những năm đầu niên hiệu Hồng Đức (1470). Sau này học viện Viễn Đông Bác cổ đã tập hợp và sao chép lại thành những bộ sách thần tích riêng như hiện nay. Sách mang ký hiệu AE (là kí hiệu chung cho sách thần tích), các kí hiệu chữ a,b kèm theo các chữ số để biểu thị địa danh các tỉnh, như a6 (tỉnh Hải Dương); a20 (Hải Phòng).

Kho tư liệu thần tích hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm gồm có 568 sách ghi chép sự tích các thần được thờ cúng ở 95 huyện, phủ, châu, thuộc 22 tỉnh phía Bắc từ Nghệ An trở ra (xem bảng thống kê cuối bài viết).

Những nét cơ bản trong mảng tư liệu thần tích kể trên: có 2 loại thần được thờ tự là Nhiên thần và Nhân thần. Chia thành 2 loại Nhiên thần và Nhân thần cũng chỉ là tương đối mà thôi. Rất nhiều Nhiên thần đã được nhân hóa thành Nhân thần mà truyền thuyết và sử sách đã từng ghi như những nhân vật lịch sử thực thụ.

Ngược lại những nhân vật lịch sử thật sự lại được huyền thoại hóa thành vị thần linh có tính cht hoang đường. Sự chuyển hóa lẫn nhau đó khiến ta có thể xem thần tích như những tư liệu vừa có tính cht lịch sử, vừa là huyền thoại hoang đường. Chính vì vậy việc chắt lọc tư liệu qua thần tích phải được xem xét nghiên cứu nghiêm túc. Chẳng vậy mà ta có thể gặp trong các sách thần tích những tình trạng cùng một vị thần mà ghi chép ở nhiều nơi đã thêm bớt khác nhau cả tên tuổi và sự kiện lại cũng có hiện tượng ghi chép về các vị thần khác nhau mà có những đoạn sự kiện lại na ná gần như nhau, nhất là phần mở đầu của các sự tích. Ví như vị thần Cao Sơn đại vương theo thống kê của chúng tôi có tới hơn 100 khác nhau địa danh có ghi sự tích của thần với các tên tước hiệu như: Cao Sơn Cao các đại vương, Cao Sơn Đại vương, Cao Sơn hiển hựu thượng đẳng phúc thần, Cao Sơn linh quang uy chn dũng dược đại vương, Cao Sơn hiển ứng đại vương, Cao Sơn linh không đại vương, Cao Sơn trường hiển đại vương... Như vậy vấn đề đặt ra là có bao nhiêu thần Cao Sơn đại vương và sự kiện nào sẽ là chuẩn xác ứng với thần đó, là vấn đề sẽ phải nghiên cứu. Hoặc ví như sự tích của ỷ Lan phu nhân, có đoạn sự kiện ghi về nguồn gốc xuất xứ của thần gần giống như truyện cổ tích Tấm Cám, chỉ khác là (được mệnh danh là Cám), lại là nhân vật tấm trong chuyện cổ Tấm Cám. Đây là sự chuyển hóa, vay mượn, gán ghép hay là đúng sự thật cũng là vấn đề cần xem xét. Hoặc giả các đoạn chép về hoàn cảnh thần sinh và thần hóa của nhiều thần có những nét tương tự như nhau. Thường là do cha mẹ nằm mộng thấy được trao vật báu, được cưỡi rồng, được gặp thần tiên, gặp sư si, hoặc có rắn, chim nhảy vào thuyền... rồi có mang và đều sinh quý tử. Như Ngọc Hoa công chúa được sinh ra trong hoàn cảnh mẹ bà nằm mộng thấy một ông già tóc bạc giao cho viên ngọc quý và nói rằng: Đây là của quý trời cho, bà sẽ sinh được quý tử đáng bậc phúc thần. Sau bà sinh được một người con gái đẹp đặt tên là Ngọc Hoa. Còn mẹ Quý công và Hiển công thì mộng thấy mình cưỡi rồng vàng bay lên trời nuốt hai ngôi sao vào bụng, sau sinh được hai người con trai sinh đôi là Quý Công và Hiển Công. Cha mẹ Khố Nương công chúa thường đi chùa cầu tự rồi một hôm bà mộng thấy một nhà sư cho Kim quy báu vật, bà nhận về rồi sau có mang. Một bà mẹ gặp một con rắn nhẩy vào thuyền đánh cá của mình rồi sau sinh ra một cái bọc trong suốt như thủy tinh trong đó có một con rắn cuộn tròn đó chính là thần Hổ Mang. Không gian thần ra đời thường là một căn phòng tỏa hương thơm nức, khí lành rạng rỡ, hào quang sáng rực. Hoàn cảnh thần hóa được mô tả bao giờ cũng là cái chết rất nhẹ nhàng, tự nhiên, hòa đồng với trời đất, chết linh thiêng thoải mái, đều rất khác với cái chết đời thường. Hiện tượng thần tượng hóa là phổ biến trong thần tích.

Sự tích các vị thần thuộc loại nhân thần có thể kể là các bậc vua quan, tướng lĩnh anh minh dũng cảm luôn làm yên dân bằng chiến công chống giặc ngoại xâm giữ nước và bằng đức độ cao minh, như Đinh Tiên Hoàng, vua nước Đại Cồ Việt; Lý Nam Đế (tức Lý Bí), vua nước Vạn Xuân; Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục); Trần Hưng Đạo đại vương, Phùng Hưng - Bố Cái đại vương; Thái úy Lý Thường Kiệt; Chiêu Thiền đại vương (tức Trần Khát Chân)... Có thể kể tên rất nhiều và có nhiều địa phương ghi chép thần tích về các ông. Đây cũng là các nhân vật lịch sử nổi tiếng mà ai ai cũng biết đến.

Các nhân thần có những công trạng khác với nhiên thần, như giúp dân mở trường dạy học, truyền bá văn hóa, gây dựng phong tục tập quán tốt đẹp hoặc hy sinh vì nghĩa cả, hoặc nêu cao đạo đức trong sáng cho dân noi theo. Chẳng hạn Chu Văn An, người xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, mở trường dạy học, ở xã Huỳnh Cung và dạy học cho các hoàng tử, công tử trong triều. Tam Trinh đại vương đã có công lập hành cung bên dòng Kim Ngưu trại Mai Động dậy học giúp dân mở mang kiến thức. Chàng trai làng Lệ Mật Gia Lâm có công nhảy xuống sông cứu nàng công chúa thoát chết, được vua ban thưởng cho lập 13 trại ấp quanh Hà Nội ngày nay. Vũ Phục người Phong Châu cùng vợ hy sinh thân mình để chữa bệnh cho vua.

Nhân thần là các vị nữ thần cũng được ghi chép khá nhiều: Khố Nương công chúa, người Hà Nội, cắt tóc giả trai xông trận đánh dẹp giặc Nguyên Mông, và giữ vẹn toàn kho lương của toàn quân. Ngọc Hoa công chúa có công giúp vua Lý dẹp giặc Ma Na. Thụ La công chúa văn chương chữ nghĩa tinh thông, dệt vải thêu hoa đều giỏi, được tuyển vào cung để dạy học và dạy nữ công cho các công chúa và con quan.

Sự tích các vị thần thuộc loại các nhiên thần phần lớn đều đã được nhân hóa nên nhiều khi không còn phân biệt được nhân thần hay nhiên thần như thần sông, thần rùa, rắn, thần đá, thần đt, thần núi...Ví như thần tích thôn Thượng xã Yên Phong viết về gia đình ông Vũ Hồng và bà Nguyễn Thị Kiên ở huyện Giao Thủy phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam. Sau lần nằm mộng thấy có một người từ trên trời xuống tay cầm tờ thi chưởng có 4 câu thơ nói rằng ông bà sẽ sinh được thần rồng. Sau quả nghiệm, trên chiếc thuyền đánh cá sinh nhai, một lần có một con rắn nhảy vào đầu thuyền, sau bà sinh ra rắn. Được nhà vua biết chuyện sai dân đào giếng bỏ vào rồi lập hành cung ở trên giếng đêm ngày trông nom nuôi dưỡng đó chính là thần Hổ Mang. Khi có giặc Thục sang xâmchiếm, thần Hổ Mang đã trở thành chàng trai đường bệ uy nghi, bái tạ vua và được vua sai đi dẹp giặc rồi được phong thần.

Thần thuộc loại nhiên thần xuất hiện không nhiều so với nhân thần.

Trên đây đã giới thiệu vài nét về thần tích thuộc kho kí hiệu AE. Ngoài ra trong số các sách Hán Nôm kí hiệu A, AB, VHv... với số lượng hàng trăm sách có ghi chép thần tích dưới các dạng thế phả, hành trạng, sự tích, thần tích, thánh tích như Từ đại thánh sự tích (A.2825), Giáo Dục xã thần tích (VHv.1231), Cố Lê danh thần phả (A.160)... Trong số các sách có ghi chép thần tích trên đây chắc chắn sẽ có nhiều sự tích các vị thần đã được chép trong sách có kí hiệu AE. Song cũng sẽ có nhiều sự tích chưa được ghi trong các sách có kí hiệu AE, ví như: Trạch Hải đại vương sự tích, ghi trong sách VHv.1229, Kiểu đại vương thượng đẳng thần ghi trong sách A.2625... Nguồn tư liệu thần tích từ các sách ngoài kí hiệu AE sé bổ sung thêm hoặc làm sáng rõ hơn cho nhau để khắc họa hoàn chỉnh chân dung các vị thần.

Trong phạm vi bài viết có tính chất giới thiệu tư liệu, chúng tôi không có điều kiện đi sâu vào nội dung. Chúng tôi có dự định kế hoạch biên soạn giới thiệu bộ "Thư mục thần tích" nhiều tập nhằm tóm tắt nội dung của tất cả các vị thần đã được ghi chép trong các sách thần tích có kí hiệu AE. Trước mắt khi chưa đủ điều kiện làm bộ sách đó chúng tôi đã biên soạn cuốn " Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã "870 trang, với 2821 lượt địa danh làng xã, trong 568 cuốn sách thần tích kí hiệu AE, nhằm giúp bạn đọc tra tìm được những nơi có ghi chép thần tích và biết ở đó đang thờ vị thần nào (Sách sẽ được xuất bản trong năm 1996).

Tóm lại có rất nhiều vấn đề qua mảng tư liệu thần tích có thể nghiên cứu để lý giải và rút ra những kết luận về nhiều khía cạnh có liên quan tới lịch sử, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán... của dân tộc Việt Nam thời xa xưa.

Người biên tập: Nguyễn Văn Nguyên

Bảng thống kê các thần tích hiện còn
(Xếp theo tên tỉnh, huyện)

STT Tên địa danh tỉnh huyện Số lượng Ký hiệu
(1)
1
2
3
4
5

(2)
1
2
3
4
5
6
7
8
9

(3)
1
2
3
4
5
6
7
8
9

(4)
1
2
3
4

(5)
1

(6)
1
2
3
4
5
6
7
8

(7)
1

(8)
1
2
3
4
5
6
7

(9)
1
2
3
4
5

(10)
1
2

(11)
1
2
3
4
5

(12)
1
2
3
4
5

(13)
1
2
3

(14)
1
2
3
4
5
6
7

(15)
1
2

(16)
1

(17)
1
2
3
4
5
6

(18)
1
2
3
4
5
6
7
8
9

(19)
1
2

(20)
1
2

(21)
1

(22)
1
Bắc Giang
Hiệp Hòa huyện
Phất Lộc
Phượng Nhãn
Việt Yên
Yên Dũng

Bắc Ninh
Đông Ngạn
Gia Bình
Gia Lâm
Lương Tài
Quế Dương
Tiên Du
Thuận Thành
Văn Giang
Võ Giàng

Hà Đông
Chương Mỹ
Đan Phượng
Hoàn Long
Phú Xuyên
Sơn Lãng
HoàiĐức
Thanh Oai
Thanh Trì
Thượng Phúc

Hà Nam
Duy Tiên
Kim Bảng
Nam Xương
Thanh Liêm

Hà Nội
Hoàn Long giáp

Hải Dương
Cẩm Giàng
Đông Triều
Gia Lộc
Kim Thành
Thanh Lâm
Thanh Hà
Tứ Kỳ
Vĩnh Lại

Hải Phòng
Hải An

Hưng Yên
Ân Thi
Đông An
Đông An-Kim Động-Phù Cừ
Kim Động
Phù Cừ
Văn Lâm
Yên Mỹ

Kiến An
An Dương
An Lão
Kiến Thụy
Thủy Nguyên
Lạng Sơn

Lạng Sơn
Cao Lộc châu
Văn Uyên châu

Nam Định
Giao Thủy
Hải Hậu
Mỹ Lộc
Trực Ninh
Vụ Bản

Ninh Bình
Gia Khánh
Gia Viễn
Kim Sơn
Yên Khanh
Yên Mỗ

Nghệ An
Diễn Châu
Nghi Lộc
Hưng Nguyên

Phú Thọ
Cẩm Khê
Hạ Hoà
Hạ Trì
Phù Ninh
Sơn Vi
Tam Nông
Thanh Ba

Phúc Yên
Đông Anh
Yên Lãng

Quảng Yên
Yên Hưng

Sơn Tây
Bất Bạt
Phúc Thọ
Tiên Phong
Tùng Thiện
Thạch Nhất
Yên Sơn

Thái Bình
Chân Định
Duyên Hà
Đông Quan
Hưng Nhân
Quỳnh Côi
Thanh Quan
Thần Khê
Thụy Anh
Thư Trì

Thái Nguyên
Phổ Yên phủ
Phú Bình

Thanh Hóa
Đông Sơn
Thọ Xuân

Tuyên Quang
Yên Bình phủ

Vĩnh Yên
Bạch Hạc
24
8
5
4
4
3

30
9
2
1
8
1
6
1
1
1

103
8
5
25
9
12
17
1
11
15

33
14
7
11
1

1
1

27
8
1
3
1
2
7
4
1

3
3

46
2
2
1
1
1
11
28

26
5
3
5
8
5

3
1
2

34
3
6
9
7
9

41
8
8
5
11
9

14
1
4
9

42
8
6
2
8
7
2
8

15
4
11

3
3

29
1
6
6
2
5
9

69
9
7
6
7
6
10
12
1
11

4
3
1

19
10
9

1
1

1
1
AE a14
AE a14/1 đến a14/8
a14/9 đến a14/13
a14/14 đến a14/17
a14/18 đến a14/21
a14/22/ đến a14/24

AE a7
AE a7/1 đến a7/9
a7/10 đến a7/11
a7/12
a7/13 đến a7/20
a7/21
a7/22 đến a7/27
a7/28
a7/29
a7/30

AE a2
AE a2/1 đến a2/8
a2/9 đến a2/13
a2/14 đến a2/38
a2/39 đến a2/47
a2/48 đếna2/58 và a2/102
a2/59 đến a2/74 và a2.103
a2/75
a2/76đến a2/86
a2/87 đến a2/101

AE a13
AE a13/1 đến a13/14
a13/15 đến a13/21
a13/22 đến a13/32
a13/33

AE a1
AE a1/1

AE a6
AE a6/1 đến a6/8
a6/9
a6/10 đến a6/12
a6/13
a6/14 đến a6/15
a6/16 đến a6/22
a6/23 đến a6/26
a6/27

AE a20
AE a20/1 đến a20/3

AE a3
AE a3/1 đến a3/2
a3/3 đến a3/4
a3/5
a3/6
a3/7
a3/8 đến a3/18
a3/19 đến a3/46

AE a12
AE a12/1 đến a12/5
a12/6 đến a12/8
a12/9 đến a12/13
a12/14 đến a12/21
a12/22 đến a12/26

AE a17
AE a17/1
a17/2 đến a17/3

AE a15
AE a15/1 đến a15/3
a15/4 đến a15/9
a15/10 đến a15/18
a15/19 đến a15/25
a15/26 đến a15/34

AE a4
AE a4/1 đến a4/8
a4/9 đến a4/16
a4/17 đến a4/21
a4/22 đến a4/32
a4/33/ đến a4/41

AE b1
AE b1/1
b1/2 đến b1/5
b1/6 đến b1/14

AE a9
AE a9/1 đến 9/8
a9/9 đến a9/14
a9/15 đến a9/16
a9/17 đến a9/24
a9/25 đến a9/31
a9/32 đến a933
a9/34 đến a9/42

AE a11
AE a11/1 đến a11/4
a11/5 đến a11/ 15

AE a19
AE a19/1 đến a19/3

AE a10
AE a10/1 đến
a10/2 đến a10/ 7
a10/8 đến a10/13
a10/14 đến a10/15
a10/16 đến a10/20
a10/21 đến a10/29

AE a5
AE a5/1 đến a5/9
a5/10 đến a5.16
a5/17 đến a5/22
a5/23 đến a5/29
a5/30 đến a5/35
a5/36 đến a5/45
a5/46 đến a5/56
a5/57
a5/58 đến a5/68

AE a18
AE a18/1 đến a18/3
a18/4

AE b2
AE b2/1 đến b2/8 và b2/18 đến b2/19
b2/9 đến b2/14 và b2/15 đến b2/17

AE a16
AE a16/1

AE a8
AE a8/1

TB

SÁCH CÓ NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH HIỆN TÀNG TRỮ TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

LÊ THU HƯƠNG

Gia đình là hạt nhân của xã hội, bởi vậy gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước có quốc pháp, nhà có gia lễ; lễ giúp pháp thực thi có hiệu quả và ngược lại, pháp phải dựa vào lễ để ổn định xã hội.

Gia đình có một vai trò quan trọng như vậy nên việc giáo dục gia đình là vấn đề luôn được đặt ra ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Trong thời gian gần đây vấn đề này càng được chú ý nhiều. Trên báo Nhân Dân (số ra ngày 3-4-1996) có đăng thông báo của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề gia đình ở nước ta. Thông báo nêu rõ “Gia đình là nơi duy trì nòi giống con người, luôn tái tạo ra thế hệ con cháu ngày càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, chuẩn bị hành trang cho cá nhân hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Gia đình giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục con người, bảo tồn văn hóa truyền thống, chống lại các tệ nạn xã hội. Gia đình là yếu tố đảm bảo cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.

Với mục đích phục vụ cuộc vận động nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục gia đình đang được đặt ra một cách bức thiết hiện nay, chúng tôi xin được giới thiệu sơ lược những sách thuộc bài giáo dục gia đình hiện tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm để bạn đọc cùng tham khảo.

Sau đây là bảng thống kê các cuốn sách đó (xếp theo ABC…) có kèm theo kí hiệu xếp giá, niên đại biên soạn, tác giả, tóm tắt nội dung và đặc điểm của sách.

TT TÊN SÁCH KÝ HIỆU NIÊN ĐẠI TÁC GIẢ NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM SÁCH
1 Bùi gia huấn hài VHv364/1-2 (in)
VHv.1832/1-2 (in)
VHv.1245/1-2 (in)
A.2990/1-2 (in)
A.884/1-2 (in)
A.253 (viết tay, viết tay)
1787 Bùi Dương Lịch 2000 câu thơ dạy trẻ em các kiến thức phổ thông về trời đất, con người, sử Trung Quốc, sử Việt Nam, các trường phái học thuật.
2 Bút Hương Trai khuê huấn ca VNv.295 (vt) 1861 Nguyễn Hòa Hương 5 bài thơ thể 6-8, khuyên dạy con gái trong nhà: thờ cha mẹ, thờ bố chồng, thờ mẹ chồng, thờ chồng, hòa thuận trong anh em, bỏ tham lam, kiêu nịnh, ghen tuông.
3 Châu Xuyên gia huấn VHv.2018 (vt) 1910 Bùi Tử Lạc Sách giáo dục trong gia đình gồm: Q.Thượng: giảng về trời đất, trăng sao, Hà đồ, Lạc thư, Bát quái, địa lý, cơ thể con người. Q.Trung: giảng về lễ nghĩa, đạo đức, tu dưỡng, học tập. Q.Hạ: thơ viết theo thể Đường luật, 1 bài châm, 1 bài huấn khuyên con cái giữ gìn đạo đức.
4 Cư gia khuyến giới A.166 (in) 1901 Đặng Xuân Bảng Những câu danh ngôn trong thư tịch cổ Trung Quốc khuyên răn con cháu trong nhà giữ đạo luân thường, bỏ thói hư tật xấu. Q1: khuyên làm điều nhân đức, giữ đạo hiếu, lễ. Q.2: khuyên dạy con cái cần kiệm, liêm, thứ, xa tửu sắc. Q.3: khuyên đừng tham của cải, kiện tụng, đố kỵ, nghiện ngập.
5 Cùng đạt gia huấn VHv.286 (vt) 1733 Hồ Phi Tích Những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời Hồ Phi Tích, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng xa xỉ, đắm chìm trong tửu sắc.
6 Cần kiệm vựng biên VHv.245 (in)
VHv.707 (in)
VHv.708 (in)
A.1418 (in)
1780 Nguyễn Đức Đạt Sách chia làm 10 mục với nhiều chủ điểm khác nhau: 1/ Huấn cần, cần chính, cần thức, cần học, cần nghiệp. 2/ Huấn kiệm: chủ kiệm, phụ kiệm, tập kiệm.
7 Dương Công Khuê giám mục VNv.235 (vt) Khuyết danh Viết về những điều phụ nữ cần biết khi thai nghén.
8 Đông Tác Nguyễn thị gia huấn A.673 (vt) 1849 Nguyễn
Văn Lý
Gồm 4 bài văn: Chiêu cáo tổ tiên (báo cáo tổ tiên), Từ đường ký (ghi chép về nhà thờ), Gia huấn (dạy con trong nhà), Phệ khuyết (nói về vận hạn dòng họ).
9 Gia huấn ca AB.20 (in) 1909 Khuyết danh Bài ca Nôm thể 6-8 răn dạy con cái giữ đạo đức tốt, trọn đạo luân thường, con trai siêng năng học tập, cần mẫn với chức nghiệp; con gái trau dồi công dung ngôn hạnh.
10 Gia huấn truyện AB.643 (vt)
AB,296 (vt)
Khuyết danh Trong Quốc âm thi ca tạp lục, gồm những lời khuyên con cái trong gia đình. Viết theo thể 6-8.
11 Gia huấn trường thiên Chu tử gia huấn VHv.452
(vt)
Khuyết danh Trong Danh thi hợp tuyển.
- Gia huấn trường thiên: thơ 7 chữ nói việc dạy con cái trong nhà.
- Chu tử gia huấn: nói về giáo dục trong gia đình.
12 Giáo huấn A.2807 (vt) Lê Toàn Thành Trong Lê tộc phả ký: khuyên dạy con cháu tu đức để nối nghiệp tổ tông.
13 Giáo huấn diễn ca VNb.44 (vt) 1919 Khuyết danh Thơ Nôm thể 6-8 răn dạy con cháu trau dồi đạo đức, cần kiệm ngay thẳng.
14 Giáo nữ di quy AC.200 (in)
QC.698 (in)
1742 Trần Hoành Mưu Răn dạy phụ nữ trau dồi công dung ngôn hạnh.
15 Hành tham quan gia huấn AB.108 (in) Bùi Huy Bích Dạy con cháu trong gia đình cần giữ gìn đạo đức, đối xử với gia đình cũng như làng xóm sao cho đúng phép.
16 Huấn hài AB.562 (in) 1802 Mạc Đĩnh Chi Trong Thiền tông bản hạnh, dạy con trẻ trong gia đình thành người.
17 Huấn nữ diễn âm ca AC.552 (in) 1899 Nguyễn Đình Thiết - Bài ca Nôm dạy con gái về công dung ngôn hạnh.
- Diễn Nôm kinh A Di Đà, khuyên chị em giữ nết na, biết cách đối xử với mọi người.
18 Huấn mông tập A.278 (vt) Khuyết danh Sách giáo khoa dạy các lớp sơ học: Đạo thống: nói về đạo lý của bậc thánh hiền; Tam tài: thiên-địa-nhân; Sự ký: nói về luân lý chính trị; Nhân sự; Quân sự; Vật loại: nói về cỏ cây, vị thuốc, cảnh vật, địa dư.
19 Huấn nữ tử ca AB.85 (in) 1875 Khuyết danh Bài ca Nôm, thể 6-8. Dạy con gái 4 đức lớn: công, dung, ngôn, hạnh.
20 Huấn tử ca AB.640 (vt) Khuyết danh Trong Lưu Bình trò. Khuyên dạy con cháu trong gia đình nhớ ơn và tôn kính cha mẹ, hòa thuận với anh với chị em.
21 Huấn nữ tử giới VHv.2389 Khuyết danh 5 điều dạy con cái trong gia đình.
22 Huấn nữ tam tự thư AB.22 (in) Khuyết danh Sách dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh. Lời khuyên phụ nữ phải có trách nhiệm đối với gia đình và đất nước.
23 Huấn tử quốc âm ca AB.287 (in) 1895 Đặng Xuân Bảng Trong Huấn tục quốc âm ca. Dạy con cái ăn ở hiếu kính với cha mẹ, hòa thuận với anh em, đối xử tốt với mọi người.
24 Khuyến hiếu ca AB.532 (vt) Khuyết danh Bản dịch Nôm bài khuyến hiếu của viên quan họ Vương đời Đường.
25 Khuyến hiếu thư VNv.157(in)
VN.255(in)
VNv.61(in) AB.13 (in)
VNv.130(in) VNv.193(in) AC.13 (in)
1870 Lý Văn Phức, Đỗ Giám Hồ, Trần Tú Dĩnh Bài văn giáng bút của Văn Xương Đế quân và khuyến hiếu thiện, hiếu thảo với bố mẹ Diễn Nôm truyện Nhị thập tứ hiếu (24 người con có hiếu của Trung Quốc).
26 Khuyến phu ca VHb.73 (in) 1923 Khuyết danh Lời khuyên trung thực với vua, hiếu với cha mẹ, chăm chỉ đèn sách.
27 Lã Tổ sư huấn thế văn AC.447 (in) Thiện Chí Lâm Văn giáng bút của Lã Tổ khuyên hiếu thảo với cha mẹ, nhường nhịn anh em, giữ lòng tin với mọi người, làm điều nghĩa, chăm đọc sách, tránh tà dục thô bạo. Một số lời bàn về đạo làm người và khuyên làm điều nhân đức.
28 Ngô Công huấn tử văn A.2219 (vt) Ngô Duy Viên Bài thơ dài, mỗi câu 5 chữ, khuyên con gái chăm học, sửa mình, giữ gìn nét thảo hiền, không hám danh lợi.
29 Ngô Thị gia huấn A.1073 (vt) Thơ 5 chữ mang nội dung giáo dục gia đình. Có bài Quân phu tử phu của Ngô Thì Sĩ.
30 Nguyễn Thị gia huấn A.2942 (vt) 1849 Nguyễn Mai Hiên Sách dạy con cháu trong gia đình về đặt tên, kiêng tên, đội mũ, hôn nhân, tang lễ… Có dẫn một số sự tích và câu cách ngôn để minh họa.
31 Nữ huấn truyện AB.423 Trịnh Huy Giản Thơ 6-8, dạy phụ nữ cách ăn ở với chồng con, xóm làng, cách giữ gìn vệ sinh.
32 Nữ học diễn ca AB.437 (vt) 1914 Khuyết danh Răn dạy phụ nữ trau dồi công, dung, ngôn, hạnh. Có dẫn truyện của Trung Quốc để minh họa.
33 Phụ nữ bảo châm VNv.59 Khuyết danh Bài ca dạy phụ nữ về công, dung, ngôn, hạnh và cách đối xử với mọi người.
34 Thái thị gia huấn VHv.2832 (in) Khuyết danh Sách dạy con em trong gia đình họ Thái gồm 24 chương nói về cách đối xử với cha mẹ, chú bác, ăn ở với anh em, vợ chồng, cách giao tiếp với bạn bè, láng giềng, người ở… Phải biết lập chỉ, sống tiết kiệm, cẩn thận, cần cù.
35 Xuân đình gia huấn VHv.13 (in) 1893 Lê Hữu Tập Cuốn sách dạy con cháu trong gia đình, soạn bằng thơ 4 hoặc 5 chữ: - Thơ 4 chữ: cách cư xử giữa cha con, anh em, vợ chồng, vua tôi, bạn bè, thầy trò. Không nên uống rượu, mê sắc đẹp, cờ bạc, tranh giành, dối trá…
Thơ 5 chữ: dạy trẻ em, khuyên kẻ làm quan, kêu gọi biết giữ mình, biết lập chí.

Qua bảng thống kê trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:

1. Tất cả các sách trên đều mang nội dung giáo dục gia đình, tuy nhan đề có khác nhau. Có cuốn được gọi là “Gia huấn”, như Ngô thị gia huấn, Nguyễn Thị gia huấn, Châu Xuyên gia huấn… Có cuốn được gọi là “huấn ca”, như Gia huấn ca, Bút Hương Trai khuê huấn ca, Giáo huấn diễn ca… thường mang nội dung răn dạy con cháu trong gia đình được viết theo thể văn vần hoặc theo thể thơ 6-8. Cũng có cuốn chỉ được gọi là “huấn”, như Huấn mông tập, Huấn hài, Huấn nữ tử ca… thường mang nội dung giáo dục lứa tuổi và giới tính. Nhìn chung tên gọi của sách phần nào phản ánh được nội dung và hình thức thể hiện của sách.

2. Về tác giả: tình hình khá đa dạng. Có thể nói phần lớn các tác giả đều là những soạn giả, nhưng cũng có khi họ chỉ là những dịch giả hoặc trích tuyển những tác phẩm đã có sẵn. Trường hợp là soạn giả như Bùi Dương Lịch (Bùi gia huấn hài), Bùi Tử Lạc (Châu Xuyên gia huấn), Bùi Huy Bích (Hành tham quan gia huấn).

Trường hợp là dịch giả như Nguyễn Đình Thiết, Lê Nhật Huyến (diễn Nôm Huấn nữ diễn âm ca). Trường hợp là người trích những tác phẩm đã có sẵn như Thiện Chí Lâm trong Lã Tổ sư huấn thế văn có trích văn giáng bút của Lã Tổ; Đỗ Giám Hồ, Lý Thế Phức, Trần Tú Dĩnh trong Khuyến hiếu thư có trích văn giáng bút khuyến hiếu của Văn Xương Đế Quân…

3. Về nội dung sách: đối tượng chủ yếu của loại sách này là người trong gia đình. Sách nêu ra nhiều mối quan hệ trong gia đình như cha con, vợ chồng, bạn bè… thông qua đó nêu lên cách đối xử với nhau thế nào cho phải. Quan hệ trong gia đình, gia đình luôn được đặt ra trong mối quan hệ hai chiều, có đi có lại.

Nói đến quan hệ cha con, sách khuyên con cái đối với cha mẹ phải hiếu thảo, kính trọng, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, ngược lại cha mẹ đối với con cái thì phải thương yêu, dạy dỗ:

Phụ mẫu ư tử,
Vô bất chỉ từ.
Dục kiến kỳ khả.
Ái nhi giáo chi.

(Cha mẹ đối với con cái,
Không có việc gì là không nhân từ.
Muốn thấy con cái được tốt lên,
Yêu thương mà dạy dỗ chúng).
(Tờ 5a Xuân đình gia huấn).

Con cái đối với cha mẹ phải kính hiếu:

… Phàm vi nhân tử,
Tu vĩnh hiếu ân.
(…)
Táng lễ tận hiếu
Kế thuật tư tư.

(Phàm là bậc con,
Nên luôn hiếu ân)
(…)
Mai táng, tế lễ phải tận hiếu,
Nối nghiệp cha phải cần mẫn)
(Tờ 5b Xuân đình gia huấn)

Nói về sự phụng dưỡng cha mẹ, sách Hành tham quan gia huấn dạy:

Sự thân cho phải hết nghì,
Sinh dưỡng, tử sự mới nên con người.
Xuân huyên trăm tuổi tốt tươi,
Đạo thời phải giữ dưỡng nuôi hết lòng.

(Tờ 1a Xuân đình gia huấn).

Tử chi sự phụ mẫu giả,
Tran cam phụng dưỡng.

(Con cái phụng dưỡng cha mẹ,
Của ngon vật lạ đem dâng lên cha mẹ).
(Tờ 20a Q.Trung- Châu Xuyên gia huấn).

- Quan hệ anh em cũng là vấn đề luôn được đặt ra trong loại sách mang nội dung giáo dục gia đình. Đó là những lời khuyên anh đối với em phải thương yêu, em đối với anh phải kính trọng, không vì của cải, giầu nghèo mà làm mất đi tình cảm anh em đáng quý đó:

Huynh đệ nãi phụ mẫu chi thể giã. Đệ nghi đốc kính kỳ huynh, huynh nghi thân ái kỳ đệ. Vật dĩ điền sản nhi tranh tụng, chí ư cốt nhục tương tàn. Vật dĩ bần phú nhi sơ ly chí ư thư túc thư bất cố.

(Anh em cùng mẹ đẻ ra. Em nên hết lòng kính trọng anh. Anh nên thương yêu em. Không nên vì ruộng vườn, tài sản mà tranh giành, kiện tụng lẫn nhau dẫn đến cốt nhục tương tàn. Không nên vì giàu nghèo mà chia rẽ dẫn đến anh em không được gần nhau).
(Tờ 25 Q.Trung- Châu Xuyên gia huấn).

Anh em nên hết lòng vì nhau:
Nhân hữu huynh đệ,
Vũ dực thiên sinh.
Ký hấp ký cụ,
Cốt nhục chí tình.

(Con người có anh có em,
Lông cánh do trời sinh ra.
Đã đông đảo lại đầy đủ,
Cốt nhục chí tình).
(Tờ 5b Xuân đình gia huấn).

Bên cạnh mối quan hệ cha con, anh em, loại sách giáo dục gia đình này còn chú ý rất nhiều đến quan hệ vợ chồng, mối quan hệ không thể thiếu được trong mỗi gia đình. Sách khuyên những người làm vợ làm chồng phải có trách nhiệm với nhau, thương yêu, thủy chung, hòa thuận với nhau, cùng nhau chia ngọt xẻ bùi:

Phu phụ dĩ duyên hợp,
Phu nghi khoan hòa,
Phụ nghi kính thuận.
Phú quý cộng hưởng,
Bần tiện tương an.
Cam nhục dữ đồng,
Vinh nhục như nhất,
Bách niên tận đạo.

(Vợ chồng lấy nhau vì hợp duyên,
Chồng nên rộng rãi khoan dung,
Vợ nên tôn trọng thuận theo.
Giàu sang cùng nhau hưởng,
Nghèo hèn cùng nhau chịu.
Sướng khổ cùng nhau.
Vinh nhục như một,
Trăm năm trọn đạo)
(Tờ 22a Q.Trung- Châu Xuyên gia huấn).

Sách còn trích những câu tục ngữ răn dạy đạo làm vợ, làm chồng:

Nam phu do thiếp an
Nữ quý nại phu thành.

(Trai giàu vì vợ,
Gái sang vì chồng)

Sách khuyên:

Tuy chuyết thả ngu, duy ngã chi phu.
Thông minh tú lệ, phối sất phi ngô lệ.

(Vụng dại cũng thể chồng ta,
Khôn ngoan tốt đẹp cũng ra chồng người)
(Tờ 22a Q.T - Châu Xuyên gia huấn).

Sách khuyên muốn để gia đình tốt lành thì vợ chồng phải:

Phu nghĩa phụ thuận, hảo phu nghi gia
(Chồng làm điều phải vợ thuận theo, gia đình sẽ tốt lành).
(Tờ 6b Xuân đình gia huấn).

4. Giáo dục giới tính luôn được đặt ra trong loại sách này. Sách nêu ra những tiêu chuẩn đạo đức của từng giới và khuyên họ nên thực hiện như thế nào cho phải. Đối với con gái, sách khuyên phải biết giữ gìn và trau dồi công, dung, ngôn, hạnh. Đó là năm phẩm cách đáng quý của người con gái ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào của xã hội:

Gái thời học nghiệp cửi canh,
Trong việc gia đình dậy sớm thức khuya.
Làm ăn thu vén việc nề.
Giữ giàng danh tiết mọi bề sạch trong.
Vui lòng nức tắc, nữ công,
Kiệm cần đôi chữ tấc lòng chớ sai.

(Tờ 6a Q.Hạ - Hành tham quan gia huấn).

Tọa dữ lập yếu đoan trang
Cử dữ động yếu tĩnh trọng
Đầu dữ mục vật kinh dao
phủ dữ túc vật kinh động
Khai khẩu ngôn bất khả tiếu
Ứng thiếu thời vi vi thiếu.

(Ngồi đứng phải đoan trang
Cử đông phải nhẹ nhàng
Đầu, mắt không được liếc ngang dọc
Chân tay không được đung đưa
Mở mồm nói không được cười
Nếu cười theo thì chỉ cười mỉm)
(Tờ 1b - Nữ huấn tam tự thư).

Sách khuyên người con gái phải nói năng chân thật, không được dối trá:

Phụ chi đức
Thư thành thực
Vô ngụy trá
Vô khi quyết
Chân ngôn từ.

(Đức của người phụ nữ
Lấy thành thực làm đầu
Không dối trá
Không lừa dối
Nói năng chân thực)
(Tờ 1a - Nữ huấn tam tự thư).

Sách cũng khuyên phải coi trọng chữ trinh:

Phụ chi đạo
Quý dĩ trinh
Phu phụ hòa
Gia đạo thành

(Đức của người phụ ngữ
Lấy chữ trinh làm quý
Vợ chồng hòa thuận
Nề nếp trong nhà ổn định)
(Tờ 4a - Nữ huấn tam tự thư).

Khi lấy chồng, làm dâu nhà người khác, sách có khuyên:

Ấu tại gia sự phụ mẫu
Xuất giá hậu sự công cô
Tất hiếu thành, tất kính lễ.

(Lúc bé ở nhà thì phụng sự cha mẹ,
Khi lấy chồng phụng sự cha mẹ chồng,
Tất phải có hiếu, thành thực, tất phải kính lễ)
(Tờ 3a - Nữ huấn tam tự thư).

Đối với người con trai sách khuyên không nên uống rượu, mê sắc đẹp, không nên cờ bạc, lười biếng, nhiễm những thói hư tật xấu:

Một răn du đãng bạc cờ,
Hai răn ong bướm lo bờ nguyệt hoa.
Ba răn thói rượu la đà,
Làm người hiệu khối mới là kẻ ngoan.
Xây nên cơ nghiệp gian nan
Phạm vào bệnh ấy đời tàn biết chưa.
Những gương tầy liếp trò thơ
Ba năm kiếm củi một giờ thiêu không.

(Tờ 4b - Hành tham quan gia huấn)

Sách khuyên dù là con trai hay còn gái cũng phải ngay thẳng, giữ lấy gốc của nhân cách:

Nhân trọng cương thường
Nam nữ dĩ chính
Dâm thư vạn ố
Đại thương bản lĩnh.

(Con người trọng tam cương ngũ thường
Nam nữ làm điều chính
Dâm tà bị nhiều người ghét
Tổn hại lớn đến gốc của nhân cách)
(Tờ 8b - Xuân đình gia huấn)

- Bên cạnh vấn đề giáo dục giới tính, loại sách này cũng chú ý đến giáo dục lứa tuổi thanh thiếu niên bởi đó là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, cần được trang bị những kiến thức đạo đức để trở thành những người tốt, có ích cho xã hội:

Hài đề chi thời, giáo dĩ xưng hô, thúc thị thúc, bá thị bá, huynh thị huynh, dì thị dì, bất hứa trực hô kỳ danh. Ẩm thực giáo nhượng mỹ ư nhân. Tọa lập giáo dĩ cư hạ. Bộ xu giáo dĩ tư hành. Kiến tôn trưởng giáo dĩ kính lễ tác ấp. Bất hứa ngạo mạn, bất hứa thuyết hoang. Xuất ngoại giáo dĩ hòa xử chúng, bất hứa tranh đấu, bất ác ngữ mà. Nhân bất hứa giảng thích. Ngũ bất hứa tập bì ngoan.

(Lúc còn nhỏ dạy cách xưng hô. Chú thì gọi là chú, bác thì gọi là bác, anh thì gọi là anh, dì thì gọi là dì, không được gọi trực tiếp tên của họ. Ăn uống dạy phải nhường miếng ngon cho người khác. Đứng ngồi dạy phải ngồi ở dưới. đi lại dạy phải từ tốn. Thấy người lớn dạy phải kính lễ chắp tay mà vái. Không được ngạo mạn, không được nói dối. Ra ngoài đối xử với mọi người phải hòa thuận, không được tranh giành, không được chửi nhau, không được dạy đời, không được làm theo những đứa trẻ ngu độn thiếu giáo dục.
(Tờ 16a - Thái thị gia huấn).

Về nuôi dạy trẻ nhỏ, Châu Xuyên gia huấn viết:

Vi nhân phụ mẫu,
Dục tử xuất nhân,
Đương ư đồng ấu chi thời,
Giáo dĩ thiện đạo.
(…)
Thiện đạo giả hà ?
Hiếu đễ trung tín,
Lễ nghĩa liêm sỉ
Cung kính khiêm nhường.
(…)
Phi tâm giả hà ?
Tham ô hiểm giảo,
Khi tác gian tà…

(Làm cha làm mẹ,
Muốn con sinh ra,
Đương lúc còn nhỏ,
Dạy theo đạo thiện.
(…)
Đạo thiện là như thế nào?
Hiếu đễ trung tín, Lễ nghĩa liêm sỉ,
Cung kính khiêm nhường.
(…)
Lòng ác là như thế nào?
Tham ô hiểm giảo,
Dối trá gian tà…)
(Tờ 16. Q.Trung - Châu Xuyên gia huấn).

5. Không chỉ dừng lại ở mối quan hệ gia đình, những muốn sách gia huấn còn đề cập đến các quan hệ xã hội như: cách ăn ở với hàng xóm láng giềng, anh em bạn bè. Với hàng xóm láng giềng, sách Thái thị gia huấn viết:

Vô nhân gia bất hữu lân hương,
Cận đích vi cận lân,
Viễn đích vi viễn lân.
Hữu đồng tính chi hương lân,
Hữu dị tính chi hương lân
Triêu tịch tương kiến,
Xuất nhập tương tùy.
Như thần như xỉ,
Bỉ thử tương y.

(Không một nhà nào không có hàng xóm,
Gần thì gọi là hàng xóm gần,
Xa thì gọi là hàng xóm xa.
Có hàng xóm cùng họ,
Sáng tối gặp nhau,
Ra vào gặp nhau,
Như môi như răng,
Người này người kia dựa vào nhau)
(Tờ 24a - Thái thị gia huấn).

- Đối với anh em, bạn bè, sách khuyên nên giữ chữ tín, cùng giúp đỡ lẫn nhau:

Kiến thiện tương dữ,
Hữu quá tương châm.
Thủy chung dĩ tín, tắc giao tình thâm.

(Thấy việc thiện cùng nhau làm,
Thấy lỗi lầm nhắc nhở, khuyên bảo nhau.
Trước sau luôn giữ chữ tín,
Thì tình bạn sâu sắc.
(Tờ 7a - Xuân đình gia huấn).

Trong cách đối xử nhân thế, sách viết:

Xử thế tu yếu khiêm, cung, hòa khí. Khiêm tắc năng hạ nhân. Dịch viết Khiêm thụ ích. Cung tắc năng kính nhân. Mạnh Tử viết: Kính nhân giả, nhân hằng kính chi. Hòa khí tắc túc dĩ cảm nhân, như xuân phong hòa húc, vạn vật phát sinh, lệnh nhân khả ái, thụ nạp mãn đường chi cát khánh.

(Sống ở trên đời cần khiêm, cung, hòa khí. Khiêm thì mới có thể nhún nhường với người khác. Kinh Dịch: nhún nhường sẽ có lợi. Cung thì mới có thể kính trọng người. Mạnh Tử nói: kính trọng người khác thì luôn được người khác kính trọng mình. Hòa khí đủ để cảm hóa con người, như gió xuân ấm áp, vạn vật sinh sôi. Khiến người ta yêu mến mình, đầy nhà được phúc).
(Tờ 43a - Thái thị gia huấn).

Qua nội dung giới thiệu ở trên, chúng ta phần nào hiểu được cách giáo dục trong gia đình của ông cha ta ngày trước. Ở đây có những mặt tích cực, cần khẳng định, phát huy. Nhưng cũng không ít nội dung đã bị lịch sử vượt qua, nay không còn thích hợp nữa.

Sách mang nội dung giáo dục gia đình là một mảng đề tài khá phong phú, chiếm một số lượng không nhỏ trong các sách Hán Nôm. Trong bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát toàn bộ, mà bước đầu chỉ có thể giới thiệu những cuốn tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất để bạn đọc tham khảo.

Vì sách được viết chủ yếu bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm nên hiện nay không phải ai cũng đọc được. Chúng tôi thiết nghĩ công việc chỉnh lý, dịch và giới thiệu một số tác phẩm ưu tú trong các sách đó để mọi người, nhất là các bậc làm cha, làm mẹ, làm thầy, những người có trách nhiệm trong việc giáo dục thanh thiếu niên được tham khảo là cần thiết./.

TB

VỀ BỘ SÁCH ĐỎ "BÁCH KHOA TOÀN THƯ - TINH TUÝ VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC"

NGUYỄN NGỌC SAN

Gần đây nhiều hiệu sách ở Hà Nội có bày bán một bộ sách bìa đỏ, ngoài đề: "Bách khoa toàn thư - Tinh túy văn học cổ điển Trung Quốc", sách do Nhà xuất bản Đồng Nai in trong các năm 1995,1996, bìa sau có dấu đóng khung "Phát hành tại cửa hàng sách 56A Bà Triệu - Hà Nội". Theo bảng thống kê ở cuối mỗi quyển thì bộ sách này gồm cả thảy 52 quyển, đều là những tác phẩm quan trọng của văn hiến cổ đại Trung Hoa như: Thượng Thư, Luận ngữ. , Mạnh Tử, Lão tử, Trang Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Liệt Tử, Hàn Phi Tử, Tả truyện, Chiến Quốc sách, Lễ Ký, Thi Kinh, Sở từ... Bộ sách do một nhóm các nhà nghiên cứu và giảng dạy Trung văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh "biên soạn" và "hiệu đính". Trần Kiết Hùng, giảng viên văn học Trung Quốc và Phó Chủ nhiệm khoa Trung văn của Trường là người viết giới thiệu và hiệu đính cho tất cả 52 quyển; có nhiều quyển đã tái bản lần thứ nhất và nghe nói sách bán rất chạy.

Kể ra với một khối lượng kiến thức đồ sộ như vậy mà chỉ biên soạn trong vòng hai năm quả thật là một công việc vĩ đại, góp phần nâng cao hiểu biết cho độc giả về một mảng kiến thức vô cùng quan trọng của Trung Hoa cổ đại đã từng ảnh hưởng nhiều đến nền văn hoá Việt nam. Chính vì nghĩ vậy nên tôi cố xoay được vài quyển, thầm trách mình không mua được trọn gói toàn bộ. Đem về nhà, đọc kỹ nội dung từng quyển, cứ thấy ngờ ngợ về mấy chữ "biên soạn" và "hiệu đính". Thường biên soạn thì có Chủ biên và các đồng tác giả, còn biên dịch mới cần hiệu đính. Mở cuốn Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ thấy ở bìa ngoài ghi Võ Ngọc Liên biên soạn (Tôi giật mình không biết Võ Ngọc Liên hay người xưa biên soạn Thượng Thư ?), dưới ghi Trần Kiết Hùng hiệu đính. Lật sang bìa 2 cũng tên sách ấy lại thấy ghi Biên dịch: Võ Ngọc Liên !! Thành thử người đọc cứ ngớ ra không hiểu đây là sách viết hay dịch.

Đọc lời giới thiệu ở đầu mỗi quyển, người đọc cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thử nói về lời giới thiệu sách Thượng Thư (ta tập trung vào một quyển này cho gọn) thấy có đoạn viết: "Tạp chí Văn Nghệ Hán Thư có viết: Thượng Thư đã có từ xa xưa... "Tra các tạp chí của Trung Quốc không thấy có tạp chí nào mang tên này, ngẫm ra người đọc mới chợt hiểu: thì ra đó là Thiên Nghệ văn chí trong sách Hán Thư (Hán Thư Nghệ văn chí) mà người giới thiệu đã dịch nhầm ra như vậy. Dòng 11 lại có câu: "về tính chất mà nói, Thượng Thư là bộ Kinh Thư, còn gọi là Chánh Thư... "Tại sao lại nói "về tính chất mà nói"? Vì Thượng Thư Kinh Thư chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một cuốn sách. Cuốn này vốn được gọi gọn là Thư (Trong Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu). Từ sách Hán Thư mới có cách gọi ngũ kinh nên Thượng Thư được gọi là Thư kinh, vậy không có gì cần so sánh về tính chất cả. Dòng 12 viết: "Cho nên nội dung của phạm vi sách rất rộng, từ đạo lý cử phàm nội thánh ngoại vương...". Câu này thì chắc hẳn người viết cũng không hiểu, nói gì đến người đọc! ở dòng 17, người viết dẫn câu chữ Hán "Phù! Thượng Thư giả, thất kinh chi Quán miện, bách thị chi khâm tựu..." rồi dịch rằng: về Thượng Thư từ quán Miện thất kinh đến khâm sai bách thị...", nghe như một câu đố và tất nhiên chẳng ai giải được. Thực ra câu này nghĩa là: "Ôi! sách Thượng Thư đứng đầu cả bảy kinh, là thành tựu của trăm nhà". Cuối bài giới thiệu dài một trang rưỡi này có đoạn: "Thượng Thư còn nêu lên chủ trương "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn" tức là khái quát được đặc điểm biểu hiện tư tưởng tình cảm của nhà văn, cũng đề cao tác dụng nhận thức và tác dụng giáo dục của thi ca, đây là cương lĩnh mở đầu cho một nền lịch sử thi ca của thời cổ đại Trung Hoa, có sự ảnh hưởng to lớn đối với nền lí luận văn học đời sau... Sự thật có đúng thế không? Ta hãy đọc đoạn sau trong chương Thuấn điển sách Thượng Thư: "Vua Thuấn bảo: Qùy, ta ra lệnh cho ngươi nắm giữ âm nhạc, dạy dỗ con trưởng cho được cương trực mà ôn hòa, khoan dung mà trang nghiêm, cứng rắn mà không bạo ngược, giản dị mà không kiêu căng. Thơ để nói chí, ca nối cho dài lời (Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn). Thanh dựa vào độ dài(1), luật hòa với thanh, dùng bát âm mà hòa theo làm cho hòa hợp khiến cho không xâm phạm đến nhân luân, thần và người đều hòa đồng với nhau. Rõ ràng ở đoạn này, Thượng Thư nói về âm nhạc chứ không đề cập về thơ ca, cũng như ý Khổng Tử nói: "hưng ư thi thành ư nhạc (nổi lên từ thơ, nhờ nhạc mà trọn vẹn). Tuy có nói: "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn" nhưng câu này được nói trong bối cảnh nhấn mạnh tác dụng của âm nhạc là phương tiện giáo dục để thanh lọc ý nghĩ tà ác, khiến huyết mạch lưu thông đặng di dưỡng tinh thần, điều hòa đạo đức làm cho các khí chất không bị thiên lệch. Hướng đi của tâm gọi là chí, tâm chuyển động theo hướng sẽ phát ra thành lời cho nên "Thi ngôn chí" đã hình thành ra lời rồi thì tất phải có dài ngắn khác nhau cho nên dùng tiếng hát cho lời được dài. Có dài ngắn tất có cao, thấp, thanh, đục, cho nên nói "ca ỷ vĩnh" (tiếng ca dựa vào độ dài). Thanh đây trỏ cung, thương, giốc. chủy, vũ... đại để tiếng dài mà đục là cung; chậm, trong và ngắn dần sinh ra thương, giốc, chủy, vũ; đấy chính là thanh dựa vào độ dài; đã có dài ngắn tất có cao thấp, thanh đục tất phải dùng 12 luật hòa theo thì mới có văn vẻ mà không loạn; giả như "hoàng chang" là "cung" thì "thái thốc" là "thương", "cô tẩy" là "giốc", "lâm chung" là "chủy" và "nam cung" là "vũ". Vậy là lấy 3 (cao -thấp, trong - đục, dài - ngắn) thêm vào bớt đi mà sinh ra nhau. Tiếng của con người đã hòa thì thêm bát âm vào thanh mà thành nhạc, không có gì là không hòa hợp, không làm xâm loạn mất luân lí, cho nên có thể tấu ở nơi triều đình chốn tông miếu để thần và người được hòa đồng. Thánh nhân làm ra âm nhạc để di dưỡng tính tình, dạy con người biết thờ thần linh, hòa trên thuận dưới, là gốc của rễ, cái thể và dụng của nhạc có công dụng lớn lao sâu sắc biết bao! Vậy ở đây, Thượng Thư chủ yếu nhấn mạnh tác dụng của âm nhạc đối với lời nói chứ không hề "đề cao tác dụng nhận thức và tác dụng giáo dục của thi ca và là cương lĩnh mở đầu cho một nền lịch sử thi ca của thời cổ đại Trung Hoa" như lời người giới thiệu.

Trong các bài giới thiệu khác, các nhà "biên soạn" và "hiệu đính" đã tỏ ra không nắm được nguyên tác, nói gì đến bình luận, khen chê về nó. Các chương mục và các câu trích dẫn đều bị hiểu lầm. Trang 16 trích sai một câu trong Luận ngữ. "Trí giả lạc thủy, nhân giả ái sơn" (?). Nguyên tác là "nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy" nghĩa là: "bậc có lòng nhân vui với núi (vì lòng nhân là gốc không thể xê dịch giống như quả núi), người có trí vui với sông nước (vị trí phải luôn thích ứng uyển chuyển theo thực tế ví như sự mềm mại của nước)". ở đây có nhiều tên sách, tên thiên quen thuộc mà các nhà "biên soạn" nhầm lẫn lung tung. Trang 9 dòng 16 viết: "Ví dụ sách Luận ngữ vi chính biên có viết..." thực ra là "Thiên Vi chính ở sách Luận ngữ có viết...". Trang 10 dòng 13 viết "chương thượng Mạnh tử thắng văn công". Làm gì có chương sách nào như vậy? Đây là thiên Đằng Văn Công (thượng) sách Mạnh Tử. Trang trên, dòng 22 có câu: "Trong sách Tuân tử khuyến học cũng có nói: cố thư giả chính sự chi kỉ dã, có nghĩa là "Sở dĩ tôi nói: Thượng Thư ư? Đó là sách ghi chép chính sự". Thứ nhất, không có sách nào tên là "Tuân tử Khuyến học"; thứ hai, người dịch thêm bớt chữ làm cho câu văn méo mó, khó hiểu. Trang 14, 15, 16, 17... tên thiên trong Luận ngữ đều dược ghi thành tên sách, ví dụ thiên Hiến vấn ghi là "sách Hiến vấn", thiên Học nhi, ghi là "sách Học nhi", thiên Tử Hãn ghi là "sách của Tử Hãn", thiên Ung dã ghi là "sách của Ung Dã"... còn các câu trích từ nguyên tác thì bị dịch sai hẳn nguyên ý. Một ví dụ câu: Khổng Tử chi thời, Chu thất vi, nhi lễ nhạc phế, thi thủ khuyết bị dịch là "Thời Khổng Tử vì phòng dạy học hẹp nên bỏ bớt lễ nhạc, còn Thi, Thư thì không đủ". Đúng ra câu này phải dịch là Thời Khổng Tử, do nhà Chu suy vi mà lễ nhạc bị bỏ phế, Thi, Thư, cũng bị bỏ khuyết. Ta biết xưa Khổng tử dạy học trò không dùng phòng dạy học. Cũng như Platon và Aristote ở phương Tây cổ đại, các ông dạy học ở trong vườn, ai không hiểu gì thì hỏi, thầy trả lời từng người một. Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đại, học trò hàng ngàn người, giỏi thì có 72 người (thất thập nhị hiền) và cũng dạy học theo kiểu căn cứ vào tính cách và sức tiếp thu của từng người một. Ông là người mở ra nền tư học dạy tư tưởng của mình, không theo các nhà nhà tường nhà tự đời Chu cho nên không dùng đến lớp học thì làm gì có lớp học hẹp hay rộng! Cũng không thể vì lớp học hẹp mà bỏ bớt môn lễ, nhạc. Trang 17 dòng 6 có câu: Sách học nhi (?) có viết: Tử viết xảo ngôn lệnh sắc tiển hĩ nhân và dịch: "lời nói khéo có tác dụng như sắc lệnh, lời nói tốt đẹp như vậy chỉ có ở người nhân đức). Câu dịch hòan toàn sai đến ngờ nghệch, phản lại ý của nguyên tác. Vốn nghĩa của nó là: "những người dùng lời nói khéo léo và giỏi điều khiển nét mặt (ý nói không chân thật - NS) thì rất ít có lòng nhân. Liền sau đó tác giả viết: Câu nói trên cũng giống như các câu trong sách "Thượng Thư Cao Đào": hà vị hồ xảo ngôn lệnh sắc khổng nhâm". Trước nhất, không có sách "Thượng Thư Cao Đào" mà chỉ có chương Cao Dao mô trong sách Thượng Thư. Câu trên nghĩa là: "há còn sợ gì kẻ khéo dùng lời dối trá giỏi điều khiển sắc mặt, đó là nhiệm vụ lớn vậy thay! Trang 34 từ dòng 9 xuống cũng lại có mấy chỗ sai: thiên ích tắc thì gọi là "Cái tắc", thiên Dận chinh thì gọi là thiên "Dật chưng", thiên Trọng Hủy chi cáo thì gọi là thiên "Trọng Hủy chi tạo", thiên Sái Trọng chi mệnh thì gọi là "Thái thúc chi mệnh". Trang 40 từ dòng 20 có một câu hết sức vô nghĩa: Nếu như lúc đó Khổng An quốc vẫn còn sống hoặc có thể viết đại tự đi chăng nữa thì thực tế là lúc đó Khổng An quốc đã từ giã thế gian từ lâu rồi (!!!). Trang 41 dòng 16 viết: "Dị viết: Hà xuất đồ Lạc xuất thư thánh nhân tắc chi cố thi chi sơ khởi viên hĩ, chí Khổng Tử soạn yên" và tác giả dịch "Trong Kinh Dịch có viết rằng: Lập nghiệp ở sông Hà, viết sách ở sông Lạc, đó chính là thánh nhân Khổng Tử". Không kể câu chữ Hán phiên âm sai nhiều chỗ, câu dịch cũng không đúng. "Hà đồ Lạc thư" thì ai chẳng hiểu, lại dịch là "Lập nghiệp ở sông Hà, viết sách ở sông Lạc" Cả câu dẫn trên phải dịch là: "Kinh Dịch viết: đồ xuất hiện ở Hoàng Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, bậc thánh nhân (theo hình vẽ) mà bắt chước, cho nên Thư có từ lâu rồi, đến Khổng Tử mới soạn lại". Ngoài ra còn nhiều thiếu sót khác, do khuôn khổ bài báo, chúng tôi không thể liệt kê cho hết.

Tất cả 52 quyển, chúng tôi mới đọc một quyển, mà đọc một cách liệp thiệp đã thấy có rất nhiều sai sót quá ấu trĩ, điều ấy là cơ sở để chúng tôi nghĩ rằng đây không phải sách biên soạn mà là sách dịch, mà dịch còn nhiều chỗ không đúng vì người "biên soạn" không hiểu được nguyên tác chữ Hán viết bằng cổ văn.

Biên soạn hay biên dịch các sách nghiên cứu các tác phẩm cổ điển là công việc hết sức công phu và khó khăn, đòi hỏi người chấp bút phải có thái độ khoa học trung thực, ghi rõ ràng công việc của mình và phải làm việc với tinh thần trách nhiệm. Mong bài viết này có thể nhắc nhở các tác giả của bộ sách đỏ trên cẩn thận hơn, trước khi đưa ra cho bạn đọc một sản phẩm tinh thần quý giá nhưng đã bị bóp méo, làm cho thất chân.

Người biên tập: Phạm Văn Thắm

CHÚ THÍCH

(1) Thanh chỉ các độ cao gồm cung, thương, giốc, chủy, vũ, xưa dùng ống cùng cỡ lấy cái dài nhất đặt ra cung, bớt ngắn dần đi sinh ra thương, giốc, chủy, vũ...

TB

THỬ SOI SÁNG ĐÔI ĐIỀU TRONG
SÁCH "HÀ TIÊN MẠC THỊ THẾ HỆ KHẢO" CỦA
TRẦN KINH HOÀ (CHEN CHING HO)

TRƯƠNG MINH ĐẠT

A. ĐÔI HÀNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:

Ông Trần Kinh Hòa (Chen Ching Ho - TKH), nhà Việt Nam học người Hoa nổi tiếng vùng Đông Nam Á, khi sinh tiền luôn gắn bó với Việt Nam, vừa từ giã cõi đời ngày 19/11/1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh(1).

Ông chuyên viết sưu khảo, nhiều tác phẩm nổi danh như: An Nam dịch ngữ khảo thích, Hà Tiên trấn hiệp trấn Mạc thị gia phả chú thích, Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo v.v. Ông biết nhiều ngoại ngữ, viết bằng chữ Hán, chữ Nhật, chữ Anh, chữ Pháp... và nhiều tiểu luận bằng Việt Ngữ đăng trên tạp chí Đại học (Huế), Khảo cổ tập san, Văn hoá Á châu ... Tác phẩm chuyên sâu, trọng tâm là văn bản cổ Việt Nam. Khoảng năm 1958 - 1963, ông được mời khảo giảng ở Đại Học Huế, Sài Gòn, Đà Lạt.

Năm 1963, sau chính biến tháng 11 ở Sài Gòn, ông phải rời Việt Nam đi Hương Cảng (Hong Kong). Từ đó về sau ông dạy học tại các trường Đại học trên thế giới: Nhật, Mỹ, Pháp, Đài Loan... Năm 1995, ông quay trở lại Việt Nam, và âm thầm qua đời tại đây.

Quyển "Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo" (HTMTTHK) là bản luận giải từ xa những ngôi mộ cổ tại núi Bình Sơn, Hà Tiên. Tác giả giúp cho người đọc ở xa có một nhận thức khá hệ thống về quan hệ họ hàng, thời đại sinh sống... của những người thân, hoặc bộ hạ họ Mạc, thời kỳ đầu thế kỷ XVIII về sau.

Sách còn nhiều điểm cần thảo luận lại. Có nhiều lí do khách quan khiến tác giả không chủ động khắc phục; ông có nói rõ trong lời tiểu dẫn:

"Năm 1962, ông Trương Bửu Lâm, Viện trưởng Viện khảo cổ Việt Nam(2) có đưa một tập văn bia những mộ cổ ở Bình Sơn thuộc Hà Tiên do Viện ấy sưu tầm được, nhờ bút giả điều chỉnh; nhưng chẳng bao lâu sau khi nhận lời, bút giả dời Việt Nam đi Hương Cảng... cho tới nay vẫn chưa thực hiện được lời hứa của mình. Bút giả nhân dịp này đem toàn tập mộ bia ra kiểm điểm lại; tham chiếu sử sách triều Nguyễn và so sánh bản lược đồ thế hệ họ Mạc ở Hà Tiên mà khảo chứng". (Sách HTMTTHK bằng chữ Hán, Hoa Cương Học báo đệ ngũ kỳ, Trừu ấn bản, Hong Kong, 1967, tr.179-180).

Xin được nói thêm cho rõ, tập văn bia mà ông Trương Bửu Lâm trao cho tác giả TKH nguyên là bản chép tay, do ông Trần Thiêm Trung người Hà Tiên thực hiện. Ông Trung nhờ một người biết chữ Hán không quen làm công tác khoa học chép, thành ra không chính xác, chỗ thiếu, chỗ thừa... ông Trung cũng vẽ một sơ đồ Bình Sơn với vị trí các ngôi mộ và đánh số từ 1 đến 43. Sơ đồ này được tác giả TKH cho in sách. Nhưng số hiệu các ngôi mộ có khác và nhiều hơn bản chép tay, vì hai nhóm mộ song hồn (của hai vợ chồng) ông Trung ghi một số, tác giả TKH ghi lại thành 2 số (ví dụ 14 - 15, 32 - 33), nên số hiệu mộ bia trong sách tăng đến 45.

Vì lẽ, sau năm 1963 ông TKH không thể trở lại Việt Nam, chỉ sử dụng bản chép thiếu chính xác, thế nên tác phẩm được làm ra thiếu khảo sát thực tế.

Bài viết này chỉ xin đề cập 2 tấm bia của Mạc Công Tài (số 11) và Phụng Nghị Đại Phu họ Mạc (số 45).(3)

B. KHẢO SÁT HAI BIA MỘ:

1/ Bia Mạc công tài: - (Sđd trang 195). Sách HTMTTHK in nguyên văn (bản chép của Trần Thiêm Trung) như sau: "Số hiệu thứ 11"

"Tuế Quý Dậu niên tạo"

"Đại Nam - ấm Thụ Xuất Đội húy Công Tài Mạc công chi mộ"

"Nữ ngọc mai lập" (Xem ảnh chụp 1 in ở bìa 4 số tạp chí này).

Tác giả TKH luận giải về mộ bia này như sau: "Mạc Công Tài là con của Mạc Tử Hoàng do người thiếp sinh ra. Tên Huý của ông, sách Thông chí quyển 5 chép là Công Thôn, nhưng sách Thực lục tiền biên, Liệt truyện tiền biên, và gia phả đều chép là Công Tài. Cho tới nay chưa biết nên theo sách nào. Nay xem tập bia mộ, số thứ 2 - 3 và 11, thấy chép là Công Tài do đó có thể biết chính tên là Công Tài vậy. Còn năm xây mộ, nguyên văn Quý Dậu (năm Gia Long thứ 12 - 1813) e không chính xác (Nguyên văn chữ Hán: Chí ư thử mộ kiến tạo chi niên đại, nguyên văn chi Quý Dậu (Gia Long thập nhị niên - 1813) khủng bất xác". Xét bia mộ của Thiên Tứ (số hiệu thứ 2, năm 1818) và của Tử Hoàng (số hiệu thứ 3, 1820) đều có tên "Hiếu Tôn" hoặc "Hiếu nam" Mạc Công Tài. Mặt khác như đã thuật, Công Tài nhận chức Quản thủ Hà Tiên năm Minh Mạng thứ 11 (1830). Mùa hạ năm thứ 14 (1833) Lê Văn Khôi nổi loạn ở Nam kỳ, Công Du, Công Tài đều nhậm chức nguỵ; việc phát giác, sắc nã về kinh tra hỏi; rồi Công Du, Công Tài bị bệnh mà chết. Như vậy thì mộ Công Tài không phải xây vào năm Quý Dậu (1813). Theo thiển kiến, Quý Dậu trên bia mộ này ắt là chữ Quý Tỵ (1833) viết lầm. (Cứ quản kiến, thử mộ bi thương chi Quý Dậu niên tất thị Quý Tỵ (1833) chi bút ngộ). Huống chi "Đại Nam" là quốc hiệu mới định, sau khi vua Minh Mạng lên nối ngôi, càng đủ chứng thực năm xây mộ là "Quý Tỵ" (năm Minh Mạng 14 - 1833).

Khi nói: "Quý Dậu trên bia mộ này ắt là chữ Quý Tỵ (1833) viết lầm" có lẽ ông TKH cứ vào lẽ thường: "việc chôn cất lập mộ" được tiến hành cùng một lúc ? Nhưng tác giả quên trường hợp ngoại lệ. Có khi người ta chôn người trước, làm bia đá sau, nhất là gặp thời chiến tranh ly tán.

Sách sử còn ghi rõ thời kỳ tao loạn đen tối khoảng 1833 - 1834 ở Hà Tiên. Trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, cha con Công Du, Công Tài, Hầu Di, Hầu Diệu đang quản thủ Hà Tiên, đều theo về với họ Lê. Thái Công Triều được Lê Văn Khôi giao cho nắm các tỉnh miền Tây, trong đó có Hà Tiên. Chẳng bao lâu sau, Thái Công Triều phản lại họ Lê nên đã bắt cha con họ Mạc giao cho binh triều. Mạc Công Tài chết. Quân Xiêm tràn vào chiếm cứ Hà Tiên, rồi theo kinh Vĩnh Tế lên Châu Đốc... "Quân Xiêm thả sức đốt cướp dọc đường hành quân, giết đàn ông, bắt đàn bà trẻ con mang đi..."(4). Trong số biến cố này con cháu họ Mạc không thể an cư tại Hà Tiên. Người chết không kịp dựng bia, kẻ sống phải cao bay xa chạy, thậm trí thay tên đổi họ để trốn... Về sau Đại học sĩ Trương Đăng Quế đi Kinh Lý, tổ chức lại việc cai trị ở các tỉnh vừa trải qua tai họa chiến tranh, tâu trình lên vua Thiệu Trị: "Việc mở mang đất Hà Tiên lúc ban đầu do công lao của Mạc Thiên Tứ rất lớn, nên lục dụng lại con cháu họ Mạc..."Mãi đến đời Thiệu Trị thứ 5 (1845) mới có lệnh "tìm lại con cháu họ Mạc, người nào có tài có thể dùng được thì tâu lên..."(5). Mạc Công Tài chết vẫn chưa được xét giảm tội cũ. Vì mãi đến đời Tự Đức mới có sắc lệnh chọn lấy Mạc Văn Phong - (tức Mạc Hầu Phong) - làm Đội trưởng, để coi việc thờ cúng Thiên Tứ: "Tự Đức năm thứ nhất (1848) ấm thụ cho cháu bốn đời là Mạc Văn Phong là Đội trưởng"...(6)

Cứ theo sắc lệnh này của vua Tự Đức, đương nhiên trước năm 1848, bia của Mạc Công Tài - nếu có - chưa thể có chữ "ấm Thụ Xuất Đội" - việc truy phong "ấm Thụ Xuất Đội" trên bia của Mạc Công Tài chỉ xảy ra sau sắc lệnh của vua Tự Đức. Thế là niên đại Quý Dậu trên bia của ông này không thể sớm hơn 1848. Ta có thể kiểm chứng niên đại Quý Dậu trên bia Mạc Công Tài bằng cách so sánh với bia của Phụng Nghị Đại phu Mạc Tiên Sinh. (Số 45), vì cả 2 bia đồng một niên đại tạo lập.

2/ Bia Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh:

- (Sđd. tr.211) - Văn bia trên đá, khắc nội dung như sau:

- Chính văn: "Đại Nam" - "Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh chi mộ".

- Lạc khoản phải: "Quý Dậu niên tạo"

- Lạc khoản trái: "Môn nhân Trần Hữu Tạo Ö lập" (xem ảnh chụp 2 in ở bìa 4 của số tạp chí này).

Nếu đặt gần nhau, người ta thấy rõ hai cái bia có những điểm giống nhau từ chất đá, kích thước, cả nét chữ đến lối sắp xếp văn bản (xem ảnh).

a) - Về chất liệu: 2 bia đều bằng một loại đá sa thạch mịn, màu xám xanh, mài láng mặt trước, không có hoa văn trang trí, mặt sau có dạng đá tự nhiên có chẻ.

- Về kích thước: 2 bia sít soát bằng nhau, sai lệch khoảng 1/2 phân trên mỗi cạnh; có thể lấy số gần bằng là 0,85x 0,45x0,10m.

b) - Về văn bia: nhìn thư pháp trên bia, dễ phát hiện do một người tạo tác. Sự đồng dạng trên thư pháp thể hiện rõ ở hai phương diện: một là nét chữ được thấy nơi chữ Đại, Nam, Mạc, Quý, Dậu, Niên, Tạo, Lập... Hai là cách sắp xếp, có sự nhấn mạnh để tránh hiểu nhầm giữa "Tạo" và "Lập", nơi câu lạc khoản (phải + trái), hai chữ đều đặt rời xa, phía dưới câu lạc khoản độ 2 tấc: (do chỗ chữ "Lập" đặt cách tên "Tạo" quá xa, nên bản chép được in trong sách HTMTTHK thiếu mất chữ này: sách in "Môn nhân Trần Hữu Tạo"; có lẽ người chép vội vàng ? Còn câu lạc khoản bên phải của 2 bia, sách lại in dư chữ "tuế").

Do các điểm tương đồng vừa nêu, tôi cho rằng cả hai bia được tạo lập đồng thời, do một người viết, cùng một nơi sản xuất. niên đại Quý Dậu trên 2 bia vì thế không thể sai lầm. Đó không phải năm Gia Long thứ 12 (1813), cũng không phải năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (Thuộc 2 ngôi mộ mới hơn, ghi số 19 và 25 trong sách HTMTTHK). Để cho sáng tỏ điểm này, chúng ta hãy tìm hiểu về Phụng Nghị Đại phu họ Mạc và thời đại sinh tiền của ông.

Xét văn bia 45 (Phụng Nghị Đại phu) có 2 điểm lạ:

a/ Phần chính văn không khắc tên của Mạc tiên sinh.

b/ Lạc khoản bên trái ghi trọn tên họ người lập văn bia là Trần Hữu Tạo", và trỏ mối quan hệ là "môn nhân" - tức "người trong họ". Vậy ông Tạo có quan hệ thế nào với Phụng Nghị Đại phu ? Nếu như nơi bia Mạc Công Tài đề tên con gái lập bia, ở đây Trần Hữu Tạo - tự xưng mình là "người của Mạc môn" - thì vô lý, ông là một kẻ ngoại tộc ? Theo đúng thông lệ, con trai đứng lập bia cho cha, đề chữ "Nam" hoặc "Hiếu Nam". Trong trường hợp này - Phụng Nghị Đại phu họ Mạc - nên ông Trần Hữu Tạo không thể dùng các chữ ấy. Do quy tắc chính danh, tương quan tộc hệ, ông Tạo chỉ còn cách tự xưng là "môn nhân", cho người đời sau biết rõ ông có liên hệ gần gũi. Nhưng mối liên hệ "Trần + Mạc" chặt chẽ đến mức nào ? Theo tôi nhận xét, Phụng Nghị Đại phu có thể là "anh ruột", cũng có khả năng là "cha" của ông Trần Hữu Tạo.

3) Truy tầm lý lịch Mạc tiên sinh:

- Nhận xét về ngôi mộ số 45, tác giả TKH chỉ viết vẻn vẹn 2 câu: "Quý Dậu chính năm Gia Long thứ 12 (1813). Chưa rõ lý lịch Mạc tiên sinh". "Quý Dậu đương thị Gia Long thập nhị niên (1813). Vị tường thử Mạc tiên sinh ở Hà Tiên, không một ai biết tên thật của ông. Gia phả xưa của họ Mạc do Võ Thế Doanh viết, không có ghi đã đành, vì sách kết thúc năm 1818. Tất cả những người từng khảo cứu về họ Mạc và lịch sử đất Hà Tiên xưa nay, không ai đề cập, dù chỉ viết một dòng về ngôi mộ này. Nay chúng tôi xin cống hiến quý độc giả chút tư liệu khả dĩ xác định nhân vật, soi sáng một điểm "chưa biết" của tác giả sách HTMTTHK.

Xin tìm hiểu hàm ý những chữ khắc trên bia:

a) Đại Nam: - Quốc hiệu nước ta sau Minh Mạng năm thứ nhất. Mộ này được lập sau năm 1820, không sớm hơn.

b) Phụng Nghị Đại phu: - Chức Thụy được ban cho Quan văn làm Đốc học hoặc Hồng Lô tự Thiếu khanh, trật Chánh ngũ phẩm (theo Lệ định thời Minh Mạng)(7).

c) Quý Dậu niên: - Trong lời luận giải bia số 11 trên đây, ông TKH nói: "Nguyên văn Quý Dậu (...1813) e không chính xác... Huống chi Đại Nam là quốc hiệu mới định sau khi vua Minh Mạng lên nối ngôi..." Thế là tại bia số 45 này, ông lại nói "Quý Dậu chính là năm Gia Long thứ 12 (1813) mặc dù văn bia có chữ Đại Nam rành rành đó. Tác giả quên chăng ?... Chúng ta hãy xét tới năm Quý Dậu thuộc thế kỷ kế tiếp của năm 1813: ấy là năm 1873. Để dễ thấy, ta ôn lại những nét trọng đại của lịch sử. Năm đó Pháp mới chiếm Hà Tiên vừa tròn 6 năm, họ đang tiến đánh Hà Tiên và Nguyễn Tri Phương hy sinh đền nợ nước.

d) Họ Trần và Họ Mạc liên hệ thế nào? Tôi nghĩ rằng Phụng Nghị Đại phu Mạc Tiên Sinh đã có thời mang họ Trần. Ông được vua Tự Đức cho cải chính để ăn theo họ Mạc, theo lệ định năm 1857. Lệ ấy như sau: "Lệ cải chánh - Năm Tự Đức thứ 10 (1857) định rằng phàm viên chức nào lúc bé lưu lạc, không rõ quán chỉ đích thực; sau khi đã thành lập mới dò hỏi được đích xác mà cải chánh, thì chuẩn miễn cho sự xử phạt. Tựu trung đã có thể nên cải chánh, mà lần chần cẩu thả không tâu xin cải chánh ngay, thì dù không có lòng riêng muốn trốn tránh điều gì cũng phải xử phạt ... ".

(Xem Đại Nam điển lệ toát yếu, (Sđd phụ chú (7), tr.124-125, mục cải chánh).

Trường hợp thay họ đổi tên phù hợp hoàn cảnh con cháu họ Mạc sau năm 1833 - 1834 như trên đã nói. Gần đây các học giả Việt Nam có nhắc đến một trường hợp rất cụ thể, xứng hợp các điều ghi ở bia Mạc tiên sinh(8) - Trong số các học giả ấy, nên kể đến ông Nguyễn Đổng Chi, người phát hiện lai lịch và tác phẩm của họ Mạc từng mang họ Trần, trong bài viết: Một bài hịch lưu hành ở Gia Định vào thời kỳ trước thực dân Pháp bắt đầu xâm lược. Ông viết: "Năm 1860... Nguyễn Tri Phương đã giao cho đốc học Định Tường ngày ấy là Mạc Như Đông soạn một bài hịch, lấy lời một "vị nguyên nhung" nói với quân dân Gia Định. Tác giả vạch tội ác "thần dân đều giận, săn cỏ cũng hờn" của bọn cướp Tây di... Bài hịch này soạn bằng tiếng Việt"(8).

Ông Nguyễn Đổng Chi cũng nói rõ xuất xứ bài hịch: "Bài này được Trương Vĩnh Ký sưu tầm và đăng trên tập Sử loại thông khảo hoặc có tên là Thông loại khóa trình (Miscellanées) số 2 tháng 6 năm 1889 - một loại nguyệt san xưa ở Sài Gòn"(9). Nơi chú thích số 2, ông Nguyễn Đổng Chi nói rõ về lai lịch tác giả Mạc Như Đông: Quốc triều hương khoa lục ghi tên ông là "Trần Nghị Đông" và chú thích như sau: "Ông nguyên là người Hà Tiên, họ Trịnh đăng ký hộ tịch ở quê mẹ. Sau chuyển ra sinh sống ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, Phụ thí (ở trường thi Thừa Thiên). Làm quan Đốc học Định Tường" (Quyển II, tờ 52b). Theo chúng tôi QTHKL chép nhầm Mạc (莫) ra Trịnh (鄭) vì ở Hà Tiên có dòng họ Mạc rất đông đúc. Mạc Nghị Đông hay Trần Nghị Đông đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843)... (Ngày nay ta có thể dễ dàng tìm đọc trong sách Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, do Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính, Nxb. Tp. HCM, 1993, tr.233). So về niên đại, hoàn cảnh lịch sử và họ Trần đổi họ Mạc, chúng ta có thể nói: ngôi mộ có bia số 45 tên "Phụng Nghị Đại phu Mạc tiên sinh", tạo lập năm 1873 chính thật là mộ của Mạc Như Đông, xưa có tên là Trần Nghị Đông hay Mạc Nghị Đông.

Xét vì năm in đầu tiên của phần chánh biên bộ Quốc triều hương khoa lục (1873)(10) đã chép về ông (có sự thay đổi từ họ Trần trở lại họ Mạc) và bia mộ Mạc tiên sinh cũng khắc vào năm này (1873) đâu phải là điều trùng hợp ngẫu nhiên, không dựa trên cơ sở nào. Tôi cho rằng cái cơ sở đó chính là lệnh cải chánh của vua Tự Đức. Nhưng khó xác định thời điểm nào ông Trần Nghị Đông cải chánh để ăn lại họ Mạc. Bởi lẽ Hoàn cảnh "lúc bé lưu lạc, không rõ quán chỉ đích thực, sau khi đã thành lập mới dò hỏi được đích xác" được ghi rõ trong "Lệ cải chánh". Bất cứ ai cũng có thể nghĩ: ông Đông đã trình bày hoàn cảnh của mình để xin cải họ; tạo thành tiền lệ cho định lệ... Đến đây có thể tóm tắt lược tiểu sử của ông như sau:

Mạc Nghị Đông - hay Trần Nghị Đông - cháu nội của Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ (hay Tích) - (chưa rõ ông Đông là con ai, chỉ thấy trong tên Đông của ông có bộ Mộc (木) bàn giai với Mạc Công Du và Mạc Công Tài)(11). Năm 1833, khi xảy ra biến cố Lê Văn Khôi, họ Mạc bị khép tội. Riêng cậu Đông còn bé được mẹ đưa về quê ngoại ở xã Mộ Trạch (Hải Dương). Mộ Trạch là một làng khoa bảng sản sinh nhiều vị Tiến sĩ. Cậu đăng ký hộ tịch ăn họ mẹ và đi học. Sau vào thi nhờ ở trường Thừa Thiên (Kinh đô). Ông Đông được đỗ Cử nhân năm 1843, bổ nhậm Đốc học Định Tường. Khoảng 1860, Nguyễn Duy (em ruột Nguyễn Tri Phương) làm Tán Lý đạo Định Biên đóng ở Tân An - (Long An bây giờ) cùng với Mạc Như Đông qui tập về Gia định phục vụ trong ban đầu não của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương bảo ông làm bài hịch khích lệ quân dân chống Pháp. Trong lời hịch có những lời lẽ mạnh bạo, cứng rắn, nguyền rủa bọn Tây cướp nước: "Cớ chi một gốc Tây di khác lòng trâu ngựa, (...) Quỷ trắng đâu vùng vẫy dưới trời, (...) Thói hung bạo thần dân đều hận, dạ tham ô tuy săn cỏ cũng hờn (...)". Vì ông có quá trình chống Pháp cho nên khi ông mất (1873), người ta không để tên thật của ông trên bia, phòng hờ bọn Pháp biết được sẽ khủng bố trả thù cánh họ Mạc ở Hà Tiên. Năm 1873, bộ máy cai trị của Pháp ở Hà Tiên còn mới mẻ, chưa ổn định... Khi đưa ông về chôn ngay dưới chân Mạc Thiên Tích, hẳn người xưa nghĩ rằng Phụng Nghị Đại phu Mạc Như Đông xứng đáng nằm vào nơi vinh dự đó. Ngày nay chúng ta biết rõ lai lịch và tinh thần yêu nước kháng Pháp của ông, thời Pháp mới xâm lăng nước ta, lẽ nào ta nỡ để cho mộ phần ông bị san bằng quên lãng cách tội nghiệp ?

Hà Tiên, ngày 31 tháng 5 năm 1996

Chú thích:

(1) Báo Nhân Dân số 14.792 ngày Chủ Nhật 17.12.1995.

(2) Viện Khảo cổ Sài Gòn dưới thời chánh quyền Ngô Đình Diệm. Tháng 11 năm 1963 có cuộc đảo chánh tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm bị giết, Chính phủ kế nhiệm không còn tin dùng những người từng phục vụ cho chế độ trước, đã cho ông Trần Kinh Hòa ngưng việc ở các Đại học miền Nam, trở về Hương Cảng (Hong Kong).

(3) Trước đây trong bài viết: Truy nguyên và đính chính một số sai lệch trong sách Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt thuộc tỉnh Hà Tiên cũ”, chúng tôi đã có vạch một điểm sai do ngộ nhận về ngôi mộ số 30. Ông Trần Kinh Hòa chỉ căn cứ vào sách Đại Nam nhất thống chí nên sai về sự tích ngôi chùa Phù Dung và lịch sử bà Từ Thành Thục Nhân.

(4). Tư liệu của Jackenet theo Nguyễn Phan Quang dẫn chứng trong quyển "Cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833 - 1835)”. Nxb. Tp. HCM, 1991, tr.87, chú thích số 23. Trong chú thích này tác giả Nguyễn Phan Quang nói quân Xiêm kéo sang "khoảng cuối tháng 12 năm Giáp Ngọ tức đầu năm 1835", có lẽ đã lầm. Chúng tôi đọc thấy trong Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ (IX và X), tập XIII và XIV về năm 1833 - 1834 (Nxb. KHXH, H. 1965); Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam (Nxb. KHXH. H. 1987, tr.443), tóm thuật sự việc xảy ra vào tháng Chạp âm lịch năm Quý Tỵ (1833), như sau: "Hơn 100 binh thuyền nước Xiêm xâm phạm tỉnh Hà Tiên. Hà Tiên thất thủ, triều đình phải cử binh thuyền đến An Giang chặn đánh địch". Sách Việt sử tân biên, Phạm Văn Sơn, (Q.IV - Sài gòn, 1961, trang 365-366-367-368) mô tả rõ trận này; đã viết: "Quốc vương xứ này xét cơ hội thuận tiện nên đã cho ba đạo quân tiến đánh Nam Kỳ vào tháng Chạp năm 1833. Thủy quân Tiêm La với 100 chiến thuyền từ bể xông vào Hà Tiên..." Tháng Chạp năm Quý Tỵ tức là từ ngày 10/1/1834 đến ngày 8/2/1834. Ông Phạm Văn Sơn cũng nói rõ ở trang 368, Sđd "Cuộc xung đột Việt - Tiêm khởi từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ(1834) đến hết tháng naem thì kết liễu. Ngày 1 tháng Giêng năm Giáp Ngọ là ngày 9/2/1834 và tháng Năm/Giáp Ngọ/ thuộc vào tháng 6/1834. Ông Phạm Văn Sơn cũng nói rõ đã dùng tài liệu của M.Gaultier: Minh Mạng.

(5) Đại Nam thực lục chánh biên Đệ tam kỷ, Q.477, Tờ 1/a,b.

(6) Đại Nam liệt truyện, Tập I (Tiền biên), Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr.183-184.

(7) Nguyễn Sĩ Giác: Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb. Tp. HCM 1993, tr.22-23.

(8) Xem - Nguyễn Đổng Chi - Nghiên cứu lịch sử số 2/173 tháng 3+4, 1977, tr.71-72.

- Ca Văn Thỉnh: Hào khí Đồng Nai, Nxb. Tp. HCM, 1983, tr.42-43 và 134-137.

- Cao Tự Thanh: Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập II, tr.94.

- Nhóm Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nguyễn Khuê - Trần Khuê: Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn xưa, Nxb. Tp. HCM, 1987, tr.290 - 295.

(9) Tạp chí Miscellanées của Trương Vĩnh Ký, có tên đầy đủ là "Miscellanées ou lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales et cantonales (kể từ số 4, Aout 1888 có thêm: "et les familles" par P.J.B Trương Vĩnh Ký. Sg.Imp. Commerciale Rey et Curiol 1888-1889 "Đầu trang bìa, trên chữ Miscellanées có một hàng chữ Hán, đọc từ trái qua mặt "Thông loại khóa trình" (Xem Bằng Giang: Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb. Văn học, SG 1994, tr.62.

(10) Quốc triều hương khoa lục, Cao Xuân Dục, Nxb. Tp. HCM, 1993. Chúng tôi chọn năm 1873 là năm in đầu tiên của Phần chánh biên bộ sách này, do Phan Đình Toái viết bài tựa.

(11) Họ Mạc truyền tử lưu tôn theo thứ tự "Thất diệp phiên hàn": Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Đồng thời trong tên riêng viết có kèm các bộ Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ - theo ngũ hành: Thế hệ Mạc Thiên Tích lót chữ Thiên, trong chữ Tích có bộ kim (金); Thế hệ thứ hai lót chữ Tử (như Tử Hoàng...) trong chữ Hoàng có bộ Thủy (氵); Thế hệ thứ ba lót chữ Công (Như Công Tài), trong chữ Tài có bộ Mộc (木); thế hệ thứ tư lót chữ Hầu (như Hầu Hi), trong chữ Hi có bộ Hỏa (火)./.

TB

MỘT DỊ BẢN
CỦA BÀI THƠ "XUÂN HỨNG"

NGUYỄN CÔNG LÝ

Báo Văn nghệ số 19 (11-5-1996) trang 15 có đăng bài “Những bài độc đáo về hình thức trong thơ ca cổ điển Trung Quốc” của tác giả Phan Văn Các. Sau khi giới thiệu bài thơ “Đề Kim Sơn Tự” (Tô Thức), tác giả đã chỉ ra những cái hay vẻ đẹp, cái độc đáo của bài thơ Đường luật viết theo lối thuận nghịch đọc, từ đó, tác giả có liên hệ một bài thơ khác của Việt Nam cũng độc đáo không kém. Bài thơ đọc xuôi theo chữ Hán và đọc ngược theo chữ Nôm, đó là bài Xuân Hứng mà người viết cho rằng tác giả của bài thơ có lẽ là Vua Tự Đức (tôi gạch dưới - NCL).

Bài thơ như sau:

Xuân Hứng
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài,
Khách bộ tùy sương ấn bích đài.
Kỳ cục đã (1) thanh phong giáp trận,
Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi.
Sơ liêm thấu nguyệt hương lung trúc,
Tuyết án lăng hoa vị áp mai.
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm,
U tình cố nãi thuộc quyên ai.

Tác giả bài báo đã liệt kê “âm đúng” và “âm chệch” của các chữ Hán được mượn nguyên hình làm chữ Nôm (gồm 21 chữ) và đọc ngược bài thơ thành bài thơ Nôm như sau:

Ai quen thuộc nấy có tình u,
Đêm tĩnh đầu am cỏ phất phơ.
Mai ướp mùi hoa lừng án tuyết,
Trúc lồng hương nguyệt thấu rèm thưa.
Bôi hòa tuyết bạch nghiêng hồ rượu,
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ.
Đài biếc in sương tùy bước khách,
Hài hoa lỏng lẻo dưới đàn thơ.

Thế nhưng, trên tạp chí Phổ thông bán nguyệt san của Sài Gòn ngày xưa (do nhà thơ Nguyễn Vĩ làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút - rất tiếc tạp chí này đã quá cũ, đã rách gần hết nên không rõ số, năm) và trong sách Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Nam Chi tùng thư, S, 1966 đều ghi bài thơ trên là của Vũ Duy Thanh, một vị quan và là bạn thơ của nhà Vua - thi sĩ Tự Đức.

Vũ Duy Thanh (1806-1861) người làng Kim Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thuở nhỏ nổi tiếng thông minh và có tài ứng đối nhưng lại lận đận trong thi cử, thiếu thời thi đến mấy lần mới đậu Cử nhân, lại mấy lần hỏng thi Hội, mãi đến năm 1851 đậu Phó bảng. Sách cũ chép rằng, sau khi treo bảng xong. Tự Đức nằm mơ thấy bỏ sót người tài nên mới mở Ân khoa (khoa thi Hoành Từ) luôn năm đó cho các Tú tài, Cử nhân, Phó bảng vào dự thi. Kỳ thi Hội khoa Hoành Từ này Vũ Duy Thanh đứng thứ nhì, sau ông Vũ Huy Dực (Bắc Ninh). Vào thi Đình, Vũ Duy Thanh được 8 phân, trúng Bảng nhãn, còn Vũ Huy Dực được 6 phân, trúng Thám hoa (ở triều Nguyễn không lấy Trạng nguyên, ở bảng đệ nhất giáp, chỉ lấy Bảng nhãn, Thám hoa).

Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc tử giám, không những ông giỏi thơ văn mà còn giỏi cả khoa học. Ông là người phát hiện ra than đá ở Quảng Yên (Quảng Ninh ngày nay), là người chế tạo ra thuyền chạy bằng hơi nước; và là người khuyên Tự Đức nên tập luyện thủy binh để phòng ngự mặt biển. Rất tiếc, những phát minh và ý kiến của ông được vua tự Đức khen hay, nhưng không tin dùng ngay vì chưa cần làm. Ông mất ngày mồng 4 tháng 4 năm Tự Đức thứ 14 (1861) lúc mới 56 tuổi. Bài thơ của ông có nhan đề là “Phong hoa tuyết nguyệt”. So với văn bản mà báo Văn nghệ số 19 đã in, bài thơ này không chỉ viết theo lối thuận nghịch đọc mà còn theo lối thủ vĩ ngâm nữa (câu đầu, câu cuối giống nhau).

Phong hoa tuyết nguyệt
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài,
Khách bộ tùy sương ấn bích đài.
Kỳ cục đả phong thanh áp trận.
Tửu biều nghinh tuyết bạch hoa bôi.
Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc,
Yến tịch lăng hoa vị át mai.
Phi phất lĩnh đầu chiêm tĩnh điếm,
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài.

(Những chữ in đậm và cả 8 câu là khác với bản của tác giả bài trên Văn nghệ số 19).

So sánh hai bài thơ thì Câu 1, Câu 2 giống nhau; Câu 3: giáp/ áp; Câu 4 khác: hồ/ biều, khuynh bạch tuyết…/ nghinh tuyết bạch; Câu 5 khác: lung trúc; ly cúc; Câu 6: tuyết án/ yến tịch; áp/ át. Câu 7: thảo am đầu…/ lĩnh đầu chiêm… và câu 8 hoàn toàn khác nhau.

Dịch nghĩa:

Đi giày thêu đến đài thơ, qua rặng liễu nhỏ,
Lốt giày khách đi sớm in trên rêu biếc.
Nhân lúc gió mát đánh cuộc cờ,
Có tuyết xuống nghiêng bầu rượu uống
Vườn cúc bóng trăng soi qua rèm thưa,
Mùi hương hoa mai đưa vào tiệc yến.
Phất phơ gió thổi qua điếm vắng trên đỉnh núi,
Đi giày thêu đến đài thơ, qua rặng liễu nhỏ.

Đọc ngược bài thơ theo chữ Nôm như sau:

Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ,
Điếm tạnh xem đầu núi phất phơ.
Mai át mùi hoa lừng tiệc yến,
Cúc lìa hương nguyệt thấu rèm thưa.
Chén hòa bạch tuyết nghiêng bầu rượu,
Trận áp phong thanh đánh cuộc cờ.
Rêu biếc in sương theo bước khách,
Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.
(Giai thoại làng nho,
trang 251).

Những “âm đúng” và “âm đọc chệch” từ chữ Hán làm chữ Nôm, GS. Phan Văn Các đã chỉ rõ, ở đây tôi không nhắc đến nữa. Có điều cần lưu ý là cha ông ta ngày xưa không những tiếp thu thể loại văn học Trung Quốc Thơ luật - Đường, lối thuận nghịch độc lối thú vĩ ngâm mà còn sáng tạo, đổi mới rất độc đáo. Nếu lối thơ thuận nghịch độc của Trung Quốc, đọc xuôi đọc ngược đều là chữ Hán, thì ở Việt Nam, qua bài thơ của Vũ Duy Thanh, đọc xuôi theo chữ Hán và đọc ngược thành bài chữ Nôm ý vị không kém so với bài chữ Hán. Thế mới biết văn hóa chữ Hán độc đáo vô cùng và mối giao lưu văn hóa trong khu vực sâu sắc vô cùng !

Chỉ qua một hiện tượng trên, có thể nói rằng ông cha ta ngày xưa đã biết kế thừa cái hay của nước ngoài, tiếp thu có sáng tạo để làm giàu cho văn hóa nước nhà, thể hiện rõ bản sắc dân tộc./.

TB

VỀ BỨC THƯ "GỬI PHỤ LÃO TOÀN QUỐC" CỦA HỒ CHỦ TỊCH TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

VŨ TUẤN SÁN

Trên báo Người cao tuổi số 12 ra ngày 1-5-1996 có đăng ở trang đầu "Thư Cụ Nguyễn Ái Quốc gửi các vị phụ lão trong cả nước tháng 6-1941", toàn văn tiếng Việt, bằng lời lẽ sôi sục tình yêu nước, kêu gọi các bậc cao niên hồi đó tham gia sự nghiệp toàn dân đấu tranh chống Pháp Nhật, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Bài báo không ghi, thực ra đây chỉ là bản dịch, nguyên văn bức thư được viết bằng chữ Hán, và đã được phổ biến khá rộng rãi trong những năm phong trào Việt Minh hoạt động mạnh trước Cách mạng Tháng 8, và còn ở trong trí nhớ nhiều vị tuổi cao. Người viết bài này, vào năm 1963, nhân một chuyến công tác vùng nông thôn huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, đã được mấy cụ đọc thuộc cho nghe, và đã ghi lại. Các cụ cho biết bài này, vào khoảng đầu năm 1944, được truyền miệng cho nhau là chủ yếu, và nếu có giấy tờ thì cũng hủy đi ngay sau khi học thuộc vì không muốn để lại một hình tích gì cho phép bọn cầm quyền lấy cớ để khủng bố. Văn bản chữ Hán sau đây đã được ghi và được dịch từ hồi đó, đối chiếu với văn bản tiếng Việt in trên báo Người cao tuổi không khác nhau mấy, chứng tỏ nguyên bản Hán văn đã được lưu lại khá trung thực trong trí nhớ các cụ. Dĩ nhiên vì chỉ dựa vào ký ức, nên không tránh được những sai sót. Mong sao sau này sẽ sưu tầm nếu không được chính bản, thì cũng được một bản chép tay hồi đó, để được một văn bản có giá trị xác thực hơn. Dù sao, văn bản hiện có vẫn có giá trị rất lớn. Bản thân việc sưu tầm có kết quả, chứng tỏ năng lực cường ký đáng khâm phục, và nhất là tinh thần yêu nước sẵn có của các bậc cao niên, do sẵn nhiệt tâm nên dễ nhập tâm những lời kêu gọi đấu tranh cứu nước, nhất là với tên ký Nguyễn Ái Quốc, một chiến sĩ cách mạng được mọi người đương thời khâm phục, không chỉ ở nơi thành thị, mà cả những chốn thôn xóm xa xôi.

Dưới đây, chúng tôi xin trân trọng bản phiên âm, dịch nghĩa và chú thích toàn văn bức thư "Gửi phụ lão toàn quốc" (Ký toàn quốc phụ lão thư) của Hồ Chủ tịch do chúng tôi từ lâu sưu tầm được .

Phiên âm:

Ký phụ lão toàn quốc thư.

Thân ái chư vị Phụ lão,

Quốc gia nhậm vụ, ngô bối phụ lão chi trách nhậm kỳ thậm đại yên. Quốc gia chi hưng, phụ lão phù chi. Quốc gia chi tồn, phụ lão trợ chi. Quốc gia chi suy, phụ lão cứu chi. Quốc gia chi vong, phụ lão vãn chi. Quốc gia chi hưng vong tồn suy, phụ lão giai hữu trọng đại chi kiên đởm dã.

Hán thất chi suy, hữu Thương Sơn tứ hạo chi ưu; Tấn triều chi thịnh, hữu Trúc Lâm thất hiền chi lạc. Quốc gia chi ưu, phụ lão dĩ phân kỳ ưu, quốc gia chi lạc, phụ lão dĩ cộng kỳ lạc. Ngã tiền triều, Nguyên nhung tứ ngược, chí Minh tặc bạo hoành, Trần Hưng Đạo Lê Thái Tổ triệu chư huyện phụ lão, mưu đồ khôi phục, để kháng xâm lăng. Thượng hạ đồng tâm, quân dân nhất trí. Anh hùng sự nghiệp hiển hách đương thời; hào kiệt thanh danh vinh quang hậu thế. Diệc nhân đương đại phụ lão chi hô hào dã, chi cổ vũ dã, chi khích lệ dã.

Tự tòng Pháp nhân xâm lược ngã tam kỳ, thủy nhi phạm ngã hải tần, đại hải chi ba đào diệc nộ, chung nhi chiếm ngã thổ địa, thâm sơn chi thảo mộc giai cừu. Do thị nhân dân chí sĩ, hữu tâm can giả, hữu chí khí giả, tiếp tích nhi khởi. Hà Tĩnh chi Phan Đình Phùng, Bắc Giang chi Hoàng Hoa Thám, cập Bắc Sơn, Đô Lương, Nam Kỳ khởi nghĩa, liệt liệt oanh oanh, lạc vô số ngạch đầu dĩ báo quốc thù, sái vô tận tiên huyết dĩ tẩy quốc hận. Nhãn tiền cứu quốc chi nghĩa, diệc do phụ lão chi cấu tạo yên, chi bồi dã yên, chi tẩm nhuận yên. Hiện kim Pháp quốc khốc tàn vị đoạn, hựu gia Nhật Bản bạo ngược nan đương, tăng sát hại lương dân, chiếm cứ thổ điền, tịch thu thương cốc. Ô hô! Quốc gia trầm luân, đồng bào đồ thán, tứ cố thương mang, phủ tâm tự vấn: phụ lão kỳ hữu tâm hồ? hữu ái quốc nhiệt thành hồ ? Hà tuy nhãn hoa phát bạch thủ nuy túc quyện, nhi nhất ngôn kỳ ảnh hưởng khả dĩ hưng bang, nhất động kỳ ảnh hưởng khả dĩ sát tặc. Thoát mộc kỹ (1) dĩ đả bạo ngược chi đầu; huy trúc trượng dĩ bạt hung kiêu chi cảnh. Đối ư gia đình, phụ lão hữu trọng trách chi tôn. Đối ư hương lý tông tộc, phụ lão hữu uy tín chi trọng. Phụ lão hô nhi nhân ứng chi, phụ lão hành nhi nhân tòng chi. Hô đương hô chi thanh, hành đương hành chi sự. Hữu tài giả xuất tài, hữu lực giả xuất lực. Liễm phong thành cụ; tụ yên thành vân. Toàn quốc đồng bào đương kim kiều thủ ngưỡng vọng ư ngô sài phụ lão dã.

Nguyễn Ái Quốc

Dịch nghiã:

Thư gửi phụ lão toàn quốc (2)

Các vị phụ lão thân mến,

Đối với nước nhà, các phụ lão chúng ta có trách nhiệm rất lớn. Nước nhà dấy lên, phụ lão tôn phò. Nước nhà đang còn, phụ lão trợ giúp. Nước nhà suy, phụ lão ứng cứu. Nước nhà mất, phụ lão phục hồi. Nước nhà thịnh, suy, còn, mất, phụ lão đều có trách nhiệm nặng nề.

Nhà Hán suy, có sự lo âu của bốn vị tóc bạc Thương Sơn (3). Nhà Tấn thịnh, có cảnh vui chơi của bẩy người hiền Rừng Trúc (4). Nước nhà lo, phụ lão chia mối lo. Nước nhà vui, phụ lão chung niềm vui. Dưới các triều trước đây ở nước ta, quân Nguyên ngang ngược, tiếp đến giặc Minh bạo tàn. Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ triệu tập phụ lão các huyện bàn việc khôi phục, chống quân xâm lăng. Trên dưới chung lòng, quân dân một chí. Sự nghiệp anh hùng đã rỡ rạng thời đó; thanh danh hào kiệt còn ngời sáng đời sau. Đó cũng là nhờ công phụ lão đương thời hô hào, cổ vũ và khích lệ.

Từ khi người Pháp đánh chiếm ba kỳ nước ta, vùng bể mới bị phạm, sóng gió trùng khơi đều căm giận; đất đai sau bị chiếm, cỏ cây non thẳm cũng hận thù. Cho nên hiền nhân chí sĩ có tâm can, có khí phách đều nối tiếp nhau nổi dậy. Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Hoàng Hoa Thám ở Bắc Giang, rồi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương. Nam Kỳ, lẫy lừng oanh liệt. Bao đầu cứng đã rụng để báo quốc thù; bao máu tươi đã đổ để rửa quốc hận. Nghĩa lớn cứu nước rành rành, thực đã do phụ lão nhen nhóm, bồi đắp và nuôi dưỡng.

Hiện nay, quân Pháp không ngớt tham tàn, lại thêm quân Nhật vô cùng bạo ngược, càng sát hại dân lành, chiếm đoạt ruộng đất, tịch thu thóc kho. Ôi! Nước nhà chìm đắm, đồng bào lầm than, nhìn bốn phương mờ mịt, tay đặt lên tim tự hỏi: phụ lão có tâm hồn không, có nhiệt tình yêu nước không. Dù cho mắt mờ tóc bạc, tay run chân mỏi, nhưng nói một lời, tiếng vang có thể cứu nước, làm một việc, tác dụng có thể giết giặc. Rút guốc gỗ đánh dập đầu bạo ngược, vung gậy tre phạt ngang cổ hung tàn. Đối với gia đình, phụ lão được tôn trọng vì trách nhiệm nặng nề. Đối với làng xóm họ hàng, phụ lão được tôn trọng vì uy tín lớn. Phụ lão nói mà người người hưởng ứng, phụ lão làm mà người người noi theo. Nói tất nói lời đáng nói, làm tất làm việc đáng làm. Có của bỏ của, có sức bỏ sức, góp gió thành bão, tụ khói thành mây. Đồng bào ta có nước đang nghểnh cổ trông đợi ở phụ lão chúng ta!

Nguyễn Ái Quốc

CHÚ THÍCH

(1) Các cụ đọc là "kỹ". Theo Từ điển Khang Hy, và Hán Việt tự điển của Thiều Chửu thì âm đúng là "kịch".

(2) Nguyên văn chữ Hán của bài trên được sưu tầm năm 1963 tại huyện Gia Lâm do cụ Nguyễn Văn Huệ, hồi đó 81 tuổi, người thôn Nông Vụ Đông (tức thôn Vụ Đông, xã Hội xá) đọc và cụ Hoàng Đình Oanh, hồi đó trên 60 tuổi, người thôn Vàng (xã Cổ Bi) bổ sung một số câu. Các cụ đã được biết bài này vào khoảng giữa năm 1944, và đã học thuộc lòng. Lời văn đã in sâu trong trí nhớ suốt 20 năm, trước khi được ghi lại trên giấy. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo và bổ sung theo một bản của đồng chí Chu Hà, hội Văn Nghệ Hà Nội.

(3) Bốn vị tóc bạc (Thượng Sơn tứ hạo): chỉ bốn cụ già cuối đời Tần, Trung Quốc, tránh loạn ẩn ở Thương Sơn. Cả bốn vị đều trên 80 tuổi, tóc và lông mày đều bạc trắng. Hán Cao Tổ lên ngôi vua, muốn mời ra giúp việc, bốn người đều từ chối. Sau Cao Tổ muốn phế bỏ thái tử Doanh, lập Triệu vương Như ý. Lã Hậu nghe lời Trương Lương cho người đến cầu xin bốn cụ giúp. Bốn cụ theo thái tử vào nói với vua. Sau đó, vua bảo: "(Thái tử được bốn cụ giúp) thật như mọc lông cánh". Bèn thôi chuyện truất phế.

(4) Bẩy người hiền Rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền): đầu đời Tấn (265 - 420), bẩy người trong đó có Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh... kết bạn, thường hội họp ở rừng trúc, vui chơi thoả thích, người đương thời gọi là "Trúc Lâm thất hiền".

(Vũ Tuân Sán sưu tầm, dịch và chú thích)

TB

THÊM BỐN BÀI THƠ "LƯ KHÊ NHÀN ĐIẾU" CỦA MẠC THIÊN TÍCH

CAO TỰ THANH

Là người sáng lập đồng thời là người đứng đầu Tao đàn Chiêu Anh Các ở trấn Hà Tiên, Mạc Thiên Tích cũng là một nhà thơ nổi tiếng ở Đàng Trong thế kỷ XVIII. Ngoài các tác phẩm như Hà Tiên thập vịnh, Hà Tiên quốc âm thập vịnh, Thụ đức hiên tứ cảnh..., ông còn có ba mươi bài thơ và một bài phú cùng mang nhan đề Lư Khê nhàn điếu (Rạch Vược câu nhàn) in chung trong một tập lấy tên là Minh bột di ngư. Bản in đầu tiên của tập thơ này trước 1771 đã mất; còn bản in thứ hai có tên Minh bột di ngư trùng bản do Trịnh Hoài Đức cho khắc in năm 1821, từng được tác giả Ngạc Xuyên giới thiệu năm 1943 hiện cũng khó tìm lại được (1). Đây là một điều đáng tiếc đã gây nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nói chung và thơ văn Mạc Thiên Tích nói riêng trong nhiều năm qua. Bởi vì nếu những Hà Tiên tập vịnh, Thụ đức hiên tứ cảnh... là tiếng nói chung của cộng đồng Việt Nam ở trấn Hà Tiên thế kỷ XVIII, thì Minh bột di ngư lại là tiếng lòng riêng tư của bộ phận người Hoa phản Thanh phục Minh ở Hà Tiên và cả Đàng Trong buổi ấy, những người yêu nước phải đào vong tị nạn và trong quá trình đấu tranh để hoà nhập vào một không gian sống mới cũng chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần... Khía cạnh ấy sẽ ít nhiều được Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) sau này khái quát qua bài Đề bột di ngư tập hậu (Đề sau tập Minh bột di ngư) với niềm hoài cổ của một ông quan thời vong quốc trong thân phận Kim Giang tướng công:

Cựu quốc hoang lương sự dĩ thù,
Ky nhân hải ngoại độc thừa phù.
Tự phi kinh cức quy chân chủ,
Cánh hướng yên ba học điếu đồ.
Thiên lý vãn triều quy túc lộ,
Bán khê xuân lục trưởng tân bồ.
Anh phong quan dữ tư nhiên tận,
Liêu quách giang thiên phiến nguyệt cô.


(Nước cũ tan tành việc đã lâu,
Bè côi vượt bể ngạo ba đào.
Mở đường gai góc theo vua thánh,
Hướng nẻo sông hồ học bạn câu.
Ngàn dặm sóng triều cò nghỉ cánh,
Nửa khe xuân biếc cỏ khoe màu.
Phong tư người trước nay đâu vắng,
Quạnh quẽ trời sông mảnh nguyệt đau.
(Kim Giang thi tập)

Vì nhiều lí do, trước 1975 việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nhìn chung chưa được tiến hành rộng rãi, ngay cả khâu điều tra, sưu tầm, xác minh tư liệu. Cho đến 1977, chúng tôi chỉ mới đọc được bài phú Lư Khâu nhàn điếu trong Nam hành ký đắc của Phạm Nguyễn Du (2) và ba bài thơ Lư Khê nhàn điếu: hai bài trên tường Trung nghĩa từ thờ họ Mạc ở Hà Tiên, đã được Đông Hồ giới thiệu trong Văn học Hà Tiên, Quỳnh Lâm, Sàì Gòn, 1970 và một bài do Ngạc Xuyên giới thiệu trong Đại Việt tập chí. Năm 1985 chúng tôi lại đọc được trong một hợp tập thơ văn chữ Hán chép tay tại Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh thêm bốn bài nữa. Bốn bài này có nhan đề "Lư Khê nhàn điếu (tứ thủ)" chép lẫn giữa một số thơ văn khác về Hà Tiên, cuối hợp tập có dòng chữ "Nam triều Bảo Đại Giáp Tuất niên tam nguyệt sơ nhất nhật, An Trường Hải Nhi thư vu Hà Tiên chi lữ thứ" (ngày 1 tháng 3 năm Giáp Tuất niên hiệu Bảo Đại Nam triều - 14.4.1934, An Trường Hải Nhi (?) chép ở đất khách Hà Tiên). Sau đây là nguyên văn và thứ tự bốn bài thơ nói trên:

I.

Lãng bình nhân ổn tự du tai,
Nhàn đãng khinh chu điếu kiển hồi.
Hôn trực thâm trầm câu nhĩ trọng,
Lân la loạn chiếm thủy văn khai.
Trú tầm vân ảnh tùy lưu bạc,
Dạ trục hàn quang đới nguyệt hồi.
Tiếu ngạo yên ba thời xuất một,
Tương kỳ khê tịch hải triều lai.

II.

Sấn tễ phù thanh triển điếu luân,
Trường lưu nhân tại bích khê xuân.
Kim sàm trục ảnh phao hương nhĩ,
Ngọc chức lâm ba duệ cẩm lân.
Vạn khoảnh bất kinh phong lãng khởi,
Tứ thời trường dữ thủy vân lân.
Nhàn thừa kha hạm ngâm phong nguyệt,
Độc điếu uông dương lão thử thân.

III.

Kỷ loan phong nguyệt nhất khê vân,
Triêu tịch tương ư duật lộ quần.
Hiểu trướng lạm lai ngư phún tuyết,
Minh yên hàn để thủy phiên văn.
Tung hoành tối ái phù chu ổn,
Thư quyện thiên năng đắc cối tần.
Nhược vấn điền viên hà xứ thị,
Bích thiên vô tế thủy vô ngân.

IV.

Nhạn hạc lô từ hiệp hữu bằng,
Lư hà liêu chử hảo y bằng.
Vi mang hiểu sắc tầm ngư ảnh,
Tễ bích tình không lý điếu thằng.
Khứ trú tự do dao đoản tiếp,
Đô tây tương chiến hữu hàn đăng.
Bàng lưu độc vấn tâm trung sự,
Dục phỏng Bàn Khê khước vị năng.

Tạm dịch:

I.

Sóng yên người ổn thật vui thay,
Thong thả thuyền câu ngược rạch bơi.
Mồi nặng dòng sâu dây nhợ thẳng,
Nước xao gió gợn vảy hoa bày.
Sáng tìm mây loáng theo khe chảy,
Đêm đuổi sương bay đội nguyệt về.
Cười cợt ra vào nơi khói sóng,
Vừa cơn ròng tối đã triều mai.

II.

Mưa tạnh trời trong khẽ nhắp cần,
Theo dòng câu cá tới khe xuân.
Lưỡi vàng đuổi bóng theo mồi nhẹ,
Tơ ngọc vào sông đẩy sóng dần.
Muôn khoảnh ba đào lòng há sợ,
Bốn mùa mây nước nghĩa càng thân.
Dong thyền rảnh rỗi ngâm trăng gió,
Trên biển già nua ngạo tấm thân.

III.

Khe tràn mây khói vịnh đầy trăng,
Sớm tối cò le thoả hợp quần.
Triều sáng cá phun dòng sủi tuyết,
Khói mờ nước động sóng khoe văn.
Dọc ngang mặc sức thuyền con vững,
Câu kéo nhiều phen gỏi cá ăn.
Vườn ruộng nơi nào đừng nhọc hỏi,
Trời xanh không chắn biển không ngăn.

IV.

Cồng cộc, le cò giỡn líu lăng,
Sông lau bến lách thảy xung xăng.
Sắc mai hơi ngút tìm tăm cá,
Trời tạnh mây quang chúc ngọn cần.
Đi ở thong dong chèo nhỏ khuấy,
Đông tây lố nhố lửa khuya giăng.
Bên dòng thầm hỏi lòng ngư phủ,
Học đợi công hầu nghĩ khó khăn.

Lối sao chép thơ văn chữ Hán ít khoa học trước đây và thực trạng tư liệu quá thiếu thốn hiện nay chưa cho phép tìm hiểu nhiều hơn về lai lịch văn bản, xuất xứ tư liệu, hoàn cảnh sao chép..., nhưng cũng có thể nói thêm đôi điểm về bốn bài thơ này. Theo Ngạc Xuyên trong bài giới thiệu trên Đại Việt tập chí thì tập Minh bột ngư trùng bản 1821 có một bài phú và 30 bài thơ, ngoài ra bài phú Lư Khê nhàn điếu trong Nam hành ký đắc của Phạm Nguyễn Du cũng kết thúc với câu: "...Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vận"(Thỏa lòng ta nên ngâm nga ba chục vận). Con số 30 này ăn khớp với 30 bộ vần bình thanh trong Bội văn vận phủ gồm 15 bộ Thượng bình thanh: Nhất đông, Nhị đông, Tam giang, Tứ chi, Ngũ vi, Lục ngư, Thất ngu, Bát tề, Cửu giai, Thập khôi, Thập nhất chân, Thập nhị văn, Thập tam nguyên, Thập tứ hàn, Thập ngũ san và 15 bộ Hạ bình thanh: Nhất tiên, Nhị tiêu, Tam hào, Tứ hào, Ngũ ca, Lục ma, Thất dương, Bát canh, Cửu thanh, Thập chưng, Thập nhất vưu, Thập nhị xâm, Thập tam đàm, Thập tứ diêm, Thập ngũ hàm. Hơn thế nữa, có thể thấy hai bài mà Đông Hồ giới thiệu trong Văn học Hà Tiên là thuộc hai vần Nhất đông (Lư Khê phiếm phiếm tịch dương đông), Nhị đông (Khê thượng lưu hoàng dạ sắc dung), tức bài 1và bài 2, còn bài mà Ngạc Xuyên giới thiệu trong Đại Việt tập chí là thuộc vần Thập ngũ hàm (Thủy quốc vân hương cảnh bất phàm), tức bài 30 (3). Như vậy bốn bài thơ trên đây theo thứ tự là thuộc các vần Thập khôi, Thập nhất chân, Thập nhị văn, Thập chưng, tức các bài thứ 10, 11, 12, 25 trong 30 bài thơ Lư Khê nhàn điếu.

Từ Hội thảo khoa học kỷ niệm 250 năm thành lập tao đàn Chiêu Anh Các ở Kiên Giang năm 1986 đến nay, Thư mục Các bài viết, công trình nghiên cứu về thơ văn Chiêu Anh Các đã được kéo dài một cách đáng kể. Nhưng thư mục, tư liệu và văn bản tác phẩm Chiêu Anh Các vẫn chưa có chuyển biến nào quan trọng so với những gì người ta đã biết qua Văn học Hà Tiên của Đông Hồ năm 1970. Bốn bài Lư Khê nhàn điếu này cũng chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến cần thiết ấy, vì chỉ trong phạm vi của việc tìm hiểu thơ văn Mạc Thiên Tích, hiện vẫn còn 23 bài Lư Khê nhàn điếu khác chưa tìm lại được để tái lập trọn vẹn tập Minh bột di ngư ...

Người biên tập: nguyễn ngọc nhuận

CHÚ THÍCH

(1) Xem Ngạc Xuyên, Minh bột di ngư, một quyển sách, hai thi xã, Đại Việt tập chí, số 12, Sài Gòn, 1.4.1943. Bản Minh bột di ngư trùng bản mà ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh dùng để viết bài này vốn thuộc thư viện riêng của nhà sử học Lê Thọ Xuân, nhưng không may là thư viện này đã bị thiêu hủy sau ngày Nam Bộ kháng chiến năm 1945.

(2) Ký hiệu A. 2939 hiện được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên năm 1970 Đông Hồ chỉ giới thiệu được có một đoạn của bài phú Lư Khê nhàn điếu còn sót trên tường Trung nghĩa từ ở Hà Tiên. Năm 1980 chúng tôi có thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Hà Nội nhờ sao lại. Năm 1986 bà đã trao bản ấy cho nhà Hán học Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), Sở Văn hoá và Thông tin Kiên Giang xuất bản, 1987, nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản.

(3) Năm 1984, nhân dịp được gặp cố Giáo sư Ca Văn thỉnh, chúng tôi có hỏi bài thơ mà ông giới thiệu có phải là bài cuối cùng trong 30 bài Lư Khê nhàn điếu không và vì sao ông chọn giới thiệu bài ấy mà không phải là bài khác... thì ông cho biết "Lúc đó tôi lựa bài đó cho tiện vì nó là bài sau hết". Vì vậy chúng tôi cho rằng 30 bài Lư Khê nhàn điếu trong tập Minh bột di ngư trùng bản đã được xếp đúng thứ tự 30 vần từ Nhất đông tới Thập ngũ hàm - hết Thượng bình thanh tới Hạ bình thanh.

TB

MỘT BỨC THƯ CUỐI THẾ KỶ XVII TRIỀU ĐÌNH
LÊ TRỊNH GỬI VUA NƯỚC PHA LAN SA

NGUYỄN TÀI CẨN

Chúng tôi có sưu tầm được một số tài liệu Hán Nôm trong nước đã để mất nhưng ở nước ngoài hiện còn giữ lại được, trong đó có bức thư triều đình Lê Trịnh gửi vua Pha Lan Sa. Bức thư này được kho lưu trữ cơ quan truyền giáo nước ngoài ở 1238 Rue du Bac (Paris) sao lại và giữ ở trang 124/ e tập hồ sơ V-680, là tập gồm những văn kiện liên quan đến xứ Đàng Ngoài (Tong King) chủ yếu vào khoảng những năm 1683-1686. Tài liệu này gồm một bức thư chữ Hán, một bản dịch ra Quốc Ngữ văn và một bản dịch ra Pháp văn. Việc dịch này do một người Trung kỳ hay Nam kỳ làm, sau khi người Pháp đã đặt nền thống trị ở nước ta, vì chúng tôi thấy:

1. Pha Lan Sa đã được dịch là Đại Pháp.

2. Từ ngữ thuộc lối nói không phải miền Bắc như: thư -- thơ, gửi -- gởi, đấng -- đứng, điều -- đều, nhân -- nhơn, ngẫm ngợi -- ngầm ngùi. ..

3. Người duyệt có ghi chú là bản tiếng Pháp dịch đúng nhưng kém văn phong ("cette traduction est exacte mais laise à désirer au point de vue du style"). Bức thư chữ Hán không ghi niên hiệu triều vua nào nhưng nó thuộc hồ sơ Đàng Ngoài, giai đoạn 1683-1686 và lại được cơ quan lưu trữ ghi chú là năm 1684, vậy chắc là một bức thư của triều đình Lê Trịnh, đời Chính Hòa (vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn). Dưới đây là phần phiên âm chữ Hán và bản dịch Quốc ngữ. Bản dịch có một vài điểm nhỏ chưa hoàn toàn sát nguyên văn song là những điểm phụ và tuy khác văn phong ngày nay nhưng vẫn còn hiểu được, vì vậy chúng tôi xin để nguyên về cơ bản coi như một tài liệu cổ cần tôn trọng (chỉ đổi về chính tả như thơ thành thư, đều thành điều v.v.).

Bản phiên âm bức thư chữ Hán

An nam quốc vương trí thư vu Pha Lan Sa quốc vương toạ hữu huệ hiểu.

Thiết văn tín giả nhân sở cố hữu, nghĩa giả sự sở đương vi, nhiên tắc tín nghĩa hành vị thường bất lợi. Bản quốc chi dữ quý quốc sơ xuyên chi phong vực tuy thù, lân tỳ chi tín nghĩa như nhất. Tạc giả tiên lai cụ Khải thuật tình nghĩa cánh kiêm huệ hiến phương vật, ngưỡng chân thiên lý chí thành định vu ý biểu. Ngoạn vị tái tam, vô nhai thù tưởng. Phù nhu hoài viễn nhân nãi bản quốc chi thường sự, chủ quốc lai tân giả vô bất giao tiếp. Huống quý quốc thị nhất phương chi hùng kiệt, kim nhi ái mộ dục thông vãng lai phán mãi, kỳ tín nghĩa chi tình thù khả hâm tiển. Nhược phù dục đồng hiệu đạo, giá sự tại bản quốc cựu quy thân minh lệnh cấm cửu hỹ. Thẩn lệnh xuất duy hành, vô tín bất lập, khởi khả duyệt tư giao nhi thí thành pháp hồ? Kim quý quốc đãn đương hậu trang thái vật cánh tương mậu dịch, dĩ thông tài vi nghĩa, dĩ toàn giao vi tín, như thị tắc lân hảo chi tín nghĩa kiên như kim thạch hĩ; hà tất quy miễn đồng kỳ sở hiếu ! Thỉnh đạt kỳ tương tri. Kim thư. Sở hữu bạc tặng huệ lai cụ trần vu tả.

Mạnh đông tiết, cốc nhật. cụ thảo.

Bản dịch bức thư:

Vua An nam gửi thư cho Vua Đại Pháp ngự trên tòa đặng hay.

Vốn đã nghe biết rằng: Sự trung tín là của vững bền thuộc về đấng làm người; sự công bình là một điều đáng làm ở trong các việc. Vậy thời giữ trọn đức tín nghĩa thì chưa hề thấy điều bất lợi. Nay nước An nam này với nước Đại Pháp, tuy núi sông bờ cõi có khác nhau, song nếu làng nước giữ tín nghĩa với nhau thì chẳng khác. Thể như bức thư một ngày kia gửi lại có tỏ đủ nhân tình, lại thêm ơn trọng, vật quý. Thật xa ngàn dặm mà có lòng rất thật tỏ ý bề trong. Ngầm ngùi xét đi nghĩ lại, thì đáng khen vô ngần. Lễ ở tử tế, tiếp nước khách xa mà đến thì nước này cũng thường giữ; Khi có khách ở các nước đến thì chẳng có người nào mà chúng tôi chẳng tiếp đãi. Huống nữa, nay nước Đại Pháp là một nước anh hùng trong thiên hạ, bởi lòng ái mộ mà đến thông thương, buôn bán, đổi chác thì lòng tín nghĩa ấy cũng đáng mừng khen thay, lẽ nào chúng tôi chẳng tiếp đãi. Còn về sự đồng một ý mà dạy đạo thì nước này có lệ cũ, bởi có lệnh rõ ràng cấm điều ấy đã lâu. Huống nữa lệnh đã ra thì phải giữ, không có đức tín thì không vững. Có lẽ nào muốn cho đẹp cái nghĩa riêng mà bỏ cái lệ phép đã thành sao? Nay nước Đại Pháp trở hàng hoá đến buôn bán đổi chác để tỏ cái điều nghĩa với nhau, và lấy sự giao thiệp mà tỏ lòng tin nhau thì như vậy cũng là tình hai nước có sự tín nghĩa với nhau vững bền như vàng đá đó rồi, cần gì phải lo cho được đồng muốn một việc như nhau (là muốn giúp việc giảng đạo)(1). Xin Đức vua rõ ý chúng tôi quen biết nhau là như vậy. Nay thư lại, có lễ mọn gửi dâng với đó nữa.

Đã viết thư này tiết đầu mùa đông, nhằm ngày tốt.

CHÚ THÍCH

(1) Chú thích của kho lưu trữ: "Những chữ này không có trong văn bản Hán" (cesmots ne se trouvent pas dans le tentechinois)

TB

VỀ MỘT SỐ BÀI VĂN BIA NÔM MỚI ĐƯỢC SƯU TẦM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

Trên Tạp chí Hán Nôm số 2-1994(1) chúng tôi đã giới thiệu 23 thác bản văn bia Nôm hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong đó 21 thác bản khắc bằng thơ, chỉ có 2 thác bản khắc bằng văn xuôi. Để giúp các nhà nghiên cứu, giảng dạy và bạn đọc quan tâm đến mảng tư liệu này có thêm tư liệu tham khảo, bài viết này chọn giới thiệu thêm 10 bài văn bia Nôm viết bằng văn xuôi mới được sưu tầm trong những năm trong những năm gần đây.

Do khuôn khổ bài tạp chí, chúng tôi chỉ xin nêu tóm tắt những đặc điểm cơ bản về nội dung, hình thức của từng bài văn bia và phiên âm giới thiệu trọn vẹn 2 văn bia để bạn đọc có một ý niệm chung.

1. Công đức nghìn năm, ở chùa Phúc Khánh (thường gọi là chùa Sở, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội).

- Khổ 100 x 65cm, 16 dòng, 1 dòng ≈ 33 chữ.

- Niên đại: ngày 19 - 11 -1930 (Bảo Đại 15)

- Tác giả: Thị độc học sĩ Tạ Văn Thành, hiệu Phúc Khánh, Pháp danh Lưu Quang Bồ Tát, về hưu trí vâng soạn.

- Nội dung : Hội tín lão (chủ yếu là các tín vãi) có công đức tu tạo chùa dựng bia đá ghi đầy đủ họ tên để kỷ niệm.

2- Ký kỵ bi ký (bia ghi việc gửi giỗ), ở Nhà thờ họ Nguyễn thôn Cổ Nhuế, xã Cổ Nhuế huyện Từ Liêm, Hà Nội.

- Khổ 35 x 25 cm, 14 dòng, 1dòng ≈ 21 chữ.

- Niên đại : không ghi.

- Tác giả : không ghi.

- Nội dung : ông tiên chỉ tên là Chính Hoạt người trong họ nhường một mảnh vườn và một cái áo để họ Nguyễn làm nơi xây dựng nhà thờ, hàng năm khi họ Nguyễn cúng giỗ tổ thì kết hợp cùng giỗ gia tiên ông Chính Hoạt.

3. Công đức bi ký, ( Bia ghi công đức) ở vách núi chùa Trầm, thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 90 x 45cm, 18 dòng, 1 dòng ≈ 31 chữ.

- Niên đại: khoảng 1923 - 1924 (Khải Định 8 hoặc 9).

- Tác giả: không ghi

- Nội dung : mô tả cảnh đẹp của chùa Trầm và công đức mở mang tôn tạo chùa của Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu.

4 - Không đầu đề, ở chùa Trầm, thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 120 x 80 cm, 18 dòng, 1 dòng ≈ 24 chữ.

- Niên đại : tháng 8 - 1914 ( Duy Tân - Giáp Dần).

- Tác giả : không ghi.

- Nội dung: mô tả cảnh đẹp chùa Trầm, nằm dưới chân núi Tử Trầm, coa hang động, có hồ nước, phong cảnh kỳ thú, nổi tiếng xưa nay, vì vậy được đặt tên là động Long Tiên.

5. Công đức bi ký (bia ghi công đức) ở chùa Trầm thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.

- Khổ : 80 x 60cm, 15 dòng, 1 dòng ≈ 23 chữ.

- Niên dại : không ghi

- Tác giả : Thái tử Thiếu Bảo, Hiệp tá đại học sĩ, sĩ Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu đề.

- Nội dung : Ghi lại việc bà Trần Thị Thọ sống ở miền Nam ra thăm cảnh chùa. Bà cung tiến 1000 đồng thuê thợ tạc các pho tượng đá bày trong động, làm tăng thêm cảnh đẹp và về ny nghi của chùa.

6. Trùng tu Hương tích tự bi: (Bia trùng tu chùa Hương Tích) ở nhà bia bên trái trên đường vào chùa Thiên Trù, thuộc chùa Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 145 x 78 cm, 17 dòng, 1 dòng≈ 25 chữ.

- Niên đại: tháng 1 - 1921 (Niên hiệu Khải Định)

- Tác giả : Thái tử Thiếu Bảo, Hiệp ta đại học sĩ lĩnh Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu ghi.

- Nội dung : Nói về việc tu sửa chùa Hương Tích và suy nghĩ về lẽ "phúc quả" trong việc tìm đến cửa Phật.

7. Bia truyền đăng chùa Linh ứng, ở chùa Linh ứng, thôn Mai Trai, phường

Quang Trung, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 80 x 60 cm, 21 dòng, 1 dòng ≈ 30 chữ.

- Niên đại : 10-9-1944 ( BảoĐại 19)

- Tác giả: Tiểu tăng Như Tư, động chủ Sài Sơn, đại biểu Phật giáo tỉnh Sơn Tây soạn.

Nội dung: Nêu đại lược Phật giáo truyền vào nước ta được hơn 2000 năm. Sau đó nêu các thế hệ tăng ni nối tiếp trụ trì ở chùa Mai Trai (sau đổi tên là Linh ứng):

Tổ thứ nhất là cụ Thiều Quang, tháp hiệu Tĩnh Quang, người thôn Đa Sĩ Hà Đông.

Thứ hai là cụ Trinh Tường, tháp hiệu Vĩnh Long.

Thứ ba là cụ Đàm Chí, tháp hiệu Song Mai, người làng Mai Động, huyện Thanh Trì Hà Nội.

Thứ tư là cụ Đàm Nam, tháp hiệu Linh Mai, người làng Thường Đại, tỉnh Phúc Yên.

Tổ thứ năm nêu rằng đẫ ghi rõ tên hiệu ở Tháp, không chép vào bỉa.

8. Công đức kỷ niệm bia (Bia kỷ niệm công đức), ở đình thôn Cát động, xã Kim an, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 100 x 62cm, 14 dòng, 1 dòng ≈ 31 chữ.

- Niên đại:Tháng 3-1932 ( BảoĐại 7).

- Tác giả : Tú tài Hà sĩ Kính, người bản xã vâng soạn.

-Nội dung: địa phận bản xã có con sông Hát chảy qua, bài sông bị nước xoáy sụt lở dần, mất đất canh tác. Có ông Tín Xương người thôn Phượng Vũ làm phúc tự bỏ ra 1000 đồng mua đá thuê người thả xuống làm kè, đất bãi không những không sụt lở nữa mà lại dần dần bồi thêm ra. Dân xã có đất canh tác, cuộc sống ổn định, nên dựng bia ghi nhớ công đức ông Tín Xương.

9. Nam mô a di đà Phật, ở chùa Diên Khánh, thôn Đống Chanh, xã Minh Cường, huyện thường tín, tỉnh Hà Tây.

- Khổ 75x 42cm, 10 dòng 1 dòng≈ 19chữ

-Niên đại:14 tháng 4 năm 940 (Bảo Đại 15).

- Tác giả : Không ghi.

- Nội dung: Ông Nguyễn Văn Bào người thôn hậu, cúng hai thửa ruộng vào chùa để gửi giỗ cho các cụ bên ngoại là Trịnh Văn Hồ và Nguyễn Thị Chấu, vì vậy dựng bia ghi sự việc để lưu truyền thực hiện.

10. Hậu bi ly kí : ( Bia gửi giỗ hậu), ở chùa thôn cầu, xã Trung Hoà, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.

- Khổ 80 x 55, 15 dòng, 1dòng ≈ 20 chữ.

- Niên đại :15 - 2 - 1943 (Bảo Đại18)

- Nội dung: Bà Dương Thị Phán cung tiến 60 đồng để chi cho việc tu sửa chùa. Dận thôn hứa sao này lúc bà trăm tuổi qui tiên sẽ được cúng giỗ tại đình làng. Các ông chức sắc cùng các phụ lão trong thôn dựng bia đá làm bằng cứ để làm bằng cứ đê cùng cam kết thực hiện.

Theo những tư liệu do chúng tôi tập hợp được thì văn bia nôm viết băng văn xuôi chỉ cần tỉ lệ rất thấp. mười tấm bia được giới thiệu lần này số lượng tuy khiêm tốn nhưng nội dung khá phong phú, có thể khai thác về một số lĩnh vực đáng được chú ý, như tư liệu về lịch sử một ngôi chùa và qua đó góp thêm những cứ liệu cho việc tìm hiểu lịch sử phật giáo ở Việt Nam bia số 7 tư liệu của việt làm thủy lợi bia số 8 và những bài văn kêu gọi mọi người hãy biết gìn giữ những thắng tích của cha ông để lại trong 10 bài văn bia, có 5 bài không ghi tác giả và 5bài ghi rõ tên người biên soạn, có 7 bài văn bia ghi niên đại thuộc niên hiệu Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Và bài văn bia không ghi niên đại.

Dưới đây chúng tôi phiên âm trọn vẹn nội dung bài văn bia trong số trên để bạn đọc tham khảo :

Bia Chùa Trầm, Thôn Long Châu, Xã Phụng Châu, Huyện Hoài Đức,
Tỉnh Hà Tây (1)

Phiên âm :

Người ta sinh ở tên đời thú chơi có hai cảnh, một là phồn hoa, một là tịch mịch. Phồn hoa thì phải ở thành thị. Tịch mịch thì phải ở lâm tuyền. Những ở phồn hoa mãi thì chán, ở tịch mịch mãi thì buồn. Vì thế phải làm cách cho thành thị lâm tuyền thông với nhau. Trước là giải lấy trí khôn. Sau là thanh lấy niềm tục.

Cách tỉnh Hà Đông không xa có bãi đồng bằng, bên hữu thì rẫy rừng, ngang bên tả thì dòng sông Hát, giữa có một tòa núi đá nổi lên gọi là núi Tử Trầm. Trong núi có động, trong động có hang thông thiên. Ngoài động có chùa. Dưới chùa có đầm quanh núi. Núi Bút Sơn bày mặt trước chùa Vô Vi. Đứng một bên là cảnh lâm tuyền, thứ nhất, trước hai trăm năm nay chúa Trịnh đã làm cung ở đó. Nơi mắc võng nơi chèo thuyền, dấu cũ đến bây giờ chưa mất. Thế chẳng phải chán phồn hao mà tìm nơi tịch mịch ? Dẫu tiếc vì cây cỏ rậm rạp, đường xa chưa thông. Cho nên trên Lan Kha (2) tìm khách đánh cờ, vào hang thúy thăm ông câu cá. Chẳng qua mấy kẻ cao nhân dật sĩ mà thôi. Ta nhân khi thong thả tới cảnh chạnh niềm. Kia như núi Đạo Hạnh(3) chùa Quan Âm(4), động Hồ Công (5), hang Từ Thức (6)cũng bởi vì người trước có công tìm kiếm mà làm cho người sau có thú vui chơi. Thế thì núi này cũng là cảnh Bụt, bầu trời đâu coa nhẽ phó mặc bóng tà cỏ úa. Vậy thì theo cảnh tự nhiên thêm công tu bổ, đưoừng càng gần thì đi càng tiện, cảnh càng đẹp thì khách đến càng đông. Từ nay mà đi kẻ lại người qua dẫu tịch mịnh cũng không lấy làm buồn, dẫu phồn hoa không lấy làm chán.

Than ôi, chút tà quy chính là trách nhiệm kẻ sư nho; hậu lạc tiên ưu là chí khí kẻ quân tử. Có phải cầu Tiên cầu Phật, đem thiên hạ lấy sự hoang đường, muốn cho có cảnh có người chung thiên hạlấy sự lạc lợi. Sách có chữ rằng: " Núi không cản chi thấp với cao, có tiền thì nổi tiếng,. Nươc không cần chi sâu với cạn, có rồng thì nên thiêng. Vậy ta lấy tiên rồng mà đặt tên cho động.

Tiết giữa thu năm Giáp Dần (1914) niên hiệu Duy Tân.

Chú giải:

(1). Tấm bia này nguyên không ghi đầu đề và tên tác giả. Đầu đề này do chúng tôi tạm đặt.

(2). Lạn Kha : Theo Địa chí Hà Bắc ( Thư viện Hà Bắc xuất bản 1982, tr. 56 thì :Núi Lạn Kha xưa ở cạnh thôn Phật Tích thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh( nay là xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc). Gọi tên là Lạn Kha vì có truyền thuyết về một người tiều phu là Vương Chất một hôm đi lấy củi trên núi thấy có hai vị tiên đang đánh cờ, Vương Chất đứng xem, khi quay lại thì cán rìu đã bị mối xông mục vật. Khi trở về nhà không ai nhận ra, hỏi thăm thì Vương Chất đã là ông tổ năm đời của họ. Ngoài câu chuyện Vương chất còn có thêm những truyền thuyết khác như câu chuyện Từ Thức ở thời Trần làm Tri huyện Tiên Du, cởi áo chuộc tiên nữ ở Đông... Núi còn có tên là Phật Tích, bên sườn có chùa Phật Tích được xây dựng từ thời Lý qua nhiều lần trùng tu nổi tiếng xưa nay.

(3) Núi Đạo Hạnh: Tức núi Phật Tích, nơi có Thiền sư Từ Lộ hiệu là Đạo Hạnh tu hành vào thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128). Núi Đạo Hạnh là dải núi chùa Thầy thuộc huyện Quốc Oai, Hà Tây ngày nay.

(4) Chùa Quan Âm : Trước nay có nhiều ngôi chùa tên là Quan Âm, chưa rõ tác giả nêu ở đây là ngôi chùa ở vùng nào.

(5) Động Hồ Công : Động trong núi Xuân Đài, nay thuộc xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Động Hồ Công cảnh đẹp lạ kỳ, tương truyền từ cổ xưa có nhiều vị tiên thường giáng xuống đây, qua nhiều niên đại thuộc nhiều vua chúa và các nhân vật danh tiếng ghé thăm nay vẫn là thắng tích.

(6) Hang Từ Thức: Nơi có truyền thuyết chàng Từ Thức Tri huyện Tiên Du đi rong chơi, tới đây gặp Tiên Giáng Hương lấy làm vợ. Khi trở về thăm quê, mọi vật đã đổi dời. Thức hỏi thăm mới hay mình là ông tổ mấy đời của họ. Hang Từ Thức nay thuộc xã Nga Thiện, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

(7). Nguyên văn chữ Hán :" Duy Tân Giáp Dần niên".

Công đức kỷ niệm bi (1)

Bia kỷ niệm ông Đinh Tín Xương xã Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông(2).

Trộm nghĩ: vững cột đá đương khi sóng nổi. Can tràng(3) xem thực ít người, gánh hàng xoay lại đất bồi, hút cạn dòng ra lắm của, lợi cho mọi người ấy ai là chủ.

Dân tôi ở xã Cát Động, tổng Phương Trung, huyện Thanh oai tỉnh Hà Đông, làng ở trong đồng bãi gần ngoài sông. Bể dâu khôn xiết biến dời, nay lở mai lở, bờ cõi bao giờ nguyên cũ. Ngày ngóng đêm ngóng, một hai khi hội họp hương thôn cũng toan hằng sức ba bốn thứ, rào dậu cừ sách(4) nhưng chưa nên công. May sao đất thực có tuần, trời kia khiến thứ có tên Hà Quảng Tiến là người trong làng ra hầu cụ Tín Xương ở làng Phượng Vũ. Thầy tớ thân yêu, nguồn cơn bày tỏ. Cụ đem lòng cứu khổ ra tay tế độ, xuất tiền ra cho mua đã về đổ. Nước trôi đá chẳng chuyển. Sự cán hồi thay cả hóa công (5). Sóng lặng cát lại bồi, cơ vãng phục(6) nổi len châu thổ. Nữa một mai nào bưởi, nào mía, nào vừng nào ngô, nào khoai, nào đỗ ở ngoài bãi, mầu mè tốt tươi. ấy trong làng áo cơm no đủ, muôn nghìn năm về sau dân tôi trông dải sông Hát mà nhớ đến công cụ, cùng với xây cầu làng Vàng, bắc cầu Kẻ Nương, hai dãy nhà trong chợ, một tòa chùa trước làng. Danh dự cụ thực là rực rõ. Cả thập phương công trình kể biết mấy mươi suy bổng. ấy lại gia ân làng Cát Động đền đáp gọi là một chút, tạc bia này để kỷ niệm cụ Tín Xương.

Tạc rằng:

Đội ơn Hàn Tín,
Nước chảy sông xa;
Bỏ nghìn bạc đá,
Vì một bãi nhà.
Đá kia chất xuống,
Cát nọ bồi ra,
Tấc đất thước đất,
Bờ ta cõi ta.
Có khi thành thổ,
Không phải bôn ba;
Công tày non Thái,
Phúc đẳng hà sa(7).
Nguyện lòng sắt đá,
Muôn năm không già.

Dựng bia ngày tốt tháng 3 niên hiệu Bảo Đại 7(1932) Tú tài người trong xã là Hà Sĩ Kính vâng soạn(8).

Chú giải:

(1) Bia này dựng ở Đình thôn Cát Động, xã Kim An, huyện Thanh Trì, Hà Tây. Đầu đề nguyên văn chữ Hán dịch nghĩa là : :Bia kỷ niệm công đức".

(2) Câu này dịch nghĩa từ nguyên văn chữ Hán.

(3) Can tràng: gan ruột, ý nói có lóng lòng can đảm.

(4) Kẻ bằng tre gai.

(5) ý nói sự việc ngăn lấp ấy có thể thay thể sức tự nhiên.

(6) Vãng phục: qua lại.

(7) Hà sa: chữ đầy đủ là " Hằng Hà sa số" tức số cát trên sông găng ga của ấn Độ. Đây ý nói nhiều không kể xiết.

(8) Hai bên lề bia còn khắc đôi câu đối nôm:

Gia ân nghìn bạc sông không lở

Nhớ nghĩa muôn năm đá chẳng mòn.

Người biên tập: Trịnh Khắc Mạnh

TB

TRẦN QUÍ THỊ LƯU TRẠCH BI

HOÀNG LÊ

Bài văn bia này soạn vào năm Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) và được khắc trên bia đá ở xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm, Hà Nội (Bản rập có lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu 7116 - 7119). Trong một dịp đi điền dã sưu tầm tư liệu Hán Nôm chúng tôi đã khá vất vả mới tiếp xúc được với hiện tại, bởi tấm bia này khá lớn, lại lăn lóc dưới ao làng. Mọi người ngày ngày qua lại coi nó như một hòn đá vô tri vô giác, cũng may là nó chưa bị ghè đập ra để nung vôi và cũng khó đem làm cầu ao hoặc bàn giặt, nên mới còn. Chúng tôi đã đề nghị với các cấp lãnh đạo địa phương lưu tâm gìn giữ và mau chóng có biện pháp tôn tạo, đưa tấm bia và nghuyên vị trí cũ của nó. Sau đây, chúng tôi xin dịch toàn văn bài văn bia để bạn đọc cùng tham khảo.

Bia ghi ơn bà cung tần họ Trần

Từng nghe: Kinh thư có câu cách ngôn: "Ai có công thì được thờ cúng" Kinh Lễ có lời minh huấn: "Ai làm ơn tất được báo đền".

Điều đó thật rõ ràng vậy.

Bà cung tần họ Trần, hầu trong cung vua tên là Ngọc Nhuyễn sinh năm Quí Sửu(1673), là bậc tôn quí ở xã Vạn Phần, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, Nghệ An. Sao Vu (1) rực vẻ huy hoàng, sông Bột(2) đúc khí anh tú. Lẫy lừng tứ đức(3), vẹn toàn ngôn hạnh công dung, điểm trang lục già(4), rực rỡ trâm thoa châu ngọc. Duyên may gặp gỡ, tên rạng rỡ trong sổ vàng(5), đội ơn yêu thương, tình thắm thiết nơi bệ ngọc. Lúc theo hầu nơi màn thúy lầu hồng, lời can gián rõ bậc vợ thảo. Khi nâng giấc chốn phòng tiêu cung quế, tiếng khuyên răn thực đáng vợ hiền. Bà được yêu quí nhất trong số ba ngàn cung phi, được đội ơn ban thưởng hàng trăm lạng vàng ngọc. Nhờ phúc trạch đức vua, giấc mơ gấu(6) ứng điềm sinh nam tử, mừng thấy môn mi rạng vẽ, móng chân lân(7) thể hiên vẻ con nhà. Thềm ngọc lan huệ đua tươi, hòm rương lụa vàng đấy ắp. Bà bèn chọn nơi có phong tục tốt để xây nhà, xem địa thế khắp nơi chẳng đâu bằng đất Trung Mầu. Bói ngày lành tháng tốt, cột xà chọn toàn gỗ chắc bền. Dựng xây nhà phúc, mực thước dẫn hướng trường sinh, nhà thành một dãy liên tiếp, cốt là để làm rạng rỡ đời trước, sáng tỏ đời sau, bảo tồn sự nghiệp ông cha dài lâu muôn thuở, để kế nối công lao, khắc sâu ân đức, tỏ rõ sự nối nghiệp đến vô cùng.

Rồi bà lại nghĩ: phàm việc đua lụa là, khoe báu ngọc, tích tiền của chỉ phô bày vẽ hào nhoáng nhất thời, sao bằng kết thân với xóm làng, truyền lại việc hương khói, gây dựng được tiếng tăm để khen đến vạn đời. Cho nên năm Quí Mùi (1703) nhân lúc đói kém khó khăn, bà làm ơn cho xã Trung Mầu 400 quan tiền, 4 mẫu ruộng lúa tốt, 5 sào ruộng hương hỏa chia đều cho kẻ trên người dưới, mở rộng ân huệ chu cấp cho xóm làng.

Tám giáp trong toàn xã từ lớn đến nhỏ người người đội công đức, nhất nhất hàm ơn, cho nên khắp từ trên xuống dưới, từ trẻ đến già đều bảo nhau rằng: Bà là bậc tôn quý, đem thực tế mà cảm hóa chúng ta, bọn ta cũng nên lấy thực tế mà báo đáp lại. Nay tôn bà làm hậu thần, ngõ hầu báo đáp công đức bà trong muôn một. Có nên chăng ? Mọi người đều dạ ran, rồi thưa lại tình thực với bà, may được bà đồng ý. Bèn cùng nhau lập Giao ước tôn bầu bà Thị nội cung tần họ Trần làm hậu thần của bản xã. Giao ước rằng: Nay đương lúc bà còn sống được phú quí sủng ái, phải kính thờ bà như bậc cha mẹ. Gặp ngày sinh thì kính biếu xôi thịt cơm rượu. Sau này khi bà mất thì thờ cúng như thần linh. Các tuần tiết như lễ cầu phúc, tế Thần nông đều thành kính cúng lễ. Đến ngày giỗ, tế tự theo đúng nghi thức, bày soạn lễ hậu, số lượng lễ vật ghi rõ ràng trong khoán ước. Cùng nhau ăn thề trước sự chứng giám của Thần linh.

Ngày 15-4 năm nay là năm Canh Dần (1710) khắc vào bia đá để làm lời giao ước vững bền, khiến cho công đức của bà muôn đời không dời đổi, con cháu mãi mãi gìn giữ để phúc ấm được vẻ vang ở nơi thờ cúng, thanh danh không dời đổi chôn miếu đường. Kẻ nào không tuân theo có Trời Đất soi xét, quan trên sẽ khép vào pháp luật. Vậy phải ghi lòng tạc dạ báo đức đền ơn. Nhuộm mà không đen, mài mà không mòn. Lời Giao ước vững như núi sông, sáng như nhật nguyệt. Nhìn thấy nơi này tất nhớ tới người, nhớ đến người thì quý đến bia này, chớ vì lâu năm mà chán bỏ, luôn nghĩ đến công ơn để lại càng thơm, há chẳng tốt đẹp ru ? Nhân khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi.

Ngày tốt năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6(1710).

Người soạn: Nguyễn Phu(8), người Hoài Bão, Tiên Du (nay là thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc), đỗ khoa Quý Hợi Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng nguyên), chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Bồi tụng, Ngự sử đài đô ngự sử Nhập thị kinh diên. Tước Thọ Lâm Bá. Trụ quốc thượng ban(9).

Người dịch: Hoàng Lê
Người biên tập: Nguyễn Văn Nguyên

CHÚ THÍCH

1. Sao Vu: Tên ngôi sao tượng trưng cho người phụ nữ. Nói sao "rực vẻ huy hoàng" tức là nói vận mệnh người phụ nữ dó đang tốt đẹp.

2. Sông Bột: chưa rõ ở đâu.

3. Tứ đức: bốn tiêu chuẩn mà chế độ phong kiến yêu cầu người phụ nữ phải có công việc dung nhan, lời nói, đức hạnh (công, dung, ngôn, hạnh).

4. Lục già: 6 thứ ngọc trang sức ở khăn áo các bậc phu nhân sang trọng.

5. Sổ vàng: dịch chữ " nhạc tịch", tức là sổ ghi tên các nhạc sĩ, ca sĩ;

6. Giấc mơ gấu: bài Tư can trong Kinh thư có câu: "Duy hùng duy bi, nam tử chi tường" Nghĩa là: "Nằm mơ thấy con gấu là điềm lành sinh con trai"

7. Lân chỉ: gót lân, tên một bài thơ trong thiên Chu nam ở Kinh Thi, nói việc con cháu họ hàng vua Văn Vương đều trở nên người giỏi, đó là vì cái đức lớn của Văn Vương mà chung đúc nên phúc tốt.

8. Nguyễn Phu: đúng ra là Nguyễn Đăng Đạo (1651 - 1720) sau đổi tên là Đăng Liên, con Nguyễn Đăng Minh, cháu họ Nguyễn Đăng Cảo. Đỗ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683). Có đi sứ nhà Thanh để thương lượng về việc đòi lại 3 động ở Vị Xuyên thuộc xứ Tuyên Quang. Sau được thăng Binh bộ Thượng thư. Khi mất được tặng Lại bộ Thượng thư, tước Thọ Quận Công. Thọ 69 tuổi.

9. Ba mặt còn lại của bia khắc tờ giao ước của quan viên, dân chúng bản xã về việc bầu Hậu thần, liệt kê số ruộng hương hỏa, nghi lễ thờ cúng, và bài mẫu tế Hậu thần.

TB

MỘT CÁCH GHI NĂM ÂM LỊCH
CẦN BIẾT

ĐÀO THÁI TÔN

Theo cách ghi này thì tên “can chi” của năm Âm lịch không ghi là Giáp Tí, Canh Ngọ, Mậu Thân v.v… nữa mà mỗi tên “can”, tên “chi” được mang một tên khác. Chẳng hạn, về phía “can”, Giáp 甲 được gọi là Ô phùng 閼 逢 ; Ất 乙 được gọi là Chiên mông 旃 蒙 Bính được gọi là Nhu triệu 柔 兆… Cũng như thế, 12 “chi” cũng được đặt tên khác: 子 được gọi là Khốn đôn 困 敦; Sửu 丑 được gọi là Xích phấn nhược 赤 奮 若 , Dần 寅được gọi là Nhiếp đề cách 聶 提 格 v.v.

Như vậy, theo cách ghi này, thay vì ghi: năm Giáp Tý, ta sẽ ghi là năm Ô phùng Khốn đôn 閼 逢 困 敦; năm Ất Sửu sẽ được ghi là năm Chiên mông Xích phấn nhược 旃 蒙 赤 奮 若; năm Canh Ngọ sẽ thành năm Thượng chương Đôn tường v.v.

Tất cả các cách ghi này đều được sách Nhĩ Nhã lần đầu tiên đề cập tới khi giải thích về “tuế dương” và “tuế âm” (xem Nhĩ Nhã thích thiên. Tuế dương Tuế âm); sách Sử ký của Tư Mã Thiên về sau đã dẫn lại trong Lịch thư sách ẩn, có thay đổi một số tên gọi.

Ở Việt Nam, thỉnh thoảng ta còn gặp cách ghi này trên một số văn bản. Chẳng hạn, bia Phúc Khánh tự bi có dòng lạc khoản: “Đoan Thái nhị niên, tuế tại Nhu triệu Yêm mậu”, nghĩa là Năm Bính Tuất - năm thứ 2 niên hiệu Đoan Thái (1587). Bia Nghênh phúc bi ký ghi “Hùng Trị tứ niên tuế tại Trùng quang Thiền át”, nghĩa là năm Tân Mão - năm thứ 4 niên hiệu Hưng Trị (1591)(1).

Có một chuyện vui:

Ở đình thôn Bái Thượng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Hà Bắc, trên câu đầu bên trái của đình, có ghi hàng chữ lạc khoản rất chững chạc: “Tuế thứ Thượng chương Đại hoang lạc 歲 次 上 章 大 荒 落, nguyệt tại Cường thát Tác ngạc 月 在 強 圉 作 噩 Cốc nhật thụ trụ. Đọc đến đây(2), tôi tò mò qui ra năm can chi thông thường, thì thấy: “Thượng chương” là Canh, “Đại hoang lạc” là Tỵ; còn tháng “Cương thát tác ngạc” là tháng Đinh Dậu - tháng 8.

Nhưng mà, tìm đâu ra cái năm Canh Tỵ ? Trong âm lịch, không có năm Canh Tỵ. Bởi lẽ: Bội số chung nhỏ nhất của 10 (can) và 12 (chi) là 60. Nghĩa là mỗi “can” chỉ được phép kết hợp với 6 “chi” (10 x 6 = 60) là đi hết cái bội số chung nhỏ nhất (60) ấy, tức là hết 60 năm, tức là hết “hội”. Theo đó thì “can” Canh này chỉ được phép đi với 6 “chi” số lẻ trong 12 chi, tạo thành những năm Âm lịch: Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất mà thôi. Làm gì có năm Canh Tỵ?!

May sao ở tại ngôi đình này còn có cái cột được khắc chữ cho ta biết rằng: Vào năm Tân Tỵ (1701), hai vợ chồng “lão nhiêu” là Đỗ Như Sơ và Đặng Thị Toán có góp tiền công đức một chiếc cột đình. Chi tiết này khiến ta dám chắc rằng “cụ đồ” viết câu đầu kia đã tra nhầm bảng “Thái tuế kỷ niên biểu”, thành thử đã uổng công cầu kỳ “chơi chữ” khi giúp dân làng trịnh trọng đề dòng chữ Hán lên câu đầu ! Nhầm là chuyện dễ hiểu. Vì “Canh” và “Tân” là hai cột đứng sát nhau.

Tôi hình dung ra cái cảnh “xin chữ” ở thôn quê ta xưa: Có một cụ đồ nọ, sau khi được dân làng “kiếm một cơi trầu thưa với cụ” cái việc hệ trọng của đình chùa, cụ phấn khởi “đưa cay” chút đỉnh, nên đã chếnh choáng, “chữ tác đánh chữ tộ” mà việc vẫn êm xuôi ngót 300 năm qua… Cái cảnh này là một chi tiết nhỏ, nhưng sẽ khá sâu sắc trong một “xen” kịch cho những ai muốn viết về các “thầy đồ” trong một vùng quê lam lũ khi xưa.

Một chuyện vui nữa, cũng liên quan tới cách ghi niên đại thời cổ:

Có lần tra bộ Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu để tìm hiểu về cuốn Minh Quyên thi tập VHv.109, thấy Thư mục cho biết cuốn sách được in năm Long Tập Kỷ Mão. Tôi sững lại một lát: “Long Tập” là niên hiệu vua nào nhỉ? Giở niên biểu, tra các đời vua từ Việt Nam sang Trung Quốc, chẳng thấy có niên hiệu vua nào là “Long tập” cả ! Lần mò mãi mới biết chữ “Long Tập” này chẳng qua là chữ “Tuế thứ”, tức là “năm”. Long Tập Kỷ Mão tức là “năm” Kỷ Mão mà thôi !

Thực ra cách ghi năm tháng âm lịch là một kiến thức đã “cũ như trái đất”. Tôi chắc rằng những người làm công tác Hán Nôm lâu năm, ai cũng thừa biết. Có điều là trong học tập, tri thức đôi lúc cũng có chuyện “cũ người mới ta”. Mang tiếng là người học Hán Nôm từ lâu mà mãi gần đây tôi mới “đụng phải nó”, nên hú vía mà xem là “mới” đối với mình. Đang loay hoay lập một bảng tra cho tiện dụng sau này, thì tôi được PTS. Nguyễn Đăng Na chụp tặng cho bản “Thái tuế kỷ niên biểu” mà anh cất công mang từ Liên Xô cũ về.

Qua mục Thường thức của tạp chí, tôi xin chỉ dám tặng lại các bạn Cử nhân Hán Nôm mới ra trường, như tặng một công cụ bé tí để các bạn dùng mỗi khi đi vào rừng sách cổ.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH, H. 1996.

(2) Theo Phạm Thị Vinh: Từ những hàng chữ Hán trên câu đầu của đình làng. Tham luận trình bày tại Hội nghị Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 1995.

THÁI TUẾ KỶ NIÊN BIỂU
太 歲 紀 年 表

Tuế dương biểu
歲 陽 表
Tuế âm biểu
歲 陰 表
Nhĩ nhã 爾 雅 Sử ký 史 記 Nhĩ nhã 爾 雅 Sử ký史 記
Giáp
Ô phùng
閼 逢
Yên phùng
焉 逢

Khốn đôn
困 敦
Đồng
Sửu
Xích phấn nhược
赤 奮 若
Đồng
Ất
Chiên mông
旃 蒙
Đoan mông
端 蒙
Dần
Nhiếp đề cách
聶 提 格
Đồng
Bính
Nhu triệu
柔 兆
Du triệu
遊 兆
Mão
Đơn (3) ô
單 閼
Đồng
Đinh
Cường ngữ(1)
強 圉
Cương ngô
疆 梧
Thìn
Chấp từ
執 徐
Đồng
Mậu
Trợ(2) ung
箸 雍
Đồ duy
徒 維
Tỵ
Đại hoàng lạc
大 荒 落
Đồng
Kỷ
Đồ Duy
屠 維
Chúc lê
祝 犁
Ngọ
Đôn tang
敦 牂
Đồng
Canh
Thượng chương
上 章
Thương hoành
商 橫
Mùi
Hiệp hiệp
協 洽
Đồng
Thân
Đôn than
氵君 灘
Đồng
Tân
Trùng quang
重 光
Chiêu dương
昭 陽
Dậu
Tác ngạc
作 噩
Đồng
Nhâm
Huyền dực
玄 黑弋
Hoành ngải
橫 艾
Tuất
Yêm mậu
閹 茂
Yêm mậu
淹 茂
Quí
Chiêu dương
昭 陽
Thượng chương
尚 章
Hợi
Đại uyên hiến
大 淵 獻
Đồng

Chú thích:

(1) Còn đọc là

(2) Còn đọc là Trứ

(3) Còn đọc là Thiền

TB

BẢO VỆ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM

Ngày 21 tháng 6 năm 1996, tại giảng đường của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội đồng chấm luận văn của Khoa Ngữ văn đã tổ chức cho sinh viên chuyên ngành Hán Nôm K.37 bảo vệ luận văn tốt nghiệp.

Qua một ngày làm việc khẩn trương, từ 7h30 phút sáng đến 17h chiều, 12 luận văn đã lần lượt được báo cáo trước Hội đồng giám khảo, các thầy trong chuyên ngành và các đại biểu, đông đảo anh chị em sinh viên chuyên ngành và ngoài ngành. Trong số 12 luận văn đã bảo vệ thành công, có 2 luận văn được Hội đồng nhất trí đánh giá cao:

1. Luận văn của sinh viên Vũ Thị Xuân Hương với đề tài: Phiên âm, dịch nghĩa và sơ bộ khảo cứu tác phẩm "Lãm Cổ ký".

Luận văn được chia ra làm hai phần chủ yếu:

Phần 1. Giới thiệu chung. Với một tư duy khoa học, tác giả đã nêu lên những luận cứ có sức thuyết phục để đánh giá tình trạng văn bản, và xác định tác giả cũng như niên đại tác phẩm. Phần này tuy không dài, nhưng cũng cho thấy cách lập luận chặt chẽ của tác giả.

Phần II. Phiên âm, dịch nghĩa, chú thích, chú giải và sơ bộ có những ý kiến khảo cứu bước đầu đối với tác phẩm. Phần này là phần then chốt quyết định thành công của luận văn. Toàn bộ nội dung chiếm hơn 70 trang đánh máy, trong đó đã phiên âm và dịch nghĩa trọn vẹn một tác phẩm Hán cổ gồm 52 trang viết tay, với 44 bài ký, một số bài thơ và câu đối.

Để hiểu được phần chính văn, luận văn còn có 185 mục chú giải về địa danh, nhân vật, điển cố văn học, truyền thuyết dân gian v.v.

2. Luận văn của sinh viên Nguyễn Thị Thanh Vân, với đề tài: Phiên âm, dịch nghĩa và sơ bộ giới thiệu cuốn "Đinh gia tộc phả".

Đây là một đề tài có sức hấp dẫn lớn đối với những ai quan tâm tới thể loại gia phả, đặc biệt là dòng họ Đinh - một dòng họ có công lớn đối với dân tộc và đất nước, kể từ Đinh Bộ Lĩnh (sau này là Đinh Tiên Hoàng).

Tác giả đã phiên âm, dịch nghĩa 136 trang sách, gồm hơn 1 vạn 4 ngàn chữ Hán cổ. Qua nội dung luận văn và phần sơ bộ khảo cứu của tác giả, chúng ta có thể rõ thêm được nhiều điều bổ ích đối với những nhân vật trong dòng họ Đinh có công với đất nước, mà trước đây chúng ta chưa biết hết được.

Ngoài 2 luận văn trên, 10 luận văn còn lại cũng được Hội đồng nhất trí đánh giá tốt. Năm học 1995 - 1996, Trường Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội đã đóng góp cho xã hội thêm 12 Cử nhân chuyên Hán Nôm nữa.

Đây là một ghi nhận đáng kể sự cố gắng vươn lên của thầy và trò trong chuyên ngành Hán Nôm.

P.V

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH
CỦA PIGNEAUX DE BE'HAINE