TƯ LIỆU HÁN NÔM VỀ CA TRÙ: TRỮ LƯỢNG VÀ GIÁ TRỊ
NGUYỄN XUÂN DIỆN
Ca trù là một bộ môn nghệ thuật lâu đời, độc đáo và có một vị trí đặc biệt trong kho tàng âm nhạc của người Việt. Ca trù gắn liền với văn chương, âm nhạc, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Nghiên cứu về ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.
Tư liệu để nghiên cứu ca trù bao gồm nhiều nguồn khác nhau, hiện đang tồn tại trong dân gian như: tượng thờ, tự khí, câu đối, hoành phi, sắc phong, văn bia, ca phả trong các di tích, cùng những tín ngưỡng, tập tục, kiêng kỵ; các bài ca lưu truyền trong các giáo phường... Mỗi nguồn tư liệu này đều có giá trị nhất định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về ca trù.
Bài viết này chỉ riêng đề cập đến mảng thư tịch Hán Nôm có liên quan đến ca trù được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chủ yếu bao gồm: sách, thác bản văn bia, thần tích.
I. SÁCH HÁN NÔM VỀ CA TRÙ:
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang lưu trữ một số lượng sách về ca trù rất đáng kể. Hiện số sách này chưa được khai thác, sử dụng làm tài liệu nghiên cứu. Dưới đây, chúng tôi bước đầu giới thiệu mảng tư liệu này (tài liệu xếp theo vần a, b, c):
1. Bài hát ả đào: (AB.652), 1 quyển, chép tay, nét chữ chân phương. Gồm 46 trang, khổ 25x15cm. Sách đã mất đầu, mất đuôi và không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ của 8 làn điệu trong ca trù. Thét nhạc, Ngâm vọng (1 bài, có hướng dẫn cách sử dụng phách), Hát mưỡu (1 bài), Hát nói (nhiều bài), Gửi thư (nhiều bài), Hát hãm (1 bài), Dồn Đại thạch (1 bài), Thổng Thiên Thai (nhiều bài). Cuối sách có bài hướng dẫn cách nghe hát và điểm trống chầu (chỉ có 5 dòng, bị mất phần sau).
2. Ca điệu lược ký (AB.463), 1 quyển, bản in (không rõ năm in). Gồm 46 trang, khổ 30x18cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ của 20 làn điệu ca trù.
3. Ca điệu lược ký (AB.456), 1 quyển, chép tay. Gồm 154 trang, khổ 30x18 cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ của 18 làn điệu ca trù. Phần sau chép một số bài thơ, phú và một vài điệu lý, không thuộc ca trù.
4. Ca phả (AB.170), 1 quyển, chép tay, lề lối chữ Nôm phân minh. Gồm 284 trang, khổ 31x22cm. Không rõ soạn giả.
Phần đầu đề cập đến lịch sử, nguồn gốc ca trù, nhưng không có sức thuyết phục. Phần sau liệt kê tên gọi 16 làn điệu chuyên dùng để hát ở cửa đình; 9 làn điệu chuyên dùng để hát khi tế tiên sư; 9 làn điệu thường dùng ở tư gia. Cuối cùng là ca từ soạn theo 13 làn điệu ca trù, với số lượng hàng chục bài.
5. Ca trù (VNb.14): 1 quyển, chép tay, chữ dễ đọc. Gồm 34 trang, khổ 20 x 13cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép bài Hát nói của các tác giả: Nguyễn Quang Cự, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tôn Thất Tranh, Doãn Khuê, Nguyễn Đức Nhu, Lê Hữu Thanh, Nguyễn Đức Trứ, Nguyễn Cẩm, Ngô Vinh, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Đức Ý...
* Sách còn có tên gọi khác, đề ở bìa: Thi văn tập.
6. Ca trù (VNv.192): 1 quyển, chép tay. Gồm 106 trang, khổ 28x16cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ soạn theo 5 làn điệu ca trù (Ngâm vọng, Bắc phản, Ca bộ,
Bắc cung, Xích Bích phú). Phần cuối chép thơ của Tam Nguyên Yên Đổ.
* Sách không có phần hướng dẫn cách điểm trống chầu, cách đệm đàn như Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu đã ghi nhận.
7. Ca trù các điệu (VNb.15): 1 quyển, chép tay. Gồm 152 trang, khổ 14x11cm. Không rõ soạn giả.
Chép ca từ theo 11 làn điệu trong ca trù, trong đó riêng làn điệu Hát nói có 8 bài. Thể cách của 11 làn điệu ca trù.
* Sách còn có tên gọi khác, đề ở bìa: Tạp văn ca khúc.
8. Ca trù các điệu (VNv.268): 1 quyển, chép tay. Gồm 70 trang, khổ 28x16cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép một số bài Hát nói của Nguyễn Công Trứ (1 bài), Nguyễn Thắng (1 bài), Trương Quốc Dụng... Phần sau là một số bài Hát nói, chép lẫn với các thơ văn khúc.
* Ở tờ 15a có ghi thời điểm biên tập sách năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân 8 (1914).
9. Ca trù cách thức mục lục (VNv.160): 1 quyển, chép tay. Gồm 156 trang, khổ 27x14cm. Người biên tập: họ Phạm, người xã Phùng Xá, tổng Phùng Xá, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, biên tập năm Duy Tân thứ nhất (1907).
Sách chép về cách thưởng thức, cách gõ phách và điểm trống. Mục lục các bài hát ở cửa đình. Các bài ca trù theo nhiều làn điệu khác nhau.
10. Ca trù lược biên (A. 3075), 1 quyển chép tay, chép trong phần Uy Viễn Nguyễn gia thế phả, đóng trong quyển Gia phả tập biên, khổ 29x20cm.
Sách có chép 7 bài Hát nói của Nguyễn Công Trứ.
11. Ca trù tạp lục (VHv.2940): 1 quyển, chép tay. Gồm 100 trang, khổ 20x14cm. Không rõ soạn giả.
Sách gồm 3 phần. Phần 1: Cách thức đàn và hát ca trù, cách điểm trống và thưởng thức ca trù. Phần 2: Thứ tự diễn xướng ca trù, liệt kê gần 20 làn điệu ca trù. Phần 3: Chép các bài đàn theo lối ghi nhạc cổ (hồ, lưu, xừ, xang), gồm các bản Giao duyên, Cổ bản, Nam bằng, Kim tiền, Nam ai, Nam thương, Tứ Đại cảnh... cùng ca từ các điệu này. Các bài này không thuộc các làn điệu của ca trù.
12. Ca trù thể cách (AB.431): 1 quyển, chép tay. Gồm 31 trang, khổ 29x16cm. Sách đã rách nát. Không rõ soạn giả.
Sách chép một số bài Hát nói của Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Quý Đức (?), Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Lê Đình Tân, Trần Đức Ý, Nguyễn Đức Nhu, Ngô Thế Vinh...
13. Ca trù thể cách (AB.160): 1 quyển, chép tay. Gồm 200 trang, khổ 32x22cm. Bìa trong ghi người sao chép họ Tạ, ở giáp 2, phường Bạch Mai, tổng Kim Liên, chép năm Canh Tý (?). Đầu quyển có bài Quốc phong trường dẫn, bàn về nhạc lý dân tộc, viết năm Tự Đức 6 (1853), sau đó là Phàm lệ rồi bài về Ngũ cung và những lề lối biến âm; hướng dẫn dạo đàn. Phần tiếp theo nói về thể cách của 53 làn điệu, trong đó có những làn điệu không thuộc ca trù (Vọng cổ, Hát kể, Hát lý, Hát bội, Hát sắc bùa). Phần cuối sách chép về lề lối của 22 làn điệu ca trù, có ca từ kèm theo, trong đó có 162 bài Hát nói, 15 bài Độc thi, 4 bài Gửi thư.
Sách giới thiệu nhiều làn điệu cổ chưa thấy ai nói trong các sách báo về ca trù, cũng như trong dân gian. Đây là tài liệu quý trong việc nghiên cứu ca trù, trên mọi phương diện.
14. Ca trù thể cách (VNv.99): 1 quyển, chép tay. Gồm 222 trang, khổ 27x14cm. Không rõ soạn giả.
Sách gồm 2 phần. Phần 1: Cách thưởng thức ca trù. Phần 2: Chép ca từ của 7 làn điệu trong ca trù, trong đó có hàng chục bài theo làn điệu Hát nói.
15. Ca trù thể cách (AB.499): 1 quyển, chép tay. Gồm 66 trang, khổ 29x16cm. Sách do Cung Đan (?) sao năm Khải Định 4 (1920).
Mục lục 26 làn điệu ca trù, mỗi điệu đều nói rõ việc sử dụng trong diễn xướng. Bàn về ngũ cung, cách nghe hát và điểm trống. Ca từ của các làn điệu đã ghi trong mục lục, trong đó riêng điệu Hát nói có 95 bài.
16. Ca trù thể cách (AB.20): 1 quyển, bản in, do nhà in Quan Văn Đường in năm Thành Thái 12 (1900). Gồm 50 trang, khổ 24x15cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ của các làn điệu trong ca trù.
17. Ca trù thể cách (AB.621): 1 quyển, bản in, do nhà in Liễu Chàng in năm Canh Thìn (1880) niên hiệu Tự Đức. Gồm 50 trang, khổ 23x14cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép ca từ của 25 làn điệu trong ca trù.
18. Ca trù thể cách (AB.564): 1 quyển, chép tay, chép lại từ bản in năm Nhâm Tuất (?) của nhà in Đồng Văn Đường. Gồm 142 trang, khổ 26x15cm. Không rõ soạn giả.
Sách gồm 4 phần: Phần 1: luận về ngũ cung. Phần 2: Lề lối điểm trống, dạo đàn, gõ phách. Phần 3: Ca từ của các làn điệu Ngâm vọng, Mưỡu. Phần 4: Mục lục 25 làn điệu ca trù.
19. Ca trù thể cách (VNv.124): 1 quyển, chép tay. Gồm 40 trang, khổ 23x16cm. Không rõ soạn giả.
Sách giới thiệu khá tỉ mỉ lề lối ca trù về đàn, trống, phách, với nội dung dễ hiểu. Phần sau có các bài minh họa.
20. Ca trù tạp lục (AB.426): 1 quyển, chép tay. Gồm 90 trang, khổ 23x13cm. Không rõ soạn giả.
Lề lối phách, trống của vài chục làn điệu ca trù. Ca từ của nhiều làn điệu ca trù, trong đó có vài chục bài theo điệu Hát nói, 12 bài theo điệu Nói Nam, 11 bài theo điệu Hà Nam cách, 7 bài theo điệu Vênh kệ...
21. Ca xướng các điệu (AB.414): 1 quyển, chép tay. Gồm 50 trang, khổ 28 x 16 cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép về thể thức, lề lối các điệu Hát giai, Dâng hương, Hát nói, Cung bắc, Độc phú, Dồn Đại thạch. Cách nghe hát, điểm trống. Phần cuối sách chép một số bài theo điệu Hát nói.
22. Các điệu ca trù và một số bài ca trù cổ (VNv.100): 1 quyển, chép tay.
Gồm 70 trang, khổ 25x13cm. Không rõ soạn giả.
Sách gồm 2 phần: Phần 1: Lễ thức hát ở cửa đình. Phần 2: Ca từ của 15 làn điệu trong ca trù.
23. Các điệu hát cổ và một số bài thơ (VNv.232): 1 quyển, chép tay. Gồm 94 trang, khổ 26 x 15cm. Không rõ soạn giả.
Sách gồm nhiều phần. Phần 1: Ca từ của 13 làn điệu ca trù. Phần 2: Cách điểm trống. Phần 3: Mục lục các bài hát ở cửa đình, gồm 16 làn điệu. Phần 4: Lề lối đàn và phách cho các làn điệu ca trù. Phần 5: Ca từ của 21 làn điệu, trong đó có một số làn điệu cổ chưa thấy ai nói đến trong sách báo cũng như trong dân gian, cũng có làn điệu không thuộc ca trù (Hát dặm).
24. Đại Nam Quốc âm ca khúc (AB. 146): 1 quyển, chép tay. Gồm 232 trang, khổ 31x21cm. Sách ghi do Thượng thư Nguyễn Công Trứ soạn.
Sách gồm 3 phần. Phần 1: Ca từ của hơn 10 làn điệu trong ca trù, trong đó có 40 bài theo điệu Hát nói. Phần 2: Ca từ của các điệu Nam bằng, Nam ai, Tứ Đại cảnh, đều không thuộc ca trù. Phần 3: Các bản đàn Kê Khang, Tư Mã Phượng cầu, Tam thiên tụng, Phú lục, ghi theo lối ghi nhạc cổ, các bản đàn này cũng không thuộc ca trù.
25. Đào nương ca trù xướng loại (VHv.129): 1 quyển, chép tay. Gồm 70 trang, khổ 29x16cm. Cống Đình Nguyễn Thị Tý chép năm Thành Thái 13 (1901).
Trong sách có chép ca từ của một số làn điệu ca trù và cách điểm trống chầu.
26. Điểm ca cổ pháp (VHb.315): 1 quyển, chép tay. Gồm 58 trang, khổ 21x14cm. Không rõ soạn giả.
Sách hướng dẫn cách điểm trống khi nghe hát, có dẫn ca từ theo các điệu và chỉ rõ thời điểm điểm trống. Phần sau chép ca từ của 52 bài theo điệu Hát nói.
27. Đông Ngạc xã phụng sự ca xướng Quốc âm văn (AB.442): 1 quyển, chép tay, chữ thảo khó đọc. Gồm 44 trang, khổ 23x14cm. Không rõ soạn giả.
Sách chép bài Sự thần ca xướng thưởng đào văn là ca từ của một làn điệu ca trù cổ.
28. Hoa Dung tiểu lộ (AB. 422), 1 quyển, chép tay, gồm 50 trang, khổ 27x15cm.
Sách có chép 56 bài ca trù, chủ yếu theo điệu Hát nói của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát...
29. Khẩu sử ký (AB.417): 1 quyển, chép tay. Gồm 47 trang, khổ 26x18cm. Người biên tập: Châu Thụ tử (Nguyễn Hữu Quý). Người sao chép: Trịnh Tuấn Thắng.
Trong sách có chép 3 bài Hát nói.
30. Thi ca tạp biên (VHv.613): 1 quyển, chép tay. Gồm 48 trang, khổ 28x16cm. Không rõ soạn giả.
Trong sách có chép 9 bài Hát nói.
31. Thượng điện xướng ca (AB.642): 1 quyển, chép tay. Gồm 32 trang, khổ 28x16cm. Lý trưởng Nguyễn Văn Thát sao chép năm Thành Thái 14 (1902).
Sách có chép những câu hát giáo đầu ở đền miếu.
32. Vân Trì Dương Đại nhân tiên sinh đối liễn tịnh thi văn (A.3007): 1 quyển, chép tay. Gồm 124 trang, khổ 28x16cm.
Trong sách có chép một số bài Hát nói của Dương Khuê.
33. Vân song tạp lục (A.215): 1 quyển, chép tay. Gồm 88 trang, khổ 32x22cm. Không rõ soạn giả.
Trong sách có chép ca từ 77 bài ca trù, theo các làn điệu khác nhau.
34. Xướng khúc tập thi phụ xướng khúc tập biên (AB.195): 1 quyển, chép tay. Gồm 192 trang, khổ 30x20cm. Nam Dương Ngô (Đình Thái), tự Bảo Quang, hiệu Tùng Hiên soạn.
Trong sách có ca từ của điệu Thổng trong ca trù.
Các tư liệu kể trên, tựu trung đề cập đến hai khía cạnh: 1. Cách thức biểu diễn ca trù (cách đệm đàn, dạo phách, cách hát, cách điểm trống chầu và lề lối diễn xướng...). 2. Ca từ của các làn điệu ca trù.
Số tài liệu này rất quý, trước hết là vì nó được viết ra bởi các quan viên đã từng đi nghe hát, rất hiểu âm luật, sành chơi và thuộc, sáng tác nhiều bài thơ - ca trù. Trong kho sách Hán Nôm, sách chép về các lối hát cổ truyền cũng khá nhiều, song chỉ có ở các tư liệu về ca trù là có đề cập đến nghệ thuật biểu diễn một cách đầy đủ nhất.
Những tư liệu này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu và biểu diễn ca trù hình dung và hiểu được về một bộ môn nghệ thuật bác học hiện đang mai một dần. Đây cũng là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh nghệ thuật ca trù là một bộ môn mang tính bác học mà lề lối và cách thức đã nâng lên thành những chuẩn mực với tính khái quát cao. Sử dụng nguồn tư liệu này hẳn sẽ không khó vì nó được trình bày bởi chính các nghệ nhân đã từng hiểu biết đam mê ca trù.
Ngoài những phần thuộc về biểu diễn, một số tư liệu cũng có trình bày những hiểu biết về âm nhạc ca trù theo lối hiểu cổ truyền. Những kiến thức như vậy là cứ liệu cho nhà nghiên cứu về âm nhạc đời sau tìm hiểu âm nhạc trong quá khứ.
Phong phú nhất trong mảng sách về ca trù trong kho tàng thư tịch Hán Nôm là những bài thơ soạn cho ca trù. Số lượng của các bài ca trù thật là lớn. Ca trù có đến hơn 80 làn điệu khác nhau, và mỗi làn điệu này lại có nhiều ca từ (phần lời) khác nhau, khiến cho số bài ca trù lên đến hàng nghìn bài. Nhiều làn điệu rất cổ, hiện rất ít người hát và thuộc được, dường như đã thất truyền thì ca từ vẫn còn được chép trong những sách này.
Ở đây không thể không nhắc đến một làn điệu ca trù đặc biệt: Hát nói. Hát nói là một làn điệu ca trù được sinh ra bởi nhu cầu của chính sự phát triển của bộ môn nghệ thuật này. Nó là đỉnh cao của nghệ thuật ca trù trên mọi phương diện: văn chương, âm nhạc và lề lối thưởng thức. Thể thơ này rất được các nghệ sĩ thi nhân yêu thích. Số lượng các bài Hát nói rất lớn. Mấy trăm bài Hát nói mà Tuyển tập thơ ca trù(1) và Việt Nam ca trù biên khảo(2) tuyển chọn chỉ là số ít trong kho tàng các bài Hát nói đã được sáng tác trong hai thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Những sách về ca trù kể trên chủ yếu chỉ chép các bài ca trù có tên tác giả, còn những sách như Ca trù thể cách (8 bản), Ca phả (AB.170), Thính ca pháp (VHv.2478), Thính ca điểm cổ sáo phụ hát nói ca (AB.301)... thì lại chủ yếu chép những bài Hát nói của các tác giả khuyết danh. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, số lượng các bài đã lên đến cả nghìn bài.
Các bài ca trù này gợi mở rất nhiều cho việc nghiên cứu, không những ở tư cách một nghệ thuật ngôn từ, mà ở trong đó còn chứa đựng những triết lý và quan niệm nhân sinh mới mẻ và phóng khóang, là một tư liệu bổ ích trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng của người Việt. Thơ Hát nói hầu hết sáng tác bằng chữ Nôm và nhiều tác phẩm đã đạt giá trị văn học rất cao. Thơ Hát nói, do vậy phải được coi là có một vị trí xứng đáng trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Thể thơ này cũng mang trong nó trữ lượng đáng kể về vốn sống, vốn ngôn từ, vốn thơ ca và tri thức dân gian.
Dưới góc nhìn Hát nói như một thể loại văn học đặc sắc, các tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong chuyên khảo Việt Nam ca trù biên khảo đã chỉ ra rằng: "Trong Hát nói, từ và thơ luật của Tầu đứng cạnh lục bát và song thất lục bát của ta. Từ khi chữ Nôm thịnh hành, chắc chắn các nhà thơ Việt Nam đã khổ công tìm kiếm một thể văn phù hợp với lối chữ viết ấy. Chữ Nôm chính là chữ Hán pha trộn với âm Việt. Thì đây Hát nói cũng chính là thể thơ Tầu pha trộn với thể thơ Việt. Văn thể Hát nói không những biểu hiện cái tinh thần độc lập mà còn biểu hiện cả cái khả năng đồng hóa của dân tộc ta. Chính nhờ có cái tinh thần độc lập và cái khả năng đồng hóa ấy mà nền văn hóa dân tộc của chúng ta vẫn tồn tại và phát triển sau bao lần xâm lược của ngoại bang. Hơn nữa, Hát nói rất phù hợp với những nội dung đứng giữa hai thái cực: một bên là những nội dung cô đọng quá dành cho thơ luật, một bên là những nội dung khai triển quá như truyện và ngâm dành cho lục bát và song thất lục bát"(3).
II. THẦN TÍCH
Ca trù là một bộ môn nghệ thuật mang tính bác học nhưng nó lại được nuôi dưỡng và gìn giữ trong dân gian. Không gian tồn tại của ca trù là hội hè, lễ tiết, phong tục của nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong không gian này, ca trù được bảo lưu một cách trọn vẹn nhất và không bị tha hóa. Sự bảo lưu của ca trù trong dân gian từ lâu đã được một số học giả để tâm nghiên cứu, sưu tầm. Một số làng như Lỗ Khê (Đông Anh- Hà Nội), Thượng Mỗ (Đan Phượng - Hà Tây), Ngọc Bộ (Châu Giang - Hưng Yên), Cổ Đạm (Nghi Xuân - Hà Tĩnh), Ngọc Trung (Thọ Xuân - Thanh Hóa)... là nơi có đền thờ và lưu truyền nhiều câu chuyện về sự tích các ca nữ, ca công. Những làng này được xem như những làng nghề ca trù nổi tiếng. Và cũng giống như các làng nghề khác (kể cả các làng nghề thủ công, mỹ nghệ, các làng nghề nghệ thuật như làng chèo, làng rối, làng tuồng) làng nghề ca trù cũng có thờ Tổ nghề. Vị Tổ nghề ca trù là người đem nghề truyền vào làng và dạy cho dân biết nghề. Vị Tổ nghề được coi như là Thành hoàng làng mà việc thờ cúng, huý kỵ được tiến hành và tôn trọng như bất kỳ một làng quê nào khác. Tuy nhiên, thần tích về các vị này thì gần như vắng bóng trong kho sách Thần tích (ký hiệu AE) ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có lẽ nguyên nhân chính là các làng đã lảng tránh không muốn khai với các nhân viên của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp về vị thần là "cô đầu" của họ khi các nhân viên này đến điều tra, sưu tầm thần tích. Vì rằng, vào thời điểm này (1938), sinh hoạt ca trù ở nơi phố thị đã bị lợi dụng để biến thành nơi hút xách, ăn chơi rất tai tiếng.
Hiện nay, chúng tôi mới chỉ thấy xã Lỗ Khê, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội) có bản thần tích về tổ ca trù là Đinh Công và Mãn Đường Hoa ở trong kho Thần tích, mang ký hiệu AE a7/1, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Giờ đây, khi về điền dã ở một số làng ca trù, chúng tôi thấy các làng này đôi khi vẫn còn giữ được thần tích về tổ nghề, cũng như sắc phong của Nhà nước phong kiến phong cho các vị thần. Điều đáng chú ý là vị tổ nghề ở các làng thường gồm 2 người một nam, một nữ, là hai vợ chồng, cũng là đào và kép. Người đàn ông ở đây đựơc gọi bằng cái tên không giống nhau giữa các làng, khi thì là Đinh Lễ (Cổ Đạm), khi thì là Đinh Dự (Lỗ Khê), khi lại là Đinh Triết (Hạ Mỗ)... Các nhà nghiên cứu khi quan sát thấy ở đâu có ả đào thì cũng thường liên
quan đến họ Đinh, đã đặt ra nghi vấn nhưng chưa có lời giải đáp(4).
Trở lại với các làng quê, chúng tôi thấy có nhiều làng không làm nghề ca trù nhưng vẫn có một số miếu, quán, am, đền thờ những ca nữ có cái chết thiêng khi đi qua những làng này, hoặc nhiều khi vì họ có công với dân làng...
Tư liệu thần tích, sắc phong và các tự khí khác trong không gian thiêng ở các đền thờ ca công tại các làng quê có thờ tổ nghề ca trù, nếu được kết hợp trong sự nghiên cứu liên ngành chắc chắn sẽ đưa lại kết luận lý thú về lịch sử ca trù - một vấn đề đang được đặt ra mà chưa đạt được sự thống nhất trong giới nghiên cứu văn hóa hôm nay.
III. VĂN BIA
Văn bia liên quan đến ca trù tuy không nhiều lắm song cũng được coi như một mảng tư liệu khá đặc sắc. Trong bài viết Vài nét về việc mua bán quyền hát cửa đình qua một số tư liệu văn bia, Nguyễn Hữu Mùi đã đề cập về địa bàn phân bố, hình thức, niên đại và nội dung của gần 30 văn bia này, hiện đang có thác bản trong kho sách Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm(5). Những văn bia này là tài liệu đáng tin cậy trong việc nghiên cứu về lịch sử ca trù cũng như về lề lối sinh hoạt ca trù.
Ở đây, chúng tôi muốn nói thêm về các bia đá, khánh đá có khắc các bài ca trù (chủ yếu là theo điệu Hát nói). Vách đá hang Trầm (Long Tiên động) ở Hà Tây, vách đá núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa, vách núi Non Nước ở Đà Nẵng(6) là những nơi có khắc nhiều bài ca trù hay. Các danh thắng thiên nhiên trong cả nước ta chắc chắn còn lưu giữ nhiều bài ca trù nữa mà trong tương lai nếu sưu tập đầy đủ chúng ta sẽ có một tập các bài thơ ca trù về thiên nhiên đất nước có giá trị văn học đặc sắc.
Tóm lại, tư liệu Hán Nôm về ca trù bao gồm sách, thần tích, văn bia và khánh... đang mang một trữ lượng thông tin lớn xung quanh nghệ thuật ca trù. Đây là mảng tài liệu rất quý và đáng tin cậy để nghiên cứu về lịch sử ca trù, lịch sử nghiên cứu ca trù, nghệ thuật biểu diễn và các văn bản thơ - ca trù.
N.X.D
CHÚ THÍCH
(1) Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú: Tuyển tập thơ ca trù. Nxb. Văn học, H. 1987.
(2) Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề: Việt Nam ca trù biên khảo. Sài Gòn 1962.
(3) Sách đã dẫn, trang 139 và 140.
(4) Xem Vũ Ngọc Khánh: Thơ nhạc từ dân gian đến bác học để trở về dân gian, Tạp chí Văn học số 4-1997, tr.18.
(5) Nguyễn Hữu Mùi: Vài nét về việc mua bán quyền hát cửa đình qua một số tư liệu văn bia, Tạp chí Hán Nôm số 2-1989.
(6) Xem Hiền Lương, Bạch Văn Luyến: Một số bài thơ Nôm khắc ở vách đá trong hang Trầm. Tạp chí Hán Nôm số 1 - 1988, tr.31 - 33. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nxb. KHXH, H. 1993, tr.1052. Trịnh Khắc Mạnh, Trương Đức Quả: Về những thác bản văn khắc chữ Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm, số 2 - 1994, tr.19 - 20.
|