TB

TIỂU THUYẾT CHỮ HÁN VIỆT NAM - DANH MỤC VÀ PHÂN LOẠI

TRẦN NGHĨA

I- Quan niệm về tiểu thuyết và danh mục tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

Tiểu thuyết là gì ? ấy là một thể loại văn học lớn mà đặc trưng cơ bản là thông qua việc miêu tả các tình tiết câu chuyện và hoàn cảnh cụ thể để khắc họa tính cách nhân vật, nhằm phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Thế mạnh của tiểu thuyết so với các thể loại văn học khác là ở chỗ bút pháp thường linh hoạt, đa dạng và không bị hạn chế bởi không gian, thời gian.

Nhưng đấy là cách hiểu của chúng ta ngày nay.Còn trước kia, đặc biệt ở cái thuở ban đầu của nó, tiểu thuyết là một cái gì rất khó nắm bắt.Cứ xem danh mục tiểu thuyết do Ban Cố(1) xác lập cách đây 2000 năm thì đủ rõ. Trong thiên Nghệ văn chí sách Hán thư, ông đã đưa vào diện "tiểu thuyết” 15 tác phẩm(2) mà với con mắt phân loại học hiện đại, chúng quá nửa không thuộc lĩnh vực văn học. Để nhận định về 15 tác phẩm này, ông viết: "Dòng tiểu thuyết gia có lẽ xuất từ đám bái quan(3) với những câu chuyện ngồi lê đôi mách nơi đầu đường xó chợ(4). Khổng Tử nói: "Tuy là đạo nhỏ, vẫn có mặt khả quan. Nhưng để vươn tới tầm xa thì e bất cập, nên người quân tử không làm”(5). Dù thế mặc lòng tiểu thuyết vẫn không bị dập tắt. Những người hơi có chút hiểu biết ở thôn dã mỗi khi gặp loại này thường chắp chảnh lại cho thành bài để khỏi quên. Thảng hoặc có lời khả thủ, thì đấy cũng là điều người dân quê từng bàn tán”.

Có thể thấy cái mà Ban Cố gọi là "tiểu thuyết”, chủ yếu bao gồm những câu chuyện vặt vãnh, hàm chứa các đạo lý cỏn con. Vì không biết xếp chúng vào đâu nên ông đã lập ra một mục riêng gọi là "tiểu thuyết gia” để quy tụ chúng và đặt chúng ở cuối phần Chư tử lược(6) trong khung phân loại thư tịch cổ của ông. Nói khác đi,tiểu thuyết không phải là cái được phân loại, mà là vì không phân loại được nên mới thành tiểu thuyết. Trong mục Tiểu thuyết gia Ban Cố đề cập đến nhiều mặt như tác giả của tiểu thuyết, nội dung của tiểu thuyết, giá trị của tiểu thuyết, sức sống của tiểu thuyết, nhưng cái mà chúng ta trông chờ, tức đặc trưng thể loại của tiểu thuyết thì ông lại chưa hề chú ý tới. Và trớ trêu thay, cách nhìn còn nhiều mơ hồ về tiểu thuyết của Ban Cố trên đây lại ảnh hưởng đến sự phát triển và nghiên cứu thể loại văn học này ở nhiều nước phương Đông về sau, ít ra là trong suốt cả thời Cổ đại và Trung đại.

Tình hình ở Việt Nam cũng không khác thế. Đề tựa Nam Ông mộng lục, một trong những tác phẩm mở đầu cho dòng tiểu thuyết chữ Hán nước ta, Hồ Nguyên Trừng viết: "Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mươi nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy”, huống hồ nhân vật cõi Nam Giao từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài ! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy, thành ra những điều đó bị mất cả, không còn ai được nghe, há chẳng tiếc lắm sao ? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai, bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là “Nam Ông mộng lục”, phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là cung cấp những điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng Tiểu thuyết nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò”.

Giống như Ban Cố trước đó 14 thế kỷ, Hồ Nguyên Trừng vẫn chưa ý thức được chỗ khác nhau căn bản giữa tác phẩm của ông với một cuốn sử chẳng hạn: sử ghi chép người thực việc thực, còn Nam Ông mộng lục thì được viết qua trí nhớ trong đó không ít tình tiết câu chuyện được trình bày theo ngòi bút hư cấu nghệ thuật, cũng là một lợi thế mà nhiều tác giả về sau đã chăm chú khai thác. Nghĩa là ông tuy viết tiểu thuyết mà vẫn chưa nhận ra đặc trưng thể loại của nó.

Dẫn ra trường hợp Ban Cố và Hồ Nguyên Trừng, chúng tôi muốn nói lên một thực tế: trước khi đạt tới gương mặt tách bạch như ngày nay, chính tiểu thuyết chứ không phải nhà sáng tác hay nghiên cứu, đã phải mày mò tự vạch cho mình một con đường sống và phát triển bên cạnh các thể loại văn học khác, các ngành học thuật khác. Cuộc hành trình của tiểu thuyết quả không suôn sẻ chút nào, thậm chí có lúc còn đi đường vòng. Vì vậy khi đến với tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết cổ, ta không thể đòi hỏi như đối với tiểu thuyết hiện đại. Huống hồ như có người từng nói: "Tuy cùng gọi là tiểu thuyết cả, nhưng sự khác biệt trong quan niệm về tiểu thuyết xưa nay vốn khác nhau một trời một vực”(7). Hoặc: "Việc nghiên cứu tiểu thuyết, với tư cách một thể loại, vấp phải những khó khăn đặc biệt. Đó là do tính đặc thù của bản thân khách thể này: tiểu thuyết là loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng ta: thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa có thể dự đoán hết được khả năng uyển chuyển của nó”(8).

Trước một thể loại văn học văn học năng động và đầy sức sống như vậy, việc nhận diện tiểu thuyết cổ cũng chỉ có thể là tương đối.

Sau đây là danh mục tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam do chúng tôi xác lập, bao gồm những tác phẩm(9) văn xuôi được soạn thảo bằng Hán ngữ cổ đại, mang đặc trưng thể loại của tiểu thuyết trong những hạn độ khác nhau.

Danh mục tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam
(Xếp theo A, B, C)

TT Tên tác phẩm Tên tác giả Năm biên soạn Số quyển (tập) Đơn truyện Tập truyện
1 Bà tâm huyền kính lục
堏 心 縣 鏡 錄
Trần Tân gia
陳 新 嘉
1897 1 x
2 Cổ quái bốc sư truyện
古 怪 卜 師 傳
Khuyết danh
闕 名
1740 (?) 1 x
3 Công dư tiệp ký
公 餘 捷 記
Vũ Phương Đề
武 芳 提
1755 2 x
4 Dã sử
野 史
Khuyết danh
闕 名
Đầu TK20 3 x
5 Dị nhân lược chí
異 人 略 誌
Phạm Đình Dục ?
范 廷 煜
Cuối TK19 1 x
6 Điểu thám kỳ án
鳥 探 其 案
Trương Văn Chi
張 文 芝
1900 1 x
7 Đào hoa mộng ký
桃 花 夢 記
Nguyễn Đăng Tuyển
阮 登 選
Đầu TK19 8 x
8 Hàn Giang danh tướng liệt truyện
翰 江 名 將 烈 傳
Đinh Gia Nghi
丁 家 宜
1891 1 x
9 Hát Đông thư dị º
喝 東 書 異
Nguyễn Thượng Hiền 阮 尚 賢
1886 1 x
10 Hoa viên kỳ ngộ tập
花 園 奇 遇 集
Khuyết danh
闕 名
Cuối Lê 1 x
11 Hoan Châu ký
驩 州 記
Nguyễn Cảnh Thị
阮 景 氏
1696 1 x
12 Hoàng Lê nhất thống chí
皇 黎 一 統 志
Ngô gia văn phái
吳 家 文 派
Đầu TK19 1 x
13 Hoàng Việt long hưng chí
皇 越 龍 興 志
Ngô Giáp Đậu
吳 甲 豆
1904 Không chia quyển x
14 Lan Trì kiến văn lục
蘭 池 見 聞 錄
Vũ Trinh
武 禎
1794 3 x
15 Lê Quận công biệt truyện
黎 郡 公 別 傳
Bùi Trọng Bích
裴 仲 璧
1920 1 x
16 Lĩnh Nam chích quái liệt truyện
嶺 南 摭 怪 烈 傳
Vũ Quỳnh
武 瓊
1492 2 x
17 Mẫn Hiên thuyết loại
敏 軒 說 類
Cao Bá Quát
高 伯 适
Đầu TK19 1 x
18 Nam Ông mộng lục
南 翁 夢 錄
Hồ Nguyên Trừng
胡 元 澄
1438 1 x
19 Nam Thiên trân dị tập
南 天 珍 異 集
Vũ Xuân Tiên (?)
武 春 仙
1917 1 x
20 Nam triều công nghiệp diễn chí
南 朝 功 業 演 志
Nguyễn Bảng Trung
阮 榜 中
1719 8 x
21 Sơn cư tạp thuật
山 居 雜 述
Khuyết danh
闕 名
Cuối Lê đầu Nguyễn 3 x
22 Tái sinh sự tích
再 生 事 跡
Bùi Quốc Trinh
裴 國 貞
1837 1 x
23 Tang thương ngẫu lục
桑 滄 偶 錄
Phạm Đình Hổ -Nguyễn án
范 廷 琥 - 阮 案
Đầu TK19 2 x
24 Tân truyền kỳ lục
新 傳 奇 錄
Phạm Quý Thích
范 贵 適
Cuối TK18 1 x
25 Thánh Tông di thảo
聖 宗 遺 草
Khuyết danh
闕 名
? - Đầu TK19 2 x
26 Thính văn dị lục
聽 聞 異 錄
Khuyết danh
闕 名
Cuối TK19 1 x
27 Thượng Kinh ký sự
上 京 記 事
Lê Hữu Trác
黎 有 卓
1783 1 x
28 Trùng Quang tâm sử
重 光 心 史
Phan Bội Châu
潘 佩 珠
1921-1935 1 x
29 Truyền kỳ mạn lục
傳 奇 漫 錄
Nguyễn Dữ
阮 嶼
1547 4 x
30 Truyền kỳ tân phả
傳 奇 新 譜
Đoàn Thị Điểm
段 氏 點
Giữa TK18 1 x
31 Truyện ký trích lục
傳 記 摘 錄
Khuyết danh
闕 名
Cuối Lê(?) 1 x
32 Vân Cát thần nữ cổ lục
雲 葛 神 女 古 錄
Khuyết danh
闕 名
Đầu TK 19 1 x
33 Vân nang tiểu sử
雲 囊 小 史
Phạm Đình Dục
范 廷 煜
1886-1896 4 x
34 Việt điện u linh tập
越 甸 幽 靈 集
Lý Tế Xuyên
李 濟 川
1329 1 x
35 Việt Lam xuân thu
越 藍 春 秋
Vũ Xuân Mai (?)
武 春 梅
Cuối TK19 - 1908 3 x
36 Việt Nam kỳ phùng sự lục
越 南 奇 逢 事 錄
Khuyết danh
闕 名
Đầu TK 19 1 x
37 Vũ trung tùy bút
雨 中 隨 筆
Phạm Đình Hổ
范 廷 琥
Đầu TK19 2 x

II - Từ chính sử đến bái quan dã sử và việc phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

Giống với nhiều nước khác trong khu vực, tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam hình thành trong quá trình tự phân biệt mình với chính sử, bất luận tác giả hay nhà nghiên cứu hồi bấy giờ có ý thức được điều đó hay không.

Ngay từ đầu, tiểu thuyết đã được xây dựng không phải trong tinh thần nhất nhất đều lệ thuộc trông chờ vào chính sử, mà là "một bổ sung cho chính sử”, dựa vào kinh nghiệm cá nhân và phần nào hư cấu tự do nảy sinh trên cơ sở kinh nghiệm ấy của người sáng tác. Ta hãy nghe chính một sử gia đồng thời là một nhà soạn thảo tiểu thuyết nói về vấn đề này: "Từ thời Xuân thu, Chiến quốc về trước cách thời cổ chưa xa, phong tục phương Nam còn giản dị, chưa có sử sách để ghi chép, nhiều truyện do đó mất đi. Truyện nào may mà còn được, ấy là nhờ nhân dân truyền khẩu (...). Ngu tôi sau đây xin lần lượt khảo sát và trình bày đầu đuôi các truyện, đồng thời nêu lên ý tưởng của tác giả (...). Còn như việc đính chính, nhuận sắc làm cho câu chuyện hoàn chỉnh, văn vẻ già dặn, chữ dùng tinh xác, ý tứ sâu xa, thì lẽ nào sau này không có những bậc quân tử hiếu cổ sao ?”(10). Một tác giả khác ít lâu sau đó cũng mang ý tưởng trên, nhưng trình bày một cách sát sườn hơn: "Tập bái quan này đâu dám sánh ngang cùng các bộ sách của triều đình. Chẳng qua muốn có một chỗ quy tụ để gửi gắm chút truyện tích cổ kim. Thấy quốc sử có chỗ bỏ sót thì chú thích thêm cho đủ. Nếu tập sách này có gì khác với chính sử (...),hư thực thế nào, phải đợi tra cứu thêm các nguồn tư liệu khác mới có thể tin được” (11).

Vậy tiểu thuyết và sử căn bản không giống nhau ở chỗ nào ? Tiểu thuyết miêu tả sự việc trên cùng một cấp độ giá trị - thời gian với bản thân tác giả và những người cùng thời với tác giả, dù đó là chuyện quá khứ hay tương lai; cái quyết định tiểu thuyết là kinh nghiệm, nhận thức và thực tiễn của người viết, bút pháp của tiểu thuyết là hư cấu nghệ thuật. Còn chính sử thì chỉ có mỗi một con đường và đây là nguyên tắc cao nhất: trung thành với “sử thực” (sự thật lịch sử), điều mà nhà làm sử không thể vượt qua trong bất cứ tình huống nào. Nói theo cách nói của ngưòi xưa, phận sự của sử là “truyền tín”, quý ở “chân”; phận sự của tiểu thuyết là “truyền kỳ”, quý ở “huyễn”. Ngòi bút của sử là “thực lục”, ngòi bút của tiểu thuyết là “hư bút”. Tóm lại, sử là “thực” mà tiểu thuyết là “hư”.

“Hư" của tiểu thuyết hoàn toàn không có nghĩa là muốn nói gì thì nói, muốn viết gì thì viết. Nó vẫn chịu sự chế ước của hiện thực cuộc sống cũng như đạo lý xã hội: ”Nói về chuyện quái mà không tách khỏi chuyện thường, bàn về điều biến mà không mất điều chính”(12). “Hư” ở đây cũng có nghĩa là làm cho cái “thực” trở nên “hư” và làm cho cái “hư” trở nên ”thực”. Bởi lẽ: "Tuy là chuyện hết sức huyễn hoặc hoang đường, không chính đáng, song vẫn có cái chí lý hàm chứa bên trong”, còn hơn là sự việc được trình bày một cách quá ư trần trụi, đến mức gần như cổ hủ, đọc lên nghe" nhàm chán”(13).

Nhờ hư hóa cái thực và thực hóa cái hư mà đối tượng miêu tả của tiểu thuyết trở nên sống động, hư hư, thực thực, "cũng huyền, cũng sử”(14), khêu gợi trí tưởng tượng và mỹ cảm văn học cho độc giả. Người nghiên cứu tiểu thuyết cũng phải nắm “luật chơi” ấy. Không nên dựa vào tiêu chuẩn “thực” hay "không thực” để đánh giá sự thành công hay thất bại của tiểu thuyết.ý nghĩa vấn đề là ở một chỗ khác: ”Như câu chuyện Tử Hư có thể để khuyên cho những người ăn ở trung hậu với thầy, lại có thể làm răn cho những người ăn ở bạc bẽo với thầy, có quan hệ đến luân thường của người ta lớn lắm. Đến như việc lên chơi Thiên Tào có hay không có, hà tất phải gạn gàng đến nơi đến chốn làm gì”(15). Hoặc: "Câu chuyện quỷ Dạ Xoa này thật có hay không, không cần phải biện luận cho lắm (...). Đời những kẻ kết bạn ở chung quanh mâm rượu, gan dạ đảo điên, hễ lâm tới sự lợi hại thì ngơ đi như không biết nhau, nghe chuyện này há chẳng chạnh lòng hổ thẹn?”(16). Hoặc: "Có người bảo: "Các truyện về anh liệt chính khí mà bổ sung thêm vào thì đã đành rồi, đến như lại chép các truyện thần thông chân khí như truyện Đạo Hạnh, Minh Không mà phần lớn có tính chất hoang đường thì là cớ sao vậy ?” Xin thưa: "Cố nhiên là quái đản rồi. Nhưng truyện vốn lưu hành ở đời là như vậy đấy”. Lại thưa: "Chỉ là chép cái điều nghe thấy đấy thôi. Còn nếu như lấy lý mà xét, bỏ cái quái đản, giữ cái hợp lẽ thường thì là việc của người xem, chứ người chép có can dự gì vào đây kia chứ(17). ở tiểu thuyết, cần hiểu cái “thần” mà không câu chấp cái “hình”. Đừng ai đặt vấn đề truy cứu sự việc miêu thuật trong tiểu thuyết là có hay không có.

Một điểm khác biệt đáng chú ý nữa giữa sử và tiểu thuyết: ”sử” dừng lại ở chuyện đời thường, còn tiểu thuyết lại có thể vươn tới những bến bờ xa lạ, những miền bí ẩn mà con người ít hoặc chưa biết. Nói như Kiều Phú: ”Tôi cho rằng chuyện thường được trình bày ở sử kinh để răn dạy hậu thế; chuyện quái được nêu ra ở truyện ký để mở rộng dị văn. Cho nên việc các đời Ngu, Hạ, Thương, Chu được chép vào sách kinh; việc các đời Hán, Tống, Nguyên được ghi rõ ở sách sử. Còn những truyện như Lão nhân du hà (Ông già dạo trên sông), ứng long hoạch địa (Con rồng vạch mặt đất), Cổ minh xã lý (Trống vang trong làng), Tước hàm đan thư (Chim sẻ ngậm sách đỏ) lại được truyện ký ghi chép để bổ sung cho phần đã mất. Đến như các sách Vũ Đế nội truyện đời Hán, Thiên Bảo di sự đời Đường, Triều dã Thiêm tái đời Tống không ngoài mục đích nhặt nhạnh chuyện quái lạ một thời để cho người ta xem, người ta đọc”(18).

Đi vào lĩnh vực "quái”, có nghĩa là tuyên chiến với quan điểm chính thống "bất ngữ quái, lực, loạn, thần”(19) của đạo Nho. Nhiều nhà viết tiểu thuyết cho rằng không hề có một hố sâu ngăn cách giữa “thường” và “quái”. Chẳng qua là “ thiểu sở kiến cố đa sở quái”, chỉ vì ít thấy nên lạ mắt đấy thôi(20). Giữa “quái” và “thường” vốn không phải không có khả năng chuyển hóa. Nếu quen xúc tiếp với cái gọi là “quái” thì “quái” lại trở nên “thường”.

Mặt khác, ta có thể biết ít hoặc nhiều nhưng làm sao biết cho đủ. "Tâm ta suy nghĩ thì vô cùng, mà phạm vi nghe nhìn của tai mắt thì hữu hạn. Bên trong nhiều lớp rèm thì Ly Lâu không thi thố được độ sáng của đôi mắt. Xa ngoài trăm bước thì Sư Khoáng không sử dụng được đôi tai thính của mình. Huống hồ trời đất rộng lớn, cổ kim xa cách, mà ta đem cái bản thân nhỏ nhoi để tiếp xúc thì được là mấy. Nghe những điều nghe được mà không nghe những điều không nghe được, thấy những điều thấy được mà không thấy những điều không thấy được, buồn thay ! ”(21). Hoặc: “Sách nhiều chuyện lạ, nếu tìm dấu vết thì như là nói chuyện quái đản, sao có thể chỉ nhìn bầu trời qua lỗ nhỏ, dùng vỏ trai đong nước biển mà đoán mò rồi bàn chuyện có hay không. Điều này có thể nói với người thông đạt ! ”(22) .Tóm lại, không nên vì "Khổng Tử không bàn tới” mà đâm ra hiểu nhầm: "Khổng Tử không nói đến quái và thần, vì ông ta cho rằng mắt mình không trực tiếp nom thấy, sự hoài nghi do đó nảy sinh. Song thử nghĩ bốn biển chín châu, núi sâu chằm lớn, chuyện thần kỳ quái dị kể sao cho hết được ! Cứ xem Trịnh Bá Hữu hóa quỷ dữ, Tề Hoàn Công nom thấy sơn yêu, Bạch Đầu Ông ăn thịt con trai con gái... không kỳ quái sao ? Hải khách theo chim âu, Linh Uy hóa chim hạc, gió của Liệt Tử, bè của Trương Khiên... không lạ lùng sao ? Nuốt trứng chim huyền điểu rồi sinh ra nhà Thương, giẫm vào vết chân người khổng lồ mà sinh ra nhà Chu, giao hợp với thần nhân mà sinh ra nhà Hán... há lại không thần dị ? Những chuyện ta ghi chép như Hoa quốc kỳ duyên, Ngư gia chí dị... đã nói ắt có kê cứu, không như loại sách Tề Hài. Vậy mà những người thủ cựu cứ cho rằng không lẽ có chuyện như thế, hoặc chuyện như thế quá vô lý, họ chỉ là hạng ếch ngồi đáy giếng, không đáng mang chuyện trời cao đất rộng ra nói năng cùng họ”(23).

Chính những cách hiểu như trên về “thực” và “hư”,“ thường” và “quái” cùng mối quan hệ năng động giữa chúng đã dắt dẫn “bái sử” hay tiểu thuyết cổ từng bước tách rời khỏi chính sử để tự khẳng định vai trò độc lập của mình và trở thành một thể loại văn học thực thụ đầy tiền đồ bên cạnh thơ ca, biền văn... đã có từ trước.

Mặt khác, những cách hiểu như trên còn khả dĩ giúp ta phân biệt các tiểu loại trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Dựa vào tính chất “thực” hay “hư” được coi như bút pháp thể hiện và mức độ “thường” hay “quái” được coi như nội dung phản ánh, ta có thể chia các truyện trong 37 tác phẩm thuộc danh mục tiểu thuyết đã xác lập ra thành mấy loại nhỏ sau đây :

1. Tiểu thuyết bút ký : hay còn gọi là tiểu thuyết “chí nhân”, gồm những mẩu chuyện ngắn, những “ di văn, dật sự” liên quan đến các anh hùng dân tộc, các danh nhân lịch sử, văn hóa được ghi lại chủ yếu không phải bằng “hư bút” mà là bằng “tín bút”. Ngay cả phần mà nay ta thấy là “hư bút” cũng được tác giả hồi đó quan niệm như là “kỷ thực”, “thực lục”, nghĩa là thấy sao ghi vậy, nghe sao chép vậy, không thêm, không bớt.

2. Tiểu thuyết chí quái : gồm những câu chuyện nghịch dị, khác đời về người, vật, thần thánh... được ghi lại bằng “tín bút” theo sự cảm nhận của tác giả, nhưng kỳ thực ở loại này ta thấy “hư bút” vẫn chiếm phần nhiều.

3. Tiểu thuyết truyền kỳ : "truyền kỳ“ hay ”tác ý hiếu kỳ”, có nghĩa là nảy ra ý định viết để thỏa mãn tính tò mò của người đọc. Loại tiểu thuyết này ra đời và phát triển trên cơ sở tiểu thuyết chí quái, nhưng khác với chí quái ở chỗ tác giả truyền kỳ sử dụng “hư bút” một cách hoàn toàn chủ động, có ý thức. Nếu công việc chủ yếu của chí quái là biên chép, nhằm lưu lại cho đời một chuyện lạ có ý nghĩa răn khuyên, thì công việc chủ yếu của truyền kỳ lại là “sáng tác”, mượn câu chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự người cầm bút.

4. Tiểu thuyết lịch sử : cũng gọi là “lịch sử diễn nghĩa”, gồm những tác phẩm viết về đề tài lịch sử, thông qua việc miêu tả nhân vật và sự kiện, tái hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi bổ ích và mỹ cảm văn học. Về phương diện bút pháp, loại tiểu thuyết này một mặt phải dựa vào lịch sử khi miêu tả các nhân vật và sự kiện chủ yếu, nhằm đạt tới sự chân thực lịch sử, nhưng mặt khác vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát huy trí tưởng tượng, làm cho sự chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực nghệ thuật.

5. Tiểu thuyết công án : “công án” nguyên chỉ chiếc bàn mà pháp quan sử dụng khi xét xử các vụ án. ở tiểu thuyết công án, bút pháp có thể là “thực” mà cũng có thể là “hư”, hoặc “hư thực” kết hợp, nội dung phản ánh có thể là “thường” có thể là “quái”, miễn nói lên một sự thật, một lẽ phải nào đó cần được tôn trọng, bảo vệ trước pháp luật, làm cho cái thiện được chiến thắng, cái ác bị ý đẩy lùi.

6. Tiểu thuyết diễm tình : còn gọi là truyện “tài tử giai nhân”, nội dung viết về trai tài gái sắc, bút pháp chủ yếu là hư cấu.

7. Du ký : kể lại những điều tai nghe mắt thấy trong một chuyến đi, cùng những tư tưởng tình cảm nảy sinh của tác giả. Bút pháp sử dụng chủ yếu ở đây là “thực lục”, nhưng vẫn có sự sắp xếp, gia công nghệ thuật trong chừng mực cần thiết.

Đáng chú à trong danh mục tiểu thuyết, có một số tác phẩm trình bày theo kiểu chương hồi. Lại có những tác phẩm thực chất là một tập hợp gồm nhiều truyện (tập truyện), trong đó chủ yếu là truyện cùng loại, nhưng đôi khi cũng chen vào những truyện khác loại. Tình hình cụ thể, xem bảng dưới đây :

Bảng phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

TT Tên tác phẩm T.T Bút ký T.T Chí quái T.T Truyền kỳ Du ký T.T Chương hồi
Lịch sử Công án Diễm tình
1 Bà tâm huyền kính lục *(24)
2 Cổ quái bốc sư truyện *
3 Công dư tiệp ký *
4 Dã sử * *(25) *
5 Dị nhân lược chí *
6 Điểu thám kỳ án *
7 Đào hoa mộng ký *
8 Hàn Giang danh tướng liệt truyện *
9 Hát Đông thư dị *
10 Hoan viên kỳ ngộ tập *
11 Hoan Châu ký *
12 Hoàng Lê nhất thống chí *
13 Hoàng Việt long hưng chí *
14 Lan Trì kiến văn lục * * *
15 Lê quận công biệt truyện *
16 Lĩnh Nam chích quái liệt truyện * *
17 Mẫn Hiên thuyết loại *
18 Nam Ông mộng lục *
19 Nam Thiên trân dị tập * x *
10 Nam triều công nghiệp diễn chí *
21 Sơn cư tạp thuật * x x
22 Tái sinh sự tích *
23 Tang thương ngẫu lục * x x
24 Tân truyền kỳ lục *
25 Thánh Tông di thảo *
26 Thính văn dị lục * * *
27 Thượng Kinh ký sự *
28 Trùng Quang tâm sử *
29 Truyền kỳ mạn lục *
30 Truyền kỳ tân phả *
31 Truyện ký trích lục *
32 Vân Cát thần nữ cổ lục *
33 Vân nang tiểu sử * *
34 Việt điện u linh tập *
35 Việt Lam xuân thu *
36 Việt Nam kỳ phùng sự lục *
37 Vũ trung tùy bút *

Từ sự nhận diện và phân loại trên, ta có thể rút ra mấy nhận xét:

1. Trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, bút ký chiếm số lượng nhiều nhất (14 tác phẩm), rồi đến truyền kỳ (9 tác phẩm) và lịch sử diễn nghĩa (6 tác phẩm). Chiếm số lượng ít nhất là chí quái (3 tác phẩm), rồi đến công án (1 tác phẩm) và du ký (1 tác phẩm). Sở trường của các nhà cầm bút ở đây là bút ký, truyền kỳ và lịch sử diễn nghĩa, chứ không phải chí quái, công án hay du ký.

2. Số tập truyện chứa đựng nhiều loại tiểu thuyết khác nhau tuy có (8 tác phẩm) nhưng không nhiều bằng số tập truyện chỉ chứa thuần một loại tiểu thuyết (11 tác phẩm). Điều này cho thấy phần lớn các tác giả cũng đã cảm nhận được sự khác nhau giữa loại tiểu thuyết này và loại tiểu thuyết kia, nhất là đối với bút ký, chí quái và truyền kỳ là những tiểu loại thường khó phân biệt.

CHÚ THÍCH

(1) Ban Cố (32- 92): một nhà sử học lớn của Trung Quốc, sống vào thời Đông Hán, là tác giả sách Hán thư.

(2) Gồm:

1. “Y Doãn thuyết, 27 thiên. Lời văn đơn giản, nông cạn, giường như viết để ký thác” (Y Doãn là quan đại thần đầu đời nhà Thương - TN).

2. “Dục Tử thuyết, 19 thiên. Sách do đời sau thêm thắt” (Dục Tử tên Hùng, là thuỷ tổ của người Sở, tương truyền ông sống đến 90 tuổi mới hiểu được đạo, làm thầy vua nhà Chu - TN)

3. “Chu khảo, 76 thiên. Khảo cứu các việc đời nhà Chu”.

4. “Thanh Sử Tử, 57 thiên. Sách ghi chép sự việc, do sử quan thời cổ soạn” (Thanh Sử Tử là một sử quan, Thanh Sử là họ kép, không rõ tên - TN)

5. “Sư Khoáng, 6 thiên. Xem sách Xuân thu. Lời văn đơn giản, nông cạn. Nội dung giống sách trên. Dường như nhân sách Xuân thu mà viết để ký thác” (Sư Khoáng là nhạc sư nước Tấn, sống vào thời Xuân thu, sự tích ông nguyên được chép trong sách Lã Thị Xuân thu, chứ không phải sách Xuân thu của Khổng Tử như Ban Cố nói - TN).

6. “Vụ Thành Tử, 11 thiên. gọi “Nghiêu vấn”, không phải tiếng thời cổ”. (Vụ Thành Tử, họ kép là Vụ Thành, tên Phụ hoặc Chiêu, tương truyền là thầy học của vua Nghiêu, tức “Nghiêu vấn” - TN)

7. “Tống Tử, 18 thiên. Tôn Khanh nói: sách Tống Tử mang tư tưởng Hoàng Lão” (Tống Tử, có thuyết nói là Tống Vinh Tử, người nước Tống, một triết gia thời Chiến quốc. Tôn Khanh tức Tuân Huống. Hoàng Lão tức Hoàng Đế và Lão Tử, hai vị tổ của phái Đạo gia - TN)

8. “Thiên ất, 3 thiên. Thiên ất tức vua Thang. Văn không phải của thời Ân. Đều là viết để ký thác”.

9. “Hoàng Đế thuyết, 40 thiên. Phù phiếm hoang đường, viết để ký thác”. (Hoàng Đế họ Cơ, hiệu Hiên Viên Thị và Hữu Hùng Thị, là thủy tổ của các tộc người Trung Quốc và vùng Trung Nguyên - TN)

10. “Phong thiền phương thuyết, 18 thiên. Viết vào thời Hán Vũ Đế” (Phong là tế trời, thiền là tế đất, những lễ lớn do triều đình phong kiến (Tần, Hán) tổ chức tại Thái Sơn - TN)

11. ”Đãi chiếu thần nhiêu tâm thuật, 25 thiên. Viết vào thời Hán Vũ Đế” (Đãi chiếu là tên một chức quan chuyên làm cố vấn về văn học cho nhà vua - TN)

12. “Đãi chiếu thần an thành vị ương thuật, 1 thiên” (Vị ương thuật tương truyền là một cách tiết dục nơi phòng the nhằm dưỡng sinh, bảo thọ, do các Phương sĩ, Đạo sĩ đề xuất - TN).

13. “Thần thọ chu kỷ, 7 thiên. Sách do người chăn ngựa nước Hạng viết vào thời Hán Tuyên Đế”.

14. “Ngu Sơ chu thuyết, 943 thiên. Sách do Ngu Sơ người Hà Nam, sống vào thời Hán Vũ Đế, giữ chức Phương sỹ thị lang, thường gọi là Hoàng xa sứ giả, viết.”

15. “Bách Gia, 139 quyển”. (Sách này do Lưu Hướng biên chép - TN)

Trong số 15 tác phẩm kể trên, nhiều sách nay không còn nữa. Các tác phẩm như Chu Khảo, Thanh Sử Tử, Tống tử, Phong thần phương thuyết, Đãi chiếu thần nhiêu tâm thuật, Đãi chiếu thần an thành vị ương thuật, Bách gia có lẽ nên xếp vào các lĩnh vực sử học, triết học, y học...hơn là văn học.

(3) Bái quan: quan nhỏ. “Bái” nguyên nghĩa là “hạt tấm”, nghĩa bóng là tấm mẳn, nhỏ nhặt được dùng để ví với những câu chuyện vặt vãnh nghe được nơi đầu đường cuối chợ (nhai đàm hạng ngữ, đạo thính đồ thuyết). Vua chúa ngày xưa muốn biết phong tục thôn quê, thường đặt chức bái quan, sai đi sưu tầm các câu chuyện dân dã về tâu lên cho trên biết. “Bái” cũng được hiểu là những câu chuyện riêng tư. Đời sau vì vậy thường dùng chữ “bái quan”, “bái thư”, “bái quan dã sử”, "bái quan dã đàm”... để chỉ tiểu thuyết hoặc người viết tiểu thuyết.

(4) Luận ngữ, Dương Hoá: "Đạo thính đô thuyết, đức chi khí giã = chuyện nghe được trên đường, rồi truyền lại cũng trên đường, ắt phần nhiều vô căn cứ”

(5) Luận ngữ, Tử Trương. Câu này nguyên là lời của Tử Hạ, học trò Khổng Tử.

(6) Chư tử lược : gồm Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia.

(7) Xem Tại Viên tạp chí của Lưu Đình Cơ, hiệu Tại Viên, người Trung Quốc đời Thanh.

(8) Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu tác phẩm của M.Bakhtin (1895-1975), Nxb. Bộ Văn hoá Thông tin và Thể thao, Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992, tr.21.

(9) Tác phẩm: đây được hiểu như một đơn vị sách.

(10) Vũ Quỳnh: Lĩnh Nam chích quái liệt truyện tự.

(11) Lời bạt sách Hoan Châu ký.

(12) Ngô Thì Hoàng: Lan Trì kiến văn lục tự

(13) Tạ Triệu Chế (người Trung Quốc đời Minh): Ngũ tạp trở.

(14) Trương Văn Hoa: Vân nang tiểu sử tự.

(15) Nguyễn Dữ : Truyền kỳ mạn lục, chuyện Từ Thức lấy vợ tiên.

(16) Nguyễn Dữ : Sđd, chuyện Tướng Dạ Xoa.

(17) Tam Thanh quán Đạo Nhân: Trùng bổ Việt điện u linh tập toàn biên bạt.

(18) Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái tự.

(19) Luận Ngữ, Thuật nhi: ”Tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần”. Khổng Tử không nói đến quái, lực, loạn, thần). “Quái” ở đây chỉ chuyện kỳ lạ, không thường thấy.

(20) Xem Thánh Tông di thảo, các truyện Hoa quốc kỳ duyên và Ngư gia chí dị.

(21) Nguyễn Tử Kính : Kiến văn lục tự 4.

(22) Tín Như Thị: Kiến văn lục tự 2

(23) Thánh Tông di thảo tự.

(24) Ký hiệu chỉ một số lượng lớn, hoặc toàn bộ sách.

(25) Ký hiệu chỉ một số lượng nhỏ trong sách.

TB

HÁN VĂN VIỆT NAM NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ SONG NGỮ

PHẠM VĂN KHOÁI

1. Trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều công trình đề cập đến Hán văn Việt Nam trong giới Hán Nôm học. Những công trình đó góp phần quan trọng cho việc nghiên cứu, giải thích thực thể Hán văn Việt Nam, bước đầu tìm ra những nét riêng biệt của Hán văn Việt Nam. Theo mục tiêu đó của Hán Nôm học, chúng tôi nghĩ rằng cần đẩy mạnh nghiên cứu Hán văn Việt Nam từ góc độ song ngữ hay liên ngữ. Bởi vì, là sản phẩm của môi trường song ngữ, Hán văn Việt Nam, một mặt, phải tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt của văn ngôn, mặt khác, lại chịu áp lực của hoàn cảnh ngôn ngữ nơi nó thể hiện và hành chức trong những điều kiện xã hội - ngôn ngữ Việt Nam trong suốt hai chục thế kỉ ...

2. Có một điều dễ nhận thấy: khối lượng các văn bản Hán văn Việt Nam cho đến nay vẫn còn được giữ lại chủ yếu từ sau khi nước nhà giành được quyền tự chủ. Sự độc lập dường như đã không ngăn cả Hán văn được dùng một cách rộng rãi, mà có vẻ như ngược lại. Sau độc lập, Hán học ở Việt Nam lại càng phát triển và mở rộng... Phạm vi phổ biến chữ Hán ngày một rộng thêm, số lượng văn bản nhiều hơn... Đã có những ý kiến giải thích về vấn đề này theo từng góc độ khác nhau - góc độ lịch sử, góc độ văn hoá... và cả từ góc độ song ngữ. Chính tiếng Việt phát triển trong môi trường song ngữ Việt - Hán (hay Hán - Việt) đã là nhân tố quan trọng thúc đẩy, tạo điều kiện cho việc học chữ Hán.

3. Song ngữ Việt - Hán từ khi nước nhà độc lập khác với song ngữ Việt - Hán ở thời Bắc thuộc về chất. Bởi lẽ, ở thời độc lập, tiếng Việt đã phát triển cả về chức năng lẫn cấu trúc. Còn Hán văn chỉ là ngôn ngữ viết (thư diện ngữ) (Lưu Quang Khánh, 1995). Song ngữ Việt - Hán không những chỉ khác với chính mình ở giai đoạn trước đó mà còn khác với nhiều song ngữ hiện đại ở các nước châu Phi hay châu á, nơi tiếng Anh, tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ vay mượn nhưng là sinh ngữ... (Diebold, 1961). Các ngôn ngữ thành viên của từng song ngữ hiện đại phân chia nhau về phạm vi các chức năng sử dụng... Tuy có những điểm riêng như vậy, nhưng dù sao, các văn bản Hán văn Việt Nam - vì được viết bằng ngôn ngữ- văn tự vay mượn, ngôn ngữ thứ hai..., nên vẫn phải mang những đặc điểm chung của loại văn bản vốn không phải là tiếng mẹ đẻ. Do vậy, tự nhiên, chúng phải chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ của người viết và cả các nhân tố xã hội - ngôn ngữ khác nữa...

4. Nghiên cứu song ngữ nở rộ trong khoảng những năm 50-60 và cho đến nay vẫn là một vấn đề có tính thời sự trong ngôn ngữ học. Nghiên cứu song ngữ nảy sinh trong nhu cầu thực tế của việc dạy, học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai. Những tư tưởng về so sánh ngôn ngữ không phải là mới xuất hiện ở thời hiện đại, song, kế thừa những tri thức của ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, nghiên cứu song ngữ chủ yếu nghiên cứu quá trình tạo văn bản bằng ngôn ngữ thứ hai. Do vậy, nó nghiêng về mặt ứng dụng, giúp cho người học ngôn ngữ thứ hai nắm ngôn ngữ này nhanh hơn, tránh được những lỗi có thể tránh (Gak, 1989).

5. Việc dạy, học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai xét từ góc độ song ngữ tuỳ thuộc vào các nhân tố sau đây: tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ cần học, cần viết. Hai điểm xuất phát này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng các văn bản của ngôn ngữ thứ hai sẽ được xây dựng trên nền liên ngữ này. Có thể hình dung sự tác động và liên kết đó bằng sơ đồ dưới đây nếu ta xét các nhân tố này trong môi trường song ngữ Việt - Hán:

Muốn tìm hiểu Hán văn Việt Nam, tìm ra những nét (đặc điểm) riêng của nó, cần phải tìm hiểu không gian liên ngữ. Dường như Hán văn Việt Nam trong không gian liên ngữ được tạo tác trong sự ảnh hưởng và pha trộn của cả hai ngôn ngữ, nó được hình thành trong trạng thái động. Chúng ta hãy xem sự tác động của từng nhân tố thành viên lên quá trình hình thành các văn bản Hán văn Việt Nam. Trước hết là nhân tố tiếng mẹ đẻ.

6. Nhân tố tiếng mẹ đẻ có ảnh hưởng lớn đến quá trình học, sử dụng ngôn ngữ thứ hai, trong đó, ảnh hưởng dễ nhận ra nhất là ở lĩnh vực vốn từ. Khả năng nắm bắt vốn từ của ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ vay mượn và sau đó sử dụng chúng một cách nhuần nhuyễn để tạo tác văn bản, có phần phụ thuộc trực tiếp vào trình độ và khả năng nắm bắt vốn từ tiếng mẹ đẻ, phụ thuộc vào mức độ phong phú, của vốn từ tiếng mẹ đẻ có đáp ứng nổi hay không những khái niệm tương đương được diễn đạt ở vốn từ ngôn ngữ thứ hai. Vì thế, sự phát triển và mức độ phong phú của vốn từ ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ tạo điều kiện cho việc nắm vốn từ ngôn ngữ thứ hai. "Nhân tố mạnh mẽ hơn cả có ảnh hưởng đến quá trình nắm vốn từ của ngôn ngữ thứ hai chính là vốn từ của tiếng mẹ đẻ" (Robert Lado, M, 1989, tr 38). Con đường làm phong phú vốn từ của tiếng Việt trong giai đoạn song ngữ chính là sự vay mượn vốn từ tiếng Hán [Chủ yếu từ văn ngôn, nếu như ở giai đoạn tiếp thu qua các kinh điển của các trào lưu triết học cổ Trung Quốc và qua các văn bản văn ngôn cải cách nếu như ở những năm đầu thế kỉ XX] (Nguyễn Ngọc San, 2-94). Nắm tiếng mẹ đẻ nhất là vốn từ của nó sẽ tạo điều kiện cho những người đi học và sử dụng chữ Hán được tốt hơn, song đồng thời cũng chuẩn bị cho các khả năng chuyển nghĩa, sang dòng, biến nghĩa... trong cách hiểu một loạt từ của văn ngôn tiếng Hán trong nhận thức ngôn ngữ của người Việt Nam đi học và sử dụng chữ Hán. Tiếng Việt qua hệ thống sách giáo khoa dạy chữ Hán và thực tế giảng dạy chữ Hán của nền Hán học Việt Nam truyền thống đã đóng vai trò cần yếu trong việc học chữ Hán (Phạm Văn Khoái, 1996. tr. 136 -149).

Tương tác giữa tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) và ngôn ngữ thứ hai (Hán văn) đã diễn ra trong chu trình phụ thuộc vào sự giống nhau và khác nhau giữa hai ngôn ngữ này. Có thể nhìn thấy sự giống nhau và khác nhau giữa hai loại ngôn ngữ này về phương diện qua các công trình nghiên cứu loại hình (Stankevich N.V., H 1982; Nguyễn Quang Hồng, H. 1994; Chúc Ngưỡng Tu, H.1995) v.v...

Tựu trung sự giống nhau và khác nhau thể hiện ở mấy điểm sau:

- Giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa.

- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức.

- Khác nhau về hình thức và cả về ý nghĩa.

- Giống nhau về ý nghĩa cơ bản, nghĩa gốc nhưng khác nhau về nghĩa rộng.

- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về sự phân bổ theo từng nhóm văn bản hay từng vùng. Có thể qui những hiện tượng thuộc loại này là giống hay khác theo đặc điểm "phương ngữ", có tính chất "phương ngữ".

Sự giống và khác về từ và ngôn ngữ nói chung trong không gian liên ngữ Hán - Việt còn được thể hiện qua tự dạng. Các văn bản tiếng Việt ở hoàn cảnh ngôn ngữ song ngữ Việt - Hán chủ yếu được ghi bằng chữ Nôm - một loại văn tự phát sinh từ chữ Hán..., cho nên, những khác biết giữa tự dạng của chữ viết tiếng Việt - chữ Nôm trong môi trường song ngữ Việt - Hán, đến lượt mình cũng góp phần "tích cực" để tạo nên những sự "lệch chuẩn" về tự dạng trong thực tế sử dụng chữ Hán. Những ví dụ do nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán nêu ra, đặc biệt là trường hợp khác biết về cách viết của chữ Việt ( ẵ ) trong Khang Hi tự điển và các Hán Việt tự điển khác và trong thực tế viết chữ Hán nói chung cần được hiểu trong bối cảnh song ngữ. Giao thoa (interference) ở đây không chỉ dừng ở các cấp độ của ngôn ngữ mà còn cả phương diện tự dạng nữa (Vũ Tuân Sán, 1/1996). Như vậy, các nét khác biệt về tự dạng giữa chữ Hán và chữ Nôm đã tiềm tàng khả năng "lệch chuẩn" ngay cả về phương diện chính tả. Có thể nghĩ rằng, ở người viết chữ Hán khi người đó đã biết chữ Nôm ngầm có khả năng khiến anh ta có hướng viết chữ Hán theo tinh thần viết chữ Nôm (ở mức độ nào đó). Tất nhiên đây là trường hợp rất ít khi xảy ra vì chuẩn chính tả của chữ Hán rất bảo thủ và nghiêm ngặt. (Sofronov. M.V,1979), ngay cả những ngôn ngữ có chính tả bảo thủ nhất cũng không thể so sánh với mức độ bảo thủ và nghiêm ngặt của chữ Hán. Do vậy, như nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán có nhận xét, những trường hợp khác biệt về tự dạng giữa các văn bản Hán văn Việt Nam và chữ Hán Trung Quốc là ít thấy. Cho dù là như vậy, song khả năng "lệch chuẩn" (interference) ở đây là hoàn toàn có thể, là khả năng luôn luôn tiềm tàng.

Các biểu hiện giống và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai cũng tiềm tàng những khả năng "lệch chuẩn", chúng ta có thể dễ nhận ra, đồng thời cũng có khi rất khó có thể nhận ra. Không nên nghĩ rằng vốn từ Hán Việt có trong tiếng Việt ở các giai đoạn là hoàn toàn giống tiếng Hán. Điều này có nghĩa là ngày cả các bộ phận được tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) vay mượn ngôn từ thứ hai (ở đây là tiếng Hán), nhưng trong quan hệ với ngôn ngữ thứ hai ở môi trường song ngữ Việt - Hán thì cái bộ phận vay mượn này cũng thể hiện vai trò, tính chất và nhiều nét nghĩa, hình thức khác với ở cội nguồn ban đầu của mình (tiếng Hán). Tất nhiên những khác biệt này rất khó nhận ra và thường được che dấu bởi các hình thức bề ngoài giống nhau (nhất là tự dạng trong song ngữ Việt - Hán). ở nhiều trường hợp, chúng giống nhau cả về hình thức và ý nghĩa, còn khác nhau ở đây chủ yếu là về ý nghía phái sinh, nghĩa phát triển, nghĩa mới, nghĩa văn cảnh... và có khi chúng lại biến nghĩa, chuyển nghĩa... Tựu trung, đó là những khác biệt về nghĩa rộng. Sự khác biết này rất tế nhị, chỉ có những người am hiểu cả hai ngôn ngữ mới nhận ra. Hệ quả tự nhiên là xuất hiện các cách nói mới, cách diễn đạt mới, nét nghĩa mới có tính chất Việt Nam trong cách sử dụng chữ Hán. Nhìn vào ở một phương diện nào đó trong mối quan hệ với tiếng Hán (Hán văn) có thể coi đó là những "biến thể có tính chất phương ngữ"

7. Dường như sự phức tạp của vấn đề không chỉ dừng ở mức độ các khác biệt về nghĩa rộng hay "biến thể có tính chất phương ngữ" mà nó còn thể hiện ở chỗ khác. Theo cách dạy, học và sử dụng chữ Hán trong môi trường song ngữ Việt - Hán, những cách dùng khác nhau theo nghĩa rộng đã được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, rồi do tập quán mô phỏng người đi trước nên nó được lưu lại với thời gian, dần dần mọi người quen dùng và chấp nhận. Chính các biểu hiện này dần dần dẫn đến "tính li tâm tương đối" của cách dùng Hán văn ở Việt Nam. "Tính li tâm tương đối" ngày càng tích tụ lại, tiềm ẩn khả năng "sang dòng" (tất nhiên cũng là tương đối), khả năng trở thành "gạch nối", khả năng "chuyển nghĩa"... trong thực tế sử dụng chữ Hán và văn ngôn ở Việt Nam nếu như chúng ta xem xét chúng với văn ngôn chính gốc. Cho đến bây giờ chúng ta có những công trình lớn thống kê, nghiên cứu những hiện tượng "gạch nối", "sang dòng" trong Hán văn Việt Nam, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến khả năng này từ góc độ song ngữ.

8. Nhiều lần trên đây chúng tôi đã nhắc rằng: Không gian liên ngữ và các thành tổ cấu thành song ngữ Việt - Hán không phải đứng yên tại chỗ mà ngược lại, chúng luôn luôn biến đổi... Ngay thành tố văn ngôn chính gốc (văn ngôn Trung Quốc) cũng thường xuyên vận động, trải qua nhiều cuộc cải cách. Nhiều phong cách, trường phái văn ngôn ra đời trong khoảng thời gian hơn hai mươi thế kỷ đã làm cho văn ngôn không phải là một lược đồ ngôn ngữ khô cứng, không phải hoàn toàn là một tử ngữ mà ngược lại nó cũng luôn biến đổi. Về vấn đề này chúng tôi đã đề cập trong các bài viết về văn ngôn nói chung, văn ngôn hậu kì nói riêng, cũng như các cuộc cải cách văn ngôn ở Trung Quốc thời trung thế kỉ (Phạm Văn Khoái,1 - 1996; 4-1996).

Môi trường liên ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc cắt nghĩa các nét riêng của ngôn ngữ thứ hai khi nó được phổ biến ở nước ngoài so với nguyên gốc của nó ở trong nước trong sự tương tác với tiếng mẹ đẻ của người đi học. Như vậy, nghiên cứu môi trường liên ngữ, không gian liên ngữ hay nghiên cứu liên ngữ trở thành một trong những nội dung chính để nghiên cứu liên ngữ trở thành một trong những nội dung chính để nghiên cứu những đặc điểm Hán văn Việt Nam. Nghiên cứu liên ngữ thực chất là nghiên cứu "sự thể hiện của các ngôn ngữ (trong không gian liên ngữ) hơn là nghiên cứu ngôn ngữ cụ thể như nó đã có sẵn" (Carl James, M., 1989, tr. 208).

Đương nhiên, sự thể hiện của các ngôn ngữ trong không gian liên ngữ là một quá trình, có tính tiến hoá... "Sự thể hiện của các ngôn ngữ vốn là khái niệm mang trong mình nội dung tiến hoá (theo cách nói cuả F. Saussure), từ đó có thể thấy rằng phân tích đối chiếu liên ngữ tựa hồ thuộc phương diện lịch đại hơn là đồng đại: (Carl James, M, -> 1989, -> tr.208). Điều này có nghĩa là những nét riêng của Hán văn Việt Nam cần phải được giải thích trong mối quan hệ của hai ngôn ngữ trong môi trường song ngữ Việt - Hán, cần phải được xem xét trong không gian liên ngữ, trong sự thể hiện mình của các ngôn ngữ thành viên qua các thế hệ người sử dụng chữ Hán.

9. Có cơ sở để nghĩ rằng các khả năng "lệch chuẩn" và các thực tế "sang dòng" trong Hán văn Việt Nam đã phần nào làm cho Hán văn Việt Nam trong môi trường liên ngữ Việt - Hán đóng vai trò của "ngôn ngữ - người trung gian" (Akhmanova O.S, Melchuk I.A,... MGU, 1961) mà ta thường gọi là chuyển ngữ để xây dựng vốn từ tiếng Việt. Có thể trình bày mối tương tác đó bằng sơ đồ sau đây:

Trong cơ chế đó, văn ngôn Trung Quốc (hay Hán văn nói chung) và Việt ngữ đều là những ngôn ngữ nguồn, ngôn ngữ xuất phát. Trên đây chúng tôi đã nhấn mạnh áp lực của tiếng Việt lên quá trình học và sử dụng chữ Hán từ góc độ nghiên cứu liên ngữ... Kết quả là Hán văn Việt Nam, với thời gian, dần dần trở thành một biến thể Việt Nam của Hán văn nói chung, nó như là một "ngôn ngữ - người trung gian", có "tính tự trị" và "li tâm tương đối" ... Đồng thời cũng chính trong cái không gian liên ngữ này, tiếng Hán (văn ngôn) thông qua Hán văn Việt Nam - "ngôn ngữ - người trung gian" đã ảnh hưởng đến tiếng Việt. Song vấn đề này sẽ được đề cập ở một dịp khác.

10. Trên đây chúng ta đã nói đến sự tương tác các yếu tố ngôn ngữ trong không gian liên ngữ, chúng ta cũng nói đến sự giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ đã dẫn đến hình thành một biến thể của ngôn ngữ thứ hai do những người đi học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ vay mượn - mà cụ thể ở đây là Hán văn Việt Nam dần dần bị lệch chuẩn so với Hán văn chính gốc. Cũng cần nói đến các bước đi và nhịp độ của sự lệch chuẩn (interference) ở mức độ khái quát nhất. Nếu như ở các ngôn ngữ biến hình (các ngôn ngữ ấn - Âu) sự giao thoa trước hết biểu hiện ở phương diện hình thức "thoạt đầu diễn ra quá trình giản lược bao gồm quá trình đánh rơi các biến tố, các liên từ, các từ biểu thị chức năng quán từ, sau đó lại có những quá trình phức tạp hơn (Carl James, M, 1989, tr 214). Như thế, những giao thoa đó có thể nhìn thấy nhờ các tiêu chí hình thức. Còn ở các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Hán và tiếng Việt, giao thoa sẽ xảy ra chủ yếu ở phương diện cú pháp và sử dụng từ. Có thể có nhiều cách dùng từ và cú pháp của tiếng Việt đã ảnh hưởng đến cách đặt câu trong Hán văn Việt Nam. Chẳng hạn ở Quán Sứ tự công đức bi kí có câu: Àố ³¯ ầ° ệđ ẩý ạơ ậÄ ạơ ... thì cách đặt câu "Lê triều tiền chi tam cung tứ quán..." rõ ràng chịu ảnh hưởng của cú pháp tiếng Việt. Một số địa danh cũng có hiện tượng này như Hoa Lư - Hoa lau... có trật tự cú pháp khác với tiếng Hán. "Con người thiên về mang những hình thức và ý nghĩa từ tiếng mẹ đẻ và văn hoá của cộng đồng, dân tộc mình vào tiếng nói và văn hoá nước ngoài" (Lado, M, P, 1989, tr 32-60).

11. Như vậy, hình thành trong môi trường song ngữ Việt - Hán, Hán văn Việt Nam trong những mức độ nhất định đã có những biểu hiện "lệch chuẩn". Đó cũng là đặc điểm chung của mọi văn bản viết bằng ngôn ngữ thứ hai. Vậy cần xem mối quan hệ giữa Hán văn Việt Nam mang những đặc điểm bị giao thoa với các "chuẩn" thông thường của văn ngôn (cụ thể là văn ngôn Trung Quốc) như thế nào? Khái niệm "chuẩn" dù mặc nhiên được mọi người thừa nhận, song không phải là không có vấn đề cần bàn, "Nhiều nhà ngôn ngữ học chẳng cần thảo luận cũng dễ chấp nhận định đề mà theo đó, một trong những đặc trưng cơ bản để một cộng động trở thành dân tộc là ở chỗ phải có một ngôn ngữ chuẩn. Từ góc độ này, dường như một ngôn ngữ được coi là chuẩn khi có sự thừa nhận chung về phát âm, chính tả, ngữ pháp và cách dùng từ, sự thừa nhận ấy là bắt buộc cho mọi thứ ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết bao gồm cả ngôn ngữ văn học dân tộc thống nhất và ngôn ngữ học thông dụng hiện đại nữa... Song, dường như đó là quan niệm lý tưởng tuyệt đối. Hoàn cảnh ngôn ngữ tồn tại trong thực tế ở từng nước khác rất xa ý tưởng này" (Ferguson C, P. 1989, tr.125). Dẫn ra lời phát biểu trên đây về chuẩn ngôn ngữ, chúng tôi muốn nói rằng ngay trong phạm vi một ngôn ngữ, vấn đề chuẩn cũng không phải lúc nào cũng là tuyệt đối. Việc xây dựng ngôn ngữ chuẩn trong một cộng đồng, trong một dân tộc cũng còn vấp phải một loạt những khó khăn. Chuẩn luôn luôn được xét trong quan hệ với các phương ngữ. Ngay trong điều kiện hiện đại, cho dù ý kiến xây dựng ngôn ngữ chuẩn đã được mọi người mặc nhiên thừa nhận thế mà cũng bị coi là "quan niệm lí tưởng tuyệt đối" phương chi là vấn đề chuẩn tuyệt đối đối với việc sử dụng một ngôn ngữ vay mượn, ngôn ngữ thứ hai ở ngoài chính quốc. Được sản sinh và vận hành trong môi trường liên ngữ, khả năng giao thoa hoá của ngôn ngữ thứ hai là hiển nhiên. Nguyên nhân làm cho giao thoa chính là do tiếng mẹ đẻ và do các nhân tố văn hoá, xã hội, tâm lí khác nữa. Giao thoa của Hán văn trong không gian liên ngữ Việt - Hán đã tạo nên biến thể Việt Nam của Hán văn nói chung, tạo nên sự đa dạng trong việc sử dụng chữ của các nước đồng văn Đông á. Bằng việc nghiên cứu Hán văn Việt Nam trong môi trường song ngữ, chúng ta sẽ từng bước hiểu rõ các bước đi và nhịp điệu dẫn đến các hiện tượng giao thoa trong Hán văn Việt Nam.

P.V.K

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

1. Alexander. B.W Vietnam an the chinese model. Harvard Univesity. Press, Cambridge. 1971.

2. Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb. khxh. H, 1979.

3. Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, H.1996.

4. Diebold A. Incipient bilingualism. Language. 1961, 37, 1.

5. Ferguson A. Background to second language problems (trong Novoe b lingvistike. XXV. U. , Progress, 1989).

6. Fishman J. "Standard" and "dialect" in bilingual education "Modern languages Journal", 1977, 61,7.

7. Gak. V.G. Tổng luận về ngôn ngữ đối chiếu trong tập Novoe v lingvistike XXV, M, 1989).

8. Nguyễn Thạch Giang. Thư tịch cổ Trung Hoa với chữ nghĩa văn Nôm. Tạp chí Hán Nôm. 2-1993.

9. Haugen D. Bilungualism in the Americass. Alabama city, the Americandialect society, 1956.

10. Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình ngôn ngữ. Nxb. Khxh, H, 1994.

11. James C. Constrastive annalysis, trong tập Novoe v lingvistike. XXV. M. 1989

12. Phạm Văn Khoái. Một số vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán trong kho sách Hán Nôm trong tập: Thông báo Hán Nôm học. Nxb. KHXH., H., 1996.

13. Phạm Văn Khoái. Vài nét về văn ngôn. Tạp chí Hán Nôm Số 1-1996

14. Phạm Văn Khoái. Hai cuộc cải cách văn ngôn lớn trong lịch sử văn ngôn Trung Quốc. Tạp chí Hán Nôm 4-1996.

15. Phạm Văn Khoái. Song ngữ Hán Việt và sự phát triển về chức năng của tiếng Việt. Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1-1996.

16. Lado R. Lingustics across cultures trong tập Novoe v lingvistike XXV. M., 1989.

17. Mel'chyk. O Tochnikh metodakh issledovanija Jazyka. MGU, 1961.

18. Những cơ sở triết học trong ngôn ngữ học. Nxb. Giáo dục; H; 1988.

19. Vũ Tuấn Sán. Chữ Hán của người Việt. Tạp chí Hán Nôm. 1-1996.

20. Đặng Đức Siêu. Ngữ văn Hán Nôm. Tập I. H, NXB Giáo Dục, 1992.

21. Sofronov M.V. Kitaiske jazyk i kitaiskoe osestvo. M, Nayka, 1979,

22. Chúc Ngưỡng Tu. Một vài vấn đề về đặc điểm của âm, văn tự tiếng Việt và tiếng Hán theo cách nhìn của người học ngoại ngữ. Ngôn ngữ, 3-1995.

23. Chu Quang Khánh. Hán ngữ dữ Trung Quốc tân văn hoá khải mông. Đài Bắc. 1995.

TB

SUY NGHĨ THÊM VỀ CÁC TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN CHỮ NÔM MƯỢN NGHĨA

LÃ MINH HẰNG

Chữ Nôm mượn nghĩa là chữ Nôm mượn hình và nghĩa chữ Hán. Khi tìm hiểu chữ Nôm mượn nghĩa, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những số liệu rất khác nhau: Giáo sư Vương Lực(1) chưa đưa ra được chữ Nôm mượn nghĩa nào; Cụ Đào Duy Anh(4) cho biết loại chữ này chỉ ra có hai chữ: chữ ứ² Làm ẻê Vi viết tắt) và chữ ẻệ ốc (còn đọc là rày); Trong Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ(5) số chữ loại này đã được nâng lên đến 17 chữ trong tổng số 8187 chữ. Song cũng có ý kiến thái quá khi nhận định dạng chữ Nôm mượn nghĩa mà điển hình là bộ Từ điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính (1971). Hai ông đã đưa ra tới, 392 chữ (!) Có những chữ đưa ra không có sức thuyết phục vì thiếu những ngữ cảnh cần thiết. ý kiến nhìn nhận chữ Nôm mượn nghĩa một cách thận trọng phải kể đến bộ Tự điển chữ Nôm tiếng Việt (bản thảo Viện Hán Nôm, 1994) do Giáo sư Nguyễn Quang Hồng chủ biên, trong đó đã đưa ra 47 chữ trên tổng số 11.947 chữ của bộ Tự điển, chiếm tỷ lệ 0,39%. Gần đây, trong bài biết của mình(2), chúng tôi đã bước đầu đưa ra và phân tích tỷ mỷ 42 trường hợp cụ thể. [Các chữ số đặt trong hai ngoặc đơn ( ) là số thứ tự sách tham khảo liệt kê ở cuối bài viết].

Xin trở lại với bộ Tự điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính. Sở dĩ số chữ Nôm mượn nghĩa mà bộ Tự điển này đưa ra quá nhiều là do có sự lẫn lộn giữa chữ Nôm mượn nghĩa với chữ Nôm mượn từ âm cổ Hán Việt và âm Hán Việt Việt hoá. Xin được gọi chung âm cổ Hán - Việt và âm Hán Việt Việt hoá là những âm phi Hán Việt(1). Ở những loại âm này, có sự đồng nhất vỏ âm thanh với ý nghĩa của từ. Các âm phi Hán Việt đã được Việt Hoá rất đậm, nó đã đi sâu vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bởi vậy, khi nghiên cứu những chữ Nôm được hình thành trên cơ sở những âm phi Hán - Việt này nhiều người đã lầm tưởng đó là chữ Nôm mượn nghĩa. Chính cụ Đào Duy Anh và giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã nhiều lần lưu ý chúng ta cần thận trọng với những chữ Nôm mượn từ âm phi Hán Việt này vì chúng rất dễ làm cho ta lầm tưởng đó là loại chữ Nôm mượn nghĩa. Với lý do đó, khi nghiên cứu chữ Nôm mượn nghĩa, trước hết chúng tôi vận dụng các kiến thức cơ sở của âm vận học Trung Hoa và ngữ âm lịch sử tiếng Việt để phân biệt chữ Nôm mượn nghĩa với chữ Nôm mượn Hán đọc âm phi Hán Việt. Để rồi trên cứ liệu vừa rút ra, chúng tôi áp dụng phương pháp nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa (mà chủ yếu ở đây là phương pháp phân bố và phương pháp thay thế nghĩa) để định rõ giá trị ngữ nghĩa đích thực của chúng.

Sau đây, chúng tôi xin đưa ra 3 tiêu chí xác định chữ Nôm mượn nghĩa.

1. Ngữ âm:

Như trên đã phân tích, chữ Nôm mượn nghĩa dễ có sự lầm lẫn với chữ Nôm mượn đọc âm phi Hán Việt. Bởi vậy tiêu chí đầu tiên cần xét đến là tiêu chí về ngữ âm. Trước hết chúng ta cần phải vận dụng các kiến thức cơ sở của âm vận Trung Hoa và ngữ âm lịch sử tiếng Việt để lọc ra những chữ Nôm mượn nghĩa.

a. Âm Hán Việt Đả, Nôm đọc là Đánh

- Âm Hán Việt Liên, Nôm đọc là Sen

- Âm Hán Việt Đãi, Nôm đọc là Đợi.

Ba chữ Nôm: Đánh, Sen, Đợi đều không phải là chữ Nôm mượn nghĩa, vì xét cho cùng Đánh, Sen và Đợi đều là những âm phi Hán Việt. Chữ 且 âm Hán Việt: Thả, với nghĩa "hơn nữa, vả lại", tìm trong văn bản Nôm 且 được đọc Vả - đây là một ngữ khí từ biểu thị ý chuyển chiết. Ví dụ:

Nhà chùa công việc cũng đầy
Dẫu rằng lau án tưới cây cũng là
Vả trông ra dáng con nhà
Sẵn nghiên bút viết một và chữ xem

(18: tờ 26a).

Xét trong sự chuyển dịch giữa âm Hán Việt và âm phi Hán Việt có sự chuyển từ thanh mẫu Th (Hán Việt) -> thanh mẫu V (phi Hán Việt). Bởi vậy 且 đọc Vả trong trường hợp này không phải là chữ Nôm mượn nghĩa.

b. Xét trong sự chuyển biến giữa âm Hán Việt và âm phi Hán Việt, thì thấy không có sự chuyển biến thanh mẫu từ thanh mẫu (Hán Việt) -> l / ng trong hệ thống âm phi Hán Việt. Bởi vậy các chữ sau đều là chữ Nôm mượn nghĩa:

Chữ 映 âm Hán Việt ánh với nghĩa chỉ "ánh sáng", sang chữ Nôm được đọc lánh (trong lấp lánh). Đây là dạng chữ Nôm mượn nghĩa. Ví dụ:

Nguyệt làu làu vẻ thu lấp lánh
(19: tờ 26a)

- Chữ 臆 âm Hán Việt ức nghĩa là "ngực". Chữ Nôm mượn đọc là ngực. ví dụ:

Mạt câu là khăn buộc ngựa
(20: tờ 32a)

Trong sự chuyển biến từ âm Hán Việt sang âm phi Hán Việt thấy không có sự chuyển biến từ thanh mẫu c / ph (Hán Việt) -> trong hệ thống âm phi Hán Việt. Bởi vậy các chữ sau cũng là những chữ Nôm mượn nghĩa:

- Chữ 姑 âm Hán Việt , âm Nôm đọc là 0. Ví dụ:

Ông chú mụ 0 (2: 168).

- Chữ 蜂 âm Hán Việt phong nghĩa là "con ong" chữ Nôm mượn đọc theo nghĩa là ong, ví dụ:

Xiết bao bướm lũ ong bầy (17:10a)

Như đuổi đàn ruồi, như phá tổ ong (16: 69b).

c. Chữ 鮮 âm Hán Việt: Tiên ví dụ:

Chiều chiều ba dãy cá tươi
Chẳng ăn cũng thiết chẳng chơi cũng hèn.
(22. 44b)

Mới xét qua thì có thể coi đây là dạng chữ Nôm mượn nghĩa. Tuy nhiên, xem trong sách Dân gian cổ ngâm thấy dùng 鮮 Tiên để đọc là tai (gieo vần với phai).

Bốn mùa hoa cỏ tốt tai
Thành xây khói biếc non phai bóng vàng

Vậy là tiên tai có thể đọc đổi cho nhau. Xem trong sách Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa tác giả đã dùng 哉 tai để ghi âm tươi: "Tiên nhục cá sống còn tươi (哉)". Từ Tai có thể chuyển thành âm hậu Hán Việt tươi (giống như mai ® mười, ngài ® người)

Như vậy tiên » tai ® tươi, và 鮮 tươi trong câu "Chiều chiều ba dãy cá tươi" không phải là chữ Nôm mượn nghĩa được.

2. Thi luật:

Trên cơ sở các cứ liệu chữ Nôm mượn nghĩa đã rút ra được, chúng tôi áp dụng phương pháp phân bố để định rõ giá trị chữ nghĩa đích thực của chúng. ở các văn bản thơ lục bát và thơ Đường luật, phương pháp phân bố thể hiện khá rõ ở cách gieo vần, ở luật bằng trắc:

a/ Chữ 直 âm Hán Việt: Trực, nghĩa "thẳng" chữ Nôm mượn đọc là ngay biểu thị nghĩa "thẳng không nghiêng, không xiên". Xét trong ví dụ sau:

Trực tháp, giường hẹp để ngay
Gọi chõng léo những buộc mây càng bền

(14:38a)

Trong ví dụ trên 直 phải đọc là Ngay Ngay được hiệp vần với Mây ở câu tiếp sau. Như vậy, dựa vào cách gieo vần thơ, ta có thể khẳng định chắc chắn đây là chữ Nôm mượn nghĩa.

b/ Chữ 座 âm Hán Việt Tọa, nghĩa "ngồi" chữ Nôm mượn để ghi ngồi. Trong ví dụ sau ìứ phải đọc ngồi để hiệp vần với câu tiếp sau:

Lư công thăm thẳm xa ngồi
Tiếp tân phó mặc con nuôi họ hàng

(18:8b)

c/ Chữ âm 唇 Hán Việt: Thần, nghĩa "cái mui quanh miệng" (môi). Chữ Nôm mượn đọc theo nghĩa trong câu sau:

Cái cóc ăn trầu đỏ môi
Có ai lấy lẽ chú tôi thì về

(22: 50a.5)

Ở câu trên 唇 phải đọc là môi để hiệp vần với Tôi ở câu sau.

3. Cấu tạo ngữ thuần Việt.

Đối với những chữ nằm ở các điểm nút, ta có thể áp dụng các kiến thức về thi luật (như trên đã phân tích) để định rõ giá trị ngữ nghĩa của chúng. Số còn lại, ta có thể dựa trên cách cấu tạo của một ngữ thuần Việt.

a/ Chữ 盗 âm Hán Việt: Đạo nghĩa là "trộm cướp". Chữ đạo hoàn toàn dễ hiểu đối với người Việt khi nó kết hợp với một yếu tố gốc Hán nữa để tạo thành từ song tiết "đạo tặc". Song song với kết cấu này ta có từ thuần Việt: "Trộm cướp". Vậy nếu ngữ cảnh cho phép chữ 盗 đứng đằng trước chữ cướp thì phải đọc nó là Trộm cướp. Và lúc này Trộm đã làm một chữ Nôm mượn nghĩa. Ví dụ:

Nơi nơi trộm cướp dấy loàn (21:21)

Mấy thằng trộm cướp sát nhân (21:21)

b/ Chữ 短 âm Hán Việt: đoản có nghĩa là ngắn. Chữ Nôm dùng 短 đọc là Ngắn. Trong tiếng Việt hiện đại đoản vẫn được sử dụng, nhưng nó thường không dùng độc lập. Nghĩa là nó phải kết hợp với một yếu tố gốc Hán nữa để tạo thành song tiết: Sở đoản, Sở trường, Trường đoản... chữ 短 chỉ đọc là ngắn khi nó là từ một âm tiết hoặc nằm trong kết hợp kẹp đôi với dài tạo thành đối lập Ngắn / Dài. Bởi vậy, 短 trong câu dưới đây phải đọc là ngắn:

Mựa chi người ngắn cậy ta dài (13)

c/ Chữ 廣 âm Hán Việt: Quảng, nghĩa "rộng" Quảng hiệp là hai từ Hán Việt có thể tương đối dễ hiểu với người Việt. Song hai từ đơn tiết này không có khả năng kết hợp với nhau để tạo thành một từ song tiết Quảng hiệp được. Lúc này buộc ta phải đọc theo nghĩa vốn có của nó là rộng hẹp:

Rộng hẹp khen thay khéo tạo đoan.
(15:17b)

Kết luận :

Nghiên cứu chữ Nôm mượn nghĩa là một công việc đầy thú vị. Việc nhận diện chữ Nôm mượn nghĩa, việc xác định giá trị chữ nghĩa đích thực của nó, chẳng những đòi hỏi chúng ta phải nắm vững các kiến thức cơ sở về ngữ âm lịch sử, về nghĩa từ nguyên của từ mà hơn thế, nó còn yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu sự hành chức của từ trong từng ngữ cảnh cụ thể. Chỉ khi nào làm tốt các yêu cầu trên thì các dẫn chứng đưa ra mới chắc chắn và có sức thuyết phục cao.

Tài liệu tham khảo

A. Sách tiếng Trung

1. Vương Lực - Hán ngữ sử luận văn tập. Bắc Kinh. 1958.

B. Sách tiếng Việt.

2. Huỳnh Tịnh Của - Đại Nam quốc âm tự vị Sài Gòn - 1895.

3. Nguyễn Quang Xĩ - Vũ Văn Kính - Từ điển chữ Nôm. Trung tâm học liệu. Sài Gòn 1971.

4. Đào Duy Anh - Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo diễn biến, Nxb. KHXH. H. 1975.

5. Bảng tra chữ Nôm - Viện Ngôn ngữ. Nxb. KHXH, H. 1976.

6. Nguyễn Tài Cẩn - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb. KHXH.1979.

7. Nguyễn Tài Cẩn - Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb. ĐH & THCN. Hà Nội. 1985.

8. Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng học tiếng Việt. Nxb. ĐH & THCN. Hà Nội. 1985

9. Nguyễn Ngọc San - Tiếng Việt lịch sử. Nxb. Giáo dục Hà Nội. 1993.

10. Nguyễn Quang Hồng - Hiện tượng âm dương đối chuyển trong Hán ngữ và đôi điều liên hệ với Việt ngữ. T/c Ngôn ngữ 4/1994.

11. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên) - Tự điển chữ Nôm tiếng Việt (Bản thảo) Viện Hán Nôm 1994.

12. Lã Minh Hằng - Hiện tượng mượn hình và nghĩa chữ Hán đọc theo âm Việt trong văn bản Nôm - Bài tham dự hội thảo Ngữ học trẻ 1997.

C. Sách Hán Nôm (lưu trữ tại Viện Hán Nôm)

13. Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập (AB 635).

14. Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (AB.372)

15. Lê triều ngự chế quốc âm thi (AB.8)

16. Thiên Nam ngữ lục (AB. 478).

17. Truyện Trinh thử (Nc 26)

18. Nhị độ mai (VNb. 37)

19. Sơ kính tân trang (A. 1390)

20. Nhật dụng thường đàm (AB. 17)

21. Dương Từ - Hà Mậu (Nc.85)

22. Lý hạng ca dao (VNv. 303)./.

TB

PHÉP CẤU TRÚC ĐỐI LẬP TRONG THƠ THẤT NGÔN TUYỆT CÚ ĐỜI ĐƯỜNG

TRẦN NGỌC CHUỲ

Một trong những nét nổi bật làm cho loại thơ ngắn (tứ tuyệt) đời Đường đạt đến đỉnh cao mà thơ các triều đại trước đó và sau đó không bằng, hoặc có cũng là lặp lại, không chỉ ở mặt cấu trúc hình thức nghiêm ngặt (số câu chữ cố định, luật bằng trắc về âm thanh) mà còn ở cấu trúc nội tại trong thơ Đường nói chung và thơ tuyệt cú nói riêng. Đó là phép Cấu Trúc Đối Lập. Theo tôi đây chính là nét nổi bật nhất trong thi pháp của thơ Đường. Nó khác hẳn với lối thơ trữ tình mang tính cách “tự sự” của các triều đại trước Đường hoặc theo lối “phú, tỷ, hứng” như Kinh Thi...

Phép “Cấu trúc đối lập” này trở thành hạt nhân thể hiện quy luật mâu thuẫn thống nhất trong một bài thơ, thậm chí trong từng câu thơ. Những bài tuyệt cú nổi tiếng nhất đều là những bài đạt đến đỉnh cao của phép “cấu trúc đối lập”. Đó là những bài có thể gọi là “toàn bích”. ở những bài như vậy, trong mỗi câu và trong cả bài đều hàm chứa trong nó mối quan hệ đối lập hoặc về ý hoặc về biểu hiện ở hình thức ngôn từ, hoặc đạt tới cả hai mặt. Trong cái đối lập lớn lại hàm chứa cả cái đối lập nhỏ. Một khi tính đối lập đạt tới đỉnh cao thì tự bài thơ đem đến cho người đọc những dự cảm xung đột trong cảm xúc, tự trong sâu thẳm của tư duy, như được gợi ra một sự bừng tỉnh nhận thức thẩm mỹ, khiến đọc xong bài thơ ta cảm thấy tác giả đem đến cho ta một cảm xúc mới lạ mà tựa như ta vẫn thấy, vẫn cảm nhận được mà nay đã có người nói hộ thành lời.

Những bài thơ như vậy ta chỉ cần nghe một lần đã không thể quên được.

Dưới đây xin phân tích “cấu trúc đối lập” ở một số bài thơ cụ thể để minh hoạ :

Ví dụ 1 : Hồi hương ngẫu thư
Hạ Tri Chương

Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
Hương âm vô cải mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?
(Từ nhỏ xa nhà, già lão trở về,
Giọng quê không hề đổi, tóc mai rụng.
Trẻ con gặp nhưng không nhận ra.
Cười hỏi khách từ nơi nào đến ?)

Câu 1 : Sự đối lập giữa lúc đi và ngày về, lúc trẻ và lúc già.

Câu 2 : Đối lập giữa tiếng nói và mái tóc, giữa cái bất biến và cái khả biến, giữa nội tâm và vẻ ngoài, giữa bản chất và hiện tượng.

Câu 3 : Đối lập giữa trẻ và già, giữa mới và cũ, xưa và nay, quen và lạ, thấy mà như không thấy.

Câu 4 : Đối lập giữa khách và chủ, giữa chủ cũ và chủ mới, giữa tác giả và quê hương, bao trùm lên tất cả những sự đối lập trên là sự đối lập giữa tấm lòng yêu sâu sắc và tha thiết quê hương của tác giả với sự dằn vặt dai dẳng vì phải lìa xa quê hương gần hết cả cuộc đời, đến mức tưởng như quê hương đã ruồng bỏ một cách hoàn toàn tự nhiên, phù hợp với quy luật tất yếu của cuộc sống. Điều này được biểu hiện ở thái độ ngỡ ngàng một cách hoàn toàn ngây thơ và chân thành của bầy trẻ, một lớp người tiêu biểu cho nét mới của quê hương.

Mỗi cảm xúc vui buồn lẫn lộn, cười mà phải ứa lệ trong tim này của những ai đã từng sống tha hương trong ngày trở về gặp lại, đã mấy người có thể nói lên chỉ bằng 28 chữ với những lời vừa chân thành vừa sâu sắc, nhưng lại rất bình dị làm rung động tận đáy sâu cõi lòng người như Hạ Tri Chương !

Ví dụ 2 : Khuê oán
Vương Xương Linh

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
(Trong phòng khuê thiếu phụ không biết buồn.
Ngày xuân trang điểm lộng lẫy bước lên lầu.
Chợt thấy sắc xuân dương liễu ven đường.
Lòng thấy hối tiếc vì đã giục chồng đi chinh chiến để mong ấn phong hầu !)

Câu 1 : Đối lập giữa sự vô tư với nỗi buồn đã manh nha mà chưa nhận ra.

Câu 2 : Đối lập giữa việc trang điểm lộng lẫy với mục đích của sự trang điểm.

Câu 3 : Đối lập giữa người và cảnh, giữa “hữu tri” và “vô tri”.

Câu 4 : Đối lập giữa sự ly biệt và ước mong đoàn tụ, giữa quá khứ vô tư với hiện tại bừng tỉnh, giữa xa cách và gần gũi. Bao trùm lên tất cả những mối quan hệ dối lập trên là sự đối lập giữa hạnh phúc thật sự của con người, đó là hạnh phúc lứa đôi với cái hạnh phúc giả ảo là công danh mà con người tự huyễn hoặc mình. Trong khoảnh khắc, sức sống thanh xuân của cảnh vật tưởng vô tri mà lại hoá thành “hữu tri”, đã đánh thức tâm hồn người thiếu phụ vô tri khiến nàng bỗng nhận ra niềm hạnh phúc thật sự mà vô tình đã để tuột khỏi tay vì những mơ tưởng về công danh phú quý hão huyền ! Tác giả chẳng nói lời nào cảnh tỉnh, nhưng tấn bi kịch mà người thiếu phụ phải chịu ở đây, rõ ràng đã cảnh tỉnh mọi người hãy tỉnh táo, kẻo dễ lầm lẫn giả thật giữa cuộc đời này mà vô tình để tuột khỏi tay niềm hạnh phúc chân chính, để rồi hối không kịp như nàng thiếu phụ kia !

Ví dụ 3 : Lương Châu từ
Vương Hàn

Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
(Rượu Bồ đào ngon trong chén ngọc dạ quang,
Đang định uống thì tiếng tỳ bà đã giục giã lên ngựa.
Say nằm ở chốn sa trường anh chớ cười mỉa,
Vì xưa nay chinh chiến mấy ai trở về).

Câu 1 và 2: Đối lập giữa tiệc rượu và ra chiến trường,... giữa phong thái ung dung của người ra chiến trường với không khí chiến trận giục giã gấp gáp.

Câu 3 và 4 : Đối lập giữa đoàn tụ và chia ly, giữa say và tỉnh, giữa ra đi và trở về, giữa hiện tại và tương lai, giữa sống và chết. Bao trùm lên toàn bài là sự đối lập giữa niềm vui chốc lát với niềm đau thương vô tận. Đó chính là cái kết thúc bi thảm tất yếu xưa nay đang chờ đợi những người đi chinh chiến!

Ví dụ 4 : Tặng biệt
Đỗ Mục

Đa tình khước tự tổng vô tình.
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thuỳ lệ đáo thiên minh.
(Đa tình mà lại tựa như là vô tình,
Chỉ cảm thấy trước chén rượu mà không sao cười được.
Cây nến có tấm lòng còn biết luyến tiếc hộ sự ly biệt này,
Nên đã thay người nhỏ lệ cho đến khi trời sáng ! )

Bốn câu của bài “Tặng biệt” này tạo nên các mối quan hệ đối lập đan xen giữa người và vật, trong đêm ly biệt. Đó là sự đối lập giữa nội tâm và vẻ ngoài, giữa hoan lạc với bi thương, giữa người và vật, giữa hữu tri và vô tri. Bao trùm lên toàn bài là nỗi buồn ly biệt.

Ví dụ 5: Đề đô thành nam trang
Thôi Hộ

Tích niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong !
(ở chỗ cửa này, vào ngày này năm ngoái,
Mặt người và hoa đào sắc hồng soi lẫn nhau.
(Bây giờ) mặt người không biết đi đâu ?
Chỉ còn hoa đào vẫn cười với gió xuân.(như cũ)

Bài này gồm các mối quan hệ đối lập giữa người và hoa, giữa vẻ đẹp của người và vẻ tươi của hoa, giữa quá khứ và hiện tại, giữa đi và ở, giữa mất và còn, giữa hoa và gió, giữa người và cảnh. ở đây các mối quan hệ cũng đan xen vào nhau, tác động lẫn nhau. Bao trùm lên toàn bài là kỷ niệm đẹp của quá khứ và nỗi nhớ nhung luyến tiếc không nguôi trong hiện tại.

Ví dụ 6 : Tái kinh Hồ Thành huyện
Đỗ Tuân Hạc

Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh.
Kim niên huyện tể gia chu phất,
Tiện thị thương sinh huyết nhiễm thành.
(Năm ngoái từng qua huyện thành này,
Không miệng người dân nào mà không kêu oan.
Năm nay quan huyện lại được thưởng thêm tua đỏ,
Hẳn là do máu dân lành nhuộm nên đấy.)

Bài này gồm các mối quan hệ đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa dân chúng và quan huyện, giữa nỗi oan khuất và nỗi bất bình, giữa tua đỏ của quan và máu đỏ dân lành, cuối cùng là thành tích của quan huyện và nỗi đau khổ của dân lành. Đó chính là lời tố cáo tội ác bọn tham quan ô lại và tấm lòng đồng cảm của tác giả đối với người dân lao động.

Ví dụ 7 : Ký Phu
Trần Ngọc Lan

Phu thú biên quan thiếp tại Ngô,
Tây phong xuy thiếp thiếp ưu phu.
Nhất hàng thư tín thiên hàng lệ,
Hàn đáo quân biên y đáo vô ?
(Chồng đi thú nơi biên ải, thiếp ở đất Ngô,
Gió tây thổi thiếp lạnh, thiếp lo cho chồng.
Một dòng thư viết, nghìn dòng nước mắt,
Rét đến bên chàng, áo có đến không ?)

Bài này tập trung các mối quan hệ đối lập giữa chồng và vợ, giữa biên ải và quê hương, giữa xa cách và tình cảm lo nhớ, giữa gió lạnh và nỗi âu lo, giữa thư từ và nước mắt, giữa gió lạnh và áo ấm, giữa đến và không đến. Bao trùm lên toàn bài là sự ly biệt và tấm lòng nhớ thương lo lắng cho chồng của người vợ ở quê nhà.

Ví dụ 8 : Phong kiều dạ bạc
Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
(Trăng xế, quạ kêu sương đầy trời,
Khách ngủ trước cảnh buồn của đèn chài le lói dưới lùm cây phong bên sông.
Tiếng chuông chùa Hàn Sơn ngoài thành Cô Tô,
Nửa đêm vang vọng đến thuyền khách.)

Bài này gồm các mối quan hệ đối lập giữa ẩn và hiện, giữa trăng và sương, giữa động và tĩnh (tiếng quạ, tiếng chuông, thuyền khách ngủ) giữa cái nhỏ bé và sự bao la vô cùng, giữa sáng và tối, giữa quên lãng và chợt tỉnh. Bao trùm lên là nỗi buồn nặng trĩu vô tận không thể nào quên được trong tâm trạng cô đơn của kẻ lữ thứ.

Bài 9 : Cung trung từ
Chu Khánh Dư

Tịch tịch hoa thì bế viện môn,
Mỹ nhân tương tịnh lập quỳnh hiên.
Hàm tình dục thuyết cung trung sự,
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.
(Hoa nở lặng lẽ, cửa cung đóng im lìm,
Người đẹp túm tụm đứng bên hiên ngọc.
Chuyện riêng trong cung, u uất trong lòng muốn kể với nhau.
Nhưng thấy con chim vẹt đậu cạnh bên, nên không dám nói nữa ! )

Bài này gồm các quan hệ giữa hoa nở và cửa đóng, giữa người và vật, giữa tự do và tù túng, giữa con người có tâm hồn và sự vật vô hồn, giữa nỗi niềm cay đắng âm thầm và niềm khao khát muốn được chia xẻ.

Lời thơ không nói những lời trực tiếp so sánh mà lại thực là so sánh : Thân phận những người cung nữ chẳng khác gì những bông hoa lặng lẽ nở rồi tàn trong bốn bức tường kia. Đến cả tâm hồn và nỗi lòng chua xót cũng bị giam cầm “khóa kín” ở tận đáy lòng, không dám thốt ra lời. Thân phận họ chẳng khác gì con chim “anh vũ bị nhốt trong lồng" nhưng lại còn không bằng cả con chim anh vũ nữa, vì chúng còn có thể hót lên lời... Hơn thế nữa còn sợ cả con chim Anh vũ. Một nỗi sợ hãi tưởng như phi lý mà thật có lý, vì chim kia mà nghe thấy, nhắc lại những nỗi niềm tâm sự, lộ ra thì e tính mạng cũng khó mà chu toàn được !

Ví dụ 10 : Lũng tây hành
Trần Đào

Thệ tảo Hung Nô bất cố thân.
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
Khả liên Vô Định hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
(Thề quét sạch quân Hung Nô không quản gì thân sống,
Năm ngàn binh lính đội mũ lông điêu, mặc áo gấm bị chôn vùi ở đất Hồ.
Thương thay những nắm xương bên bờ sông Vô Định ấy,
Mà vẫn còn là người trong mộng của nàng khuê phụ chốn phòng xuân)

Bài này tập trung các mối quan hệ đối lập giữa sự ra đi và trở về, giữa sống và chết, giữa thắng và bại, giữa ý chí quyết chiến và kết cục bi thảm, giữa mộng và thực. Bao trùm lên toàn bài là giữa hùng tráng và bi thương. Sau cùng là tiếng kêu đồng cảm thầm kín và gián tiếp bộc lộ tiếng nói tố cáo chiến tranh thảm khốc vô nghĩa của tác giả.

*
**

Qua 10 ví dụ dẫn ra trên đây của các tác giả khác nhau ta có thể thấy rất rõ phép “Cấu trúc đối lập” này là thi pháp phổ biến trong những bài thơ thất tuyệt mà cũng là phổ biến trong thơ Đường nói chung. Phép cấu trúc đối lập này được các nhà thơ thể hiện bằng hình ảnh, sự việc hoặc tâm trạng đan xen vào nhau, theo” nút” mâu thuẫn, để “kịch tính” đạt đến đỉnh cao, thường ở cuối bài thơ, khiến cho người đọc nhiều khi phải sửng sốt khi bài thơ kết thúc, gây nên một sự rung động đột biến trong cảm xúc thẩm mỹ của người đọc. Chính điều này đã khiến cho sự so sánh thơ tuyệt cú với truyện ngắn của nhà phê bình văn học Trung Quốc Lưu Học Khải rất có lý: ”truyện ngắn thường thường cắt ra một mảnh ngang của cuộc sống, thêm vào cách thể hiện tập trung để người đọc từ “lát cắt ngang” này có thể nhận thấy tất cả cuộc sống. Tuyệt cú ở điểm này, có chút giống như truyện ngắn” (Đường thi giám thưởng từ điển - Thượng Hải, xuất bản xã, năm 1989, trang 129)

T.N.C

TB

MINH ĐẠO GIA HUẤN VÀ VẤN ĐỀ NGƯỜI XƯA VỚI GIÁO DỤC GIA ĐÌNH

TẠ ĐĂNG TUYÊN

Đến đầu thế kỷ XX, Nho học tuy đã ở trong cảnh "Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co" nhưng chữ Nho vẫn còn được không ít người tiếp tục theo học và thường được học song song với chữ Quốc ngữ, chữ Pháp trong hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc. Tuy không có giá trị về mặt thi cử, tiến thân, song do một bộ phận dân chúng còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, nên chữ Nho vẫn được nhiều người, nhất là ở nông thôn, coi là chữ nghĩa thánh hiền. Trong các lớp học chữ Nho thời ấy có một cuốn sách khá phổ biến, nó vừa mang tính chất như một cuốn sách đạo đức, luân lý phổ thông, vừa mang tính chất như một cuốn sách giáo khoa chữ Hán. Đó là cuốn Minh đạo gia huấn của Trình Minh Đạo(1). Hãy loại bỏ những hạn chế tư tưởng Nho giáo thì cuốn sách này có nhiều nội dung về giáo dục gia đình rất đáng chú ý. Với suy nghĩ như vậy chúng tôi mạnh dạn nêu ra những nét tích cực của sách Minh Đạo gia huấn về giáo dục gia đình.

Ngay tên sách cũng đã nói được nội dung của sách: Minh Đạo gia huấn - lời răn dạy trong gia đình của Minh Đạo. Sách gồm 507 câu được viết theo thể thơ bốn chữ. Có lẽ nhằm bảo đảm vần điệu của thơ nên nội dung của sách trình bày không được mạch lạc, chặt chẽ theo từng chủ đề rõ ràng, nhiều chỗ bị trùng lặp. Chúng tôi lược bỏ những phần trùng lặp hoặc không phù hợp và tạm sắp xếp theo một số chủ đề giáo dục theo cách hiểu của chúng ta ngày nay.

1. Khẳng định vai trò của giáo dục trong việc hình thành nhân cách

Có lẽ trong chúng ta nhiều người còn nhớ cách đây ít lâu do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, trong dân gian đã xuất hiện những câu ca làm đau lòng mọi người, nhất là những nhà lãnh đạo, nhà giáo dục: "Văn hay chữ tốt không bằng thằng dốt lắm tiền", "Phó tiến sĩ chẳng bằng phó mộc"... Từ đó ta thấy thật đáng kính thế hệ cha ông chúng ta dẫu thiếu thốn trong cuộc sống đời thường vẫn hiếu học, trọng học. Tinh thần hiếu học được hình thành từ nhiều điều kiện khác nhau, trong đó có tác động của người thầy - ông đồ - trong khi học Minh Đạo gia huấn.

Phàm nhân bất học (Phàm người chẳng chịu học)

Minh như dạ hành (Mờ tối như đi đêm)

Thính thi như lung (Nghe thơ như điếc)

Vọng tự như manh (Trông vào chữ như mù)

Tử tôn tuy hiền (Con cháu dẫu hiền)

Bất giáo bất tinh (Không dạy dỗ thì chẳng tinh khôn được).

Học không phải là hoạt động của riêng ai, lớn hay bé, giàu hay nghèo, sang hay hèn... "Giáo dục suốt đời" của Nhật Bản, "giáo dục thường xuyên" của ta hiện nay chính theo đường hướng ấy.

Bần nhi cần học (Nghèo mà chịu khó học)

Khả dĩ lập thân (Có thể lập được thân)

Phú nhi cần học (Giàu mà chịu khó học)

Ích vinh kì danh (Càng vẻ vang tiếng tăm)

Bất sỉ hạ vấn (Không xấu hổ hỏi người dưới)

Nghĩa lí ích tinh (Nghĩa lí càng tinh tường).

Khốn nhi tri chi (Cùng khốn mà hiểu biết)

Phi trí nhi hà (Chẳng phải là người có trí sao)

"Tiên học lễ, hậu học văn", hiện còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này song nếu ngày nay chúng ta tới các trường sẽ thấy quan niệm về giáo dục này được kẻ trên tường như một khẩu hiệu để phấn đấu, Trình Minh Đạo cũng có lập trường như thế.

Huấn đạo chi sơ (Bước đầu dìu dắt, dạy bảo)

Tiên thủ lễ pháp (Trước hết phải giữ lễ phép)

Một điểm đáng chú ý là Trình Minh Đạo phân biệt vai trò của con gái trong gia đình và việc giáo dục con cái. Một mặt ông không thừa nhận vai trò của con gái trong gia đình (bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại = có ba loại bất hiếu thì không có con trai nối dõi là bất hiếu lớn nhất). Mặt khác ông lại đề cao việc giáo dục con gái. Ông đã nhận thấy tầm quan trọng của giáo dục đối với con cái, dù trai hay gái. Đáng tiếc thay cho đến nay trong xã hội vẫn còn có nơi, có gia đình cho con gái đi học một cách miễn cưỡng.

Dưỡng nam bất giáo (Nuôi con trai mà không dạy)

Bất như dưỡng lư (Chẳng bằng nuôi con lừa)

Dưỡng nữ bất giáo (Nuôi con gái mà chẳng dạy)

Bất như dưỡng chư (Chẳng bằng nuôi con lợn)

Nữ tử bất học (Con gái không được học)

Bất tri lễ nghĩa (Không biết điều lễ nghĩa)

Nam tử bất học (Con trai không được học)

Bất thông sự lí (Không hiểu được lẽ phải)

2. Xác định trách nhiệm trong giáo dục con người.

Ngày nay chúng ta thường nói đến là ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội. Tư tưởng đó đã được người xưa nói đến.

Dưỡng nhi bất giáo (Nuôi mà chẳng dạy)

Nãi phụ chi quá (Là lỗi của người cha)

Giáo nhi bất nghiêm (Dạy dỗ mà không nghiêm)

Nãi sư chi nọa (Là sự khiếm khuyết của người thầy).

Cận chu giả xích (Gần son thì đỏ)

Cận mặc giả hắc (Gần mực thì đen).

Ngoài ra còn phải nói đến vai trò của chủ thể, ở đây là người học. Dù gia đình quan tâm đến mấy, dù thầy có giỏi giang đến mấy song người học không chịu học tập, trau dồi đạo đức thì cũng đành chịu. Trong xã hội ngày nay có biết bao gia đình giàu có, tạo điều kiện tốt nhất cho con học, kể cả thuê gia sư theo các môn học khác nhau mà con vẫn hư, học vẫn kém. Trong những trường hợp này người ta thường hay đổ cho số mà không thấy tầm quan trọng của vai trò chủ thể của người học. Người xưa không chỉ thấy vai trò chủ thể của người học mà còn nhìn nhận nó ở khía cạnh đạo đức. Lười học không đơn thuần chỉ là lười biếng về một loại hình lao động mà là sự tự hư hỏng. Thực ra điều đó rất hợp với lôgích tự nhiên, phàm những người phạm pháp ở tuổi vị thành niên thường mở đầu bằng sự lười biếng trong học hành, tiếp theo là trốn học, rồi đến bỏ học và số đông tiếp theo là phạm pháp.

Học vấn bất cần (Học hỏi chẳng siêng năng)

Nãi tử chi ác (Là sự hư hỏng của người con)

Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, tính kế thừa được thực hiện giúp cho quá trình tiến hoá thuận lợi, để thế hệ sau hơn thế hệ trước.

Hậu tòng tiên giáo (Người biết sau theo người biết trước)

Theo người trước song còn phải xem xét những khuyết điểm của người đi trước để tránh những thiếu sót có thể xảy ra.

Giám cổ tri kim (Soi đời xưa biết đời nay).

3. Vai trò của môi trường giáo dục

Đọc Cổ học tinh hoa của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tử Văn Trần Lê Nhân hẳn nhiên nhiều người còn nhớ chuyện "Mẹ hiền dạy con". Đó là chuyện nói về bà mẹ của Mạnh Tử chọn hàng xóm - môi trường giáo dục - để con có điều kiện học tập và sau này trở thành bậc đại hiền. Cũng với tinh thần đó, Trình Minh Đạo đã gói gọn thành những câu bốn chữ súc tích rất gần gũi với tục ngữ:

Cư tất trạch lân (ở phải chọn láng giềng)

Giao tất trạch hữu (Chơi bời phải chọn bạn)

Cận chu giả xích (Gần son thì đỏ)

Cận mặc giả hắc (Gần mực thì đen).

4. Giáo dục gia đình, nền tảng của phát triển.

Trong "Đi tìm một bảng giá trị về gia đình trong thời đại chúng ta" (Nhân dân, 5-5-1996) ông Vũ Ngọc Khánh đặt câu hỏi: "...các tiêu chuẩn của một gia đình phải như thế nào mới đúng ? Việc giáo dục gia đình của chúng ta có dựa trên các tiêu chuẩn ấy không ? Hàng nghìn năm nay, đã có nhiều ý kiến về giáo dục gia đình. Vậy bảng giá trị về một gia đình lý tưởng là thế nào ?..." Chúng tôi rất tâm đắc với cách đặt vấn đề của tác giả. Nói đến vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ có lẽ không ai phản đối. Song gia đình đóng vai trò cụ thể như thế nào thì chưa được lý giải rõ ràng, nhiều ý kiến rất khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau. Qua Minh Đạo gia huấn chúng tôi nhận thấy tác giả bàn về vấn đề này khá đơn giản. Ông không lí thuyết dài dòng mà đưa ra những chuẩn mực cho từng đối tượng thành viên qua từng câu bốn chữ một:

Vi phụ chí từ (Làm cha phải có lòng thương)

Vi tử chí hiếu (Làm con phải có hiếu)

Vi huynh chí ái (Làm anh phải yêu em)

Vi đệ chí cung (Làm em phải trọng anh)

Vi phu chí hoà (Làm chồng phải vui hoà)

Vi phụ chí thuận (Làm vợ phải nhu thuận)

Quả thật, không cần lí thuyết cao siêu, mỗi thành viên trong gia đình làm được những điều như vậy thì có lẽ không còn gì để nói. Song cái khó là ở chỗ mỗi chuẩn mực như thế đòi hỏi người ta phải tự giáo dục mình nhiều lắm. Làm được những điều như thế đâu có dễ !

Trong giáo dục gia đình, người xưa rất coi trọng chữ hiếu. Phàm những người có hiếu với cha mẹ đều là những người có ích cho xã hội, còn những ai bất hiếu với cha mẹ thường bị xã hội lên án cũng thường là loại người không có ích cho đời. Đã có thời kỳ Nhị thập tứ hiếu được đưa vào giảng dạy trong nhà trường (tại các trường ở bậc sơ học, người ta lưu hành bộ Luân lý giáo khoa thư, trong đó vẫn dạy học trò bổn phận đối với ông bà, cha mẹ, anh chị v.v... ở bậc trên, bài học luân lý bỏ đi, nhưng sách Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm có trích giảng Nhị thập tứ hiếu - Vũ Ngọc Khánh, tài liệu đã dẫn). Trong Minh Đạo gia huấn, tác giả đưa ra tám hình thức bất hiếu. Đó là:

Túng thân dung lãn (Làm kẻ lười biếng)

Học vấn bất cần (Học hành không siêng năng)

Đổ bác vong thân (Quên mình vì cờ bạc)

Tửu sắc tranh đấu (Rượu chè, trai gái, gây gổ)

Đạo thân bôn tẩu (Theo lũ trộm cướp)

Tranh tụng bại gia (Kiện tụng để cửa nhà sa sút)

Tông tộc bất hoà (Họ hàng không hoà mục)

Phụ mẫu bất ái (Không yêu mến cha mẹ)

Trong tám dạng bất hiếu thì không siêng năng học hành được xếp thứ hai, một lần nữa điều đó chứng tỏ người xưa rất hiếu học và trọng đạo học.

5. Chữ "nhẫn" trong qua hệ gia đình

Trên các phương tiện thông tin báo chí đang báo động về những con số không vui: tỷ lệ li hôn, phạm pháp, phạm pháp ở tuổi vị thành niên, tai nạn giao thông... ngày một tăng. Nguyên nhân thì nhiều, song có một điều ai cũng nhận thấy phần nhiều do hiếu thắng, thiếu lòng vị tha. Chỉ vì chuyện vặt vãnh mà vợ chồng đưa đơn ra toà không kể đến đứa con nhỏ. Chỉ vì một chuyện không đâu mà người ta cũng có thể rút dao đâm chém nhau. Chỉ vì không nhường đường nhau mà cả hai xe đều lâm nạn. Những chuyện như vậy kể sao cho xiết. Người ta thường bảo nhau: "Giá mà..." Tiếc thay mọi chuyện đều thiếu chữ "giá mà...". Trong quan hệ gia đình, Trình Minh Đạo đã báo trước để mọi người thực hiện tránh những điều đáng tiếc rất dễ xảy ra trong cuộc sống đời thường.

Phụ tử nhẫn chi (Cha con biết nhịn nhau)

Tự toàn kì đạo (Tự tròn vẹn được đạo cha con)

Huynh đệ nhẫn chi (Anh em biết nhịn nhau)

Gia trung vô hại (Trong nhà không bị tổn hại)

Phu phụ nhẫn chi (Vợ chồng biết nhịn nhau)

Linh tử bất cô (Khiến con trẻ chẳng bị côi cút)

Và ra ngoài xã hội lại càng cần có sự nhường nhịn, cảm thông.

Bằng hữu nhẫn chi (Bè bạn biết nhịn nhau)

Kì tình bất sơ (Tình bạn không bị xa cách)

Hành giả nhượng bộ (Người đi đường nhường bước)

Canh giả nhượng bạn (Người làm ruộng nhường bờ).

Một điều chúng tôi rất tâm đắc là sách đề cao vai trò của chủ thể trong mọi mối quan hệ. Thực thế, nếu chỉ mong ở sự vị tha của người khác còn mình thì ích kỉ, chỉ mong sự nhẫn nhịn của người khác còn mình thì hiếu thắng thì làm sao có thể giữ cho các mối quan hệ trong xã hội tốt đẹp được.

Tự thân nhẫn chi (Tự mình biết nhịn)

Nhân nhân ái lạc (Mọi người yêu mến vui vẻ)

6. Giáo dục và quá trình tự giáo dục

Trong giáo dục đòi hỏi phải có tự giáo dục. Nếu thiếu tự giáo dục thì nhân cách không hoàn thiện. Người xưa rất coi trọng tự giáo dục và đó chính là nét rất riêng trong giáo dục của người xưa. Tự giáo dục ở mọi khía cạnh cuộc đời. Trong Minh Đạo gia huấn đưa ra nhiều tình huống để tự giáo dục khác nhau. Đối với bản thân mình phải biết kiềm chế dục vọng đời thường.

Nhân tham tài tử (Người tham của sẽ chết).

Điểu tham thực vong (Chim tham ăn sẽ chết)

Phải biết tự nghiêm khắc với chính mình, biết cần kiệm, lo xa, sống có bản lĩnh dù ở trong bất kì tình huống nào. Thực tế cho thấy đó không phải là chuyện dễ. Khi người ta ở vào hoàn cảnh mới, thường bị hoàn cảnh mới chi phối và thường tự đưa ra nhiều lý do nghe chừng xác đáng để bào chữa cho chính mình. Một người nghèo, gặp lúc khó khăn (hay đôi khi không khó khăn, song tự nhận là khó khăn để hy vọng được giảm nhẹ khuyết điểm) trót mắc điều lầm lỗi thường tự bào chữa: "đói ăn vụng, túng làm càn". Cái mà người ta phải luôn trau dồi là "đói cho sạch, rách cho thơm" như ông cha ta thường dạy, một hình thức tự giáo dục theo người ta đến hết đời.

Tự tiên trách kỉ (Trước tự trách mình)

Nhi hậu trách nhân (Sau hãy trách người khác)

Thủ trọng ư nhân (Kính trọng người khác)

Thị trọng kì thân (Là kính trọng mình)

Bần nhi vô siểm (Nghèo mà không xu nịnh)

Phú nhi vô kiêu (Giàu mà không kiêu ngạo)

Tích cốc phòng cơ (Chứa lương thực phòng lúc đói)

Tích y phòng hàn (Chứa áo phòng lúc rét)

Cần kiệm tề gia (Cần kiệm trong việc nhà)

Cấm chỉ xa hoa (Cấm ngặt sự xa hoa)

Đắc vinh tư nhục (Lúc vinh hiển nhớ lúc nhục)

Cứ an lự nguy (Lúc ở yên lo lúc nguy).

Một điểm đáng lưu ý là Trình Minh Đạo không thành kiến với những người đã mắc lỗi nhưng biết sửa chữa. Đó là quan điểm rất nhân văn. Và hơn thế nữa, ông còn tin ở khả năng vươn lên trên mức bình thường ở người mắc lỗi: "Diệc khả vị hiền". Sau khi nêu ra tám dạng bất hiếu thì tác giả vẫn khẳng định dù vậy nhưng nếu biết sửa chữa thì vẫn là người tốt.

Tri quá nhi cải (Biết lỗi mà sửa)

Diệc khả vị hiền (Cũng có thể gọi là hiền).

7. Quan niệm nhân quả, phải chăng một đòn bảy cho giáo dục đạo đức ?

Tội ác, tệ nạn xã hội là điều khó có thể tiêu diệt tận gốc rễ, chỉ có điều là nhiều hay ít, bình thường hay nghiêm trọng mà thôi. Nếu trước đây ta ít thấy chuyện trộm cướp ở những nơi tôn nghiêm, linh thiêng như đền, chùa, thì ngày nay điều đó đã xảy ra nhiều. Chúng tôi còn nhớ khi còn nhỏ mỗi khi ra chùa, ra miếu chơi, nghịch, có làm điều gì tổn hại đến nhà chùa, miếu thờ (vặt quả ổi, chặt một chạc cây làm súng cao su...) thân mẫu chúng tôi lấy làm sợ hãi lắm. Người thường răn dạy và bao giờ cũng có câu: "Của Bụt mất một đến mười, Bụt vẫn còn cười Bụt chẳng nhận cho". Dẫu rằng tuổi nhỏ chưa hiểu hết lẽ đời, song với những câu chuyện có qui luật nhân quả và đượm màu sắc tôn giáo đã góp phần ngăn chặn cái ác. Phải chăng khi người ta ý thức được qui luật nhân quả (thực ra qui luật nhân quả là thứ qui luật rất biện chứng: một người bất hiếu với bố mẹ thì đó là tấm gương cho đứa con noi theo khi ở tuổi trưởng thành) thì ít mắc vào vòng tội lỗi. ý thức được điều đó, và có lẽ do ảnh hưởng ở thuyết nhà Phật, Trình Minh Đạo đã đưa ra thuyết nhân quả vào sách giáo dục của mình như một lời răn.

Phụ mẫu hành ác (Cha mẹ làm điều ác)

Di hoạ tử tôn ( Để vạ cho con cháu)

Hoạ phúc vô môn (Hoạ phúc không chọn cửa).

Duy nhân tự triệu (Chỉ do con người tự vời đến).

Chủng qua đắc qua (Trồng dưa được dưa).

Chủng đậu đắc đậu (Trồng đậu được đậu).

Thiên võng khôi khôi (Lưới trời lồng lộng).

Sơ nhi bất lậu (Thưa mà chẳng lọt).

Tích thiện phùng thiện (Chứa điều hay gặp điều hay)

Tích ác phùng ác (Chứa điều ác gặp điều ác).

Nhân hậu phùng hậu (Ăn ở nhân hậu sẽ gặp điều nhân hậu).

Xứ xứ tương phùng (Đến chỗ nào cũng gặp nhau).

Mưu thâm họa thâm (Mưu sâu hoạ sâu).

Oan oan tương báo (Oan ức có quả báo).

8. Tự giác của con người và sự cần thiết của luật pháp

Con người sống trong xã hội có phần nào đó giống như người diễn viên xiếc đi trên dây, bước trước giữ được thăng bằng thì yên, bước sau không giữ được thăng bằng thì ngã. Người ta ở đời cũng vậy, không tự điều chỉnh để đi đúng hướng thì dễ sa vào vòng tội lỗi, dù trước đó đã làm được nhiều điều tốt. Một trong những biện pháp làm người ta phải luôn tự điều chỉnh mình, biết tránh cái ác là luật pháp. Luật pháp lỏng lẻo làm người ta dễ sinh nhờn, không có tác dụng răn đe. Trình Minh Đạo nói nhiều đến giáo dục, tự giáo dục song ông cũng không quên uy quyền của pháp luật có tác dụng đối với quá trình hình thành nhân cách con người.

Nhân tâm như thiết (Lòng người như sắt).

Quốc pháp như lô (Phép nước như lò).

Nhưng để có người đứng trên luật pháp thì luật pháp không còn tính giáo dục nữa, mà nó sẽ cũng không còn là luật pháp và trở thành một thứ công cụ áp bức. Vì một lẽ tất nhiên bản thân luật pháp là công bằng, nghiêm minh và tuyệt đối khách quan.

Văn pháp bất cô (Pháp luật không riêng ai)

*
**

Trên đây là những suy nghĩ bước đầu nhân nghĩ về một cuốn sách xưa đã được học từ thuở ấu thơ. Rất mong được sự chỉ giáo của các bậc túc nho, các bạn đồng nghiệp để hiểu biết của chúng tôi được hoàn thiện, nhằm góp phần vào công tác nghiên cứu giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, đặc biệt là giáo dục gia đình, một vấn đề bức xúc hiện nay.

T.Đ.T

CHÚ THÍCH

(1) Trình Minh Đạo (1032-1085) tức Trình Hạo, tự là Bá Thuần - bậc danh nho đời Tống, có công mở rộng và hoàn thiện học thuyết Khổng Mạnh. Em là Trình Di cũng là một đại nho. Người đời sau suy tôn là "Nhị Trình". Thành ngữ của ta có câu "cửa Khổng sân Trình" là có ý đề cao họ Trình là người kế tục họ Khổng trong Nho học.

TB

NGHĨ TỪ HOÀNG XUÂN HÃN

PHONG LÊ

Tôi viết về Hoàng Xuân Hãn khi giỗ đầu của ông đã qua (10-3-1997) và ngày sinh lần thứ 90 của ông còn chưa đến (14-1-1998). Tôi viết về ông như một ngẫu nhiên, không chủ định, sau một chuyến đi xa về. Nhưng tự trong thâm sâu của ý thức, tôi biết trước sau gì rồi tôi cũng phải có hạnh phúc được "chiêm ngưỡng" ông, khi thế kỷ XX sắp kết thúc. Một thế kỷ qua với không ít con người đã để lại dấu ấn trên gương mặt tinh thần của nó, mà ông là một không nhiều trong số đó.

Họ Hoàng Xuân, một dòng họ nổi tiếng cùng một vài dòng tộc khác ở tỉnh Hà Tĩnh mà tôi được nghe biết từ lúc nhỏ. Tuổi thơ, mỗi lần đi phủ Đức (Đức Thọ), qua khỏi bến Tam Sa, tôi đều được thầy tôi - một hương sư - chỉ cho biết nơi này nơi kia là quê các danh nhân được truyền tụng, trong đó có tên tuổi họ Hoàng Xuân.

Khi đã là học trò tôi được biết và học với một số thầy họ Hoàng. Cái tên Hoàng Xuân Hãn lần đầu tôi được tiếp xúc là khi có trong tay từ rất sớm hai bộ sách Lý Thường Kiệt và La Sơn phu tử. Hai bộ sách, tôi nhớ loại cỡ to, khá dày, có nhiều chữ Hán và ảnh minh chứng. Sách là sách khảo cứu, trí óc non nớt chưa đủ hiểu; nhưng vẫn có thể đến tay tôi, để cho tôi mân mê lướt nhìn; và cái tên Hoàng Xuân Hãn cách đây ngót 45 năm trong tôi đã gợi một ấn tượng khó phai.

Lớn lên, vào đời, không theo học chữ Hán, không chuyên về cổ văn, tôi không chú tâm học hỏi, tìm hiểu về ông. Chỉ thỉnh thoảng được nghe nhắc đến ông, biết đó là một trí thức lớn, sống ở nước ngoài.

Dần dần về sau tôi mới được biết thêm về ông, một nhà bách khoa, tinh thông nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, trong đó Sử, Văn, và Văn hoá nước nhà là các môn cơ bản; và là một trí thức sống lâu năm ở nước ngoài, nhưng vẫn nặng lòng yêu quê, yêu nước.

Tôi nghĩ đến một đầu óc bách khoa. Ông tinh thông về Toán. Đậu Tú tài Toán (năm 1928), rồi tiếp tục là Cử nhân Toán (năm 1935), và Thạc sĩ Toán (1936), rồi dạy Toán ở trường Bưởi cho đến tháng ba năm 1945. Tốt nghiệp Kỹ sư cầu đường (năm 1934). Làm cuốn sách Danh từ khoa học (năm 1942) và đã nghĩ đến công việc đó từ khi học trường Bách khoa ở Paris (năm 1930). Rồi theo học khoa học nguyên tử (1956-1958) và công bố những phát kiến của mình trên tờ Industries atomiques (năm 1956) - để trở thành "kỹ sư nguyên tử đầu tiên của nước ta"(1). Mỗi ngành học, cả học và hành, ông đều đạt kết quả cao. Một năng lực bách khoa ở tuổi thanh niên như thế dường như là thích hợp với cách tìm đường của một thế hệ như ông - Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên... rồi tiếp đến, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện... Về sau, kiểu người như vậy vẫn còn, nhưng ít dần, rồi hết hẳn. Tôi nghĩ đó là con đường do yêu cầu và mang tính đặc trưng của thời cuộc mà hơn một thế hệ đã chọn đi trong thân phận của người dân mất nước, trong mong muốn gắn bó giữa lập thân và đóng góp cho đất nước.

Ở bất cứ lĩnh vực chuyên môn nào như trên, nếu có hoàn cảnh đi cho đến cùng, Hoàng Xuân Hãn đều có khả năng trở thành một người có danh, và nổi danh. Nhưng rồi ông đã chọn, theo thiên hướng riêng và hoàn cảnh riêng, con đường khảo cứu: lịch sử, văn hoá sử, văn học sử dân tộc. Con đường đó thật ra ông cũng đã chọn từ trước 1951, khi ông còn ở trong nước, vào tuổi ngoài 40, với Lý Thường Kiệt (1949), Đại Nam quốc sử diễn ca (1949), Hà thành thất thủ (1950), Thi văn Việt Nam (1951)... Nhưng càng về sau, trong hoàn cảnh xa nước, và khi tuổi đã cao thì con đường trở về với ngọn nguồn văn hoá dân tộc hoàn toàn và triệt để chi phối ông. Khoa văn bản học nếu dần dần đã được quan tâm ở nước ta cùng với việc mở lại Đại học Hán học thuộc Viện Văn học trong những năm chống Mỹ thì cái người thật sự để lại những tác phẩm hoàn hảo ở lĩnh vực này lại chính là ông. Thế kỷ XX đã làm xuất hiện không phải nhiều lắm tên tuổi các học giả có đủ cả hai loại tri thức về Khoa học và Văn chương, về Hán học và Tây học; rồi chính nhờ vào sự song hành và tinh thông của cả hai phía đó mà đối tượng nghiên cứu là cái vốn văn hoá cổ kim của dân tộc và nhân loại mới có điều kiện để trở nên thâm sâu và mới mẻ hơn. Hoàng Xuân Hãn theo tôi có lẽ là người hiếm hoi, và có thể là người cuối cùng trong số đó. Ông qua đời mang theo nốt sự hiện diện hiếm hoi ấy. Giờ đây, ai xứng đáng được gọi là người có thể nối nghiệp ông ? Tôi nói điều này mà không ngại sợ bị quy kết là sùng bái cá nhân, hoặc quá bi quan !

Trong cái vốn di sản văn hoá dân tộc mà Hoàng Xuân Hãn quan tâm và theo đuổi trong suốt nửa sau hơn 45 năm cuộc đời mình, kể từ khi ông ra nước ngoài, rồi thôi theo đuổi công việc nghiên cứu về hạt nhân, phần kết quả sâu sắc ông để lại xem ra lại ở khu vực văn Nôm. Đó mới là hiện tượng đáng quý, rất đáng quý. Khỏi phải nói văn Nôm là nơi kết tinh rõ nhất cốt tính về tinh hoa của dân tộc và văn hoá dân tộc. Đó lại cũng là chỗ "khó" nhất cho việc dựng lại trung thực diện mạo của nó trong lịch sử, vì sự "tam sao thất bản" trong truyền miệng, vì tính cách lệ thuộc vào quá nhiều yếu tố trong cấu tạo, ghi chép , nhận diện... Hoàng Xuân Hãn đã không trốn tránh đi vào chỗ khó nhất ấy. Và đi vào với tất cả sự thận trọng, vừa tìm kiếm vừa xác nhận các qui luật; theo một phương pháp thật là khoa học để có thể đến được với các văn bản cổ nhất. Do vậy mà ông đạt được một hiệu quả có thể nói là chưa ai sánh bằng trên từng văn bản cổ và trong hệ thống chuyên ngành Hán - Nôm học. Tôi nói điều này là căn cứ vào ý kiến của một số bậc trưởng lão trong ngành Hán Nôm hiện nay ở ta. Công việc mấy năm gần đây ông đang làm, theo tôi biết, đó là văn Nôm Nguyễn Du. Cái ông đã làm xong là Văn tế thập loại chúng sinh, cái ông đang triển khai là Truyện Kiều. Ai trong chúng ta cũng đều hiểu Nguyễn Du là đỉnh cao nhất của văn học Nôm. Hoàng Xuân Hãn làm việc này ở tuổi ngoài 80 - tuổi đã quá đủ, quá thừa cho việc tổng kết toàn bộ tri thức và kinh nghiệm của cả một đời người. Và văn Nôm Nguyễn Du cũng chính là công việc mà nhiều chuyên gia trong giới nghiên cứu chúng ta đã khởi công làm suốt mấy chục năm qua; còn nếu tính chung và rộng ra trong nền học thuật Quốc ngữ thì nó còn lùi sâu vào nhiều thập niên nửa đầu thế kỷ. Văn Nôm Nguyễn Du, chẳng riêng Truyện Kiều cũng là thứ văn sống không chỉ trong văn bản mà còn sống cái sống vinh dự nhất là trong lòng dân, trong lối cảm nghĩ của dân, trong lời ăn tiếng nói của dân. Hơn nửa thế kỷ nay, Hoàng Xuân Hãn không còn điều kiện đi tìm văn bản Kiều trong lòng dân, và trong các thế hệ hậu sinh, như ở tuổi 30 ông đã từng đi trên đất Tiên Điền. Ông chỉ âm thầm một mình một bóng với sách vở, với những suy xét, đối chiếu cực kỳ tỉ mỷ trên sách vở. Thế nhưng tôi biết những thức giả có tiếng là uyên bác, được kỳ vọng nhất ở nước ta hôm nay, vẫn phải tôn ông là bậc Thầy.

Gắn bó với văn học Nôm, nơi đỉnh cao nhất của nó là Nguyễn Du, nơi tưởng đã hết mọi điều cần nói - đó là câu chuyện ông đã dốc cả cuộc đời, kể từ nửa cuối những năm 30. Nhưng ở tuổi gần 90 ông mới nghĩ là có dịp hoàn thiện. Xem thế mới thấy bể học quả là khôn cùng và tấm gương Hoàng Xuân Hãn thật đáng vô cùng kính nể. Cố nhiên không phải chỉ có Nguyễn Du. Sự gắn bó của ông với văn học Nôm còn được thể hiện ở nhiều khu vực khác như Bích câu kỳ ngộ, Hồ Xuân Hương ... và còn ngược lên rất xa, đầu thế kỷ XIV, nơi văn phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây quả là mối duyên nợ ông gắn bó suốt đời. Và có lúc nó còn là cả một chuyện rất cẩn trọng, rất kỳ khu. Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào là tác phẩm ông sao được bản Nôm năm 1943; khi Đông Hồ gửi ra Bắc cho Hội Khai Trí Tiến Đức; ông đã phiên âm rồi giữ đấy suốt hơn 40 năm. Bởi lẽ phải hơn 40 năm sau, năm 1987, ông mới có dịp chuyển đến một địa chỉ tin cậy, đó là nữ sĩ Mộng Tuyết - quả phụ của nhà thơ Đông Hồ.

Người quan tâm và theo đuổi di sản văn học dân tộc ở cả hai khu vực Hán - Nôm, nhất là Nôm; người ở tuổi ngoài 80 ngót 90 vẫn còn tiếp tục những tìm tòi lặng lẽ trong kiên nhẫn và sáng tạo- người ấy vừa qua dời. Há không là một mất mát lớn hay sao ?

Giờ đây khi ông đã đi vào cõi vĩnh hằng tôi mới có dịp có một hình dung nhất quán - để bổ sung cho một hình dung đa diện - về ông, người với tuổi thọ gần thế kỷ, có một hành trình suốt thế kỷ với biết bao nhiêu là xáo trộn và đổi thay, hơn bất kỳ thế kỷ nào trước đây. Con người ở tuổi ngoài 30, bất chấp hỗn độn và hiểm nguy đã khẩn trương "đi khắp đường phố Hà Nội để cứu vớt những sách tàn giấy cũ bằng chữ Hán bị vứt đi..." ngay sau ngày Chính phủ Trần Trọng Kim đổ(2). (Chuyện vứt sách hoặc đốt sách là chuyện thường xảy ra, không riêng ở ta, trong những phen chuyển thay thời đại, chuyển thay chế độ ! ). Nhà Hán Nôm học Ngô Đức Thọ trong bài trả lời phỏng vấn nhân dịp Tưởng niệm Hoàng Xuân Hãn có nói đến những bản sách ghi "Thư viện HXH" và "Thư viện Hoàng Xuân Hãn" mà ông may mắn được đọc; hẳn chắc trong đó có gồm cả số sách được "cứu vớt" trên đường phố Hà Nội lúc này chăng ?(3). Cũng con người ấy, ở tuổi 50, đã kiên trì đến miệt mài trong đống thư tịch khổng lồ và bề bộn ở các thư viện Phương Tây để tìm cho được những gì có liên quan đến văn hoá dân tộc và ngữ ngôn dân tộc, mà bị lưu lạc nơi xứ người. Cũng con người ấy, ở tuổi 70, rồi 80, đến ngót 90 vẫn lặng lẽ, âm thầm nơi quê người trước các trang giấy cổ đã bợt bạt bởi thời gian, để dựng lại cho thật đúng, thật nguyên vẹn những chân bản văn chương cổ. Những động thái như thế trong các thời đoạn khác nhau đã làm gắn nối liền mạch hai nửa đời của nhà học giả với cùng một bầu tâm huyết, một bản lĩnh, một cốt cách - cốt cách của một kẻ Sỹ chân chính của dân tộc, của một trí thức nặng lòng yêu dân tộc.

Ông đã mất ở một nơi xa, rất xa, để thay cho khái niệm "đất khách quê người". Nơi ông đã phải chọn để sống, để tồn tại, và cả yên nghỉ - có lẽ cũng là bất đắc dĩ, đã không được bao bọc, ấp ủ bởi cảnh và người quê hương. Tôi bỗng chợt nghĩ một điều có thể dễ bị xem là ngớ ngẩn: Dẫu vậy, hay chính vì vậy mà công việc Con người này làm, trong cô đơn, trong âm thầm mới có hiệu quả đến thế ! Có thể đó là một oái oăm, một nghịch lý của sáng tạo chăng ?

Sau tất cả những đóng góp mà đến khi ông mất ta mới có dịp tổng kết lại, để thấy, những đóng góp ấy là khó ai theo kịp, trong lĩnh vực văn hoá dân tộc, từng rất cần, và bây giờ càng cần một đội ngũ chuyên gia giỏi ở nhiều bộ môn cùng làm ... Sau những giá trị mà trước khi chia tay với chúng ta, ông rất xứng đáng ở vị trí người Thầy... Sau tất cả những xác nhận ấy, chúng ta lại thấy con người Hoàng Xuân Hãn - như ông tự thể hiện, lại là một con người rất mực khiêm nhường, và không hết những băn khoăn, trong một nỗi niềm riêng, như trong thư đề ngày 1-12-1994 gửi nhà văn Nguyễn Đức Hiền: "Chúng ta là những kẻ "một hội một thuyền âu ưu vận nước trong sáu bảy mươi năm nay". Những người ở nhà "đã đứng mũi chịu sào, biết mấy phen gian khổ mới có ngày nay, thành quả nước nhà độc lập, thống nhất là điểm trọng". Còn ông "cảnh ngộ tuy khác, nhưng đã cố gắng giữ tấm lòng trung kiên để dự bị phòng khi giúp ích, và nhất là trù tính tương lai dân tộc vững chắc giữa thế giới hoà bình(4). Rõ ràng ai trong đời mà chẳng mong có một đóng góp cụ thể cho quê hương, cho đất nước. Nhưng con người chỉ được sống, được hành động trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử, trong những qui định của lịch sử. Hoàn cảnh lịch sử của ông là vậy: phải rời quê hương từ 1951 cho đến 1996, là năm qua đời. Ai cũng có một tư cách hành xử ở đời. Ông đã chọn tư cách riêng của người trí thức. Tư cách đó ông đã phát huy đến mức tối ưu, và đã giữ trọn cho đến hết tuổi 88 của đời mình. Chưa ai và cũng chẳng ai vượt hơn ông được ở tư cách một tri thức dân tộc trên các lĩnh vực chuyên môn đã được thử nghiệm những tưởng là rất xa nhau: Toán học và Văn chương, Khoa học hạt nhân và Văn Nôm cổ; sự xa nhau làm nên bề rộng, rất rộng của tri thức; nhưng dẫu sự trải rộng, hay chính nhờ vào diện rộng ấy mà hiệu quả của những đóng góp của ông lại là rất lớn, khó ai theo kịp, trong những vùng sâu, rất sâu...

Nghĩ từ Hoàng Xuân Hãn tôi chỉ xin phép giới hạn trong một vài lĩnh vực mà tôi quan tâm và có chút hiểu biết. Thú thật mãi về sau này tôi mới biết ông từng có thời là Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong chính phủ Trần Trọng Kim. Nhiều người có tên tuổi và chính bản thân ông cũng đã từng "ký vãng" về số phận cái chính phủ non yểu này; ở đây, nhắc lại sự kiện trên, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là: chỉ trong 4 tháng ở ghế Bộ trưởng mà Hoàng Xuân Hãn cũng đã làm được khá nhiều việc theo cái đà của sự quan tâm đến Quốc học, đến nền Quốc văn và Ngữ ngôn dân tộc mà ông đã có từ lâu. Sự quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt trong học đường, bộ sách Danh từ khoa học mà ông đã viết trước đó 3 năm, cùng Chương trình Trung học ông soạn thảo trong 4 tháng ngắn ngủi của nhiệm kỳ Bộ trưởng quả đã phát huy được tác dụng trong một thời gian dài. Cả đến hai thuật ngữ Phổ thông và Chuyên khoa, ông dùng cho hai bậc học, mà chúng tôi là người quen dùng nó suốt mấy chục năm trên ghế nhà trường cũng chính là do ông đặt ra.

Tôi nghĩ đến Hoàng Xuân Hãn trong những ước ao, tâm nguyện của một tri thức đối với lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc. (Tôi chưa có ý định nói đến trong bài này về Hoàng Xuân Hãn với tư cách nhà sử học - mà tài liệu Thống nhất thời xưa, ông viết tại Paris, tháng 10 năm 1976 ngay sau Đại thắng Mùa xuân năm 1975, khiến tôi không thể ngẫm nghĩ: Ai là người có thể viết hay và gọn được như ông, kể cả "kịp thời" như ông, về một vấn đề lớn như thế và bức xúc đến thế trong lịch sử dân tộc ?). Ông đã là một trong những gương mặt tiêu biểu và sáng giá của người tri thức trước yêu cầu bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc, và giữ cho được bản sắc dân tộc của văn hoá - vấn đề không chỉ nổi lên hôm nay mà luôn luôn là sự thôi thúc, và rất nhiều phen bị đe doạ, trong suốt trường kỳ lịch sử. Cuộc đời ông, công việc mà ông theo đuổi là minh chứng cho điều ấy.

Sự nghiệp bảo tồn và phát triển nền văn hoá của đất nước thì lớn lao - đó không phải là chuyện của một người, dẫu là một tri thức lớn được nhiều thế hệ ngưỡng mộ(5). Đóng góp của cá nhân cho văn hoá dân tộc, dẫu có lớn đến mấy cũng vẫn cứ là nhỏ - trong những tự đánh giá về mình. Hoàng Xuân Hãn thường không nói, hoặc nói rất khiêm nhường về mình. Ông chỉ làm việc trong âm thầm, và một mình. Âm thầm đọc. Âm thầm viết. Viết để in hoặc viết rồi để đấy. Viết cho công chúng hẹp, và một đôi khi cho công chúng rộng(6). Nhưng từ con người ông và các trang viết của ông có một sự thắp sáng và khả năng toả sáng. ánh sáng đó đến từ kho tàng văn hoá dân tộc và đến với kho tàng văn hoá dân tộc. Là người mà phần lớn cuộc đời phải sống ở ngoài nước, nhưng con người ông, sự nghiệp ông lại dành trọn vẹn cho quê nhà, và chỉ mong có ích cho quê nhà.

Những năm cuối đời ông thường gửi bài cho Hồng Lĩnh là tạp chí văn nghệ của tỉnh Hà Tĩnh - đó cũng là hiện tượng không ngẫu nhiên. Cái tên Hồng Lĩnh đối với ông, không chỉ gợi nhớ cảnh quan quê nhà, mà còn là biểu tượng của đất nước.

Đã hay bốn bể là nhà
Lam Hồng ta mới thật là quê hương.

Tôi, lớp hậu sinh, ít kinh nghiệm sống, thiếu từng trải, vinh dự có cùng một quê hương với ông, cũng phần nào thấu cảm được điều đó.

Cuối cùng tôi muốn trở lại hai chữ từ và với - từ kho tàng văn hoá dân tộc và với kho tàng văn hoá dân tộc - ở đoạn văn vừa nói trên. Bởi lẽ không dễ ai cũng biết chọn cho mình một điểm xuất phát đúng, và với một tư thế thủy chung như nhất về con đường được chọn - Để cuối cùng, vẫn với nền văn hóa dân tộc mà ông vô cùng yêu mến và gắn bó ấy, là mục tiêu, là cái đích mà ông đã đạt được một cách rực rỡ, trong âm thầm,là cũng có thể có phần quạnh quẽ, ở tuổi ngót 90 của cuộc đời mình.

P.L
Hà Nội 16-18/5-1997.

CHÚ THÍCH

(1).Theo nhà khoa học Đinh Ngọc Lân.

(2). Theo nhạc sĩ Trần Văn Khê.

(3).Hợp lưu số 19-1996.

(4).Bài Học giả Hoàng Xuân Hãn - chân dung tự họa, báo Đại đoàn kết số 23; 19-3-1996.

(5). Xem Hợp lưu số 29-1996, bài Trả lời Phỏng vấn của các học giả Phan Huy Lê, Đào Văn Thụy, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Huệ Chi.

(6). Tôi nghĩ thật cảm động về công việc mà Luật sư Đào Văn Thụy đã làm, là cho ấn hành Tập san Khoa học xã hội ở Paris (từ 1976 đến 1987) để có chỗ cho bác Hãn công bố các kết quả nghiên cứu của mình (Xem Hợp Lưu, số đã dẫn trên).

TB

"NAM CHINH BẮC CHIẾN" VÀ
"ĐÁNH ĐÔNG DẸP BẮC"

LÊ ANH HIỀN

Có thể nói "Năm chinh bắc chiến" và "Đánh đông dẹp bắc" là hai câu thành ngữ gần như hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.

"Nam chinh bắc chiến" là câu thành ngữ Hán - Việt mà tiếng Việt vay mượn trong kho tàng thành ngữ - tục ngữ Trung Quốc. Câu thành ngữ này được hình thành trong quá trình lịch sử đấu tranh của đất nước Trung Hoa. Đó là quá trình lịch sử chiến đấu lâu dài hết đời này qua đời khác suốt cả chế độ nô lệ và phong kiến trên mảnh đất mênh mông này luôn luôn đi chinh chiến (để xâm lấn và dẹp loạn) ở phía bắc và phía nam đất nước (còn việc chiến đấu về phía đông và phía tây của đất nước Trung Hoa không phải không có, nhưng không điển hình và thường xuyên như những cuộc đấu tranh về phía bắc và phía nam). Câu thành ngữ có sự cấu tạo rất chặt chẽ, cân đối: nam đối với bắc và chinh đi với chiến. Chúng ta biết: do giữa Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ gần gũi và lâu dài, cho nên nhiều hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Hán du nhập vào tiếng Việt, nói khác đi là tiếng Việt đã vay mượn rất nhiều những biểu hiện ngôn ngữ cả về mặt nội dung lẫn mặt hình thức cấu tạo của tiếng Hán, trong đó có thành ngữ - tục ngữ, chẳng hạn như câu thành ngữ "nam chinh bắc chiến" vừa nêu.

Tuy nhiên, sự vay mượn đó có khi được cải biên dựa theo thực tế lịch sử Việt Nam, khi đi vào tiếng Việt. Lấy ví dụ như câu thành ngữ "Đánh đông dẹp bắc", so với câu thành ngữ Hán - Việt "Nam chinh bắc chiến" chẳng hạn.

Phải nói rằng "lịch sử đấu tranh của đất nước Việt Nam chủ yếu là đấu tranh chống giặc từ phía bắc (bọn phong kiến phương Bắc), sau đó là đấu tranh chống bọn thuỷ tặc từ biển Đông, trong đó có bọn phong kiến phương Bắc dùng tàu thuyền từ biển Đông đánh vào (còn các cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ở phía nam và phía tây cũng có, nhưng cũng không thường xuyên và điển hình như ở phía bắc và phía đông. Cũng như các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Tây thì mới xảy ra gần đây thôi, chưa đi vào cấu tạo nội dung của các câu thành ngữ - tục ngữ cổ). Vì vậy, hình mẫu của câu thành ngữ "Nam chinh bắc chiến" khi đi vào tiếng Việt thì phải tuân theo thực tế Việt Nam mà thay đổi thành "Đánh đông dẹp bắc", không phỏng theo cấu trúc đối lập "nam / bắc" nữa, mà theo một sự đối lập khác "đông / bắc", một sự đối lập về phương hướng mở rộng hơn, khái quát hơn. Còn "đánh" và "dẹp" thì vẫn giữ theo sự đối lập "chinh" và "chiến", nhưng có ý nghĩa tích cực hơn vì "đánh" và "dẹp" hình như có ý nghĩa "chống ngoại xâm" hơn là "chinh chiến" đơn thuần.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng câu thành ngữ "Đánh đông dẹp bắc" (dù kết cấu của nó không được cân đối cho lắm, vì "đông" đi với "bắc", chứ không phải "nam" đi với "bắc", như câu thành ngữ "Hán - Việt" đã nói) là câu thành ngữ có tính dân tộc Việt Nam hơn và sâu sắc, gợi cảm hơn đối với người Việt Nam chúng ta.

Hai câu thành ngữ được nói đến như trên đều có ý nghĩa khái quát chung là xông pha chiến trận ở mọi chốn, mọi nơi trên đất nước và ở các nước lân cận... Nhưng đi vào thực tế lịch sử hình thành khác nhau giữa chúng cũng có những điều thú vị !

Gần đây, trong ngôn ngữ của những phương tiện đại chúng Việt Nam, có người nói nửa đùa nửa thật: "đánh nam dẹp bắc" với ý nghĩa rất cụ thể là đi vào các tỉnh phía nam, vào thành phố Hồ Chí Minh thì làm ăn dễ dàng hơn ("đánh nam") nhằm để cứu lấy cảnh gia đình nghèo túng của mình ở miền bắc ("dẹp bắc"). Đó có thể nói là cách dùng thành ngữ cổ, có cải biên, một cách sáng tạo. Nhưng dường như sự sáng tạo đó có hơi hướng "môđéc" một chút (?!)...

L.A.H

TB

ĐÔI ĐIỀU CẦN ĐÍNH CHÍNH LẠI

NGUYỄN CÔNG LÝ

Trên Văn Nghệ số 10 (09 / 3 / 1996) có bài Thơ Văn Nghệ 1995 - Cuộc gặp mặt đông đủ và sang trọng, ở trang 5, với tư cách là Phó Chủ tịch Hội đồng thơ của Hội Nhà Văn Việt Nam, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã tổng kết, điểm qua những nét nổi bật của các bài thơ dự thi, khi điểm thơ Nguyễn Trọng Tín (Thái Lan rừng chiều - bài đạt giải ba), tác giả bài báo đã bình"... người đi xa nhớ về quê, về đất nước là tâm trạng của thi sĩ nhiều thời". Cách đây gần chục thế kỷ, nhà thơ Mãn Giác đi sứ sang Tàu mà còn nhớ "Lúa sớm bông thơm cua béo ghê" và "Dẫu vui đất khách chẳng bằng về" (Văn Nghệ số 10 năm 1996).

Ai cũng biết, Mãn Giác là Thiền sư nổi tiếng thời Lý, tên là Lý Trường, thuộc dòng dõi vương triều bấy giờ. Khi đã xuất gia, ông chưa hề tham gia chính sự và cũng không một lần đi sứ sang Tàu. Về thơ, ông chỉ để lại bài thơ - bài kệ nổi tiếng với hai câu cuối:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền dạ nhất chi mai.

Vì nhầm lẫn nên bốn tuần sau, trên Văn Nghệ số 14 (6.4.96) mục Hộp thư đã đính chính "hai câu thơ trên là trích trong bài Quy Hứng của Tiến sĩ Nguyễn Trung Ngạn (1289-1379), chứ không phải của Mãn Giác Thiền sư". Sau đó, Văn Nghệ số 23 (8/6/96) lần nữa lại đính chính "đúng như bạn đã chỉ cho (Nguyễn Duy Dương, giáo viên văn PTTH Nam Định - Nam Hà), hai câu thơ trích trong bài là của Tiến sĩ Nguyễn Trung Ngạn chứ không phải là của Mãn giác Thiền sư. Toà soạn và tác giả xin cảm ơn bạn đã có công nhặt giùm hạt sạn".

Chúng tôi thấy rằng:

1. Hai lần đính chính đều không nhất quán về năm mất của Nguyễn Trung Ngạn.

- Về năm sinh, Nguyễn Trung Ngạn sinh năm Kỷ Sửu (1289) niên hiệu Trùng Hưng đời Trần Nhân Tông. Sách xưa chép rằng, mẹ ông là ca nhi mộng thấy nuốt trâu vào bụng nên mang thai và đến năm Kỷ Sửu sinh ra ông.

- Về năm mất, xưa nay các sách lịch sử văn học, hợp tuyển thơ văn, sách giáo khoa đều chép là 1370 (chưa thấy sách nào chép 1379): Tìm hiểu kỹ, năm 1370 cũng chưa phải là năm mất của ông.

a. Bài tựa Giới Hiên thi tập không khẳng định năm mất của ông. Sách chỉ ghi rằng năm ất Mùi (1355) lúc 67 tuổi, thăng chức An Phủ Sứ Lạng Giang, Nhập nội hành khiển, Thượng thư hữu bật kiêm Tri Khu mật viện sự, thị kinh diên khai huyện bá. Từ đó về sau không nghe thấy tiếng tăm ông trong sử sách. Ông làm quan trải qua năm đời vua: Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông(1).

b. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, kỷ nhà Trần, quyển V, VI, VII có chép việc Nguyễn Trung Ngạn từ lúc đỗ Hoàng giáp khoa thi 1304 đến khi làm các chức quan, chứ không chép năm mất.

c. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (các mục Nhân vật chí, Văn tịch chí) có ghi "Năm Thiệu Phong 15 (1355) đời Trần Dụ Tông, ông được việc thăng Kinh lược sứ Lạng Giang. Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm cả Viện Khu mật Đại học sĩ hầu ở toà Kinh duyên, Trụ quốc, khái huyện bá, gia Thân quốc công. Hơn 10 năm sau ông chết, thọ hơn 80 tuổi. Như vậy sách này cũng không ghi rõ đích xác năm mất của ông. Nếu tính từ năm 1355 "hơn 10 năm" là sau năm 1365, và "thọ hơn 80 tuổi" là vào khoảng 1369-1370 (vì năm 1368 ông đúng 80 tuổi).

d. Sách Đăng khoa lục ghi: "Ông làm quan đến Thượng thư Lục bộ kiêm Khu mật quốc công, thọ 80 tuổi (công sĩ chí Lục bộ Thượng thư, kiêm tri Khu mật, quốc công, thọ bát thập tuế).(2)

d. Sách Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương) chép: "Ông thọ 80 tuổi, hiệu là thần đồng, làm quan chức Thiếu chuyển khai nội hầu" (thọ bát thập tuế, hiệu thần đồng, sĩ chí Thiếu chuyển khai nội hầu).

Như vậy, căn cứ theo tài liệu a, tuy không nói năm mất của Nguyễn Trung Ngạn nhưng chi tiết ông làm quan trải 5 đời vua đã là căn cứ để cho chúng ta thấy rằng có lẽ ông mất vào năm 1369 lúc 81 tuổi. Vì đây là năm Dương Nhật Lễ phế Trần Dụ Tông chiếm ngôi. Năm sau, Canh Tuất (1370), Nhật Lễ bị hạ, Trần Nghệ Tông lên thay. Nếu nói ông sống đến 1370 có nghĩa là ông thọ 82 tuổi và phải trải qua 6 đời vua (năm 1370 là niên hiệu Thiên Khánh của Trần Nghệ Tông). Nếu theo tài liệu thì Nguyễn Trung Ngạn mất trên 80 tuổi khoảng năm 1369 không thể là năm 1370. Nếu căn cứ vào tài liệu d và e thì ông mất lúc 80 tuổi tức năm Mậu Thân 1368 niên hiệu Đại Trị đời Trần Dụ Tông.

2. Đính chính lại về học vị của Nguyễn Trung Ngạn.

- Nói Nguyễn Trung Ngạn thi đỗ Tiến sĩ là đúng nhưng chưa trúng và chưa đủ.

- Kỳ thi Đình xếp lại danh hiệu trúng tuyển của các vị đỗ đại khoa được chia làm ba bảng (tam giáp) như sau:

a. Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ gồm tam khôi (3 vị đỗ đầu) Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám hoa, tên ghi ở chánh bảng.

b. Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân: người đứng đầu bảng này là Hoàng Giáp, tên ghi ở chánh bảng.

c. Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân: tất cả người đỗ được gọi là Tiến sĩ, tên ghi ở phụ bảng.

Các vị đỗ trong 3 giáp trên được vua ban áo mão, đãi yến tiệc, ban sắc tứ vinh qui và được ghi tên vào bia Tiến sĩ ở Văn Miếu. Riêng triều Nguyễn, ngoài ba bảng trên còn lấy thêm học vị Phó bảng. Người đỗ học vị này cũng được gọi là đỗ đại khoa, được vua ban áo mão và sắc tứ vinh quy, có điều mão chỉ có 2 cánh chuồn, còn đuôi sau bị cắt và không được ghi tên ở bia Tiến sĩ. Sau này muốn xin đi thi lại để đạt học vị cao hơn cũng không được. Đây là nỗi đau của kẻ sĩ đỗ học vị này.

Điều lưu ý là không phải khoa nào cũng có đủ tam khôi hay tam giáp. Có khoa, người đỗ Đình nguyên là Bảng nhãn, như Lê Quí Đôn (khoa thi năm 1752 đời Lê Cảnh Hưng); có khoa, người đỗ đầu là Thám hoa, như Nguyễn Trung Oánh, khoa Mậu Thìn năm 1748 triều vua Lê Cảnh Hưng; và có khoa người đỗ đầu là Hoàng Giáp (bảng thứ nhì), vì ở bảng thứ nhất không có ai như Nguyễn Khuyến, khoa thi Tân Mùi 1871 đời Nguyễn Tự Đức; và cũng có khoa ở bảng thứ nhất, bảng thứ nhì không có ai nên Đình nguyên là đồng Tiến sĩ xuất thân (bảng thứ ba), như Nguyễn Tông Trình đỗ khoa thi năm Giáp Tuất 1754 đời Lê Cảnh Hưng thứ 15.

Tôi hơi dông dài một chút để nói rõ hơn về học vị thi Đình ngày xưa. Còn Nguyễn Trung Ngạn thì sao ? Thời Trần, lúc Nguyễn Trung Ngạn thi không có học vị Tiến sĩ mà là học vị Thái học sinh (dĩ nhiên hai học vị này tương đương nhau). Ông đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp, đệ nhất danh) lúc 16 tuổi ở khoa thi Đại tỷ năm Giáp Thìn (tháng 3 năm 1304) đời vua Trần Anh Tông (niên hiệu Hưng Long thứ 13). Khoa thi này có 44 người đỗ, trong đó bảng thứ nhất có đủ tam khôi: Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Bảng nhãn là Bùi Mộ, Thám hoa là Trương Phóng. Đầu bảng thứ hai là Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn. Bảng thứ ba với 40 vị Thái học sinh (theo Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều Hiến chương loại chí). Khi gọi học vị Tiến sĩ là chỉ những người đỗ ở bảng thứ ba (đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân) còn những người đỗ ở bảng thứ nhất, bảng thứ hai phải gọi đúng học vị của họ là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp kèm theo tên khai sinh, như Bảng nhãn Lê Quý Đôn, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi v.v...

Vậy gọi Tiến sĩ Nguyễn Trung Ngạn cũng được nhưng chưa trúng và chưa đủ (lúc này chưa có học vị Tiến sĩ) mà phải gọi là Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn.

3. Nguyễn Trung Ngạn là tác giả Giới Hiên thi tập, cả tập nay đã mất, người đời sau gom góp chép lại được hơn 80 bài. Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí (Văn tịch chí II) đã khen thơ ông hết lời "Lời thơ phần nhiều hào mại phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lăng". Khi đi sứ sang nhà Nguyên Trung Quốc, ông viết nhiều bài thơ nhớ về quê hương đầy lòng tự hào dân tộc, với "Lời thơ mạnh mẽ, phóng khoáng khác thường"... "Thơ tứ tuyệt của ông lại càng hay, không kém gì đời Thịnh Đường", "Lời thơ thanh nhã xinh đẹp, có phong thể như thơ của Long Tiêu (Vương Xương Linh) và của Cung Phụng (Lý Bật). Trong đó có bài thơ Quy hứng:

Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì,
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như qui.

Dịch thơ:

Thích về nhà
Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm, cua béo ghê,
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt,
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về.
(Bài dịch Hoàng Việt thi tuyển, Văn hoá, H, 1958)

Xin cung cấp một bản dịch khác của đồng chí Xuân Thuỷ. Vào năm 1972, trên chuyến bay trở lại Paris đàm phán (Hội nghị bàn tròn của Chính phủ 4 bên, chuẩn bị ký Hiệp định Paris 17/1/1973, ngừng bắn ở miền Nam, Xuân Thuỷ đã dịch bài thơ như sau:

Dâu già, lá rụng, tằm xong,
Bông thơm lúa sớm, béo mòng con cua,
Ở nhà nghèo thế mà ưa,
Giang nam vui mấy cũng thua về nhà.

Nguyên tác bài thơ đã hay, hai bản dịch lại đầy ý vị, hấp dẫn. Tất cả mang nặng nỗi lòng nhớ quê hương, tự hào về đất nước. Quê mình dù còn nghèo nhưng rất vui và thật đáng yêu, đáng nhớ biết bao, so với phồn hoa đô hội nổi tiếng cùng thắng cảnh hữu tình ở Giang Nam. Trên đường đi công tác, có lẽ Xuân Thuỷ đã gởi gắm lòng mình qua tiếng nói tâm tình của người xưa chăng ?

N.C.L
Nhà Trang, 13-3-1996 và 20-6-1996

CHÚ THÍCH

(1) Có lẽ bài tựa sách nhầm vì mãi đến đời Trần Anh Tông, ông mới thi đậu rồi làm quan. Cho nên năm đời vua mà ông đã trải qua là: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông và Dương Nhật Lễ (niên hiệu Đại Định 1369).

(2) Có lẽ sách nhầm vì mãi đến đời Lê Nghi Dân (triều Lê) mới đặt ra Lục bộ.

TB

THƯ PHÁP VÀ MỸ HỌC THƯ PHÁP

THỌ NHÂN

Thư pháp chỉ cách thức dùng bút lông viết chữ Hán, một nghệ thuật truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông có sử dụng chữ Hán.

Về mặt kỹ thuật, thư pháp chú trọng cách cầm bút, cách điều khiển ngọn bút, cũng như cách điểm hoạch, kết cấu, bố cục và vấn đề thần vận. Như về cách cầm bút (chấp bút), năm ngón tay phải chắc, cùng hiệp sức, nhưng bàn tay thì hoàn toàn để tự nhiên, tức "chỉ thực, chưởng hư". Về cách điều khiển ngọn bút (vận bút), phải có nét chính để làm cốt lõi, nét lệch để tạo thần thái, nét kín để giữ khí thế, nét hở để phát tinh thần. Ngoài ra còn có nét xuôi, nét ngược, nét vuông, nét tròn, mỗi loại nét như thế đều có ý nghĩa riêng của nó. ở đây còn chú ý cả đến phương hướng và các động tác khi điều khiển ngọn bút. Về điểm hoạch, thường nói đến tròn, chìm lắng, cứng cáp, già giặn... Về kết cấu (kết thể, kết tự), thường nói đến sự ngay thẳng, thăng bằng, cân đối, biến hóa, sinh động, thống nhất, nghiêm cẩn, chênh vênh... Về phân bố (chương pháp), thường nói đến bố cục của một tác phẩm thư pháp, trong đó có mối quan hệ giữa chữ này với chữ kia, dòng này với dòng nọ. Về thần vận, thường nói đến linh hồn của một tác phẩm thư pháp được tạo nên bởi phong độ, thần thái, khí vận, tinh thần... của nó.

- Các thể thư pháp gồm Minh văn đời Ân, Tiểu triện đời Tần, Lệ thư đời Lưỡng Hán, Thảo thư đời Đông Tấn, Khải thư và Cuồng thảo đời Đường, Hành thảo các đời Tống - Nguyên - Minh - Thanh, trong đó, đáng chú ý nhất là Khải thư, Lệ thư, Hành thư và Tiểu triện.

Khải thư còn gọi là "Chân thư" hay "Chính thư", do Lệ thư và Chương thảo diễn biến mà thành, còn được gọi là "Khải lệ" hoặc "Kim lệ". Tương truyền Khải thư do Vương Thứ Trọng đời Đông Hán sáng tạo ra, bằng cách sửa đổi cách viết chữ Lệ ra cách viết chữ Khải. Khải thư tuy ra đời vào cuối thời Hán, nhưng phải sang đến đời Đường mới thoát khỏi mọi ảnh hưởng và tàn tích của Lệ thư để chính thức trở thành một thể thư pháp độc lập, với tất cả các đặc điểm riêng của nó.

Lệ thư xuất hiện sớm nhất vào đời Tần, giữa lúc Triện thư đang độ cực thịnh. Nhưng hồi này Lệ thư còn thô kệch và mang nhiều dấu vết của Triện thư. Lệ thư sở dĩ ra đời là do nhu cầu viết nhanh và tiện lợi khi sử dụng, không nhiêu khê như Tiểu triện. Quá trình Tiểu triện chuyển hóa thành Lệ thư có thể phác ra như sau:

Tiểu Triện ® Thảo Tiểu triện ® Thảo lệ

"Thảo lệ" là do các viên thư lại đời Tần tạo ra, cốt xử lý kịp thời đống công văn bề bộn viết bằng chữ Triện hồi bấy giờ mà họ có trách nhiệm giải quyết, và đây là tiền thân của Lệ thư chính thức được nhìn nhận vào đời Lưỡng Hán sau đó.

Hành thư xuất hiện sớm nhất vào đời Đông Hán, cũng là do nhu cầu viết sao cho nhanh chóng, tiện lợi. Một mặt, Hành thư giảm bớt nét so với Khải thư và như vậy là thoát khỏi sự gò bó của Khải thư; mặt khác, nó tiếp thu cách viết bay bướm của Thảo thư, nhưng không quá phóng túng đến nỗi khó đọc, khó nhận diện như Thảo thư. Nghĩa là nó vừa giản dị, vừa năng động. Nếu ví Khải thư như người đang đứng, Thảo thư như người đang chạy, thì Hành thư như người đang đi vậy. Tương truyền kiểu chữ này do Lưu Đức Thăng tạo ra, đến thời Đông Tấn đã có người sử dụng thành thạo, trở nên nổi tiếng như hai cha con Vương Hi Chi, Vương Hiến Chi, và Từ Tống, Nguyên về sau, cách viết Thảo thư ngày càng phổ biến.

Tiểu triện có nguồn gốc từ Đại triệu (chỉ các lối chữ xuất hiện trước Tiểu triện, gồm Kim văn, Thạch cổ văn v.v.), nhưng nét bút từ chỗ cong queo của Đại triện đã được cải tiến thành thông thoáng, uyển chuyển, lại có nhiều nét thẳng thớm, thanh mảnh. Văn bản Tiểu triện được viết thành hàng dọc từ phải sang trái, không còn viết tùy tiện, thiếu cố định như ở Giáp cốt văn hay Kim văn. Từ Giáp cốt văn, Kim văn ... đến Tiểu triện, cũng tức là từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 2 TCN, trong khoảng 1200 năm ấy, hình thức thư pháp đều thuộc hệ thống Triệu thư, cho nên gọi đây là thời đại Triệu thư. Tiểu triện được coi như sự phát triển tột đỉnh của Triện thư, và đến đây trở nên định hình.

l Mỹ học thư pháp cũng tức là cái đẹp thể hiện trong nghệ thuật thư pháp. Giống với nhiều loại hình nghệ thuật khác, bản chất cái đẹp của thư pháp là ở chỗ phản ánh được cái đẹp của khách thể (sự vật khách quan) cùng với cái đẹp tinh thần của chủ thể (nhà thư pháp).

Về nội dung cái đẹp của thư pháp, có thể xem bảng Sơ đồ cấu thành mỹ học thư pháp của nhà nghiên cứu thư pháp Trung Quốc Thiên Bạch sau đây:

l Một số nhà thư pháp nổi tiếng của Trung Quốc.

1. Vương Hy Chi (303-361): tên chữ là Dật thiếu, làm quan tới chức Hữu quân Tướng quân, nên còn được gọi là Vương Hữu quân. Người Lang Nha (nay là Lâm Nghi, Sơn Đông). Hầu hết các thể chữ đều giỏi, nhưng nổi tiếng nhất là Chính, Hành và Thảo. Tác phẩm nổi tiếng có Lan Đình tự thiếp và Thập thất thiếp.

2. Vương Hiến Chi (344-386): tên chữ là Tử Kính, làm quan đến Trung thư lệnh, nên còn được gọi là Vương Đại lệnh. Ông là con thứ bảy của Vương Hy Chi, cùng nổi tiếng về thư pháp với cha, đời bấy giờ gọi hai cha con là Nhị Vương. Sở trường của ông là Hành và Thảo.

3. Ngu Thế Nam (558- 638): tên chữ là Bá Thi, do được phong làm Vĩnh Hưng huyện tử, nên còn được gọi là Ngu Vĩnh Hưng. Người Dư Diêu, Việt Châu (nay là Dư Diêu, Chiết Giang). Nổi tiếng về chữ khắc bia. Tác phẩm truyền lại, được nhiều người nhắc tới, là Khổng Tử miếu đường bi.

4. Âu Dương Tuân (557-641): tên chữ là Tín Bản, làm quan đến chức Thái tử Suất canh lệnh, nên còn được gọi là Âu Dương Suất canh. Người Lâm Tượng, Đàm Châu (nay là Trường Sa, Hồ Nam). Một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.

5. Chử Toại Lương (596 - 658 ?): tên chữ là Đăng Thiện, do được phong Hà Nam Quận công, nên còn được gọi là Chử Hà Nam. Nổi tiếng về Khải thư.

6. Lý Ung (678 - 747): tên chữ là Thái Hòa. Vì có làm Thái thú Bắc Hải, nên còn được gọi là Lý Bắc Hải. Người Giang Đô, Dương Châu (nay thuộc Giang Tô). Thành tích chính ở Hành thư.

7. Tôn Quá Đình (? - ?): không rõ quê quán. Ông nổi tiếng về Thảo thư, đồng thời là nhà lý luận về thư pháp đời Sơ Đường.

8. Trương Húc (? - ?): tên chữ là Bá Cao. Vì làm quan đến Kim ngô Trưởng sử, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Lại vì cuồng ngông, thích rượu, nên có tên là Trương Điên. Người Tô Châu, Giang Tô. Nổi tiếng về Cuồng thảo, từng được gọi là Thảo thánh.

9. Nhan Châu Khanh (709 - 785): tên chữ là Thanh Thần, từng làm Thái thú ở Bình Nguyên nên còn được gọi là Nhan Bình Nguyên. Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.

10. Hoài Tố (725 - 785): tên chữ là Tàng Châu, còn được gọi là Tuý Tăng hay Túy Tố. Ông đi tu từ nhỏ. Người Trường Sa (thuộc Hồ Nam). Nổi tiếng về Cuồng thảo.

11. Liễu Công Quyền (778 - 865): tên chữ là Thành Huyền, người Hoa Nguyên, Kinh Triệu (nay là Diệu Huyện, Thiểm Tây). Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.

12. Dương Ngưng Thức (873 -954): tên chữ là Cảnh Độ, hiệu Hư Bạch, người đời gọi ông là Dương Phong Tử. Người Hoa Âm (Thiểm Tây). Có thành tựu lớn về thư pháp.

13. Thái Tương (1012 - 1067): tên chữ là Quân Mạc, từng làm Đoan Minh điện Học sĩ, thụy hiệu là Trung Huệ, nên còn được gọi là Thái Trung Huệ. Ông là một trong số 4 nhà thư pháp lớn đời Tống. Giỏi về Chính, Hành, Thảo.

14. Tô Thức (1037 - 1101): tên chữ là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ. Do có tên thụy là Văn Trung, nên người ta còn gọi ông là Tô Văn Trung. Người My Sơn, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên). Tác phẩm thư pháp nổi tiếng của ông, có Phong lạc đình ký.

15. Hoàng Đình Kiên (1045 - 1105): tên chữ là Lỗ Trực, hiệu Bồi Ông, hoặc Sơn Cốc Đạo Nhân, Sơn Cốc Lão Nhân. Người Phân Ninh, Hồng Châu (nay là Tu thuỷ, Giang Tây). Nổi tiếng về Hành thư và Cuồng thảo. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng có U lan phú.

16. Mễ Phất (1051 - 1107): tên chữ là Nguyên Chương, hiệu Hải Nhạc Ngoại Sử, Lộc Môn Cư Sĩ v.v. Tính cuồng phóng, nên ông cũng được gọi là Mễ Điên. Người Thái Nguyên, Sơn Tây, sau dời đến Tương Dương nên còn được gọi là Mễ Tương Dương. Các thể thư pháp đều giỏi, đặc biệt là Hành thảo.

17. Triệu Tín (1082-1135), tức Tống Huy Tông, tự xưng là Giáo Chủ Đạo Quân Hoàng Đế. Giỏi cả thư lẫn hoa, đặc biệt là Chính, Hành, Thảo.

18. Triệu Mạnh Diêu (1254-1322): tên chữ là Tử Ngang, hiệu Tùng Tuyết Đạo Nhân v.v. Người Hồ Châu (nay là Ngô Hưng, Chiết Giang). Giỏi cả các thể thư pháp, nhất là Chính khải, Hành thư và Tiểu khải. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng, có Diệu Nghiêm tự ký...

19. Tiên Vu Khu (1256 - 1301): tên chữ là Bá Cơ, hiệu Khốn Học Sơn dân... Người Ngư Dương, Đại Đô (nay là Bắc Kinh). Giỏi về Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Hành và Thảo.

20. Khang Lý Quỳ Quỳ (1295 -1345): tên chữ là Tử Sơn, hiệu Thứ Tẩu, người Mông Cổ, sinh ra ở Khang Lý (Tân Cương). Giỏi về các thể Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Thảo thư.

21. Chúc Doãn Minh (1460-1526): tên chữ là Hy Triết, hiệu Chi Sơn. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Cuồng thảo.

22.Văn Trưng Minh(1470-1559): tên chữ là Trưng Minh, sau đổi là Trưng Trọng, hiệu Hành Sơn Cư Sĩ. Từng giữ chức Hàn lâm viện Đãi chiếu, nên còn được gọi là Văn Đãi chiếu. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Tiểu khải và Hành thảo.

23. Đổng Kỳ Xương (1555 -1636): tên chữ là Huyền Tể, hiệu Tư Bạch hoặc Hương Quang Cư Sĩ. Người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là Tùng Giang, Thượng Hải). Nổi tiếng về Hành thảo.

24. Trương Thụy Đồ (? - 1644): tên chữ là Trường Công, hiệu Nhị Thủy. Người Tấn Giang (nay là Tuyền Châu, Phúc Kiến). Giỏi về Hành thảo.

25. Vương Đạc (1592 - 1652): tên chữ là Giác Tư, hiệu Tung Tiều. Người Mạnh Tân (nay thuộc Hồ Nam). Là nhà thư pháp có nhiều ảnh hưởng vào giai đoạn cuối Minh đầu Thanh. Giỏi cả các thể chữ, đặc biệt là Hành và Thảo.

26. Trịnh Nhiếp (1693 - 1765): tên chữ là Khắc Nhu, hiệu Bản Kiều. Người Hưng Hóa, Giang Tô (nay thuộc Dương Châu). Là một trong "Bát quái" (8 nhân vật, quái kiệt về thư pháp) của Dương Châu. Nổi tiếng cả về Khải, Lệ, Hành viết lẫn lộn cùng nhau. Có người đương thời từng bình luận: "Trịnh Bản Kiều đem Triện, Lệ, Hành, Thảo đúc chung trong một lò, thật không thể giải thích được":.

27. Lưu Dung (1719 - 1804): tên chữ là Sùng Như, hiệu Thạch Âm (gần đây, trong một bộ phim nhiều tập của Trung Quốc, ông được gọi bằng Lưu La Oa, ta dịch là Lưu Gù). Người Chư Thành, Sơn Đông. Ông nổi tiếng về Hành thư.

28. Hà Thiệu Cơ (1799 - 1873): tên chữ là Tử Trinh, hiệu Đông Châu. Người Đạo Châu (nay là Đạo Huyện, Hồ Nam). Là nhà thư pháp nổi tiếng về Hành thư vào cuối đời nhà Thanh.

T.N

SÁCH THAM KHẢO CHÍNH

1. Thiên Bạch: Thư pháp mỹ. Ninh Hạ Nhân dân xuất bản xã 1990.

2. Chu Nhân Phu: Trung Quốc cổ đại thư pháp sử. Bắc Kinh Đại học xuất bản xã. 1992.

3. Nhiều tác giả: Tứ thể thư pháp khái luận. Giang Tô cổ tịch xuất bản xã 1992.

TB

"MỘT CHỮ THẦY CHO SÁNG NGHĨA KINH" HAY THƯ PHÁP CỦA THẦY VÀ TRÒ

NGUYỄN VĂN HỒNG

Thật hạnh phúc cho tôi có một người thầy từ thời tiểu học vẫn còn khoẻ mạnh, minh mẫn - thầy Lê Văn Uông.

Khi cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, tôi đang học lớp ba của trường Tiểu học Quảng Thi, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Lúc này thầy đang dạy lớp nhất (tương đương lớp bốn ngày nay). Sau năm 1947 tôi thi đậu Tiểu học và lên học ở trường Trung học Đào Duy Từ, trường Trung học của tỉnh Thanh Hóa. Xa thầy đi học, nhưng mỗi lần về quê, tôi lại đến thăm thầy. Và thầy vẫn ân cần dặn tôi việc học hành và khuyên bảo như con, vì con trai thầy cũng cùng lớp tuổi như tôi, bây giờ anh là Tiến sĩ, Giáo sư, Chủ tịch Hội Sinh học Việt Nam.

Chúng tôi lớn lên, sau khi tốt nghiệp Trung học được Chính phủ cử đi học Đại học ở nước ngoài, rồi về công tác, dạy ở Đại học.

Xa cách thầy gần nửa thế kỷ, năm 1995 tôi trở về thăm thầy. Thầy đã 84 tuổi và trò cũng đã 60. Như học trò nhỏ thuở xưa, tôi trở lại gặp thầy. Thật cảm động, gặp tôi sau tiếng chào thầy, thầy đã gọi đúng tên người học trò nhỏ của mình trong giọng nói nghẹn ngào xúc động.

- Anh Hồng đấy à ! ...

Tôi ôm lấy thầy không nói nên lời, mắt bỗng cay cay.

Trong căn nhà nhỏ, thanh bạch đơn sơ, hai thầy trò ngồi trò chuyện. Vẫn giọng nói vang, khúc chiết, đầy thương yêu thầy hỏi thăm cuộc sống, công việc dạy học và nghiên cứu. Tôi lại như người học trò nhỏ hạnh phúc ngoan ngoãn ngồi bên thầy, tận hưởng những hồi ức tuổi thơ kỷ niệm một thời.

1. Cả cuộc đời thầy là một tấm gương phấn đấu không ngừng, rèn luyện không ngừng, tự học tiếng Anh và tự học tiếng Hán. Thầy đã trở thành nhà Hán học hàng đầu của tỉnh Thanh và có lẽ là một trong số ít ỏi những nhà Hán học uyên thâm còn lại ở nước ta trong những năm này. Thầy là một trong những học giả tỉnh Thanh Hóa đã có công phát hiện, nghiên cứu và cho xuất bản cuốn Lam Sơn thực lục.

1. Nhân dịp thầy Lê Văn Uông 85 tuổi, tôi muốn qua Tạp chí Hán Nôm giới thiệu về thư pháp của thầy, qua bài thơ chữ Hán mà thầy viết tặng cho tôi cùng với bài thơ của tôi mạo muội họa lại thơ thầy.

Thư pháp của cụ Lê Văn Uông

Dịch âm :

Trùng phùng
Hiền tẩu vị định thảo
Bán tự giao khởi vạn hộc tình
Nan sư nan đệ cánh nan huynh
Đình tiền lan huệ điểm đầu tiếu
Tiếu điểm thi nhân thi tứ thanh
Hạc Phố Ất hợi niên

Dịch thơ :

Gặp lại
Bản thảo chưa xong của lão già
Nửa chữ quen nhau vạn nghĩa tình
Khó gọi thầy, trò, khó gọi anh
Trước thềm lan huệ cười chúm chím
Vui với nhà thơ thi tứ thanh.

Dịch âm :

Tâm Linh
Họa Lê lão sư Trùng phùng thi
Nhất tự khai tâm minh lý kinh
Thị sư thị phụ thị tiên sinh
Mã giang thiên trượng Đông hải khứ
Sư đệ nhân gian vạn thế tình.
MINH HỒNG bái bút
1996 Mạnh hạ

Dịch thơ :

Tâm linh
Họa thơ Trùng phùng
của thầy Lê Văn Uông
Một chữ thầy cho sáng nghĩa kinh
Là thầy, cha đó, chốn tâm linh
Mã giang nghìn trượng xuôi biển cả
Sao sánh công ơn lớn nghĩa tình.
Minh Hồng bái bút
Mùa hè 1996

N.V.H

TB

TƯ LIỆU MỚI VỀ
MỘT BÀI THƠ ĐƯỜNG NỔI TIẾNG

TRẦN ĐẮC THỌ

Bài thơ tôi đề cập tới trong bài này là bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, đã được Tạ Phương Đắc tinh tuyển đưa vào tập Thiên gia thi(1). Trương Kế ở vào cuối thời Thịnh Đường (713 - 766). Nội dung bài thơ phiên âm như sau:

Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.

Và trước đây đã được các vị nho học của ta hiểu như sau:

Đêm đậu thuyền tại bến Phong Kiều
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời,
(Khách) nằm ngủ trước cảnh buồn của ánh đèn thuyền đánh cá và hàng phong bên sông.
Chùa Hàn Sơn ở ngoài thành Cô Tô,
Nửa đêm buông tiếng chuông tới thuyền khách.

Bài thơ tuyệt tác ấy vẻn vẹn chỉ có 28 chữ song đã khơi lên biết bao thắc mắc cho đời sau. Giai thoại về bài thơ không phải là không có, xin tóm tắt những thắc mắc chính:

- Con "quạ" có phải là giống chim đi ăn đêm đâu mà "kêu" về ban đêm ?

- "Ô đề" không phải là "quạ kêu" mà là tên một thôn trong khu vực chùa Hàn Sơn !

- "Giang phong", "ngư hoả" là địa danh, mà không phải là "hàng phong bên sông", là "lửa chài".

- "Giang phong" là tên một cái chợ (?)

- Tác giả Trương Kế đã lầm khi cho những cây ô - bách mọc bên sông là cây phong(2).

- "Sầu miên" là tên một ngọn núi bên kia sông.

- "Sầu miên" là hòn đá, nơi mà Tây Thi đã từng ngồi nhìn về quê nhà (Sầu Miên thạch) v.v...

Bài thơ có 32 chữ (kể cả) 4 chữ ở đầu đề, mà có đến 7 địa danh: Phong Kiều, Ô Đề, Giang Phong, Ngư Hoả, Sầu Miên, Cô Tô, Hàn Sơn. Nếu chấp nhận tất cả những phát hiện nói trên thì phải hiểu lại bài thơ. Tất nhiên bản dịch của Tản Đà cũng phải làm lại.

Trên đây, mới nêu những phát hiện, những thắc mắc của học giả Trung Quốc, học giả phương Tây, học giả Nhật v.v. Học giả Việt Nam chưa ai có điều kiện đến tận nơi, nên có ai lên tiếng cũng chỉ là nhắc lại ý kiến của người này, người khác. Mãi đến cuối năm 1996, mới có hai vợ chồng ông Trần Chung Ngọc có dịp thăm chùa Hàn Sơn (Đề nghị các bạn đọc xem bản đồ du lịch và những ảnh chụp ở khu vực chùa Hàn Sơn in ở cuối bài và ảnh bìa 4 do Ô. Ngọc sưu tầm).

Ông Trần Chung Ngọc cho biết:

- "Giang Phong" là tên hai cây cầu: Giang Kiều và Phong Kiều. Hai cầu khá gần nhau và khúc kênh có cầu bắc qua cũng hẹp.

- Chùa Hàn Sơn được xây trên đất bằng mà không phải trên núi Hàn Sơn như những thông tin trước đây. Cầu toạ lạc ở ngoại ô thị trấn, bên một kênh nhỏ vắt ngang là một cây cầu cổ có bậc lên xuống, tên là Phong Kiều.

- Chùa mang tên 1 thi sĩ Phật giáo là nhà tu khổ hạnh Hàn Sơn sống dưới triều Lương (503 - 557 SCN).

- Chùa bị cháy rụi trong cách mạng Thái Bình và được xây lại vào cuối đời Thanh. Kiến trúc hiện nay là kiến trúc đời Thanh.

- Trong chùa có 2 bia đá: một nói về lai lịch chùa, một khắc bài thơ của Trương kế do Khang Hữu Vi đời Thanh viết chữ và cho khắc.

Tập hợp tất cả những điều mắt thấy (một người Việt Nam đã thực mục sở thị và chụp ảnh được những cái mình đã trông thấy) kết hợp với những phát hiện của các học giả Đông, Tây, những điều đã được mang ra tranh cãi trước đây, ta thấy cần phải xem lại đám "địa danh" vì trong bài thơ bất tử nói trên không thể nào lại chứa đựng nhiều tên riêng như thế. Nó sẽ ảnh hưởng đến chất thơ và nếu quả thực nó đúng như thế, bài thơ không thể tồn tại hết đời này sang đời khác.

Xin được điểm lại một lượt các địa danh đã nêu và lọc đi phần thiếu lôgích:

- Luận điểm cho "Ô Đề" là tên thôn, có thể chấp nhận được. Nó nói lên khoảng không gian mà nhà thơ Trương Kế nhìn thấy khi trăng lặn. Chi tiết "trăng lặn" nói lên khoảng thời gian quan sát của nhà thơ. Có người cho trăng phải lặn rất sớm. "trăng lặn" không phải là "trăng tà" vì "trăng tà" sớm hơn, khi chưa lặn xuống dưới đường chân trời.

- "Ngư hoả" không thể nào là địa danh vì không ai lại đặt tên như thế. Chẳng lẽ nó là tên một khúc kênh !

- "Sầu Miên" không thể là núi, vì một lẽ đơn giản: trong bản đồ du lịch không vẽ, không ghi. Chùa Hàn Sơn nhỏ hơn núi nhiều mà còn có, lẽ gì cả quả núi không có, nhất là nó đã có mặt trong một bài thơ tuyệt tác. Nói "Sầu Miên" là tên hòn đá, nơi "Tây Thi ngồi mà nhìn về quê nhà" cũng vô lý, vì lầu Cô Tô (chùa Hàn Sơn ở phía ngoài thành). Hà tất Tây Thi phải lặn lội ra tận ngoài thành, ngồi trên một hòn đá ở vị trí thấp hơn. Hơn nữa, bản đồ du lịch không ghi thành Cô Tô cũng như lầu Cô Tô. Khu vực này, nay là thị trấn, đã được công nghiệp hoá.

Tôi trình bày như trên để đi đến kết luận là phải xem lại bản dịch của Tản Đà. Tôi rất ngưỡng mộ Cụ. Thời còn là thanh niên, mỗi khi đi học qua "Tản Đà thư điếm" ở phố Hàng Bông, bao giờ tôi cũng nhìn xem cụ có đến đấy không (tuy lúc ấy, tôi biết cụ đã chuyển về ở làng Hà Trì, Hà Đông. Hồi đó, tôi đã thuộc lòng nhiều bài thơ Đường do Cụ dịch. Tình cảm của tôi đối với cụ như vậy cũng không ngăn tôi thấy bản dịch Phong Kiều dạ bạc của Cụ có những điểm chưa thoả đáng:

- Về câu 1 "Nguyệt lạc" (trăng lặn) được Cụ đổi thành "trăng tà" khiến thời gian Trương Kế làm thơ bị thay đổi.

"Chiếc quạ", sao lại chiếc quạ ? Quạ không đi ăn mảnh, thường đi đôi hay đi đàn [Hồi đầu thế kỷ này, thực dân Pháp mới chiếm đóng nước ta đã gọi Văn Miếu - Quốc tử giám Hà Nội là "Chùa Quạ" (Pagode des Corbeaux) vì ở đây có rất nhiều quạ làm tổ trên những cây muỗm cổ thụ ở khu đền Khải Thánh, ban ngày chúng đậu đầy trên mái nhà Đại Bái và các nhà tả, hữu vu, chạng vạng tối, chúng đã về tổ và không hoạt động đêm].

Câu 3: Bến "Cô Tô". Sao lại bến Cô Tô trong khi tác giả đã ghi rõ ở đầu đề là "Bến Phong Kiều" ? Bây giờ ta xem lại bản đồ càng thấy rõ hơn.

Bây giờ với những hiểu biết mới về khu vực Hàn Sơn tự, ta thấy khó gói ghém tất cả vào 4 câu thơ, 28 chữ.

Tôi mạo muội làm thử một bài thơ dịch với những dữ kiện mới phát hiện, mong được nhiều bạn cho thêm ý kiến, góp những bản dịch mới để ta sớm chọn được bản dịch tốt và hoàn chỉnh:

Đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng lặn Ô Đề, sương bát ngát,
Lửa chài, cầu cổ, giấc sầu vương.
Cô Tô khuất nẻo Hàn Sơn tự,
Đêm lắng thuyền ai, mấy tiếng chuông !

CHÚ THÍCH

(1) Thiên gia thi: tên một tập thơ do Lưu Khắc Trang là nhà thơ đời Tống (TQ) tuyển những thể thơ hay về ngũ, thất ngôn luật thi, tuyệt cú của số lớn các nhà thơ nổi tiếng đời Đường, Tống, lấy tên là Đường Tống thiên gia thi tuyển. Sau Tạ Phương Bắc và người sau tinh tuyển còn hơn một trăm nhà, nhưng vẫn gọi là Thiên gia thi.

(2) "Phong" là cây phong. Miền Bắc Việt Nam cũng có cây này mà các cụ không biết cứ dịch sai "phong" là cây bàng. Cây "phong" ở ta mang tên là cây sau sau hay sao sao. Người ta nuôi con cước trên cây này. Khi cước chín (như tầm chín), người ta rút từ bụng cước ra một sợi dây dài và trong, dùng làm dây câu cá, dây khâu vành nón. Cây sau sau có nhiều ở Lạng Sơn. Ngay trên đường lên Tam Đảo ở "cột" 600 đi lên, cũng có mấy cây sau sau; cuối thu toàn bộ lả đỏ rực trước khi rụng.

TB

PHÁT HIỆN MỘT BẢN KIỀU MANG
MÀU SẮC TRUYỀN KỲ

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN

Năm 1993, chúng tôi được ông Nguyễn Doãn Tấn ở thị xã Thái Bình giao cho cuốn sách này và cho biết thêm rằng đây là bản Kiều do cụ nội ông Tấn là Nguyễn Doãn Cử (1821-1890) nguyên là giảng quan ở phủ Tôn Nhân, kiêm Quốc sử quán Biên tu triều Tự Đức, khi về hưu đã mang về và được gia đình lưu giữ cho đến hôm nay(1).

Văn bản tập Kiều này khổ 28x16cm. Chữ viết đá thảo, linh hoạt. Chấm son rất kỹ, người đọc có thể phân biệt rõ tên người, tên đất, tên sách. Vì quá lâu ngày nên đã bị mất một số trang đầu, đã đóng lại bìa các tông.

Tờ đầu chép tiểu sử Nguyễn Du, tiếp là thơ đề từ của Phạm Quý Thích. Phần còn lại là nội dung Truyện Kiều với 88 tờ rưỡi (177 trang). Mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 22 chữ. Sách không chia thành 3 tầng như bản khắc gỗ. Các chú thích đều viết liền vào chính văn, chữ nhỏ (2 dòng nhỏ ăn 1 dòng lớn). Đầu mỗi trang chừa một khoảng rộng 5cm, ghi chú những câu trong nguyên tác và lời phê của các ông Vũ Trinh, Nguyễn Lượng.

Chúng tôi sơ bộ đối chiếu qua mấy bản :

- Với bản của Kiều Oánh Mậu (KOM) khắc in năm Nhâm Dần (1902) thì bản này số câu bằng nhau (3256 câu), số chữ khác nhau không đáng kể. Chú thích kỹ như bản KOM.

- Với bản của Nguyễn Thạch Giang (Nxb. ĐH và THCN., 1975) (chắc cũng dựa vào bản KOM), so số lần phê của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng, bản này nhiều hơn 4 lời phê.

Bản Nguyễn Thạch Giang: Vũ Trinh phê 9 lời ở các câu : 1 6; 1533, 34 ; 1800; 2248; 2371; 3076; 3204; 3216, Nguyễn Lượng phê 5 lời ở các câu: 713; 1148; 2570; 2390; 3014. Tổng cộng 14 lời phê của Vũ và Nguyễn.

Bản này phê đủ như thế và thêm 4 lời phê như sau: Vũ Trinh phê ở câu 2187 ; 2188 và 3161 3164 (thêm 2 lời phê). Đó là các câu :

Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu.

Vũ Trinh phê : Hiền giả tự ty chi từ, hiền giả bất ngộ chi thán, hiền giả một nại hà chi ngữ (Đó là lời nói nhún của bậc tài hoa, là lời than chẳng gặp được tri kỷ, chả còn cách nói nào khác của bậc hiền giả).

Đoạn :

Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan !
Còn nhiều ân ái chan chan,
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi ?

Vũ Trinh phê: Độc chí thử phương xưng Kiều chi trinh. Nhiên Kiều chi trinh đương ư Bình Khang lưu lạc thời khán chi. Chí thử tắc xử đắc ý chi sự tố cá bảng dạng dĩ tự kỷ trinh chỉ khả vi Kiều tác thái nhĩ. Tuy nhiên năng xưng Kiều trinh diệc bất đa đắc. Hoặc viết vương tôn công tử tự thị quán kiến tích thời kiêu khiếp. Bút ý bất phục trí tại nhãn lý - Oan tai ! (Đọc đến đây mới khen cái trinh tiết của Kiều. Song cái trinh tiết của Kiều phải xem xét ở thời kỳ nàng lưu lạc chốn Bình Khang. Đây là ở vào chỗ sự việc đắc ý rồi mà còn lấy cái trinh tiết của mình e dè kiểu đó, chỉ có thể gọi là cách làm dáng của Kiều vậy. Tuy nhiên có khen Kiều trinh tiết cũng không nhiều - Hoặc là nói các vương tôn, công tử từ đó mà thấy quen cái nỗi khiếp sợ thơ ngây ngày trước. Bút ý của tác giả chẳng đặt trở lại trong mắt mình nữa. Oan thay ! )

Nguyễn Lượng phê ở câu 3186 :

Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay : Nhị nhân phục nhập tú trướng, bách trùng hoan ngu chỉ bất ngôn vân vũ sự. Thử Kiều toàn tiết xứ diệc văn chương tam mạch xử. (Hai người lại vào màn thêu. Bao lần vui vẻ với người khác mà không nói đến chuyện mây mưa. Đó là chỗ toàn tiết của Kiều. Văn chương cũng xử sự qua ba mạch đó).

Câu :

Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.

Nguyễn phê: Quá mạch sinh xuất dư ba diệc diệu (Qua mạch văn, cái âm hưởng tuyệt vời vẫn cứ dạt dào).

So với bản Đào Duy Anh (Nxb. VH., Hà Nội, 1979) có 363 chữ và câu khác nhau.

2- “Tập Kiều” bằng thơ Hán cổ, khổ 28 x16 cm. Viết thảo khổ chữ to. Đã mất trang đầu, trang cuối. Hiện còn 36 tờ rưỡi (73 trang). Mỗi trang 8 câu thơ Hán cổ, có ghi chú xuất xứ ở sách nào, bài nào và 8 câu lục bát trong Kiều tương ứng. Giấy đã mủn mấy trang đầu. Tôi đã chép ra sổ tay gồm 592 câu thơ Hán cổ ứng với 529 câu Kiều. Riêng tập này theo nhận định cá nhân, có thể còn nhiều hơn nữa. Về tự dạng giữa 2 cuốn có khác nhau chút ít nhưng khó phân biệt. Vì 2 cuốn chữ đều đẹp, song ở cuốn 2 chữ viết phóng khoáng, tài hoa hơn.

Nếu thuần tuý chỉ là “tập Kiều” bằng thơ Hán cổ thì tập này có thể đứng vào hàng quán quân. Vượt bản của Phan Mạnh Danh 408 câu và của Tú tài Nguyễn Nhạ (Vũ Thư, Thái Bình) 472 câu(2).

Một nét độc đáo khác, dưới mỗi câu thơ Hán đều ghi xuất xứ rút ở bộ sách nào hoặc bài nào. Cụ thể là các bộ sách (hoặc bài) sau :

Thi lâm, Nhi nữ, Đường thi, Hồng lâu mộng. Các bộ tài tử : Nhị tài tử, Tam tài tử, Lục tài tử, Thất tài tử, Bát tài tử, Cửu tài tử, Thập tài tử. Các bài hành : Đào nguyên hành, Tỳ bà hành, Cổ bách hành. ỷ lâu, Hoa nguyệt ngân, Tống thi, Đạm doanh, Điều doanh, Đường biệt tài, Bách mỹ, Tình sử, Tái sinh duyên, Tây sương ký, Uyên giám, Kiển đào hoa, Chính khanh tập, Mộng trung, Ngũ mỹ, Thập mỹ, Cổ xuý, Tô thi, Liêu trai, Kỳ quan, Thanh lâu, Trường hận ca, Nhi nữ tình, Hồi văn, Thi thoại, Tuỳ lệnh, Cổ văn, Thi ngữ, Thanh thi, Vương các, Thiên gia thi, Thiên gia thảo, Kính hoa duyên,Tuỳ toàn tập, Mộng trung duyên, Phong tình lục, Trụ xuân viên, Hoa nguyệt, Lưỡng toàn tập, Thăng bình, Ngọc kiều lê, Tập thành, Thanh biệt tài, Bút sinh hoa, Hồng viên mộng, Hoa tiên, Hiếu thuật, Địa ngục, Nhị sinh duyên, Thanh lâu mộng, Xuân khuê thi, Thất mỹ, Đề Hạng vương, Cầu phượng khúc, Chinh phụ ngâm, Đông Chu, Tuỳ Đường, Bình quỷ.

Tổng cộng 74 đơn vị. Một điều thú vị, tập cả thơ Hán Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và cũng chỉ chọn được 1 câu. Ví dụ : câu 1999 và 2000.

Biết bao đoạn khổ tình thương
Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than

Mang mang khan tận bi sầu khổ (Hồng lâu mộng)

Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường (Chinh phụ ngâm)

Một số câu dù chú thích bản 1 đã có, nhưng ở bản 2 lại tập ở sách khác.

Ví dụ câu 2173 và 2174 :

Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

Ở văn bản 1 dẫn thơ Hoàng Sào :

Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
Nhất trạo giang sơn tận địa duy.

Ở văn bản 2 lại dẫn trong Thi lâm:

Mãn nhãn giang hồ khinh nhất trạo,
Đảm đầu cầm kiếm thế lăng vân.

Câu 1281,1282 :

Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa.

Xuân phong ỷ các lưu tô trướng,
Tự hỷ tầm phương thán dĩ tao.

Đều rút ở Tình sử. Trong các bản Kiều tiếng Việt hiện nay chỉ chú : do chữ “lưu tô trướng”, không nói rõ xuất xứ. Tập nhiều câu rất sát với Nguyễn Du.

Ví dụ :

Tiết vừa con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Cửu thập thiều quang kim quá bán (Tống thi)

Đầu thoa yến tử dĩ quy lai (Đường biệt tài)

Mạch thượng thảo bình thiên nhất sắc (Thi lâm)

Lê hoa điểm điểm sâm si khai (Đường biệt tài).

Nhiều câu tập linh hoạt về ngữ nghĩa mà không phản nguyên tác.

Ví dụ :

Khúc đâu đầm ấm dương hoà,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh.
Trang sinh mộng lý mê hồ điệp (Đường thi)
Kiến đắc tình xuân các thượng hoa (Tình sử)
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Dã si sung thiện cam trường hoắc (Tình sử)
Tiêu thụ yên hà thú hữu dư
(Tuỳ toàn tập).

Xưa nay những người tập Kiều, tập cổ thường không ghi xuất xứ từng câu thơ trích ở sách nào và ghi lạc khoản như bản này. Có thể đoán định người sưu tập muốn phục vụ cho một tiêu chí, một mục đích nào đó. Phần tiếp sau sẽ hé mở lý do này.

*
**

Đến đây xin giới thiệu qua về Nguyễn Doãn Cử, người chủ văn bản này từ thời Tự Đức và truyền lại cho con cháu đến hôm nay.

Ông hiệu là Bằng Phi, sinh năm Tân Tị (1821) quê xã Hành Dũng Nghĩa, huyện Vũ Tiên, Thái Bình (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư). Gia đình vốn dòng thi thư. Anh cả là cử nhân Nguyễn Doãn Vọng, Đốc học tỉnh Nghệ An là thầy học của các ông Tiến sĩ Phan Đình Phùng, Phan Huy Nhuận, Phan Trọng Mưu. Em út ông là Cử nhân Nguyễn Doãn Tựu làm Tuần phủ Hà Tĩnh.

Hồi trẻ Nguyễn Doãn Cử theo học Tiến sĩ Ngô Thế Vinh làng Bái Dương, Nam Trực. Mặc dù học lực khá, được Vũ Phạm Khải khen ngợi, năm 43 tuổi mới đậu Cử nhân. Được bổ chức Huấn đạo Thanh Ba, Phú Thọ, sau thăng Giáo thụ rồi làm Tri huyện Lập Thạch, Tri huyện Hải Lăng. Sau đó được điều về chiến khu Sơn Hưng Tuyên (1874) cùng các văn thần khác lo việc chuẩn bị chống Pháp.

Tháng giêng năm Tự Đức 32 (1879), nhà vua triệu ông về Kinh nhận chức Giảng quan phủ Tôn nhân, thăng Hàn lâm viện Thị giảng kiêm Biên tu ở Quốc sử quán (gia đình hiện còn sắc phong). Trong đám con em hoàng tộc do ông dạy bảo có Ưng Lịch (sau là vua Hàm Nghi). Năm 1881 vừa tròn 60 tuổi ông dâng sớ xin nghỉ hưu về quê nhà.

Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần 2 (1882) ông cùng với thân gia Nguyễn Hữu Bản đem nghĩa binh sang giữ thành Nam Định cùng với Đề đốc Lê Văn Điểm, án sát Hồ Bá Ôn. Khi ấy ông đang làm gia sư cho tổng đốc Nam Định Vũ Trọng Bình.

Gia đình ông cũng là thân gia với gia đình Tiến sĩ Hy Long Đặng Xuân Bảng (Hành Thiện, Xuân Trường) với gia đình nhà văn thân yêu nước Nguyễn Mậu Kiến (xã Vũ Trung, Kiến Xương). Ông là thầy học khi đã hưu quan của các ông Phó bảng Đông Thành Trần Xuân Sắc, ông Phó bảng Nguyễn Tái Tích, Cử nhân Nguyễn Kỳ Nam, Nguyễn Thiện Kế v.v...(3)

*
**

Ông Nguyễn Doãn Tấn còn cho biết thêm : khoảng năm 1939-1940 có ông phán Trân, người của Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp về sửa chữa chùa Keo, có gặp thân phụ ông Tấn là cụ Nguyễn Doãn Khiên, một lương y danh tiếng và được xem cuốn Kiều này. Ông Trân ngỏ ý hỏi mua và nói : “Nhà cửa anh tồi tàn thế này, anh nên để cuốn Kiều cho Học viện Bác cổ, nhà cửa anh sẽ được khang trang”. Cụ Khiên trả lời: “Đây là bảo vật của gia đình và huyết mạch của thân gia - Bố tôi (tức cụ ấm Chí) dặn lại dù chết đói cũng không được bán”.

Ở đây có một chi tiết đáng lưu ý “Cuốn Kiều còn là huyết mạch của thân gia”. Chúng tôi lần theo một nguồn thông tin khác là ông Nguyễn Doãn Khiết (em ruột cụ Khiên) cho biết như sau :

Cuốn Kiều này gốc của cụ Nguyễn Tú, Thị lang Bộ Lễ triều Minh Mệnh, quê xã Phương Đễ, huyện Trực Ninh, Nam Định. Khi cụ Tú vào Kinh có đưa người em họ vào học, Vua Minh Mệnh chỉ thị cho Nguyễn Tú cùng 16 người trong Bộ Lễ trong một năm phải sưu tầm, hoàn chỉnh cuốn Kiều. Minh Mệnh nói: “Khanh phải dẫn những câu nào của Kiều rút từ sách nào, điển cố nào phải ghi rõ xuất xứ. Làm xong sẽ khắc ván in”.

Công việc này cụ Nguyễn Tú phải tiến hành một năm rưỡi mới hoàn thành, kể cả việc khắc ván. Khi đó Nguyễn Tú có mẹ già ốm, được nghỉ phép về thăm, để em ở lại. Khi Tú về quê thì trong Kinh xảy ra vụ cháy ở ấn quán Bộ Lễ. Không rõ nguyên nhân cháy nên người em Tú sợ, lấy trộm ngựa chạy trốn, chẳng dè lại đúng con ngựa của Minh Mệnh. Nhà vua có lệnh hoả tốc triệu Tú về Kinh ngay. Khi Tú về Kinh thì em Tú về theo. Nhà vua giao Tú xử vụ cắp ngựa. Tú xin lĩnh án tử hình cho em. Minh Mệnh hỏi : ý khanh thế nào mà tình nguyện xin lĩnh án ấy ? Tú trả lời : Bẩm thánh thượng,

Thương em thần để trong lòng,
Việc quan thì cứ phép công mà làm.

Minh Mệnh giảm án, cho em Tú lĩnh án tù. Minh Mệnh khen Tú là con người giữ được cả chữ Trung và chữ Lễ.

Khi nhận lệnh hoả tốc về Kinh, Nguyễn Tú đã quên ở nhà bản thảo cuốn Kiều này và bản Tập Kiều cổ Hán thi góp vào phần chú thích như chỉ thị của Minh Mệnh đề xuất. Cả hai văn bản đều đựng trong tráp gỗ thị nguyên phiến.

Thực ra bản thảo cuốn Kiều đã in xong và cất ở văn phòng Bộ Lễ. ở ấn quán chỉ cháy ván in. Nên bản Kiều in thời Minh Mệnh thường gọi là “bản Kinh”.

Con trai thứ của Nguyễn Tú là Nguyễn Chiến, Giáo thụ phủ Xuân Trường, sau làm quyền Đốc học nên gọi là Đốc Chiến. Đốc Chiến thông gia với án sát Phạm Vụ Mẫn (1854 - ?) người xã Dịch Diệp, huyện Trực Ninh (nay thuộc xã Phương Định, huyện Nam Ninh, Nam Hà). Con trai Đốc Chiến là cả Hy lấy con gái ông huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) là chị họ của Nguyễn Doãn Chí (tức ấm Chí, thân phụ ông Nguyễn Doãn Khiết, người đang dẫn truyện). Ông Đốc Chiến mang cuốn Kiều này (kể cả bản Tập Kiều cổ Hán thi) đưa cho Cử nhân Nguyễn Doãn Cử và nói : “Tôi biếu bác cuốn Kiều này, cuốn Kiều máu đây (chỉ người chú của Đốc Chiến bị phạt tù, sau thắt cổ tự tử ở trong ngục), không nên cho ai. Đây là chỗ thân tình giữa tôi với bác. Nếu lộ sẽ bị tai họa.”

Vẫn lời ông Nguyễn Doãn Khiết: Cuốn Kiều này sinh thời bố tôi (tức cụ ấm Chí, cụ ấm là con Cử nhân Nguyễn Doãn Cử) chỉ cho mấy người xem. Đó là Phó bảng Đốc học Nguyễn Tái Tích, nguời Khê Thượng Bất Bạt, Sơn Tây, anh cùng cha khác mẹ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, học trò Nguyễn Doãn Cử.

Phó bảng Đông Thành Trần Xuân Sắc (Tiền Hải) học trò Nguyễn Doãn Cử. Sau này là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà từng về theo giỗ Nguyễn Doãn Cử. Bởi lẽ Nguyễn Tái Tích thụ nghiệp Nguyễn Doãn Cử có bế cả Tản Đà 3 tuổi ngồi vào chiếu. Nên có thể coi Tản Đà là chú học trò nhập tịch ngoại lệ của Nguyễn Doãn Cử.

Những thông tin của ông Nguyễn Doãn Khiết chưa đủ sức thuyết phục. Tháng 6 - 1995 chúng tôi qua sông Hồng sang xã Phương Đễ tìm đến từ đường thờ Nguyễn Tú và gia phả của gia đình này cùng với ông Nguyễn Doãn Khiết.

Xin tóm tắt những điều Gia phả cho biết như sau :

Nguyễn Tú người thôn Cổ Chất, xã Phương Đễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (nay là xã Trực Phương, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà). Ông sinh năm 1794. Hồi nhỏ học ở nhà, 16 tuổi đỗ Khoá sinh, 17 tuổi lên Bắc Thành (Hà Nội) thụ nghiệp Hoa Đường tiên sinh Phạm Quý Thích (1759-1825). Năm Gia Long 15 (1816) ông 22 tuổi, đậu Cử nhân. Quê ông bấy giờ có loạn Chỉ Sáu (tức cuộc khởi nghĩa nông dân Vũ Đình Lục) tình hình khá rối ren nên ông ở nhà lấy vợ. Sau đó Nguyễn Tú được bổ Tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Năm 32 tuổi cha mất, ông về quê chịu tang. Sau ông được đổi đi Tri huyện Kim Thành (Hải Dương) Năm Minh Mệnh 2 (1821) được thăng Tri phủ Tiên Hưng (nay thuộc Thái Bình) khi ông 36 tuổi.

Năm 41 tuổi, được vời vào Kinh, biên chế vào Bộ Binh, giữ chức Lang trung. Năm 1827 thăng Bố chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1828, 43 tuổi thăng Hiệp trấn Thuận An. Năm 1829, 44 tuổi làm Thị lang Bộ Lễ, phụ trách việc nghiên cứu sửa đổi các điều luật. Năm 1831 thăng Hữu tham tri Bộ Công và làm chủ khảo trường thi Gia Định. Cũng năm đó Nguyễn Tú lại chuyển là Tả tham tri Bộ Lại, rồi điều ra làm Bố chính tỉnh Quảng Trị và được ban chức Tuần phủ. Năm Giáp Ngọ (1834) Minh Mệnh 15, được cử ra đảo Cửu Chu (có lẽ là Thổ Chu bây giờ - TG) dẹp bọn giặc Xiêm, lập được quân công, Minh Mệnh ban thưởng “phi long kim tuyến” và chiếc áo gấm.

Năm Thiệu Trị 1(1841), tháng 6 làm Chủ khảo trường thi Nghệ An. Sau đó ông được lệnh ra đảo Phú Quốc cùng với một viên quan cộng sự. Nhưng hoàn cảnh gia đình thanh bạch, là người con chí hiếu lại có mẹ già ốm yếu, ông xin nghỉ phép để trông nom phụng dưỡng.

Năm 1842 triều đình bắt ông đi làm lính ở tỉnh Hưng Yên (Có lẽ ông nghỉ quá phép nên phải chịu kỷ luật chăng ? TG). Một năm sau ông được trở về quê quán làm người dân thường. Năm ấy thân mẫu ông đã qua đời. Ông trở lại Hưng Yên làm nghề dạy học. Năm 63 tuổi, ông về dạy ở xã Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ, 66 tuổi ông chuyển về dạy học ở xã Hoành Nha cùng huyện. Năm Tự Đức (1855) ông ở tại gia đình giảng tập cho các tỉnh thần. Cũng năm đó ngày 9 tháng 11 ông qua đời, thọ 71 tuổi. Mộ táng trước cửa chùa toạ Nhâm, hướng Bính (tức theo hướng Bắc - Nam).

Từ đường thờ ông còn câu đối sau :

Cố gia sự nghiệp tồn biên lục;

Nho hoạn phong thanh hữu cổ kim.

(Sự nghiệp của gia đình xưa còn ghi ở sử sách; Thanh danh và phong khí khi làm quan còn mãi với cổ kim).

Hai tấm biển sơn son thếp vàng :

- Trâm anh dịch thế (Đời đời dòng dõi trâm anh)

- Y bát truyền gia (Nếp nhà đời đời kế nối)

Đáng lưu ý mấy điều ghi trong gia phả :

Nguyễn Tú năm 17 tuổi (1811) lên Hà Nội học Hoa Đường Phạm Quý Thích. Năm 22 tuổi (1816) đậu Cử nhân khi thầy học mình vẫn còn khoẻ mạnh (9 năm sau Phạm Quý Thích mới qua đời). Có thể, khi Nguyễn Tú được Minh Mệnh giao cho việc tìm tòi các bản Kiều, trích dẫn điển cố các sách vở, ông đã tiếp thu ít nhiều thầy học mình, trong đó có cả cuốn Kim Vân Kiều tân truyện mà thầy học đã khắc in ở Hàng Gai, Hà Nội chăng ?

Năm 1829 với chức Thị lang Bộ Lễ phụ trách nghiên cứu, sửa đổi các điều luật, rất có thể bao gồm cả việc nghiên cứu, thu thập, chú thích văn bản và in ấn truyện Kiều chăng ?

Mọi người đều biết cứ dân tộc nào trước khi có thông sử (histoire genérale) đều phải trải qua một thời kỳ dài nhiều thế hệ bằng lịch sử kể miệng (histoire orale).

Lịch sử kể miệng thẩm thấu tự nhiên trong dân gian đã góp phần không nhỏ vào nền văn hoá chung và nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những nét đẹp truyền thống. Nó bảo đảm và phát huy những giá trị, những kinh nghiệm, những phẩm chất tốt đẹp, là một bộ phận hình thành bản sắc văn hoá của một dân tộc.

Trên ý nghĩ đó, chúng tôi coi những điều trình bày trên như một nguồn tư liệu lịch sử dân gian hồn nhiên, không tô vẽ. Bởi lẽ chứng nhân của nó đã qua đời một thế kỷ rưỡi. Chỉ còn chứng tích văn bản không được toàn bích, hy vọng nó sẽ nói lên được điều gì qua giám định khoa học, hoặc ít ra cũng góp thêm một nét truyền kỳ cho Truyện Kiều của Nguyễn Du vốn đã mang đậm sắc thái truyền kỳ trên nhiều phương diện.

N.T.Đ
Vũ Trung, ngày lập thu 1996.

CHÚ THÍCH

(1) Bản Kiều này đã được nhà báo Nguyễn Dương Côn đưa tin trên báo Thái Bình ngày 13-8-1994. Nhà văn, nhà nghiên cứu Hán Nôm - Phó tiến sĩ Đào Thái Tôn đã nhắc đến 3 lần trong các bài viết của ông trên tuần báo Văn nghệ (Hội nhà văn Việt Nam) với các bài : Bóng hồng; Bụi hồng; Phong tình có lục, cổ lục - Gươm đàn không phải là gươm và cung bắn đạn tròn (Các số tháng 3, 4 - 1995 và 3-1996).

(2) Theo tư liệu của ông Nguyễn Doãn Khiết. Xem thêm Thế Anh : Một bản dịch Truyện Kiều độc đáo. Tạp chí Hán Nôm số 1 -1996

(3) Xem thêm Nguyễn Thanh Vân - Nguyễn Tiến Đoàn: Nguyễn Doãn Cử người thầy học, nhà văn thân yêu nước. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1, 2, 1992.

TB

VỀ TẤM BIA ĐÀO HỒ THẢ CÁ Ở THÔN CHÂN LẠC XÃ DŨNG LIỆT, HUYỆN
YÊN PHONG, BẮC NINH

NGUYỄN MINH TUÂN.

Yên Phong là một huyện có truyền thông văn hoá, một trung tâm kinh tế của vùng Kinh Bắc cổ, chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa. Những xã thôn nằm ven phía nam bờ sông Cầu, thường có kiêm thêm nghề trồng dâu nuôi tằm, đánh bắt cá... Thôn Chân Lạc xã Dũng Liệt là một thôn như thế.

Theo Xã chí Yên Phong(1) thì thôn Chân Lạc, tên Nôm là làng Choá Chợ, tên cũ là xã Chân Hộ, thời cổ gọi là Hộ Hương, sau tách ra thành 2 xã Chân Hộ và Hộ Trung. Đến thời Đồng Khánh (1886 -1888) lại đổi Chân Hộ ra Chân Lạc, Hộ Trung ra Lạc Trung.

Thôn Chân Lạc, bên cạnh nghề chính là trồng lúa, ngô, khoai còn có nghề trồng dâu nuôi tằm khá phát triển, và đặc biệt làng còn có nghề nuôi cá và gột cá bột còn duy trì cho đến tận ngày nay.

Song không chỉ có vậy, trong thôn còn có người đỗ đại khoa, có người làm quan (quan Thái giám, quan binh nghiệp) hiện được thờ ở Từ đường họ Nguyễn như:

- Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Thị nội giám Ty lễ giám Đô thái giám Nguyễn Đình Kiêm, tên thụy Đôn Tín, tước Tiên Thọ hầu.

- Thị nội giám Ty lễ đồng tri giám sự Nguyễn Đình Tiên, tước Tiên Trung hầu.

- Ông Nguyễn Văn Vĩ, giữ chức đội trưởng đội 10, cơ Tiền Thắng.

- Ông Nguyễn Long Bảng, đỗ Tiến sĩ đời Chính Hoà, có bốn đạo sắc năm Cảnh Hưng đời Lê và hai đạo bằng cấp năm Tự Đức đời Nguyễn.

Hàng năm, làng mở lễ hội chính vào hai ngày 6 và 7 tháng giêng, lễ dùng mâm chay : bỏng nén, chè lam, bánh khảo, bánh dầy, và lợn, gạo nếp để tế lễ cúng thần.

Theo bản vẽ của Lý trưởng Chân Hộ năm 1943, thì qui mô ngôi đền lớn hơn đình làng, bên cạnh đền là ngôi miếu nhỏ. Trước đền và miếu là hồ thả cá mà bài văn bia dưới đây sẽ đề cập đến. Tại đền còn lưu giữ 20 đạo sắc phong, đạo có niên đại sớm nhất đề năm Vĩnh Thịnh 6 (1710), đạo muộn nhất đề năm Khải Định 9 (1924). Lại có một bản thần tích do Nguyễn Long Bảng, Tiến sĩ đời Chính Hoà, người trong xã viết năm Chính Hoà 6(1685). Tại đền có 2 tấm bia: Thạch ước tinh bi, tạo năm Chính Hoà 26 (1705) và Chân Hộ khai hồ thạch ước ký, tạo năm Vĩnh Thịnh 10 (1714).

Tại đình có 2 bia, mỗi bia 1 mặt: Bản xã bi ký bản giáp bi tạo năm Thành Thái 6(1894), và Đông Viên Đông An hậu kỵ bi ký, tạo năm Thành Thái 5 (1893).

Tại chùa có 3 bia: Tu tạo Thiệu Khánh tự bi, tạo năm Quí Dậu (?); Trùng tu Thiệu Khánh tự, tạo năm ất Hợi (?); Và Hậu Phật bi, tạo năm Cảnh Hưng 11 (1750).

Tại miếu có 1 bia: Công đức bi ký, tạo năm Nhâm Thìn (?).

Tổng cộng cả thôn có 8 bia. Trên đây là theo bản kê khai của Lý trưởng thôn Chân Hộ năm 1943. Nay trở lại, thấy hầu hết những hiện vật kể trên như bia, thần tích, sắc phong đều đã thất lạc. Riêng thác bản các bia kể trên hiện vẫn lưu giữ được tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong đó có bia về đào hồ thả cá: Chân Hộ xã khai hồ thạch ước ký (N0 17.989-92).

Bia không in rập phần trán, diềm không có trang trí, chữ khắc chân phương, còn tương đối rõ nét. Bia gồm 4 mặt:

- Mặt 1: Khổ 75 x 50 cm, khoảng 266 chữ, ghi họ tên những người đứng ra lập bia.

- Mặt 2 : Khổ 75 x 22 cm, khoảng 60 chữ, kê khai họ tên người bán ruộng cho làng để đào hồ với số tiền cụ thể.

- Mặt 3: Khổ 75 x 50cm, khoảng 294 chữ, tiếp tục kê khai họ tên những người bán ruộng và một số điều lệ.

- Mặt 4: Khổ 75 x 22 cm, khoảng 96 chữ, ghi các điều lệ của bản thôn.

Qua nội dung văn bia, có thể thấy:

1. Thôn Chân Lạc năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) có tên là Chân Hộ gồm 6 giáp.

2. Chân Hộ khi ấy đã có nghề trồng dâu nuôi tằm và nghề thả cá khá phát triển (bán bãi trồng dâu lấy tiền mua ruộng đào hồ thả cá).

3. Tổng số ruộng đã mua để đào hồ là 11 thửa và 2 cái ao, với số tiền 274 quan 8 mạch tiền Sử.

4. Hàng năm cứ vào tháng 3, xã trưởng dùng tiền quỹ chung mua cá giống thả xuống hồ.

5. Hàng năm cứ mỗi dịp lễ tết, đều đánh bắt cá cúng thần, trong đó, lần đánh bắt lớn nhất vào ngày lệ đánh cầu 10 tháng 4. "Khi đó các bậc trên dưới trong xã cùng đánh cá, chia đều cho 6 giáp, để mỗi giáp đều được làm cỗ dâng cúng ở đền..." Còn các lễ thì:

- Ngày 3 tháng 8 hàng năm, có lệ sửa chữa nhỏ ở đình, cho đánh 12 con để cúng thần...

- Ngày 10 tháng 8, làm lễ nhập tịch, các vị hương lão đánh cá chia đều làm cỗ.

- Ngày 18 tháng 8, có lệ bổ cỗ, cũng cho đánh cá để làm cỗ tế thần.

Vì sao cỗ cúng Thành hoàng Chân Hộ đều phải có cá? Theo thần sắc còn lưu giữ được tại đền, qua lời khai của Lý trưởng Chân Lạc năm 1943 thì, làng thờ bốn vị Thành hoàng: Long Vương, Hậu phi phu nhân, Phụ Quốc, Tam Giang công chúa, đều là những vị Thành hoàng có liên quan đến sông nước. Rất có thể người ta cúng cá là mong Thành hoàng phù trợ cho dân làng hanh thông phát đạt trong nghề đánh bắt và thả cá. Ngày nay dân làng cũng không còn giữ lệ cúng cá, nghề đánh bắt cá cũng mất, nhưng nghề gột cá bột, thả cá không những vẫn giữ được truyền thống xưa, mà còn rất phát triển: gột cá bột đem bán và phổ biến cách chăn thả khắp các vùng lân cận.

Để bạn đọc hiểu tường tận nội dung tấm bia đào hồ thả cá hiếm thấy này, xin dịch nghĩa toàn văn như sau:

Giao ước trên bia đá về việc xã chân hộ đào hồ

Lời giao ước xưa nay cũng đã chuộng lắm. Trong làng phải có nơi cúng tế là để tỏ sự tôn kính với thần và cũng là để làm đẹp phong tục vậy. Nhưng các vị trong bản xã là Giám sinh Nguyễn Khiêm, Nho sinh Nguyễn Bá Ân, Nguyễn Trọng Thuần, Điển mục Trần Hữu Dung, Xã trưởng Ngô Hữu Đạt, Thôn trưởng Nguyễn Công Phương, Ngô Thế Cử, Ngô Đức Nhữ, Ngô Thế Xích, Nguyễn Nhân Lưu, Nguyễn Gia Bình, Nguyễn Tá Thời, Ngô Thế Bật, Nguyễn Duy Thành, Ngô Thế Chủng, Nguyễn Nhân Ân, Ngô Đăng Quang, Đặng Đức Nhuận, Lê Văn Tài, Vương Văn Lâm, Trần Xuân Thành, Nguyễn Đăng Vạn, Ngô Quang Hưng, Nguyễn Hữu Trọng, Ngô Hữu Phi, Nguyễn Văn Đương, Ngô Văn Xuân, Nguyễn Hữu Tài, Nguyễn Thế Vạn, Ngô Đức Vị, Nguyễn Phương Cẩn, Nguyễn Văn Xương, Ngô Văn Đương, Nguyễn Duy Dương, Nguyễn Hữu Dụng, cùng các bậc hương lão, dân chúng trên dưới trong xã cùng bàn bạc, bán bãi trồng dâu lấy tiền mua đứt số ruộng tư ở trước miếu để đào hồ, dùng để làm hương hoả cho các kỳ tế lễ thần hàng năm. Bèn dựng bia đá ghi lời giao ước, truyền lại lâu dài. Người đời sau nhìn thấy bia này, mắt đọc hàng chữ này, thì như có thần minh trước mặt, không được xâm phạm.

Các thửa ruộng đã mua và những điều giao ước được liệt kê dưới đây.

Ngày lành mùa xuân năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714), triều Lê.

Các thửa ruộng đã mua: Bản xã mua đứt số ruộng của những người trong xã là Nguyễn Hữu Vân một thửa giá 11 quan tiền Sử. Nguyễn Gia Xương một thửa giá 5 quan 5 mạch tiền sử. Ngô Thị Điểm một thửa giá 5 quan tiền Sử. Trần Xuân Thành 1 cái ao và 1 thửa ruộng giá 37 quan 5 mạch tiền Sử. Nguyễn Đăng Vương một thửa ruộng giá 5 quan 5 mạch tiền Sử. Ngô Thế Tài một thửa giá 22 quan. Ruộng của Hội Văn một thửa giá 12 quan 5 mạch tiền Sử. Sinh đồ Trần Xuân Thủ một thửa giá 5 quan 5 mạch tiền Sử. Nguyễn Văn Tiến 1 cái ao giá 36 quan 8 mạch tiền Sử. Sinh đồ Ngô Thế Tế một thửa giá 22 quan tiền Sử. Ông lại cho bản xã 4 quan để thờ thần ở đền. Bản xã vì thế cho con trai ông là Ngô Thế Hiếu làm Thừa nhiêu ở đền. Lại ông Nguyễn Duy Thành bán cho bản xã 2 thửa ruộng giá 112 quan tiền Sử. Bản xã chỉ trả 43 quan, còn 69 quan, hứa cho 2 con trai ông là Nguyễn Duy Cung, Nguyễn Duy Canh được làm lão nhiêu và được miễn thuế má sai dịch suốt đời.

Các thửa ruộng mua ở trước miếu dùng để đào hồ, để đèn nhang làm lễ thờ thần. Nếu người nào cậy thế tranh chiếm, thì các bậc trên dưới trong xã không cho. Từ nay về sau, hàng năm cứ đến tháng 3, các xã trưởng, thôn trưởng lấy tiền ở nhà thủ quỹ là 5 quan để mua cá thả xuống hồ, không được bổ thu khoản tiền nào khác.

Ngày 10 tháng 4 hàng năm, bản xã có lệ đánh cầu, khi đó, các bậc trên dưới trong xã cùng đánh cá, chia đều cho 6 giáp, cho tính toán mỗi giáp được bao nhiêu cỗ dâng cúng ở đình. Mỗi cỗ có một con cá để làm lễ thờ thần, không được quá lạm. Lại cho thôn trưởng 6 con cá để nhắm rượu. Đến ngày 3 tháng 8 hàng năm, lệ của bản xã có việc sửa chữa nhỏ ở đình làng thì cũng cho đánh cá lấy 12 con, và dùng 8 quan tiền mua áo mũ thờ thần. Lại cho thôn trưởng 6 con cá để nhắm rượu. Đến ngày 11 tháng ấy làm lễ nhập tịch thì các vị hương lão đánh cá chia đều, làm cỗ. Lại ngày 18 có lệ bổ cỗ, thì cũng cho đánh cá, mỗi cỗ 2 con để lễ thần, rồi cùng nhau nhắm rượu.

Hàng năm cứ theo lệ đó mà làm, truyền lại mãi ở xã thôn, không tự đánh cá, hoặc người nào tự tiện bắt cá thì các hương lão tuỳ theo nhiều ít mà bắt phạt. Nay làm điều ước.

N.M.T

CHÚ THÍCH

(1) Hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán - Nôm, ký hiệu AJ.9, tài liệu do Lý trưởng, Tiên chỉ các xã thôn thuộc huyện Yên Phong (Bắc Ninh) kê khai theo yêu cầu của Trường Viễn đông bác cổ năm 1942 - 1943 về 11 điều mục liên quan đến địa phương.

TB

HỌ HOÀNG LÀNG HẠ YÊN QUYẾT

ĐỖ THỈNH

Họ Hoàng là một trong các dòng họ có truyền thống văn hóa lâu đời nhất của làng Hạ Yên Quyết, tên Nôm là làng Cót Hạ, một trong bốn vùng danh tiếng của xứ Đoài xưa: Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương", nay thuộc xã Yên Hoà, Từ Liêm, Hà Nội.

Theo sách Bạch Liên khảo ký (thế kỷ XIX) thì bốn họ Nguyễn, Hoàng, Quản, Doãn đến đây lập làng từ trước khi đắp thành Đại La (thế kỷ VIII). Nhưng đến đời Mạc, ông Hoàng Miễn Thiệu làm quan tới chức Cẩn sự tá lang khi viết Hoàng tộc phả ký chỉ viết từ đời nhà Trần, coi cụ Hoàng Quán Chi là "thượng tổ". Sau đó đến đời nhà Nguyễn (Gia Long), có cháu đời thứ 12 là Hoàng Thì Bình đỗ Hương cống năm Gia Long 6 (1807) viết tiếp Tộc phả, cuối cùng hai ông Hoàng Tất Đạt, Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1906) viết tiếp Tộc phả bằng chữ Hán đến năm 1931 thì hoàn thành, rồi được người con trai của ông Cử Hoàng Thúc Hội là Hoàng Thúc Trâm, bút danh là Hoa Bằng, dịch ra chữ Quốc ngữ.

Họ Hoàng có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Người khai khoa trong dòng họ cũng là người khai khoa của làng Hạ Yên Quyết (một làng có tới 12 người đỗ Tiến sĩ từ thời Trần đến thời Nguyễn)là Hoàng Quán Chi đỗ Đình nguyên khoa Thái học sinh năm Quang Thái 6 (1393) đời Trần Thuận Tông làm quan Thẩm hình viện, sau thăng Lễ bộ Thượng thư, "văn chương trội hơn cả nước"(1). Bạn học có Phan Phu Tiên người làng Đông Ngạc cùng huyện, đỗ Thái học sinh khoa sau (1396), làm quan đồng triều với Hoàng Quán Chi. Sau Phan Phu Tiên lấy em gái Hoàng Quán Chi. Thời gian nhà Trần bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, hai ông Hoàng và Phan Phu về ở ẩn làng Hạ Yên Quyết, qua cả thời kỳ nhà Minh xâm lược đô hộ nước ta. Đến khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Thanh Hoá, Hoàng Quán Chi đã cho con trai là Hoàng Công Tình (sau đổi tên là Hoàng Thanh Phong) vào theo Lê Lợi ứng nghĩa tham gia chiến đấu chống quân Minh, sau khi cuộc kháng chiến giành thắng lợi, Hoàng Thanh Phong làm quan võ tới chức Đồng tri lực sĩ (tòng tam phẩm). Hoàng Quán Chi mất ngày 9 tháng 11. Còn Phan Phu Tiên sau ra dự thi Hội đỗ Tiến sĩ năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) làm quan Tri sử viện, Quốc tử giám Bác sĩ, biên soạn Sử ký tục biên từ đời Trần Thái Tông đến đầu Lê sơ.

Con Hoàng Thanh Phong là Hoàng Công Thanh đi thi Hội trúng Tam trường, được bổ Tri huyện Duy Tiên, sau chuyển sang hàng võ đến chức Cẩm Y vệ Chỉ huy sứ (tòng tam phẩm). Cháu đời thứ năm di cư lên thôn Thượng Yên Quyết là Hoàng Viết ái đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất năm Thống Nguyên thứ 5 (1526), làm quan Hàn lâm viện Thị giảng. Cháu đời thứ sáu ở chi Hạ Yên Quyết là Hoàng Bồi, thuở nhỏ có tiếng là thần đồng, đi thi Hội đỗ Tiến sĩ hai lần. Lần thứ nhất đỗ khoa ất Sửu (1565). Khi vào ra mắt vua và Thái hậu nhà Mạc, Mạc Thái hậu thấy ông thấp bé, đứng bên cạnh một vị tân khoa người làng Triều Dương bị chột mắt, Thái hậu than rằng : "Nhân tài như thế này thì vận nước suy vi đến nơi..." nên không cho hai ông đỗ. Khoa sau năm Mậu Thìn (1568) Hoàng Bồi lại đi thi đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ, làm quan tới chức Thừa Chính sứ, sau theo nhà Lê trung hưng làm quan Lễ bộ Hữu thị lang(2).

Theo Hoàng tộc phả ký, từ cụ Thượng tổ Hoàng Quán Chi đến đời Tiến sĩ Hoàng Xuân Sính là 17 đời, thì 16 đời có người đỗ đạt, thấp nhất là Tú tài (còn một đời làm quan võ). Tính ra từ 1393 đến 1915 đã có 3 người đỗ Tiến sĩ, nhiều người đỗ Cử nhân, Tú tài.

Một số người tiêu biểu như Hoàng Thì Trung đỗ Hương cống cùng khoa với Nguyễn Quý Cảnh (ở làng Đại Mỗ). Sau ông Cảnh làm quan tới chức Tham tụng (Tể tướng) mà ông Trung chỉ làm Tri huyện, nhưng vẫn thân nhau. Ông sống rất thanh cao, người làng gọi là ông Cống Cót. Con trai Hoàng Thì Trung là Hoàng Thì Chính thi Hội trúng Tam trường, làm quan Giảng dụ, Cẩn sự tá lang. "Ông học rộng nhớ nhiều, khi vào thi vấn đáp, quan trường hỏi 18 điều trong bộ Uyên giám loại hàm và vài đề trong sách Tính lý tinh hoa ông đều trả lời trôi chảy. Sau khi nghỉ hưu được làng cử đứng đầu hàng Tư văn, những lần lý dịch họp bổ thuế mời ông ra đình dự, ông đều cáo bệnh từ chối. Bà mẹ hỏi nguyên do, ông thưa : "Họp nhau bổ thuế bày ra chè chén linh đình, một miếng đũa mình gắp, mười nhà mất tiền (phụ thu) cho nên con không nỡ ăn ! "(3).

Cháu nội Hoàng Thì Chính là Hoàng Thì Bình trong 20 năm chiến tranh hồi cuối Lê, Tây Sơn vẫn kiên trì học hành, đến năm Gia Long thứ 6 nhà Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên, ông đi thi đỗ thứ 3, được bổ làm Đốc học tỉnh Vĩnh Long, đã dạy Phan Thanh Giản là người đi thi đỗ Tiến sĩ đầu tiên ở Nam Kỳ (1826).

Hậu duệ về sau có Hoàng Tất Đạt "thông minh hiếu học, văn chương bay bướm đẹp đẽ có tiếng"(4), làm quan Hàn lâm viện Kiểm thảo, sáng tác nhiều thơ trong tập Thù thế thi tập. Em là Hoàng Thúc Hội không làm quan, có tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục, rồi ở nhà dạy học, đã sáng tác Sài Sơn thực lục (sử), Trưng vương lịch sử (tuồng) Hà đê đối sách, An Sơn tuỳ bút (3 quyển) và Đàm Phật học. Con trai cụ Hội là Hoàng Thúc Trâm tức Hoa Bằng, nhà Hán học, Sử học cận đại nổi tiếng. Con trai thứ hai cụ Hoàng Thúc Hội là Hoàng Thúc Tấn, thân sinh ra hai Tiến sĩ Hoàng Xuân Sính, Tiến sĩ Toán ở Pháp, sau về nước dạy học, nay là Hội trưởng hội hữu nghị Việt - Pháp, và Hoàng Sáng đỗ Tiến sĩ Toán hiện còn ở Pháp. Trong họ còn có Hoàng Sước con cụ tú Hoàng Tạo, nhà Hán Nôm học mới qua đời. Hoàng Sước bảo vệ luận án Tiến sĩ ở Ba Lan về nước công tác.

Ngoài ra còn có một số Phó tiến sĩ khoa học hiện nay như Hoàng Ngọc Trác (em ông Hoàng Trí Trị), Hoàng Minh Việt (con ông Hoàng Chí Trị), nhiều người đỗ Tú tài tây học và hiện nay có người không đỗ cũng nổi tiếng như Hoàng Khiêm (con cụ Hoa Bằng) viết báo, phiên dịch, nay xuất gia, lấy tên hiệu là Thích Đức Thiện.

Làng Hạ Yên Quyết nói chung và họ Hoàng nói riêng đến nay vẫn phát huy truyền thống hiếu học, xây dựng các trường phổ thông cơ sở, trường Phổ thông trung học Yên Hoà là những đơn vị tiên tiến, hầu như trong làng, trong họ không có trẻ em bỏ học.

Đ.T

CHÚ THÍCH

(1) Trích : Bạch Liên khảo ký.

(2) (3) (4) Trích Hoàng tộc phả ký.

TB

TỜ CHIẾU CỦA VUA GIA LONG PHONG CHO NGUYỄN DU TƯỚC DU ĐỨC HẦU

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Từ trước tới nay, khi viết về tiểu sử Nguyễn Du người ta thường căn cứ vào các bản gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền như Gia phả Tiên Điền Hoan Châu Nghi Tiên gia phả, Nghệ An Nghi Xuân Nguyễn gia thế phả và Gia phả tập biên Tiên Điền Nguyễn gia thế phả, Việt Yên Phan gia thế phả, Uy Viễn Nguyễn gia thế phả.

Vì thấy quyển Gia phả tập biên : Tiên Điền Nguyễn gia thế phả ghi : “ất Sửu xuân chính nguyệt thăng Đông các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu” nên các nhà khảo cứu sau này đều chép theo như vậy.

Đào Duy Anh trong quyển Khảo luận về Kim Vân Kiều(1) đã viết là “Mùa thu năm Gia Long thứ ba, ông cáo bệnh về quê, được hơn một tháng thì lại bị triệu về Kinh, tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông các học sĩ và phong tước Du Đức hầu.”

Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam(2) và trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm(3) đã viết là “Năm ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các Đại học sĩ tước Du Đức hầu”.

Hoàng Xuân Hãn trong bài Trả lời cuộc phỏng vấn về việc nghiên cứu truyện Kiều(4) đã dựa vào bài Tựa bản Kim Vân Kiều án của Nguyễn Văn Thắng mà cho rằng : “Nguyễn Du là Hầu Đông các”. Ông đã nói : “Nguyễn Thắng dùng nhiều câu ở trong Kiều và nhất là trong ấy, ông ấy gọi cụ Nguyễn Du là Hầu Đông các chứ không nói là Hầu Cần chánh, cái titre (chức) Cần chánh là vua Gia Long cho, Cần chánh học sĩ để mà đi sứ. Lúc đi sứ người ta thường cho cái titre cao hơn cái titre thường, nhưng ra ngoài người ta chỉ biết chức Hầu Đông các”.

Chúng tôi nhận thấy :

1. Viết như Đào Duy Anh thì có một điểm sai : năm Gia Long thứ 3 Nguyễn Du chưa được phong tước Du Đức hầu.

2. Viết như Trần Văn Giáp thì có hai điểm sai :

a. Năm Gia Long thứ 3 (ất Sửu, 1805) Nguyễn Du chỉ được thăng Đông các Học sĩ chứ không phải Đông các Đại học sĩ.

b. Nguyễn Du khi được thăng Đông các Học sĩ chưa được phong tước Du Đức hầu.

3. Nói như Hoàng Xuân Hãn thì hoàn toàn sai vì trong bài Tựa Kim Vân Kiều án, Nguyễn Văn Thắng chỉ gọi Nguyễn Du là “quan Đông các” chứ không phải “Hầu Đông các”.

Nguyên văn câu viết của Nguyễn Văn Thắng như sau :

“Mỗ sinh không gặp thời, phải thất học, nhưng từng nghe được truyện về Kim Vân Kiều quốc ngữ truyện : xưa nhà Ngũ Vân lâu bên Tàu in bản Thực lục đã lưu hành khắp chỗ, từ trước đến nay. Kíp đến quan Đông các nước ta phu diễn ra Quốc âm, truyền rộng ở đời, nhiều người đã được tai nghe mắt thấy”.
Hoa Bằng dịch
(Tri tân, số 85 - 4.3.1943)

Các sự sai lầm ấy về sau lại thấy trong quyển Tự điển Văn học và nhiều sách khác.

Trong Nguyễn Du(5) (truyện ký), Nguyễn Lộc đã viết : “Sau chuyến đi đón sứ thần Trung Quốc về Nguyễn Du được thăng Đông các Học sĩ, tước Du Đức hầu”.

Trong Ba trăm năm lẻ (tiểu thuyết), Vũ Ngọc Khánh đã viết : “Năm ất Sửu (1805)... Nguyễn Du được thăng Đông các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu và bổ làm Cai bạ tỉnh Quảng Bình”.

Ở điểm sai lầm này chúng tôi thấy cần phải nói rõ về hai chức vị : Đại học sĩ và Học sĩ.

Dưới thời Gia Long, quan lại trong triều đại khái vẫn theo chế độ nhà Lê với sáu bộ : bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Công. Mỗi bộ có một chức vị Thượng thư đứng đầu, dưới có Tả, Hữu tham tri; Tả, Hữu thị lang; Lang trung; Viên ngoại lang; Chủ sự và bát cửu phẩm thư lại.

Nguyễn Du khi được cử làm Đông các Học sĩ (1805) thì cũng chỉ vào hàng tòng ngũ phẩm vì phẩm cấp quan chế thời Minh Mạng mới được qui định rõ ràng.

Nguyễn Du từ chân Tri phủ (tòng lục phẩm) mà được thăng lên Đông các Học sĩ thì cũng là cao rồi. Chính người cháu của ông là Nguyễn Hành cũng có làm hai bài thơ nói về việc này :

1. Tống thúc phụ Đông các Học sĩ phó Nam Kinh

(Tiễn chân chú là quan Đông các Học sĩ vào Nam Kinh, chỉ Phú Xuân, tức kinh thành Huế).

2. Thượng thúc phụ Đông các Học sĩ.

(Kính gửi chú là quan Đông các Học sĩ)

Trong hai bài thơ ấy Nguyễn Hành chỉ khen chú “thanh danh lừng lẫy”, “mặc áo bào cưỡi ngựa làm quan sang nơi triều đình”, “ưu tú nhất nhà”, “phẩm tước trong triều đình như thế là cao” chứ không nói gì đến tước Du Đức hầu.

Nguyễn Du không thể nào lên ngay chức Đông các Đại học sĩ được vì:

- Nếu theo quan chế đời Lê Trung hưng (1592-1789) thì chức ấy thuộc hàng tòng từ phẩm.

- Nếu theo quan chế đời Minh Mạng thì chức ấy lại thuộc hàng chánh nhất phẩm và là một trong tứ trụ triều đình :

1. Cần chánh điện Đại học sĩ

2. Văn minh điện Đại học sĩ

3. Võ hiển điện Đại học sĩ

4. Đông các Đại học sĩ

Chức Học sĩ như Chưởng viện Học sĩ, Thị độc Học sĩ, Thị giảng Học sĩ thì cũng đều thuộc hàng tam phẩm hoặc tứ phẩm cả.

Nguyễn Du sở dĩ chưa được phong tước hầu vì mới ra làm quan có bốn năm và cũng chưa có chính tích gì. Theo lệ thường, muốn được phong tước hầu cũng phải có thâm niên công vụ và cũng phải thuộc hàng từ tam phẩm, nhị phẩm trở lên mới được.

Quyển Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập chỉ chép : “Năm Gia Long thứ 5, được triệu làm Đông các Học sĩ, năm thứ 8 ra làm Cai bạ tỉnh Quảng Bình...” và không nói gì đến việc được phong tước Du Đức hầu.

Vậy phải làm sao tìm được một tài liệu ghi rõ năm Nguyễn Du được phong tước Du Đức hầu.

Chúng tôi vẫn để tâm tìm kiếm mà chưa thấy được.

Thế rồi nhân chuyến đi Canada, gặp một người bạn - anh Trần Gia Phụng - anh ấy có chuyển đến tôi một câu hỏi của chị Nguyễn Thị Chân Quỳnh ở Paris muốn biết rõ về việc Nguyễn Du được phong tước hầu. Tôi cũng chỉ trả lời theo bản Gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền tức là Nguyễn Du được phong tước hầu từ khi được thăng làm Đông các Học sĩ như tôi đã viết trong Nguyễn Du toàn tập(6) và trong Tổng tập văn học ViệtNam. Tập 12(7) .

Đến khi về lại Việt Nam, xem lại tấm hình chụp tờ chiếu của vua Gia Long chúng tôi mới phát hiện ra một chi tiết rất quan trọng, nói rõ rằng Nguyễn Du chỉ được thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ, tước Du Đức hầu vào năm ất Hợi (1815), sau khi đi sứ Trung Quốc về.

Nguyên văn tờ chiếu ấy, chúng tôi xin phiên âm lại như sau :

Chiếu Cần chánh điện Học sĩ Nguyễn Du phả ưu học thuật, tố trước cần lao, tư kinh văn giai tấu cử, đặc chuẩn thăng vi Lễ bộ Hữu tham tri, Du Đức hầu, tham lý bộ nội chư công vụ. Thượng kỳ bảo ty bang điển túc dạ duy di dĩ xứng sở nhiệm. Khâm tai đặc chiếu.

Gia Long.... thập cửu nhật.

(Chiếu Cần chánh điện học sĩ Nguyễn Du học thuật khá ưu tú, vốn tỏ rõ sự chuyên cần, nay qua các quan văn tấu cử, đặc cách chuẩn y cho được thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ, tước Du Đức hầu và cho phép được tham dự vào các việc trong bộ.

Mong rằng kẻ bề tôi hãy giữ đúng các điển lệ của triều đình, đêm ngày kính cẩn để xứng đáng với nhiệm vụ được giao. Khâm tai đặc chiếu.

Gia Long.... ngày mười chín).

Tờ chiếu có ghi rõ ngày tháng năm, nhưng dấu ấn đã che mất chỉ còn đọc thấy Gia Long... thập cửu nhật)

Nếu đem so với Gia phả cũng có ghi : “ất Hợi hạ ngũ nguyệt dĩ văn giai tấu cử đặc chuẩn thăng Lễ bộ Hữu tham tri” thì Nguyễn Du được thăng làm Hữu tham tri, tước Du Đức hầu vào ngày 19 tháng 5 năm ất Hợi (tức 25-6-1815), niên hiệu Gia Long thứ 14.

Như vậy câu cuối cùng của tờ chiếu sẽ là : Gia Long thập tứ niên ngũ nguyệt thập cửu nhật.

Ở đây chúng tôi thấy cần phải nói rõ thêm về xuất xứ của tờ chiếu đã được in trong bộ Văn đàn bảo giám, tập 2 của Trần Trung Viên sưu tập, do Nam Ký thư quán in lại lần thứ 3 năm 1934.

Trong Lời nói đầu cùng độc giả, ông Nam Ký có cho biết : “Nay bản quán tái bản bộ sách này, lại có sưu tập thêm được gần đủ các tiểu sử và có tìm được rất nhiều các hình ảnh các danh nho, in vào sách để tiện việc kê cứu.”

Theo Lời nói đầu ấy thì ông Nam Ký đã có công sưu tầm các bức ảnh.

Bức ảnh chụp tờ chiếu của vua Gia Long, khổ 5,5 x 6 cm, đã cho chúng ta thấy bản gốc giấy để lâu ngày đã ố nhăn, chung quanh mép ở phía trên và phía tay trái đã bị rách nát nhưng các chữ bên trong vẫn còn nguyên vẹn.

Sau khi photocopy và cho phóng to ra, chúng tôi đã đọc được toàn bản văn và đã dịch sang Quốc ngữ như phần trình bày ở trên.

Có thể nói việc tìm lại được tấm ảnh chụp tờ chiếu của vua Gia Long đã đính chính được một sự sai lầm mà từ trước đến nay chúng ta cứ ngộ nhận là Nguyễn Du đã được phong tước Du Đức hầu từ khi được thăng làm Đông các Học sĩ.

Hơn nữa điều này còn cho chúng ta biết thêm được rằng :

1- Quyển Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) chỉ được Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc về vì ở ngoài bìa các bản Nôm Kim Vân Kiều tân truyện đều khắc in là Tiên Điền Lễ Tham Nguyễn hầu soạn.

Nếu ghi là “Hầu Đông các” soạn như Hoàng Xuân Hãn nói thì hoàn toàn sai vì khi làm Đông các Học sĩ ông chưa được phong tước Du Đức hầu.

2. Bài Sinh tế Trường Lưu nhị nữ văn (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu) và Thác lời trai phường Nón mà một số nhà nghiên cứu văn học còn để tồn nghi, thực ra đã không phải của Nguyễn du làm vì :

a. Trong thời trẻ Nguyễn Du không có về ở làng Tiên Điền lâu ngày bao giờ mà trong bài Văn tế sống lại viết :

Ba sinh đành một kiếp hẹn hò,
Hai năm được mấy lần chung chạ.

b. Trong bài Vè gửi Nguyễn Du, Nguyễn Huy Quýnh đã gọi Nguyễn Du bằng “hầu” :

Tảng mai hầu trở ra về,
Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng.

thì rõ ràng câu chuyện đi hát phường vải chỉ là “chuyện hư cấu” như Trương Chính đã viết trong Hương hoa đất nước(8).

Hơn nữa Nguyễn Huy Quýnh đã mất từ năm 1785 mà mãi đến năm 1815 Nguyễn Du mới được phong tước hầu thì làm sao Nguyễn Huy Quýnh có thể là tác giả của bài Vè gửi cho Nguyễn Du được ? Có thể vì thấy sự vô lý ấy mà “bà con ở Trường Lưu mới nói bài vè đó là của Nguyễn Huy Phó”(9), con trai lớn của Nguyễn Huy Tự.

Về vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập đến một dịp khác.

Riêng để kết luận cho bài viết này, chúng tôi nhận thấy tờ chiếu của vua Gia Long thăng cho Nguyễn Du làm Hữu tham tri bộ Lễ đã là một tài liệu lịch sử quý giá để xác định lại năm ông được phong tước Du Đức hầu và đồng thời cũng đính chính được một vài sai lầm mà từ lâu nay chúng ta đã mắc phải.

N.Q.T

CHÚ THÍCH

(1) Đào Duy Anh : Quan hải tùng thư. Huế - 1943.

(2) Trần Văn Giáp chủ biên. Tập I. Bản in lần thứ hai. Nxb. KHXH, H. 1971.

(3) Trần Văn Giáp biên soạn. Tập II - Nxb. KHXH, H. 1990

(4) Tạp chí Hợp lưu xuất bản tại California . Hoa Kỳ số 29 - tháng 6 và 7 - 1996 (tr. 106).

(5) Nguyễn Lộc : Nxb. Đà Nẵng - 1986.

(6) Nguyễn Quảng Tuân. Tập II Truyện Kiều khảo đính và chú giải. Nxb. Văn học, 1996.

(7) Nguyễn Quảng Tuân. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 12. Thơ văn chữ Nôm Nguyễn Du.

(8) Trương Chính. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1978 (tr. 202).

(9) Ninh Viết Giao. Văn hoá làng Trường Lưu. Tạp chí Văn học số 4 - 1994 (tr. 4).

TB

HỘI NGHỊ BÀN VỀ CÔNG TÁC TẠP CHÍ CỦA TRUNG TÂM KHXH VÀ NVQG

Trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1997, tại Thành phố Hạ Long, Trung tâm KHXH và NVQG đã tổ chức Hội nghị bàn về công tác tạp chí.

Từ những số đầu tiên của Tạp chí Văn - Sử - Địa đến nay, 24 tờ Tạp chí, trong tổng số 290 tờ Tạp chí hiện có trong cả nước, công tác Tạp chí của Trung Tâm KHXH và NVQG đã có bề dầy hơn 40 năm, có qúa trình phát triển lớn mạnh về nhiều mặt và giữ vai trò ngày càng quang trọng trong hoạt động đa dạng của Trung tâm KHXH và NVQG.

Hội nghị điểm lại những mặt được, những mặt chưa được trong hoạt động của các Tạp chí những năm gần đây, trao đổi, àn bạc để tìm cách tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực công tác này, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của Tạp chí và hiệu quả quản lý ở mỗi Tạp chí cũng như trong phạm vi toàn trung tâm.

GS.TS. Nguyễn Duy Quý Giám đốc Trung tâm, GS. Lê Hữu Tầng Phó giám đốc TT, cùng các Tổng biên tập, Phó tổng biên tập và những người làm công tác Tạp chí của Trung tâm, gồm gần 100 người đã tham gia dự Hội nghị.

Sau lời khai mạc hội nghị của GSTS. Nguyễn Duy Quý, GS. Lê Hữu Tầng đã đọc báo cáo Công tác Tạp chí của Trung tâm KHXH và NVQG - Thực trạng và một số vấn đề cần giải quyết. Sau khi điểm lại hoạt động của các Tạp chí trong những năm gần đây, từ "đội ngũ" các Tạp chí KHXH và NVQG nội dung các tạp chí, tình hình đội ngũ cán bộ tạp chí, các điều kiện vật chất bảo đảm hoạt động của Tạp chí đến sự lãnh đạo, quản lý Trung tâm KHXH và NVQG, báo cáo tập trung vào "một số vấn đề được đặt ra trong công tác Tạp chí của Trung tâm, gồm : 1. Vấn đề đánh giá chất lượng của Tạp chí. 2. Vấn đề phục vụ cho hoạt động thực tiễn. 3.Vấn đề tranh luận trên Tạp chí. 4. Vấn đề phát hành. 5. Vấn đề kinh phí. 6. Một số đề nghị xem xét bổ sung sửa đổi một số điều khoản của "Quy chế về các Tạp chí thuộc Trung tâm KHXH và NVQG". 7. Về việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ Tạp chí và một số đề nghị khác.

Hội nghị đã sôi nổi thảo luận những vấn đề nêu trong báo cáo. Sau 3 buổi làm việc, GS TS. Nguyễn Duy Quý đã tổng kết hội nghị, biểu dương những cố gắng của các tạp chí, các bộ phận trực tiếp chỉ đạo, tổ chức và phục vụ hội nghị, làm cho hội nghị thành công tốt đẹp. GS. tỏ ý tin tưởng vào sự trưởng thành và phát triển của đội ngũ Tạp chí của Trung tâm, mà nhiệm vụ hàng đầu là thông qua hoạt động của Tạp chí, tích cực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước.

PV

TB

ĐẠI HỘI THÀNH LẬP LIÊN CHI HỘI NHÀ BÁO TRUNG TÂM KHXH VÀ NVQG

Ngày 04 tháng 9 năm 1997, tại Thành phố Hạ Long, những người làm công tác báo chí thuộc Trung tâm KHXH và NVQG đã họp đại hội để thành lập Liên chi hội nhà báo Trung tâm KHXH và NVQG.

Đồng chí Võ Tử Thành, ủy viên thường vụ Hội nhà báo Việt Nam , đ/c Nguyễn Uyển, Trưởng ban công tác Hội, thay mặt Trung ương Hội nhà báo Việt Nam đến dự đại hội. GS. TS. Nguyễn Duy Quý, Giám đốc trung tâm đã đến dự Đại hội. Các Tổng biên tập, Phó tổng biên tập, cán bộ biên tập, trị sự ... của 24 tạp chí thuộc trung tâm, gồm gần 100 người đã tham gia địa hội.

Sau khi GS. Lê Hữu Tầng, Phó giám đốc Trung tâm báo cáo quá trình vận động thành lập liên chi hội nhà báo Trung tâm KHXH và NVQG, đại hội đã thành lập liên chi hội nhà báo Việt Nam, và đã nhất trí bầu ra ban chấp hành Liên chi hội gồm 9 đồng chí do GS. Lê Hữu Tầng làm chủ tịch.

PV.

TB

TRUNG QUỐC VĂN HOÁ SỬ
TAM BÁCH ĐỀ

LTS. Lịch sử văn hoá Trung Quốc luôn luôn hấp dẫn đối với những người muốn tìm hiểu văn hoá Trung Hoa nói riêng, cũng như văn hoá phương Đông nói chung.

Năm 1993, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã đã cho ra đời cuốn Trung Quốc văn hoá sử tam bách đề (300 đề mục về lịch sử văn hoá Trung Quốc) do một nhóm học giả có uy tín biên soạn. Sách được chia làm năm phần, với hơn 300 đề mục lớn nhỏ. Qua đó, người đọc có thể thấy được gương mặt thu hẹp của Trung Hoa thời cổ trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, văn hoá, lễ tục... cho tới khoa học kĩ thuật, thể dục, nghệ thuật... Có thể nói, đây là một ấn phẩm rất có ích đối với những người quan tâm đến văn hoá Trung Quốc và văn hoá phương Đông.

Dưới đây, Tạp chí Hán Nôm xin giới thiệu hai đề mục, một về lịch sử khoa cử và một về tác dụng của hoàn cảnh địa lý đối với văn hoá trích từ cuốn Trung Quốc văn hoá sử tam bách đề, qua bản dịch của Đào Duy Đạt, để bạn đọc tham khảo.

1. Trong sự hình thành và phát triển văn hoá, hoàn cảnh địa lý có tác dụng như thế nào ?

(Địa lý hoàn cảnh tại văn hoá hình thành hoà phát triển trung đích tác dụng như hà)

Từ Hồng Hưng

Thông thường, hoàn cảnh địa lý chỉ giới tự nhiên xung quanh xã hội loài người, bao gồm địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản; Nó là cơ sở tự nhiên của tồn tại nhân loại và điều kiện vật chất tất yếu, thường xuyên của sự phát triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của văn hoá nhân loại có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh địa lý.

Hoàn cảnh địa lý là một trong những nhân tố quan trọng của việc hình thành văn hoá. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ sức sản xuất cực kỳ thấp, đời sống và hoạt động sản xuất của người nguyên thuỷ, dù là sống trong hang hay ở bên ngoài, hái lượm hay săn bắn, trồng trọt hay chăn nuôi, súc vật thồ hay thuyền chở, đều chịu những hạn chế của hoàn cảnh địa lý riêng, đều phải thích ứng với điều kiện tự nhiên nhất định. Sự xuất hiện "Bốn quốc gia văn minh cổ" (Ai Cập, ấn Độ, Trung Quốc, Ba Bi Lon) trên thế giới có liên quan với sông Nin, sông ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang, Sông Tigris và sông Euphrates. Trong hoàn cảnh địa lý riêng thuộc lưu vực những sông lớn, nền văn hoá nông nghiệp đặc biệt phát triển. Sự xuất hiện chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền ở những quốc gia có nền văn minh lâu đời này, lại hoặc nhiều hoặc ít liên quan đến nhu cầu tổ chức và quản lý một cách hữu hiệu sự nghiệp thuỷ lợi tưới tiêu. Với nền văn minh cổ Hy Lạp, do bán đảo nhiều đất núi, thổ nhưỡng không phì nhiêu, nên nói chung, nghề hàng hải và văn hoá thương nghiệp phát đạt rõ rệt, do đó đã hình thành chính thể dân chủ chủ nô. Biện pháp phù hợp với tình hình cụ thể, có thể nói là một qui luật chung của sự hình thành văn hoá. Lịch pháp Ai Cập cổ là căn cứ vào chu kỳ lên xuống của sông Nin mà hình thành; Ba bi lon cổ, vì là địa hình bình nguyên, cộng thêm là không khí trong lành nên đặc biệt thuận lợi cho việc quan sát những hiện tượng trên bầu trời, do vậy, lịch pháp của họ là thông qua quan trắc thiên văn mà có.

Trung Quốc là một quốc gia có diện tích rộng lớn, lịch sử lâu đời với nhiều dân tộc, không những có nền văn hoá dân tộc mang nhiều sắc thái khác nhau, mà ngay cùng một dân tộc cũng tồn tại nền văn hoá khu vực với phong cách khác nhau. Sự hình thành những nền văn hoá này, không bao giờ tách khỏi nhân tố hoàn cảnh địa lý. Có thể lấy những hình thức tôn thờ, tồn tại phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ làm thí dụ: Dân tộc ở miền núi thì tôn thờ nhiều thần núi, loại nham thạch. Dân tộc sống gần vùng sông hồ, biển cả thì tôn thờ đa thuỷ thần. Tương tự, động vật được các dân tộc phương Bắc tôn thờ phần lớn là gấu và sói, trong khi đó, các dân tộc phương Nam chủ yếu tôn thờ rắn và chim. Hiện tượng tôn thờ tổ tiên đặc biệt nổi bật trong văn hoá dân tộc Hán, với tư cách là chủ thể của văn hoá Trung Quốc. Theo truyền thuyết "Tam hoàng Ngũ đế", tổ tiên của bất cứ dân tộc nào cũng là nửa người, nửa thần. Nguồn gốc của sự tôn thờ tổ tiên, nếu truy đến cùng, có thể tìm thấy ở những nhân tố do ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý. Văn hoá dân tộc Hán khởi nguồn từ hai lưu vực lớn là Trường Giang và Hoàng Hà, điều kiện tự nhiên về thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ lợi đã tạo cơ sở vật chất rất thuận lợi cho văn hoá nông nghiệp phát triển. Đồng thời, cũng tạo ra sự hình thành rất lớn kiểu kết hợp giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp trong gia đình, coi gia đình là đơn vị gần gũi trực tiếp với giới tự nhiên, dựa vào trời kiếm ăn, vạn sự chẳng cầu người. Phương thức sinh hoạt của tổ tiên đã được con cháu ứng dụng đầy đủ, quan niệm tông pháp gia tộc từ đó mạnh lên, dẫn đến việc tôn thờ không gì sánh được đối với tổ tiên và trực tiếp ảnh hưởng đến sự hình thành của học thuyết Nho gia lấy quan hệ nhân luân làm chủ. Lại xem xét hình thức cư trú trong văn hoá Trung Quốc. Từ xưa đến nay, nhà ở của người Trung Quốc chủ yếu quay về hướng nam, điều này có liên quan đến điều kiện vị trí địa lý Trung Quốc ở vào bắc bán cầu của quả đất; ở khu vực tây bắc Trung Quốc, hình thức cư trú được kết cấu theo kiểu nhà "lều trại" (gồm cả Mông Cổ) là nhiều nhất, điều này liên quan đến điều kiện gió cát lớn ở vùng thảo nguyên, sa mạc; ở khu vực phía nam, hình thức cư trú được kết cấu theo kiểu "Lan can" (nhà tre) lại rất phổ biến, điều này lại có liên quan đến khí hậu ẩm thấp của vùng á nhiệt đới. Những hình thức cư trú khác nhau này chính là hiện tượng văn hoá mà mấy ngàn năm qua, nhân dân các dân tộc Trung Quốc đã sáng tạo ra, trên cơ sở phù hợp với điều kiện cụ thể của tự nhiên. Lại thí dụ như tập quán ăn của người Trung Quốc, nói chung, lý luận về nấu nướng của hai miền Nam - Bắc Trung Quốc rất gần nhau, nhưng thói quen sử dụng lương thực chủ yếu lại hoàn toàn khác nhau: Người miền Bắc thích ăn mì, người miền Nam lại thích ăn gạo. Tập tục khác nhau này chính là do nguyên liệu tạo ra lương thực chủ yếu ở hai miền khác nhau. Những dẫn chứng về sự ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đối với sự hình thành văn hoá có khá nhiều, khó có thể nói hết.

Nói chung, so với sự hình thành văn hoá thì ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đối với sự phát triển văn hoá nhỏ hơn nhiều. Bởi vì, sau khi được hình thành, văn hoá đã có tính ổn định tương đối. Sự phát triển văn hoá của một dân tộc, dù có những nguyên nhân bên ngoài ngáng trở (thí dụ như chiến tranh) khiến dân tộc đó phải dời đổi nơi cư trú, mất đi hoàn cảnh địa lý vốn có khi hình thành văn hoá dân tộc, thì những hiện tượng văn hoá như truyền thống, phong tục tập quán, ngôn ngữ văn tự, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc ấy vẫn sẽ được duy trì lâu dài, không dễ mất đi. Ngoài ra, theo đà tiến bộ không ngừng của xã hội loài người, sự ràng buộc của hoàn cảnh địa lý đối với nhân loại cũng ngày càng giảm đi, và con người luôn luôn căn cứ vào truyền thống văn hoá của mình để cải tạo thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không nói lên rằng, ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đã trở lên hoàn toàn không đáng kể đối với sự phát triển văn hoá. Sự phát triển của văn hoá nhân loại, một mặt cải tạo hoàn cảnh địa lý, mặt khác lại là một trong những điều kiện để làm chủ hoàn cảnh địa lý, tạo ra sự phát triển tự thân. Thí dụ như quan hệ của con người đối với đại dương, ở xã hội cổ đại chỉ là cái lợi ở miền duyên hải có muối và cá, còn mặt biển mênh mông chỉ gây trở ngại cho việc giao lưu của con người. Điều này chứng tỏ năng lực nhân thức của nhân loại lúc đó còn thấp. Cùng với sự phát triển của văn hoá, khoa học, nhận thức của con người về biển khơi ngày càng sâu sắc, nhiều loại tài nguyên không ngừng được nhận thức và khai thác, mặt biển trở thành đường giao thông quan trọng trong việc giao lưu của nhân loại. Nếu không có biển, năng lực nhận thức của con người có thể nói khó có thể được nâng cao. Ngoài ra, phạm vi và chiều sâu trong việc nhận thức và lợi dụng hoàn cảnh địa lý của con người cũng không được mở rộng. Cùng với việc nâng cao năng lực nhận thức của con người, hoàn cảnh địa lý lại đề ra cho con người những vấn đề mới hơn, thúc đẩy con người phải nhận thức và giải quyết, từ đó làm cho văn hoá nhân loại phát triển thêm những bước mới. Lại nhìn từ sự thực lịch sử cụ thể, tác dụng của hoàn cảnh địa lý đối với sự phát triển văn hoá cũng rất lớn. Không cần đưa ra nhiều dẫn chứng, chỉ cần khảo sát thực tiễn từ lịch sử cận - hiện đại Trung Quốc: Vì sao những trào lưu tư tưởng và những phong trào cải lương, cách mạng luôn luôn nổ ra đầu tiên ở khu vực ven biển đông nam ? Sự thực này cho thấy, do vị trí địa lý đặc thù, đã tạo điều kiện cho các tư tưởng và học thuyết du nhập vào khu vực này sớm nhất, khiến cho quan niệm của nhân dân phát sinh thay đổi sớm hơn so với các khu vực khác.

Cuối cùng, cần phải chỉ ra rằng: Chúng ta thừa nhận nhân tố quan trọng của hoàn cảnh địa lý đối với sự hình thành, phát triển của văn hoá, nhưng không thể xem nó như một nhân tố quyết định duy nhất của sự hình thành và phát triển văn hoá. Quan điểm sai lầm của học phái "Hoàn cảnh quyết định luận: (1) trong địa lý học phương Tây đã sớm bị những người Mác - xít phê phán, ở đây không nói lại.

Chú thich

(1) Học phái "Hoàn cảnh quyết định luận" là một học phái trong địa lý học phương Tây, do Montesquieu (1689-1755) sáng lập. Thuyết này cho rằng hoàn cảnh địa lý là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người, mọi sinh vật đều là sản phẩm của hoàn cảnh địa lý. Khi ra đời, lý luận này đã có ý nghĩa tiến bộ nhất định đối với việc phủ định thần quyền luận.

2. Chế độ khoa cử là gì ?

Nguồn gốc và diễn biến của nó như thế nào ?

(Thập ma thị khoa cử chế độ ? tha thị chẩm dạng khởi nguyên hòa diễn biến đích ?)

Mã Trường Lâm

Chế độ khoa cử là chế độ khảo thí khoa mục của Nhà nước, được tổ chức định kỳ, căn cứ vào thành tích cao thấp để tuyển chọn nhân tài, bổ nhiệm quan lại. Sự khác nhau căn bản nhất của chế độ này với chế độ tuyển cử trước đó là ở chỗ người đọc sách bình thường đều có thể tham dự những kỳ khảo thí của Nhà nước, từ đó, có cơ hội được tuyển chọn làm quan. Chính điều này khiến Nhà nước phong kiến có thể tuyển chọn quan lại với phạm vi ngày càng rộng. ý kiến chung cho rằng, việc Tùy Dạng Đế sáng lập ra khoa Tiến sĩ là tiêu chí, đánh dấu sự ra đời chính thức của chế độ khoa cử ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có thể truy ngược tới thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc (khoảng 722 - 221 TCN).

Thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc, một số gia đình có thế lực phân chia công thất, nổi dậy thay thế các vua chư hầu. Những gia thần của những nhà có thế lực mạnh này liền trở thành quan lại của các nước chư hầu. Cùng với sự sụp đổ của chế độ quan lại thế tập, việc tuyển chọn quan lại trở thành nhu cầu và con đường tuyển chọn cũng nhiều lên. Nhiều trường hợp là những kẻ sĩ có tài năng, thông qua du thuyết, dâng thư, tự tiến cử mình để được làm quan; cũng có trường hợp căn cứ vào công lao nhiều hay ít đối với quốc gia để tuyển chọn, đề bạt; lại có trường hợp do những quan lại đứng đầu quận huyện dâng dự kế hàng năm, tiến cử với vua. Đương nhiên, những cách thức tuyển chọn, đề bạt quan lại này trong thời Xuân thu - Chiến quốc vẫn chưa trở thành chế độ rõ ràng.

Thời đại Lưỡng Hán (206 TCN - 220 SCN) và Nguỵ - Tấn - Nam Bắc triều (220-581), Trung Quốc lần lượt thực hiện biện pháp tuyển chọn quan lại bằng chế độ sát cử và chế độ "Cửu phẩm trung chính". Tuy nhiên, cách tuyển chọn trước chịu ảnh hưởng của ý chí các quan đứng đầu quận quốc; cách tuyển chọn sau bị thế gia vọng tộc khống chế, bởi vậy đã hạn chế con đường thăng quan tiến chức của giai tầng địa chủ vừa và nhỏ. Thời Tùy (581-618) đã bãi bỏ chế độ "Cửu phẩm trung chính", tiếp thu một số nhân tố hợp lý trong chế độ sát cử thời Hán, sử dụng phương pháp triều đình công khai khảo thí để tuyển chọn quan lại. Chế độ này không hỏi đến xuất thân của môn đệ, cũng không cần châu, quận tiến cử mà do triều đình công khai khảo thí tuyển chọn. Đây mới là sự mở đầu chính thức của chế độ khoa cử Trung Quốc thời cổ.

Thời Đường (618 - 907), kế thừa chế độ khoa cử do thời Tuỳ sáng lập, chế độ khoa cử thời cổ Trung Quốc bước vào thời kỳ thịnh vượng nhất. Thời Đường có hai loại khảo thứ khoa cử là Thường khoa và Chế khoa. Thường khoa mỗi năm tổ chức một lần, khoa mục khảo thí gồm hơn năm mươi loại là: Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Tuấn sĩ, Minh pháp, Minh tự, Minh toán v.v..., trong đó, hai khoa Tiến sĩ và Minh kinh người thi đông nhất. Vì vậy, trong các khoa thi, khoa Tiến sĩ người trượt nhiều nhất, thường hàng trăm người chỉ lấy đỗ một hai người và ở thời Đường, khoa Tiến sĩ được các khảo sinh đặc biệt coi trọng. Những người trúng tuyển khoa Tiến sĩ gọi là "cập đệ". Những người cập đệ được mời tham dự yến hội chức mừng ở Khúc Giang Trì (thời Tống gọi là "Văn hỉ yến". Vì yến hội tổ chức tại vườn Thượng uyển Quỳnh Lâm cho nên còn gọi là "Quỳnh Lâm yến"; thời Minh - Thanh giao cho Bộ Lễ ban yến, gọi là "Ân vinh yến"); được đề danh dưới tháp Từ Ân ở Trường An (sau thời Nguyên, việc dựng bia khắc tên Tiến sĩ do chính phủ xuất tiền). Có thể thấy, đó là những vinh dự tột bậc, vì thế đương thời, Tiến sĩ còn được gọi là "Bạch y công khanh", "Nhất phẩm bạch sam". Các khảo sinh Thường khoa có hai nguồn: Một là Sinh đồ, là những người dự thi vốn là học sinh ở các trường học tại Kinh sư hoặc châu, huyện được tuyển lên Thượng thư sảnh; hai là Hương cống, là những người dự thi không phải xuất thân từ trường học mà trước đó họ đã trúng tuyển vòng sơ khảo ở châu, huyện rồi được tuyển lên Thượng thư sảnh. Thời Đường, Hương cống lên Kinh ứng thí thường gọi là Cử nhân; khảo thí ở các châu, huyện gọi là giải thí. Những người trúng tuyển được quan đứng đầu châu, huyện đặt "Hương ẩm tửu lễ" chiêu đãi, gọi là "Lộc minh yến" (Vì trong yến hội, theo thường lệ, ca bài thơ Lộc minh trong Kinh Thi, nên có tên gọi đó). Thượng thư sảnh khảo thí, gọi là Sảnh thí, Lễ bộ thí. Người chủ trì khảo thí vốn là Lại bộ khảo công Viên ngoại lang. Đến triều Khai Nguyên năm thứ 24 (736) đổi lại, do Lễ bộ thị lang chủ trì. Chế khoa là khoa mục do Hoàng đế hạ chiếu lệnh, tạm thời đặt ra, gồm có trên 100 khoa, như: Khoa Hiền lương phương chính, Trực ngôn cực gián, Tài thức kiêm mậu, Minh vu thể dụng v.v. Người ứng thí có thể là quan lại đương chức, có thể là người thường đã trúng tuyển kỳ thi thường khoa hay còn có thể là dân thường. Về nội dung khảo thí, đầu đời Đường chỉ khảo vấn sách, đến thời Đường Huyền Tông thi thêm thơ phú. Khảo thí Chế khoa thông thường do Hoàng đế đích thân chủ trì. Những người ứng thí chế khoa, sau khi trúng tuyển, có thể được triều đình trực tiếp bổ nhiệm quan chức. Thời Đường, Chế khoa tuy do Hoàng đế đích thân chủ trì, nhưng dưới con mắt kẻ sĩ, hình thức ứng thí này thường bị coi là con đường xuất thân phi chính thống, không đáng được coi trọng. Thời Tống (960-1127), chế độ khoa cử có nhiều cải cách. Đời Tống Thái Tổ đã chính thức xác lập chế độ Điện thí, tức sau khi Lễ bộ khảo thí, Hoàng đế trực tiếp chủ trì cấp khảo thí cao nhất tại sân cung điện. Khảo sinh sau khi trúng tuyển kỳ Điện thí, có thể trực tiếp nhận quan chức. Thời Bắc Tống, người trúng tuyển đứng đầu kỳ Điện thí gọi là Bảng thủ, người xếp thứ hai, thứ ba gọi là Bảng nhãn, cả ba người đều gọi là Trạng nguyên. Thời Nam Tống về sau đổi lại cách gọi, người thứ nhất là Trạng nguyên, người thứ hai là Bảng nhãn, người thứ ba là Thám hoa. Về cơ bản, khoa cử thời Tống vẫn chia làm Thường khoa và Chế khoa. Khảo thí Thường khoa chia thành ba cấp là Châu phủ thí, Lễ bộ thí, Điện thí. Châu phủ thí gọi là Giải thí, Lễ bộ thí gọi là Sảnh thí.

Thời Nguyên, chế độ khoa cử lại chia thành ba cấp là Hương thí, Hội thí, Ngự thí. Người Mông Cổ, người Sắc mục và người Hán, người Nam được phân biệt để khảo thí, khi đăng bảng cũng tách riêng. Hoàn toàn khác hẳn thời Đường. Thời Nguyên khảo thí coi trọng kinh nghĩa mà coi nhẹ thơ phú. Kinh nghĩa chọn đề ở Tứ thư là "Đại học", "Trung dung", "Luận ngữ", "Mạnh Tử" và lấy đáp án chuẩn là Tứ thư tập chú của Chu Hy. Trong lịch sử khoa cử thời cổ ở Trung Quốc, dùng Tứ thư tập chú của Chu Hy để khảo thí kẻ sĩ chính là được bắt đầu từ thời Nguyên.

Thời kỳ Minh-Thanh (1368-1911), chế độ khoa cử vô cùng chặt chẽ, song nhiều tệ đoan lại cũng ngày càng trầm trọng. Một đặc điểm chủ yếu của chế độ khoa cử thời Minh-Thanh là nhà trường kết hợp chặt chẽ với khoa cử, vào trường học là con đường tất yếu để tham dự khoa cử. Thời Minh - Thanh, trường học có hai loại là Quốc học và Phủ, Châu, Huyện học. Quốc học là cấp học ở Trung ương, gọi là Quốc tử giám, học sinh gọi là Giám sinh. Giám sinh có nguồn gốc khác nhau, với những tên gọi như Cống Giám, ấm giám, Cử giám v.v... Trường học do phủ, huyện, châu, vệ lập ra gọi là Quận huyện học. Những học sinh đã qua các cấp khảo thí ở Sảnh, được vào học ở phủ, châu, huyện, thường gọi là Sinh viên, tục gọi là Tú tài. Đây là khởi điểm của con đường làm quan. Khảo thí nhập học để có được tư cách Sinh viên là Đồng sinh thí, gọi tắt là Đồng thí. Đồng thí gồm có ba giai đoạn là Huyện thí, Phủ thí, Viện thí. Người ứng thí, bất kể tuổi tác cao thấp đều gọi là Đồng sinh, sau khi trúng tuyển Viện thí mới được gọi là Sinh viên.

Khảo thí khoa cử chính thức thời Minh - Thanh gồm có ba cấp là Hương thí, Hội thí, Điện thí. Thi Hương ba năm một lần, tổ chức tại các tỉnh thành. Phàm những Sinh viên và Giám sinh trong tỉnh đã trúng tuyển ba kỳ thi khảo là Khoa khảo, Lục khảo, Lục di thảo đều có thể dự thi. Người trúng tuyển kỳ thi Hương gọi là Cử nhân. Sau thi Hương là thi Hội, do Bộ Lễ tổ chức vào mùa xuân năm sau. Người tham gia thi Hội là Cử nhân ở các tỉnh, nếu đỗ, gọi là Cống sĩ, hay còn gọi là Minh kinh. Sau thi Hội là thi Đình (Điện thí), được tổ chức trong cùng một năm. Người ứng thí là các Cống sĩ, do Hoàng đế đích thân chủ trì, chia làm ba giáp để lấy đỗ : Nhất giáp lấy ba người, gọi là Tiến sĩ cập đệ. Người đỗ đầu gọi là Trạng nguyên, người thứ hai gọi là Bảng nhãn, người thứ ba gọi là Thám hoa; Nhị giáp gọi là Tiến sĩ xuất thân; Tam giáp gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân. Nhất, nhị, tam giáp đều được gọi là Tiến sĩ.

Trong khảo thí khoa cử thời Minh - Thanh còn đặt ra Võ khoa để tuyển chọn, đề bạt những nhân tài võ nghệ. Võ khoa bắt đầu từ thời Đường, với việc Võ Tắc Thiên thiết lập "Võ cử". Sau này, trải qua các đời, đều tiếp tục tổ chức, nhưng không định kỳ. Đến thời Minh, phỏng theo thể chế khảo thí văn sĩ, định ra chế độ Võ hương thí và Võ hội thí. Thời Thanh cũng theo chế độ đó. Danh vị giành cho những người trúng tuyển khoa võ sĩ giống như khoa văn sĩ, chỉ thêm chữ "Võ" để phân biệt. Khảo thí võ khoa chia ra thành nội, ngoại trường. Nội trường khảo văn từ; Ngoại trường khảo võ công, gồm các khoa mục Mã tiễn, Bộ tiễn, Cung, Đao, Thạch (Cưỡi ngựa bắn tên, đị bộ bắn tên, sử dụng cung đao, binh khí bắn đá). Đến cuối thời Minh, đặc biệt là từ giữa thời Thanh trở về sau, hoả khí được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong quân sự, phương thức và kỹ năng tác chiến kiểu cũ dần dần lỗi thời, nhưng trong võ khoa vẫn dùng nội dung cũ để tuyển chọn võ quan, tác dụng của nó, vì thế mang nặng tính chất tượng trưng. Mãi đến thời Quang Tự năm 27 (1901), chế độ khảo thí võ khoa mới chính thức chấm dứt. Thời Minh - Thanh, chế độ khoa cử có sự thay đổi lớn về nội dung và hình thức. Thi Hương, thi Hội chuyên lấy đề thi trong "Tứ thư", "Ngũ kinh"; bài làm của thí sinh phải tuân theo trình tự và hình thức cố định cùng hàng loạt những cấm kỵ do triều Thanh qui định. Theo qui định, một bài văn, sau phá đề, thừa đề để mở đầu, tất phải có các phần khởi giảng, lĩnh đề (nhập thư), đề tỉ (về mở đầu), trung tỉ (vế giữa), hậu tỉ (vế cuối), thúc tỉ (vế kết thúc), lạc hạ v.v... Trong mỗi phần đề tỉ, trung tỉ, hậu tỉ, thúc tỉ lại đều phải có hai vế văn tự, thành một đôi đối nhau, cộng tất cả tám vế, cho nên, thể văn nghiêm ngặt này gọi là văn Bát cổ. Trong hơn năm trăm năm, từ đầu Minh đến cuối Thanh, hình thức thi cử chết cứng của thể văn Bát cổ đã trói buộc nghiêm trọng tư tưởng của các nhân sĩ, khiến họ ngày càng sa vào con đường học thuật hủ bại, viển vông, vụng về. Kết quả là làm cho chế độ khoa cử từng có tác dụng trong lịch sử đi vào ngõ cụt.

Chú thich

* Bản dịch này trước khi đưa in, chúng tôi có nhờ PTS. Hoàng Văn Lâu xem lại. Nhân đây xin chân thành cảm ơn (ND).

Đào Duy Đạt dịch