TB

GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC ĐANG ĐẶT RA VỚI "CÔNG DƯ TIỆP KÝ"

TRẦN NGHĨA

Công dư tiệp ký (CDTK) là tác phẩm của Vũ Phương Đề, được biên soạn vào năm Cảnh Hưng 16 (1755).

Vũ Phương Đề (1697-?) tên chữ là Thuần Phủ, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Năm 39 tuổi, ông đỗ Đệ giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn (1736), niên hiệu Vĩnh Hựu 2 đời Lê Ý Tông, làm quan đến chức Đông các hiệu thư, quyền Tham chính xứ Sơn Nam.

Tuy gọi là những chuyện "ghi nhanh" (tiệp ký) nhân lúc "việc quan rỗi rãi", CDTK sau khi ra đời, rất được dư luận hoan nghênh. Kết quả là từ đó về sau, sách mỗi lúc một dày thêm do không ngừng được người khác tục biên, tục bổ... để rồi sau một quá trình "tích hợp", nó lại bắt đầu "tế phân", tách ra thành nhiều mảng nhỏ dưới những tên sách mới. Sự biến dạng dần của CDTK đã khiến cho các nhà hiếu cổ đặc biệt lo ngại. Những lời sau đây của tác giả Nam Thiên trân dị tập là một thí dụ: "Nguyên trước đây, ông Vũ Phương Đề người làng Mộ Trạch, đỗ Tiến sĩ năm Vĩnh Hựu triều Lê, làm quan ở Đông các, nhân lúc rỗi việc có góp nhặt những điều tai nghe mắt thấy viết thành một cuốn sách nhan đề "Tiệp ký", nhưng hồi bấy giờ chưa kịp in. Về sau nhiều người đã biên chép thêm vào đó, có kẻ chia thành loại mục, có kẻ đặt tiêu đề cho các truyện, sách thành ra hỗn tạp, không còn thuần nhất nữa. Giữa các bản sao chép lại thường có hiện tượng chữ nọ sọ chữ kia, vàng thau lẫn lộn, thật khó mà phân biệt bài nào là do chính tay tác giả viét, bài nào là của đời sau thêm vào, người muốn tìm về bản cổ do vậy không khỏi phân vân" (Nam Thiên trân dị tập tự)(1).

Cho đến tận ngày nay, CDTK dù đã được dịch sang tiếng Việt hiện đại và xuất bản(2) trở thành đối tượng trích dẫn của nhiều người, việc nghiên cứu quá trình "tích hợp" và "tế phân" của nó vẫn còn là một vấn dề đang đợi chờ giải quyết. Nghĩa là sách vẫn còn đang trong tình trạng "hỗn tạp", không dễ phân biệt được bài nào là do chính tay Vũ Phương Đề viết, bài nào là của đời sau thêm vào, và bài nào đã từ CDTK tách ra thành sách khác. Không làm rõ những vấn đề như vừa nêu, việc tìm hiểu, nhận định, đánh giá, sử dụng CDTK - một nguồn tư liệu quan trọng về văn học, sử học... sẽ thiếu cơ sở khoa học chắc chắn.

Bài viết này của chúng tôi không ngoài mục đích góp phần giải quyết các vấn đề trên.

Trước hết, hãy nhìn lại một chút tình hình tác phẩm. Viện Nghiên cứu Hán Nôm tàng trữ 4 bản CDTK viết tay bằng chữ Hán mang các kí hiệu A.44, VHv.14, VHv.1324/1-2, A.1893 và 1 bản CDTK viết tay bằng chữ Nôm mang kí hiệu AB.481(3).

Tình hình cụ thể giữa các bản chữ Hán, có thể xem bảng so sánh sau đây:

ĐẶC ĐIỂM SÁCH A.44 VHv.14 VHv.1324/1-2 A.1893
Số trang 324tr. 262tr. 126tr+156tr=282tr. 72tr.
Kích cỡ 32x22cm 29x15cm 28x16cm(4) 30x20cm
Tựa, Mục lục 1 tựa, 1 mục lục 1 tựa, 1 mục lục 1 tựa, 1 mục lục 0
Cách chia sách Tiền biên, Tục biên (Hậu biên), Bổ di Tiền biên, Tục biên, Bổ di Q1 (Tiền biên) Q2 (Tục biên) Q1, Q2 Q3, Q4

Khung bài mục * TIỀN BIÊN
1.Thế gia (5 truyện)
2. Danh thần (6-)
3. Danh nho (9-)
4. Tiết nghĩa (2-)
5. Chí khí (1-)
6. Ác báo (1-)
7. Tiết phụ (1-)
8. Ca nữ (1-)
9. Thần quái (10-)
10. Âm(6) phần dương trạch (5-).
11. Danh thắng (1-)
12. Thú loại (2-)
* TỤC BIÊN (Hậu biên)
1. Danh thần danh nho (31-)
2. Dâm từ (1-)

3. Mộng ký (phụ tạp ký) (21-)
4. Tài nữ (1-)
5. Tiên thích (1-)
6. Thần từ (2-)
7. Sơn xuyên (4-)


* BẠCH VÂN AM CƯ SĨ NGUYỄN VĂN ĐẠT PHẢ KÝ
* Bổ di (5-)
* TIỀN BIÊN
1.Thế gia (5 truyện)
2. Danh thần (6-)
3. Danh nho (9-)
4. Tiết nghĩa (2-)
5. Chí khí (1-)
6. Ác báo (1-)
7. Tiết phụ (1-)
8. Ca nữ (1-)
9. Thần quái (10-)
10. Âm phần dương trạch (5-)
11. Danh thắng (1-)
12. Thú loại (2-)
* TỤC BIÊN
1. Danh thần danh nho (31-)
2. Dâm từ (1-)

3. Mộng ký (phụ tạp ký) (21-)
4. Tài nữ (1-)
5. Tiên thích (1-)
6. Thần từ (2-)
7. Sơn xuyên (4-)
8. Cổ tự 91-)

* BẠCH VÂN AM CƯ SĨ NGUYỄN VĂN ĐẠT PHẢ KÝ
* Bổ di (4-)
* QUYỂN MỘT
1. Thế gia (5 truyện)
2. Danh thần (6-)
3. Danh nho (9-)
4. Tiết nghĩa (2-)
5. Chí khí (1-)
6. Ác báo (1-)
7. Tiết phụ (1-)
8. Ca nữ (1-)
9. Thần quái (2-)
10. Bổ di (1-)



* QUYỂN HAI
1. Thần quái (8-)

2. Âm phần dương trạch (5-)
3. Danh thắng (1-)

4. Thú loại (2-)
5. Danh thần (26-)
6. Mộng ký (19-)
7. Tài nữ (1-)
9. Thần từ (4-)
10. Sơn xuyên (14-)(7)

0
* QUYỂN MỘT
Thế gia (8 truyện)(5)
* QUYỂN HAI
Danh thần (5-)
* QUYỂN BA
Danh nho (7-)
*QUYỂN BỐN
1. Tiết nghĩa (2-)
2. Thần quái (3-)






0






0
0

Riêng bản chữ Nôm, Truyện CDTK AB.481 dày 134 trang, 27x17cm, 1 tựa, chia thành 5 quyển, 40 truyện. Đây là bản dịch sách CDTK từ Hán sang Nôm, thuộc một hệ thống ngôn ngữ, văn tự khác với những bản CDTK được soạn thảo bằng chữ Hán.

Sau khi biết qua đôi nét về đặc điểm văn bản, ta có thể đi sâu vào một số vấn đề đang đặt ra đối với CDTK.

A. SÁCH GỐC CỦA VŨ PHƯƠNG ĐỀ

Tình hình văn bản CDTK như đã thấy, vô cùng hỗn tạp. Nhưng cũng chưa tới mức không còn phân biệt được bài nào là do chính tay Vũ Phương Đề (VPĐ) viết, như tác giả Nam Thiên trân dị tập từng nhận xét. Phan Huy Chú (1782-1840) một người sống cách VPĐ không xa lắm, có miêu thuật về sách CDTK của họ Vũ như sau: "CDTK 1 quyển, do Tiến sĩ Mộ Trạch VPĐ soạn. Sách tạp ghi những điều nghe thấy xưa nay, chia làm 12 môn loại là Thế gia, là Danh thần, là Danh nho, là Tiết nghĩa, là Chí khí, là Ác báo, là Tiết phụ, là Ca nữ, là Thần quái, là Âm phần dương trạch, là Danh thắng, là Thú loại, cả thảy 43 truyện" (Lịch triều hiến chương loại chí. Văn tịch chí). Nếu những ghi chép của Phan Huy Chú trên đây là chính xác, thì sách gốc của VPĐ gồm 1 quyển, 43 truyện, được xếp trong 12 khung bài mục. Đối chiếu với các bản CDTK chữ Hán hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ta thấy phần Tiền biên của A.44 và phần Tiền biên của VHv.14 chính là sách CDTK vốn có của VPĐ. Duy số truyện ở 2 bản này là 44, dôi thêm một truyện so với con số 43 mà Phan Huy Chú đã cung cấp. Có thể về sau, một truyện nào đấy đã được đưa thêm vào sách CDTK của họ Vũ trong quá trình sao đi chép lại, nhưng hiện vẫn chưa chỉ ra được. Ở bản VHv.1324/1-2, CDTK của VPĐ được chép trong 9 mục đầu của Quyển một (Thế gia, Danh thần, Danh nho, Tiết nghĩa, Chí khí, Ác báo, Tiết phụ, Ca nữ, Thần quái) và 4 mục đầu của Quyển hai (Thần quái, Âm phần dương trạch, Danh thắng, Thú loại). Số truyện tổng cộng vẫn là 44. Ở bản A.1893, hầu hết các truyện trong Quyển một, Quyển hai, Quyển ba Quyển bốn (trừ truyện Trung hưng hậu văn thế ti liệt ở cuối Q.3) đều nằm trong khuôn khổ CDTK của VPĐ. Khác chăng là số truyện ở A.1893 ít hơn (chỉ có 24 truyện, không kể truyện Trung hưng hậu văn thế ti liệt) và được sắp xếp theo một trật tự không giống với CDTK của VPĐ. Ở bản chữ Nôm Truyện CDTK, tất cả 40 truyện trong 5 quyển đều thuộc CDTK của họ Vũ. Trật tự các truyện cũng giữ nguyên theo sách gốc. Chỉ ít hơn CDTK của VPĐ từ 3 đến 4 truyện thôi.

Một câu hỏi đặt ra: truyện của VPĐ được bảo lưu trong các bản CDTK bằng chữ Hán và chữ Nôm hiện thấy liệu có còn giữ nguyên bộ mặt ban đầu của nó nữa không ? Ở đây, điều dễ thấy trước hết là nhan đề các câu chuyện phần nhiều viết thiếu nhất quán. Hãy lấy tiêu đề các truyện trong khung mục Thế gia ở Quyển một bản VHv.1324/1-2 và tiêu đề các truyện trong khung mục Thế gia ở Tiền biên bản A.44 làm một thí dụ. Xem bảng đối chiếu sau đây:

TT VHv.1324/1-2. THẾ GIA A.44. THẾ GIA
1 Mộ trạch Vũ tộc ký Tiến sĩ sào phong thuỷ chung linh
2 Thượng thư Vũ Hữu ký (phụ Vũ Dự) Truy viễn đường kiều tùng thực tú
3 Giao điệt Trạng nguyên ký Ngũ đoản tướng giao điệt xưng Trạng nguyên
4 Mộ Trạch Tể tướng ký Nhất cao đôi phong trần đắc cát cục
5 Vịnh Kiều tổ mộ ký (phụ Hiển Tích) Thủ ngân khách tầm địa báo hảo tâm nhân

Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy trong khi tiêu đề các truyện ở VHv.1324/1-2 được đặt một cách bình thường, thì ở A.44, chúng lại được đặt đăng đối theo từng cặp: "Tiến sĩ sào phong thuỷ chung linh" đi với "Truy viễn đường kiều tùng thực tú"; "Ngũ đoản tướng giao điệt xưng Trạng nguyên" đi với "Nhất cao đôi phong phần đắc cát cục"; v.v..

Những cặp tiêu đề đăng đối như thế này chưa được sử dụng đều khắp trong từng văn bản hoặc giữa các bản CDTK (kể cả Tiền biên lẫn Tục biên). Nó chỉ có thể là sự gia công của người đời sau. Nhưng ai làm việc này? Theo nghiên cứu của chúng tôi, đó là Vũ Xuân Tiên, người xã Phú Khê, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương cũ, từng làm Hàn lâm viện trứ tác, lĩnh chức Giáo thụ phủ Nho Quan. Tiêu đề của toàn bộ các truyện trong sách Truyện CDTK của ông đều được soạn thảo bằng những cặp câu đăng đối, phần nhiều giống hệt những câu xuất hiện trong các bản CDTK chữ Hán. Có thể nghĩ chính ông đã đặt ra những cặp tiêu đề đăng đối kiểu trên ở các bản chữ Hán, trước khi sửa chữa, hoàn chỉnh và đưa chúng vào bản dịch Nôm CDTK của ông thay cho loại tiêu đề bình thường kiểu "Mộ Trạch Vũ tộc ký", "Thượng thư Vũ Hữu ký" v.v.. vốn có ở CDTK của VPĐ.

Nói gọn lại, loại tiêu đề bình thường là của VPĐ; loại tiêu đề từng cặp đăng đối hoặc ít nhiều đăng đối là của Vũ Xuân Tiên người đời sau.

Ngoài những biến động về tiêu đề, nội dung câu chuyện trong các ản CDTK phần Tiền biên hoặc tương đương, nếu đem so sánh, ta cũng thấy có sự xê dịch, nhưng chủ yếu là về mặt câu chữ. Khác nhau về chi tiết giữa các truyện tuy có nhưng không nhiều.

B. QUÁ TRÌNH "TÍCH HỢP" CỦA CÔNG DƯ TIỆP KÝ

Như trên đã nói, CDTK của VPĐ sau khi ra đời, được nhiều người đón đọc và mặc nhiên tiến hành cái công việc gần như thông lệ: tục biên, tục bổ...

Trước hết là Trần Quý Nha. Ông quê Điền Trì, huyện Chí Linh(8). Trong bản CDTK A.44 còn ghi rõ ông chính là tác giả phần Tục biên (Hậu biên) của sách CDTK: "Chí Linh, Điền Trì, Trần Quý Nha tự = Trần Quý Nha, người xã Điền Trì, huyện Chí Linh soạn chép". Khung bài mục của ông ở phần Tục biên (Hậu biên), theo A.44 và VHv.14, gồm: 1. Danh thần danh nho; 2. Dâm từ; 3. Mộng ký (phụ tạp ký); 4. Tài nữ; 5. Tiên thích; 6. Thần từ; 7. Sơn xuyên; với tổng số 61 truyện (Bản VHv.1324/1-2, Quyển hai chỉ chép lại một số trong các truyện trên). Nhưng môn loại mà họ Trần sử dụng có khác với họ Vũ cả về số lượng lẫn tên gọi. Nội dung các truyện trong những khung bài mục cũng đều mới mẻ. Các truyện Lương Hữu Khánh, Vũ Duy Hoán, Giáp Hải, Nguyễn Thế Nghi trong phần Tục Biên của Trần Quý Nha, mới nhìn tưởng trùng lặp với các truyện Thượng thư Lương Hữu Khánh ký, Quế Am Vũ Đoán ký, Dĩnh Kế Trạng nguyên ký, Đại Hưng hầu ký trong phần Tiền biên của VPĐ, nhưng đọc kỹ, ta thấy tác giả Tục biên sở dĩ viết lại là do có những thông tin mới mà tác giả Tiền Biên trước đó chưa nắm được.

Tiếp sau phần Tục biên của Trần Quý Nha, có bài Bạch Vân Am ký (tên đầy đủ là Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký). Về tác giả bài này, bản A.44 có ghi rõ: "Tứ Kỳ, Ngọc Lặc, Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân thuật = Ôn đình hầu Vũ Khâm Lân, người xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ soạn thuật". Xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương. Vũ Khâm Lân nguyên tên là Vũ Khâm Thận, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727) niên hiệu Bảo Thái, làm quan đến chức Tham tụng, được cử đi sứ nhà Thanh, khi về được thăng tước Ôn quận công(9). Việc đưa bài ký của ông vào sách CDTK có lẽ do một người khác, chắc không phải Trần Quý Nha, thực hiện. Vì nếu là Trần Quý Nha, thì bài ký này hẳn nằm trong mục "Danh thần danh nho" của phần Tục biên.

Tiếp sau bài ký của Vũ Khâm Lân, ở A.44 và VHv.14 còn có phần Bổ di. Chưa rõ ai là người sưu tập phần này trong CDTK.

Để dễ hình dung, ta có thể phác hoạ quá trình "tích hợp" sách CDTK bằng sơ đồ sau:

Bị chú:
1. CDTK thời VPĐ
2. CDTK thời TQN
3. CDTK sau thời

C. QUÁ TRÌNH "TẾ PHÂN" CỦA CÔNG DƯ TIỆP KÝ

Như trên đã nói, CDTK của VPĐ sau một thời gian "tích hợp", đạt đến độ bão hòa, nó lại chuyển sang giai đoạn, "tế phân", hay đúng hơn, vỡ ra, biến tướng thành nhiều dạng mới, dưới những tên sách mới. Có thể kể:

Danh thần truyện ký, Danh thần danh nho truyện ký, Chư gia phát tích địa, Lịch đại danh thần sự trạng, Thần quái hiển linh lục, Nam Thiên trân dị tập, Thính văn dị lục, Bản quốc dị văn lục, Việt tuấn giai đàm, Đại Nam kỳ truyện v.v..

1. Danh thần truyện ký A.506: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn. Khung bài mục gồm: 1. Danh thần truyện ký (28 truyện); 2. Dâm từ (1 truyện); 3. Mộng ký (phụ tạp ký) (18 truyện); 4. Tài nữ (1 truyện); 5. Tiên thích (1 truyện); 6. Thần từ (3 truyện); 7. Sơn xuyên (9 truyện); 8. Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký.

Thực chất, đây là CDTK Tục biên của Trần Quý Nha (có tăng giảm một số ít truyện), cộng với Bạch Vân Am ký của Vũ Khâm Lân.

2. Danh thần danh nho truyện ký A.1309: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn. Khung bài mục gồm: 1. Danh thần danh nho truyện ký (29 truyện); 2. Mộng ký (phụ tạp ký) (18 truyện); 3. Tài nữ (1 truyện); 4. Tiên thích (1 truyện); 5. Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký; 6. Toàn Lê tiết nghĩa lục (Tiền Lê tiết nghĩa lục và Hậu Lê công thần tiết nghĩa lục).

Trừ Toàn Lê tiết nghĩa lục là một tác phẩm độc lập, có tác giả (Nguyễn Năng Thiệu và Nguyễn Tôn Lễ), có năm biên soạn (Gia Long 14) được ghép thêm vào sách, phần còn lại của Danh thần danh nho truyện ký thực chất cũng là CDTK Tục biên của Trần Quý Nha (có tăng giảm một số ít truyện), cộng với Bạch Vân Am ký của Vũ Khâm Lân.

3. Chư gia phát tích địa A.235: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn, không có khung bài mục. Sách gồm 12 truyện, chủ yếu trích từ CDTK Tục biên của Trần Quý Nha.

4. Lịch đại danh thần sự trạng A.264: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn, khung bài mục gồm: 1. Danh thần (22 truyện); 2. Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký; 3. Mộng ký (1 truyện); 4. Tạp ký (2 truyện); 5. Sơn xuyên (3 truyện); 6. Tài nữ (1 truyện); 7. Danh nho (15 truyện, trong đó truyện Giáp Hải đã có ở khung mục Danh thần); 8. Chí khí (1 truyện); 9. Âm phần dương trạch (4 truyện); 10. Danh thắng (1 truyện); 11. Liệt nữ (1 truyện); 12. Thần quái (2 truyện).

Thực chất, đầy gồm những truyện trích từ CDTK Tiền biên của VPĐ (các phần Danh nho, Chí khí, Âm phần dương trạch, Danh thắng, Liệt nữ, Thần quái), CDTK Tục biên của Trần Quý Nha (các phần Danh thần, Mộng ký, Sơn xuyên, Tài nữ) và Bạch vân Am ký của Vũ Khâm Lân.

5. Thần quái hiển linh lục: A.1648: không ghi tên tác giả. Trang đầu và trang cuối sách đề ngày 3 tháng 5 năm Minh Mệnh 5 (1824). Sách không có khung bài mục. Tất cả gồm 46 truyện.

Hầu hết các truyện ở đây đều trích từ CDTK Tiền biên của VPĐ (Thần quái, Âm phần dương trạch), CDTK Tục biên của Trần Quý Nha (Danh thần, Danh nho, Mộng ký, Tạp ký) và Bạch Vân Am ký của Vũ Khâm Lân.

6 . Nam Thiên trân dị tập A.1517: tác giả là Vũ Xuân Tiến(10), sách soạn năm Khải Định 2 (1917). Trong lời tựa, tác giả có nói sách này được soạn lại trên cơ sở CDTK (cả Tiền biên lẫn Tục biên), chia thành 2 quyển: quyển 1 gồm 70 truyện "quý" (trân); quyển 2 gồm 62 truyện "lạ" (dị). Cuối sách có chép Cổ quái bốc sư truyện (Truyện ông thầy bói kì cục) vốn không thấy trong CDTK.

7. Thính văn dị lục A.593: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn. Nhưng qua nội dung sách (Yêu thần truyện, Trần Bá Kiên kỳ mộng kí, Nhân Ái Đỗ tướng công linh từ ký) có thể biết tác giả người thôn Nhân Ái, xã Vân Canh, nay thuộc huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; và sách được làm ra vào khoảng nửa cuối thế kỷ 19. Sách không có khung bài mục. Gồm cả thảy 50 truyện chủ yếu trích từ CDTK Tiền biên, CDTK Tục biên, Bạch Vân Am ký, và một số ít trích từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Truyền kỳ mạn lục v.v..

Nghĩa là về nội dung, ngoài CDTK, sách còn có một số truyện trích từ các nguồn khác.

8. Bản quốc dị văn lục A.3178 và A.3197 (tinh tả A.3178): không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn, không có khung bài mục. Sách gồm 30 truyện, chủ yếu trích từ Thính văn dị lục.

9. Việt Tuấn giai đàm A.3006: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn, không có khung bài mục. Sách gồm tất cả 45 truyện, trích từ hai nguồn chính: Lĩnh Nam chích quái (7 truyện đầu) và CDTK Tiền biên, CDTK Tục biên (38 truyện còn lại).

10. Đại Nam kỳ truyện A.229: không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn, không có khung bài mục. Sách gồm 36 truyện trích từ CDTK Tiền biên, CDTK Tục biên và một vài nguồn khác. Có một dị bản mang tiêu đề Đại Nam hiển ứng truyện A.386 gồm 35 truyện (thiếu Chiêm Thành truyện).

Việc "tế phân" trên đây cố nhiên không loại trừ tính chất sáng tạo theo những mức độ khác nhau mà ta khả dĩ thấy qua từng cuốn sách hoặc từng truyện trong sách. Nhất là Nam Thiên trân dị tập có thể xem như một tác phẩm viết lại khá thành công, với một lượng thông tin phong phú hơn và một văn phong hấp dẫn hơn, vượt hẳn tập "tiệp ký" của Vũ Phương Đề ban đầu.

Trở lên là những cố gắng nhận diện sách CDTK của VPĐ, đồng thời làm rõ quá trình "tích hợp" và "tế phân", nếu có thể gọi được như vậy, của nó. Vấn đề thực sự phức tạp, mong được bạn đọc chỉ vẽ thêm.

CHÚ THÍCH

1. Nam Thiên trân dị tập, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1517. Sách được biên soạn vào năm Khải Định 2 (1917). Tác giả, theo chúng tôi, là Vũ Xuân Tiên (Xem Trần Nghĩa: Vấn đề tác giả và mặt đóng góp của "Nam Thiên trân dị tập". Tạp chí Hán Nôm số 3 - 1996).

2. Công dư tiệp ký. Nguyễn Đình Diệm dịch. Quốc gia giáo dục. Sài Gòn. 1961-1962.

3. Ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn một cuốn CDTK trích lục, ký hiệu A.2010, do ít giá trị khoa học, chúng tôi không đặt vào diện khảo sát.

4. Riêng VHv.1324/1-2 có kích cỡ nhỏ hơn, khoảng 26x15cm.

5. Trong số truyện này, có Ác báo ái đấu kê ký Phù Ủng tiết phụ ký không thể xem thuộc loại Thế gia. Ác báo ái đấu kê ký thuộc loại Ác báo, Phù Ủng tiết phụ ký thuộc loại Tiết phụ.

6. "Âm", các bản A.44, VHv.14, VHv.1324/1-2 đều viết nhần là "Danh".

7. Trong số truyện này, có Lô Giang văn tống thoán ngạc ngư, Bạch vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt phả ký, Kính nghĩa văn tự kiến khí tượng lẽ ra không nên xếp vào mục Sơn xuyên. Chúng tương đương với Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt phả ký Bổ di ở A.44 và VHv.14.

8. Theo Trần Văn Giáp, Trần Quý Nha có thể là Trần Tiến (xem Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, H. 1971, tr.260). Trần Tiến người xã Điền Trì, huyện Chí Linh, nay là thông Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748) niên hiệu Cảnh Hưng, làm quan đến chức Hàn lâm thị giảng, có soạn sách Đăng khoa lục sưu giảng (Xem Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ Chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.711).

9. Xem Các nhà khoa bảng Việt Nam, sđd., tr.685.

10. Xem bài: Vấn đề tác giả và mặt đóng góp của "Nam Thiên trân dị tập”. Bđd.

TB

GÓP PHẦN TÌM HIỂU
"TÂN BIÊN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC"

ĐINH VĂN MINH

Tân biên truyền kỳ mạn lục (sau đây gọi tắt là Tân biên) có tên đầy đủ là “Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú”, có sách chép là “Truyền kỳ truyện nghĩa”, hoặc “Truyền kỳ diễn nghĩa”. Nói đến Tân biên tức là nói đến bản dịch Nôm Truyền kỳ mạn lục, có thêm phần giải âm và tập chú.

Chưa có một chuyên luận về Tân biên, nhưng ở những vấn đề liên quan, từ những phương diện khác nhau, nhiều người trong giới nghiên cứu đã phát biểu những ý kiến khá thấu đáo, như Lê Văn Quán, Trần Nghĩa, Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh(1), Paul Schneider, Nguyễn Đăng Na, và mới đây là Hoàng Hồng Cẩm(2), Tuy vậy xung quanh Tân biên, còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu. Bài viết này thử đi vào bàn thêm một vài điểm.

1. “Tân biên” với “Cựu biên”.

Như chúng ta đã biết, Truyền kỳ mạn lục (TKML) có hai loại văn bản: Cựu biên Tân biên - Muốn tìm hiểu Tân biên không thể không dựa vào Cựu biên - Năm 1985, Giáo sư Trần Nghĩa công bố một bản Cựu biên TKML in năm 1712(3). Bản này được coi là bản cổ nhất hiện nay.

Bài báo đó có in kèm bản chụp tờ lót và bìa trong của văn bản. ở tờ bìa trong có bốn chữ “Truyền kỳ mạn lục” nét rỗng, bên phải và bên trái đều có lạc khoản, cho biết đây là bản do Loại Am hội chú (Loại Am (?) tập hợp chú thích), thư phường Hồng Lục Nguyễn Tự Tín khắc gỗ. ở tờ lót có bảy chữ “Cựu biên Truyền kỳ mạn lục tự”. Cuối bài tựa cũng có dòng lạc khoản, cho biết người biên tập là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu. Đúng như Giáo sư Trần Nghĩa nhận xét, bốn chữ tên sách ở bìa là “Truyền kỳ mạn lục” chính do Nguyễn Dữ đặt - Vậy thì còn hai chữ “Cựu biên” ở lời tựa do ai đặt, đặt từ lúc nào, đặt để làm gì ? Theo chúng tôi, hai chữ đó vốn không phải là chữ Nguyễn Dữ đặt vào tên tác phẩm của mình khi biên soạn, cũng không phải là chữ Hà Thiện Hán đặt vào lời tựa khi viết tựa vào năm Vĩnh Định sơ niên (1547). Hai chữ “Cựu biên” không có nghĩa gì khi chưa có “Tân biên”. Hai chữ đó do người sau biên tập lại để khắc in, đã thêm vào khi TKML đã có bản dịch ra chữ Nôm, tức “Tân biên” - Thêm hai chữ “Cựu biên”, người biên tập muốn phân biệt với “Tân biên”- Như vậy nếu bản in TKML năm 1712 hiện nay được bảo tàng ở Đông Dương văn khố Tôkyô Nhật Bản là bản in sớm nhất như tình hình tư liệu hiện nay cho thấy thì, Nguyễn Lập Phu là người đầu tiên thêm vào hai chữ “Cựu biên”.

Hiển nhiên, Tân biên với tư cách là tác phẩm dịch, ra đời sau tác phẩm nguyên văn chữ Hán. Nhưng nếu xét về mặt văn bản (loại văn bản) thì thứ tự đó đảo ngược, lý do như trên đã trình bày. Hiểu được như vậy mới lý giải được hiện tượng văn bản mà Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh đã nhận xét là, với Cựu biên, Tân biên không có quan hệ truyền bản hay kế thừa, mà Tân biên trực tiếp dựa vào các bản có trước Cựu biên để hiệu chú(4). Qua phân tích phần chú thích ở bản Cựu biên (Loại Am hội chú bản), Trần nghĩa, Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh cùng chung một nhận xét, là ở Cựu biên đã để lộ ít nhất là hai dị bản. Điều này cũng có nghĩa là trước khi Cựu biên xuất bản, TKML có nhiều bản khác nhau. Có thể, Tân biên tập hợp chú thích của nhóm văn bản này, Cựu biên tập hợp chú thích của nhóm văn bản nọ. Điều này lộ rõ ở lề lối chú thích. Chẳng hạn, ở Cựu biên trích dẫn ngắn gọn, ít nêu xuất xứ, còn ở Tân biên trích dẫn rườm rà, toàn bộ hầu như đều nêu xuất xứ. Tuy vậy Tân biên Cựu biên lại gặp gỡ nhau ở một bản - có thể hơn - trong đó. Chứng cứ là cả hai đều có dẫn “cựu chú”.

2. “Công dư tiệp ký”(5) với dịch giả “Tân biên”.

Không kể những bản có ở nước ngoài, trong nước hiện còn có sáu dị bản Tân biên, không bản nào có chỉ báo dịch giả là ai. Từ trước đến nay chưa có tài liệu nào cho biết đích xác điều đó. Một số người trong giới nghiên cứu đã dựa vào Công dư tiệp ký để nói rằng dịch giả Tân biên là Nguyễn Thế Nghi. Thiết nghĩ, cũng cần xem xét nguồn tư liệu này để thấy độ tin cậy đến đâu.

Công dư tiệp ký là tập sách viết theo thể ký, chủ yếu là nhân vật ký - Như lời tựa ở đầu sách đã nói rõ, khi biên soạn sách này, soạn giả bằng vào những điều mắt thấy tai nghe được xưa nay, có tham bác tìm hiểu ở các bậc hiểu biết rộng rãi. Người đọc có thể tìm thấy ở đây nhiều nhân vật ở làng Mộ Trạch và vùng Hải Dương. Giới thiệu các nhân vật trong vùng là thế mạnh và dường như cũng là chủ đích của soạn giả. ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm có những bốn bản chép tay Công dư tiệp ký. Chúng tôi chọn bản có ký hiệu A.44 để tìm hiểu, vì bản này đầy đủ hơn cả. ở đó có bài tựa của tác giả đề năm Cảnh Hưng thứ 16 (1755), có cả phần Tiền biên, Tục biên Bổ di. Đoạn nói về Nguyễn Thế Nghi ở phần Tiền biên như sau(6):

“Nguyễn Thế Nghi người ở thôn Hạ, làng Mộ Trạch, em của Trung quan Đảm quốc công Thế Ân, chú của Phò mã Thế Tứ (có thuyết nói là anh họ)(7) là người mạnh mẽ, không theo khuôn phép nào cả, nhưng có chí khí cao thượng. Thiếu thời [ông] giỏi văn chương, đặc biệt có sở trường về thể văn Quốc âm. Năm 15 tuổi đỗ Hương cống. Bấy giờ các Cống sĩ cùng khoa thi đều đội khăn lụa đen, mặc áo vóc xanh, riêng ông đội khăn hồng, mặc áo đen. Quan trường bực lắm, nhưng nể vì thế lực của người anh, nên bỏ qua cho. Thường ngày ông chơi thân với Mạc Đăng Dung. Năm Thống Nguyên(8), [Mạc Đăng Dung] tiếm đoạt ngôi vua, ông chán chường bỏ nhà đi, nương nhờ ở chùa Trường An trong Kinh thành, chẳng cần ai biết đến. Một hôm, Đăng Dung ban cho ông chức quan khá, ông từ chối, chỉ xin nhận một tước hiệu thôi, tức “Đại Hưng”. Đăng Dung bèn bằng lòng và phong cho làm Đại Hưng hầu. Thế là ông được thỏa chí. Ông thường ngâm nga một câu bằng Quốc ngữ và câu đó được viết lên bên trái cửa Đại Hưng(9): “Anh hùng ai nấy nhung nhưng, nào ai đến cửa Đại Hưng chẳng luồn”, cho rằng mình ở bên trên mà mọi người thì ở phía dưới. Đến cuối đời Mạc vẫn còn. Nhà Mạc hoang dâm, trễ nải chính sự, ông sáng tác truyện Lạc Xương phân kính bằng Quốc ngữ, lấy chuyện Trần Tùy để ngụ ý chế giễu, người khác không biết được. Ông còn sáng tác bài phú bằng chữ Nôm Huyền Quang tống cung nữ được nhiều người truyền tụng. Khoảng năm Minh Đức(10), có sứ giả phương Bắc đi đến cửa Nam, nghe nói trên đó có chữ đề liên quan đến tên hiệu của bề tôi quốc gia, bèn dừng xe lại, đòi bắc thang đi qua phía trên. Bấy giờ, Thượng thư Vũ Duy Đoán là người tiếp sứ giả, giả vờ chiều theo ý, bèn nghĩ ra một kế, ngầm chọn voi khỏe cho đi sau sứ giả, rồi thúc dùi nhọn vào mông voi cho thật đau. Voi rống lên, Bắc sứ thất kinh, vội luồn qua cửa. Biết là bị mắc hỡm, Bắc sứ bẽ bàng tức giận. Nay vẫn còn lưu truyền câu chuyện này”(11).

Đoạn tư liệu vừa dẫn không nói gì đến chuyện Nguyễn Thế Nghi dịch Nôm truyện Truyền kỳ mạn lục, mặc dầu có nói ông sáng tác truyện Nôm Lạc Dương phân kính và bài phú Nôm Huyền Quang tống cung nữ. Điều đáng chú ý cũng là điều mà người sử dụng tư liệu không thể bỏ qua là mâu thuẫn giữa niên đại và nhân vật trong một sự kiện, mặc dầu sự kiện đó được kể lại như một giai thoại - sự kiện sứ giả phương Bắc đi qua cửa Nam ở thành Thăng Long. Sự kiện này xảy ra vào niên hiệu Minh Đức, tức là những năm 30 của nửa đầu thế kỷ XVI, mà Vũ Duy Đoán thì mãi một thế kỷ sau mới chào đời(12) ! Xét về Vũ Phương Đề với tư cách là soạn giả Công dư tiệp ký cũng là tác giả của đoạn tư liệu kể trên, Vũ Phương Đề sống cách Nguyễn Thế Nghi sau hai thế kỷ. Khi ông viết những dòng về Nguyễn Thế nghi, Vũ Phương Đề chỉ biết dựa nguồn truyền miệng, tức “thế truyền” và hiểu biết của mình, tức ‘tố văn”. “Thế truyền” và “tố văn” có cơ sở để chúng ta ngày nay có thể nghĩ rằng nếu gạt bỏ những hạn chế của giai thoại, còn lại những gì về con người thật Nguyễn Thế Nghi là xác thực. Bởi vì, một là, tuy Vũ Phương Đề sống vào đầu thế kỷ XVIII, cách Nguyễn Thế Nghi ngót hai trăm năm, nhưng ở cùng một làng được mệnh danh là “tổ Tiến sĩ ” - làng Mộ Trạch(13), Vũ Phương Đề có điều kiện thu thập, thẩm định những thông tin tư liệu về Nguyễn Thế Nghi; hai là, bản thân Vũ Phương Đề và gia đình họ hàng thân thuộc nhiều người học rộng tài cao, ông làm quan Học sĩ ở Đông các, hiểu biết của ông về Nguyễn Thế Nghi ít có khả năng mơ hồ thiếu sót. Việc dịch Nôm truyện TKML là một sự kiện lớn trong văn học, nếu Nguyễn Thế Nghi là dịch giả thì sao “bia miệng” ở Mộ Trạch không “ghi chép”, không truyền tụng ? Nếu Nguyễn Thế Nghi có đóng góp to lớn ấy, lẽ nào Vũ Phương Đề lại bỏ qua ?

Lại ở Công dư tiệp ký, phần Hậu biên (còn gọi là Tục biên)(14), đoạn viết về Nguyễn Thế Nghi như sau:

“Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi quê ở Mộ Trạch, Đường An (em của Trung quan Nguyễn Thế Ân)(15), giỏi văn chương, sành Quốc ngữ. Thiếu thời [Nguyễn Thế Nghi] kết giao với Mạc Đăng Dung. Khi Đăng Dung tranh được nước, mời ông ra làm quan, nhưng ông khước từ, chỉ xin được phong tước. [Mạc Đăng Dung] bèn phong cho tước hầu, gọi là Đại Hưng hầu. Ông đề câu kệ lên cửa, rằng “Anh hùng ai nấy nhung nhưng, Nào ai đến cửa Đại Hưng chẳng luồn”, ý chừng coi thường nhân cách Mạc Đăng Dung. Về sau ông chán chường, bỏ nhà đi, nương nhờ chùa Trường Lạc ở Kinh đô, lấy vợ, để tóc, uống rượu, ăn thịt chẳng khác gì người thường. Cuối đời Mạc vẫn còn. Bấy giờ nhà Mạc hoang dâm, trễ nải chính sự. Ông sáng tác truyện Nôm Lạc Dương phân kính để châm biếm, trong đó có câu “được Trần Tùy lấy làm nga, Đam bề sắc dục cưỡng gia nữ Trần(16)” lời lẽ rất sắc bén. Tiếc rằng nhà mạc không tỉnh ngộ. Đời truyền rằng ông diễn nghĩa truyện Truyền kỳ, lời văn cực đẹp, và có làm bài phú Huyền Quang tống cung nữ nay lưu hành ở đời”.

Xét về đại thể, hai đoạn tư liệu viết về Nguyễn Thế Nghi có nhiều điểm giống nhau. Chỗ khác nhau là nếu như đoạn trước có phụ giai thoại sứ phương Bắc đến cửa Đại Hưng, thì đoạn sau thêm thông tin Nguyễn Thế Nghi diễn nghĩa truyện Truyền kỳ, tức dịch Nôm TKML của Nguyễn Dữ. Đây chính là thông tin quan trọng để người thì khẳng định, kẻ thì phỏng đoán Nguyễn Thế Nghi là dịch giả Tân biên. Thông tin này chưa thể đứng vững được, vì tác giả của đoạn tư liệu chứa thông tin này cũng chưa rõ ràng. Theo nhà thư tịch học quá cố Trần Văn Giáp, phần Hậu biên sách Công dư tiệp ký là của Trần Quý Nha(17) và theo Trần Văn Giáp, Trần Quý Nha có lẽ là Trần Tiến(18). Trong Lịch triều hiến chương loại chí (phần Văn tịch chí), Phan Huy Chú chỉ nói Công dư tiệp ký do Tiến sĩ Vũ Phương Đề soạn, không nói gì đến phần Tục biên và do ai soạn. Không loại trừ khả năng trong khoảng 10 năm từ khi khởi thảo đến khi Phan Huy Chú dâng sách Lịch triều hiến chương loại chí cho vua Minh Mạng năm 1821, Công dư tiệp ký mới chỉ có phần (gọi là Tiền biên) do Vũ Phương Đề soạn. Nếu như vậy, phần Tục biên được chép nối vào sau cái mốc thời gian năm 1821, do Trần Quý Nha nào đó thực hiện, chứ không phải Trần Tiến. Giả sử đúng như sự phán đoán của Trần Văn Giáp là Trần Tiến, xét thấy Trần Tiến sinh sau Vũ Phương Đề 11 năm và đỗ Tiến sĩ sau 12 năm, về điều kiện không gian thời gian, về các mối quan hệ, Trần Tiến không có ưu thế hơn Vũ Phương Đề để bổ sung thiếu sót của Vũ Phương Đề. khẳng định Nguyễn Thế Nghi là người dịch TKML ra chữ Nôm.

3. Năm khắc in “Tân biên”

Trong số 6 bản Tân biên hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm bảo quản, chỉ có hai bản A.176 và VHv.1491 có ghi năm khắc in. Bản thứ nhất là bản chép tay, cuối phần mục lục có ghi “Liễu Chàng xã Nguyễn Bích gia bản trùng san” và “Cảnh Hưng nhị thập tứ niên cốc nhật”, nghĩa là: khắc lại theo bản sách của gia đình Nguyễn Bích xã Liễu Chàng, ngày lành năm thứ 24 niên hiệu Cảnh Hưng [1763] . Bản thứ hai, dòng lạc khoản cuối lời tựa cho biết bản này khắc lại theo bản sách của gia đình Xã trưởng xã Liễu Chàng Nguyễn Đình Lân, mùa xuân năm thứ 35 niên hiệu Cảnh Hưng [1774]. Vậy là hai lần khắc in này chỉ cách nhau 11 năm. Hai bản của gia đình Nguyễn Bích và Nguyễn Đình Lân được khắc in năm nào, chúng ta không thể biết được.

Ngược dòng thời gian để tìm kiếm, đầu thế kỷ XVIII còn có nhiều lần khắc in Tân biên. Theo Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh(19) ở nước ngoài người ta còn lưu giữ các bản có niên đại sớm hơn, như bản Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) Cự Linh thư phường tái san bản. Sách Quần hiền phú tập (20), ở bài tựa đầu sách Đỉnh thuyên “Quần hiền phú tập” tự, có đoạn chép: “... Khứ niên khắc Truyền kỳ diễn nghĩa cập Đề cương tập chú”. (Năm ngoái khắc in sách Truyền kỳ diễn nghĩa Đề cương tập chú). Sách Truyền kỳ diễn nghĩa mà lời tựa nói đến chính là Tân biên. Cuối bài tựa có thêm dòng lạc khoản: “Hoàng triều Bảo Thái thập niên, tuế tại Kỷ Dậu cốc nhật, đồng khoa Bồi tụng Lễ bộ Thượng thư Thị lang Nhập thị Kinh diên Cảo quận công Tam Bạch Bình Tô Vạn Chuyết cẩn đề vu Tác Xương đường chi tàng bản” (ngày lành tháng giêng năm Kỷ Dậu năm thứ 10 niên hiệu Bảo Thái(21), bạn đồng khoa(22) [chức] Bồi tụng Lễ bộ Thượng thư Thị lang Nhập thị kinh diên [tước] Cảo quận công(23), [hiệu] Tam Bạch Bình Tô Vạn Chuyết, xin đề vào sách tàng trữ ở nhà Tác Xương(24)). Bài tựa soạn ra khi sách Quần hiền phú tập được Nguyễn Trù biên tập và tổ chức khắc in lại, do bạn đỗ cùng khoa là Nguyễn Công Cơ soạn và đề ở bản sách tàng trữ ở nhà Nguyễn Trù thôn Đông Tác huyện Thọ Xương. Theo lời tựa, “năm ngoái” tức năm Mậu Thân, năm thứ 9 niên hiệu Bảo Thái (1728) (25), sách Truyền kỳ diễn nghĩa (tức Tân biên) được khắc in lại cùng với sách Đề cương tập chú. Như vậy. trong thế kỷ XVIII, chúng ta mới biết được có 5 lần khắc in sách Tân biên vào các năm: 1714, 1728, 1737, 1763, 1774. Bốn bản Tân biên còn lại, chúng là sản phẩm của lần khắc in nào, đây là vấn đề lý thú, cần được tiếp tục tìm hiểu.

Người biên tập: Ngô Đức Thọ

CHÚ THÍCH

(1). Xem Truyền kỳ mạn lục xuất bản thuyết minh, trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san Truyền kỳ loại, do Pháp quốc Viễn Đông học viện xuất bản, Đài Loan Học sinh Thư cục ấn hành, Paris - Taipei, 1986, tr.3.

(2) Tạp chí Hán Nôm, số 1 -1996, tr.47.

(3) Tạp chí Hán Nôm, số 2-1985, tr.90.

(4) Trần Khánh Hạo và Vương tam Khánh, Sđd., tr. 5.

(5) Soạn giả là Vũ Phương Đề (1698 - ?) tự Thuần Phủ, người làng Mộ Trạch, nay là xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đậu Tiến sĩ năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Hựu (1736), làm quan đến chức Đông các học sĩ.

(6). Trang 57b mục Chí khí, tiêu đề Đại Hưng hầu bằng huynh tứ chí. ở phần và mục này, đoạn chép về Nguyễn Thế Nghi, cả 4 bản Công dư tiệp ký đều chép giống nhau.

(7) Chữ trong ngoặc ( ) là chú thích của văn bản.

(8) Niên hiệu của Lê Hoàng Đệ Xuân (1522-1527).

(9).”Đại Hưng” là tên chữ của cửa Nam, một trong 4 cửa của thành Thăng Long xưa. Chưa thấy tên cửa “Đại Hưng” ghi chép trong các văn bản trước đời Mạc. Có lẽ tên cửa “Đại Hưng” có từ sau đấy.

(10).Niên hiệu của Mạc Đăng Dung (1527-1529).

(11).Người viết bài này dịch từ bản chữ Hán có ký hiệu đã nói ở trên.

(12).Vũ Duy Đoán sinh năm 1621 mất năm 1688, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là thôn Mộ Trạch xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương) đỗ Tiến Sĩ năm Lê Cảnh Trị thứ 2 (1664)), làm quan đến chức Thượng thư Bộ công.

(13). Làng Mộ Trạch có 36 Tiến sĩ.

(14). Trang 35a, mục “Nguyễn Thượng thư thỉ khẩu thành chương”.

(15) Chữ trong ( ) là chú thích của văn bản.

(16). Câu lục bát này nghĩa lý lờ mờ khó hiểu. Chúng tôi căn cứ vào chữ Nôm có trong văn bản, phiên âm như vậy.

(17). Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, 1970, tr.260.

(18). Trần Tiến (1709 - ?) người xã Điền Trì, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh tỉnh Hải Hưng đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn Cảnh Hưng thứ 9 (1748), làm quan đến chức Hàn lâm Thị giảng.

(19). Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh, Sđd, tr.5.

(20). Ký hiệu A.575 kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(21). Tức năm 1729.

(22),(23). Cảo quận công: Tức Nguyễn Công Cơ (1636 - 1733), tên hiệu là Nghĩa Trai, đỗ Tiến sĩ năm Thịnh Hòa thứ 18 (1697), làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, quê ở làng Ninh Tảo, huyện Từ Liêm, nay là xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, bạn đỗ cùng khoa của Nguyễn Trù (1668 - ?) tước Xương Phái hầu, người thôn Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm Hà Nội, làm quan đến chức Hình bộ hữu Thị lang.

(24). Tác Xương: thôn Đông Tác, huyện Thọ Xương.

(25).Nhân đây xin mạn phép đính chính một sai sót nhỏ trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. ở dòng thứ sáu, tr.36, tập II (Nxb., KHXH., Hà Nội, 1990) ghi: “Theo bài tựa của Nguyễn Thiên Túng đề sách Quần hiền phú tập trên đây, ông còn khắc in sách Truyền kỳ diễn nghĩa đồng thời với Sách học đề cương tập chú (Đề cương tập chú). Do đó ta biết thêm Sách học đề cương tập chú cũng đã được khắc in năm 1726 cùng với bản Truyền kỳ, tác giả là Nguyễn Dữ, rồi sau Nguyễn Thế Nghi diễn âm và chú giải vào hồi triều Mạc (thế kỷ XVI)”. Chỗ cần đính chính ở đây là:

1.Bài tựa viết cho sách Quần hiền phú tập do Nguyễn Thiên Túng soạn, đề niên hiệu Diên Ninh năm thứ 4(1457), khác với bài tựa đề năm Bảo Thái thứ 10 (1729) do Nguyễn Công Cơ soạn khi sách Quần hiền phú tập được Nguyễn Trù biên tập và tổ chức khắc in lại.

2. Theo lời tựa của Nguyễn Công Cơ, thì năm khắc in lại sách Truyền kỳ diễn nghĩa phải là năm 1728, chứ không phải là năm 1726.

TB

VÀI BẢN DỊCH "LIÊU TRAI CHÍ DỊ"
ĐẦU THẾ KỶ XX Ở LỤC TỈNH

CAO TỰ THANH

Được lưu truyền qua Việt Nam từ thế kỷ trước, Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh đã có một đời sống khá phong phú. Nó được phổ biến rộng rãi tới mức đã hội nhập vào nhiều truyện kể dân gian Việt Nam từ Bắc tới Nam, đồng thời một số truyện khi được sao chép, phổ biến riêng rẽ còn đã hòa lẫn vào hệ thống các truyện kể Việt Nam viết bằng chữ Hán (chẳng hạn tập Thư mục Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A.2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX(1): có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh “Tức Mặc” thuộc tỉnh Sơn Đông ở Trung Quốc trong truyện là Tức Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở Việt Nam). Việc phổ biến Liêu Trai chí dị như vậy tất yếu dẫn tới sự hình thành một quá trình phiên dịch tác phẩm này ở Việt Nam.

Để tìm hiểu lịch sử phiên dịch Liêu Trai chí dị ở Việt Nam thì còn phải tiến hành nhiều công trình nghiên cứu, nhưng trong phạm vi việc phiên dịch ra chữ quốc ngữ la tinh thì cũng có thể bước đầu nêu ra những cứ liệu khác với nhận định của một số người. Chẳng hạn Nguyễn Huệ Chi trong Lời giới thiệu quyển Liêu Trai chí dị (tuyển tập), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1989, tập I đã viết “Riêng việc dịch Liêu Trai chí dị ở Việt Nam cũng đã có cả một quá trình lịch sử. Nếu ở Anh, từ 1909, Herbert A.Gilles đã tuyển dịch 164 truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Anh, thì trước bản dịch Tản Đà 25 năm, tại Lục tỉnh miền Nam, chúng ta cũng đã có bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Nguyễn Tường Vân”. Nhưng kể cũng khá vô lý khi trên một căn bản truyền thống tiếp xúc với Liêu Trai chí dị lâu dài và rộng rãi như vậy mà các dịch giả Việt Nam lại đi sau một dịch giả người Anh trong việc phiên dịch Liêu Trai chí dị... Cho nên khác với sự khái quát nói trên, trước bản dịch Liêu Trai chí dị của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (Nhà in J. Viết, Sài Gòn, 1916 -1918) ít nhất 15 năm, người đọc Lục tỉnh đã được đọc các truyện trong Liêu Trai chí dị dịch ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh. Chỉ lấy tờ Nông cổ mín đàm (ra số đầu tiên ngày 1-8-1901) làm ví dụ, cũng có thể kể ra hàng chục bản dịch của nhiều người khác nhau :

* Lương Dũ Thúc, bài Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, số 5,6,7, ngày 29.8, 5 và 12.9.1901 chính là bản dịch truyện Thụy Vân, quyển IV.

* Lương Dũ Thúc, bài Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19. 9. 1901 chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XIII.

*Lương Dũ Thúc, bài Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901 chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV.

* Lương Dũ Thúc, bài Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bản dịch truyện Thủy mãng thảo, quyển II.

* Lương Hòa Quý, bài Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chính là bản dịch truyện Hồ Tứ thư, quyển II.

* Khuyến Thiện đạo nhân, bài Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7. 8.1902, chính là bản dịch truyện Nhiệm Tú, quyển II.

* Nguyễn Chánh Sắc, bài Chuyện Hồng Ngọc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III.

* Nguyễn Chánh Sắc, bài Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI

* Nguyễn Đoan Khai, bài Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV.

...

Ngoài việc sử dụng ngôn ngữ địa phương rất đậm nét, các dịch giả nói trên đôi khi còn dịch ra thơ - chủ yếu là thơ lục bát. Các bản dịch Thụy Vân, Nghĩa khuyển... của Lương Dũ Thúc thuộc loại vừa chuyển ngữ vừa chuyển thể này. Vì khuôn khổ có hạn của bài viết, chỉ xin giới thiệu bản dịch của hai truyện thật ngắn (chúng tôi chỉ sửa các lỗi chính tả, ngoài ra vẫn theo đúng nguyên bản).

* Truyện Nghĩa thử :

Dương Thiên Nhất ngôn kiến nhị thử xuất, kỳ nhất vị xà sở thôn. Kỳ nhất trừng mục như tiêu, tự thậm hận oán nhiên dao vọng bất cảm tiền. Xà quả phúc, uyển diên nhập huyệt, phương tương quá bán, thử bôn lai lực tước kỳ vĩ. Xà nộ thoái thân xuất, thử cố tiện tiệp huất nhiên độn khứ. Xà truy bất cập nhi phản, cập nhật huyệt, thử hựu lai tước như tiền trạng. Xà nhập tắc lai, xà xuất tắc vãng, như thị giả cửu, xà xuất thổ tử thử ư địa thượng. Thử lai khứu chi, thu thu như điệu tức, hàm chi nhi khứ. Hữu nhân Trương Lịch Hữu vị tác “Nghĩa thử hành”.

(Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra ngoài, một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đen ngó, có vẻ rất căm giận nhưng chỉ đứng xa mà nhìn chứ không dám tới gần. Rắn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột vốn lanh lẹn liền lủi trốn. Rắn đuổi không kịp bèn quay lại, vừa bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như lần trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt đất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn tôi là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này).

Bản dịch của Lương Dũ Thúc:

Dương Thiên để lại một lời
Truyện hai con chuột trên đời ít nghe
Ngày kia hai bợm hiệp phe
Ngao du xó vách bên hè người ta
Rủi thay gặp rắn bò ra
Chụp đi một gã nuốt mà trọn thây
Con còn trợn mắt trừng mày
Giận thôi quá trí mới bày mưu cao
Rắn no hang cũ chun vào
Mới vô phân nửa chuột vào cắn đuôi
Giận nên rắn trở thối lui
Rượt cho chuột chạy một hồi đã xa
Rắn bèn trở lại hang ta
Chuột y nghề cũ cắn mà bắp đuôi
Vậy chơi hơn bảy tám hồi
Mệt nên tức giận rắn lui ra ngoài
Mửa liền xác chuột mới nhai
Trả cho con sống để hoài cực thân
Mửa rồi xuống lỗ lần lần
Chuột bèn thôi cắn mặc thân rắn bò
Xem ra ý chuột âu lo
Mới tha xác bạn lần mò về hang
Giống hình khóc lóc kêu van
Tưởng như kể lể khóc than bạn hèn
Nghe thôi ai lại chẳng khen
Chuột mà có trí dám phen người đời
Truyện ghi trước để xem chơi
Sau vui hữu ích vậy thời đáng vui.

Ngoài bốn câu cuối có tính chất đưa đẩy, bản dịch ra thơ lục bát này đã theo sát nội dung truyện Nghĩa thử: tác giả Tân Nhuận Thoàn sư trong bài Đối cổ kỳ quan, Nông cổ mín đàm, số 21, ngày 26.12.1901 đã viết “Trong Nông cổ mín đàm này, ông Lương Dũ Thúc có đam chuyện Nghĩa thử, ổng cho đề rằng Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, ấy là cổ tích xuất tự Liêu Trai chí dị để mà khuyến thiện”.

* Truyện Ngưu phi:

Ấp nhân Mỗ cấu nhất ngưu phả kiện. Dạ mộng ngưu sinh lưỡng dực phi khứ, dĩ vi bất tường, nghi hữu táng thất, khiên thị khẩu tổn giá thụ chi, dĩ cân nang kim triền tý thượng. Quy chí bán đồ, kiến hữu ưng thực tàn thố, thệ chi thậm thuần, toại dĩ cân đầu hệ cổ tý chi. ưng lũ bãi phác, bả xúc sảo giải, đới kim đằng khứ. Mỗ mỗi vị định số bất khả đào, nhi bất tri bất nghi mộng, bất tham thập di, tẩu giả hà kịch năng phi tai !

(Anh Mỗ người trong huyện mua được một con trâu rất khỏe. Đêm nằm mơ thấy con trâu mọc hai cánh bay đi, cho là điềm không hay, e sẽ bị mất bèn dắt ra chợ bán lỗ, lấy khăn bọc tiền lại quảy lên vai. Về được nửa đường thấy có con chim ưng đang ăn con thỏ chết, tới gần cũng rất dạn không bay, bèn vồ con ưng, lấy hai đầu khăn buộc chân nó rồi đeo lên vai. Con ưng giãy giụa một lúc, chiếc khăn lỏng ra, nó đeo cả khăn vùng bay mất, mang cả tiền đi. Mỗ cứ nói rằng số trời đã định thì không sao tránh khỏi, nhưng không biết rằng nếu không bị giấc mơ làm cho lầm lẫn, không tham của rơi trên đường thì con trâu chỉ biết chạy làm sao mà bỗng chốc bay được !).

Bản dịch của “Thơ ký” Nguyễn Đoan Khai (đăng trong mục Chuyện khôi hài):

Có một người nhà quê ở đất rẫy bái, tánh chơn chất, hay tin sự dị đoan, vợ chồng củi lục làm ăn, chắt lót mua đặng một con trâu cái toan để nuôi cho nó sanh sản ra mà làm của, bởi vậy từ ngày mua đặng con trâu về thì mừng rỡ lắm săn sóc hoài, có một đêm kia người nhà quê ấy, ngủ nằm chiêm bao thấy con trâu của mình biết bay, thì giựt mình thức dậy mới bàn với vợ rằng: hôm nay tao ngủ chiêm bao thấy con trâu nó biết bay lòng tao nghi nan sợ một là nó phải chết hai là phải bị ăn trộm đuổi mà chớ, lại vì vợ chồng ta ở chỗ rẫy bái nầy quạnh vắng có một mình biết giữ làm sao cho khỏi, có khi ông bà đã mách bảo trước cho mình hay, nếu mình không tính mà bán nó đi mà lấy vốn lại thì phải mang nghèo, vợ nghe chồng tính như vậy cũng bằng lòng, hối chồng dắt xuống chợ mà bán, đặng lấy vốn ít nhiều, sáng ngày ra người nhà quê ấy dắt con trâu đi xuống chợ mà bán, đi dọc đàng thấy trâu thiên hạ chết nhiều chàng va còn lo lắng hơn nữa, trông gặp ai mua giá nào cũng bán, thời may gặp người khách chịu mua giá mười đồng bạc, người nhà quê mầng bán đi, bán rồi lấy bạc gói vào dây lưng, cột ràng rịt chặt cứng mới toan đi về, lúc về dọc đường gặp một con kên kên, nó ăn những thịt trâu chết ngoài đồng nó say nó bay không nổi, thì người nhà quê mầng mới nói “May dữ a ! Gà độ của ai nó chạy lạc” mới tính bắt về nuôi chơi, mới rượt mà bắt, thì con kên kên vùng vẫy với chàng va, chàng va bắt đặng lật đật mở dây lưng ra cột nó, quên sự bạc bán trâu đã ràng rịt trong dây lưng, cột chặt rồi ôm đi một chặp, con kên kên hết say trở lại cắn chàng va đau buông phứt nó bay bổng đi, xảy sực nhớ lại mấy đồng bạc cột trong dây lưng còn dính theo con kên kên, thì đứng mà ngó theo con kên kên mà than rằng thiệt là con trâu biết bay, song ông bà đã mách bảo cho mình hay trước mà giữ không khỏi.

So với nguyên văn, bản dịch trên đây đã lược bớt đoạn cuối có tính chất khuyên răn, đạo đức..., có lẽ để phù hợp với mục Chuyện khôi hài. Tuy nhiên đáng chú ý là nó còn “Việt hóa” cả nguyên tác qua một màu sắc địa phương rất rõ nét, tóm lại có thể coi đây là một bản phỏng dịch. Cần lưu ý rằng dịch giả là một “Thơ ký”, nghĩa là thuộc giới trí thức Tây học lúc bấy giờ ở Lục tỉnh Nam Kỳ.

Cùng với nhiều bản dịch cùng thời, hai bản dịch trên đây là những cứ liệu cho phép tìm hiểu chính xác hơn về lịch sử phiên dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh đầu thế kỷ XX. Hơn thế nữa, chúng còn góp phần phản ảnh thực tiễn hoạt động dịch thuật ở Việt Nam trong buổi đầu tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây lúc ấy. Bởi nếu bản dịch chuyển thể của Lương Dũ Thúc là sự nối tiếp phong trào dịch thuật văn chương chữ Hán để bảo vệ văn hóa dân tộc dấy lên khi chính quyền thực dân bắt tay vào việc bài trừ chữ Hán ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX(2), thì bản dịch mang tính phóng tác của Nguyễn Đoan Khai lại thể hiện khuynh hướng đồng hóa để đưa các giá trị quốc tế vào sinh hoạt văn học Việt Nam ở Lục tỉnh đầu thế kỷ XX, khuynh hướng đã đem lại cho văn học chịu ảnh hưởng phương Tây ở vùng này một Hồ Biểu Chánh với những Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa phóng tác từ Sans Famille của Hector Malot, Les Misérables của Victor Hugo...

Tháng 7.1996
Người biên tập: Nguyễn Ngọc Nhuận

CHÚ THÍCH

(1).Về văn bản và thứ tự các truyện nói trên, trong bài viết này chúng tôi theo bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh, Hương Cảng và Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty xb., Đài Bắc, 1963, đều chia tác phẩm làm 16 quyển.

(2). Xem thêm Cao Tự Thanh, Văn học Hán Nôm ở Gia Định trong Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. TP.Hồ Chí Minh, 1988, tr. 114 - 115.

TB

ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH "TỔNG"
XUẤT HIỆN TỪ KHI NÀO

ĐINH KHẮC THUÂN

Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa huyện và xã - được duy trì trong hệ thống hành chính của các triều đại phong kiến Việt Nam từ cuối nhà Lê đến cuối nhà Nguyễn. Tuy nhiên, tổng xuất hiện từ khi nào và nguồn gốc của nó từ đâu, thì đến nay vẫn còn là câu hỏi chưa có lời đáp thỏa đáng. Bài viết này xin đưa ra một số tư liệu mới về đơn vị hành chính tổng và có một vài kiến giải bước đầu.

Nguồn tư liệu thư tịch cho biết đơn vị hành chính tổng xuất hiện khá muộn. Kể từ Dư địa chí của Nguyễn Trãi biên soạn vào thế kỷ XV, đến các bộ dư địa chí, bản đồ thời Hồng Đức, cũng như Ô châu cận lục của Dương Văn An (thế kỷ XVI) chưa hề thấy đơn vị hành chính tổng. Trong các bộ sử đương thời cũng vậy, như Đại Việt sử ký toàn thư - cuốn biên niên sử ghi chép các sự kiện lịch sử Việt Nam từ buổi đầu lập nước đến đời Lê Gia Tông năm 1675, cũng không thấy đơn vị hành chính tổng này. Nguồn tư liệu thư tịch sớm nhất ghi chép về tổng có lẽ là Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn - tác phẩm được biên soạn vào cuối thế kỷ XVIII.

Tuy vậy, chúng ta đã bắt gặp đơn vị hành chính tổng này - xuất hiện không những ở giai đoạn nhà Mạc thế kỷ XVI qua tư liệu văn bia Mạc, như một số bài viết gần đây đã đề cập đến(1), mà còn gặp trên một số văn bia thời Lê sơ thế kỷ XV.

Trong văn bia Mạc, chúng ta đã bắt gặp đơn vị hành chính tổng này xuất hiện đúng với chức năng của một đơn vị hành chính nối giữa huyện và xã. Chẳng hạn trên bia chùa Hồng Khánh xã Đốc Hành, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng)(2) ghi: “Tân Minh huyện các tổng xã tín vãi” (Tín vãi các xã và các tổng của huyện Tân Minh) cúng ruộng vào chùa năm 1589. Bia chùa Thiên Phúc xã Đa Phúc, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây(3) ghi: “Ninh Sơn huyện... tổng Lật Sài xã” nghĩa là xã Lật Sài tổng (...) huyện Ninh Sơn. Hai chữ ghi tên tổng bị mờ, nhưng rõ ràng là tên gọi của một tổng nào đó thuộc huyện Ninh Sơn. Bia hội tư văn huyện Tân Minh xã Ninh Duy, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng)(4) kê số người trong hội tư văn của các tổng trong huyện là: “Tổng Xuân Cát gồm 33 người, tổng Động hàm 44 người , tổng Kim Đới 26 người , tổng Văn Thị 22 người, tổng Lật Khê 2 người, tổng Kinh Thanh 13 người, Tổng Yên Tử Hạ 1 người, tổng Tân Duy 23 người, tổng Cẩm Khê 3 người, tổng Tự Tân 2 người, tổng Xuân úc 1 người”. Bia chùa Phúc Lâm Hoằng Thệ xã Vĩnh Thệ, huyện Tiên Phong (nay thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây)(5) dựng năm 1589 ghi: “hai tổng Thanh Long và Tây Đằng được chia làm ba khu: các xã Thanh Long, Vị Nội, Kim Bình Lũng làm 1 khu; các xã Chu Tràng, Minh Châu, Tràng Độ, Minh Húc, Quang Húc làm 1 khu; các xã Tây Đằng, Phấn Thượng, Lai Bồ, Phấn Phan, Nghệ Trai, Nghị Dũng làm 1 khu...”. Trong một số văn bia khác còn ghi được tên gọi người đứng đầu tổng là “Tổng chính”, (bia chùa Hương Sơn, huyện Phù Vinh, tỉnh Phúc Thọ, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú)(6). “Trùm tổng” (bia chùa Hồng Phúc xã Xuân ổ Quế Võ (Hà Bắc)(7)... Rõ ràng tổng không những xuất hiện từ đời Mạc mà có thể còn xuất hiện sớm hơn, bởi từ “hai tổng Thanh Long và Tây Đằng mà chia thành ba khu” như bia Phúc Lâm Hoằng Thệ đã ghi, như vừa nêu ở trên.

Trên văn bia thời Lê sơ, chúng ta cũng gặp một số thông tin về đơn vị hành chính tổng này như trên văn bia đời Mạc. Chẳng hạn trên bia Tự điền bi ký (số kí hiệu thác bản 3382-3) dựng năm Hồng Đức 2(1471) tại xã La Khê huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình ghi: “giá điền tại hà tổng xã” (Số ruộng này ở địa phận xã tổng), hoặc “điền tại bản huyện Nội Lãng tổng Huyền Chân xã” (Ruộng tại xã Huyền Chân tổng Nội Lãng trong huyện). Bia Công chúa tự điền (số ký hiệu thác bản 3675) dựng năm Hồng Thuận 5 (1513) ở đền Vũ Bị huyện Bình Lục tỉnh Nam Hà ghi: “nhất sở tại Cổ Bị tổng An Nội xã tam mẫu ngũ cao” (Ruộng một mảnh tại xã An Nội tổng Cổ Bị gồm 3 mẫu 5 sào”, hoặc “bản tổng An Phú xã” (xã An Phú trong tổng)...

Đây là những tư liệu về tổng sớm nhất hiện biết. Tuy đã xuất hiện ở giai đoạn Lê sơ, song cũng mới chỉ lác đác ở một số địa phương. Sang nhà Mạc, những đơn vị hành chính tổng này tiếp tục được duy trì và mở rộng hơn. Tuy nhiên sự xuất hiện của đơn vị hành chính tổng này không phải là sự chủ động của triều đình mà do nhu cầu thực tế của từng địa phương, trước sự mở rộng và phát triển làng xã từ nửa sau thời Lê sơ trở đi. Cũng như “phủ” ở Trung Quốc, ban đầu do một số châu lớn mà lập thêm “phủ”, nên sau đó “phủ” trở thành đơn vị hành chính quản lý cấp “châu” và “huyện”; tổng ở thời Mạc xuất hiện là gắn với nhu cầu các hoạt động tín ngưỡng khá sôi nổi dưới triều Mạc như lễ hội, thờ cúng Thành Hoàng ở đình, lễ Thánh ở đền, lễ Phật ở chùa..., đồng thời gắn với nhu cầu mở rộng phát triển làng xã, nên nhiều xã mới hình thành và đòi hỏi có một cấp “tổng” để quản chung các xã đó trước hết về sinh hoạt tín ngưỡng như tổ chức lễ hội, phân công đèn nhang cúng lễ... Chẳng vậy, phần lớn tên gọi của các tổng sau này đều lấy từ tên gọi của một xã đứng đầu, như tổng Tây Đằng (nay thuộc Quốc Oai, Hà Tây) có các xã như Tây Đằng, Lai Bồ, Vĩnh Phệ, Văn Trai, Kim Bí và Đằng Lũng; tổng Lập Bái (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình) có các xã Lập Bái, An Tiêm, Hương La, An Khê. Cổ Sách, Thượng Đạo... Trong khi hầu hết các đơn vị hành chính khác được sử dụng trong các triều đại phong kiến Việt Nam như đạo, lộ, phủ, huyện, xã... có nguồn gốc từ Trung Quốc, thì tổng hoàn toàn là đơn vị hành chính được thiết lập ở Việt Nam. Nó không có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng cũng không phải là do nhà nước phong kiến thời Lê hay Mạc đưa xuống mà chính là sản phẩm của làng xã do nhu cầu mở rộng và phát triển của làng xã. Từ chỗ xuất hiện rải rác ở một vài nơi, đến xuất hiện rộng rãi phổ biến ở mọi địa phương và cuối cùng nhà nước ở các triều đại sau này mới thừa nhận và đặt nó trong hệ thống hành chính của quốc gia. Vì lẽ đó mà trong các bộ quốc sử hay trong các bộ địa chí của các triều đại phong kiến Việt Nam, tổng chỉ mới có mặt tại đó từ những năm cuối thời Lê và trong các niên hiệu triều Nguyễn mà thôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

(1).+ Đinh Khắc Thuân. Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1996, tr.19
+ Vũ Duy Mền: Một số vấn đề làng xã thời Mạc. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử 6/1991, tr. 25.

(2). Số ký hiệu tại Viện Hán Nôm 9910.

(3). Số ký hiệu thác bản 1225.

(4). Số ký hiệu thác bản 9382- 3.

(5) Số ký hiệu thác bản 7277 - 8

(6). Số ký hiệu thác bản 9841.

(7). Số ký hiệu thác bản 5247 - 8.

TB

XUẤT XỨ CỦA
"ĐẠI NAM NHẤT THỐNG TOÀN ĐỒ"

PHẠM HÂN

Trong kho tàng bản đồ cổ Việt Nam, Đại Nam nhất thống toàn đồ đã được viện dẫn để minh chứng cho chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa(1). Nhưng bản đồ đó được trích từ cuốn sách nào, cho đến nay vẫn là vấn đề cần được làm sáng tỏ.

Trong cuốn sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa của chính quyền Sài Gòn, công bố năm 1975 (trước 30/4), có đề cập tấm bản đồ này và nói là bản đồ của Phan Huy Chú xuất bản vào khoảng năm 1838 (Phụ lục I).

Sách trắng của chính quyền Sài Gòn nói xuất xứ của tấm bản đồ như trên có thể là căn cứ vào lời chú thích tấm bản đồ này của P.A. Lapicque, trong cuốn A.Propos des Iles Paracels của ông, xuất bản tại Sài Gòn, năm 1929. Bên dưới bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ đăng trong cuốn sách này, tác giả chú thích: "Carte de l'Inđochine - Extrait de la Géographie de Hoang - Viet - Đia – Du 皇 越 地 輿 ée de Minh - Mạng" (Bản đồ Đông Dương - Trích từ sách Địa lý Hoàng Việt địa dư, năm Minh Mệnh thứ 14).

Nghĩa là theo lời chú thích đó, người đọc hiểu là bản đồ này vốn đính kèm trong sách Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú, khắc in năm Minh Mệnh thứ 14 (1833).

Xét về lý, ai cũng thấy bản đồ không thể đính kèm trong Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú khắn in năm Minh Mệnh thứ 14. Vì quốc hiệu Đại Nam chỉ được ban hành và sử dụng từ năm Minh Mệnh thứ 19 (1838). Tấm bản đồ với tên gọi Đại Nam nhất thống toàn đồ, mang quốc hiệu "Đại Nam" không thể xuất hiện trước năm 1838. Còn về văn bản, vừa qua tôi đã tìm đọc Hoàng Việt địa dư chí khắc in năm Minh Mệnh thứ 14 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu A.1074. VHv.1653) và Thư viện quốc gia (ký hiệu R.926) đều không thấy bất kỳ bản đồ nào kèm sách này.

Đại Nam nhất thống toàn đồ do P.A.Lapicque đăng trong tác phẩm của ông có thể lấy từ một cuốn sách nào đó mà ông lầm là Hoàng Việt địa dư chí.

Ngày nay trong kho tàng sách Hán Nôm người ta có thể tìm thấy tấm bản đồ đồng dạng cũng mang tên Đại Nam nhất thống toàn đồ, trong tập bản đồ mang tiêu đề Nam Bắc Kỳ hội đồ lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu A.95).

Tấm bản đồ này không khác gì Đại Nam nhất thống toàn đồ đã được P.A.Lapicque công bố năm 1929. Trên vùng biển ngoài khơi miền Trung Việt Nam cũng vẽ ký hiệu quần đảo, ngang tầm với đèo Hải Vân và vịnh Cam Ranh, chạy song song với bờ biển miền Trung Việt Nam. Trong khuôn khổ ký hiệu quần đảo đó đề hai chữ HOÀNG SA ở phía Bắc, VẠN LÝ TRƯỜNG SA ở phía Nam (Phụ lục II).

Niên đại của tấm bản đồ này gắn liền với niên đại tập bản đồ. Căn của vào địa danh đơn vị hành chính thể hiện trên tập bản đồ, có thể đoán định được niên đại của tập bản đồ. Trên tập bản đồ này có tỉnh Bình Thuận có huyện Tuy Lý thuộc phủ Hàm Thuận, được đổi tiên từ huyện Tuy Định năm Tự Đức thứ 7 (1854) và các đạo Hà Tĩnh, Quảng Trị, Phú Yên được thành lập năm Tự Đức thứ 6 (1853) vẫn tồn tại, trước khi được đổi lại làm tỉnh năm Tự Đức thứ 28 (1875).

Như vậy, Nam Bắc kỳ hội đồ có niên đại trong vòng từ sau năm 1854 đến trước năm 1875. Đó cũng là niên đại của Đại Nam nhất thống toàn đồ trong tập bản đồ này.

Sự tồn tại của tập Nam Bắc Kỳ hội đồ, trong đó có Đại Nam nhất thống toàn đồ chứng minh sự xuất hiện và tồn tại của Đại Nam nhất thống toàn đồ Lapicque công bố năm 1929. Chỉ có vấn đề là bản đồ đó được trích từ cuốn sách nào, tập bản đồ nào.

Sự phát hiện Đại Nam nhất thống toàn đồ trong tập Nam Bắc kỳ hội đồ chứng minh giá trị của Đại Nam nhất thống toàn đồ đã được công bố năm 1929. Cả hai bản đồ này đều là bản đồ nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn được soạn vào đời vua Tự Đức (1848-1838).

Quần đảo "Hoàng Sa-Vạn lý Trường Sa" thể hiện trên hai bản đồ này minh hoạ "Hoàng Sa", tục gọi là "Vạn lý Trường Sa" chép trong Đại Nam nhất thống chí, biên soạn thời Tự Đức, là bộ phận không thể chia cắt được của lãnh thổ Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa của chính quyền Sài Gòn, 1975; Sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1979, 1982.

TB

MẤY SUY NGHĨ VỀ BÁT QUÁI

ĐỖ NGUYÊN ĐƯƠNG

Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, mục từ "Bát quái", (trang 166) viết (nguyên văn, toàn bộ): "Bát quái (triết, kiến trúc), tám quẻ của thuyết âm dương ngũ hành trong văn hoá Trung Hoa cổ đại. Theo Kinh Dịch càn - trời; khôn - đất; chấn - sét; tốn - gió; khảm - nước chảy; li - lửa; cấn - núi; đoài - nước đọng được xếp thành hình tám cánh và dùng xác định "hướng" để làm nhà ở, cung điện, đền đài, thành quách - tương truyền do Phục Hi sáng tạo. Về sau, dùng để làm phù phép bói toán".

Như vậy, "Bát quái" chỉ được thừa nhận là những quẻ (trong tiếng Việt, "quẻ" hàm ý mê tín) chỉ dùng để xác định "hướng" (có nháy kép trong nguyên tác) nhà cửa, cung điện, đền đài, thành quách (còn thiếu: đặc biệt là mồ mả, lăng tẩm), và sau đó để "phù phép bói toán", nghĩa là chỉ là một công cụ tầm thường trong mê tín, dị đoan (theo nghĩa không chính thống), mất hẳn ý nghĩa triết học, mặc dù được xác nhận là tám quẻ của "thuyết âm dương ngũ hành" (?). Nếu Bát quái chỉ dùng cho thuật Phong Thủy (geomancy: phép xem đất cát để chọn nơi, chọn hướng tốt lành, như với thầy Tả Ao, để xây nhà, để mả,...) và cho việc bói toán thì có phải cả cuốn "Kinh Dịch" mà nhiều danh nhân thế giới coi là "thiên cổ kỳ thư" đã mất đi giá trị triết học của nó trước con mắt của các nhà trí thức tác giả Từ Điển. Rõ ràng là cần phải làm rõ nội dung và xác định lại vị trí của "Bát quái" trong nền văn hóa không chỉ của riêng Trung Hoa, mà còn là của Phương Đông và của nhân loại.

Trong nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, có hai thuyết về cấu tạo thế giới được thịnh hành, là thuyết âm dương và thuyết ngũ hành. Thuyết âm dương coi là có hai yếu tố cấu tạo cơ bản là "Âm" (A) được ghi bằng một nét vạch đứt ( ) và "Dương" (D) được ghi bằng một nét vạch liền ( ). Thuyết ngũ hành coi vũ trụ được cấu tạo nên từ năm yếu tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, lấy tên năm hành tinh gồm mặt trời (trừ trái đất) và cũng là năm vật chất nguyên thuỷ. Điểm đặc sắc là cả hai thuyết này đều cho rằng các yếu tối cơ bản có tính "tương sinh" và "tương khắc". Bát quái chỉ liên quan trực tiếp với thuyết Âm - Dương, nên ta bỏ qua thuyết Ngũ Hành.

Các yếu tố Âm - Dương kết hợp với nhau thế nào để tạo nên thế giới? Người xưa đã dùng các chỉnh hợp chập ba của hai yếu tố A - D này để mô tả sự kết hợp đó, và có các sắp xếp sau:

A-A-A, A-A-D, A-D-A, A-D-D, D-A-A, D-A-D, D-D-A và D-D-D.

Các kết cấu này theo thứ tự được đặt tên là:

Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Li, Đoài, Càn.

Mỗi kết cấu được gọi là một quẻ (quái). Có tất cả tám quẻ (Bát quái) là kết quả chỉnh hợp chập ba của hai yếu tố "Âm - Dương" (23 = 8). Mỗi quẻ biểu tượng một vật thể hay hiện tượng:

Khôn và Cấn biểu tượng hai vật thể gốc nhất: Đất và Trời.

Cấn và Đoài biểu tượng hai vật thể trên đất: Núi và Đầm.

Khảm và Li biểu tượng hai yếu tố của sự sống: Nước và Lửa.

Tốn và Chấn biểu tượng hai biểu trên trời: Gió và Sấm.

Các biểu tượng này đối ngẫu với nhau từng đôi, cũng như các chỉnh hợp biểu diễn chúng:

Đất (Địa) AAA ó DDD (Thiên) Trời; Núi (Sơn) AAD ó DDA (Trạch) Đầm; Gió (Phong) ADD ó DAA (Lôi) Sấm; Nước (Thuỷ) ADA ó DAD (Hỏa) Lửa. (Trong dấu ngoặc là những chữ Hán - Việt tương đương với tiếng Việt, sẽ dùng đến khi gọi tên các quẻ trùng nói ở dưới).

Thay các chữ A và D bằng các ký hiệu vạch đứt () và vạch liền () và theo quy ước của người Trung Hoa cổ, các vạch (được gọi là "Hào") sẽ được đọc từ dưới lên trên, ta có các quẻ của Bát quái như sau:

Tiến thêm một bước nữa, nếu ta thay các vạch đứt (âm) bằng số "0" và các vạch liền (dương) bằng số "1", và vẫn theo quy ước đọc từ dưới lên, ta được hàng số 2-8 của bảng trên. Hàng số này, theo phép đếm 2-8 (phép đếm cơ bản đang được sử dụng rộng rãi trong các máy tính điện tử) là phép đếm trong hệ cơ số 8 (chỉ dùng đến các số 0 và 1). Kết quả ta được các số viết trong hệ đếm thông thường là 0, 1, 2, ,3 ,4, 5, 6, 7 mỗi số ứng với một que, và như vậy từ đây có thể coi 0 = Khôn, 1 = Cấn, 2 = Khảm, 3 = Tốn, 4 = Chấn, 5 = Li, 6 = Đoài, 7 = Càn, và với các số này dùng hệ đếm cơ số 2 từ dưới lên có thể vẽ được hình của quẻ đó. Thật vậy số 3 (quẻ Tốn) viết theo hệ 2-8 là 001, vậy quẻ Tốn có hình , số 5 (quẻ Li) viết theo hệ 2-8 là 111, vậy quẻ Li có hình .

Thứ tự các quẻ xếp như trên không phải do người viết bài này đặt ra, mà ta có thể thấy nó trong hình "Tiên thiên Bát quái", được coi là của Phục Hy đưa ra cách đây năm - bẩy nghìn năm gì đó. Có điều là "Tiên thiên Bát quái" xếp theo một hình tròn và đọc theo thứ tự ngược lại, từ Càn lùi dần về Khôn và chia ra làm hai nửa như hình bên cạnh. Giữa tám hướng của hình Bát quái còn vẽ một hình tròn "Thái cực phân lưỡng nghi", thực tế còn có thể coi là một sơ đồ mô tả thứ tự Bát quái.

Xem đó thấy rằng, khi khởi thủy, từ đời Phục Hy trước Công nguyên ba - năm chục thế kỷ, Bát quái đã có một cấu trúc thực sự lô gích, với những khái niệm toán học trừu tượng mà phải đến thế kỷ 16 phương Tây mới nhận biết. Lúc đầu, Bát quái phải được coi là một cố gắng nhận thức thiên nhiên của người cổ đại, tuy chưa viết thành lời nhưng là nói về cấu trúc và sự biến động của các sự vật (thiên nhiên). Về sau, đến đời Văn Vương (khoảng hơn 10 thế kỷ trước Công nguyên), Văn Vương và Chu Công mới viết lời cho Bát quái, và bằng cách biến đó nó thành một công cụ bói toán. Và Bát quái do vậy được mở rộng về đối tượng biểu tượng (như cha mẹ, anh em, vua quan,..., cát hung,...) để đáp ứng nhu cầu bói toán của xã hội. Lại chờ đến Khổng Tử (Khoảng trên 5 thế kỷ trước Công nguyên), Bát quái lại được mở rộng thêm nữa về biểu tượng để trở về với triết học, phản ánh cả các mối quan hệ đạo đức của xã hội phong kiến.

Rõ ràng rằng coi Bát quái là "tám quẻ... dùng để xác định hướng làm nhà... và để làm "phù phép bói toán" là làm mơ hồ nội dung triết học và vị trí của nó trong xã hội. Để làm rõ nội dung và đặt đúng vị trí vai trò của nó, cần tôn trọng trình tự phát sinh và phát triển của nó, nhìn nhận với một cách nhìn khoa học và hiện đại.

Để tăng cường tính thuyết phục khoa học của Bát quái, tưởng không nên chỉ hạn chế ở tám quẻ đơn mà nên phát triển thêm nói về "trùng quái". Trùng quái là sự phát triển lô gích của Bát quái, từ việc kết hợp Âm và Dương đến việc kết hợp các biểu tượng cơ bản: Trời với Đất, Đất với Nước, Nước với Lửa, v.v.. Về mặt toán học, trùng quái là tạo ra (23)2 = 82 = 64 quẻ mới, mỗi quẻ là một sắp xếp chập hai của tám quẻ, cũng tức là mỗi quẻ mới có 6 hào (6 vạch âm - dương) để biểu tượng rộng rãi những vật thể, hiện tượng, tính chất trung gian đối với các biểu tượng cơ bản. Thuyết cho rằng Phục Hi tạo ra Bát quái, rồi tự mình lại trùng quái, được nhiều người thừa nhận hơn cả. Về mặt cấu trúc thì điều này cũng dễ thừa nhận, vì cấu trúc đó có tính nhất quán. Xem hình "Phương vị 64 quẻ của Phục Hi" cạnh đây ta sẽ thấy rõ. Vẫn theo quy ước của người Trung Hoa cổ, quẻ trùng được đọc theo thứ tự trên trước dưới sau. Với cách đánh số như trên, đầu tiên là quẻ Thuần Khôn (00), rồi đến quẻ "Địa sơn khiên" (01, Khôn trên Cấn dưới), "Địa thủy sư (02, Khôn trên Khảm dưới),..., "Địa thiên thái" (07, Khôn trên Càn dưới), "Sơn địa bác" (10, Cấn trên Khôn dưới),... ở đây xin ghi chú: sở dĩ sau 07 lại đến ngay 10 là vì hệ đếm ở đây là cơ số 8. Cho nên 10 (cơ số 8) = 1 x 8 + 0 = 8, tức là chuyển sang hệ đếm thường dùng thì 10 (cơ số 8) chính là số 8, sau đó số 7. Cũng vậy, quẻ "Sơn thiên đại súc" có số 17, Cấn (1) trên Càn(7) dưới có số thứ tự theo cách đếm thông thường là 17 (cơ số 8) = 1 x 8 + 7 = 15; và sau đó là quẻ "Thủy địa tỵ" Khảm (2) trên Khôn (0) dưới, tức là có số 20, chuyển sang cách đếm thông thường là 20 (cơ số 8) = 2 x 8 + 0 = 16.

Rõ ràng thứ tự quẻ trên vòng tròn được xếp theo hệ đếm cơ số 8, tức là với các quẻ đơn đã có như trên, ta có trật tự 00, 01,..., 17, 20, 21,..., 27, 30, 31,..., 37, 40, 41,..., 47, 50, 51,..., 57, 60, 61,..., 67, 70, 71,..., 77. Cách đánh số thứ tự này không những cho ta biết vị trí của quẻ đó mà còn cho ta biết kết cấu của nó: Ví dụ quẻ mang mã số 50 ở vị trí 5 x 8 + 0 = 40 mà kết cấu là trên Li (số 5) dưới Khôn (số 0), tên gọi là "Hoả Địa... (tấn)"; quẻ mang mã số 57 có kết cấu trên Li (số 5) dưới Càn (số 7), ở vị trí 5 x 8 + 7 = 47, tên gọi là "Hoả thiên... (đại hữu)". Cũng cần ghi chú rằng 64 quẻ trùng quái được chia làm hai nửa, từ 0 đến 31 và từ 32 đến 63 (xem hình).

Trong hình tròn xếp thứ tự 64 trùng quái còn một hình vuông cũng xếp 64 quẻ đó theo một cách khác trực quan hơn. Mỗi cột gồm những quẻ trùng có cùng quẻ đơn ở trên, còn quẻ ở dưới thay đổi theo thứ tự từ 0 (Khôn) đến 7 (Càn). Các cột kể từ trái sang phải cũng mang số thứ tự từ 0 (Khôn) đến 7 (Càn). Thành thử đọc tên quẻ có thể biết vị trí của nó trong bảng: Ví dụ quẻ "Sơn trạch tổn" có mã số Sơn = Cấn = 1 và Trạch = Đoài = 6, mã số 16, ở cột số 1 (cột thứ 2) dòng số 6 (dòng thứ 7); quẻ "lôi thuỷ giải" có Lôi = Chấn = 4, Thuỷ = Khảm = 2, mã số 42, ở cột số 4 (cột thứ 5) dòng số 2 (dòng thứ 3). Ta thấy cách sắp xếp vị trí của quẻ trùng là theo kết cấu của quẻ đó. Có thể đó là việc làm lúc khởi thuỷ, khi người sáng tạo ra Bát quái chưa nghĩ đến việc bói toán; hoặc có thể là việc làm của một học giả khác sau đó, không quan tâm đến bói toán. Và việc gọi tên các quẻ trùng lúc đầu có lẽ vẫn giản đơn gọi bằng biểu tượng của chúng theo thứ tự trên dưới, như quẻ Cấn trên Đoài dưới gọi là quẻ "Sơn Trạch", quẻ Chấn trên Khảm dưới gọi là quẻ "Lôi thủy"... Cho đến khi Văn vương đưa Bát quái vào việc bói toán thì thứ tự sắp xếp các quẻ (cả đơn lẫn trùng) cũng như việc gọi tên các quẻ đều được làm lại theo nhu cầu bói toán, cho dễ nhớ, dễ nhận biết, dễ suy luận. Do đó xuất hiện "Hậu thiên Bát quái" (một cách sắp xếp Bát quái đơn, của Văn vương), và tên các quẻ trùng được đặt bổ sung theo màu sắc bói toán vào các tên ghép biểu tượng đã có, như "Sơn trạch tổn", "Lôi thủy giải",... đồng thời, 64 quẻ trùng cũng được sắp xếp lại thành bảng thường gặp ngày nay, bắt đầu bằng Càn, Khôn, Truân, Mông,... kết thúc với Tiểu quái, Vị Tế, mà Trung Hoa gọi là "Thông hành bản".

Như vậy, Bát quái là một bộ tám phù hiệu gồm các chỉnh hợp chập ba của hai ký hiệu "âm" () và "dương" () mà người Trung Hoa cổ đại dùng để biểu tượng các hiện tượng thiên nhiên và xã hội (Đôi khi, từ "Bát quái" cũng được dùng bao gồm cả 64 quẻ trùng). Hệ thống phù hiệu này có kết cấu chặt chẽ, thực chất là "Kinh Dịch" (Sách về biến động) chưa có lời văn thuyết minh. Người Trung Hoa cổ đã nghiên cứu và thuyết minh Bát quái theo hai hướng chủ yếu: hướng bói toán (Văn vương và Chu công) và hướng khoa học xã hội (Khổng Tử và môn đệ). Ngày nay, ở cả Phương Đông và Phương Tây, nhiều người sử dụng những công cụ và khái niệm khoa học hiện đại để nghiên cứu Bát quái và lời văn của nó là Kinh Dịch. Có thể tin rằng không lâu nữa sẽ có những kết quả bất ngờ vang dội. Không nên và không thể đánh giá quá thấp vị trí và vai trò của Bát quái trong nền văn hóa cổ đại của Trung Hoa và cả của Việt Nam nữa.

Sơ đồ kết cấu của Bát quái:

TB

"PHƯƠNG THẢO", "THANH THẢO" VÀ "ẤU HỌC NGŨ NGÔN THI"

TẢO TRANG

Trong Tạp chí Hán Nôm số 4/1995, có bài của Ô. Hoàng Tiến Bàn về một chữ trong bài thơ cổ, nói tới 4 câu thơ chữ Hán từng được nhiều người biết đến:

Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì.
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi

Bài báo đề nghị đổi chữ “phương” ở câu đầu thành chữ “thanh”, cho hợp với 3 chữ “lục”, “hoàng”, “bạch” ở 3 câu tiếp theo, “để họa nhịp vào các tính từ chỉ sắc mầu” của những câu đó. Trên Tạp chí Hán Nôm số 2/1996, Ô. Trần Đắc Thọ cho biết 4 câu thơ đó nằm trong sách Ấu học ngũ ngôn thi, và cho rằng không nên đổi “phương” thành “thanh”, vì “theo phép đối, “hương” đối với “sắc” là rất trọi”.

Trong bài viết nhỏ này, xin góp thêm một số ý kiến về câu thơ và cuốn sách nói ở hai bài báo nói trên, mong rằng không phải là quá dông dài về câu chuyện rất nhỏ của một từ trong một bài thơ ngắn.

“Phương thảo” hay “Thanh thảo”

Đầu tiên xin hoan nghênh bài viết của Ô. Hoàng Tiến, mạnh dạn có ý kiến về một chữ trong một bài thơ đã được truyền tụng rộng rãi. Đổi “phương” thành “thanh” cũng có cái lý của nó, như bài báo đã trình bày. Bốn câu thơ khá phổ nhưng cũng có thể có “dị bản” như thường thấy ở mảng văn chương truyền miệng (tuy từng được ghi trong sách, như Ô. Trần Đắc Thọ vừa mách cho chúng ta, nhưng thực ra ít người được đọc). Chứng cớ là “thoại” “Xuân du thanh thảo địa” cùng 3 câu sau đã được nhắc tới hai lần trong sách Điển hay tích lạ của Nguyễn Tử Quang (Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1996), ở tr.159 (phần chú thích) và tr.483, nhân nói tới chuyện “Đào hoa năm ngoái” của Thôi Hộ, và câu thơ “Lệ là tảo mộ hội là đạp thanh” trong Truyện Kiều.

Tuy nhiên, người viết bài này cũng đồng ý với ông Trần Đắc Thọ, giữ nguyên “phương thảo” ở câu đầu. Đổi “phương” thành “thanh” cho đủ 4 mầu, là chỉ chú ý đến mỗi việc thỏa mãn thị giác. Thực ra, cái hứng thú của người thưởng ngoạn trong bốn câu phong phú hơn thế. Mùa xuân, rong chơi trên đất cỏ thơm, là thú hưởng hương thơm của cỏ, và của cả đất (“phương thảo địa” là “đất cỏ thơm”, và cũng là “đất thơm mùi cỏ” cho tương xứng với “lục hà trì”- ao xanh có sen - ở câu sau, hai câu đối nhau). Mùa hạ, thưởng ngoạn hoa sen trên ao xanh biếc là nói thú ngắm cảnh, dĩ nhiên cũng có hưởng hương thơm của hoa sen lá sen, nhưng loại thực vật cao quý “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Mùa thu, “uống rượu cúc vàng”, thú thưởng thức không ở hương ở sắc, mà ở mùi vị, mầu vàng của hoa cúc dĩ nhiên không còn được thấy, vì đã biến thành rượu. “Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng”, có mầu trắng, nhưng ở đây là thú nghe âm thanh trầm bổng của giọng ngâm, thú của tai nghe, còn cả cái thú sâu lắng của tâm thần, cảm nhận tình ý, nhạc điệu trong thơ, và nêu là thơ của chính mình làm, thì còn thêm cái thú của hoạt động sáng tạo. Bốn câu thơ được truyền tụng rộng rãi, cho thấy cái thú tao nhã và đa dạng của kẻ sĩ thời trước, thú thưởng thức của nhiều giác quan, và của cả tinh thần. Thay một chữ ở câu đầu, sẽ giảm mất ý nghĩa của nó. Hơn nữa, Ô. Trần Đắc Thọ còn cho biết nó có mặt trong cuốn sách Ấu học ngũ ngôn thi. Sách này hiện còn lưu giữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, dưới dạng 2 bản in, năm 1863 thời Tự Đức và năm 1897 thời Thành Thái. Tôi có xem bản in năm 1863, ở tr.17a có bài thơ trên, câu đầu là “Xuân du phương thảo địa”. Ngoài chứng cứ trên sách, còn có chứng cứ khắc trên chậu cảnh bằng đá, như Ô. Nguyễn Ngọc Nhuận đã phát hiện và ghi chú ở cuối bài viết của Ô. Trần Đắc Thọ. Như vậy, vấn đề “phương thảo” hay “thanh thảo” coi như đã được giải quyết. Nên vẫn giữ dạng cổ truyền “Xuân du phương thảo địa” trong cả 4 câu, cho thấy cái thú thanh tao của kẻ sĩ thời xưa, biết tận dụng mọi cơ hội suốt cả bốn mùa trong năm có được những thú vui phong phú và đa dạng, để nuôi dưỡng tâm hồn cao khiết của mình.

Bây giờ xin được đề cập tới cuốn Ấu học ngũ ngôn thi, mà Ô. Trần Đắc Thọ cho là “quyển khuyến học này có nhiều câu lời hay ý đẹp. Chỉ tiếc không biết tác giả nó là ai. Có thể, theo thiển ý, quyển sách này do một tác giả Việt Nam viết”. Xin góp thêm ý kiến, làm rõ vấn đề trên.

1.“Ấu học ngũ ngôn thi”, những câu thơ đẹp và giai thoại.

Đầu tiên, phải nhận rằng cuốn sách có nhiều câu hay, nhiều câu hầu như đã trở thành câu truyền miệng, người này đọc, người kia nghe, không cần biết xuất xứ. Xin đơn cử mấy câu thuộc dạng ‘khuyến học’:

- Thiểu tiểu tu cần học,
Văn chương khả lập thân.
Mãn triều chu tử quý,
Tận thị độc thư nhân.

(Bé nhỏ cần chăm học,
Văn chương có thể khiến nên người.
Đây triều đình (áo) đỏ (áo) tía cao sang,
Thảy đều là người đọc sách).

- Ngô gia vô trọng bảo,
Kinh sử thị lương điền.

(Nhà ta không của báu quý giá,
Sách kinh sử là ruộng tốt).

- Tướng tướng bản vô hệ,
Nam nhi đương tự cường.

(Quan cao văn võ vốn chẳng do dòng giống,
Làm trai phải tự cường).

- Mạc nhạ đăng khoa tảo,
Hằng Nga ái thiếu niên.

(Đừng lạ đỗ đạt sớm,
Ít tuổi được chị Hằng yêu) v.v.

Nhưng cũng có nhiều câu không thuộc phạm vi học tập, chứng tỏ sách này không đơn thuần là sách khuyến học, sách “Trạng nguyên thi” như lời đề ở nhan sách, bên cạnh 5 chữ “ấu học ngũ ngôn thi”. Bốn câu “Xuân du phương thảo địa...” là một ví dụ. Còn nhiều câu cùng loại, tập trung ở khoảng nửa phần sau cuốn sách. Có thể kể :

- Hữu danh nhàn phú quý,
Vô sự tiểu thần tiền.

(Có tên tuổi, chẳng màng giầu sang,
Không bận việc, thần tiên cỡ nhỏ)

- Hữu quá bất năng cải,
Tri hiền bất khẳng thân,
Tuy sinh nhân gian sự,
Vị đắc vị chi nhân.

(Có lỗi không biết sửa,
Biết người hiền, chẳng chịu làm thân,
Tuy có sinh trên đời người,
Chưa được gọi là người) v.v.

Những câu hay như trên đã in sâu vào trí nhớ và truyền đi rộng rãi. Do đó mà có nhiều giai toại liên quan đến câu thơ trong sách. Xin dẫn hai chuyện mà có thể nhiều bạn đọc đã biết.

Có bốn câu thơ thường được nhắc tới như những việc vui mừng hiếm thấy, trong đó câu đầu nói về nhà nông, câu cuối nói tới kẻ sĩ:

Cửu hạn phùng cam vũ,
Tha hương ngộ cố tri.
Động phòng hoa chúc dạ,
Kim bảng quải danh thì.

(Hạn hán lâu được mưa ngọt
Xa quê gặp người thân xưa
Đem đuốc hoa trong phòng kín (đêm tân hôn)
Lúc tên nêu trên bảng vàng).

Có người cho rằng những cuộc vui mừng trên sẽ tăng thêm gấp bội, nếu có tình tiết mới, và đã thêm ở đầu mỗi câu hai chữ: thập niên (mười năm), thiên lý (ngàn dặm), tri kỷ (hiểu rõ nhau, rất thân), thiếu niên (tuổi trẻ thơ) hay thanh xuân (xuân xanh tuổi trẻ), để tránh dùng lại chữ “niên” đã có ở câu thứ nhất. Như vậy ta có bài thơ bảy chữ mới, thay cho bài thơ 5 chữ trong sách :

Thập niên cửu hạn phùng cam vũ
Thiên lý tha hương ngộ cố tri
Tri kỷ động phòng hoa chúc dạ
Thiếu niên
(hay thanh xuân) kim bảng quải danh thì.

Một chuyện khác, cũng có việc thêm hai chữ ở đầu câu. Hai cô cậu yêu nhau. Có buổi hẹn gặp mặt, chàng không tới, gửi cho bạn tình 4 câu thơ trong Trạng nguyên thi:

Bạch nhật mạc nhàn quá,
Thanh xuân bất tái lai.
Song tiền cần khổ học,
Mã thượng cẩm y hôi.

(Ngày trắng chớ hờ hững đi qua,
Xuân xanh không trở lại.
Trước song chăm chỉ chịu khó học,
Trên ngựa áo gấm về).

Cô bạn đã trả lời bức thư trên, sau khi ở mối đầu câu thêm hai chữ : “quân tri” (chàng biết), “Thiếp diệc” (thiếp cũng biết), “Tự cổ” (từ xưa), “Kỷ nhân” (mấy người, mấy ai), để thành bốn câu thơ 7 chữ :

Quân tri bạch nhật mạc nhàn quá,
Thiếp diệc thanh xuân bất tái lai.
Tự cổ song tiền cần khổ học,
Kỷ nhân mã thượng cẩm y hôi.

Chuyện kể chàng rất phục tái ứng phó linh hoạt của nàng, và đã tới xin lỗi dàn hòa. Hai người đã trở thành vợ chồng. Với tài học của mình, nàng đã giúp chồng đắc lực trong học tập, và đã thực hiện “mã thượng cẩm y hồi”. Câu thơ trong sách đã góp phần thắt chặt mối duyên dựng xây hạnh phúc.

2. Những mặt hạn chế và vấn đề tác giả :

Những dòng trên cho thấy sách Ấu học ngũ ngôn thi có nhiều câu thơ hay, được nhiều người yêu thích và truyền tụng. Nhưng cũng nên thấy mặt khiếm khuyết của nó.

Ngoài những câu thơ về cuộc sống nói chung, cả phần trên cuốn sách có nội dung khuyến học... Về mặt này, việc khuyến miễn có tính cách thô thiển, tầm thường, chỉ đưa ra những viễn cảnh hưởng thụ danh lợi sau khi thi đỗ, không hề đề cập tới mục đích cao cả của học tập, về lý tưởng tu tề trị bình của các nhà Nho. Ngay 4 câu đầu sách đã cho thấy cách nhìn thiển cận :

Thiên tử trọng hiền hào,
Văn chương giáo nhĩ tào.
Bách ban giai hạ phẩm,
Duy hữu độc thư cao.

(Vua trọng kẻ hiền đức tài trí hơn người,
Văn chương dạy các bạn,
Trăm ngành đều loại thấp kém,
Chỉ có đọc sách mới cao quý).

Đề cao việc học nhưng lại coi khinh các nghề khác, là một thái độ khó được chấp nhận, ngay ở thời đại phong kiến. “sĩ nông công thương” là “Tứ dân”, dù trong đó sĩ đứng đầu nhưng “gạo hết chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Trong những bản “mục lục” đọc hàng năm ở các đình làng cũng như trên tranh dân gian có thể nói 4 thành phần trên được coi trọng ngang nhau.

Một đoạn khác trong sách:

Hữu tử giáo độc thư,
Thư trung hữu kim ngọc.
Nhất tử thụ hoàng ân,
Toàn gia thực thiên lộc.

(Có con dạy đọc sách,
Trong sách có vàng ngọc.
Một người con nhận vua ơn,
Cả nhà ăn lộc trời) (1).

“Lộc trời” (thiên lộc), có nghĩa là “lộc của vua”, nhưng không phải chỉ có lương vua ban vốn có hạn, mà bao gồm mọi thứ bổng lộc có được do chức vụ vua ban, chủ yếu là do dân cung phụng mỗi khi có việc phải tới công đường. Nói nôm na là của đút lót. Và từ “vàng ngọc” ở câu trên không hẳn chỉ có nghĩa bóng, nó là vật chất cụ thể, vì có thế thì mới thực hiện được “toàn gia thực thiên lộc”. Người làm thơ không nhớ tấm gương những bà mẹ từng được ghi trên sử sách, khi có con làm quan xa gửi quà về biếu, nếu thấy có giá trị liền kiên quyết bắt đem trả lại, cùng lời răn trách nghiêm khắc, không chịu để con mình lấy cớ “phụng dưỡng cha mẹ” mà bòn rút dân lành.

Tóm lại, nói là “khuyến học”, chỉ là khuyên cái học để thi đỗ, nhằm có được mọi lạc thú kèm theo về hãnh diện và tham vọng các nhân. Nhiều câu thơ, xét cho kỹ, không có lợi cho tâm hồn non trẻ. Trong cuốn tự sự Giấc mộng lớn, nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cho biết khi lên năm tuổi đã học hết Tam tự kinh, ấu học ngũ ngôn thi, và một phần sách Dương Tiết. Ông viết: “Trong ba quyển sách ấy, thích nhất là Ấu học ngũ ngôn thi, và trong Ấu học ngũ ngôn thi, thích nhất là hai câu: “Hoa cù hồng phấn nữ, Tranh khán lục y lang”. Cái bệnh đa tình từ đấy, cái lòng mê khoa cử cũng từ đấy. Các nhà làm sách để dạy trẻ cũng nên cẩn thận thay. Hai câu tạm dịch: “Đường hoa gái hồng phấn, Tranh nhìn chàng áo xanh”, từng được Ô.Trần Đắc Thọ nhớ lại và dẫn trong bài báo nói trên. Lời nhà thơ Tản Đà nhắc nhở các nhà làm sách dạy trẻ chính là lên án tác hại của mấy câu thơ trong Ấu học ngũ ngôn thi đối với tâm hồn trong trắng của trẻ thơ.

Về bố cục, có thể nói cuốn sách đã tập hợp những bài thơ ngắn 4 câu 5 chữ, sắp xếp khá tùy tiện, không theo một trật tự rõ ràng. Có thể thông cảm đối với phần cuối sách, nói về đời sống chung chung, với những bài bắt đầu bằng câu “Xuân du phương thảo địa” hay câu “Cửu hạn phùng cam vũ” để cho phép buông thả trong việc sắp đặt câu sau câu trước. Nhưng đối với phần trên, với chủ đề “khuyến học” “thi đỗ”, các đoạn thơ 4 câu cũng được đưa ra trước sau khá tùy tiện, đáng lý có thể theo trình tự thời gian. Tệ hại hơn còn có sự trùng lặp: đã có câu “Kim viên trì thượng lộ, Tranh khán lục y lang” (Đường trên ao Kim Viên, Tranh ngắm chàng áo xanh) (Câu trên chưa thật rõ nghĩa), hai trang sau, lại có câu : “Hoa cù hồng phấn nữ, Tranh khán lục y lang” (đã dịch ở đoạn trên). Cuốn sách còn được kết thúc bằng 4 câu:

Vị chính thượng hạ trung,
Tài phân Thiên Địa Nhân.
Ngũ hành sinh Phụ Tử,
Bát quái định Quân Thần.

(Ngôi chính trên, giữa, dưới,
Sức mạnh chia Trời, Đất, Người.
Ngũ hành sinh Cha Con
Bát quái định Vua Tôi).

Trong 4 câu trên, hai câu sau cùng tối nghĩa, không hợp với quan điểm chính thống của Nho giáo, người viết không nắm được kiến thức cơ bản về bát quái và ngũ hành. Khó mà chấp nhận tác giả câu này đồng nhất với tác giả những câu hay trong sách.

Nhưng cho dù những câu thơ trong sách là của nhiều người, vấn đề vẫn được đặt ra là người tập hợp mọi thứ lại, tác giả sách là ai ? Có bốn câu thơ ở phần cuối sách: (tr.13b)

Nhân giai khổ viêm nhiệt,
Ngã ái hạ nhật trường.
Huân phong tự nam lai,
Điện các sinh vi lương.

(Người đều khổ vì nóng bức,
Ta yêu ngày mùa hạ dài.
Gió hòa mát từ phương nam lại,
Gác cung điện sinh mát nhẹ).

Người Trung Quốc địa bàn bị rét nhiều, gió nam đem hơi ẩm tới nên có tên “huân phong”. Đối với người Việt, gió nam xua oi bức, “huân phong” được hiểu là “gió hòa mát” (Đào Duy Anh). Câu thơ cho ta ngờ là của người Việt, ca ngợi gió nồm. Và người ở “gác cung điện”, hẳn thuộc giới quyền quý. Nhưng tác giả câu này có phải là người biên soạn toàn bộ sách hay không, là điều chưa khẳng định dứt khoát. Vấn đề cần đi sâu thêm trong việc đánh giá và xác định tác giả cuốn sách này. Liệu sách có phải là của người Việt, khác với Tam tự kinh Dương tiết mà mọi người đều biết là của Trung Quốc (các từ điển Trung văn ghi tên 2 sách sau, không thấy ghi Ấu học ngũ ngôn thi hay Trạng nguyên thi... Và dù tác giả là người Việt, thì cũng vẫn phải tự hỏi, những câu như “Xuân du phương thảo địa...” “Cửu hạn phùng cam vũ...” là của người Việt hay gốc từ phương Bắc... Mong rằng những công trình khảo chứng, được hỗ trợ bằng sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Việt Trung, có thể làm sáng tỏ vấn đề, để đánh giá một cách thấu đáo kho di sản văn hóa chữ Hán của người Việt.

Người biên tập: Hoàng Văn Lâu

CHÚ THÍCH

(1). Hai câu thơ sau (Nhất tử thụ...) được thấy trong Đại Việt sử ký toàn thư (Q.8, tr.9b), lời Hồ Tông Sác tạ tội với Trần Nghệ Tông, khi bị phát giác tội lấy tiền của dân (Sách dich, tập 2 do Nxb. KHXH in năm 1967, tr. 181 ghi tên nhân vật là Hồ Tông Xác, với hai câu dịch : “Một con đội ơn vua, Cả nhà ăn lộc trời”, không ghi câu nguyên văn chữ Hán.

TB

ĐỌC LẠI "TRUYỆN KIỀU"

THẾ ANH
HỒ NGUYÊN

Từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi đã yêu thích và say sưa đọc Truyện Kiều, nhưng hồi đó sách vở còn hiếm, chưa phong phú và đa dạng như hiện nay. Vả lại, sự yêu thích lúc đó cũng mới chỉ dừng lại ở chỗ ngâm nga, tiêu khiển chứ chưa có ý thức tìm hiểu, nghiên cứu chữ nghĩa của Truyện Kiều. Khi rời ghế nhà trường thì lại phải đi tham gia kháng chiến, nên không có điều kiện để đọc và suy ngẫm. Mấy năm gần đây được nghỉ hưu, chúng tôi mới đem những bản Kiều sẵn có cộng thêm những tài liệu mới sưu tầm được, đọc lại, trao đổi với bạn bè những vấn đề tâm đắc. Trong tình hình thị trường sách báo xô bồ hiện nay, nhiều cuốn khảo cứu cũng như văn bản Truyện Kiều được xuất bản phục vụ rộng rãi đối tượng bạn đọc là một điều đáng phấn khởi. Có thể liệt kê ra đây hàng chục bản Kiều các loại trong các hiệu sách ở Hà Nội, từ Truyện Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Truyện Kiều phổ thông, Truyện Kiều mi ni, Kiều dịch ra thơ Đường, ra tiếng Pháp... đến Truyện Kiều vừa mới ấn hành do Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải(1). Chúng tôi đã dành nhiều thời gian để đọc Truyện Kiều Nguyễn Quảng Tuân và nhận thấy đây là một cuốn sách biên soạn công phu, phần chú thích, khảo dị cũng như những câu bản Kinh khác với bản phường... đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin bổ ích.

Riêng phần chú thích Truyện Kiều, từ trước đến nay đã có nhiều người chuyên tâm nghiên cứu từ Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh đến Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân... mỗi người đều có những đóng góp đáng kể vào việc tìm hiểu chữ nghĩa Truyện Kiều giúp cho người đọc cảm nhận được sâu sắc hơn cái hay, cái đẹp và ý nghĩa sâu xa của từng câu thơ trong tác phẩm. Tuy nhiên, trong nghề “chữ nghĩa văn chương” có cái khác với các môn khoa học tự nhiên là cùng một hiện tượng nhưng lại có những cách hiểu khác nhau, nên vấn đề trao đổi, tranh luận để đi đến chỗ hợp lý, được nhiều người chấp nhận là một điều cần thiết. Nó đã, đang lẽ còn tiếp diễn. Chúng tôi muốn nêu một số trường hợp cụ thể:

Câu 12: Gia tư nghĩ (nghỉ) cũng thường thường bậc trung.

Trong câu này chữ nghĩ (dấu ngã) hay nghỉ (dấu hỏi) ? Một số cho là nghỉ: đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (Nguyễn Thạch Giang, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim...) một số lại cho là nghĩ: ước chừng, cũng vào hạng, xem ra, kể ra... (Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Quảng Tuân, Đào Duy Anh...)

Vì không có văn bản gốc nên cả hai cách giải thích đều có lý cả. Trong các văn bản Nôm hiện có đều viết 兊 (hoặc 仭) và phiên âm “nghỉ” là đúng. Còn việc suy luận Nguyễn Du không dùng chữ “nghỉ” để chỉ Vương Ông thì cũng không ai bắt bẻ được.

Câu 48: Ngựa xe như nước, áo quần như nêm (nen).

Có một số người bênh vực cho chữ nen và lập luận là ở vùng quê Hà Tĩnh có cây nen, nên Nguyễn Du lấy hình ảnh này để tả mầu sắc quần áo. Chúng tôi có tìm hiểu thì được biết ở vùng quê không có cây này, theo chúng tôi cứ để chữ nêm để diễn tả ý đông đúc là hợp lý.

Câu 566: Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa.

Cả Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Thạch Giang đều giải thích câu này là tả cảnh cuối hè sang thu. Thực ra phải hiểu là cuối xuân sang hè mới chính xác, vì nếu đọc kỹ đoạn trên ta thấy cảnh chia tay giữa Thúy Kiều và Kim Trọng xảy ra trong thời điểm cả nhà Vương Ông đi dự lễ sinh nhật bên ngoại vào dịp cuối xuân (Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua).

Câu 1092: Giá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Trong câu này có một số điểm cần trao đổi:

- Giá hay đoá ?

- Đồ mi hay trà mi ?

Chúng tôi có xem lại một số bản Kiều Nôm thì câu này đều viết chữ giá (架) như ông Nguyễn Quảng Tuân khẳng định, còn phần lớn các bản chữ Quốc ngữ thì lại viết là đóa (朵). Trong Chữ nghĩa Truyện Kiều ông Nguyễn Quảng Tuân đã dành 7 trang để giải thích câu này, nhưng xem ra cũng chưa có sức thuyết phục. Ông cho rằng chữ đồ (荼) không được thanh nhã, nên ngày xưa các cụ đã đổi ra chữ trà (茶) chứ thực ra không có cây trà mi. Và cũng với lý do trên, chữ thần đồ (tên vị thần dán ở cửa ngõ ngày tết) cũng được đổi thành Thần Trà. Xin nói ngay rằng, trong Từ điển tiếng Việt do Nxb. KHXH ấn hành năm 1988 có ghi rõ: “trà mi - cây thuộc loại hoa hồng, hoa màu trắng hoặc đỏ không thơm, trồng làm cảnh”.

Theo chúng tôi thì không phải do nhầm lẫn về tự dạng, cũng không phải do vấn đề tục hay thanh. Nghề “ông đồ”, “thầy đồ” trước đây, qua bao nhiêu thế hệ được nhân dân ta coi trọng, là một nghề cao quý, chẳng có một sự liên tưởng nào là tục cả và cũng chẳng ai gán cho nó cái tên khác để được tao nhã hơn. Thực ra ở đây là xuất phát từ vấn đề ngữ âm. Đứng về phương diện ngôn ngữ học lịch đại thì âm đồ trà trước đây là một. Theo Nguyễn Tài Cẩn thì thời thượng cổ không có âm mặt lưỡi, vì thế người Trung Quốc phiên âm chữ Indu, Hindu lúc đầu là Thân độc (身 獨 ), sau là Thiên trúc ( 天 竺 ). Trong từ điển Gustave Huề ghi là Thiên độc quốc (Indu). Trong Lê Quý Đôn toàn tập Đại Việt sử ký toàn thư có hai chữ Đồ tỉ (荼 田比 ) và trà tỉ (茶 田比 ) có nghĩa là hỏa táng các nhà sư (incénération des bonzes). Thành Đồ Bàn còn gọi là thành Trà Bàn, sông Trà Lệ còn gọi là sông Đồ Lệ. Trong Khang Hi tự điển cũng ghi âm đồ và trà là đồng âm. Như vậy đọc là đồ mi hoặc trà mi đều được cả. Theo truyền thống cảm nhận ngữ nghĩa, nhân dân ta đã quen tai với đoá trà mi thì cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến vấn đề thưởng thức cả.

Câu 2715: Chị sao phận mỏng phúc dày.

Nhiều bản khác chép là “... phận mỏng, đức dày". Phận và đức là quan hệ nhân quả. Theo lý thuyết nhà Phật có cái đức (nhân) tốt, thì số kiếp (quả) sẽ tốt. Vì thế Thuý Vân mới thắc mắc là: Tại sao chị có nhân tốt, mà quả lại xấu ? Nếu ta để chữ phúc như trong các bản Kiều của Nguyễn Quảng Tuân và của nguyễn Thạch Giang thì quan hệ nhân - quả bị phá vỡ và câu thắc mắc của Thuý Vân trở nên hài hước.

Câu 2851: Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ

Cụm từ bẻ bai trong câu này đã có nhiều người giải thích, nhưng chưa thống nhất, người thì hiểu là "réo rắt" (Nguyễn Quảng Tuân), người thì bảo là "nhịp nhàng" (Đào Duy Anh), người thì cho là "buồn, mà có ý phân vân về nhiều mối" (Nguyễn Thạch Giang). Riêng Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Pháp là "tourner et retourner" (bấm đi bấm lại) phím đàn. Chúng tôi cho rằng Nguyễn Văn Vĩnh đã nắm được ý của câu thơ nên đã hiểu và dịch đúng. Đoạn này tả tâm trạng của chàng Kim, tuy đã vui duyên mới, nhưng vẫn nhớ người xưa một cách da diết. Chàng tìm đến kỷ vật cũ "phím đồng ngày xưa", nhưng không phải để dạo đàn, vì còn lòng dạ nào mà chơi đàn. Chàng chỉ "bấm đi, bấm lại", sờ vào phím đàn để tưởng nhớ người yêu.

Câu 28: Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.

Ông Nguyễn Quảng Tuân cho rằng chữ Kiều viết hoa (tên riêng) thì không đúng, mà phải hiểu Kiều là danh từ chung chỉ người con gái. Chúng tôi cho rằng Kiều ở đây không phải là ai khác mà đích thị là Thuý Kiều. Kim Trọng khi đốt hương trầm lên, trong khói bay mờ nhạt và sờ vào phím đàn bật lên thành tiếng thì có cảm giác như Kiều xuất hiện và vang vọng tiếng nói của nàng.

Trên đây là một vài điều thu lượm của chúng tôi khi đọc lại Truyện Kiều, chắc chắn còn có chỗ bất cập, mong các độc giả quan tâm đến vấn đề này trao đổi, làm sáng tỏ thêm chữ nghĩa của Truyện Kiều.

CHÚ THÍCH

(1). Nguyễn Quảng Tuân: Truyện Kiều (khảo đính và chú giải), Nxb. KHXH, 1995.

TB

MỘT BÀI VĂN BIA TƯỞNG NHỚ
THÀY HỌC CỦA PHAN BỘI CHÂU

HỒ LIỆU

Trong sách Phan Bội Châu niên biểu (tức Tự phê phán) do hai ông Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang Phiệt dịch (Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, in lần thứ hai, 1957) có đoạn Phan Bội Châu viết: “... Năm mười ba tuổi, tôi đã làm được văn thơ theo lối cận cổ, có nhiều bài, các thầy đồ trong làng không hiểu được nghĩa. Cha tôi muốn cho tôi theo học những trường lớn có các thầy nổi tiếng, nhưng các làng chung quanh đấy không có trường lớn nào, vả lại vì nghèo không đi học xa được, nên tôi vẫn ở nhà học cha tôi và xin tập văn ở trường Nguyễn tiên sinh ở làng Xuân Liễu. Tiên sinh tên là Kiều rất thâm thúy về Hán học, đã đỗ Cử nhân và đã được bổ chức Biên tu, sau bỏ quan về nhà dạy học. Tiên sinh rất yêu tôi, nhiều lúc người đã đi mượn sách quý của các nhà đại gia về cho tôi đọc; nhờ thế tôi được hiểu biết thêm nhiều...) (tr. 26)

*
**

Vào dịp đầu xuân năm 1995, nhân kỷ niệm 145 năm ngày sinh của Cụ Cử Kiều, hậu duệ của cụ có trùng tu ngôi mộ và đã chép bài “bi ký”của Phan Bội Châu làm năm 1925 để tưởng nhớ thầy học của mình. Bài “bi ký” này được khắc vào hai mặt của bia đá. Bia được dựng cạnh mộ trong nhà mái vòm, chiều cao của bia 106 cm, chiều rộng 58 cm, bề dày 8,5 cm. Mộ táng trên cao, cách chân núi Đại Huệ (xã Nam Xuân, Nam Đàn) khoảng 40 m. Trên mộ chí có khắc chữ: Hoàng Nguyễn tặng, Thái thường tự khanh, gia nghị đạị phu, Nguyễn hầu, hiệu Anh Lâm chi mộ.

Hậu duệ cụ Cử Kiều có biết đến bài văn bia này, nhưng vì chiến tranh và điều kiện công tác xa chưa có dịp trực tiếp đọc kỹ. Sau khi chép lại, trong họ tộc đã nhờ người dịch và chú thích để chép vào gia phả.

Nhân một buổi chuyện trò với Giáo sư Vương Lộc (người chú thích) Giáo sư có cho chúng tôi xem một đoạn trong sách Phan Bội Châu con người và sự nghiệp cứu nước của Chương Thâu (Nxb. Nghệ Tĩnh, 1982) có đoạn viết: “...Nhưng ảnh hưởng sâu sắc hơn, có lẽ là mấy ông thầy tiếp theo sau. Đó là Nguyễn Thúc Kiều người xã Xuân Liễu. Ông này từng làm Huấn đạo (?) nhưng vì mất nước mà bỏ quan về mở trường dạy học. Phan được cụ Huấn Kiều quý mến, dạy bảo ân cần nên tiến bộ nhanh về văn chương cử tử...” (tr.13).

Trong gia phả tộc họ “Nguyễn Thúc” có kể chuyện cụ Cử Kiều từ quan, bỏ về quê khi quân Tây dương xâm lược nước ta. Năm 1885, (ngày 23 tháng 5 âm lịch năm ất Dậu) tin Kinh đô thất thủ về tay quân Pháp xâm lược, cụ Cử Kiều đóng cửa trường học, nhịn ăn, hơn một tháng sau thì mất. Đó là chuyện kể lại trong họ tộc. Có điều qua bài “bi ký”thì khá rõ cụ Cử Kiều là một người không chịu được nhục mất nước, nhưng chỉ biết căm uất, ngậm ngùi...

Được phép hậu duệ của cụ, chúng tôi công bố bài “bi ký” tưởng nhớ thầy học của Phan Bội Châu, nhằm góp phần nhỏ về tư liệu cho các nhà nghiên cứu văn thơ của Phan Sào Nam tiên sinh.

Nhân dịp này, chúng tôi xin thay mặt dòng họ “Nguyễn Thúc” cảm ơn Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và Giáo sư Vương Lộc.

Dưới đây là toàn văn bài “bi ký” viết bằng chữ Hán (xem ảnh), bản phiên âm và bản dịch.

Phiên âm:

“Tiên sinh húy Tuấn hựu húy Kiều, tự Tùng Phủ, hiệu Anh Lâm Xuân Liễu xã, Tú tài tặng thị độc học sĩ Nguyễn Hữu Chí chi đệ tam nam, Sinh ư Tự Đức tam niên, Canh Tuất, thập nguyêt, thập nhất nhật; tính mẫn tuệ, thiếu hữu văn danh; tam thập nhất niên, Mậu Dần, Ân khoa hương thí trường Cử nhân, Kỷ Mão Ân khoa hội thí trúng tam, trường mông thụ Hàn lâm viện điển tịch tòng công bộ hành tẩu; Canh Thìn hội khoa tái trúng tam trường, tầm mông thăng thụ Biên tu; tam thập tứ niên, Tân Tỵ hồi quán chung dưỡng; Hàm Nghi nguyên niên, ất Dậu thất nguyệt sơ tam nhật tốt vu gia. Khải Định nhị niên, tặng Phụng thành đại phu Hàn lâm viện Thị giảng; tứ niên, tặng Phụng nghị đại phu Hàn lâm viện thị độc; ngũ niên, tặng Triền liệt đại phu Thị giảng học sĩ; cửu niên, tặng Trung thuận đại phu Thị độc học sĩ; Bảo Đại nguyên niên, tặng Trung nghị đại phu Thái bộc tự khanh; bát niên, tặng Gia nghị đại phu Thái thường tự khanh.

Phu nhân húy Loan, đồng xã Bá hộ Nguyễn Vinh Uyển chi quý nữ. Sinh ư Tự Đức bát niên, ất Mão, thập nhất nguyệt, thập nhất nhật; Khải Định nhị niên, phong tòng ngũ phẩm nghi nhân; tứ niên, phong chính ngũ phẩm nghi nhân; ngũ niên, phong tùng tứ phẩm cung nhân; thất niên, sắc tứ tiết phụ biển ngạch; bát niên Quý Hợi, thất nguyệt, sơ thất nhật thọ chung; cửu niên tặng chính tứ phẩm cung nhân; Bảo Đại nguyên niên tặng tùng tam phẩm lệnh nhân; bát niên tặng chính tam phẩm lệnh nhân.

Sinh hạ nam nhất: Nguyễn Thúc Dinh.

Nữ tứ: Nguyễn Thị Khiêu (Hiêu), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Thị Mùi, Nguyễn Thị Tỏi.

Hùng sơn, Lam thủy gian, bàng bạc uất bột chi khí chung nhi vi nhân, anh hiền tuấn tú, gián thế nhi hữu.

Tiên sinh sinh nhi dĩnh dị, thị độc thư, quả ngôn tiếu. Lệnh tiên công thụ dĩ cử nghiệp văn, hạ bút triếp khả tụng, Tiên công một, tứ nghiệp ư Nam Sơn chi môn, văn danh tác nhất thì, Tự Đức Mậu Dần, ân khoa bạt hương giải, thì niên tài nhị thập dư, tấn thân lão tiền bối hàm khí kì tài sử đản liệp lợi ngư danh, toại thì tục giả, lưu thủ thanh tử như thập giới nhĩ. Nhiên tiên sinh tố tính điềm đạm, Hữu Đào Uyên Minh, Thiệu Khang Tiết chi phong tao thì phương truân, sơn hà dị sắc, long xà thích đạo nghi tàng nhi tàng thích. Tự Đức mạt niên, thuận tấn chi dịch, Dương binh phạm kinh thành, tiên sinh toại dĩ chung dưỡng, khí quan quy tự kinh ư thị, bế hộ thụ đồ, tiềm tâm ư danh sơn chi nghiệp, ngâm dư hạ triếp tư tình sơn thủy gian, hữu dĩ tục sự lai tương vấn giả, mặc bất đáp. Ô hô ! tiên sinh cổ chi sở vị dật dân dư! Châu đồng niên thị tiên sinh; Châu thậm mật lập, thân hạnh kỷ sở đắc ư tiên sinh tối đa. Tiên sinh dịch trách tiền số nhật, Châu thị tật tai bàng, thì thế huynh Dinh niên thượng trĩ, tiên sinh dĩ tự vãn liên ngữ Châu: “Bách niên trần diện do càn thổ, bán tải du tình phụ hảo sơn”. Kim tụng kỳ ngôn di vận thanh phong trường y y nhĩ. Tiên sinh một hậu thập dư tải, Châu phiêu linh hồ hải vị thường nhất yết cố lư, mộng hồn hư kết, chí nghiệp vị thành, kỳ hà dĩ ủy tiên sinh ư địa hạ. Kim niên Châu tòng hải ngoại quy, nhi tuế huynh Dinh phương trùng tu tiên sinh chi mộ, cẩn huy thế nhi chí sổ ngôn. Minh viết:

Duy phác nãi bảo,
Duy lan nãi hinh.
Thế vô Bá Di,
Thùy vi thánh thanh ?
Hùng Sơn chi anh,
Lam Thủy chi tinh.
Ngưỡng cao cúc khiết,
Y ngã tiên sinh.

Ất Sửu niên, thập nhật nguyệt, ký vọng Môn sinh Phan Bội Châu bái thư”.

Dịch nghĩa:
(Bản dịch của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn)

Tiên sinh húy Tuấn, còn húy là Kiều, tự Tùng Phủ, hiệu Anh Lâm, là con trai thứ ba của cụ Tú Nguyễn Hữu Chí, được tặng hàm Thị độc học sĩ ở xã Xuân Liễu. Sinh ngày 11 tháng 10 năm Canh Tuất, Tự Đức thứ 3 (1850). Tiên sinh tính mẫn tiệp, lúc trẻ đã nổi tiếng văn chương. Năm Tự Đức 31, ân khoa(1) năm Mậu Dần (1878), Tiên sinh thi Hương đỗ Cử nhân; năm Kỷ Mão (1879) có ân khoa hội thí, tiên sinh trúng tam trường, đội ơn được vào hàn lâm viện Điển tịch, làm hành tẩu ở bộ Công; năm Canh Thìn (1880) tiên sinh thi Hội lại trúng tam trường, kế đó được thăng hàm Biên tu; năm Tự Đức 34, Tân Tỵ (1881), tiên sinh về quê tu dưỡng. Năm Hàm Nghi thứ nhất, ất Dậu (1885) tiên sinh mất vào ngày mồng 3 tháng 7 ở tại gia đình. Năm Khải Định thứ 2 (1917), tiên sinh được truy tặng Phụng thành đại phu, hàm hàn lâm viện Thị giảng; năm Khải Định thứ 4 (1919) được truy tặng Phụng nghị đại phu, hàm Hàn lâm viện Thị độc; năm Khải Định thứ 5(1920) được truy tặng Triều liệt đại phu hàm Thị giảng Học sĩ; năm Khải Định thứ 9 (1924) được truy tặng Trung thuận đại phu hàm Thị độc Học sĩ. Năm Bảo Đại thứ nhất (1926) được truy tặng Trung nghị đại phu hàm Thái bộc tự khanh; năm Bảo Đại thứ 8 (1933) được truy tặng Gia nghị đại phu hàm Thái thường tự khanh.

Phu nhân huý Loan là con gái út cụ Bá hộ Nguyễn Vinh Uyển, người cùng xã. Phu nhân sinh ngày 11 tháng 11 năm ất Mão, Tự Đức thứ 8 (1855). Năm Khải Định thứ 2 (1917) được phong Tùng ngũ phẩm nghi nhân; năm Khải Định thứ 4 (1919) được phong Chính ngũ phẩm nghi nhân; năm Khải Định thứ 5 (1920) được phong Tùng tứ phẩm cung nhân; năm Khải Định thứ 7 (1922) được sắc tứ tiết phụ biển ngạch; năm Khải Định thứ 8 (1923), phu nhân tuổi già, mất vào ngày mồng 7 tháng 7 năm Quý Hợi. Năm Khải Định thứ 9 (1924) được truy tặng Chính tứ phẩm cung nhân. Năm Bảo Đại thứ nhất (1926) được truy tặng Tùng tam phẩm lệnh nhân; năm Bảo Đại thứ 8 (1933) được truy tặng Chính tam phẩm lệnh nhân.

Sinh hạ một con trai là Nguyễn Thúc Dinh và 4 con gái: Nguyễn Thị Khiêu (Hiêu), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Thị Mùi, Nguyễn Thị Tỏi.

Trong khoảng Hùng Sơn, Lam Thủy có khí thịnh bàng bạc chung đúc nên người, thỉnh thoảng lại có bậc anh hiền tuấn tú xuất hiện. Tiên sinh sinh ra là người dĩnh ngộ, tính ham đọc sách, ít khi cười nói. Được lệnh tiên công truyền dạy lối từ chương cử nghiệp, tiên sinh hạ bút thành văn; sau khi lệnh tiên công qua đời, tiên sinh bèn thụ nghiệp ở trường văn cụ Nam Sơn(2), nổi tiếng một thời. Khoa thi ân khoa Mậu Dần đời Tự Đức, lúc trúng Hương giải, tiên sinh tuổi mới ngoài hai mươi, các bậc nổi tiếng thuộc thế hệ đàn anh đã đánh giá tài năng của tiên sinh: nếu là người theo học thời tục chỉ lo săn lùng danh lợi thì có khó gì mà không đạt được quan cao chức trọng. Nhưng tiên sinh vốn tính điềm đạm, sẵn có phong thái của Đào Uyên Minh(3), Thiệu Khang Tiết(4) gặp thời buổi đương khó khăn, sơn hà đổi sắc, bậc rồng phượng chuộng đạo thì nên ẩn táng, che giấu sở thích. Cuối đời Tự Đức, quân Tây dương thuận dòng sông nước, xâm phạm Kinh thành, tiên sinh bèn bỏ quan, rời khỏi Kinh đô, lui về lo việc tu dưỡng cuối đời. Tiên sinh đóng cửa, chỉ lo dạy học trò và để tâm vào sự nghiệp trước tác, ngâm nga ca vịnh, thả dòng theo cảnh núi non sông nước, nếu có ai đem việc thế tục đến hỏi thì tiên sinh chỉ trầm mặc không đáp. Ôi, tiên sinh chính là người mà thời xưa thường gọi là bậc dật sĩ đó chăng? Châu tôi lúc trẻ được hầu tiên sinh, gắn bó với tiên sinh, học tập được rất nhiều ở phẩm hạnh tiên sinh. Vài ngày trước khi tiên sinh qua đời, Châu tôi được hầu bệnh ở bên cạnh, lúc bấy giờ thế huynh là anh Dinh tuổi còn bé, tiên sinh đã đem câu tự điếu (tự vãn) đọc cho Châu tôi nghe:

Trần thế trăm năm còn thế đất,
Du tình sáu tháng phụ tình non.

Nay đọc lại, thấy phong cách thanh cao trong di ngôn của tiên sinh tưởng còn như phảng phất vậy.

Sau khi Tiên sinh mất, hơn mười năm Châu tôi phiêu bạt hải hồ, chưa một lần nào về thăm lại được chốn thảo lư cũ, mộng hồn hư kết, chí hướng sự nghiệp chưa thành, thật không biết lấy gì để vui lòng tiên sinh ở dưới suối vàng. Năm nay Châu tôi từ hải ngoại trở về, gặp lúc thế huynh là anh Dinh(5) đang trùng tu ngôi mộ của Tiên sinh, vậy xin gạt lệ kính cẩn ghi lại vài câu, thành bài minh.

Minh rằng:

Chỉ phác (6) mới quý,
Chỉ lan thơm xa.
Đời không Bá Di(7),
Thánh thanh đâu ra ?
Hùng Sơn, Lam Thủy,
Chung đúc tinh hoa.
Vẹn toàn cao khiết,
Chính tiên sinh ta.

Sau ngày rằm tháng mười một năm Ất Sửu (1925)

Học trò là Phan Bội Châu bái thư.

Người biên tập: Trịnh Khắc Mạnh

CHÚ THÍCH

(1). Ân khoa: theo lệ thi cử ngày trước, ba năm mở một khoa thi thì gọi là chính khoa, khi mở thêm một khoa nữa thì gọi là ân khoa.

(2). Nam Sơn ở đây có thể là chỉ cụ Nguyễn Đức Đạt (1823-1877) tự Khoát Như, hiệu Nam Sơn Chủ Nhân, Nam Sơn Dưỡng Tẩu và Khả Am Chủ Nhân, quê làng Hoành Sơn, đỗ Thám hoa năm 28 tuổi, làm việc ở Viện tập hiền một thời gian rồi xin về quê dạy học. Học trò rất đông. Năm 1873, vua Tự Đức vời vào Kinh dạy trường Quốc tử giám. Kế đó sau một chuyến đi sứ sang Trung Quốc về, được chuyển đi làm án sát tỉnh Thanh Hóa rồi Tuần phủ tỉnh Hưng Yên. Có nhiều tác phẩm để lại như Nam Sơn di thảo, Nam Sơn tùng thoại v.v.

(3).Tức Đào Tiềm, người đời Tấn, từng làm huyện lệnh ở Bành Trạch, nhưng được 80 ngày bèn bỏ quan về, làm bài Quy khứ lai từ nổi tiếng để tỏ chí mình.

(4).Tức Thiệu Ung (1011-1077), nhà triết học thời Bắc Tống, ở ẩn, nhiều lần vời được ra làm quan nhưng từ chối. Có tác phẩm: Hoàng cực kinh thế, Y Xuyên kích nhưỡng tập v.v.

(5).Tức Nguyễn Thúc Dinh, đỗ Cử nhân năm Canh Tý (cùng khoa với Phan Bội Châu) niên hiệu Thành Thái 12 (1900), sau đó, đỗ Phó bảng năm Đinh Mùi, niên hiệu Thành Thái 19 (1907).

(6).“Phác” là đá có ngọc, còn chỉ loại ngọc chưa được mài giũa.

(7). Bá Di: con cả vua nước Cô Trúc, đời Thương. Sau khi cha mất, Bá Di cùng với em là Thúc Tề nhường ngôi vua cho nhau. Cả hai cùng trốn đi. Khi Chu Vũ vương đánh được nhà Thương, cả hai không thèm ăn thóc nhà Chu, trốn vào ẩn ở núi Thú Dương hái rau vi mà tự nuôi sống. Mạnh Tử khen Bá Di là “thánh chi thanh” (bậc thánh thanh cao)

TB

BÀI KÝ "HÀNH TẠI DIỆN ĐỐI" CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ

KIM ANH

Nếu ở các thế kỷ trước, thơ phú chữ Hán chiếm ưuthế trên văn đàn thì sang thế kỷ XVIII -XIX, ký chữ Hán đã phát triển vượt trội lên, để lại được dấu ấn trong đời sống văn học đương thời. Ký chữ Hán chủ yếu là lối viết tạp ký, ký sự. ở lối viết này, người viết viết theo quan điểm “thuật nhi bất tác”, cố gắng truyền đạt lại đầy đủ nhất, chu đáo nhất các sự kiện, các chuyển biến trong cuộc sống, tái hiện lại những điều mắt thấy tai nghe một cách sinh động với nhiều chi tiết tỉ mỉ, có khả năng hấp dẫn người đọc. Chính vì vậy đã có rất nhiều tác phẩm thuộc thể ký trong thời kỳ này được lưu truyền đến ngày nay.

Phạm Đình Hổ là một tác giả khá thành công trong thể loại này. Ông viết tạp ký cũng hay mà kí sự cũng hấp dẫn. Về tạp ký, người đọc đã được biết nhiều qua sách Vũ trung tùy bút của ông, do sách đã được dịch và ấn hành nhiều lần. Nhưng với ký sự, có lẽ người ta mới chỉ biết đến bài Du Phật Tích sơn được ông chọn đưa vào tập Tang thương ngẫu lục viết chung với Nguyễn Án mà Kiều Oánh Mậu khen rằng “Trong ký có họa, thật đáng được truyền tụng như bài Đào hoa nguyên ký của Đào Uyên Minh đời Tần”(1).

Trong sách Châu phong tạp thảo(2) của Phạm Đình Hổ được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi đã được biết thêm rất nhiều bài viết theo lối ký sự của ông, với lối viết chi tiết tỉ mỉ, cách mô tả sống động, kết hợp những cảm xúc sâu sắc, tinh tế, hấp dẫn.

Hành tại diện đối là một trong những bài ký nằm trong tập sách Châu phong tạp thảo nói trên, được tác giả viết vào năm 1822 sau lần vua Minh Mệnh triệu ông đến gặp mặt ở Hành tại khi nhà vua ra Bắc Thành nhận sách phong. Để bạn đọc hiểu thêm văn tài của Phạm Đình Hổ cùng những tư liệu rất hay về ông và vua Minh Mệnh, chúng tôi xin được dịch, giới thiệu với bạn đọc bài ký này của ông.

Do những hạn chế về khuôn khổ của tạp chí, những đoạn không quan trọng lắm, chúng tôi xin lược bớt. Mong được sự thông cảm của bạn đọc.

Bài ký về cuộc gặp mặt ở hành tại

Tháng chạp năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mệnh năm thứ nhất (1820), Thừa lệnh Công đồng truyền cho quan Phó Tổng trấn Bắc Thành là Phong Đăng hầu(3), sức bọn sáu người trong hạt thành là cựu Tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở, Sinh đồ Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú, văn học Ngô Du, Đoàn Hồng Nguyên, Đỗ Huy Ngạc(4) vào Kinh nghe hầu.

Hổ tôi từ năm Bính Tý niên hiệu Gia Long (1816) trong nhà có chuyện buồn, quá đau đớn vất vả mà thành ốm yếu, rồi bị cảm chuyển sang lỵ (...). Đúng lúc bệnh chuyển nặng thì ngày 27, trong Kinh báo cho phải đến Thành. Tiến thoái đều bí cả, tôi bèn chuyển cầu những người thân cũ, khẩn xin với bản trấn, bản phủ (...). Ngày 13 tháng giêng năm Tân Tỵ (1821), bản trấn ủy cho Lễ phòng lại đem chuyện bệnh tình của tôi (...) đệ chuyển công văn lên bộ Lễ (...) xin cho tôi được lưu lại dưỡng bệnh (...).

Hạ tuần tháng tám, Tổng trấn Quận công (5) phụng chỉ đến thành để lo liệu việc sách phong. Lúc sách sứ đến nơi, công việc của ngài quá bận rộn, tôi vào Thành đợi bái yết, đến hơn một tháng không được gặp. Ngày mồng ba tháng mười mới gặp ngài ở Tổng trấn công đường. Ngài mệnh cho ngồi, ban trà rồi dặn bảo tôi xa giá Hoàng thượng sắp đến, không được đi đâu khác.

Ngày 18 tháng ấy, xa giá đến.

Ngày 27, giờ Dậu, Tổng trấn Quận công tuân chỉ ủy cho quan tại Thành là Hình bộ Hữu tham tri Thiều Quang hầu sức cho tôi phải đến triều kiến sớm. Sáng sớm ngày 28 lại liên tiếp sai người đến thúc dục. Tôi đội mưa theo công sai vào Thành (...)

Tổng trấn Quận công (...) ủy cho Thiều Quang hầu đưa tôi đến Hành tại, chuyển giao cho quan Phó Tổng trấn dẫn tôi vào yết kiến.

Tôi đứng chờ ở nhà Trực Lê ngoài cửa Tả Dung. Ước chừng một canh, thấy quan Hình bộ Tham tri Thanh Xuyên hầu phụng chỉ theo quan trong Kinh là Hiệp biện Đại học sĩ Lại bộ Thượng thư An Trạch hầu hội bách quan để họp bàn. Khi đi qua cửa Tả Dung, họ bảo tôi:

- Trời sắp trưa rồi, ngày hôm nay chưa chắc đã được gặp. Bãi chầu, ông nên qua chỗ tôi để lược bàn qua các tiết về việc tiến lui ứng đối. Chờ đến buổi chầu sớm mai mới có thể gặp được.

Lúc đó mưa to gió lớn, tôi mình yếu áo mỏng không ngăn được rét run lập cập. Tôi hỏi hai ngài:

- Nếu chưa được gặp, xin về chỗ ngụ để uống thuốc có được không ?

Cả hai đều đáp:

- Không được !

Lát sau Hình phòng lại tại Thành sai một viên tiểu sai ra triệu tôi vào theo cửa Tả Dung, qua thềm ngọc của điện Kính Thiên, đến nhà Trực Lô bên trong cửa Tả Dung đứng chờ. Các viên Thị nội cấm quân thấy tôi ốm yếu đều nhường cho ngồi, bảo tôi tránh mưa. Thiều Quang hầu từ ngoài vào bảo tôi:

- Ông hãy tạm đợi ở đây.

Tôi mệt lử, bất giác thiếp đi. Chừng một canh nữa, một viên tiểu sai từ trong ra tuyên báo cho tôi vào gặp. Vừa vào khuất cửa, quan tại Thành là Binh bộ Thiêm sự Thống Thiện hầu từ nhà Hữu vu đi đến, bảo tôi khăn áo sao không ngay ngắn. Tôi đáp :

- Tóc ngắn khăn nát, thế không thể tề chỉnh được.

Thống Thiện hầu lại đi vào phía bắc nhà Hữu Vu. Quan Thị nội Thống chế Thanh Quyên hầu đến cửa dẫn tôi ra sân triều bái.

Hoàng thượng ngự trong điện Cần Chánh ở phía sau điện Kính Thiên. Điện Cần Chánh có 9 gian. Đông hiên tây hiên đều hai gian (...) ở giữa 5 gian. Chính giữa tòa ngự là một cái sàn gỗ, trên đặt sập rồng sơn son trải chiếu Thanh Duyên. Phía trước sập có một chiếc long án sơn son, trên bày một ống bút, một nghiên đá, một lồng ấp bằng vàng, một ống quản bằng thủy tinh, một ống điếu bằng vàng, một chiếc khay chạm khảm điểu mộc, trong khay có một hộp thuốc lá, một hộp trầu cau bằng đồi mồi, một ống nhổ bằng vàng. Đằng sau sập cách chừng 5 thước treo một chiếc rèm trúc Thanh Duyên thanh địa ngũ sắc (...).

Hoàng thượng đội khăn đen, mặc áo bào lĩnh Bích La, ngồi xếp bằng giữa sập, mặt hướng vào án. Thềm rồng đều lát gạch vuông Bát Tràng. Lúc đó đang mưa to gió lớn, vệ sĩ vệ Kim Kiếm vào tránh mưa đứng hầu ở hai bên Tả, Hữu vu (...) Lặng ngắt không một tiếng người. Bên trong rèm có người ẩn bóng không nhìn rõ được.

Thanh Quyên hầu từ bên hữu bệ lên thềm phục chỉ (...)

Thanh Quyên hầu xuống thềm tuyên chỉ cho tôi lên điện. Tôi theo phía bên phải đi lên. Bệ 5 bậc rất cao. Trời lạnh mình yếu, tôi run lẩy bẩy không cầm được. Thanh Quyên hầu đưa tay dìu tôi lên hết 5 bậc rồi đưa tôi đến quì bên sập ngự. Hoàng thượng dời chỗ ngồi, đến góc bên phải phía trước sập hỏi tôi có phải tên là Đình Hổ không ? Tôi tâu :

- Thần họ Phạm, tên Đình Hổ.

Hoàng thượng hỏi:

- Quê quán ở đâu ?

Tôi tâu:

- Thần quê ở xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, Bắc Thành(6). Nhà ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức(7).

Hoàng thượng hỏi:

- Bao nhiêu tuổi ?

Tôi tâu:

- Thần sinh năm Mậu Tý (1768), niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê. Năm nay 54 tuổi.

Hoàng thượng lại hỏi:

- Tên “Đình Hổ” là thế nào ?

Tôi tâu:

- Nhà thần từ các đời trước, khi đặt tên đều dùng bộ ngọc một bên. Cha thần đặt tên thần là “Hổ”có lẽ là “hổ”trong “hổ phách”.

- Trẫm nghe nói học vấn văn chương ở Bắc thành có Phạm Thích(8), thứ đến là Phạm Đình Hổ. Ba khoa triều trước, hà cớ thi rớt, cho phép cứ sự thực tâu bày.

- Thưa, thần gia thế nghiệp nho, cuối đời Cảnh Hưng triều Lê trước từng theo thầy bạn học trường Giám. Mùa hạ năm Bính Ngọ (1786) chưa kịp đi thi thì nhà Lê mất, nước loạn (...). Thần lâm vào cảnh nghèo đói bệnh tật, nghiệp cũ phải bỏ hoang nhưng lòng muốn học chưa từng xao lãng (...). May nhờ Thế tổ Cao Hoàng đế (9) quét sạch bờ cõi, mở khoa thi Hương, thần cùng sĩ tử Bắc Hà ngậm vui kéo đén. Khoa Đinh Mão (1807) thần theo nguyên tịch ứng thí tại trường Hải Dương. Trường nhất may được trúng hạng nhất danh. Trường hai, trường ba đều trúng hạng nhị danh. Trường bốn bị rớt. Đến khoa Quý Dậu (1813), bởi đi xa không chịu được phí tổn, vất vả, thần khẩn xin với quan Tổng trấn (...) để được phụ thi ở trường Bắc Thành. Trường nhất may trúng hữu bảng, ngoài 1100 tên. Trường hai bị rớt. Khoa Kỷ Mão (1919) thần theo nguyên tịch đến trường Sơn Nam, ứng thí tại trấn Hải Dương. Trường nhất dự trúng thứ thủ bảng ở bảng hữu, ngoài 3000 tên (...). Trường hai thần bị cảm mạo (...) phải xin bỏ thi để về thành uống thuốc. Khoa Ân khoa năm nay, thần bị bệnh không thể đi thi được.

- Khanh theo dự các khoa, trong khi soạn viết văn bài chắc cũng từng phạm quy phạm luật nên không được nhập cách phải không ?

- Thưa, thần là kẻ hàn nho hèn kém, mạo muội đem chuyện nhỏ nhặt ra nói sợ làm bẩn tai trời. Thần gia thế bản nho nên nghiệp cũ không dám tự tiện vứt bỏ. Huống hồ sĩ tử mỗi khi ứng thí, chi phí nhu dụng dù cực kỳ tùng tiệm cũng không dưới vài ba chục quan. Những cái liên quan đến thân danh chẳng phải là chuyện vặt, há đâu lại dám khư khư giữ ý nói bừa để chuốc lấy việc bị đánh rớt. Văn chương trong chốn trường ốc, nếu như có nhỡ phạm quy, chẳng phải là thần cố ý mạo phạm.

- Vị nào chủ khảo trường thi, có khi do mang thù với khanh mà đánh rớt chăng ? Cho khanh được tâu thẳng !

- Thưa, thần do tao loạn phải thất học, thư sử bỏ hoang, đâu dám oán bừa các quan Hữu ty không tuyển mình. Thần từ nhỏ không được dạy dỗ, nói năng xử sự không biết tự xét để xảy ra lầm lỗi thì như vậy nếu có quan chủ khảo nào của khoa nào có mang thù với thần cũng là do không hẹn mà gặp, bởi tại phận mệnh của thần xui nên như vậy.

- Trẫm nghe biết tiếng tăm của Phạm Thích và Phạm Đình Hổ ở Bắc Thành. Năm ngoái xuống chiếu vời đến, hà cớ không đến ?

Thưa, thần một đời ở chốn nhà quê, ngửa mong được thiên ân thu dụng. Cái hôm nghe tin báo, bên ngoài biết là vinh nhưng đoái đến tình cảnh thương thảm của nhà thần, anh trưởng anh thứ đều yểu mệnh, kế đó cha thần cũng qua đời, thần còn lại một mình. Vợ thần chỉ sinh được hai trai hai gái. Con trai trưởng của thần đang còn nhỏ đã ốm chết. Con trai thứ mới vài tuổi mà lắm bệnh. Trong không một đấu gạo để dành, ngoài không có ai để nhờ cậy việc giỗ chạp chăm sóc phần mộ cha mẹ quanh năm. Mùa xuân năm Bính Tý (1816) vợ thần mắc bệnh qua đời. Vợ chết con thơ, thân bệnh, gia cùng, thần quá đau đớn buồn lo mà thành bệnh lỵ, quanh năm không ra được khỏi giường. Từ đó đến nay luôn luôn đau ốm. Tháng 6 năm Minh Mệnh thứ nhất (1821) bệnh lỵ của thần tái phát nặng (...) cứ như vậy cho đến cuối năm, nghe tin báo mà không thể lên đường (...)

- Trẫm biết rất rõ học vấn của Phạm Thích và Phạm Đình Hổ.

- Thưa, Thị trung học sĩ Phạm Thích xuất thân Tiến sĩ triều Lê. Nay là quan văn hàng tam phẩm. Tiếng tăm nhân phẩm của ngài là khuôn mẫu của sĩ tử Bắc Thành. Thần tuy không được theo học cửa ngài nhưng cũng liệt vào hàng đệ tử. Đâu dám vượt qua.

- Khanh là người có học, vừa có đức vừa có văn. Những điều tâu bày về việc nhà của khanh trẫm đã biết rồi, bây giờ đừng có than tiếc nữa, trả lời cho đầy đủ những điều trẫm hỏi.

Tôi nghe thánh chỉ sợ toát mồ hôi, cúi đầu không dám nói. Hoàng thượng lại hỏi:

- Muốn biết cách thức trị vì tất phải tham chước sách vở điển tịch. Khanh có sách vở gì hoặc thường ngày có trước thuật gì, chuẩn cho được dâng trình. Hoặc những người thân của khanh có cất giữ hay có trước thuật cũng lệnh cho được gửi lên tiến trình. Nếu người ta không muốn dâng tiến khanh nên hơi mượn người ta, ủy cho hữu ti sao chép rồi hoàn lại nguyên bản. Hoặc giả người ta muỗn bán, ta cũng chuẩn cho trả tiền.

- Thưa, ở Bắc Thành từ thời hậu Lê, sách vở điển tịch không cất giữ ở phủ quan mà đều chia giữ ở nhà các viên tư lại (...) Những cái còn lại trong các nhà thế gia đại tộc, thảng hoặc có được cất giữ thì cũng đã bị người ta gói ghém hủy bỏ. Bởi vậy cho nên sách vở điển tịch tán lạc hết. Thần từ bé được nghe qua cha anh và chính mắt trông thấy thì thấy rằng đến nay trăm phần không còn được một. Nếu trong dân gian, tùy chỗ tìm kiếm thì cũng chỉ được tàn biên đoạn giản chứ hiếm mà có được toàn thư. Nay có lệnh chỉ cho tìm kiếm, thần xin kính cẩn phụng mệnh, lục lọi sách cũ cất giữ trong nhà, có được quyển nào sẽ xin dâng tiến. Còn như các bạn bè thân hữu của thần nếu có còn cất giữ sách vở thì chắc cũng chẳng được mấy. Xin thư thả để tìm hỏi kĩ.

- Nếu khanh biết trong số những người thân của khanh, có ai có học vấn văn chương thì nên cho nghe tên để trẫm tùy tài lục dụng.

- Thưa, thần từ cuối đời Cảnh Hưng, học nghiệp ở Quốc tử giám, lược qua số bạn bè, đến nay còn lại người nào cũng đều may được có vị trí trong triều cả. Từ khi Tây Sơn giữ nước cho đến nay, thần nghiệp học bỏ hoang, bởi vậy cho nên đối với lớp hậu sinh tân tiến, thần ít được biết, trộm sợ không thể ứng chỉ được.

(...)

Thanh Xuyên hầu từ trong điện đi ra giữa rèm tây đứng hầu phía sau sập ngự. Hoàng thượng lại hỏi:

- Trị nước tất phải có nhân tài, mà cầu tài không gì bằng khoa mục. Trẫm sau khi tức vị hạ chiếu khai khoa. Xét khoa thi Hương năm nay, hai trường Sơn Nam và Bắc Thành có để sót người tài không? Những kẻ sĩ đã trúng tuyển, quả có đáng tài không? Các quan ở trường thi dụng tâm vào việc công tư như thế nào? Cho khanh cứ thực tâu bày.

- Thưa, trải các triều từ trước đến nay, đều lấy khoa mục làm trọng. Khoa mục là cân thước để chọn người, cho nên câu “Thượng hải di châu”cổ nhân mới lấy làm thành ngữ. Thần sinh trưởng vào cuối đời Lê, xét thấy việc tuyển chọn qua khoa mục bao giờ cũng để sót nhân tài. Như vậy thì việc tuyển chọn qua bốn khoa của triều ta chắc gì đã không để sót người tài. Nhưng triều đình đã trọng khoa mục, chiếu lệ khai khoa, kẻ sĩ thực học nếu có bị rớt ở khoa trước rồi cũng sẽ được lấy ở khoa sau. Trong tương lai, nhân tài tất sẽ là sở dụng của quốc gia, không đến mức khó khăn như Hoàng thượng lo lắng.

- Những kẻ sĩ đã trúng tuyển, có thực đáng tài không ?

- Thưa, khoa năm nay truờng Bắc Thành lấy 23 tên, trường Sơn Nam lấy 32 tên. Thần học hành bỏ bê, kiến thức ít ỏi, không thể biết khắp được. Nhưng có người là người thân quen của thần, có người theo học thần, khoa này được nhập cách. Có thể thần thiển kiến, nhưng thần cho rằng như thế cũng chẳng phải là quá lạm.

- Khanh căn cứ vào đâu mà cho là như vậy ?

- Thưa, trong phạm vi văn bài thì thần không được thấy. Nhưng thường ngày người đó học vẫn văn chương theo thần đáng được trúng cách.

- Trường quan như thế nào ?

- Thưa, khảo quan của hai trường đội đức bề trên làm công việc tuyển chọn. Họ đến trường thi hành công vụ, giữ trường thi được nghiêm mật. Thần có bệnh phải cáo ở nhà không đến thi được, cho nên trường quan công tư sai đúng thế nào trông chờ cửu trùng xem xét, chẳng phải với khả năng kiến văn của thần mà có thể biết được. Đâu dám tâu bừa.

Hoàng thượng ngoảnh lại hỏi quan Tả tham tri Nguyên Hanh hầu. Ông ta từ nhà Hữu vu đi lên thềm, cùng quan Kinh đường Hữu tham tri ứng Thụy hầu đến bên sập ngự thụ chỉ. Họ nói nhỏ không nghe rõ. Sau đó Hoàng thượng nói:

- Cấp cho mỗi tháng lương hai phương gạo và hai quan tiền, quần áo 6 bộ, theo lệ Hương cống nhậm chức Hành tẩu. Trẫm sẽ thử xem tài học thế nào !

Tôi phủ phục xuống. Quan Tả tham tri Nguyên Hanh hầu bảo tôi ra sân vái, rồi tự ông dẫn tôi ra sân lạy tạ, đến năm lạy mới đứng lên.

Bách quan từ hai bên nhà Tả, Hữu vu vén rèm đi ra rồi xuống thềm ra sân. Tôi ngẩng trông tòa ngự, Hoàng thượng đã trở vào trong rồi.

Ngày hôm sau, quan Tổng trấn Quận công truyền cho tôi đến yết kiến quan trong Kinh là Hiệp biện Đại học sĩ Lại bộ Thượng thư An Trạch hầu. Tôi bị cảm mạo bệnh phát không thể đi được (...)

Ngày mồng 6 tháng mười, đệ trình hai đạo biểu tiến dâng các sách: Lê triều hội điển, 2 quyển; Bang giao điển lệ, 1 quyển; Cảnh Hưng Tân Tỵ sách phong sứ quán bạn tiếp giản trát tập, 1 quyển; Sứ quán bạn tiếp thù phụng thi tập, 1 quyển. (...) Thự hình bộ Tham tri Thanh Xuyên hầu tuân chỉ chuyển giao cho quan Tổng trấn Quận công tại thành chia ủy cho các viên thư lại sao chép sách cũ để tiến lãm. Ngày mồng 10, chép xong. Quan Tổng trấn Quận công đệ 4 đạo biểu và 5 quyển sách dâng tiến. Lúc đó tôi vì có bệnh, ở nhà.

(...) Tôi được bổ vào chức Hành tẩu ở bộ Hộ, chờ ngày Thánh giá hồi loan sẽ vào Đình thí. Chưa được mấy chốc, lại đổi chức Hàn lâm viện Hành tẩu. Tôi lại thấy trong người nóng lạnh bất thường, bệnh lỵ tái phát, lại phải trình với quan Lại bộ đường xin được nghỉ ngơi uống thuốc (...).

Ngày 26, đại giá hồi loan.

Người biên tập: Nguyễn Văn nguyên

CHÚ THÍCH

(1).Kiều Oánh Mậu: Bài tựa thứ 2 của sách Tang thương ngẫu lục. Quyển nhất. In lần thứ nhì. Bộ Giáo dục xuất bản. Sài Gòn 1970.

(2). Châu phong tạp thảo. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu Vhv.1883.

(3).Tức Lê Văn Phong, em ruột Lê Văn Duyệt. Ông được Gia Long phong chức Hiệp Tổng trấn Bắc Thành, cùng Lê Tông Chất quản lãnh Bắc Thành đến đầu thời Minh Mệnh.

(4).Tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở (1754-?): người xã Hương Triện, huyện Gia Định, nay là xã Nhân Thắng, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Đậu Hoàng Giáp khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787), sau làm quan với triều Tây Sơn đến chức Lại bộ Tả thị lang, tước Gia Đình hầu.

Phan Huy Chú (1782-1840): tác giả Lịch triều hiến chương loại chí.

Ngô Du (tức Ngô Thời Du 1772 - ?): là người tham gia viết Hoàng Lê nhất thống chí. Làm quan triều Nguyễn đến Đốc học Hải Dương.

Đoàn Hồng Nguyên, Đỗ Huy Ngạc: chưa rõ tiểu sử.

(5).Tức Lê Tông Chất, nguyên hàng tướng Tây Sơn, giữ chức Tổng trấn Bắc Thành từ sau khi Tổng trấn Lê Văn Thành chết cho đến đầu thời Minh Mệnh.

(6). Nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương.

(7). Nay thuộc khu vực phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

(8). Phạm Thích: tức Phạm Quý Thích (1759-1825), người xã Hoa Đường, huyện Đường An, nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1799), niên hiệu Cảnh Hưng. Làm quan triều Gia Long đến chức Thị Trung học sĩ.

(9).Tức Gia Long Nguyễn Ánh.

TB

BẮC ĐỊA TẤU TỪ - LỜI TÂU VỀ ĐẤT BẮC CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI KHAI KHẨN ĐẤT ĐIỆN BÀN (QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG) DƯỚI THỜI LÊ SƠ

HUỲNH CÔNG BÁ

Trong quá trình đi điền dã sưu tầm tư liệu Hán Nôm ở làng Uất Lũy, huyện Điện Bàn (Quảng Nam - Đà Nẵng), chúng tôi tìm được một văn bản mang tên là “Bắc địa tấu từ”, có thể dịch là “Lời tâu về đất Bắc” (của những người đi khai khẩn đất Điện Bàn thời Lê sơ). Văn bản gồm 8 tờ khổ 28 x 24 cm, thuộc loại giấy “long chỉ”, là văn bản Hán có thêm vài chữ Nôm. Những trang nhiều chữ có 12 dòng, mỗi dòng 25 chữ. Bút viết là cọ tre nên nét chữ thô cứng, có phần giống nét chữ khắc trên đồng. Lối chữ bè theo chiều ngang và có xu hướng uốn cong lên theo hai đầu, lõm ở giữa, hơi ngoằn ngoèo, từa tựa lối chữ “bùa chú” của nhà chùa (Mật tông). Nền giấy in hình rồng, mây điểm chữ “thọ” và viền “khung triện”. Ngoài bản “long chỉ”, chúng tôi còn tìm được hai bản giấy thường chữ viết cọ tre, kiểu chữ nghiêng xuống về bên phải, nét chữ thô cứng, gãy góc theo lối hình học, nội dung không đầy đủ bằng bản “long chỉ” (nhưng trong đó có ghi thêm vị Nguyễn Công Lưu). Có lẽ đây là hai bản “tiền thân” của bản “long chỉ” nhưng được viết cách nhau không lâu.

Qua khảo sát văn bản cho thấy đây là những bản văn ra đời trong những năm 30 của thế kỷ XIX dưới triều Minh Mệnh (sau năm 1830 và trước năm 1841), nhưng nội dung chính của nó là được chép lại từ một văn bản (Tấu từ Thuận ước) lập thời Lê sơ, và có khả năng là dưới triều Hồng Đức (Lê Thánh Tông) và ở bản sao lại này có được bổ sung những địa danh mới xuất hiện vào thời Minh Mệnh thứ 12 (1831). Nội dung Bắc địa tấu từ (bản “long chỉ”) gồm 3 phần chính: I- Bắc địa tấu từ; II- Tông đồ hội tánh; và III - Thuận ước giáp tịch, trong đó phần Tông đồ hội tánh, về nguồn tư liệu gốc, có lẽ được bổ sung sau thời Hồng Đức. Toàn văn Bắc địa tấu từ (bản “long chỉ”) do hai người chép tạo thành hai nửa văn bản có nét chữ khác nhau: phần I khác với phần II, III. Điều này cũng phù hợp với nội dung của văn bản: phần Bắc địa tấu từ bao quát một phạm vi không gian rộng hơn, gần trọn huyện Điện Bàn, còn Tông đồ hội tánh Thuận ước giáp tịch đi vào cụ thể khu vực xã Châu Minh(1). Như vậy phần I là chép lại từ một văn bản chung đang lưu hành trong vùng, có liên quan đến những con người tại địa phương, hoặc đây là một trong số các bản “nhân bản” thuận ước giao cho mỗi làng lưu giữ (như nội dung Bắc địa tấu từ có nói rõ), và sau đó là phần chép về địa phương (phần II, III).

1. Phần Bắc địa tấu từ cho biết lúc bấy giờ có 24 vị thuộc 4 địa phương khác nhau trên đất bắc đã đi vào khai khẩn đất Điện Bàn theo lệnh của nhà vua.:

- Quê Thanh Hóa có 4 vị : Hữu đô thống phủ Công hậu phủ thân hầu phủ đô Đô công Hà Phước Hồ, Tả thống trấn phủ đô Đô khâm sai Đô tướng đốc sứ Hùng doanh trấn đô công Nguyễn Công Lưu, ông Ngô Hưng Khả, ông Huỳnh Vĩnh Nghiêm.

- Quê Hà Tĩnh có 3 vị: Trần Công Quân, Thân Văn Thống và Nguyễn Văn Chánh.

- Quê Hải Dương có 5 vị: Đỗ Như Hiển, Đoàn Thế Thân, Đinh Hựu Trân, Trịnh Hồ Xuyên, và Mai Quý Phô.

- Quê Cao Bằng (Bình) có 12 vị: Tả đô thống trấn phủ Đô thân hầu phủ đô thống Đô tướng công Phan Thanh Hà, ông Huỳnh Tiên Công, ông Tào Công Hảo, ông Đề Thắng Diệu, ông Hồ Đức Câu, ông Hà Ngọc Khánh, ông Hà Đức Hạt, ông Nguyễn Đình Hà, ông Mạc Văn Xảo, ông Tống Minh Hùng, ông Lê Thượng Nhứt, và ông Hà Văn Thụ.

Ngoài ra còn có 15 người vợ của các ông đi cùng.

Về kết quả khai khẩn văn bản viết:

“Cộng nhị thập tứ nhân (...) đồng hành nhập tại (...) Trấn Nam doanh, khai hiện cửu xã hiệu, hựu thất xã hiệu: Phong Đại xã nhất hiệu, Phong trung xã nhị hiệu, Ngọc Hoa xã tam hiệu, Châu Minh xã tứ hiệu, Phong niên xã ngũ hiệu, Khả Phong xã lục hiệu. Phụ tòng nhất bách thập nhất xã hiệu: Hạ Nông xã hiệu, Câu An xã hiệu, Câu Nhơn xã hiệu, Mỹ á xã hiệu, Đại Cuộc tam châu, Đông Phố xã hiệu, Quảng Hậu xã hiệu, Quảng Sa xã hiệu, Quảng Ninh xã hiệu, La Đức xã hiệu, Quảng Tuế (?) xã hiệu, Liên Giang xã hiệu. Cộng nhất bách thập bát hiệu. Điền địa nhất bách ngũ thập nhị khoảnh. Phân định xã hiệu: Nhất hiệu ngũ khoảnh, Nhị hiệu tứ khoảnh, Tam hiệu tam khoảnh, Tứ hiệu tam khoảnh, Ngũ hiệu tam khoảnh, Lục hiệu lục khoảnh. Cộng nhị thập tứ khoảnh. Tồn nhất bách nhị thập bát khoảnh phân bình nhất bách thập nhị xã hiệu đồng canh nhất thiên bát bách mẫu lĩnh. Lịch lập đào giang phóng thủy, khai lâm cấm. Dĩ khai phá tứ đình thiết đẳng hội tế (...) Dĩ ư thuận ước, mỗi xã đồng nhất bản kỷ chỉ hiệp giao ...

Bách đội đại Vĩnh vĩnh lưu truyền tác chỉ hiệp giao giáp tịch.

Tư tấu !

Lê triều ất Hợi niên ngũ nguyệt thập nhị nhật.

(...) Tứ tỉnh Bắc nhập tại thổ quốc nhân cộng nhị thập tứ nhân đồng hiệu chiếu ký chỉ phụng lập (...).

Phụng thừa sao viễn viễn tôn thập lục thế tôn Hà Phước Hanh (?) ...”

Dịch nghĩa:

“Tổng cộng gồm có 24 người (...) cùng đến (...) dinh Trấn Nam, và hiện tại đã khai phá được 9 tên, lại thêm 7 tên: Phong Đại, Phong Trung, Ngọc Hoa, Châu Minh, Phong Niên, Khả Phong ... Cùng trong vùng có thêm 111 tên khác là: Hạ Nông, Câu An, Câu Nhơn, Mỹ á, Đại Cuộc (3 châu). Đông Phổ, Quảng Hậu, Quảng Sa, Quảng Ninh, La Đức, Quảng Tuế (?), Liên Giang v.v., cộng tất cả là 118 tên. Ruộng đất cả vùng gồm 152 khoảnh. Việc phân chia ruộng đất trong 6 tên (vùng trung tâm Điện Bàn) như sau: Phong Đại 5 khoảnh, Phong Trung 4 khoảnh, Ngọc Hoa 3 khoảnh, Châu Minh 3 khoảnh, Phong Niên 3 khoảnh, Khả Phong 6 khoảnh, cộng tất cả là 24 khoảnh. Còn 128 khoảnh kia phân cho 120 tên khác cầy cấy, gồm 1800 mẫu lẻ. Sau đó lập tức chúng tôi ra sức đốn chặt cây rậm, mở đường sông dẫn nước. Trên vùng đất đã khai phá, chúng tôi lập ra 4 ngôi đình dùng để sinh hoạt hội hè, tế lễ. Dựa vào những điều quy ước đã được chấp thuận, chúng tôi lập ra một bản thuận ước, ký chỉ đầy đủ và giao cho mỗi xã giữ một bản ...

Mong đời đời mãi mãi truyền giữ những điều hiệp giao ký chỉ này.

Nay tâu !

Triều Lê năm ất Hợi (1455), ngày 12 tháng 5.

Số người từ 4 tỉnh phía Bắc di cư vào địa phương này là 24 người cùng lập giấy và ký chỉ ...

Người cháu đời thứ 16 là Hà Phước Hanh (?) vâng lệnh sao lục...”

2. Phần Tông đồ hội tánh chép khái lược tông đồ phổ hệ tiên tổ sinh hạ của các ông Hà Phước Hồ, Nguyễn Văn Chánh, Mạc Văn Xảo, Huỳnh Tiên Công, Huỳnh Vĩnh Nghiêm , Trần Công Quân và Đoàn Thế Thân. Có lẽ ở đây người ta chỉ chép tông đồ những vị (tộc) còn con cháu lưu hạ tại xã Châu Minh. Phần này chiếm 2 tờ, nhưng chỉ có tên người nên xin không trích dẫn.

3. Phần Thuận ước giáp tịch chép nội dung thuận ước thừa nhận chung của xã trưởng và đại diện nhân dân trong xã Châu Minh, trong đó có đoạn viết “Tam danh lập xã hiệu Châu Minh xã địa bộ” là Tào Công Minh, Ngô Hưng Lạp (?) và Nguyễn Phước Trung và ở đoạn cuối văn bản chép:

“Lê Thánh Tông Quý Hợi niên, Nguyễn Phước Trung, Tào Công Minh, Hà Phước Dương, Hà Ngọc Cách, Đoàn Thế Đàm, Đỗ Như Ân, Hà Đức Kê, bát nhân khai địa, lập đình sở (...). Điền địa tam khoảnh lập đồng canh, lập tự điền, ước bách mẫu linh. Định xã hiệu, khai điền kiến bộ, đạc vi bạn, lập đào giang phóng thủy, kiến lập đề bạn hạn, lệ tịch định, lập thuận ước. Nguyễn Phước Trung, xã trưởng Đàm, chấp tịch Dương, lãnh công Cách, giáp sai Kế tác chỉ giáp tịch.

Tào Công Minh điểm chỉ.

Ngô Hưng Lạp (?) điểm chỉ.

Nguyễn Phước Trung điểm chỉ.

Chấp tịch Hà Phước Dương điểm chỉ.

Hà Ngọc Cách điểm chỉ.

Xã trưởng Đoàn Thế Đàm điểm chỉ.

Đầu sự Đỗ Như Ân điểm chỉ.

Giáp sai Hà Đức Kế điểm chỉ.

Thuận ước giáp tịch”

Xin dịch đoạn đầu:

“Lê Thánh Tông, năm Quý Hợi(2). Chúng tôi gồm: Nguyễn Phước Trung, Tào Công Minh, Hà Phước Dương, Hà Ngọc Cách, Đoàn Thế Đàm, Đỗ Như Ân, Hà Đức Kế, (Ngô Hưng Lạp) cả thảy 8 người cùng tham gia khẩn đất, lập đình sở (...). Đất đai khai phá được cả thảy là 3 khoảnh dùng để canh tác và đặt ruộng thờ cúng, có tất cả khoảng 100 mẫu lẻ. Chúng tôi cùng đặt ra tên (Châu Minh), kê khai ruộng đất lập địa bạ, đo đạc bờ bạn, đào sông dẫn nước, dựng đặt mốc giới, định điều lệ ghi vào sổ sách, lập ra quy ước. Trong đó Nguyễn Phước Trung, xã trưởng Đàm, Chấp tịch Dương, Lãnh công Cách và Giáp sai Kế cùng đứng ra lập văn bản thuận ước này”. (Đoạn sau là phần ký và điểm chỉ của 8 ông: Tào Công Minh, Ngô Hưng Lạp (?), Nguyễn Phước Trung, Hà Phước Dương, Hà Ngọc Cách, Đoàn Thế Đàm, Đỗ Như Ân, Hà Đức Kế (3) ).

*
**

Qua nội dung cho thấy Bắc địa tấu từ vốn là những điều thuận định kê khai, phúc trình của những người đi khai phá đất Điện Bàn và xã Châu Minh thời Lê để gửi lên chính quyền cấp trên, đồng thời cũng là những điều thuận ước xác nhận, kể rõ các việc đã làm của những người Việt tiền phong trên vùng đất này hồi đầu thế kỷ XV, về sau nó đã trở thành tư liệu lịch sử, lịch sử lập làng, trở thành “hành trạng” của các vị Tiền hiền khai khẩn tại địa phương, trở thành “thần tích” ở đình. Theo ghi chú dặn dò được chép trong văn bản có nói là phải “niêm trong bọc ngoài” cẩn thận (bì niêm ngoại bao) và “từ nay về sau không được mở xem cái bì trong” (tự hậu bất khả khán bì trong)(4). Chính nhờ tính chất “Thần bí” này mà Bắc địa tấu từ đã được giữ gìn cẩn thận, trải qua bao năm chiến tranh, và ngày nay chúng ta có được một tư liệu để nghiên cứu về lịch sử khai khẩn Quảng nam, về tổ chức làng xã ở miền Trung ngày trước, về tín ngưỡng Tiền hiền ở vùng đất phương Nam v.v.

26/9/96
Người biên tập: Mai Xuân Hải

CHÚ THÍCH

(1). Trong Ô Châu cận lục (1553), Dương Văn An có chép một tên xã ở huyện Điện bàn là xã Minh Châu.

(2). Có lẽ là năm Kỷ Hợi (1479), vì dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông không có năm Quý Hợi.

(3). Đối chiếu với “Tông đồ hội tánh”, các ông này là con cháu của các ông có tên chép ở phần I.

(4). Trong văn bản có 3 chữ “Cái bì trong” được viết bằng chữ Nôm: ***.

TB

HAI BÀI THƠ KHẮC TRÊN BIỂN GỖ
MỚI PHÁT HIỆN

HOÀNG LÊ

Trong một dịp đi điền dã để sưu tầm tư liệu Hán Nôm vào năm 1996, chúng tôi đã phát hiện hai bài thơ khắc trên biển gỗ dưới đây, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo:

* Bài thứ nhất: Lạc Lâm tự thi .

Đây là một bài thơ Nôm thất ngôn bát cú, được khắc chân phương trên biển gỗ 80x50cm, biển gỗ có chạm viền quanh hình rồng mây và sơn then. Nội dung bài thơ đó như sau:

Mang vui thiên phúc cảnh thiên thành,
Ngoạn thưởng âu ca thích tính tình.
Thản thản nhân cơ trông vợi vợi,
Dồn dồn đạo ngạn bước thênh thênh.
Trời xuân vằng vặc hoa cài cửa,
Gió thuỵ hiu hiu nguyệt đãi mành.
Công quả tĩnh phương buồm thuận tới,
Tiệc vày ngâm ngợi khúc thăng bình.

Ở góc trái biển gỗ có dòng chữ Ngự đề và năm tháng cụ thể: Ngày 17 tháng 7 Niên hiệu Vĩnh Thịnh 13 (1717). Như vậy bài thơ trên làm cách đây đã 279 năm. Nhưng tác giả là ai? Hai chữ "Ngự đề" chỉ cho ta biết chung chung là của một vị "Vua" hoặc "Chúa" nào đó. Thế thì bài thơ trên là của vua Lê hay là của chúa Trịnh ? Các chúa Trịnh cũng hay làm thơ và cũng dùng 2 chữ "Ngự đề". May sao, khi đọc tấm bia đá gắn ở tường bên trái chù thì nghi vấn trên đã được giải đáp. Bia này được tạo dựng vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nội dung bia có cho biết chùa Lạc Lâm ở Kẻ So (nay thuộc xã Tân Hòa, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) được xây dựng khá sớm trước cả thời Lý (không nói cụ thể) và thuở ấy có người phương Bắc tới đây thấy có Chùa, cây cối rậm rạp, chim chóc ríu rít, lòng càng mến mộ, lại nhìn thấy nhiều lớp nhà dựng ven sườn núi, bấy giờ mới chợt hiểu vì sao chùa lại có tên là "Lạc Lâm". Bia cho hay, vào thời Lê nhà Vua đã nhiều lần tới vãn cảnh chùa và có làm thơ Nôm ca ngợi... Nếu đúng như vậy thì tác giả bài thơ trên là vua Lê Dụ Tông (1705-1729).

* Bài thơ thứ hai: Thư bút đặc tứ , cũng khắc trên biển gỗ có kích thước 75 x 45 cm. Đây là bài thơ chữ Hán làm theo thể Đường luật, chữ chân phương, có ghi niên hiệu Cảnh Hưng 26 (1765). Tấm biển gỗ này là của nhà vua đặc ân ban cho vị quan Nguyễn Sĩ Trung khi ông này về trí sĩ tại quê nhà là xã Sa Long (nay là thôn Hoàng Long), xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Nguyễn Sĩ Trung tước Triệu Nghĩa hầu, nguyên giữ chức Phụng sai đầu thú xứ Nghệ An. Trước đó, ông làm Quản đội Đội Hãn Chữ, kiêm chức Đốc thu Thị cận Thị nội giám Tổng Thái giám Hữu Hiệu điểm, được thăng Đô Đốc đồng tri ở Phủ Đô đốc, gia trưởng lên chức Đô Hiệu điểm(1). Như vậy bài thơ chữ Hán này là của vua Lê Hiển Tông (1740-1786) ban cho Nguyễn Sĩ Trung lúc trí sĩ:

Phiên âm:

Phục lao vu ngoại hứa đa niên,
Hoàn cục như kim lạc cẩm tuyền.
Sĩ hải ba đào khinh nhất trạo,
Thắng ân vũ lộ đính trùng thiên
Nam châu thảo mộc lưu dư khánh,
Bắc dã y quan xỉ thắng diên.
Cự tiếp trường xuyên do hệ vọng,
Vị ưng quắc thước lão lâm tuyền.

Dịch nghĩa:

Gánh vác công việc bên ngoài đã bao nhiêu năm,
Đến nay công việc đã hoàn thành, vui mặc áo gấm về làng.
Trong bể hoạn(2) đầy sóng gió, một mái chèo vẫn nhẹ bơi,
Ơn vua tựa mưa móc đội trên mấy tầng trời.
Cây cỏ châu Nam(3) còn lưu phúc lành của ông,
Đất Bắc cân đai(4) được nhiều buổi tiệc linh đình.
Sông rộng sóng to còn đang trông chờ tay lái vững(5)
Chớ nên bỏ phí tuổi già quắc thước ở nơi khe suối rừng cây.

Tiếc thay bài thơ của vua ban ngày trước đã từng làm vinh hạnh cho dòng họ Nguyễn Sĩ và cho cả Tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm ấy, nay không còn được trân trọng treo cao ở Từ đường nữa, mà đã đem làm mặt sau của tủ chè (!), do đó mà 4 chữ "Thư bút đặc tứ" bị bào mất một phần chữ, tuy rằng vẫn còn đọc được.

CHÚ THÍCH

(1) Theo lời tự thuật của Nguyễn Sĩ Trung trong một bài bảo huấn minh.

(2) Chỉ việc làm quan gian nan như đi trên biển đầy sóng to gió lớn.

(3) Chỉ đất miền trung từ Nghệ An trở vào, nơi ông đã nhiều năm làm việc.

(4) Chỉ giới hạn quan lại.

(5) Dịch thoát chữ "Cự tiếp". Lấy tích vua Cao Tông nhà Ân khen Phó Duyệt như người cầm lái cầm chèo giỏi khi vượt sông lớn. Ở đây vừa khen vừa tỏ ý luyến tiếc.

TB

HỌ ĐẶNG LÀNG LƯƠNG XÁ

TRƯƠNG SĨ HÙNG

Một địa danh từng sản sinh ra nhiều tên tuổi được đánh giá cao dưới ngòi bút Phan Huy Chú, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí: "Ở làng Lương Xá có nhà dòng dõi làm tướng, đời đời làm quan (...). Họ Đặng từ Nghĩa quốc công Đặng Huấn là công thần thời Lê trung hưng, có con gái lấy An vương Trịnh Tùng, sinh ra Văn tổ Trịnh Tráng. Về sau con cái đời đời vẻ vang, được phong là quận công, lấy công chúa và nhiều người làm chức trấn thủ, hơn 200 năm giàu sang mãi mãi".

Lương Xá nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Câu ca nổi tiếng thời cổ cũng gắn tính tộc con người với tên núi tên sông, dường như kế tục truyến thống "trong họ ngoài làng" của cư dân Việt:

"Bao giờ núi Chúc hết cây
Vực Ninh hết nước Đặng này hết quan".

Nằm trong toàn cảnh của cảnh quang vùng kế cận trung du và đồng bằng, Lương Xá nghiễm nhiên được ân hưởng sự giàu có hào phóng của thiên nhiên. Sân siu biên giới cấp xã, cách nhau khoảng dăm ba cây số, ba quả núi đất đá non, già lẫn lộn lan toả đến Lương Xá như sự hỗ trợ thường xuyên sinh lực cho hệ sinh thái môi trường. Núi Tượng "đột nhiên mọc ra ở nơi đồng bằng, hình thế tôn nghiêm, đứng đối ngạn với các núi ở huyện Hoài An, phong cảnh ở đây cũng là một chỗ đáng thưởng thức". Núi Ninh "trông xuống sông Hát, phong cảnh âm u thanh nhã. Đời trước Hy Tổ Trịnh Cương làm hành cung ở trên núi để làm chỗ đến chơi". Núi Chúc "có ngọn núi tròn nổi lên, xung quanh có nhiều rừng vây bọc. Đứng trên đỉnh núi trông ra bốn bên phong cảnh thoán".

Dấu ấn lịch sử văn hoá Việt Nam thu đậm ở một vùng quê như vậy, soi vào làng Lương Xá, với công thần võ tướng, khiến các thế hệ đời sau không thể không biết đến. Song bất cứ ở đâu con người có bắt đầu xây dựng cuộc sống thì mới có văn hoá. Câu chuyện về làng Lương Xá cũng vậy. Họ Đặng đã viết những trang sử vẻ vang làm rạng rỡ diện mạo văn hóa làng.

Trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có bộ Đặng gia phả ký(1), gồm hai phần: phần đầu là Đặng gia phả hệ toản chính thực lục của Đặng Tiến Đông, và phần sau là phần phụ lục Đặng Trần gia phả ký nói đến nguồn gốc họ Đặng "vốn là họ Trần đổi ra họ Đặng", lúc đầu còn giữ lại là Đặng Trần, các đời thế thứ về sau mới đệm lót khác đi. Dòng họ Đặng này rất nổi tiếng, từ Đặng Huấn trở đi, cho đến nay như Đặng Xuân Khu, Đặng Thai Mai, khi các chi họ đã "phụng mệnh quốc gia" mà tỏa đi khắp các miền đất nước, đáp ứng nhu cầu lịch sử dân tộc đặt ra hơn 400 năm qua.

Đặng Huấn - tước quan binh Khổng lý bá nhà Mạc. Năm 1549, ông cùng với Lê Bá Ly quy thuận nhà Lê (Lê Trung Tông, niên hiệu Thiệu Bình 1).

Tước Khổng Lý bá của Đặng Huấn là do Lê Bá Hy phong cho cháu rể, ghi nhận ngày chính thức đăng ngạch đánh Mạc phù Lê. Sách Đại Việt thông sử chép: "Khổng Lý bá Đặng Huấn người Lương Xá huyện Chương Đức cũng theo (Lê Bá Ly) vào bái yết Thái sư ở cửa quân. Thái sư mới nhìn thấy đã cho là giỏi, lập tức dâng biểu xin thăng là Khổng lý hầu". Phan Huy Chú điểm xuyết hành trạng của Đặng Huấn: "Năm Chính Trị thứ ba (1560) Lượng quốc công đem quân ra đóng ở Lãm Sơn, Mạc Kính Điển đóng đồn ở Vũ Ninh cùng với quan quân đổi nhau. Ông nhân thuận tiện sang sông, đi đường tắt tiến đánh bị thua, dưới cờ chỉ còn vài trăm người, bèn thu tàn quân về nghỉ ở Cao Bằng. Lúc bị giặc vây bốn phía ông ra lệnh cho bản bộ không được động xằng, dòm lúc giặc trễ nải, ruổi binh thẳng xuống, nhất tề cố đánh vượt ra khỏi vòng vây, rồi đến được chỗ đại quân đóng ở Lãm Sơn, được Thái Sư khen ngợi, rồi ít lâu thăng tước Nghĩa quận công". Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 1583, niên hiệu Quang Hưng 6. Nhà nước đương thời truy tặng Nam quân Hữu đô đốc chưởng phủ sự, Thái uý Nghĩa quận công, thuỵ là Cương Chính.

Trong các con của Đặng Huấn, sử cổ nhắc đến hai người. Một con gái là vợ Trịnh Tùng. Một người con trai là Đặng Tiến Vinh, cũng có công với vua Lê, được phong quận công.

Con của Đặng Tiến Vinh làm nên sự nghiệp có hai người, đó là Đặng Thế Tài và Đặng Thế Khoa đều có tài lược, ngôi kiêm cả tướng văn tướng võ. Doanh quận công Đặng Thế Tài lấy con gái Hoàng tộc rồi về làm quan trấn thủ Sơn Tây, truyền di duệ đến ngày nay. Còn Đặng Thế Khoa, văn võ đều có phần hơn, được cậu là Trịnh Tráng yêu quý, trải các chức tước quan võ rồi làm quan văn. Vua phong là Liêm quận công. Ông mất tháng 2 năm 1636, thọ 64 tuổi.

Trở lại chi họ của Đặng Thế Tài, hiện còn tài liệu cho biết ông có người con trai là Đặng Tiến Thự, được phong tước Yên quận công năm 1644, được ban tên là Trịnh Liễu từ lúc 15 tuổi. Vợ ông là chị gái chúa Trịnh Căn. Năm 30 tuổi, với chức Thái phó, Trịnh Liễu nhận chức Trấn thủ Nghệ An được 24 năm. Ông mất năm 1696 thọ 68 tuổi.

Chị họ Đặng ở dải đất Hoan Châu này càng về dau càng xuất hiện nhiều anh tài. Sẽ còn nhiều lý thú khi có điều kiện đi sâu vào chi họ Đặng cứ lan toả theo lẽ tự nhiên từ Nghệ An trở vào Thuận Quảng. Khoảng ba trăm năm của thế kỷ XVIII, XIX và XX, hàng loạt tên tuổi của chi họ này đã góp phần làm vẻ vang cả đất nước. Đặng Huy Trứ (1826-1874) trọn đời "lo trả nợ nhân dân", thể hiện đóng góp ở các lĩnh vực kinh tế, quân sự và văn hoá. Đặng Hữu Phổ (? - 1885) chiêu binh theo cờ khởi nghĩa Cần Vương "Nhất sinh trung hiếu khuất nhi thân" (Trọn đời một niềm tin trung hiếu, kể cả lúc khó khăn gấp khúc cũng như lúc thảnh thơi). Đặng Nguyên Cẩn (1866-1923) viết về ông:

Hồi thủ hà sơn bách cảm tinh,
Kỷ nhân Đông độ kỷ Nam hành

Tạm dịch:

Nhìn non nước ngổn ngang trăm mối,
Đi Đông Kinh, Nam tiến biết bao người.

Đặng Tử Kính (?-1928) in dấu chân ở Nhật, ở Xiêm, ở Trung Quốc. Khi nghe tiếng bom Sa Điện báo hiệu một trang sử mới đã bắt đầu trong lịch sử Việt Nam, ông viết bài Kính dâng hương hồn liệt sĩ Phạm Hồng Thái, với những câu như:

Hồn Liệt sĩ ù ù gió quạt,
Dạ anh hùng tím ngắt lá gan.
Nhớ xưa người ở Nghệ An
v.v..

Và mới hôm qua thôi, Giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984), nhạc phụ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp "lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu", thời trai trẻ trải lao tù đã viết:

Đời còn ta, ta há lẽ quên đời,
Quản chi thác ngược ghềnh xuôi,
Mài gan mà trọi với trời một phen.

Trong 17 người con của Đặng Tiến Thự sinh trưởng từ Nghệ An, chỉ có 3 người nổi tiếng: Đặng Tiến Luân, Đặng Đình Sở và Đặng Đình Tướng.

Từ chi Đặng Đình Tướng, bản thân ông cùng các con và cháu ông sẽ mở rộng địa bàn sinh tụ khai khẩn đất hoang ở ven viển cửa sông Hồng, thời ấy thuộc trấn Sơn Nam hạ, nay vẫn còn vết tích ở tỉnh Nam Hà và Thái Bình.

Đặng Đình Tướng 21 tuổi đỗ Giải nguyên, 22 tuổi đỗ Tiến sĩ. Năm 49 tuổi, ông được cử làm phó sứ trong Sứ bộ sang Trung Quốc năm Chính Hoà 18 (1697). Ông có soạn Chúc Ông phụng sứ tập Thuật cổ quy huấn lục.

Ông mất vào tháng giêng năm 1735, hưởng thọ 87 tuổi, "truy phong phúc thần" và "chúa cho đất để an táng".

Con ông là Đặng Đình Giám từng lần lượt làm Đốc phủ Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc và được phong Đồng quận công.

Như vậy, cuối thế kỷ XVII từ Đặng Đình Tướng đến con ông Đặng Đình Giám đã từng trấn thủ Sơn Nam hạ. Dù đã có chính thất là quận chúa, nhưng con cháu của các bà thứ thất trải nhiều thời, còn lại dòng họ Đặng ở Sơn Nam và đã có lúc là nơi nương thân của Đặng Trần Thường (1759-1816) khi chưa chính thức vào Nam theo Nguyễn Ánh. Đặng Hữu Quý (1889-1916) với nhiệt thành yêu nước đã xuất dương du học rồi tham gia Việt Nam quang phục hội của chí sĩ Phan Bội Châu. Đặng Xuân Bảng (1828-1910) là nhà văn hoá nổi tiếng, Đặng Xuân Viện (1880-1958) từng tham gia biên soạn sách Minh đô sử và còn để lại 5 tập sách nghiên cứu văn sử Việt Nam. Con của ông là nhà cách mạng quá cố Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) (1907-1988) đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam như chúng ta đều biết.

Ở làng Lương Xá ngày nay, trước chùa Thủy Lâm còn tấm bia đá Tông đức thế tự bi, khắc ngày 16 tháng 6 âm lịch (1797). Văn bia do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm sửa chữa, góp ý đều là người đồng thời với Đặng Tiến Đông. Ở tấm bia này, Đặng Tiến Đông được gọi là "Quan đô", chỉ chức Đô đốc đồng tri do vua Quang Trung phong cho ông.

Sách Đặng khoa lục sưu giảng viết về họ Đặng kể câu chuyện dân gian theo thuyết phong thuỷ của Tả Ao. Ngoài lớp sương mù của người đời thêu dệt, có chi tiết tả phong cảnh Lương Xá xưa: "Làng ấy có một cánh đầm, nước bốn mà không cạn, những người cày cấy đi qua phải dùng thuyền. Giữa đầm có một cái gò lớn. Những người đi làm phải tụ tập nghỉ ngơi, ăn uống ở đấy". Ở đấy, truyền thuyết nói là ngôi mộ bà tổ mẫu họ Đặng "do trời táng cho đất ấy" và "mối đùn một ngôi mộ". Phần lớn ao hộ "cánh đầm" ấy trải gần 400 năm với bàn tay "dời non lấp biển" của con người đã trở thành đồng lúa, ruộng màu, đường làng, ngõ xóm sầm uất đông vui.

Ở từ đường họ hiện còn một số di vật lịch sử thời Đặng Tiến Đông. Một đôi câu đối khá rõ nét điển hình cho những danh nhân của một tính tộc:

Cự Mạc phù Lê, công tại hoàng gia danh tại sử,
Quy tiền dụ hậu, sinh vi lương tướng tử vi thần.

Lương xá hôm nay đang hòa mình cùng toàn dân xã Nam Điền xây dựng quê hương giàu đẹp theo cơ chế mới xã hội chủ nghĩa. Hà Tây trong lòng Tổ Quốc Việt Nam tự hào có một làng văn hiến sớm có những người con trung hiếu với quê hương đất nước.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Nxb, KHXH, 1993, Tập 1, tr.547, mục 949. Đặng gia phả ký.

TB

LIỆT NỮ Ở AN ẤP LÀ NGƯỜI NÀO?

HOÀNG HỮU YÊN

Theo truyện An Ấp liệt nữ trong Truyền Kỳ tân phả(1), vào thời Vĩnh Thịnh (1705-1719) đời Lê Dụ Tông có vị Tiến sĩ trẻ tên là Đinh Hoàn, hiệu Mặc Trai, người làng An Ấp, tỉnh Nghệ An(2), cha mẹ mất sớm, ít anh em. Lớn lên, lập gia thất nhưng bà vợ đầu cứ sinh luôn con gái, nên ông lấy con gái Hà quan, họ Nguyễn làm vợ thiếp. Bà này nghi dung nhàn nhã, năn nói đoan trang, thêu thùa, khâu vá rất lành nghề, lại có tài văn thơ nổi tiếng. Khi về nhà chồng tự sửa mình nghiêm chỉnh, rất có lễ độ với chồng. Đinh Hoàn vừa yêu, vừa kính trọng. Nhiều khi ở triều về, rảnh việc ông cùng bà xướng họa thơ văn rất tương đắc. Các bài xướng họa đã chép lại ở tập Quan thư hòa minh...

Đến năm Ất Mùi (1715), ông được triều đình cử làm Chánh sứ đi triều cống nhà Thanh tại Yên Kinh (tức Bắc Kinh). Biết được tin này, bà tỏ nỗi băn khoăn, lo âu cho chồng phải trèo đèo lội suối, lên thác xuống ghềnh, gội gió tắm mưa, xông pha vào nơi giá lạnh đất khách quê người. Đến ngày đăng trình, sau khi họa thơ tiễn biệt, ông cởi áo la y tặng vợ làm kỷ niệm.

Quả thật hành trình của sứ bộ phải trải qua vô vàn vất vả gian nan. Vốn sức yếu, Đinh Hoàn nhiễm bệnh dọc đường. Khi đến Yên Kinh, bệnh tình trở nên nguy kịch và ông đã thở hơi thở cuối cùng vào đúng 30 tháng Chạp. Linh cữu vị chánh sứ họ Đinh được đưa về nước. Được tin sét đánh bà mê man bất tỉnh, sau bà gượng dậy làm một bài văn tế chồng rất thống thiết...

Ngày qua tháng lại đến kỳ lễ tiểu đường(3), nhân người nhà bận việc, bà vào buồng riêng, xé chiếc áo la y mà ông tặng bà trước lúc ra đi thắt cổ tự tử.

Việc ấy tâu lên, triều đình cho lập bàn thờ, cho khắc bức đại tự "Trinh liệt phu nhân từ" treo trước đền.

Theo tác giả cuốn sách, liệt nữ người họ Nguyễn, con nhà quan nhưng không rõ tên gì, quê quán ở đâu. Bấy lâu nay, vấn đề đó vẫn còn là một ẩn số!

Trong Nghệ An ký, Bùi Dương Lịch tóm tắt tiểu sử Đinh Nho Hoàn như sau:

"Đinh Nho Hoàn người xã An Ấp, huyện Hương Sơn. Theo Đăng Khoa lục, năm 30 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700), làm đến Hữu thị lang bộ Công, vâng mệnh đi sứ, chết dọc đường, được tặng Tả thị lang bộ Lại. Ông là con Đinh Nho Công. Người thiếp của ông là Phạm Thị (Thuấn)(4) được lệnh vua tinh biểu Tiết phụ(5).

Như vạy, tác giả Nghệ An ký ghi bà tiết phụ này họ Phạm, nhưng không nói rõ quê quán và tên tuổi của bà.

Gần đây, nhân dân đến thăm cụ Đinh Văn Vịnh, hậu duệ của Hoàng Giáp Tả thị lang Đinh Nho Hoàn, hỏi về sự tích của liệt nữ An Ấp, đã được Đoàn Thị Điểm và Bùi Dương Lịch đề cập đến, chúng tôi được cụ Vịnh cho đọc tộc phả họ Đinh Hương Sơn và cung cấp tư liệu sau đây:

Vợ cả Đinh Nho Hoàn, họ Lê huý Vệ, người làng Đông, xã Hữu Bằng, cùng huyện, sinh được ba con gái, thọ 76 tuổi.

Bà Á thất của ông người họ Phan, khác huyện, tuẫn tiết khi chồng mất, thường gọi là bà Tiết phụ.

Tên bà là Phan Thị Viên, người làng Do Lễ, thuộc phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Câu chuyện ông Thị lang họ Đinh gặp bà tại Kinh đô Thăng Long và kết thành vợ chồng có nhiều tình tiết khá ly kỳ.

Số là: Về đời Cảnh Trị (1663-1672) đời Lê Huyền Tông thân phụ quan Thị lang là Tiến sĩ Đinh Nho Công được bổ làm giám sát ngự sử tỉnh Nghệ An. Nhân gặp thiên tai, vâng chiếu nhà vua, ông tra xét ngục tù xem có ai oan uổng không? Lúc ấy trong nhà lao Nghệ An có một ông Thủ bộ họ Phan bị tống giam đã lâu, các quan ở trấn cho là hàng tù không thể tha thứ được! Quan giám sát ngự sử đã xem xét lại thấy bị oan, liễn hạ lệnh tha ngay.

Được thăng chức Thiêm đô(6), ngài lấy ông thủ bộ vào hầu trong nha môn. Sau đó, vợ ông thủ hộ sinh được một gái. Năm con gái lên ba, ông thọ bệnh, biết không sống được, bèn gọi con lại than thở: "Ta đội ơn quan Tham đô họ Đinh xét ngục tha cho như là được sống lại, ơn ấy như bể rộng trời cao, chưa biết khi nào trả được? Con là gái liệu có giúp ta việc gì không?". Nói xong, ông liền nhắm mắt.

Về sau, nhân gặp loạn ly, vợ ông thủ bộ dắt con gái ra Thăng Long, trú ở phường Đồng Xuân. Lúc đó, người con gái lên tuổi trăng tròn, dáng mạo đoan trang nết na, mọi người đều khen ngợi. Ở Kinh thành, các chàng thư sinh, các nhà quyền quý có ý dạm hỏi nàng nhưng bà mẹ chưa chịu gả cho ai. Cũng trong thời gian này, Đinh Nho Hoàn, con quan Thiêm đô đỗ đại khoa, được bổ làm quan ở bộ, ai cũng biết tiếng.

Rồi có một ngày, nhân lúc rảnh việc, quan Hàn lâm họ Đinh(7) tản bộ dọc các phố xá, thấy có một cửa hàng sạch sẽ, ngài rẽ vào nghỉ chân. Bước vào ngài chỉ gặp một bà già tiếp khách. Chợt ngài thấy, chủ nhân sửng sốt, liền hỏi nhỏ mấy lính hầu về hương quán và chức quan của vị khách. Lĩnh hầu cứ thiệt đáp lời. Nghe xong, bà già vừa kinh ngạc vừa mừng hỏi thêm rằng: ngài có phải là con quan Thiêm đô đó không? Lính hầu đáp là đúng.

Tiếp đó, nhân mời ngài dùng trà, bà rón rén thưa rằng: "Mụ già này là vợ ông Thủ bộ tại bản trấn ngài. Lệnh tôn của quy quan đã cứu chồng tôi khỏi chốn lao tù, cũng như đã cứu sống, ơn ấy chồng tôi chưa trả được mà đã qua đời. Chẳng dè ngày nay lại được thấy ngài là con quan Thiêm đô, thật vui mừng khôn xiết! Chúng tôi chỉ có một đứa con gái, khi chồng tôi lâm chung trăn trở về việc chưa trả được ơn sâu, cứ cầm tay con mà than thở mãi! Bây giờ nó đã khôn lớn, nếu được ngài thương đến, tôi xin dâng hầu ngài để thỏa lòng người đã quá cố!". Nói xong, liền gọi con gái ra chào. Sau khi suy nghĩ độ nửa giờ, quan Hàn lâm lên tiếng đáp: "Xưa nay nhân duyên gặp gỡ là do tiền định, ngày nay gặp được người hiền thực cũng là ơn tiên quân tôi để lại". Ông bèn cưới làm vợ thứ.

Khi về nhà chồng, bà đã 16 tuổi, bốn đức công, dung, ngôn, hạnh đều vẹn toàn. Bà lại thông chữ nghĩa, giỏi thơ văn, biết điều ăn lẽ ở nên bà được vợ cả quý mến.

Năm Ất Mùi, đời Vĩnh Thịnh, nhà Lê, quan Thị lang vâng mệnh đi sứ sang nhà Thanh, bà tiễn ngài đến trạm Lữ Côi rồi nói rằng: "Thiếp nghe kẻ đại trượng phu không được làm quan tướng mà được làm quan sứ, lấy miệng lưỡi mà làm yên việc nước cững là điều hay. Xin quân tử giữ lòng trung trinh như các quan sứ tài giỏi thời trước, đừng lấy cớ bịn rịn vợ con mà quan hoài". Bà cất bút viết liền một mạch 10 bài thơ "xin dân ngài xem lúc đi đường cũng coi như thiếp đi theo vậy"(8).

Đáp lại, khi sắp lên đường, Đinh Nho Hoàn liền cởi áo là (la y) đang mặc trong mình tặng bà.

Trở về nhà một đèn một gối, ngủ không thành giấc. Sớm mai, chập tối buồn bã xiết bao! Thường cảm xúc rèn thơ, bà tưởng tượng những chuyện ở ngoài quan ải xa xăm, chép không sao hết.

Nào ngờ, dọc đường sứ bộ phải trải qua nhiều gian nan, vất vả. Quan Chánh sứ họ Đinh lâm bệnh rồi từ trần khi vừa đến Yên Kinh. Vua Thanh cho làm lễ tế điếu và hộ tống đưa di hài về nước. Khi quan tài về đến cửa ải, bà đến tận nơi đón lạy. Đêm đó, về phòng, bà lấy áo là của chồng tặng lúc tiễn biệt thắt cổ tự tận.

Gương tử tiết của bà được quan trấn tâu lên, vua Lê xuống chiếu ban khen, cấp biển vàng "Tiết phụ môn", sức cho bản trấn lập đền thờ sát bên tháp quan Thị lang.

Đời Cảnh Hưng nhà Lê gia phong: Trinh nhất á thận phu nhân.

Triều Nguyễn Gia Long lại gia phong: Lương trinh thục diệu nhân uyển dực bảo trung hưng phúc thần.

Bà tiết phụ họ Phan huý Thị Viên lúc chết theo chồng mới 21 tuổi(9).

Qua các tư liệu kể trên, chúng ta có thể đoán định rằng:

Đoàn Thị Điểm (1705-1748) và Đinh Nho Hoàn (1671-1716) cùng sống dưới thời Lê mạt nhưng cách nhau khoảng một thế hệ. Viết Truyền kỳ tân phả, với cốt truyện An Ấp liệt nữ, tác giả chỉ dựa vào câu chuyện có thật rồi phóng bút dựng chuyện ít nhiều mang tính hư cấu, không nhất thiết bảo đảm tối đa tính chính xác; do đó tên họ và sự diễn biến của một số tình tiết không giống như bản tiểu sử ghi trong tộc phả họ Đinh. Viết Nghệ An ký, do yêu cầu của thể tài, Bùi Dương Lịch chỉ ghi sơ lược về tiểu sử Đinh Nho Hoàn và chỉ nói qua về người tiết phụ, ái thiếp của họ Đinh, nên không ghi rõ tên húy và quê quán.

Tộc phả họ Đinh ở Hương Sơn được viết bằng chữ Hán, nay đã được dịch ra chữ Quốc ngữ hầu như còn giữ được nguyên vẹn. Đó là tư liệu gốc đáng tin cậy. Do vậy, chúng ta có thể kết luận: người lệt nữ ở An Ấp họ Phan huý Thị Ấp Viên vừa là một tiết phụ vừa là một tài nữ. Người liệt nữ An Ấp trong Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ chính là tài nữ Phan Thị Viên.

CHÚ THÍCH

(1) Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm Truyền kỳ tân phả, bản dịch, Nxb. Giáo dục, H. 1962, tr.42-66.

(2) Nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Đinh Hoàn tức là Đinh Nho Hoàn, thuộc họ Đinh Nho, người khai khoa là Đinh Nho Công, thân sinh Đinh Nho Hoàn, đậu Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1672).

(3) Lễ tiểu tường: lễ tang chẵn một năm, cũng gọi là luyện tế.

(4) Phạm Thị (Thuấn): có lẽ họ Bùi viết là Phan do in lầm mà thành Phạm?

Người dịch thêm chữ Thuấn là nhầm. Bà Phan Thị Thuấn (không phải Phạm) là vợ tướng võ Ngô Cảnh Hoàn, trầm mình theo chồng trên sông Thúy, cũng được phong là tiết phụ, không phải là vợ Đinh Nho Hoàn.

(5) Bùi Dương Lịch - Nghệ An ký. Bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.290.

(6) Thiêm đô ngự sử: chức giám quan hàm chánh ngũ phẩm.

(7) Sau khi đậu đại khoa, Đinh Nho Hoàn được giữ chức Hàn lâm hiệu lý tại Kinh đô Thăng Long.

(8) 10 bài thơ này sẽ xin công bố trong dịp khác.

(9) Tài liệu do cụ Đinh Xuân Vịnh cung cấp, chúng tôi tóm tắt và lược ý một vài chỗ.

TB

HAI CUỘC CẢI CÁCH VĂN NGÔN LỚN TRONG LỊCH SỬ VĂN NGÔN TRUNG QUỐC

PHẠM VĂN KHOÁI

Văn ngôn - ngôn ngữ viết dựa trên cơ sở ngôn ngữ của tiếng Hán cổ tồn tại đến những năm đầu thế kỷ XX. Về cơ bản, ngôn ngữ viết này không thuần nhất, nó đã trải qua nhiều lần biến đổi về văn thể(1). Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến hai cuộc cải cách văn ngôn tiến hành vào hai thời điểm rất xa nhau do Hàn Dũ (768-625) và Lương Khải Siêu (1873-1929) đề xướng. Đó là hai cuộc vận động cải cách lớn nhất có ảnh hưởng sâu đậ đến văn ngôn về cả cấu trúc lẫn chức năng, vừa có tác động đến đương thời, vừa có tác động đến hậu thế, vừa có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc, đồng thời lại ảnh hưởng đến văn ngôn ở ngoài biên giới Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.

2. Ngay từ thời Khổng Tử đã xuất hiện nhu cầu xây dựng một ngôn ngữ viết thống nhất với tư cách là công cụ giao tiếp thống nhất giữa các thành viên của đất nước "con trời". Ngôn ngữ viết thống nhất được Khổng Tử gọi là Nhã ngôn 雅 言 (tiền thân của văn ngôn sau này). Đó là ngôn ngữ chung của "thiên hạ", đối lập với các biến thể địa phương, là ngôn ngữ của Kinh Thi, Kinh Thư: "經 書 , 經 詩 ["Tử sở nhã ngôn, Thi Thư, chấp lễ giai nhã ngôn giã. (Luận ngữ. Thuật nhi) = Cái mà Khổng Tử (gọi là) nhã ngôn (ngôn ngữ chung, chuẩn thống nhất) là cách đọc Thi, Thư (Khi chấp hành điển lễ cũng đều dùng nhã ngôn].

Qua ghi chép trong sách Luận ngữ về nhã ngôn 雅 言 ta thấy đó là ngôn ngữ viết, vừa gắn bó trực tiếp với thực tế nói năng của mọi người (Kinh Thi), vừa gắn bó với ngôn ngữ của các văn bản tổ chức nhà nước (Kinh Thư). Các văn bản tiêu biểu cho tiếng Hán cổ như Tả truyện, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trang Tử... trong chừng mực nhất định, chúng đều phản ánh ngôn ngữ nói của giai đoạn này. "Có thể giả thiết rằng những liên hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ở các văn bản này là chắc chắn"(2).

3. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói xảy ra vào những năm đầu công nguyên. Điều này thể hiện ở chỗ: hồi đầu công nguyên đã xuất hiện nhu cầu chú giải các văn bản cổ - trước hết là Kinh Thi, Kinh Thư và sau đó là các văn bản của trường phái Nho gia và các văn bản cổ khác. Phải chú giải các văn bản cổ bởi lẽ ngôn ngữ của chúng đã không được người đương thời hiểu nữa. Thời thế đổi thay tên người, tên đất đổi thay, cách diễn đạt đổi thay từ vựng đổi thay và cả ngữ pháp cũng đổi thay.

4. Đến thế kỷ VI-VII, sự đứt đoạn ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói trở nên rõ rệt. Giai đoạn Thịnh Đường được đánh dấu bằng một loạt những biến đổi to lớn nhằm đẩy nhanh tiến bộ xã hội. Phạm vi những người biết và trực tiếp tham gia xây dựng văn hoá Trung Quốc mở rộng hơn. Trong điều kiện đi lên của xã hội và văn hoá Trung Quốc, ngôn ngữ viết - văn ngôn cũng được đòi hỏi phải cải cách(3). Cuộc cải cách văn ngôn này do Hàn Dũ đề xướng thường được gọi là phong trào Cổ văn. Cũng cần lưu ý rằng ý tưởng cải cách văn ngôn và văn thể không phải được đặt ra từ thời Hàn Dũ, nhưng phải đến Hàn Dũ, những tư tưởng cải cách mới được hiện thực hóa về mọi phương diện: tư tưởng, chủ thuyết và xây dựng trường phái... Cải cách văn ngôn vốn chỉ là một chi nhánh trong một phong trào tư tưởng - chính trị sâu rộng nhằm "sùng Nho, phục cổ", "Phong trào nho học và phong trào cổ văn do Hàn Dũ đề xướng bề ngoài xem ra đều tiến hành với khẩu hiệu "phục cổ" nhưng thực ra không phải hoàn toàn phục cổ mà là có cách tân và sáng tạo trên cơ sở thừa kế truyền thống. Về mặt nho học, phục cổ là chủ yếu, ông vẫn chưa xây dựng được một phái nho học mới; về mặt cải cách văn thể thì cách tân là chính"(4) và những cống hiến chính của Hàn Dũ là cải cách văn ngôn.

Phong trào cổ văn trước hết là một cuộc vận động tư tưởng nhằm chống lại và bài xích các trào lưu triết học độc lập với Nho giáo như Phật giáo, Đạo giáo... "Đạo nhà Chu suy, Khổng Tử mất, sách vở rơi vào ngọn lửa nhà Tần. Thuyết Hoàng Lão thịnh hành vào thời Hán, đạo Phật vào đời Tần, Nguỵ, Lương, Tuỳ. Bởi vậy, kẻ nói tới đạo đức, nhân, nghĩa không rơi vào Lão cũng rơi vào Phật... Vào đạo này thì bỏ qua đạo kia, vào thì tôn nịnh, phụ họa, ra thì chê bai, phỉ báng... Ôi! Người sau muốn nghe đến nhân, nghĩa, đạo, đức thì biết tìm theo ai?"(5). Ông cho mình có thiên chức khôi phục lại địa vị chính tông của Nho gia, xây dựng lại "đạo thống" từ Nghiêu - Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ đến Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử. Muốn làm được điều này, cần phải phổ biến các kinh điển của Nho gia cho sâu rộng. Song Hàn Dũ và các cộng sự của ông lại gặp một nghịch lý là; các kinh điển cổ lại viết bằng một ngôn ngữ đã có từ trước đó hơn chục thế kỷ. Cần phải học tập các kinh điển cổ như thế nào? Cần chấp nhận cả tư tưởng và các phương thức ngôn ngữ biểu đạt của chúng hay chỉ chấp nhận tư tưởng mà thôi?

Hàn Dũ sống ở giai đoạn Phật giáo bành trướng khá mạnh. Hẳn ông đã thấy một lợi khí mà Phật giáo đã sử dụng để tuyên truyền giáo lý. Đó là, các kinh điển của Phật giáo chủ yếu chỉ dịch sang ngôn ngữ nói. Bởi vậy, không đổi mới về ngôn ngữ thì các kinh điển về Nho giáo khó có thể được quảng bá trong số đông quần chúng. Chỉ có đổi mới ngôn ngữ, những tư tưởng của thánh kinh hiền truyện mới đi vào quần chúng, chiếm lĩnh độc giả.

Nguyên tắc của Hàn Dũ đề ra trong việc học tập các kinh điển cổ là "Pháp thánh nhân về tư tưởng nhưng không pháp thánh nhân về ngôn ngữ". Điều này được thể hiện trong một loạt tác phẩm của ông, đặc biệt là trong các bức thư của ông gửi cho bạn bè, đồng chí, học trò. Trong thư gửi cho Lưu Chính Phu ông viết: "Đôi khi người ta hỏi: Ai sẽ là thầy để ta học viết? Cần phải trả lời ngay rằng: "Các vị thánh nhân thời cổ sẽ là thầy". Song khi đó người ta lại hỏi: "Sách vở của thánh nhân ngày xưa vẫn còn được lưu lại, nhưng chúng đều khác với ngôn ngữ bây giờ. Vậy phải làm gì để ngôn ngữ viết được thống nhất? Cần phải trả lời ngay rằng: "Các kinh điển chỉ nam về tư tưởng chứ không chỉ nam về ngôn ngữ"(6).

Ngôn ngữ của thánh nhân thời cổ cần được mô phỏng là ngôn ngữ của các văn bản các triều đại Tiên Tần, Lưỡng Hán. Nhưng theo Hàn Dũ, cần phải giải hóa cái ngôn ngữ cổ ấy trong khi xây dựng một ngôn ngữ viết mới.

Hàn Dũ chủ trương phải học rộng, thầy học không phải chỉ là các kinh điển cổ mà còn là bất kỳ ai nếu ở họ có ý tưởng hay, hợp đạo và có cách diễn đạt có thể chấp nhận được. Luận điểm của ông là "Người ta sinh ra không phải tự nhiên mà biết tất cả mọi điều" bởi vậy cần phải học "Ngay cả các bậc thánh nhân thời xưa vốn hơn người là thế mà họ vẫn phải tìm thầy để học, thế mà chúng nhân đời nay kém thánh nhân đã nhiều nhưng lại hổ thẹn khi học thầy ru?"(7).

Hàn Dũ phê phán "thói lười" và "đố kỵ" của mọi người trong việc học tập (Nguyên hủy); hay ngầm phê phán lối viết kiêng huý đầy phức tạp trong văn viết thời bấy giờ. Chính lối kiêng húy đã cản trở, hạn chế khả năng sáng tạo của người viết, hạn chế sự phát triển tự nhiên của ngôn ngữ. Ông không dám trực tiếp phản đối kỵ húy mà chỉ khéo viện dẫn kinh điển và luật kỵ húy... để phê phán kỵ húy và lạm dụng nó đến mức thái quá.

Những nguyên tắc trên đây về ngôn ngữ đã thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của Hàn Dũ. "Thuyết cải cách văn thể" của ông mới là cái tinh hoa và đã có tác dụng chỉ đạo quan trọng đối với phong trào cổ văn và thực tiễn sáng tác của bản thân ông. Hàn Dũ xây dựng tiêu chuẩn "cổ văn" kiểu mới của ông từ hai mặt từ vựng và ngữ pháp. Một là "cần bỏ những lời nói cũ kỹ" (Thư trả lời Lý Dực), đòi hỏi ngôn ngữ phải mới mẻ; hai là "văn tự phải thuận với chức vụ của nó" (Nam Dương Phàn Thiệu Thuật mộ chí minh), đòi hỏi câu văn phải thỏa đáng và lưu loát(8).

Vậy là ta có thể hiểu thực chất đòi hỏi của Hàn Dũ về một ngôn ngữ viết mới là: loại bỏ một số dạng thức quá cổ vốn có trong các kinh điển và các văn bản Tiên Tần, Lưỡng Hán, xây dựng một ngôn ngữ viết mới có liên hệ với khẩu ngữ để đáp ứng yêu cầu mở rộng phạm vi những người hiểu văn bản. Tác phẩm văn học phải được viết từ những chuỗi tự nhiên của lời nói để ai cũng dễ dàng hiểu được, có vận luật tự do, không gò bó đến mức trói buộc như ở thời Lục Triều.

Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Hàn Dũ đã chỉ ra rằng: Đặc trưng ngôn ngữ trong các tác phẩm của Hàn Dũ có liên quan đến các chủ đề của tác phẩm. Trong số các tác phẩm của Hàn Dũ dễ dàng nhận ra hai phong cách ngôn ngữ - phong cách cao cấp và phong cách bình dân.

Phong cách cao cấp trong các tác phẩm của Hàn Dũ có đặc điểm là: có nhiều hư từ, vốn từ chủ yếu là từ đơn âm, hay xuất hiện sự hoạt dụng của từ loại. Thuộc vào nhóm văn bản có phong cách ngôn ngữ cao cấp như: Nguyên đạo, Nguyên huỷ, Sư thuyết, Tiến học giải... [Người ta thường dẫn câu sau như là biểu hiện đặc trưng cho phong cách ngôn ngữ cao cấp của Hàn Dũ: "人 其, 火 其 書 ,盧 其 居 " (Nhân kỳ nhân, hỏa kỳ thư, lư kỳ cư = Nhất định phải bắt người của chúng (các tăng, hòa thượng, đạo sĩ...) hoàn tục làm dân, đốt kinh Phật, sách Đạo, đem chùa chiền, đạo quán biến thành nơi cho dân ở". Ở đây có một loạt danh từ được dùng như là động từ, như nhân 人, hỏa 火, 盧].

Phong cách bình dân có ít hư từ hơn, từ song tiết xuất hiện nhiều hơn (hơn 30% theo thống kê của V. Ph. Guxarov). Khi biểu thị động tác, ít dùng cách sử dùng sử động của động từ.

Trong nhiều tác phẩm của ông, người ta cũng nhận thấy xu hướng văn xuôi hoá về phong cách. Chẳng hạn như: thơ 7 chữ theo truyền thống hay ngắt ở sau âm tiết thứ tư, nhưng ở thơ của Hàn Dũ hay ngắt ở sau âm tiết thứ ba; trong thư 5 chữ, theo truyền thống hay ngắt ở sau âm tiết thứ hai nhưng ở thơ của Hàn Dũ, dấu ngắt có thể đứng sau âm tiết thứ nhất.

Từ thời Hàn - Ngụy, văn tế phần nhiều phỏng theo văn luật tứ ngôn của Nhã, Tụng trong Kinh Thi hoặc dùng biến thể. Văn tế của Hàn Dũ phá biến thể mà viết theo lối tản văn, không bị trói buộc theo cách luật thông thường. Chẳng hạn như bài Tế Thập Nhị Lang văn đã tạo nên khí thế phi động, phong thái lạ lùng nhờ cách viết trên.

Phong trào cải cách ngôn ngữ viết (phong trào cổ văn) do Hãn Dũ khởi xướng có ý nghĩa xã hội rộng lớn, thu hút được sự chú ý của nhiều người. Người ta đua nhau mô phỏng, bắt chước cách viết của Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên. Người ta coi bài Tiến học giải của Hàn Dũ là tiền thân của một loạt các bài phú sau này như: Tiền Xích Bích phú của Tô Thức, A Phòng cung phú của Đỗ Mục... Nhiều ngữ cú trong các tác phẩm của Hàn Dũ trở thành thành ngữ... "Thắng lợi của phong trào cổ văn lần này không những đã đả kích mạnh mẽ vào văn phong hoa lệ nhu nhược suốt ba trăm năm mà còn trực tiếp mở đường cho phong trào cách tân văn học thời Bắc Tống, tạo nên truyền thống cổ văn trong lịch sử văn học Trung Quốc mà tám nhà văn lớn Trung Quốc là đại biểu"(9).

Hoạt động cải cách ngôn ngữ viết của Hàn Dũ xảy ra đồng thời vào lúc mà ở Trung Quốc đã xuất hiện những văn bản viết bằng khẩu ngữ đương thời (Biến văn, Ngữ lục...). Điều ấy càng chứng tỏ, phong trào cổ văn mà Hàn Dũ là chủ soái, là một hiện tượng tự nhiên, hợp logic trong tiến trình xây dựng một ngôn ngữ viết có liên quan với ngôn ngữ nói, là do nhu cầu tự thân của việc cần phải có một ngôn ngữ viết gắn bó với khẩu ngữ để phản ánh kịp thời mọi diễn biến của cuộc sống, có khả năng diễn đạt tư tưởng của người đương thời một cách trung thành nhất, hữu hiệu nhất.

Do ảnh hưởng sâu rộng của phong trào cổ văn, ngôn ngữ viết thời Tống đã mang nhiều nét mới, song hành tồn tại ba nhóm văn bản viết bằng ba loại ngôn ngữ khác nhau(10). Cần lưu ý rằng các kinh điển cổ của Nho giáo được các nhà triết học thời Tống chú giải, về cơ bản, chú giải được viết bằng một thứ ngôn ngữ hỗn nhập vừa có các yếu tố của văn ngôn truyền thống, vừa có các yếu tố khẩu ngữ(11).

Nho giáo thời Tống có vị trí đặc biệt, các văn bản chú giải kinh điển lại được mang ra dạy cho học trò, người đi học lại rập khuôn, mô phỏng cái ngôn ngữ đó, các văn bản mới được xây dựng theo nguyên tắc điền từ vào các khuôn mẫu có sẵn, trong khi đó ngôn ngữ nói vẫn tiếp tục diễn biến và phát triển, bởi vậy kiểu viết của các nhà cải cách văn ngôn trong phong trào cổ văn trở nên lạc hậu dần, xa rời với ngôn ngữ nói. Trong một thời gian dài gần chục thế kỷ, từ thời nhà Tống đến thời nhà Thanh cũng có xuất hiện một vài trường phái văn ngôn cao cấp như trường phái văn ngôn Đồng Thành - một trường phái văn ngôn lấy tên huyện Đồng Thành ở tỉnh An Huy, nơi đã nảy sinh những nhà phong cách văn ngôn nổi tiếng như Phương Bào (1668-1744); Lưu Đại Khôi (1698-1779)... và trường phái Văn tuyển (lấy tên một tác phẩm nổi tiếng thời Lục Triều do Tiêu Thống soạn). Nhưng văn ngôn của hai trường phái này chủ yếu mô phỏng phong cách của các nhà trong Đường - Tống bát đại gia, không gắn với khẩu ngữ đương thời, do vậy ngôn ngữ viết - văn ngôn của thời gian này phức tạp và nặng nề về hình thức, có tổ chức vận luật nghiêm ngặt, nó chỉ làm sống lại những lối viết cổ, hạn chế khả năng phản ánh biến đổi của đời sống hiện thực của ngôn ngữ viết. Nhất là những năm cuối thời Thanh, những biến đổi của hiện thực xã hội đòi hỏi phải có một ngôn ngữ viết tương ứng, mềm dẻo, có khả năng phản ánh những đòi hỏi mới. Các nhà khai sáng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Nghiêm Phục... nhận thấy rằng phải đổi mới ngôn ngữ viết - văn ngôn. Và do đó, một cuộc cải cách văn ngôn có ý nghĩa xã hội rộng ở thời cận đại đã xuất hiện, gắn liền với tên tuổi của Lương Khải Siêu (1873-1929).

5. Lương Khải Siêu là nhà hoạt động chính trị theo khuynh hướng dân tộc tư sản. Người ta thường biết đến ông như là nhà chính luận, nhà hoạt động nhà nước... nhưng công lao của ông cống hiến cho việc cải cách văn ngôn thì ít được nhắc tới. Trong bối cảnh của những biến đổi xã hội Trung Quốc thời cận đại về các mặt, ông đề xướng cải cách ngôn ngữ viết - văn ngôn. Lương Khải Siêu viết: "Tôi sớm không thích phái cổ văn Đồng Thành. Lúc còn nhỏ, tôi học theo lối viết cuối Hán và Ngụy Tấn, tôi rất tự hào về lối viết ấy. Thế rồi tôi lại bỏ chúng đi, tôi chuộng lối viết bình dị, khoáng đạt, có pha lời nói của đồng quê đầy nhịp điệu và ngữ pháp của nước ngoài, thả bút viết đến mức tự do không bị câu thúc. Nhiều người theo học lối viết đó gọi là Tân văn thể"(12). Với cách viết của Lương Khải Siêu, văn ngôn cận đại có một bước biến đổi lớn.

Sự chú ý đến ngôn ngữ viết của Lương Khải Siêu nằm trong phức thể những vấn đề cấp bách của xã hội Trung Quốc những năm cuối thế kỷ XIX nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển biến xã hội, nâng cao dân trí, dân khí hòng sánh vai với các cường quốc phương Tây. Ông nhìn thấy sự phức tạp của hệ thống văn tự Trung Quốc, của ngôn ngữ viết - văn ngôn mà nét nổi bật nhất là nó cách quá xa ngôn ngữ nói. Công cuộc nâng cao dân trí sẽ gặp khó khăn rất lớn nếu như cứ sử dụng ngôn ngữ viết như thế. Cần phải có một ngôn ngữ viết mới đáp ứng những đòi hỏi mới của cuộc sống.

Lương Khải Siêu đề xướng phong trào xây dựng ngôn ngữ dân tộc - một ngôn ngữ thống nhất giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, ngôn ngữ viết ấy phải là phương tiện quan trọng để phổ biến văn hóa.

Đổi mới ngôn ngữ viết ở Lương Khải Siêu trước hết xảy ra ở lĩnh vực các thuật ngữ chính trị. Ông không sử dụng các thuật ngữ chính trị lấy từ các thuật ngữ trung đại truyền thống mà ông lại Trung Quốc hóa các thuật ngữ lấy từ văn dịch do các dịch giả Nhật Bản xây dựng khi họ dịch các tác phẩm của các nhà tư tưởng Âu châu hiện đại ra tiếng Nhật. Trong nhiều trường hợp, ông lại sáng tạo ra các thuật ngữ mới.

Lương Khải Siêu phủ nhận phong cách tối tăm, cầu kỳ của văn ngôn thời Thanh. Phong cách văn ngôn thời Thanh với lối văn bát cổ dùng trong các kỳ thi đã làm mất đi những giá trị và tinh thần mà phong trào cổ văn của Hà Dũ đã mang đến cho văn ngôn. Ông phê phán trường phái văn ngôn Đồng Thành và trường phái Văn tuyển. Với hai trường phái này, văn ngôn thời cận đại đã đi tới mức cầu kỳ, bí hiểm, phức tạp về hình thức, bị ràng buộc bởi vận luật. Thơ ca dưới ảnh hưởng của trường phái này cũng thiên về viết theo ngôn ngữ cổ. Người ta mô phỏng theo theo Đường Tống. Những thơ ca Đường Tống còn liên hệ đến khẩu ngữ, còn thơ ca cổ văn cận đại lại không có quan hệ với khẩu ngữ đương thời.

Với tư cách là nhà chính luận, Lương Khải Siêu tham gia tích cực vào việc xuất bản báo chí. Hoạt động này ông bắt đầu làm vào năm 1896 nhằm mục đích công bố rộng rãi các tác phẩm của mình. Sau thất bại của cuộc cải cách 1898, Lương Khải Siêu sang Nhật và lập ra hai tạp chí ở Nhật nhằm công bố cho người Trung Quốc biết những tư liệu do người Nhật thực hiện. Hoạt động của ông và của nhiều người khác nữa đã cho phép phổ biến sâu rộng những tài liệu này cho độc giả Trung Quốc. Những sách báo đó không chỉ mới về nội dung mà còn mới về ngôn ngữ, có phong cách viết hấp dẫn người đọc.

Lương Khải Siêu không chỉ đưa vào ngôn ngữ viết hệ thống thuật ngữ hiện đại mà ông còn tiến hành giản hóa cú pháp văn ngôn, không dùng các hiện tượng chuyển từ loại trong các tác phẩm của mình để tránh khó hiểu trong văn bản. Cách viết này được nhiều người ủng hộ, hình thành phong cách mang tên ông - Phong cách Lương Khải Siêu. Phong cách Lương Khải Siêu được nhiều người tán thành, có tiếng vang rộng rãi và trở thành phong cách ngự trị trong các ấn phẩm khoa học và chính trị - xã hội.

Cái phong cách mà Lương Khải Siêu mang đến cho văn ngôn tất nhiên không phải là hiện tượng đột xuất trong thực tế ngôn ngữ ở thời cận đại. Phong cách Lương Khải Siêu chỉ là sự tiếp nhận và phát triển của phong cách công văn vốn có từ trước. Công văn hành chính vốn là một thể loại rất cần cho công cuộc quản lý trong điều kiện xã hội Trung Quốc thời trung thế kỷ và cận đại. Ngôn ngữ các văn bản này có nhiều yêu cầu khác với ngôn ngữ của các tác phẩm văn học. Nó phải rõ ràng, không cho phép hay phải hạn chế đến mức tối đa lối hiểu hai mặt. Các văn bản hành chính phải có hình thức chuẩn mực, khuôn mẫu có sẵn, có cách nói đơn giản. Vốn từ của các văn bản này cũng lấy từ các văn bản cổ. Song đóng góp mới của Lương Khải Siêu là ở chỗ: ông đã phổ biến phong cách công văn vào các ấn phẩm có nội dung chính trị - xã hội. Số lượng công chúng đọc các văn bản của Lương Khải Siêu thật là đông đảo và đặc biệt họ là những người trẻ, có đầu óc cách mạng... Đó chính là những chuẩn bị cần thiết cho những chuyển biến long trời lở đất ở Trung Quốc vào những năm đầu thế kỷ XX, trong đó có cả phương diện ngôn ngữ, tạo các điều kiện cần thiết để loại bỏ văn ngôn truyền thống ra khỏi đời sống ngôn ngữ, xây dựng một ngôn ngữ viết mới phù hợp với ngôn ngữ nói đương thời.

6. Như vậy, tồn tại trong một khoảng thời gian dài hơn hai chục thế kỷ - ngôn ngữ viết Trung Quốc - văn ngôn luôn có xu hướng thu nhận vào mình những yếu tố mới từ khẩu ngữ, chuyển và cải biến những phương thức diễn đạt cũ thành những cách diễn đạt mới và loại bỏ khỏi mình những hình thức ngữ pháp cổ, không thông dụng. Hai cuộc biến đổi văn thể (hay nói cho đúng hơn là hai cuộc cải cách văn ngôn) có tiếng nhất trong lịch sử văn ngôn Trung Quốc do Hàn Dũ và Lương Khải Siêu đề xướng đã chứng tỏ điều đó.

7. Hai cuộc cải cách văn ngôn này đều xuất phát từ những tiền đề xã hội cần thiết. Những biến đổi xã hội lớn lao ở Trung Quốc thời Đường, phạm vi những người hiểu biết và xây dựng văn hoá Trung Quốc tăng nhanh đã thúc đẩy quá trịnh cải cách ngôn ngữ viết. Có nhà nghiên cứu cho rằng, phong trào sùng Nho phục cổ do Hàn Dũ chủ xướng có thể coi như dấu hiệu của thời Phục hưng ở phương Đông trung cổ(13). Tuy về tư tưởng, phong trào của Hàn Dũ là phục cổ, song đóng góp của ông về mặt này không lớn lắm, đóng góp của ông về ngôn ngữ mới là đáng kể(14). Ảnh hưởng đó kéo dài đến tận thời cận đại. Còn với cuộc cải cách văn ngôn của Lương Khải Siêu, tuy nó không có tiếng vang bằng phong trào cổ văn và không duy trì ảnh hưởng để định hướng cho văn ngôn phát triển vào những năm 20-30 của thế kỷ này, nhưng nó đã làm cho người ta thấy cần phải cải biến ngôn ngữ viết.

Văn ngôn với những cuộc cải cách lớn này đã trở thành một biến thể đặc biệt của tiếng Hán. Ngôn ngữ viết này đã thu nhận vào mình các yếu tố của khẩu ngữ đủ mọi thời đại, nó trở thành một ngôn ngữ viết mang tính phi thời gian tương đối(15).

Chính những cuộc cải biến văn ngôn này đã thổi vào cho văn ngôn một luồng khí, làm cho nó trở thành phương tiện diễn đạt ở dạng viết có khả năng đáp ứng được mọi yêu cầu phản ánh đời sống hiện thực đa dạng và phong phú, nhất là vào các thời điểm có tính chất bước ngoặt của lịch sử trong đời sống chính trị - xã hội - văn hoá ở Trung Quốc thời trung thế kỷ và cận đại.

Cũng cần lưu ý là cả hai thời điểm xảy ra hai cuộc cải cách văn ngôn, ở Trung Quốc đã song song tồn tại hai ngôn ngữ văn học. Một là ngôn ngữ văn học dựa trên cơ sở của tiếng Hán cổ và hai là ngôn ngữ văn học dựa trên cơ sở ngôn ngữ nói đương thời. (Với thời Hàn Dũ thì đó là bạch thoại trung đại. Với thời Lương Khải Siêu đó là bạch thoại cận hiện đại). Cuộc cải biến văn ngôn của Hàn Dũ trong những điều kiện của đời sống văn hóa Trung Quốc thời trung thế kỷ đã làm cho văn ngôn tồn tại thêm hàng chục thế kỷ nữa. Cải cách văn ngôn của Lương Khải Siêu là hồi chuông báo hiệu chiến thắng của ngôn ngữ văn học dựa trên ngôn ngữ nói - bạch thoại hiện đại.

8. Hai cuộc cải cách văn ngôn này không chỉ phát huy ảnh hưởng của mình ở Trung Quốc mà chúng còn có tác động rất lớn đến những nơi có sử dụng văn ngôn ở ngoài Trung Quốc nữa. Đáng chú ý là di sản Hán văn Việt Nam, cho đến giờ chúng ta còn lưu giữ lại, về cơ bản đều được viết sau cuộc cải cách của Hàn Dũ. Bởi vậy, hiển nhiên những nguyên tắc xây dựng ngôn ngữ viết do phong trào cổ văn đưa lại ảnh hưởng rất đậm nét lên Hán văn Việt Nam, từ những văn bản sớm nhất cho đến những văn bản ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuộc cải cách văn thể của Lương Khải Siêu đương nhiên cũng ảnh hưởng và chi phối đời sống ngôn ngữ của các văn bản Hán văn Việt Nam thời cận đại. Và không chỉ có thế, nó lại ảnh hưởng rất lớn đến một bộ phận vốn từ của tiếng Việt hiện đại được xây dựng vào đầu thế kỷ này trên cơ sở tiếp thu từ Tân thư, Điều này nói lên giá trị của việc nghiên cứu phong trào cổ văn và cải cách ngôn ngữ viết của Lương Khải Siêu đối với việc nghiên cứu Hán văn Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

1. Phạm Văn Khoái. Vài nét về văn ngôn. Tạp chí Hán Nôm số 1/1996.

2. M.V.Sophronov. Tiếng Trung Quốc và xã hội Trung Quốc. (Tiếng Nga). Nxb. Khoa học. Moskva. 1979.

3. N.I.Konral. Phương Tây và phương Đông. (Tiếng Nga). M.1972.

4. Dư Quan Anh... Lịch sử văn học Trung Quốc (bản dịch). Nxb. Giáo dục. H.1993, tr.173.

5. Cổ văn quán chỉ. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã. Thượng Hải 1990.tr.555.

6. Hàn Dũ. Hàn Xương Lê văn tập. Bắc Kinh. 1957, tr.80-81.

7. Cổ văn quán chỉ. tr.173.

8. Dư Quan Anh. sđd. tr.175

9. Dư Quan Anh. sđd. tr.177.

10. S.E.Jakhontov. Ngôn ngữ viết Trung Quốc và khẩu ngữ giai đoạn thế kỷ XII-XIII. Trong tuyển tập Các thể loại và phong cách văn học Trung Quốc và Triều Tiên. M.1969 (Tiếng Nga).

11. G.Kallgren Sutudies in Sung time Clolloguial chinese as (Revealed) in Chu His tsuianshu, Stockholm, 1958.

12. Dẫn theo Cổ văn quán chỉ, tập II. Thượng Hải. 1990.

13. N.I.Konrad. Phương Tây và phương Đông. M.1972.

14. Trần Trọng Kim. Nho giáo. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. tr.387-394.

15. Phạm Văn Khoái. Vài nét về văn ngôn. Bđd.

TB

LỄ TRAO BẰNG THẠC SĨ KHOA HỌC THÔNG TIN THƯ VIỆN CHO CÁC THẠC SĨ ĐƯỢC
ĐÀO TẠO TẠI HOA KỲ

H-L

Ngày 27 tháng 7 năm 1996, tại phòng họp Thư viện Quốc gia Hà Nội, lễ trao bằng Thạc sĩ Khoa học Thông tin Thư viện cho 18 cán bộ thư viện Việt Nam được đào tạo tại Hoa Kỳ trong ba khóa học (từ tháng 5 năm 1993 đến tháng 7 năm 1996) đã diễn ra một cách trọng thể.

Tới dự lễ trao bằng, về phía Việt Nam có đồng chí: Giáo sư Tiến sĩ Phạm Sĩ Tiến - Vụ trưởng vụ Sau Đại học, thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; Phó Giáo sư Phó tiến sĩ Phan Khanh - Vụ trưởng Vụ Đào tạo thuộc Bộ Văn hóa thông tin; Phó Tiến sĩ Đặng Việt Bích - Phó hiệu trưởng trường Đại học Văn hóa; Phó Giáo sư Phó Tiến sĩ Phan Văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Phó Giáo sư Phan Văn Các - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm; Phó Tiến sĩ Phạm Dũng - Phó Giám đốc Thư viện Quốc gia; ông Vũ Văn Sơn - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia... cùng một số ban ngành hữu quan.

Về phía Mỹ, Giáo sư Patricia G. Oyler thay mặt Harvard yenching và Simmons College (nơi đào tạo các Thạc sĩ Thư viện) đọc diễn văn khai mạc buổi lễ và nồng nhiệt đón chào các vị khách tới dự.

Trong bài diễn văn này Giáo sư biểu dương kết quả học tập của 18 Thạc sĩ và đặc biệt nhấn mạnh vào mục đích, nội dung của

chương trình đào tạo Thạc sĩ cho các cán bộ thư viện Việt Nam, nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và văn hóa ở châu á nói chung và Việt Nam nói riêng. Hy vọng rằng trong tương lai những Thạc sĩ này sẽ cùng với các đồng nghiệp của mình đưa hoạt động thông tin - thư viên ở Việt Nam hòa nhập vào quỹ đạo chung của thông tin thế giới.

Sau bài phát biểu của Giáo sư Patricia G. Oyler, Thạc sĩ Chu Tuyết Lan cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm thay mặt 18 học viên của cả ba khoa học bày tỏ lòng biết ơn tới các cơ quan hữu quan và những người thân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp họ hoàn thành khóa học. Thạc sĩ đặc biệt cảm ơn ngài Edward Baker, ngài Giám đốc Harvard yenching, Giáo sư Patricia G.Oyler và tập thể của Simmons College đã nhiệt tình đào tạo bồi dưỡng tri thức thông tin thư viện cho các cán bộ thư viện Việt Nam.

Các vị đại biểu đến dự đã phát biểu ý kiến nhất trí khẳng định vai trò quan trọng của khoa học thông tin thư viện trong sự nghiệp đổi mới của đất nước và mong muốn trong tương lai ngành thư viện Việt Nam sẽ phát huy tác dụng của nó bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào mọi hoạt động của thư viện. Các vị đại biểu cũng không quên gửi lời cảm ơn Harvard yenching, Simmons College và tất cả các tổ chức đã tài trợ cho việc đào tạo thành công 18 Thạc sĩ Khoa học Thông tin Thư viện.

Buổi lễ đã diễn ra trong không khí trang trọng, cởi mở và tất cả hẹn gặp lại trong cuộc hội thảo về thông tin thư viện do Mỹ tài trợ tổ chức tại Hà Nội vào tháng 4 năm 1997 sắp tới.

TB

THĂM VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

MIYAZIMA YASUYO

LTS. Chị Miyazima, Trưởng phòng Thông tin tư liệu châu Á, Thư viện Quốc hội quốc lập Nhật Bản, là người rất quan tâm đến vấn đề thông tin tư liệu các nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam. Chị là tác giả bài Thư mục sách Hán Nôm tại thư viện Quốc hội quốc lập Nhật Bản, đăng trên Tạp chí Thông báo tư liệu châu Á, số 33, năm 1955. Tháng 4 năm nay, chị có sang Việt Nam, tới thăm Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Công ty xuất nhập khẩu sách Xunhasaba. Khi trở về nước, chị viết bài giới thiệu chuyến đi này đăng trên Thông báo tư liệu châu Á số 34, tháng 8 năm 1996. Xin trân trọng giới thiệu một số đoạn của bài viết, qua bản dịch của Nguyễn Thị Oanh để bạn đọc tham khảo.

Tháng 4 năm nay, nhân dịp kỷ niệm 21 năm ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, tôi sang thăm Việt Nam trong một tuần lễ. Từ thành phố Hồ Chí Minh nóng bức ra tới Hà Nội, tôi thấy mát mẻ dễ chịu. Nghe nói hai, ba ngày trước ở Hà Nội cũng nóng lắm nhưng đến hôm đó trời đã dịu hẳn. Hà Nội đang là mùa xuân, vậy mà khi nhìn thấy những chiếc lá vàng trên cây, tôi có cảm giác như những ngày đầu thu ở Nhật.

Lần này tôi đến thăm Công ty xuất nhập khẩu sách Xunhasaba và một số thư viện, trong đó có Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm là nơi từ lâu tôi đã muốn đến thăm.

Dưới đây tôi xin giới thiệu về Viện Nghiên cứu Hán Nôm và thư viện trực thuộc.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở đường Đặng Tiến Đông, từ trung tâm thành phố, đi xe ô tô mất khoảng 30 phút. Viện là ngôi nhà hai tầng có các phòng nghiên cứu, phòng đọc và kho sách.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm thành lập từ tháng 9 năm 1979, tiền thân là Ban Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội (nay là Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) (...)

ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm là trung tâm nghiên cứu lớn nhất có liên quan đến tư liệu Hán Nôm, và là nơi bảo tồn, khai thác các tư liệu thư tịch Hán Nôm. Từ năm 1986, Viện đã cho xuất bản tạp chí bằng tiếng Việt, đăng tải các bài viết có liên quan đến tư liệu Hán Nôm, giám định các văn bản Hán Nôm... Tạp chí có tiêu đề là Tạp chí Hán Nôm, hiện nay mỗi năm xuất bản 4 kỳ.

“Hán Nôm” là thư tịch Hán và thư tịch Nôm của Việt Nam. Chữ Hán ở đây là chữ Hán của Trung Quốc. Cũng có sách được viết kết hợp cả chữ Hán và chữ Nôm là văn tự đặc biệt của Việt Nam. Chữ Nôm với tư cách là một văn tự được sáng tạo bắt đầu từ thế kỷ XIII. Đến đầu thế kỷ XVII tiếng Việt đã ghi bằng chữ La tinh, do các nhà truyền giáo Hà Lan tạo ra, đến thế kỷ XVIII, XIX được hoàn thiện và chính thức trở thành chữ viết của Việt Nam.

Dưới đây xin trình bày về kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm .

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ khoảng 5085 đầu sách, chủ yếu là các sách về lịch sử, văn học, tôn giáo, giáo dục, y học, dược học v.v. Gần đây, từ sau năm 1992, Viện đã sưu tầm thêm được khoảng 2149 sách từ các địa phương, song số sách này còn chưa được chỉnh lý, lên ký hiệu thư viện nên chưa đưa ra phục vụ (...)

Có khoảng 22.000 thác bản được rập từ bia đá, biển gỗ, chuông đồng v.v. (trong đó có 20.979 đơn vị do Học viện Viễn đông bác cổ Pháp chuyển giao, số còn lại do Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới rập từ 1958 trở lại đây). Việc in rập thác bản đó như thế nào ? Đầu tiên, người ta kỳ cọ cho sạch bia, rồi phết chuối tiêu lên trên, dùng loại giấy đặc biệt dán lên sao cho thật phẳng, đợi một chút, dùng con lăn nhúng mực rồi lăn đều lên giấy, cho đến khi nào chữ hiện ra rõ hết. In mỗi mặt mất khoảng một giờ. Việc dùng chuối (thay cho dùng nước ở Nhật Bản) cho thấy chỉ có các nước phương Nam mới thực hiện được mà thôi. Văn bia hiện còn được lưu giữ ở các đình, chùa, miếu của Việt Nam, song do chiến tranh nên đã bị mất mát khá nhiều, thật đáng tiếc (...)

Ngoài ra còn có khoảng 800 gia phả là sách nói về lai lịch và phả hệ để duy trì quan hệ huyết thống của dòng họ. Các sách địa phương chí như sách xã chí, cổ chỉ (theo cách gọi của Việt Nam) có khoảng 112 sách. Thú vị nhất là có khoảng 535 sách thần tích, thần phả là truyền thuyết dân gian về các thần và Thành hoàng được thờ ở đình (nơi hội họp ở nông thôn), miếu, từ (nơi thờ cúng tổ tiên của dòng họ). Trong đó không chỉ viết về thần của một làng mà còn viết nhiều về thần và các vị anh hùng có công với đất nước của cả một huyện.

Trong kho, sách Hán Nôm xếp chật ních, máy điều hòa không phải của Nhật, đã khá cũ kỹ. Tôi thấy còn nhiều giá sách cũ. Bảo quản sách trong tình trạng như vậy có lẽ rất khó khăn. Số độc giả là sinh viên khá nhiều, người nước ngoài có giấy giới thiệu của cơ quan nào đó cũng có thể mượn sách đọc được.

Hiện nay, tư liệu Hán Nôm, ngoài Viện nghiên cứu này ra, một phần còn được lưu giữ ở Cục lưu trữ, Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội... Ngoài ra ở các địa phương, các chùa và tư nhân còn lưu giữ khá nhiều sách Hán Nôm, song các sách quý hiếm có lẽ không còn nhiều. Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm tại thành phố Hồ Chí Minh được thành lập từ 5 năm về trước. Trung tâm này không phải là một chi nhánh của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội mà trực thuộc Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.

Cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm gồm 66 người, 51 cán bộ nghiên cứu và 11 cán bộ phục vụ. Viện có kế hoạch từ năm 1994 đến năm 1998 thực hiện việc biên soạn bộ thư mục sách Hán Nôm tại nước ngoài. Sách Hán Nôm hiện còn tàng trữ ở Pháp, Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản... Nhưng ngoài Việt Nam, Pháp và Nhật là hai nước còn lưu giữ nhiều sách Hán Nôm nhất. Vì vậy Viện Nghiên cứu Hán Nôm từ năm ngoái đã có nguyện vọng muốn sang Nhật để thực hiện chương trình trên đây.

Ở Nhật Bản, Đông Dương văn khố là nơi tàng trữ nhiều nhất tư liệu Hán Nôm. Ngoài các sách Hán Nôm còn được lưu trữ tại Phòng tư liệu thư tịch cổ, Thư viện Quốc hội, Thư viện Trường Đại học Keio (Khánh ứng đại học), Văn khố Matsumoto (Tùng Bản văn khố), Viện Nghiên cứu văn hóa Đông Phương trường Đại học Tokyo và Viện nghiên cứu khoa học nhân văn trường Đại học Tokyo... Mục lục sách Hán Nôm tại Đông Dương văn khố và thư viện Quốc hội đã được đăng trên tạp chí Thông báo tư liệu châu Á số 33. Mục lục sách Hán Nôm ở Văn khố Matsumoto, Đại học Keio cũng được đăng trên Tạp chí Sử học, quyển 62 số 1, 2, 3; Quyển 63 số 1, 2. Ông Wada đã viết bài giới thiệu với tiêu đề “Sách Hán Nôm của Tiến sĩ Matsumoto - 3 quyển, Thượng, Trung, Hạ”. Trong bài viết này, ông Wada có đưa ra mục lục sách Hán Nôm ở Việt Nam và Pháp của các nhà nghiên cứu Nhật Bản.

Hiểu biết về sách Hán Nôm của Việt Nam là điều không thể thiếu trong việc tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Vì vậy việc biên soạn bộ thư mục sách Hán Nôm tại nước ngoài rất quan trọng đối với Việt Nam. Nếu được các nước giúp đỡ để hoàn thành bộ sách thì tôi nghĩ đó là việc giao lưu văn hóa có ý nghĩa và cũng là việc cần thiết đối với cả phía Nhật Bản.

TB

TỔNG MỤC LỤC BÀI VIẾT VÀ TÁC GIẢ TRÊN TẠP CHÍ HÁN NÔM TỪ SỐ 1 ĐẾN SỐ 29 (1986-1996)

ĐÀO PHƯƠNG CHI

LTS. Nhân dịp Tạp chí Hán Nôm ra đời được 10 năm (1986 - 1996) chúng tôi xin giới thiệu bảng “Tổng mục lục bài viết và tác giả trên Tạp chí Hán Nôm từ số 1 đến số 29 (1986 - 1996)” do Đào Phương Chi soạn, để bạn đọc tra cứu khi cần thiết.

Bảng mục lục này được chia làm 2 phần:

Ở phần I, tên các bài viết được đánh số thứ tự và sắp xếp theo vần a,b,c.

Ở phần II, tên các tác giả cũng được sắp xếp thep vần a,b,c và dùng số thứ tự ở bảng I thay cho tên bài viết của tác giả.

Xuất xứ các bài viết sẽ được trình bày bằng 3 con số: con số đầu chỉ số Tạp chí tính liên tục; con số thứ hai chỉ số Tạp chí trong từng năm; và con số cuối cùng chỉ năm in Tạp chí. Thí dụ bài Ai là người dịch “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị của tác giả Thế Anh được ghi xuất xứ là 20 (3-94): “20” chỉ số Tạp chí tính liên tục, kể từ số 1; “3” chỉ số tạp chí trong năm; và “94” là năm in Tạp chí 1994.

I. Tổng mục lục bài viết

Số TT
Tên bài Tác giả Số Tạp chí
A
1 Ai là người dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị ? Thế Anh 20(3-94)
2 Ai viết hai phần Cổ tích và Nhân phẩm trong Mẫn Hiên thuyết loại Hoàng Văn Lâu 7 (2-89)
3 Anh em họ Nguyễn làng Kim Đôi Lâm Giang 9 (2-90)
4 ánh sáng của trí tuệ và tình hữu nghị Nguyễn Quang Hồng 3 (2-87)
5 Âm chữ Hán Triều Tiên Todo Akiyasu 14(1-93)
6 ấn triện ở phủ Tôn Nhân triều Nguyễn Nguyễn Công Việt 22(1-95)
B
7
Ba bài thơ chữ Hán về Hà Nội
Trương Chính - Đinh Xuân Lâm 12(1-92)
8 Ba bài văn - ba dòng văn hóa trong một thiên tài Nguyễn Trãi Nguyễn Như Luận
12(1-92)
9 Ba bài văn thơ yêu nước đầu thế kỷ 20 Đinh Xuân Lâm 15(2-93)
10 Ba bộ ván khắc Cổ châu lục, Cổ châu hạnh, Cổ châu nghi và văn hiến Hán Nôm chùa Dâu Nguyễn Quang Hồng
23(2-95)
11 Bà Nguyễn Thị Đài và bài thơ duy nhất còn lại Hoàng Thị Ngọ 13(2-92)
12 Bài bia mộ ông Từ Mẫn họ Nguyễn và bà vợ họ Hoàng do Trạng nguyên Lương Thế Vinh soạn Hoàng Lê 16(3-93)
13 Bài hịch của văn thân Nghệ Tĩnh năm Tự Đức Giáp Tuất Tố Am Nguyễn Toại 12(1-92)
14 Bài ký Hành tại diện đối của Phạm Đình Hổ Kim Anh 29(4-96)
15 Bài ký khắc trên bia của thôn nhà dựng năm Nhâm Tý Hoàng Văn Lâu 5 (2-88)
16 Bài phú Buông thuyền trên hồ của Phan Huy Chú Kim Anh 12(1-92)
17 Bài thơ chữ Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh Phác Can 8 (1-90)
18 Bài thơ Động Bích Đào là của Lê Quý Đôn hay Đinh Lễ ? Trường Lưu - Trần Văn Thụy 2 (2-87)
19 Bài thơ Nam quốc sơn hà đọc và hiểu từ một dị bản mới phát hiện Dương Thái Minh 16(3-93)
20 Bài thơ Nhân ảnh vấn đáp của Phan Huy Thực Hoàng Thị Ngọ 7 (2-89)
21 Bài thơ Nôm núi Ngọc Nữ Nguyễn Thị Thảo 5 (2-88)
22 Bài thơ Phạm Sĩ ái nhớ Cao Bá Quát Nguyễn Văn Bách 20(3-94
23 Bài thơ và bài phú ca ngợi cảnh Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng Vũ Thanh Hằng 5 (2-88)
24 Bài thơ xuân của Trần Ngọc Dư Vũ Đình Ngạn 22(1-95)
25 Bài tự thuật của Lê Quýnh tác giả Bắc hành tùng ký Ngô Đức Thọ 5 (2-88)
26 Bài văn bia chùa Phổ Khánh Huỳnh Công Bá 11(2-91)
27 Bài văn bia về việc tạc tượng Tam giáo chùa Cao Dương của Trình Quốc công Vũ Tuấn Sán - Đinh Khắc Thuân 8 (1-90)
28 Bài văn khuyên chăm học của vua Lê Thánh Tông Mai Xuân Hải 13(2-92)
29 Bài văn sách thi đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực Hoàng Hưng 6 (1-89)
30 Bài văn tế vợ của Nguyễn Cao Phan Văn Các 2 (1-87)
31 Bàn thêm về bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du Tạ Ngọc Liễn 24(3-95)
32 Bắc địa đấu từ - Lời tâu về đất Bắc của những người đi khai khẩn đất Điện Bàn ( Quảng Nam - Đà Nẵng ) Dưới thời Lê sơ Huỳnh Công Bá 29(4-96)
33 Bàn thêm về mấy bài dịch thơ Bác Hồ Trần Bá Chí 8 (1-90)
34 Bàn thêm về một chữ trong bài thơ cổ Hoàng Tiến 25(4-95)
35 Bản di chúc thắm đượm tính nhân văn Phạm Quốc Bằng 22(1-95)
36 Bản dịch Trường hận ca Nguyễn Thạch Giang 13(2-92)
37 Bản đồ cổ Việt Nam Trần Nghĩa 9 (2-90)
38 Bản Mục lục xã Phú Khê huyện Hoằng Hóa Thanh Hóa Lê Xuân Hòa 12(1-92)
39 Bản Nôm Lục Vân Tiên truyện cổ nhất do Quảng Thạnh Nam phát thụ Nguyễn Quảng Tuân 25(4-95)
40 Bảng tra tên các đơn vị hành chính trong cương mục Phạm Thị Thoa 11(2-91)
41 Bia đá, chuông đồng Tây Sơn Đinh Khắc Thuân 8 (1-89)
42 Bia về các Thái giám triều Lê tại Kinh Bắc Thùy Vinh 26(1-96)
43 Bích Châu - Du tiên mạn ký Nguyễn Thạch Giang 8 (1-90)
44 Biệt lệ, điều đáng lưu ý khi đọc và phiên âm Nôm Lê Anh Tuấn 10(1-91)
45 Biểu tạ ơn được phong Binh bộ Thượng thư Văn Hưng 5 (2-88)
46 Binh dân luận, tác phẩm nghị luận Nôm của Ngô Thì Sĩ Nguyễn Đăng 1 (1-86)
47 Bói toán và ma thuật trong một tiểu thuyết Trung Quốc Phong thần diễn nghĩa Tảo Trang 4 (1-88)
48 Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm Nguyễn Tá Nhí 3 (2-87)
49 Bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu sắp ra mắt bạn đọc Trần Nghĩa 13(2-92)
50 Bộ từ điển Từ Hải (mới)-Giới thiệu và nhận xét Phác Can 15(2-93)
51 Bốn vấn đề văn bản học của Hoa tiên Sài phi Thư Trang 10(1-91)
52 Bước đầu khảo sát môn loại Âm tự trong Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn Phạm Văn Khoái 25(4-95)
53 Bước đầu kiểm kê lại những tác phẩm của Đặng Xuân Bảng trong kho sách Hán Nôm Hoàng Văn Lâu 25(4-95)
54 Bước đầu tìm hiểu các kho sách Hán Nôm và lịch sử thư mục học Hán Nôm Trần Nghĩa 5 (2-88)
55 Bước đầu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Kiều Oánh Mậu Nguyễn Xuân Diện 12(1-92)
56 Bước đầu tìm hiểu Đại Việt sử ký tục biên. Go Zhen Feng 9 (2-90)
57 Bước đầu tìm hiểu nghề giấy cổ truyền Hoàng Hồng Cẩm 12(1-92)
58 Bước đầu tìm hiểu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán Chan Hing Ho 20(3-94)
59 Bước đầu tìm hiểu văn bia ở một huyện thuộc đồng bằng Bắc Bộ Nguyễn Huy Thức 3 (2-87)
60 Bước đầu tìm hiểu về hội Tao Đàn Lâm Giang 3 (2-87)
C
61 Ca tì tử (Otogiboco) và Vũ nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatasi) với Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Thị Oanh 25(4-94)
62 Cách ghi từ đồng âm trong văn bản Nôm Nguyễn Thị Lâm 27(2-96)
63 Cai vàng tân truyện. Đinh Xuân Lâm 14(1-93)
64 Cái “thần” và cái “nhã” trong vấn đề dịch thơ chữ Hán Ngô Linh Ngọc 4 (1-88)
65 Canh Tý thi tập của vua Thành Thái Phan Thuận An 18(1-94)
66 Cần phải tìm hiểu chính xác hơn bài Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du Nguyễn Quảng Tuân 18(1-94)
67 Cần phải xác định lại giá trị bài tựa Kim Vân Kiều án Nguyễn Quảng Tuân 9(2-90)
68 Cần phân biệt sách Hán Nôm Việt Nam với sách Hán Nôm nước ngoài do ta chép hoặc in lại Trần Nghĩa 29(4-96)
69 Câu đối đền Hùng và tâm thức Việt Nam Nguyễn Khắc Xương 27(2-96)
70 Câu đối hoành phi và đề tự bằng chữ Hán ở đền Ngọc Sơn - Hà Nội Tuấn Nghi - Tảo Trang 10(1-91)
71 Câu đối Tết, câu đối Xuân trước Cách mạng Tháng 8 Tảo Trang 17(4-93)
72 Cấu tạo và nguồn gốc của chữ Hán - chữ của dân tộc Việt Nam Kenji Tomita 16(3-93)
73 Cuộc vận động ngoại giao sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu Hoàng Văn Lâu 5 (2-88)
74 Chiến thắng Kỷ Dậu Hoàng Văn Lâu 5 (2-88)
75 Chu Đình Quán và văn bia của Trạng Bùng Đỗ Thỉnh 15(2-93)
76 Chùa Phổ Tế, nơi hội ngộ của các danh sĩ đời Tây Sơn Nguyễn Minh Đăng 24(3-95)
77 Chùa Thánh Quang, nơi tu hành của công chúa Túc Trinh Đỗ Thỉnh 25(4-95)
78 Chúc thư của Quách Điêu Trương Sĩ Hùng 19(2-94)
79 Chuông chùa Mạc ở chùa Sơn, xã Quỳnh Giao ở (Thái Bình) Đinh Khắc Thuân 20(3-94)
80 Chuyện bà Phạm thị hoài thai trong Thiên Nam ngữ lục: sự giao hòa của Phật giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa Chu Quang Trứ 26(1-96)
81 Chuyển dịch đại từ nhân xưng Hán cổ Lê Thị Môn 11(2-91)
82 Chữ “cửu” và các văn bản thư tịch, bi ký đời Lê Trung Hưng Ngô Đức Thọ 20(3-94)
83 Chữ Hán của người Việt Vũ Tuân Sán 26(1-96)
84 Chữ Hán - dạng thể và cách cấu tạo Thọ Nhân 26(1-96)
85 Chữ húy đời Lê sơ Ngô Đức Thọ 11(2-91)
86 Chữ Nôm với ngữ âm địa phương Nam Bộ Nguyễn Thị Lâm 15(2-93)
87 Chữ Nôm trong các tác phẩm Hán văn của Lê Quý Đôn Đinh Công Vĩ 9 (2-90)
88 Chữ viết Hán Nôm qua nhận định của Lê Quý Đôn và Phạm Đình Hổ Phan Đình ứng 8 (1-90)
D
89 Danh tích xứ Lạng- điểm hội tụ sự giao lưu Nam Bắc Đinh ích Toàn 8 (1-90)
90 Danh y Trần Văn Nghĩa và bài phú lễ tục Nguyễn Tá Nhí 21(4-94)
91 Dân tộc Hàn Quốc sáng tạo chữ Hán cùng với các dân tộc khác Jin Tae Ha 20(3-94)
92 Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ của khoa học ngữ văn Nguyễn Quang Hồng 3 (2-87)
93 Di sản Hán Nôm tại huyện Kiến Thụy Hải Phòng Hoàng Văn Lâu 13(2-92)
94 Di sản Hán Nôm và trách nhiệm lịch sử của chúng ta Vũ Khiêu 1 (1-86)
95 Di sản Hán Nôm và vấn đề nghiên cứu truyền thống Trần Nghĩa 26(1-96)
96 Di sản văn hóa Hán Nôm và văn học so sánh Phạm Tú Châu 10(1-91)
97 Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam - một công trình - một thế hệ - một bảng tra cứu hữu ích Bùi Duy Tân 13(2-92)
98 Di văn Tây Sơn trên thủ đô Hà Nội Trần Nghĩa 6 (1-89)
99 Dịch thêm một số thơ chưa được công bố trong Ngục trung nhật ký. Đỗ Quân 8 (1-90)
100 Dương Trực Nguyên, cuộc đời và tác phẩm Lâm Giang 10(1-91)
Đ
101 Đá, thợ khắc và đặc trưng bia thế kỷ XVI Đinh Khắc Thuân 5 (2-88)
102 Đại Việt sử ký toàn thư, bản Nội các quan bản không phải là không kiêng húy Trần Nghĩa 7 (2-89)
103 Đàm Thận Huy và tác phẩm Sĩ hoạn châm qui. Lâm Giang 6 (1-89)
104 Đặc điểm thể loại văn bia Việt Nam Trịnh Khắc Mạnh 17(4-93)
105 Đặc điểm trang trí bia thời Lý Trần Tống Trung Tín 8 (1-90)
106 Đặng Văn Hòa và tập Lễ Trai thi chân bản mới phát hiện Phạm Tuấn Khánh 3 (2-87)
107 Để chữ Nôm Việt Nam cũng có mặt trong “Bảng mã chuẩn quốc tế” (UNICODE và ISO) Ngô Thế Long 15(2-93)
108 Để nắm đúng tư tưởng người xưa Đinh Xuân Lâm 10(1-91)
109 Đêm Trung thu không trăng, một bài thơ Nôm thời Hồng Đức Nguyễn Đăng 5 (2-88)
110 Đền Di ái và tài liệu Hán Nôm tại đây Bùi Xuân Đính 25(4-95)
111 Đi tìm căn cứ gốc cho danh xưng của tác giả Sứ hoa tùng vịnh. Chu Xuân Giao 18(1-94)
112 Đi tìm dị bản của truyện cổ tích Sự tích đền Cờn. Mai Xuân Hải 26(1-96)
113 Đi tìm địa chỉ Ngô Chân Lưu Hoàng Văn Lâu 26(1-96)
114 Đi tìm nguồn gốc và năm xuất hiện của văn bản Binh thư yếu lược hiện có Ngô Đức Thọ 1 (1-86)
115 Địa danh “Bãi cát vàng” trong sử sách Phạm Hân 22(1-95)
116 Địa danh “Bắc Hải” trong Phủ biên tạp lục Phạm Hân 16(3-93)
117 Điện Thái Vi của vua Trần qua văn bia và câu đối trong Viện Hồng Cẩm 2 (1-87)
118 Đình làng Đình Quán và văn bia của vua Lê Hiển Tông Đỗ Thỉnh 23(2-95)
119 Đoàn Huyên - một tác gia Hán Nôm thế kỷ XIX Nguyễn Thị Oanh 12(1-92)
120 Đọc cuốn Nguyễn Khuyến - tác phẩm. Đỗ Thị Hảo 2 (1-87)
121 Đọc cuốn Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán. Vũ Thanh Hằng 20(3-94)
122 Đọc lại Truyện Kiều Thế Anh-Hồ Nguyên 29(4-96)
123 Đọc một cuốn sách về Phan Văn Trị Cao Tự Thanh 12(1-92)
124 Đọc Một số vấn đề về chữ Nôm. Bùi Thanh Hùng 1 (1-86)
125 Đọc sách Nôm Tày Tần Chu Hiền Lương 6 (1-89)
126 Đọc sách Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, tập I Phạm Văn Thắm 7 (2-89)
127 Đọc sách Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết luận cứu (nghiên cứu thảo luận về tiểu thuyết Hán văn ngoài lãnh thổ Trung Quốc) Phạm Văn Thắm 12(1-92)
128 Đọc và hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh Lê Thành Lân 3 (2-87)
129 Đọc vài bài thơ trọng nông của các vua Nguyễn Phan Thuận An 13(2-92)
130 Đóng góp của cứ liệu chữ Nôm trong việc xác định sự biến đổi của các tổ hợp phụ âm KL, PL/BL,TL và ML Hoàng Dũng 25(4-95)
131 Đô thị cổ phố Hiến: thư tịch và bi ký Hán Nôm Ngô Đức Thọ 15(2-93)
132 Đồ hình lịch can chi vĩnh cửu Lê Thành Lân 3 (2-87)
133 Đố chữ Hán trong câu đố tiếng Việt Tảo Trang 6 (1-89)
134 Đôi điều suy nghĩ về việc dịch một số bài thơ trong Ngục trung nhật ký của Hồ Chủ tịch Trần Đắc Thọ 9 (2-90)
135 Đôi nét về bia hậu Dương Thị The - Phạm Thị Thoa 3 (2-87)
136 Đối chiếu các âm tiết Hán - Việt, Hán - Hán với các âm tiết Hán Hòang Trọng Phiến 26(1-96)
137 Đông Hồ khám phá thơ Nôm Mạc Thiên Tích Trương Minh Đạt 27(2-96)
138 Đơn vị hành chính “tổng” xuất hiện từ khi nào Đinh Khắc Thuân 29(4-96)
139 Đường thi giám thưởng từ điển, một cuốn sách cần thiết cho những người yêu thích thơ Đường Thế Anh 16(3-93)
E
140 “Êm nềm” và “Lắm thăn” Nguyễn Quang Hồng 9 (1-88)
G
141 Gặp lại cổ nhân, tiếp cận cái hiện đại, suy nghĩ về cách học ngoại ngữ Bùi Đình Mĩ 16(3-93)
142 Génibrel đã hiểu Lục Vân Tiên như thế nào ? Nguyễn Quảng Tuân 5 (2-88)
143 Giải mã chữ Hán - một phát hiện hay một trò ảo thuật ? Thế Anh 25(4-95)
144 Giáo sư J. Bonnet với chữ Nôm Đặng Đức - Trần Xuân Ngọc Lan 20(3-93)
145 Giáo trình tiếng Hán cổ đại và việc dạy chữ Nôm Hoàng Trọng Phiến 15(2-93)
146 Giới thiệu kho sách thần tích tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Thị Phượng 28(3-96)
147 Giới thiệu kho sách tục lệ thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Thị Phượng 7(2-89)
148 Giới thiệu sơ lược một số loại hình ấn triện thời Nguyễn Nguyễn Công Việt 5 (2-88)
149 Giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam và hội nhập cùng văn hóa khu vực nhờ công nghệ thông tin Ngô Thế Long 24(3-95)
150 Giữ gìn và nghiên cứu di sản Hán Nôm Trần Nghĩa 3 (2-87)
151 Góp một số ý kiến đối với bản từ vựng tiếng Việt do E. Gaspardone tái lập Trần Xuân Ngọc Lan 15(2-93)
152 Góp phần đính chính thư mục về Vũ Phạm Khải Nguyễn Văn Huyền - Phạm Văn Thắm 9 (2-90)
153 Góp phần giải quyết những vấn đề văn bản học đang đặt ra đối với Công dư tiệp ký Trần nghĩa 29(4-96)
154 Góp phần hiểu thêm về sự tích Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc Nguyễn Huy Thức 17(4-93)
155 Góp phần tìm hiểu Tân biên truyền kỳ mạn lục Đinh Văn Minh 29(4-96)
156 Góp phần tìm hiểu thêm về nội dung bài Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du Nguyễn Danh Đạt 14(1-93)
157 Góp phần xác định tác giả một số bài thơ chưa rõ là của Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm Lã Nhâm Thìn 7 (2-89)
158 Góp ý bài Nhân đọc một thiên trong bản dịch Hàn Phi Tử của Lê Văn Quán Đàm Phi Vũ 13(2-92)
159 Góp ý kiến cho sách phiên âm chú giải Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa Đặng Đức-Ngọc Nam 9 (2-90)
H
160 Hai bài thơ khắc trên biển gỗ mới phát hiện Hoàng Lê 29(4-96)
161 Hai bức thư của Đốc Tích Trương Chính - Đinh Xuân Lâm 13(2-92)
162 Hai cuộc cải cách văn ngôn lớn trong lịch sử văn ngôn Trung Quốc Phạm Văn Khoái 29(4-96)
163 Hai mươi bài thơ Nôm lúc đi sứ Trung Quốc của Trịnh Hoài Đức Cao Tự Thanh 2(1-87)
164 Hai tác phẩm y học thế kỷ XV Lâm Giang 27(2-96)
165 Hai tấm bia cổ nói về người Nhật trên đất Quảng Nam - Đà Nẵng Ngô Thế Long 7 (2-89)
166 Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ vu tiểu thuyết của ông Hoàng Lê 1 (1-86)
167 Hai tờ chiếu của vua Cảnh Thịnh gửi những người trong sứ bộ Anh Trần Nghĩa 27(2-96)
168 Hai văn bản chữ Phạn - Góp phần đọc những văn bản chữ Phạn ở Việt Nam Nguyễn Thị Ngân 10(1-91)
169 Hán Nôm học trong những năm đầu thời kỳ đổi mới của đất nước Phan Văn Các 21(4-94)
170 Hán Nôm học với nhà trường Phan Hữu Nghệ 11(2-91)
171 Hệ Đại học Sư phạm tại chức ở các tỉnh phía Nam với việc sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm Hồ Sĩ Hiệp 1 (1-86)
172 Hệ phương pháp và một vài kết quả phân tích thống kê tư liệu văn bia Việt Nam khi nghiên cứu lịch sử - chính trị - xã hội A. L. Phê đô rin 13(2-92)
173 Hiện tượng đọc không chuẩn từ Hán Việt trong văn bản Nôm Nguyễn Thị Lâm 12(1-92)
174 Hiện tượng Stroop trong tiếng Việt Morikawa Yasuo 9 (2-90)
175 Hiệp trấn Hoàng Nguyễn Thự và bài văn chúc mừng quan tân Hiệp trấn Nguyễn Thị Trang 22(1-95)
176 Hiểu biết của Lê Quý Đôn về Kim thạch văn Đinh Công Vĩ 6(1-89)
177 Hiệu đính một số ngày tháng có trong bản dịch cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, phần tiếp, tập I Bản kỷ tục biên Lê Thành Lân 4 (1-88)
178 Họ Đặng làng Lương Xá Trương Sĩ Hùng 29(4-96)
179 Họ Trịnh với những tư liệu hiện còn Trịnh Di -Trịnh Vọng 21(4-94)
180 Họ Vũ làng Mộ Trạch Phạm Thị Thoa 17(4-93)
181 Hoa Nga đại từ điển- một thành tựu mới của nền Hán ngữ học Xô Viết Phan Văn Các 4 (1-88)
182 Hoàng các di văn - một sưu tập các văn kiện đời Lê có giá trị Hoàng Văn Lâu 2 (1-87)
183 Hoàng đế nước Đại Nam kính phúc đáp Hoàng đế nước Đại Phú Lãng Sa trước điện xem thư Tố Am - Tảo Trang 25(4-95)
184 Huỳnh Thúc Kháng tác phẩm hay một sự bôi bác trong khoa học Cao Phi Hồng 19(2-94)
185 Hương ước của một làng ven đô Bùi Xuân Đính - Đinh Khắc Thuân 10(1-91)
K
186 Khánh thành trụ sở mới, kỷ niệm 20 năm thành lập Ban Hán Nôm, nay là Viện Nghiên cứu Hán Nôm Phan Văn Các 10(1-91)
187 Khảo cứu bản dịch Nôm Truyền kỳ mạn lục Paul Schneider 22(1-95)
188 Khảo sát lại những điều kiện tồn tại của những giả thuyết xung quanh vấn đề “Dịch giả Chinh phụ ngâm khúc” Nguyễn Thạch Giang 14(1-93)
189 Khảo sát thêm về ức Trai thi tập. Nguyễn Văn Nguyên 4(1-88)
190 Kiểm kê, phân loại và sơ bộ đánh giá tác phẩm Trương Đăng Quế Trần Nghĩa 19(2-94)
191 Lại bàn về “Thu thanh” hay “Thung thanh” Tảo Trang 13(2-92)
192 Lại thêm một bản dịch Trường hận ca Thế Anh 23(2-95)
193 Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh Hoàng Hưng 8 (1-90)
194 Lê Anh Tuấn Thượng thư, nhà thơ đầu thế kỷ XVIII Nguyễn Tuấn Lương 8 (1-90)
195 Lịch, lịch sử kinh tế chính trị và chiến tranh Nguyễn Thường 12(1-92)
196 Liệt nữ ở An ấp là người nào ? Hoàng Hữu Yên 29(4-96)
197 Lối đánh đấu cá trong chữ Nôm Nguyễn Tá Nhí 2 (1-87)
198 Lời dẫn cho một bộ sách sắp xuất bản: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam - Tuyển chọn và lược thuật. Nguyễn Quang Hồng 13(2-92)
199 Lý hoặc luận, bông hoa đầu mùa của Phật giáo Luy Lâu Trần nghĩa 10(1-91)
200 Lý Trần Quán và tác phẩm Thiên Nam lịch khoa hội phú tuyển Đỗ Thỉnh 8 (1-90)
M
201 Mai Hồ thi thảo tiếng thơ bi phẫn trước thời cuộc Nguyễn Tiến Đoàn 24(3-95)
202 Mấy nhận xét về việc phiên âm và khảo đính Nhị độ mai. Nguyễn Quảng Tuân 27(2-96)
203 Mấy sáng tác của nhà văn học Nguyễn Quỳnh Tảo Trang 11(2-91)
204 Mấy suy nghĩ về Bát quái Đỗ nguyên Đương 29(4-96)
205 Mấy ý kiến nhân đọc Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán. Trần Ngọc Thuận 25(4-95)
206 Một bài hịch chống Pháp xâm lược Trương Chính - Đinh Xuân Lâm 9 (2-90)
207 Một bài ký của Lương Thế Vinh mới phát hiện Hoàng Lê 11(2-91)
208 Một bài thơ Nôm của Nguyễn Khản mới phát hiện Nguyễn Xuân Diện 17(4-93)
209 Một bài văn bia của Phùng Khắc Khoan La Đức Tô - HoàngVăn Phẩm - Nguyễn Hữu Uẩn - Bùi Xuân Vĩ 18(1-94)
210 Một bài văn bia tưởng nhớ thầy học của Phan Bội Châu Hồ Liệu 29(4-96)
211 Một bài văn tế bằng chữ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan Vũ Thanh Hằng 8(1-90)
212 Một bản dịch Truyện Kiều độc đáo Thế Anh 26(1-96)
213 Một bản địa bạ đời Thái Đức Huỳnh Công Bá 17(4-93)
214 Một bản Lục Vân Tiên in bằng chữ Nôm mang niên đại sớm nhất vừa tìm thấy ở Paris Trần Nghĩa 14(1-93)
215 Một bộ sách mới đáng trân trọng Vũ Ngọc Khánh 18(1-94)
216 Một bức thư cuối thế kỷ XVII, triều đình Lê Trịnh gửi vua nước Pha Lan Sa Nguyễn Tài Cẩn 28(3-96)
217 Một cách ghi năm âm lịch cần biết Đào Thái Tôn 28(3-96)
218 Một cách hiểu bài thơ Sinh lão bệnh tử của Ni sư Diệu Nhân Phan Hữu Nghệ 10(1-91)
219 Một công trình hội yếu và chỉ dẫn về các bậc đại khoa: Các nhà khoa bảng Việt Nam. Nguyễn Đăng Na 21(4-94)
220 Một công trình khảo dị có giá trị về thơ ca Việt Nam nửa cuối thế kỷ XV : Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông Nguyễn Đăng Na 23(2-95)
221 Một cuốn sách dịch quá cẩu thả Trần Ngọc Thuận 21(4-94)
222 Một cuốn sách đồng đề năm Hồng Đức 3 (1472) ở đền Cầu Không (Nam Hà) Nguyễn Hữu Mùi 14(1-93)
223 Một cuốn sách đồng ở Hà Nội Duơng Thị The 5 (2-88)
224 Một dị bản của bài thơ “Xuân hứng” Nguyễn Công Lý 28(3-96)
225 Một giả thuyết về từ nguyên của từ “Nôm” Trần Xuân Ngọc Lan 4 (1-88)
226 Một lầm lẫn về văn bản học của Phủ biên tạp lục cần được đính chính Phạm Hân 15(2-93)
227 Một số bài thơ khắc ở vách đá khắc trong hang Trầm Bạch Văn Luyến 4 (1-88)
228 Một số chỗ cần xem lại trong cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam. Đỗ Thỉnh 21(4-94)
229 Một số loại hình ấn triện triều Nguyễn Nguyễn Công Việt 7 (2-89)
230 Một số tài liệu mới phát hiện về Phan Châu Trinh Đoàn Khoách 16(3-93)
231 Một số vấn đề về niên đại bia Việt Nam Đinh Khắc Thuân 3 (2-87)
232 Một số ý kiến nhận xét về cuốn Từ điển Trung Việt. Đặng Đình Minh 14(1-93)
233 Một số ý kiến về Chữ nghĩa Truyện Kiều. Đinh Trần Cương 11(2-91)
234 Một số ý kiến về hai bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; Thác lời trai phường nón của Nguyễn Du và Thác lời trai phường vải của Nguyễn Huy Quýnh NguyễnThạch Giang - Nguyễn Huy Mĩ 9 (2-90)
235 Một tài liệu cổ do người Việt Nam viết về Nhật Bản - cuốn Nhật Bản kiến văn lục Ngô Thế Long 8 (1-90)
236 Một tấm bia góp tìm hiểu quê quán Tô Hiến Thành Nguyễn Thị Thảo 17(4-93)
237 Một tấm bia vừa phát hiện, có nhiều mặt liên quan đến tiểu sử Nguyễn Văn Siêu Trần Lê Sáng 26(1-96)
238 Một tư liệu về Hồ Bá Ôn Thanh Đạm 6 (1-89)
239 Một vài nét khác biệt về mặt ngôn ngữ (ngữ pháp) giữa hai nhóm văn bản Hán Nôm trong Thơ văn Lý Trần (tập 1) Phạm Văn Khoái 28(3-96)
240 Một vài nghi vấn được giải đáp qua việc nghiên cứu văn bản Diệu Liên thi tập Đỗ Thị Hảo 17(4-93)
241 Một vài đóng góp để chỉnh lý bản phiên dịch ức Trai thi tập. Nguyễn Quảng Tuân 7 (2-89)
242 Một vài nhận xét về cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam Việt Tâm - Kiên Trường 20(3-94)
243 Một vài số liệu qua đợt tổng kiểm kê sưu tầm tư liệu Hán Nôm ở huyện Từ Liêm Nguyễn Doãn Tuân 1 (1-86)
244 Một vài suy nghĩ trước những số liệu Nguyễn Đức Bạch -Nguyễn Doãn Tuân 6 (1-89)
245 Một vài trường hợp hiệu đính và phiên âm thơ Nôm Trần Lê Văn 7 (2-89)
246 Một vài ý kiến nhỏ về bản dịch Bình Ngô đại cáo trong sách giáo khoa Nguyễn Cảnh Phức 19(2-94)
247 Mười tám tấm bia Nôm ở chùa Phật giáo Nguyễn Thị Trang 2 (1-87)
248 Mượn việc “giáng bút” để lưu hành thơ văn yêu nước Vũ Đình Ngạn - Triệu Triệu 19(2-94)
N
249 Nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học Hán Nôm Đinh Trọng Thanh 11(2-91)
250 Nét tài hoa riêng của Tản Đà trong thơ dịch Trần Thị Băng Thanh 7 (2-89)
251 Nên chăng ? Bùi Hạnh Cẩn 2 (1-87)
252 Nên chọn tác phẩm nào là sớm nhất của văn học Trung đại Việt Nam Bùi Duy tân 15(2-93)
253 Ngày xuân điểm thơ xưa Duy Phi 26(1-96)
254 Nghiên cứu các dòng họ, Cơ sở khoa học và phương pháp giải quyết các vấn đề đặt ra Phan Văn Các 28(3-96)
255 Ngôi đình Vật và tấm bia đá ở Mão Điền Nguyễn Duy Hợp 20(3-94)
256 Ngục trung nhật ký - nghiên cứu văn bản học Phan Văn Các 7 (2-89)
257 Nguyễn Quỳnh có phải là Trạng Quỳnh không ? Đào Thái Tôn 20(3-94)
258 Nguyễn Quỳnh và Trạng Quỳnh Vũ Tuân Sán 27(2-96)
259 Nguyễn Thượng Hiền và bài Giang hồ ngẫu hứng Lê Xuân Hòa 13(2-92)
260 Nguyễn Tông Quai - niên biểu tác phẩm Chu Xuân Giao 20(3-94)
261 Ngữ văn học cổ điển - một hướng tiếp cận và thâm nhập kho tàng di sản Hán Nôm Đặng Đức Siêu 1 (1-86)
262 Người ta lại nghi ngờ cả Nguyễn Đình Chiểu sao? Cao Tự Thanh 23(2-95)
263 Người Việt và họ Nguyễn Diệp Đình Hoa 4 (1-88)
264 Nhân dịch bài văn bia của Vũ Thạnh Hiền Lương 8 (1-90)
265 Nhân đọc Bảng tra chữ Nôm miền Nam vừa xuất bản Vũ Thanh Hằng 18(1-94)
266 Nhân đọc cuốn Từ và ngữ Hán Việt. Nguyễn Cảnh Phức 15(2-93)
267 Nhân đọc Giai thoại Hán Nôm. Đồ Vườn 24(3-95)
268 Nhân đọc một thiên trong Hàn Phi Tử Lê Văn Quán 11(2-91)
269 Nhìn lại bốn số Nghiên cứu Hán Nôm vừa qua Hoàng Văn Lâu 1 (1-86)
270 Nhớ một người bạn vong niên, giới thiệu hai bài thơ Nôm mới tìm thấy của Nguyễn Quí Đức Trần Lê Văn 3 (2-87)
271 Những bài ca dao xứ Huế được mở đầu bằng hai câu theo hình thức Hán văn Triều Nguyên 27(2-96)
272 Những bài dịch Đường thi đầu tiên trong văn học Việt Nam Nguyễn Quảng Tuân 22(1-95)
273 Những ghi chép về Đông Nam á trong Đại Thanh thực lục Thế Tăng 5 (2-88)
274 Những khía cạnh văn bản liên quan đến mảng thư tịch thần tích Nguyễn Hữu Mùi 22(1-95)
275 Những sai lầm trong cuốn tự điển Génibrel Nguyễn Quảng Tuân 3 (2-87)
276 Những tài nữ và tiết phụ họ Phan trên đất Hồng Lam vào cuối thời Lê Hoàng Hữu Yên 27(2-96)
277 Những vấn đề văn bản học của Chu Dịch được giải quyết như thế nào Phan Văn Các 7 (2-89)
P
278 Phả ghi trên đá của dòng họ Ngô ở Đông Hồ Nguyễn Huy Thức 6 (1-89)
279 Phả ghi trên lụa của dòng họ Bùi ở Nộn Khê Nguyễn Huy Thức 11(2-91)
280 Phạm Hi Lượng, cuộc đời và tác phẩm Việt Anh 25(4-95)
281 Phát hiện ư ? Khiêm nhường ư ? Phan Văn Các 26(1-96)
282 Phong cách học văn tự (Stylistique graphique) một đặc điểm của ngôn ngữ Hán Phan Văn Các 11(2-91)
283 Phong dao tạp thái, một quyển ca dao cổ Nguyễn Đăng Na 8 (1-90)
284 Phủ biên tạp lục: quá trình biên soạn, thể lệ và các truyền bản Vu Hướng Đông 21(4-94)
285 “Phương thảo” “Thanh thảo” và ấu học ngũ ngôn thi Tảo Trang 29(4-96)
Q
286 Qua văn thơ Nôm tìm hiểu cách phiên định từ loại của người xưa Nguyễn Ngọc San 22(1-95)
287 Quá trình hình thành văn bản Quốc triều hương khoa lục Nguyễn Thúy Nga 16(3-93)
288 Quản giám bách thần Nguyễn Hiền, ông là ai ? Nguyễn Hữu Mùi 24(2-95)
289 Quốc âm tân tự, một phương án chữ Việt ghi âm thế kỷ XIX. Nguyễn Quang Hồng 1 (1-86)
R
290 Rồng Trung Quốc Trịnh Khắc Mạnh - Nguyễn Văn Nguyên 18(1-94)
S
291 Sách, các kiểu đóng sách và tên gọi các bộ phận của một cuốn sách cổ Thọ Nhân 27(2-96)
292 Sách có nội dung giáo dục gia đình hiện tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Lê Thu Hương 28(3-94)
293 Sách dạy - học chữ Hán, một di sản tư tưởng lớn đối với sự nghiệp vĩ đại nâng cao dân trí hiện nay Bùi Đình Mĩ 27(2-96)
294 Sách giáo khoa văn phổ thông, nhìn từ góc độ Hán Việt Lê Anh Tuấn 27(2-96)
295 Sách Hán Nôm lưu trữ ở Leiden (Hà Lan) Trương Văn Bình 13(2-92
296 Sách Hán Nôm tại Thư viện vương quốc Anh Trần Nghĩa 24(3-95)
297 Sáu bức thư hay cuộc tranh luận sôi nổi giữa Đạo Cao, Pháp Minh với Lý Miễu về việc không thấy chân hình của Phật Trần Nghĩa 23(2-95)
298 Sơ bộ tìm hiểu tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán ở Việt Nam Trần Nghĩa 18(1-94)
299 Sơ bộ tìm hiểu vai trò của bộ khẩu Hán trong cấu tạo chữ Nôm Lã Minh Hằng 19(2-94)
300 Suy nghĩ về cách dịch sách triết học Trung Hoa cổ Phan Ngọc 11(2-91)
301 Sự tích thánh Tản Viên diễn ca Nguyễn Đăng 12(1-92)
302 Sứ trình tiện lâm khúc - Tác phẩm thơ chữ Nôm của Lý Văn Phức Dương Thị The 12(1-92)
303 Sưu tầm tài liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Thanh Trì, Hà Nội Nguyễn Doãn Tuân 2 (1-87)
T
304 Tài liệu Hán Nôm tại cụm di tích Nguyễn Công Triều ở làng Đông Lao (Hoài Đức Hà Tây) Bùi Xuân Đính 22(1-95)
305 Tào Thái Hầu là ai ? Đỗ Thỉnh 9 (2-90)
306 Tạo chữ Nôm trên máy tính Đỗ Nguyên Đương 27(2-96)
307 Tạp chí Hán Nôm sau 10 số Trần Nghĩa 11(2-91)
308 Tấm bia chùa Sét Đỗ Thỉnh 14(1-93)
309 Tấm bia Bác Hồ đọc ở Côn Sơn Nguyễn Tuấn Thịnh 1 (1-86)
310 Tấm bia mới phát hiện Nguyễn Thị Thảo 3 (2-87)
311 Tấm bia Nôm chùa Hồng Liên Trương Đức Quả 21(4-94)
312 Tân truyền kỳ lục và Phạm Quí Thích Nguyễn Văn Huyền 10(1-91)
313 Tân Việt Nam, một bước phát triển rõ rệt của Phan Bội Châu về tư tưởng dân chủ Đinh Xuân Lâm 7 (2-89)
314 Tên gọi Việt Nam trong bia đá thời Lê Trung Hưng Phạm Thị Vinh 21(4-94)
315 Thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm của GS. Todo Akiyasu Lã Minh Hằng 14(1-93)
316 Tì bà hành, một bản dịch Hán - Nôm mẫu mực Thế Anh 15(2-93)
317 Tiếng Hán trong thơ Hồ Chí Minh Phan Văn Các 1 (1-86)
318 Tiếng Nhật và việc dùng các thành tố Hán để biểu thị ý nghĩa trong hệ thống WAJI hội ý Lã Minh Hằng 22(1-95)
319 Thân Nhân Trung con người và tác phẩm Lâm Giang 4 (1-88)
320 Thần Siêu dựng Phương Đình dạy học từ bao giờ? Vũ Thế Khôi 25(4-95)
321 Thêm bốn bài thơ Lư Khê nhàn điếu của Mạc Thiên Tích Cao Tự Thanh 28(3-96)
322 Thêm một bản gia phả khắc trên đá: Phạm tướng công gia phả Hoàng Lê 19(2-94)
323 Thêm một bản địa bạ đời Thái Đức Huỳnh Công Bá - Cung Khắc Lược 22(1-95)
324 Thêm một cứ liệu về nội các Phạm Văn Thắm 8 (1-90)
325 Thêm một số bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Doãn Tuân 11(2-91)
326 Thêm một số thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Cao Tự Thanh 5 (2-88)
327 Thêm một tư liệu về Đặng Văn Hòa Phan Đình ứng 14(1-93)
328 Thêm một tác giả thơ đời Trần: Nguyễn Chế Nghĩa Phạm Tú Châu 1 (1-86)
329 Thi liệu Hán học trong các văn bản thơ Nôm Nguyễn Thúy Hồng 23(2-95)
330 Thơ đề hang Hổ Gầm và lời dẫn Lưu Đình Tăng 9 (2-90)
331 Thơ văn Nguyễn Quí Đức, văn bản và tác phẩm Nguyễn Thúy Nga 11(2-91)
332 “Thu thanh” hay là “Thung thanh” ? Hoàng Hữu Xứng 26(1-96)
333 “Thu thanh” hay “Thung thanh” ? Nguyễn Quảng Tuân 2 (1-87)
334 Thủ pháp đối lập quá khứ/hiện tại trong thơ Đường và sự thể hiện thủ pháp ấy ở một số bản dịch tiếng Việt Nguyễn Tuyết Hạnh 27(2-96)
335 Thư mục sách Hán Nôm tại Đông Dương văn khố Nguyễn Thị Oanh 21(4-94)
336 Thư pháp của Hoàng Hi Đỗ Kim Anh 22(1-95)
337 Thư Quang Trung gửi Thang Hồng Nghiệp Hoàng Văn Lâu 5 (2-88)
338 Thư Quang Trung gửi Tổng đốc Lương Quảng Phúc Khang An Hoàng Văn Lâu 5 (2-88)
339 Thư tịch cổ Trung Hoa với chữ nghĩa văn Nôm Nguyễn Thạch Giang 15(2-93)
340 Thư viện Thái Bình với số sách Hán Nôm trong tỉnh Phạm Đức Duật 23(2-95)
341 Thử bàn về cách dạy chữ Nôm trong các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm Lê Văn 11(1-92)
342 Thử bàn về những đóng góp của mảng tư liệu Hán Nôm trên Tạp chí Nam Phong Chu Tuyết Lan 12(1-92)
343 Thử đưa ra quan niệm và cách giải thích về chữ Nôm cổ Nguyễn Ngọc San 16(3-93)
344 Thử giải thích một trường hợp dị tự trong các dị bản của Khai Nghiêm bi ký Đào Phương Chi 25(4-95)
345 Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại Trần Nghĩa 2 (1-87 )
346 Thử soi sáng đôi điều trong sách Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo của Trần Kinh Hòa (Chen Ching Ho) Trương Minh Đạt 28(3-96)
347 Thử tìm hiểu địa danh Binh Hiệp Phạm Thị Thoa 9 (2-90)
348 Thử tìm hiểu những yếu tố biện chứng chất phác trong Chu Dịch Lê Văn Quán 24(3-95)
349 Thử tìm hiểu tên chúa Nguyễn đời thứ năm Đoàn Khoách 28(3-96)
350 Thử xác định số lượng văn kiện Từ mệnh trung quân hiện còn Nguyễn Văn Nguyên 14(1-93)
351 Thử xác lập văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà Trần Nghĩa 1 (1-86)
352 Thượng Cổ xã Tam Sơn đồng dân công đức chí một văn bản có giá trị Bùi Xuân Đính 17(4-93)
353 Tiểu thuyết chữ Hán của Nhật Bản Trần Nghĩa 17(4-93)
354 Tiểu thuyết chữ Hán của Triều Tiên Trần Nghĩa 16(3-93)
355 Tìm được cuốn gia phả dòng họ Trịnh Khả Nguyễn Doãn Tuân 1 (1-86)
356 Tìm hiểu các văn bản bộ sách Ngô gia văn phái Trẫn Thị Băng Thanh 4 (1-88)
357 Tìm hiểu giá trị và cấu trúc điển cố trong tác phẩm Nôm Nguyễn Ngọc San 8 (2-92)
358 Tìm hiểu Kim cổ cách ngôn của Lương Văn Can Phạm Quốc Bằng 18(1-94)
359 Tìm hiểu làng Phượng Dực qua một số sách Hán Nôm Nguyễn Tá Nhí 19(2-94)
360 Tìm hiểu mô hình hình thanh trong cấu trúc chữ Nôm Nguyễn Ngọc San 1 (1-86)
361 Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm Nguyễn Hữu Mùi- Mai Ngọc Hồng 1 (1-86)
362 Tìm hiểu nghĩa của từ “mỗ” Nguyễn Tá Nhí 4 (1-88)
363 Tìm hiểu nguồn sách Lê Quý Đôn đã đọc qua khảo sát Vân đài loại ngữ Nguyễn Tuấn Thịnh-Nguyễn Kim Sơn 23(2-85)
364 Tìm hiểu niên đại của Toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư Phạm Hân 18(1-94)
365 Tìm hiểu phương pháp trình bày phân loại sách vở trong Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn Đinh Công Vĩ 12(1-92)
366 Tìm hiểu tác giả Toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư Phạm Hân 26(1-96)
367 Tìm hiểu thêm về Nguyễn Hoàn Phạm Thị Thoa 13(2-92)
368 Tìm hiểu tiếng “chưng” qua một vài văn bản Nôm Bùi Thanh Tùng 2 (1-87)
369 Tìm hiểu tiểu thuyết Hán văn của Phác Yến Nham Phạm Văn Thắm 16(3-93)
370 Tìm hiểu tính chất “cổ” của chữ Nôm trong Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú Hoàng Hồng Cẩm 28(3-96)
371 Tìm hiểu việc sưu tầm và bình luận sử sách trong Quần thư khảo biện của Lê Quý Đôn Đinh Công Vĩ 10(1-91)
372 Tìm thấy bốn bài thơ Nôm trong gia phả họ Nguyễn Gia Nguyễn Duy Hợp 23(2-95)
373 Tinh biên kim thạch đại từ điển, một cuốn sách tra cứu cần thiết Trịnh Khắc Mạnh 14(1-93)
374 Tình hình nghiên cứu chữ Nôm những năm qua Trương Đức Quả 17(4-93)
375 Tình hình văn bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú hiện còn ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hoàng Hồng Cẩm 26(1-96)
376 Tình hình văn bản thơ chữ Hán Lê Thánh Tông Mai Xuân Hải 14(1-93)
377 Tính kế thừa và sáng tạo trong phương pháp thư mục học của Trần Văn Giáp (qua thư mục Tìm hiểu kho sách Hán Nôm) Trịnh Kim Chi 28(3-96)
378 Trạng nguyên Đặng Công Chất và dòng họ Đặng của ông Đỗ Thỉnh 10(1-91)
379 Trao đổi ý kiến về từ “nhất chi mai” trong bài thơ Cáo tật thị chúng Thế Anh 19(2-94)
380 Trao đổi ý kiến về việc dịch thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh Trần Đắc Thọ 11(2-91)
381 Trần quý thị lưu trạch bi Hoàng Lê 28(3-96)
382 Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện Nguyễn Đăng Na 5 (2-88)
383 Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp hay ngành Đông phương học sôi động ở Pháp Christiane Pasquel - Rageau 7 (2-89)
384 Tục công dư tiệp ký, tác giả và tác phẩm Nguyễn Đăng Na 6 (1-89)
385 Tuyển dịch một số truyện truyền kỳ ưu tú đời Đường Tống Xuân Huy - Hoàng Hưng 9 (2-90)
386 Tư liệu Hán Nôm liên quan đến Thừa Thiên - Huế lưu trữ tại kho tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Thị Phượng 15(2-93)
387 Tư liệu Hán Nôm ở huyện Tiên Sơn Thuận Thành và thị xã Bắc Ninh tỉnh Hà Bắc Lâm Giang 15(2-93)
388 Tư liệu Hán Nôm ở khu di tích Đình Giá Nguyễn Thị Oanh 6 (1-89)
389 Tư liệu trong các thư viện triều Nguyễn Phan Thuận An 20(3-94)
390 Từ bản dịch bài tổng luận của Lê Tung suy nghĩ về việc dịch một văn bản Hán cổ Nguyễn Đăng Na 3 (2-87 )
391 Từ cách dịch đến cách hiểu nội dung bài thơ Ngôn hoài của thiền sư Không Lộ Trần Ngọc Chùy 22(1-95)
392 Từ cây “nhất chi mai” mà hiểu rõ một câu thơ đời Lý Diệu Hòa - Hữu Ngọc 15(2-93)
393 Từ điển song ngữ Hán Việt do các học giả Việt Nam biên soạn Phan Văn Các 18(1-94)
394 Tự Đức, Khiêm cung ký và lịch sử Phan Hứa Thụy 4 (1-88)
395 Từ Hán Việt nhìn từ góc độ lịch sử Nguyễn Ngọc San 19(2-94)
396 Từ “Loi” của đạo Cơ đốc và “Pháp” của đạo Phật, lí giải “Đạo” của Lão Tử Trần Nghĩa 22(1-95)
397 Từ ngữ hình tượng về cuộc đời và con người trên văn bản thơ văn Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Thạch Giang 5 (2-88)
V
398 Vài bản dịch Liêu trai chí dị đầu thế kỷ XX ở Lục tỉnh Cao Tự Thanh 29(4-96)
399 Về bản chúc thư của viên quan lang Đinh Thế Thọ ở vùng mường Thanh Sơn Vĩnh Phú thế kỷ XV Trịnh Khắc Mạnh 11(2-91)
400 Vài nét về bản Thúc ước quốc ngữ văn của làng Hữu Lập, xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An Trần Minh Thúy 24(3-95)
401 Vài nét về cụm văn bia ở văn chỉ làng Nguyệt áng Nguyễn Thị Trang 10(1-91)
402 Vài nét về cuốn sách Nôm Tam thiên tự lịch đại văn quốc âm ầmHoang Hưng 7 (2-89 )
403 Vài nét về Đông Dương văn khố và phông sách Hán Nôm tại đây Nguyễn Thị Oanh 18(1-94)
404 Vài nét về hai quả chuông thời Tây Sơn tại Sài Sơn - Hà Sơn Bình Thùy Vinh 2 (1-87)
405 Vài nét về Kim ngọc bảo tỉ triều Nguyễn Nguyễn Công Việt 18(1-94)
406 Vài nét về Kim thạch và khoa nghiên cứu Kim thạch ở Trung Quốc Đinh Khắc Thuân 12(1-92)
407 Vài nét về loại sách liên quan đến thư pháp trong kho sách Hán Nôm Phan Đình ứng 4 (1-88)
408 Vài nét về nền Hán học cũ ở Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp Quốc Anh 2 (1-87)
409 Vài nét về số ấn đồng ở Viện Bảo tàng lịch sử Nguyễn Công Việt 2 (1-87)
410 Vài nét về tình hình phân bố tài liệu Hán Nôm ở bốn huyện phía Bắc ngoại thành Hà Nội Nguyễn Doãn Tuân 4 (1-88)
411 Vài nét về tình hình tư liệu Hán Nôm ở hai huyện Xuân Thủy, Lý Nhân và thành phố Nam Định Phạm Văn Thắm 13(2-92)
412 Vài nét về tình hình văn bản của bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh Hoàng Thị Ngọ 14(3-95)
413 Vài nét về văn ngôn Phạm Văn Khoái 26(1-96)
414 Vài nét về việc mua bán quyền hát cửa đình qua một số tư liệu văn bia Nguyễn Hữu Mùi 7 (2-89)
415 Vài nhận xét về tình hình ghi từ lấp láy bằng chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi Trần Kim Anh - Hoàng Thị Ngọ 2 (1-87)
416 Vài ý kiến trao đổi về bản phiên âm Thiên nam ngữ lục Nguyễn Thị Lâm - Hoàng Thị Ngọ 19(2-94)
417 Vài ý kiến về quyển Chữ nghĩa Truyện Kiều của Nguyễn Quảng Tuân Đinh Trần Cương 12(1-92)
418 Vài ý kiến về việc chú giải và dịch chữ Hán trong sách Văn lớp 10 Nguyễn Ngọc San 14(1-93)
419 Vài ý nhỏ về bài Bàn về một chữ trong bài thơ cổ Trần Đắc Thọ 27(2-96)
420 Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ VIII Đinh Khắc Thuân - Hoàng Ngọc 2 (1-87)
421 Văn bản chữ Hán trên pho tượng Phật thế kỷ XV mới được phát hiện tại Hà Bắc Phạm Thị Vinh 17(4-93)
422 Văn bản Cổ châu Phật bản hạnh Lê Việt Nga 16(3-93)
423 Văn bản Quốc triều khoa bảng lục và quá trình biên soạn Đăng khoa lục đại khoa triều Nguyễn Nguyễn Thúy Nga 21(4-94)
424 Văn bản và giá trị học thuật của Hoan Châu ký Trần Nghĩa 4 (1-90)
425 Văn bia ở di tích Cổ Loa Nguyễn Doãn Tuân 22(1-95)
426 Văn chuông chùa Đà Quận - Viên Minh tự, một tư liệu quí về thời Mạc Cung Văn Lược - Chu Quang Trứ 18(1-94)
427 Vấn đề “Biệt lục” và “Bổ di” của sách Lịch triều đăng khoa lục Nguyễn Thúy Nga 26(1-96)
428 Vấn đề miêu tả thiên nhiên trong thơ ca cổ Việt Nam Phạm Khánh Cao 5 (2-88)
429 Vấn đề tác giả và mặt đóng góp của Nam Thiên trân dị tập. Trần Nghĩa 28(3-96)
430 Vấn đề văn bản trong thơ Đỗ Nhuận Nguyễn Tuấn Lương 4 (1-88)
431 Về bài di chúc của Nguyễn Khuyến Nguyễn Quảng Tuân 10(1-91)
432 Về bài Giáo trình tiếng Hán cổ đại và việc dạy chữ Nôm của ông Hoàng Trọng Phiến Nguyễn Thanh Bình 17(4-93)
433 Về bài thơ Nôm của Bùi Xương Trạch Đêm thu không trăng Tảo Trang 7 (2-89)
434 Về bản chúc thư của viên quan lang Đinh Thế Thọ ở vùng Mường Thanh Sơn Vĩnh Phú thế kỷ XV Trịnh Khắc Mạnh 11(2-91)
435 Về bản dịch Vân đài loại ngữ của Trần Văn Giáp Đinh Công Vĩ - Lê Việt Nga 2 (1-87)
436 Về bản Đại Việt sử ký toàn thư in ván gỗ của Phạm Công Trứ mới được tìm thấy Ngô Thế Long 4 (1-88)
437 Về bộ sách đỏ Bách khoa toàn thư - Tinh túy văn học cổ điển Trung Quốc Nguyễn Ngọc San 28(3-96)
438 Về bộ sưu tập văn chương Hàn các tùng đàm Hoàng Văn Lâu 4 (1-88)
439 Về bộ Thư mục bia giản lược vừa biên soạn xong Hoàng Lê 5 (2-88)
440 Về “Bức thư để lại của Phạm Hồng Thái” Phan Văn Các 23(2-95)
441 Về bức thư Gửi phụ lão toàn quốc của Hồ Chủ tịch trước Cách mạng Tháng 8 Vũ Tuân Sán 28(3-96)
442 Về công trình Hiện tượng vay mượn hình chữ từ chữ Hán: Trường hợp chữ Nôm - chữ bình dân của Việt Nam của GS. Nguyễn Đình Hòa Chu Tuyết Lan 23(2-95)
443 Về cuốn Bùi gia lịch thế sự trạng tìm được ở Thái Bình Nguyễn Tiến Đoàn 19(2-94)
444 Về cuốn xã chí cổ mới tìm được Đỗ Thỉnh 12(1-92)
445 Về di cảo thơ văn của Vũ Tông Phan Vũ Thế Khôi 20(3-94)
446 Về diễn biến cấu trúc của chữ “cửa” Nôm trong một số văn bia Hán Trương Đức Quả 25(4-95)
447 Về đạo sắc Tử Dương thần từ sớm nhất hiện còn Chu Quang Trứ 22(1-95)
448 Về đôi kiểu ngắt câu và hiểu ý câu trong văn bản cổ Quang Hưng 1 (1-86)
449 Về hai tấm bia niên đại Chính Hòa ở Lạng Sơn Hoàng Giáp 7 (2-89)
450 Về lời bạt quyển Lĩnh nam trích quái Dương Bảo Quân 19(2-94)
451 Về một bản khoán lệ liên quan đến vấn đề học tập Nguyễn Hữu Mùi 19(2-94)
452 Về một bộ luật được soạn thảo in khắc vào thời Lê: Quốc triều hình luật Dương Ngọc 11(2-91)
453 Về một đôi câu đối độc đáo ở chùa Giác Lâm Cao Tự Thanh 16(3-93)
454 Về một số chỗ hiệu đính của Nguyễn Thạch Giang trong Truyện Kiều Mai Lệ 4 (1-88)
455 Về một số văn bia Nôm mới được sưu tầm trong những năm gần đây Trương Đức Quả 28(3-96)
456 Về năm sinh năm mất của Nguyễn Kiều Nguyễn Thị Nguyệt 13(2-92)
457 Về nghĩa của từ “triện hương” trong thơ Nôm Kim Anh 23(2-95)
458 Về những bài thơ Hán Nôm tự dịch của Nguyễn Khuyến Tảo Trang 9 (2-90)
459 Về những thác bản văn khắc chữ Nôm ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Trịnh Khắc Mạnh- Trương Đức Quả 19(2-94)
460 Về những văn bản bia khuyến khích việc học tập trong nền giáo dục khoa cử thời kỳ phong kiến ở nước ta Nguyễn Hữu Mùi 10(1-91)
461 Về quê hương và năm sinh năm mất của Phạm Sĩ ái Nguyễn Thị Nguyệt 23(2-95)
462 Về tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu Chương Thâu 3 (2-87)
463 Về tác phẩm và văn bản 10 bài thơ Khuê phụ thán Vũ Thanh Hằng 13(2-92)
464 Về tấm bia đồng tại đình làng Quan Nhân, huyện Từ Liêm, Hà Nội Phạm Văn Thắm 2 (1-87)
465 Về thân thế và sự nghiệp Tiến sĩ Vũ Tông Phan Vũ Thế Khôi 16(3-93)
466 Về thiền sư Tích Mộ, người tổ chức khắc hai bộ ván in sự tích đức Phật chùa Dâu Lưu Đình Tăng 20(3-94)
467 Về tiểu sử Nguyễn Anh Tuấn Nguyễn Xuân Diện 11(2-91)
468 Về từ “ngài” trong câu thơ Truyện Kiều Nguyễn Thiện Chí 9 (2-90)
469 Về văn bản bài hịch Tây Sơn và hai trường hợp phiên âm trong bài hịch này Liên Việt Mai 2 (1-87)
470 Về văn bản bộ sách Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục Nguyễn Hữu Mùi 12(1-92)
471 Về văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu Hoàng Văn Lâu 21(4-94)
472 Về văn bản tập Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh Hoàng Văn Lâu 6 (1-89)
473 Về văn bản thơ Nguyễn Đề Nguyễn Thị Phượng 4 (1-88)
474 Về văn bản và tác giả của Mẫn Hiên thuyết loại Hoàng Văn Lâu 6 (1-89)
475 Về văn bản Việt sử cương giám khảo lược Dương Thái Minh - Nguyễn Thúy Nga 3 (2-87)
476 Về vấn đề khảo chứng Truyện Kiều Nguyễn Quảng Tuân 8 (1-90)
477 Về vị thần thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội Mai Hồng 16(1-96)
478 Về việc biên soạn cuốn lịch 2000 năm của Việt Nam Lê Thành Lân 9 (2-90)
479 Về việc dạy và học Hán Nôm ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội Nguyễn Danh Đạt 11(2-91)
480 Vì sao thần tích lại tàng trữ ở đền Hùng ? Hoàng Lê 24(3-95)
481 Vì sự nghiệp bảo tồn vốn văn hóa của dân tộc Lê Hữu Tầng 10(1-91)
482 Viện Nghiên cứu Hán Nôm 15 năm xây dựng và phát triển Trịnh Khắc Mạnh 21(4-94)
483 Viết chữ Hán, một môn nghệ thuật độc đáo Thế Anh 27(2-96)
484 Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, một công trình hợp tác khoa học quốc tế có giá trị Nguyễn Thị Hoàng Quý 11(3-93)
485 Việt sử cương mục tiết yếu, vài nét về tác giả và tác phẩm Hoàng Văn Lâu 24(3-95)
486 Việt sử lược với bản tiếng Nga của A.B. Pôliacốp Nguyễn Đăng Na 25(4-96)
487 Vũ gia thế phả và lai lịch một vị tướng của vua Quang trung Đỗ Thỉnh 26(1-96)
488 Vùng Lâm Lộc và đàn Nam Giao cuối thế kỷ XVIII qua văn khế Lê Nguyễn Lưu 20(3-94)
X
489 Xuất xứ của “ĐạI Nam nhất thống toàn đồ” Phạm Hân 29(4-96)
490 Xung quanh một số tài liệu liên quan đến Lý Tử Tấn và văn bản Ngọc Nhuận 2 (1-87)