|
TRUNG QUỐC VĂN HOÁ SỬ TAM BÁCH ĐỀ
LTS. Lịch sử văn hoá Trung Quốc luôn luôn hấp dẫn đối với những người muốn tìm hiểu văn hoá Trung Hoa nói riêng, cũng như văn hoá phương Đông nói chung.
Năm 1993, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã đã cho ra đời cuốn Trung Quốc văn hoá sử tam bách đề (300 đề mục về lịch sử văn hoá Trung Quốc) do một nhóm học giả có uy tín biên soạn. Sách được chia làm năm phần, với hơn 300 đề mục lớn nhỏ. Qua đó, người đọc có thể thấy được gương mặt thu hẹp của Trung Hoa thời cổ trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, văn hoá, lễ tục... cho tới khoa học kĩ thuật, thể dục, nghệ thuật... Có thể nói, đây là một ấn phẩm rất có ích đối với những người quan tâm đến văn hoá Trung Quốc và văn hoá phương Đông.
Dưới đây, Tạp chí Hán Nôm xin giới thiệu hai đề mục, một về lịch sử khoa cử và một về tác dụng của hoàn cảnh địa lý đối với văn hoá trích từ cuốn Trung Quốc văn hoá sử tam bách đề, qua bản dịch của Đào Duy Đạt, để bạn đọc tham khảo.
1. Trong sự hình thành và phát triển văn hoá, hoàn cảnh địa lý có tác dụng như thế nào ?
(Địa lý hoàn cảnh tại văn hoá hình thành hoà phát triển trung đích tác dụng như hà)
Từ Hồng Hưng
Thông thường, hoàn cảnh địa lý chỉ giới tự nhiên xung quanh xã hội loài người, bao gồm địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản; Nó là cơ sở tự nhiên của tồn tại nhân loại và điều kiện vật chất tất yếu, thường xuyên của sự phát triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của văn hoá nhân loại có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh địa lý.
Hoàn cảnh địa lý là một trong những nhân tố quan trọng của việc hình thành văn hoá. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ sức sản xuất cực kỳ thấp, đời sống và hoạt động sản xuất của người nguyên thuỷ, dù là sống trong hang hay ở bên ngoài, hái lượm hay săn bắn, trồng trọt hay chăn nuôi, súc vật thồ hay thuyền chở, đều chịu những hạn chế của hoàn cảnh địa lý riêng, đều phải thích ứng với điều kiện tự nhiên nhất định. Sự xuất hiện "Bốn quốc gia văn minh cổ" (Ai Cập, ấn Độ, Trung Quốc, Ba Bi Lon) trên thế giới có liên quan với sông Nin, sông ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang, Sông Tigris và sông Euphrates. Trong hoàn cảnh địa lý riêng thuộc lưu vực những sông lớn, nền văn hoá nông nghiệp đặc biệt phát triển. Sự xuất hiện chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền ở những quốc gia có nền văn minh lâu đời này, lại hoặc nhiều hoặc ít liên quan đến nhu cầu tổ chức và quản lý một cách hữu hiệu sự nghiệp thuỷ lợi tưới tiêu. Với nền văn minh cổ Hy Lạp, do bán đảo nhiều đất núi, thổ nhưỡng không phì nhiêu, nên nói chung, nghề hàng hải và văn hoá thương nghiệp phát đạt rõ rệt, do đó đã hình thành chính thể dân chủ chủ nô. Biện pháp phù hợp với tình hình cụ thể, có thể nói là một qui luật chung của sự hình thành văn hoá. Lịch pháp Ai Cập cổ là căn cứ vào chu kỳ lên xuống của sông Nin mà hình thành; Ba bi lon cổ, vì là địa hình bình nguyên, cộng thêm là không khí trong lành nên đặc biệt thuận lợi cho việc quan sát những hiện tượng trên bầu trời, do vậy, lịch pháp của họ là thông qua quan trắc thiên văn mà có.
Trung Quốc là một quốc gia có diện tích rộng lớn, lịch sử lâu đời với nhiều dân tộc, không những có nền văn hoá dân tộc mang nhiều sắc thái khác nhau, mà ngay cùng một dân tộc cũng tồn tại nền văn hoá khu vực với phong cách khác nhau. Sự hình thành những nền văn hoá này, không bao giờ tách khỏi nhân tố hoàn cảnh địa lý. Có thể lấy những hình thức tôn thờ, tồn tại phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ làm thí dụ: Dân tộc ở miền núi thì tôn thờ nhiều thần núi, loại nham thạch. Dân tộc sống gần vùng sông hồ, biển cả thì tôn thờ đa thuỷ thần. Tương tự, động vật được các dân tộc phương Bắc tôn thờ phần lớn là gấu và sói, trong khi đó, các dân tộc phương Nam chủ yếu tôn thờ rắn và chim. Hiện tượng tôn thờ tổ tiên đặc biệt nổi bật trong văn hoá dân tộc Hán, với tư cách là chủ thể của văn hoá Trung Quốc. Theo truyền thuyết "Tam hoàng Ngũ đế", tổ tiên của bất cứ dân tộc nào cũng là nửa người, nửa thần. Nguồn gốc của sự tôn thờ tổ tiên, nếu truy đến cùng, có thể tìm thấy ở những nhân tố do ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý. Văn hoá dân tộc Hán khởi nguồn từ hai lưu vực lớn là Trường Giang và Hoàng Hà, điều kiện tự nhiên về thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ lợi đã tạo cơ sở vật chất rất thuận lợi cho văn hoá nông nghiệp phát triển. Đồng thời, cũng tạo ra sự hình thành rất lớn kiểu kết hợp giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp trong gia đình, coi gia đình là đơn vị gần gũi trực tiếp với giới tự nhiên, dựa vào trời kiếm ăn, vạn sự chẳng cầu người. Phương thức sinh hoạt của tổ tiên đã được con cháu ứng dụng đầy đủ, quan niệm tông pháp gia tộc từ đó mạnh lên, dẫn đến việc tôn thờ không gì sánh được đối với tổ tiên và trực tiếp ảnh hưởng đến sự hình thành của học thuyết Nho gia lấy quan hệ nhân luân làm chủ. Lại xem xét hình thức cư trú trong văn hoá Trung Quốc. Từ xưa đến nay, nhà ở của người Trung Quốc chủ yếu quay về hướng nam, điều này có liên quan đến điều kiện vị trí địa lý Trung Quốc ở vào bắc bán cầu của quả đất; ở khu vực tây bắc Trung Quốc, hình thức cư trú được kết cấu theo kiểu nhà "lều trại" (gồm cả Mông Cổ) là nhiều nhất, điều này liên quan đến điều kiện gió cát lớn ở vùng thảo nguyên, sa mạc; ở khu vực phía nam, hình thức cư trú được kết cấu theo kiểu "Lan can" (nhà tre) lại rất phổ biến, điều này lại có liên quan đến khí hậu ẩm thấp của vùng á nhiệt đới. Những hình thức cư trú khác nhau này chính là hiện tượng văn hoá mà mấy ngàn năm qua, nhân dân các dân tộc Trung Quốc đã sáng tạo ra, trên cơ sở phù hợp với điều kiện cụ thể của tự nhiên. Lại thí dụ như tập quán ăn của người Trung Quốc, nói chung, lý luận về nấu nướng của hai miền Nam - Bắc Trung Quốc rất gần nhau, nhưng thói quen sử dụng lương thực chủ yếu lại hoàn toàn khác nhau: Người miền Bắc thích ăn mì, người miền Nam lại thích ăn gạo. Tập tục khác nhau này chính là do nguyên liệu tạo ra lương thực chủ yếu ở hai miền khác nhau. Những dẫn chứng về sự ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đối với sự hình thành văn hoá có khá nhiều, khó có thể nói hết.
Nói chung, so với sự hình thành văn hoá thì ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đối với sự phát triển văn hoá nhỏ hơn nhiều. Bởi vì, sau khi được hình thành, văn hoá đã có tính ổn định tương đối. Sự phát triển văn hoá của một dân tộc, dù có những nguyên nhân bên ngoài ngáng trở (thí dụ như chiến tranh) khiến dân tộc đó phải dời đổi nơi cư trú, mất đi hoàn cảnh địa lý vốn có khi hình thành văn hoá dân tộc, thì những hiện tượng văn hoá như truyền thống, phong tục tập quán, ngôn ngữ văn tự, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc ấy vẫn sẽ được duy trì lâu dài, không dễ mất đi. Ngoài ra, theo đà tiến bộ không ngừng của xã hội loài người, sự ràng buộc của hoàn cảnh địa lý đối với nhân loại cũng ngày càng giảm đi, và con người luôn luôn căn cứ vào truyền thống văn hoá của mình để cải tạo thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không nói lên rằng, ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đã trở lên hoàn toàn không đáng kể đối với sự phát triển văn hoá. Sự phát triển của văn hoá nhân loại, một mặt cải tạo hoàn cảnh địa lý, mặt khác lại là một trong những điều kiện để làm chủ hoàn cảnh địa lý, tạo ra sự phát triển tự thân. Thí dụ như quan hệ của con người đối với đại dương, ở xã hội cổ đại chỉ là cái lợi ở miền duyên hải có muối và cá, còn mặt biển mênh mông chỉ gây trở ngại cho việc giao lưu của con người. Điều này chứng tỏ năng lực nhân thức của nhân loại lúc đó còn thấp. Cùng với sự phát triển của văn hoá, khoa học, nhận thức của con người về biển khơi ngày càng sâu sắc, nhiều loại tài nguyên không ngừng được nhận thức và khai thác, mặt biển trở thành đường giao thông quan trọng trong việc giao lưu của nhân loại. Nếu không có biển, năng lực nhận thức của con người có thể nói khó có thể được nâng cao. Ngoài ra, phạm vi và chiều sâu trong việc nhận thức và lợi dụng hoàn cảnh địa lý của con người cũng không được mở rộng. Cùng với việc nâng cao năng lực nhận thức của con người, hoàn cảnh địa lý lại đề ra cho con người những vấn đề mới hơn, thúc đẩy con người phải nhận thức và giải quyết, từ đó làm cho văn hoá nhân loại phát triển thêm những bước mới. Lại nhìn từ sự thực lịch sử cụ thể, tác dụng của hoàn cảnh địa lý đối với sự phát triển văn hoá cũng rất lớn. Không cần đưa ra nhiều dẫn chứng, chỉ cần khảo sát thực tiễn từ lịch sử cận - hiện đại Trung Quốc: Vì sao những trào lưu tư tưởng và những phong trào cải lương, cách mạng luôn luôn nổ ra đầu tiên ở khu vực ven biển đông nam ? Sự thực này cho thấy, do vị trí địa lý đặc thù, đã tạo điều kiện cho các tư tưởng và học thuyết du nhập vào khu vực này sớm nhất, khiến cho quan niệm của nhân dân phát sinh thay đổi sớm hơn so với các khu vực khác.
Cuối cùng, cần phải chỉ ra rằng: Chúng ta thừa nhận nhân tố quan trọng của hoàn cảnh địa lý đối với sự hình thành, phát triển của văn hoá, nhưng không thể xem nó như một nhân tố quyết định duy nhất của sự hình thành và phát triển văn hoá. Quan điểm sai lầm của học phái "Hoàn cảnh quyết định luận: (1) trong địa lý học phương Tây đã sớm bị những người Mác - xít phê phán, ở đây không nói lại.
Chú thich
(1) Học phái "Hoàn cảnh quyết định luận" là một học phái trong địa lý học phương Tây, do Montesquieu (1689-1755) sáng lập. Thuyết này cho rằng hoàn cảnh địa lý là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người, mọi sinh vật đều là sản phẩm của hoàn cảnh địa lý. Khi ra đời, lý luận này đã có ý nghĩa tiến bộ nhất định đối với việc phủ định thần quyền luận.
2. Chế độ khoa cử là gì ?
Nguồn gốc và diễn biến của nó như thế nào ?
(Thập ma thị khoa cử chế độ ? tha thị chẩm dạng khởi nguyên hòa diễn biến đích ?)
Mã Trường Lâm
Chế độ khoa cử là chế độ khảo thí khoa mục của Nhà nước, được tổ chức định kỳ, căn cứ vào thành tích cao thấp để tuyển chọn nhân tài, bổ nhiệm quan lại. Sự khác nhau căn bản nhất của chế độ này với chế độ tuyển cử trước đó là ở chỗ người đọc sách bình thường đều có thể tham dự những kỳ khảo thí của Nhà nước, từ đó, có cơ hội được tuyển chọn làm quan. Chính điều này khiến Nhà nước phong kiến có thể tuyển chọn quan lại với phạm vi ngày càng rộng. ý kiến chung cho rằng, việc Tùy Dạng Đế sáng lập ra khoa Tiến sĩ là tiêu chí, đánh dấu sự ra đời chính thức của chế độ khoa cử ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có thể truy ngược tới thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc (khoảng 722 - 221 TCN).
Thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc, một số gia đình có thế lực phân chia công thất, nổi dậy thay thế các vua chư hầu. Những gia thần của những nhà có thế lực mạnh này liền trở thành quan lại của các nước chư hầu. Cùng với sự sụp đổ của chế độ quan lại thế tập, việc tuyển chọn quan lại trở thành nhu cầu và con đường tuyển chọn cũng nhiều lên. Nhiều trường hợp là những kẻ sĩ có tài năng, thông qua du thuyết, dâng thư, tự tiến cử mình để được làm quan; cũng có trường hợp căn cứ vào công lao nhiều hay ít đối với quốc gia để tuyển chọn, đề bạt; lại có trường hợp do những quan lại đứng đầu quận huyện dâng dự kế hàng năm, tiến cử với vua. Đương nhiên, những cách thức tuyển chọn, đề bạt quan lại này trong thời Xuân thu - Chiến quốc vẫn chưa trở thành chế độ rõ ràng.
Thời đại Lưỡng Hán (206 TCN - 220 SCN) và Nguỵ - Tấn - Nam Bắc triều (220-581), Trung Quốc lần lượt thực hiện biện pháp tuyển chọn quan lại bằng chế độ sát cử và chế độ "Cửu phẩm trung chính". Tuy nhiên, cách tuyển chọn trước chịu ảnh hưởng của ý chí các quan đứng đầu quận quốc; cách tuyển chọn sau bị thế gia vọng tộc khống chế, bởi vậy đã hạn chế con đường thăng quan tiến chức của giai tầng địa chủ vừa và nhỏ. Thời Tùy (581-618) đã bãi bỏ chế độ "Cửu phẩm trung chính", tiếp thu một số nhân tố hợp lý trong chế độ sát cử thời Hán, sử dụng phương pháp triều đình công khai khảo thí để tuyển chọn quan lại. Chế độ này không hỏi đến xuất thân của môn đệ, cũng không cần châu, quận tiến cử mà do triều đình công khai khảo thí tuyển chọn. Đây mới là sự mở đầu chính thức của chế độ khoa cử Trung Quốc thời cổ.
Thời Đường (618 - 907), kế thừa chế độ khoa cử do thời Tuỳ sáng lập, chế độ khoa cử thời cổ Trung Quốc bước vào thời kỳ thịnh vượng nhất. Thời Đường có hai loại khảo thứ khoa cử là Thường khoa và Chế khoa. Thường khoa mỗi năm tổ chức một lần, khoa mục khảo thí gồm hơn năm mươi loại là: Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Tuấn sĩ, Minh pháp, Minh tự, Minh toán v.v..., trong đó, hai khoa Tiến sĩ và Minh kinh người thi đông nhất. Vì vậy, trong các khoa thi, khoa Tiến sĩ người trượt nhiều nhất, thường hàng trăm người chỉ lấy đỗ một hai người và ở thời Đường, khoa Tiến sĩ được các khảo sinh đặc biệt coi trọng. Những người trúng tuyển khoa Tiến sĩ gọi là "cập đệ". Những người cập đệ được mời tham dự yến hội chức mừng ở Khúc Giang Trì (thời Tống gọi là "Văn hỉ yến". Vì yến hội tổ chức tại vườn Thượng uyển Quỳnh Lâm cho nên còn gọi là "Quỳnh Lâm yến"; thời Minh - Thanh giao cho Bộ Lễ ban yến, gọi là "Ân vinh yến"); được đề danh dưới tháp Từ Ân ở Trường An (sau thời Nguyên, việc dựng bia khắc tên Tiến sĩ do chính phủ xuất tiền). Có thể thấy, đó là những vinh dự tột bậc, vì thế đương thời, Tiến sĩ còn được gọi là "Bạch y công khanh", "Nhất phẩm bạch sam". Các khảo sinh Thường khoa có hai nguồn: Một là Sinh đồ, là những người dự thi vốn là học sinh ở các trường học tại Kinh sư hoặc châu, huyện được tuyển lên Thượng thư sảnh; hai là Hương cống, là những người dự thi không phải xuất thân từ trường học mà trước đó họ đã trúng tuyển vòng sơ khảo ở châu, huyện rồi được tuyển lên Thượng thư sảnh. Thời Đường, Hương cống lên Kinh ứng thí thường gọi là Cử nhân; khảo thí ở các châu, huyện gọi là giải thí. Những người trúng tuyển được quan đứng đầu châu, huyện đặt "Hương ẩm tửu lễ" chiêu đãi, gọi là "Lộc minh yến" (Vì trong yến hội, theo thường lệ, ca bài thơ Lộc minh trong Kinh Thi, nên có tên gọi đó). Thượng thư sảnh khảo thí, gọi là Sảnh thí, Lễ bộ thí. Người chủ trì khảo thí vốn là Lại bộ khảo công Viên ngoại lang. Đến triều Khai Nguyên năm thứ 24 (736) đổi lại, do Lễ bộ thị lang chủ trì. Chế khoa là khoa mục do Hoàng đế hạ chiếu lệnh, tạm thời đặt ra, gồm có trên 100 khoa, như: Khoa Hiền lương phương chính, Trực ngôn cực gián, Tài thức kiêm mậu, Minh vu thể dụng v.v. Người ứng thí có thể là quan lại đương chức, có thể là người thường đã trúng tuyển kỳ thi thường khoa hay còn có thể là dân thường. Về nội dung khảo thí, đầu đời Đường chỉ khảo vấn sách, đến thời Đường Huyền Tông thi thêm thơ phú. Khảo thí Chế khoa thông thường do Hoàng đế đích thân chủ trì. Những người ứng thí chế khoa, sau khi trúng tuyển, có thể được triều đình trực tiếp bổ nhiệm quan chức. Thời Đường, Chế khoa tuy do Hoàng đế đích thân chủ trì, nhưng dưới con mắt kẻ sĩ, hình thức ứng thí này thường bị coi là con đường xuất thân phi chính thống, không đáng được coi trọng. Thời Tống (960-1127), chế độ khoa cử có nhiều cải cách. Đời Tống Thái Tổ đã chính thức xác lập chế độ Điện thí, tức sau khi Lễ bộ khảo thí, Hoàng đế trực tiếp chủ trì cấp khảo thí cao nhất tại sân cung điện. Khảo sinh sau khi trúng tuyển kỳ Điện thí, có thể trực tiếp nhận quan chức. Thời Bắc Tống, người trúng tuyển đứng đầu kỳ Điện thí gọi là Bảng thủ, người xếp thứ hai, thứ ba gọi là Bảng nhãn, cả ba người đều gọi là Trạng nguyên. Thời Nam Tống về sau đổi lại cách gọi, người thứ nhất là Trạng nguyên, người thứ hai là Bảng nhãn, người thứ ba là Thám hoa. Về cơ bản, khoa cử thời Tống vẫn chia làm Thường khoa và Chế khoa. Khảo thí Thường khoa chia thành ba cấp là Châu phủ thí, Lễ bộ thí, Điện thí. Châu phủ thí gọi là Giải thí, Lễ bộ thí gọi là Sảnh thí.
Thời Nguyên, chế độ khoa cử lại chia thành ba cấp là Hương thí, Hội thí, Ngự thí. Người Mông Cổ, người Sắc mục và người Hán, người Nam được phân biệt để khảo thí, khi đăng bảng cũng tách riêng. Hoàn toàn khác hẳn thời Đường. Thời Nguyên khảo thí coi trọng kinh nghĩa mà coi nhẹ thơ phú. Kinh nghĩa chọn đề ở Tứ thư là "Đại học", "Trung dung", "Luận ngữ", "Mạnh Tử" và lấy đáp án chuẩn là Tứ thư tập chú của Chu Hy. Trong lịch sử khoa cử thời cổ ở Trung Quốc, dùng Tứ thư tập chú của Chu Hy để khảo thí kẻ sĩ chính là được bắt đầu từ thời Nguyên.
Thời kỳ Minh-Thanh (1368-1911), chế độ khoa cử vô cùng chặt chẽ, song nhiều tệ đoan lại cũng ngày càng trầm trọng. Một đặc điểm chủ yếu của chế độ khoa cử thời Minh-Thanh là nhà trường kết hợp chặt chẽ với khoa cử, vào trường học là con đường tất yếu để tham dự khoa cử. Thời Minh - Thanh, trường học có hai loại là Quốc học và Phủ, Châu, Huyện học. Quốc học là cấp học ở Trung ương, gọi là Quốc tử giám, học sinh gọi là Giám sinh. Giám sinh có nguồn gốc khác nhau, với những tên gọi như Cống Giám, ấm giám, Cử giám v.v... Trường học do phủ, huyện, châu, vệ lập ra gọi là Quận huyện học. Những học sinh đã qua các cấp khảo thí ở Sảnh, được vào học ở phủ, châu, huyện, thường gọi là Sinh viên, tục gọi là Tú tài. Đây là khởi điểm của con đường làm quan. Khảo thí nhập học để có được tư cách Sinh viên là Đồng sinh thí, gọi tắt là Đồng thí. Đồng thí gồm có ba giai đoạn là Huyện thí, Phủ thí, Viện thí. Người ứng thí, bất kể tuổi tác cao thấp đều gọi là Đồng sinh, sau khi trúng tuyển Viện thí mới được gọi là Sinh viên.
Khảo thí khoa cử chính thức thời Minh - Thanh gồm có ba cấp là Hương thí, Hội thí, Điện thí. Thi Hương ba năm một lần, tổ chức tại các tỉnh thành. Phàm những Sinh viên và Giám sinh trong tỉnh đã trúng tuyển ba kỳ thi khảo là Khoa khảo, Lục khảo, Lục di thảo đều có thể dự thi. Người trúng tuyển kỳ thi Hương gọi là Cử nhân. Sau thi Hương là thi Hội, do Bộ Lễ tổ chức vào mùa xuân năm sau. Người tham gia thi Hội là Cử nhân ở các tỉnh, nếu đỗ, gọi là Cống sĩ, hay còn gọi là Minh kinh. Sau thi Hội là thi Đình (Điện thí), được tổ chức trong cùng một năm. Người ứng thí là các Cống sĩ, do Hoàng đế đích thân chủ trì, chia làm ba giáp để lấy đỗ : Nhất giáp lấy ba người, gọi là Tiến sĩ cập đệ. Người đỗ đầu gọi là Trạng nguyên, người thứ hai gọi là Bảng nhãn, người thứ ba gọi là Thám hoa; Nhị giáp gọi là Tiến sĩ xuất thân; Tam giáp gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân. Nhất, nhị, tam giáp đều được gọi là Tiến sĩ.
Trong khảo thí khoa cử thời Minh - Thanh còn đặt ra Võ khoa để tuyển chọn, đề bạt những nhân tài võ nghệ. Võ khoa bắt đầu từ thời Đường, với việc Võ Tắc Thiên thiết lập "Võ cử". Sau này, trải qua các đời, đều tiếp tục tổ chức, nhưng không định kỳ. Đến thời Minh, phỏng theo thể chế khảo thí văn sĩ, định ra chế độ Võ hương thí và Võ hội thí. Thời Thanh cũng theo chế độ đó. Danh vị giành cho những người trúng tuyển khoa võ sĩ giống như khoa văn sĩ, chỉ thêm chữ "Võ" để phân biệt. Khảo thí võ khoa chia ra thành nội, ngoại trường. Nội trường khảo văn từ; Ngoại trường khảo võ công, gồm các khoa mục Mã tiễn, Bộ tiễn, Cung, Đao, Thạch (Cưỡi ngựa bắn tên, đị bộ bắn tên, sử dụng cung đao, binh khí bắn đá). Đến cuối thời Minh, đặc biệt là từ giữa thời Thanh trở về sau, hoả khí được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong quân sự, phương thức và kỹ năng tác chiến kiểu cũ dần dần lỗi thời, nhưng trong võ khoa vẫn dùng nội dung cũ để tuyển chọn võ quan, tác dụng của nó, vì thế mang nặng tính chất tượng trưng. Mãi đến thời Quang Tự năm 27 (1901), chế độ khảo thí võ khoa mới chính thức chấm dứt. Thời Minh - Thanh, chế độ khoa cử có sự thay đổi lớn về nội dung và hình thức. Thi Hương, thi Hội chuyên lấy đề thi trong "Tứ thư", "Ngũ kinh"; bài làm của thí sinh phải tuân theo trình tự và hình thức cố định cùng hàng loạt những cấm kỵ do triều Thanh qui định. Theo qui định, một bài văn, sau phá đề, thừa đề để mở đầu, tất phải có các phần khởi giảng, lĩnh đề (nhập thư), đề tỉ (về mở đầu), trung tỉ (vế giữa), hậu tỉ (vế cuối), thúc tỉ (vế kết thúc), lạc hạ v.v... Trong mỗi phần đề tỉ, trung tỉ, hậu tỉ, thúc tỉ lại đều phải có hai vế văn tự, thành một đôi đối nhau, cộng tất cả tám vế, cho nên, thể văn nghiêm ngặt này gọi là văn Bát cổ. Trong hơn năm trăm năm, từ đầu Minh đến cuối Thanh, hình thức thi cử chết cứng của thể văn Bát cổ đã trói buộc nghiêm trọng tư tưởng của các nhân sĩ, khiến họ ngày càng sa vào con đường học thuật hủ bại, viển vông, vụng về. Kết quả là làm cho chế độ khoa cử từng có tác dụng trong lịch sử đi vào ngõ cụt.
Chú thich
* Bản dịch này trước khi đưa in, chúng tôi có nhờ PTS. Hoàng Văn Lâu xem lại. Nhân đây xin chân thành cảm ơn (ND).
Đào Duy Đạt dịch
|