VÂN NANG TIỂU SỬ
NGUYỄN KIM OANH
LTS. Vân nang tiểu sử là một tập truyện ngắn viết bằng chữ Hán, do Phạm Đình Dục biên soạn.
Phạm Đình Dục còn có tên là Phạm Đình Lập, tự Mộng Phủng, cùng các biệt hiệu như Loát Trúc Đạo Nhân, Hoa Thành Đạo Sĩ, Vân Sử Thị v.v..., nguyên quán làng Đan Loan, huyện Đường An, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Về sau, có lẽ từ đời ông nội hoặc đời bố đã dời nhà đến định cư ở Nam Định và nơi đây trở thành quê hương thứ hai của Phạm Đình Dục.
Năm sinh, năm mất của ông hiện vẫn chưa rõ, chỉ biết được một số các mốc đáng chú ý trong đời ông do chính Vân nang tiểu sử cung cấp như : năm Giáp Dần (1854) đời Tự Đức, ông đang còn thơ ấu, cư ngụ tại ngoại ô thành phố Nam Định (Truyện Giặc châu chấu); năm Bính Tí (1876) triều Tự Đức, ông thi đỗ Tú tài. Sau vì nhà nghèo, không thể tiếp tục theo đòi khoa cử, ông ra xin việc để kiếm sống (Vân nang tiểu sử tự tự ). Một số nguồn tư liệu khác còn cho biết từ cuối đời Tự Đức đến đời Thành Thái, Phạm Đình Dục từng giữ chức Huấn đạo các huyện Chân Định, Thư Trì trên 15 năm, và làm Quyền Tri huyện Tiền Hải trong một thời gian ngắn. Địa bàn hoạt động của ông chủ yếu là đất Thái Bình. Năm 1899, ông bị cách chức, về ở nhà người anh em họ, được ít lâu thì mất.
Về trước tác, Phạm Đình Dục còn để lại 3 tác phẩm chính : Loát Trúc thi thảo, Bách chiến trang đài và Vân nang tiểu sử.
Vân nang tiểu sử được ông biên soạn theo sự gợi ý và khích lệ của Nguyễn Thượng Hiền. Sách được viết trong một thời gian dài, ít ra là 10 năm, từ 1886 đến 1896. Cả thảy có 103 truyện, chia thành 5 quyển. Các truyện trong Vân nang tiểu sử phần lớn được ghi rõ xuất xứ để tỏ ra “nói có sách, mách có chứng”, nhưng thực tế, chúng vẫn mang tính “ngụ ngôn” “huyền thoại” nhiều hơn là “hiện thực”. Chính tác giả cũng thừa nhận điều đó khi ông viết : “Ta sáng tác truyện huyền thoại đã hơn mười năm trời” (Vân nang tiểu sử tự tự). Cuối mỗi truyện thường có mục bình luận của “Vân Sử Thị”, không ngoài mục đích nêu lên bài học “khuyến trừng” rút ra từ câu chuyện vốn hư hư thực thực.
Nhìn chung, đây là một tác phẩm văn học hay. Tạp chí Hán Nôm trân trọng giới thiệu 8 truyện do Nguyễn Kim Oanh trích dịch từ Vân nang tiểu sử, bản mang ký hiệu A.872, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, để bạn đọc tham khảo.
1. Cây ngải trăm ngày (Bách nhật ngải)
(Ghi lại lời kể của Thượng thư họ Nguyễn người Liên Bạt)
Phương Nam có giống cỏ thiêng là là “ngải” mà thực ra không phải là cây ngải. Người thiểu số trong Nam có phép thuật, họ cầm lá cây niệm thần chú liền trăm ngày thì hoá thành cây ngải thiêng. Thổ dân ở đấy ngậm ngải đi vào rừng thì thú dữ phải tránh xa, mắt lại có thể nhìn xuyên vào lòng đất, thấy được chỗ nào có trầm kỳ. Nhưng nếu quá một trăm ngày không về kịp, ngải chui vào họng, mình mẩy tự nhiên mọc lông, sinh đuôi mà hoá thành thú.
Dưới chân núi Hoành Sơn có một người nọ ngậm ngải đi vào rừng, luôn ba tháng không thấy tin tức gì, mọi người đều đoán chắc là chết rồi. Bỗng một hôm anh ta trở về, vội bế lấy con. Chị vợ từ ngoài chạy vào, trông thấy anh tay trái vẫn còn mang túi trầm, nhưng thân thể tay chân đã mọc lông, sinh vuốt, quần áo rách nát. Chị ta sợ hãi quát to :
- Hùm beo đùa bỡn, cáo chồn còn không chịu nổi huống chi là người. Móng tay sắc nhọn e giết chết con tôi mất.
Người đó nghe vậy liền đặt con xuống, thong thả đi xuống thềm mài móng xoèn xoẹt vào đá. Chị vợ thừa cơ ôm con trèo lên gác mà hô hoán. Người trong làng đổ đến, ném cả hai loại thịt sống và thịt chín trước mặt anh ta để thử xem là người hay là thú, anh ta ăn cả hai loại thịt. Nhiều người muốn dùng cung tên giết chết. Có người ngăn lại :
- Anh ta còn biết tiếc của, thương con, lại vẫn ăn được thức chín thì là nửa người nửa thú. Là người mà hoá thành thú, thì biết đâu là thú mà không trở lại thành người. Nên chữa chạy cho anh ta chứ đừng giết.
Mọi người nghe lời bèn sấn vào bắt trói, anh ta giãy giụa cào cắn chẳng khác gì loài thú. Họ phải cố hết sức mới bắt được, dùng que dài chọc vào cổ họng anh ta, hồi sau lâu nôn ra ngải. Họ liền cho uống thuốc và ăn thức ăn của người, mãi nửa năm sau mới khỏi; anh ta tên là Nghĩa, nay vẫn còn sống.
Vân Sử Thị nói rằng : Lúc anh kia trở về đến nhà còn là nửa người nửa thú, nhờ chạy chữa mà trở lại thành người, người làng thật là thầy giỏi bạn tốt. Có người hỏi : “Còn kẻ biết tiếc của tiếc con, không có lông có sừng mà hành động rõ ràng là loài thú, thì có nên chữa không ?” Tôi nói “Nên chữa bằng cách đâm dao vào cổ họng”.
2. Quân gian thích loạn (Tiểu nhân hỉ loạn)
Lúc trẻ, tôi ở dãy nhà ngoài thành Nam. Đang đêm, có tên côn đồ cùng khổ giấu thuốc dẫn hoả bằng chất lưu huỳnh trong vải cũ, gói tròn như quả cầu nhỏ, nhân lúc sơ hở, đem đặt trộm vào mái gianh của nhà nọ. Bị lính tuần bắt được, tra hỏi :
- Mày có hiềm thù với nhà ấy không ?
Y nói :
- Không
Lại hỏi :
- Thế thì người khác có thù với nhà ấy, thuê mày trả thù phải không ?
Y cũng nói :
- Không.
- Thế thì tại sao mày lại đem lửa bỏ vào nhà người ta ?
Y đáp :
- Tôi không có nghề gì sinh sống, đói khổ quá, lại không biết ăn trộm, đêm thanh người vắng, không có cách gì kiếm chác được. Cho nên định vứt đồ dẫn hoả vào nhà người ta, nếu may mà xảy ra hoả hoạn thì thế nào họ cũng vứt bỏ đồ đạc lung tung, tôi sẽ vờ làm người cứu hoả, trà trộn vào trong, thừa cơ ăn trộm để kiếm cách phát tài. Trước đây, trong bọn chúng tôi đã có người chỉ làm thế mà trở nên giàu có, tôi cũng bắt chước anh ấy thôi.
Nghe lời y nói, người ta bèn mở cuộc điều tra, thì quả nhiên có tên lưu manh trước kia cũng nhờ vào việc đốt nhà, đánh cắp được mấy trăm lạng bạc mà trở nên giàu có, ăn ngon mặc đẹp, tôi tớ đầy nhà. Người ta bèn bắt trị tội cả hai.
Than ôi ! Quân tử thích thái bình ghét loạn lạc, kẻ tiểu nhân lại thích loạn lạc ghét thái bình. Vì sao vậy ? Là vì loạn lạch thì danh lợi bất thường, có thể nhờ thủ đoạn gian trá mà giành được.
3. Thần nữ
Đời nhà Lý, ở xã Lạc Thổ, tỉnh Thanh Hoá có ba anh em họ Đỗ, chẳng ngại ngàn dặm du học phương xa, đến ở làng Phương Xá, xứ Phụ Phượng, học với Dương tiên sinh người làng ấy. Anh em sớm chiều chăm lo kinh sử, lại học thêm cả võ nghệ.
Một đêm, đang ngồi học, bỗng thấy một cô gái đẹp ăn bận kiểu trang phục trong cung, đến thư phòng ngồi xuống và nói :
- Các anh đêm vắng ngồi khuya có hiu quạnh lắm không ? Xin cùng nhau bàn luận văn chương. Có lẽ tôi cũng không đến nỗi thua kém người hầu gái của Trịnh Khang Thành(1) xưa.
Anh em họ Đỗ nghi là con cái nhà quan hoặc nhà giàu, bèn tỏ vẻ nghiêm nghị từ chối :
- Đàn bà con gái biết gì Thi Thư ? Vả lại, hiềm nghi phải tránh, làm thế sao được !
Cô gái nói :
- Sao Chức nữ vốn gần sao Văn Xương(2). Đàn bà ngày xưa có người từng vào cung vua Trần giữ chức Học sĩ(3), nhà treo trướng gấm biện hộ cho em(4), ngồi sau bức màn để học trò hỏi(5). Lại như việc gió lay quạt Hán(6), nhật chiếu lầu Tần(7), khúc dẫn Không Hầu(8), bài ca La Hống(9) lời ca tuyệt diệu xưa nay, phần nửa do người khuê các làm ra. Sao dám nói rằng đàn bà không biết Thi Thư. Các anh đừng nghĩ rằng “mặt hoa lòng cỏ”(10) mà mạt sát người cả một đời.
Anh em họ Đỗ thấy cô gái bàn luận quảng bác, nói năng thanh nhã, lấy làm lạ, bèn hỏi :
- Quí nương có lòng hạ cố, chẳng hay muốn dạy bảo điều chi ?
Người con gái hỏi :
- Các anh cố công học tập, nhằm mục đích gì ?
Đáp :
- Trước là muốn cầu công danh phú quý, sau là muốn viết sách làm văn để tiếng đời sau.
Người con gái cười nói :
- Thế thì các anh lầm rồi ! Ba năm mới có một khoa thi, tư cách lại hay bị xét nét, lận đận một chức quan nhỏ chốn phong trần, khó lòng mà đợi sông trong(11) thật đáng làm cho người ta buồn bực. Phương chi ngõ hạnh đường hoa(12) có gì chắc chắn. Xưa Trương Tử nhận sách ở Hoàng Thạch(13) phải đâu vì kế văn chương. Phòng Đỗ nối nghiệp Hà Phân(14) phải đâu vì nghề trước thuật. Hiện nay ven biển đang có giặc, triều đình đang cầu tài. Cơ hội giàu sang này không phải là lúc nam nhi đắc chí hay sao ? Các anh nên nhân dịp này xuất đầu lộ diện, lại không hơn cái nghề mọt sách song huỳnh(15) kia gấp vạn lần hay sao ?
Nói đến đây, cô thong thả từ giã đi ra, xuống đến sân chợt biến đâu mất. Anh em họ Đỗ kinh sợ, bèn nghe theo lời cô, vứt bút nghiên theo việc đao cung, sau nhờ quân công đều được phong quan, bèn dâng tờ biểu xin lấy làng mình làm thái ấp rồi lập đền thờ cô.
Vân Sử Thị nói rằng : Cằm cú đầu hùm vốn không phải là tướng mạo nhờ ngòi bút để làm quan, nhưng nếu không có cô gái chỉ vẽ cho, thì biết đâu con người có cốt cách phong hầu kia lại không than thở trót để kiếp người lầm lỡ ! Chắc cô kia cũng là loại “hồng nhan hiệp cốt” như ẩn Nương, Hồng Phất(16) ngày xưa.
Chú thích :
(1) Trịnh Khang Thành : là nhà văn lớn đời Đông Hán. Các cô hầu nhà ông ta đều thuộc thơ trong Kinh Thi.
(2) Chức nữ là sao tượng trưng cho phụ nữ, Văn Xương là sao tượng trưng cho văn chương.
(3) Sách Nam sử chép : nàng Viên Đại Xá làm học sĩ trong cung nhà Trần.
(4) Tạ Đạo Uẩn đời Tấn, thấy em chồng là Vương Hiếu Chi bình luận với khách sắp đuối lý, nàng bảo thị nữ treo bức trướng gấm ngồi sau trướng biện hộ cho em chồng, khách chịu thua.
(5) Tấn thư chép : bà Tống thị, mẹ Vi Sinh, dạy vài trăm học trò, bà thường ngồi sau màn the, để học trò hỏi nghĩa khó.
(6) Nàng Ban Tiệp dư đời Hán có làm bài thơ Cái quạt nổi tiếng.
(7) Nàng La Phu đời Triệu làm bài ca Mạch thượng tang, trong đó có câu : “Mặt trời mọc góc đông nam chiếu vào lầu Tần ta”
(8) Sách Cổ kim nhạc phủ chép xưa nàng Hoắc Thị thấy người điên nhảy xuống sông tự tử, bèn làm bài Không hầu dẫn.
(9) Sách Cổ kim nhạc phủ chép : nàng Lưu Thái Xuân đời Đường làm bài ca Vọng Phu còn gọi là bài ca La Hống.
(10) Mặt hoa lòng cỏ : thơ đời Thanh có câu “Bồng tâm bất xứng như hoa mạo, kim ốc nan tàng một tự bi” = “Lòng cỏ dại không xứng với dung mạo đẹp như hoa, nhà vàng khó dấu bia không chữ”, ý nói người đẹp mà dốt.
(11) Sông trong : tương truyền sông Hoàng Hà ở Trung Quốc cứ 500 năm thì nước trong một lần, khi ấy sẽ có thánh nhân ra đời, thiên hạ thái bình.
(12) Ngõ hạnh đường hoa : xưa học trò đỗ Tiến sĩ, được vua cho cưỡi ngựa xem hoa.
(13) Trương Lương đời Hán được Hoàng Thạch Công cho sách thần, sau nhờ sách đó giúp Lưu Bang bình định thiên hạ.
(14) Xưa, Vương Thông dạy học ở Hà Phân, Đỗ Như Hối và Phòng Huyền Linh theo học, sau giúp Lý Thế Dân giành được thiên hạ.
(15) Mọt sách song huỳnh : Cổ thi có câu : “Đố thủ thanh biên lão nhất kinh, án đầu khổ tử độc thư huỳnh” = “Con mọt giữ sách chết già ở một quyển kinh, đầu án con đom đóm đọc sách chết khô”, ý nói đèn sách vất vả suốt đời mà không làm nên công trạng gì.
(16) Nhiếp ẩn Nương là một nữ kiếm hiệp đời Đường, từng giúp việc cho Lưu Ngô, Hồng Phất đời Đường bỏ Dương Tố đi theo Lý Tĩnh. Cả hai người đều là gái hào hiệp, có con mắt tinh đời.
4. Mặt sắt (Thiết giáp)
Khoảng năm Bính Thìn, Đinh Tỵ (1856-1857) vùng Nam Chân bị mất mùa to, người chết đói ngổn ngang đầy đường, nên tục ngữ có câu “Năm Thìn năm Tỵ, chị chẳng nhận em”. Tôi lúc ấy hãy còn nhỏ, một hôm đi chơi với ông nội, gặp một người con trai to béo ngốc nghếch đi rình mò quanh quẩn, chờ những người bán xôi bán cơm có ai sơ hở thì cướp lấy một nắm nhét ngay vào miệng rồi thản nhiên đứng ỳ ra đó. Người bán hàng nắm tay đấm thình thịch vào hai bên má y, xôi rơi khỏi miệng lòng thòng như một chuỗi hạt tiêu, chỗ nuốt vào họng mười phần chỉ được một. Người bán hàng biết là y nuốt mất rồi thì cũng không đánh nữa. Y bèn há mồm ra hớn hở nói :
- Răng tao không gãy, lưỡi cũng vẫn còn, đánh làm gì cho đau tay mày.
Rồi ung dung bước đi, lại rình mò xem ai sơ suất thì diễn lại trò cũ. Mặt trời chưa xế bóng mà anh ta đã năm lần ăn cướp, năm lần bị đánh nhưng mặt mũi vẫn không hề bị thương tổn gì. Ông nội tôi cười nói :
- Thực là mặt sắt.
Trong chợ có người bảo :
- Ông không thấy ư ? Người ta đói khát đầy đường, riêng hắn không đến nỗi gầy gò là nhờ thế mà thôi.
Người trong chợ ai cũng phì cười. Tục ngữ có câu “Chịu đấm ăn xôi” chính là như thế. Vả lại sách thường nói : “Đói mà ăn rau, sắc mặt xanh xao”. Anh ta biết như thế, nên gặp lúc đói kém liền nghĩ ra cách ấy. Tuy bị xơi quả đấm nhiều, lại không thể nuốt trôi tất cả vào bụng, nhưng mười phần nuốt được một thì trăm phần nuốt được mười, làm gì không no ruột. Thế thì chịu đói ăn rau là người dại chăng?
Học trò gái của tác giả là Trương Vân Hoa phụ thêm lời bàn rằng :
"Không cày không gặt, chịu đấm mà ăn, dân đời Vô Hoài(1), tiêu dao tự đắc.
Má mày rắn thật, muôn đấm không sờn, dãi nhổ cũng khô(2), như đồng như sắt.
Ô hô ! Y hi ! Cỏ vi núi tây, cỏ dự núi nam,
Không có má ấy, thì sao khỏi đói !"
Chú thích :
(1). Vô Hoài Thị: là tên một triều đại tưởng tượng của Trung Quốc cổ đại, tương truyền người đời ấy chỉ việc rong chơi ca hát, không phải khó nhọc lo nghĩ gì cả.
(2). Tô Vị Đạo đời Đường bảo với em mình rằng: “Người ta nhổ dãi lên mặt mình, không chùi cũng khô”
5. Thầy thuốc thầy bói bỡn nhau (Y bốc giao hí)
Trước đây ở tỉnh Đông có anh Giáp nọ làm nghề thầy bói, bói toán không linh ứng; lại có anh Ất nọ làm nghề bốc thuốc, thuốc thang cũng không hiệu nghiệm. Hai người nhà ở gần nhau, đều là cửa ngõ rêu phong, chả ma nào hỏi đến. Một hôm, anh Bính nọ ở thôn bên cạnh có ông bố ốm nặng, chạy chữa cùng đường, anh ta lo sợ đến bói ở nhà Giáp. Giáp gieo quẻ xong nói :
- Bệnh nguy hiểm lắm, nhưng cũng chưa ngại gì, có điều phải tìm cho được ông thầy thuốc nào mà rương thuốc có nhện chăng lưới thì mới chữa được.
Bính ra cửa nghĩ ngợi mãi lời nói của Giáp, bèn đến mời ất chữa bệnh. ất thấy có người đến mời, như thể “mở cờ trong bụng", vểnh râu tỏ vẻ đắc ý nói:
- Ta đây cố nhiên là đủ tài trị con ma bệnh, nhưng ta giấu danh đã lâu, ai hở môi cho anh biết mà đến thử tài “Thanh nang”(1) của ta ?
Bính nói :
- Cha tôi sắp nguy, thuốc thang cùng đường, phải đi xem bói, thầy bói nói như thế, như thế. Tôi nghĩ mãi chỉ có thầy là đúng như thế, cho nên mới tới mời, mong rằng thầy không ngại phiền.
Ất biết là lão thầy bói bỡn mình, nghĩ thầm mưu kế để trả miếng, bèn im lặng đi theo Bính, đến nơi bắt mạch hỏi bệnh xong đưa thuốc cho Bính mà nói :
- Thuốc này phải sắc nước ruồi làm thang, nhưng phải bắt cho được ruồi ở mép thầy bói mới có hiệu nghiệm.
Bính nghe lời, bụng nghĩ ra một mẹo, bèn đưa bánh mật đến biếu thầy bói, vờ nói là thầy bói có linh nghiệm nên đem bánh tạ ơn. Giáp nhận bánh, Bính co tay đứng một bên, chờ lão thầy bói ăn bánh. Quả nhiên ruồi ngửi thấy mùi mật đua nhau đậu vào mép anh ta. Bính vung tay tát mạnh vào mép Giáp một cái, vớ được mấy chú ruồi. Giáp vừa đau vừa kinh ngạc, bèn kêu ầm lên. Bính dịu dàng xin lỗi và nói :
- Tôi vì cha ốm, cấp bách quá can tội đường đột, nghe nói thầy đây cũng là người có lòng cứu nhân độ thế, xin hãy bớt giận.
Rồi anh ta thuật lại đầu đuôi câu chuyện lão thầy thuốc chỉ vẽ, cách bắt ruồi làm thang tống thuốc vân vân. Giáp nghe nói rất giận trò chơi ác ấy, bèn buông rèm xếp đồ nghề lại, giấu một cái thước nhựa ngắn vào trong áo, rồi đi thẳng đến nhà thầy thuốc. Tới nơi Giáp vờ nói cười niềm nở :
- Bác lâu nay ra sao rồi ?
Ất nghe thấy vội ra chào, hai bên đang trò chuyện thân mật, bỗng lão thầy bói nắm ngay lấy tóc của lão thầy thuốc, bất thình lình lấy thước ra vụt túi bụi, rồi hai bên níu lấy nhau, ẩu đả cả buổi không chịu thả, chẳng ai dám tới gần, mãi đến khi cả hai đều bị thương gần chết mới thôi.
Ôi ! Phương thuốc cầm tay, Ất cả năm không bốc hốt, nhện mới chăng ở rương. Mở hiệu chợ búa, Ất trọn ngày không nói năng, ruồi mới đậu ở mép. Giả sử khách chê thuật vụng mà Trọng Cảnh cúi đầu(2), người cười tự ty mà Quí Chủ ôm bụng(3) thì làm gì đến nỗi đánh nhau. Tục ngữ có câu: “Cùng phường ăn mày, mắng nhau dày chiếu” cũng là chuyện ấy chăng ? Mỗi khi nghĩ đến, không khỏi cười vỡ bụng.
Chú thích:
(1) Thanh nang : tên đầy đủ là Thanh nang kinh, một cuốn sách thuốc do danh y đời Tam Quốc là Hoa Đà biên soạn.
(2) Trương Trọng Cảnh được xem là bậc thánh trong đông y, một lần có người khách chê ông, ông cúi đầu im lặng.
(3) Sử ký chép: Tư Mã Quí Chủ giỏi nghề bói toán, Giả Nghị nói rằng: “Tiên sinh sao lại tự ty như thế?”, Quí Chủ chỉ ôm bụng cười.
6. Sớ hặc hồ tiên (Đàn hồ tiên sớ)
Ngày xưa ở núi An Sơn, quận Đông có một Đạo sĩ, tu hành đã hơn bảy chục năm mà diện mạo như người ba mươi tuổi, thật là người có đạo thuật.
Một hôm, ông ta nghe nói ở rừng thông trên núi có hai cụ già râu dài, hình dong kỳ vĩ, đi đứng như khói mây; người bên trái mặc áo xanh, đội mũ trúc; người bên phải mặc áo trắng, thắt đai đen; ăn bận khác hẳn người đời. Đạo sĩ biết họ là người trời, bèn tìm đến lạy chào và xin chỉ giáo. Ông già bên trái cười nói :
- Thôi đi ! Nhà ngươi xin dạy bảo làm cái gì ? Chúng ta đều đã tu hành hàng vạn năm, trải qua hai ba lần “rửa tủy cắt lông”(1). Thế mà trước đây xếp hàng chầu trời, phải đứng sau con yêu hồ. Nhà ngươi có công phu chuyên cần như thế, còn xin dạy bảo làm gì ?
Ông già bên phải nói :
- Con yêu hồ ấy xuất thân hèn kém, tu hành ác nghiệt, chỉ nhờ khéo xiểm nịnh ton hót mà được xếp vào hàng tiên. Bà Vương Mẫu chắc có bệnh tỵ ung(2), nên không ngửi thấy mùi hôi nách của nó.
Đạo sĩ hỏi :
- Nó tu hành ác nghiệt như thế nào ?
Hai ông trả lời :
- Nhà ngươi không xem sách Sưu thần ký(3) à ? Nó đào lấy đầu lâu người chết đi dưới bóng trăng, rung động mà không rơi, đủ thời tiết sẽ hoá thành gái đẹp, rồi hút lấy nguyên dương của người ta để thành đạo lớn. Ngọc Hoàng rất sáng suốt, nhà ngươi hãy làm hộ chúng tôi một tờ sớ, để chúng tôi tâu lên ngài.
Đạo sĩ vốn người văn chương sâu rộng, tài tứ dồi dào, vẫy bút chốc lát làm xong. Tờ sớ đại lược như sau :
Chúng thần là tiên nhân mỗ, mỗ, tâu về việc chỉ trích, đàn hặc, xin lượng trên rủ lòng soi xét.
Nép thấy : Anh vũ không rời khỏi loài chim bay, đười ươi không rời khỏi loài muông chạy, tộc loại không đồng. Do dự(4) không thể đi giày, khỉ vượn không thể đội mũ, dung nghi có khác.
Cho nên : con cọp trong núi không hoá hình người, con rồng dưới sông vẫn mang lốt cá(5).
Bởi vì : người và vật tính vốn khác nhau, đâu có thể cắt kỷ liễu để làm thìa chén; Tiên với phàm đường không chung một, há lại được lột móng sừng để sinh cánh lông.
Cúi thấy : Hồ tiên nọ tư chất không phải linh tuệ, môn địa vốn rất thấp hèn. Không có công luyện thuốc tiên đan, lại mờ chước vào huyền ra tẫn(6). Quật xương khô người chết, dạo dưới nguyệt xênh xang; lượm nguyên khí con trai, đội sao đêm vằng vặc. Đóng bộ tuyên dâm lừa chúng, chuột nọ hữu bì(7); nghiễm nhiên đủ thể nên người, rắn nào vô túc(8). Chưa trừ hôi nách, đã liệt tiên ban. Phong nghi át cả quần tiên, danh sắc xấu cùng thập loại(9).
Thần rất thẹn cùng nó đồng hàng, xin rời cành hoa ở sân Trần chúa(10). Kìa khỏi soi để hoàn hình cũ, nguyền đốt cây gỗ trên mộ Yên vương(11).
Bài thảo xong, đưa trình. Hai ông già gật đầu bỏ vào tay áo, chợt hoá thành đôi hạc bay lượn trên không. Đạo sĩ ngậm ngùi than rằng :
- Biển xanh tràn ngập, trời đất mênh mông, cho nên muốn tìm một nơi chân tu, học nghề xuất thế. Đâu biết chốn tiên cung cũng trắng đen lẫn lộn, chẳng ra gì như vậy ư ?
Sau đó đạo sĩ thường đi nói chuyện phiếm với người đời, cuối cùng, bỏ áo huyền, bận áo đen(12), rồi đi đâu mất không ai biết.
Chú thích:
(1). Rửa tuỷ cắt lông: sách Đông minh ký chép có ông tiên nói với Đông Phương Sóc rằng: “Ta cứ ba ngàn năm rửa tuỷ một lần, hai ngàn năm cắt lông một lần”.
(2). Tỵ ung : bị nhọt trong lỗ mũi.
(3). Sưu thần ký : do Can Bảo đời Tấn biên soạn, chép các chuyện thần tiên ma quỉ.
(4). Do dự : một loài thú hơi giống hươu, có tài leo cây, tính hay nghi ngờ.
(5). Rồng mang lốt cá: sách Thuyết Uyển chép : có con rồng trắng xuống việc dạo chơi, hoá làm cá.
(6). Vào huyền ra tận : Đạo đức kinh của Lão Tử có câu “cốc thần bất tử, thị vị huyền tận”, ở đây dùng với ý nghĩa “huyền diệu”.
(7). Hữu bì : bài Tướng thử trong Kinh Thi có câu : “Tướng thử hữu bì” = "Xem chuột có da”, ý nói người có địa vị cao mà không biết xấu thẹn, chẳng khác gì con chuột.
(8) Sách Quốc sách chép truyện hai người nọ thi vẽ rắn, một người vẽ xong trước lại vẽ thêm chân nên thua cuộc. ý nói người hay vẽ chuyện vô ích.
(9) Đào Hoằng Cảnh đời Lương có bài văn Thập loại gửi Lục Kính Du. Thập loại là: nhà cửa, lò hương, người hầu, đồ đựng rượu... hơi giống nghĩa với chữ “cửu tích”.
(10) Trần Hậu chúa đời Nam Bắc triều có khúc hát Hậu đình hoa, trong đó có câu “Yên cơ kiểm tự hoa hàm lộ” = “Má cô gái giống như đoá hoa ngậm sương”, ở đây mượn để nói ý không muốn ở chung với bọn con gái yêu nghiệt.
(11) Lôi Hoán đời Tấn nói: Con yêu ngàn năm phải lấy cây gỗ ngàn năm đốt lên mà soi sẽ lộ nguyên hình, cho nên đời xưa từng lấy gỗ trên mộ Yên vương đốt đuốc để soi con yêu giả dạng thư sinh, chúng đều lộ hình là hồ tinh.
(12) Áo huyền là màu áo của Đạo sĩ, áo đen là màu áo của nhà sư.
7. Con buôn (Thị cổ)
Người bà con bên ngoại của tôi ở Nam, trong nhà có con ma rất thiêng, sắp có việc gì xấu hoặc tốt xảy ra, ma đều ứng vào người mà báo trước, dần dà nghiệm lại không điều gì sai. Khi ngồi nói chuyện với khách lạ, ma liền nhận được ra danh sắc, tính tình bụng dạ của người ta, nhất nhất phù hợp. Một hôm ma đang ứng vào người, có tên Tri phủ nọ đột ngột bước vào, hỏi :
- Mày có biết tao là ai không ?
Ma cười, trả lời :
- Biết chứ, ông là con buôn.
Hắn ta hậm hực nói :
- Sao nói mày thiêng, mà bây giờ u mê lầm lẫn như vậy ? Tao cầm bút cắp sách đi học trở thành nhà Nho, làm bài thi đỗ nên người sĩ phu. Trước đây tao từng làm quan, phải đâu là người lạ. Tao chưa hề đầu cơ trục lợi, sao lại nói là con buôn ? Mày thật u mê nhầm lẫn, chứ chả thiêng gì !
Ma nói :
- Chà, chà ! Ta có nói càn đâu, ta đã thấy bậc nho sĩ đời xưa rồi. Họ bồi dưỡng theo lời nói thánh hiền, họ say sưa với phong khí thi thư, xem dung mạo của họ thì hoà nhã nghiêm chính, trông cũng đủ biết. Nghe lời lẽ của họ thì thành thực sâu rộng, xứng đáng để lưu truyền. Công minh sáng suốt do đó mà ra, trung hiếu tiết kiệm nhờ vậy mà có, khoan thai có thừa, vững vàng không ngã. Vả lại yêu vua lo nước, quan tâm đến chuyện đau khổ của dân; khi ra nhẹ như mây, khi ở sạch như đá, không vì được mất mà động lòng; vậy cho nên được thăng chức không mừng, dầu thôi quan không giận; như thế mới thật là nhà Nho. Nay thì cha mẹ dạy con cái, chỉ mũ lọng để động lòng; thầy giáo dạy học trò, đem no ấm để nhử chí. Con thì mai chiều học hành cốt cầu lợi ở phường áo rách, đêm khuya đút lót tất lấy lại ở kẻ nhà gianh. Vừa lên công đường làm việc thì nào bà mối, nào khách nợ, lẫn lộn với quan nha; nào sổ nợ, nào đơn tiền, lung tung bên tả bên hữu. Vì thế, xuyên tạc học thuật, xa lạ nhân dân; một khi nghe quan trên chê bai công việc, tư báo giấy tờ thì liền lo mất vốn, rồi bơ phờ than thở, nghiêng ngả bàng hoàng. Hoặc nhờ tôi tớ lo ngầm, hoặc mượn vợ con gỡ tội. Rốt cuộc hộp đã trả về, châu còn đâu quý(1), quê kệch không còn gì uẩn tạ, phong lưu đành lẫn với phàm dung. Nhà ngươi tuy không đầu cơ trục lợi, nhưng chẳng khác gì ở trên đường chợ búa và có vẻ bán buôn.
Những người ngồi đấy, nghe nói đều ngạc nhiên. Viên Tri phủ cười to, rồi vừa đi ra vừa ngoảnh lại nói :
- Có đấy, có đấy ! Ta mới chỉ là con buôn nhỏ thôi.
Chú thích:
(1) Xưa có người bán hạt châu, đựng trong một cái hộp rất đẹp. Người nước Trịnh mua, trả lại hạt châu chỉ lấy hộp. ý nói đã bị cách chức thì bản thân cũng không còn giá trị nữa.
8. Không cướp hoá cướp (Bất nhương nhi nhương)
Gần nhà học của tôi có chợ Bổng, họp vào ngày lẻ. ở chợ có hai người hủi xin ăn tên là ất và Bính. Tính họ lười biếng mà ăn uống bậy bạ, vừa xin vừa cướp, cốt sao đầy bị; xâu cá nắm gạo, tham lam không bỏ sót chút nào. Người đi chợ ai cũng tức giận nguyền rủa, ngàn miệng một lời. Có người coi chợ là tên Giáp nọ, to béo khoẻ mạnh, thường đi xa xa theo sau hai người hủi, vờ đui vờ điếc, hình như không nhìn thấy chúng cướp giật và cũng không nghe thấy tiếng chửi rủa tục tĩu. Thế rồi chờ lúc giỏ của bọn ăn xin đã đầy, hắn ta mới đột ngột chạy thẳng tới và quát to.
- Chúng mày chỉ được xin ăn mà thôi, sao lại cướp giật của người ta, để người ta chịu khổ, ai còn vui gì mà đến họp chợ ta nữa.
Dứt lời, bất thình lình hắn ta rút tay thước choảng cả hai đứa, rồi giật lấy giỏ mà đi. Hai người ăn xin ngã lăn ra, vừa khóc vừa nói :
- Tay tôi rã rời, bụng tôi đói khát, bị lại rỗng không, tai đầy tiếng chửi mà chân bại liệt nằm đây.
Người họp chợ phần nhiều cảm ơn Giáp, đều vỗ tay nói :
- Khoái, khoái quá ! Nhưng cũng đáng giận.
Giáp tới gần họ hỏi :
- Giận cái gì ? Giận mắt anh không trông xa, tai anh không thông tỏ, tay anh yếu mà chân anh chậm ấy à ?
Vân Sử Thị nói rằng : Thế gian này không ai dại bằng hai người ăn xin ấy. Nếu họ biết theo đúng đường lối ăn xin thì ai cướp được của họ ? Người đời Thanh làm bài từ vịnh đôi đũa có câu : “Liên quân quặc thủ, mang tống nhập tha nhân khẩu” (Thương người cướp lấy, vội vàng đưa vào miệng người khác). Câu ấy có thể tặng cho hai người ăn xin kia. Tên Giáp nọ sao mà xảo quyệt thế ? Nhờ người ta cướp giật để hưởng thành quả, giành lợi của người khác mà mình lại ở địa vị người làm ơn, trí khôn đủ che mắt người đi chợ, sức vóc đủ cướp giỏ kẻ ăn xin; rốt cuộc mánh lới, tính tình của y, không ai thấy rõ. Tôi mong rằng, các người hào lý nên ra sức dùi mài, để nuôi dưỡng phong tục biết liêm sỉ, đừng để cho người ăn xin thì giật, mà tên Giáp nọ thì cướp(*).
Chú thích :
(*) Trong khi dịch các truyện trên, tôi có tham khảo bản dịch chưa xuất bản của cụ Nguyễn Đức Vân.
|