TB

HIỆN TƯỢNG ĐỒNG NGHĨA GIỮA
CHỮ NÔM VIỆT VÀ CHỮ VUÔNG CHOANG

NGUYỄN QUANG HỒNG

O. LỜI DẪN

01. Đồng (僮) hay Tráng (撞 hoặc 壯) mà ở Việt Nam vẫn quen gọi là Choang, là một dân tộc có số dân đông thứ hai, sau dân tộc Hán, trong cộng đồng các dân tộc ở Trung Quốc. Hiện người Choang có hơn 13 triệu người, phần lớn (12 triệu) cư trú ở tỉnh Quảng Tây, số còn lại phân tán ở các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu. Đó cũng là địa bàn mà tổ tiên người Choang đã sinh sống từ thời cổ đại.

Về nguồn gốc người Choang vốn thuộc nhóm người Tây Âu (Việt và Âu Việt) và cũng liên quan đến nhóm Lạc Việt trong khối Bách Việt cổ. Còn người Việt (Kinh) ở Việt Nam thì bắt nguồn từ nhóm Lạc Việt và qua sự chung đụng với nhóm Tây Âu mà phát triển về sau. người Tày, người Nùng ở Việt Bắc chẳng những gần gũi với những Choang ở Trung Quốc về địa bàn cư trú, mà cũng gần gũi cả về quan hệ huyết thống.

Tiếng Việt và tiếng Choang, xét về nguồn gốc sơ thủy, có thể thuộc những ngứ hệ khác nhau (chi Môn - Khmer ngữ hệ Nam á đối với tiếng Việt, chi Đồng Thái ngữ hệ Hán - Tạng đối với tiếng (Choang ?). Song do quan hệ tiếp xúc và hòa nhập lâu dài (từ thời Bách Việt cổ), giữa tiếng Việt và tiếng Choang (cũng như một số ngôn ngữ khác ở vùng này) đã có không ít nét tương đồng xét về vốn từ ngữ cơ bản, cũng như về cơ cấu ngữ âm và ngữ pháp.

Người Choang cũng như người Việt đã chịu ảnh hường sâu sắc cửa văn minh chữ Hán. Biểu hiện nổi bật của ảnh hưởng đó là cả người Việt lẫn người đều thu nạp và dung hòa rất nhiều từ ngữ gốc Hán vào tiếng nói của dân tộc mình, đồng thời lợi dụng nét bút và nguyên tắc biểu âm biểu ý của chữ Hán để tạo ra chữ viết hình vuông cho dân tộc mình. Đó là chữ Nôm của người Việt và chữ vuông của người Choang.

Chứng tích về chữ vuông Choang có niên đại sớm nhất hiện còn là tấm bia ĐẠI TỤNG BI (tên đầy đủ là Trừng Châu Vô Ngu huyện lục hợp kiên cố đại tụng bi), do Thứ sử Trình Châu là Nghi Kính soạn và dựng năm Vĩnh Thuần nguyên viên (tức năm 682), đời Đường. Trong tấm bia này cùng với chư Hán, thấy có nhiều chữ vuông được đọc và hiểu theo tiếng Choang. Ví như chữ đọc là 那 na và có nghĩa là "ruộng" (田), là chữ mà trong các văn bản chữ vuông Choang và cả văn bản chữ Nôm Tày đều có mặt chữ vuông Choang chưa bao giờ được coi là văn tự chính thức của dân tộc Choang và cũng chưa hề được chuẩn hóa. Do đó, tình thạng thiếu thống nhất, một từ nhiều chữ, một chữ nhiều âm đọc khác nhau là khá phổ biến. Tình hình náy cũng có phần tương tự như chữ Nôm Việt. Tuy nhiên, với chư Nôm Việt, ngoài các văn bản viết tay đã có hàng loạt tác phẩm hữu danh và khuyết danh được đem ra khắc bán và in ấn hẳn hoi. Còn với chữ vuông Choang thì hầu như không thấy các văn bản khắc in, mà các tác phẩm chữ vuông Choang đều lưu truyền theo phương thức chép tay. Đâu cũng là tình trạng của văn bản chữ Nôm Tày ở nước ta.

Ngày nay người Choang đã có hệ thống chữ viết mới - Chữ Choang phiên âm, được đặt ra dựa theo các chữ cái La tinh. Song chữ vuông Choang vẫn là công cụ chuyên chở và kế thừa di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc Choang, vẫn hiện hữu trong đới sống văn hóa dân gian của người Choang.

02. người Việt và người Choang, tiếng Việt và tiếng Choang, chữ Việt và chữ Choang, xét trên nhiều phương diện, dù là theo quan hệ cội nguồn hay quan hệ tiếp xúc, đều có không tít những hiện tượng rất đáng quan tâm nghiên cứu trong sự so sánh đối chiếu với nhau. Tuy nhiên, những công cuộc nghiên cứu so sánh như vậy cho đến nay hầu như vẫn chưa thực sự bắt đầu.

Quan tâm nghiên cứu những vấn đế về ngôn ngữ và văn tự trong quan hệ giao lưu tiếp xúc với nhau giữa các dân tộc trong cùng khu vực, tác giả bài này muốn lưu ý trước tiên đến hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang.

Thuật ngữ đồng hình ở đây được hiểu một cách đơn giản là sự tương dồng, trùng hợp về hình chữ giữa các chữ vuông có mặt trong hai thứ văn tự đâng xét đến. Theo truyền thống ngữ văn học Trung Hoa, bất cứ một chữ vuông nào (theo kiểu chữ Hán) cũng đều có thể xem xét theo ba khía cạnh khác nhau (và liên quan với nhau). Đó là: mặt hình thể của chữ (hình), mặt âm đọc của chữ (âm) và mặt ý nghĩa của chữ (nghĩa).

Bởi vậy, khi xem xét mặt hình thể của chữ, và từ đó chú ý đến hiện tượng đồng hình, Là chúng ta phải lấy hình chữ làm điểm tựa và tham chiếu với âm chữ nghĩa chữ để phân định và sử lý các lớp lang cụ thể. Theo đó, ta sẽ có các khả năng (và trên thực tế cũng được thể hiện) phân định các lớp đồng hình chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang như sau:

1. Đồng hình, gần âm, gần nghĩa

2. Đồng hình gần âm, khác nghĩa

3. Đồng hình, khác âm, gần nghĩa

4. Đồng hình, khác âm, khác nghĩa.

Cũng cần nói ngay rằng, giữa hai hệ thống chữ viết của hai ngôn ngữ khác nhau, thì chỉ có hình chữ mới có thể là tương đồng tuyệt đối, còn âm chữ và nghĩa chữ về nguyên tắc khó lòng trùng hợp một cách hoàn toàn. Bởi vậy, đối với âm và nghĩa, điều quan trọng là có thể tìm thấy, dù là trong một vài trường hợp, chúng có sự tương tự, gần gũi nhau.

Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang theo các lớp lang như đã phân định trên đây. Để tiện cho việc trình bày và phân tích cứ liệu, xin được lưu ý mấy điều quy ước sau đây.

a/ Các chữ viết tắt và kí hiệu:

- V: (Việt) - âm và nghĩa chữ Nôm đang xét trong tiếng Việt. Âm đọc được ghi theo chữ Quốc ngữ.

- C: (Choang) - âm và nghĩa chữ đó trong Hán ngữ. Âm đọc được ghi theo phương án phiên âm thông dụng hiện nay ở Trung Quốc, riêng thanh điệu được chuyển ghi theo chữ số: Âm bình: 1; Dương bình: 2; Thưởng thanh: 3; Khứ thanh: 4;.

- HV: (Hán Việt) - Âm Hán Việt của chữ đang xét được ghi theo chữ quốc ngữ.

- Dấu ® biểu hiện sự phân chiết hoặc ngược lại, sự tổ hợp.

- Dấu ~ : thay cho đối tượng đang xét được lặp lại (chữ, âm đọc, thành tố của chữ).

b/ Về chữ Choang phiên âm: để tiện theo dõi, đối chiếu xin được lưu ý:

- Một số phụ âm đầu được ghi bằng 2 chữ cái: mb [b], nd [d], ny [ ], ng [ ], by [pj], my [mj], gy [kj], gv [kw], ngv [ w].

- Các âm a, o trong hai vần ac, oc là âm ngắn. Các âm i, u trong ie, ue là âm dài. Chữ w đọc như ư [ui] Việt.

- Thanh điệu chữ Choang phiên âm không ghi bằng dấu thanh, mà ghi bằng các chữ cái phụ âm ở cuối mỗi âm tiết: Thanh 1 : không ghi; Thanh 2 : -z; Thanh 3: -j; Thanh 4: -x; Thanh 5: -q; Thanh 6: -h; Thanh 7 là thanh nhập bổng ghi bằng -p, -t, -k; Thanh 8 là thanh nhập trầm, ghi bằng -b, -d, -g ở cuối vần.

1. Đồng hình, gần âm, gần nghĩa

Những chữ đồng hình loại này, nếu xét theo mối liên hệ giữa chúng với các lớp từ ngữ mà chúng thể hiện, có thể chia làm hai tiểu loại:

- Những chữ ghi ngữ tố mượn Hán.

- Những chữ ghi ngữ tố ghi ngữ tố không phải gốc Hán(1).

1.1 Những chữ ghi ngữ tố mượn Hán

Cần phải phân biệt hai nhóm trong tiểu loại này.

1.1.1 Trước hết, dễ dàng nhận thấy rằng trong các văn bản chữ Nôm Việt cũng như văn bản chữ vuông Choang, đều có khá nhiều những chữ Hán được mượn dùng nguyên vẹn. Đó là trường hợp mượn ngữ tố mượn luôn các chữ Hán vốn có, trong số đó là có cả sự trùng hợp giữa Việt và Choang. Chỉ xin ghi ra đây vài chữ làm ví dụ ;

底 V: đáy, C: daej. Đều có nghĩa "dưới đáy, nơi tận cùng bên dưới" (HV: để, H: di3).

絲 V: tơ, C: sei. Đều có nghĩa là "sợi chỉ, sợi tơ". (HV: ti, H: si1)

屶 V: đống, C: dong. Đều có nghĩa là "dồn chất các vật thành khối nhô lên" ( HV: đống, H: dong4).

特 V: đực, "con vật tính dương", C: daeg - "đàn ông". HV: đặc, H: te4). Tiếng Hán cổ có nghĩa "trâu đực, con vật đực".

1.1.2. Đáng chú ý hơn là những trường hợp cả Việt và Choang đều mượn nghĩa tố Hán, song để ghi các ngữ tố đó, học đã tạo ra những chữ mới, trong số đó cũng có sự trùng hợp về hình chữ và cả cách tạo chữ.

a/ Thêm dấu phụ (dấu nháy) vào chữ vốn có của ngữ tố Hán (chữ Hán có thể được viết tắt, kiểu giản thể). Vĩ dụ:

b/ Thêm một bộ thủ (phụ thêm để trỏ nghĩa) vào chữ Hán vốn có và tạo thành chữ mới. Ví dụ:

c/ Thay đổi một thành tố (biểu âm hoặc biểu ý) của chữ Hán vốn có để tạo chữ mới:

d/ Tạo hẳn một chữ mới, không dùng lại một thành tố nào trong chữ Hán vốn có.

Đương nhiên, cũng có cả những trường hợp cùng ghi một ngữ tố mượn Hán, nhưng Việt và Choang đã tạo những chữ mới không đồng hình. Ví dụ:

1.2. Những chữ ghi ngữ tố không phải gốc Hán.

Để ghi những ngữ tố không phải gốc Hán, người Việt cũng như người Choang đều có sử dụng phương thức giả tá theo âm (mượn hình chữ và âm, đọc tương tự, không lấy nghĩa chữ Hán) và cả giả tá theo nghĩa (mượn hình chữ Hán, lấy nghiac mà đọc theo âm bản ngữ.

Tuy nhiên điều chúng ta quan tâm hơn ở đây là những chữ vuông tự tạo của người Việt và người Choang, xem chúng có xảy ra đồng hình hay không. Có thể khẳng định ngay rằng, những ngữ tố gần âm, gần nghĩa phi gốc Hán giữa Việt và Choang đã được ghi đồng hình một cách khá phổ biến, kể cả đối với các văn bản chữ vưông Choang lưu truyền ở địa phương(2).

a/ Những chữ đồng hình không hạn chế theo địa phương. Ví dụ:

V: bèo, C: biuz. Đều có nghĩa là "rau bèo, bèo bọt".

V: bươn, C: banh. Đều có nghĩa là "xông xáo, bươn chải, bươn chạy".

土北 V: bậc, C: mbaek. Đều có nghĩa "bậc thềm"

倿 V: cầm, C: gaem. Đều có nghĩa "nắm giữ trong tay".

叒 V: cạo, C: gang. Đều có nghĩa "dùng dao gọt tóc, gọt vỏ bên ngoài".

楂 V: chà, C: cah. Đều có nghĩa là "cây gai, nhành gai".

糸作 V: chạc, C: cag. Đều có nghĩa "dây rợ, dây thừng".

差爭 V: chênh C: ceng. Đều có nghĩa "không thẳng, không đều".

咵 V: đồng C: doengh. Đều có nghĩa là "đồng đất, đồng áng".

足采 V: giày C: caij. Đều có nghĩa là "chà đạp, xéo chân lên".

V: giẫm C: caemg. Đều có nghĩa "đạp chân lên, dấn bàn chân xuống"

嶦 V: gốc, C: goek. Đều có nghĩa "gốc cây".

鯁 V: ngạnh ,C: gangj. Đều có nghĩa là "ngạnh cá".

纝 V: ếch, C: aek. Đều có nghĩa "ếch (nhái) - gà đồng".

V: trống, C: gyong. Đều có nghĩa là "nhạc cụ hình ống hai đầu bịt da".

姧 V: mận, C: maenj. Đều có nghĩa là "cây mận".

木 敏 V: rậm C: rum. Đều có nghĩa "rậm rạp, rậm rịt".

俕 V: nhấm C: nyaemj. Đều có nghĩa nhai kỹ, nhấm nháp trong miệng".

火逢 V: phừng, C: foengx. Đều có nghĩa "lửa bốc lên, bừng cháy"

唨 V: trét, C: led. Đều có nghĩa "xoa trát, vỗ nhẹ".

b/ Những chữ đồng hình theo địa phương (trong đó chữ Choang chỉ thấy dùng ở địa phương). Ví dụ:

口本 V: bón, C: bonj. Đều có nghĩa "đứt, mớm cơm cho trẻ".

橜V: chịu C: ciux. Đều có nghĩa "nhận lấy, vâng nhận".

俽 V: gái/cái, C: gaij. Đều có nghĩa "đàn bà, con gái".

月古 V: cổ, C: goz. Đều có nghĩa "phần cơ thể giữa đầu và cổ".

晫 V: của, C: guh. Đều có nghĩa "của cải".

樤 V: cóng, C: gougj. Đều có nghĩa "lạnh buốt"

躳 V: cuốc, C: guek. Đều có nghĩa "dụng cụ vỡ đất, đào đất".

月連 V: lườn, C: lenz. Đều có nghĩa "phần lưng trên mông"

嬄 V: mày, C: mawz. Đều có nghĩa "nhân xưng ngôi hai"

買新 V: mới, C: mawq. Đều có nghĩa "mới mẻ chưa từng có".

犭光 V: hoẵng, C: gvang. Đều có nghĩa "con hoẵng, loại thú rừng như hươu, nai".

V: bớt, C: mbat. Đều có nghĩa "cái nhọt".

口乃 V: nài, C: naih. Đều có nghĩa là "năm nỉ, van xin".

唁 V: ngon, C: ngonz. Đều có nghĩa "thức ăn hợp khẩu vị".

愚共 V: ngông, C: ngoengq. Đều có nghĩa"dở hơi, ngu độn".

V: nhỏ, C: nyoj. Đều có nghĩa"bé, nhỏ".

V: ràng, C: rangh. Đều có nghĩa "quàng dây bó lại, buộc quanh".

Đương nhiên giữa Việt và Choang cũng có khá nhiều những ngữ tố gần nghĩa nhưng chữ viết thì khác nhau. Chẳng hạn:

- Cùng có nghĩa là "sao trên trời". người Việt viết là 嶖, 橰 hoặc 笽 đọc sao; còn người Choang lại viết là: 星刀, 星劳 hoặc @ và đọc là ndau.

- Cùng có nghĩa là "con vịt", người Việt thường viết là 顦 hoặc 顨 đọc vịt; còn người Choang thì viết là 必 鳥 hoặc @ và đọc là bit.

- Cùng có nghĩa là "bát ăn cơm", người Việt viết là 茝 đọc đọi, còn người Choang thường viết là 石朵 và đọc là duix.

2. Đồng hình, gần âm, khác nghĩa

Những chữ đồng hình loại này, xét về cách thức tạo chữ, có thể chia thành 3 tiểu loại:

- Cùng mượn chữ Hán (giữ nguyên dạng hoặc viết tắt), đọc gần âm để ghi các ngữ tố khác nhau.

- Cùng có cấu tạo biểu âm + biểu ý ngẫu nhiên trùng hợp.

- Chữ Việt có cấu tạo biểu âm + biểu ý, chữ Choang đồng hình nhưng không phân xuất được thành tố biểu ý.

2.1. Đồng hình do cùng giả tá chữ Hán theo cách khác nhau

Xin lưu ý rằng: a/ Những ngữ tố được ghi ở đây không nhất thiết đều là ngữ tố bản ngữ, song không thể cả Việt và Choang đều cùng mượn một ngữ tố gốc Hán. b/ Hầu hết các chữ ở đây (trừ chữ đầu tiên) đều là những chữ có tính địa phương trong các văn bản chữ vuông Choang. c/ Trong nhiều trường hợp, cả Việt và Choang đều có lối viết tắt như nhau và khá triệt để đối với nguyên dạng của chữ Hán.

2.2. Đồng hình do cấu tạo biểu âm biểu ý của chữ ngẫu nhiên trùng hợp


Ở dây có hai điều đáng lưu ý: a/ (cũng như ở các phần trên và cả phần tiếp theo của bài này). Trong số các chữ ghi ra sau đây, có thể có một số chữ là trùng hình với các chữ Hán nào đó. Chẳng hạn: các chữ 俌, 曢, 焵 v.v. có thể tìm thấy trong Tự điển Khang Hy [9]. Song không vì thế mà coi chúng là trực tiếp mượn từ chữ Hán, bởi vì chúng ta có cấu tạo âm, ý nội tại phù hợp với các âm và nghĩa của ngữ tố bản ngữ. b/ Trong số các chữ này, người Choang dùng phổ biến 10 chữ trên cùng, các chữ còn lại đều mang tính địa phương. Những chữ thuộc loại này còn có thể ghi ra khá nhiều.

2.3. Đồng hình, nhưng cấu tạo chữ không đồng thức.

Với các chữ vuông trùng hình giữa Việt và Choang sẽ dẫn ra sau đây, nếu như người Việt có thể phân xuất một cách rạch ròi ra thành tố biểu âm và thành tố biểu ý, thì ở chữ Choang khó lòng có thể thực hiện được sự phân xuất như vậy. Nếu như miễn cưỡng có thể chỉ ra thành tố biểu ân trong các chữ Choang đó, thì thành tố còn lại sẽ là "vô tích sự", vì nó không liên quan gì với nghĩa của ngữ tố được ghi. Ví như ở tiếng Việt chữ Nôm 倈 ba có thành tố biểu âm là 巴 ba và thành tố biểu ý là 三 tam "3". Trong khi đó chữ này trong tiếng Choang cũng có âm đọc là mbah [ba6], nhưng có nghĩa là "vẩy nước", hoàn toàn xa lạ với nghĩa của thành tố 三 tam "3" ở đây. Hãy so sánh:

亯 V: xin (van ~) C: cienx "xiên, xiêu".

吶 V: nói ( ăn ~) C: noix "ít, thiếu"

淶 V: lầy ( ~ lội) C: raix "rất".

繤 V: rêu ( cỏ ~ ) C: reuq "khô, ủ rũ"

伣 V: vóc (~ người) C: boeg "cánh tay"

腩 V: nem (~ chả) C: nomj "trẻ con"

乤 V: líu (~ lo) C: liuz "người chị"

扒 V: bắt (~ bớ) C: mbat "lần, lượt"

僘 V: đau (~ đớn) C: ndauh "lá trầu"

餒 V: nuôi (nuôi nấng) C: nuix "một số"

歳 V: cánh (~ chim) C: gengj "quật gậy"

斘 V: tháng (ngày ~) C: daugj "lắp đặt"

牐 V: nghe (~ ngóng) C: ngeh "tiếng trâu kêu"

鏁 V: lớn (to ~) C: lwenx "sơn ca (lượn)"

噖 V: vua (~ chúa) C: boz "đống, gò"

悞 V: tên (~ gọi) C: den "tiên"

倈 V: ba (số ~) C: mbah "vẩy nước"

肑 V: lành (tốt~) C: lengz "cơm trưa"

緥 V: già (người ~) C: yaz "che, ngăn"

浌 V: dài (~ ngắn) C: saiz "sạn, đá cuội"

鋥 V: rộng (~ rãi) C: singx "kêu, rống".

Trong số những chữ này: a/ Có một số chữ như 亯, 吶, 淶, 扒, 斘 v.v. có thể trùng hình với các chữ Hán (có trong Tự điển Khang Hy) nhưng phần lớn là những chữ Nôm thực sự của người Việt. b/ Với người Choang thì hầu hết các chữ này (trừ 7 chữ đầu). Là những chữ mang tính địa phương. Có nhiều khả năng đây đều là những chữ Choang thuộc loại giả tá theo âm, hoặc mượn từ chữ Hán hoặc (và phần nhiều) là mượn từ chữ Nôm Việt.

3. Đồng hình, gần nghĩa, khác âm

Những chữ đồng hình loại này không nhiều, có thể kể ra 5 trường hợp sau đây:

俼 V: trời (trên ~) C: gwn "ở trên" cả V và C đều tạo chữ theo phép hội ý: 天 thiên "trời" + 上 thượng "trên" ở Choang, ngữ tố này còn viết là 儙 (xem dưới).

儙 V: lên. trên, C: gwn "ở trên, lên trên". Có thể coi cả V và C đều tạo chữ này thep phép hội ý: bộ xước "đi" + thượng "trên, lên". Song ở chữ Nôm Việt chữ này cũng có thể lí giải theo phép hình thanh:連 liên (âm) +上 thượng (ý) ® 珕, sau đó viết tắt chữ liên chỉ giữ lại bộ xước mà thành chữc 儙.

儛 V: xuống (~ dưới) C: laj " ở dưới, xuống dưới". Có thể coi đây là chữ hội ý: bộ xước "đi" + hạ " dưới, xuống", và còn được liên tưởng với hình và nghĩa của chữ 儙 ở trên. Trong chữ Choang, ngữ tố này còn viết là (ss. 俼 ở trên). Ở chữ Việt, ngữ tố này còn được viết là 曡下 (xem dưới).

曡下 V: xuống (~ dưới), C: nungz "ở dưới, xuống dưới". Đây là chữ hình thanh, cả V và C: 曡(龍 long viết tắt) (âm) + 下 hạ "dưới, xuống) (ý). Thực ra, giữa Việt và Choang ngữ tố này cũng có sự gần gũi cả về âm đọc: cùng gần âm với long, nhưng ở V chuyển âm đầu sang x [s] (* sl s), còn ở C thì chuyển thành âm mới n (l n). Đúng ra không nên xếp chữ này vào loại khác âm, song về nghĩa nó có liên hệ với mấy chữ trên nên tạm ghi ra đây để tiện xem xét.

4. Đồng hình, khác âm, khác nghĩa

Xét về mặt tạo chữ, những chữ đồng hình loại này khá phức tạp. Có thể phân biệt thành hai nhóm chữ để xem xét:

- Chữ Việt và chữ Choang có chung phương thức tạo chữ, nhưng xử lý cụ thể rất khác nhau.

- Giữa chữ Việt và chữ Choang không theo một cách tạo chữ chung.

4.1 Những chữ đồng hình có chung phương thức tạo chữ

a. Chữ hình thanh có chung cả hai thành tố biểu âm và biểu ý, song âm và nghĩa chữ xê dịch theo hướng khác nhau:

(Trong số này: 4 chữ dưới người Choang sử dụng hạn chế ở địa phương).

b. Chữ hình thanh giữa Việt và Choang có chung thành tố biểu ý, còn thành tố biểu âm vốn khác nhau, nhưng do viết tắt (vt), trở nên giống nhau.

V: ngài /(người) ¬ 亻(ý) 碍 vt (âm)

C: ndaek "hắn" ¬亻(ý) 得 vt (âm)

V: ngài (bướm tằm)¬虫 (ý) 碍vt (âm)

C: daek "châu chấu" ¬才(ý) 得 vt (âm)

V: khứa (dao ~) ¬ 才(ý) 去 vt (âm)

C: fat "thả, buông" ¬ 才(ý) 法 vt (âm)

V: quét (~ dọn) ¬ 才(ý) 决 vt (âm)

C: geh "chặt, cắt" ¬ 才(ý) 块 (âm)

(Chữ sau cùng người Choang dùng ở địa phương).

c. Chữ chỉ sự đồng hình: Ngoài chữ sau đây, chưa tìm thấy một chữ nào khác.

V: đĩ (gái ~) 女 (ý) +dấu chấm

C: ced "sinh thực khí, âm hộ" (chỉ sự).

4.2 Những chữ đồng không theo một cách cấu tạo chung.

乥 V: nhắ p (~ miệng) do bộ khẩu 口 (ý) + nhập (âm)
C: heauj "vào", có thể do nhập 入 biểu ý, nhưng khẩu để làm gì ?

暣 V: bước (~ chân) do bộ túc 足(ý) + bắc 北 (âm).
C: bex "mệt mỏi", có thể do bắc (H: bei3) biểu âm, song phải chăng là bộ túc 足"chân" lại biểu ý "mệt mỏi" ?

拱 V: cũng (~ lại), là chữ giả tá chữ Hán theo âm.
C: oengj "đẩy, lớn", do bộ thủ 才(ý) + cộng 共 (âm).

佱 V: chém (~ tre), do chiếm 占(âm) + bộ đao 刀 (ý).
C: deb "liềm cắt lúa", có thể do bộ đao biểu ý, nhưng 占 chiếm (H: zhan4) phải vhăng là để biểu âm deb [tep7] ? (do 貼 thiếp vt chăng ?)

琜 V: cỗ (ăn ~), do bộ thực 食 (ý) + 具 cụ (âm).
C: daz "hiệm dè", nếu cho bộ thực 食 là biểu ý, thì 具 cụ (H: ju4) lẽ nào lại là biểu âm daz [ta2] ?

煶 V: thiêng (~ liêng) do linh (ý) + thanh 声 (âm)
C: lingh "hồn phách", có thể 灵 biểu ý, còn thanh 声 để làm gì ?

V: ấy (cái ~), là chữ Hán 衣 y được giả tá theo âm, lại phụ thêm chữ 个 ca (vt) để ghi âm (chỉnh âm đọc).
C: cang "ăn mặc", rất có thể là chữ Hán 裝 trang được mượn theo cùng ngữ tố Hán, rồi viết tắt phần trên mà thành chăng ?

(Ở đây, trừ 2 chữ trên, các chữ còn lại người Choang dùng chủ yếu ở địa phương).

Có thể nhận thấy rằng nhiều chữ Choang thuộc tiểu loại này rất khó xác định thành tố biểu âm, hoặc thành tố biểu nghĩa. Trong tình trạng đó, chúng có khả năng là những chữ được mượn nguyên vẹn từ chữ Hán hoặc từ chữ Nôm Việt chăng.

5. Tiểu kết

Trên đây chúng ta đã thực hiện một sự phân loại và phân tích hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang, chủ yếu dựa trên mối quan hệ hìng âm - nghĩa của các chữ và phương thức cấu tạo của chúng.

Đối tượng mà chúng ta quan tâm xem xét ở đây không phải là những chữ Hán được mượn nguyên cùngvới ngữ tố gốc Hán, mà số lượng những chữ thuộc loại này là vô kể trong văn bản Nôm Việt và cả văn bản chữ Choang. Chúng ta chỉ tập chung chú ý đến hiện tượng đồng hình giữa Việt và Choang, khi họ, với tư cách là người bản ngữ đã sử dụng, vay mượn chất liệu chữ vuông Hán cùng với các phương thức tạo chữ chủ yếu của nó (đặc biệt là phép hình thanh) để ghi chép các ngữ tố mượn Hán đã được dung nạp thuần thục vào ngôn ngữ của họ, cũng như để ghi các ngữ tố bản ngữ và phi Hán ngữ khác. Những chữ đồng hình như vậy giữa Việt và Choang có thể kể đến con số hàng trăm mà bài này đã cung cấp không ít hơn 100 chữ (chính xác là 127 chữ). Con số này chưa phải là tất cả, song cũng đã là đáng kể để có thể cung cấp một cái nhìn đại quan về hiện tượng đang xét.

Kết quả phân loại và phân tích các cứ liệu đó đã gợi cho ta thấy những nguyên nhân khác nhau dẫn đến hiện tượng đồng hình kể trên. Về nguyên tắc, có thể phân biệt những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Hiện tượng đồng hình giữa chữ Việt và chữ Choang trên đại thể cũng vậy.

Sự đồng hình ngẫu nhiên giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang thực ra là đã dựa trên một nhân tố tất nhiên, một tiêu đề chung là cả hai hệ văn tự này đều dựa vào chất liệu và mô hình cấu tạo chủ yếu của chữ Hán. Nói "ngẫu nhiên"ở đây chỉ có nghĩa là một sự "không hẹn mà gặp" trên những kết quả vay mượn chữ Hán hoặc tạo chữ cụ thể ? Tình hình này chữ Hán phần lớn được phản ánh ở các chữ thuộc các nhóm (2.1), (2.2), (4.1) và rải rác ở các nhóm khác.

Đáng quan tâm hơn là khả năng đồng hình có duyên cớ giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang, nảy sinh ra từ quan hệ giao lưu tiếp xúc lẫn nhau khá lâu đời, giữa người Việt và người Choang. Tình hình này có thể được phản ánh chủ yếu ở cácw nhóm chữ (1.1.2), (1.2), (2.3), (4.2). Trong số những chữ này, thậm chí có một số chữ có nhiều khả năng là người Choang đã tiếp nhận từ chữ Nôm Việt. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi: a/ Đó là những chữ có cấu tạo hình thanh rõ rệt ở chữ Nôm Việt, còn ở văn tự Choang chúng không "chịu đựng" được sự phân tích hình thanh như vậy, có nghĩa là chúng được dùng như một chữ nguyên khối đã được mượn sẵn chứ không phải tự tạo. b/ Đó là những chữ chỉ được người Choang dùng chủ yếu ở địa phương (có thể là vùng biên giới Việt - Trung), nơi người Choang thường xuyên giao lưu tiếp xúc với người Việt. Xác lập một danh sách đầy đủ và dứt khoát cho các chữ này còn đòi hỏi nhiều công phu và là một công việc không dễ dàng gì, song ít nhất cũng có thể kể ra hàng chục chữ như vậy trong số các chữ có mặt ở mục (2.3) và (4.2).

CHÚ THÍCH

(1) Ngữ tố (語素) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong Hán ngữ học hiện nay. Nó được hiểu gần như morphème trong sách vở ngôn ngữ học đại cương. Tuy nhiên, đối với Hán ngữ và các ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính (có cơ chế đơn tiết) thì đó là đơn vị ngôn ngữ cơ bản và tối thiểu có mang nghĩa, dù có được sử dụng độc lập trong câu hay không và trên đại thể trùng với một âm tiết.

(2). Khi phân biệt các chữ vuông Choang mang tính địa phương, chúng tôi dựa vào chỉ dẫn của bộ Tự điển chữ Choang cổ [7], và đây cũng là nguồn cứ liệu chủ yếu về chữ vuông Choang mà chúng tôi có được.

(3). Sự tạo ra chữ Nôm Việt làm 乄 được giải thích theo 2 hướng: 1. Nhiều người cho rằng chữ này là do mượn chữ Hán 為 vi "làm", viết tắt mà thành, chỉ giữ lại phần trên của chữ vi, đọc theo âm Việt). 2. Cũng có ý kiến cho rằng đây là do viết tắt chữ 濫 lạm mượn đọc theo âm mà ra. Cả 2 cách giải thích này xem ra đều có lý: cách 1 là giả tá chữ Hán theo nghĩa, cách 2 là giả tá chữ Hán theo âm. Cứ liệu chữ Choang ở đây có giá trị tham khảo đối với cách 2.

(4). Có thể ngữ tố longh "đùa cợt" trong tiếng Choang là do mượn ngữ tố Hán 弄 (HV: lộng) H: long4) "đùa cợt", nhưng họ đã đi mượn chữ Hán khác để ghi ngữ tố này.

(5) Ở chữ Nôm Việt, thành tố且 thả không chỉ đơn giản là biểu âm trực tiếp thành vả mà có thể là gián tiếp qua cách đọc thẳng chữ 且 thả "vả lại" là vả (phép giả tá chữ Hán theo nghĩa).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Việt văn

(1). Bảng tra chữ Nôm (Viện Ngôn ngữ học), Nxb. KHXH, H. 1976.

(2). Đào Duy Anh. Chữ Nôm - nguồn gốc cấu tạo, diễn biến. Nxb. KHXH, H. 1975.

(3). Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb. Thuận Hóa (tái bản), Huế, 1994.

(4). Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb. Giáo dục, H. 1995.

(5). Tự điển chữ Nôm tiếng Việt. Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Bản thảo 1995, Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

B. Hán văn

(7). Cổ Tráng tự điển (Sơ cảo). Quảng Tây Dân tộc xuất bản xã, Nam Ninh, 1989.

(8). Cổ Tráng tự văn hiến tuyển chú. Trương Nguyên Sinh, Lương Đình Vọng, Vi Tinh Lãng, Thiên Tân Cổ tịch xuất bản xã, 1992.

(9). Khang Hy tự điển Trung Hoa thư cục xuất bản (in lần thứ 8), Bắc Kinh 1992.

(10) Quốc tế Bách Việt văn hóa nghiên cứu Ngụy Kiều chủ biên. Trung Quốc Ngụy Kiều chủ biên. Trung Quốc Xã hội khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994.

(11). Tráng tộc văn học sử. Dương Nhược Tu, Chu Tác Thu, Hoằng Thiệu Thanh, Tăng Khánh Toàn hợp biên. Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã. Nam Kinh 1986.

(12). Việt Tây văn hóa dữ Trung Hoa văn hóa nghiên cứu . Hồ Đại Lôi, Hà Lâm Hạ chủ biên. Quảng Tây Sư phạm đại học xuất bản xã. Quế Lâm, 1993./.

TB

CHỮ "NAM" 南 VIẾT KIÊNG HÚY VÀ VẤN ĐỀ
NIÊN ĐẬI CỦA CHUÔNG VÂN BẢN

NGÔ ĐỨC THỌ

Những thông tin về chữ Nam 南 viết kiêng húy tôi đã có dịp công bố vào năm 1986 và gần đây trong luận án Nghiên chữ húy (1995). Nói tóm tắt, chúng ta đã thu được các văn bản có chữ Nam viết kiêng húy theo các mẫu

(Chuông Quán Thông Thánh ở Bạch Hạc)

(Bia chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi)

(Viên gạch chùa Báo Ân)

(Chuông Cẩm Thịnh)

Đầu năm nay, trong khuôn khổ của công trình Tổng tập Văn bia Việt Nam do Viện nghiên cứu Hán Nôm hợp tác với EFEO thực hiện, tôi có nhận được một số văn bản biên tập (vòng 2) do nhà nghiên cứu Tạ Trọng Hiệp (nay đã quá cố) gửi từ Paris sang nhờ góp ý kiến. Nhân đây tôi muốn nói đến một vấn đề lý thú liên quan đến chuông Vân Bản.

Quả chuông này phát hiện được ở Đồ Sơn (Hải Phòng), đã được đem về trưng bày trang trọng trong một tủ kính đặt ở gian đầu tiên của Viện Bảo tàng lịch sử tại Thủ đô từ nhiều năm nay, tôi chắc rằng đã có dịp xem hiện vật đó. Bản thân tôi cũng đã đến xem quả chuông vài lần, nhận thấy chữ khắc trên chuông vẫn còn có thể đọc được tuy bị mờ mòn nhiều. Về niên đại của chuông, nhãn của VBTLS ghi là:

Chuông Vân Bản Đời Lý

Các nhà nghiên cứu từ trước đến nay, cũng như chúng ta, có lẽ ai cũng muốn biết cụ thể hơn, nhưng đành tạm bằng lòng với lời thuyết minh đó, bởi vì quả thật trên chuông không có dòng lạc khoản ghi ngày tháng niên hiệu như chúng ta vẫn thấy ở nhiều bia, chuông khác.

Có đoạn văn sau đây ở trên chuông:

行 僧 向 心 ,居 士 大 惡 ,共 開 創 山 林 下 洞 , 東 至 海 邊 為 界 , 西 至 邊 海 石 頭 為 界, 丙 至 橫 山 為 界 , 囗 囗 囗 囗 , 北 至 抄 石 為 界 .

“Khổ hạnh tăng Hướng Tâm, cư sĩ Đại ác cộng khai sáng sơn lâm hạ động, đông chí hải biên vi giới, tây chí biên hải thạch đầu vi giới, bính chí Hoành sơn vi giới, 囗囗囗囗, bắc chí Sao Lương thạch vi giới.”

Tạm chưa bàn đến 6 chữ chưa đọc rõ, chúng ta có thể thấy đoạn văn trên mô tả vị trí của cái động dưới chân núi do nhà sư tu khổ hạnh hiệu Hướng Tâm và vị cư sĩ hiệu Đại ác “khai sáng” (hiểu là phát hiện và sửa sang để làm nơi tu hành). Vì là động núi xa nơi thôn cư nên trong đoạn mô tả trên đây chúng ta không thấy những địa danh làng xã hoặc một kiến trúc nào, chỉ biết động ấy:

- Phía Đông ra đến bờ biển.

- Phía Tây đến Hòn đá (hiểu đại khái là một hòn đá lớn hoặc khá lớn) bên bờ biển.

- Phía Bắc cũng đến một hòn đá gọi là hòn Sao Lương (?)

Như vậy, ba phía Đông, Tây, Bắc đã được nói đến. Còn một phía nữa là phía Nam chưa thấy nói đến. Trong khi đó văn chuông, sau khi nói đến các phía Đông, Tây, chúng ta thấy câu: “Bính chí Hoành Sơn vi giới 丙 至 橫 山 為 界” Hoành Sơn ở đây có nhiều khả năng chỉ là một quả núi (nhỏ) có đoạn nhô ngang ra biển (Đồ Sơn), không phải là núi Hoành Sơn (Đèo Ngang) ở giáp giới Hà Tĩnh và Quảng Bình vẫn được nói đến nhiều như chúng ta từng biết. So sánh kết cấu các câu tương ứng:

“Đông chí.....vi giới; Tây chí...vi giới; Bắc chí....vi giới”

Chúng ta có thể xác định được câu: “Bính chí Hoành Sơn vi giới 丙 至 橫 山 為 界” chính là để nói về phía Nam: Phía Nam đến Núi Ngang (Hoành sơn).

Nhà nghiên cứu văn bản học Tạ Trọng Hiệp đã nhận ra logic và vấn đề của đoạn văn này. Trong văn bản biên tập Chuông Vân Bản, Tạ Trọng Hiệp nhận ra chữ Nam ở vị trí chữ Bính 丙 , cho rằng: “Thật ra là khắc có nét sổ: , tức là cách viết thảo chữ Nam . Đọc là Nam thì hợp với danh mục bốn phương ghi trong đoạn này”. Ông không nói rõ đó là chữ viết bớt nét hoặc chữ húy, nhưng liền đó ông ghi: “Về các chữ húy viết bớt nét chữ Nam đời Trần, như , xem các văn bia số 33 và 53. Và tham khảo chuyên khảo của Ngô Đức Thọ, 1995 (bản đánh máy, tr.48)”.

Tuy nhiên, trong đợt biên tập cuối năm, bà Claudine Salmon và mấy ủy viên Ban biên tập xem lại ảnh chụp thác bản nhận thấy chữ 丙 đúng là chữ Bính 丙 chứ không phải là chữ Nam viết thảo. Và, chưa rõ vị nào trong số mấy người trên đã tra tự điển tìm ra được Bính, ngoài nghĩa là tên can thứ 3 trong Thập can (Giáp, Ất, Bính,...) còn có nghĩa là Nam phương (Khang Hi dẫn Thuyết văn: Bính “Nam phương chi vị dã 南 方 之 位 也”). Để cho chắc chắn hơn, tôi đã đến VBTLS xem lại, xác nhận chữ trên hiện vật và trên thác bản đều đúng là chữ Bính. Như vậy ý kiến giải thích chữ Bính được dùng với nghĩa phương Nam là xác đáng.

Nhưng đến đây vấn đề chuyển sang một phương diện khác: lý giải thế nào về hiện tượng Nam đổi thành Bính trong khi 3 từ phương vị Đông, Tây, Bắc vẫn dùng nguyên chữ ? Trong trường hợp có một chữ không được dùng bình thường mà phải đổi dùng chữ khác chúng ta có thể nghĩ đến lý do kiêng húy bởi vì đổi chữ là phương pháp kiêng húy khá phổ biến qua nhiều triều đại. Triều đại nào có định lệ đổi Nam thành Bính ? Đây là trường hợp cá biệt hay là định lệ của triều đại nào ?

Nếu chuông Vân Bản là chuông đời Lý như bản thuyết minh của VBTLS thì người khắc chuông Vân Bản không có lý do gì buộc phải kiêng tránh chữ Nam. Các nghiên cứu chữ húy của chúng tôi trước đây đã chứng minh dưới triều Lý chưa có lệ viết kiêng húy. Để cho chắc chắn, chúng ta có thể kiểm tra các chữ Nam trên văn bia đời Lý, chẳng hạn:

1/ Bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (dựng khoảng năm Hội Phong 9 [1100]):

- 西 南 有 山, 高 而 且 大, 名 安 獲 Tây Nam hữu sơn, cao nhi thả đại, danh An Hoạch / Phía tây Nam có ngọn núi vừa cao vừa lớn, gọi là núi An Hoạch (An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký, N°17539)

2/ Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hội Tường Đại Khánh 9 [1118]):

- 丙 申春 二 月, 御 駕 南 巡 Bính Thân xuân nhị nguyệt, ngự giá Nam tuần / Năm Bính Thân, mùa xuân tháng 2 vua ngự giá Nam tuần (d.12);

- 乃 擇 彼 城 西 南 角 Nãi trạch bỉ thành Tây Nam giác / Bèn chọn góc tây Nam thành ấy (d.16) (Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh, No20953)

3/ Bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn (Thiên Phù Vũ Duệ 7 [1126]):

- 歷 南 碩 `之 清 江 Lịch Nam Thạc chi Thanh Giang/Qua sông Thanh Giang ở đất Nam Thạc (Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh, No20594, d.4 trái sang)

4/ Bia chùa Diên Phúc thôn Cổ Việt (Đại Định 6 [1145]):

南 長 畝 田 Nam trường mẫu điền / Phía Nam ruộng đất trải dài (Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi ninh, thác bản Viện Hán Nôm mới sưu tầm).

Cả 5 chữ Nam ở 4 bia đờI Lý đã dẫn trên đều viết nguyên dạng và không có trường hợp nào thay bằng Bính, đủ chứng cứ để xác nhận trên bi ký triều Lý không có tiền lệ đổi chữ Nam thành Bính.

Đến đây chúng ta đã có thể nhận ra chữ Nam đổi thành Bính là theo lệ kiêng húy đời Trần, vì chỉ triều Trần mới quy định viết kiêng húy chữ Nam (ban bố ngày 12-5-1299 đời Trần Anh Tông, Toàn thư, BK6 - 5b).

Nhưng nếu chỉ có một cứ liệu trên chuông Vân Bản thì kết luận trên có thể được coi là hợp lý, nhưng người ta vẫn còn băn khoăn không rõ có đúng thực hay không ? May mắn là chúng tôi đã tìm được cứ liệu đối chứng ngay trong tư liệu mà chúng tôi thu được trong đợt sưu tầm văn bia vừa qua.

Tôi muốn dẫn chứng văn bia chùa Đại Bi Diên Thánh ở xã Lạc Đạo huyện Mỹ Văn. Tấm bia này nói chung vẫn còn đọc được trừ vài mảng bị mờ mòn. Đây là một tấm bia đời Trần đã được nói đến trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn: “Bia chùa Đại Bi, xã Mộ Đạo, do Sa môn Sùng Nhân soạn”(2). Tên đầy đủ của chùa là Đại Bi Diên Thánh, Mộ Đạo là tên thôn thuộc xã Lạc Đạo hiện nay. Không thấy KVTL ghi niên đại, nhưng tất nhiên là thuộc đời Trần, vì cả đoạn văn này họ Lê liên tiếp ghi tên các bia chuông đời Trần. Trên bia hiện vật cũng như trên thác bản chúng ta có thể đọc rõ cả dòng niên hiệu và tên ngưòi soạn và người khắc bia:

時 開 泰 四 年 丁 丑 孟 冬 上 旬 初 七 日 立 示 , 專 修 三 學 沙 門 崇 仁 撰 , 博 士 張 ,僧 範 遂 - Thời Khai Thái tứ niên Đinh Sửu mạnh đông thượng tuần sơ thất nhật lập thị. Chuyên tu Tam học Sa môn Sùng Nhân soạn. Bác sĩ Trương, tăng Phạm Toại thuyên / Dựng ngày mồng Bảy thượng tuần tháng 10 năm Khai Thái thứ 4 (11-1327, đời Trần Minh Tông)

Nội dung bia nói về việc trùng tu chùa Đại Bi Diên Thánh. Trừ mặt trước khắc bài ký, mặt sau và hai mặt cạnh kê các thửa ruộng của nhà chùa. Các thửa ruộng thường được mô tả chẳng hạn như:

東 伴 近 阮 氏 擔, 西 伴 近 路 Đông bạn cận Nguyễn Thị Đảm, Tây bạn cận lộ / Bờ phía đông gần [ruộng của] Nguyễn Thị Đảm, bờ phía tây gần đường đi v.v...

Qua mô tả nhiều thửa ruộng, chúng tôi thấy các từ Đông, Tây, Bắc đều hiện diện, nhưng không có một chữ Nam nào, trong khi đó có đến 5 chữ Bính khắc rõ ràng, được đặt ở các vị trí có nghĩa chỉ phương Nam:

1 東丙 两 伴 近 阮 考 , 西 伴 近 路 ) (mặt 2) · Đông Bính lưỡng bạn cận Nguyễn khảo, Tây bạn cận lộ / Hai bờ Đông và Nam gần ruộng cụ Nguyễn, bờ Tây gần đường đi.
2 東 北 丙 近 佗 魔 (mặt 2) · Đông Bắc Bính cận tha ma / Phía Đông, phía Bắc, phía Nam gần bãi tha ma
3 東 廣 一 高 九 尺 , 近 武 塊 ; 西 廣 一 高 九 尺 , 近 阮 冷; 丙 長 四 高 五 尺 , 近 阮 考 , 北 蔡 平 (mặt 2) · Đông quảng nhất cao cửu xích, cận Vũ Khối; Tây quảng nhất cao cửu xích, cận Nguyễn Lãnh; Bính trường tứ cao ngũ xích, cận Nguyễn khảo, Bắc Thái Bình / Phía Đông rộng 1 sào 9 thước, gần ruộng Vũ Khối; Phía Tây rộng 1 sào 9 thước, gần ruộng Nguyễn Lãnh, phía Nam rộng 4 sào năm thước, gần ruộng cụ Nguyễn, phía Bắc gần ruộng của Thái Bình.
4 个 帶 田 壹 坎 , 東 近 阮 桂 , 西 近 路, 丙 北 近 佗 魔 (mặt cạnh trái) · Cá đái điền nhất khảm, Đông cận Nguyễn Quế, Tây cận lộ, Bính Bắc cận đa ma / Ruộng Cá Đuối một đám, phía Đông gần ruộng Nguyễn Quế, phía Tây gần đường, phía Nam và phía Bắc gần bãi tha ma.
5 丙 近 絲 房 (mặt cạnh phải) · Bính cận ti phòng / Phía Nam gần Nhà Tơ.

Đến đây chúng tôi thấy đã có đủ cứ liệu để rút ra một kết luận:

Chữ Nam 南 theo lệ kiêng húy đời Trần, ngoài các cách viết bớt nét mà chúng ta đã biết, còn được kiêng húy bằng cách dùng chữ đồng nghĩa Bính 丙 để thay thế.

Như vậy, do có thêm cứ liệu trên chuông Vân Bản và bia chùa Đại Bi Diên Thánh chúng ta có thêm một đặc điểm chữ húy để nhận diện văn bản đời Trần. Tin chắc rằng trên các bia chuông đời Trần chúng ta sẽ còn gặp các cứ liệu khác để củng cố cho kết luận này. Và với sự chứng minh trên đây, chúng ta có thể đề nghị Viện Bảo tàng lịch sử điều chỉnh xếp lại chuông Vân Bản vào niên đại đời Trần, không phải đời Lý như đang giới thiệu hiện nay.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Ngô Đức Thọ: Bước đầu nghiên cứu chữ húy đời Trần. Nghiên cứu Hán Nôm, số 1, năm 1986, tr.17-32; cũng xem: Première approche sur les noms et prénoms tabous sous la dynastie de Tran. Viêtnam Sciences sociales. No1+2, 1986, p.106-122.

- Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm (Luận án PTS, sắp xuất bản)

(2) Xem: Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. Bản dịch, Nxb. Sử học, 1962, tr.198./.

TB

VỀ VĂN BẢN CUỐN BÁCH TRÚNG KINH

LÊ THÀNH LÂN

Năm 1986, được đọc cuốn Bách trúng kinh(1), chúng tôi liền thông báo sơ bộ về giá trị cuốn lịch này trên báo Nhân dân qua bài Năm mới giở cuốn lịch cổ triều Lê(2) và bắt tay ngay vào việc khảo cứu chi tiết; kết quả được thông báo trong bài Lịch thời Lê- Trịnh(3) đăng trên tạp chí Lịch sử quân sự. Gần đây, khi khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (4), chúng tôi lại có dịp khảo cứu lại cuốn Bách trúng kinh để bổ khuyết những thiếu sót của lần khảo cứu trước và đưa vào bài Lịch thời Lê trung hưng (5).

Hai lần đó chúng tôi mới chỉ tập trung khai thác giá trị nội dung của cuốn lịch này, chưa có điều kiện để khảo cứu kỹ về văn bản học mà chỉ bàn lướt qua đôi nét chính. Lần này, chúng tôi sẽ bàn kỹ về văn bản học.

1.Các văn bản Bách trúng kinh

Một lần trên báo Nhân dân, Tạ Ngọc Liễn có viết rằng ở Thư viện Viện Hán Nôm có 3 bản Bách trúng kinh. Chúng tôi có đến đó tra cứu thì thấy đúng như vậy.

Bản thứ nhất có tên là Bách trúng kinh(1), có ký hiệu A.2873, đó chính là bản sẽ được nghiên cứu kỹ về văn bản học ở bài viết này. Sách Di sản Hán Nôm Việt Nam Thư mục đề yếu (6, tr. 45) có viết rằng cuốn này có lịch từ năm Giáp Tý Vĩnh Tộ 6 (1621) đến năm ất Tỵ Cảnh Hưng 46 (1785) gồm 165 năm, phần đầu từ trang 1 đến trang 117 in ván, phần sau từ trang 118 đến trang 162 chép tay. Thông báo này có sai chút ít : năm Vĩnh Tộ 6, Giáp Tý là năm 1624 chứ không phải là 1621, vì vậy cuốn lịch chỉ có thể ghi được nhiều nhất là 162 năm.

Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử có nhắc đến cuốn lịch này (7, tr.17) nhưng thật sự không sử dụng lịch ghi trong đó.

Người soạn cuốn Bảng đối chiếu ... này là Nguyễn Trọng Bỉnh không biết đến, không sử dụng và vì thế không liệt kê cuốn Bách trúng kinh này vào phần Tài liệu tham khảo ở cuối sách. Bởi vậy Bảng đối chiếu... chỉ in lịch Trung Quốc chứ không in lịch Việt Nam. Khi sách sắp in, Nguyễn Linh viết phần Mở đầu mới viết rằng lịch Khâm thụ của nhà Lê được ghi trong cuốn Bách trúng kinh này, nhưng thực sự ông không đọc, không biết lịch Khâm thụ ở đó khác lịch của Trung Quốc ở chỗ nào, vẫn ghi nhầm rằng cuốn lịch bắt đầu từ năm 1621. Điều quan trọng là, nhận định này không được nói cho Nguyễn Trọng Bỉnh - tác giả chính của cuốn sách - biết. Ông Bỉnh qua đời 2 năm trước khi tác phẩm của mình được ấn hành.

Bản thứ hai cũng có tên là Bách trúng kinh, có ký hiệu là A.2872, nhưng nay đã bị thất lạc (6, tr.45). Chúng tôi đoán rằng, đây chính là bản mà Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được đọc tại Hà Nội vào năm 1944. Trong cuốn Lịch và lịch Việt Nam (8), Giáo sư cho biết cuốn Bách trúng kinh đó là bản chép tay, ghi lịch Việt Nam từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) và Giáo sư có chép lại bản này. Bản chép lại này sẽ là một tài liệu qúy để góp thêm vào việc khảo cứu lịch Tây Sơn.

Bản thứ ba có tên là Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh(9) mà chúng tôi đã có dịp khảo cứu kỹ trong bài Đọc và hiệu đính cuốn "Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh"(10) và bài Phải chăng đây chính là lịch Tây Sơn ?(11). Cuốn lịch này là một bản chép tay, có nhiều sai sót, chúng tôi phải dùng mã sửa sai để hiệu đính lại; ở đó có lịch cuối Lê, lịch Tây Sơn, lịch nửa đầu nhà Nguyễn, từ năm Canh Thân (1740) đến năm Quý Mùi (1883). Trở xuống ta tập trung khảo cứu bản thứ nhất.

2. Mô tả văn bản

Cuốn Bách trúng kinh này được Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp xưa sưu tầm và hiện được lưu giữ tại Thư viện Viện Hán Nôm với ký hiệu A.2873. Sách có khổ 20 x 12 cm gồm 83 tờ giấy dó.

Tờ đầu là tờ bìa : chính giữa in cột chữ lớn "Bách trúng kinh" bên cạnh là ấu hình bầu dục của thư viện Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp. Trên cùng là hàng chữ "Tích niên thư". Hai bên là 2 cột chữ "Tập bách niên chi chiêm" và "Thùy vạn thế chi pháp". Hai góc trên và phía dưới trang trí cách điệu hoa thị.

Từ tờ thứ 2 cho đến cuối sách là lịch, mỗi trang in hoặc chép lịch 1 năm.

Từ trang 1 đến trang 116 , trừ trang 100 bỏ trống, còn lại in ván lịch của 115 năm, từ năm Giáp Tý (1624) đến năm Mậu Ngọ (1738).

Phần lịch còn lại là chép tay, chữ không đẹp, nhưng đều đặn và chính xác(3).

Từ trang 117 đến 152, chép lịch 36 năm, từ năm Kỷ Mùi (1739) đến năm Giáp Ngọ (1774).

Đến đây bị mất một tờ, đáng lẽ chép lịch các năm ất Mùi (1775) và Bính Thân (1776).

Từ trang 153 đến trang 161, chép lịch chín năm, từ năm Đinh Dậu (1777) đến năm ất Tỵ (1785).

Các trang 162, 163 đã ghi tên năm, chẳng hạn 162 : "Đại Việt Cảnh Hưng tứ thập thất niên tuế thứ Bính Ngọ" ( năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 47 (1786 ) nhưng chưa chép lịch.

Nội dung mỗi trang lịch :

Cột đầu ghi : Đại Việt, niên hiệu, niên thứ, tuế thứ, nguyệt kiến. Các cột tiếp theo, mỗi cột dành cho 2 tháng, ở đó ghi can chi, nhị thập bát tú, trực tinh của ngày đầu tháng cùng với tính thiếu (tiểu), đủ (đại ) của tháng. Ngoài ra còn ghi ngày âm ứng với 12 ngày tiết khí (Lập xuân, Kinh trập, Thanh minh, Lập hạ, Mang chủng, Tiểu thử, Lập thu, Bạch lộ, Hàn lộ, Lập đông, Đại tuyết, Tiểu hàn). Cột cuối cùng ghi tháng thứ 13 đối với năm nhuận và có lúc ghi niên hiệu Trung Quốc: 1624 : (Minh) Thiên Khải 4, 1628: (Minh) Sùng Trinh 1, 1644: "(Thanh) Thuận Trị 1.

3 . Đoán định về niên đại

Chúng tôi chưa thấy một cuốn sử nào có nhắc đến cuốn sách Bách trúng kinh nên rất khó đoán định chính xác về việc soạn thảo, khắc ván và in ấn.

a/ Về năm in :

Chúng tôi đoán rằng cuốn Bách trúng kinh được in vào khoảng thời gian từ 1739 đến 1745 vì :

Năm 1738 được ghi niên hiệu, niên thứ đầy đủ: Vĩnh Hựu tứ niên, tuế thứ Mậu Ngọ, sách phải được in sau năm này. Chúng tôi thấy trong lời tựa cuốn sách Phượng Dực đăng khoa lục do Văn hội Đinh Danh Bá soạn vào trung tuần tháng 5 năm Bính Dần Cảnh Hưng 7 (1746) đã có nhắc đến cuốn lịch này (12, trang 21), ít nhất nó phải được in một lần trước đó và ban phát ra khá rộng rãi. Chúng tôi nghĩ việc in có thể trước mốc này nhiều, ngay vào năm1739.

Người có cuốn lịch này đã chép lịch các năm sau, có chép từng năm hay vài năm một lần.

b/ Về năm khắc ván.

1/ Ta dễ dàng nhận ra rằng các ván in lịch các năm được khắc vào những thời điểm khác nhau bởi có rất nhiều những dấu hiệu về sự thiếu nhất quán về nội dung cũng như hình thức :

- Việc in niên hiệu các vị vua Trung Quốc chỉ làm có 3 lần, lần đầu ở đầu sách, 2 lần sau vào dịp cải nguyên Sùng Trinh và Thuận Trị; vậy mà đến năm Nhâm Dần (1662) cải nguyên Khang Hy, năm Quý Mão (1723) cải nguyên Ung Chính lại không thấy in theo lệ trên.

- Việc ghi tên lịch vào tờ lịch rất bất thường, chỉ có 2 năm : Giáp Thân (1644) ghi 3 chữ "Khâm thụ lịch", năm Bính Tý (1636) chỉ in một chữ "Khâm".

- Các tháng nhuận được in nửa cột như các tháng thường, riêng có 2 năm Mậu Tuất (1718) và Tân Sửu (1721) lại in chung với tháng cùng tên vào nửa cột.

- Lệ thường các năm đều in 12 ngày tiết khí, riêng 2 năm không theo lệ ấy : Năm Mậu Thân (1728) thay 4 ngày tiết khí cuối bằng 4 ngày trung khí là Sương giáng, Tiểu tuyết, Đông chí và Đại hàn, năm Kỷ Dậu (1729) lại in 2 ngày trung khí Tiểu tuyết, Đông chí.

- Nguyệt kiến là để ghi can chi cho tháng giêng hàng năm, nếu viết đủ thì có 3 chữ, chẳng hạn năm Giáp Tý (1624) là "Kiến Bính Dần". Đối với chữ "Kiến" và chữ "Dần" thì năm nào cũng thế, nhiều năm không khắc in, chẳng hạn từ năm Nhâm Tý (1672) đến năm Tân Sửu (1721). Để cho có đủ can chi, người dùng sau này viết thêm chữ "Dần", không viết chữ "Kiến". Thật ra theo can của năm người ta dễ dàng tính ra nguyệt kiến, nên có những năm họ bỏ hẳn cả 3 chữ, không khắc in, như các năm từ Nhâm Dần (1722) đến năm Bính Ngọ (1726), về sau mới viết can chi vào. Điều đáng quan tâm ở đây là cách khắc ván rất không nhất quán.

- Một điều rất quan trọng là : một cuốn sách chẳng những phải cùng cỡ giấy mà thường là cùng kích cỡ khung in chữ, đằng này khung chữ rất khác nhau, lúc đầu còn tương đối đồng đều, càng về sau càng chệch choạc. Từ năm Giáp Tý (1624) đến năm Đinh Dậu (1717) khung chữ cỡ 18,5 x 10,5. Năm Nhâm Dần (1722) cỡ 18 x 10,5. Năm 1723, 1724 cỡ 18 x 11. Năm 1726 cỡ 18 x 10 ...

- Có nhiều chữ khắc theo dáng này, lúc theo dáng khác, đó cũng là bằng chứng về việc các ván in được khắc vào các thời điểm khác nhau. Chữ thu trong lập thu có một lần được khắc thành 2 chữ : chữ "hòa" và chữ "hỏa" vào năm Mậu Thân (1728). Chữ Dần lúc đầu được in phồn thể, về sau in thành bộ "miên" trên chữ "thiên" từ năm Giáp Thân (1644) trở đi, sau lại về phồn thể từ năm Mậu Tuất (1718). Ở giữa sách từ năm Bính Tuất (1646) đến năm Đinh Dậu (1717) chữ thử được in thành : bên phải bộ "nhật", bên trái chữ "gia". Chữ Đức trong niên hiệu Khánh Đức, Thịnh Đức có khi được in giản thể : bên trái bộ "xích", bên phải là "phiết" và "nhất" trên chữ "lực" ở các năm Kỷ Sửu (1649), Quý Tỵ (1653), Mậu Tuất (1658). Các chữ mang, tuyết, lộ cũng thường thay đổi dạng chữ.

2/ Có 2 loại tính niên lịch : một loại chỉ tập hợp lịch các năm đã qua như cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh, còn loại khác vừa tập hợp lịch các năm đã qua vừa in lịch dự soạn cho các năm về sau như cuốn Khâm định vạn niên thư; cuốn Bách trúng kinh này thuộc loại trên.

Về ván khắc có 2 cách làm :

Cách 1: Các ván được khắc cho một loạt năm đã qua, rồi đem in. Sau nhiều năm khắc ván in tiếp cho các năm vừa qua, gộp với ván khắc trước để đem in lại.

Cách 2: Các ván được khắc vaò cuối năm trước để in lịch ban phát hàng năm. Đến một năm nào đó, khắc ván tờ bìa, gộp các ván lịch đem in một lượt. Trong trường hợp này, đối với các năm có cải nguyên ở giữa năm, như các năm ất Hợi (1635) : Đức Long 7, Dương Hòa 1, hay năm Quý Hợi (1643) : Dương Hòa 9, Phúc Thái 1... thì ngay năm sau hoặc trước khi đem in phải khắc lại ván. Khi nào quên khắc lại thì ván in chỉ có một niên hiệu trước như năm Nhâm Tý (1732) chỉ in Vĩnh Khánh 4, không in Long Đức 1, trong khi năm sau là năm Quý Sửu (1733) in đúng Long Đức 2.

3/ Chúng tôi thiên về ý kiến cho rằng : ván in sách này được khắc theo cả 2 cách trên.

Lúc đầu theo cách 1, lịch của 12 năm đầu, từ Giáp Tý (1624) đến ất Hợi (1635) được khắc ván một lần, ta dễ dàng nhận thấy các trang lịch này nhất quán về hình thức và nội dung. Từ sau đó bắt đầu có sự khác biệt. Năm Bính Tý (1636), khắc tên lịch một chữ "Khâm". Năm Đinh Sửu (1637) không in nguyệt kiến, về sau mới viết thêm vào. Trong khoảng 12 năm này, có 2 năm cải nguyên giữa năm: năm ất Hợi (1635) vừa mới qua, người soạn nhớ nên cho khắc cả 2 niên hiệu, còn năm Kỷ Tỵ (1629) qua đã lâu, người soạn quên nên chỉ cho khắc niên hiệu Long Đức 1, bỏ mất niên hiệu được dùng đầu năm là Vĩnh Tộ 11.

Việc quên không khắc lại ván cho lịch năm Nhâm Tý (1732) đã nêu trên, chứng tỏ về sau dùng luôn ván in đã khắc vào tháng cuối năm trước năm có lịch được in.

Tóm lại những ván cổ nhất có thể có niên đại là năm Bính Tý (1636), về sau các ván được khắc vào tháng trước năm có lịch được in.

4. Kết luận.

Chúng Tôi tạm thời đoán định: đợt đầu tiên khắc ván cho cuốn lịch này có thể là : vào năm 1636, cho lịch của 12 năm, từ 1624 đến 1635 ; những ván được khắc muộn nhất là vào tháng trước của năm có lịch, chẳng hạn cuối năm 1737 khắc ván lịch năm 1738.

Có thể cuốn lịch được in vào một năm rất gần năm 1739, và không muộn hơn năm 1746. Sau đó người đương thời sở hữu cuốn lịch này đã lần lượt chép tiếp lịch các năm cho đến năm 1785, đến đó thì không còn điều kiện để chép tiếp 2 năm cuối đời Cảnh Hưng.

Đây là một cuốn lịch quý nhất về văn bản học, nó đã được khắc, in và chép ngay vào thời Lê trung hưng, có lịch của nhà Lê trung hưng từ năm Giáp Tý (1624) đến năm Kỷ Tỵ (1785), khác hẳn lịch Trung Quốc và cũng khác lịch của chúa Nguyễn Đàng Trong được lưu hành đồng thời.

TÀI LIỆU DẪN

(1) Bách trúng kinh. Bản A.2873. Thư viện Viện Hán Nôm.

(2) Lê Thành Lân. Năm mới giở cuốn lịch cổ triều Lê. Báo Nhân dân. Xuân Bính Dần, 1986.

(3) Lê Thành Lân. Lịch thời Lê - Trịnh. TC. Lịch sử quân sự. Số 21 (9 -1987), tr. 18 - 31.

(4) Khâm định vạn niên thư. Bản R.2200. Thư viện Quốc Gia.

(5) Lê Thành Lân. Lịch thời Lê trung hưng. TC. Huế xưa và nay. Số 14, 1995, tr. 76 - 83.

(6) Trần Nghĩa, F. GRos (chủ biên). Di sản Hán Nôm,Việt Nam thư mục đề yếu. Nxb. KHXH. 1993.

(7) Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh, Bùi Viết Nghi. Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử. Nxb. KHXH.1976.

(8) Hoàng Xuân Hãn. Lịch và lịch Việt Nam. Phụ trương Tập san Khoa học xã hội. Paris, 1982.

(9) Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh. Bản A.1237, Thư viện Viện Hán Nôm.

(10) Lê Thành Lân. Đọc và hiệu đính cuốn "Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh". Tạp chí Hán Nôm. Số 2(3) - 1987, tr. 40 - 48.

(11) Lê Thành Lân. Phải chăng đây đúng là lịch Tây Sơn ? sắp công bố trên TC. Huế xưa và nay.

(12) Nguyễn Tá Nhí (Sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu). Phượng Dực đăng khoa lục Nxb. KHXH., 1995.

TB

ĐỨC TÍNH DŨNG TRONG THƠ VĂN ĐẶNG HUY TRỨ

TẢO TRANG

Đức tính dũng trong đạo Nho

Nói tới tư cách người quân tử, người ta thường nghĩ đến ba đức tính chủ yếu đã được Khổng Tử nhắc tới hai lần trong sách Luận ngữ. Ở sách này, chương Tử hãn 28, ông nói : “Người có trí không mê hoặc, người có nhân không lo âu, người có dũng không sợ sệt” (trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ). Ở chương Hiến vấn 30, ông nói rõ hơn và tự liên hệ : “Đạo quân tử gồm ba đức tính, ta chưa có được : có nhân không lo âu, có trí không mê hoặc, có dũng không sợ sệt” (Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ). Như vậy ở cả hai câu, Khổng Tử đều nhắc tới ba đức tính chủ yếu của người quân tử, duy vị trí giữa “nhân” và “trí” có khác nhau, câu trên ghi “trí nhân dũng”, câu sau ghi “nhân trí dũng”. Theo ý kiến của nhà chú giải, câu trên nhấn mạnh đến quá trình tu dưỡng : có trí sáng suốt để tỏ rõ đạo lý nên không mê hoặc, đạo lý đủ để thắng tình ý riêng tư nên không lo âu; khí đủ mạnh để tự gắn mình với đạo nghĩa, nên không sợ sệt. Còn câu sau “nhân” trên “trí”, vì chú ý đến bậc quan trọng của việc tu dưỡng : muốn hoàn thiện đức hạnh phải lấy “nhân” làm đầu, muốn học tập tiến bộ phải lấy “trí” làm đầu, lòng nhân ái được đặt trên tri thức vì đó là nền tảng đạo đức con người. Cả hai câu đều đặt “dũng” ở hàng thứ ba sau rốt. ở người quân tử, “dũng” phải gắn liền với “nhân” và “trí”, nếu đứng một mình thì chưa đủ. Vì “người có lòng nhân tất có dũng khí, kẻ có dũng khí chưa hẳn có lòng nhân” (Nhân giả tất dũng, dũng giả bất tất hữu nhân - Luận ngữ, Hiến vấn 5). Người thực sự có lòng nhân sẽ đủ sức vượt mọi khó khăn, miễn đem được lợi ích cho người, nên trong lòng nhân bao hàm của dũng khí. Còn nếu chỉ có dũng khí, thiếu lòng nhân thì chỉ là hành động do tính khí bồng bột, có thể trái với lòng nhân hay thiếu sáng suốt.

Tuy nhiên, dù như vậy “dũng” vẫn cũng không kém phần quan trọng. Khi Tử Lộ hỏi thế nào là người hoàn hảo (thành nhân) thì Khổng Tử trả lời : “Đem cái trí của Tăng Vũ Trọng, cái tâm dứt bỏ mọi tham dục của Công Xước, cái dũng của người họ Trang nước Biện, tài nghệ của Nhiễm Cầu (bốn người nổi tiếng đương thời), lại được lễ nhạc làm đẹp thêm, như vậy có thể coi là người hoàn hảo”. Nhưng liền đó, ông lại nói : “Người hoàn hảo hiện nay hà tất phải được như vậy ? Thấy lợi mà nghĩ tới điều nghĩa, thấy nguy nan mà sẵn sàng trao mạng sống, suốt đời không quên lời ước hẹn cũ thuở bình sinh, như vậy cũng đáng là người hoàn hảo" (Nhược Tăng Vũ Trọng chi trí, Công Xước chi bất dục, Biện Trang Tử chi dũng, Nhiễm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, khả dĩ vi thành nhân hĩ. Viết : Kim chi thành nhân giả hà tất nhiên. Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ) (Luận ngữ, Hiến vấn 13). Thấy lợi thì nghĩ ngay đến nghĩa, thấy gian nguy thì sẵn sàng trao mạng sống, đó chính là “dũng” và như vậy mới đáng gọi là người hoàn hảo. Thực ra, nếu không có dũng, không thể thắng phần yếu hèn trong tâm hồn, không có dũng thì nhân và trí không hoàn chỉnh vì không thể hiện bằng việc làm cụ thể. Ngược lại, chỉ khi nào kết được với nhân và trí, dũng mới thật chân chính, vì không phải là chuyện lao mình thiếu suy nghĩ vào việc thoả mãn những dục vọng tầm thường, mà là sức mạnh kiên nghị thực hiện những ý tưởng cao đẹp.

Dũng khí trong đời và văn thơ Đặng Huy Trứ

Thấm nhuần nền giáo dục của gia đình theo đạo Nho, có thể nói Đặng Huy Trứ đã lấy “nhân trí dũng” làm phương châm cho đời sống. Riêng về mặt “dũng”, ông đã tỏ ra kiên nghị phi thường trong mọi hoàn cảnh. Từ buổi thanh xuân, ông đã bị vấp váp nặng nề trong thi cử chỉ vì mấy chữ phạm huý mà bị đánh đòn, cách cả chân Cử nhân và Tiến sĩ. Trong đời làm quan, vì mạnh dạn tố giác hành vi sai trái của kẻ đương quyền mà bị trả thù, chuyển đổi công tác. Ra công tác nước ngoài, bị đau ốm triền miên, một mình nơi đất khách quê người. Mọi tai hoạ không làm yếu tâm hồn ông, lúc nào ông cũng lạc quan, hăng say trong công việc. Ông luôn làm chủ cuộc sống của mình, dù phải gian khổ khó khăn. Điển hình là việc lựa chọn bạn trăm năm. Gặp một người con gái không thuộc tầng lớp xã hội của mình, biết rõ rằng gia đình không khi nào chấp thuận việc đính hôn, nhưng nhận thấy người đó đức hạnh đảm đang, lại có ơn chăm nom mình khi hoạn nạn, ông đã không ngần ngại sống với người đó như vợ chồng, cho mãi 5 năm sau, khi đã có 2 con và tỏ rõ đức tính đảm đang hiền thục, vợ ông mới được công nhận là nàng dâu trưởng, được phép bước chân vào nhà thờ tổ tiên. Phải thật gan dạ mới dám đương đầu với tập tục trong một gia đình lễ giáo, chống lại những bậc cha chú mình vẫn kính yêu.

Dũng khí trong đời sống đã được đưa vào văn thơ Đặng Huy Trứ và văn thơ đầy dũng khí cũng có tác dụng trở lại : tạo thêm sức mạnh cho đời sống nhà thơ. Dũng khí trong thơ Đặng Huy Trứ thể hiện ở nhiều mặt, trước tiên về mặt chí hướng bình sinh.

Đặng Huy Trứ có chí lớn ngay từ hồi còn nhỏ. Phần “Tuyển thơ văn” trong sách Đặng Huy Trứ - Con người và tác phẩm(1) ghi bài thơ đầu tiên, sáng tác năm 1840, khi ông 15 tuổi “Hồ lý ngư” (Cá trong bình), có những câu :

Gia ngư hà xứ lai ?
Thiên địa nhất tiểu hồ.
Tuy vô bình tảo lạc,
Chí dĩ tại giang hồ.

( ĐTH - tr.63)
(Cá đẹp từ đâu tới ?
Bình nhỏ chứa cả đất trời.
Thú rong bèo tuy chưa hưởng,
Chí đã tại sông hồ).

Dù hoàn cảnh khách quan không thuận lợi, bị nhốt trong bình nhỏ với cả bầu trời mặt đất thu gọn bên trong, tuy không có thú thả sức bơi giữa rong bèo, nhưng cá vẫn bình thản nuôi chí lớn như trong cảnh khoáng đãng hồ rộng sông dài. Tuy gặp nhiều trở ngại, nhưng vẫn quyết tâm vượt mọi gian khó, thực hiện chí hướng bình sinh. Hai câu cuối bài khiến nhớ lại mấy câu thơ của Hồ Chủ Tịch trong Ngục trung nhật ký. Ở ngay đề từ đầu sách, có hai câu :

Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại.

(Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao).

Và ở bài “Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây” :

Tình vũ phù vận phi khứ liễu,
Ngục trung lưu trú tự do nhân.

(Mây mưa, mây tạnh bay đi hết
Còn lại trong tù khách tự do)(2)

Chí lớn của Đặng Huy Trứ trong bài thơ trên, viết năm ông 15 tuổi, được thể hiện cụ thể trong bài thơ Hoa nhài. Hoa này có nhiều người không thích, coi như “không đứng đắn” vì nở và thơm chủ yếu về ban đêm, hoặc vì có tên là “mạt lợi”, đồng âm với “mạt lợi” là lợi nhỏ. Trong bài thơ dài 24 câu, Đặng Huy Trứ đã hết sức ca ngợi loại hoa này :

Ngã ái nhĩ hoa bạch,
Ngã ái nhĩ hương thanh.

(Ta yêu nhài hoa trắng
Ta yêu nhài hương thanh)

“Thanh bạch”, nghĩa từng chữ là “trong trắng”, không vẩn đục, không vết nhơ, còn “hương thanh” là thứ hương thơm thoảng nhẹ, đầy thích thú. Khen hoa thanh bạch, để tự nhắc nhở giữ tâm hồn thanh bạch, với lối sống trong sáng, liêm khiết, không bị vẩn đục vì những dục vọng thấp hèn. Chính vì thế mà đoạn sau có những câu :

Ngã ái nhĩ thanh bạch,
Nhĩ kỳ âận nhiên vinh.
Thanh bạch vĩnh bất cải,
Vô thiểm nhĩ sở sinh.

(Ta yêu nhài trong trắng,
Nhài hân hoan tốt tươi.
Trong trắng mãi không dời,
Không nhục các bậc sinh ra mình)(3)
(ĐHT - tr. 202)

Sống thanh bạch, để “không nhục với các bậc sinh ra mình” (Vô thiểm nhĩ sở sinh), tức nhằm thực hiện đạo hiếu. Đây là một câu rút từ bài thơ Tiểu uyển trong Kinh Thi, phần Tiểu nhã : Túc hưng dạ mị, Vô thiểm nhĩ sở sinh (thức khuya dậy sớm. Không để nhục các bậc sinh ra mình). Đặng Huy Trứ cũng lại nhắc tới điển này trong bài họa thơ của họ Tưởng, Tuần phủ Quảng Đông :

Trung hiếu do lai nan lưỡng đắc,
Sở sinh vô thiểm tắc vi hoan.

(Trung hiếu đôi đường, từ xưa khôn vẹn cả,
Mẹ cha không nhục, ấy niềm vui)(4)
( ĐHT - tr. 429)

“Trung hiếu đôi đường khôn vẹn cả” chắc ám chỉ hoàn cảnh lúc đó của tác giả, vì việc công (thực hiện đạo “trung”) phải xuất ngoại xa nhà, không thực hiện đủ đạo hiếu đối với cha mẹ. Đặng Huy Trứ rất coi trọng truyền thống gia đình. Ông từng viết Đặng Dĩnh Trai ngôn hành lục, ghi lại lời nói và việc làm của cha mình, nêu gương sáng cho con cháu, và Nhị Hoàng di ái lục nói về sự nghiệp của ông bác ruột là Đặng Văn Hoà (1791-1856).

Dũng khí trong thơ Đặng Huy Trứ được thể hiện ở chỗ dù gặp hoàn cảnh không ưng ý vẫn giữ được yên tĩnh của tâm hồn, rút ra được bài học bổ ích cho cuộc sống. Năm 1858, khi mới nhận chức Nhiếp biện ấn vụ tại phủ Quảng Hoá, thấy nơi tư thất tồi tàn, nhiều kẽ hở trống trải, ông đã ngẫu hứng làm bài thơ 4 câu :

Tường tự khích dư quan bạch nhật,
Ốc tuỳ lậu xứ kiến thanh thiên.
Ngô tâm tự hữu thần minh xã,
Nhất điểm hư linh vạn cổ truyền.

(Tường có kẽ hở, trông thấy ánh sáng bên ngoài,
Mái có lỗ hổng, nhìn thấy trời xanh.
Lòng ta tự có chỗ cư ngụ của thần minh,
Một điểm hư linh truyền muôn thuở).
(Ngẫu ngâm ĐHT - tr.164)

“Thần minh” có thể hiểu hai nghĩa: “thần thánh” và “ánh sáng thần diệu", cho phép thấu suốt mọi lẽ huyền vi. “ Điểm hư linh” chỉ tâm hồn tác giả. “Hư” là trống rỗng, loại bỏ được mọi dục vọng vị kỷ tầm thường. “Linh” là “linh diệu”, có nhiều đức tính và sức mạnh tưởng như huyền bí. “Hư linh” chỉ tâm hồn thanh cao và cường kiện. Phải thật sáng suốt như có “thần minh” ngự trong lòng mới có được điểm hư linh ngời sáng muôn đời.

Năm 1859, khi làm Tri huyện Quảng Xương, tính thẳng thắn của ông không cho phép bọn cường hào lộng hành, bọn chúng đã viết thư nặc danh nói xấu, ông có bài thơ Văn báng (nghe lời sàm báng), mở đầu bằng hai câu :

Băng tâm nhất điểm tĩnh phong trần,
Vô quý hà phương khán kính tần.

(Lòng băng tuyết không vẩn đục một vết nhỏ của gió bụi,
Không có gì đáng hổ thẹn, ngại gì không luôn luôn soi gương).
( ĐHT - tr.197)

Câu trên cho thấy tấm lòng trong trắng không một vết nhơ, dù là một chấm nhỏ của đời sống tầm thường. ở câu sau, “không điều gì đáng thẹn, không ngại luôn soi gương” “luôn soi gương” vì tự xét không gì bằng hổ thẹn, đồng thời cũng bao hàm ý luôn thường xuyên tu tỉnh để có được niềm tự hào trên. Trong bài cũng có câu Thanh bạch can tràng khả đối nhân (lòng trong trắng có thể đối mặt mọi người), lòng trong trắng mà ông Đặng Huy Trứ đã hết sức ca ngợi trong bài thơ vịnh hoa nhài, vừa nói ở trên.

Ông luôn luôn tự nhắc nhở :
Thế lộ phi dung dị
Tiền trình thân miễn chiên.

( Đường đời không dễ dàng,
Thận trọng, cố gắng tiến lên phía trước.)
(Tự thuật. ĐHT - Tr.180)

Một khía cạnh của dũng khí trong thơ Đặng Huy Trứ, là sự kiên định trong cuộc sống, luôn cố gắng vươn lên, tự hoàn chỉnh mình. Những bài tự răn trong tập ĐHT rất nhiều, có bài dài tới 72 câu (18 bài tứ tuyệt) như bài Quân tử bất tố xan (người quân tử không ăn không), làm năm 1858, đầu đề lấy ở một câu thơ trong Kinh Thi(5). Mười năm sau, khi bị ốm nằm ở Quảng Châu (Trung Quốc), ông đã làm 55 bài thơ tám câu 7 chữ Thanh ngọc trâm - khúc ngâm về trong và đục - để nói chí mình, tự răn mình và răn người khác. Một trong số bài đó có những câu :

Tổn kỷ ích dân nhân lạc phụ,
Tuấn dân phì kỷ chúng hàm sân.
Chúng sân nhân phụ giai do ngã,
Duy hữu thanh thanh khả đối nhân

(Thiệt cho mình, ích cho dân, dân sẽ tin yêu,
Đào khoét dân để cho mình no béo, dân sẽ ta thán.
Dân ta thán hay tin yêu đều do mình,
Chỉ có lòng trong trắng mới đối mặt được với mọi người)
(Bản dịch ĐHT - tr. 470)

Bốn câu thơ trên cho thấy Đặng Huy Trứ luôn chăm lo giữ tâm hồn “thanh thanh” - trong sạch và thanh cao - nhưng cũng nhấn mạnh điều cần thiết phải tự mình biết “thiệt mình, lợi dân, khiến người yên vui, tin yêu mình”, kiên định trong việc tu thân, nhằm thực hiện tốt phận sự của mình đối với xã hội. Dũng khí trong thơ văn và trong đời ông được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm cao đối với việc phục vụ lợi ích chung.

Dũng khi trong tinh thần trách nhiệm

“Kẻ có dũng không sợ sệt” (Dũng giả bất cụ). Không sợ mọi khó khăn nguy hiểm, miễn sao thực hiện đầy đủ nghĩa vụ. Đặng Huy Trứ đã xác định trách nhiệm của mình, một trí thức “không chịu ăn không (bất tố xan), chỉ mong giúp ích cho đời. Ông tự nhắc nhủ :

Ngô sinh hà hạnh đắc vi nhân,
Vi nhân phục vi nam tử thân.
Vi nam phục đắc vi vương thần(6),
Khởi tự vi bố hữu quan thân.

(Ta sinh ra, may sao được làm người
Làm người lại được thân phận con trai,
Làm trai lại được là bề tôi của vua.
Từ kẻ áo vải tầm thường, có được cân đai áo mũ).
(Quân tử bất tố xan ĐHT - tr.167)(7).

Có điều đặc biệt là ngoài việc nói tới ân huệ triều đình, ông đã nghĩ tới công ơn của công dân, những người đã làm ra thóc gạo nuôi sống mình :

Triều đình khuyến sĩ hữu lẫm lộc,
Thái thương lạp lạp giai châu ngọc.
Thiên tân vạn khổ thuỷ đắc lai,
Dân cao dân chi, bão ngô phúc.

(Triều đình khuyến khích kẻ sĩ bằng lương bổng lấy từ thóc gạo trong kho.
Hạt hạt trong kho đều là châu ngọc.
Ngàn cay vạn đắng mới có được.
Dầu của dân, mỡ của dân, làm no bụng ta).

Và ông hạ quyết tâm :

Tu tri miễn miễn tận thần chức
Túc dạ phỉ giải tư báo quốc
(...)
Thần chức năng tận tiện thị nhân,
Thần chức bất tận bất như vật.

(Cần biết cố gắng trọn chức phận bề tôi,
Sớm khuya không lơ là, lo báo đền ơn nước.
(...)
Chức phận bề tôi được trọn mới là người,
Chức phận, bề tôi không trọn không bằng con vật).

Chính vì lúc nào cũng chăm chú làm đủ nhiệm vụ, mà Đặng Huy Trứ đã khước từ mọi cám dỗ. Tuyển tập đã ghi lại mấy sự kiện. Một đêm trăng ông đã khước từ ca nữ : “chưa nghe tiếng hát hay, đã che mặt (tân thanh vị xướng tiền già diện), tự ví mình như Lý Bạch tìm hoài cảm trong thú ngắm trăng (Lý Bạch hữu hoài duy đối nguyệt), hơn là tiếp cận nữ sắc. (Bài Đêm trăng khước từ ca nữ ĐHT -- tr.163). Có người đến yết kiến ông ở nhà riêng, ông đã kiên quyết không tiếp, tự xác định cho mình “Tấm lòng thanh cao như trời xanh, trong sáng như ban ngày, kết bạn cùng trăng thanh gió mát (Thanh thiên bạch nhật giai tâm sự, Minh nguyệt thanh phong hữu chủ tân). Và khi người này đã đi rồi, ông vẫn thấy căm giận, muốn “nhờ ai đó múc giúp nước sông Ngô (một con sông lớn ở tỉnh Giang Tô) rửa sạch bụi nhơ trên ghế hắn vừa ngồi (Bằng thuỳ vị cấp Tô Giang thuỷ, tẩy tận lại nhân kỷ thượng trần) (Đuổi kẻ đến nhà riêng, ĐHT - tr. 177).

Do tinh thần trách nhiệm cao ông đã tự động đứng ra làm những việc thấy cần, vì đem lại lợi ích cho dân, dù chưa có lệnh hay chưa có sự thoả thuận của cấp trên. Ông đã chủ động lập kho nghĩa thương, cổ động việc góp thóc góp tiền cứu giúp dân người nghèo vào năm đói kém, vì nhận thấy “mạng sống của dân dựa vào thóc gạo, công lao của người làm quan giỏi là chú ý đến dân nghèo hèn” (Sinh dân mệnh mạch duy hoà cốc, Lương thú công lao tại mục số)

(Nghĩa thương thành, ĐHT - tr.173)(8).

Năm 1857, ông làm Nhiếp biện ấn vụ phủ Hà Trung, tuy chức vụ chỉ là tạm quyền, ông đã liên tiếp trong hai tháng cho phá dỡ hai ngôi đền thờ nhảm tại xã Bình Lâm gần phủ lị. Mỗi lần như vậy, ông viết bài hịch để dân chúng hiểu biết và tuân theo. Bài hịch có những câu: “Nếu quả thông minh chính trực sao không giúp nước cứu dân. Có chi hoảng hốt thật hư, luống tự nhiễu người hại vật (ĐHT - tr. 157)(9).

Và ông tự xác định nhiệm vụ cai trị dân của mình :

Ta nay :

Thẹn mình đức mỏng, lạm nhậm châu này,
Vâng chân truyền trăm thánh, làm đầu mục một phương.
(...)
Muốn yên người thiện, phải chặt gốc hung,
(...)
Dẫn đầu nha lại dân làng, huỷ miếu này, quét sạch tà ma,
Lại cấm ngặt dân làng, không được thờ sằng như trước
(ĐHT- tr.156)(9)

Một ông quan trẻ, mới tạm quyền thay quan đầu phủ, đã tỏ kiên quyết trong việc bài trừ mê tín, mưu lợi ích cho dân lành, là một gương dũng cảm hiếm thấy. Càng đáng khen vì đã ghi nghĩa cử trong hai bài văn, nêu bài học loại trừ tục mê tín dị đoan trong quần chúng.

Gặp năm mất mùa, dân đói hàng đoàn "chạy đông chạy tây" xin ăn, ông bèn cho dựng một quán nhỏ bên công đường, nấu cháo phát cho họ. Hành động này được ghi lại trong bài thơ Thí chúc (cho cháo), có 2 câu kết :

Chỉ thử đấu thăng tô hạc triệt,
Bất hành phương tiện, mạc đương quan.

(Chỉ một đấu nước có thể khiến sống lại [con cá nằm ở vết xe khô]
Không làm việc có ích cho người, thì đừng làm quan).

Câu trên điển tích ở sách Trang Tử (thiên Ngoại vật): chỉ cần đấu nước là có thể làm sống lại con cá nằm ở vết xe khô. Trong bài thơ "đấu thăng" còn có nghĩa là lương cấp cho các quan chức, cấp băng thóc gạo, được đong bằng đấu và thăng.

Đọc bài thơ ta có thể tự hỏi trong đám quan trường thời đó mấy ai đã chịu bỏ một phần lương để nấu cháo cứu dân nghèo bị đói, và mấy ai đã dám công bố bất hành phương tiện mạc đương quan ?

Bên cạnh trách nhiệm đối với dân còn có trách nhiệm đối với nước, đối với cục diện đất nước đương thời. Là một trí thức chân chính, Đặng Huy Trứ không thể thờ ơ trước vận mệnh của Tổ quốc đang bị giặc ngoài đánh chiếm. Và điều này đã phản ánh trong thơ, đó cũng là một khía cạnh dũng khí nữa trong thơ ông.

Một lòng vì đất nước trước họa xâm lăng

Một nhiệm vụ cấp bách đối với trí thức đương thời là nhận thức được hiểm hoạ giặc ngoại xâm : bọn đế quốc phương Tây, cụ thể là đế quốc Pháp, đang âm mưu đánh chiếm nước ta. Đặng Huy Trứ có thể coi như tiêu biểu cho giới trí thức chủ chiến thời đó. Ông đã sớm nhận thức được dã tâm của bọn tư bản, sức mạnh của bọn chúng, không thể lấy nhân nghĩa để thuyết phục. Năm 1859, ông đã vui sướng sưu tầm được cuốn Binh thư, đưa trình lên cấp trên, và tìm cả cách in ra để phổ biến trong giới quân sĩ. Ông cũng ý thức được rằng : sức mạnh gắn liền với sự hưng thịnh về mặt kinh tế, dân có giàu thì nước mới mạnh. Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871) đã có những bản điều trền đầy tâm huyết đẻ cải tạo quốc gia theo kịp văn minh phương Tây. Đặng Huy Trứ đi vào con đường thực hành. ôg được Tự Đức tin, cử sang Hương Cảng tham khảo kinh nghiệm, cho tổ chức Ty bình chuẩn để lo việc thông thương với nước ngoài, tăng thu nhập tài chính quốc gia. Đặng Huy Trứ tích cực làm mọi việc trên, đạt kết quả tốt. Nhưng phe chủ hoà đã thắng trong triều đình Huế. Các phủ huyện bị cấm không được mộ quân, chế tạo vũ khí, Ty bình chuẩn bị bãi bỏ. Ông chuyển từ kinh tế sang phục vụ quân sự, làm Bang biện quân vụ cho Hoàng Kế Viêm, Thống đốc quân vụ bốn tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Quảng Ninh. Lòng thiết tha đối với vận mệnh dân tộc đã ghi nhiều trong thơ ông. Đúng là dũng giả bất cụ, ông không như nhiều nhà nho đương thời sợ sức mạnh của súng đại bác Tây phương. Ông chủ chiến vì ông tin vào sức mạnh của dân tộc, của chính nghĩa. Năm 1860, nhân lên thăm Núi Voi ở Thọ Sơn, Thanh Hoá, một mảnh đất sản sinh ra nhiều võ tướng qua các triều đại, ông đã làm bài thơ có những câu thổ lộ mối lo âu đối với vận nước, và niềm tin ở sức mạnh của hùng khí "nhân kiệt địa linh" :

Khoáng dã vinh hồi sâm kiếm kích,
Vi giang hoàn bão tráng phiên thành.
Sơn linh trực dục phiên thận khởi,
Tảo tận Tây Dương đáp thánh minh.

(Cánh đồng rộng bao quanh, tua tủa gươm giáo [hình ảnh những khóm tre, cây cao].
Dòng sông bao vây, tạo nên thành lũy hùng tráng.
Thần núi muốn vùng đứng dậy,
Quét sạch bọn Tây, đền đáp ơn vua thánh anh minh).
(Đăng Tượng Sơn - ĐHT - tr.200).

Có lần được trà vua ban, ông cảm xúc làm thơ, tỏ lòng biết ơn, nhưng đồng thời cũng nhớ tới quân sĩ, đang chiến đấu chống Pháp ở trong Nam, không còn được biết mùi vị chén trà, mà đau xót hơn, do thái độ thoả hiệp của triều đình, không còn được chiến đấu, và vì không chịu sống dưới quyền bọn giặc, đã rời bỏ chốn cũ, mà trở thành dân "trốn Pháp" như dân "trốn nhà Tần" thuở xưa:

Tương thị quân trung vong mính vị,
Kim triêu khước tác tị Tần dân).

(Nghĩ tới [bao người] trong quân, quên cả mùi vị trà,
Sớm nay lại trở thành [như] dân trốn nhà Tần [thuở xưa].
(Đoan ngọ tứ trà cảm tác, ĐHT - tr. 232).

Trong bài thơ tặng bạn trị nhậm ở Hưng Hoá, tức gần sát địa đầu miền Bắc đất nước, nhắc bạn về nhiệm vụ nặng nề, nhà thơ không quên nhấn mạnh trách nhiệm chung đối với miền Nam, nơi đang có bọn "quỷ trắng" :

Vũ lộ hoàng ân năng kỷ báo ?
Vân nghệ dư vọng chính phương huyền.
Bằng quân cấp thủ Thao giang thuỷ,
Tẩy tận Ngưu giang bạch quỷ chiên).

(Ơn mưa móc vua ban, đã báo đáp được bao nhiêu ?
Dân đang mong [được hưởng phúc] như đợi cầu vồng đưa mưa tới).
Nhờ bạn múc nước sông Thao,
Rửa sạch hơi tanh hôi bọn quỷ trắng nơi sông Bến Nghé).
(Tặng Tiến sĩ Nguyễn Chính, ĐHT - tr.236).

Năm 1863, trong bữa tiệc tiễn sứ bộ đi Pháp điều đình cho được chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ bị cắt cho Pháp, sau hàng ước Nhâm Tuất 1862, Đặng Huy Trứ khi hoạ bài thơ của Tự Đức làm trong tiệc với đầu đề Vọng sứ bộ như Tây giai tín (Mong tin vui sứ bộ đi Tây), đã viết ở 2 câu kết:

Chuyên đối tuỳ năng hàn tặc phủ(10),
Phiến phàm quy sắc vọng trung giai.

(Trong việc đối đáp, ai có thể khiến giặc kinh hãi ? (11)
Mong có tin vui ở mầu sắc, cánh buồm trở về ).
(ĐHT - tr. 251).

Trong phần chú thích ở cuối trang 251, sách ĐHT cho biết trong bữa tiệc, Tự Đức đã làm bài thơ dưới đầu đề trên, để các quan có mặt (trong đó có Đặng Huy Trứ ) họa, và "trong khi bàn luận, từ vua đến quan đều gọi Pháp là "quý quốc", nhưng Đặng Huy Trứ đã gọi thẳng là "giặc" (tặc).

Trong bài Trực ở Nội các, đòi thơ bạn Bùi Uẩn Trai, có 4 câu cuối :

Hoàng ma tử cáo phân thù tạc,
Đạm nguyệt sơ tinh lại phẩm đề.
Độc thị vô tài năng thoái lỗ,
Hùng tâm khảng khái ngũ canh kê.

(Giấy gai vàng, tờ chiếu chỉ mầu tía, cùng nhau trao đổi rối bời,
Ngại ngần ngâm vịnh cảnh trăng mờ sao thưa.
Chỉ không có tài đánh đuổi quân giặc(11),
Dạ anh hùng phấn khích khi nghe gà gáy canh năm).
( ĐHT - tr. 239).

"Giấy gai vàng" tức giấy vỏ gai (ma chỉ), loại giấy tốt nhuộm vàng, dùng viết văn bản, triều đình. Trong hoàn cảnh trực ở Nội các đến sáng, dưới trăng mờ sao thưa, trao đổi về sắc chỉ triều đình rối bời, không thể nào thi thố được tài năng đuổi giặc, tuy hùng tâm vẫn thấy dấy lên mỗi khi nghe gà gáy canh năm.

Về sau, Đặng Huy Trứ đã chuyển sang ngành kinh tế thương mại, khi thành Hà Nội bị Pháp đánh chiếm năm 1873, ông đã theo Hoàng Kế Viêm Thống đốc Quân vụ căn cứ Đồng Vàng Chợ Bến, và năm sau đã mất tại đó, rất có thể do bệnh sốt rét ác tính ở vùng nổi tiếng là "nước độc" này. Có thể nói ông đã hy sinh nơi trận địa chống Pháp sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ nhất. Cho đến phút cuối cùng, ông đã gắn bó đời mình với vận mệnh đất nước đang lâm nạn.

*
**

Qua đời sống cũng như sự nghiệp văn thơ của Đặng Huy Trứ, người ta nhận thấy ở ông đã hội tụ đầy đủ đức tính Nhân, Trí, Dũng của người quân tử trong đạo Nho. Nhờ có dũng mà Nhân, Trí được thực thi và càng toả sáng. Ông đã tỏ ra kiên nghị phi thường trong việc giữ vững lòng thanh cao trong sáng ở mọi trường hợp, luôn tự nhắc nhở nhiệm vụ tu thân để an dân giúp nước, vượt mọi gian khó, làm chủ tình thế, để thực hiện chí hướng bình sinh. ít có nhân vật lịch sử nào, trong một cuộc sống không dài lắm - ông mất năm 49 tuổi - lại có được một cuộc đời vô cùng phong phú như ông. Tuy bị vấp váp trong thi cử cũng như trên họa đồ, mỗi lần không vừa ý, ông vẫn vươn lên mạnh mẽ. Hoạt động của ông thật đa dạng: văn học và giáo dục, chính trị và kinh tế,, văn hóa và quân sự, diễn ra cả trong và ngoài nước. Riêng về sáng tác văn học, ông đã có 1252 bài in trong Đặng Hoàng Trung thi sao, 266 bài văn xuôi trong Đặng Hoàng Trung văn sao, chưa kể sách biên soạn như Nhị Hoàng di ái lục, Từ thụ yếu quy. Ngaòi việc sáng tác, soạn thảo, ông còn để công lưu trữ, sắp xếp, tổ chức in ấn, có thể nói không có một nho sĩ nào trước đây tự đảm nhiệm được lượng công việc đồ sộ như vậy. Đặc Biệt trong sách ĐHT, qua hơn 300 bài thơ không thấy có sự biểu hiện nào của sự buồn nản mềm yếu, trách người oán đời, đức "dũng" thể hiện ở tinh thần lạc quan trong sáng là một yếu tố quan trọng của ông như vừa nói ở trên.

Đặng Huy Trứ đã thực hiện được đức Dũng trong thơ và cuộc sống. Đời ông là tấm gương sáng của một trí thức biết làm chủ bản thân, kiên quyết thực hiện hoài bão lớn: giữ tâm hồn thanh khiết, sống vì nước vì dân, tự gắn mình với vận mệnh của đất nước, của dân tộc.

CHÚ THÍCH

(1) Sách của nhóm Trà Lĩnh, Nxb. TP Hồ Chí Minh 1990. Trong bài viết này, sách được ghi tắt là ĐHT. Những câu trích dẫn ghi số trang trong dấu ngoặc là của sách trên.

(2) Suy nghĩ mới về nhật ký trong tù, Nxb. Giáo dục 1993, tr. 299 - 305.

(3) Sách ĐHT dịch “nhài chẳng thẹn đã sinh ra”. Nhưng câu này có điển, và “thiểm” không có nghĩa là “thẹn”.

(4) Sách ĐHT dịch : ở đời không phải thẹn gì là vui rồi. [xem lại chú thích (1)]

(5) Thơ Phạt đàn trong Kinh Thi Ngụy phong, phần Quốc phong.

(6) ĐHT - tr. 167 ghi ở câu 2 "Vi nhân phiu", câu 3 "Vi nam phiu", chúng tôi sửa thành "phục".

(7) ĐHT ct (3), trang 167, ghi Phạt đàn Quân tử, thiên Nguỵ phong trong Kinh Thi, sửa: thơ Phạt đàn trong Nguỵ phong. Trong bài có 2 câu: Bỉ quân tử hề, bất tố xan hề (Người quân tử kia, không ăn không (ăn mà không làm).

(8) ĐHT - tr.173 ghi lương thử và dịch 'mục sô' là 'chăn dân'. Đề nghị sửa 'lương thủ' thành 'lương thú', 'mục sô' đối với ''hoà cốc' ở câu trên, nên hiểu là 'người chăn dắt' (chăn dê, chăn bò...) và 'người cắt cỏ'; 'mục sô' chỉ người nghèo hèn.

(9) Bản dịch ĐHT (không chép kèm bản phiên âm chữ Hán như đối với các bài thơ trong sách. Nên đổi vị trí 2 bài hịch : bài 18 tháng 9 (tr.157) nên đặt lên tr.156, thay bài 16 tháng 10 (thời điểm muộn hơn) chuyển sang trang 157.

(10) ĐHT dịch "hàn tặc phủ" là làm nguội lạnh tim gan của giặc. Nhưng có thể hiểu "hàn phủ" cũng như "hàn tâm", với nghĩa "kinh hoàng, lo sợ".

(11) ĐHT dịch : "Chỉ không có tài làm bài thơ đuổi giặc"

TB

VỀ BÀI TỰA SÁCH THIỀN TÔNG CHỈ NAM
CỦA TRẦN THÁI TÔNG

NGUYỄN CÔNG LÝ

Rất tiếc do binh lửa, thiên tai nên quyển luận thuyết triết lý Thiền tông chỉ nam không còn. Hiện chỉ còn lại bài Tựa của sách mà người đời sau khắc in chung trong Khóa hư lục của cùng tác giả. Không hiểu tại sao trong cuốn sử Phật giáo viết bằng tiếng Pháp Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle của Trần Văn Giáp và sau đó ít lâu trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược (1942) của Mật Thể đều khẳng định "sách còn truyền đến ngày nay". Việc sách còn hay mất không thuộc phạm vi bài viết này (dù cho đến nay vẫn chưa tìm thấy). Có điều, tài liệu cũ cho biết người xưa đã đánh giá rất cao: "Ôi ! Tâm của các đức Phật ở cả trong này, sao không in thành sách để chỉ dạy cho hậu thế" như lời của Trúc Lâm đại sa môn mà tác giả sách có ghi lại trong bài Tựa; hay như Mật Thể đã xem nó là "báu vật trong vườn Thiền Việt Nam (Vnpgsl).

Chỉ vài ba trang của bài Tựa, nếu chịu khó đọc và suy ngẫm kỹ, sẽ có nhiều điều thú vị. đặc biệt bài Tựa là một văn bản có nhiều giá trị. Về nội dung của Thiền tông chỉ nam tự trước đây các nhà nghiên cứu ít nhiều đã đề cập đến(2). ở đây, tôi chỉ đề cập đến giá trị lịch sử, giá trị văn học và giá trị triết luận của bài Tựa thôi.

1. Về hoàn cảnh ra đời, có lẽ bài Tựa được viết vào những năm cuối đời làm vua của Trần Thái Tông. Ông lên ngôi vào năm 1225 và nhường ngôi vào năm 1258. Trong bài Tựa, nhà vua kể chuyện mình bỏ ngôi vào năm thứ 5 niên hiệu Thiên ứng Chính Bình (1236)(3). Sau đó vì miễn cưỡng phải về lại ngôi vài chục năm, tức khoảng 1256. Xét ý văn ở cuối bài Tựa, ta còn được biết sách Thiền tông chỉ nam được khắc in lúc nhà vua còn ở ngôi và ông đã viết bài Tựa vào dịp này. Như vậy, bài Tựa ra đời sớm nhất là vào năm 1256 và muộn nhất là vào năm 1258.

Về mặt lịch sử, trong bài Tựa, Thái Tông có nói buồn vì cha mẹ mất sớm nên nhà vua bỏ ngôi lên núi cầu Phật. Thực tế lại khác. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, Thái Tông lấy Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh Hoàng đế, vị vua cuối cùng triều nhà Lý) đã lâu mà không có con, lúc này Chiêu Hoàng đã 19 tuổi. Nhân Thuận Thiên Công chúa (Chị ruột của Chiêu Hoàng, vợ của An Sinh Vương Trần Liễu, mà Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh (Thái Tông), có mang Quốc Khang được 3 tháng, thúc phụ Trần Thủ Độ bấy giờ đang là Tể tướng, bắt ép gả cho Trần Cảnh, buộc Cảnh phải lấy chị dâu, đồng thời lại là chị ruột của vợ mình. Mặc dầu, Trần Cảnh rất thương yêu Chiêu Hoàng, nhưng đành phải dứt ruột mà nghe lời người chú. Do vậy Liễu mới làm loạn, Thủ Độ đem quân vây bắt, nếu không có Cảnh, chắc Liễu đã rơi đầu! Cảnh thấy trò đời đảo điên, chán việc đời, tránh cảnh huynh đệ tương tàn nên nửa đêm bỏ kinh thành, lên núi cầu Phật. Sự thật phũ phàng như thế !

Nhưng tại sao trong bài Tựa không nêu ? Có lẽ đây là vấn đề tế nhị và cũng là thiếu sót có chủ ý của Thái Tông. Trần Thái Tông trong bài Tựa không muốn nhắc lại một chuyện cũ đau lòng, đầy tâm tình bí ẩn - Một câu chuyện khó nói nhất là chuyện có liên quan tới những người thân, những bậc tôn kính như chú, như anh đang ở ngôi vị cao nhất nước.

2. Thứ đến, trên góc độ văn chương, Thiền Tông chỉ nam tự tuy là lời nói đầu của một tác phẩm nhưng lại có giá trị như một văn bản tự sự thuần tuý, một áng văn kể chuyện tâm tình có giá trị nghệ thuật, có sức thuyết phục trong kho tàng văn chương đời Trần.

Mở đầu, tác giả kể lại những suy ngẫm của riêng mình về đạo Phật không phân biệt nam bắc, con người dù sang hèn trí ngu cũng đều có thể giác ngộ. ấy là con đường giải thoát duy nhất cho tất cả chúng sinh. Nhà vua cho rằng đạo Nho có thực dụng với đời, nếu được kết hợp với đạo Phật sẽ làm cho đời hoàn hảo hơn. Tiếp đến, bài Tựa kể lại chuyện từ thuở ấu thơ, nhà vua đã mến mộ đạo Phật. Rồi năm 16 tuổi mẹ mất, nỗi đau mất mẹ chưa nguôi thì cha tiếp tục qua đời, nhà vua buồn, đau khổ nên quyết chí tìm đường giải thoát. Vua cải trang đem theo 7,8 người ra đi nhằm đêm mồng 3 tháng 4 năm thứ 5 niên hiệu Thiên ứng Chính Bình. Giờ Hợi đêm ấy đi ngựa qua sông, bấy giờ vua mới bày tỏ thật lòng mình cho tả hữu nghe, khiến ai nấy cũng đều khóc sướt mướt. Qua hai ngày trời trên đường trường vất vả. khi sang đò Phả Lại, sợ bị lộ, vua lấy khăn che mặt, khi lặn lội suối sâu núi hiểm. lúc bỏ ngựa trèo non. Đến ngày thứ ba thì lên đỉnh núi Yên Tử, vào chùa thăm quốc sư Trúc Lâm. Gặp nhau, vị sư già mừng rỡ và ân cần hỏi han có điều gì mà đến chốn này. Vua bày tỏ lòng mình chỉ mong cầu Phật chứ không cầu gì khác. Quốc sư trả lời : trong núi vốn không có Phật, chỉ có trong lòng thôi, lòng lặng mà biết chính là Phật vậy. Sau đó, bài Tựa kể lại chuyện thúc phụ Trần Thủ Độ biết vua bỏ ngôi bèn sai tả hữu đi tìm. Khi đến núi gặp vua, Thủ Độ cùng các quốc lão thỉnh cầu thống thiết, nếu vua không về thì liều chết tất cả ở đây. Vua băn khoăn bày tỏ cùng quốc sư, sư khuyên vua hãy chiều lòng thiên hạ, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình mà trở về ngôi vua, duy đừng có quên đạo là đủ rồi. Cuối bài Tựa, tác giả kể lại chuyện từ khi trở về gắng lại lên ngôi trị nước trong vài chục năm, vẫn thường tham thiền, nghiên cứu sách Phật, đọc kinh Kim Cương, ngộ đạo rồi viết bài ca Thiền tông chỉ nam. Nhân dịp quốc sư về in kinh, vua đưa quốc sư xem, được tán thưởng nên làm bài Tựa và ra sắc dụ ấn hành để lưu truyền cho đời sau.

Như đã tóm tắt, bài Tựa chính là áng văn kể chuyện. Xuyên qua bài Tựa truyện này. nỗi ray rứt đau khổ của Thái Tông được vẽ lại khá rõ nét. Cuộc vi hành của vua rời Kinh thành lên Yên Tử thật gian nan vất vả với lòng thành mộ đạo, cùng mối duyên lành với Phật pháp đã được tác giả ghi lại bằng một giọng điệu tâm tình thật chân thành, một bút pháp linh động đầy hấp dẫn. ở đây, con người đã bị dìu đi trong hoàn cảnh, biến cố, chứng tỏ cái uy linh của số mệnh mịt mùng, nhưng đồng thời, con người cũng có những phản ứng trước biến cố, hoàn cảnh, vận mệnh. áng văn dào dạt đầy những trăn trở thao thức, băn khoăn rất gần gũi với sự sống linh hoạt, có nhiều động tác đắp đổi, những cải biến liên tiếp về thời gian và nơi chốn, khó điều hoà các sắc thái tâm tình với miêu tả ngoại cảnh. Câu chuyện xung quanh nhân vật chính, nhân vật trung tâm còn có vài nhân vật phụ, mỗi người một vẻ riêng, giọng nói riêng. Tất cả được thể hiện trong câu chuyện rất ngắn nên ý vị của nó càng tăng. Tác giả đã khéo léo sử dụng màn hội thoại làm cho câu chuyện linh hoạt thêm. Lời của nhà vua thật rõ ràng mà dài hơi, nghiêm trang lại nồng nàn. Đây là lời nói của của bậc chí tôn với đức khoan dung đại độ, trước sau chỉ nói hai lần. Một lần nói với kẻ hầu cận là cần cải trang để vi hành, xem dân tình mà có biện pháp trị nước an dân. Lần thứ hai là nói với quốc sư cái ý muốn lên núi cầu Phật. Lời của thúc phụ đầu triều Trần Thủ Độ thì trân trọng, khẩn khoản lại thiết tha, rất dài nhưng cũng rất quyết liệt, và chỉ nói một lần thôi. "...Bệ hạ tính kế tự tu đã vậy nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao ? Nếu chỉ để lời nói suông lại cho đời sau, sao bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ. Nhược bằng bệ hạ không nghĩ lại thì chúng thần và người trong nước xin cũng chết ngay hôm nay, quyết không trở về nữa". Nói nhiều hơn cả, đến ba lần là lời của quốc sư. Bởi lẽ, trong câu chuyện, quốc sư là đầu mối giải toả những mắc mứu của nhà vua. Lời của quốc sư thật trong sáng, ân cần nhưng có sức thuyết phục. Rõ ràng đó là ngôn ngữ của bậc đã vượt lên trên hết thảy. Lần đầu, quốc sư nói với phong thái ung dung, cốt cách thong thả tự do theo tính phận, mang âm hưởng Lão Trang. Lần thứ hai, câu nói của quốc sư đã thâu tóm được tinh yếu của thiền học Việt Nam nói chung, của thiền học đời Trần nói riêng "Trong núi vốn không có Phật. Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là chân Phật". Và lần thứ ba, câu nói của quốc sư khuyên nhà vua trở về ngôi nhưng đừng quên chuyện tu hành, nghiên cứu kinh điển. Lời khuyên này đã khái quát triết lý trị nước an dân đời Trần. Đó chính là sức mạnh của thời đại. Dân có yên thì nước mới thịnh. Câu nói của quốc sư đã nêu bật nét đặc sắc của thời đại Lý Trần, hoà đồng giữa xuất thế và nhập thế, kết hợp được đạo với đời.

Ngoài ra, trong văn bản còn có lời độc thoại. Nhà vua tự hỏi và tự giải đáp lấy, càng làm cho áng văn linh hoạt, tinh tế và gợi cảm sâu xa.

3. Cuối cùng, trên góc độ triết luận, Thiền tông chỉ nam tự cương lĩnh của Thiền học đời Trần, mở ra giáo lý nền tảng của thiền phái Trúc Lâm với đạo - đời kết hợp, chủ trương Phật - Thánh phân công hợp tác, thể hiện quan niệm tam giáo đồng nguyên.

Bài Tựa chỉ là lời nói đầu, lời thuyết minh cho bài ca Thiền tông chỉ nam. Bài Tựa nêu rõ quá trình học đạo và chứng ngộ của nhà vua - thiền sư Trần Thái Tông. ở đây, khác với đạo Thiền nguyên thuỷ, Thiền học đời Trần (thông qua hình ảnh Trần Thái Tông) đã kết hợp được đạo với đời. Nghe lời quốc sư, nhà vua trở về ngôi trị nước an dân vừa tham thiền học đạo và chứng ngộ. Câu chuyện ông vua anh minh nửa đêm từ giã kinh thành lên núi cầu Phật "Bỏ ngai vàng như trút giày rách" (Ngô Thì Sỹ - Việt sử tiêu án) để tìm ý nghĩa cuộc sống, chẳng khác nào thái tử Tất Đạt Đa khi xưa cũng nửa đêm từ giã cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, một mình một ngựa vượt sông lên núi Hy Mã Lạp Sơn để tìm chân lý, hầu cứu vớt chúng sinh ra khỏi cảnh sinh, lão, bệnh, tử. Thái Tông nêu gương Thích Ca nhưng lại khác Thích Ca, một lối rất Việt Nam và do điều kiện lịch sử bấy giờ quy định. Thái Tông lên núi, khi hiểu trên núi vốn không có Phật mà Phật chỉ có trong lòng thì có lẽ trong thâm tâm của Thái Tông bấy giờ đang diễn ra giằng xé : ở lại hay trở về ? Lời khuyên của quốc sư làm nhà vua dường như được mở lối. Qua mấy chục năm trở về gắng ở ngôi vừa trị nước vừa tu thiền, nhà vua - thiền sư mới thông tỏ và bừng tỉnh "Phật tại tâm". Trở về với đời để hành đạo mà giác ngộ. Sự kết hợp đạo với đời này là một biểu hiện độc đáo, một đóng góp lớn của thiền học đời Trần, mang đậm bản sắc dân tộc và thời đại. Thời đại Lý Trần là một thời đại nhân dân có một đời sống vật chất tương đối no ấm và một đời sống tinh thần tương đối dễ chịu mà nét tiêu biểu là "tích cực" và "vui vẻ", "dân chủ", "cởi mở" và "phong phú", "rộng rãi" và "sâu sắc" (chữ dùng của GS. Đặng Thai Mai). Đây chính là chất dân chủ, rộng mở. Sâu xa và cơ bản hơn là truyền thống yêu nước và nhân đạo thời này đã được phục hưng và phát triển cao độ với việc Việt hoá những tư tưởng ngoại lai. Thời này coi trọng cả ba tôn giáo Nho - Phật - Lão trên cơ sở khôi phục và phát huy những truyền thống dân tộc, chủ yếu là nhân ái và yêu nước cùng với những nhân tố tích cực của ba tôn giáo và những tín ngưỡng dân gian để tạo thành một tinh thần rộng mở sáng ngời, dựa trên cốt lõi dân tộc vững chắc, để tạo nên một thiền học mang bản sắc riêng độc đáo. Về mặt nguyên lý triết học, cội nguồn sâu xa của cả ba đều đồng nhất ở chỗ: yếu tố âm dương. Phải chăng hai yếu tố này là cơ sở để các tôn giáo - triết học xây dựng hệ thống vũ trụ quan và nhân sinh quan của mình ? Triết lý của ba tôn giáo đều trở về cái gốc chung là thực tại siêu việt không thể nói đến, bàn đến mà chỉ có thể thực nghiệm bằng tâm linh thôi. Khổng Tử phát biểu "Dư dục vô ngôn, tứ thời hành yên, vạn vật dục yên, thiên hà ngôn tai = Ta không muốn nói đâu, bốn mùa đi lại, muôn vật sinh trưởng, trời có nói gì đâu"; Còn Lão Tử thì "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh = Đạo có thể luận bàn được không phải là đạo trường cửu; danh có thể gọi được thì không phải là danh còn mãi", cho nên Lão Tử chủ chương "Bất ngôn chi giáo = Giáo lý không dùng lời". Vậy chỉ còn lại cái tâm. Chỉ có cái tâm mới thể nghiệm và thông tỏ. ở Thiền cũng thế. Thiền là vô ngôn, "Vô ngôn thị đạo = Không lời ấy là đạo". Đó là ý nghĩa của nụ cười Ca Diếp trong câu chuyện " Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu". Và Ca Diếp trở thành người kế nghiệp Thích ca làm tổ sư thứ nhất Thiền tông ấn Độ. Đó là cội nguồn, còn thời Lý Trần thì sao ? Thời này đạo Phật có uy thế lớn đối với dân tộc. Có lúc là quốc giáo. Bấy giờ các bộ kinh và luận của Phật đa số được Trung Quốc dịch rồi truyền sang (chủ yếu vẫn là của các dịch giả Cưu Ma La Thập và của Đường Huyền Trang). Dĩ nhiên, lúc đó, ở Việt Nam cũng có những đoàn thỉnh kinh trực tiếp sang ấn Độ, và những bộ kinh dịch trực tiếp từ Phạn ngữ, nhưng có lẽ không nhiều. Và mỗi khi kinh Phật được một xứ sở có truyền thống văn hiến - triết học như Trung Quốc in và dịch thì chắc chắn triết học Phật giáo nguyên thủy được nhìn qua một lăng kính - nhìn Phật qua Lão Trang và Khổng Mạnh. ở thời Lý Trần cũng vậy, đa số trí thức đều nằm trong nhà chùa. Dù họ là thiền sư nhưng tất cả đều uyên thâm Lão Trang và Khổng Mạnh. Cho nên, khi đứng trước vấn đề, các thiền sư thường vận dụng tri thức tổng hợp, đồng nhất của ba tôn giáo để lý giải (dĩ nhiên dựa trên cái cốt lõi dân tộc) cho phù hợp với tinh thần Việt Nam. Đây là điểm khác nhau giữa thiền học nguyên thủy với thiền học Lý Trần. Ta không lấy làm lạ là các thiền sư Lý Trần đều là những con người nhập thế, hành động, hoà đời, giúp vua trị nước an dân, góp phần xây dựng nên một thời đại rực rỡ nhất trong các triều đại lịch sử, tạo nên một trong hai bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc(4).

Thiền học Lý Trần, như đã nêu, không những không xung đột với Nho - Lão mà còn nhờ chất rộng mở của thời đại nên đem lại một quan niệm rộng rãi về tâm linh, nhân sinh, vũ trụ. Trước Trần Thái Tông, thiền sư Viên Chiếu đời Lý cũng đã phát biểu về Nho Phật tịnh hành, phân công hợp tác. Khi có người hỏi ý nghĩa khác nhau giữa Phật và Thánh, thiền sư đáp: "Ly hạ trùng dương cúc; Chi đầu thục khí oanh = Thu sang cúc nở bên rèm ; Ngày xuân ấm áp tiếng chim đầu cành". Dù Phật giáo hay Nho giáo đi nữa, cả hai đều cùng bản thể chân như, cũng cùng một cái lẽ tuần hoàn vi diệu của vũ trụ : mùa thu hoa cúc nở, mùa xuân chim oanh kêu. Cả hai đều đẹp đều đưa con người đến cứu cánh của cuộc sống. Đó là Đạo. Sự kết hợp tịnh hành, phân công hợp tác này lại lần nữa được thiền sư Trần Thái Tông thể nghiệm trong cuộc đời mấy mươi năm hành và tàng, xuất thế và nhập thế mà nhà vua có ghi trong Thiền tông chỉ nam tự. Chuyện ông vua bỏ ngôi vào núi cầu Phật rồi về ngôi chứng ngộ như nêu ở trước, chính là sự dung hợp này. Chính Thái Tông phát biểu về tinh thần vô phân biệt "Phật vô nam bắc quân khả tu cầu; tính hữu trí ngu đồng tư giác ngộ = Phật vốn không phân biệt nam bắc, ở đâu cũng có thể tu cầu; tính có cả trí lẫn ngu, tính nào cũng có thể giác ngộ". Đọc câu trên khiến tôi liên tưởng đến lời đối đáp giữa ngũ tổ Hoằng Nhẫn với Huệ Năng. Huệ Năng làm nghề bán củi, một hôm nghe kinh rồi thăm hỏi tìm đến Hoàng Mai ra mắt Tổ sư Hoằng Nhẫn để cầu Phật . Hoằng Nhẫn bảo Huệ Năng là kẻ quê mùa sao thành Phật được. Huệ Năng đáp lại "Nhân tuy hữu nam bắc, Phật tính bổn vô nam bắc; Lạp lão thân dữ Hoà thượng bất đồng, Phật tính hữu hà sai biệt = Con người tuy có nam bắc nhưng tính Phật vốn không nam bắc, thân quê mùa này cùng thân Hoà thượng chẳng đồng nhưng Phật tính vốn không sai khác" (Pháp bảo đàn kinh). Nói Phật tính chính là nói đến cái tâm bản thể chân như. Thích Ca thường dạy đệ tử "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính = Tất cả chúng sinh đều có Phật tính". Cần nói thêm Huệ Năng và Thái Tông là hai người ở hai thời đại khác nhau, hai quốc gia khác nhau. Huệ Năng dân dã quê mùa không biết chữ ; Thái Tông là Hoàng đế học vấn uyên thâm. Cả hai đều nghe kinh Kim Cương, cùng ngộ đạo ở câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm". Thế mới biết Phật tính không phân biệt. Ngày xưa, nhờ nghe tổ Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim Cương mà canh ba đêm ấy Huệ Năng bừng tỉnh đại ngộ, được truyền y bát và tâm ấn, làm tổ sư thứ sáu thiền Trung Quốc. Còn bây giờ, Thái Tông làm vua - tu thiền mấy mươi năm, nghiên cứu nhiều kinh sách nhưng thường đọc kinh Kim Cương, đến câu "Không nên sanh tâm vào chỗ nào định sẵn" rồi bỏ sách xuống mà than dài thì tự thấy thông suốt (Thiền tông chỉ nam tự). Thái Tông đọc cả kinh sách Nho, Lão chứ riêng gì đọc kinh Phật. Chính nhà vua đã viết "Chư đại giáo đẳng kinh" kia mà ! Thái Tông đã phát biểu tinh thần Phật Thánh phân công hợp tác: "Tiên đại thánh nhân dữ đại sư vô biệt. Tắc tri ngã Phật chi giáo, hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế dã. Kim trẫm yên khả bất dĩ tiên thánh chi nhậm vi kỷ chi nhậm, ngã Phật chi giáo vi kỷ chi giáo tai ! = Bậc đại thánh nhân đời trước với bậc đại sư không khác gì nhau. Thế thì biết rằng giáo lý của đức Phật lại nhờ thánh nhân đời trước mà truyền ở đời vậy. Nay trẫm há có thể không lấy trách nhiệm của đấng thánh xưa làm trách nhiệm của mình, không lấy lời dạy của đức Phật làm lời dạy của mình được sao" (Thiền tông chỉ nam tự ). Ngay cả lời khuyên của thiền sư Viên Chứng (Phù Vân quốc sư Trúc Lâm đại sa môn) nghe có âm hưởng triết lý Lão - Trang, cụ thể là của Trang Tử trong thiên Tiêu diêu du (Nam Hoa Kinh) với tinh thần cốt cách thong thả tự do vui thích theo tính phận tiên thiên của mình. Có lẽ đây cũng là dẫn chứng khá lý thú về tam giáo đồng nguyên, "đồng quy nhi thù đồ". "Lão tăng cửu cư sơn dã, cốt cương mạo tuỵ, cam trà nhự tượng, tuyền ẩm lâm du, tâm nhược phù vân, tuỳ phong đáo thử = Lão tăng ở lâu núi rừng, xương cứng vóc gầy, ngon chè bùi lật, uống suối chơi rừng, lòng như phù vân, theo gió mà đến (Thiền tông chỉ nam tự). Vâng lời dạy của quốc sư, theo nguyện vọng của triều thần và dân chúng, Thái Tông trở về lại ngôi. Đây là lúc thực hành và chiêm nghiệm. Từ giã Yên Tử tức cũng từ giã Đạo để về Đời, về đời mà hành đạo. Nhà vua đã lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ - một tinh thần quên mình vì người, một đức tính "tiên ưu hậu lạc" của Nho gia và cũng là đức từ bi bao dung của Phật. Cũng nhờ vào đời hành đạo mà Thái Tông ngộ đạo, thấy rõ trong núi làm gì có Phật, Phật vốn ở trong lòng. Con người ta khi đã kìm tâm một chỗ, lắng dứt vọng niệm thì dù đi đứng, nằm ngồi, bửa củi, giã gạo cũng đều có thể Thiền được.

Tinh thần đạo đời kết hợp, chủ trương Phật Thánh hợp tác với quan niệm tam giáo đồng nguyên thông qua Thiền tông chỉ nam tự mà chúng tôi đã lý giải đó chính là nền tảng, là cương lĩnh mà sau này Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, rồi đến Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông (đệ nhất tổ thiền phái Trúc Lâm) kế thừa để tạo nên một dòng thiền đậm đà chất Đại Việt. Đó còn là tinh thần dung hợp Việt hóa những tinh hoa tư tưởng ngoại lai. Nhờ vậy mới tạo nên thế đứng vững chãi của dân tộc, tạo nên sức mạnh của thời đại với hào khí Đông A bất diệt.

Hà Nội, 8 / 1982 - 26 / 7 / 1995.

CHÚ THÍCH

(1)Xin đọc nguyên văn và bản dịch trong Khoá hư lục, KHXH, H, 1974, và trong Thơ Văn Lý Trần, Tập 2, Q. Thượng, KHXH, H, 1989, tr.24.

(2) Xem Thiền học đời Trần, nhiều tác giả, Viện NCPNVN, 1995.

(3) Đại Việt sử ký toàn thư ghi năm thứ 6, Thiên ứng Chính Bình, tức năm 1237.

(4) Lê Duẩn, bài nói chuyện với Bộ Biên tập báo Nhân dân năm 1972 : "Dân tộc ta có hai lần nhảy vọt về tư tưởng : lần đầu dân tộc ta gặp Phật giáo thời Lý Trần; lần thứ hai gặp chủ nghĩa Mác - Lê nin".

TB

SÁCH CHÂM CỨU TRONG KHO
THƯ TỊCH Y DƯỢC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

LÂM GIANG

Ở Trung Quốc, sách về châm cứu xuất hiện khá sớm, tiêu biểu là tập Châm kinh, do Hoàng Phủ Bật, thuở nhỏ tên Tĩnh, tự Sĩ An, người quận Định Triều, thời Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều (265 - 420) biên soạn. Châm kinh ra đời đã trở thành bộ sách đầu tiên về châm cứu của Trung Quốc. Năm 1027, đời Tống Nhân Tông, Vương Duy Nhất đã soạn sách Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh, cũng là lần đầu tiên ở Trung Quốc đúc người bằng đồng với những huyệt châm cứu để người thầy thuốc thực hành.

Ở Việt Nam, sách về châm cứu xuất hiện muộn hơn, đã tiếp thu thành tựu về châm cứu của Trung Quốc, có chọn lọc và phát triển. Đáng tiếc, hiện nay sách còn lại không nhiều, chỉ có 6 bản sách trong tổng số 400 bản sách y dược cổ truyền hiện lưu trữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong số 6 bản sách đó, chỉ có 4 bản sách là hoàn toàn chép về châm cứu, còn 2 sách khác được biên soạn chung với chuyên khoa khác.

Nhìn chung, cụm sách châm cứu này đều là bản chép tay, chữ chân phương : 2 bản sách có ghi tên tác giả và năm biên soạn; 2 bản sách có tựa, mục lục ; 1 bản sách có mục dùng chữ Nôm thể văn xuôi để biên soạn ; 1 bản sách có mục diễn Nôm thể lục bát. Và vì là sách chuyên về châm cứu, nên tất cả 6 bản sách đều có hình vẽ cơ thể người với những huyệt châm cứu cụ thể. Mỗi bản sách đều có nội dung khá phong phú về chuyên khoa châm cứu :

1. Mang nhàn sơ tập ngoại khoa bí thư (AC.410), 2 quyển, chép tay, chữ Hán chân phương, 386 tờ, khoảng 150.000 chữ, có tựa, mục lục, và 5 nội dung chính, trong đó có 2 nội dung nói về châm cứu :

- Hình vẽ cơ thể người, gồm : Phía trước, phía sau, bàn tay, cẳng chân, có ghi tên các bộ phận bên trong và bên ngoài cơ thể, chỉ rõ nơi huyệt đóng dùng để châm cứu, xoa bóp và tên gọi các huyệt ấy.

- Hướng dẫn cách châm cứu, các huyệt châm cứu, như : Vị trí, độ nông sâu, tên gọi của huyệt. .. châm cứu chữa các bệnh : Trúng phong, tiện bế, tâm phiền, thương hàn, phế ung, hoắc hoạn v.v.

2. Châm cứu pháp tượng đồ (VHv. 2943), 1 quyển chép tay, chữ Hán chân phương, không có mục lục, tựa bạt, tác giả, năm biên soạn. Bản sách chỉ có 16 tờ, khoảng 200 chữ, khổ 31 x 22cm, với 10 hình vẽ cơ thể người, ghi rõ các huyệt châm cứu. Đặc biệt hình vẽ ở tập này, vẽ màu, đẹp, tỉ lệ khá chính xác, mỗi hình vẽ như là một bức tranh :

- Hình vẽ người đàn ông với 14 huyệt châm cứu, từ bụng qua đùi, xuống bàn chân.

- Hình vẽ người đàn bà với 15 huyệt, từ cổ xuống cánh tay, đến ngón tay trái.

- Hình vẽ người đàn ông với 30 huyệt, từ tai bên phải, qua cổ, xuống bàn chân phải.

- Hình vẽ người đàn bà với 7 huyệt, từ nách bên trái, xuống bàn chân trái.

- Hình vẽ người đàn bà với 22 huyệt, từ mang tai bên trái xuống bàn chân trái.

- Hình vẽ người đàn ông với 26 huyệt, từ ngực xuống bàn chân trái.

- Hình vẽ người đàn bà với 10 huyệt, từ vai bên trái xuống bàn chân trái.

- Hình vẽ người đàn ông với 26 huyệt, từ cổ xuống bàn chân trái.

- Hình vẽ người đàn ông với 67 huyệt, từ cổ qua 2 sống lưng, qua đùi sau, bụng chân, đến bàn chân phải.

- Hình vẽ người đàn ông với 39 huyệt, từ dưới mắt phải, qua má phải, ngực phải, xuống bàn chân phải.

Tổng cộng 256 huyệt. Không ghi rõ tính năng, tác dụng của từng huyệt.

Bản Châm cứu pháp tượng đồ chép trên giấy bản đã hoen ố, rách nát nhiều chỗ nhìn thấy có vẻ rất cổ. Nhưng phong cách vẽ lại khá hiện đại, tỷ lệ của hình vẽ khá chính xác, với 2 màu đen, đỏ rất nổi, khác hẳn với 5 bản sách châm cứu hiện có, hình vẽ chỉ có tính tượng trưng. Rất tiếc, sách chỉ có 16 tờ với những thông tin đã nêu trên, nên chưa thể đoán định được gì hơn.

3. Hoàng thị chế tác cứu châm tân soạn thiết tả Quốc ngữ các bệnh (VNv.84), 1 quyển, chép tay, chữ Nôm có xen chữ Hán, chép chân phương, gồm 59 tờ, trên dưới 20.000 chữ. Sách của Cai tổng họ Nguyễn, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Tập sách không ghi niên đại biên soạn, nhưng với chức Cai tổng và và tên tỉnh Quảng Bình xuất hiện trong tập sách, cho thấy nó được biên soạn vào đời Nguyễn. Đặc biệt tập này, dùng văn xuôi chữ Nôm để biên soạn, một hiện tượng hiếm thấy trong kho thư tịch y dược cổ truyền của ta. Chữ Nôm dùng ở đây, dễ đọc, dễ hiểu, diễn đạt trong sáng, với hai nội dung chính :

- Nói rõ cách châm cứu chữa các bệnh : đi ỉa lỏng, đau bão, sốt rét lâu năm, ho khan lâu năm, ung thư phát bối, bí tích, viêm khối, giản tật, đau bụng dữ dội, bí huyết, lòi dom, các chứng đơn, đau đầu, hoàng thư, đàn bà không con, trúng phong cấm khẩu v.v.

- 42 hình vẽ, mỗi hình vẽ là một chứng trúng phong. Nêu rõ cách châm cứu để chữa cho các chứng ấy, như trúng phong đau đầu, thì châm huyệt bách hội v.v.

Tập sách ít dùng chữ Hán. Chữ Hán chỉ dùng khi gọi tên huyệt, như : Bách hội, phế du, thận du v.v.

4. Hoàng Đế tạo châm pháp (VNb.17), 1 quyển, chép tay, chữ Hán có Nôm, chân phương, gồm 67 tờ khoảng 24.000 chữ, khổ 21 x 14cm.

Nếu tập trên chủ yếu dùng chữ Nôm văn xuôi để biên soạn, thì tập này dùng chữ Nôm văn vần, thể lục bát để biên soạn. Tập sách gồm 3 nội dung chính :

- Hoàng Đế tạo châm pháp: tiếp thu những điều cơ bản về châm cứu của Hoàng Đế. Cách sử dụng 9 loại kim châm, cách giữ gìn vệ sinh kim khi tiến hành châm cứu, phương pháp xác định huyệt để châm v.v.

Các lương y ở Trung Quốc và Việt Nam xưa đều suy tôn Phục Hi. Thần Nông, Hoàng Đế là bậc tiên y. Tương truyền Phục Hi ( thời Bàn Cổ) là người đầu tiên soạn ra Nội kinh, và sau đã trở thành sách y kinh cơ bản của Trung y. Thần Nông (thời Thái Cổ) tương truyền soạn ra Bản thảo gồm 365 vị dược liệu, đã trở thành tập sách đầu tiên về dược liệu. Còn Hoàng Đế (2698 - 2208 TCN) đã cùng với môn sinh của mình, đem những điều còn nghi vấn trong Nội kinh hỏi đáp lẫn nhau cho rõ, làm ra Linh Khu Tố Vấn 18 quyển. Thực ra, Hoàng Đế chưa có tập sách nào về châm cứu (!)

- Châm cứu tiệp hiệu pháp: diễn Nôm, thể lục bát, 216 câu, nói về cách châm cứu, nhanh chóng chữa khỏi bệnh. Lời diễn Nôm chưa được sáng và dễ hiểu. Chẳng hạn :

Có người quyết lãnh tứ chi,
Khúc trì huyệt trước sau thì phong long.
Hai chân ma mộc song song,
Trung đô đã cứu lại dùng thừa cân...

- Nội dung thứ 3 là hình vẽ giải phẫu cơ thể người chỉ rõ các huyệt châm cứu, gồm 28 hình tương ứng với 28 căn bệnh khác nhau. Có ghi chú tỉ mỉ chu đáo : Tên huyệt, cách châm cứu, độ nông sâu v.v.

Như vậy, Hoàng Đế tạo châm pháp có nội dung khá phong phú, tiếc rằng tập sách không ghi tên soạn giả và năm biên soạn. Hiện chưa tìm thấy căn cứ để đoán định niên đại hoặc soạn giả.

5. Châm cứu thủ huyệt đồ (VHv.2015), 1 quyển, chép tay, chữ Hán, chân phương, gồm 54 tờ, khoảng 18.000 chữ, khổ 24 x 13cm, do Lý Công Tuấn soạn năm Chính Hoà 16 (1695).

Trong kho thư tịch y dược cổ truyền hiện còn của ta, sách có ghi niên đại, tên tác giả biên soạn là rất ít, nhất là niên đại càng cổ, càng hiếm. Như thế thì, tập Châm cứu thủ huyệt đồ này cũng rất đáng lưu ý về niên đại biên soạn. Về soạn giả, cũng rất đáng tiếc, trong tập không ghi gì hơn ngoài tên Lý Công Tuấn soạn, và vì vậy chưa hiểu rõ tiểu sử của ông. Dẫu sao, đây là tập sách có chủ tâm biên soạn, việc ghi tên soạn giả và niên đại biên soạn đã chứng tỏ điều đó.

Nội dung biên soạn khá tỉ mỉ, cụ thể, gồm 2 phần chính như sau :

- Bàn về tên gọi các huyệt : bàn về 1 huyệt có 2 tên gọi (78 huyệt), 1 huyệt có 3 tên gọi (25 huyệt), 1 huyệt có 4 tên gọi (6 huyệt), 1 huyệt có 5 tên gọi (1 huyệt), 1 huyệt có 6 tên gọi (1 huyệt). Và bàn về 1 tên gọi dùng cho 2 huyệt (8 tên gọi).

- Các phương pháp tìm huyệt để châm với 42 hình vẽ giải phẫu cơ thể người, gồm 1239 huyệt châm, chia ra các khu vực khác nhau, như : Hàng giữa bộ đầu có 14 huyệt; hàng thứ 2 bên phải, trái của bộ đầu, tổng cộng 16 huyệt; hai bên phải, trái bộ mé đầu (trắc đầu bộ), tổng cộng 28 huyệt; hàng giữa bộ mặt, gồm 7 huyệt; hàng thứ hai bên phải, trái của bộ mặt, tổng cộng 10 huyệt; hàng thứ hai bên phải, trái bộ lưng, cộng 46 huyệt; hàng thứ ba, bên phải, bên trái bộ lưng, cộng 28 huyệt v.v.

Cuối cùng bàn về huyệt Cao manh du, có đoạn : "Huyệt cao manh du, không bệnh gì là không chữa khỏi. Chủ trị : gầy yếu, hư tổn, mộng thất tinh, cuồng cảm mất trí nhớ, và trị bách bệnh... Phàm sau khi cứu thấy đình viêm, ngừng tật, thì chắc chắn bệnh chữa được ..."

6. Cứu pháp tinh vi trích yếu tiện lãm (VHv.2946), 2 quyển (Thượng và Hạ), chép tay, chữ Hán, chân phương, gồm 107 tờ, khoảng 50.000 chữ, khổ 28 x 20cm. Sách do tiên sinh họ Lê, hiệu Trác Như Phủ soạn năm Gia Long ất Sửu (1805), có tựa, mục lục.

Bài tựa đầu sách do soạn giả viết có tiêu đề: Đức Xương đường Lê Thị tiên sinh Trác Như Phủ trước bản tự tự. Xin dịch toàn văn như sau :

Tiên sinh họ Lê, hiệu Trác Như Phủ tự soạn bài tựa ở Đức Xương đường.

Ta gia thế võ biền. Hồi cuối Lê, bỗng nhiên gặp cảnh đổi vạc. Tiên quân phải nương náu ở Sơn Tây, lệnh cho ta phải chăm chỉ với học nghiệp, kỳ vọng phá được sự mông muội, ngõ hầu đáp lại lòng mong mỏi lúc bình sinh. Đến năm Nhâm Tuất, lại đến ở nhà Tiên sinh họ Đỗ là Thuận Gia đường ở Thụy Hương. Tiên sinh với tiên quân ta là chỗ bạn bè cũ. ta coi tiên sinh như cha, mỗi khi đi theo hầu, thường cùng tiên sinh đàm luận những chuyện cổ kim.

Một hôm, bàn đến y đạo, Tiên sinh nói với ta :"Y không phải là tiểu đạo, vả, người thông nho, sau đó mới có thể nói đến y. Xưa Cung tiên sinh ở Vân Lâm, Kim Cốc, đối với nho là bậc tinh túy tuyệt vời, đến với y đạo thì như thần, như thánh. Đương thời là bậc nổi danh trong nước. Sau được ban tặng "Y lâm trạng nguyên", có lẽ cũng là do có sự gặp gỡ vậy. Ta, ba đời danh y, mọi việc có thể lược khảo được, nay ngẫm thấy đã già yếu, con nối nghiệp thì còn nhỏ, nên muốn truyền nghề cho anh, mong rằng ngày sau có chỗ nhờ cậy."

Ta nghe nói vậy, lặng lẽ suy ngẫm, nhớ lại lời của Chính công có nói : "Không làm được lương tướng thì làm lương y, mà cái quyền của lương y so với lương tướng cũng như nhau vậy." Vì thế mới nghe theo lời khuyên của ông mà đến theo học. Mới đầu, soạn từ Bản thảo, Cương mục mà tập hợp thành Tự bảo thông trị vạn phương thư, sau lại đọc Phế phủ quyết kinh lạc thư cùng với những lời chỉ dẫn quan trọng của các đại danh gia như Lưu, Trương, Hoàng, Hiếu. Tiên sinh lại trao cho xem cuốn sách Đồng nhân châm cứu hình đồ, chỉ bảo cho những cái sâu xa, khơi gợi những điều bí ẩn của nó. Trong hình đồ, vì lâu ngày xuyên châm, còn có chỗ khuyết. Ta lại đọc rộng các sách, trong đó thấy có Đồng nhân châm cứu kinh và Nhân thân kinh lạc thập nhị, Thực ứng thiên chi tiết khí, Chu thân khí huyệt tam bách lục thập ngũ, diệu ứng thiên chi độ số, và Nhập môn Kinh lạc thiên, Bảo nguyên cứu pháp luận, Cảnh Nhạc cứu bệnh luận, Từ Thị bát pháp chủ trị bệnh, những sách đó rất có hiệu quả, giúp cho nhà y châm cứu đạt kết quả thần tình và nhanh chóng. Phàm những bệnh dùng thuốc không khỏi, châm không được, dùng đến lửa để cứu thì lại công hiệu. Cho nên phép cứu trong Tinh yếu thiên luận, có công hiệu hồi sinh là tin được lắm. Nhưng trong phương thư chưa phân môn, chia loại rõ ràng. Ta tuy không giỏi giang, nhưng cũng rất hứng thú, không sợ hao tâm lực, đọc khoảng vài tháng, thấy huyệt khí chỗ nào rườm rà, sai nhầm thì chọn lựa lại kỹ càng, phép châm cứu chữa bệnh có chỗ nào sơ sài, thì phụ ghi thêm vào, cốt sao cho khỏi bị sai nhầm. Lại phép cứu ở Phương thư một vài chỗ còn thô sơ, thì tập hợp biên tập lại, phân chia thành các điều mục, tập hợp thành hai quyển Thượng, Hạ, giúp cho thầy thuốc sử dụng dễ dàng, nhanh chóng trong những trường hợp cấp cứu. Và đặt tên là Cứu pháp tinh vi trích yếu tiện lãm, để cho người có tâm với điều nhân, đôn đốc việc "thủ chính", có thể "chính" được. Có thể coi là "năng nhặt chặt bị" vậy.

Ngày lành, tháng tiểu xuân, năm Gia Long ất Sửu (1805).

Tiên sinh họ Lê, hiệu Trác Như Phủ tự soạn bài tựa."

Như vậy, bài tựa cho biết rất rõ mục đích và cách biên soạn của tác giả. Cũng chứng tỏ tập sách được biên soạn khá công phu, tỉ mỉ, kết hợp chặt chẽ giữa thực tế với các điều đã đề cập trong các tác phẩm về châm cứu của người trước. Tập sách gồm 2 quyển Thượng, Hạ.

Quyển Thượng: Trước tiên trích lời trong Nội kinh của Hoàng Đế: "Phàm người ta, hai chân hai tay đều có mạch Tam âm và mạch Tam dương, hợp thành 12 kinh mạch. Tam âm của tay, từ ngực chạy xuống chân ; Tam dương của tay, từ tay chạy lên đầu ; Tam dương của chân, từ đầu chạy xuống chân ; Tam âm của chân, từ chân vào bụng" v.v.

Phần tiếp theo là cách lấy huyệt châm cứu theo bộ, gồm 18 bộ với 18 hình vẽ chỉ rõ nơi huyệt đóng, như bộ đầu, bộ ngực, bộ chân, bộ tay v.v. Có nói rõ mỗi bộ có bao nhiêu huyệt, tên gọi từng huyệt đó là gì, vị trí của từng huyệt như thế nào. Ví dụ 2 huyệt "Khổng tối", cách cạnh nách phía trên 7 tấc ...

Tổng cộng 595 huyệt.

Lại luận 1 huyệt có 2 tên gọi (83 huyệt), 1 huyệt có 3 tên gọi (25 huyệt), 1 huyệt có 4 tên gọi (6 huyệt), 1 huyệt có 5 tên gọi (1 huyệt). Và, 1 tên gọi dùng chung cho 2 huyệt (có 5 tên gọi).

Ngày kiêng kỵ không nên châm cứu.

Mùa xuân : ngày Giáp Tuất; mùa hạ : ngày Bính, ngày Đinh ; tứ quí : ngày Mậu, ngày Kỷ ; mùa thu : ngày Canh, ngày Tân; mùa đông : ngày Nhâm, ngày Quí.

Phần cuối quyển Thượng chép một số bài ca, bài kinh về phép châm cứu, như: "Thập nhị kinh chi nguyên ca", "Kinh huyệt toát yếu ca" v.v.

Quyển Hạ: Bàn về phép cứu chữa các bệnh. Phương pháp cứu với các bệnh cụ thể, chia theo môn loại : Trúng phong (13 loại), ngược tật (28 loại), hàn nhiệt (27 loại), khái thấu (6 loại), xuyễn (6 loại), ách nghịch (3 loại), hoắc loạn thổ tả (14 loại), lỵ tật (4 loại), thũng mãn (15 loại), tích tụ (11loại), tâm phúc thống (20 loại), khẩu thiệt (16 loại), nhãn mục (18 loại), nhũ bệnh (13 loại), tị tật (13 loại), nha xỉ (10 loại), yết hầu (4 loại), thủ túc (35 loại), hoàng thư (6 loại), di tinh (9 loại), nhị tiện (20 loại), thất huyết (9 loại), sơn khí (22 loại), thoát cang (3 loại), điên cuồng (1 loại), phụ nhân (39 loại), tiểu nhi (19 loại), v.v.

Ngoại khoa : Bàn về phép châm cứu chữa các bệnh ung thư, trúng ác, các con thú cắn bị thương v.v.

Nêu ra nội dung cơ bản trên đây, là để chứng tỏ, tập sách biên soạn khá đầy đủ về châm và cứu chữa các bệnh từ nội khoa đến ngoại khoa, từ lý luận đến thực hành, và cách ghi chép ngắn gọn, khoa học, dễ hiểu. Có thể coi đây là tập sách tiêu biểu về châm cứu viết vào đầu đời Nguyễn, sau khi Lê Hữu Trác đã đạt thành tựu cao về chữa bệnh bằng thuốc. Đáng tiếc, tiểu sử của soạn giả chưa có điều kiện tìm hiểu rõ.

Sách châm cứu trong kho thư tịch y dược cổ truyền còn lại không nhiều, nên 6 tập hiện còn đã trở thành tư liệu quí cho các nhà nghiên cứu và hành nghề y dược cổ truyền tham khảo. Và nó sẽ là căn cứ quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử thư tịch nói chung, lịch sử y học cổ truyền nói riêng.

TB

NHÂN ĐỌC BỘ SÁCH: LÝ THƯỜNG KIỆT - LỊCH SỬ NGOẠI GIAO TRIỀU LÝ CỦA HOÀNG XUÂN HÃN, NGHĨ VỀ MỘT PHONG CÁCH

SONG MAI

“Cứ những chiều hôm giở quyển vàng,
Lật từng trang sử những đời vương,
Hồn say nhè nhẹ sôi nguồn máu,
Gợi chí trai hùng nhớ bốn phương”.

Với suy nghĩ từ bốn câu thơ cảm khái trên đây, mở đầu vở ca kịch tuyên truyền kháng chiến (cho đến nay vẫn chưa biết tác giả là ai), lúc ấy tôi hãy còn nhỏ tuổi, sắm vai người “chinh phu” - từ mùa thu năm 1946 ở huyện nhà, tôi đã đọc bộ sách Lý Thường Kiệt của cụ Hoàng Xuân Hãn vào mùa thu năm 1956 ở Hà Nội. Mùa thu này, 1996, cũng ở Hà Nội, vừa tròn bốn chục năm sau, đọc lại cụ Hoàng, thì cụ đã qua đời, thật bao nỗi vấn vương chất chứa trong lòng.

Mở bộ sách, ta gặp ngay ở trang đầu, tác giả đề:

“Tặng tất cả những người hy sinh cho Tổ quốc”.

Tiếp đến là Tựa 5 trang, tác giả viết vào tháng 5 năm Kỷ Sửu, 1949, quyển Thượng in trong năm này và năm sau, 1950, quyển Hạ, do Nhà xuất bản Sông Nhị ấn hành tại Hà Nội, vào thời điểm mà cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống xâm lược Pháp đã trải qua thời phòng ngự, bước qua kỳ cầm cự, đang chuyển sang tổng phản công, biết bao chiến sĩ ta trên khắp các mặt trận, kể cả vùng bị Pháp chiếm đóng, đã anh dũng bỏ mình vì nước, hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho độc lập dân tộc, để bảo vệ Tổ quốc, giống nòi.

“Tuy sách chưa được hoàn bị” - tác giả khiêm tốn viết vậy, “Nhưng vì cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc ta” ngày ấy ... “Chính vì cuộc đấu tranh ấy đã giục tôi (tg) vội đưa bản thảo ra hiến độc giả”, để mong người đọc thấy rằng “lòng dũng cảm của dân tộc ta ngày nay có cỗi rễ rất xa xăm”,... “sự lo việc nước không chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh” (Tựa tr.14, 15); Tác giả cũng mong người đọc thấy rằng “qua đoạn sử này,... cách đây ngót nghìn năm, ông cha ta đã đủ tài năng, nghị lực để gây dựng, tổ chức và gìn giữ khoảnh đất gốc cỗi của Tổ quốc ta ngày nay”, và... “huyết quản của chiến sĩ ta bây giờ vẫn chan hoà máu nóng của tổ tiên” (tr.15).

“ý tưởng và nguyện vọng của tác giả” khi cho xuất bản, tuy chỉ viết về một nhân vật lịch sử là Lý Thường Kiệt và lịch sử ngoại giao của một triều đại - Triều Lý, thật cao cả và đáng quý biết bao! Đây là đóng góp cụ thể của một nhà khoa học có trách nhiệm rất cao với đất nước lúc này.

Đồng thời với Lý Thường Kiệt La Sơn Phu tử, ta biết tác giả còn cho ra những sách khác như Đại Nam quốc sử diễn ca (1949), Hà thành thất thủ (1950), Thi văn Việt Nam (1950), Chinh phụ ngân bị khảo, ... và nhiều chuyên khảo, trước tác khác sau này nữa.

Vốn là người đỗ đạt nhiều bằng cấp cao về khoa học tự nhiên nhưng yêu thích và đi sâu nghiên cứu lịch sử, các sách Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu tử Lịch và Lịch Việt Nam là kết quả của việc cụ vận dụng phương pháp khảo nghiệm chính xác của khoa học tự nhiên vào nghiên cứu lịch sử. Những cứ liệu, dẫn chứng trong sách, đều là “những dẫn chứng chính xác”, “hết sức rõ ràng” bởi hai nguồn tài liệu của Tống sử và Việt sử. Người đọc hiểu được tường tận hơn về giai đoạn lịch sử này nhờ có tác giả đã dày công khảo cứu, biên soạn, chú thích kỹ càng. Làm sao có thể tóm lược, trích dẫn hết được những điều đắc ý chứa đựng trong bộ sách dầy 500 trang in, hai quyển, nội dung ba phần chính với 15 chương cùng phụ lục các bia ký, ảnh, bản đồ minh hoạ, có chú thích ở từng mục một, toàn là những tư liệu lịch sự giá trị.

Về nhân vật lịch sử này, tôi chỉ xin nêu khái quát đôi điều ngay từ khi đọc lần đầu rằng: Lý Thường Kiệt là “một anh hùng dân tộc bậc nhất trong lịch sử nước ta”, “một vĩ nhân cầm quyền có đủ trí óc chính trị, biết kết thúc nhân tâm, có cao tài lợi dụng thời cơ, óc kinh nghiệm điều binh khiển tướng”..., ở thời Lý. Người đọc cũng biết thêm rằng, để trở nên một anh hùng dân tộc, một vĩ nhân cầm quyền, trước hết, Lý Thường Kiệt là một người con có hiếu, cha mất năm ông mười ba tuổi, ông đã khóc ròng ba ngày liền không một ai dỗ nổi, năm mười tám tuổi mẹ mất, hai anh em lo đủ mọi lễ tống táng, “mọi việc tự tay mình làm” (tr.43), và đã tỏ rõ chí hướng của mình : “Về văn học, biết chữ ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ (hai danh tướng nhà Hán nhiều lần đánh Hung Nô), lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu để làm vẻ vang cho cha mẹ” (tr.42). Sau này, khi tham chính, với vũ công bại Chiêm phá Tống, “vừa làm tham mưu vừa làm thống soái”, “có công lấy thành, bắt vua Chiêm”,... lập “công đệ nhất trong cuộc nam chinh của dân tộc Việt Nam”, “mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn về sau (tr. 64); cũng như cuộc thắng trận bất ngờ của ông vào đất Tống, đã “đánh đổ âm mưu xâm lược của Tống”, “đánh đổ kẻ chủ mưu xâm lược ấy” và còn là “cớ cuối cùng đánh đổ một cuộc cách mạng về tư tưởng, về chính trị, về kinh tế vĩ đại nhất thế giới ở đời trung cổ” (tr.178). Tóm lại, ông đã “có công đặc biệt đối với vận mệnh nước ta: mở cõi miền nam và miền bắc, chống thắng cuộc xâm lăng nước ngoài và củng cố biên thuỳ mọi mặt, khiến các lân bang kính nể” (tr.381). Công trạng ấy đồng thời với bài thơ Tuyên ngôn độc lập bất hủ của ông: Nam quốc sơn hà..., đã làm rạng rỡ cho non sông nước Việt.

Về Lý Thường Kiệt với đạo Phật: Thời Lý, đạo Phật là toàn thịnh, “ảnh hưởng của Phật giáo ăn sâu vào tất cả các hoạt động của chính sự và của người trong nước” (tr.446). Lý Thường Kiệt hẳn là người sùng đạo lúc về già. Điều chắc chắn là ông đã che chở các vị danh sư và ông “đã có công với Phật giáo không phải là ít” (tr. 449), như ông đã sáng lập nên chùa Linh Xứng tại một nơi danh lam ở Thanh Hoá khi ông trấn trị xứ này. Ông đã từng nói với bộ thuộc, trong số bộ thuộc có đại sư Hải Chiếu, người làm văn bia chùa này trước khi xây dựng rằng: “Kẻ nhân trí là vui với núi sông. Đời truyền lại là danh với đạo. N ếu không xây dựng chùa ở nơi này để mở đạo, thì danh núi đâu là đủ quý” (Bia chùa Linh Xứng) (tr.446)

Ngày nay “tuy chùa cũ không còn, nhưng tấm bia xưa còn đủ làm toại lòng Lý Thường Kiệt muốn để đời sau biết đến sự nghiệp của ông” (tr.449).

Một nhân vật lịch sử nữa là Lý Đạo Thành, một văn quan khôn ngoan, già giặn đã trải qua mười tám năm làm Tể tướng, cùng với Lý Thường Kiệt, một võ tướng từng lập chiến công hiển hách, sau thôi chức Tể tướng, đi trấn trị Thanh Hoá rồi được vời lại về triều, hai trụ cột của triều đình, hai bề tôi giỏi của vị vua sáng Lý Thánh Tông mà lòng thương dân được biểu hiện ở chữ : “khoan” đứng đầu phương lược trị nước, rồi đến chữ “giản” là hai chữ được viết trên bức hoành phi chói lọi, khiến cho đời Lý trở thành đời thuần từ nhất trong sử nước nhà. Thì ở đây ta không thể không biết đến những lời tâm huyết của Lý Đạo Thành trả lời Thái hậu Linh Nhân, tức bà ỷ Lan, mẹ Lý Nhân Tông chấp chính và trước mặt Thái úy Lý Thường Kiệt trước khi Thái uý lên đường đi châu Lạng năm nào, ông đã nói liền một mạch: “Các tiên đế xưa thường dạy, trị đạo phải coi việc nuôi dân đủ ăn làm kíp, chính sự phải lấy phong hiến làm đầu.

Trong nước muốn cho của lắm vật nhiều, phải khuyến khích người cày làm hết cái lợi của đất, biểu dương người công nghệ trổ hết cái tinh của nghề, trong triều cấm mọi kiêu xa hoang phí, ngoài dân giảm bớt mọi phiền nhiễu. Rồi lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy lễ nhạc để sửa lòng người, gây dựng nên thuần phong mỹ tục” - và người cầm chính quyền chính phải “lấy lòng ngay mà đứng trước cán cân để điều hoà nặng nhẹ, cất nhắc người có tài, bồi đắp kẻ có chí, khơi dòng nước dẫn về cái hay của muôn dân, mở khoa thi chọn ra được cái chí của kẻ sĩ, làm cho mọi người biết tôn trọng người hiền, quý người tài, bao dung với kẻ dưới, trung thực với người trên. Trong triều ngoài nội phải lấy nhân để cố kết, lấy uy để sửa trị, lấy trí để trông coi, lấy tín để ngăn phòng... Đó là phép làm cho dân yên nước thịnh...”

Đoạn văn trích trên đây do một tác giả viết tiểu thuyết lịch sử lấy từ nguồn sách Lý Thường Kiệt của cụ Hoàng. Người đọc sách với cái tâm trong sáng của mình, được đọc người xưa tưởng như còn vọng đến hôm nay, nghe sang sảng bên tai, sẽ cảm thấy mình cũng khảng khái như Trần Bình Trọng, trong sạch như Chu Văn An thuở trước và không thể không có những giọt nước mắt rơi trên trang sách ! Mong độc giả hãy coi đây mới chỉ là những điều cóp nhặt của người viết bài này và bổ khuyết thêm cho.

Cụ Hoàng. Vì cảnh ngộ, cụ không được dự phần giải phóng đất nước, cụ đã “gắng công giải phóng tri thức và văn hoá đồng bào ra khỏi cái khuôn chật hẹp của con người bị ràng buộc” mà quyển Danh từ khoa học ra đời là cụ đã khởi công cho nền trung học và đại học tương lai của nước nhà ngay từ thời Pháp thuộc. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, cụ soạn các sách Hà Thành thất thủ, Đại Nam quốc sử diễn ca, trước tác Lý Thường Kiệt là nhằm làm cho những người ở vùng Pháp chiếm đóng hiểu đúng về những người kháng chiến; các sách Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu tử và sau này nhiều bài viết đăng trong Tập san Sử Địa ở Sài Gòn cũ và Tạp chí Khoa học xã hội ở Paris, là cụ muốn uốn nắn các lối viết sử và dạy sử lại được dùng trong các trường thực dân mở; cụ nghiên cứu Chữ Nôm và các áng văn Việt xưa, chưa phổ biến, là cụ muốn “mở cho các học giả sau ngày giải phóng một ngành khoa học có đặc thù quốc tế”; cụ cố gắng bảo tồn cổ văn, chú ý nhiều các văn bản cũ và nêu “sự yếu ớt về ngành văn sử của các nhà giảng dạy văn”...

Sau khi ra sống ở nước ngoài, suốt mấy chục năm liền xa Tổ quốc quê hương, cụ vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ về quê hương đất nước, cụ đã dồn hết tâm sức của mình làm cái công việc hiếm người làm nổi của một người ẩn dật. Cụ đã cho xuất bản nhiều sách về văn sử và đáng kể là công trình Lịch và Lịch Việt Nam, một công cụ cần thiết cho những nhà nghiên cứu sử Việt, cùng những công trình nghiên cứu khác ở một vài thời điểm khác, tất cả đều được khảo chứng công phu, chú giải tường tận, đủ cho ta thấy tâm trí và sức làm việc của cụ là mạnh mẽ và bền bỉ biết nhường nào để xây dựng cho nền văn hoá nước nhà.

Điều tôi nhận thức sâu sắc ở đây lại nằm ngoài nội dung của sách, đó là đức tính khiêm nhường của nhà trước tác và sự mong mỏi được cống hiến với phong cách nêu gương tiêu biểu. Với Lý Thường Kiệt “tuy chưa được hoàn bị” mà cụ Hoàng Xuân Hãn cho ra đời ở vùng tạm bị chiếm vào thời điểm cả nước đang vang dội tiếng súng tiến công của các chiến sĩ ngoài mặt trận, là thôi thúc cụ góp phần “tìm ra cách “tác chiến” không nguy hiểm bằng bút mực, trong khi đồng bào, đồng hương đang ngày đêm sống chết “tác chiến” bằng sắt thép” - đúng như cụ Trần Văn Giàu cách xa nhau về thời gian mấy chục năm sau, khi biên soạn bộ sử (5 tập) Miền Nam giữ vững thành đồng viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta mà cụ đã phát biểu trong buổi lễ nhận giải thưởng Hồ Chí Minh do Nhà nước ta tặng về những công trình lịch sử cận hiện đại của cụ vừa rồi. Cụ Giàu khiêm tốn tự đánh giá bộ MNGVTĐ “tuy lớn nhưng giá trị của nó không hơn một loại biên niên mới, ai siêng cũng làm được”.

Sự khiêm tốn của tác giả khiến tôi nhớ đến câu nói của Các Mác mà tôi coi như phải thuộc lòng khi bắt đầu việc biên soạn giáo trình ở những năm 1960 rằng: “Thà đốt bản thảo đi còn hơn đưa ra trước công chúng một bản thảo chưa hoàn chỉnh", thì quả oái oăm thay đối với những người viết sách. Cụ Hoàng đã ra đi vĩnh viễn nhưng dòng chữ khiêm tốn “Tuy sách chưa được hoàn bị” ở trang đầu sách vẫn còn đây. Từ ấy đến nay, với đà phát triển mọi ngành nghề cùng đi lên của đất nước, các sách khoa học xã hội nói chung và về văn sử học của tác giả không riêng lớp học trò các cụ, cũng đã có nhiều cuốn giá trị, nhưng thử hỏi, có tác giả nào tự cho sách của mình là “hoàn bị” hơn Lý Thường Kiệt “chưa hoàn bị” của cụ Hoàng Xuân Hãn ? Và cụ Trần Văn Giàu, đang còn, cũng đã mòn mỏi vì tuổi tác, nhưng cụ mới được bổ sung một nguồn nghị lực mới ở phần thưởng vừa qua để có thể hoàn thành bộ sách cuối cùng, tôi quả quyết rằng, công việc này cũng như việc biên soạn MVGVTĐ, không phải “ai siêng làm cũng được”.

Ôi ! Thời gian và trí nhớ cho hay, các bậc trí giả mà kiến văn quảng bác xưa nay vẫn thường khiêm nhường vậy.

Tôi không được học cụ Hoàng Xuân Hãn, cũng không có may mắn sang Pháp để hầu chuyện cụ. Suy tưởng đôi điều về cụ Hoàng, tôi nhớ đến các cụ ở trong nước đã có mặt cùng nhân dân cả nước trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, số lớn là những nhà hoạt động cách mạng và nhà khoa học xã hội, học vấn uyên thâm, làm việc cẩn trọng, tư thái ung dung, nay nhiều cụ đã vĩnh viễn ra đi xa, có cụ đi xa lâu rồi, tôi nghĩ mình cũng hạnh phúc là được gặp gỡ, làm việc, cộng sự với các cụ từ những ngày đầu, như các cụ Cao Xuân Huy, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Lê Thước, Ca Văn Thỉnh, Phạm Thiều, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Đổng Chi, Phạm Huy Thông, Nam Trân, Hoa Bằng, Văn Tân..., nhiều cụ nhiệt tình kể cho biết, góp ý nhiều lần khi tôi biên soạn một chuyên đề lịch sử: Quá trình phát triển ngành xuất bản Việt Nam là do làm chuyên môn từ mấy chục năm qua, đã để lại trong tôi những kỷ miện và ấn tượng khó quên. Có cụ đã từng nói: làm cái nghề “nhất tự thiên kim” này khó lắm. Một điều tôi thấy khá rõ là các cụ rất kính nể nhau, giữa cụ Liệu với cụ Giàu, cụ Liệu hơn tuổi cụ Giàu, cụ Giàu coi cụ Liệu như người anh, thế nhưng biên thư trả lời cụ Giàu về bản thảo đọc chưa xong, cụ Liệu vẫn viết : “Trần Văn Giàu túc hạ”. Đúng là đạo xử thế của người có học vấn.

Nghĩ về cụ Hoàng. Nhớ các cụ vĩnh viễn đi xa.

Tôi luôn nghĩ, nhớ đến phong cách những con người khả kính.

Hà Nội, cuối Thu 1996

TB

LẠI BÀN VỀ HỘI TAO ĐÀN THỜI
LÊ THÁNH TÔNG

MAI XUÂN HẢI
BÙI DUY DÂN

Bất kỳ ai đọc hay nghiên cứu lịch sử phong kiến Việt Nam thời kỳ cổ trung đại, thì tuyệt đại đa số đều dễ dàng thống nhất đánh giá cao những thành tựu xây dựng đất nước vào thời kỳ mà vua Lê Thánh Tông trị vì trong suốt 38 năm (Quang Thuận : 1460 - 1469, Hồng Đức (1470 - 1497). Nhà sử học Phan Huy Lê nhận xét : "Trên cương vị hoàng đế của nước Đại Việt, ông đã để lại một sự nghiệp phục hưng đất nước rạng rỡ, trên từng phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội... Những thành tựu triều vua Lê Thánh Tông đạt được đã được sử sách ghi nhận mà không mấy ai có thể phủ nhận"(1). Ông còn nhấn mạnh thêm : "Nhưng thật là thiếu công bằng và khách quan nếu chúng ta phủ nhận hay hạ thấp vai trò và cống hiến lịch sử của ông gắn với một thời kỳ thịnh đạt và phục hưng của đất nước"(2).

Thực vậy, chúng ta còn có thể kể ra đây rất nhiều thành tựu xây dựng đất nước vẫn còn lưu lại dấu ấn trong chúng ta với niềm tự hào chính đáng như : Hồng Đức luật lệ, Hồng Đức quan chế, Hồng Đức bản đồ, Hồng Đức đê điều, Hồng Đức Tao đàn, cùng những tác phẩm đồ sộ như : Thiên Nam dư hạ, 100 quyển, do nhóm các ông Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận soạn, Đại Việt sử ký toàn thư 15 quyển, do Ngô Sĩ Liên soạn theo lệnh của nhà vua. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi chỉ bàn thêm những vấn đề xung quanh Hội Tao đàn thời Lê Thánh Tông mà thôi. Bởi chúng tôi nhận thấy đây là một hiện tượng văn học xướng họa giữa vua tôi với nhau có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam, và đang còn có những ý kiến chưa thống nhất về một số vấn đề : như thế nào là khái niệm "Hội Tao đàn", cái tên hội đó và "Nhị thập bát tú" xuất hiện từ bao giờ ? Thời gian hoạt động của hội kéo dài bao lâu? Tác phẩm để lại của Hội đó là gì ? Có thơ Nôm không, hay chỉ thơ Hán, thơ Hán thì chỉ là một Quỳnh uyển cửu ca không thôi hay là cả một số tác phẩm khác nữa ? đặc biệt là số hội viên của hội này đích thực là bao nhiêu, 27, 28, hay 31, 33 người ? v.v. Sau đây là ý kiến của chúng tôi về từng vấn đề vừa nêu.

1. Về vấn đề xung quanh khái niệm "Hội Tao đàn" và "Nhị thập bát tú"

Ở đây, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Tiến sĩ Sử học người Mĩ là John K. Whitmore rằng : "Các bộ biên niên sử không nhắc gì "Nhị thập bát tú " hay "Hội Tao đàn". Những cái tên này cũng không thấy xuất hiện trong những ghi chép về triều đại Lê Thánh Tông ngay sau cái chết của ông. Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, những học giả Việt Nam ở thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, tuy hết sức trân trọng nhưng cũng không nhắc gì đến Hội Tao đàn. Tuy nhiên cả hai đều nói đến 28 nhà thơ"(3). Nhưng cũng xin lưu ý rằng, ngay trong bài tựa của tập thơ Quỳnh uyển cửu ca của chính Lê Thánh Tông viết, chúng ta đã thấy có cụm từ "Nhị thập bát tú" rồi. Lê Thánh Tông nói : "Lại tập hợp bọn học sĩ Thân, Đỗ, Ngô, Lưu, bọn văn thần Nguyễn, Dương, Chu, Phạm, gồm 28 người, ứng với 28 ngôi sao thuộc Nhị thập bát tú thay nhau cùng họa, có tới vài trăm bài, bài nào cũng lựa chữ công phu, dùng từ chắc chắn. Thơ làm xong dâng lên, lòng ta vui thích"(4). Bài bạt của Đào Cử cũng nói giống như vậy, và ông còn nói thêm đó là lấy tượng 4 lần 7 (28) ngôi sao trên trời, và 4 lần 7 (28) công thần được vẽ ảnh biểu dương công lao ở Vân Đài, đời Hán Quang Vũ. Từ "Tao đàn" thì xuất hiện muộn hơn. Chắc hẳn từ này xuất hiện trong các sách Đăng khoa lục, trong bi văn, hoặc trong sách của những tác giả đời sau khi đến tên một vị nào đã được Lê Thánh Tông chọn vào số 28 người họa thơ Quỳnh uyển cửu ca thì thêm chữ "Tao đàn" vào cho rõ ra. "Tao đàn" chỉ có nghĩa là chỉ những người trong giới nhà thơ, nhà văn. Nói "Nhị thập bát tú" sợ chưa rõ, người ta thêm "Tao đàn" vào thành "Tao đàn Nhị thập bát tú" để chỉ nhà thơ nào đó đã được vua Lê Thánh Tông chọn vào số 28 nhà thơ họa thơ Quỳnh uyển cửu ca mà thôi. Cũng vậy, các cụm từ "Tao đàn nguyên suý", "Tao đàn sái phu", "nhập Tao đàn", "danh tại Tao đàn Nhị thập bát tú" v.v. thì thấy nhiều.

Còn từ "hội" hay "Hội Tao đàn"thì còn xuất hiện muộn hơn nữa. Dường như trong các văn bản Hán Nôm không thấy có cụm từ " Tao đàn hội" (tức hội Tao đàn), và có lẽ cụm từ này chỉ xuất hiện trong các văn bản chữ Quốc ngữ từ trước Cách mạng tháng 8 mà thôi. Có thể cụ Dương Quảng Hàm trong bộ sách Việt Nam văn học sử yếu xuất bản lần đầu năm 1943, là người đầu tiên trong giáo trình giảng dạy dùng từ "Hội Tao đàn" chăng ? Cụ có hẳn một chương, "chương thứ mười : Vua Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn". Cụ viết : "Hội Tao đàn. Vua Lê Thánh Tông có tài làm thơ văn và thích ngâm vịnh, nên ngài có lập ra Hội Tao đàn (tao: tao nhã, văn chương; đàn : nền) chọn 28 người văn thần sung vào gọi là Nhị thập bát tú. Ngài làm Tao đàn nguyên suý, và cử Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận làm phó nguyên suý. Ngài cùng với nhân viên hội bàn bạc sách vở và xướng họa thơ văn". (Sđd, tr.103). Chính là mở đầu từ cụ, rồi sau này các nhà nghiên cứu như Bùi Văn nguyên, Bùi Duy Tân, Trần Văn Giáp, Lâm Giang v.v. thấy hợp lý và nhấn mạnh thêm trong các bộ giáo trình văn học Việt Nam, trong các sách dịch thuật nghiên cứu, từ điển (như Hồng Đức quốc âm thi tập, Từ điển văn học, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Hội Tao đàn, tác giả tác phẩm v.v.) đã dùng khái niệm đó một cách phổ biến. Cần nói thêm, ở thời kỳ trước Cách mạng tháng 8, chỉ có cụ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, thì viết một cách cẩn trọng hơn, cụ không nhắc gì tới cái gọi là "Hội Tao đàn" cả. Cụ viết: "Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh uyển cửu ca, xưng làm Tao đàn nguyên suý, cùng với kẻ triều thần là bọn ông Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận ... cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài" (Sđd, tr.247). Tuy cụ Dương và cụ Trần viết mạnh dạn và thận trọng khác nhau, nhưng chúng tôi vẫn cho rằng cả hai cụ đều đúng cả. Chữ "hội" ở đây chỉ là do người sau dùng để định danh một nhóm 28 nhà thơ được Lê Thánh Tông chọn lựa cho họa lại 9 bài thơ trong Quỳnh uyển cửu ca của mình vậy.

2. Về vấn đề tác phẩm, thời gian họat động và phương thức họat động của hội Tao đàn

Như chúng tôi đã nêu ở phần một, nội dung họat động chính của Hội Tao đàn là 28 nhà thơ họp thành "Nhị thập bát tú" để họa lại 9 bài thơ trong Quỳnh uyển cửu ca của vua Lê Thánh Tông. Vì vậy tác phẩm duy nhất của hội này chỉ là Quỳnh uyển cửu ca mà thôi, ngoài ra không còn tác phẩm nào khác. Nhận định này, cụ Trần Trọng Kim đã lần đầu tiên nêu ra trong Việt Nam sử lược, và sau này được GS. Bùi Duy Tân nhấn mạnh, nói đầy đủ hơn trong Từ điển văn học. Ông viết : "Tác phẩm của Hội còn để lại chủ yếu là tập Quỳnh uyển cửu ca (A.1413) gồm khoảng vài trăm bài. Các tập thơ Cổ tâm bách vịnh, Xuân vân thi tập, Cổ kim cung từ thi, được viết những năm 1495 - 1496 là tác phẩm của Lê Thánh Tông chứ không thấy nói là của Hội Tao đàn... Còn Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức quốc âm thi tập không phải là tác phẩm của Hội Tao đàn, vì Thiên Nam dư hạ tập được biên soạn từ năm 1483, Hồng Đức quốc âm thi tập lại là tập thơ Nôm của văn thần trong suốt 28 năm niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) đúng như tên của nó, hoặc có thể viết ra trong suốt thời kỳ Lê Thánh Tông"(5). ở đây chúng ta cần nhấn mạnh rằng Quỳnh uyển cửu ca là tác phẩm duy nhất của Hội Tao đàn chứ không phải là "chủ yếu". Cũng không thấy GS. Bùi Duy Tân nêu tên tác phẩm thứ yếu nào của Hội Tao đàn cả. Còn Lâm Giang trong phần giới thiệu về Hội Tao đàn(6) ở mục 6 "Những tác phẩm của Hội Tao đàn" ngoài việc cho rằng Quỳnh uyển cửu ca là tác phẩm chung duy nhất cho cả Hội Tao đàn", anh còn nêu thêm "chùm thơ ba bài" trong Minh lương cẩm tú, 6 bài trong Văn minh cổ xuý và 5 bài trong Châu cơ thắng thưởng là các tập thơ ra đời trước khi nhà vua làm sách Quỳnh uyển cửu ca, và chọn 28 văn thần phụng họa. Vậy chúng không phải là tác phẩm của Hội Tao đàn. Giá mà anh không đưa chúng vào mục này, và để vào phần những sáng tác riêng khác của những Hội viên Tao đàn thì đúng hơn.Còn như GS. Bùi Văn Nguyên, khi bàn về tác phẩm của Hội Tao đàn, ông nói : "Hội viên Hội Tao đàn thường làm thơ chữ Hán hoặc thơ Nôm để xướng họa với nhau, hay nói cho đúng hơn là họa lại những bài xướng của Lê Thánh Tông... Hầu hết thơ Nôm Hội Tao đàn còn ghi chép lại trong Hồng Đức quốc âm thi tập mà lần đầu tiên chúng tôi phiên ra quốc ngữ trọn bộ"(7). Theo chúng tôi như vậy là ông đã nhầm lẫn giữa tác phẩm Quỳnh uyển cửu ca mang tính xướng họa của Hội Tao đàn được tập hợp vào năm Quí Sửu, Giáp Dần, niên hiệu Hồng Đức 23, 25 (1493, 1494) với các tác phẩm cũng mang tính xướng họa khác, kể cả Hán lẫn Nôm, kéo dài suốt thời kỳ Lê Thánh Tông.

Về thời gian hoạt động của Hội Tao Đàn, thì các nhà nghiên cứu có ý kiến tương đối thống nhất, GS. Bùi Duy Tân nói: "Khi Lê Thánh Tông mất (1497) không thấy nói đến họat động của Hội Tao đàn nữa"(8); Lâm Giang cũng nói gần như vậy, anh cho rằng : "thực chất hội chỉ tồn tại được hai năm (từ cuối năm 1494 đến năm 1497)"(9). Chúng tôi cho rằng thời gian họat động của hội còn ngắn hơn nữa, thực tế có thể bắt đầu vào năm Quý Sửu (1493) là năm được mùa, nhà vua cảm hứng làm 9 bài thơ Quỳnh uyển cửu ca, rồi sai 28 văn thần phụng họa. Đến tháng 11 mùa đông năm Giáp Dần niên hiệu Hồng Đức thứ 25 (1494) là thời điểm nhà vua làm bài tựa cho sách Ngự chế Quỳnh uyển cửu ca, có nghĩa là lúc ấy công việc xướng họa của cả tập thơ đã hoàn thành, và năm sau năm Ất Mão (1495) sách in xong và được công bố đúng như Toàn thư đã chép.

Về công việc xướng họa tập thơ này, chúng tôi mường tượng như sau: sau khi hai năm Sửu, Dần được mùa, nhân dân no đủ "trong lúc muôn việc rảnh rang, mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn, muôn náo lặng êm, lòng đức thơm ngát", thế là cảm hứng sáng tác dâng lên cuồn cuộn, không thể đừng được, nhà vua với bút lực dồi dào, đã sáng tác liền một mạch 9 bài thơ cận luật, về 9 đề tài từ "phong niên" "quân đạo", "thần tiết", "minh lương", "anh hiền", "kỳ khí", "thảo tự", "văn nhân" đến "mai hoa", nét chữ rực rỡ trên giấy vàng. Nhà vua càng phấn khởi lại nảy ra ý định chọn 28 vị văn thần họa lại để phát huy thêm ý định tốt đẹp này của mình. Rồi một tối đẹp trời, gió mát trăng thanh, nhà vua cho hội họp 28 vị văn thần lại, đọc cho mọi người nghe, sai mỗi người họa lại từng bài. Đặc tính của thơ họa là thơ "khẩu chiếm" ngẫu hứng, xuất khẩu thành chương. Hơn nữa, số 28 vị văn thần ấy lại toàn là những nhà thơ tài hoa, nên trong các bữa tiệc, chắc chắn là họ làm thơ họa rất nhanh, rồi được tập hợp lại thành tập thơ. Chính trong một bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông, bài Khách trung tiểu ẩm (uống rượu với khách) đã miêu tả quang cảnh xướng họa đó:

"Dung nhan khách mới ngồi bàn,
Mà kìa hình dáng mơ màng nửa say.
Câu thơ tựa ráng chiều bay,
Thung dung cười nói sánh tày cổ nhân.
Kẻ xướng đọc, người họa ngâm,
Dọng ngâm xen lẫn tiếng bình xôn xao.
Bề tôi từ tạ cúi chào,
Trời khuya, vầng nguyệt treo cao giữa trời."(10)

Nếu đúng như vậy thì Hội Tao đàn chủ yếu họat động xướng họa Quỳnh uyển cửu ca là vào 2 năm kể từ Quý Sửu là năm bắt đầu được mùa, và kết thúc ngay sau khi 28 vị văn thần xướng họa xong, thơ được dâng lên cho nhà vua xem, nhà vua tự làm bài tựa rồi sai Đào Cử làm thêm bài bạt "hậu tự" nữa, sau đó nhà vua sai mang đi khắc ván in vào năm Giáp Dần, niên hiệu Hồng Đức 25 (1494). Đến lúc này thì vai trò và họat động của Hội Tao đàn trên thực tế cũng kết thúc luôn. Đến năm Ất Mão, sách Quỳnh uyển cửu ca in xong và công bố, nên Toàn thư mới chép là "làm sách Ngự chế Quỳnh uyển cửu ca vào năm ất Mão (1495).

Đấy, Hội Tao đàn thời Lê Thánh Tông, theo chúng tôi chỉ đơn giản là như vậy. Họ hoàn toàn không phải là một hội như Hội nhà văn ngày nay, một hội nghề nghiệp có tới hàng trăm người, chia thành nhiều hội đồng chuyên môn, định kỳ có đại hội bầu ra ban chấp hành để lãnh đạo, v.v. Nhưng dù sao, nếu nói về lịch sử Hội nhà văn ở Việt Nam, thì chắc chắn người ta cũng phải tính từ "Tao đàn Nhị thập bát tú" dưới triều Lê Thánh Tông này. Bởi lẽ, dù đơn giản, nhưng nó vẫn là biểu tượng, là tượng trưng cho một Hội Tao đàn, một thi xã, tiền thân của một Hội nhà văn ngày nay.

3.Về vấn đề hội viên Hội Tao đàn

Thoạt nhìn, cứ nghĩ vấn đề này chẳng có gì phức tạp. Vì trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca của Lê Thánh Tông và bài bạt của Đào Cử đều đã nói rõ ràng rằng là "nhà vua đã chọn ra 28 văn thần ứng với 28 ngôi sao" trong "Nhị thập bát tú" để họa thơ rồi. Vậy có gì mà phải bàn số lượng hội viên Tao đàn nữa. Nhưng rắc rối là từ khi trong chính sử chỉ chép đúng có 27 vị văn thần từ Thân Nhân Trung đến Phạm Đạo Phú (11) và ở một số sách khác nữa như Thoái thực ký văn, Kiến văn tiểu lục ... đưa thêm một vài người nữa thì cách nhìn về số lượng hội viên Hội Tao đàn ở một số nhà nghiên cứu đã có cách nhìn khác nhau.

a- Giáo sư Bùi Văn Nguyên trong Hồng Đức quốc âm thi tập, 1962, ở bài giới thiệu về số hội viên Tao đàn, ông cho rằng Hội gồm 28 người kể cả Tao đàn nguyên suý Lê Thánh Tông (chúng tôi nhấn mạnh), và căn cứ theo Thoái thực ký văn đưa ra hai người nữa là Lương Thế Vinh và Thái Thuận, tổng cộng là 30 người.

b- Nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm cũng căn cứ vào Toàn thư Cương mục đã nêu ra 28 vị hội viên Hội Tao đàn từ Thân nhân Trung tới Chu Huyên (tức Chu Huân), trong đó không kể vị Tao đàn nguyên suý Lê Thánh Tông (12). Nhưng liền sau đó ông cho biết thêm : "Những sách khác còn nhiều chỗ chép thêm các vị sau này, có lẽ các vị này được bổ sung các vị quá cố hay là phụ thêm : Lương Thế Vinh, Phạm Phúc Chiêu, Lê Tuấn Ngạn, Nguyễn Trực " (13).

Như vậy Hội Tao đàn tổng cộng gồm 32 người.

c- Giáo sư Bùi Duy Tân, trong Từ điển văn học(14), cũng nói tương tự rằng : 28 hội viên Tao đàn theo chính sử là từ Thân Nhân Trung tới Chu Huân. Ông còn nói thêm: "Có sách chép thêm: Nguyễn Trực, Lương Thế Vinh, Lê Tuấn Ngạn, Ngô Sĩ Liên, Phạm Phúc Chiêu, Thái Thuận".Ông giải thích về hiện tượng này như sau : "Tổng số người tham gia Tao đàn lên tới trên ba chục, như vậy có lẽ là do người cử vì lý do gì đó không tham gia nữa, phải thay người mới, hoặc là do người sao chép thêm vào, như trường hợp Nguyễn Trực (1417 - 1473) đã mất trước khi Hội Tao đàn ra đời hơn hai chục năm". ý này cũng coi là giống với ý của cụ Trần Văn Giáp.

d- Nhà nghiên cứu Hán Nôm Lâm Giang trong bài giới thiệu về Hội Tao đàn trong cuốn Hội Tao đàn - tác giả, tác phẩm, ở tr.16 khẳng định rằng : "Cuối năm Giáp Dần niên hiệu Hồng Đức 25 (1494) Hội Tao đàn chính thức thành lập, đứng đầu là Lê Thánh Tông, cùng với 28 hội viên chính thức, thêm hai người là "Sái phu". Cả thảy là 31 người ".

Ngoài ra (dẫn theo Lâm Giang), "sách Lịch sử văn học Việt Nam (TK X - XVIII) còn nêu lên một danh sách 33 hội viên. Trong đó có 27 hội viên giống như Toàn thư và còn nêu thêm : 1. Trần Sùng Dĩnh ; 2. Nguyễn Hoãn, 3. Lê Trực, 4. Lê Tuấn Ngạn, 5. Ngô Sĩ Liên, 6. Phạm Phúc Chiêu"(15).

e- Tiến sĩ sử học Mỹ John K. Whitmore trong bài Hội Tao đàn - thơ ca, vũ trụ và thể chế nhà nước thời Hồng Đức (1470 - 1497) thì viết rằng : "Điều không rõ ràng là con số 28 có bao gồm nhà vua hay không. Những nguồn tài liệu sau này cho là không và đưa thêm một cái tên nữa vào danh sách" (tr.12). Vậy thực tế số hội viên Tao đàn là bao nhiêu và gồm những ai ?

Bây giờ chúng tôi xin trình bày quan điểm của mình.

a- Một là: trong số 28 hội viên Tao đàn thì dứt khoát không được kể Lê Thánh Tông vào trong đó. Vì sao ? Trước hết như trên chúng tôi đã nêu dẫn chứng trong bài tựa của Lê Thánh Tông và bài bạt của Đào Cử, trong đó đều nói rõ ràng là "tập hợp 28 người ứng với 28 ngôi sao". Vậy 28 người đó là không thể kể bản thân mình (tức Lê Thánh Tông ) vào được. Hai là, theo quan điểm thiên văn xưa, các vì sao trên bầu trời đều châu tuần về ngôi sao Tử vi đế tọa, tượng trưng cho nhà vua. Sách Luận ngữ, thiên Vi chính cũng nói rõ : "Làm chính trị bằng đạo đức thì như sao Bắc thần đứng yên ở một chỗ, còn các ngôi sao khác thì chầu về" (Vi chính dĩ đức thí như Bắc thần cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi). Nhất là đối với Lê Thánh Tông, một ông vua đề cao Nho giáo, phân biệt danh phận vua tôi rõ ràng thì không thể đặt ngôi vị đế tinh của mình ngang bằng với 28 ngôi sao của Nhị thập bát tú được. Hơn nữa, ông đã xướng ra 9 bài thơ rồi và sai 28 vị văn thần họa lại, chẳng lẽ bản thân mình lại họa nữa ?

b - Hai là: vậy theo chúng tôi, về lý thuyết cũng như trên thực tế, số lượng hội viên Tao đàn chính thức thời vua Lê Thánh Tông chỉ là con số 28 hội viên, hoàn toàn phù hợp và đúng với con số 28 ngôi sao của Nhị thập bát tú trên bầu trời, hoặc phù hợp với 28 vị công thần đời vua Hán Quang Vũ được treo ảnh biểu dương công lao ở gác Vân Đài mà thôi, không thêm không bớt. Nếu kể cả vị Tao đàn nguyên suý, ngôi sao đế tinh Lê Thánh Tông nữa thì gồm 29 người. Nhưng nếu như thế thì tại sao một số văn bản Hán Nôm lại bổ sung thêm nhiều như vậy. Đó là do, trước hết vì một lý do nào đó, Toàn thư khắc thiếu tên Chu Huân, nên Cương mục sau này cũng theo Toàn thư mà thiếu theo, chỉ có 27 người. Hai là trong suốt thời kỳ vua Lê Thánh Tông trị vì, phong khí vua tôi xướng họa rất thịnh, rất phổ biến, kéo dài suốt cả một thời kỳ 38 năm, do vậy nếu không tinh tế thì rất dễ lầm lẫn giữa tác phẩm và nhân sự của cái "Tao đàn lớn" của cả một thời kỳ dài với rất nhiều tác phẩm xướng họa như : Anh hoa hiếu trị, Châu cơ thắng thưởng, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xuý v.v. cùng với rất nhiều nhà thơ tài hoa nổi tiếng khác.

c - Ba là: một số văn bản Hán Nôm khác vì một lý do riêng chủ quan nào đó, như : địa phương, dòng họ, yêu mến, cảm tình... đã cho thêm ai đó mấy chữ "Tao đàn" hay "nhập Tao đàn" vào cũng chẳng hại gì, mà còn vẻ vang hơn thêm kia, vì cả thời đó thơ phú phần nhiều là xướng họa cả, cho nên nếu căn cứ vào "bàng chứng" là các văn bản Hán Nôm khác nhau, rồi lấy đó để đưa thêm vào danh sách hội viên Tao đàn thì chúng ta sẽ có nguy cơ là còn có thể nhiều hơn nữa, chứ chưa chắc đã chỉ dừng lại ở con số 33 người như hiện nay. Nói ví von để đóng lại thì theo chúng tôi, cái gọi là "Hội Tao đàn nhỏ" Quỳnh uyển cửu ca này chỉ là một cái "trích ngang" của một "Hội Tao đàn lớn" là một phong trào xướng họa rầm rộ sôi nổi của vua tôi Lê Thánh Tông thời đó mà thôi.

Để khẳng định lại kết luận của mình là số hội viên Tao đàn chỉ là 28 người, không kể Lê Thánh Tông là phù hợp với thực tế, chúng tôi không đi tìm căn cứ ở "bàng chứng" nữa, mà đi theo một hướng khác, đó là tìm trong "nội chứng". Nghĩa là thống kê tất cả các dị bản Quỳnh uyển cửu ca hiện có trong kho sách Hán Nôm xem số người họa Quỳnh uyển cửu ca là bao nhiêu, thì thấy một kết quả bất ngờ là tuy ở các dị bản khác nhau, cụ thể là 5 dị bản: Cúc đường bách vịnh (A.1168), Thiên Nam dư hạ (A.334/7), Minh lương cẩm tú (ba bản A.1413, VHv.826, VHv.94). thì thấy số thơ họa của từng người cụ thể có thể thiếu bài này bài nọ, nhưng về số người thì đúng 28 vị. Vậy thì những người nào không thấy có thơ họa Quỳnh uyển cửu ca thì chúng tôi dứt khoát coi người đó không phải là hội viên Hội Tao đàn, mặc dù người đó có thể có thơ họa ở những tập thơ khác, và mặc dù những văn bản Hán Nôm khác cho người đó là "sái phu" hay gì đi nữa. Bởi ta đã rõ một điều là nhà vua chọn 28 văn thần ứng với 28 vì sao trong Nhị thập bát tú vào Hội Tao đàn là để "thay nhau phụng họa" (Canh tương thuộc họa) như chính trong bài tựa của nhà vua đã nói, chứ không phải là vào để "quét dọn" hay làm một việc gì khác ngoài việc họa thơ.

Như vậy sau khi xem xét kỹ số dị bản Quỳnh uyển cửu ca hiện còn trong kho sách Hán Nômvừa kể trên, theo chúng tôi tổng số hội viên Hội Tao đàn, không kể vị Tao đàn nguyên súy Lê Thánh Tông là đúng 28 vị sau đây :

1. Thân Nhân Trung [đỗ khoa thi Quang Thận 10 (1469)]

2. Đỗ Nhuận [đỗ khoa thi Quang Thuận 7 (1466)]

3. Ngô Luân [đỗ khoa thi Hồng Đức 6 (1475)]

4. Ngô Hoán [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

5. Nguyễn Trọng ý (16) [đỗ khoa thi Quang Thuận 10 (1469)]

6. Lưu Hưng Hiếu [đỗ khoa thi Hồng Đức 12 (1481)]

7. Nguyễn Quang Bật [đỗ khoa thi Hồng Đức 15 (1484)]

8. Nguyễn Đức Huấn [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

9. Vũ Dương [đỗ khoa thi Hồng Đức 24 (1493)]

10. Ngô Thầm [đỗ khoa thi Hồng Đức 24 (1493)]

11. Ngô Văn Cảnh [đỗ khoa thi Hồng Đức 12 (1481)]

12. Phạm Trí Khiêm [đỗ khoa thi Hồng Đức 15 (1484)]

13. Lưu Thư Ngạn [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

14. Nguyễn Nhân Bị [đỗ khoa thi Quang Thuận 7 (1466)] và [đỗ khoa thi Hồng Đức 12 (1481)]

15. Nguyễn Tôn Miệt [đỗ khoa thi Hồng Đức 12 (1481)]

16. Nguyễn Bảo Khuê [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

17. Bùi Phổ [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

18. Dương Trực Nguyên [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

19. Nguyễn Hoãn(17) [đỗ khoa thi Hồng Đức 24 (1493)]

20. Phạm Cẩn Trực [đỗ khoa thi Hồng Đức 15 (1484)]

21. Nguyễn ích Tốn [đỗ khoa thi Hồng Đức 15 (1484)]

22. Đỗ Thuần Thông(18) [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

23. Đoàn Trí Nhu(19) [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

24. Lưu Dịch [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

25. Đàm Thận Huy [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

26. Phạm Đạo Phú [đỗ khoa thi Hồng Đức 21 (1490)]

27. Ngô Hoan (20) [đỗ khoa thi Hồng Đức 18 (1487)]

28. Chu Huân [đỗ khoa thi Hồng Đức 24 (1493)]

Ngoài ra, số nhà thơ mà các văn bản Hán Nôm khác có nêu lên, được các nhà nghiên cứu văn học từ trước đến nay coi là (hoặc nghĩ là) hội viên Tao đàn như : Lương Thế Vinh, Thái Thuận, Nguyễn Trực, Phạm Phúc Chiêu, Lê Tuấn Ngạn, Trần Sùng Dĩnh..., theo chúng tôi, đều không phải là hội viên Tao Đàn, vì một lý do đơn giản và duy nhất là họ không được nhà vua sai họa 9 bài thơ trong tập Quỳnh uyển cửu ca, vì thế không bao giờ có thể tìm thấy thơ hoạ Quỳnh uyển cửu ca của họ được. Sự không được nhà vua mời họ họa, nhiều khi do những lý do, hoặc những điều kiện công tác chưa thuận lợi hay thích hợp, chứ không nhất thiết ai không được mời vào Nhị thập bát tú họa thơ là quan hệ của người đó với nhà vua là căng thẳng, là có vấn đề, bởi họ đều là những nhà thơ tài hoa, đều là những bậc đại khoa, và đều được nhà vua trọng dụng ở những mức độ khác nhau.

*
**

Nói tóm lại, phong trào vua tôi xướng họa thơ ca sôi nổi thời vua Lê Thánh Tông là một hiện tượng văn học độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Chính nhờ phong trào này mà đã đẻ ra nhiều áng thơ hay ca ngợi thiên nhiên Việt Nam, con người Việt Nam, ca ngợi công lao ông cha tổ tiên..., bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. Và cũng nhờ chính phong trào xướng họa này mà đã đẻ ra nhóm Nhị thập bát tú họa 9 bài thơ Quỳnh uyển cửu ca của vua Lê Thánh Tông, mà đời sau đã định danh một cách rõ ràng, gọi là "Hội Tao đàn". Hoạt động duy nhất của nó là họa 9 bài thơ Quỳnh uyển cửu ca của Lê Thánh Tông trong bối cảnh hai năm Sửu, Dần (1493, 1494) được mùa, đời sống nhân dân no đủ, nên nhà vua đã phấn khởi sáng tác và sai 28 bề tôi hoạ lại. Đến năm ất Mão, Hồng Đức 26 (1495) sách làm (in) xong, sử quan đem chép vào chính sử thì đó cũng là thời điểm kết thúc họat động của hội. Tổng số hội viên Tao đàn, không kể vua Lê Thánh Tông là Tao đàn nguyên súy ra, thì vừa đúng 28 người, không thêm bớt, không bổ sung, phù hợp với con số 28 ngôi sao trong Nhị thập bát tú.

CHÚ THÍCH

(1),(2). Xem Phan Huy Lê : Lê Thánh Tông trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Đại Việt thế kỷ XV, in trong Núi Bài thơ, lịch sử và danh thắng, Quảng Ninh, 1992, tr.29, 36..

(3). John K. Whitmore - Hội Tao đàn - thơ ca, vũ trụ và thể chế nhà nước thời Hồng Đức (1470 - 1497), bản dịch tiếng Việt của Trần Hải Yến, Tạp chí Văn học số 5 - 1996, tr. 12.

(4). Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb. KHXH. H. 1994, tr.207, 208.

(5)(14). Từ điển Văn học, Hà Nội, 1983. T.1, tr. 320, 321, mục từ "Hội Tao đàn" do Bùi Duy Tân soạn.

(6). Hội Tao đàn - tác giả, tác phẩm, Nxb. KHXH. 1994, tr. 23 - 27.

(7). Xem: Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb. Văn Hóa. Hà Nội, 1962, tr. 12.

(8). Từ điển văn học, Sđd. tr. 320.

(9). Hội Tao đàn- tác giả, tác phẩm, sđd, tr. 8.

(10). Xem: Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Sđd, tr.482, 483.

(11). Xem: Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Hà Nội, 1974, T.3, tr.312, 313.

(12),(13). Xem Trần Văn Giáp - Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Hà Nội, 1972, tr.213-214.

(15). Hội Tao đàn - tác giả, tác phẩm, Sđd, tr.11. Thật ra Nguyễn Hoãn chính là Chu Hoãn mà Toàn thư đã nêu (MXH - BDD).

(16). Tức là Nguyễn Xung Xác đã nêu trong Toàn thư (MXH - BDD).

(17). Tức Chu Hoãn, trong Toàn thư (MXH - BDD).

(18). Tức Đỗ Thần trong Toàn thư (MXH - BDD).

(19). Tức Phạm Nhu Huệ trong Toàn thư (MXH - BDD).

(20). Tức Ngô Quyền trong Toàn thư (MXH - BDD).

TB

NHU CẦU ĐÀO TẠO VÀ YÊU CẦU
CẤP THIẾT VỀ MỘT BỘ GIÁO TRÌNH CAO HỌC HÁN NÔM

TRẦN LÊ SÁNG

Cũng như các nước có nền văn hoá lâu đời trên thế giới, trong một thời gian rất dài, nhân dân ta đã sử dụng một loại văn tự cổ, đó là chữ Hán và chữ Nôm.

Ngày nay, chữ Hán Nôm không còn được dùng nhiều, song loại chữ cổ này vẫn tồn tại trong xã hội chúng ta, tồn tại trong một khối lượng lớn thư tịch và tư liệu Hán Nôm, tồn tại ở đình chùa đền miếu..., tồn tại ở nhiều dạng khác trong đời sống văn hoá dân gian.

Bởi vậy, tìm hiểu di sản Hán Nôm là việc đang được coi trọng. Tìm hiểu di sản Hán Nôm không chỉ dừng lại ở việc khảo cứu một loại văn tự cổ, mà việc tìm hiểu này còn giúp tìm hiểu lịch sử văn hiến dân tộc, bản sắc dân tộc, phát huy tinh hoa, góp phần vào công cuộc xây dựng con người mới trong thời đại mới.

Nhưng để làm tốt việc này, quả thực không phải dễ. Có hai việc lớn phải làm: một là phải sưu tầm, hai là phải nghiên cứu. ở cả hai phương diện này đều cần người có trình độ Hán Nôm.

Một sự thực là, trên dưới vài chục năm nay, nhiều nhà Hán Nôm học lão thành đã lần lượt tạ thế, lớp kế cận cũng đang già yếu dần, lực lượng nghiên cứu Hán Nôm vốn đã mỏng lại thêm mỏng !

Nhưng cũng may, kể từ năm 1972, trường Đại học Tổng hợp, nay là trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, bắt đầu chiêu sinh chuyên ngành Hán Nôm, mỗi năm chiêu sinh khoảng vài chục sinh viên, học trong bốn năm rưỡi. Tính đến nay, đúng ra đã có hơn một trăm Cử nhân chuyên ngành Hán Nôm ra làm việc. Nhưng cũng phải thấy rằng, có một thời gian, “Ông Nghè ông Cống cũng nằm co”, sinh viên học Hán Nôm có hiện tượng rơi rụng, Cử nhân Hán Nôm cũng có vị bung ra khỏi ngành để đi làm một nghề khác có thu nhập cao hơn. Song nghiêm túc mà nói, đa số người có trình độ khá, giỏi đều không bỏ nghiệp Hán Nôm. Những năm gần đây, trong số lớp trẻ còn theo đuổi công việc nghiên cứu Hán Nôm này có người còn cố gắng học thêm, bảo vệ thành công học vị Phó tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm. Nhưng yêu cầu đối với Hán Nôm luôn luôn là “học nhi thời tập chi”, học phải đem điều học được vận dụng vào công tác, mà đây lại là việc đầy gian khó. Hơn nữa, trong lớp trẻ biết Hán Nôm hiện nay, số đông vẫn ở trình độ tốt nghiệp đại học, việc đào tạo sau đại học cho chuyên ngành Hán Nôm đương là một nhu cầu khách quan.

Thực hiện Nghị định 90 / CP của Thủ tướng Chính phủ quy định về “Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; đồng thời, thực hiện cụ thể Qui chế đào tạo và bồi dưỡng sau đại học, ban hành theo Quyết định số 647 / GD và ĐT ngày 14 tháng 2 năm 1996 với nội dung: “Đào tạo và bồi dưỡng sau đại học giành cho những người đã tốt nghiệp đại học với mục đích trang bị những kiến thức và nâng cao kỹ năng thực hành, nhằm hình thành đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội của đất nước”. Tháng 4 năm 1996, theo Quyết định số 544 / GD - ĐT ngày 8 tháng 2 năm 1996 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, lớp Cao học Hán Nôm khoá I, gồm 17 học viên, đã được chính thức khai giảng tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây là lớp Cao học Hán Nôm đầu tiên trong phạm vi toàn quốc được tổ chức theo đúng quy chế Nhà nước ban hành.

Qua thực tiễn giảng dạy và học tập gần một năm của lớp Cao học Hán Nôm khoá I của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tôi muốn nói vài suy nghĩ của riêng mình về yêu cầu cấp thiết của một bộ giáo trình cao học Hán Nôm.

Nhìn ra xung quanh, tức nhìn việc đào tạo cao học (Thạc sĩ) ở một số nước; nhìn vào việc đào tạo cao học ở lĩnh vực khoa học tự nhiên; lại nhìn gần hơn, tức nhìn việc đào tạo cao học ở các chuyên ngành hơi gần hoặc rất gần nhưng không phải Hán Nôm, ta thấy: đã là cao học thì có những điểm chung : chung về tiêu chuẩn đối tượng được đào tạo, chung về một số thuận lợi, khó khăn... Nhưng quả thực, việc đào tạo cao học chuyên ngành Hán Nôm, trước mắt đang còn gặp nhiều khó khăn.

Hán Nôm học là một trong những ngành khoa học vừa có tính chuyên ngành vừa có tính tổng hợp. Chuyên ngành là Hán Nôm, tổng hợp là loại văn tự này trước đây ở nước ta đã được sử dụng cho mọi ngành, không có tri thức liên ngành, dù chữ nghĩa khá, đôi khi vẫn không đọc thông một văn bản cổ. Chuyên gia Hán Nôm đòi hỏi phải uyên bác những vấn đề có tính chất lý luận về cổ văn tự học, lại phải thành thạo Hán Nôm; thành thạo tức không chỉ đọc giỏi, viết tốt chữ Hán, chữ Nôm, mà còn yêu cầu sử dụng được loại văn tự này như người xưa đã sử dụng. Đó là yêu cầu rất cao. Đào tạo Cao học Hán Nôm chỉ là bước đầu tiên đào tạo những Cử nhân Hán Nôm trở thành những chuyên gia Hán Nôm học. Song đây đã là việc khó, phải cân nhắc ngay từ bước đầu, “như lý bạc băng”, tức phải cẩn trọng như đi trên băng mỏng vậy.

Theo quy chế đào tạo và bồi dưỡng sau đại học ban hành theo Quyết định số 647/GD-ĐT mà ở trên chúng tôi đã nhắc đến, thì: “Cấp đào tạo Thạc sĩ (còn gọi là Cao học) trang bị cho người học một trình độ học vấn vững vàng thuần thục nghề nghiệp, có khả năng giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn trong lĩnh vực chuyên sâu của mình. Người theo học cấp này gọi là học viên cao học".

Muốn trang bị học vấn để có khả năng như vậy, bản thân học viên cao học Hán Nôm phải cố gắng rất nhiều, giáo vụ cũng phải khổ công. Trong thực tế, muốn có trò giỏi, phải mời thầy giỏi. Theo chỗ chúng tôi biết, hiện nay chưa có một cơ sở Hán Nôm nào có đủ giáo sư cho một lớp cao học, vì vậy, muốn đủ giáo sư lên lớp phải đi mời từ nhiều nơi. Việc mời đã khó, việc yêu cầu giáo sư giảng đúng giáo trình lại càng khó. Bởi cho đến nay, chúng ta chưa có một bộ giáo trình dành cho trình độ cao học Hán Nôm.

Yêu cầu một khoá học cao học Hán Nôm, trong thời gian hai năm học, ngoài việc bảo đảm từ 80 đến 100 đơn vị học trình theo quy chế chung dành cho cao học, học viên Hán Nôm còn cần thêm thời gian để đi điền dã, thực hành, đọc thêm tài liệu về các ngành khoa học khác, có như vậy mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ theo yêu cầu của Quy chế đào tạo. Học viên muốn chủ động hơn về thời gian, có giáo trình trong tay trước khi lên lớp nghe giảng là rất tốt.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm trước khi tổ chức lớp cao học Hán Nôm, từ khá lâu đã tiến hành soạn thảo chương trình cao học Hán Nôm; chương trình này đã được chuẩn y của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chương trình cao học Hán Nôm do Viện Nghiên cứu Hán Nôm soạn, định rõ các học phần, các tiết học trên lớp cùng thời gian viết Luận án tốt nghiệp của học viên. Trong văn bản ghi rõ : “Chương trình cao học chuyên ngành Hán Nôm nhằm đào tạo những người có trình độ học vấn vững vàng, đồng thời có một kỹ năng tinh thông, thích ứng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra và có thể học lên để đạt học vị cao hơn”(1) .

Chương trình coi trọng tính hệ thống, tính lý luận. Về nội dung, chương trình này định rõ các môn cơ bản, các môn phụ trợ, các văn bản Hán Nôm cơ bản, phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và tổng hợp v.v... đều được sắp xếp có tầng thứ, có lô gích chặt chẽ. Qua gần một năm thực hiện, chúng tôi thấy chương trình này trên cơ bản là phù hợp với việc đào tạo trình độ cao học Hán Nôm. Điều chúng tôi muốn nói thêm ở đây là, các giáo sư lên lớp được mời theo chương trình giảng dạy, song về giáo trình, các giáo sư vẫn phải tự soạn. Điều này khiến các giáo sư mất nhiều thời gian, mà các giáo trình lại khó đồng bộ.

Bởi những điều ở trên đã nói, chúng tôi nghĩ, việc biên soạn một bộ giáo trình cao học Hán Nôm, phải được coi là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

CHÚ THÍCH

(1). Viện Nghiên cứu Hán Nôm : Đăng ký nhận nhiệm vụ đào tạo cao học chuyên ngành Hán Nôm; 10-8-1994; gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo.

TB

CHỮ TỤC THỂ

PHÁC CAN

Chữ Hán phát triển đến Khải thư, Hành thư trở đi, thì hình chữ đã được cố định hóa, những biến đổi về sau chủ yếu là thay đổi kết cấu. Sự thay đổi này biểu hiện thành sự phân hoá và sự hội nhập về hình chữ. Để ghi cùng một từ hoặc ngữ tố, các trước tác khác nhau ở những thời đại khác nhau có thể dùng những chữ khác nhau. Nắm được những chữ khác nhau về hình thể có ích rất nhiều cho việc đọc thư tịch cổ. Muốn vậy, phải tìm hiểu để nắm được một số quy luật phân hoá và hội nhập hình chữ.

Với bài viết này, chúng tôi muốn nói về chữ tục thể.

Thuật ngữ “chữ tục thể” chỉ những hình thể chữ Hán viết tay trong dân gian không hợp với cách viết trong các tự thư, tự điển.

Chữ Hán phát triển đến Triện văn, trải qua chỉnh lý toàn diện, cấu tạo chữ về cơ bản đã cố định; từ Triện văn sang Lệ thư rồi sang Khải thư, hình thái của các thiên bàng(1) lại được xác định thêm một bước. Đến đây thì cách viết đã có chuẩn mực. Chữ viết hợp chuẩn mực gọi là chữ đúng (chính tự 正 字) hoặc chữ chính thể (chính thể tự 正 体 字). (Chữ viết không hợp chuẩn mực gọi là chữ tục (tục tự 俗 体) hoặc chữ tục thể (tục thể tự 俗 体 字). Nếu đem so sánh với chữ chính thể, thì chữ tục thể có đặc điểm là sự khác biệt về hình chữ có thể quy thành 3 loại:

1. Thay đổi nét.

2. Thay đổi thiên bàng

3. Đặt ra chữ khác.

Có thể thấy rõ những đặc điểm ấy qua Bảng so sánh chữ chính thể tục thể dưới đây.

Loại hình Thay đổi nét Thay đổi thiên bàng Đặt ra chữ khác
Ví dụ
Chính thể/
tục thể
亻备

Do chỗ có rất nhiều chữ tục thể tỏ ra ưu việt hơn chữ chính thể vì ít nét hơn, sử dụng tiện lợi hơn, cho nên được lưu truyền liên tục hàng ngàn năm nay, trong đó có những chữ đã chính thức được coi là chữ giản thể để thay cho chữ phồn thể sẵn có. Ví dụ:

變 / 变 寶 /宝 醫 / 医 聲 /声 體 / 体

亂 / 乱 辭 / 辞 單 /单 燈 / 灯 敵 / 敌

顧 / 顾 獻 / 浝 墳 /坟 驢 /琷 遷 / 迁

僅 / 仅 進 / 进 /茧 膠 / 胶 驚 /惊

積 / 积 龜 / 龟 龍 /龙 礦 / 矿 漢 / 汉

鐂 /鸡 vân vân

Ngày nay những chữ giản thể đã trở thành chữ chuẩn được pháp định bằng văn bản của Nhà nước (CHND Trung Hoa) nên đã từ tục thể chuyển hoá thành chính thể. Có thể thấy rằng trong một bộ phận chữ tục thể trước đây, có những yếu tố khoa học, hợp lý mà ta không nên khinh thị và phủ định hoàn toàn, coi tất cả chữ tục thể là “mách qué”.

Đương nhiên, lại cũng phải nhìn thấy rằng trong các chữ tục thể, có rất nhiều chữ là không khoa học, thậm chí là chữ viết sai, do nhiều nguyên nhân: hoặc là chịu ảnh hưởng của “thảo thư” giảm bớt nét và nhập những thiên bàng gần giống nhau làm một, hoặc do tri thức văn tự chưa được phổ cập, hoặc do chưa thấm nhuần ý nghĩa của chuẩn hoá văn tự. Thí dụ:

功/ 私/ 步/ 慕/ /狄

敵/ 祭/ 宦/ vân vân

Các chữ tục thể này thậm chí được đưa vào Can lộc tự thư(2) của Nhan Nguyên Tôn đời Đường, cho thấy chúng được lưu truyền khá rộng rãi thời bấy giờ. Nhưng dù xét về kết cấu, hay về ứng dụng thì chúng đều không hợp lý, không nên phổ biến rộng ra. Có thể thấy rằng trong vấn đề chữ tục thể, nhà nước CHND Trung Hoa thông qua Uỷ ban Cải cách văn tự toàn quốc (nay là Uỷ ban công tác ngôn ngữ văn tự toàn quốc) đã thể hiện một quan điểm khoa học là khẳng định những nhân tố hợp lý trong đó để phổ biến phát huy, nâng lên tầm chuẩn mực chính thống, đồng thời gạt bỏ, đào thải những nhân tố bất hợp lý, tuỳ tiện phi khoa học làm hỗn loạn hệ thống văn tự Hán.

Thời Lục triều(3), chữ tục thể đã được khắc cả vào bia, đến thời Tuỳ Đường càng nhiều, thậm chí ảnh hưởng đến cả các nhà thư pháp danh tiếng. Trong các tác phẩm thư pháp của Âu Dương Tuân và Nhan Chân Khanh đời Đường, người ta đã thấy có nhiều chữ tục thể. Bảng dưới đây liệt kê những chữ tục thể trong Cửu Thành cung Lễ tuyền minh 九 成 宮 體 泉 銘 của Âu Dương Tuân và Đa Bảo tháp bi 多 寶 塔 碑 của Nhan Chân Khanh.

Cửu Thành cung Lễ tuyền minh Đa Bảo tháp bi
流 / 房 / 沼 / 师 / 师
景 / 凉 / 明 / 京 / 就 /
避 / 徐 / 塗 / 阳 / 陽 场 / 場
往 / 步 / 损 / 经 / 脫 /
垂 / /
经 / 徐 / 珍 /
悅 / 谦 /

Việc phát minh và ứng dụng rộng rãi cách in chữ đã tạo điều kiện hết sức thận lợi cho việc chuẩn hoá chữ Hán: một mặt nhờ việc ấn hành hoàng loạt tự thư, tự điển có vai trò chuẩn mực có thể tra cứu được; mặt khác qua khâu biên tập và khắc chữ nếu được các danh sĩ có uy tín học thuật điều khiển, người ta ngăn chặn được những chữ không hợp chuẩn, nhất là những chữ viết sai, viết lẫn nên các ấn phẩm in ra có ảnh hưởng tốt đến thói quen viết chữ của mọi người. Nhưng muốn làm tốt việc này cần có sự quan tâm thích đáng và nỗ lực không ngừng của các tổ chức, các cơ quan chức năng của nhà nước, để cho nghề in không góp sức phổ biến các chữ tục thể phi lý, nhân rộng những chữ viết sai, viết lẫn, viết tùy tiện. Nhà ngôn ngữ học Lý Vinh trong Vấn đề văn tự đã dành một chương Ngũ chủng vãn Minh khắc bản tiểu thuyết dụng tự thích lệ để khảo sát và giải thích những chữ tục thể có khá nhiều trong các tiểu thuyết khắc in cuối đời Minh, trong đó ông đã liệt kê các chữ:

個 /箇 達 /達 回/ / 壁 / 拽/

却 / 管 / 柰 / 奈 叫 / 單 / 单

賴 / 蹲/躀 輩 / 采 / 口采 亮 / 喨

叵/ 塞 /扌塞 着 /火着 朵 /耳朵 診/ 胗

Rất rõ ràng là những chữ này không hề có tác dụng phân hóa chữ đồng âm hay chữ đa nghĩa, cho nên ngoài 2 chữ 奈 và 单 ra, còn đều không lưu hành được. Tình hình sử dụng bừa bãi các chữ tục thể còn kéo dài mãi cho đến thời cận đại. Vì thế, đọc các sách báo thông thường xuất bản mấy chục năm trước đây, vẫn thấy chữ Hán được sử dụng khá hỗn loạn, trong đó một nguyên nhân chủ yếu là dùng chữ tục thể một cách bừa bãi.

Do tình hình chữ tục thể khá phức tạp, nhận thức của người ta đối nó lại rất khác nhau cho nên có các tự điển và từ điển không thu thập chúng, có cuốn chỉ thu thập một phần. Thu thập tương đối nhiều chữ tục thể, ngoài Long khám thủ kính, Quảng vận, Tập vận, Khang Hy tự điển, Trung Hoa đại tự điển ra, còn có Can Lộc tự thư của Nhan Nguyên Tôn và San mậu bổ khuyết Thiết vận của Vương Nhân Húc và Tống Nguyên dĩ lai tục tự phả của Lưu Phục và Lí Gia Thụy thời cận đại. Có điều là trong những sách đó, do sự khác nhau về tiêu chuẩn của những thời đại khác nhau, do trình độ tác giả khác nhau, cho nên giải thích chữ chính thể tục thể của họ không hoàn toàn giống nhau, có lúc thậm chí trái ngược nhau, lật ngược cả quan hệ chính - tục.

Qua những thí dụ nêu trên, ta có thể thấy trong các chữ tục thể, có những chữ chính là chữ dị thể, có những chữ là chữ giản thể. Điều đó nói lên rằng có sự giao thoa giữa các khái niệm chữ dị thể, chữ giản thể và chữ tục thể. Nhưng, đó lại là 3 khái niệm khác nhau, với nội hàm và ngoại diên không giống nhau. Chữ tục thể là những hình chữ viết tay trong dân gian không phù hợp với tự thư, đó là khái niệm độc lập với chữ chính thể. Trong đó có một bộ phận có ích cho việc phân hóa chữ đồng âm hoặc chữ đa nghĩa hoặc có ích cho hình chữ giản hóa, phù hợp với nguyên lý tạo chữ Hán, do đó trải qua thời gian dài ứng dụng cuối cùng đã được xã hội chấp nhận, trở thành chữ chính thể. Những chữ đó với những chữ vốn được coi là chữ chính thể có thể trở thành dị thể của nhau. Nhưng cũng có một số lượng đáng kể các chữ tục thể không hề có tác dụng tích cực đối với chữ giản thể cũng như đối với việc phân hoá chữ đồng âm và chữ đa nghĩa, do đó trước sau không hề được xã hội chấp nhận. Ngoài ra, trong chữ tục thể cũng có không ít trường hợp là chữ sai, không hợp với nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, sự tồn tại của chúng chỉ có tác dụng nhiễu loạn văn tự, tất nhiên cần phải đào thải. Trong chữ tục thể, quả có một số chữ giản thể, song đó chỉ là một bộ phận, còn một bộ phận khác thì còn rườm nét hơn chữ chính thể, có thể nói là chữ phồn hóa, chữ “rườm”, thí dụ như:

土/ 吐 / 馱/ 馬犬 杖 / 洩/

纸/ 含 / 荒/ 忄荒 / 私 /

虫/ 厚 / 迎 / 凶 / 策 /

/ 怪 /忄在

Những chữ này nói cho chặt chẽ phải coi là chữ sai, cho nên chỉ có thể bị đào thải.

CHÚ THÍCH

(1) Thiên bàng: trong hình chữ Hán thường có một số bộ phận tổ thành, như "nhân đứng 亻" trong các chữ vị 位 , trú 住 , kiệm 俭 , đình 停 v.v, "chữ biển 扁" trong các chữ thiên 偏, biển 扁羽 , thiên 篇, biển 匾... "chữ lệnh 令" trong các chữ linh 拎. linh 伶, linh 零, linh 翎..., đều gọi chung là thiên bàng. Trong đó "nhân đứng" là bộ thủ, còn "biển" và "lệnh" không phải là bộ thủ.

(2) Can lộc tự thư: sách do Nhan Huyền Tôn đời Đường soạn, xếp chữ theo 4 thanh, sắp thứ tự các chữ trong đó theo 206 bộ (với Đường vận đại đồng tiểu dị), mỗi chữ chia ra 3 thể tục, thông và chính, rất đầy đủ và rõ ràng, tiện cho việc viết biểu chương... vì thế đặt tênlà "Can Lộc tự thư" (Can Lộc: tìm kiếm chức vị bổng lộc).

(3) Lục triều: sáu triều đại Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, lần lượt đóng đô ở Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay), gọi chung là Lục triều (222 - 589).

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Trung Quốc Bách khoa từ điển - (Phần ngôn ngữ học), Bắc Kinh, 1986.

2. Khâu Đức Tu: Văn tự học tân thám, Nxb. Hợp ký đồ thư, Taipei, 1995.

3. Trung Quốc Hán tự văn hóa đại quan, Hà Cử Doanh, Hồ Song Bảo, Trương Mãnh chủ biên, Nxb. Bắc Kinh Đại học, Bắc Kinh 1995/.

TB

MỘT DẠNG TRUYỀN BẢN
"LAM SƠN THỰC LỤC" MỚI TÌM ĐƯỢC Ở QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

HUỲNH CÔNG BÁ

Vua Lê Thái Tổ soạn Lam Sơn thực lục nhằm trước hết “là để trọng cái nghĩa gốc nguồn”, như lời ngài nói, và sau đó là để kể lại sự nghiệp mở nước gian nan, một dạng “ôn nghèo kể khổ” của vị Lam Sơn Động Chủ, nhằm răn dạy con cháu của ngài ngày sau phải luôn luôn ghi nhớ lấy điều ấy. Qua đó vua nhắc nhở con cháu phải cẩn thận trong việc giữ lấy ngôi trời: “Phải đề phòng mối hỏa hoạn đôi khi do yên vui dẫn tới, phải ngăn ngừa thói kiêu xa đôi khi do nhàn hạ sinh ra”. Nơi phần kết thúc của bản sách, vua viết: “Trẫm nghĩ cuốn Thực lục này sở dĩ được làm ra là đặt nhiều kỳ vọng ở con cháu đời sau vậy”. Có lẽ chính vì cái mục đích này mà Lam Sơn thực lục đã có rất nhiều truyền bản. Hiện nay chúng ta có được 7 truyền bản Lam Sơn thực lục, trong đó có 6 bản chép tay và 1 bản in(1).

Vừa qua, trong quá trình đi sưu tầm tư liệu Hán - Nôm ở Quảng Nam - Đà Nẵng, chúng tôi có phát hiện thêm một truyền bản khác của Lam Sơn thực lục. Truyền bản này được chép ở phần đầu một bản Gia phả tiên tổ cơ đồ của một nhóm con cháu nhà Lê, trên đường trốn lánh sự bức hại của chính quyền họ Mạc đã đi vào lập nghiệp trên đất Quảng Nam. Văn bản gồm 7 tờ (14 trang) chép tay, trên giấy bổi, khổ 26,5 x 15,5 cm. Mỗi trang gồm 8 dòng, mỗi dòng trung bình có 30 chữ. Chữ viết theo lối chân phương. Trang đầu sách có bị hư nát.

Về mặt bố cục, văn bản có bài Lam Sơn thực lục tự đặt ở đầu sách, tiếp đến là phần trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (chép theo lối biên niên), xen giữa là đoạn nói về quê quán, nguồn gốc xuất thân và tính cách của vua. Kết thúc văn bản là đoạn dặn dò nhắc nhở con cháu phải thấy sự nghiệp dựng nước của vua là vô cùng gian nan, từ đó con cháu vua phải hết sức thận trọng giữ gìn ngôi báu do vua để lại.

Tiếp sau văn bản Lam Sơn thực lục là phần Gia phả tiên tổ cơ đồ có nội dung khá dài, chiếm tới 20 tờ (tức 40 trang), chép về lai lịch tổ tiên các đời của ông cha nhà vua, quê quán, lấy vợ, sinh hạ, tử táng v.v... Văn bản trình bày tỉ mỉ thứ lớp các đời cho đến thế hệ con cháu thiên di vào Quảng Nam. Có lẽ đây là một bản sao ngọc phả nhà Lê, ghi chép cả các hoàng hậu, thân vương và công chúa, phân định rõ đích thứ rất cụ thể.

Về mặt nội dung, nhìn chung truyền bản Lam Sơn thực lục mới phát hiện chép các sự kiện có vắn tắt hơn so với các truyền bản Lam Sơn thực lục đã biết trước đây. Riêng bài Tự và đoạn kết có chép đầy đủ hơn. Tuy nhiên cũng có phần nhiều đoạn chép kỹ và chi tiết hơn nữa các bản đã biết, trong đó có những chi tiết không có ở các truyền bản đã công bố. Một số ghi chú về ngày tháng năm ở đây có chú thêm niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh của Trung Quốc. Trong văn bản này không thấy chép bài Bình Ngô đại cáo như ở các bản đã biết. Điều đáng lưu ý là ở câu cuối của Lam Sơn thực lục tự có chép: “Lê triều Thái sử tu soạn biên lục”. Chi tiết này góp phần củng cố thêm cho nhận định rằng Lam Sơn thực lục không hẳn do Lê Lợi tự tay viết ra (dù trong bài Tự có câu “nãi bút vu thư, mục viết Lam Sơn thực lục”), mà có thể là ông chỉ kể, còn việc ghi chép, sắp xếp, đối chiếu các sự kiện và năm tháng là do các sử quan làm, trong đó có vai trò của Nguyễn Trãi.

Tuy nội dung có khái lược hơn các bản Lam Sơn thực lục đã công bố, nhưng đem đối sánh truyền bản Lam Sơn thực lục mới phát hiện với các bản đã biết, chúng ta thấy có thêm nhiều điểm bổ sung. Chẳng hạn Lam Sơn thực lục (bản mới phát hiện) có một đoạn giai thoại khá dài nói về bà ngoại của vua Lê Thái Tổ mà các bản đã biết không có như sau: “Đương thời bà ngoại vua tên là Trịnh Thị Ngọc Thơm, thường ngày làm nghề phụ sản đỡ đẻ cho người, được mọi người nhờ vả. Vào một đêm nọ có vị Sơn quân đột nhập vào nhà bắt bà đem ra ngoài đồng, đặt bà ngồi xuống nơi bìa rừng. Bà cụ nhìn thấy vị hổ cái (vợ đấng sơn quân) đang bị bệnh nặng, nằm ngồi không được. Bà lão thấy vậy lập tức hiểu ra sự tình: vị hổ cái ấy đang bị bệnh khó đẻ. Bà liền đi tìm thuốc và lấy nước cho hổ cái uống, lập tức sổ thai. Cái thai đã bị chết từ lâu. Thấy tình hình như vậy, lão bà lại tìm thuốc cho hổ cái uống, khiến cho tâm thần trở lại yên ổn. Rồi bà lấy nước tắm rửa sạch sẽ cho hổ cái khiến cho thân thể hổ cái, trở lại mạnh khoẻ như xưa. Ông hổ lập tức vái lạy ơn bà. Lúc ấy đêm đã tàn, gà bắt đầu gáy. Lão bà bèn bảo ông hổ đưa trở lại nhà. Ông hổ đi trước, bà lão theo sau. Về đến nhà thì trời vừa sáng. Con cháu thân thích đều đến mừng rỡ. Đến đêm hôm sau, ông cọp mang tặng bà lão chiếc ấn Sơn quân để báo ơn, ông lặng lẽ đặt vật biếu ở cửa lớn. Bà lão đã đeo ấn được 9 năm. Vào giờ Tý ngày mồng 6 tháng 8 năm ất Sửu (1385) vua sinh ra đời tại quê mẹ. Đêm hôm đó ánh sáng toả ra đầy nhà, hương lạ xông ngát khắp cả làng. Người nhà trời xuống trợ giúp việc sinh đẻ, Vua có thiên tư tuấn dị khác thường, thần sắc tươi tốt, mắt sáng, tai to, mình tựa rồng, dáng tựa hổ...”. Đoạn giai thoại này nhằm để “thiêng” hoá và giải thích cho vóc dáng giống hổ của nhà vua. Trong khi các bản Lam Sơn thực lục đã biết trước đây, để giải thích điều này chỉ viết : “Nguyên xưa, hồi vua chưa sinh, dưới khu rừng quế ở thôn Như áng sau, xứ Du Sơn thuộc bản hương thường có con hổ đen thân gần với người, chưa hề làm hại ai. Nhưng từ lúc vua sinh ra vào giờ tý ngày mồng 6 tháng 8 năm ất Sửu thì không còn thấy con hổ nữa, người ta lấy làm lạ. Lúc vua sinh có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi thơm khác lạ đồng xóm. Thuở niên thiếu vua có dáng vẻ tinh anh, cương nghị, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, mày giô; vai bên trái có bảy nốt ruồi; đi tựa rồng, bước tựa hổ...”(1)

Hoặc ở trong bản Lam Sơn thực lục mới phát hiện có đoạn nói về việc vua băng và lễ an táng vua mà các bản Lam Sơn thực lục đã biết không ghi. Đoạn ấy như sau: “Năm Quý Sửu (1433), tháng 8 nhuận ngày 22 vua băng tại điện Chánh Tẩm. Cùng năm, tháng 9 ngày mồng 3, hoả táng vua ở điện Cảnh Phúc. Đến ngày 23 tháng 10, đem tro cốt vua về táng tại Vĩnh Lăng ở Lam Sơn, tên thụy hiệu là Thái Tổ Cao Hoàng Đế. Trong thời kỳ vua kinh dinh thiên hạ, phải đánh dẹp hết sức gian nan, thân bị nhiễm nhiều nước độc nên cơ thể bị phát chứng phù thũng, người to giống như ông Phật Hộ Pháp, do đó phải dùng lối hoả táng để khỏi lưu truyền nghiệp sau”.

Hoặc về quê quán của vua, các bản Lam Sơn thực lục đã biết chỉ chép là ở “thôn Như áng, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoá”(1) và nói vắn tắt là vua “làm phụ đạo ở Khả Lam”(1). Nhưng ở truyền bản Lam Sơn thực lục mới phát hiện chép rất cụ thể như sau: “Vua họ Lê huý là Lợi, người sách Khả Lam, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoá, làm phụ đạo các thôn Lũng My, Sơn Dược, Văn Việt, Tống Tú, Bỉ Ngũ, Nguyễn Xá, Đức Trại, Dao Xá, Thụ Mệnh, Hướng Dương, Như áng thuộc sách Khả Lam. Tại xứ Núi Dầu thuộc thôn Như áng lúc đó có đến hơn một nghìn người dân, chia làm 3 giáp. Giáp Nội ở tại xứ Núi Dầu. Vua ở Giáp Trung thuộc xứ Biển Hồ. Còn Giáp Ngoại ở tại xứ Lộ Điệp” v.v...

Hoặc có khá nhiều chi tiết khác nhau giữa các bản Lam Sơn thực lục đã biết so với bản mới phát hiện như: ở các bản trước đây ghi chiến thắng năm Kỷ Hợi (1419) diễn ra ở bến Bổng * * thì ở bản mới phát hiện ghi là bến Đằng * * . Hoặc các bản trước đây ghi là sách “Da Quan” thì ở bản mới phát hiện ghi là sách “Quan Da” (mà Quan Da có lẽ hợp lý hơn, vì ngoài Quan Da chúng ta còn thấy các địa danh Quan Du, Quan Kinh). Hoặc ở các bản trước ghi là thành Đa Căng, thì ở bản mới phát hiện ghi là bảo Đa Căng (mà “bảo” * có lẽ đúng hơn “thành” * ). Hay ở các bản trước đây ghi rằng ở Chí Linh quân, của Nhà vua bị tuyệt lương 2 tháng, nhưng ở bản mới phát hiện ghi là 3 tháng v.v... Những thông tin khác nhau này là rất cần thiết đối với những người nghiên cứu lịch sử.

Ngoài ra việc nghiên cứu kỹ truyền bản Lam Sơn thực lục mới phát hiện cũng có thể cung cấp cho chúng ta một số gợi ý, suy nghĩ có ích để hiểu về lai lịch cũng như nội dung của Lam Sơn thực lục, đặc biệt về quá trình truyền bản của Lam Sơn thực lục. Theo tôi, có thể xem đây là một dạng truyền bản riêng của Lam Sơn thực lục, thuộc một trong những nhóm con cháu nhà Lê trên đường tỵ nạn chính trị, đã mang theo và họ đã nâng niu giữ gìn qua bao thế kỷ tha hương(2). Cũng từ sự kiện phát hiện văn bản này mở ra cho chúng ta khả năng có thể tìm thêm được những truyền bản khác của Lam Sơn thực lục trong các gia đình con cháu hoàng tộc họ Lê nơi mảnh đất phương Nam, ngoài địa bản gốc là Lam Kinh - Thanh Hoá(3).

Huế, 14-12-1996.

CHÚ THÍCH

(1) Xem : Trùng san Lam Sơn Thực lục - Lê Lợi kể, Nguyễn Trãi ghi, Hồ Sĩ Dương san định ; Trần Nghĩa dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1992.

(2) Qua bài tựa sách Trùng san Lam Sơn Thực lục(1) chúng ta được biết rằng cho đến hồi giữa thế kỷ XVII vẫn còn khá nhiều các bản sao chép tay sách Lam Sơn thực lục của các gia đình.

(3) Gần đây chúng tôi còn phát hiện thêm một bản Lam Sơn Thực lục, cũng ở Quảng Nam - Đà Nẵng, tại một huyện khác, cách khá xa địa điểm đã phát hiện bản trên. Nội dung so với bản này chép giống hệt nhau, chỉ xuất nhập một vài chữ.

TB

MỘT BẢN GIA PHẢ CHÉP BẰNG
CHỮ NÔM

NGUYỄN THỊ TRANG

Gia phả là nguồn tư liệu lịch sử rất có giá trị, từ nhiều năm nay nó đã trở thành một đối tượng nghiên cứu được nhiều người quan tâm. Chất liệu viết gia phả rất phong phú. Có loại viết trên vải lụa, cũng có loại khắc trên bia đá. Có loại viết hoặc khắc trên ván gỗ, cũng có loại viết hoặc khắc trên lá đồng. Song nhiều nhất vẫn là các cuốn gia phả viết trên giấy dó, đóng thành sách. Về hình thức văn tự cũng có nhiều loại, có bản chép bằng chưc Nôm, có bản chép bàng chữ Quốc ngữ, song vẫn nhiều nhất là các bản chép bằng chữ Hán. Nói cách khác, các gia phả chép bằng chữ Quốc ngữ và chữ Hán là tương đối phổ biến, các bản chép bằng chữ Nôm thì rất hiếm. Ngay ở kho sách của thư viện Viện Hán Nôm cũng có đến hàng trăm cuốn gia phả, nhưng gia phả chép bằng chữ Nôm thì chỉ có mấy cuốn.

Song chính sự hiếm hoi đã khiến các bản gia phả chép bằng chữ Nôm được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm kiếm nhiều hơn. Do vậy chúng tôi muốn giới thiệu một bản gia phả chép bằng chữ Nôm trong kho sách Hán Nôm. Đó là bản Sơn Đồng Nguyễn tộc thế phả.

Đây là bản chép tay, kí hiệu VHv.1408, chép về gia thế của Tiến sĩ Nguyễn Viết Thứ ở làng Sơn Đồng, xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Trong bản gia phả này có bản tóm lược viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát, tất cả gồm 122 câu. Văn bản không ghi rõ năm biên soạn, song căn cứ vào ngôn ngữ văn tự và thể thơ lục bát, chúng tôi đoán định bản diễn Nôm tóm lược thể phả họ Nguyễn làng Sơn Đồng này ra đời vào khoảng thế kỉ XVIII.

Toàn văn là:

Vốn ta sinh ở đời sau,
Biết chi đời trước đã lâu mà truyền.
Song le nhớ đức tổ tiên,
Cức bèn thu thập gia truyền một hai.
Vẳng nghe mảng tiếng bên tai,
Có ông Thận Đức nên trai ngõ ngàng.(1)
Lấy bà Từ Thuận một nàng,
Cửi canh tần tảo mỗi đường mỗi hay,
Ông thì Hậu Tắc(2) là tay,
Đêm đêm cuốc nguyệt, ngầy ngầy cày mây.
Lại thêm gốc đức cao xây,
Nền nhân cao đắp non tây sánh vời.
Thiêng thay trên thấu lòng trời.
Hùng bi(3) sớm ứng, trọn đời hòa hai.
Sinh ông Phúc Thọ là trai,
Dâu bà Từ Ý trong ngoài mặc con.
Ông thời hòa mục hương thôn,
Bà thời hiền thảo cháu con vỗ về.
Trai gái một con một nghề,
Gái thời thêu vóc, trai thời văn thơ.
Tông tử(4) sinh ông Phúc Cơ,
Cửa Trình mến đạo, sớm khuya quen nhà.
Bảng thu ngày dự chiếm ba,
Người người đều tiếng khắc gia(5) con lành.
Đã mừng kim bảng quải danh(6)
Lại mừng hoa trúc ngâm bình rạng soi.
Diệu Hạnh từ bà sánh đôi,
Văn Trưng ông ấy nối đời hiệu sinh.
Từ Bảo bà kết duyên lành,
Phúc nhà thêm hậu con sinh nối truyền.
Qui Sơn hai chữ là tên,
Phúc Lệ là hiệu, con hiền nên danh.
Ngõ ngàng dường thể trời sinh,
Nhan Uyên(7) ấy đức, Giả Sinh(8) ấy tài.
Hoá công nào lọ một ai,
Dây hồng bỗng kết một người tiên nhân.
Từ Tú ấy bà tiểu quân,
Khuyên chồng lập chí nên thân làm kỳ.
Từ ấy chẳng dời mỗ ly(9),
Vui thay đèn sách, lánh bề nguyệt hoa.
Thu vầy bỗng mảng(10) mở khoa,
Bốn ngày đều dự chẳng sai một ngày.
Nền văn cao giá từ đây.
Càng lâu càng thịnh, càng ngày càng hơn.
Dãy dãy con phượng cháu loan,
Vẻ hiền vẻ thảo thế gian dễ tày.
Phúc trạch ông ấy liền thay,
Càng cao gốc đức, càng dày nền nhân.
Ra tay mở rộng nguồn ân,
Mặc ai lành dữ chẳng phân tranh hành.
Từ Quang bà cả là tên,
Từ Thục bà bé, hóa lành hòa khôn.
Đêm ngày khuya học Khổng môn,
Thi thư mấy cuổn đọc ôn làm lòng.
Ngõ ngàng một tập một thông,
Ngày ngày học thói Nho phong ý thầy.
Thu Vi(11) đã chiếm bốn ngày,
Quốc Oai dám ví, Sơn Tây khôn bì.
Sơn Nam hiến sát sứ ty,
Gần thì mến đức, xa thì ngóng trông.
Đành hay tạo hóa khéo công,
Cha rồng ắt lại con rồng chằng dưng.
Tuy phúc ông ấy ai bằng,
Thượng tài há ví, đâng hằng khôn so.
Nhà Nho lại sửa nghiệp Nho,
Ví so công nghiệp tiền tu mùi gì.
Tề gia phó mặc hiền phi,
Là bà Từ Quí ông thì lập công.
Hạnh đàn hỏi đạo ba đông.
Khắp xem mọi quyển tạc lòng năm kinh,
Văn trường ai thấy chẳng kinh.
Tăng Tử(12) một mối, Chu Trình(13) nối chân.
Hội lành tự gặp kim xuân,
Vũ môn cao vượt thoát thân nên rồng.
Lập công nay đã nên công,
Tận trung thủ tiết cửu trùng yêu đương.
Dân lành ra vỗ đòi phương.
Quần thần vi đức cam đường nghĩa nhân.
Quan giai lại bước đòi tuần,
Tước năm ở bốn(14), cận thần đảm đương.
Thêm phong quyền Hữu thị lang,
Vẻ cao vẻ lớn hòa sang hoà giàu,
Trắc thất hai bà nối sau.
Ví so liệt truyện nên đầu nữ công.
Ở lành thời gặp chẳng không,
Con sinh dãy dãy rạng thông hay mười.
Trưởng nam tính chịu ở trời,
Có tài có đức trong đời hòa hai.
Bảng thu sớm đã tên bày,
Đã kẻ tôn kính lại người không khen.(15)
Sĩ đồ thoắt thoắt bước lên,
Hoàng hoa(16) nghị đã bước quyền Thị lang.
Vững bằng cột đá miếu đường,
Ngươi Trưng Đường quốc(17), họ Trương Hán triều(18)
Thượng thư Hình bộ càng cao,
Giữa trời Bắc Đẩu ngôi cao rỡ ràng.
Thêm phong Lại thượng(19) quyền sang,
Thêm phong Tử tước danh phương muôn đời.
Lại thêm sau bốn con trai.
Hai người Hương cống, hai người Giải nguyên.
Tuy rằng Tiến sĩ muộn nên,
Song điều chức tước xa miền trần ai.
Em gái nay tuy họ ngoài,
Người cùng ơn phận, cũng người ơn con.
Non mòn họ Nguyễn chẳng mòn,
Còn trời còn đất cháu con hơn người.
Hoà nhà nào một mình ai,
Có tài xuất chúng, có tài khắc gia.
Đời truyền con cháu càng xa,
Công danh càng thịnh, người ta càng nhường.
Rỡ ràng danh để kiêm tương,
Công bày trúc bạch, dao hoàng sánh lâu.
Chẳng hay công đức bởi đâu,
Là chưng đời trước dễ hầu không dưng.
Âu là trên có cao tằng,
Dưới có tổ khảo đức bằng Thái Sơn.
Ta vừa tưởng đến đòi cơn,
Bút hoa muốn chép tổ tiên sử nhà.
Bút ta chép tích nhà ta,
Cứ đời sau trước vậy hòa riêng biên.
Ấy là gia sử để truyền,
Dầu ai xem thấy chê khen mặc lòng.

CHÚ THÍCH

(1) Ngõ ngàng: còn đọc “ngõ ngang”, nghĩa là tài giỏi, có năng lực.

(2) Hậu Tắc: tên một nhân vật trong truyền thuyết cổ của Trung Quốc. Tương truyền ông là người lo việc nông trang đời Nghiêu. Đây ý nói Thận Đức làm nghề nông.

(3) Hùng bi: điềm sinh con trai.

(4) Tông tử: dòng dõi.

(5) Khắc gia: giữ được nếp nhà.

(6) Kim bảng quải danh: đề tên ở bảng vàng, ý nói thi đỗ.

(7) Nhan Uyên: học trò của Khổng Tử, là người học rất giỏi, có đức hạnh, được xếp vào hàng tứ phối thờ ở Văn miếu.

(8) Giả sinh: người đời Hán, là người có tài trí nổi danh một thời.

(9) Mỗ li: một chút, một tí.

(10) Mảng: nghe thấy.

(11) Thu vi: thi Hương.

(12) Tăng, Tư: tức Tăng tử và Tử Tư, học trò của Khổng tử, cũng được xếp ở hàng tứ phối.

(13) Chu, Trình: tức Chu Hy và Trình Di, Trình Hiệu, những ông tổ của Tống Nho.

(14) Tước năm dự bốn: tước năm bậc thì được dự vào bậc 4, nghĩa là được phong đến tước Hầu.

(15) Khong khen: khen ngợi, ca ngợi.

(16) Hoàng hoa: ý nói đi sứ.

(17) Ngươi Trưng: chỉ Ngụy Trưng, một đại thần nổi tiếng về mặt can gián đối với vua Đường.

(18) Họ Trương: chỉ Trương Lương, bậc khai quốc công thần đời Hán.

(19) Lại Thượng: Thượng thư bộ Lại.

TB

THÊM NHỮNG TƯ LIỆU MỚI VỀ QUÁ TRÌNH BIÊN LỤC, TÀNG TRỮ THẦN TÍCH ĐỜI VĨNH HỰU (1735-1740)

NGUYỄN HỮU MÙI

Trong những năm gần đây, mảng thư tịch thần tích được các nhà nghiên cứu quan tâm khai thác từ nhiều góc độ. Nhiều bài viết, nhiều công trình lần lượt công bố và đã phát hiện nhiều vấn đề mới còn tiềm ẩn trong mảng thư tịch này(1).

Gần đây, trong khi rà soát lần cuối cho việc xuất bản bộ Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã(2), Chúng tôi phát hiện thêm một nguồn tư liệu mới nói đến việc sao lục và tàng trữ thần tích vào niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740), đời vua Lê Ý Tông. Vốn là, vào năm 1861, xã Thụy Phú, tổng Thụy Phú, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông tìm lại được hai văn bản thần tích tại xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây. Văn bản thứ nhất có tiêu đề Hùng triều lưỡng vị đại vương ngọc phả lục, gồm 10 tờ (20 trang), ghi Nguyễn Bính soạn vào niên hiệu Hồng Phúc 1(1572); Nguyễn Hiền sao lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu 3 (1737). Nội dung văn bản này viết về hai vị dương thần (nam thần), một vị ở thời Hùng Vương, một vị ở thời Lý. Văn bản thứ hai có tiêu đề Lưỡng vị hoàng hậu ngọc phả lục, gồm 7 tờ (14 trang), cũng ghi Nguyễn Bính soạn vào niên hiệu Hồng Phúc 1 (1572); Nguyễn Hiền sao lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu 3 (1737), nội dung viết về hai vị âm thần (nữ thần): một vị là nguyên phi của Thục An Dương Vương (nàng Phương Dung), một vị là vợ của Trọng Thủy (nàng Mỵ Nương). Trước sự kiện ấy, dân xã viết một Bài tựa, gồm 5 trang chữ Hán, trong đó chứa đựng phần tư liệu nêu trên, hiện có ký hiệu AE a2/97, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Cũng như các tư liệu khác, nguồn tư liệu này do chức sắc địa phương ghi lại, dựa trên lời kể của một người thư sinh ở xã Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây, là cháu sáu đời của Nguyễn Hiền. Giá trị của nó ở chỗ, đây là nguồn tư liệu sớm nhất đề cập trực tiếp đến quá trình sao lục, tàng trữ thần tích ở thời Lê mạt mà hiện chúng tôi mới được biết, dẫu rằng nó là nguồn tư liệu của dã sử. Ở đây, vấn đề không chỉ tái khẳng định Nguyễn Hiền là người có tiểu sử và hành trạng như chúng tôi đã trình bày(3), mà nhờ nó, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác, sẽ làm rõ thêm nhiều vấn đề thuộc mảng tài liệu thần tích. Ta thấy, ở lần biên lục thần tích lớn thứ hai, nhờ có đợt trưng thu thần tích để làm phả lục nên Nguyễn Hiền đã nắm được các văn bản "gốc", tức những bản kê khai của các làng xã. Trong thời gian sao lục chưa kịp phát trả cho dân thì xảy ra những biến động lớn trong nước, ông phụng mệnh mang các văn bản về quê cất giấu để đợi thời. Đợt sơ tán hồ sơ thần tích này của Bộ Lễ từ Kinh đô Thăng Long về xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc là do biến cố chính trị đương thời và có chủ trương của triều đình, chứ không phải do Nguyễn Hiền tự ý mang các văn bản đó về nhà. Còn chiếc "hòm đồng lớn", như các tài liệu khác đề cập đến, chỉ dùng để bảo quản thần tích trong thời gian sơ tán mà thôi.

Vậy bộ hồ sơ thần tích của Bộ Lễ không phải đã mất từ thời hậu Lê như nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, mà nó được bảo lưu theo con đường cất giấu. Tiếp đó, vì nhà Lê suy yếu, Kinh thành Thăng Long luôn gặp biến động lớn, rồi nhà Lê đổ, thời gian dần xa, nó trở thành tài sản của con cháu Nguyễn Hiền, tuy có bị nghĩa quân Nguyễn Danh Phương cướp phá một lần vào những năm từ 1744 đến 1751.

Đến đây, nguồn gốc của những văn bản thần tích tàng trữ tại từ đường Nguyễn Hiền, sau đó chuyển lên lưu trữ tại đền Hùng Vương có rõ thêm: Nó là những bản kê khai thần tích của các làng xã đời Vĩnh Hựu, trong một đợt kiểm kê trên qui mô lớn nhằm hoàn chỉnh hồ sơ bách thần, làm cơ sở cho việc bao phong của nhà Lê. Vì thế, làng xã nào mất thần tích thì sau đó đến xin sao lại là điều bình thường. Có như vậy mới lý giải tại sao kho gia thư thần tích của Nguyễn Hiền tồn tại trong suốt gần một thế kỷ qua.

Như vậy, với ba tiêu chí do chúng tôi xác lập(4), kết hợp với tư liệu mới, có thể thấy toàn bộ số văn bản thần tích đứng tên Nguyễn Bính soạn vào niên hiệu Hồng Phúc (1572) và Nguyễn Hiền sao lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740) đều có chung một xuất xứ tại từ đường xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây. Nói cách khác, ở dạng văn bản ghi Nguyễn Bính soạn, Nguyễn Hiền sao như thần tích của xã Thụy Phú nói đến ở đây, về thực chất là văn bản soạn thảo từ thời Lê, nhưng đến thời Nguyễn, chủ yếu từ đời Tự Đức (1848 - 1883) về sau, nó mới được sao lại để ban phát cho các làng xã, tại ba địa điểm: từ đường xã Bằng Đắng, trụ sở dòng họ ở cửa Nam thành Hà Nội và đền Hùng. Như thế, dù có "xóa" đi một yếu tố về xuất xứ văn bản thì cũng giúp ta nhận diện ra chúng, và coi đây là hệ thống văn bản muộn. Còn nếu chia nó thành hai loại: Loại thần phả đời Lê và loại thần phả xuất hiện thời Tự Đức(5) như sự trình bày của ông Lê Xuân Quang là không chuẩn xác.

Giá trị của nguồn tư liệu mới còn giúp chúng ta hiểu thêm lý lịch các văn bản thần tích mang ký hiệu AE, A, và VHv có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bởi trước đây hầu như chỉ biết đó là những văn bản thần tích của các làng xã người Việt, là bản sao của bản sao trong hồ sơ thần tích của Bộ Lễ thời Lê, với nhiều sai sót, chưa được chỉnh lý khoa học. Song, điều đáng nói, đại bộ phận số văn bản này đều ghi hai tác giả Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền. Rõ ràng trước khi Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp đăng ký, nó đã được tàng trữ tại từ đường Nguyễn Hiền. Do đó, bổ sung vào kho thư tịch của Viện Hán Nôm một tàng thư nữa mà bấy lâu nay chúng ta chưa được biết.

Liên quan đến nguồn tư liệu mới không thể không đề cập đến việc biên soạn thần tích của Nguyễn Bính hiện đang là mối quan tâm của nhiều người. Chúng ta biết, việc biên soạn thần tích vào mùa xuân năm 1572 không thấy chính sử nhắc đến, nhưng chính sử có ghi lại sự kiện tế đàn Nam Giao năm đó bị thất bại(6). Vua Lê Anh Tông xuống chiếu đổi thành niên hiệu Hồng Phúc. Trên thực tế niên hiệu Hồng Phúc chỉ tồn tại chưa đầy một năm, từ tháng Giêng đến tháng 11. Vậy mà tên ông lại xuất hiện trên khắp các văn bản thần tích từ Thanh Hoá trở ra. Đó là chưa kể ông làm quan cho nhà Lê bấy giờ đang đóng đô ở Thanh Hóa ! Nếu có chỉ là những văn bản của các làng xã do nhà Lê kiểm soát ở vùng Thanh Nghệ, chứ không thể biên soạn cho các làng xã ở địa bàn phía Bắc, đặc biệt là vùng xung quanh Kinh đô Thăng Long là nơi nhà Mạc đang chiếm cứ. Tìm lời giải đáp cho hiện tượng ấy, đương nhiên là cả một chuyên đề dài hơi và phức tạp. Theo chúng tôi, ở lần biên lục thần tích thứ hai chính là sự gợi mở vấn đề. Phải chăng do việc đặt ra chức Quản giám bách thần và nhu cầu kiện toàn hồ sơ thần tích dưới dạng ngọc phả mà có chủ trương như vậy? Hay đây chỉ là sự gán ghép của người đời sau?

Trước đây, chúng tôi từng cho rằng bộ hồ sơ thần tích của bộ Lễ đã "thất lạc" và lý giải nguồn gốc văn bản thần tích có tại từ đường Nguyễn Hiền là do "ông sao chép được trong thời gian làm Quản giám bách thần"(7). Nay có thêm tư liệu mới, chúng tôi xin điều chỉnh lại nhận thức của chúng tôi trình bày trong bài viết trước.

Dưới đây, xin dịch toàn văn nội dung bài tựa mà trên kia chúng tôi có nói để bạn đọc tham khảo (lược bớt phần phiên âm).

Bài tựa chú giải việc tìm lại ngọc phả lục của
bốn vị tôn thần ở bản ấp

Người xưa nói : Băng không có nước thì không lạnh, củi không có lửa thì không nóng. Dân có thần như mối tương hệ nội thuộc giữa băng với nước, giữa củi với lửa vậy ! Vì vậy, tôn sùng miếu vũ là để phụng thờ thần. Tùy thời tiết để cúng tế, khiến thần tích mất mà tìm lại được, thì việc huyền bí thiên vạn năm sau thực được làm bằng cứ.

Từ triều Hùng Lạc dựng nước, ấp ta có tên Nỗ Vệ, tiếp đó xưng là Thụy Thú, về sau đổi là Thụy Phú. Thần hiệu có bốn vị (hai vị dương thần, hai vị âm thần), miếu vũ có ba nơi thờ. Trải các triều đều có sắc phong cho thần. Khi ấy, sự tích và việc phụng thờ, hoặc phân ra, hoặc hợp lại như thế nào, mắt không nhìn thấy, tai không được nghe. Tương truyền địa thế ấp ta rộng thoáng, phong tục của dân thuần hậu, văn vật phát triển, không ấp nào bì kịp. Trở về sau châu thổ bị sạt lở, nước lụt tràn vào, phong tục của dân ngày dần suy bạc, văn phong thực kém xa so với trước.

Do có hương ước lưu lại cùng văn tế định ra các khoản, xác nhận bốn vị hợp tế, không biết ý kiến ức nén ban đầu [ra sao]. Theo cũ cứ tuần tự giản lược như vậy. Đến nay dân xã vẫn thờ thần theo nghi thức cũ, tuy có người là bậc quân tử đề xuất nhưng cũng còn khuyết, nên không dám nghĩ sai.

Khoảng niên hiệu Hoàng triều Gia long ta (1802 - 1819) thần hiệu của bốn vị, duy vị thứ ba thì chưa thấy phong tặng. Người hiểu biết đều thấy khúc mắc, cùng muốn được sáng tỏ, để xin phong tặng, nhưng thần tích đã mất, chẳng biết dựa vào đâu.

Ngày mồng 4 tháng 8, niên hiệu Tự Đức thứ 14 (1861), thấy một thư sinh, người xã Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây mang thần tích đến báo. Thấy nét chữ mực đen, chỗ đậm, chỗ nhạt, giấy và chỉ khâu đã rách nát, báo rằng khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740) có chiếu thu thập thần tích trong thiên hạ để làm phả lục. Lần ấy, ông Nguyễn Hiền là tổ sáu đời của gia đình người đó giữ chức Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh đảm đương việc soạn tả. Ngay sau đó gặp đại loạn, chưa kịp phát trả cho dân, ông Nguyễn Hiền biết điềm biến đổi thời loạn, phụng mệnh mang các bản thần tích về nhà, xây cất riêng một nơi, lưu lại để đợi. Từ đó, nhân dân thiên hạ phần nhiều phải ly tán, không đến lấy về, khiến thần tích phải mất mát. Lời nói của người thư sinh có lý. Dân xã sửa 10 quan tiền văn giao cho người đó trở về từ đường tạ yết quan Quản giám. Thần tích này dân lĩnh về, đọc hai ba lần mới hiểu căn nguyên. Lại thấy phần sau của phả đều có họ tên của quan Thiếu khanh, quan Học sĩ vâng mệnh soạn tả, cùng triện ký ở hai bản, và xã Nỗ Vệ phụng thờ thực hiển nhiên, không nghi ngờ gì nữa. Lúc đó, có một hai vị ngu lão trình yết trầu cau, yết cáo trước anh linh bốn vị, xin âm dương làm chứng. Quả nhiên thấy một đồng tiền ngửa, một đồng sấp, thực cũng do lý trời và người mà thôi.

Nhân nghĩ thần tích mất mà sau tìm thấy, đã thất tán mà lại trở về, chẳng phải do thái vận quang hồi, phong tục dần dần hưng thịnh, thần minh cảm thấu, ngầm giúp khiến được như thế chăng? Nay phụng mệnh hội các nguồn, chiếu theo sự tích, định ra nghi thức thờ tự, mỗi nơi thờ riêng cho hợp lễ. Vả lại, việc còn ở lý, tích có bằng cứ. Nhân tìm lại thần tích chú giải cho rõ, giữ muôn đời sau truyền nối hương khói không dứt. Bèn sao ngọc phả y như hai bản đính kèm phía sau. Vậy làm bài tựa !

Ngày tiết trung thu niên hiệu Tự Đức 14 (1861).

CHÚ THÍCH

(1). Xin nêu một số công trình tiêu biểu. Các bài báo: Cần chú ý khi sử dụng thần tích ngọc phả của Lê Xuân Quang, Xưa và nay, số 9 (10), XII, 1994; Những khía cạnh văn bản liên quan đến mảng thư tịch thần tích, TCHN, số 1.1995; Quản giám bách thần Nguyễn Hiền, ông là ai ? của Nguyễn Hữu Mùi, TCHN, số 3/1995; Về kho gia thư thần tích của Nguyễn Hiền ở xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, của Nguyễn Hữu Mùi, Thông báo Hán Nôm học năm 1996; Vì sao thần tích lại tàng trữ ở đền Hùng ? của Hoàng Lê, TCHN, số 3, 1995; Thư tịch ngọc phả, thần tích và vấn đề lịch sử thời Hùng Vương của Nguyễn Khắc Xương, Thông báo Hán Nôm học, số 1/1996; Các công trình: Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang, Nxb. Văn hóa Thông tin. H. 1995; Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. KHXH, H. 1996; Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phượng (chủ biên), Nguyễn Thị Trang, Nguyễn Hữu Mùi, Bùi Hoàng Anh, Nxb. KHXH. H, 1996.

(2). Xem ở chú thích 1.

(3). Xem: Quản giám bách thần Nguyễn Hiền, ông là ai ? Tài liệu đã dẫn.

(4). Xem: Về kho gia thư thần tích của Nguyễn Hiền ở xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, mục Nhận diện những văn bản loại này, sđd. tr.217.

(5). Ông Lê Xuân Quang trong bài Cần chú ý khi sử dụng thần tích ngọc phả (Sđd) chia thần tích thành hai loại: Loại thần phả đời Lê, ông có dẫn ra một văn bản "chữ rất nhỏ, có dòng Quản giám bách thần... thừa sao, đóng dấu (dấu hình chữ nhật, cỡ 30x20mm)". Còn Loại thần phả xuất hiện đời Tự Đức thì "Loại này phần nhiều giấy màu son, gáy bả sơn, khuôn khổ 0,16 x 0,25m ". Cả hai loại này đều có ghi Nguyễn Bính soạn, Nguyễn Hiền sao ! Phân như vậy là không đúng.Về những sai lầm khác của ông Lê Xuân Quang xin xem bài phê bình của ông Hoàng Lê : Đúng mà không đúng (trong Thông báo Hán Nôm học năm 1995. Nxb. KHXH. tr.158-164).

(6). "Mùa xuân, tháng giêng, vua tế trời đất ở đàn Nam Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất. Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu thành Hồng Phúc năm thứ 1". (Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH. T.III, tr.96 ).

(7). Xem bài: Về kho gia thư của Nguyễn Hiền ở xã Bằng Đắng huyện Bạch Hạc, Sđd, tr.214-215./.

TB

ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH, MỘT NHÀ NHO
CHÍNH TRỰC VÀ LIÊM KHIẾT

VŨ ĐÌNH NGẠN

Đặng Đức Địch, tên tự là Cửu Tuân, hiệu là Côi Phong sinh ngày 20 tháng 8 năm Bính Tý niên hiệu Gia Long 15 (1816) ở làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định, nay là xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Vốn có tư chất thông minh lại chăm chỉ học tập, nên hồi còn trẻ ông đã nổi tiếng là có tài văn chương lỗi lạc. Xuất thân từ một nhà nho nghèo, ông phải hết sức tiết kiệm để lấy lương đi trọ học xa. Ông theo học cụ Nguyễn Bá Huống là Giáo thụ phủ Thường Tín. Năm 21 tuổi, thân phụ mất, ông cư tang ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy đàn em nhỏ. Năm 26 tuổi ông đỗ Tú tài khoa Tân Sửu (1841). Rồi ông lại theo học Lưu Quỹ, Tiến sĩ làng Nguyệt áng. Khi Lưu Quỹ mất, ông lại theo học Hoàng giáp Phạm Văn Nghị ở làng Tam Đăng (Nam Định cũ). Trước sau ông đỗ Tú tài 5 lần. Khoa Mậu Thân (1848) ông đỗ Cử nhân. Năm 34 tuổi ông đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu (1849). Theo lệ đỗ Phó bảng được bổ làm Tri huyện, nhưng vì nhà nghèo lại tính không ưa xu nịnh, nên mãi năm 38 tuổi ông mới được bổ làm Tri huyện Hàm Yên, rồi Tri phủ An Bình. Năm Bính Thìn làm Đốc học tỉnh Hải Dương rồi thăng chức Giám sát Ngự sử các tỉnh Lạng Sơn, Hưng Hoá, Tuyên Quang. Ông rất thanh liêm thẳng thắn, nên được nhân dân mến phục và ca ngợi. Trong triều đình có nhiều việc không hợp lý, ông dâng sớ điều trần nên bị vua Tự Đức quở trách và phạt bổng một năm. Sau ông được bổ đến Viện Tập hiền, rồi giữ chức Kinh diên, khởi cư trú(2), được giao việc chấm thi trường Nghệ An. Năm Quý Dậu (1873) Pháp đánh chiếm Nam Định, cáo bệnh xin về quê điều trị. Ông ở nhà nuôi mẹ, dạy con em và học trò. Ông còn đem những người thân thuộc đến khai phá cánh ruộng lầy ở bãi bể tổng Hà Cát hơn một nghìn mẫu, đắp đê ngăn nước mặn để cày cấy, lại mở trường dạy học ở làng Trà Lũ (cùng tỉnh), học trò đến học rất đông.

Khi giặc Pháp trả lại thành Nam Định, chức Đốc học tỉnh bị khuyết. Tổng đốc tỉnh ấy xin cử ông làm Đốc học. Sắc chỉ vua đưa ra, ông cố từ không được, phải đi nhận chức, năm ấy ông 59 tuổi. Triều đình cử ông làm Giám khảo trường thi Hà Nội và phân khảo trường thi võ. Năm 60 tuổi ông làm Quốc sử quán Toản tu, Kiểm khắc bộ sách Đại Nam thực lục. Nhân dân tỉnh Bình Định kiện Bố chính là Đinh Nho Quang tham ô. Triều đình đã phái người vào thanh tra, nhưng qua nhiều năm, vẫn chưa phát giác được vụ án. Bấy giờ vua sai ông vào thanh tra. Sau thời gian tìm ra sự thực ông về triều phục mệnh, được vua khen thưởng.

Vua sai ông chấm quyển khoa thi Yêm bác. Khoa thi xong, ông được ban yến và thưởng đồng tiền vàng có 4 chữ "Sử dân phú thọ" (làm cho dân giàu có, sống lâu).

Năm 68 tuổi ông làm Tuần phủ tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Gặp lúc mất mùa đói kém ông dâng sớ xin mở kho cứu giúp người nghèo, được dân mến phục.

Bấy giờ có 400 người Trung Quốc đi tàu thủy sang buôn ở Thái Lan, bị gió bão xiêu bạt vào cửa bể, ông trích tiền gạo trong kho và kêu gọi những Hoa kiều quyên góp để cứu giúp họ và chỉ đường cho họ về nước. Sau đó chính quyền phủ Văn Xương tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) gửi sang 1 bức thư cảm ơn, và 1 bức trướng viết 4 chữ "Huệ chu cùng lữ"(3), một bức thêu bài tựa và bài tụng(4) của 400 nạn nhân Trung Quốc gửi biếu vì cảm ơn sự che chở giúp đỡ của chính quyền tỉnh do ông đứng đầu. Ông dâng tất cả lễ vật vào triều. Vua giao cho Nội các xét. Nội các tâu : bức trướng có bài tựa và bài tụng để ông giữ làm kỷ niệm, còn bức thư cảm ơn của Chính quyền phủ Văn Xương thì lưu ở Nội các giữ.

Năm ất Dậu, niên hiệu Hàm Nghi năm đầu (1885) ông giữ chức Quốc sử quán Phó Tổng tài, kiêm Đô sát viện, Thượng thư bộ Lễ, ông được triều đình cử thay vua Hàm Nghi vào chủ tế Nam giao(5). Năm ấy ông vừa 70 tuổi, dâng sớ xin về hưu. Vua giao cho bộ Lại xét. Bộ Lại tâu : viên ấy có tuổi xin hưu theo lệ là phải, nhưng nay đương lúc nhà nước có nhiều việc, chính khanh(6) thiếu người, xin lưu lại làm việc; Khi việc thư sẽ về hưu. Nhân việc này ông có làm một bài thơ thuật hoài.

Khi Kinh thành Huế bị thất thủ, ông theo xe vua Hàm Nghi nhưng đến Phú ốc, gấp rút đưa xe vua đi nhanh, ông theo không kịp. Đầu năm sau (1886), ông xin về hưu. Bè bạn trong triều có nhiều thơ văn tiễn biệt.

Về hưu, ông sống cuộc đời thanh bạch; tuy đỗ cao, làm quan to nhưng ông vẫn tiết kiệm, giản dị, mặc áo nâu sồng, vui cảnh ruộng vườn, dạy bảo con cháu và học trò. Ông mất ngày 4 tháng 8 năm Bính Thân (1896) thọ 81 tuổi. Dưới đây, xin trích giới thiệu 3 bài thơ của ông.

Thơ thuật hoài của Đặng Đức Địch khi ở Quốc sử quán

Du ngoạn hà niên thủy hữu kim (câm)
Thất tuần tương chí mộ quang âm.
Quan phương dục tiến, tu hoàng phát,
Kim diệc cầu doanh, khủng hắc tâm!
Duy nguyện tử chu di điếm quả,
Hoàn tương thanh bạch dị mưu thâm.
Quy lai thiên nhược tích nan lão,
Nguyệt lãng, phong hòa, túc vịnh ngâm.

Dịch thơ :

Năm nào việc nước có ngày nay,
Tuổi bảy mươi gần bóng ngả tây.
Quan nhớn lại e đầu bạc vậy,
Vàng nhiều, những sợ ruột đen thay(7)!
Tía son mong trước không nhơ vết(8),
Trong trắng dành sau mới được hay(9).
Về lão ơn trời còn để sót,
Trăng trong gió mát túi thơ đầy.

Xin về hưu, chưa được, cảm nghĩ làm thơ

Thiếu tráng tòng công lịch kỷ thu,
Kim nhi lão hĩ chính nghi hưu.
Đồ cơ anh chủ long tri ngộ,
Phụ chính nguyên thần trọng miễn lưu.
Quyến mẫu vị năng tầm lạc xứ,
Miếu đường do thị hệ tâm ưu.
Miến hoài tiền cổ tương hà đạo,
Thời chỉ, thời hành, khá tự do.

Dịch thơ :

Theo đuổi việc công trải mấy thu,
Nay đà tuổi lão, lẽ nên hưu.
Báo đền thánh chúa ơn tri ngộ,
Khỏi phụ triều đình muốn giữ lưu.
Vườn ruộng chưa về vui ẩn dật,
Miếu đường nên vẫn phải chăm lo.
Cốt sao đạo nghĩa mong tròn vẹn,
Dù nghỉ, dù làm, vẫn tự do.

Thơ lưu giản khi về hưu

Cơ tam thập tải tắc triều ban
Giới thất tuần linh mấn phát ban
Sách mã vị năng thiên lý viễn
Huyền xa hạnh toại bách niên nhàn
Chu tài để ngạn ưng từ hải,
Điểu tức quy sào diệc tại san
Tổ trướng đô môn lâm biệt hậu,
Ngự Bình vân sắc mộng thường quan

Dịch thơ :

Quan Kinh đã trải mấy năm chầy,
Tuổi bấy mươi hơn, tóc bạc đầy.
Ruổi ngựa đường xa e sức yếu,
Treo xe(10) cảnh lão thực duyên may.
Thuyền vừa tới bến xa khơi đó,
Chim dẫu về rừng, ở núi đây.
Tiệc rượu đưa chân ngoài cửa khuyết,
Hồn quanh núi Ngự mấy vừng mây.

CHÚ THÍCH

(1). Những tư liệu viết trong bài này đều lấy trong cuốn "Lễ bộ Thượng thư trí sĩ Đặng Hầu hành trạng" do Đặng Đức Đạo (con của Đặng Đức Địch) chép dịch từ bản chữ Hán do bút tích của tác giả.

(2). Chức coi việc giảng dạy trong Kinh đô.

(3). Huệ chu cùng lữ : ân huệ ban khắp cho những người đất khách cùng khổ.

(4). Bài tựa và bài tụng có ghi chép trong cuốn Lễ bộ Thượng thư Đăng Hầu hành trạng.

(5). Nam Giao : ba năm một lần triều đình tổ chức tế trời đất rất long trọng. Vua đứng chủ tế. Nếu vua có tang thì cử vị đại thần có đức vọng vào tế thay.

(6)Chính khanh: quan to đứng đầu các Bộ.

(7). Tục ngữ có câu : "Hoàng kim hắc tế tâm = vàng làm đen lòng người."

(8). Ý nói : mong rằng làm quan không để tiếng xấu, mắc vết nhơ.

(9). Ý nói : mong được trong trắng, đó là nguyện vọng sâu xa.

(10). Treo xe : ý nói về hưu.

TB

VÂN NANG TIỂU SỬ

NGUYỄN KIM OANH

LTS. Vân nang tiểu sử là một tập truyện ngắn viết bằng chữ Hán, do Phạm Đình Dục biên soạn.

Phạm Đình Dục còn có tên là Phạm Đình Lập, tự Mộng Phủng, cùng các biệt hiệu như Loát Trúc Đạo Nhân, Hoa Thành Đạo Sĩ, Vân Sử Thị v.v..., nguyên quán làng Đan Loan, huyện Đường An, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Về sau, có lẽ từ đời ông nội hoặc đời bố đã dời nhà đến định cư ở Nam Định và nơi đây trở thành quê hương thứ hai của Phạm Đình Dục.

Năm sinh, năm mất của ông hiện vẫn chưa rõ, chỉ biết được một số các mốc đáng chú ý trong đời ông do chính Vân nang tiểu sử cung cấp như : năm Giáp Dần (1854) đời Tự Đức, ông đang còn thơ ấu, cư ngụ tại ngoại ô thành phố Nam Định (Truyện Giặc châu chấu); năm Bính Tí (1876) triều Tự Đức, ông thi đỗ Tú tài. Sau vì nhà nghèo, không thể tiếp tục theo đòi khoa cử, ông ra xin việc để kiếm sống (Vân nang tiểu sử tự tự ). Một số nguồn tư liệu khác còn cho biết từ cuối đời Tự Đức đến đời Thành Thái, Phạm Đình Dục từng giữ chức Huấn đạo các huyện Chân Định, Thư Trì trên 15 năm, và làm Quyền Tri huyện Tiền Hải trong một thời gian ngắn. Địa bàn hoạt động của ông chủ yếu là đất Thái Bình. Năm 1899, ông bị cách chức, về ở nhà người anh em họ, được ít lâu thì mất.

Về trước tác, Phạm Đình Dục còn để lại 3 tác phẩm chính : Loát Trúc thi thảo, Bách chiến trang đài và Vân nang tiểu sử.

Vân nang tiểu sử được ông biên soạn theo sự gợi ý và khích lệ của Nguyễn Thượng Hiền. Sách được viết trong một thời gian dài, ít ra là 10 năm, từ 1886 đến 1896. Cả thảy có 103 truyện, chia thành 5 quyển. Các truyện trong Vân nang tiểu sử phần lớn được ghi rõ xuất xứ để tỏ ra “nói có sách, mách có chứng”, nhưng thực tế, chúng vẫn mang tính “ngụ ngôn” “huyền thoại” nhiều hơn là “hiện thực”. Chính tác giả cũng thừa nhận điều đó khi ông viết : “Ta sáng tác truyện huyền thoại đã hơn mười năm trời” (Vân nang tiểu sử tự tự). Cuối mỗi truyện thường có mục bình luận của “Vân Sử Thị”, không ngoài mục đích nêu lên bài học “khuyến trừng” rút ra từ câu chuyện vốn hư hư thực thực.

Nhìn chung, đây là một tác phẩm văn học hay. Tạp chí Hán Nôm trân trọng giới thiệu 8 truyện do Nguyễn Kim Oanh trích dịch từ Vân nang tiểu sử, bản mang ký hiệu A.872, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, để bạn đọc tham khảo.

1. Cây ngải trăm ngày
(Bách nhật ngải)

(Ghi lại lời kể của Thượng thư họ Nguyễn người Liên Bạt)

Phương Nam có giống cỏ thiêng là là “ngải” mà thực ra không phải là cây ngải. Người thiểu số trong Nam có phép thuật, họ cầm lá cây niệm thần chú liền trăm ngày thì hoá thành cây ngải thiêng. Thổ dân ở đấy ngậm ngải đi vào rừng thì thú dữ phải tránh xa, mắt lại có thể nhìn xuyên vào lòng đất, thấy được chỗ nào có trầm kỳ. Nhưng nếu quá một trăm ngày không về kịp, ngải chui vào họng, mình mẩy tự nhiên mọc lông, sinh đuôi mà hoá thành thú.

Dưới chân núi Hoành Sơn có một người nọ ngậm ngải đi vào rừng, luôn ba tháng không thấy tin tức gì, mọi người đều đoán chắc là chết rồi. Bỗng một hôm anh ta trở về, vội bế lấy con. Chị vợ từ ngoài chạy vào, trông thấy anh tay trái vẫn còn mang túi trầm, nhưng thân thể tay chân đã mọc lông, sinh vuốt, quần áo rách nát. Chị ta sợ hãi quát to :

- Hùm beo đùa bỡn, cáo chồn còn không chịu nổi huống chi là người. Móng tay sắc nhọn e giết chết con tôi mất.

Người đó nghe vậy liền đặt con xuống, thong thả đi xuống thềm mài móng xoèn xoẹt vào đá. Chị vợ thừa cơ ôm con trèo lên gác mà hô hoán. Người trong làng đổ đến, ném cả hai loại thịt sống và thịt chín trước mặt anh ta để thử xem là người hay là thú, anh ta ăn cả hai loại thịt. Nhiều người muốn dùng cung tên giết chết. Có người ngăn lại :

- Anh ta còn biết tiếc của, thương con, lại vẫn ăn được thức chín thì là nửa người nửa thú. Là người mà hoá thành thú, thì biết đâu là thú mà không trở lại thành người. Nên chữa chạy cho anh ta chứ đừng giết.

Mọi người nghe lời bèn sấn vào bắt trói, anh ta giãy giụa cào cắn chẳng khác gì loài thú. Họ phải cố hết sức mới bắt được, dùng que dài chọc vào cổ họng anh ta, hồi sau lâu nôn ra ngải. Họ liền cho uống thuốc và ăn thức ăn của người, mãi nửa năm sau mới khỏi; anh ta tên là Nghĩa, nay vẫn còn sống.

Vân Sử Thị nói rằng : Lúc anh kia trở về đến nhà còn là nửa người nửa thú, nhờ chạy chữa mà trở lại thành người, người làng thật là thầy giỏi bạn tốt. Có người hỏi : “Còn kẻ biết tiếc của tiếc con, không có lông có sừng mà hành động rõ ràng là loài thú, thì có nên chữa không ?” Tôi nói “Nên chữa bằng cách đâm dao vào cổ họng”.

2. Quân gian thích loạn
(Tiểu nhân hỉ loạn)

Lúc trẻ, tôi ở dãy nhà ngoài thành Nam. Đang đêm, có tên côn đồ cùng khổ giấu thuốc dẫn hoả bằng chất lưu huỳnh trong vải cũ, gói tròn như quả cầu nhỏ, nhân lúc sơ hở, đem đặt trộm vào mái gianh của nhà nọ. Bị lính tuần bắt được, tra hỏi :

- Mày có hiềm thù với nhà ấy không ?

Y nói :

- Không

Lại hỏi :

- Thế thì người khác có thù với nhà ấy, thuê mày trả thù phải không ?

Y cũng nói :

- Không.

- Thế thì tại sao mày lại đem lửa bỏ vào nhà người ta ?

Y đáp :

- Tôi không có nghề gì sinh sống, đói khổ quá, lại không biết ăn trộm, đêm thanh người vắng, không có cách gì kiếm chác được. Cho nên định vứt đồ dẫn hoả vào nhà người ta, nếu may mà xảy ra hoả hoạn thì thế nào họ cũng vứt bỏ đồ đạc lung tung, tôi sẽ vờ làm người cứu hoả, trà trộn vào trong, thừa cơ ăn trộm để kiếm cách phát tài. Trước đây, trong bọn chúng tôi đã có người chỉ làm thế mà trở nên giàu có, tôi cũng bắt chước anh ấy thôi.

Nghe lời y nói, người ta bèn mở cuộc điều tra, thì quả nhiên có tên lưu manh trước kia cũng nhờ vào việc đốt nhà, đánh cắp được mấy trăm lạng bạc mà trở nên giàu có, ăn ngon mặc đẹp, tôi tớ đầy nhà. Người ta bèn bắt trị tội cả hai.

Than ôi ! Quân tử thích thái bình ghét loạn lạc, kẻ tiểu nhân lại thích loạn lạc ghét thái bình. Vì sao vậy ? Là vì loạn lạch thì danh lợi bất thường, có thể nhờ thủ đoạn gian trá mà giành được.

3. Thần nữ

Đời nhà Lý, ở xã Lạc Thổ, tỉnh Thanh Hoá có ba anh em họ Đỗ, chẳng ngại ngàn dặm du học phương xa, đến ở làng Phương Xá, xứ Phụ Phượng, học với Dương tiên sinh người làng ấy. Anh em sớm chiều chăm lo kinh sử, lại học thêm cả võ nghệ.

Một đêm, đang ngồi học, bỗng thấy một cô gái đẹp ăn bận kiểu trang phục trong cung, đến thư phòng ngồi xuống và nói :

- Các anh đêm vắng ngồi khuya có hiu quạnh lắm không ? Xin cùng nhau bàn luận văn chương. Có lẽ tôi cũng không đến nỗi thua kém người hầu gái của Trịnh Khang Thành(1) xưa.

Anh em họ Đỗ nghi là con cái nhà quan hoặc nhà giàu, bèn tỏ vẻ nghiêm nghị từ chối :

- Đàn bà con gái biết gì Thi Thư ? Vả lại, hiềm nghi phải tránh, làm thế sao được !

Cô gái nói :

- Sao Chức nữ vốn gần sao Văn Xương(2). Đàn bà ngày xưa có người từng vào cung vua Trần giữ chức Học sĩ(3), nhà treo trướng gấm biện hộ cho em(4), ngồi sau bức màn để học trò hỏi(5). Lại như việc gió lay quạt Hán(6), nhật chiếu lầu Tần(7), khúc dẫn Không Hầu(8), bài ca La Hống(9) lời ca tuyệt diệu xưa nay, phần nửa do người khuê các làm ra. Sao dám nói rằng đàn bà không biết Thi Thư. Các anh đừng nghĩ rằng “mặt hoa lòng cỏ”(10) mà mạt sát người cả một đời.

Anh em họ Đỗ thấy cô gái bàn luận quảng bác, nói năng thanh nhã, lấy làm lạ, bèn hỏi :

- Quí nương có lòng hạ cố, chẳng hay muốn dạy bảo điều chi ?

Người con gái hỏi :

- Các anh cố công học tập, nhằm mục đích gì ?

Đáp :

- Trước là muốn cầu công danh phú quý, sau là muốn viết sách làm văn để tiếng đời sau.

Người con gái cười nói :

- Thế thì các anh lầm rồi ! Ba năm mới có một khoa thi, tư cách lại hay bị xét nét, lận đận một chức quan nhỏ chốn phong trần, khó lòng mà đợi sông trong(11) thật đáng làm cho người ta buồn bực. Phương chi ngõ hạnh đường hoa(12) có gì chắc chắn. Xưa Trương Tử nhận sách ở Hoàng Thạch(13) phải đâu vì kế văn chương. Phòng Đỗ nối nghiệp Hà Phân(14) phải đâu vì nghề trước thuật. Hiện nay ven biển đang có giặc, triều đình đang cầu tài. Cơ hội giàu sang này không phải là lúc nam nhi đắc chí hay sao ? Các anh nên nhân dịp này xuất đầu lộ diện, lại không hơn cái nghề mọt sách song huỳnh(15) kia gấp vạn lần hay sao ?

Nói đến đây, cô thong thả từ giã đi ra, xuống đến sân chợt biến đâu mất. Anh em họ Đỗ kinh sợ, bèn nghe theo lời cô, vứt bút nghiên theo việc đao cung, sau nhờ quân công đều được phong quan, bèn dâng tờ biểu xin lấy làng mình làm thái ấp rồi lập đền thờ cô.

Vân Sử Thị nói rằng : Cằm cú đầu hùm vốn không phải là tướng mạo nhờ ngòi bút để làm quan, nhưng nếu không có cô gái chỉ vẽ cho, thì biết đâu con người có cốt cách phong hầu kia lại không than thở trót để kiếp người lầm lỡ ! Chắc cô kia cũng là loại “hồng nhan hiệp cốt” như ẩn Nương, Hồng Phất(16) ngày xưa.

Chú thích :

(1) Trịnh Khang Thành : là nhà văn lớn đời Đông Hán. Các cô hầu nhà ông ta đều thuộc thơ trong Kinh Thi.

(2) Chức nữ là sao tượng trưng cho phụ nữ, Văn Xương là sao tượng trưng cho văn chương.

(3) Sách Nam sử chép : nàng Viên Đại Xá làm học sĩ trong cung nhà Trần.

(4) Tạ Đạo Uẩn đời Tấn, thấy em chồng là Vương Hiếu Chi bình luận với khách sắp đuối lý, nàng bảo thị nữ treo bức trướng gấm ngồi sau trướng biện hộ cho em chồng, khách chịu thua.

(5) Tấn thư chép : bà Tống thị, mẹ Vi Sinh, dạy vài trăm học trò, bà thường ngồi sau màn the, để học trò hỏi nghĩa khó.

(6) Nàng Ban Tiệp dư đời Hán có làm bài thơ Cái quạt nổi tiếng.

(7) Nàng La Phu đời Triệu làm bài ca Mạch thượng tang, trong đó có câu : “Mặt trời mọc góc đông nam chiếu vào lầu Tần ta”

(8) Sách Cổ kim nhạc phủ chép xưa nàng Hoắc Thị thấy người điên nhảy xuống sông tự tử, bèn làm bài Không hầu dẫn.

(9) Sách Cổ kim nhạc phủ chép : nàng Lưu Thái Xuân đời Đường làm bài ca Vọng Phu còn gọi là bài ca La Hống.

(10) Mặt hoa lòng cỏ : thơ đời Thanh có câu “Bồng tâm bất xứng như hoa mạo, kim ốc nan tàng một tự bi” = “Lòng cỏ dại không xứng với dung mạo đẹp như hoa, nhà vàng khó dấu bia không chữ”, ý nói người đẹp mà dốt.

(11) Sông trong : tương truyền sông Hoàng Hà ở Trung Quốc cứ 500 năm thì nước trong một lần, khi ấy sẽ có thánh nhân ra đời, thiên hạ thái bình.

(12) Ngõ hạnh đường hoa : xưa học trò đỗ Tiến sĩ, được vua cho cưỡi ngựa xem hoa.

(13) Trương Lương đời Hán được Hoàng Thạch Công cho sách thần, sau nhờ sách đó giúp Lưu Bang bình định thiên hạ.

(14) Xưa, Vương Thông dạy học ở Hà Phân, Đỗ Như Hối và Phòng Huyền Linh theo học, sau giúp Lý Thế Dân giành được thiên hạ.

(15) Mọt sách song huỳnh : Cổ thi có câu : “Đố thủ thanh biên lão nhất kinh, án đầu khổ tử độc thư huỳnh” = “Con mọt giữ sách chết già ở một quyển kinh, đầu án con đom đóm đọc sách chết khô”, ý nói đèn sách vất vả suốt đời mà không làm nên công trạng gì.

(16) Nhiếp ẩn Nương là một nữ kiếm hiệp đời Đường, từng giúp việc cho Lưu Ngô, Hồng Phất đời Đường bỏ Dương Tố đi theo Lý Tĩnh. Cả hai người đều là gái hào hiệp, có con mắt tinh đời.

4. Mặt sắt
(Thiết giáp)

Khoảng năm Bính Thìn, Đinh Tỵ (1856-1857) vùng Nam Chân bị mất mùa to, người chết đói ngổn ngang đầy đường, nên tục ngữ có câu “Năm Thìn năm Tỵ, chị chẳng nhận em”. Tôi lúc ấy hãy còn nhỏ, một hôm đi chơi với ông nội, gặp một người con trai to béo ngốc nghếch đi rình mò quanh quẩn, chờ những người bán xôi bán cơm có ai sơ hở thì cướp lấy một nắm nhét ngay vào miệng rồi thản nhiên đứng ỳ ra đó. Người bán hàng nắm tay đấm thình thịch vào hai bên má y, xôi rơi khỏi miệng lòng thòng như một chuỗi hạt tiêu, chỗ nuốt vào họng mười phần chỉ được một. Người bán hàng biết là y nuốt mất rồi thì cũng không đánh nữa. Y bèn há mồm ra hớn hở nói :

- Răng tao không gãy, lưỡi cũng vẫn còn, đánh làm gì cho đau tay mày.

Rồi ung dung bước đi, lại rình mò xem ai sơ suất thì diễn lại trò cũ. Mặt trời chưa xế bóng mà anh ta đã năm lần ăn cướp, năm lần bị đánh nhưng mặt mũi vẫn không hề bị thương tổn gì. Ông nội tôi cười nói :

- Thực là mặt sắt.

Trong chợ có người bảo :

- Ông không thấy ư ? Người ta đói khát đầy đường, riêng hắn không đến nỗi gầy gò là nhờ thế mà thôi.

Người trong chợ ai cũng phì cười. Tục ngữ có câu “Chịu đấm ăn xôi” chính là như thế. Vả lại sách thường nói : “Đói mà ăn rau, sắc mặt xanh xao”. Anh ta biết như thế, nên gặp lúc đói kém liền nghĩ ra cách ấy. Tuy bị xơi quả đấm nhiều, lại không thể nuốt trôi tất cả vào bụng, nhưng mười phần nuốt được một thì trăm phần nuốt được mười, làm gì không no ruột. Thế thì chịu đói ăn rau là người dại chăng?

Học trò gái của tác giả là Trương Vân Hoa phụ thêm lời bàn rằng :

"Không cày không gặt, chịu đấm mà ăn, dân đời Vô Hoài(1), tiêu dao tự đắc.

Má mày rắn thật, muôn đấm không sờn, dãi nhổ cũng khô(2), như đồng như sắt.

Ô hô ! Y hi ! Cỏ vi núi tây, cỏ dự núi nam,

Không có má ấy, thì sao khỏi đói !"

Chú thích :

(1). Vô Hoài Thị: là tên một triều đại tưởng tượng của Trung Quốc cổ đại, tương truyền người đời ấy chỉ việc rong chơi ca hát, không phải khó nhọc lo nghĩ gì cả.

(2). Tô Vị Đạo đời Đường bảo với em mình rằng: “Người ta nhổ dãi lên mặt mình, không chùi cũng khô”

5. Thầy thuốc thầy bói bỡn nhau
(Y bốc giao hí)

Trước đây ở tỉnh Đông có anh Giáp nọ làm nghề thầy bói, bói toán không linh ứng; lại có anh Ất nọ làm nghề bốc thuốc, thuốc thang cũng không hiệu nghiệm. Hai người nhà ở gần nhau, đều là cửa ngõ rêu phong, chả ma nào hỏi đến. Một hôm, anh Bính nọ ở thôn bên cạnh có ông bố ốm nặng, chạy chữa cùng đường, anh ta lo sợ đến bói ở nhà Giáp. Giáp gieo quẻ xong nói :

- Bệnh nguy hiểm lắm, nhưng cũng chưa ngại gì, có điều phải tìm cho được ông thầy thuốc nào mà rương thuốc có nhện chăng lưới thì mới chữa được.

Bính ra cửa nghĩ ngợi mãi lời nói của Giáp, bèn đến mời ất chữa bệnh. ất thấy có người đến mời, như thể “mở cờ trong bụng", vểnh râu tỏ vẻ đắc ý nói:

- Ta đây cố nhiên là đủ tài trị con ma bệnh, nhưng ta giấu danh đã lâu, ai hở môi cho anh biết mà đến thử tài “Thanh nang”(1) của ta ?

Bính nói :

- Cha tôi sắp nguy, thuốc thang cùng đường, phải đi xem bói, thầy bói nói như thế, như thế. Tôi nghĩ mãi chỉ có thầy là đúng như thế, cho nên mới tới mời, mong rằng thầy không ngại phiền.

Ất biết là lão thầy bói bỡn mình, nghĩ thầm mưu kế để trả miếng, bèn im lặng đi theo Bính, đến nơi bắt mạch hỏi bệnh xong đưa thuốc cho Bính mà nói :

- Thuốc này phải sắc nước ruồi làm thang, nhưng phải bắt cho được ruồi ở mép thầy bói mới có hiệu nghiệm.

Bính nghe lời, bụng nghĩ ra một mẹo, bèn đưa bánh mật đến biếu thầy bói, vờ nói là thầy bói có linh nghiệm nên đem bánh tạ ơn. Giáp nhận bánh, Bính co tay đứng một bên, chờ lão thầy bói ăn bánh. Quả nhiên ruồi ngửi thấy mùi mật đua nhau đậu vào mép anh ta. Bính vung tay tát mạnh vào mép Giáp một cái, vớ được mấy chú ruồi. Giáp vừa đau vừa kinh ngạc, bèn kêu ầm lên. Bính dịu dàng xin lỗi và nói :

- Tôi vì cha ốm, cấp bách quá can tội đường đột, nghe nói thầy đây cũng là người có lòng cứu nhân độ thế, xin hãy bớt giận.

Rồi anh ta thuật lại đầu đuôi câu chuyện lão thầy thuốc chỉ vẽ, cách bắt ruồi làm thang tống thuốc vân vân. Giáp nghe nói rất giận trò chơi ác ấy, bèn buông rèm xếp đồ nghề lại, giấu một cái thước nhựa ngắn vào trong áo, rồi đi thẳng đến nhà thầy thuốc. Tới nơi Giáp vờ nói cười niềm nở :

- Bác lâu nay ra sao rồi ?

Ất nghe thấy vội ra chào, hai bên đang trò chuyện thân mật, bỗng lão thầy bói nắm ngay lấy tóc của lão thầy thuốc, bất thình lình lấy thước ra vụt túi bụi, rồi hai bên níu lấy nhau, ẩu đả cả buổi không chịu thả, chẳng ai dám tới gần, mãi đến khi cả hai đều bị thương gần chết mới thôi.

Ôi ! Phương thuốc cầm tay, Ất cả năm không bốc hốt, nhện mới chăng ở rương. Mở hiệu chợ búa, Ất trọn ngày không nói năng, ruồi mới đậu ở mép. Giả sử khách chê thuật vụng mà Trọng Cảnh cúi đầu(2), người cười tự ty mà Quí Chủ ôm bụng(3) thì làm gì đến nỗi đánh nhau. Tục ngữ có câu: “Cùng phường ăn mày, mắng nhau dày chiếu” cũng là chuyện ấy chăng ? Mỗi khi nghĩ đến, không khỏi cười vỡ bụng.

Chú thích:

(1) Thanh nang : tên đầy đủ là Thanh nang kinh, một cuốn sách thuốc do danh y đời Tam Quốc là Hoa Đà biên soạn.

(2) Trương Trọng Cảnh được xem là bậc thánh trong đông y, một lần có người khách chê ông, ông cúi đầu im lặng.

(3) Sử ký chép: Tư Mã Quí Chủ giỏi nghề bói toán, Giả Nghị nói rằng: “Tiên sinh sao lại tự ty như thế?”, Quí Chủ chỉ ôm bụng cười.

6. Sớ hặc hồ tiên
(Đàn hồ tiên sớ)

Ngày xưa ở núi An Sơn, quận Đông có một Đạo sĩ, tu hành đã hơn bảy chục năm mà diện mạo như người ba mươi tuổi, thật là người có đạo thuật.

Một hôm, ông ta nghe nói ở rừng thông trên núi có hai cụ già râu dài, hình dong kỳ vĩ, đi đứng như khói mây; người bên trái mặc áo xanh, đội mũ trúc; người bên phải mặc áo trắng, thắt đai đen; ăn bận khác hẳn người đời. Đạo sĩ biết họ là người trời, bèn tìm đến lạy chào và xin chỉ giáo. Ông già bên trái cười nói :

- Thôi đi ! Nhà ngươi xin dạy bảo làm cái gì ? Chúng ta đều đã tu hành hàng vạn năm, trải qua hai ba lần “rửa tủy cắt lông”(1). Thế mà trước đây xếp hàng chầu trời, phải đứng sau con yêu hồ. Nhà ngươi có công phu chuyên cần như thế, còn xin dạy bảo làm gì ?

Ông già bên phải nói :

- Con yêu hồ ấy xuất thân hèn kém, tu hành ác nghiệt, chỉ nhờ khéo xiểm nịnh ton hót mà được xếp vào hàng tiên. Bà Vương Mẫu chắc có bệnh tỵ ung(2), nên không ngửi thấy mùi hôi nách của nó.

Đạo sĩ hỏi :

- Nó tu hành ác nghiệt như thế nào ?

Hai ông trả lời :

- Nhà ngươi không xem sách Sưu thần ký(3) à ? Nó đào lấy đầu lâu người chết đi dưới bóng trăng, rung động mà không rơi, đủ thời tiết sẽ hoá thành gái đẹp, rồi hút lấy nguyên dương của người ta để thành đạo lớn. Ngọc Hoàng rất sáng suốt, nhà ngươi hãy làm hộ chúng tôi một tờ sớ, để chúng tôi tâu lên ngài.

Đạo sĩ vốn người văn chương sâu rộng, tài tứ dồi dào, vẫy bút chốc lát làm xong. Tờ sớ đại lược như sau :

Chúng thần là tiên nhân mỗ, mỗ, tâu về việc chỉ trích, đàn hặc, xin lượng trên rủ lòng soi xét.

Nép thấy : Anh vũ không rời khỏi loài chim bay, đười ươi không rời khỏi loài muông chạy, tộc loại không đồng. Do dự(4) không thể đi giày, khỉ vượn không thể đội mũ, dung nghi có khác.

Cho nên : con cọp trong núi không hoá hình người, con rồng dưới sông vẫn mang lốt cá(5).

Bởi vì : người và vật tính vốn khác nhau, đâu có thể cắt kỷ liễu để làm thìa chén; Tiên với phàm đường không chung một, há lại được lột móng sừng để sinh cánh lông.

Cúi thấy : Hồ tiên nọ tư chất không phải linh tuệ, môn địa vốn rất thấp hèn. Không có công luyện thuốc tiên đan, lại mờ chước vào huyền ra tẫn(6). Quật xương khô người chết, dạo dưới nguyệt xênh xang; lượm nguyên khí con trai, đội sao đêm vằng vặc. Đóng bộ tuyên dâm lừa chúng, chuột nọ hữu bì(7); nghiễm nhiên đủ thể nên người, rắn nào vô túc(8). Chưa trừ hôi nách, đã liệt tiên ban. Phong nghi át cả quần tiên, danh sắc xấu cùng thập loại(9).

Thần rất thẹn cùng nó đồng hàng, xin rời cành hoa ở sân Trần chúa(10). Kìa khỏi soi để hoàn hình cũ, nguyền đốt cây gỗ trên mộ Yên vương(11).

Bài thảo xong, đưa trình. Hai ông già gật đầu bỏ vào tay áo, chợt hoá thành đôi hạc bay lượn trên không. Đạo sĩ ngậm ngùi than rằng :

- Biển xanh tràn ngập, trời đất mênh mông, cho nên muốn tìm một nơi chân tu, học nghề xuất thế. Đâu biết chốn tiên cung cũng trắng đen lẫn lộn, chẳng ra gì như vậy ư ?

Sau đó đạo sĩ thường đi nói chuyện phiếm với người đời, cuối cùng, bỏ áo huyền, bận áo đen(12), rồi đi đâu mất không ai biết.

Chú thích:

(1). Rửa tuỷ cắt lông: sách Đông minh ký chép có ông tiên nói với Đông Phương Sóc rằng: “Ta cứ ba ngàn năm rửa tuỷ một lần, hai ngàn năm cắt lông một lần”.

(2). Tỵ ung : bị nhọt trong lỗ mũi.

(3). Sưu thần ký : do Can Bảo đời Tấn biên soạn, chép các chuyện thần tiên ma quỉ.

(4). Do dự : một loài thú hơi giống hươu, có tài leo cây, tính hay nghi ngờ.

(5). Rồng mang lốt cá: sách Thuyết Uyển chép : có con rồng trắng xuống việc dạo chơi, hoá làm cá.

(6). Vào huyền ra tận : Đạo đức kinh của Lão Tử có câu “cốc thần bất tử, thị vị huyền tận”, ở đây dùng với ý nghĩa “huyền diệu”.

(7). Hữu bì : bài Tướng thử trong Kinh Thi có câu : “Tướng thử hữu bì” = "Xem chuột có da”, ý nói người có địa vị cao mà không biết xấu thẹn, chẳng khác gì con chuột.

(8) Sách Quốc sách chép truyện hai người nọ thi vẽ rắn, một người vẽ xong trước lại vẽ thêm chân nên thua cuộc. ý nói người hay vẽ chuyện vô ích.

(9) Đào Hoằng Cảnh đời Lương có bài văn Thập loại gửi Lục Kính Du. Thập loại là: nhà cửa, lò hương, người hầu, đồ đựng rượu... hơi giống nghĩa với chữ “cửu tích”.

(10) Trần Hậu chúa đời Nam Bắc triều có khúc hát Hậu đình hoa, trong đó có câu “Yên cơ kiểm tự hoa hàm lộ” = “Má cô gái giống như đoá hoa ngậm sương”, ở đây mượn để nói ý không muốn ở chung với bọn con gái yêu nghiệt.

(11) Lôi Hoán đời Tấn nói: Con yêu ngàn năm phải lấy cây gỗ ngàn năm đốt lên mà soi sẽ lộ nguyên hình, cho nên đời xưa từng lấy gỗ trên mộ Yên vương đốt đuốc để soi con yêu giả dạng thư sinh, chúng đều lộ hình là hồ tinh.

(12) Áo huyền là màu áo của Đạo sĩ, áo đen là màu áo của nhà sư.

7. Con buôn
(Thị cổ)

Người bà con bên ngoại của tôi ở Nam, trong nhà có con ma rất thiêng, sắp có việc gì xấu hoặc tốt xảy ra, ma đều ứng vào người mà báo trước, dần dà nghiệm lại không điều gì sai. Khi ngồi nói chuyện với khách lạ, ma liền nhận được ra danh sắc, tính tình bụng dạ của người ta, nhất nhất phù hợp. Một hôm ma đang ứng vào người, có tên Tri phủ nọ đột ngột bước vào, hỏi :

- Mày có biết tao là ai không ?

Ma cười, trả lời :

- Biết chứ, ông là con buôn.

Hắn ta hậm hực nói :

- Sao nói mày thiêng, mà bây giờ u mê lầm lẫn như vậy ? Tao cầm bút cắp sách đi học trở thành nhà Nho, làm bài thi đỗ nên người sĩ phu. Trước đây tao từng làm quan, phải đâu là người lạ. Tao chưa hề đầu cơ trục lợi, sao lại nói là con buôn ? Mày thật u mê nhầm lẫn, chứ chả thiêng gì !

Ma nói :

- Chà, chà ! Ta có nói càn đâu, ta đã thấy bậc nho sĩ đời xưa rồi. Họ bồi dưỡng theo lời nói thánh hiền, họ say sưa với phong khí thi thư, xem dung mạo của họ thì hoà nhã nghiêm chính, trông cũng đủ biết. Nghe lời lẽ của họ thì thành thực sâu rộng, xứng đáng để lưu truyền. Công minh sáng suốt do đó mà ra, trung hiếu tiết kiệm nhờ vậy mà có, khoan thai có thừa, vững vàng không ngã. Vả lại yêu vua lo nước, quan tâm đến chuyện đau khổ của dân; khi ra nhẹ như mây, khi ở sạch như đá, không vì được mất mà động lòng; vậy cho nên được thăng chức không mừng, dầu thôi quan không giận; như thế mới thật là nhà Nho. Nay thì cha mẹ dạy con cái, chỉ mũ lọng để động lòng; thầy giáo dạy học trò, đem no ấm để nhử chí. Con thì mai chiều học hành cốt cầu lợi ở phường áo rách, đêm khuya đút lót tất lấy lại ở kẻ nhà gianh. Vừa lên công đường làm việc thì nào bà mối, nào khách nợ, lẫn lộn với quan nha; nào sổ nợ, nào đơn tiền, lung tung bên tả bên hữu. Vì thế, xuyên tạc học thuật, xa lạ nhân dân; một khi nghe quan trên chê bai công việc, tư báo giấy tờ thì liền lo mất vốn, rồi bơ phờ than thở, nghiêng ngả bàng hoàng. Hoặc nhờ tôi tớ lo ngầm, hoặc mượn vợ con gỡ tội. Rốt cuộc hộp đã trả về, châu còn đâu quý(1), quê kệch không còn gì uẩn tạ, phong lưu đành lẫn với phàm dung. Nhà ngươi tuy không đầu cơ trục lợi, nhưng chẳng khác gì ở trên đường chợ búa và có vẻ bán buôn.

Những người ngồi đấy, nghe nói đều ngạc nhiên. Viên Tri phủ cười to, rồi vừa đi ra vừa ngoảnh lại nói :

- Có đấy, có đấy ! Ta mới chỉ là con buôn nhỏ thôi.

Chú thích:

(1) Xưa có người bán hạt châu, đựng trong một cái hộp rất đẹp. Người nước Trịnh mua, trả lại hạt châu chỉ lấy hộp. ý nói đã bị cách chức thì bản thân cũng không còn giá trị nữa.

8. Không cướp hoá cướp
(Bất nhương nhi nhương)

Gần nhà học của tôi có chợ Bổng, họp vào ngày lẻ. ở chợ có hai người hủi xin ăn tên là ất và Bính. Tính họ lười biếng mà ăn uống bậy bạ, vừa xin vừa cướp, cốt sao đầy bị; xâu cá nắm gạo, tham lam không bỏ sót chút nào. Người đi chợ ai cũng tức giận nguyền rủa, ngàn miệng một lời. Có người coi chợ là tên Giáp nọ, to béo khoẻ mạnh, thường đi xa xa theo sau hai người hủi, vờ đui vờ điếc, hình như không nhìn thấy chúng cướp giật và cũng không nghe thấy tiếng chửi rủa tục tĩu. Thế rồi chờ lúc giỏ của bọn ăn xin đã đầy, hắn ta mới đột ngột chạy thẳng tới và quát to.

- Chúng mày chỉ được xin ăn mà thôi, sao lại cướp giật của người ta, để người ta chịu khổ, ai còn vui gì mà đến họp chợ ta nữa.

Dứt lời, bất thình lình hắn ta rút tay thước choảng cả hai đứa, rồi giật lấy giỏ mà đi. Hai người ăn xin ngã lăn ra, vừa khóc vừa nói :

- Tay tôi rã rời, bụng tôi đói khát, bị lại rỗng không, tai đầy tiếng chửi mà chân bại liệt nằm đây.

Người họp chợ phần nhiều cảm ơn Giáp, đều vỗ tay nói :

- Khoái, khoái quá ! Nhưng cũng đáng giận.

Giáp tới gần họ hỏi :

- Giận cái gì ? Giận mắt anh không trông xa, tai anh không thông tỏ, tay anh yếu mà chân anh chậm ấy à ?

Vân Sử Thị nói rằng : Thế gian này không ai dại bằng hai người ăn xin ấy. Nếu họ biết theo đúng đường lối ăn xin thì ai cướp được của họ ? Người đời Thanh làm bài từ vịnh đôi đũa có câu : “Liên quân quặc thủ, mang tống nhập tha nhân khẩu” (Thương người cướp lấy, vội vàng đưa vào miệng người khác). Câu ấy có thể tặng cho hai người ăn xin kia. Tên Giáp nọ sao mà xảo quyệt thế ? Nhờ người ta cướp giật để hưởng thành quả, giành lợi của người khác mà mình lại ở địa vị người làm ơn, trí khôn đủ che mắt người đi chợ, sức vóc đủ cướp giỏ kẻ ăn xin; rốt cuộc mánh lới, tính tình của y, không ai thấy rõ. Tôi mong rằng, các người hào lý nên ra sức dùi mài, để nuôi dưỡng phong tục biết liêm sỉ, đừng để cho người ăn xin thì giật, mà tên Giáp nọ thì cướp(*).

Chú thích :

(*) Trong khi dịch các truyện trên, tôi có tham khảo bản dịch chưa xuất bản của cụ Nguyễn Đức Vân.