TB

TIỂU THUYẾT CHỮ HÁN VIỆT NAM,
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

TRẦN NGHĨA

Trong Tạp chí Hán Nôm Số 3-1997, chúng tôi có đưa ra một danh mục tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 37 tác phẩm và cũng đã sơ bộ tiến hành việc phân loại chúng thành tiểu thuyết bút ký, tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết công án, tiểu thuyết diễm tình và du ký, tất cả 7 tiểu loại(1). Nay xin bàn tiếp về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam.

I. Nội dung tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam

Về mặt nội dung, những gì mà tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đề cập tới thật đa dạng. Có thể gom lại thành 4 chủ đề lớn sau đây:

1. Những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đất nước.

Xoay quanh chủ đề này, có các cuốn tiểu thuyết lịch sử như Trùng Quang tâm sử, Việt Lam xuân thu, Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí và Hoàng Việt long hưng chí.

Trùng Quang tâm sử kể lại cuộc nổi dậy đầy khí thế của nhân dân ta do Trần Quý Khoáng lãnh đạo chống lại ách đô hộ của nhà Minh vào đầu thế kỷ 15 tại Nghệ An. Việt Lam xuân thu viết về thất bại khó tránh của cha con Hồ Quý Ly và thắng lợi đương nhiên của anh em Lê Lợi trong cuộc lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi quân ngoại xâm, giải phóng đất nước, giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Hoan Châu ký tái hiện công cuộc Trung hưng của nhà Lê sau khi họ Mạc tiếm ngôi, cùng những đóng góp về mặt võ công của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu lúc này được coi là rất xuất sắc và chỉ sau họ Trịnh. Nam triều công nghiệp diễn chí phác họa lại 133 năm Trịnh Nguyễn phân tranh, kể từ lúc Nguyễn Hoàng vào trấn giữ Thuận Hóa cho đến khi Chúa Ngãi mất. Tác phẩm cũng đã dành một phân lượng không nhỏ để nói về công lao của Chúa Nguyễn trong việc tiếp tục mở mang, kiến tạo nửa phần đất nước phía Nam; đây vừa là nơi "dung thân", vừa là chỗ dựa để tranh giành quyền lực cùng Chúa Trịnh ở phía Bắc. Hoàng Lê nhất thống chí là hiện thân sức mạnh của phong trào nông dân khởi nghĩa ở nước ta trong thế kỷ 18 đã đánh bại ba tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, đặc biệt là đập tan mưu đồ tái chiếm Việt Nam của nhà Thanh, đưa giang sơn về một mối. Hoàng Việt long hưng chí là một bổ sung và tiếp nối của Hoàng Lê nhất thống chí. ở đây, những nét bút còn mờ nhạt về phía Chúa Nguyễn trong Hoàng Lê nhất thống chí đã được tô đậm hoặc vẽ lại một cách công phu, tỉ mỉ hơn. Nhất là quá trình Nguyễn ánh xóa bỏ nhà Tây Sơn, nhân những lục đục không tự dàn xếp được trong nội bộ triều đình Quang Toản. Tiểu thuyết còn bao quát cả mười mấy năm tại vị của Nguyễn ánh lúc này là Gia Long, nhằm tạo cho câu chuyện "Trung hưng" của nhà Nguyễn có một dáng vóc trọn vẹn.

Dễ dàng thấy những khúc quanh lớn trong lịch sử Việt Nam từ cuối đời Trần đến đầu đời Nguyễn đều được một số tiểu thuyết chương hồi của ta đắp đổi nhau tái hiện với nhiều tâm tư tình cảm khác nhau mà người viết đã gửi gắm vào tác phẩm.

2. Danh nhân lịch sử, văn hóa Việt Nam

Viết về chủ đề này, có các tiểu thuyết bút ký như Nam Ông mộng lục, Công dư tiệp ký, Tang thương ngẫu lục, Hàn Giang danh tướng liệt truyện, Dị nhân lược chí, Thính văn dị lục, Bà tâm huyền kính lục ...; các tiểu thuyết chí quái như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Lan Trì kiến văn lục..., và một số ít tiểu thuyết truyền kỳ như Cổ quái bốc sư truyện, Nam Thiên trân dị tập ...

Ở đây, có "quốc tộc" Hồng Bàng Thị và "quốc tổ" Lạc Long - Âu Cơ, với quá trình "khai sáng nước Hoàng Việt". Có các "thần nhân" như Đổng Thiên Vương " phá giặc Ân"; Tản Viên linh thiêng, "có khả năng diệt loài thủy tộc"; Tô Lịch, thần đất Long Đỗ "đứng đầu các địa linh"; nhưng chiếm số lượng áp đảo, vẫn là các danh nhân lịch sử, văn hóa, gồm Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Phạm Cự Lượng, Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải, Thiền phái Trúc Lâm, Chu Văn Trinh, Lê Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, họ Vũ ở Mộ Trạch, Họ Đinh ở Hàn Giang v.v.

Viết về họ, nguyên khí của quốc gia, nhân tài của đất nước, các tác giả không gì khác hơn là nhằm khẳng định Việt Nam là một nước có văn hiến, nhân dân có truyền thống yêu nước, có tinh thần hiếu học, sống nhân nghĩa, vị tha, sẵn sàng hiến thân cho giang sơn Tổ quốc khi cần thiết. Viết về họ, cũng là cách củng cố thêm niềm tin và lòng tự hào dân tộc, nhất là khi đang đối mặt với những thách thức nghiệt ngã của cuộc đời.

Bên cạnh các danh nhân lịch sử, văn hóa xuất hiện như là những nhân vật chính diện, tiểu thuyết còn có một số "yêu tinh quỉ quái" và người xấu việc xấu, những nhân vật phản diện. Đó là "con tinh Ngư xà dài hơn năm trượng, nhiều chân như hình con rết, biến hóa trăm cách, linh dị khôn lường, khi đi làm nổi mưa, lại ăn cả thịt người nên ai cũng sợ" (Lĩnh Nam chích quái, Ngư tinh truyện). Đó là "con cáo chín đuôi sống đã hơn ngàn năm, biến hóa muôn hình vạn trạng, lúc thành người, lúc thành quỷ, đi khắp cõi nhân gian" (Id. Hồ tinh truyện). Đó là "Cây chiên đàn cao hơn nghìn nhẫn, cành lá sum suê, xòe tán rộng không biết mấy nghìn trượng (...) Cây ấy sống lâu không biết bao năm rồi, nên khô héo bèn trở thành tinh, tính dữ tợn, có thể giết người hại vật" (Id. Mộc tinh truyện). Đó là Phạm Nhan "Tiến sĩ nước Nguyên, giỏi nghề phù thủy, vào cung vua chữa bệnh, tư thông với cung nhân, sự việc bị phát giác, sắp đem ra hành hình. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm lược nước ta, y bèn xin làm người dẫn đường, lấy công chuộc tội" (Nam Thiên trân dị tập, Phạm Nhan miếu). Đó là đứa con bất hiếu, vì con gà chọi chết mà đang tâm đem mẹ đi chôn sống" (Thính văn dị lục, Tích kê mai mẫu truyện), v.v.

Viết về số này, cũng có nghĩa là tôn vinh danh nhân lịch sử, văn hóa, biểu dương cái thiện. Cái thiện sở dĩ thành cái thiện, là vì nó luôn luôn đấu tranh với cái ác, tạo nên môi trường sống lành mạnh cho con người .

3. Các tầng lớp xã hội Việt Nam thời phong kiến.

Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam tập trung phản ánh trước hết là lớp người cầm quyền. ở đây có những vị anh hùng dân tộc có công chống xâm lăng, khôi phục và giữ vững nền độc lập chủ quyền của đất nước, mà Lê Thái Tổ và Nguyễn Quang Trung là hai vị vua tiêu biểu nhất trong thời kỳ Trung đại.

Về Lê Thái Tổ, Lời tựa truyện Việt Lam tiểu sử viết: "Mới rồi, từ hòm sách về sử của một gia đình nổi tiếng, tôi tìm được cuốn Việt Lam xuân thu. Mở ra xem, thấy tường tận bản sắc anh hùng của Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì thuận theo đạo trời, an tâm với mệnh, thương kẻ sĩ, yêu dân lành, giả nhún nhường để khỏi nhận chức tước của triều Ngụy. Lúc thời cơ tới thì dùng người hiền tài, dựa vào kẻ có năng lực, điều binh khiển tướng tiêu diệt giặc Minh, khôi phục nước nhà. Trong mười năm trù hoạch kinh dinh, không một việc làm nào của ngài chứng tỏ ngài không phải là một vị quốc vương có trí, có nhân, có dũng. Nếu không phải ông vua độ lượng, có thể như thế được chăng ? Cuốn sách qua 60 hồi đã khái quát được quá trình Lê Thái Tổ giành lại đất nước. Tôi say sưa đọc đi đọc lại mấy lần, tưởng chừng như thấy hình bóng ngài hiện ra trên từng trang sách. Bất giác tôi cảm thấy phục lăn phục lóc" (Hoàng Việt xuân thu).

Về Nguyễn Quang Trung, ta hãy nghe chính vị vua này nhắc lại trước quân sĩ về truyền thống đánh giặc cứu nước của cha ông mà các thế hệ sau phải noi gương, nếu muốn làm những cháu con trung hiếu: "Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa ? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương; đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành; đời Nguyên có Trần Hưng Đạo; đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi hại, được mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Đến nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước !" (Hoàng Lê nhất thống chí).

Nhưng bên cạnh Lê Lợi, Quang Trung, những vị vua anh minh, nhân, trí, dũng, vẫn có những hôn quân bạo chúa, cùng lũ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết, như vua tôi triều đình nhà Hồ chẳng hạn: "Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được; kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng, lòng dân động lay, nên xảy việc quân sông Đáy; cõi bờ chếch mếch, nên ta đã mất dải đất Cổ Lâu. Vậy mà kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết" (Truyền kỳ mạn lục, Na Sơn tiều đối lục). Hay cảnh "cưỡng hôn" giữa vua Lê và chúa Trịnh mà Hoàng Lê nhất thống chí đã cực tả: "Những năm tuổi già, nhà vua bị Thánh Tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn phải tức giận không thể chịu nổi, nhưng nhà vua thì vẫn vui đùa như thường. Những người gần gũi nhà vua thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng: "Các ngươi mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay đang ở vào cái thế bị ngờ vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, thì nhà chúa ắt phải ngấm ngầm tính việc chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi !" (Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ năm).

Tầng lớp trí thức cũng là đối tượng được nhiều cây bút tiểu thuyết đề cập tới. Khi thì trí thức được phác họa như là những nhân vật mà số phận đang mỉm cười với họ; họ dám thách thức cả với tà thần, với Diêm Vương để bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải: "Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được (...). Trong làng trước có một tòa đền vẫn linh ứng lắm. Cuối đời Hồ, quân Ngô sang cướp, vùng ấy thành chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bá hộ họ Thôi tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu quái trong dân gian, Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đầu lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả". Vì vụ này, chàng bị kiện tới Diêm Vương, sau nhờ có sự chứng thực của đền Tản Viên mà Tử Văn được trắng án (Truyền kỳ mạn lục, Tản Viên từ Phán sự lục). Chuyện Nguyễn Công Hân chửi thần Tuyên Nghĩa cũng phảng phất một tinh thần như vậy (Nam Thiên trân dị tập, Trường Bộc Nguyễn Công Hân truyện).

Nhưng cũng có một số trí thức được mô tả như là những nhân vật không tương hợp với số phận và vị trí hiện hữu của họ; trong trường hợp này, họ lui về với rừng núi, ruộng đồng, sống cuộc đời ẩn dật, hoặc như người tiều phu núi Nưa (Truyền kỳ mạn lục, Na Sơn tiều đối lục), hoặc như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nam Thiên trân dị tập , Bạch Vân Am ký), hoặc như danh y Lê Hữu Trác (Thượng Kinh ký sự).

Cuối cùng là tầng lớp phụ nữ. Nguyễn Bích Châu, một cung phi đời Trần Duệ Tông, tuy không "đổi phận làm trai được", vẫn có thể hiến cho Vương thượng bản Kê minh thập sách đầy "thông tuệ". Với tư cách "người vợ hiền", nàng khuyên "chồng" dậy sớm để lo toan việc nước việc dân: "Một là bền gốc nước, bỏ điều tàn bạo thì lòng người được yên. Hai là giữ nếp xưa, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối. Ba là đè kẻ lộng quyền để trừ mọt nước. Bốn là thải bọn nhũng lại để bớt hại dân. Năm là mong chấn hưng Nho phong, khiến lửa đuốc sáng soi cùng nhật nguyệt. Sáu là xin cầu lời nói thẳng, khiến người trong nước được bàn bạc khắp nơi nơi. Bảy là tuyển quân nên tìm sức mạnh hơn là vóc người. Tám là kén tướng nên trọng thao lược hơn là gia thế. Chín là khí giới cần sắc bén, chứ đừng ưa chuộng hoa hòe. Mười là trận pháp, cốt tề chỉnh chứ không cần đẹp mắt" (Truyền kỳ tân phả, Hải khẩu linh từ). Còn Giáng Hương thì rất mực yêu chồng yêu con. Để được đoàn tụ với gia đình, nàng sẵn sàng từ bỏ cung tiên, trở lại cuộc đời trần thế. Sau khi mất, nàng rất linh thiêng, được nhân dân lập đền thờ ở Phố Cát (Truyền kỳ tân phả, Vân Cát thần nữ truyện).

Giỏi việc nước, đảm việc nhà vốn là truyền thống tốt đẹp lâu bền của phụ nữ Việt Nam.

4. Tình yêu đôi lứa.

Trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, không thiếu những mối tình, "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Họ lấy nhau vì bổn phận và sống với nhau theo khuôn vàng thước ngọc của lễ giáo phong kiến. Trai thì có thể "năm thê bảy thiếp", nhưng gái thì phải "chính chuyên một chồng". Riêng người phụ nữ còn bị ràng buộc bởi "tam tòng tứ đức". Gặp anh chồng tử tế, người vợ còn được bù đắp, an ủi đôi chút. Không may vớ phải kẻ nghiện ngập, cờ bạc, ăn chơi trác táng, người vợ xem như đã hết đời. Sự bất công này đã được nhiều tiểu thuyết phản ánh và lên án. Như mối tình phụ bạc giữa Trọng Quỳ và Nhị Khanh trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện (Truyền kỳ mạn lục); mối tình lỡ làng giữa Phật Sinh và Lệ Nương trong Lệ Nương truyện (Truyền kỳ mạn lục); mối tình đầy bi kịch giữa Túy Tiêu với Nhuận Chi và quan Trụ quốc họ Thân trong Túy Tiêu truyện (Truyền kỳ mạn lục) v.v.

Nhưng đáng chú ý hơn vẫn là những cuộc tình ái "vượt rào", nam nữ thích nhau tự tìm đến nhau, không phải chờ ý kiến của mẹ cha, mai mối. Hầu như đây là mảnh đất riêng dành cho tiểu thuyết truyền kỳ, với những mối tình giữa người và yêu tinh, giữa người và ma quái, giữa người và thần nữ ... đượm vẻ hoang đường, quái đản mà ngay các cụ đồ Nho khó tính nhất thời phong kiến cũng không thể dựa vào đâu để bắt bẻ. Người lấy yêu tinh như trường hợp Hà Nhân với Liễu Như Nương và Đào Hồng Nương trong Tây viên kỳ ngộ ký (Truyền kỳ mạn lục). Người lấy ma quái như trường hợp Trình Trung Ngộ với Diệp Khanh trong Mộc miên thụ truyện (Truyền kỳ mạn lục); Lương Nhân với Ngư Nương trong Mai Châu yêu nữ truyện (Thánh Tông di thảo). Người lấy thần nữ như trường hợp anh học trò nghèo ở Thuần Khê trong Nhất thư thủ thần nữ (Thánh Tông di thảo)v.v. Mỗi mối tình như thế, sau lớp màn hư hư thực thực, vẫn lấp lánh những tình cảm chân thành, hồn nhiên, không vụ lợi, mặt đáng quý của tình yêu đôi lứa.

Nhưng bên cạnh đó, vẫn có những chuyện "làm tình" trắng trợn, trần trụi, không cần tới một chiếc lá nho che đậy nào hết. Chẳng hạn cuộc tình tay ba giữa Dương Giới với Ngô Kiều Nương và Xa Viên Nương trong Việt Nam kỳ phùng sự lục. Hay cuộc tình tay năm - điều lạ là vẫn trong ấm ngoài êm - giữa công tử Triệu Kiệu với hai chị em là tiểu thư Lan Nương, tiểu thư Huệ Nương, cùng hai cô hầu của Lan Nương và Huệ Nương là Xuân Hoa và Thu Nguyệt trong Hoa viên kỳ ngộ tập. Có thể dẫn ra đây một đoạn trong tác phẩm sau cùng để thấy được phần nào chất "Sex" thấm đượm trong một cuốn tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam cuối thế kỷ 18: " Rượu đã ngà ngà, Sinh (chỉ Triệu Kiệu - TN) ôm Lan vào lòng, sai Hoa, Nguyệt chúc rượu. Huệ thì hát mời Sinh. Hát rằng (...). Ca vừa xong thì Sinh kéo Huệ đè xuống. Huệ nói: "Trăng sáng giữa trời thế kia, sao có thể làm vậy ?" Sinh nói: " Bể biếc trời xanh cũng chiều lòng. Quảng Hàn muốn vậy mà không được, há lại ghen nhau sao ?" Rồi đẩy Huệ ngã vào trong đệm, phỉ sức mây mưa. Xong rồi, Sinh lại kéo Lan, Lan cũng không chống lại. Bắt chước theo hình dáng chim âu chim vụ, phỏng học theo tư thái uyên ương, quả là niềm cực lạc trong cõi nhân gian. Sau đó đến Xuân Hoa. Lúc Xuân Hoa giao hợp với Sinh, lòng xuân rạo rực, mặc cho Sinh muốn làm gì thì làm, không hề mảy may khó khăn. Sau đó đến Thu Nguyệt. Nguyệt không chịu. Sinh nói: "Đất đai trong thiên hạ, mười phần ta đã có được tám chín, nay chỉ còn mảnh đất nhỏ bằng viên đạn, sao dám chống lại Vương sư ?" Rồi bế Nguyệt vào trong đệm, mặc sức mây mưa. Hoa binh nguyệt trận, nhung mã tung hoành. Giao hoan xong, Sinh lại cùng hai nàng đối ẩm. Uống mãi cho đến khi trăng lặng sau núi, bất giác say mềm. Các nàng vực chàng vào ngủ" (Hoa viên kỳ ngộ tập).

Phải chăng đó là một phản ứng, thậm chí một cách trả thù đối với những khắt khe của lễ giáo phong kiến trong lĩnh vực tình yêu mà tác giả Hoa viên kỳ ngộ tập muốn giải tỏa để đi tới chỗ được tự do yêu đương, tự do ân ái, theo tiếng gọi của bản năng sinh vật tiềm ẩn trong mỗi con người !

5. Tư tưởng Nho, Phật, Lão, phong thủy, vu bốc, âm dương ngũ hành.

Đạo Nho, đạo Phật , đạo Lão, kể cả phong thủy, vu bốc và âm dương ngũ hành nữa đã bằng nhiều con đường sớm du nhập vào nước ta. Sau một quá trình đồng hóa lâu dài, chúng kết hợp với luân lý, tín ngưỡng bản địa, trở thành một bộ phận quan trọng trong truyền thống tư tưởng văn hóa Việt Nam. Đặc biệt từ Lý Trần về sau, Nho - Phật - Lão bắt đầu có khuynh hướng hỗn dung, "dĩ Nho nhập Tiên", "dĩ Nho nhập Thích", từ đạo Nho đi vào đạo Lão (Tiên), đạo Phật (Thích). Tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" - Nho, Phật, Lão cùng một nguồn - nảy nở từ đây(2). Sự đụng độ giữa chúng nếu có thì cũng chỉ là hiện tượng nhất thời (3), không dai dẳng như ở một vài nước khác trong khu vực.

Tư tưởng Nho, Phật, Lão ... và tam giáo đồng nguyên đã chi phối mạnh mẽ nền tiểu thuyết cổ nước ta, từ tiểu thuyết bút ký, tiểu thuyết lịch sử đến tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết truyền kỳ ...

Chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, nhiều tiểu thuyết nêu cao lòng trung hiếu, đạo cương thường, cùng các phẩm chất người quân tử gồm nhân, trí, dũng. Đề tựa Lĩnh Nam chích quái, Vũ Quỳnh viết: "Ôi ! việc lạ ở Lĩnh Nam nhiều lắm ! Các câu chuyện xảy ra không chờ khắc vào đá, in vào sách mà đã gắn ghi vào lòng dân, lưu truyền nơi bia miệng, từ em bé đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều ca tụng, mến mộ, hoặc lấy đó làm răn. Thế thì chúng cũng liên quan đến cương thường, mở mang phong hóa đâu phải là ít !" (Lĩnh Nam chích quái liệt truyện tự). Truyện Dưa hấu (Tây qua truyện) được viết ra, theo Vũ Quỳnh, là để phê phán thái độ "cậy vào cái của mình mà coi thường ơn chúa"; truyện Bánh chưng (Chưng bính truyện) được viết ra, là để khen lòng hiếu thảo; Truyện Ô Lôi (Hà Ô Lôi truyện) được viết ra, là nhằm "răn thói dâm bôn". Bình luận chuyện Tử Hư lên chơi Thiên Tào, Nguyễn Dữ viết: "Than ôi, những chuyện huyễn hoặc Tề Hài, những lời ngụ ngôn Trang Chu, người quân tử vốn chẳng nên ham chuộng. Nhưng nếu là chuyện quan hệ đến luân thường, là lời ký ngụ ý khuyên răn thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu" (Truyền kỳ mạn lục, Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục). "Nhân, trí, dũng" cũng được Lê Hoan nhấn mạnh khi giới thiệu tác phẩm Việt Lam xuân thu: "Xưa nay làm vua, nếu không phải là người có trí, có nhân, có dũng thì không thể thành vị chúa anh hùng khai sáng sự nghiệp, gây truyền thống cho đời sau" (Việt Lam tiểu sử tự). "Nhân, trí, dũng" hay "trí, nhân, dũng" từ lâu đã được đạo Nho quan niệm như là những phẩm chất cao đẹp ở người quân tử(4), giờ đây trở thành chỗ dựa để các tác giả Việt Lam xuân thu xây dựng hình tượng Lê Lợi, người anh hùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo, một số tiểu thuyết được viết ra dường như để chứng minh cho quan niệm luân hồi, báo ứng. Trần Nhật Duật khi mới sinh, ở hai cánh tay có chữ "Chiêu Văn", là chứng tích đầu thai của Chiêu Văn Đồng Tử trên Thượng giới (Nam Ông mộng lục, Tấu chương minh nghiệm). Ngô Chí Hoà từ dòng chữ "Thử duyên kim vị liễu, Tái kết hậu sinh duyên" trên cánh tay phải của một cô gái mà nhận ra đây là người tình cũ đầu thai (Thính văn dị lục, Tiền kiếp luân hồi truyện). Lý Thần Tông, tiền thân là Từ Đạo Hạnh, hậu thân là lão già ở chợ Báo Thiên, lại hậu thân nữa là vua Thần Tông triều Lê, "một ông sư, một lão ăn mày tái sinh vào bậc đế vương, khiến người ta không thể hiểu nổi" (Tang thương ngẫu lục, Thần Tông Hoàng Đế). Và đây nữa, lời bàn của Sơn Nam Thúc về chuyện Chồng dê:"Đọc truyện Chồng dê mới biết trong khoảng trời đất, hết thảy giống bay, giống lặn, giống chạy, giống náu là vật mà không phải là vật. Những giống ấy hoặc là duyên xưa chưa hết, hoặc vì oán cũ chưa tan, có khi đội lốt để tìm nhau, có khi thoát hình biến hóa. Kìa như chim xanh sứ giả của Vương Mẫu, lợn đen hậu thân của Tần Cối, hạc Linh Uy, cá Bạch Long... Những chuyện ấy xưa nay vẫn có. Ta nên lưu tâm xét kỹ, không nên coi giống vật là vật" (Thánh Tông di thảo, Dương phu truyện). ấy là những chuyện liên quan đến thuyết luân hồi.

Còn về báo ứng, có chuyện Lê Kính nhờ làm việc thiện nên được Thiên Đình cho đỗ Tiến sĩ, "ân huệ bỏ ra không lớn mà sự báo đáp lại chóng như vậy, thật đúng như người xưa nói: chớ bảo là việc thiện nhỏ mà không làm !" (Nam Thiên trân dị tập, Lê Kính ký). Hoặc chuyện Nguyễn Mại vì giết oan người ta mà con mình phải thế mạng: "Trời ban cho hay lấy lại rất không chừng, chủ yếu là nhìn ở đức độ. Tiến sĩ Nguyễn Mại đã được Tinh tào nhắc nhở rành rành, vậy mà cuối cùng vẫn không thoát khỏi tai vạ, ý chừng coi đấy chỉ là lời hoang đường" (Nam Thiên trân dị tập, Chí Linh Nguyễn Mại truyện). Nguyễn Thị Thái lừa đứa cháu côi cút bé dại để chiếm đoạt gia tài làm của riêng mình, kết quả bị Thiên Lôi thiêu cháy cả quần áo, được ít lâu thì chết: "Ôi làm điều thiện thì trời ban cho trăm điều phúc, làm điều ác thì trời giáng trăm điều tai ương. Đạo trời lồng lộng không mảy may sai sót” (Sơn cư tạp thuật, Trừng tham), v.v.

Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão, Trang, nhất là Đạo giáo, một số tiểu thuyết ca ngợi cuộc sống ẩn dật, lấy cái “vô dụng” làm “sở dụng”, không màng lợi danh. Tiêu biểu như các truyện Na Sơn tiều đối lục trong Truyền kỳ mạn lục; Sơn trang Ngọc nữ trong Sơn cư tạp thuật; Lãng Bạc phùng tiên trong Thánh Tông di thảo; Địa tiên trong Hát Đông thư dị, v.v.

Mang tư tưởng “tam giáo”, có Lĩnh Nam chích quái, Công dư tiệp ký, đặc biệt là Đào hoa mộng ký. Ta hãy xem mấy đoạn của Tương Giang Mai Cát Phủ bình luận về tác phẩm thứ ba này:

“Đào hoa mộng viết về mối tình trong kiếp sau của Thúy Kiều và Kim Trọng. Cái kể ra ở đây là nguyên nhân sự hội ngộ. Điều nói tới ở đây là quan hệ giữa nam và nữ. Viết về một cô đào hát yêu một chàng thư sinh, nhưng không sa vào chuyện tà dâm, không một câu chữ nào mang tính chất bỡn cợt. Không chỉ có Lan Nương. Ngay như Kiều Huệ gặp khách buôn Việt Đông, Mã Kiều về với Dư Mỗi, Quan Thư lấy Giải Sinh... cũng vậy. Hoặc là nhân quả từ kiếp trước, hoặc là tình duyên ở kiếp sau. Có người nương tựa cửa Không sau khi trải trang duyên nợ; có người lấy nhau, gia đình hoà hợp suốt đời. Đứng về toàn bộ cuốn sách mà nói, không một nhân vật nào không đứng đắn. Đứng về nhân vật trong truyện mà, nói không một hành vi nào là bất chính. Thiên hạ qua tác phẩm biết được cái đẹp của phong hóa; mọi người đọc tác phẩm hiểu được đầu mối của tính tình. Từ đấy thấy thánh triều giáo hóa thịnh hành, phong tục thuần mỹ, tuy là đào hát, vẫn giữ mình trinh chính, chưa hề một sớm một chiều lang thang nơi đê lớn hoặc bên sông, dẫu phong hóa Nhị nam cũng không thể hơn được”.

“Thuyết quả báo luân hồi nảy sinh từ họ Thích. Kinh truyện chưa thấy chép. Hệ từ trong Kinh Dịch nói: "Tinh khí thiêng liêng của âm dương bốc ra, tích tụ thành vạn vật; hồn muôn vật vật vờ, gây nên sự biến hóa". ấy là việc duỗi tự duỗi, co tự co. Trình Tử nói: "Không lý nào vật đã co mà lại còn duỗi". Vậy là không có luân hồi. Thế nhưng tra cứu trong Kinh Phật, thấy nói người ta chết, tinh thần không những không mất, mà sau đó được thụ hình, những việc làm thiện hay ác trong kiếp trước đều có báo ứng. Điều này xét về lý, có thể xảy ra. Đế Quân nói: "Ta mười đời làm sĩ phu", vậy thì người thiện có luân hồi. Tương truyền Lý Lâm Phủ 9 đời làm kiếp trâu, 13 đời làm kỹ nữ, vậy thì người ác cũng có luân hồi ! Ngọc thiềm ký kể lại sự quả báo về tình duyên của viên Thiếu bảo họ Dư, ở đây có nêu ra thuyết luân hồi, cũng nhằm làm thăng bằng khí bất bình trong trời đất. Cổ văn nói: "Không có cái gì co mà lại không duỗi" thì sự báo ứng thiện ác, luân hồi xét về tình là nên có, xét về lý là đương nhiên (...). Còn thuyết luân hồi ở Đào hoa mộng, xét về lý thì tương xác mà có nguyên nhân, xét về việc thì huyền diệu gần với sự thực, khiến người đọc có thể giải khuây, kẻ thưởng ngoạn có thể suy ngẫm, cơ báo ứng về thiện ác càng ngụ ý răn khuyên. Đối với thế đạo, tác dụng của sách thật không nhỏ".

- "Các sách bái quan dã sử thuộc loại tiểu thuyết ngôn từ buông thả, chỉ cốt mua vui, huyễn hoặc người ít hiểu biết (...). Đào hoa mộng thì không thế. Tính chất trữ tình trang nhã của nó có chỗ giống với Tư mỹ nhân của Khuất Tử, hoặc Tiêu dao du của Trang Tử (...). Nói về tài phán đoán công án , thì có thể sánh với Bao Long Đồ (...). Nói về mưu mô đánh dẹp thì có thể sánh với Tôn Vũ Tử...".

Ba đoạn trích trên đây cho thấy một thứ hỗn dung giữa Nho, Phật và Lão bàng bạc trong tiểu thuyết.

Ngoài Nho, Phật, Lão, tư tưởng phong thủy, vu bốc cũng được phản ánh trong nhiều tiểu thuyết, mà những chuyện về "để mả" trong Công dư tiệp ký và "bói toán" trong Cổ quái bốc sư truyện có thể xem là các thí dụ điển hình.

II. Nghệ thuật tiểu thuyết chữ Hán Việt nam.

Về phương diện nghệ thuật có thể chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam ra thành hai nhóm: nhóm lấy việc tả thực làm chính, gồm tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết bút ký; và nhóm lấy việc hư cấu làm chính, gồm tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết công án, tiểu thuyết diễm tình.

Ở nhóm thứ nhất - tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết bút ký, du ký - có các đặc điểm nghệ thuật đáng chú ý sau đây:

1. Nghệ thuật xử lý mối quan hệ giữa sử và tiểu thuyết mà thực chất là mức độ hư cấu có thể chấp nhận được trong phạm vi nhóm tiểu thuyết này. Một mặt, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết bút ký, kể cả du ký nữa đều phải lấy "sử thực" làm gốc (lam bản), nhưng không thể bê nguyên xi lịch sử, mà phải có sự cân nhắc, chọn lọc, cái gì nên để, cái gì nên bỏ, cái gì cần thêm, cái gì cần bớt, tức tiến hành gia công nghệ thuật. Mặt khác lại phải lưu tâm nhặt nhạnh, tham khảo các nguồn tư liệu phụ như dã sử, truyền thuyết dân gian... phi chính sử để bổ sung thêm, làm cho câu chuyện đậm đà hơi thở cuộc sống. Có thế, lịch sử mới biến thành tiểu thuyết, thông qua việc tưởng tượng và hư cấu. Nói khác đi, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết bút ký, cùng du ký là bản thân lịch sử được tái hiện một cách nghệ thuật.

Tất nhiên các ý tưởng trên đây không phải lúc nào cũng được hiểu và vận dụng giống nhau trong nhóm tiểu thuyết thứ nhất.

Ở Hoàng Lê nhất thống chí, tác giả đã biết kết hợp "sử" với "văn" một cách hợp lý, làm cho tác phẩm tuy thực mà hư, tuy hư mà thực, nhờ vậy đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ, có thể sánh ngang các bộ tiểu thuyết lịch sử ưu tú của các nước trong cùng khu vực.

Hoan Châu ký, Việt Lam xuân thu, Trùng Quang tâm sử tuy có dựa vào chính sử, nhưng vẫn quan tâm thích đáng đến hư cấu nghệ thuật. Riêng Việt Lam xuân thu có đôi chỗ quá đà, như kể rằng nghĩa quân Lam Sơn lúc đầu đã liên kết với giặc Minh để diệt trừ nhà Hồ, rồi sau mới quay lại đánh giặc Minh để giải phóng đất nước. Đã là viết tiểu thuyết, cố nhiên tác giả có quyền hư cấu, nhưng nhất thiết phải tôn trọng sự thật cơ bản của lịch sử. Viết trái khoáy như Việt Lam xuân thu, không thể không nói là một xuyên tạc.

Nam triều công nghiệp diễn chí và Hoàng Việt long hưng chí tuy có phần hư cấu, nhưng bút pháp về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi lối viết của nhà làm sử. Các tác giả đã tự nguyện đem tác phẩm của họ đặt vào một góc khiêm tốn trong ngăn kéo dành cho các bộ chính sử. "Tiểu thuyết" với họ, dù được mệnh danh là "chí", "chí truyện" hay gì gì chăng nữa, thì bất quá cũng là một dòng nhỏ, một nguồn bổ sung cho quốc sử. Mà đã là "quốc sử" thì phải "thực", trăm phần trăm chính xác, chứ không thể là "hư", thêu dệt, vẽ vời, dựng chuyện... Kết quả, họ đã làm nghèo đi rất nhiều tính văn học của tác phẩm.

Thượng Kinh ký sự, với tư cách một du ký, tác giả đã khéo kết hợp bút pháp tả thực với bút pháp trữ tình, làm cho tác phẩm vừa giàu tính hiện thực, vừa gây xúc động cho người đọc, nhất là trước hình tượng tác giả, một người "tuy thân mắc vào vòng danh lợi nhưng vẫn không bị lợi danh mê hoặc. Ra đi thung dung, trở về ngất ngưởng".

Còn tiểu thuyết bút ký thì phần nhiều thiên về "di văn, dật sự", thỉnh thoảng cũng có truyện hay, nhờ cấu tứ khéo, tưởng tượng dồi dào, như các truyện Trạng nguyên Lê Nại ký, Dĩnh Kế Trạng nguyên ký... trong Công dư tiệp ký; Khổng Tử - Hạng Thác vấn đáp thư... trong Dị nhân lược chí; Lê quận công biệt truyện; Tái sinh sự tích v.v.

2. Riêng với loại tiểu thuyết lịch sử, có nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật và miêu thuật các sự kiện lịch sử lớn. Trên lĩnh vực này, nhiều tác phẩm đã gặt hái được không ít thành công.

Nổi bật, có việc khắc họa hình tượng các anh hùng dân tộc như Lê Lợi (Việt Lam xuân thu), Quang Trung (Hoàng Lê nhất thống chí), Trần Quý Khoáng (Trùng Quang tâm sử)..., hình tượng các văn thần, võ tướng như Lê Thiện, Nguyễn Trãi (Việt Lam xuân thu), Nguyễn Cảnh Mô, Nguyễn Quyện (Hoan Châu ký), Nguyễn Hữu Dật, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến (Nam triều công nghiệp diễn chí), Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm (Hoàng Lê nhất thống chí), Võ Tánh, Lê Tòng Chu, Lê Văn Duyệt, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân (Hoàng Việt long hưng chí)... kể cả hình tượng các nhân vật phản diện như Hồ Quý Ly, Trương Phụ (Việt Lam xuân thu), Nguyễn Hữu Chỉnh, Tôn Sĩ Nghị (Hoàng Lê nhất thống chí) v.v.

Có thể nên một vài trường hợp làm thí dụ. Đây là vài nét bút chấm phá về Nguyễn Huệ, vị anh hùng áo vải khi đến Thăng Long lần đầu: "Lúc Bắc Bình Vương vào Kinh Đô, vua Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng" (Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 9). Và đây là những đánh giá của một cung nhân cũ triều Lê về Bắc Bình Vương mà y cảm thấy vừa khâm phục vừa lo lắng: "Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, xuất hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc, hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra. Tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi thì địch sao nổi" (Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14).

Hình tượng cô Liên trong Trùng Quang tâm sử cũng hiện lên với những nét bút sắc cạnh: "Bây giờ mới nói đến cô Liên. Liên là một cô gái trẻ tuổi, người Thăng Long, gia thế là một họ lớn đời Trần. Khi giặc lấy Đông Kinh, ông và cha cô đánh nhau với giặc mà chết, người Tì tướng của cha cô trốn chạy vào Hoan Châu, mẹ cô và cô cũng chạy trốn theo. Chẳng bao lâu, người tì tướng ấy lại cất quân đánh giặc, bị thua chết vì nước. Mẹ cô Liên cũng kế đó mà chết. Cô Liên bèn cắt tóc vào tu ở chùa Hương Tích, núi Hồng Lĩnh. Hồi bé, cô vốn chăm đọc sách, thông văn chương, hiểu kinh Phật. Nước mất nhà tan, nương náu cửa Không, nhờ khách thập phương mà sống qua ngày. Nhưng nghĩ đến cha ông chết vì nước, những lúc vắng người vẫn thường sa lệ. Nhiều khi uất ức không chịu được thì khoác áo cà sa mang kinh kệ đi khắp làng xóm phổ khuyến, mong có lúc gặp người" (Trùng Quang tâm sử, Tiết thứ 10).

Bên cạnh việc xây dựng hình tượng nhân vật, có thể kể thêm một số trận đánh cũng được nhiều tiểu thuyết lịch sử dàn dựng công phu, thành những bức tranh hoành tráng, tên bay đạn réo, khói lửa ngút trời... Như trận nghĩa quân nhà Hậu Trần đánh lấy thành Nghệ An (Trùng Quang tâm sử, Tiết thứ 21); trận vua Trần quyết chiến với quân Mộc Thạnh ở sông Sinh Quyết (Việt Lam xuân thu, Hồi thứ 24); trận Lê Thiện đánh bại Vương Thông ở Tích Giang (Việt Lam xuân thu, Hồi thứ 52); trận Lại Thế Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích đánh nhau với Nguyễn Quyện ở núi Lưỡng Kiên và Ngọc Sơn thuộc địa phận Nghệ An (Hoan Châu ký, Hồi 2, Tiết thứ nhất và tiết thứ 2); trận chúa Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn tại lũy Trấn Ninh vào năm 1672 (Nam triều công nghiệp diễn chí); cuộc tiến công đại phá quân Thanh, giải phóng Thăng Long của Quang Trung năm 1789, trong đó có trận quyết chiến với địch ở đồn Ngọc Hồi do Quang Trung trực tiếp chỉ huy (Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14) v.v.

3. Cũng ở tiểu thuyết lịch sử, còn có nghệ thuật cấu trúc tác phẩm và tổ chức câu chuyện. Hầu hết các tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán đều trình bày theo kiểu chương hồi. Toàn bộ câu chuyện được tách ra làm nhiều mảng, hay đúng hơn, tác phẩm do nhiều "hồi" hoặc "tiết" có quan hệ vừa "khép" vừa "mở", vừa "gián cách" vừa "liên tục" hợp lại mà thành. Mỗi mảng như thế, ở Hoan Châu ký và Trùng Quang tâm sử được gọi là "tiết"(Hoan Châu ký có 16 tiết; Trùng Quang tâm sử có 22 tiết); ở Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam xuân thu, Hoàng Việt long hưng chí được gọi là "hồi"(Hoàng Lê nhất thống chí có 17 hồi; Việt Lam xuân thu có 60 hồi; Hoàng Việt long hưng chí có 34 hồi). Riêng Nam triều công nghiệp diễn chí thoạt nhìn, tưởng như tác phẩm được viết liền một mạch từ đầu chí cuối, chỉ chia quyển, không chia "hồi" hoặc "tiết". Nhưng đọc kỹ nguyên bản ta thấy ở quyển 4 có câu: "Vị tri Tú Phượng nhập Nam triều báo tín nhược hà, thả khán hạ hồi phân giải"; cuối quyển 5 có câu: "Vị tri hư thực như hà, thả thính hạ hồi phân giải"; cuối quyển 7 có câu: "Vị tri hậu sự như hà, thả thính hạ hồi phân giải", ta có thể nghĩ mỗi "quyển" ở đây được tác giả xem như một "hồi", Nam triều công nghiệp diễn chí có cả thảy 8 quyển, cũng tức là 8 hồi.

Mỗi "hồi" hoặc "tiết" như vậy trong cùng một tác phẩm thường có độ dài xấp xỉ như nhau, kể lại một câu chuyện nhỏ tương đối hoàn chỉnh. Mở đầu mỗi "hồi" hoặc "tiết" là hai câu đối ngẫu, mỗi câu từ 7 đến 16 chữ (riêng Nam triều công nghiệp diễn chí mỗi "hồi" (quyển) được mở đầu bằng một bài từ hoặc một bài thơ thất ngôn Đường luật, trừ hồi thứ hai và hồi thứ 7; Trùng Quang tâm sử trước mỗi "tiết" là một cụm từ 4 chữ) vừa dùng để khái quát nội dung, vừa dùng để làm đầu đề cho "hồi" đó hoặc "tiết" đó, gọi là "hồi mục". Kết thúc mỗi "hồi" hoặc "tiết" lại có hai câu đối ngẫu nữa, mỗi câu 7 chữ, cùng một câu văn lề lối (sáo ngữ) kiểu: "muốn biết (...) như thế nào , xem hồi sau sẽ rõ", một là nhằm dự báo nội dung của "hồi" tiếp theo, hai là nhằm kích thích sự tò mò của người đọc (riêng Trùng Quang tâm sử, không thấy sử dụng hình thức này).

Ở một số tác phẩm, ngoài các kiểu trình bày nói trên, còn có phần mang tính chất bình luận văn học (bình điểm) như "độc pháp", "hồi bình", "giáp bình", "my phê"... "Độc pháp" thường đặt ngay ở đầu sách, tổng luận về nội dung hoặc giải thích, nhấn mạnh một số điểm cốt yếu thuộc chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng hạn đoạn văn đặt ở đầu Hồi 1 của Hoàng Lê nhất thống chí, bài Truyện tự đặt ở đầu Hồi 1 của Việt Lam xuân thu, đoạn văn đặt ở đầu Tiết 1 của Trùng Quang tâm sử đều có thể xem là "độc pháp". "Hồi bình" là những lời bình luận viết cho từng hồi một, thường đặt liền sau "hồi mục", riêng ở Hoàng Lê nhất thống chí lại đặt ở cuối Hồi 1 và đây cũng là trường hợp duy nhất ở tác phẩm này. "Giáp bình" là những lời bình luận viết xen kẽ trong từng hồi mục, từng tiết, thấy xuất hiện nhiều nhất ở Việt Lam xuân thu. "My phê" là những câu chữ bình luận viết ngay lên khoảng giấy trống đầu trang sách, thấy xuất hiện nhiều nhất ở Trùng Quang tâm sử.

Tất cả các thủ pháp vừa nêu đều nhằm mang lại cho tiểu thuyết lịch sử một khuôn mặt khác với sử, góp phần làm cho truyện từ " khế mạch, giáp cổ, đấu tranh, phục tuyến" đến khai thừa, chuyển hợp" đều trở nên "xảo diệu, tinh kỳ" (Việt Lam xuân thu, Lời tựa Việt Lam tiểu sử ).

Ở nhóm thứ hai - tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết công án, tiểu thuyết diễm tình đáng chú ý có các mặt sau đây:

1. Tác giả rất có ý thức trong việc "tác ý hiếu kỳ" để đánh vào sự tò mò của người đọc. Đây là đoạn văn bình luận về chuyện Nguyễn Thọ Xuân trong Nam Thiên trân dị tập: "Bài văn sách bỏ mất 8 mục mà vẫn đỗ đầu, ấy là điều lạ thứ nhất. Ngoài 20 tuổi mới lấy vợ và đến 90 tuổi vẫn còn sinh con, ấy là điều lạ thứ hai. Tới già mà vẫn chưa thành danh, đó là chuyện kỳ lạ về mộng. Đề chữ lên vách mà chữa được bệnh, đó là chuyện kỳ lạ về ngòi bút. Còn như bề tôi có lỗi màVương thượng giả vờ không biết, đó là chuyện kỳ lạ về sủng ngộ".

Ở truyện Trạng nguyên Giáp Hải cũng trong sách vừa dẫn, ta lại thấy cả những câu chuyện bếp núc để có một tiểu thuyết truyền kỳ: "Người đàn bà ở Công Luận không hám tích lũy tiền của, mà cam tâm sống nghèo khổ với túp quán tranh bên đường. Trời đã nhìn thấy lòng lành của bà, muốn cho nhà bà phát Trạng nguyên, Tể tướng. Nhưng không có môi giới thì không được. Bởi vậy mới dẫn tới việc một người khách phương Bắc để quên túi vàng làm nền câu chuyện. Rồi lại dẫn đến việc một người nghèo nhưng phúc đức ở Bát Tràng đến gây mầm mống, về sau sẽ có chỗ sử dụng. Đã sinh ra người không thể không có kẻ nuôi dạy. Vì thế lại dẫn tới việc một người giàu nhưng từ thiện ở Dĩnh Kế cầm thầy dạy học, giúp mài dũa thành tài. Tuy nhiên, nếu không có dấu tích làm bằng chứng thì vị quan vinh hiển kia làm sao nhìn nhận bà cụ nghèo khổ ? Cho nên khi con bà sinh ra có một nốt ruồi ở chân, để một ngày kia mẹ con còn nhận được nhau. Ông trời kể cũng dày công dàn dựng thật ! Mà lại hết sức chu đáo, chặt chẽ nữa là khác. Bày ra mấy mươi năm đào tạo công phu, ấy cũng chỉ vì đáp lại tấm lòng tốt của bà cụ ! ". "Ông trời" mà nhà bình luận nói kia có thể hiểu chính là cây bút tài hoa của người dựng truyện.

Nghệ thuật "ảo hóa". "ảo hóa"(5) nguyên là một khái niệm của nhà Phật. Cuộc đối thoại sau đây của một nhà sư và một thư sinh trong truyện Ngọc thân ảo hóa khả dĩ giúp chúng ta hiểu được phần nào nội dung từ ngữ này: " Sinh nhân đó hỏi:" Mỗ bình sinh thờ họ Khổng làm thầy, thường bỏ điều quái mà giữ lại cái thần của nó. Thượng nhân hiểu cả chín giáo, nhìn thấu cả ba đường, có thể cho nghe chuyện Mỵ Nương ảo hóa được chăng?". Nhà sư đáp: "Xét về bản chất, con người do âm dương hợp lại thành cơ thể, trời đất hợp lại thành dáng hình. Khi khí tụ lại thì động đậy mà sinh thành, khi khí tan ra thì tiêu đi mà giải thoát. Song có lúc oan khiên uất kết thì khí này bàng bạc, lẩn quất mãi không tiêu tan, sau nhiều tháng năm hóa thành yêu quái". Vậy thì "ảo" nghĩa là không có thực tính, như hoa trong gương, trăng dưới nước; và "hóa" nghĩa là biến hóa, nhờ vào sức mạnh thần thông.

Đặt vào lĩnh vực tiểu thuyết, "ảo hóa" có thể hiểu như "thần tự" hoặc "truyền thần". Câu chuyện cũng như nhân vật trong tiểu thuyết không cứ phải là người thực việc thực, thậm chí không đòi hỏi mọi chi tiết đều phải phù hợp với thực tế, nhưng lại khả dĩ gây xúc động mạnh ở người đọc, làm cho họ cảm thấy chân thật, đáng tin, từ đó hưởng thụ cái đẹp của văn học, cái đẹp tìm thấy trong ý cảnh, chứ không phải qua hình tích. Về điểm này, Tương Giang Mai Cát Phủ đã có những ý kiến rất hay khi nói tới cách đọc tiểu thuyết: "Xem tiểu thuyết, phải thực sự để tâm vào sách mới gọi là biết xem. Đại phàm các cuốn "bái quan dã sử" xưa nay phần nhiều do các bậc tài hoa sáng tác. Có kẻ nhàn rỗi không biết làm gì, bèn rong chơi nơi bút mực. Có người tài cao nhưng chẳng gặp thời , đành lưu lạc giang hồ, bất đắc dĩ phải mượn chuyện "Ô Hữu Tiên Sinh" (chuyện hư cấu) để bộc bạch sự nghiệp hoàng lương. Cũng có kẻ nói toàn chuyện hiếm thấy, cốt biểu tỏ tài năng lỗi lạc của mình. Lại có người dùng những lời lẽ mà người nghe đến phát rợn, nhằm làm vơi nỗi bất bình tức uất của bản thân.Cho nên không nhất thiết phải có một nhân vật đích thực như thế, một câu chuyện đích thực như thế. Vậy mà trang giấy cứ lâm ly, ngòi bút cứ thổn thức; con người ấy, sự việc ấy, tình cảnh cứ hệt như thật, khiến người xem xúc động, tinh thần được cổ vũ, tưởng chừng như gặp Tiêu Lang, Tống Ngọc chốn thần giao, vào quán Sở lầu Tần nơi cõi mộng. Rồi bỗng dưng mà tới, bỗng dưng mà đi. Hiện hữu ư ? Không hiện hữu ư ? Chân thật ư ? Hư cấu ư ? Mắt xem đến đâu lòng hiểu đến đấy, bất cần phải phân biệt đâu là có, đâu là không, đâu là thật, đâu là giả. Sáng tác mà được như vậy, phải nói là trong văn có tranh vẽ; người đọc mà thấy được điều đó, cũng tựa thể trong mắt có ngọc châu". (Đào hoa mộng ký, Q2, Tổng luận).

Từ đoạn văn trên có thể rút ra mấy ý chính:

- Đặc trưng mang tính thể loại của tiểu thuyết là hư cấu.

- Nhưng sự hư cấu này vẫn có khả năng đạt tới một sự thật thật hơn cả sự thật ngoài đời.

- Chính cái " thật hơn" đó, cái thật mang tính nghệ thuật qua sự trừu tượng hóa, khái quát hóa... của tiểu thuyết, đã có sức mạnh truyền cảm, chinh phục trái tim và khối óc của người đọc.

- Người biết đọc tiểu thuyết là người tìm thấy cái mà tác giả muốn trao gửi, tức là "tâm", chứ không phải là phương tiện trao gửi, tức "văn chương".

Việc "ảo hóa" trong tiểu thuyết, đặc biệt là ở tiểu thuyết truyền kỳ, chí quái... thực chất là quá trình làm cho cái thực trở nên hư và cái hư trở nên thực.

"Thực trở nên hư" như các truyện Lý Ông Trọng, Trương Hống, Trương Hát (Việt điện u linh), Họ Hồng Bàng, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không (Lĩnh Nam chích quái), Từ Thức lấy vợ tiên (Truyền kỳ mạn lục), Công chúa Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ cổ lục), thầy địa lý Tả Ao (Tang thương ngẫu lục), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tế Văn hầu Nguyễn Trãi (Nam Thiên trân dị tập) v.v. Trong các truyện này, nhân vật lịch sử đã được thần kỳ hóa, huyền thoại hóa hoặc toàn bộ, hoặc một phần.

"Hư trở nên thực" như phần lớn các truyện về yêu quái (Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, Thử tinh, hồn ma, yêu quái...) và thế giới siêu nhiên (Thiên Đình, Địa Ngục, Thủy Phủ, Long Cung, Bồng Lai tiên cảnh...) trong Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục, Tân truyền kỳ lục, Truyền kỳ tân phả, Truyện ký trích lục, Thánh Tông di thảo, Vân nang tiểu sử, Điểu thám kỳ án, Nam Thiên trân dị tập.v.v.

3. "Thủ tượng", "đàm huyền" hay cách tạo ra hai lớp nghĩa trong mỗi một câu chuyện.

Trong nhóm tiểu thuyết thứ hai, đặc biệt là truyền kỳ, chí quái, tác giả thường tạo ra ở câu chuyện hai lớp nghĩa: một lớp nghĩa cụ thể trên bề mặt và một lớp nghĩa trừu tượng dưới đáy sâu. Nếu từ lớp nghĩa cụ thể (do tác phẩm cung cấp) đi tới lớp nghĩa trừu tượng (do độc giả khám phá) thì đó phương pháp "thủ tượng", mượn chuyện vật để nói chuyện người, mượn chuyện đời để nói chuyện đạo, "dĩ phác thích huyền", lấy cái thô mộc để giải thích lẽ huyền diệu, mang tính chất "ngụ ngôn". Nếu từ lớp nghĩa trừu tượng (do tác phẩm cung cấp) đi tới lớp nghĩa cụ thể (do độc giả phát hiện) thì đó là phương pháp "đàm huyền", dùng triết lý trừu tượng để khái quát các sự việc cụ thể.

Trường hợp "thủ tượng" như Bần gia nghĩa khuyển truyện trong Tân truyền kỳ lục ,hay Phú cái truyện trong Thánh Tông di thảo chẳng hạn.

Ở Bần gia nghĩa khuyển truyện, bên cạnh truyện con chó có nghĩa được phản ánh qua tác phẩm, ta còn thấy một thứ "ý tại ngôn ngoại" qua bản thông điệp văn chương mà tác giả muốn trao gửi đến người đọc: Thật xấu hổ biết bao nếu "người" lại không bằng "vật" ! Con chó kia còn biết sống có nghĩa với ông chủ nghèo của nó, huống chi con người mang danh là "linh hơn vạn vật", nỡ lòng nào khi đất nước yên vui thì nịnh bợ cầu cạnh, lúc xảy ra biến cố thì trở mặt đổi lời, bán nước mưu sinh !

Ở Phú cái truyện, đằng sau chuyện mụ ăn mày lắm của mà xóm giềng không ai ngờ tới... do tác phẩm kể lại, ta còn thấy ẩn dấu một nghịch lý khó bề giải tỏ: "Mụ này do nghề hành khất mà giàu, hay đã giàu mà còn đi hành khất ? Nhưng có ai đã giàu mà còn đi hành khất, hoặc cứ phải hành khất rồi mới giàu ? (...). Còn như lũ người làng đã chẳng giúp đỡ khi mụ còn sống, lại còn rủ nhau đến hôi của khi mụ chết, thật là vô sỉ trong đám vô sỉ, ăn mày trong đám ăn mày !". Từ đó có thể thấy chân lý ở đời như rốn biển mò kim, không dễ gì nắm bắt, và đấy chính là lớp nghĩa thứ hai của tác phẩm.

Thuộc trường hợp "đàm huyền", ta có thể đọc đoạn văn vấn đáp sau đây trong Đào hoa mộng ký:

"Hỏi: Trăm hoa đều có thần. Kỹ nữ dưới Cửu Tuyền nếu quả biết điều đó, thì hoa nào lại không ký thác được tinh phách, nơi nào mà không gửi gắm được u linh, lại chỉ thấy chọn ở hoa đào, lại chỉ thấy chọn ở vườn đào ?

Đáp: Hoa đào là thứ hoa mệnh bạc. Các kỹ nữ lầu xanh lúc sống thì phần nhiều mang phận đào hoa, khi chết thì phần nhiều gửi gắm hồn thiêng không mai một ở hoa đào. Đào hoa và kỹ nữ đối với nhau thật chung thủy. Thơ Đường có câu:

Tiểu đào hoa nhiễu Tiết Đào phần

ý nói hoa đào nhỏ lượn quanh ngôi mộ nàng Tiết Đào là như vậy. Lan Nương kiếp trước là Thúy Kiều, một kỹ nữ lầu xanh. Sách có câu: "Tính nết tụ tập theo chủng loại, sinh vật phân chia theo đàn bầy". Cho nên anh linh của kỹ nữ cũng nương náu ở vườn đào để gửi gắm sự giao cảm về thanh khí. Vì là thể phách của kỹ nữ lầu xanh trong kiếp trước, nên tụ tập ở vườn đào cũng là của kỹ nữ lầu xanh trong kiếp trước.

Cho dù hoa đào trong vườn này có tự nở tự tàn, cho dù Lan Nương bản thân có một đời tài sắc, thụ hưởng cuộc sống phong lưu chăng nữa, nếu không bày ra ở mộng, không thể hiện ở lời nói, thì liệu ai biết, ai tin, ai nêu cao, ai truyền tụng việc hoa thần kia chính là kỹ nữ, Lan Nương kia chính là Thúy Kiều, kể cả cái lẽ "thiện thì hưởng phúc, dâm thì mắc họa" của tạo vật và lòng kiên trinh trong trắng của Thúy Kiều ?

Chỉ nhờ thể phách của kỹ nữ trong kiếp trước tụ tập ở khu vườn cũng của kỹ nữ trong kiếp trước, lại nhiều lần hiện ra trong mộng, nhiều lần ký thác ở lời nói, mà nghiệp chướng luân hồi của hoa thần và Lan Nương, cùng cái lẽ "thiện thì hưởng phúc, dâm thì mắc họa" của tạo vật và lòng kiên trinh trong trắng của Thúy Kiều mới được sáng tỏ qua mộng mị nói năng..."

Trong đoạn trích dẫn trên, các mệnh đề "tính nết tụ tập theo chủng loại, sinh vật phân chia theo đàn bầy" (Kinh Dịch, Hệ từ: Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân); "Thanh khí" (Kinh Dịch, Càn, Văn ngôn: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu); "thiện thì hưởng phúc, dâm thì mắc họa" (Tích thiện dư khương, tích ác dư ương"... là thuộc lớp nghĩa thứ nhất, và phần còn lại trong đoạn trích như trăm hoa, kỹ nữ, Lan Nương, Thúy Kiều... là thuộc về lớp nghĩa thứ hai.

"Thủ tượng" và "đàm huyền" đều có tác dụng góp phần phát huy trí tưởng tượng của người đọc; làm cho mỹ cảm văn học không bị cắt xén, manh mún; dựa vào trực quan, trực giác, nhưng cũng có sự chế ước của lý tính ở tầng sâu...

Ngoài các đặc điểm nghệ thuật dành riêng cho từng nhóm tiểu thuyết trên đây, còn có thể nói thêm rằng ngay từ đầu, tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đã trở thành trung tâm thu hút nhiều thể loại văn học khác.

Trước hết là các thể loại thông dụng trong xã hội như thơ (cổ thi, luật thi), từ, phú, câu đối, văn tế, minh văn, bi ký, thư độc (thư, khải, tiên, giản, trát, thiếp)... trong đó thơ chiếm số lượng nhiều nhất. Thậm chí có truyện viết ra dường như để tác giả có dịp trổ tài thơ, chẳng hạn Truyền kỳ mạn lục, Thượng Kinh ký sự, Hoa viên kỳ ngộ tập, Việt Nam kỳ phùng sự lục, Vân Cát thần nữ cổ lục v.v.

Tiếp đến là các công văn hành chính như chiếu lệnh (sách, chế, sắc, cáo, dụ, chỉ), tấu, sớ, lộ bố, hịch văn... được sử dụng nhiều nhất ở tiểu thuyết lịch sử như Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam xuân thu v.v.

Thứ ba là một số thể loại văn học như ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, dã sử... cũng thường thấy xuất hiện trong các tiểu thuyết bút ký hoặc tiểu thuyết chương hồi.

Thứ tư là loại văn lý luận phê bình như tổng bình, phê ngữ... cũng thất xuất hiện không ít trong các tác phẩm như Truyền kỳ mạn lục (cuối truyện), Lan Trì kiến văn lục (cuối truyện), Tân truyền kỳ lục (cuối truyện), Thánh Tông di thảo (cuối truyện), Vân nang tiểu sử (cuối truyện), Nam Thiên trân dị tập (đầu truyện), Việt Lam xuân thu (xen kẽ trong văn bản) v.v.

Cuối cùng, và đây cũng là hiện tượng khá độc đáo trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam: thơ Nôm lục bát và thơ Hán lục bát cũng lọt được vào trong tiểu thuyết.

Trường hợp đầu xảy ra ở Đào hoa mộng ký. Có thể dẫn ra đây một đoạn thơ lục bát bằng chữ Nôm trong tác phẩm làm thí dụ:

Hơi sương lạnh lẽo đêm xuân,
Năm canh giá lọt mấy lần chăn loan.
Thiu thiu giấc gối trong màn,
Bâng khuâng hồn bướm tầm ngàn động hoa.
Lạ lùng phong cảnh Nam Kha,
Nhác trông thấy lũ kiều nga mấy người.
(Đào hoa mộng ký, Hồi thứ 2)

Trường hợp thứ hai như ở Thánh Tông di thảo, với bài thơ lục bát bằng chữ Hán:

Tư quân như thiết như tha,
Thức hà khả khiết, ma hà khả lân.
Thiết tha tâm bội tư quân,
Như sơn dũ tuấn, như vân dũ trường.
Gia nương y ngã gia nương,
Kim khuê tâm loạn, tha hương thần trì.
Hồ nhiên sử ngã tâm bi,
Ngọa thì bất thuỵ, thực thì bất cam.
Đông tiêu hạ nhật nan kham,
Sáp thời bất kiến, thu tam tình nùng.
Biệt ly oán ngã thiên công,
Du ngư vô tín, quy hồng vô thư.
Du du cẩn nhất niên dư,
Khuê thâm dạ tĩnh, vấn cừ như ti.
Cổ lai đa vị tình si !
(Thánh Tông di thảo, Thử tinh truyện)

Việc các thể loại văn học khác gia nhập vào thể tiểu thuyết hay đúng hơn, chính tiểu thuyết đã tiểu thuyết hóa các thể loại văn học khác cho thấy sức mạnh và tiền đồ phát triển rộng lớn của bản thân tiểu thuyết, với tư cách là một thể loại văn học sinh sau đẻ muộn trong các thể loại văn học cổ Việt Nam.

T.N

CHÚ THÍCH

(1) Xem Trần Nghĩa: Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân loại, TCHN Số 3 - 1997.

(2) Qua bài thơ Tán Giác Hải Thiền sư, Thông Huyền Đạo nhân của Lý Nhân Tông sau đây ta có thể thấy cả Phật lẫn Lão đều được triều đình hồi bấy giờ xem trọng: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền, Thần thông kiêm biến hóa, nhất Phật nhất thần tiên = Giác Hải lòng như biển, Thông Huyền đạo lại huyền, Thần thông và biến hóa, Một Phật một thần tiên".

(3) Chẳng hạn nhà Nho Trương Hán Siêu trong bài Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp ký và bài Khai Nghiêm tự bi ký từng chửi đạo Phật rất khoẻ. ấy thế mà khi về già, lại bẽn lẽn bước vào cửa Phật, hẳn không phải để trốn đời, mà có lẽ vì đến bấy giờ, vị quan Thái phó đã hồi hưu này mới cảm thấy đạo Thích có khả năng thỏa mãn được trí tuệ nhiều hơn là đạo Khổng.

(4) Luận ngữ, Tử hãn: "Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ = Người có trí không bị mê hoặc, người có nhân không phải lo lắng, người dũng cảm không sợ hãi". Luận ngữ, Hiến vấn: "Quân tử đạo giả tam (...): nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ = Đạo quân tử có ba (...): có lòng nhân thì không lo lắng, có tài trí thì không bị mê hoặc, có lòng dũng cảm thì không sợ hãi".

(5) Còn đọc là "huyễn hóa".

TB

VỀ CÁC VĂN BẢN
THIÊN NAM NGỮ LỤC HIỆN CÒN

NGUYỄN THỊ LÂM.

Thiên Nam ngữ lục (TNNL) thực ra có tên gọi là "Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ" gồm 2 quyển. Nhưng xét thấy chỉ có quyển đầu chép phần lịch sử ngoại kỉ mà phần lớn bắt nguồn từ các dã sử, truyền thuyết, còn quyển sau chép lịch sử bản kỷ nước nhà mà gọi là "Ngoại kỷ" thì không ổn nên người ta đã lược bớt hai chữ "ngoại kỷ" đi mà gọi là TNNL. Như vậy vừa gọn vừa đúng với sự thực hơn. TNNL là một tác phẩm đồ sộ nhất trong số những tác phẩm được viết bằng chữ Nôm mà ta còn bảo lưu được. Nội dung sách diễn ca lịch sử Việt Nam từ Kinh Dương Vương đến Lê Trung hưng. Từ lâu, tác phẩm này đã được giới nghiên cứu quan tâm, khai thác về các giá trị lịch sử, văn học nghệ thuật... Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin nêu lên một số vấn đề về các văn bản hiện có, một khía cạnh không thể không lưu ý tới trong quá trình nghiên cứu tác phẩm.

Cách đây ngót 40 năm, trong công trình "TNNL" bằng quốc ngữ(1), hai học giả Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh đã giới thiệu 3 dị bản chữ Nôm mang các ký hiệu AB.478, AB.192 và AB.315. Hiện nay, 3 văn bản đó đang được lưu giữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã phát hiện thêm 3 dị bản nữa có ký hiệu AB.573, AB.308, AB.337. Hiện trạng các văn bản ấy như sau:

1. Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ, AB.478, gồm 2 quyển đóng rời. Quyển đầu 58 tờ, quyển sau từ tờ 59 đến tờ 134, chữ viết tương đối đều đặn và sắc nét trên khổ giấy 30 x 17 cm, mỗi tờ viết hai mặt, mỗi mặt 8 dòng, chất giấy đã sờn cũ. Toàn bộ số tờ được tu bổ bằng cách lồng vào giữa mỗi tờ là một tờ giấy bản, ép cứng. Sách có mục lục, tựa. Nội dung diễn ca lịch sử Việt Nam từ Kinh Dương Vương đến đời Lê Trung hưng như đã nêu.

2. Thiên Nam ngữ ngoại kỷ, AB.192 gồm 2 quyển Thượng và Hạ đóng chung. Sách không có mục lục, tựa. Quyển thượng 79 tờ, quyển Hạ 112 tờ, mỗi tờ chép hai mặt, mỗi mặt 9 dòng. Chữ viết thô trên giấy bản dày và còn mới, khổ 30 x 21cm. Nội dung về cơ bản giống như bản trên, nhưng xét về chi tiết thì cũng có ít nhiều dị biệt. Chẳng hạn, ngay sau câu 3.506, trước câu 3.507 của bản AB.478, bản này có thêm một đoạn dài đến 22 câu(2)..., nhưng lại thiếu đi một số bài thơ đề vịnh. Chúng tôi nghĩ bản này có thể được sao chép từ một bản cũ khác với bản AB.478 mà hiện nay không còn, hoặc cũng có thể được chép ra từ chính bản ấy, nhưng có thêm bớt sửa chữa. Cuối sách có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan.

3. Nam sử diễn ca, AB.573. Sách không có quyển Thượng, gồm 67 tờ, chữ viết khá đều đặn trên giấy khổ 31 x 21cm, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 9 dòng. Nội dung: diễn ca lịch sử Việt Nam từ nhà Đinh đến Lê Trung hưng, nhưng so với quyển Hạ ở hai bản trên, bản này chép thiếu 31 câu cuối.

4. Việt sử quốc âm, AB.308. Sách không có quyển Thượng, gồm 67 tờ, chữ viết thô trên giấy khổ 31 x 21cm. Nội dung: diễn ca lịch sử Việt Nam từ nhà Đinh đến Lê Trung hưng một cách đầy đủ như trong quyển Hạ của các bản AB.478, AB.192. Trên văn bản vẫn còn nhiều dấu vết chấm câu hoặc chữa chữ nọ bằng chữ kia ở ngay bên cạnh.

5. Thiên Nam quốc ngữ lục ký, AB.315. Sách không có quyển Thượng, gồm 61 tờ, chữ viết tương đối đều trên giấy khổ 31 x 12 cm mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 9 dòng. Nội dung: diễn ca lịch sử Việt Nam từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thần Tông. Mở đầu mỗi triều đại có một đoạn tóm tắt bằng chữ Hán viết thu nhỏ lại. Cuối sách chép ngọc phả Thiền sư Nguyễn Minh Không và các bài phú Hồng nhan bạc mệnh, Hàn vương tôn...

6. Nam Thiên quốc ngữ thực lục, AB.337. Sách không có quyển Thượng, gồm 58 tờ, chữ xấu trên giấy khổ 26 x 18 cm. Hình thức và nội dung giống như bản AB.315 vừa kể trên. Nhưng phải nói rằng bản này và bản AB.315 chép sót rất nhiều, ngay từ Lý Thái Tổ đến Lý Thần Tông đã bỏ đi một đoạn dài 294 câu(3). Chúng tôi nghĩ các bản này có thể là do trường Viễn đông Bác cổ thuê chép về sau.

Như vậy cho đến nay, chúng ta có cả thảy 6 dị bản TNNL. Hầu hết các văn bản này đều không ghi niên đại, tác giả, tên người sao chép hoặc nơi tàng trữ... Điều này đã gây không ít khó khăn, phức tạp trong quá trình nghiên cứu tác phẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện chúng ta chưa tìm thấy một văn bản nào có niên đại gần với thời điểm ra đời của tác phẩm thì đó vẫn là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu, tìm hiểu TNNL. Nếu căn cứ vào hình thức văn bản và các đặc điểm về ngôn ngữ văn tự, chúng tôi cho rằng bản có ký hiệu AB.478 là cổ nhất và cũng là bản có nội dung đầy đủ hơn cả. Còn các bản khác tuy được sao chép về sau nhưng cũng là những tài liệu tham khảo đáng quý. Nhưng xét trong văn bản vừa nêu cũng còn một số vấn đề cần phải làm sáng tỏ. Dưới đây chúng tôi xin đi vào chi tiết.

Trước hết xin nói về cơ cấu của sách. Phần đầu là bản Mục lục dài 15 trang có tựa đề: Việt Nam sử ký niên mục lục chia làm 2 phần. Phần "Ngoại kỷ" gồm các thời: Kinh Dương Vương; Hùng Vương; Kỷ thuộc Tây Hán; Kỷ họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân, An Dương Vương, Trưng Nữ Vương; Kỷ Tiền Lý, Triệu Việt Vương, Kỷ thuộc Tuỳ Đường; Kỷ thuộc Nam Bắc phân tranh; Kỷ họ Ngô; Kỷ nhà Đinh. Phần Bản kỷ gồm các thời: Kỷ nhà Lê (Tiền Lê), Kỷ nhà Lý, Kỷ nhà Trần, Phụ chép về Hồ Quý Ly, Kỷ Hậu Trần, Kỷ thuộc Minh, Kỷ nhà Lê. Đối với từng triều đại đều ghi rõ tên, niên hiệu, thời gian trị vì của mỗi ông vua.

Sang phần nội dung có dòng chữ "TNNL ngoại kỷ quyển". Sau đó sách không chia làm hai phần như bản Mục lục vừa kể trên mà diễn ca lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Lý ông Trọng, An Dương Vương, Triệu Đà, Hai Bà Trưng, phụ chép truyện các Thái thú nhà Hán, truyện Sĩ Vương, Kỷ Tiền Lý Nam Đế, Cao Biền, Mai Hắc Đế, Kỷ họ Phùng, Kỷ họ Khúc, Kỷ họ Ngô, Kỷ nhà Đinh, Kỷ nhà Lê (Tiền Lê), Kỷ nhà Lý, Kỷ nhà Trần, Hồ Quý Ly, nhà Hậu Trần, Kỷ nhà Lê. Tất cả gồm 8.136 câu thơ lục bát, không kể trên 30 bài thơ vừa Hán vừa Nôm.

Chỉ cần so sánh hai phần thống kê trên đây, ta cũng đã thấy có ít nhiều dị đồng. Nhất là trong kỷ nhà Lê, Mục lục chép rất kỹ từ Lê Thái Tổ đến Lê Chiêu Thống gồm 26 đời vua, trong khi phần nội dung sách chỉ diễn ca lịch sử nước nhà từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hậu Trần đúng như tác phẩm đã ghi:

Tự Kinh Dương mở càn khôn,
Trải xem đến nhẫn cháu con nhà Trần.

Còn đoạn về nhà Lê chỉ kể lướt qua từ Lê Lợi đến mấy năm đầu đời Lê Trung hưng, không đi sâu vào một chi tiết cụ thể nào và chủ yếu là để tán tụng công đức họ Trịnh, có thể xem như phần kết luận. Những điều vừa nêu trên cho phép chúng ta nghĩ rằng Mục lục này là của một cuốn sách sử như tựa đề đã nêu, không phải của TNNL. Cuối sách có bài tựa Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự cũng không nằm trong TNNL mà là bài tựa của sách Đại Việt sử ký tiệp lục làm vào đời Nguyễn(3). Như vậy, ở đây chỉ có phần nội dung viết bằng chữ Nôm là thực sự của TNNL mà thôi. Việc chép chung những tác phẩm khác nhau vào cùng một cuốn sách chép tay không phải là một điều hiếm thấy trong kho sách Hán Nôm cũ. Bởi đã sát nhập Mục lục này vào TNNL nên ông Nguyễn Văn Tố trong bài Một bài thơ cổ về Bà Trưng (Báo Tri Tân số 38) có viết: "Sách viết bằng chữ Nôm, thuật truyện từ đời Kinh Dương Vương đến năm Chiêu Thống Đinh Mùi (1.787)..." Ông cũng chỉ rõ đó là bản chép tay mang ký hiệu AB.478 mà ta đang bàn tới. Gần đây, trong bộ Di sản Hán Nôm - thư mục đề yếu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) trong khi giới thiệu sách TNNL cũng ghi rằng: "Diễn ca, thể 6-8 lịch sử Việt Nam từ Kinh Dương Vương đến Lê Chiêu Thống" (quyển 3, tr.230). Nếu quả như vậy thì TNNL tất phải làm ít ra là vào cuối thế kỉ XVIII ? Ai cũng biết thế kỷ XVIII trong lịch sử Việt Nam đã diễn ra rất nhiều sự kiện trọng đại: phong trào nông dân nổ ra rầm rộ với các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu... Rồi cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại, cuộc đại thắng 20 vạn quân Thanh do vua Quang Trung lãnh đạo... Tất cả những sự kiện ấy đều không thấy nhắc đến trong TNNL. Một người yêu lịch sử và văn học dân tộc đến mức bỏ công phu diễn ca thành một tác phẩm dài đến hơn 8000 câu thì không thể không ghi chép, phản ánh các sự kiện mà nó đã xảy ra trong lịch sử. Do đó TNNL phải là một tác phẩm viết ra vào cuối thế kỉ XVII là thời kỳ mà chế độ Lê Trịnh sau những năm loạn lạc, chiến tranh đã đi vào một thời kì tạm ổn định. Một cách cụ thể hơn, các nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh đã cho rằng TNNL được viết vào thời kỳ Trịnh Căn ở ngôi chúa (1682 - 1709). Chứng cứ là khi nói về Trịnh Căn tác giả không gọi bằng miếu hiệu như Trịnh Tạc mà gọi bằng chức vị khi còn sống: "Nay đức Thống đại khí cương..." "Thống đại" là chữ viết tắt của chức" Đại nguyên súy thống quốc chính" mà Trịnh Căn được gia phong vào năm 1685. Như vậy TNNL chắc chắn phải xuất hiện từ năm 1685 trở về sau và muộn nhất thì cũng chỉ vào khoảng mấy năm đầu của thế kỷ XVIII. Nhận định như vậy theo chúng tôi là xác đáng.

Bây giờ, chúng ta thử xem xét tác phẩm dưới góc độ ngôn ngữ văn tự. Nếu đem so sánh trong mối tương quan giữa các văn bản đã nêu trên đây thì trong khá nhiều trường hợp, bản AB.478 có cách ghi cổ hơn các bản khác, xin nêu một số ví dụ:

Bảng trên cho ta thấy cách ghi trong văn bản AB.478 còn lưu lại khá nhiều dấu vết phản ánh các nhóm phụ âm bl, kl, khl... trong tiếng Việt cổ thường bắt gặp trong các tác phẩm Nôm đời Lê như Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Chỉ nam ngọc âm... trong khi các văn bản khác lại phản ánh cách phát âm thay đổi về sau. Nghiên cứu sự diễn biến của các hình thức văn tự như trên sẽ góp phần vào việc tìm hiểu lịch sử phát triển của chữ Nôm. Một đặc điểm nữa cũng dễ nhận thấy là bản AB.478 thường sử dụng nhiều từ cổ so với các bản khác như mựa - chớ, dái - sợ, la đá - đá... mà hiện nay không còn dùng nữa hoặc rất ít dùng. Các dạng từ này cũng phần nào phản ánh những đặc trưng về từ vựng, ngữ nghĩa của TNNL.

Tóm lại, có thể nghĩ rằng phần chữ Nôm trong văn bản AB.478 được sao chép từ một văn bản khá cổ và người sao chép đã tỏ ra trung thành với văn bản được sao chép. Vậy văn bản mang đậm dấu ấn đời Lê này được sao chép trong khoảng thời gian nào ? Căn cứ đoạn cuối sách có bản kê niên hiệu các vua đến cuối Bảo Hưng (Tây Sơn) nên cũng có khả năng là văn bản được sao chép vào lúc này. Hơn nữa, trong văn bản không tìm thấy những chữ viết kiêng húy mà theo chúng ta biết thì "Triều Tây Sơn không quy định viết kiêng húy, hầu hết các thư tịch, bi ký triều Tây Sơn không có chữ viết kiêng húy"(4). Hoặc chậm một chút thì có thể nó được sao chép vào những năm đầu niên hiệu Gia Long, khi mà "lệ kiêng húy mới được khôi phục và quy định chưa chặt chẽ, thì trên một số văn bản trong thời gian này có tình trạng không viết kiêng húy"(5).

Từ những kết quả khảo sát bước đầu về văn bản TNNL đã trình bày trên đây, chúng tôi mong rằng sẽ đem lại đôi điều bổ ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu một tác phẩm Nôm tiêu biểu ở giai đoạn thế kỷ XVI - XVII của nền văn học nước nhà(5).

N.T.L
5 - 1997

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh: Thiên Nam ngữ lục - Nxb. Văn hóa 1958.

(2) Để tránh cho bài viết đỡ rườm rà, chúng tôi xin miễn dẫn ra ở đây.

(3) Theo Nguyễn Lưong Ngọc và Đinh Gia Khánh, Sđd, tr.35.

(4) Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm - Tóm tắt luận án PTS. khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1995, tr.14.

(5) Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, tập I, tr.55.

TB

TƯ LIỆU VĂN KHẮC HÁN NÔM
THỜI LÊ THÁNH TÔNG

TRỊNH KHẮC MẠNH

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau 10 năm (1416 - 1427) chiến đấu bền bỉ, gian khổ và ngoan cường đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Với thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, nạn ngoại xâm hoàn toàn bị đánh bại, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để củng cố nền độc lập và đẩy mạnh công cuộc xây dựng quốc gia Đại Việt. Lê Lợi - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lên ngôi vua và sáng lập ra triều Lê. Thời kỳ đầu đời Lê, khoảng từ thế kỷ XV đến XVI, chế độ phong kiến tập quyền nhà Lê đã trải qua những bước phát triển mạnh mẽ và thu được những thành quả nhất định trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là vào nửa sau thế kỷ XV dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497).

Lê Thánh Tông sinh năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) và mất năm Đinh Tỵ, niên hiệu Hồng Đức 28 (1497). Ông có tên là Tư Thành còn có tên là Hiệu, hiệu là Thiên Nam Động Chủ, còn có hiệu nữa là Đạo Am Chủ Nhân và ông là con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông. Tháng 6 năm Canh Thìn (1460), Hoàng tử Tư Thành được quần thần ủng hộ đưa vào cung rồi lập làm vua và ông bắt đầu sự nghiệp trị vì đất nước của mình. Lê Tư Thành ở ngôi vua 38 năm (1460 - 1497), mười năm đầu ông lấy niên hiệu là Quang Thuận, 28 năm tiếp theo lấy niên hiệu là Hồng Đức và ông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Trong thời gian trị vì đất nước, với tài năng và đức độ của mình, Lê Thánh Tông đã thực hiện nhiều cải cách trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật... và đã xây dựng quốc gia Đại Việt trở thành một nước vững mạnh vào loại bậc nhất trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến Việt nam. Phan Huy Chú đã nhận xét "Về trị nước thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, khôi phục và mở mang bờ cõi, văn võ tài lược hơn cả các đời. (Người ta) cho chính trị thời Hồng Đức là rất thịnh"(1).

Để có thêm tư liệu khi nghiên cứu về Lê Thánh Tông nói riêng và thời Lê Thánh Tông nói chung, chúng tôi xin giới thiệu các tài liệu văn khắc Hán Nôm của thời kỳ này hiện đang lưu trữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm để chúng ta cùng tham khảo.

Tại kho tư liệu của Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện có 35 tên đơn vị tài liệu văn khắc Hán Nôm thời Lê Thánh Tông, trong đó của chính tác giả Lê Thánh Tông là 7 đơn vị tài liệu. Số lượng tài liệu hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm chắc rằng chẳng thấm vào đâu, nếu so với số lượng tài liệu văn khắc thời Lê Thánh Tông hiện còn đang lưu tồn ở các địa phương mà chúng ta chưa có điều kiện sưu tầm về được, nhưng đây cũng là những tài liệu hữu ích đáng quan tâm và giới thiệu.

* Những văn bản của Lê Thánh Tông

1. Quang Khánh tự bi, N.11766

- Bia tạo năm Quang Thuận 6 (1465), đặt ở chùa Quang Khánh, xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Bia 1 mặt, khổ 36 x 68cm, không có hoa văn trang trí.

- Bia khắc bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông theo thể Đường luật thất ngôn bát cú. Nội dung bài thơ ca ngợi cảnh trí thiên nhiên khu chùa Quang Khánh.

2. Thiên Nam Động Chủ lưu đề, N.7968

- Bia tạo năm Quang Thuận 8 (1467), đặt ở chùa Long Sơn, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Bia 1 mặt, khổ 162 x 209cm, khắc rồng mặt trời và hoa lá.

- Bia khắc lời đề dẫn và bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, nội dung bài thơ phê phán vua tôi nhà Lý mê tín dị đoan và than thở cảnh chùa trước sự tàn phá của giặc Minh.

3. Đề Long Quang Động, N.17345 và 297.

- Bia tạo năm Hồng Đức 9 (1478), khắc trên vách đá động Long Quang, xã Võng Châu, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bia khổ 79 x 127cm, xung quanh khắc hoa lá.

- Bia khắc lời đề dẫn và bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông theo thể Đường luật thất ngôn bát cú. Nội dung lời đề dẫn cho biết, Lê Thánh Tông trên đường bái yết Sơn Lăng về qua động Long Quang, thấy cảnh đẹp bèn bỏ thuyền lên thăm động, tức cảnh làm bài thơ ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ u tịch tựa tiên giới của động này.

4. Đề Hồ Công động, N.20965

- Bia tạo năm Hồng Đức 9 (l478), khắc trên vách đá động Hồ Công, núi Xuân Đài, xã Thiên Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Bia khổ 76 x 135cm, xung quanh có khắc hoa lá.

- Bia khắc lời đề dẫn và bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông theo thể Đường luật thất ngôn bát cú. Nội dung lời đề dẫn cho biết, khi Lê Thánh Tông đi thuyền về Lam Kinh, ghé thăm dạo chơi động Hồ Công, ngẫu hứng đề thơ miêu tả cảnh hùng vĩ của động và núi Xuân Đài.

5. Hồng Đức nhị thập lục niên, N.10523 - 10.525 (1a).

- Bia tạo năm Hồng Đức 26 (1495), đặt ở đình xã Trung Bản, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Bia 3 mặt, 2 mặt cùng khổ 30 x 50cm và 1 mặt khổ 12 x 50cm, không có hoa văn trang trí.

- Bia khắc 2 sắc chỉ của Lê Thánh Tông ban vào năm Hồng Đức 2 (1471) và năm Hồng Đức 20 (1489) về việc đo đạc cấp đất cho các xã: Vị Dương, Phong Lưu, Lương Quĩ và Hải Mặc thuộc huyện Yên Hưng.

6. Hồng Đức nhị thập lục niên, N.10526 - 10528 (1b).

- Bia tạo năm Hồng Đức 26 (1495)(2), đặt ở đình xã Hà Nam, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Bia 3 mặt, 2 mặt cùng khổ 31 x 42cm và 1 mặt khổ 12 x 42cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia khắc 2 sắc chỉ của Lê Thánh Tông ban vào năm Hồng Đức 24 (1493) và năm Hồng Đức 25 (1494) về việc đo đạc cấp đất cho dân các xã Vị Dương, Phong Lưu và Lương Quĩ thuộc huyện Yên Hưng.

7. Ngự đề Quang Khánh tự N.11705.

- Bia tạo năm Bính Ngọ (1486), đặt ở chùa Quang Khánh, xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Bia 1 mặt, khổ 36 x 68cm, không có hoa văn.

- Bia khắc bài thơ chữ Nôm thất ngôn bát cú của Lê Thánh Tông(2) ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh đẹp chùa Quang Khánh.

* Những văn bản thời Lê Thánh Tông

1. Quang tổ di huấn, N. 30452

- Tạo năm Quang Thuận 3 (1462), đặt tại nhà thờ họ Nguyễn, xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bia 1 mặt, khổ 78 x 105cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia ghi tiểu sử, hành trạng của Cương quốc công Nguyễn Xí và di huấn của ông.

2. Thái sư Cương quốc công bi ký, N.30454

- Bia tạo năm Quang Thuận 8 (1467), văn bia do Nguyễn Trực soạn. Bia đặt tại nhà thờ họ Nguyễn, xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bia 1 mặt, khổ 95 x 150cm, có khắc mặt trời, rồng, mây và hoa xung quanh.

- Bia ghi tiểu sử và hành trạng của Cương quốc công Nguyễn Xí đời Lê.

3. Phúc Thắng tự bi, N.18185 - 18186.

- Bia tạo năm Hồng Đức 1 (1470), văn bia do Vũ Quang Tuấn soạn. Bia đặt ở chùa Phúc Thắng, xã Thúy Lai, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bia 2 mặt đều khổ 66 x 102 cm, có khắc rồng mặt trời và hoa lá.

- Bia ghi công đức những người đã cúng ruộng cho chùa.

4. Thiện sĩ tạo kiều bi ký, N.17641

- Bia tạo năm Hồng Đức 2 (1471), đặt ở đình xã Thọ Lão, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Bia 1 mặt khổ 65 x 115cm, có khắc mặt trời, rồng và hoa lá.

- Bia ghi việc Hội chủ xã Thọ Lão quyên góp tiền để dựng cầu.

5. Quận Thượng chúa Lê thị mộ chí, N.11302 - 11305.

- Bia tạo năm Hồng Đức 2 (1471), văn bia do Nguyễn Trực soạn. Bia đặt ở mộ Quận chúa họ Lê xã Trung Giám, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Bia 2 mặt, khổ 4 x 27cm và 44 x 73cm, có khắc hoa lá.

- Bia ca ngợi đức, tài Quận Thượng chúa Lê Quỳnh Cư.

6. Tự điền bi ký, N.3382 - 3383.

- Bia tạo năm Hồng Đức 2 (1471), đặt ở xã La Uyên, huyện Thư Tài (nay thuộc Vũ Thư), tỉnh Thái Bình. Bia 2 mặt cùng khổ 56 x 94cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia nói về ý nghĩa của việc cúng ruộng vào chùa.

7. Yên Mô xã đình bi ký, N.9524- 9525

- Bia tạo năm Hồng Đức 3 (1472), đặt ở đình xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Bia 2 mặt, khổ 34 x 60cm và 40 x 81cm, có khắc mặt trời, mây, hoa lá.

- Bia ghi việc huyện Sơn Minh đắp đê qua 2 xã Yên Mô và Yên Diên đã chiếm một số ruộng, có ghi rõ số ruộng bị đê chiếm.

8. Đam Khê xã lộ bàng bi, N. 6275

- Bia tạo năm Hồng Đức 3 (1472), đặt ở thôn Nội, xã Đam Khê, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Bia 1 mặt, khổ 35 x 66cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Ghi địa giới thôn Nội, xã Đam Khê.

9. Phụng tự bi ký, N.7134.

- Bia tạo năm Hồng Đức 4 (l473), đặt ở đình giáp Đoài, xã Cam Thịnh, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây). Bia 1 mặt, khổ 35 x 62cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia ghi thân thế, sự nghiệp của Phùng Hưng.

10. Diên Khánh tự bi ký, N.4486

- Bia tạo năm Hồng Đức 4 (1473), đặt ở chùa Diên Khánh, thôn Môn Sỉ, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình (nay là Gia Lương), tỉnh Bắc Ninh. Bia 1 mặt, khổ 65 x 92cm; có khắc rồng, mặt trời và hoa lá.

- Bia ghi công đức vợ chồng ông họ Dương và bà họ Nguyễn đã cúng ruộng vào chùa để gửi giỗ.

11. Đê lộ bi ký, N. 20161.

- Bia tạo năm Hồng Đức 5 (1474), dựng ở ngoài cánh đồng xã Phù Sa Thượng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Bia 1 mặt, khổ 38 x 71 cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia ghi việc huyện Yên Mô đắp đê chạy qua xã Phù Sa Thượng đã chiếm một số ruộng, có ghi cụ thể số ruộng bị chiếm.

12. Từ Mẫn Mỹ công kị thất Hoàng thị chi mộ, N.22155 - 22156

- Bia dựng năm Hồng Đức Giáp Thìn (1484), văn bia do Lương Thế Vinh soạn. Bia đặt tại nhà thờ họ Nguyễn thôn Kim Đôi, xã Kim Chân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Bia 2 mặt, cùng khổ 51 x 78 cm, không khắc hoa văn trang trí.

- Bia ghi sự tích và công đức, cùng các ngày giỗ của dòng họ Hoàng ở thôn Kim Đôi.

13. Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, N. 1358.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Thân Nhân Trung soạn. Bia đặt tại Văn Miếu Quốc tử Giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 102 x 147cm, khắc mặt trời, mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) và ghi rõ họ tên, quê quán của 33 người thi đỗ Tiến sĩ khoa này.

14. Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký, N. 1323.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Đỗ Nhuận soạn. Bia đặt tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Bia một mặt, khổ 102 x 149cm, có khắc mặt trời mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà 6 (1448) và ghi rõ họ tên, quê quán của 27 người thi đỗ Tiến sĩ khoa này.

15. Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký, N. 1349.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Đào Cử soạn. Bia đặt tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 82 x 146 cm, có khắc mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) và ghi rõ họ tên, quê quán của 44 người đỗ Tiến sĩ khoa này.

16. Quang Thuận thất niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, N.1316.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Lê Văn Đỗ soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 110 x 154 cm, có khắc mặt trời mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận 7 (1466) và ghi rõ họ tên, quê quán 27 người đỗ Tiến sĩ khoa này.

17. Hồng Đức lục niên ất Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký, N. 1353.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Lê Ngạn Tuấn soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 103 x 140cm, có khắc mặt trời mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 6 và ghi rõ họ tên, quê quán của 43 vị Tiến sĩ đỗ khoa này.

18. Hồng Đức cửu niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, N. 1313.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Nguyễn Đôn Phục soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Bia 1 mặt khổ 106 x 14cm, có khắc mặt trời, mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức (1478) và ghi rõ họ tên, quê quán của 62 người đỗ Tiến sĩ khoa này.

19. Hồng Đức thập nhị niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký, N.1350.

- Bia tạo năm Hồng Đức 15 (1484), văn bia do Nguyễn Xung Xác soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà nội. Bia 1 mặt, khổ 100 x 138cm, có khắc mặt trời, mây và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) và ghi rõ họ tên, quê quán 40 người thi đỗ Tiến sĩ khoa này.

20. Thọ An cung Kính phi Nguyễn thị thần đạo bi, N. 1921.

- Bia tạo năm Hồng Đức 16 (1485), văn bia do Lương Thế Vinh soạn. Bia đặt tại xã Lư Khánh, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bia 1 mặt khổ 137 x 190cm, có khắc chim phượng, hoa lá.

- Bia ghi thân thế và công đức bà Kính phi họ Nguyễn.

21. Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký, N.1361.

- Bia tạo năm Hồng Đức 18 (1487), văn bia do Thân Nhân Trung soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 110 x 150cm, có khắc rồng, mặt trời và hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487) và ghi quê quán, tên tuổi của 60 người thi đỗ Tiến sĩ khoa này.

22. Phật, N. 7208

- Bia tạo năm Hồng Đức 18 (1487), đặt tại chùa Thiên Phúc, xã Trạch Lôi, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Thạch Thất, Hà Tây). Bia 1 mặt, khổ 51 x 78cm, có khắc hoa lá.

- Bia ghi công đức gia đình ông Nguyễn Liên, vợ là Nguyễn Thị Tứ đã cúng chùa 3 thửa ruộng tốt.

23. Trăn Tân từ lệ bi, N. 6370 - 6371.

- Bia tạo năm Hồng Đức 18 (1487), văn bia do Nguyễn Đình Thuấn soạn. Bia đặt tại đền Trăn Tân, xã Phúc Thọ,huyện Lương Tài (nay thuộc Gia Lương), tỉnh Bắc Ninh. Bia 2 mặt, khổ đều 41 x 75cm, có khắc mặt trời, mây và hoa lá.

- Bia ghi những nghi thức tế thần trong ngày hội rước thần vào tháng 4 hàng năm của các xã thờ miếu thần Trăn Tân.

24. Phật pháp tam bảo, N.4579

- Bia tạo năm Hồng Đức 21 (1490), đặt tại chùa Đại Bi, xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình (nay thuộc Gia Lương), tỉnh Bắc Ninh. Bia 1 mặt, khổ 68 x 112cm, có khắc mặt trời và hoa lá.

- Bia ghi lai lịch chùa Đại Bi và quá trình trùng tu chùa của các thiện nam tín nữ bản xã.

25. Chuyết Sơn tự Di Đà Phật bi, N. 9571 - 9572.

- Bia tạo năm Hồng Đức 22 (1491), đặt tại chùa Chuyết Sơn, xã Kinh Lương, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An (nay thuộc ngoại thành Hải Phòng). Bia 2 mặt, cùng khổ 57 x 80 cm, có chạm mặt trời mây và hoa lá.

- Bia ghi lai lịch chùa Chuyết Sơn và việc các thiện nam tín nữ bản xã bỏ tiền ra để tô tạo tượng Phật.

26. Đại Việt Đường Vương thần đạo bi, N. 17931.

- Bia tạo năm Hồng Đức 23 (1492), đặt tại mộ Đường Vương, xã Yên Lạc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bia 1 mặt, khổ 125 x 190cm, có khắc mặt trời và hoa lá.

- Bia ghi tiểu sử và húy hiệu Đường Vương, con trai của vua Lê Thánh Tông và mẹ là bà Tuyên Khiết họ Nguyễn.

27. Đại Việt Thụy Hoa công chúa thần đạo bi, N. 1920.

- Bia tạo năm Hồng Đức 25 (1494), văn bia do Nguyễn Xung Xác soạn. Bia đặt tại lăng Công chúa Thụy Hoa, xã Quang Thí, huyện Thụy Nguyên (nay là Thọ Xuân), tỉnh Thanh Hóa. Bia 1 mặt khổ 119 x 180cm, có khắc mặt trời, mây và hoa lá.

- Bia ghi tiểu sử công chúa Thuỵ Hoa, húy là Minh Hạc, con gái của vua Lê Thánh Tông và mẹ là bà Kính phi họ Nguyễn.

28. Hồng Đức nhị thập thất niên Bính Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký, N.1310.

- Bia tạo năm Hồng Đức 27 (1496), văn bia do Lưu Hưng Hiếu soạn. Bia đặt tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Bia 1 mặt, khổ 100 x 155cm, có khắc hoa lá.

- Bia ghi việc mở khoa thi năm Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức 27 (1496) và quê quán, họ tên của 30 người thi đỗ Tiến sĩ khoa này.

* Những thông tin giá trị

Một điều dễ nhận biết về giá trị của các tư liệu văn khắc Hán Nôm thời Lê Thánh Tông, đó là sự phong phú về thể loại văn học và giá trị nội dung văn bản khi nghiên cứu con người, sự nghiệp vua Lê Thánh Tông và các lĩnh vực, như: văn học, sử học, giáo dục, và đào tạo, kinh tế... của thời kỳ này.

Đặc điểm khá nổi bật là thơ văn của Lê Thánh Tông được khắc khá nhiều, chiếm 1/4 số tài liệu văn khắc Hán Nôm của thời kỳ này hiện có ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và chủ yếu lại là khắc thơ. Đó là những bài thơ ca ngợi phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, tươi đẹp của đất nước Đại Việt. Lê Thánh Tông đi khá nhiều nơi, thăm nhiều danh lam thắng cảnh của Tổ quốc, thường để lại những kỷ niệm thơ khắc trên các sườn núi, trong các hang động hay chép trong các thư tịch thể hiện tình cảm của mình đối với non sông đất nước; có thể kể như: chùa Quang Khánh, chùa Trấn Quốc, chùa Long Sơn trên núi Long Đọi, núi Song Ngư, núi Phật Tích, núi Dục Thúy, động Hồ Công, động Long Quang sông Bạch Đằng, sông Tam Kỳ...

Vào thời kỳ nhà Lê trị vì, chữ Hán vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế và các vua quan nhà Lê luôn tôn sùng "chữ của thánh hiền", coi thường chữ Nôm. Tuy nhiên, nền văn học Nôm vẫn không ngừng phát triển, Lê Thánh Tông lại là một trong những người đã vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Hồng Đức quốc âm thi tập của ông và một số bề tôi là một trong những tập thơ chữ Nôm có giá trị được lưu truyền đến ngày nay và bài thơ chữ Nôm Ngự đề Quang Khánh tự của ông, có lẽ cũng là bài thơ Nôm sớm nhất được khắc vào bia đá hiện tìm thấy:

Dắng dõi chào ai tiếng pháp chung,
Ngang đây thoát lộ trạnh bên dòng.
Trừng thanh lẻo lẻo trần hiu quạnh,
Gác thắm làu làu ngọc giá đông.
Sực nức đưa hoa hương mượn gió,
Líu lo chào khách vẹt thay đồng.
Như đoàn tự đắc ngao du đấy,
Cho biết cơ màu vẫn chẳng vong.

Văn miếu Quốc tử giám (Hà Nội) ngày nay được nhiều nhà khoa học chú ý, nhiều công trình nghiên cứu giới thiệu, nhiều khách tham quan trong và ngoài nước tới thăm. Một mặt vì đây được coi là trường đại học đầu tiên ở nước ta được xây dựng vào thời Lý (năm 1070) với lối kiến trúc cổ kính, cùng nhiều di vật cổ quý hiếm. Mặt khác nơi đây còn nổi lên những hàng bia Tiến sĩ trang nghiêm, tuyệt tác, ghi lại các kỳ thi đại khoa trong khoảng thời gian từ năm 1442 (đời Lê Thái Tông) đến năm 1779 (đời Lê Hiển Tông), mà Lê Thánh Tông là người khởi xướng việc dựng bia Tiến sĩ và từ đó trở thành lệ. Tại Văn miếu Quốc tử giám hiện có 10 tấm bia Tiến sĩ được dựng vào thời Lê Thánh Tông.

Thời Lê Thánh Tông, sự nghiệp giáo dục con người, đào tạo nhân tài rất chú trọng và rất chính quy. Khoa cử được coi là con đường chính để lựa chọn nhân tài cho quốc gia và đào tạo hệ thống quan lại cho chính quyền phong kiến. Thời kỳ này tầng lớp Nho sĩ được đề cao, các kỳ thi được quảng cáo với lễ xướng danh, lễ vinh qui và khắc bia Tiến sĩ. Việc khắc tên tuổi quê quán những người thi đỗ Tiến sĩ vào bia đá có một ý nghĩa xã hội lớn lao và mối quan hệ gắn bó với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước. Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) đời vua Lê Thái Tông mở khoa thi chọn được 33 người đỗ Tiến sĩ; nhưng phải đợi đến năm Hồng Đức 15 (1484) đời vua Lê Thánh Tông, nghĩa là sau 42 năm mới có lệ dựng bia Tiến sĩ và bài văn bia này ghi rõ: "Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám nảy sinh như vậy được ? Thế thì việc dựng tấm bia này ích lợi rất nhiều, kẻ ác lấy đó làm răn, người tốt theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn dũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nước nhà. Đặt ra đâu phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu sâu ý này". Bài văn Tiến sĩ khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) cũng chỉ rõ: "Kẻ sĩ may mắn được khắc tên vào bia đá, cố nhiên phải làm sao cho " thực" xứng với "danh", rèn dũa đức hạnh... không phụ chí lớn phò vua giúp dân thường ngày, để lại vinh dự khôn cùng, tiếng thơm muôn thuở, khiến cho người đời sau xem bia này chỉ từng tên mà nói rằng: người này tận trung với nước, người này để ơn cho dân..., như vậy thật là vinh hạnh. Nếu không người xem bia sẽ bảo rằng: đồ quanh co xằng bậy, lũ phụ bạc nhát hèn... Vậy thì việc nêu tên khắc bia không những chỉ là việc hay cho quốc gia muôn năm, mà còn là cái phúc cho con cháu đời sau".

Thời Lê sơ, Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, trước hết phải kể đến hệ thống giáo dục. Lê Quý Đôn cho biết: "Khoảng niên hiệu Hồng Đức, hàng năm ban phát sách công cho các phủ như: Tứ thư, Ngũ kinh, Ngọc Đường văn phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển, Cương mục. Học quan do đấy để dạy, khoa cử do đấy để lấy nhân tài"(4). Có thể nói một sự kiện quan trọng thể hiện sự tôn sùng Nho giáo là Lê Thánh Tông cho lập các bia Tiến sĩ ở Văn miếu Quốc tử giám với số lượng là 10 bia, nhiều bài văn bia Tiến sĩ viết thời kỳ này đã khẳng định: lấy đạo Nho làm trọng, tiến kẻ chân Nho để giúp việc bình trị. Có thể nói văn hóa chính thống của thời kỳ này là văn hóa Nho giáo, nhưng có điều cần lưu ý là văn hóa Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại ở các làng quê; điều này có thể minh chứng là văn bia ở các chùa chiền vẫn phát triển, với số lượng là 8 bia trong tổng số 35 đơn vị tài liệu của thời kỳ này.

Về công cuộc xây dựng đất nước và phát triển kinh tế, thời Lê Thánh Tông là một trong những thời kỳ thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Lê Thánh Tông đã chú trọng tới nhiều mặt nhằm thúc đẩy sản xuất và đảm bảo đời sống dân sinh như: coi trọng sản xuất nông nghiệp, khai hoang lập ấp, củng cố đê điều, quản lý đất đai, xây dựng cầu cống chợ búa. Những bài văn bia của thời kỳ này ghi chép về việc: đo đạc ruộng đất cấp cho dân chúng, đắp đê ngăn lũ lụt, phân chia địa giới đất đai, xây dựng cầu cống... Đây là những tư liệu lịch sử có giá trị góp phần nghiên cứu, lý giải công cuộc xây dựng đất nước và phát triển kinh tế thịnh trị của vua Lê Thánh Tông.

Xét về mặt thể loại, tư liệu văn khắc Hán Nôm thời Lê Thánh Tông cũng khá phong phú và đa dạng. Như chúng ta đã biết văn học Việt Nam thời kỳ này phát triển trong những điều kiện xã hội mới, khuynh hướng chính trị mới và đặc biệt là sự phát triển về thể loại văn học. Trong tổng số 35 đơn vị tài liệu văn khắc của thời kỳ này, chúng ta thấy các văn bản được thể hiện bằng các thể văn: thơ ca, văn xuôi tiểu sử, văn thư tín công văn hành chính, ký sự... Như vậy có thể nói rằng, nằm trong quỹ đạo phát triển của văn học, tư liệu văn khắc Hán Nôm thời kỳ này đã được sáng tác theo nhiều thể văn trong hệ thống thể loại văn học cổ điển Việt Nam.

Nhân kỷ niệm 500 năm mất của vua Lê Thánh Tông, một ông vua có tài kinh bang tế thế đã đưa nước Đại Việt đạt tới đỉnh cao cường thịnh ở thế kỷ XV, chúng tôi xin giới thiệu một số tư liệu văn khắc Hán Nôm ít ỏi của thời kỳ này hiện có ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm để bạn đọc cùng tham khảo và nghiên cứu khai thác.

T.K.M

CHÚ THÍCH

(l) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, Nxb. KHXH, 1992, tập I, tr. 201.

(1a), (1b) Bia nguyên không có đầu đề. Đầu đề này là do cán bộ Thư viện dựa vào mấy chữ đầu dòng thứ nhất của thác bản No.10524 và No.10527 để tạm đặt tên bia.

(2) Bia không khắc niên đại, nhưng ở bia N.10523 - 10525 ghi là năm Hồng Đức 26 (1495) có khắc 2 bia để lưu truyền về sau. Có thể bia này cùng khắc vào năm đó.

(3) Theo dòng lạc khoản của người in rập bia ghi ở bên cạnh và Thơ văn Lê Thánh Tông (Mai Xuân Hải chủ biên, Nxb. KHXH, l986, tr.95) cũng đồng ý quan điểm cho là của Lê Thánh Tông.

(4) Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb. KHXH, 1977, tr. 96.

TB

ẤN TRIỆN TRONG HỆ THỐNG LỤC BỘ THỜI NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Lục bộ gồm có 6 bộ: Hộ, Lại, Lễ, Binh, Hình, Công. Lục bộ là hệ thống quan trọng và lớn nhất trong các hệ thống cơ quan trung ương trong thời Nguyễn, do đó việc giới thiệu ấn triện ở hệ thống Lục bộ là việc làm cần thiết. Việc giới thiệu sẽ không riêng ra từng bộ mà trình bày chung để đảm bảo tính thống nhất của ấn triện trong hệ thống này.

Năm 1804 khi mới thành lập Lục bộ, Gia Long mô phỏng theo cơ cấu tổ chức tên hiệu, chức danh, phẩm trật của Lục bộ thời Lê. Đứng đầu mỗi bộ là chức Thượng thư rồi đến Tham tri, Thiêm sự, Câu kê, Thủ hợp. Thuộc viên gọi là Lệnh sử ty, Bản ty. Từ tháng 2 năm 1804 Gia Long đã đặt quốc hiệu là Việt Nam, đồng thời cho đúc ấn 6 bộ. ấn khắc 5 chữ Triện "Mỗ bộ đường chi ấn" (ví dụ ấn của bộ Lễ là "Lễ bộ đường chi ấn"). Các Kiềm ấn của mỗi bộ khắc 4 chữ Triện là "Khâm ty (bộ Mỗ) chính", riêng bộ Lễ kiềm ấn khắc 4 chữ "Khâm ty lễ điển".

Hiện nay trong Châu bản triều Gia Long còn lưu giữ một số ấn các bộ. Trong bản công văn đề niên hiệu Gia long chúng tôi đã sao lại được hình dấu của bộ Lễ. Dấu có kích thước 9,2 x 9,2cm. Viền ngoài để khuôn rộng 1cm, 5 chữ Triện bên trong xếp 3 hàng, chữ "đường" ở giữa to gấp đôi các chữ khác, là 5 chữ "Lễ bộ đường chi ấn"  (ấn của bộ Lễ)(l) (ảnh l). Dấu đóng ở đoạn chữ "nguyệt" dòng ghi niên hiệu đời Gia Long thứ 5 (1806). Mặt trước trang có dấu ghi dòng chữ Hán: "Lễ bộ Thượng thư nguyên thự Lại bộ thần Nguyễn Đăng Hưng". Đây là ấn dấu của Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Đăng Hưng, nguyên giữ chức quyền thự bộ Lại. Thực chất đây là ấn dấu của Thượng thư bộ Lễ. Thời đầu Gia Long, tổ chức Trung ương mới hình thành, số văn quan vừa có tài vừa có công trạng không nhiều, nên việc kiêm nhiệm chức vụ là việc tất yếu.

Khi mới lên ngôi, Minh Mệnh đã tiến hành cải cách chính quyền Trung ương, trong đó có Lục bộ. Đến năm 1827, tổ chức hàng ngũ lãnh đạo cấp bộ mới được hoàn thiện, chức Thượng thư và Tham tri vẫn giữ nguyên. Tiếp theo những chức cũ được thay bằng chức Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ và các Lại điển. Việc thay đổi chức vụ quan chế cấp bộ cũng dẫn đến việc thay đổi ấn triện cho từng chức vụ để phù hợp với thực tại, nhưng phải đến cuối năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), việc thay đổi ấn kiềm và cấp ấn kiềm trong cấp bộ mới được hoàn thiện.

Trong việc thay đổi ấn triện cấp bộ, thì những ấn kiềm cũ được thu hồi không dùng nữa, thay vào đó là ấn mới trang trọng hơn. ấn mới bằng bạc trắng đúc hình con kỳ lân, vuông 2 tấc 1 phân, dày 3 phân 6 ly, khuôn dấu dưới hình vuông có kích thước 9 x 9cm, khắc 4 chữ Triện "Mỗ bộ chi ấn". Như vậy chữ  "đường" trong ấn dấu cũ đã được lược bỏ đi, đồng thời đúc các kiềm bằng ngà cho Lục bộ để thay thế kiềm cũ. Kiềm mới làm theo hình tháp bằng đầu, khuôn dấu hình vuông 2,7 x 2,7cm, khắc 2 chữ Triện "Mỗ bộ". Tự dạng ở ấn lớn và kiềm nhỏ được khắc chung một kiểu chữ.

Vua Minh Mệnh rất chú trọng hệ thống Lục bộ, Thượng thư ở mỗi bộ được coi là chức quan cao nhất trong hàng ngũ văn quan, nên hình thức ấn cấp bộ được làm theo hình kì lân, chỉ sau Kim Bảo Ngọc Tỷ của Hoàng đế. ở tập "Công văn cổ chỉ" trong tờ "Tư di" (công văn chuyển đi) có hình con dấu kích thước 9 x 9cm, viền ngoài đậm 1cm, 4 chữ Triện "Hình bộ chi ấn"  (ấn của bộ Hình) khắc vuông vức. Dấu đóng trên chữ "Nguyệt" dòng ghi niên hiệu: "Minh Mệnh thập tam niên chính nguyệt thập ngũ nhật" (ngày 15 tháng Giêng năm Minh Mệnh 13 (1832). Bên cạnh là dòng chữ Hán "Thừa Thiên phủ dĩ bắc chí Hà Nội chư địa phương quan" (ảnh 2). Đây là bản công văn chuyển đi cho các quan địa phương từ phủ Thừa Thiên ra Bắc đến Hà Nội. Phần giáp trang ở phía dưới của văn bản này có hình dấu kiềm, đóng 2 chữ Triện "Hình bộ"  . Kích thước 2,7 x 2,7cm, kiểu chữ giống ấn lớn "Hình bộ chi ấn" trên. Đây là dấu kiềm của bộ Hình cùng cặp với ấn lớn, chuyên dùng đóng chỗ tẩy, xóa và nơi giáp trang trên các văn bản chữ Hán của bộ.

Bên cạnh ấn kiềm của cơ quan bộ thì từ Thượng thư trở xuống đến Tả Hữu Thị lang, Biện lí của Lục bộ đều được sử dụng ấn Quan phòng chức vụ. Năm 1820 Minh Mệnh đã cho làm Quan phòng chức vụ của Thượng thư 6 bộ, chất liệu bằng bạc, núm ấn hình sư tử, dài 9 phân, ngang 6 phân 3 ly, dày 2 phân 7 ly, dây đeo ấn màu vàng. Quan phòng của Tham tri, Thị lang, Biện lý 6 bộ chất liệu bằng ngà, núm ấn hình chuôi vồ dài 8 phân 4 ly, ngang 5 phân 4 ly.

Một số tập trong Châu bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ nhiều hình dấu Quan phòng chức vụ của Thượng thư, Tả, Hữu Tham tri, Tả, Hữu Thị lang, Biện lý ở Lục bộ và một số Quan phòng chức vụ của các quan chức khác. Những hình dấu này đóng trên tập biên bản ghi về hội nghị Công đồng(2) của triều đình Nguyễn. Hội nghị Công đồng là đại hội công nghị một tháng họp một lần 4 ngày liền, vua tham khảo ý kiến đình thần để quyết định những việc trọng đại. Biên bản ghi nội dung hội nghị, đoạn ghi ngày tháng của dòng niên hiệu được đóng ấn lớn "Công đồng chi ấn"  (ấn của Công đồng) [ấn "Công đồng chi ấn" sau được đổi làm ấn "Đình thần chi ấn"]. Dấu hình vuông kích thước 9,6 x 9,6 cm, bốn chữ Triện bên trong chia 2 hàng. Phía dưới ấn lớn là một loạt Quan phòng nhỏ đại diện cho mỗi bộ hoặc một cơ quan, binh chủng được dự họp. Trong quyển 18 - Chư bộ Nha - Minh Mệnh thứ 7 - Châu bản hiện lưu giữ nhiều hình dấu Quan phòng chức vụ của các chức quan cấp bộ.

- Dấu của Thượng thư bộ Lại có cỡ 2,5 x 3,8cm, 6 chữ Triện bên trong chia làm 3 hàng là chữ "Lại bộ Thượng thư quan phòng"  , dấu đóng dưới dòng chữ Hán "Lại bộ Thượng thư kiêm quản Tào chính sự vụ thần Trần Lợi Trinh". Đây là dấu Quan phòng của đại thần Trần Lợi Trinh" giữ chức Thượng thư bộ Lại kiêm quản Tào chính sự vụ" (ảnh 3).

- Dấu "Hình bộ Thượng thư quan phòng" đóng dưới dòng chữ: "Thự Hình bộ Thượng thư thần Hoàng Kim Xán". Đây là dấu Quan phòng của đại thần Hoàng Kim Xán giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình, dấu có kích thước bằng dấu của bộ Lại (ảnh 4).

- Dấu "Công bộ Thượng thư quan phòng" đóng dưới dòng chữ "Công bộ Thượng thư thần Trần Văn Tính". Đây là dấu Quan phòng của Thượng thư bộ Công Trần Văn Tính. Dấu có kích thước bằng hai dấu trên (ảnh 5).

- Dấu "Lễ bộ Tả tham tri quan phòng"  có kích thước 2,1 x 3,3cm đóng dưới dòng chữ "Lễ bộ Tả Tham tri thần Nguyễn Đăng Tuân". Đây là dấu Quan phòng của Nguyễn Đăng Tuân giữ chức Tả Tham tri bộ Lễ (ảnh 6).

- Dấu "Hộ bộ Hữu tham tri quan phòng"  đóng dưới dòng chữ "Thự Hộ bộ Hữu tham tri thần Hoàng Văn Diễn, có kích thước 2,1 x 3,3 cm. Đây là dấu Quan phòng của Hữu tham tri bộ Hộ Hoàng Văn Diễn (ảnh 7).

- Dấu "Công bộ Tả tham tri quan phòng"  có kích thước 2,1 x 3,3cm, đóng dưới dòng chữ "Thự Công bộ Tả tham tri thần Bùi Đức Cẩn". Là dấu Quan phòng của Bùi Đức Cẩn giữ chức quyền Tả tham tri bộ Công (ảnh 8).

- Dấu "Binh bộ Hữu tham tri quan phòng kích thước 2,1 x 3,3 cm, đóng dưới chữ "Thự Binh bộ Hữu tham tri thần Hoàng Văn Quyền". Đây là dấu Quan phòng của Hoàng Văn Quyền giữ chức quyền Hữu tham tri bộ Binh (ảnh 9).

- Dấu "Biện lý Hộ bộ quan phòng"  có kích thước 2,1 x 3,3 cm, đóng dưới dòng chữ "Cai bạ Biện lý Hộ bộ sự vụ thần Nguyễn Đức Hội". Đây là dấu Quan phòng của chức Cai bạ kiêm Biện lý sự vụ bộ Hộ tên là Nguyễn Đức Hội (ảnh 10).

- Dấu "Biện lý Binh bộ quan phòng"  có kích thước 2,1 x 3,3 cm, đóng dưới dòng chữ Cai bạ(3) Biện lý Binh bộ sự vụ thần Đặng Văn Hòa. Đây là dấu Quan phòng của chức Cai bạ kiêm Biện lý sự vụ bộ Binh tên là Đặng Văn Hòa (ảnh 11).

- Dấu "Biện lý Hình bộ quan phòng"  có kích thước 2,1 x 3,3 cm, đóng dưới dòng chữ "Hiệp trấn(4) Biện lý Hình bộ sự vụ thần Nguyễn Kim Bảng". Đây là dấu Quan phòng của Nguyễn Kim Bảng, giữ chức Hiệp trấn kiêm Biện lý sự vụ bộ Hình (ảnh 12).

- Dấu "Lại bộ Hữu thị lang Quan phòng" có kích thước 2,1 x 3,3cm, đóng dưới dòng chữ "Lại bộ Hữu thị lang thần Doãn Uẩn". Đây là dấu Quan phòng của Hữu thị lang bộ Lại Doãn Uẩn (ảnh 13).

Qua 11 hình dấu được dẫn chứng trên(5) chúng tôi thấy:

- Dấu Quan phòng chức vụ của Thượng thư các bộ có cùng kích thước, và lớn hơn ấn các chức khác.

- Người quyền thự chức, tuy văn bản có ghi rõ là Thự (Tạm quyền) nhưng ở dấu lớn vẫn giữ nguyên chính chức, không có chữ "Thự" trong dấu.

- Tỷ lệ kiêm chức ở cấp bộ tương đối nhiều như viên Thượng thư bộ Lại Trần Lợi Trinh kiêm quản cả Tào chính sự vụ.

- Thời Gia Long cho đến đầu Minh Mệnh, chức Biện lý ở các bộ đều do các chức Phó quan ở chính quyền địa phương cấp tỉnh kiêm quản, như viên Hiệp trấn Nguyễn Kim Bảng kiêm nhiệm cả chức Biện lý bộ Hình. Hai viên Biện lý ở bộ Hộ là Nguyễn Đức Hội, bộ Binh là Đặng Văn Hòa đều đương nhiệm chức Cai bạ.

Ở hệ thống Lục bộ còn một loại ấn kiềm nữa được làm ngay từ đầu đời vua Minh Mệnh. Sử cũ ghi lại "... chế tạo ấn bằng ngà dùng những lúc xuất hành cho bộ Binh, nay chuẩn cho quan Hữu tư theo kiểu mẫu chế thêm cho các bộ Lại, Hộ, Lễ, Hình, Công, mỗi bộ đều một quả ấn dùng lúc hành quân và 6 bộ đều dấu kiềm bằng ngà. Sau đây phàm ngày đi tuần hạnh, viên nào là Đường quan ở bộ nào sử dụng đi hỗ giá thì lĩnh ấn dùng đi đường, còn viên nào lưu ở bộ làm việc, vẫn giữ ấn bộ dùng thường lệ".(6)

Trong "Quyển l7, Thiệu Trị 2"(7), chúng tôi đã tìm thấy hình dấu của loại ấn này. Dấu hình vuông, kích thước 4,2 x 4,2cm, 4 chữ Triện chia 2 hạng, mỗi chữ xếp theo hình vuông l x l cm, là 4 chữ "Binh bộ hành ấn" . Dấu được đóng dưới dòng ghi niên hiệu ngày tháng, vào ngày 13 tháng 8 Thiệu Trị thứ 2 (1842) (ảnh 14)

Như vậy 5 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công đều có ấn dấu riêng cùng kích thước và kiểu loại như dấu "Binh bộ hành ấn" trên. Loại ấn này dùng khi việc hộ giá tuần hạnh xong đến ngày hồi loan, thì viên đường quan theo hộ giá ấy mang ấn kiềm này nộp cho Nội các cất đi, khi nào có việc xuất hành thì đến Nội các nhận mang theo sử dụng.

Trong hàng văn quan, Thượng thư là chức quan cao nhất, nhưng phẩm trật cũng chỉ là Chánh nhị phẩm. Triều Minh Mệnh còn đặt ra những chức hàm Đại học sĩ: Cần chánh, Đông các, Võ hiển, Văn minh và Hiệp biện đều có phẩm trật cao hơn Thượng thư. Chức Thượng thư có khi được gia phong hàm chức Đại học sĩ với trật phẩm cao nhất, thực ra đó chỉ là vinh hàm để tăng thêm uy lực của các Thượng thư, thậm chí có người kiêm nhiệm nhiều chức vụ như Trương Đăng Quế là Thượng thư bộ Binh triều Tự Đức.

Trong quyển 119 - Tự Đức, chúng tôi in lại được hình dấu của đại thần Trương Đăng Quế. Dấu hình chữ nhật có cỡ 3 x 4 cm lớn hơn dấu Thượng thư, 3 hàng 8 chữ Triện "Cần chánh điện Đại học sĩ quan phòng"  (Quan phòng của Cần chánh điện Đại học sĩ). Dấu đóng ở mấy dòng chữ Hán "Thái Bảo Cần chánh điện Đại học sĩ quản lý Binh bộ sự vụ, sung Cơ mật viện đại thần, sung Kinh diên giảng quan, kiêm lãnh Khâm thiên giám, sung Sử quán Tổng tài Tuy Thịnh Quận công thần Trương Đăng Quế". Niên đại của văn bản có hình dấu này ghi năm Tự Đức 13 (1860) - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế với chức hàm Thái bảo Cần chánh điện Đại học sĩ, là Thượng thư bộ Binh và một đại thần của viện Cơ mật, sung Kinh diên giảng quan, quản lãnh cả Khâm thiên giám và là Tổng tài của Quốc sử quán. Nhiều chức vụ như vậy, điểm nổi bật của Trương Đăng Quế là: một Đại thần với chức vụ Thượng thư bộ Binh trong giai đoạn lực lượng quân đội được coi trọng (ảnh 15).

Về chức năng của một vài bộ có liên quan đến ấn dấu, như bộ Lại gồm 5 Ty, trong đó Ty Lại ấn do các ty lần lượt phái nhân viên phụng giữ ấn của bộ, tiếp nhận chương sớ và tờ tư, trình Đường quan rồi chuyển giao cho các Ty chiếu biện, cứ 1 tháng thì hết hạn luân phiên.

Ty Lại trực  do các Ty lần lượt phái chuyên viên viết phiếu bài trình tiến và viết tinh tả phiếu nghĩ để trực hầu đóng dấu ấn vàng.

Bộ Lễ là bộ có liên hệ mật thiết nhất với Bảo tỉ của Hoàng đế và việc phong sách ấn cho Hoàng thái hậu, đến các vương công Hoàng tộc và các loại hình ấn triện khác. Các định lệ về việc đúc vàng, chế tạo các ấn kiềm, ấn Quan phòng, Đồ ký, Kiềm ký và Triện đều do bộ Lễ phân chia từng loại tâu lên, nhà vua phê chuẩn rồi tư cho các nơi thi hành. Sử cũ còn ghi: "phàm khi có đúc ấn bằng bạc, Quan phòng bằng bạc, ấn đồng, Quan phòng, Ký triện bằng đồng, hoặc khi chế Quan phòng bằng ngà, Ký triện bằng gỗ, bộ Lễ tư cho Hữu ty theo đúng kiểu thức mà chế tạo. Chế xong bộ trình lên giao cho Nội các cất giữ đợi ban cấp. Nếu lâu ngày bị hao mòn, tùy theo ấn đó bằng bạc, đồng hay ngà, căn cứ khai báo, bộ tâu xin cấp thay con dấu khác... Nếu là ấn gỗ thì ở Kinh đô ngành văn do bộ Lại, ngành võ do bộ Binh, ở ngoài do quan Thượng ty các hạt theo y thể thức chế ra mà cấp và thu hồi tiêu huỷ ấn cũ, không cần tâu xin"(9).

Chú thích:

(1) Hình dấu này in ở quyển 2 - Gia Long - l8 trang 259 - Châu bản.

(2) Hội nghị Công đồng được lập từ năm 1787 với tên gọi Sở công đồng, dùng ấn "Công đồng chi ấn". Đến năm Minh Mệnh 16 (1835) đổi làm hội nghị Đình thần với tổ chức như cũ. ấn "Đình thần chi ấn" được làm ra thay cho ấn Công đồng.

(3) Cai bạ: thời Gia Long và đầu Minh Mệnh, đứng đầu mỗi doanh (tức tỉnh sau này) là một Lưu thủ, có các chức Cai bạ, Ký lục phụ tá. Cai bạ chính là chức phó doanh.

(4) Hiệp trấn: thời Gia Long và đầu Minh Mệnh, đứng đầu mỗi trấn (tức tỉnh sau này) là một Trấn thủ, có các Hiệp trấn, Tham hiệp phụ tá. Hiệp trấn chính là chức Phó trấn.

(5) Tất cả những dấu trên ở trang 16, 17, 18 quyển 18 Minh Mệnh 7 Châu bản.

(6) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ - Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, trang.304.

(7) Quyển 17, Thiệu Trị 2, tr.23, Châu bản.

(8) Quyển 119, Tự Đức 13, Châu bản.

(9) Đại Nam hội điển toát yếu và quan chế đời Minh Mệnh, Ký hiệu LA.13. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ngô Thế Long dịch.

TB

ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÉP TỈNH LƯỢC TRONG NGỮ PHÁP THƠ ĐƯỜNG LUẬT

NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

Bài này khảo sát một đặc điểm của ngữ pháp thơ Đường luật (kể cả luật thi và tuyệt cú): phép tỉnh lược một số thành phần câu, chủ yếu là đại từ nhân xưng làm chủ ngữ và giới từ xác định không, thời gian.

Không kể trong ngôn ngữ giao tiếp, ngay trong ngôn ngữ văn học, sự tỉnh lược cũng là hiện tượng thường thấy. Chẳng hạn như trong văn ngôn:

Cư hữu khoảnh, ỷ trụ đàn kỳ kiếm, ca viết...
Cư hữu khoảnh, phục đàn kỳ giáp, ca viết...

(Được ít lâu [Phùng Huyên] dựa cột gõ nhịp vào thanh kiếm mà hát...
Được ít lâu lại gõ nhịp vào áo giáp mà hát...)
(Chiến quốc sách - Phùng Huyên khách Mạnh Thường Quân)

Trong thơ Trung Quốc trước Đường, hiện tượng này cũng không hiếm. Ví dụ:

Đối tửu đương ca,
Nhân sinh kỷ hà.

(Ngồi trước chén rượu mà hát,
Cuộc đời người được là mấy)

Ở đây chủ ngữ đã bị tỉnh lược.

Trong thơ ca hành cổ phong đời Đường, ta cũng thường thấy hiện tượng này. Như trong bài Hành lộ nan của Lý Bạch, cả 12 câu không hề có chủ ngữ nhân xưng.

Nhưng chỉ trong thơ Đường luật, sự vắng mặt của đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất mới trở thành đặc trưng ngữ pháp của thể loại.

Trong cuốn Thơ Đường tập I (Nxb. Văn học. H. 1987) tuyển 200 bài thơ, có 100 bài luật thi và tuyệt cú với 960 câu thơ thì chỉ có 3 lần chữ “tôi” (dư, ngã) xuất hiện với tư cách chủ ngữ. Riêng chữ “tha” (nó) thì hoàn toàn vắng mặt.

Sự tỉnh lược cũng diễn ra đối với giới từ hạn định không, thời gian (tại, ư, tự, tùng, hướng, dĩ, đương) nhất là khi danh từ chỉ không gian, thời gian đứng ở đầu câu.

Để tìm hiểu đặc điểm của phép tỉnh lược đại từ nhân xưng và giới từ, chúng ta thử phân tích một vài ví dụ:

Ba Lăng nhất vọng Động Đình thu,
Nhật kiến cô phong thủy thượng phù.
Văn đạo thần tiên bất khả tiếp,
Tâm tùy hồ thủy cộng du du.
(Trương Duyệt - Tống Lương Lục)

(Ba Lăng trông ra mùa thu hồ Động Đình,
Ngày thấy ngọn núi trơ vơ nổi trên mặt nước.
Nghe nói có thần tiên (trên đỉnh núi đó) mà không được gặp,
Lòng cứ man mác theo nước hồ mênh mông.)

Trong bài thơ 4 câu này, cả 4 câu đều có hiện tượng tỉnh lược. Ba câu trước tỉnh lược đại từ nhân xưng làm chủ ngữ và là câu không có chủ ngữ. Câu thứ tư có chủ ngữ (tâm) nhưng cũng đã được lược bớt chữ “ngã”. Như vậy cả bốn chữ “ngã” đáng ra phải có đều bị tỉnh lược.

Riêng trong hai câu đầu còn có hiện tượng tỉnh lược giới từ. Câu thứ nhất bớt đi giới từ hạn định không gian. Đáng ra phải nói: “ Từ Ba Lăng tôi nhìn ra mùa thu Động Đình”. Đã lược bớt chủ nghĩa nhân xưng, lại lược bớt cả giới từ hạn định không gian, khiến cho trên hình thức ngữ pháp, nếu không có một sự “ngầm hiểu” thì có thể xác định “Ba Lăng” (danh từ) đã giữ vai trò chủ ngữ, và câu thơ có thể được hiểu là:

Ba Lăng ngắm mùa thu hồ Động Đình

(Không gian ngắm thời gian).

Câu thứ hai lại lược bớt giới từ hạn định thời gian. Người đọc “ngầm hiểu” tác giả nói rằng “Vào ban ngày tôi nhìn thấy ngọn núi trơ vơ nổi trên mặt nước”; nhưng thực tế hình thức câu thơ lại nói “Ban ngày thấy ngọn núi...” cũng có thể hiểu là “mặt trời thấy ngọn núi...” vì chữ “nhật” có hai nghĩa, một là danh từ chỉ thời gian (ban ngày), một là danh từ chỉ thiên thể (mặt trời). Do không có giới từ hạn định nên danh từ “Nhật” đứng tự do và có thể đóng vai trò chủ ngữ.

Ban ngày thấy ngọn núi...

(Thời gian thấy không gian)

Tựa đề bài thơ là Tống Lương Lục nhưng trong bài thơ cả “tôi” và “Lương Lục” đều không xuất hiện. “Tôi” (người tiễn) và “Lương Lục” (người được tiễn) đều được ẩn đi để cho không gian ngắm thời gian và thời gian ngắm không gian, để cho “vũ”(không gian) và “trụ” (thời gian) ngắm nhìn nhau.

Tương truyền rằng trên quả núi trong hồ Động Đình có tiên ở nhưng chẳng bao giờ được gặp. Bạn về ẩn ở hồ Động Đình phải chăng cũng như tiên ấy, chẳng bao giờ được gặp, chỉ còn một vũ trụ (không thời gian) lưu luyến ngắm nhìn nhau. Cho nên đến cả con “tâm”, nó là của “tôi” đấy (hay cũng có thể là của bạn đấy) nhưng tôi không mang tư cách “sở hữu chủ” mà thả cho nó man mác theo nước hồ mênh mang. Trái tim ấy không là của riêng ai nên cũng có thể là của tất cả. “Tôi” và Lương Lục,và tất cả những ai trong cảnh sinh ly đều tan biến, chan hoà đồng nhất với vũ trụ.

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
(Vương Xương Linh - Phù dung lâu tống Tân Tiệm)

(Mưa lạnh tràn sông đêm vào đất Ngô,
Ban mai tiễn khách núi Sở trơ vơ.
Bạn bè ở Lạc Dương nếu có hỏi,
[Thì thưa hộ rằng tôi] vẫn một mảnh lòng băng trong bình ngọc)

Bốn câu thơ chỉ có một câu thứ ba có chủ ngữ (thân hữu) còn ba câu 1,2,4 chủ ngữ đều ẩn.

Chủ ngữ vắng mặt mà những từ chỉ thời gian và không gian (dạ, bình minh) thì được tự do không bị giới từ hạn định, nên về ngữ pháp chúng có thể “lâm thời” giữ vai trò chủ ngữ của câu. Đề bài thơ “Phù dung lâu tống Tân Tiệm” nhưng trong bài thơ cả “tôi” (Vương Xương Linh) và Tân Tiệm đều vắng mặt, chỉ còn lại mưa đêm, núi sớm và một trái tim trong sạch trong bình ngọc giữa mưa đêm núi sớm. Con người chung thủy, tự tin và tin cậy trao trái tim cho bè bạn. Có một sự tương giao thâm thiết giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người - con người được đồng nhất với vũ trụ.

Ta thử lấy thêm một ví dụ ở thể bát cú.

Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tí hàn.
Hà thời ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can.
(Đỗ Phủ - Nguyệt dạ)

(Vầng trăng Phu Châu đêm nay,
Trong phòng khuê chỉ một mình đang ngắm.
Xa thương các con còn bé dại,
Chưa biết nhớ Trường An.
Sương móc thơm mái tóc mây đẫm ướt,
ánh trăng trong cánh tay ngọc giá lạnh.
Bao giờ tựa bên rèm cửa mỏng,
[Trăng] soi chung ngấn lệ ráo khô.)

Toàn bài có 8 câu thơ, gồm 5 câu ngữ pháp, nhưng chỉ hai câu có chủ ngữ (tóc mây đẫm ướt, tay ngọc giá lạnh) và tuyệt nhiên không có chủ ngữ nhân xưng.

Tựa đề bài thơ là Nguyệt dạ (Đêm trăng) và cả bài thơ tràn ngập trăng đêm. Một vầng “nguyệt” xuất hiện ở câu 1, xuyên suốt bài thơ, “chiếu” tận 8 câu, tạo nên một sự “nhất khí”. Vầng trăng trong sáng là nhân chứng thầm lặng cho nỗi niềm thương nhớ của hai vợ chồng trong cảnh sinh ly thời loạn lạc, và hy vọng chiếu sáng ngấn lệ ráo khô ngày sum họp.

Bài thơ không có chủ ngữ nhân xưng, chỉ có nhãn tự “ức” (nhớ) thao thức dưới vầng trăng. Mà chữ “nhớ” lại diễn ra dưới thức phủ định “Xa thương các con còn bé dại chưa biết nhớ Trường An”. Nhưng chính thức phủ định này làm nỗi nhớ càng được thể hiện sâu sắc.

Khi nỗi thương nhớ thật sâu nặng, đến mức có một sự cảm ứng về tâm hồn, người ta hiểu mình thương nhớ đang nhớ thương một mình. Đỗ thương nhớ vợ con nhưng chỉ nói thương con chưa biết nhớ (cha) lại càng chưa biết mẹ đang nhớ (cha). Chữ “nhớ” bị phủ định lại cuộn lên, thành một “nhãn tự” thao thức dưới đêm trăng. Nỗi nhớ trở thành hạt nhân, thành chủ thể và là chủ đề của bài thơ.

Những bài thơ hay nhất của Đường thi dường “vô ngã". Như trong trường hợp Nguyệt dạ có thể nói sự “vô ngã” đã đạt đến trình độ thượng thừa.

Nỗi thương nhớ vì sinh ly tử biệt trong chiến tranh là phổ biến là của tất cả mọi người. Hiệu quả thẩm mỹ của bài thơ một phần rất lớn là nhờ sự tỉnh lược chủ ngữ nhân xưng.

Ta có thể phân tích tác dụng của sự tỉnh lược chủ ngữ nhân xưng và giới từ hạn định không - thời gian ở hầu hết các bài thơ Đường luật (kể cả thơ Việt Nam làm theo thể Đường luật), vì hầu hết bài thơ nào cũng có hiện tượng này. Đây là một đặc trưng thi pháp thể loại.

Phép tỉnh lược song hành này đã đưa đến cảm nhận của người đọc một bức tranh tâm trạng mà ở đó con người được đồng nhất, hoà tan vào trong thiên nhiên, vũ trụ và khiến cho bài thơ thẩm thấu một cách tự nhiên vào trong tâm người đọc. Điều mà tác giả tỉnh lược, được người đọc tái hiện, ngầm hiểu. Cái “tôi” của nhà thơ không xuất hiện trực tiếp, nó được đặt ra ngoài ngôn ngữ (tại ngôn ngoại), chỉ có cái thần của nó thấm đượm vào tứ thơ. Theo cách diễn đạt của Lão Tử thì đây là hiện tượng “ngoại kỳ thân nhi thân tồn”.

Không có “tôi”, “nó” vì “tôi”, “nó” cơ hồ đã thống nhất. Bài thơ không chỉ là của riêng “tôi” (tác giả) mà cũng là của “anh” (người đọc). Cho nên đến lượt “tôi” (người đọc) tiếp nhận bài thơ cũng như thể đang cùng “anh” (tác giả) “đối diện đàm tâm” thì “đắc ý vong ngôn” (được ý quên lời) là tất yếu.

Phép tỉnh lược của thơ Đường luật chính là một cách “vong ngôn” để “đắc ý”, đồng nhất chủ thể với khách thể để “thi thành thảo thụ giai thiên cổ”. Có lẽ đây là một bí quyết làm nên sức hấp dẫn của thơ Đường.

N.T.B.H
8.1997

TB

NGUYỄN HÀNH VÀ TẬP
QUAN ĐÔNG HẢI

NGUYỄN NGỌC NHUẬN

Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền cho biết: Thi hào Nguyễn Du có một người cháu ruột là Nguyễn Hành, cả hai chú cháu đều nằm trong số 5 nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ, còn gọi là "An Nam ngũ tuyệt". Từ năm 1962, khi biên soạn cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam(l), các ông Trần Văn Giáp, Tạ Phong Châu, Nguyễn Tường Phượng... đã xác định: "Nguyễn Hành là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh, là cháu Nguyễn Khản, đậu Tiến sĩ đời Lê. Không biết ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông có tiếng hay chữ, văn chương có tư tưởng ưu thời mẫn thế và nhớ nhà Lê. Tác phẩm có: Quan Hải tập, Minh Quyên tập; Thiên địa nhân vật sự ký.

Sau đó, trong bộ Từ điển văn học, Nxb. KHXH Hà Nội, 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc đã cho biết khá đầy đủ về cuộc đời cũng như sự nghiệp của Nguyễn Hành: Ông sinh năm 1771, mất năm 1824, "tên là Đạm, tự là Tử Kính, hiệu Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam hay Nhật Nam. Là con của Nguyễn Điều, cháu Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, gọi đại thi hào Nguyễn Du là chú ruột, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh (...). Về sáng tác, ông còn để lại hai tập thơ là: Quan Đông Hải (A.1530) và Minh Quyên thi tập (VH.109) tất cả đều viết bằng chữ Hán..."

Về tác phẩm Quan Đông Hải trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 3 bản viết tay, mang các ký hiệu A.1530, VHv.1444, VHv.81. Riêng bản mang kí hiệu VHv.81 có tựa đề là Quan Hải Đông. "Quan Hải Đông" có nghĩa là "Ngắm miền Hải Đông". Hải Đông là tên một phủ thuộc vùng duyên hải phía bắc, tương đương với tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Thời Nguyễn Hành, vùng này được gọi là phủ Hải Đông, đến đời Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) đổi làm phủ Hải Ninh(2). Xét trong tiểu sử và những sự kiện liên quan đến cuộc đời tác giả thì vùng đất Hải Đông rất xa lạ vói Nguyễn Hành. Có lẽ người sao chép đã ghi nhầm tên sách của Nguyễn Hành là Quan Đông Hải thành Quan Hải Đông. Cũng vì thế các ông Trần Văn Giáp, Tạ Phong Châu... đã ghi tên sách là Quan Hải tập.

Xét về nội dung của 3 văn bản A.1530, VHv.1444, VHv.81, ta thấy chúng tương tự nhau, có lẽ được chép ra từ một bản gốc. Quan Đông Hải không chỉ là một tập thơ, xen kẽ thơ còn có những bài tựa như: Vô ẩn lục tự, Lạc sinh tâm đắc tập tự ... Những bài bạt như: Đồng xuân ngẫu ký, Nam song ký... Hay những bài phú như: Loạn thế độc thư cao phú, Đạo ngộ Bái công phú...

"Quan Đông Hải" có nghĩa là "ngắm biển Đông". Mỗi con người đứng trước biển, đều cảm nhận được sự kỳ vĩ của biển cả, từ đó họ suy ngẫm về xã hội, về "bản ngã" của mình. Họ tìm đến được giới hạn của điều đúng sai, phải trái. ở đây với tác phẩm Quan Đông Hải, chúng ta có thể hiểu được Nguyễn Hành dưới nhiều giác độ tình cảm, tư tưởng khác nhau.

Là một nhà Nho, mang nặng tấm lòng hoài cổ, trong tâm thức Nguyễn Hành luôn hướng về nhà Lê. Ông cho rằng mình "sinh chẳng gặp thời, trôi giạt theo chiều gió". ở bài thơ đầu tiên trong tập thơ Quan Đông Hải, Nguyễn Hành đã bày tỏ tâm sự này của mình như sau:

Phiên âm:

Nghĩ cổ nhất thủ
Cô phượng minh trung thiên,
âm hưởng nhất hà bi !
Phù vân tiền trí từ,
Vấn ngã nhất hà chi ?
Đan Huyệt hàm tinh đức,
Ngũ sắc sinh quang huy.
Thương tai ! Thời bất đáng,
Phiêu bạc tùy phong phi.
Hải thủy hạo mang mang,
Giai nhân đắc sở y....

Dịch nghĩa:

Bài thơ bắt chước lối cổ
Chim phượng lẻ kêu lưng trời,
Tiếng kêu nghe sao mà buồn thảm thế !
Một đám mây bay vật vờ,
Đến trước mặt hỏi ta: bây giờ đi đâu ?
Có sẵn tinh hoa của nơi Đan Huyệt,
Đủ năm màu văn vẻ rực rỡ(3)
Xót thay ! Sinh chẳng gặp thời,
Trôi giạt bay theo chiều gió.
Bể cả rộng mênh mông,
Khách giai nhân đã có nơi nương tựa...

Trong một bài thơ, bài dẫn khác viết về "Thúy ái phu nhân" tác giả đã hết lời ca ngợi vợ chồng Quản Tiến Trạch đội Ngô công. Chồng là viên tướng của triều Lê Cảnh Hưng, đã tử trận vì chống lại quân Tây Sơn, còn phu nhân vì chồng mà tự vẫn để giữ danh tiết:

... Tướng quân năng tử quốc,
Thiếp diệc tử tướng quân...

Dịch nghĩa:

... Tướng quân vì nước hy sinh,
Thiếp cũng xin chếtvì tướng quân...

Với những suy nghĩ trên, có thể thấy được phần nào sự hạn chế, bảo thủ trong tư tưởng Nguyễn Hành. Song với tác phẩm Quan Đông Hải từ một khía cạnh khác, chúng ta lại thấy Nguyễn Hành là một người có chí khí, mang hoài bão lớn lao. Cũng trong bài Nghĩ cổ nhất thủ, ông viết:

Phiên âm:

... Đăng cao lâm tứ hoang,
Du du hữu hà tư.
Đại bằng lung vũ trụ;
Xích án tập phiên ly.
Thần long hảo biến hóa,
Ngư miết du ô trì.
Vạn vật các hữu tính,
Triết nhân quý phát huy.
Siêu nhiên tâm tự lạc,
Thử ngoại thùy khả vi ?

Dịch nghĩa:

Trèo lên cao nhìn ra bốn cõi,
Lòng nghĩ xa xôi vời vợi.
Chim đại bàng lấy trời đất làm cái lồng(4);
Loài ri sẻ đậu ở ngoài phên giậu.
Con rồng thiêng biến hóa thần kỳ,
Giống cá ba ba sống trong ao nhỏ.
Muôn vật, loài nào có tính riêng của loài ấy,
Người hiền triết quí ở chỗ biết thời cơ mà hành động.
Vượt lên mọi tầm thường lòng tự thấy vui,
Ngoài ra còn ai biết làm gì hơn nữa.

Hoài bão đó được thể hiện trong các bài thơ khác, như 29 bài ca ngợi liệt nữ, trong đó ông đặc biệt đề cao Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã lãnh đạo quân dân ta vùng dậy đánh đuổi bọn xâm lược phong kiến phương Bắc, giành lại độc lập cho Tổ quốc.

Phiên âm:

Lưỡng Trưng
Trưng gia nhị nữ bất trì tàm,
Báo cừu nhật dạ tâm như đàm.
Thừa cơ nhất cử trục Hán sứ;
Hô hấp chi gian cứ Lĩnh Nam.
Tự thị ngô bang khí nhất biến,
Âm thừa dương khí nữ vi nam.
Hậu thiên Bát quái Ly đương Ngọ,
Ly vi trung nữ vi qua đàm.
Tiền Trưng hậu Triệu đương kỳ hội,
Nhị bách niên gian tác giả tam.
Hát Giang giang đầu di miếu tại,
Vạn cổ huân cao tủng uất lam.
Nữ trung tài tính hữu như thử,
Túc sử bỉ nọa văn phong tàm.

Dịch nghĩa:

Hai Bà Trưng.
Hai cô con gái nhà họ Trưng, không làm nghề nuôi tằm,
Lòng lo việc báo thù ngày đêm như nung nấu.
Thừa cơ vùng dậy đuổi Thái thú nhà Hán,
Trong khoảng chốc lát lấy lại cõi Lĩnh Nam.
Từ đấy phong khí nước ta thay đổi khác,
Khí âm vượt lên khí dương, con gái như con trai.
Theo Bát quái hậu thiên thì quẻ Ly ở vào giờ Ngọ,
Ly lại tượng người con gái và là ngọn giáo sắc.
Trước có họ Trưng, sau có họ Triệu gặp vận hội ấy,
Trong khoảng 200 năm có ba người nổi dậy.
Một tòa miếu còn sừng sững trên bờ sông Hát giang,
Muôn thuở vẫn khói hương nghi ngút.
Trong giới nữ lưu mà có bậc tài trí như thế,
Khiến bọn con trai ươn hèn, lười biếng nghe phong thanh mà tự thẹn.

Lần lượt qua những trang viết trong Quan Đông Hải, chúng ta đọc và tìm thấy những nét đẹp trong thơ, văn của ông. Có lẽ không nhà thơ tài hoa nào là không đến với thiên nhiên, đắm mình trong thiên nhiên, viết những vần thơ ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên. Nguyễn Hành cũng vậy, trong một loạt bài viết về Đàm nguyệt (Trăng trong đầm), Đàm sơn (Đầm, núi), Đàm thu (Cảnh thu trên đầm), Đàm cổ (Đầm xưa), ông đã thể hiện phong cách của riêng mình:

Phiên âm:

Đàm nguyệt
Đàm trung hữu minh nguyệt,
Nguyệt trung hữu thanh đàm.
Thượng hạ kính giao chiếu,
Đàm nguyệt câu thành tam.
Cao cao bất khả ấp,
Thâm thâm bất khả tham.
Du nhiên ngộ chân cơ,
Dục biện dĩ vong đàm.

Dịch nghĩa:

Trăng trong đầm.
Trong đầm có mặt trăng sáng,
Trong ánh trăng sáng có đầm nước trong.
Một tấm gương soi chung,
Cùng với đầm nước và mặt trăng thành bộ ba.
Trăng cao vời vợi không thể với tới được,
Đầm sâu thăm thẳm không thể thăm dò được.
Lâng lâng giác ngộ cơ màu của chân lý,
Vừa toan đem tả cho rõ ràng thì đã quên không biết nói gì.

Phiên âm:

Đàm thu
Trạm trạm nhất đàm thủy,
Tứ thời cảnh tượng thu.
Tĩnh quan minh nguyệt tại,
Động kiến bích vân phù.
Các các oa minh oán,
Tiêu tiêu thủy lạc sầu.
Khán tiền giai khả vịnh,
Duy khiếm nhất như châu.

Dịch nghĩa:

Cảnh thu trên đầm.
Một đầm nước trong veo,
Cảnh tượng bốn mùa lúc nào cũng như thu cả.
Tĩnh thì có mặt trăng sáng,
Động thì có mây biếc trôi.
Ếch y uôm kêu oán,
Nước róc rách gợi sầu.
Cảnh trước mắt đều có thơ vịnh,
Chỉ thiếu một con thuyền ngư ông.

Viết về phong cảnh đất nước, quê hương, Nguyễn Hành đã hòa tan vào thiên nhiên những suy ngẫm, tâm sự của mình:

Phiên âm:

Sơn hành
Hành hành độ nhất sơn,
Hốt phục quá nhất khê
Lộ hiểm nhân hãn đáo,
Sơn không điểu cô đề.
Phi tuyền hà liệt liệt,
Thu mộc uất thê thê
Bạch vân sơ khởi xứ,
Khả vi hàn sĩ thê.

Dịch nghĩa:

Đi trong núi
Đi, đi mãi, vượt qua một ngọn núi,
Chợt lại qua một dòng khe.
Đường hiểm ít người qua lại,
Núi vắng tiếng chim lẻ loi.
Dòng suối bay, nước vừa trong, vừa lạnh,
Cây mùa thu vẫn xanh tốt um tùm.
Nơi có mây trắng vừa bay lên,
Có thể là nhà người hàn sĩ.

Quả là như một bức tranh thủy mặc, trong thơ có họa, trong họa ẩn tình. Đây đó, thơ Nguyễn Hành còn vang lên âm hưởng của tiếng nước triều dồn dập, tiếng chuông chùa gọi tỉnh giấc mộng đời người.

Phiên âm:

Huyền Thiên quán thần chung
Hoán tỉnh trần hiêu nhất mộng trung,
Thử thanh thủy khiển xuất thành đông ?
Tự lai tự khứ mạc tu vấn,
Phi nhĩ phi tâm hà tất cùng.
Tính tướng như như an dụng định,
Thiền cơ liễu liễu bất tư không.
Quy lai thử ý chân điền tả,
Thâm dạ triều âm đáo khách song.

Dịch nghĩa:

Tiếng chuông sớm ở quán Huyền Thiên.
Gọi tỉnh giấc mộng, trong bụi hồng huyên náo,
Ai đưa tiếng chuông ấy vẳng ra phía đông thành ?
Tiếng tự đến rồi tự bẵng đi, chẳng cần hỏi nữa
Tai không để ý nghe, lòng không để ý nghĩ cần chi phải xét cho cùng.
Tính vốn tự nhiên, việc gì phải định nữa.
Cơ màu của đạo Thiền, hiểu làu làu rồi, chẳng biết là không.
Trở về đem ý ấy ra mà bổ sung thêm mãi vào,
Đêm đã khuya, dồn dập như tiếng thủy triều đưa đến cửa sổ của người khách.

Sự trống vắng, đơn lẻ của lữ khách trên đường đời cũng được ông chia sẻ trong bài Bắc Thành lữ hoài

Phiên âm:

Ngã diệc hà vi giả ?
Tịch liêu lai thử thành,
Nhãn trung vô cố vật,
Tâm thượng hữu dư tình.
Quế ngọc quan hoài trọng,
Văn chương sách giá khinh.
Tích niên quý công tử,
Kim dã lão thư sinh !

Dịch nghĩa:

Ở trọ Bắc Thành
Ta định làm gì đây ?
Thui thủi đến thành này.
Mắt nhìn không có gì quen thuộc,
ý nghĩ cứ vấn vương không cùng.
Gạo châu củi quế, rất đáng quan tâm,
Giá trị văn chương lại không đựơc mấy tí.
Năm xưa là một quý công tử,
Mà ngày nay đã là một anh đồ già !

Thơ văn Nguyễn Hành viết về thiên nhiên, về con người còn mang ý nghĩa triết lí sâu sắc về cuộc đời. Như trong bài Quan thủy (Xem dòng nước) đứng trước dòng nước ông nghĩ đến sự vô tận, sự vận động không ngừng của muôn vật:

Phiên âm:

Ưởng nhiên nhất thái hư,
Chí doanh hoàn hữu chỉ.
Kỳ cơ diệu bất trắc,
Tức thử hoặc tiêu bỉ.
Vạn vật tư thổ sinh,
Kí sinh hoàn phục tử.
Thổ bất vị doanh khuy,
Nan cùng giả nhược thị.
Thủy động tắc vi ba,
Ba tĩnh phục vi thủy.
Nhất động nhất tĩnh gian,
Hà chung diệc hà thủy.

Dịch nghĩa:

Mông mênh một không gian vô tận,
Đến lúc thực đầy rồi cũng ngưng lại,
Cơ màu nhiệm không thể lường được,
Cái này sinh ra thì cái kia tan biến đi.
Muôn vật nhờ ở đất mà sinh ra.
Sinh ra rồi lại chết đi.
Đất vẫn không vì thế mà đầy thêm hay giảm bớt,
Cái lẽ khôn cùng là thế đấy.
Nước động thì thành sóng,
Sóng yên lại là nước.
Trong khoảng một lần động một lần tĩnh ấy,
Biết điều nào sau điều nào trước...

Về ý nghĩa của từ "Đồng xuân" cũng được Nguyễn Hành hiểu đúng và cặn kẽ. Ông giải thích ý đó trong bài Đồng xuân ngụ kí (Bài ký khi ở nhà trọ phường Đồng Xuân): "Thân với người thân mà nhân với dân; nhân với dân mà yêu các loài vật, sao cho trong khoảng trời đất này không vật nào không được yên nơi chốn, đó là cái nghĩa "Đồng Xuân"... (Thân thân nhi nhân nhân, nhân dân nhi ái vật, xử thiên địa chi gian vô nhất bất an kỳ sở, thử đạt tại thượng giả chi đồng xuân dã).

Những nhận xét trên, được đúc rút ra từ kinh nghiệm sống của ông. Và cũng rất gần với sự quan tâm của chúng ta ngày nay - Con người trên hành tinh này ngày càng chú ý bảo vệ môi trường sống của mình cũng như của muôn loài.

Người xưa quan niệm "văn dĩ tải đạo", đến nay khi đọc thơ văn của Nguyễn Hành, chúng ta cảm nhận rõ "vị đạo" trong từng câu thơ, văn của ông. Bài Trị nộ châm nhất thủ (Bài châm trị cái giận), chất "đạo" trong văn được mang màu sắc triết lý, để tự răn cũng như để người đọc cùng chiêm nghiệm:

Phiên âm:

Hỏa sinh vu mộc,
Hỏa phát tất khắc.
Khí sinh vu thân,
Bất thiện vi tặc.
Phù nộ hỏa dã,
Nhi nhẫn vi thủy.
Nhẫn tắc tĩnh hĩ,
Tĩnh tắc nhẫn hĩ.
Phàm vật chi lai,
Huyễn dĩ ứng chi.
ứng vô sở loạn,
Tự nhiên thoái tán...

Dịch nghĩa:

Lửa do gỗ sinh ra,
Nhưng nếu lửa cháy thì tất diệt gỗ.
Khí sinh ra ở trong thân người ta,
Nhưng nếu là khí xấu thì lại là giặc của thân ta.
Ôi ! Giận ví như lửa,
Mà nhịn ví như nước.
Nhịn là tĩnh,
Tĩnh thì nhịn được.
Phàm sự việc đến,
Ta cứ ứng phó như không có gì.
ứng phó mà không rối loạn,
Thì sự việc phải tự nhiên lui mà tan đi.

Trong nhiều bài khác chúng ta còn nhận thấy chất "đạo" bàng bạc khắp câu thơ, câu văn của Nguyễn Hành, như ở các bài: Quán viên nhất thủ (Tưới vườn), Giáo nhất thủ (Dạy), Mãnh hổ hành (Bài hành về con hổ dữ)...

Mỗi con người là một thế giới thu nhỏ. Đọc tác phẩm Quan Đông Hải, chúng ta hiểu thêm được một tâm hồn kẻ sĩ. Ông sống trong giai đoạn xã hội đầy tao loạn, cảnh đời đầy sự trớ trêu, Nguyễn Hành muốn đi tới cũng không được, muốn ở ẩn cũng không xong. Bởi thế ông đã gửi gắm tâm sự trong những trang thơ, văn và hằng mong người đời phần nào hiểu, thông cảm với mình. Từ trong tâm thức, Nguyễn Hành khát khao làm được điều gì có ích cho đời, như ông từng viết trong câu kết của bài Kê minh phú (Phú gà gáy): "Phượng hoàng cao bay, hạc đỗ nơi xa thẳm, đàn sắt đàn cầm, tiếng chuông tiếng trống, vui mà không dâm. Thức tỉnh người đời, răn đe thói tục, trọng ở tiếng vang dài. Ta nghĩ người xưa, thực thấy thoải mái trong lòng". Đó cũng là khát vọng của kẻ sĩ xưa nay.

N.N.N

CHÚ THÍCH

(1) Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp, Nxb. Sử học, Viện Sử học, Hà Nội 1962.

(2) Theo Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, Nxb. Thuận Hóa tái bản năm 1994.

(3) Theo Sơn hải kinh: Trên núi Đan Huyệt có nhiều vàng ngọc, sông Đan Huyệt phát nguyên từ núi ấy chảy ra bể Bột Hải, ở đấy có một loại chim, lông năm sắc rất rực rỡ, gọi là chim phượng hoàng.

(4) Theo Nam Hoa kinh của Trang Tử, chim bằng là loại chim lớn, lưng chim bằng không biết dài đến mấy nghìn dặm, khi bay lên thì hai cánh rộng như đám mây ở bên trời.

TB

HỘI HƯỚNG THIỆN VÀ ĐỀN NGỌC SƠN

TẢO TRANG

1. Nhân một câu đối trong đền.

Đền Ngọc Sơn là một trong những di tích khan hiếm tập trung nhiều câu đối có giá trị văn học cao. Có một câu đối trong đền được nhiều người nhắc tới, và cũng có người thắc mắc về nội dung:

Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

(Gươm báu muôn ngàn vàng ẩn náu dưới nước thu,
Lòng băng tuyết một tấm ấp ủ trong bình ngọc).

Câu trên ghi lại sự tích gươm vàng do Lê Lợi hoàn lại cho rùa thần dưới hồ, rất hợp với đền Ngọc Sơn đặt giữa hồ Hoàn Kiếm. Câu sau lấy ở bài thơ tứ tuyệt của Vương Xương Linh đời Đường (Phù Dung lâu tống Tân Tiệm), có hai câu cuối: "Lạc Dương thân hữu như tương vấn, Nhất phiến băng tâm tại Ngọc hồ = Bạn thiết Lạc Dương như có thăm hỏi, bình ngọc vẫn nguyên tấm lòng tuyết băng". Một số người cho rằng vế sau của câu đối không liên can gì đến đền Ngọc Sơn, cũng như với mọi đền miếu nói chung. Nhưng thực ra câu đối này, với vế sau tưởng như vu vơ lại có một giá trị lịch sử nhất định, nó ghi lại phần nào quá trình hình thành đền Ngọc Sơn. Theo bài văn do Tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trên bia dựng năm 1847 (hiện còn tại đền), tại nơi đây, tương truyền là đài câu cá cuối triều Lê. Về sau, một nhà từ thiện là Tín Trai, nhân có miếu Quan Đế cũ, mới mở rộng sửa sang thành ngôi chùa Ngọc Sơn. Khoảng đầu triều Thiệu Trị (1840-1847), các con ông Tín Trai đã nhượng chùa cho Hội hướng thiện, một hội vốn do những người trong khoa mục thành lập, thờ thần Văn Xương (coi về văn học), lúc ấy chưa có đền. Hội đã dỡ bỏ gác chuông chùa, thành lập đền "Ngọc Sơn Đế Quân", bắt đầu xây dựng từ mùa đông năm 1841, đến mùa thu năm 1842 thì hoàn thành. Bài văn viết ở đoạn kết: "Cảnh như thế không trơ trọi. Nếu cố gắng làm điều lành, thần linh sẽ chứng giám". "Làm điều lành" là mục đích Hội hướng thiện. Có làm điều lành mới có được tâm hồn thanh cao trong sạch, "Một tấm lòng băng tuyết trong bình ngọc". Vế sau của câu đối Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ chính nhắc nhở mục tiêu sáng lập ra ngôi đền của hội.

Không chỉ sáng lập đền, hội hướng thiện còn giữ vai trò chủ chốt trong việc bảo quản, tu tạo các công trình kiến trúc và cảnh quan, tổ chức hoạt động nhiều mặt, khiến đền Ngọc Sơn trở thành một di tích danh thắng bậc nhất ở trung tâm Thủ đô.

2. Hội hướng thiện, hội hướng về thực hiện điều tốt lành.

Hội hướng thiện, do những nhà trong khoa mục thành lập, là hội các nhà Nho. Bài văn bia trùng tu miếu Văn Xương, khắc năm 1865 của án sát Đặng Lương Hiên, tức Đặng Huy Tá (1817-1873) có mấy câu: "Miếu thờ Văn Xương... để dạy mọi người làm điều thiện mà thôi. Nhưng người ta làm điều thiện, không gì thiết yếu bằng ngăn lòng dục của người, bảo tồn lẽ phải của trời, chẳng cầu phúc mà phúc tự nó đến. Lời dạy của đạo Nho ta, sáng chói trong kinh sách, còn cần gì thêm". Bài văn bia đề cao đạo Nho, coi như phận vụ hàng đầu là làm điều thiện. "Vi thiện tối lạc = Làm việc thiện là điều vui hơn hết" là một cổ ngữ thường được nhắc tới giữa các nhà Nho. Hội hướng thiện từ khi có trụ sở ở đền Ngọc Sơn, nhiều khi còn được gọi là Phả Ngọc Sơn, Hội trưởng được gọi là Phả trưởng. Hai vị Hội trưởng (hay Phả trưởng để phân biệt với các hội khác) đầu tiên là hai nhà Nho có uy tín bậc nhất thời bấy giờ: Vũ Tông Phan (1800 - 1851), Tiến sĩ, Đốc học về hưu, mở trường Hồ Đình bên Hồ Gươm; Nguyễn Văn Siêu (1796 - 1872), Phó bảng, án sát về hưu, mở trường Phương Đình ở giáp Giang Nguyên (phố Nguyễn Văn Siêu hiện nay), cách Hồ Gươm không xa. Cả hai đều là những nhà giáo dục nổi tiếng đương thời, sách Khoa bảng lục ghi hai trường trên, học trò nhiều người thành đạt. Với hai vị Hội trưởng danh Nho đầu tiên, Hội hướng thiện đã có những hoạt động sôi nổi theo đúng tên gọi - hướng về những điều tốt lành, và không ngừng tiếp tục đi theo con đường sáng đẹp đó ở những giai đoạn tiếp sau.

Hội chủ yếu thờ thần Văn Xương, vị thần giữ sổ tước lộc cõi trần, nên nhiều học trò thường đến lễ, nhất là trước khi đi thi, cầu xin được trợ giúp việc đỗ đạt. Hội tin ở "Văn Xương Đế Quân", nhưng không quên nhắc nhở những người đến lễ: muốn được thần giúp, đầu tiên phải tự mình "hướng thiện", làm điều lành, không chỉ học giỏi, mà đồng thời phải trau dồi đạo đức. Vào đền Ngọc Sơn, câu đối được thấy ban đầu sau hai cột trông ra đường đã thuyết minh điều này:

Nhân gian văn tự vô quyền, toàn bằng âm đức;
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn, đãn khán đan điền.

(Ở cõi đời người, chữ nghĩa không có quyền, toàn dựa vào âm đức;
Trên cõi trời, chủ khảo có mắt, chỉ nhìn xét tấm lòng son).

"Chủ khảo trên trời" chỉ thần Văn Xương, giữ sổ tước lộc cõi trần, khi cho ai đỗ, chỉ dựa vào việc xem xét "tấm lòng son" của họ, có thực tốt lành không. ("âm đức" chỉ việc tốt được làm không có ý phô trương, không có hoặc ít người biết, hoặc việc tốt của cha mẹ tổ tiên, khiến con cháu được hưởng điều hạnh phúc)... Như vậy, muốn được thần phù hộ cho thi đỗ, đức hạnh của người đi thi có tác dụng chủ chốt, hơn cả tài văn học ("chữ nghĩa không quyền").

Một hoạt động cụ thể mang ý nghĩa tích cực của các Hội viên Hội hướng thiện là tham gia nhóm "công quá". "Công" chỉ thành tích làm điều tốt, kể cả ý nghĩ và sự việc cụ thể. "Quá" là những điều lỗi lầm, trái với "công". "Công quá" có thể dịch gọn là "công và tội". "Tăng công bớt tội", "làm điều thiện tránh bỏ điều ác", là mục đích của việc tu thân, công việc này của nhóm "công quá" trong Hội hướng thiện "được tiến hành với sự tin tưởng vào sự hỗ trợ chứng giám của thần linh", tập hợp thành một nhóm gọi là "Thiện đàn" hay "Thiện đường". ở giá sách viện Hán Nôm có một cuốn Công quá cách hiệu biên, in tại đền Ngọc Sơn năm l903, cho thấy việc thực hành phép tu thân này. Sách chủ yếu tập hợp những bài "giáng bút" của một số danh nhân, được coi như dù đã khuất, vẫn để tâm giáo dục người đời, khuyến thiện, trừ ác. Đây là những nhân vật lịch sử Trung Quốc, được tôn xưng là "Tam Thánh": Văn Đế tức Văn Xương, tên thật là Trương á Tử, đời Tấn (265 - 419); Võ Đế tức Quan Vũ đời Tam Quốc (168 -265); Lã Tổ tức Lã Động Tân, đời Đường (618-906). Ngoài ra có cả bài giáng bút của Trần Hưng Đạo, của Phạm Ngũ Lão, và của Hưng Vũ Vương, con Trần Hưng Đạo (người viết chưa xác định được tên thật, và là anh hay em của Trần Quốc Tảng). Ngay ở trang đầu, bài giáng bút của Hán Thọ Đình hầu Quan Công cho biết: "Đền Ngọc Sơn của đất Thăng Long nước Việt, trong đó có Tập Thiện đường" "nhà Tập Thiện". Nhà để làm gì ? Cốt để cho các người trong Hội thực hành cách thức tu theo "công quá". Nhà này Văn Thánh làm chủ, Lã Tiên (chỉ Lã Động Tân) phù trợ, năm trước ban cho tên nhà, năm nay ban cho sách Hiệu công quá cách (cách thức xác định công tội).

Sách đưa ra những bảng kê khá đầy đủ, với nhiều chi tiết, đánh giá công và tội bằng những con số cụ thể, như cho điểm các sự việc (dĩ nhiên nếu là tội thì điểm sẽ trừ vào điểm công, như danh từ hiện nay gọi điểm tội là "điểm âm". Thí dụ: thờ bố mẹ hết sức kính trọng, chăm nom đầy đủ việc ăn uống, mỗi ngày là 1 công. Thờ đúng phép kế mẫu thứ mẫu (vợ lẽ của cha), ông chú bà chú, ông bác bà bác ruột, tính công gấp đôi (đối với các vị sau, thông thường ít coi trọng nên cần đôn đốc); khuyên người thân sửa lỗi làm điều lành, mỗi việc: 10 công; nếu người thân phạm tới luân thường, mình nhiều lần can gián khiến cảm hóa hối cải : 100 công (tr.39a). Trái lại, thờ bố mẹ không kính trọng, dù có phụng dưỡng, mỗi ngày l tội (nhất quá) (bảo đảm ăn uống nhưng thiếu lòng kính yêu). Đối với kế mẫu tội như trên, đối với thứ mẫu, chú bác ruột (cả ông, bà), tội giảm một nửa. Tài sản giữ riêng cho mình, tranh giành nhiều ít, khiến người thân phẫn nộ, mỗi việc 100 tội (tr.47a) Mấy thí dụ khác: ăn chay, một ngày: 3 công; gặp chuyện trái ý vẫn bình tĩnh đối phó: việc nhỏ 1 công, việc lớn 10 công; bị phụ nữ không đứng đắn dụ dỗ, vẫn giữ được dạ ngay thẳng không nhiễm dâm ô: 300 công (tr 45a); về tội ngờ cha mẹ, yêu chuộng không công bằng rồi sinh oán hận: l000 tội (71b); riêng giữ chặt ý mình, không nghe người nói: l0 tội đến l00 tội (tr.72a). Ngoài ra, còn có mục "công tội người làm quan" (tr.79a-83a).

Hội viên trong nhóm "công quá" có nhiệm vụ tự kiểm điểm hàng ngày, lập bảng kê công tội, nếu thấy kết quả công thắng tội thì tự hào và quyết tâm phát huy, nếu thấy kết quả ngược lại thì tự răn và quyết tâm sửa chữa. Các hội viên - cũng gọi là "đàn viên"- để phân biệt với những người không ở trong nhóm "công quá" - ghi sổ hàng ngày, và thường kỳ, vào ngày rằm mồng một trong tháng, tới bàn thờ Tam thánh (tại nhà riêng hay tại đền) tường trình việc đã làm, tỏ rõ quyết tâm tiến bộ, xin được sự chứng giám và hỗ trợ của thần linh (bằng tờ sớ hay bằng lời khấn miệng).

Cách tu bằng việc tự xét "công quá", dựa theo sách Công quá cách hiệu biên, gồm chủ yếu những bài văn "giáng bút". Cũng nhiều người cho loại văn này thuộc mê tín dị đoan, nhưng không thể phủ nhận tác dụng của chúng trong việc khuyến thiện, vì đã được lòng người chấp nhận, vì thấy những điều dạy phù hợp với đạo lý làm người, thêm lòng tin tưởng ở những sức mạnh huyền bí đã phán truyền, chứng giám và thưởng phạt tuỳ theo công tội. Đó chưa kể đến sức hấp dẫn của lời văn, đối với những hội viên phần lớn là những nhà Nho học. Đơn cử một số câu thơ giáng bút (phụ lục ở cuối sách) "huấn" (răn dạy) cho từng cá nhân. "Huấn" Bùi Ngọc Giáp ("Giáp": tên ngọc): Lương ngọc tu trác, vụ tại tòng sư (âm đúng: si). Tinh thần dạ tịnh, quả dục tự y (Ngọc tốt cần mài, Cốt biết theo thầy, Đêm khuya tĩnh lặng, ít dục vọng, tự sửa mình) (tr.I34a). "Huấn" Trần Quang Phụ: Sơn thâm thủy trường, Bảo tại hà phương, Ngã vi nhất chỉ, Tâm thị thiện hương (Núi thẳm sông dài, Của báu nơi nao, Ta chỉ một chỗ: Thiện tại lòng mình) (tr.I35a). Hay "huấn" Đào Huống Mai: Mai sắc thị mĩ, Tài chi hữu địa, Thả hữu bàng tâm, Hối khủng vị dĩ (Sắc mai đã đẹp, Trồng đúng chỗ rồi, Nếu có dạ khác, Sợ hối chưa thôi) (tr.I35a). Những câu thơ trên lời dịch chưa thật chỉnh và chưa lột được hết ý tứ, nhất là rất có thể có những hoàn cảnh cụ thể của người xin thơ không được ghi lại. Dù sao, thiết nghĩ những câu thơ "huấn thị" vẫn có thể coi là những lời khuyên tu thân xử thế có hình tượng văn học, và có giá trị ứng dụng phổ biến.

3. Hội hướng thiện và thời cục

Hiện chưa xác định được thời điểm thành lập Hội hướng thiện, nhưng có điều chắc chắn là chỉ sau năm 1842, khi xây dựng xong trụ sở mới là đền Văn Xương, tức đền Ngọc Sơn thay thế chùa Ngọc Sơn, Hội mới thật có khí thế tác động đến đời sống văn hóa Hà Nội. Hội đã có liên tiếp hai vị cầm đầu là hai nhà văn học lớn, đồng thời là hai bậc thầy gương mẫu. Tiến sĩ Vũ Tông Phan với trường Hồ Đình, Phó bảng Nguyễn Văn Siêu với trường Phương Đình, hai trường nổi tiếng, được ghi trong sách Khoa bảng lục, với thành tích đào tạo được nhiều học trò thành đạt. Trường Hồ Đình - cũng gọi là trường Tự Tháp - nằm sát bờ phía Tây Hồ Gươm, còn trường Phương Đình ở phía đông, cách hồ không xa mấy. Chung quanh hồ, còn có hai trường khác lừng danh không kém tuy sau ít năm, trường Vũ Thạch (đầu phố Bà Triệu của Cử nhân Nguyễn Huy Đức, trường Kim Cổ ở phố Hàng Gai của Cử nhân Ngô Văn Dạng. Học trò những trường này, phần lớn không thể không đến đền Ngọc Sơn, như đã được viết trong văn bia Vũ Tông Phan: "Kẻ sĩ phu kết bạn với nhau yêu cảnh này, vì mến tên hồ này mà việc tu dưỡng du ngoạn nghỉ ngơi đều có nơi chốn" (bản dịch trong Tuyển tập Văn bia H., Q.2, Nxb. KHXH, l978 tr.69). Có thể nói sau khi Gia Long dời Quốc tử giám vào kinh đô mới Phú Xuân, khu vực Quốc tử giám cũ, nay chỉ còn là Văn miếu, không còn là nơi tụ tập các Nho sĩ tham gia các cuộc bình văn hay theo học trường cao cấp nhất của cả nước. Trung tâm hoạt động tinh thần này có thể nói đã chuyển tới khu vực Hồ Gươm, với những trường học nổi tiếng, và đền Ngọc Sơn, trụ sở của Hội hướng thiện.

Trong những năm đen tối của thời kỳ Pháp thống trị, sau khi Hà Nội trở thành thuộc địa của Pháp năm 1885 tách khỏi hẳn sự cai trị của triều đình Huế, việc quản lý Văn miếu trao cho quan lại tỉnh Hà Đông, đền Ngọc Sơn với Hội hướng thiện càng tỏ rõ là một trung tâm tập hợp giới Nho sĩ có nhiệt huyết, luôn quan tâm đến thời cục. Dân gian còn truyền cho nhau bài vè được gọi là "Vụ đền Ngọc Sơn" vào tháng 3 năm Bính Ngọ (1906). Hồi này có bệnh dịch hạch hoành hành, rất nhiều người bị chết. Thực dân Pháp sợ cả bọn chúng cũng bị lây, nên đã thi hành những biện pháp tàn bạo, người bị bệnh nặng chưa chết cũng đẩy lên xe đưa đi chôn, đốt cả giường nằm và đồ đạc người bị bệnh. Một cá nhân khiếu nại đến tòa Đốc lý, không có kết quả. Được sự đồng ý của Hội hướng thiện tức Hội phả đền Ngọc Sơn, dân chúng đã tụ tập tại đền bàn cách làm đơn gửi tòa Đốc lý, nếu cần lên cả Thống sứ, Toàn quyền để đạt hiệu quả. Bọn Pháp biết tin đã huy động cảnh binh đến vây bắt, nhiều người sợ hãi nhảy cả xuống hồ tìm kế thoát thân. Một bài vè dài tới 11 câu đã ghi lại sự kiện này, và được truyền đi rộng rãi (X. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội in lần 2, l972, Hội Văn nghệ Hà Nội, tr.64-75). Trong bài có những câu cho thấy sự tham gia của Hội phả:

... Bỗng một phút thấy uy Pháp tới,
Vây trong ngoài bổ lưới bốn bên.
Hai mươi người chủ hội viên,
Thiện nam tín nữ đảo điên rụng rời...

"Hai mươi người chủ hội viên" tức cả ban chấp hành cùng hội viên Hội phả đều tham gia buổi họp và bị khủng bố.

Cũng vào thời kỳ này, tại đền Ngọc Sơn và tại nhiều đền khác ở Hà Nội cũng như ở tỉnh khác, có phong trào "phù kê", cầu thần linh giáng bút. Những bài thơ cầu được là của "Tam thánh" (Võ Đế, Văn Đế, Lã Tổ), và cả những vĩ nhân Việt Nam được thần thánh hóa như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Liễu Hạnh v.v. nói chung khuyên làm điều thiện, giữ vững luân thường, đồng thời cũng "dạy bảo" tinh thần yêu nước thương nòi, nhất là trong các bài của các "thần-danh nhân đất Việt". Bọn Pháp rất thính, đã đánh hơi thấy phong trào, và tìm mọi cách ngăn chặn. Một thông tư "mật" (confidentiel) của Thống sứ Bắc kỳ gửi Công sứ các tỉnh ra chỉ thị phải lưu ý "đến những tổ chức tuyên truyền rất lợi hại bị chiếm lĩnh bởi những người cầm đầu đảng chống Pháp", yêu cầu cho biết về các đền miếu địa phương, danh sách những sách in được gọi dưới tên chung là "thiện thư".

Cũng trong hồ sơ này, có tờ "ghi chú" (note), nói tới đền Ngọc Sơn, Quán Thánh (Grand Bouddha), (với những hội) có sáng lập viên là Trần Lưu Huệ, Nguyễn Thượng Hiền hay Đào Nguyên Phổ, Cử Can (tức Lương Văn Can), kèm tên các hội viên (ông đồ Tam áng, Lang Chuyên...) với quỹ nhiều chục triệu đồng (Hồ sơ số 4472- Archives centrales de L'Indochine - Mairie de Hanoi = Cục Lưu trữ trung ương Đông Dương - Thị chính Hà Nội) (Tư liệu này được xem và ghi lại vào năm 1963, người viết sơ suất không ghi cụ thể nơi giữ, không nhớ rõ là Cục Lưu trữ Trung ương hay Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội). Như vậy, bọn Pháp cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của những '"thiện thư", những bài thơ giáng bút, ngoài nội dung khuyên làm điều lành, tránh điều dữ, còn động viên lòng yêu nước, kêu gọi đồng bào đoàn kết, thương yêu lẫn nhau, là điều mà bọn thực dân sợ nhất... Chúng không dám công khai cấm in hay tịch thu những sách này (tuy cũng có những nơi những lúc bọn cầm quyền không ngại ngang nhiên thực hiện điều trên). Nhưng mặt khác, chúng tìm cách ngăn chặn, cho cảnh binh tới bắt người đang tiến hành việc "cầu cơ", xin giáng bút. Nhà thơ Đào Khê Ngô Ngọc Du còn để lại một bài tứ tuyệt chữ Hán về chuyện một người (chắc hẳn là có học, một "Nho sĩ") đang được Thánh Quan (Quan Vũ) nhập vào để cho thơ tại đền Ngọc Sơn, thì bị cảnh binh bắt đưa về đồn (chắc là đồn Hàng Trống), và bắt nộp phạt năm hào để được thả:

Thánh Đế vô đoan diệc tọa lao,
Pháp tù lễ ý bất như Tào.
Quá quan trảm tướng uy hà tại,
Nhẫn khí tùy nhân nạp ngũ mao.

(Thánh quan vô cớ phải ngồi lao,
Bọn Pháp hung hăng chẳng giống Tào.
Chém tướng quá quan oai chẳng thấy,
Theo người nuốt giận nộp năm hào).

Bài thơ nhắc tích Quan Vũ (Quan Vân Trường) thời Tam Quốc, có lần bị Tào Tháo bao vây, để bảo vệ an toàn cho hai chị dâu (vợ Lưu Bị), nên đành chịu hàng với điều kiện "Hàng Hán bất hàng Tào" và được Tào Tháo kính phục đối xử rất trọng thể, khi rời bỏ Tào Tháo về với Lưu Bị, đã chém giết năm tướng giỏi của quân Tào ở quan ải ra chặn đường. Bài thơ giọng trào phúng chứng tỏ thái độ của một số nhà nho khá đông thường chê việc "ngồi đồng" xin thơ thánh. Nhưng nó cũng đánh dấu một thời kỳ mà ngay chính nhiều nhà nho cũng đã lợi dụng việc làm này để cổ vũ tinh thần dân tộc dưới dạng hoạt động tôn giáo.

4. Hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật

Hội hướng thiện là hội các nhà nho chú trọng hàng đầu tới đạo lý, nhưng cũng không quên kết hợp với văn hóa văn nghệ. Nho giáo phân biệt "chất" và "văn". "Chất" có nghĩa "thuần phác, chân thực", chỉ tâm hồn đạo đức bên trong. "Văn" có nghĩa "vẻ đẹp", chỉ vẻ đẹp của thái độ vui sống, phóng khoáng, của cách cư xử hoà nhã thanh lịch. Sách Luận ngữ (thiên Ung dã) có câu: "Chất thắng văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử. Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử = Chất trội hơn văn thành quê kệch, văn trội hơn chất thành hào nhoáng. Cả chất lẫn văn đều hoàn mỹ, sau đó mới là quân tử". ở Hội hướng thiện, về "chất" tức trau dồi đạo lý, về "văn" tức hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Mặt thứ hai này thể hiện ở mấy khía cạnh: in sách và bảo quản ván in, yêu thiên nhiên và làm đẹp thiên nhiên, sáng tác văn học.

a. In sách và bảo quản ván in.

Dưới chế độ phong kiến, có thể nói một chức năng quan trọng của một nơi được coi như trung tâm văn hoá, là in ấn, và tàng trữ những ván khắc để sẵn sàng in lại nếu cần. Khi Quốc tử giám ở Thăng Long bị dời vào Phú Xuân, kho ván in đã chuyển vào trong đó. Với cách thức in thời trước, không thể biết được số lượng cụ thể những ấn phẩm đã được lưu hành. Việc đánh giá hoạt động văn hóa của một cơ sở về mặt này, chỉ bằng vào số lượng và nội dung các ván in còn lưu trữ tại nơi đó. Hội hướng thiện tại đền Ngọc Sơn từng khắc ván, in sách lưu trữ các ván in, góp phần phổ biến sách Hán Nôm, phần lớn là sách chữ Hán. Năm 1966, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã cho kiểm kê các ván in còn giữ tại đền, với một số nhỏ tại chùa Liên Phái. Theo báo cáo kết quả việc kiểm kê ngày 14-4-1966 của phòng Bảo tồn - Bảo tàng của Sở, phụ trách công việc này, kèm theo danh sách các ván in có phân loại tại đền Ngọc Sơn, thấy nổi bật mấy điểm:

- Về số lượng: 1156 ván in.

- Về nội dung: phần lớn thuộc những sách có tính cách tôn giáo, kinh khuyến thiện, kinh giáng bút (với những bài huy động tinh thần yêu nước như đã nói ở phần trên), những sách về Phật giáo, Đạo giáo. Dĩ nhiên có nhiều bộ ván về các "kinh" thuộc Tam Thánh là ba vị được thờ ở đền như Văn Đế toàn thư, Quan Đế bảo huấn (Võ Đế), Lã Tổ toàn thư (Những sách này hiện có trong Thư mục Viện Hán Nôm in năm 1993, nhưng cũng có sách không có trong thư mục, như Tam giáo tâm pháp 154 ván. Về mặt nghệ thuật, có nhiều ván khắc có tranh minh họa, ở những tác phẩm như Tứ thập bát hiếu thi họa của Đặng Huy Trứ, Cảm ứng thiên, Kim cương kinh nhân quả... Về chữ viết, có Ma nhai kỷ công văn, gồm những ván khắc bài văn với nét chữ thảo của Nguyễn Trung Ngạn, ghi chiến công năm 1333 của Trần Minh Tông đánh thắng Ai Lao. Đặc biệt, về văn học lịch sử, có mấy tác phẩm nổi tiếng còn đủ bộ ván in, như Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Phượng Sơn từ chí lược của Nguyễn Thu (sách này tư liệu khá đầy đủ về Chu Văn An: tiểu sử, thơ, đền thờ, văn thơ ca ngợi sự nghiệp), Khán Sơn đình thi tập, Trữ nguyệt đường của Đặng Huy Tá (1816-1872). Có khá nhiều ván khắc những tác phẩm văn học của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu như Phương Đình văn loại, Phương Đình tùy bút, Anh ngôn tập, Vạn lý tập, rất tiếc thiếu một số ván, không thật đủ bộ. Có cả một cuốn về ngôn ngữ học Đại Nam quốc ngữ của Nguyễn Văn San.

Trong phần kết luận của bản báo cáo trên, có đoạn viết: "Việc kiểm kê và sơ bộ phân loại những ván in của đền Ngọc Sơn đã cung cấp cho cơ quan Bảo tồn - Bảo tàng Hà Nội những hiện vật gốc rất có giá trị để tìm hiểu nhận định về truyền thống văn học và đời sống văn hóa tư tưởng của nhân dân thủ đô Hà Nội vào khoảng đầu triều Nguyễn và thời kỳ Pháp thuộc, nhất là ở giai đoạn đầu. Riêng đối với đền Ngọc Sơn, việc kiểm kê này đã làm nổi bật địa vị đặc biệt của di tích này trong hoạt động văn hóa và trào lưu tư tưởng của Hà Nội ở vào thời kỳ trên.

Rõ ràng kho ván in nói trên là một chứng tích minh bạch về vai trò trung tâm văn hóa của Hà Nội trước đây. Và được như vậy, là do công sức của Hội hướng thiện (Hội phả đền).

b. Thú thưởng ngoạn và xây dựng.

Trong bài văn bia về đền Ngọc Sơn của Tiến sĩ Vũ Tông Phan đã nói ở trên, phần cuối có lời nhắc nhở: "... Kẻ sĩ phu... vì mến tên hồ mà yêu phong cảnh, việc tu dưỡng du ngoạn nghỉ ngơi trong Hội, nay đều có nơi chốn. Hứng vui ngắm trăng dưới nước, hóng gió trên non có thể giúp nhiều cho lòng thiện của riêng mình". Như vậy lòng thiện sẽ được tăng cường, khi có thêm sự thanh cao của tâm hồn do thú thưởng ngoạn thiên nhiên, đúng với lý tưởng "văn chất bân bân" của người quân tử. Chính thú thưởng ngoạn đã là nguồn cảm hứng cho sáng tác văn học. Hội hướng thiện có hai vị Hội trưởng đầu tiên đều để lại những tác phẩm nói về cảnh đẹp của đền ở Hồ Gươm. Vũ Tông Phan có Kiếm Hồ thập vịnh. Nguyễn Văn Siêu từng viết bài Ký về Hồ Gươm, và không ít bài thơ về đề tài này rải rác trong các thi tập của ông.

Thú thưỏng ngoạn đã tăng thêm gấp bội, khi dưới thời nhà thơ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu làm Hội trưởng, đã được tiến hành trùng tu đền Ngọc Sơn để có quy mô tráng lệ như ta thấy hiện nay. Phong cảnh thiên nhiên được kết hợp hài hòa với công trình nhân tạo. Những bộ phận kiến trúc với những tên gọi đầy gợi cảm: cầu Thê Húc (nơi đậu ánh sáng ban mai), Tháp Bút với tựa đề "Tả thanh thiên " (viết lên trời xanh), Đài Nghiên với bài minh trong đó có câu "làm tỏ rõ vẻ đẹp cảnh và người, bao hàm khí tốt lành của trời đất" (thổ văn vật, hàm nguyên khí), Lầu Đắc nguyệt (thâu tóm ánh trăng) Đình Trấn Ba (chắn sóng, ý nói chắn sóng dữ phá hoại sự thanh bình). Văn bia Đặng Tá, trùng tu miếu Văn Xương cũng như sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của Doãn Kế Thiện, về việc trùng tu đền chỉ nói tới công của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, nhưng chắc chắn không thể thiếu sự tham gia đắc lực của Hội hướng thiện (mà ông là Hội trưởng), trong công cuộc huy động việc quyên góp, hay đôn đốc việc thi công.

c. Hoạt động sáng tác văn học.

Về mặt này, Hội hướng thiện có thể tự hào, coi như một truyền thống tốt đẹp. Không kể hai vị Hội trưởng đầu tiên nổi tiếng trên văn đàn, một Hội trưởng kế tiếp là Nguyễn Trọng Hợp, cũng được nhiều người biết đến không kém, với những bộ sách Kim Giang thi tập, Kim Giang văn tập và nhiều tác phẩm khác. Ngoài ra, thành viên của Hội đa số là những nhà trí thức, những cuộc hội họp xướng họa thi ca là chuyện thường tình. Xin ghi lại mấy bài còn ở trong trí nhớ nhiều người. Bài của Lê Đại (1875 -l951), nhà chí sĩ trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục, từng bị đày Côn Đảo, nhà văn và cũng là nhà bút thiếp nổi tiếng, tên hiệu là Từ Long:

Mây ám Thành Rồng trận gió tan,
Trời quang lại thấy mặt giang san.
Mặt hồ chẳng cạn, gươm còn đó,
Đá núi y nguyên, ngọc vẫn toàn.
Cung điện sửa sang nơi phụng sự,
Lâu đài tô điểm nét du quan.
Ai người mến cảnh dừng chân lại,
Ngắm cảnh Bồng Lai dưới thế gian.

Mấy chục năm sau, cũng về đề tài Hồ Gươm đền Ngọc, Cụ Lê Hào, một cây bút cứng của tổ thơ trong Hội, viết:

Dâu bể bao lần đất cố đô,
Hồ Gươm phong cảnh vẫn còn xưa.
Một bầu non nước ngôi đền Ngọc,
Bốn mặt tang thương ngọn tháp Rùa.
Thưởng gió tự do chiều nắng hạ,
Nhớ trời cách mạng sáng mùa thu.
Trăng khuya sóng nước in hình kiếm,
Nhớ kiếm thần trao chiến thắng Ngô.

Bài thơ viết năm 1971 cho thấy niềm phấn khởi của một nhà Nho cao tuổi dưới chế độ mới. Một bài khác cũng phản ánh tâm trạng tương tự, nhưng về đề tài khác, chào mừng chiến thắng của quân dân Thủ đô chống cuộc tập kích của không quân Hoa Kỳ năm 1966, bài thơ 4 câu của cụ Vũ Bội Hoàn từng giữ chức Hội trưởng Hội hướng thiện:

Năm trước ngựa xanh xua giặc Pháp,
Năm nay ngựa đỏ thắng Hoa Kỳ.
Một đàn lang sói thi nhau cút
Sông Nhị rồng vàng lại hiện phi.

Bài thơ 4 câu, câu nào cũng có 1 hay 2 con vật: "ngựa xanh", "ngựa đỏ" chỉ 2 năm Ngọ (năm Ngọ là năm ngựa). "ngựa xanh" chỉ năm Giáp Ngọ, "Ngựa đỏ" chỉ năm Bính Ngọ, vì theo thuyết ngũ hành, "giáp" thuộc "mộc" màu xanh, 'bính" thuộc "hỏa" màu đỏ. Giáp Ngọ là năm 1954, năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bính Ngọ là năm 1966, năm Hà Nội bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. "Sông Nhị rồng vàng" nhắc tới tích thuyền ngự của Lý Công uẩn, khi tới sông Cái bên thành Đại La để đặt Kinh đô mới, thì có rồng vàng xuất hiện, do đó mới có tên "Thăng Long".

5. Một điển hình về bảo vệ di tích

Dĩ nhiên, trong suốt thời gian dài hàng thế kỷ, Hội hướng thiện - Hội phả đền Ngọc Sơn, bên cạnh những việc làm đáng khích lệ trình bày ở trên, không khỏi có những khuyết điểm, đặc biệt về mặt tín ngưỡng đã dẫn đến mê tín dị đoan, chiều theo thị hiếu của quần chúng ít hiểu biết. Tuy nhiên, phải nhận rằng phần thành tích là chủ yếu, trong việc gìn giữ sửa sang, bảo đảm hoạt động thường xuyên của đền, xứng đáng một nơi thờ tự trang nghiêm, được đông đảo khách thập phương tới hành hương thăm viếng, một di tích danh thắng mang nhiều ý nghĩa bậc nhất của Thủ đô.

Theo đường lối của Nhà nước ta trong việc bảo vệ và phát huy tác dụng các di tích danh thắng, có vai trò quan trọng của "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" nói trong Thông tư số 206 - VH/TT của Bộ Văn hóa, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 14-LCT ngày 4-4-1984 của Hội đồng Nhà nước, và Nghị định số 288 ngày 31-12-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về "bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh". Về mặt này, có thể nói hiếm có một di tích danh thắng nào trong nứơc, lại có được một "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" có lịch sử lâu đời, gắn bó mật thiết với di tích, bảo vệ tôn tạo và phát huy tác dụng đạt được những thành quả rực rỡ như Hội hướng thiện (Hội phả) của đền Ngọc Sơn.

Mong sao ở thời kỳ hiện nay, dưới một dạng thích hợp với công cuộc đổi mới, đền Ngọc Sơn sẽ được tiếp tục và đẩy mạnh những hoạt động trước đây, đem lại cho ngôi đền một vị trí xứng đáng hơn nữa. Có thể có một phòng trưng bày phong phú, đầy sức hấp dẫn, với những ván in các tác phẩm quý, những sách được in từ những ván khắc, tiểu sử và tác phẩm của những Hội trưởng - và cả những hội viên tiêu biểu từ trước đến nay.

Hà Nội có thể tự hào có đền Ngọc Sơn trên Hồ Gươm, một di tích danh thắng hiếm thấy ở một Thủ đô nào khác, vì ở ngay giữa trung tâm thành phố, kết hợp được vẻ đẹp thiên nhiên với kiến trúc cổ kính hài hòa, với ý nghĩa sâu sắc, thêm tính huyền thoại về truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm, kèm theo tín ngưỡng dân gian, ý thức tôn trọng đạo lý, thú thưởng thức những câu đối với nét chữ điêu luyện, nội dung sâu sắc, rung động tâm hồn. Những nét đẹp trên gắn liền với công sức đóng góp của Hội hướng thiện Ngọc Sơn. Phải chăng tổ chức này có thể coi như phần nào điển hình của "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" nếu được nhân rộng ra, đó cũng là điều hãnh diện cho ngành Bảo tồn - Bảo tàng và cả ngành du lịch của một nước vẫn được coi là có nền văn hiến ngàn năm.

T.T

TB

NHÂN ĐỌC CUỐN
ĐƯỜNG THI TỨ TUYỆT

THẾ ANH

Ngoài những tuyển tập thơ Đường được in lại như Đường thi của Trần Trọng Kim, Thơ Đỗ Phủ của Nhượng Tống, Thơ Lý Bạch của Trúc Khê, Thơ Đường của Nhà xuất bản Văn học, thơ dịch của Tản Đà, Thơ Vương Duy của Giản Chi v.v., gần đây những người yêu thích thơ Đường lại được cung cấp thêm những ấn phẩm mới như Thơ Đường ở Việt Nam của Ngô Văn Phú, Thơ Đường của Khương Hữu Dụng, Thơ nghìn nhà và Đường thi tứ tuyệt của Nguyễn Hà. Tuy loại sách này rất kén độc giả, nhưng vẫn còn không ít những người ưa chuộng - đó là lớp người cao tuổi sinh hoạt trong các câu lạc bộ thơ, nhất là những cụ còn một ít vốn liếng chữ Hán học được từ hồi còn nhỏ và đặc biệt là các cán bộ làm công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học.

Vừa qua chúng tôi có chú ý nhiều đến cuốn Đường thi tứ tuyệt(1) của Nguyễn Hà, bởi lẽ đây là một tuyển tập gồm những bài thơ ngắn, có nội dung phong phú, mang nhiều lượng thông tin mà không mất nhiều thời gian đọc. Về mặt hình thức, cuốn sách được trình bày trang nhã, in đẹp, có điểm xuyết nhiều bức tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng của Trung Hoa như Từ Bi Hồng, Tề Bạch Thạch và nhiều bản minh họa của các hoạ sĩ Việt Nam hiện đại, thêm vào đó là những bài thơ chữ Hán do nhà thư pháp cao niên Lê Xuân Hòa viết theo lối chữ thảo càng làm cho cuốn sách thêm phần hấp dẫn và cổ kính. Trong bài Thay phần khảo luận PGS. Nguyễn Khắc Phi đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát về thơ tứ tuyệt của đời Đường. Một ưu điểm nữa của cuốn sách là những bài thơ chữ Hán và tiếng Việt in rõ ràng và cuối sách có mục đính chính (khác với nhiều ấn phẩm hiện nay có rất nhiều sai sót nhưng không hề đính chính), mỗi bài thơ đều có nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích và đều bố trí trên hai trang liền nhau trên một mặt phẳng, rất thuận lợi cho người đọc khi cần đối chiếu, không phải giở qua giở lại làm mất hứng thú của người thưởng thức. Dung lượng cuốn sách với 200 bài thơ tuyển dịch theo nguyên thể, trong đó gần một nửa là mới dịch lần đầu, nói lên niềm say mê và sự lao động cần cù của người dịch. Đó là một điều đáng khích lệ.

Trong vấn đề dịch thơ Đường, thể thơ rất quan trọng, tôi tán thành với một số người chủ trương khi dịch phải cố gắng giữ đúng nguyên thể thì mới lột tả được vẻ đài các, trang nhã mà cổ kính trong một bài thơ luật, nếu không thì người đọc sẽ cảm thấy mất đi những sắc thái đó. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ người dịch có đủ tài năng để diễn đạt hay không. Một bài thơ ngũ ngôn luật chỉ vẻn vẹn có 20 chữ rất hàm súc, cô đọng làm sao mà dịch sang 20 chữ Việt cũng đầy đủ các yếu tố như trong từ Hán mà lại phải vừa hay vừa có sức truyền cảm như nguyên bản là một điều nan giải. Do đó những dịch giả lớp trước như Tản Đà tài hoa cũng không dịch bài ngũ ngôn nào ra nguyên thể cả, Ngô Tất Tố trong cuốn Đường thi của mình có 25 bài ngũ ngôn mà cũng chỉ dịch 5 bài cùng thể. Trong tập Đường thi tứ tuyệt có 200 bài, riêng thơ ngũ ngôn chiếm gần 80 bài được dịch đúng nguyên thể là một cố gắng lớn của người dịch, có những bài Nguyễn Hà đã thành công như bài Dịch Thủy tống biệt của Lạc Tân Vương:

Yên Đan - nơi biệt xưa,
Tráng sĩ hờn tóc dựng.
Người ngàn năm khuất bóng,
Sông lạnh đến bây giờ.

Hay bài thơ Phổ An Kiếm âm đề bích của Vương Bột:

Giang Hán tin không đến,
Lương Mân vào khó ghê.
Mây mù sông núi hiểm,
Du tử lúc nao về ?

Và Ức Đông sơn của Lý Bạch cũng là một bài dịch có thần:

Đông sơn xa cách mãi,
Tường vi mấy độ rồi.
Thung thăng mây trắng ruổi,
Trăng rụng sáng nhà ai ?

Về mặt ưu điểm của những bài dịch thơ 5 chữ, tôi chỉ nêu một số bài điển hình, tất nhiên rải rác trong các bài khác cũng có thể nhặt ra những câu dịch đẹp và có hình tượng. ở đây tôi muốn góp ý kiến cho một số bài dịch khác theo cách hiểu của mình:

Bài Quá tửu gia (tr.39) của Vương Tích, câu "Phi quan dưỡng tính linh" mà dịch xuôi ra là "chẳng thiết dưỡng sinh thân thể" rồi dịch thơ "Quản chi đến hình hài" thì chưa đạt, vì "dưỡng tính linh" phần nhiều nói về "tâm linh, tinh thần, tính tình", chứ không phải là dưỡng sinh thân thể và hình hài.

Bài Đăng U châu đài ca (tr.57) của Trần Tử Ngang, câu "Độc thương nhiên nhi thế hạ" dịch là "Thương riêng mình mà lệ chảy", ở đây không phải là "thương riêng mình", ý chính của câu này là "nghĩ đến cái mênh mông của đất trời, riêng một mình sa giọt lệ" hoặc là "một mình bùi ngùi thương chung cho cái kiếp người".

Bài Tự quân chi xuất hi (tr.58) của Trương Cửu Linh có nhiều ý hay, nhưng lời dịch chưa diễn đạt hết.

Bài Bãi tướng (tr.64-65) của Lý Địch Chi dịch chưa đạt, câu "Tị hiền sơ bãi tướng" sao lại dịch thành "Người hiền xưa lánh chức"...

Bài Oán từ II (tr.70-71) của Thôi Quốc Phụ, câu "Thiếp hữu la y thường" dịch là "thiếp có áo the thêu" chưa chính xác, "la y thường" không phải là áo the thêu, mà là "quần áo bằng the, bằng là lượt."

Sau đây tôi muốn dành thời gian nói về một bài thơ 5 chữ có tiêu đề là Hành quân cửu nhật tư Trường An cố viên (tr.194) của Sầm Tham mà Nguyễn Hà đã dịch là:

Đăng cao toan tìm đến;
Mà rươụ chẳng ai mang.
Thương khóm cúc vườn cũ,
Giá nở ngay chiến trường.

Và anh cho rằng các bản dịch từ trước đều sai, vì "Đăng Cao" là địa danh (Xóm Đăng Cao) chứ không phải là lên cao. Để giải quyết vấn đề này ta phải tìm xuất xứ của bài thơ: năm Đường Thiên Bảo thứ 14 (755), An Lộc Sơn nổi loạn, năm sau kinh thành Trường An thất thủ. Tháng hai năm Chí Đức thứ hai, Sầm Tham đi theo Túc Tông từ Bành Nguyên hành quân đến Phượng Tường. Đến tháng 9 quân Đường lấy lại Trường An, Sầm Tham viết bài thơ này ở Phượng Tường trong thời gian đó, đúng vào tiết "Trùng cửu" tức là ngày 9 tháng 9 âm lịch. Ngày Tết này còn gọi là "Trùng dương" hay "Thượng dương". Theo tục lệ xa xưa của Trung Quốc cứ đến ngày đó mọi người thường lên núi, lên chỗ cao (đăng cao) uống rượu và hái hoa "thù du" (một loại hoa rừng) cài lên đầu đề tránh khí độc. Trong văn chương đời Đường có nhiều bài thơ hay viết về đề tài đó. Vương Duy có bài Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ mà Nguyễn Hà cũng đã tuyển dịch trong tập này. Bạch Cư Dị có bài Trùng dương tịch thượng phú bạch cúc (trên tiệc rượu ngày Trùng dương vịnh hoa cúc trắng). Đỗ Mục có bài Cửu nhật Tế Sơn đăng cao (ngày Trùng cửu lên cao tại núi Tế Sơn).

Ở Việt Nam, các nhà thơ trước đây cũng có trường hợp vận dụng điển cố này vào thi ca rất nhuần nhuyễn và thành công. Bài Diểu thu ngọa bệnh, cố nhân quá phỏng, thoại cửu (cuối thu bị ốm, bạn cũ đến thăm, cùng nhau nhắc lại chuyện xưa) của Miên Thẩm, trong đó có câu:

Phong vũ nhất tôn luân tụ tán,
Giang sơn cửu nhật bãi đăng cao.

(Chén rượu, gió mưa, câu tán hợp,
Non sông, ngày chín, chẳng lên cao)

Còn Nguyễn Khuyến thì :

Cận lai bất tác đăng cao hứng,
Túy ngọa hàn song bão úng miên.

(Gần đây chán cả trò chơi núi,
Ôm hũ bên song say ngủ khoèo.)

Như vậy những bản dịch trước đây không nhầm, mà ngược lại là hoàn toàn chính xác, nếu hiểu "đăng cao" là một địa danh thì mối liên hệ giữa câu trên và câu tiếp theo bị phá vỡ và bài thơ cũng không còn giá trị. Câu "vô nhân tống tửu lai" (không ai mang rượu tới) - một câu nói có vẻ bình thường, nhưng thực ra là một điển cố có liên quan đến Đào Uyên Minh - nhà thơ lớn có khí tiết thanh cao của văn học cổ đại Trung Quốc. Sách Nam sử - ẩn dật truyện có ghi rõ: Vào tiết Trùng cửu, Đào Tiềm đang ngồi bên khóm cúc cạnh nhà, thì có một viên quan mến mộ tài năng và đức độ của ông, đem rượu đến biếu. Như vậy "đăng cao" và "tống tửu" có quan hệ mật thiết với nhau về mặt điển cố. Bài thơ ngắn gọn, súc tích, câu thơ mộc mạc, chất phác, ngôn từ đơn giản, nhưng chứa đựng một lượng thông tin lớn, tác giả đã gửi gắm vào đó bao nhiêu nỗi niềm tâm sự trước cảnh loạn ly của đất nước và nỗi thống khổ của nhân dân. Làm sao để chuyển tải được đầy đủ nội dung đó của bài thơ vào 20 từ của tiếng Việt, thông qua lối nói gián tiếp là một điều không đơn giản.

Riêng về phần thất ngôn tuyệt cú, Nguyễn Hà đã tuyển dịch được khoảng 120 bài, trong đó có những bài đã được nhiều người dịch khá thành công, tuy nhiên lời dịch Nguyễn Hà cũng có những điểm sáng tạo tôi không nhắc lại ở đây. Riêng về phần chữ nghĩa tôi xin có một vài ý kiến trao đổi sau đây:

Câu 2 bài Tống Đỗ Thập tứ chi Giang Nam (tr.78) của Mạnh Hạo Nhiên: "Quân khứ xuân giang chính diểu mang" mà dịch xuôi là "Chàng còn đến con sông xuân cũng mênh mang nước nữa làm gì" và dịch ra thơ "Lênh đênh chi nữa hỡi chàng ơi!". Câu này phải hiểu là "Khi bạn đi chính là lúc con sông mùa xuân đầy nước rộng mênh mông".

Câu 3 "Nhật mộ chinh phàm hà xứ bạc" mà dịch xuôi là "Rồi mai này mỗi tối cánh buồm chiến đậu ở đâu ?" và dịch ra thơ "Rồi mai buồm chiến nơi nao đậu?". "Chinh" ở đây không phải là chinh chiến, đánh nhau, mà có nghĩa là "đi, đi xa," cụm từ "chinh phàm" có nghĩa là "thuyền đi xa"

Câu 2 bài "Khuê oán" (tr.81) của Vương Xương Linh: "Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu dịch là "Ngày xuân ngừng trang điểm..."hoặc "Xuân ngưng trang điểm" đều không chính xác, vì từ "ngưng" trong tiếng Hán không có nghĩa là "ngừng" mà chỉ có nghĩa là ngưng đọng, ngưng kết, đông đặc và tập trung tư tưởng làm một việc gì, nghĩa trong bài thơ là tập trung trang điểm, trang điểm xong (vì câu trên đã nói "thiếu nữ bất tri sầu" nên mới tập trung trang điểm).

Bài Tái du Huyền Đô quan (tr.284) của Lưu Vũ Tích đúng ra phải phiên âm là "quán" (đạo quán - nơi ở và tu luyện của các Đạo sĩ) chứ không phải quan. Do đó không thể dịch là "lại đến chơi Huyền Đô Quan" mà phải dịch là "Lại đến chơi quán Huyền Đô" (ở phường Sùng Tử trong thành Tây An).

Câu 1 bài Khiển hoài (tr.354 - 355) của Đỗ Mục "Lạc phách giang hồ tái tửu hành" mà dịch xuôi là "Chở rượu đi khắp sông hồ như kẻ mất vía" rồi dịch ra thơ "Vía lạc sông hồ chở rượu say" thì không đúng. Từ "lạc phách" không hề có nghĩa là "mất vía(!)", mà là "lang thang, không có định sở, bơ vơ, lưu lạc, nay đây mai đó..." Nhiều bản dịch trước đây đã hiểu chính xác câu thơ này:

"Vơ vẩn sông hồ, nghiêng ngả say" (Trần Trọng San)

"Lang bạt giang hồ chén chú, anh" (Khương Hữu Dụng).

Trên đây là một số ý kiến nhân đọc cuốn Đường thi tứ tuyệt, chắc hẳn trong đó còn những bài dịch hay mà người viết bài này chưa phát hiện được.

T.A

CHÚ THÍCH

(1) Đường thi tứ tuyệt - Nguyễn Hà tuyển dịch, Nxb.VHTT. l996.

TB

BIA SỰ TÍCH NGÔ SĨ LIÊN

TRẦN BÁ CHÍ

Niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697), sử thần Lê Hy và Nguyễn Quý Đức viết lời tựa bộ Đại Việt sử ký toàn thư để khắc in, có đoạn mở đầu rằng: "Nước ta có sử ký chép các đời, do các bậc tiên hiền Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên làm trước, rồi Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh nối theo sau. Trong ấy không việc gì không chép đầy đủ...".

Vậy Ngô Sĩ Liên là một bậc tiên hiền của ngành sử học nước ta, đã được xưa nay nêu cao tên tuổi. Tác phẩm của ông là một bộ sử lớn còn truyền lại đến nay và là bộ sử xưa nhất, đầy đủ nhất. Phần đóng góp lớn lao của Ngô Sĩ Liên không chỉ riêng ngành sử học, mà còn đóng góp chung cho nhiều ngành khoa học khác của đất nước.

Nhân chuẩn bị kỷ niệm 300 năm khắc in bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (1697-1997), chúng tôi sưu tầm, phiên dịch tấm bia đá chép về sự tích của ông, công bố để mọi người đều biết.

Khu di tích có nhiều đền nhiều bia. Đây là tấm bia do dân thôn Ngọc Giả dựng tại đền thờ ông ở xã Chúc Sơn huyện Mỹ Đức (nay thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).

Bia đá hình trụ, cao 1,55m, rộng 60cm, chân bia cao 30cm. Phần thân bia cao 80cm, rộng 35cm, phần trán bia cao 25cm, rộng 35cm, búp dần lên cuối chóp rộng 15cm. Bia có 4 mặt, chỉ 2 mặt trước và sau có khắc chữ. Mặt trước khắc tên bia và văn bia, mặt sau khắc niên hiệu dựng bia. Các đường diềm khắc hoa cúc dây lượn uyển chuyển, mềm mại.

Phần nội dung bia, chúng tôi xin lần lượt phiên âm, dịch nghĩa, chú giải như sau:

Phiên âm :

Ngô Sĩ Liên Di Tích Ký

Ngô tiên sinh Sĩ Liên, Chương Đức huyện, Chúc Lý xã, Ngọc Giả thôn nhân dã. Lê Thái Tông Đại Bảo tam niên, Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, Thanh Oai Bối Khê, Trạng nguyên Nguyễn Trực bảng dã. Thánh Tông Hồng Đức thập niên dĩ Lễ bộ Hữu thị lang Triều liệt đại phu, kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp, kiêm Sử quán tu soạn, toản tu Đại Việt sử ký toàn thư. Kỳ thư hiệu chính Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên nhị thư, tăng nhập ngoại kỷ, phàm thập ngũ quyển; biên niên tắc pháp Lân kinh, tỷ sự tắc hiệu Mã sử. Chí ư kỷ chí chi bị, nghĩa lệ chi đáng, văn tự chi an, dữ khuyến trừng chi công luận, các hệ vu hậu tắc hựu phi Lê, Phan nhị đại nho sở khả cập, nhi vi hậu lai tu sở tổ. Lưu Tử Nguyên vân: "Sử hữu tam trường: tài, học, thức", tiên sinh phi kiêm dự, hà năng nhược tư ? Thử kỳ khả khuy chi vạn nhất dã. Lão nhi trí sự, thọ cửu thập hữu cửu tuế. Kỳ hậu thôn nhân kiến chỉ từ vu Hỏa Tinh chi tây, xã nhân diệc kiến chỉ từ chi, tuế tế dĩ xuân thu nhị đinh. Gian hữu cựu thạch nhị phiến, lệnh doãn Phạm mệnh xã, thôn các khởi kiến vu từ sở. Huấn đạo Bùi nhân thuật sở truyền tỷ đăng chi thạch, kỳ bất truyền giả khuyết yên. Thị ký.

Hoàng triều Tự Đức thập tứ niên, Xuân, Thanh minh hậu bát nhật.

Ngọc Giả thôn phụng tự.

Dịch nghĩa:

Bia Ghi di Tích Ngô Sĩ Liên(1)

Ngô Sĩ Liên tiên sinh người thôn Ngọc Giả, xã Chúc Lý, huyện Chương Đức(2). Ông đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm thứ 3 niên hiệu Đại Bảo thời Lê Thái Tông (1442), đỗ cùng bảng với Trạng nguyên Nguyễn Trực(3) người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai. Đến triều Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức năm thứ 10 (1469) ông được trao chức Hữu thị lang bộ Lễ, Triều liệt đại phu, kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp, kiêm chức Tu soạn ở Quốc sử quán, soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Khi soạn bộ sử này, ông đã hiệu chính 2 bộ sử có trước do Lê Văn Hưu(4), Phan Phu Tiên(5) vâng sắc soạn và thêm vào phần Ngoại kỷ, gồm 15 quyển(6); chép thời gian thì theo phép biên niên ở kinh Xuân thu, cách so sánh cân nhắc sự kiện thì bắt chước thể sử kỷ truyện của Tư Mã Thiên(7). Đến các phần ký phần chí cũng đầy đủ, các nghĩa lệ đều chép thỏa đáng, cách hành văn thật hoàn thiện, cùng những lời bình luận để nêu người tốt răn kẻ xấu ghi sau mỗi phần thì hai vị đại nho Lê (Văn Hưu), Phan (Phu Tiên) không thể sánh kịp và được các nhà viết sử sau này kế thừa. Lưu Tử Nguyên(8) nói rằng: "Người viết sử phải giỏi cả ba mặt: tài, học, thức", nếu tiên sinh không giỏi cả thì sao có thể làm được như thế ? Điều này chỉ mới thấy một phần trong muôn phần tài năng của tiên sinh ! Khi tuổi đã già tiên sinh nghỉ việc, hưởng thọ được 99 tuổi(9). Sau khi tiên sinh mất, dân thôn dựng đền thờ ở phía tây gò Hỏa Tinh, rồi người trong xã cũng dựng đền, hàng năm chọn ngày Đinh(10) của mùa xuân và mùa thu mà cúng tế. Nơi đây sẵn có 2 tấm đá cũ, quan Lệnh doãn họ Phạm sai các xã thôn dựng vào trong đền thờ. Quan Huấn đạo họ Bùi nhân đó thuật những điều được truyền khắc lên bia, điều gì không truyền lại thì còn để khuyết. Nay làm bài ký.

Ngày 8 sau tiết Thanh minh mùa xuân năm Tự Đức thứ 14 (1861).

Thôn Ngọc Giả thờ cúng.

T.B.C

CHÚ THÍCH

(1) Dòng này dịch 6 chữ lớn ở trán bia, tức tên bia. Thác bản này do PGS,PTS Hoàng Văn Khoán cung cấp.

(2) Huyện Chương Đức có từ thời Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, thuộc phủ ứng Thiên, trấn Sơn Nam. Gia Long thứ 14 (1815) đổi ứng Thiên làm ứng Hòa. Tự Đức thứ 33 (1880) đổi Chương Đức làm Chương Mỹ. Thời Duy Tân bỏ đạo.

(3) Nguyễn Trực sinh năm 1417, đỗ Trạng nguyên năm 1442 lúc 26 tuổi, mất năm 1474 chỉ thọ 57 tuổi.

(4) Lê Văn Hưu (1230-1322) là nhà soạn sử đầu tiên của nước ta.Ông soạn bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển, chép từ thời Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng, dâng vua năm 1272.

(5) Phan Phu Tiên người huyện Từ Liêm, đỗ khoa Hoành từ thời Lê Thái Tổ, nhậm chức ở Quốc sử viện. Năm 1455 ông được vua Lê Nhân Tông sai chép tiếp phần sử Lê Văn Hưu, vẫn gọi là Đại Việt sử ký, chép từ đầu triều Trần Thái Tông (1225) đến năm người Minh về nước (1428). Phần viết của ông, người sau thường gọi Sử ký tục biên.

(6) Năm 1471 đại thắng Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông chọn Ngô Sĩ Liên làm Sử quán Tu soạn. Đến ngày 26 tháng Giêng năm Kỷ Hợi (1479) Ngô Sĩ Liên dâng bộ Đại Việt sử ký toàn thư lên vua Lê Thánh Tông gồm 15 quyển. Có lẽ 5 quyển là Ngoại kỷ, 10 quyển là Bản kỷ.

(7) Bia ghi "tỷ sự", chỗ này đáng ghi kỷ truyện thì thích hợp hơn, vì câu trên về Lân kinh đã ghi biên niên. Hoặc giả thời đó sách hiếm hoi, Huấn đạo họ Bùi không nhớ ra thể sử kỷ truyện do Tư Mã Thiên khởi đầu chăng ?

(8) Câu nói này là của Lưu Tri Cơ, một sử gia nổi tiếng của Trung Quốc thời Đường, xuất sắc về môn bình luận lịch sử. Ông có hiệu là Tử Huyền, bia này khắc Tử Nguyên. Không rõ họ Huấn đạo họ Bùi nhớ nhầm, hay thợ khắc nhầm vì chữ "Huyền" và chữ "Nguyên" có tự dạng gần giống nhau.

(9) Ngô Sĩ Liên thọ 99 tuổi, nhưng chưa tra được năm sinh năm mất. Xin nêu số tuổi vài bạn đồng khoa với ông để góp phần liên tưởng, suy đoán. Nguyễn Trực sinh 1417 thọ 57 tuổi; Nguyễn Như Đỗ sinh 1424, thọ 102 tuổi, mất 1525; Nguyễn Hữu Phu sinh năm 1413; Lê Lâm đậu Tiến sĩ năm 32 tuổi, tức sinh năm 1411; Nguyễn Nghị sinh năm 1412. Có lẽ những năm 1510, 1511 Ngô Sĩ Liên đã lui khỏi triều. Vì những năm đó, vua giao Vũ Quỳnh làm Tổng tài Sử quán, đến năm 1511 Vũ Quỳnh dâng bộ Đại Việt thông giám thông khảo 26 quyển, tham khảo sử liệu người trước, chép từ họ Hồng Bàng đến 12 Sứ quán gọi là Ngoại kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Lê Thái Tổ (1428) gọi là Bản kỷ. Như vậy bộ sử của Vũ Quỳnh đã dựa trên thành quả của Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.

(10) Theo Cương mục cbb.XXII. 31 thì ngày Đinh thuộc Hỏa. Hỏa là lửa sáng, biểu tượng của văn minh, của sự phát huy trí tuệ. Tế Khổng Tử và Tiên nho phải chọn ngày thượng Đinh, tức ngày của Thượng tuần (từ mồng 1 đến mồng 10) của tháng 2 và tháng 8 âm lịch.

TB

VỀ MỘT BÀI VĂN BIA CỦA TIẾN SĨ VŨ TÔNG PHAN MỚI ĐƯỢC PHÁT HIỆN

VŨ BĂNG TÚ

Tiến sĩ Vũ Tông Phan (Vũ Như Phan, Vũ Phan), tự Hoán Phủ, hiệu Đường Xuyên và Lỗ Am, tục gọi ông Nghè Tự Tháp, sinh năm Canh Thân (1800), đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1826), mất năm Tân Hợi (1851). Sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu của Tiến sĩ rất phong phú. Các tác phẩm chính: Tô Khê tùy bút tập, Lỗ Am di cảo thi tập (với gần 400 bài thơ), Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, Bắc Ninh tỉnh Đốc học Vũ Lô Am tiến sinh trường văn (Văn sách), và bộ sách đồ sộ Cổ văn hợp tuyển (với 13 tập)... (Hầu hết đều được lưu giữ trong Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

Nói đến văn bia của Vũ Tông Phan, người ta thường nói tới hai bài:

1. Văn bia ghi sự tích Trưng Vương (Trưng Vương sự tích bi kí).

2. Bài kí đền Ngọc Sơn Đế Quân (Ngọc Sơn Đế Quân từ kí).

Hai bài đã được dịch và in trong Tuyển tập văn bia Hà Nội (Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội - 1978).

Cách đây 9 năm, trên báo Người Hà Nội (số ra ngày 20-11-1987) cụ Đinh Tú có đưa tin về một bài văn bia nữa của Vũ Tông Phan: Văn bia về việc sửa mới lại nhà thờ Tam nguyên (Trùng tân Tam nguyên từ bi kí). Nhà thờ Tam nguyên là nhà thờ của họ Bùi ở ngõ Phất Lộc, nay là nhà số 46 ngõ Phất Lộc, quận Hoàn Kiếm.

Năm 1991, cụ Phạm Tuấn Khánh, lại phát hiện được một bài văn bia thứ tư của cụ Nghè họ Vũ: Văn bia ghi việc trùng tu miếu Hỏa thần và xây thêm giải vũ (Trùng tu Hỏa thần miếu tăng kiến giải vũ bi kí). Bài văn bia này cũng đã được cụ Phạm Tuấn Khánh và ông Vũ Thế Khôi dịch và công bố trong cuốn Vũ Tông Phan, cuộc đời và thơ văn (Nxb. Văn học, 1995).

Gần đây, trong một lần về huyện Cẩm Bình (tỉnh Hải Dương), quê của họ Vũ (xưa là huyện Đường An, tỉnh Hải Dương), ông Vũ thế Khôi lại phát hiện được một bài văn bia thứ năm của cụ Nghè Tự Tháp: Bài kí ở bia văn chỉ Đường An (Đường An văn chỉ bi). Trên mặt trước của bia, phía bên trái, dòng lạc khoản ghi rõ:

"Mùa hạ, Giáp Thìn, năm thứ tư niên hiệu Thiệu Trị (1844). Hậu sinh: Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826), nguyên học chính Bắc Ninh, Vũ Như Phan, người Lương Đường, bái soạn". (Hoàng triều Thiệu Trị vạn vạn niên chi tứ tuế Giáp Thìn hạ. Hậu sinh: Bính Tuất khoa Tiến sĩ nguyên Bắc Ninh Lương Đường Vũ Như Phan bái soạn(1).

Bia hiện được đặt ở phía trái sân đền Vạc, xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương (tức xã Hoạch Trạch, huyện Đường An cũ). Nhưng theo tên tấm bia và nội dung bài kí thì bia vốn đặt ở Văn chỉ Đường An, trên đất xã Hoạch Trạch này. Tuy cùng một xã, nhưng đền Vạc hiện nay và khu Văn chỉ xưa có phải là một không? Mặt khác, vì sao hiện mặt trước của bia lại quay vào phía trong đền ? (Lẽ thông thường, theo chúng tôi được biết, mặt trước của bia phải được đặt quay ra phía cổng đền).

Bởi thế, ngày 23-11-1996, chúng tôi cùng ông Vũ Thế Khối về xem lại tấm bia, xác minh được: trước đây, bia đặt ở Văn chỉ Đường An, trên đất xã Hoạch Trạch xưa, mà nay là xã Thái Học, cách đền Vạc hiện nay mấy chục mét, về phía trái của đền. Khu Văn chỉ này do Minh phủ họ Nguyễn (Cử nhân xã Đại Lí, huyện Mĩ Hoá, tỉnh Thanh Hóa)(2) về làm quan ở vùng này, đã cùng Hội Tư văn trong huyện, khi trùng tu Văn chỉ cũ (như trên đã dẫn, là năm 1844) chuyển về xây tại đây. Năm tháng qua đi, khu Văn chỉ không còn gì ngoài mấy tấm bia. Khu đất Văn chỉ xưa dân đã làm nhà và vườn. Cách đây mấy năm, khi trùng tu đền Vạc, dân xã Thái Học mới chuyển bia đến dựng tại bên trái sân đền, vị thế rất trang trọng. Duy chỉ có bệ cũ của bia đã bị vỡ, phải chôn chắp lại (theo các cụ trong làng cho biết thì bệ cũ cao hơn). Bia cao khoảng 1,50m (chưa kể phần bệ), rộng khoảng 0,85m, gồm hai mặt. Mặt trước khắc khoảng 362 chữ Hán, trán bia khắc dòng chữ Đường An Văn chỉ bi (Bia Văn chỉ Đường An), dưới đó ghi lại quá trình trùng tu Văn chỉ và việc dựng bia, soạn bài kí. Mặt sau khắc khoảng 1079 chữ Hán, trán bia khắc dòng chữ to: Lịch đại tiên hiền bi (Bia ghi tên các vị tiên hiền các triều đại), dưới đó ghi khoa thi, học vị, họ tên, quê quán của 105 vị tiên hiền đời Lê và 3 vị đời Nguyễn (mới khắc đến khoa thi 1851) đều là ngươì quê Đường An. Tên 3 vị đời Nguyễn (là đương triều, không phải lịch triều), có lẽ mới được khắc thêm về sau ? (Vì chữ khắc nhỏ hơn).

Chúng tôi đã tìm thấy thác bản của bài văn bia trên đây, hiện lưu giữ trong thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang kí hiệu số 19779-19780, nhưng chưa hề được các tác giả nghiên cứu về Vũ Tông Phan từ trước đến nay khai thác. Đối chiếu niên hiệu soạn bài văn bia, tên tác giả và nội dung từng mặt bia đều khớp với bản chúng tôi ghi được từ tấm bia ở đền Vạc, xã Thái Học, mà chúng tôi mô tả trên đây.

Theo chúng tôi, đây là một bài văn bia có giá trị văn hoá ghi chép về một trong những vùng đất thi thư có danh tiếng - huyện Đường An, tỉnh Hải Dương xưa kia. Một vùng quê mà (tính đến 1851) đã có tới 108 vị thành đạt trong các kì thi Hội, thi Đình (các kì thi quốc gia), với:

1. Trạng nguyên: Lê Nại, người xã Mộ Trạch (Nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, Huyện Cẩm Bình), đỗ Trạng Nguyên khoa ất Sửu (1505), đời Lê Uy Mục.

2. Bảng nhãn:

- Nguyễn An (Nguyễn Kim An), xã Thời Cử (nay thuộc xã Tuyển Cử, huyện Cẩm Bình), 22 tuổi đã đỗ Bảng nhãn khoa Nhâm Thìn (1472), đời Lê Thánh Tông.

- Nhữ Trọng Đài, xã Hoạch Trạch (Nay là xã Thái Học, huyện Cẩm Bình), đỗ Bảng nhãn khoa Quý Sửu (1733), đời Lê Thuần Tông.

3. Thám hoa:

- Lưu Khải Chuyên, xã Bình Đê (An Đê) (nay thuộc huyện Cẩm Bình), đỗ Thám hoa khoa Mậu Dần (1581), đời Lê Chiêu Tông.

- Vũ Thạnh, xã Đan Luân (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình), 22 tuổi đỗ Thám hoa khoa ất Sửu (1685), đời Lê Hy Tông.

- Hoàng Xuân Hiệp, xã Châu Khê (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình), đỗ Thám hoa khoa Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ tư (1851) và 102 vị Tiến sĩ, trong đó có nhiều vị đỗ Hoàng giáp.

Bởi vậy nếu khai thác kỹ, văn bia có thể giúp chúng ta nghiên cứu không chỉ về truyền thống khoa cử của một địa phương, mà còn có thể góp phần hiểu thêm nhiều điều về lịch sử khoa mục: bổ sung cho đăng khoa lục (trước đây, vì một lí do nào đó, có 6 vị chưa có tên trong cuốn Các nhà Khoa bảng Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học 1993); bổ sung thêm một số vấn đề trong tiểu sử các vị tiên hiền (ví dụ Thám hoa khoa Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ tư (1851), Hoàng Xuân Hiệp có tên trong bia Văn chỉ Đường An, nguyên quán xã Châu Khê, nay là thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, mà lâu nay các tài liệu đăng khoa lục đều ghi quê quán (thực ra là trú quán) của ông là phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, Hà Nội, nay là Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm (Các nhà khoa bảng Việt Nam - trang 832).

Bài văn bia còn cho chúng ta tư liệu nghiên cứu về văn hóa sử của một vùng, có những thông tin có thể liên quan đến việc xem xét về truyền thống văn hóa chung. Chẳng hạn, sau Văn Miếu ở Kinh đô, không chỉ nhiều tỉnh lập Văn Miếu (như Văn Miếu tỉnh Hải Dương), mà nhiều huyện cũng đã lập Huyện chỉ và huyện Đường An có lẽ là một trong những huyện lập Huyện chỉ lớn nhất. Trong bia có ghi: "Văn chỉ cũ đặt tại xã Lỗi Dương... do Tiến sĩ Nhữ Đình Toản, người Hoạch Trạch xây dựng. Nhữ Đình Toản đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu thứ hai đời Lê ý Tông (1736) và ông mất năm 1774. Như vậy có thể biết Huyện chỉ Đường An được lập vào khoảng giữa thế kỉ XVIII.

Bài văn bia cũng cung cấp thêm bằng chứng khẳng định một trong những tư tưởng chủ đạo của các nhà Nho tiến bộ đầu triều Nguyễn, mà Vũ Tông Phan đã phát biểu trong thơ văn của ông(3), đó là giữ gìn, lưu truyền thanh danh và sự nghiệp của các bậc tiên hiền như một tiền đề thiết yếu, đặng nêu cao và phát triển sự nghiệp giáo hoá văn chương cho các thế hệ sau. Kết thúc phần một, bài kí viết: "Từ nay việc thờ cúng đã có nơi chốn, sự kế tục đăng khoa có thể ngưỡng vọng thời phồn thịnh của tiền nhân, đắp bền phúc trạch của các nhà Nho đời trước, cũng là ý tưởng văn giáo của Minh phủ vậy".

Bài kí còn toát lên một niềm tự hào về nền văn hiến nước nhà và sự đóng góp vào nền văn hiến đó của quê hương Đường An. Mở đầu bài kí viết: "Đại Việt ta là nước văn hiến, mà huyện Đường An cũng là một đất như vậy".

Tác giả nhắc nhở muôn đời các thế hệ mai sau rằng ánh sáng văn hiến ấy trước hết là ở các bậc tiên hiền của quê hương mà sự nghiệp của họ gắn bó mật thiết với văn mạch vinh quang của đất nước (sự quan văn mạch). Giáo dục tình yêu nước là xuất phát từ tình yêu cội nguồn quê hương và tình yêu quê hương làm sâu sắc thêm tình yêu nước.

Trên đây mới là những suy nghĩ sơ bộ của chúng tôi. Nếu nghiên cứu kĩ, chúng tôi tin còn có thể tìm thêm những giá trị của bài văn bia hiểu hoặc hiểu sâu thêm những điều đã nêu trên. Bài văn bia cũng là một tư liệu quý để nghiên cứu về sự nghiệp và tư tưởng của Vũ Tông Phan, một trong những danh nhân của Thủ đô Thăng Long - Hà Nội. Đồng thời, việc dần dần phát hiện thêm những bài văn bia của Vũ Tông Phan, gợi cho chúng tôi đặt những nghi vấn để tiếp tục mở rộng địa bàn sưu tầm và nghiên cứu về văn bia của Cụ.

Phiên âm mặt thứ nhất :

Đường An văn chỉ bi

Ngã Đại Nam văn hiến chi bang, Đường An huyện diệc kì địa dã.

Cựu văn chỉ tại bản Lỗi Dương xã, Liên Kiều chi tả. Nguyên tiền Hoạch Trạch Tiến sĩ Nhữ Đình Toản sáng tạo, cung tiến tự điền dĩ cung phụng tự.

Đệ tuế nguyệt dịch lưu, cựu văn chỉ tiệm đồi, xuân thu tế tự khiếm tiệm. Bản huyện luỹ dục tu chi nhi vị năng dã.

Minh phủ Nguyễn đại nhân (Thanh Hóa, Mĩ Hóa, Đại Lí Cử nhân), lai doãn ngô thổ, mưu chư huyện thân tương vu trung huyện nhi di thiết chi. Trạch đắc huyện hạt chi Hoạch Trạch xã cựu chỉ, tường nhận bi ký tắc y ấp Văn chỉ chi sở tọa Cấn hướng Khôn, nãi cựu Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng sở lập, long mạch oanh hồi, địa thế sảng khải, thị diệc nhất danh thắng dã. Nhưng tập huyện thân cai phó tổng hương lí thảo biện vật liệu cải trúc vi huyện chỉ. Thiết dĩ thổ chuyên, nhiễu dĩ mộc thụ, dĩ Quý Mão khởi công, Giáp Thìn công tuấn. Tái lập huyện ước, tăng chí tự điền. Cái sự hữu khả nhân tắc nhân chi, nhân chi trùng quảng chi, diệc truy thuật tiền tu chi ý dã.

Tòng thử hưởng tự hữu sở, khoa mục kế đăng viễn xí tiền nhân chi thịnh, cố nho tiên chi di trạch, diệc Minh phủ dĩ văn giáo vi niệm giả dã.

Huyện thân dục thùy bất hủ, hội biện tân bi, cẩn kí tiên hiền khoa thứ tính danh quán chỉ, dĩ sự quan văn mạch, ủy Phan vi kí. Phan tố chuyết ư ngôn lũy từ phất soạn cẩn thuật sở kiến cung vi kí.

Văn chỉ tại Hoạch Trạch Mả Kì xứ, địa diện nhất cao bán, chu tường các ngũ trượng.

Huyện ước mỗi tổng nhất bản lưu chiếu, kì tự điền khế văn trương giám hội chấp chiếu.

Thời:

Hoàng triều Thiệu trị vạn vạn niên chi tứ tuế Giáp Thìn, hạ

Hậu sinh:

Bính Tuất khoa Tiến sĩ, nguyên Bắc Ninh Học chinh Lương Đường Vũ Như Phan bái soạn.

Dịch nghĩa mặt thứ nhất:

Bia Văn chỉ Đường An.

Đại Việt ta là nước văn hiến, mà huyện Đường An cũng là đất như vậy.

Văn chỉ cũ ở phía trái cầu Sen, xã Lỗi Dương vùng này, do Tiến sĩ Nhữ Đình Toản(4), người Hoạch Trạch xây dựng nên, lại cung tiến ruộng thờ để phụng sự việc cúng tế.

Trải qua năm tháng đổi thay, Văn chỉ cũ đã đổ nát, nên việc tế lễ hàng năm không tiện. Huyện ta nhiều lần muốn tu bổ mà chưa làm được.

Nay, ngài quan phủ anh minh họ Nguyễn (Cử nhân Đại Lí, Mĩ Hóa, Thanh Hóa)(5) đến làm quan ở vùng ta, bàn với các văn thân trong huyện, chuyển Văn chỉ đến giữa huyện để xây lại. Chọn được ngôi đất thì nơi đặt Văn chỉ cũ của ấp này hướng tây bắc, do cựu Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng(6) lập nên, long mạch uốn quanh, địa thế cao ráo, cũng là một danh thắng. Bèn tập hợp các văn thân và các Cai tổng, Phó tổng, Lí trưởng trong toàn huyện, đóng góp vật liệu xây dựng lại Huyện chỉ. Xây gạch, trồng cây xung quanh, năm Quý Mão (1843) khởi công, năm Giáp Thìn (1844) hoàn thành. (Sau đó) lập lại huyện ước và đặt thêm ruộng thờ. Đại để phần nào có thể kế thừa được thì kế thừa, rồi nhân đó mà mở mang thêm, âu cũng là theo ý của tiền nhân đã gây dựng vậy.

Từ nay việc thờ cúng đã có nơi chốn, sự kế tục đăng khoa có thể ngưỡng vọng thời phồn thịnh của tiền nhân, đắp bền phúc trạch của các nhà Nho đời trước, cũng là ý tưởng văn giáo của Minh phủ vậy.

Văn thân trong huyện mong lưu truyền bất hủ, bèn cùng nhau làm tấm bia mới, cẩn trọng ghi lại thứ tự khoa thi, họ tên quê quán của các bậc tiên hiền, vì việc làm liên quan đến văn mạch lâu dài, uỷ thác cho Phan tôi viết bài kí. Phan tôi vốn lời lẽ vụng về, nhiều lần từ chối không được, đành phải đem những điều đã biết, cẩn trọng cung kính mà soạn bài kí này.

Văn chỉ xây tại xứ Mả Kì, xã Hoạch Trạch, diện tích một sào rưỡi, tường bao quanh mỗi mặt 5 trượng. Bản huyện ước mỗi tổng lưu giữ một bản, tờ văn khế tự điền do Giám hội giữ.

Mùa hạ, Giáp Thìn (1844) năm thứ tư niên hiệu Thiệu Trị.

Hậu sinh: Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826), nguyên học chính Bắc Ninh, Vũ Như Phan, người quê Lương Đường bái soạn.

Dịch nghĩa mặt thứ hai:

Bia ghi các vị tiên hiền các triều đại

Tóm tắt họ tên, quê quán các vị tiên hiền các triều đại, người quê Đường An; xin kính cẩn liệt kê như sau:

1. Vũ Nghiêu Tá, Đại học sĩ khoa Giáp Thìn, quê xã Mộ trạch(7)
2. Tạ . . . Đại học sĩ khoa . . ., quê xã Mộ trạch.
3. Vũ Hán Bi, Đại học sĩ khoa Giáp Thìn, quê xã Mộ trạch.
4. Trần . . . Đình, Đại hành khiển nhập thị kinh diên khoa.
5. Vũ . . . , Đại học sĩ khoa . . ., xã Mộ Trạch.
6. Vũ Đức Lâm, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1448), xã Hà Xá.
7. Nguyễn Lũ, Tiến sĩ khoa Quý Dậu (1453), xã Thời Cử (8)
8. Phạm Lỗ, Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1463), xã Lỗi Dương(9) .
9. Vũ Hữu, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1463), xã Mộ Trạch,
10. Chu Lộc, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1463), xã Lôi Khê.
11. Nguyễn An, Bảng nhãn khoa Nhâm Thìn (1472), xã Thời Cử,
12. Vũ Ưng Khang, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472), xã Mộ Trạch.
13. Phạm Xán, Tiến sĩ khoa ất Mùi (1475), xã Lỗi Dương.
14. Đỗ Chính Lạc, Tiến sĩ khoa ất Mùi (1475), xã Đình Tổ (10) .
15. Vũ Quỳnh, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1478), xã Mộ Trạch.
16. Vũ Nguyên Quyền, Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1481), xã Mộ Trạch.
17. Vũ Loan, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487), xã Tuy Lai(11) .
18. Vũ Đôn, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487), xã Mộ Trạch.
19. Vũ Mật, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487), xã Tuy Lai.
20. Đinh Doãn Minh, Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1490), xã Hương Giản.
21. Bùi Hoàn Khánh, Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1490), xã Tuy Lai.
22. Vũ Tụ, Tiến sĩ khoa Quí Sửu (1493), xã Hoạch Trạch(12).
23. Vũ Thiệu, Tiến sĩ khoa Quí Sửu (1493), xã Ngọc Cục(13) .
24. . . . Tĩnh . . ., Tiến sĩ khoa Bính Thìn, . . . xã Ngọc Cục.
25. Vũ Thận Trinh, Tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1499), xã Mộ Trạch.
26. Phạm Duy Viên, Tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1499), xã Ngọc Cục.
27. Ngô Tuy, Tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1499), xã Tông Tranh(14) .
28. Vũ Bá Dung, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502), xã Hương Giản.
29. Vũ Cán, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502), xã Mộ Trạch.
30. Ngô Văn Huy, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502), xã Châu Khê(15).
31. Lê Nại, Trạng nguyên khoa ất Sửu (1505), xã Mộ Trạch.
32. Phạm Thuần Nhân, Tiến sĩ khoa ất Sửu (1505), xã Bì Đổ (16).
33. Phạm Văn Túc, Truyền giáo . . ., xã Bì Đổ.
34. Nguyễn Kính Chỉ, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508), xã Trâm Khê(17).
35. Nguyễn Bách Tuế, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508), xã Tông Tranh.
36. Lê Tư, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511), xã Mộ Trạch.
37. Phạm Nguyên, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511), xã Triền Đông (18).
38. Đoàn Đức Phu, Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1514), xã Châu Khê.
39. Lưu Khải Chuyên, Thám hoa khoa Mậu Dần (1518), xã Bình Đê.
40. Đỗ Văn Quýnh. Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), xã Yên Ninh.
41. Vũ Lân Chỉ, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), xã Mộ Trạch.
42. Lê Quang Bí, Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1526), xã Mộ Trạch.
43. Nhữ Mậu Tổ, Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1526), xã Mộ Trạch.
44. Trương Hữu Phi, Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1541), xã Ngọc Cục.
45. Trương Nguyên Lôi, Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1541), xã Phúc Khê.
46. Lê Thọ Vĩnh, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1544), xã Nhữ Xá(19) .
47. Nhữ Tông, Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556), xã Nhữ Xá.
48. Vũ Tĩnh, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1562), xã Mộ Trạch.
49. Vũ Đường, Tiến sĩ khoa ất Sửu (1565), xã Mộ Trạch.
50. Phạm Điển, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1568), xã Ngọc Cục.
51. Phạm Hựu, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1571), xã Đào Xá (20) .
52. Bùi Đình Kiên, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1577), xã Ngọc Cục.
53. Vũ Đăng, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1577), xã Đình Tổ.
54. Bùi Thế Vinh, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580), xã ân Luân
55. Lê Kim Quế, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580), xã Mi Thự(21) .
56. Phạm Công Phụ, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1583), xã Đình Tổ.
57. Vũ Sâm, Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1589), xã Lôi Khê.
58. Nguyễn Dụng, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1592), xã Lương Đường.
59. Lê Kim Bảng, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1592), xã Mi Thự.
60. Trần Vĩ, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1640), xã Hoạch Trạch.
61. Vũ Bạt Tụy, Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1634), xã Mộ Trạch.
62. Phạm Liễn, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1637), xã Ngọc Cục.
63. Vũ Duy Chí, Truyền giáo Tể tướng, xã Mộ Trạch.
64. Vũ Phương Trượng, Truyền giáo Thượng thư, xã Mộ Trạch.
65. Vũ Lương, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1643), xã Mộ Trạch.
66. Vũ Văn Hoành, Truyền giáo Thượng bảo hương, xã Mộ Trạch.
67. Vũ Trác Oánh, Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), xã Mộ Trạch.
68. Vũ Đăng Long, Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), xã Mộ Trạch.
69. Vũ Công Lượng, Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), xã Mộ Trạch.
70. Vũ Cầu Hối, Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659), xã Mộ Trạch.
71. Vũ Duy Hài (Bật Hài), Tiến sĩ khoa Kỉ Hợi, (1659), xã Mộ Trạch.
72. Vũ Công Đạo, Tiến sĩ khoa Kỉ Hợi (1659), xã Mộ Trạch.
73. Lê Công Triều, Tiến sĩ khoa Kỉ Hợi (1659), xã Mộ Trạch.
74. Vũ Duy Đoán, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1664), xã Mộ Trạch.
75. Vũ Công Bình, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1664), xã Mộ Trạch.
76. Nhữ Tiến Dụng, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1644), xã Hoạch Trạch
77. Vũ Đình Lâm, Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), xã Mộ Trạch.
78. Vũ Duy Khuông, Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), xã Mộ Trạch.
79. Phạm Quang Chiếu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, (1676), xã Đào Xá.
80. Phạm Hữu Dung, Tiến sĩ khoa Canh Thân (1680), xã Ngọc Cục.
81. Nhữ Đình Hiền, Tiến sĩ khoa Canh Thân (1680), xã Hoạch Trạch.
82. Vũ Đình Thiều, Tiến sĩ khoa Canh Thân (1680), xã Hoạch Trạch.
83. Đào Tuấn Ngạn, Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1680), xã Ngọc Cục.
84. Vũ Thạnh, Thám hoa khoa ất Sửu (1685), xã Đan Luân(22).
85. Vũ Trọng Trình, Tiến sĩ khoa ất Sửu (1685), xã Mộ Trạch.
86. Vũ Công Đạt, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1691), xã Thời Cử.
87. Nguyễn Thường Thịnh, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1703), xã Mộ Trạch.
88. Phạm Minh, Tiến sĩ khoa Quí Mùi (1703), xã Mi Thự.
89. Vũ Phương Nhạc, Truyền giáo Đông các học sĩ, xã Mộ Trạch.
90. Vũ Huyên, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712), xã Đan Luân.
91. Vũ Huyên, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712), xã Đan Luân.
92. Vũ Huy, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712), xã Đan Luân.
93. Nhữ Trọng Đài, Bảng nhãn khoa Quý Sửu (1733), xã Hoạch Trạch.
94. Nguyễn Luân, Tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1739), xã Lương Đường.
95. Phạm Đỉnh Chung, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1724), xã Tuấn Kiệt.
96. Vũ Phương Đề, Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736), xã Mộ Trạch.
97. Nhữ Đình Toản, Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736), xã Hoạch Trạch.
98. Vũ Trần Tự, Tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1739), xã Đan Luân.
99. Vũ Huy Đỉnh, Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), xã Mộ Trạch.
100. Đào Huy Điển, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1757), xã Đào Xã
101. Phạm Dương Ưng, Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1763), xã Lương Đường.
102. Nhữ Công Chân, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772), xã Hoạch Trạch.
103. Đào Vũ Hương, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772), xã Đan Luân.
104. Vũ Huy Diệm, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772), xã Lương Đường.
105. Phạm Quí Thích, Tiến sĩ khoa Kỉ Hợi (1799), xã Lương Đường.
106. Vũ Đức Khuê, Tiến sĩ khoa Nhâm Ngọ (1822), xã Lương Đường
107. Vũ Tông Phan, Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826), xã Lương Đường.
108. Hoàng Xuân Hiệp, Thám hoa khoa Tân Hợi (1851), xã Châu Khê.

V.Đ.T

CHÚ THÍCH

(1) Vì kị húy vua Thiệu Trị là Miên Tông, tên của tác giả Vũ Tông Phan phải đổi là Vũ Như Phan.

(2) Tức Nguyễn Danh Hiển, đỗ Cử nhân khoa ất Dậu, Minh Mệnh thứ 6 (1825), trường Thanh Hóa. (Theo Cao Xuân Dục - Quốc triều hương khoa lục - Nxb. Tp. HCM, trang 143).

(3) Xin tham khảo Vũ Tông Phan, cuộc đời và thơ văn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, trang 39-40.

(4) Nhữ Đình Toản, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736), người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương).

(5) Tức Nguyễn Danh Hiển, đỗ cử nhân khoa ất Dậu, Minh Mạng thứ 6 (1825), trường Thanh Hóa. (Theo Cao Xuân Dục - Quốc triều hương khoa lục- Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr. 143).

(6) Nhữ Tiến Dụng, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1664), người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương).

(7) Mộ Trạch nay là xã Tân Hồng

(8) Thời Cự nay là xã Tân Hồng

(9) Lỗi Dương nay là xã Thái Học

(10) Đình tổ nay là xã Đại Đồng

(11) Tuy Lai nay là xã Vĩnh Tuy

(12) Hoạch Trạch nay là xã Thái Học

(13) Ngọc Cục nay là xã Thúc Kháng

(14) Tông Tranh nay là xã Thúc Kháng

(15) Châu Khê nay là xã Thúc Kháng

(16) Bì Đỗ nay là xã Cổ Bì

(17) Trâm Khê nay là Thái Hòa

(18) Triều Đông nay là xã Cẩm Chế

(19) Nhữ Xá nay là xã Thái Hòa

(20) Đào Xá nay là xã Bãi Sậy

(21) Mi Thự nay là xã Vĩnh Hồng

(22) Đan Luân nay là xã Nhân Quyền

TB

CHỮ DỊ THỂ

PHÁC CAN

1. Thế nào là chữ dị thể ?

Chữ dị thể là một chùm những chữ Hán có hình chữ khác nhau, nhưng về âm đọc và ý nghĩa thì hoàn toàn giống nhau. Người ta còn gọi loại chữ này là Hoặc thể. Các chữ dị thể có thể thay thế lẫn nhau trong bất cứ ngữ cảnh nào mà không làm thay đổi ngữ nghĩa. Thí dụ như chữ ĩ và chữ . đều đọc là Khối và đều có nghĩa là “hòn đất”.

2. Các loại chữ dị thể:

Đại thể có thể chia chữ dị thể ra làm sáu loại:

(1). Loại chữ có “hình bàng” khác nhau: trong các chữ hình thanh, hình bàng thường chỉ biểu thị sự phân loại nghĩa chữ, cho nên các hình bàng mà ý nghĩa gần nhau thì có thể thay lẫn cho nhau ở một số chữ nào đó. Thế là nảy sinh một loạt chữ dị thể. Thí dụ như ba bộ xích,  xước và túc tuy khác nhau nhưng điều liên quan đến nghĩa “đi”. Do đó đã nảy sinh các cặp chữ dị thể ý (khê), / ýÂ (biến),  /  (tích).

Hay như nói thì phải mở miệng, nói ra thì thành lời, khi nói phải thở hơi ra ( ), bởi thế hình thành các cặp chữ dị thể như  (vịnh),  ậ (tụng),  ỡ (thán),  è (ca) v.v. Loại chữ dị thể này có khá nhiều. Chẳng hạn như :

vàỹÃ tính/ ặvũ)

và ỹ (đạo ầ (đỉnh

và/ ỹ thị) ẩ đổ

vàỹÍ ( quý); ẹ (chuân)

và/ ẻ ( tiều )ỹề (tụy)

và ẽ (bàng );/ ể (cách)

và ẫ (thể);ỹÂ (khu)

vàỹÚ (kê); ễ (uyên)

ý vàý miêu ếsài

vàỹÛ (canh);/ ệ (khang)

 ỹ khỏa)

và  í (cao); ì(hồn)

/ ờ (đường

và ỉ(khanh)

và ò(noãn)

Gần giống trường hợp trên là trường hợp thay thế hình bàng. Tuy nghĩa chữ không thay đổi, nhưng từ những góc nhìn khác nhau thì có thể dùng những hình bàng khác nhau, mặc dù các hình bàng đó không tương thông về ý nghĩa. Ta có những cặp chữ dị thể:

 ở (dung);  / ỡ(bàn);  ớ(uyển)

 / ợ (Bình) ;  (tường)

Sự thay thế lẫn nhau giữa các hình bàng này là có điều kiện. Chúng có thể thay nhau trong một số chữ cụ thể nào đó, chứ không phải chữ nào cũng thay được. Chẳng hạn như (hưu) không thể viết õ; (nhãn) không thể viết ù ;  (tiền) không thể viết ỏ v.v.

(2) Loại chữ có “thanh bàng” khác nhau: trong các chữ hình thanh thì thanh bàng là bộ phận biểu thị âm đọc của chữ, nhưng ở Hán tự chữ đồng âm rất nhiều, chữ cận âm lại càng nhiều, cho nên cùng một âm đọc có thể ghi bằng nhiều thanh bàng khác nhau. Thế là cũng ra đời hàng loạt chữ dị thể. Thí dụ:

ó(lương) ; ọ / giao)

 ồ(viên); ặ/ (liên); / ổ (thiện);

 / ỗ / (huyên) v.v.

Ở vào trường hợp ba chữ “huyên” trên đây thì hai chữ đầu thuộc loại 1 làm thành một cặp, hai chữ sau cũng làm thành một cặp thuộc loại 2, trong đó chữ ỗ có mặt ở cả hai cặp.

(3) Loại chữ có vị trí của thiên bàng không giống nhau:

Thông thường, ở trong một chữ hợp thể (gồm nhiều chữ hợp lại), Thuyết văn giải tự gọi là tự , để đối lập với văn  là chữ đơn thể). Vị trí của thiên bàng ở tuyệt đại đa số trường hợp là cố định. Tuy nhiên cũng có những trường hợp không cố định. Thế là cũng sản sinh một số chữ dị thể. Chẳng hạn:

/ ố(nã)/ ỹ (phong) ú (kỳ)

 ộ(quần) ẽ(lược); ụ(cấu)

 ỳ (băng) ấ(điển) ừ (giải)

 ỷ (tàm) ủ (cảo) ử (từ)

ỹ (khái) ũ (hòa) ữ(lãng)

 ý (miên)

(4) Loại chữ khác nhau về phương pháp cấu tạo: loại này có tự dạng khác nhau xa. Thí dụ:

 í (điếu); thể); lệ)

(sất); (toán) ự (diễm)

(5) Loại chữ có số lượng thiên bàng khác nhau. Thí dụ:

 ơhốngdục

thanh

(6) Loại chữ phồn giản khác nhau. Thí dụ:

(long)(học)(thấp)

(biến)(đầu)(biện)(đối)

Khi vượt ra ngoài biên giới Trung Hoa, chữ Hán trở thành tài sản văn hóa của cả một khu vực. Người Triều Tiên, người Nhật Bản, người Việt Nam đều đã có tạo thêm những chữ dị thể của họ. Tập hợp, nghiên cứu những chữ dị thể ở các quốc gia khác nhau đó, so sánh chúng với chữ Hán gốc chắc chắn sẽ phát hiện những điểm thú vị về văn tự học. ở đây chỉ xin nêu một thí dụ về chữ dị thể do người Việt Nam tạo ra: chữ “thọ”. Ai cũng biết chữ “thọ” vốn viết khó, rườm rà  (bộ sĩ + 11 nét), chưa kể các dạng chữ cổ , nay đã được chính thức quy định chữ giản thể chuẩn là: (7 nét). Song từ lâu trong các văn bản Hán văn Việt Nam đã lưu hành một lối viết giản hóa chỉ gồm 4 nét, cửu + thập (cửu thập = chín mươi, người chín mươi tuổi tất đáng gọi là thọ).

3. Mấy điểm cần chú ý.

a)Chữ dị thể thường là thành cặp một đối một, song cũng có trường hợp một đối hai, ba. Thí dụ:

(tịnh)  (thăng)

 (trát)  ý ýÔ (phảng)

b) Chữ dị thể không phải không thay đổi. Có những chữ thoạt đầu là hai chữ khác nghĩa, không thể thay thế lẫn nhau, về sau do sự biến đổi của ngữ nghĩa, có thể thay lẫn nhau, thành ra chữ dị thể. Thí dụ chữ  (nhàn) nghĩa gốc là cái then cửa (thanh gỗ cài cửa) và chữ ý (nhàn) nghĩa gốc là khe hở, thoạt đầu không dùng thay nhau được nhưng về sau nghĩa gốc của  không dùng nữa, nên ý (nhàn hạ) cũng có thể viết  . thế là  và ýƠ thành một cặp dị thể. Ngược lại cũng có những chữ dị thể, về sau có sự phân công không dùng thay thế lẫn nhau được nữa nên không còn coi là chữ dị thể nữa. Thí dụ như hai chữ “dụ” và thời Tiên Tần - Lưỡng Hán có thể dùng thay lẫn nhau, đều có nghĩa “hiểu dụ” và “tỉ dụ”, nhưng về sau có sự phân công “hiểu dụ” không được viết , ngược lại “tỉ dụ” cũng không được viết thì và trở thành hai chữ khác nhau với nghĩa khác nhau. Đương nhiên sự biến đổi đó của chữ dị thể không ai có thể tự ý quy định, mà xảy ra trong quá trình sử dụng lâu dài của cộng đồng người Hán.

c) Có một số không ít chữ, vốn là có phân công, song trong ý nghĩa nhất định hoặc với điều kiện nào đó có thể dùng thay lẫn nhau. Như ýƯ quỹ)vốn là hai chữ khác nhau, nhưng trong nghĩa “tặng cho”, “đưa tặng” thì có thể dùng thông lẫn nhau. Trường hợp này không nên coi là chữ dị thể.

d) ở mục 2 khi nói chữ dị thể chia làm sáu loại, trong đó loại (3) là những chữ dị thể có vị trí của thiên bàng không giống nhau như ố/ (nã) và  ữ lãng) v.v. Song lại nên nhớ rằng khác nhau về vị trí của thiên bàng không nhất thiết là chữ dị thể, mà trong phần lớn trường hợp đó là những chữ khác nhau cả âm lẫn nghĩa. Thí dụ:

(bồi = đi kèm; giúp phụ) / (bộ = bộ; bộ phận)

 (đề = khóc, kêu, hót) / (xí = chỉ; chỉ có).

(ngâm = ngâm vịnh; rên) / (hàm = ngậm; chứa) v.v.

2. Trong chữ Hán vốn có rất nhiều chữ dị thể, tăng thêm gánh nặng rất lớn cho người học. ở Trung Quốc, người ta đã tiến hành chỉnh lý chữ dị thể năm 1955 đã ban hành Bảng chỉnh lý chữ dị thể đợt 1, xác định các chữ chuẩn, phế bỏ 1055 chữ dị thể. Những chữ dị thể đã phế bỏ này từ đó không dùng nữa, thông thường người ta có thể không cần biết đến chúng, song muốn đọc các tài liệu trước năm 1955, nhất là sách cổ thì vẫn phải học cả những chữ dị thể ấy.

Trên đây là nói về chữ dị thể trong chữ Hán. Suy rộng cho chữ Nôm, ta cũng thấy có một bức tranh tương tự.

Loại (1): á(lành) ẳ (ái)

ẫ /ýÚ (bọc)

Loại (2): ýĐ / ýă (bai) ý¿ / ỹƯ (lớn)

Loại (3): â / ýº / ýÛ / ýằ (ngồi)

ẻ /ý± (người)

Loại (4): (ai)ý (ấy)

ý³ / ý² (nhiều)

Loại (5):  ẵ / ắ (may)

 ã (rạng)

Loại (6): ỡ / ạ (sau) ỹ² / ỹ³ (trống)

Thật ra về lý thuyết chữ Nôm còn có thể có nhiều chữ dị thể hơn, bởi lẽ chữ Nôm:

1. Là chữ coi trọng thành phần biểu âm.

2. Tỉ lệ chữ hình thanh cao.

3. Là thứ văn tự chưa trải qua chuẩn hóa.

Tài liệu tham khảo chính:

1. Hứa Thận, Thuyết ăn giải tự, bản in chụp của Trung Quốc thư điếm.

2. Khang Hy tự điển.

3. Trung Quốc Bách khoa từ điển (phần Ngôn ngữ học), Bắc Kinh năm 1986.

4. Khâu Đức Tu, Văn tự học tân thám. Nxb. Hợp ký đồ thư, Taipei, 1995.

5. Hà Cử Doanh, Hồ Song Bảo, Trương Mạnh chủ biên, Trung Quốc Hán tự, Văn hóa đại quan, Nxb. Bắc Kinh Đại học, Bắc Kinh, 1995.

6. Bảng tra chữ Nôm, Nxb. KHXH, Hà Nội. 1976.

TB

KỶ NIỆM 25 NĂM NGÀNH HÁN NÔM THUỘC KHOA VĂN HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, HÀ NỘI

Trong hai ngày 25 và 26 tháng 11 năm 1997, ngành Hán Nôm thuộc Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội đã tổ chức kỷ niệm 25 năm, từ khi Thủ tướng chính phủ ký quyết định thành lập ngành Hán Nôm ở đây.

Ngành tuy chưa có bề dày lịch sử như các ngành khoa học khác (với tư cách là ngành đào tạo Cử nhân sau 1954), song, phía sau nó là cả chiều dài lịch sử hơn một ngàn năm, gắn liền với nền văn hiến nước nhà.

Đến nay, chúng ta có thể đi tới đánh giá một cách tương đối đúng đắn, khách quan và khoa học về một ngành đặc thù, rằng ngành Hán Nôm có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hán Nôm là đối tượng nghiên cứu góp phần phát triển các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Sự vận động tự thân, khả năng hồi sinh của Hán Nôm trong sự khẳng định và phát huy nền văn hóa dân tộc là một tất yếu mang tính qui luật.

Tại Văn Miếu-Quốc tử giám, ngày 26 tháng 11 năm 1997, ngành Hán Nôm long trọng tổ chức kỷ niệm 25 năm xây dựng và trưởng thành. Đến dự lễ kỷ niệm có đại diện Đại học quốc gia, ban Giám hiệu, các phòng, trung tâm và các khoa trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn; đại diện các ban, ngành, cục, vụ, viện, các Giáo sư, các nhà khoa học trong và ngoài trường; cựu sinh viên 16 khóa đã tốt nghiệp và hàng trăm sinh viên đang học tại trường.

Giám đốc Đại học quốc gia - GS. Nguyễn Văn Đạo, PGS. PTS. Phùng Hữu Phú, Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, đến dự và phát biểu ý kiến, nhấn mạnh tầm quan trọng của ngành Hán Nôm trong điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay. Ngành Hán Nôm đang được sự quan tâm lớn lao của Đảng và Nhà nước, các cơ quan chức năng và toàn xã hội. Những ý kiến quí báu của các đại biểu là nguồn cổ vũ to lớn, đồng thời đặt ra cho ngành Hán Nôm nhiệm vụ rất nặng nề, đó là cần định ra hướng phát triển mới mang tính cập nhật. Trước mắt, những gì còn bất cập, có giải pháp khắc phục từng bước, điều chỉnh hợp lý, vừa phát huy truyền thống, vừa mở ra hướng tiếp cận mới, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ Hán Nôm có đủ năng lực, trình độ chuyên môn sâu và rộng trong nghiên cứu, khai thác và giảng dạy Hán Nôm, hoặc hoạt động trên các lĩnh vực có liên đới với Hán Nôm.

Trước đó, ngày 25 tháng 11 năm 1997, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn có tổ chức Hội thảo khoa học "25 năm ngành Hán Nôm". Có thể nói, Hội thảo này đã thể hiện sự quan tâm lớn của nhà trường đối với ngành. Mục tiêu trước hết là phai cần phát huy mạnh mẽ vị trí của ngành trong xã hội, để Hán Nôm học trở thành một ngành khoa học mang tính xã hội hóa cao, như nó cần phải có.

37 báo cáo khoa học trong Hội thảo của các Giáo sư, các nhà khoa học, cán bộ giảng dạy ở bộ môn, Viện Hán Nôm, Viện Sử học, Đại học Sư phạm I, Đại học Sư phạm Ngoại ngữ thuộc Đại học quốc gia, các cơ quan và địa phương, tập trung nêu bật những nội dung sau:

- Vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ, trong đó nhấn mạnh phương pháp giảng dạy và nội dung giảng dạy để có đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có khả năng chuyên môn tinh thông, đáp ứng đòi hỏi khắt khe về chất lượng, phục vụ nhu cầu xã hội.

Một số báo cáo tập trung nêu bật phương pháp giảng dạy chữ Hán, chữ Nôm, nắm bắt nhanh và hiệu quả các giá trị hàm chứa trong di bản Hán Nôm bằng các phương pháp tư duy khoa học; đồng thời tham khảo các phương pháp giảng dạy cổ truyền, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại:

Một vài ý kiến về phương hướng đào tạo cán bộ Hán Nôm của GS. Nguyễn Tài Cẩn; Vấn đề đào tạo đội ngũ thầy, cô giáo dạy chữ Hán và cán bộ nghiên cứu Hán học trong thời gian tới của GS. Hoàng Hữu Yên; Mấy suy nghĩ về dạy và học chữ Nôm của Lê Anh; Cần đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy Hán Nôm để thích ứng với nhu cầu xã hội của Nguyễn Thanh; Để cho việc đào tạo Hán Nôm ở bậc Đại học ngày càng đáp ứng nhu cầu thực tiễn của GS. Trần Nghĩa; Đào tạo những chuyên gia giỏi để khai thác di sản Hán Nôm của PTS. Hoàng Văn Lâu; Cần đào tạo chuyên gia giỏi về Hán Nôm để góp phần vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của GS. Văn Tạo; Một vài đóng góp vào việc nâng cao chất lượng đào tạo Cử nhân Hán Nôm của PGS. Hoàng Trọng Phiến...

Bản chất của Hán Nôm được thể hiện ở nội dung, phương pháp và mối quan hệ chặt chẽ giữa phương tiện và đối tượng nghiên cứu.

Như vậy, phải có chiếc đòn xeo để có thể lật bẩy sức nặng đè lên những gì thuộc về Hán Nôm, gạt lớp bụi thời gian trên các di bản Hán Nôm. Choếc đồn xeo đó là: đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu Hán Nôm trước mắt cũng như lâu dài. Đây là một nhiệm kỳ cực kỳ quan trọng nhằm cung cấp những chuyên gia giỏi về Hán Nôm cho đất nước.

- Hướng phát triển có tính chiến lược của ngành Hán Nôm cũng đang là vấn đề nóng bỏng mà nhiều báo cáo đã đề cập tới. Những năm qua, ngành Hán Nôm dù đã vươn lên, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Muốn khắc phục tình trạng này, không thể chỉ dựa vào sự cố gắng của lực lượng cán bộ đang giảng dạy tại ngành mà còn cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của xã hội nói chung. Nhiều báo cáo đã bàn đến hướng tháo gỡ, giải tỏa những bó buộc, những bất cập so với yêu cầu thời đại; đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Hán Nôm trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Coi những di bản Hán Nôm là đối tượng và phương tiện nghiên cứu để khám phá bề dày sáng tạo trí tuệ của ông cha ta. Nhìn chung, các báo cáo đều đi sâu phân tích, đề xuất ý kiến nhằm qua Hội thảo, góp tiếng nói chung, nhấn mạnh các vấn đề như vị thế của một ngành học đặc thù, đượm màu sắc văn hóa, mang những nét riêng Việt Nam; khả năng hợp tác quốc tế; cứ liệu cho việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa học khác, như lịch sử, văn học, triết học, quân sự, y dược, thiên văn, địa lý v.v. GS. Nguyễn Quang Hồng: Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ khoa học Ngữ văn; GS. Đinh Xuân Lâm: Tư liệu Hán Nôm với công tác nghiên cứu lịch sử cận đại dân tộc; GS. Phan Ngọc: Suy nghĩ về ngành Hán Nôm; GS. Bùi Duy Tân: Nhớ lại sự ra đời của ngành học mới; Lê Anh Tuấn: Hán Nôm vừa là phương tiện vừa là đối tượng nghiên cứu; GS. Phan Đại Doãn: Mấy suy nghĩ về ngành Hán Nôm; Nguyễn Quý Hữu: Khả năng hợp tác quốc tế của ngành Hán Nôm; PTS. Phạm Văn Khoái: Một vài suy nghĩ về xã hội hóa Hán Nôm từ bản thân Hán Nôm...

- Một số báo cáo đề cập đến việc kết hợp dạy Hán Nôm với tiếng Trung Quốc hiện đại, như: Suy nghĩ về môn học tiếng Hán hiện đại ở ngành Hán Nôm của Đinh Trọng Thanh; Đôi điều suy nghĩ về dạy tiếng Hán hiện đại của Tạ Doãn Quyết.

Hán tự trong các nước đồng văn, hay vai trò của chữ Hán trong tiếng Nhật, tiếng Hàn: PGS. Nguyễn Cao Đàm với bài Đôi lời về tình hình chữ Hán trong tiếng Nhật hiện đại; PGS. Nguyễn Liên với bài Vai trò chữ Hán trong văn hóa Hàn quốc.

Ngoài ra, còn có một số báo cáo đi vào các mặt thư tịch, văn bản học, dữ liệu Hán Nôm, tình hình di bản Hán Nôm, biện pháp lưu trữ di sản Hán Nôm...

Hội thảo khoa học 25 năm ngành Hán Nôm đánh dấu sự xây dựng và phát triển của một ngành đào tạo, khẳng định vị thế của nó trong hiện tại và tương lai. Từ đó, định hướng tiếp cận mới, nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ giảng dạy, mở rộng hợp tác, cải tiến từng bước nội dung, phương pháp giảng dạy, kết hợp nghiên cứu, ngõ hầu đáp ứng được yêu cầu cần học, cần biết Hán Nôm của đông đảo cán bộ và nhân dân ta trong tình hình hiện nay. Trong lời đề dẫn, PTS. Nguyễn Thịnh nêu bật những cống hiến của ngành Hán Nôm 25 năm qua với trọng trách một ngành đào tạo, một trung tâm sản sinh ra những nhà nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm cho đất nước.

25 năm ngành Hán Nôm so với truyền thống văn hiến của dân tộc ta hàng ngàn năm quả là ngắn ngủi. Những gì còn nghiêng lệch khi nhìn nhận về một ngành đặc trưng đã lùi về dĩ vãng. Tương lai đang mở ra cho ngành Hán Nôm với một cấp số nhân các kết quả đào tạo trong những năm qua: hơn 2 trăm Cử nhân khoa học Hán Nôm, hàng ngàn sinh viên không chuyên, các nhà sư, cán bộ và nhân dân theo học chữ Hán, chữ Nôm... Đây là minh chứng cho sự hồi sinh và phát triển của một ngành học truyền thống Việt Nam.

LÊ ANH TUẤN

TB

TRUNG QUỐC VĂN HÓA SỬ
TAM BÁCH ĐỀ (tiếp theo)

LTS : Trên Tạp chí Hán Nôm số 3-1997 chúng tôi có giới thiệu cuốn Trung Quốc văn hóa sử tam bách đề (300 bài mục về lịch sử văn hóa Trung Quốc), cùng một vài bài mục trích dịch từ sách đó. Nay xin giới thiệu tiếp ba bài mục nữa, cũng tuyển chọn từ sách trên qua bản dịch của Đào Phương Chi để bạn đọc tham khảo.

1. Danh, tự, biệt hiệu có gì khác nhau? Người xưa chọn dùng thế nào?

(Danh, tự, biệt hiệu hữu thập ma khu biệt? Cổ nhân thị chẩm ma dạng thủ dụng đích? ).

Hồ Phùng Tường

Ngày nay, đa số người Trung Quốc đều chỉ có "danh" mà không có "tự". Khi nói đến "danh tự", thường là tên người. Nhưng người Trung Quốc cổ đại quả thực vừa có "danh" lại vừa có "tự". Có người ngoài danh, tự ra, còn có biệt hiệu nữa.

."Danh" là tên riêng của cá nhân trong xã hội. Buổi đầu thời cổ đại, tên người thường rất đơn giản, như các tên Khổng Giáp, Bàn Canh, Vũ Đinh, Đế Tân (Trụ Vương) ở hai triều đại Hạ, Thương đều lấy can chi làm danh, có thể có quan hệ với sự coi trọng thời gian của người đương thời. Về sau, theo sự phát triển của ngôn ngữ văn tự và quan niệm văn hóa, tên người cũng ngày một phức tạp. Cách đặt tên của quí tộc đời Chu thậm chí còn có phép tắc nhất định. Như: trẻ nhỏ thường phải sinh được 1 tháng hoặc 100 ngày mới được đặt tên. Việc đặt tên cũng rất cầu kì. Sách Tả truyện - Hoàn Công nhị niên ghi lại: Phu nhân của Tấn Mục hầu là Khương thị sinh được hai trai, một đặt tên là Cừu, một đặt tên là Thành Sư. Đại phu nước Tấn là Sư Phục sau khi biết chuyện, đã cực lực phản đối, cho rằng những cái tên này không hợp với lễ chế, "là triệu chứng của loạn", sẽ dẫn tới quốc gia đại loạn. Dĩ nhiên, dân thường thì hoàn toàn không cầu kì như vậy. Có người còn cố tình chọn những cái tên xấu như "Cẩu" (chó), "Nô" (nô lệ)... Tương truyền, những đứa trẻ có tên như vậy không bị chết yểu và rất dễ nuôi.

."Tự" thường giải thích và bổ sung cho "danh", thể hiện sự hô ứng nên còn được gọi là biểu tự. Lễ kí - Khúc lễ viết: "Con trai 20 tuổi, thì làm Quán lễ và đặt tự", "Con gái lấy chồng thì làm Kê lễ và đặt tự". Con trai quý tộc đời Chu 20 tuổi làm Quán lễ, tức là tết tóc và đội mũ; con gái 15 tuổi cập kê, tức là tết tóc và cài trâm, để biểu thị đến tuổi trưởng thành. Như vậy, cũng có nghĩa là "tự" chỉ được đặt sau khi đã thành niên. Điều này biểu thị họ đã bắt đầu được mọi người tôn trọng. Tự của người xưa phần lớn đều có nghĩa gần giống hoặc phụ trợ cho hàm nghĩa của danh như: Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, Lượng(1) và Khổng Minh(2) có nghĩa gần giống nhau. Nhạc Phi, tự là Bằng Cử, Phi(3) và Bằng Cử(4) có gần nghĩa với nhau; Quan Vũ(5), tự là Vân(6) Trường, danh và tự bổ sung cho nhau, với ý "giang cánh bay vào mây". Triệu Vân(7), tự là Tử Long(8), với nghĩa "mây theo rồng"; Nhà văn đời Tống Triều Bổ(9) Chi, tự là Vô Cữu(10), danh, tự tương hợp, với ý nghĩa "bổ quá nhi vô cữu" (sửa chữa sai lầm mà không có lỗi). Có người, danh và tự được lấy từ các danh cú trong cổ thư hoặc thành ngữ, như Từ Cán, một trong "Kiến An thất tử"(11) cuối đời Đông Hán, tự là Vĩ Tường, là lấy từ câu "phi bất vĩ kì thể cán dã"(12) trong Khổng Tùng Tử; Tào Tháo, tự là Mạnh Đức, là lấy từ câu "Phụ thị chi vị đức tháo"(13) trong Tuân Tử; Lục Du, thời Đường, tác giả cuốn Trà kinh, tự là Hồng Tiệm, là lấy từ câu "Hồng tiệm lục, kì vũ khả dụng vi nghi"(14)trong Chu Dịch. Cũng có khi danh và tự phản nghĩa nhau, như nhà Lí học Chu Hi đời Tống, tự là Nguyên Hối; nhà Thư học đời Nguyên Triệu Mạnh Phủ, tự là Tử Ngang; nhà văn đời Thanh Quản Đồng, tự là Dị Chi, "Hi"(15) và "Hối"(16), "Phủ"(17) và "Ngang"(18), "Đồng"(19) và "Dị"(20) đều có nghĩa trái ngược nhau. Ngoài ra, người xưa có khi còn có "tiểu tự", tức là nhũ danh (tên gọi thời bé), như Tống Vũ Đế Lưu Dụ, có tiểu tự là Kí Nô, Tào Tháo bị gọi là A Man, Lưu Thiền được gọi là A Đẩu, đều là nhũ danh cả.

Danh, tự của người xưa thường được dùng để biểu thị thứ bậc trong gia tộc. Thời Tiên Tần, thường có thêm chữ Bá (Mạnh), Trọng, Thúc, Quí trong danh, tự, để biểu thị hàng anh em lớn nhỏ, như Bá Di, Thúc Tề, Bá là anh, Thúc là em; Khổng Khâu tự là Trọng Ni, "Trọng" có nghĩa là con thứ hai. Sau đời Hán, ở danh hoặc tự, dần dần dùng chữ hoặc thiên bàng đồng dạng để biểu thị quan hệ đồng bối, như các anh em của nhà Thư pháp Nhan Chân Khanh thời Đường, trong tên đều có chữ "Khanh" như Cảo Khanh, Diệu Khanh, Xuân Khanh. Hai anh em nhà văn đời Đường Tô Thức, Tô Triệt đều có thiên bàng xa để biểu thị quan hệ đồng bối. Những trường hợp như vậy, cho đến nay vẫn thường hay gặp.

."Hiệu" là tên gọi đặc biệt của người, còn gọi là biệt hiệu. Các sĩ đại phu trong xã hội phong kiến, đặc biệt là các văn nhân thường có biệt hiệu của mình, như thời Đường, Lý Bạch hiệu là Thanh Liêm Cư Sĩ, Đỗ Phủ hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão; thời Tống, Vương An Thạch hiệu là Bán Sơn; thời Minh, Đường Dần (Bá Hổ) hiệu là Lục Như Cư Sĩ. Sau đời Tống, phong trào đặt biệt hiệu càng thịnh. Có người tới hơn chục hoặc vài chục biệt hiệu, cũng như bút danh của các tác giả hiện đại, như Nghê Trấn thời Nguyên, Truyền Sơn, Chu Đạp thời Minh... Có người, vì biệt hiệu rất quen thuộc với mọi người, còn tên thật thì lại rất ít người biết đến, như Trịnh Bản Kiều, Chương Thái Viêm..., nên đều sử dụng hiệu của mình là chính. Biệt hiệu được chọn thường phản ánh chí hướng sở thích của một người, thí dụ, những biệt hiệu có từ "Sơn Nhân", "Cư Sĩ" đều thể hiện chủ nhân của nó coi khinh lợi lộc hoặc tự cho mình là thanh cao. Thời Tống có Âu Dương Tu, về già, lấy hiệu là "Lục Nhất Cư Sĩ", "lục nhất" có nghĩa là một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bình rượu, cộng với một ông lão, tổng cộng là sáu cái "nhất"(21). Có người lấy hiệu để gửi gắm cái chí của mình, như nhà vẽ tranh Trịnh Tư Tiêu, sau khi Tống mất, đã lấy hiệu là "Sở Nam" "Mộc Huyệt Quốc Nhân" (chữ Mộc và chữ Huyệt viết gộp lại thành chữ Tống), để bày tỏ lòng luôn hướng về phương nam, không quên nước Tống cũ. Cũng có người dùng "hiệu" để biểu đạt tâm trạng đối với cuộc đời của mình. Nhà vẽ tranh Chu Đạp cuối đời Minh, lấy hiệu là "Bát Đại Sơn Nhân", vì hai chữ "bát đại" viết liền nhau, không ra chữ khốc(22), cũng chẳng ra chữ tiếu(23) để bày tỏ tấm lòng đau khổ của mình khi nhà Minh mất. Đương nhiên, cũng có nhiều quan lại phong kiến và văn nhân chọn biệt hiệu chỉ vì học đòi làm sang, chứ không hề phù hợp với con người của họ, như Viên Thế Khải, sau khi bãi chức về nhà, tự lấy hiệu là "Hoàn Thượng Ngư Nhân"(24). Nhưng thực ra, cái gọi là "buông câu trên sông Hoàn" của ông ta chỉ là vẻ bề ngoài, còn dụng ý thực của ông ta là muốn khôi phục lại địa vị của mình.

Nói chung, danh, tự, hiệu thực ra đều là tên người. Những cái tên này chỉ thể hiện rõ những điểm không giống nhau trong khi sử dụng. Thông thường, danh, tự thường do cha mẹ và bề trên đặt cho (tự cũng có thể do chính người ấy tự đặt), trong đó thể hiện kì vọng và cách nghĩ của cha mẹ đối với con cái. Biệt hiệu là do người sử dụng tự đặt, không hề bị sự chi phối của gia tộc, thứ bậc, có thể tự do gửi gắm, biểu lộ tâm lý của mình. Vì vậy, có thể qua việc thay đổi biệt hiệu mà biết được sự thay đổi tư tưởng của người đó trong các thời kỳ.

Do người xưa rất trọng lễ nghĩa, cách dùng danh, tự, hiệu cũng rất cầu kì. Trong giao tiếp, danh thường dùng trong khiêm xưng,hoặc trên gọi dưới, lớn gọi bé, còn khi người dưới gọi người trên thì phải dùng tự, hiệu. Những người ngang hàng chỉ gọi danh khi cực thân mật. ở nhiều trường hợp, gọi thẳng danh của người đang nói chuyện hay danh của một người khác là vô cùng bất lịch sự. Xã hội phong kiến coi "trung hiếu" là lễ chế lập quốc, danh của quân chủ và cha mẹ là từ không bao giờ được nhắc đến. Nếu không, sẽ là "đại bất kính", thậm chí là"đại nghịch". Đây chính là chế độ" kị huý" đặc biệt thời cổ đại Trung Quốc.

Ngoài ra, người xưa còn lấy tên quê quán, tên quan tước, thuỵ hiệu để thay cho danh. Như: Khổng Dung thời Đông Hán được gọi là Khổng Bắc Hải (Vì từng làm Thái thú ở Bắc Hải), Hàn Dũ thời Đường được gọi là Hàn Xương Lê( Quận vọng), Đỗ Phủ được gọi là Đỗ Công Bộ (vì ông từng giữ chức Công bộ Viên ngoại lang), Nhạc Phi được gọi là Nhạc Vũ Mục (Vũ Mục là tên thụy của ông)... Những tên gọi này phần lớn đều do người khác hay người sau, vì biểu thị tôn kính, hoặc vì tiện mà sử dụng, còn chính người được gọi thì lại không dùng. Nhưng trong đó, cũng có một số tên vì dùng đã lâu, và cũng là cách gọi quen thuộc, nên được giữ lại.

Chú thích:

(1). Lượng: Sáng

(2). Khổng Minh: Rất sáng

(3). Phi : Bay

(4). Bằng cử: Cất cánh

(5). Vũ: Cánh

(6-7). Vân: Mây

(8). Long: Rồng

(9). Bổ : Bù đắp, sửa chữa

(10). Vô cữu: Không có lỗi

(11). Bảy nhà văn trong niên hiệu Kiến An cuối nhà Hán là: Khổng Dung, Trần Lâm, Vương Sán, Từ Cán, Nguyễn Vũ, ứng Dương, Lưu Trinh.

(12). Không phải cho rằng thể cán không hùng vĩ.

(13). Đó là phẩm hạnh của đức

(14). Con chim hồng bay đến đậu trên đỉnh núi cao, lông của nó có thể dùng làm vật trang sức.

(15). Hi: Sáng

(16). Hối: Tối

(17).Phủ: Cúi đầu

(18). Ngang: Ngửng đầu

(19). Đồng: Giống

(20). Dị: khác

(21). Nhất: Một

(22)(23) Khốc: Khóc; Tiếu: cười 2 từ này biểu thị trạng thái dở khóc dở cười

(24). Người câu cá trên sông Hoàn.

2. Người xưa tự xưng và xưng hô với nhau như thế nào ?

(Cổ nhân thị chẩm dạng tự xưng hòa tương hỗ xưng hô đích ?)

Hồ Phùng Tường

Xuất phát từ nhu cầu hoặc lễ tiết trong sinh hoạt xã hội, việc tự xưng và xưng hô với nhau trong giao tiếp của người xưa đã hình thành một quy tắc rất nghiêm.

* Thông thường, khi chuyện trò hoặc trao đổi thư từ với nhau, hễ nhắc đến mình, đều phải dùng khiêm xưng. khi tự xưng, ngoài việc trực tiếp xưng danh, còn một số khiêm xưng khác, trong đó, hay gặp nhất là tự xưng "bỉ nhân". Nghĩa gốc của " bỉ nhân" là chỉ người nông dân sống ở thôn quê, có nghĩa dẫn thân là người không có địa vị, không có văn hóa, tức là người thô tục. Người xưa thường dùng từ này để chỉ mình là người địa vị thấp, ít hiểu biết. Như Nam sử - Khoái Ân truyện chép: "Ân này hay tự hạ mình. Khi nói chuyện với người, thường gọi họ bằng chức quan, tự xưng bỉ nhân".

Tương tự như " bỉ nhân", từ khiêm xưng còn có "thần", "bộc", "thiếp". Những từ này vốn là cách gọi đối với nô bộc trong thời Ân Chu, để chỉ những "đàn ông làm bề tôi người, đàn bà làm thiếp người", địa vị thấp kém nhất.

Nhưng về sau, đã được dùng để làm từ tự xưng. Thường thì, đàn ông tự xưng là thần, bộc; đàn bà tự xưng là thiếp. Phần Tập giải trong Sử kí - Cao Tổ bản kỉ dẫn lời Trương án:

"Người xưa nói với nhau, phần lớn tự xưng là "thần", là cách nói tự cho mình thấp kém, cũng như người ngày nay nói với nhau, đều tự xưng là "bộc". Như Tư Mã Thiên, trong Báo nhiệm Thiếu Khanh thư, đã nói:" Bộc không dám làm đâu". Chữ "bộc" là khiêm xưng. Ví dụ về chữ "thiếp" cũng rất nhiều, như câu: "Chàng đáng làm bàn thạch, thiếp đáng làm lau sậy" trong bài thơ Nhạc phủ đời Hán Khổng tước đông nam phi. Ngày nay các vai nữ trong Kinh kịch đều tự xưng là "thiếp". Chữ "thiếp" này hoàn toàn không phải để chỉ vợ bé, mà là từ khiêm xưng của phụ nữ. ở Nhật Bản, hiện nay vẫn dùng "bộc" làm từ khiêm xưng. Đây chính là ảnh hưởng của cổ phong thời Tùy Đường.

Trong cách khiêm xưng của cổ nhân, còn có một số từ được sử dụng khá rộng và lâu dài, như: "bất tài", tức tự khiêm là người không có tài, như Tả truyện - Thành Công tam niên có câu: "Thần thực bất tài, còn dám oán ai nữa?"; " bất tiếu", tức tự khiêm là người bất tài, không có khả năng kế tục đức hạnh của tổ tiên, như Qui Hữu Quang, trong Tế ngoại cữu Ngụy Quang Lộc văn có viết: "Lại thêm tôi là kẻ bất tiếu, liên tiếp lâm vào cảnh khốn đốn"; "bất nịnh", cũng có nghĩa là không có tài năng. Chiến quốc - Triệu sách nhị có câu: "Bất nịnh có tật hay ngủ, không thể đi ngựa được"; "Bất mẫn" tức là không thông minh, mẫn tiệp. Mạnh Tử - Lương Huệ Vương: "Tôi tuy là kẻ bất mẫn, nhưng cũng xin được thưởng thức". Ngoài ra, người trẻ tuổi thường tự xưng là "vãn sinh", "học sinh", "hậu sinh" với người lớn tuổi; dân chúng tự xưng với quan lại là "tiểu nhân", "tiểu dân", con gái thường tự xưng với người khác là "nô", "nô gia"... Đó đều là những từ khiêm xưng thường gặp.

Cho dù là bậc đế vương có địa vị chí tôn chí hiển và các chư hầu, cũng đều khiêm xưng. Thông thường họ đều tự xưng là "cô", "quả". "Cô", "quả" vốn có nghĩa là đơn độc, nhỏ bé. Lão Tử (chương 24) viết: "những thứ mà người ta ghét là cô, quả, bất cốc (tức bất tài), mà vương công lại lấy những từ đó để tự xưng" Lễ kí - Ngọc tảo nói: "Phàm là tự xưng... vua của nước nhỏ xưng là "cô". Chu Hi, trong khi chú thích sách Mạnh Tử, đã nói:" Quả nhân" là chư hầu tự xưng, có nghĩa là người ít đức". Có thể thấy, kiểu tự xưng này có lịch sử rất lâu đời, không chỉ quốc quân mới khiêm xưng như vậy, mà vợ của họ cũng tự xưng như thế. Ví dụ như "quả thê" trong Kinh Thi - Đại nhã - Cư tề đều là chỉ vợ của quốc quân hoặc chư hầu. Có khi một số đại thần cũng có thể tự xưng "cô", "quả". Nhưng trường hợp này không hay gặp lắm. Về sau, "cô gia quả nhân" dần dần đã trở thành từ tự xưng của riêng các đế vương, những người khác không được lạm dụng.

Quan lại, đại thần trong xã hội phong kiến, trước Hoàng đế, đều tự xưng là "thần". Đó là điều ai cũng biết. Nhưng quan viên của dân tộc Mãn đời Thanh, lại tự xưng với Hoàng đế, Hoàng hậu là "nô tài" ("nô tài" là từ Hán dịch từ chữ "a hấp" của tiếng Mãn), có nghĩa là đầy tớ. Đây là kiểu khiêm xưng đặc biệt của dân tộc Mãn Thanh.

* Ngược lại trong khi xưng hô với người khác, cổ nhân lại thường dùng các từ tôn xưng (trừ khi hai bên có quan hệ rất xấu, có ý làm nhục đối phương). Từ tôn xưng sớm nhất là "phụ" còn đọc là phủ, "phụ" (phủ) vốn có nghĩa là bậc cao niên giữ lửa trong xã hội thị tộc phụ hệ, về sau dần trở thành từ tôn xưng đối với đàn ông. Ví dụ như ông nội của Khổng Tử là quý tộc, gọi là Chính Khảo Phụ, người khác tôn xưng Khổng Tử, sẽ gọi ông là Ni Phủ. Còn chữ "phụ" trong cụm từ quen thuộc "phụ lão huynh đệ" cũng là từ tôn xưng đối với đàn ông lớn tuổi. Các đế vương cổ đại, đối với người công cao vọng trọng, cũng tôn xưng là "phụ", như Lã Thượng (tức Khương Thái Công) được Chu Vương tôn làm "Thượng phụ", Phạm Tăng được Sở Bá Vương Hạng Võ tôn làm "á phụ". Khoảng trong thời Chu, "phụ" cũng trở thành từ để gọi cha. Để phân biệt với "phụ" tôn xưng, khi muốn chỉ cha đẻ, người ta đã dùng những từ rườm rà như "sinh phụ" và "bản sinh phụ".

Ngoài ra, '"công", "tử", "trưởng giả" cũng là những từ tôn xưng thời cổ thường dùng, như: Trần Thắng, Ngô Quảng, trong khi động viên các binh tốt tham gia khởi nghĩa, đã nói: "Công đẳng (các ông) gặp mưa, đều đến chậm, đáng chém".

Thậm chí, cha nói với con, có lúc cũng gọi con là "công", như khi Triệu Thác đời Hán kiến nghị với trung ương xóa bỏ các phiên vương, cha ông khuyên ngăn không được, bèn nói với ông rằng: "Công vì chính sự mà làm... Ta xin từ biệt công mà đi về " Từ "tử" thời cổ đại cũng rất hay gặp, như Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử thời Xuân thu, đều là cách gọi tôn xưng. Đời sau thì hay dùng "tử" để biểu thị ý tôn kính của trò với thầy, như nhà Lí học Trình Di thời Tống được học trò ông gọi là Tử Trình Tử. "Trưởng giả" thường chỉ người có đức hạnh, được mọi người tôn trọng, như Chu Nguyên Chương, vừa thấy Lý Thiện Trường đã "biết ngay đó là bậc trưởng giả, liền hành lễ với ông ta". Một số danh nhân cổ đại như Ngũ Tử Tư, Tín Lăng Quân cũng được người đời tôn là "trưởng giả".

Trong chốn quan trường thời cổ đại, cũng có một số từ tôn xưng chuyên dùng, như: Vua gọi bề tôi là "khanh", "ái khanh", bề tôi gọi vua là "bệ hạ". Từ này vẫn thường thấy trên sân khấu ngày nay. "Bệ" vốn là bậc thềm trong cung điện của các đế vương. Vì bề tôi không được gọi thẳng tên vua mà chỉ có thể nói với chấp sự đứng dưới bệ (bậc thềm), rồi nhờ ông ta truyền đạt với vua. Nhưng về sau, từ này lại chuyển thành từ tôn xưng đối với người chấp chính. Cũng như vậy, "điện hạ", "các hạ", "chấp sự" đều có nguồn gốc như trên. Nhưng một số từ tôn xưng trong chốn quan trường, về sau, phạm vì vận dụng đã không còn chặt chẽ như lúc đầu nữa, như từ "các hạ" ngày nay đã trở thành từ tôn xưng thường sử dụng trong những trường hợp mang tính lễ nghi.

Trong xưng hô của người xưa, có những từ giới hạn ứng dụng rất không rõ ràng, như "túc hạ", "quân". "Quân" vừa có thể để gọi người có địa vị rất cao, như thời Chiến quốc, em của Triệu Huệ Văn Vương là Triệu Thắng, được gọi là Bình Nguyên Quân, em của Nguỵ An Hỉ Vương là Nguỵ Vô Kị được gọi là Tín Lăng Quân... cũng có thể dùng để tôn xưng người bình thường. Có một số từ có phạm vi vận dụng cực hẹp, như "bệ hạ" "điện hạ", hay tự và hiệu tuy cũng thuộc loại tôn xưng, nhưng chỉ có thể dùng với một cá nhân thôi.

Trong xưng hô thời cổ đại, chỉ có một từ đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi, là từ "tiên sinh". Người xưa, đối với những người thầy, người già, người có đức hạnh đều gọi là "tiên sinh". Hàm nghĩa của từ này không khác mấy với ngày nay.

3. Niên hiệu là gì ? Thời cổ đại đặt niên hiệu và đổi niên hiệu thế nào ?

(Thập ma thị niên hiệu ? Cổ đại thị chẩm dạng định niên hiệu hòa cải nguyên đích)

Hồ Phùng Tường

Trung Quốc cổ đại, ngoài việc ghi năm bằng "can chi", còn có rất nhiều niên hiệu đế vương cùng tồn tại song song. Niên hiệu là tiêu chí thời đại của mỗi đế vương cầm quyền, được bắt đầu từ đời Hán. Trước đó, mỗi đế vương, dù là ở ngôi bao lâu, cũng đều không đổi niên hiệu và cũng không có niên hiệu, từ đầu đến cuối, đều gọi là... vương... đế... niên, như Chu Vũ Vương nguyên niên, nhị niên... Đến Hán sơ vẫn như vậy.

Trong lịch sử Trung Quốc, lần thay niên hiệu (chính thức đầu tiên, là ở đời Hán Văn Đế, còn niên hiệu chính thức đầu tiên thì đến khi Hán Vũ Đế lên nắm quyền mới có. Năm 140 TCN, Hán Vũ Đế lên ngôi, đặt niên hiệu là Kiến Nguyên nguyên niên, là niên hiệu đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng có người lại khảo chứng, cho biết, thực ra, chính thức kiến lập niên hiệu là vào năm Hán Vũ Đế Nguyên Đỉnh tứ niên (113 TCN) các niên hiệu trước đó như Nguyên Thứ, Nguyên Sóc, Nguyên Quang, Kiến Nguyên đều là đời sau đặt cho. Tính từ Hán Vũ Đế cho đến niên hiệu Tuyên Thống của Phổ Nghi, ông vua cuối cùng của đời Thanh, niên hiệu nối tiếp không ngừng. Dù là vương triều chính thống hay vương triều do tiếm ngôi, quân chủ "đoạt vị", chính quyền dân tộc thiểu số, chính quyền khởi nghĩa nông dân, chỉ cần có quốc hiệu, tự dựng nên một chính quyền độc lập, là sẽ có niên hiệu. Còn nếu đánh mất độc lập, trở thành bề tôi ở một vùng nào đó, thì niên hiệu cũng tự thủ tiêu. Đó gọi là "phùng chính sóc".

Mỗi Hoàng đế có bao nhiêu niên hiệu, không thể xác định được, ít thì một nhiều thì vài niên hiệu có khi lên tơí hơn chục niên hiệu. Hán Vũ Đế ở ngôi 54 năm, dùng tới 11 niên hiệu. Võ Tắc Thiên làm Hoàng đế 15 năm, dùng tới 14 niên hiệu, cứ mỗi năm lại thay một lần. Thời Ngũ đại từ cuối Hán Cao Tổ đến Hán Ân Đế cả hai đời vua đều dùng chung niên hiệu "Càn Hựu". Sang đời Hậu Chu, từ Thái Tổ Thế Tông đến Cung Đế, đều vẫn dùng chung niên hiệu Hiển Đức. Tóm lại, trước thời Tống, một vua có nhiều niên hiệu là chuyện phổ biến, còn sau thời Nguyên, việc đổi niên hiệu giảm dần. Đến thời Minh Thanh, về cơ bản là mỗi vua chỉ có một niên hiệu, như Thanh Thánh Tổ Huyền Diệp ở ngôi 61 năm, Thanh Cao Tông Hoằng Lịch ở ngôi 60 năm, là 2 Hoàng đế tại vị lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc, mỗi người cũng chỉ có một niên hiệu là "Khang Hi" và "Càn Long". Chỉ có Minh Anh Tông, vì năm Chính Thống 14 (1449) bị thủ lĩnh Ngõa Lạt Bộ Dã Tiên của Mông Cổ bắt sống ở Lũy Thổ Mộc, sau được phóng thích, phục vị năm Đại Tông Cảnh Thái 7 (1456), năm sau đổi niên hiệu thành Thiên Thuận nguyên niên nên mới có 2 niên hiệu. Nhưng trường hợp này là rất hiếm. Vì vậy ngày nay, khi gọi các Hoàng đế cổ đại, trước thời Nguyên thường gọi thụy hiệu, như Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, Nguyên Thế Tổ, còn sau thời Minh, thì phải gọi các Hoàng đế bằng niên hiệu, như Hồng Vũ Đế (Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) Gia Tĩnh Đế, Vạn Lịch Đế, Khang Hi Đế, Càn Long Đế, Đạo Quang Đế, Tuyên Thống Đế. Còn nếu một vua có nhiều niên hiệu thì không thể gọi theo cách này được.

Thời cổ đại, một Hoàng đế mới lên ngôi, việc lớn nhất là kiến nguyên cải hiệu, để thể hiện sự bắt đầu đối với dân chúng. Đương nhiên, cũng có một số rất ít Hoàng đế không có niên hiệu, như Phế Đế Nguyên Khâm và Cung Đế Nguyên Lang của Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, mỗi người ở ngôi 3 năm, đều không có niên hiệu. Nghe nói, đó là do phỏng theo lễ chế nhà Chu; Mẫn Đế nhà Bắc Chu cũng không có niên hiệu. Cá biệt còn có trường hợp trực tiếp dùng lại niên hiệu của Hoàng đế trước, như Hoàng đế cuối cùng của đời Kim dùng niên hiệu "Thiên Hưng" của Ai Tông, Nguyên Ninh Tông dùng niên hiệu "Chí Thuận" của Văn Tông.

Niên hiệu Trung Quốc thời cổ rất nhiều, nhưng đều không ngoài ý nghĩa mong muốn tốt lành, thái bình, tỏ rõ tính thần thánh hoàng quyền hoặc hi vọng quốc thái dân an. Hán Vũ Đế đã đổi rất nhiều niên hiệu khi tại vị, trong đó, có không ít niên hiệu liên quan tới cái gọi là "điềm lành", như niên hiệu "Nguyên Thú" là do vua đi săn, bắt được một con vật lạ "một sừng, chân có 5 móng". Thế là, triều thần liền nịnh hót rằng: "Đó là "Thượng đế báo hưởng" ban kì lân cho bệ hạ. Đây là chuyện nên mừng". Vua liền quyết định đổi năm ấy (122 TCN) thành Nguyên Thú nguyên niên. Cũng như vậy, niên hiệu "Nguyên Đỉnh" cũng là do bắt được một chiếc đỉnh quý mà thành. Không thể kể hết những trường hợp về "điềm lành" mà đặt niên hiệu như thế trong lịch sử, như vào năm 229, Ngô vương Tôn Quyền lên ngôi, khi ấy, ở Hạ Khẩu, Vũ Xương có người báo rằng rồng vàng xuất hiện, vua liền đặt cho năm ấy niên hiệu là Hoàng Long nguyên niên. Có những niên hiệu được đổi do quốc gia có một số đại sự nào đó, như năm 110 TCN, Hán Vũ Đế bắt đầu cho đắp núi Thái Sơn. Việc này được coi là đại sự, vì thế, đã đổi niên hiệu thành "Nguyên Phong". Năm 69, vì xảy ra động đất, lở núi, Hán Tuyên Đế "bèn đổi niên hiệu là "Địa Tiết", vì mong muốn cho đất được điều hòa".

Sự thay đổi niên hiệu còn do một số trường hợp đặc biệt khác nữa. Có khi vì kiêng miếu huý mà đổi, như: Đường Trung Tông tên là Lý Hiển, Đường Huyền Tông tên là Long Cơ, để tránh miếu hiệu của 2 ông, người Đường, khi nhắc đến niên hiệu "Hiển Khánh" của Cao Tông, thường đổi thành "Minh Khánh", khi nhắc tới niên hiệu "Vĩnh Long" của Cao Tông, thường đổi thành "Vĩnh Sùng". Còn có một cách làm nữa là cải nguyên nhưng không cải hiệu, như Đông Hán Quang Vũ Đế, năm Kiến Vũ 32 vẫn dùng tên gọi này nhưng đổi thành Trung Nguyên, bắt đầu tính từ năm thứ nhất. Năm 592, Nam triều Lưong Vũ Đế trong khi vẫn dùng hiệu "Đại Thông", lại cải xưng là Trung Đại Thông nguyên niên.

Trong vấn đề thay đổi niên hiệu, có khi còn thể hiện rõ các cuộc tàn sát đẫm máu và tranh đoạt quyền lợi trong nội bộ tập đoàn thống trị. "Chính biến Kỳ Tường" trong lịch sử cận đại là một ví dụ. Tháng 8 năm 1861 vua Hàm Phong nhà Thanh bị bệnh, mất tại hành cung Nhiệt Hà, di mệnh lại cho Di Thân Vương Tái Hoàn, Trịnh Thân vương Thụy Hoa, Hiệp biện Đại học sĩ Túc Thuận, Ngự tiền đại thần Cảnh Thọ... tổng cộng là tám người cùng nhiếp chính, phò Thái tử Tái Thuần làm vua, định năm sau đổi niên hiệu là "Kì Tường". Từ Hi Thái hậu vì tranh đoạt quyền lợi, câu kết với Cung Thân vương Dịch Tố đang lưu lại Bắc Kinh, phát động chính biến vào tháng 11, bắt và giết sạch 8 đại thần, bỏ niên hiệu "Kỳ Tường", lập niên hiệu "Đồng Trị" mở đầu thời kì độc tài của họ Na Lạp.

Phần lớn, niên hiệu có 2 chữ, như "Trinh Quán" thời Đường, "Thiệu Hưng" thời Tống, "Vĩnh Lạc" thời Minh... cũng có một số ít có 3, 4 chữ, như "Thủy Kiến Quốc" thời Vương Bôn, "Trung Đại Đồng" thời Nam triều Lương Vũ Đế, "Vạn Tuế Thông Thiên" thời Võ Tắc Thiên, "Thái Bình Hưng Quốc" thời Tống Thái Tổ. Niên hiệu dài nhất có lẽ là "Thiên Thụ Lễ Pháp Diên Tộ" của Tây Hạ Cảnh Tông và "Thiên Tứ Lễ Thịnh Quốc Khánh" của Huệ Tông, tổng cộng có 6 chữ.

Trong xã hội phong kiến Trung Quốc suốt hơn 2000 năm, không biết tổng cộng có bao nhiêu niên hiệu của đế vương, những niên hiệu trùng lặp cũng không ít. Cho đến nay, thỉnh thoảng vẫn có thêm những phát hiện mới về niên hiệu cổ đại trong các di chỉ. Chỉ trong cuốn Trung quốc lịch sử kỉ niên biểu của Nxb. Nhân dân Thượng Hải, đã thu thập được tới năm sáu trăm niên hiệu chủ yếu của các đời. Nếu tính cả những niên hiệu lặp lại, thì còn nhiều hơn nữa. Do những vấn đề liên quan đến niên hiệu tương đối phức tạp, lại có quan hệ mật thiết vơí niên đại học cổ đại Trung Quốc, nên đã trở thành một chuyên đề nghiên cứu của các nhà sử học(1).

Chú thích:

(1) Bản dịch trước khi đưa in, chúng tôi có nhờ PTS. Hoàng Văn Lâu xem lại - nhân đây xin cám ơn.