TB

TỪ HÁN VIỆT GỐC NHẬT TRONG
TIẾNG VIỆT

TRẦN ĐÌNH SỬ

1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê thật xác định, song các nhà ngôn ngữ học ước lượng số từ đó chiếm khoảng 60-80% tự vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu từ nhiều nguồn, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường sách báo Trung Quốc, nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản. Chính người Trung Quốc cũng xem chúng là từ ngoại lai gốc Nhật của Hán ngữ.

Từ Hán Việt gốc Nhật đánh dấu một bước phát triển mới của từ Hán Việt, tạo nên tiềm lực của đời sống tinh thần và tư duy khoa học hiện đại, bên cạnh từ Hán Việt có gốc từ tiếng Hán hiện đại do người Trung Quốc tạo ra và từ Hán Việt do người Việt cấu tạo. Đó là những từ nào, số lượng bao nhiêu, có đặc điểm gì, đến nay vẫn chưa có tài liệu đề cập. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ cung cấp vốn từ đó và nêu lên một vài nhận xét bước đầu.

2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành năm 1978, xuất bản năm 1984 tại Nxb. Từ Thư, Thượng Hải, chúng tôi xác định có trên 350 từ gốc Nhật ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt. Chúng tôi sơ bộ phân loại theo các lĩnh vực đời sống để thấy vị trí của chúng. Các từ sẽ được sắp xếp theo thứ tự A, B, C...

a. Các từ xã hội, chính trị, quân sự:

biên chế
biểu quyết
bình giá
bối cảnh
bồi thẩm viên
cách mạng
cán bộ
cán sự
cảnh sát
cao trào
cao xạ pháo
câu lạc bộ
chi bộ
chỉ đạo
chỉ thị
chiến tuyến
chính đảng
chính sách
chủ nghĩa
công dân
công nhận
công tố
cộng hòa
cộng sản chủ nghĩa
cơ quan
cơ đốc
cơ đốc giáo
cương lĩnh
dân chủ
đại bản doanh
đại biểu
đại cục
đàm phán
đặc quyền
đặc vụ
đăng kí
đề kháng
độc chiếm
độc tài
đồng tình
động cơ
động viên
đơn vị
giai cấp
giải phóng
giám định
giao thông
hàng không mẫu hạm
hiến binh
hiến pháp
hiệp định
hiệp hội
hiệu quả
hội đàm
kế hoạch
kháng nghị
kĩ sư
kiên trì
kinh tế
lãnh thổ
lao động
lập hiến
lập trường
lý tưởng
mục đích
mục tiêu
nguyên soái
nguyên tắc
nghị quyết
nghị viện
nghĩa vụ
nhân quyền
nhân văn chủ nghĩa
nội các
phán quyết
phản bội
phản động
pháp luật
phần tử
phục vụ
phương châm
quan điểm
quan hệ
quân nhu
qui phạm
quốc giáo
quốc lập
quốc tế
quốc thể
quyền hạn
quyền uy
sĩ quan
tập đoàn
tập kết
tập trung
thành viên
thẩm phán
thẩm vấn
thế kỉ
thi công
thi hành
thị trưởng
thiếu tướng
thiếu úy
thống kê
thời sự
thủ tiêu
thủ tục
thừa nhận
thực nghiệp
thực quyền
tiền tuyến
tiến triển
tình báo
tổ chức
tôn giáo
tổng động viên
tổng lãnh sự
trọng điểm
trọng tài
trung tướng
tùy viên
ư bản
tự do
tuyên chiến
tuyên truyền
tuyển cử
tư pháp
xã giao
xã hội
xã hội chủ nghĩa
xâm lược
xâm phạm
xuất phát điểm
vô sản

b. Các từ thương nghiệp, kinh tế:

bảo hiểm
bất động sản
cố định
công nghiệp
công trái
dự toán
đầu cơ
đầu tư
điện báo
điện thoại
điện tử
động sản
kim ngạch
ngân hàng
nhập khẩu
nhập siêu
phân phối
quảng cáo
quốc khố
tài phiệt
thanh toán
thị trường
thủ công nghiệp
thương nghiệp
tiêu phí
tín dụng
tối huệ quốc
xuất khẩu
xuất siêu

c. Các từ triết học, tâm lý học:

ám thị
ấn tượng
bản chất
bi quan
biện chứng pháp
biểu tượng
cảm tính
chất lượng
chủ động
chủ quan
chủ thể
cơ chất
cụ thể
dị vật
diễn dịch
định nghĩa
đơn thuần
giả định
gián tiếp
giản đơn
giao tế
hiện thực
hiện tượng
hình nhi thượng
hoàn cảnh
hư vô chủ nghĩa
khách quan
khách thể
khái niệm
khái quát

khẳng định
khí chất
không gian
kí hiệu
kinh nghiệm
lí luận
lí tính
lí trí
luận chiến
mệnh đề
năng động
năng lực
nội dung
nội tại
ngẫu nhiên
ngoại tại
nguyên động lực
nguyên lý
nguyên tố
phạm trù
pháp tắc
phân giải
phân tích
phủ định
phủ nhận
phương thức
quá độ
quan niệm
qui nạp
tất nhiên
tất yếu
thẩm mỹ
thế giới quan
thoái hóa
thời gian
tích cực
tiền đề
tiến hóa
tiến hóa luận
tiêu cực
tín hiệu
tinh thần
tính năng
tổng hợp
tuyệt đối
tư tưởng
tự hào
tương đối
tưởng tượng
triết học
trực giác
trực quan
trực tiếp
trừu tượng
vật chất
xí nghiệp
ý thức
yếu tố

d. Các từ khoa học, giáo dục:

âm cực
bác sĩ
bạch kim
bán kính
bão hòa
bức xạ
chân không
chỉ số
cơ giới
di truyền
diễn tập
dinh dưỡng
dương cực
địa chất
địa chất học
động lực học
động mạch
đức dục
giả định
giải phẫu
giáo dục học
giáo khoa thư
hệ thống
hóa học
hóa thạch
học hội
học vị
huyết sắc tố
khoa học
khoa mục
khóa trình
khuyếch tán
kích thích
kim cương
kiến tập
loại hình
luân lý học
luận lý học
lũy tiến
lực học
lượng tử
mẫn cảm
nghiệp vụ
nguyên tử
ngữ nguyên học
nhân cách
ôn độ
phản ứng
phản xạ
phát minh
phóng xạ
phương án
phương trình
quan trắc
quang tuyến
sinh lý học
tâm lý học
tế bào
thám hiểm
thành phần
thăng hoa
thần kinh
thần kinh giao cảm
thể dục
thể thao
thôi miên
thường thức
tỉ trọng
tiêu bản
tiêu hóa
tĩnh mạch
tổ hợp
tốc độ
truyền nhiễm
trường hợp
vận động
vật lí
vệ sinh
xã hội học
y học
ý nghĩa

e. Các từ về văn hóa nghệ thuật:

bi kịch
ca kịch
cải biên
chế bản
chủ bút
diễn tấu
diễn thuyết
diễn xuất
đạo cụ
đăng tải
đồ án
giao hưởng
hội thoại
kí giả
kí lục
kị sĩ
kịch trường
kiến trúc
mạn đàm
mĩ cảm
mĩ hóa
mĩ thuật
nghệ thuật
nguyên tác
quảng trường
sáng tác
tác giả
tác phẩm
tạp chí
tân văn
tham quan
tọa đàm
tốc kí
triển lãm
tư liệu
văn hóa
văn học
văn minh
vũ đài
xuất bản

Qua các bảng trên đây có thể thấy rõ các từ ngữ về xã hội, chính trị, khoa học, triết học, giáo dục chiếm một số lượng rất lớn, đánh dấu sự trưởng thành của ý thức xã hội về các mặt ấy.

3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có những từ tiếp nhận từ đầu thế kỷ như cách mạng, thực nghiệp, tự do, tiến hóa... Các từ giai cấp, lập trường, vô sản... tiếp nhận từ những năm hai mươi, các từ khoa học, giáo dục thì muộn hơn. Có từ như chế bản thì chắc là du nhập gần đây.

4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều được vay mượn để chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Ví dụ, từ Hán gốc Nhật “nhân lực xa”, do tiếng Việt có từ “xe tay”, “xe kéo” cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải.... nhưng tiếng Việt chỉ vay mượn bộ phận và sáng tạo thêm theo cách của mình. Ví dụ, người Việt chỉ mượn từ “bi kịch”, còn “hỉ kịch” thì gọi là hài kịch, thích hợp hơn là hỉ kịch. Người Việt chỉ dùng từ lãnh thổ, còn “lãnh hải”, “lãnh không” thì trước đây gọi là “hải phận”, “không phận”, nay gọi là “vùng biển", "vùng trời”. Số lượng từ Hán gốc Nhật không được sử dụng còn khá nhiều. Ví dụ tiếng Việt nói thất tình (không dùng “thất luyến”), sản xuất (không dùng “sinh sản”, sinh sản mang nghĩa khác), nhân viên (không nói “sự vụ viên”, thư viện (không dùng “đồ thư quán”) v.v. chứng tỏ tiếng Việt có cách lựa chọn riêng.

5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu sau:

a. Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không... Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn, hiểu lầm nào.

b. Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ rồi phú cho nó một ý nghĩa mới như văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, phép tắc... Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.

Ví dụ hai chữ “cách mạng”, trong Kinh Dịch có câu: “Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân - Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh thuận theo trời mà ứng theo người”. Nhưng “cách mạng” trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.

Lại ví dụ từ “văn hóa” trong tiếng Hán cổ chỉ “văn tự, giáo hóa”. Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: “Danh từ “văn hóa” chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu-người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ-bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại... Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ “văn hóa” hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương”(1).

Từ “văn học” lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch từ tiếng Anh literature, với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: “Văn học, Tử Du Tử Hạ” thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đại. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hấp thu từ “văn học” của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ “văn học” khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là ảnh hưởng Nhật(2).

Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liêm Sơn là người sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết: “Danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mỹ văn (belles lettres), nhưng là thứ văn có tình cảm, mỹ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học”(3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921). Phan Khôi viết Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiên viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đương thời đều dùng hai từ “văn học”. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: “Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mỹ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó”(4).

Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để dịch nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.

Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước châu á trong tư triều Âu Mĩ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây.

Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.

CHÚ THÍCH

(1). Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa / Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T.5, H. Văn học, 1997, tr.327.

(2). Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.

(3). Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh, 1993, tr.135.

(4). Văn học khái luận, 1994/ Tuyển tập phê bình nghiên cứu văn học 1900-1945, T.5, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.288.

TB

QUA "TỪ ĐIỂN ALEXANDRE DE RHODES(1)", THỬ XÁC ĐỊNH NGHĨA MỘT SỐ YẾU TỐ MỜ NGHĨA CỦA TIẾNG VIỆT

LÊ ANH HIỀN

Các yếu tố của từ hoặc tổ hợp song tiết của tiếng Việt có khi bị mờ nghĩa, do những yếu tố đó, trải qua thời gian, ít được dùng, đã dần dần hóa thành “cổ” trước thói quen giao tiếp của người sử dụng tiếng Việt. Như vậy, hiện tượng một yếu tố nào đó trong từ hoặc tổ hợp song tiết (hay đa tiết) của tiếng Việt, nguyên là có nghĩa cụ thể, nhưng dần dần nghĩa đó bị mờ nhạt đi, khó xác định trở lại, nhất là đối với người thường. Ví dụ: từ xe cộ và từ đường sá..., cộ nguyên là có nghĩa (cộ có nghĩa là một loại xe thô sơ, như “xe trâu”, “xe bò”, hiện “cộ” còn dùng ở một số địa phương Nam Bộ; sá có nghĩa là một con đường nhỏ...), nhưng đã bị mờ nghĩa, hiện nay người ta chỉ biết và hiểu xe cộ có nghĩa là các loại xe nói chung và đường sá có nghĩa là đường đi nói chung mà thôi. Đó là các từ ghép song song (hay đẳng lập).

Hoặc như từ láy sung sướng và từ ghép sân sướng... có thể xác định yếu tố sung là một yếu tố gốc Hán bị mờ nghĩa như trong “sung túc, sung mãn” nguyên có nghĩa là đầy đủ, không thiếu thốn thứ gì; và sướng trong sân sướng là một từ cổ, cũng có nghĩa là sân (cho nên sân sướng có nghĩa là sân nói chung), một từ ghép song song.

Việc xác định nghĩa các yếu tố bị mờ nghĩa trong từ hoặc tổ hợp song tiết là một việc làm có ích về mặt từ nghĩa, vì nó giúp cho người ta biết được ý nghĩa của từ một cách rõ ràng, chính xác, đưa đến sự sử dụng chúng một cách sát hợp và hay. Có nhiều cách làm công việc xác định này, trong đó có việc tìm lại ý nghĩa của từ bị mờ nghĩa trong sách cổ, từ điển cổ... Dưới đây, chúng tôi thử xác định nghĩa một số yếu tố bị mờ nghĩa, thông qua quyển “Từ điển Annam - Lusitan - Latin” thường được gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La” của Alexandre De Rhodes xuất bản tại Rome (ý) năm 1651.

1. Trước tiên, chúng ta xác định một số yếu tố mờ nghĩa của từ láy. Chúng ta biết từ láy là từ song tiết tiếng Việt gồm một yếu tố có nghĩa và một yếu tố khác láy lại (như buồn bã, sạch sẽ...) hoặc cả hai yếu tố đều không có nghĩa mà láy với nhau, tạo nên một nghĩa mới (như thỉnh thoảng, bồi hồi...). Cần chú ý thêm là buồn bực, chẳng hạn, có yếu tố bực đã mờ nghĩa - sẽ nói dưới đây - chứ không phải là một yếu tố láy như bã trong buồn bã...

a) Yếu tố mờ nghĩa đứng trước:

- Còm cõi (ốm yếu) ¬ Còm: cái bướu; “còm lưng”: có bướu (nên thân thể có vẻ đau yếu).

- Hẳn ho i (1 nghĩa: thật sự) ¬ Hẳn: thật; “ đã hẳn”: không nghi ngờ gì; “nói cho hẳn”: nói hết sự thật.

- Thiêng liêng (được coi là cao quý, đáng tôn kính hơn hết) ¬ Thiêng: sức siêu nhiên, năng lực kỳ diệu. (Chỉ trong từ láy thiêng liêng, yếu tố thiêng mới mờ nghĩa, còn từ đơn thiêng vẫn có nghĩa rõ ràng: “đất thiêng”, “lửa thiêng”).

- Tơ tưởng (nghĩ liên miên không dứt đến người hoặc cái mà mình mong nhớ, ước muốn) ¬ = yêu; tơ thương: yêu; “ông tơ” (bà nguyệt): người kết duyên tơ.

- Cuồn cuộn (nổi lên từng đoạn như những làn sóng) ¬ Cuồn (bay): bay lên cuồn cuộn.

- Khuây khỏa (quên đi) ¬ Khuây: làm cho quên.

- Rũ rượi (tóc rối bù và xõa xuống) ¬ Rũ: bị gục xuống; “chết rũ”: chết già.

b) Yếu tố mờ nghĩa đứng sau:

- Lập cập (vội vã một cách khó nhọc vì mất bình tĩnh) ¬ Cập: run rẩy rõ rệt.

- Chút chít (mập mạp và hơi thấp) ¬ chít, (nhỏ) chít: nhỏ bé.

- Chập chững (có những bước chưa vững vì mới tập đi) ¬ chững: những bước đi đầu tiên của trẻ thơ: đứng chững.

- Khập khiễng (chỉ dáng đi bên cao bên thấp, không đều; không cân bằng) ¬ Khiễng: què; Khiễng một chân: què một chân.

- Lem luốc (bị dây bẩn nhiều chỗ) ¬ Luốc: màu hơi đen: chó luốc: chó có màu lông hơi đen.

- Sướt mướt (khóc nhiều và lâu không dứt, nước mắt đầm đìa) ¬ Mướt: rất ướt: ướt mướt, mướt mồ hôi.

- Bủn rủn (cử động không nổi nữa do gân cốt như rã rời ra) ¬ Rủn: vật gì ít bền bỉ: cua rủn (cua bấy); rủn dạ: nhẹ dạ, không kiên tâm.

- (Đi) vơ vẩn hay vẩn vơ (đi đi lại lại không nhằm mục đích gì rõ rệt) ¬ Vẩn: đi chung quanh: vẩn đi vẩn lại.

- Nơm nớp (ở trạng thái luôn luôn phấp phỏng, lo sợ một tai họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào) ¬ nớp (lòng): sự lo sợ phập phồng của con tim.

- Rùn rẫy (tỏ ra không thân thiện; xa lánh) ¬ Rẫy (nhau): từ khước tình thân thiện với nhau: rẫy bạn, rẫy vợ.

2. Do cách ghép các yếu tố có cùng phụ âm đầu hoặc cùng vần mà một số người cho là từ láy, nhưng thật ra cả hai yếu tố đều có nghĩa, mặc dù một yếu tố trong đó bị mờ nghĩa đi.

a) Yếu tố mờ nghĩa đứng trước:

- Bưng bít (che, bịt kín, làm ngăn cách hẳn bên ngoài) ¬ Bưng: che đậy; tối như bưng.

- Ngây ngô (dốt nát, không hiểu gì, tỏ ra kém trí khôn) ¬ Ngây: dốt nát: dạy kẻ ngây muội; ngây thơ hay thơ ngây.

- Phô bày (cố ý để lộ ra cho nhiều người thấy) ¬ Phô (của): khoe (của).

b) Yếu tố mờ nghĩa đứng sau:

- Buồn bực (buồn và khó chịu, bứt rứt trong lòng) ¬ Bực: buồn thảm: áo bực: áo tang, áo buồn thảm.

- Hôi hám (hôi, nói khái quát) ¬ Hám: thối, hôi: thối hám.

- Non nớt (quá yếu, nói khái quát) ¬ Nớt: sinh đẻ thiếu tháng, yếu ớt.

- Cây cảnh (cây làm cảnh; cây và cảnh vật) ¬ Cảnh: vườn; cây cảnh: cây và vườn, cây trồng ở vườn.

- Trồng trọt (trồng cây, cung cấp sản phẩm nông nghiệp, nói khái quát) ¬ Trọt: trồng, tỉa (hạt).

- Vai vế (thứ bậc trên dưới trong gia đình, họ hàng) ¬ Vế: đi với vai, bắp đùi; trái vế (hiện nay, từ vế là một từ địa phương miền Nam).

- Mộng mẹo (mộng để lắp, ghép cho chặt khít, nói khái quát) ¬ Mẹo: nhét vào, tra vào; mộng góc hòm.

- Dạy dỗ (dạy bảo, khuyên răn một cách ân cần, dịu dàng) ¬ Dỗ: dạy; dỗ dân: dạy dân chúng.

- Dại dột (tỏ ra dại, thiếu khôn ngoan) ¬ Dột: ngu dại (ốt dột: tiếng địa phương miền Trung, dại khờ).

- Hẹp hòi (không rộng rãi trong cách nhìn, cách đối xử, chỉ biết có mình thôi) ¬ Hòi: chật hẹp.

- Nạt nộ hay nộ nạt (quát tháo để dọa dẫm) ¬ Nộ: mắng.

- Núi non (núi, nói khái quát) ¬ Non: nơi hoang vu.

- Nóng nực (nóng ngột ngạt, khó chịu) ¬ Nực: nghẹt thở trong cơn bệnh: sốt nực: nóng quá mức.

- Quên quấy (quên hẳn đi) ¬ Quấy: quên, không nghĩ đến vì mải chú ý đến cái khác.

- Rực rỡ (có màu sắc tươi sáng, đẹp đẽ nổi bật) ¬ Rỡ: có hoa sặc sỡ; rắn rỡ: con rắn hoa sặc sỡ.

- Thề thốt (nói lên lời thề, nói khái quát) ¬ Thốt : nói: mắng thốt: buông lời giận dữ.

- Ăn năn (cảm thấy day dứt trong lòng vì những lỗi lầm của mình) ¬ Năn: một thứ cỏ đắng. Ăn năn: ăn thứ cỏ đắng (cách nói ẩn dụ để chỉ sự thống hối).

Các kết hợp trên đây phần lớn là các từ ghép song song (hay đẳng lập).

3. Sau đây là những từ ghép thực thụ, cũng phần lớn là các từ ghép song song, đa số yếu tố mờ nghĩa đứng sau, chỉ một số ít có yếu tố mờ nghĩa đứng trước.

- Chạm trổ (Chạm để trang trí, nói khái quát) ¬ Trổ: làm một công trình tỉ mỉ (của người thợ mộc).

- Chửi bớii (chửi bằng những lời moi móc, xúc phạm quá đáng) ¬ Bới: buông lời hung dữ.

- Chợ búa (chợ, nói khái quát) ¬ Búa: chợ: đi búa.

- Cạm bẫy (bẫy để lừa bắt loài vật, nói khái quát) ¬ Cạm: bẫy chuột.

- Bờ cõi (ranh giới đất nước, biên giới) ¬ Cõi : biên giới: cõi nương: ranh giới ruộng nương.

- Giá cả (giá hàng hóa, nói khái quát) ¬ Cả: giá: khảo cả (khảo sát giá cả), mặc cả (trả giá).

- Khinh dẻ (“Từ điển tiếng Việt”, Hoàng Phê chủ biên, ghi là khinh rẻ và giải nghĩa: khinh và coi rẻ) ¬ Dẻ: khinh: dẻ người = xấc láo, khinh người; dẻ duôi bạn bè = coi khinh bạn bè.

- Dọn dẹp (thu xếp cho gọn gàng, sạch sẽ, nói khái quát) ¬ Dẹp: chinh phục - tức làm cho tình thế được yên ắng, có trật tự trở lại: dẹp ngựa: trị ngựa; dẹp loạn.

- Nhỏ mọn (bé nhỏ, không có giá trị, không đáng kể) ¬ Mọn: nhỏ bé; vợ mọn: vợ bé, vợ lẻ; con mọn...

- Lụn bại (lâm vào tình trạng nguy kịch, suy sụp không thể cứu vãn được) ¬ Lụn: hết; tàn dần: lụn đời: hết đời; lụn năm: cuối năm, hết năm.

- Riêng tây (riêng tư) ¬ Tây: thiên vị, không công bằng.

- Áo xống (đồ mặc như áo, váy) ¬ Xống: quần; xống ngô: quần tàu.

- Giỗ quảy (cúng giỗ, nói khái quát) ¬ Quảy: mời: quảy Bụt: mời Bụt hay tượng thần ăn.

4. Tổ hợp thành ngữ tính:

- Chiềng làng chiềng chợ (trình; tiếng rao mõ ngày xưa) ¬ Chiềng: lời mở đầu trang trọng.

- Họa là: hoặc là, nếu may ra là.

- Âu là: xem ra là: âu là mai mưa.

- Song le (nhưng mà) ¬ Le: nhưng, nhưng mà.

- Chẳng những (không chỉ có) ¬ Những: chỉ có.

- No cơm ấm cật ¬ Cật: lưng. Sấp cật cùng ai: quay lưng lại với ai.

5. Nhân đây, xác định thêm nghĩa một số từ ngữ địa phương miền Nam, có ít nhiều bị mờ nghĩa:

- Nói đại, làm đại đi! ( nói ào, làm ào đi, nói, làm nhanh đi!) ¬ Đại: bước chạy của loài vật: đại ngựa: bước chạy của ngựa - tức bước chạy nhanh, chạy ào lên: phi nước đại...

- Ốm nhách (rất gầy) ¬ Nhách: người có thân hình bé nhỏ; bé nhách

- Giả đò (làm bộ) ¬ Đò: giả bộ; làm đò: giả vờ, làm bộ.

- (Đi) Cà nhắc (đi bước cao bước thấp, do có một chân không cử động được bình thường) ¬ Nhắc: đi khập khiễng; đi cà nhót.

- Nậu rổi (Nậu: bọn; Rổi: mua ở nơi này, bán ở nơi khác) ¬ Buôn rổi: buôn gánh bán bưng...

- Nói hành (nói xấu sau lưng) ¬ (Nói) hành: nói xấu người khác; v.v...

6. Để kết luận, chúng ta thấy rằng: “Từ điển A. De Rhodes" là một kho tàng vô giá về ngôn ngữ tiếng Việt, đặc biệt về dấu vết các yếu tố cổ của tiếng Việt, nói khác đi là soi rõ về mặt từ nguyên của tiếng Việt, cũng như các mặt văn hóa và xã hội khác. Nó giúp ích không ít đối với người làm công tác Hán Nôm, đặc biệt là Nôm, trong việc giải mã các văn bản chữ Nôm cổ.

CHÚ THÍCH

(1) Alexandre De Rhodes: “Từ điển Annam - Lusitan - Latin”. Xuất bản tại Rome, 1651 (Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính). Nxb. KHXH, 1991.

TB

SỰ HIỆN DIỆN CỦA LOẠI CHỮ NÔM DÙNG HAI MÃ CHỮ RIÊNG BIỆT ĐỂ GHI MỘT TỪ VIỆT

HOÀNG THỊ NGỌ

Các công trình nghiên cứu chữ Nôm từ trước đến nay chủ yếu là đi sâu vào nghiên cứu chữ Nôm từ thế kỷ XVII về sau, còn chữ Nôm từ thế kỷ XVII trở về trước thì chỉ lướt qua. Do thiếu cơ sở tư liệu nên giai đoạn đầu của sự phát triển văn tự dân tộc vẫn còn là vấn đề đang bỏ ngỏ đối với những người nghiên cứu chữ Nôm và lịch sử tiếng Việt. Một số văn bản Hán Nôm được coi là xuất hiện trước thế kỷ XV thì đều là các bản được khắc in hoặc sao chép lại sau này, do vậy không còn giữ lại được hình dạng chữ Nôm trung thực với văn bản gốc. Đến nay, đã có những cơ sở tư liệu đáng tin cậy cho thấy rõ diện mạo và tính chất của văn tự dân tộc ở thời sơ kỳ và gắn với nó là bộ mặt của tiếng Việt cổ trong thời kỳ đầu của quá trình đơn tiết hóa. Đó là những kết quả của sự phát hiện ra loại chữ Nôm dùng hai mã chữ riêng biệt để ghi một từ Việt. Vậy sự hiện diện của loại chữ này trong các văn bản Hán Nôm như thế nào ?

Từ trước đến nay, chúng ta chỉ quen với loại chữ Nôm dùng một mã chữ ghi một từ Việt. Loại chữ này có khi chỉ có một thành tố duy nhất được vay mượn từ chữ Hán, ví dụ:

聖 (thánh), 特 (được), 牢 (sao), 弄 (sống), 平 (bằng)... Có khi được ghép bởi hai thành tố theo sự sáng tạo riêng của người Việt, ví dụ: 炧(trăm), (trăng), 瑇 (trong), 佂 (chín), 憽 (mẹ)... nhưng cả hai thành tố làm thành một mã chữ dùng để ghi một từ Việt. Loại chữ Nôm dùng một mã chữ để ghi một từ Việt rất phổ biến trong các văn bản hiện còn. Đó là các văn bản cổ (xuất hiện trước thế kỷ XV) đã qua sự sửa đổi, biên soạn, khắc in lại, và các văn bản ra đời ở các thể kỷ sau này.

Thực sự, trong lịch sử phát triển chữ Nôm, còn có loại chữ dùng hai mã riêng biệt để ghi một từ Việt. Loại chữ này, cho đến nay còn rất ít người biết đến. Cũng có người đặt vấn đề là có hay không có loại chữ này? Phải chăng đó chỉ là do in ấn tách rời các con chữ khiến ta hiểu lầm ?

Nhìn lại lịch sử, ta có thể thấy cách ghi tiếng Việt của người Hán ở các thư tịch cổ, nhất là các tư liệu có tính chất từ điển đối chiếu Hán Việt, như An Nam tức sự (trong Sứ Giao Châu tập, 1293) của Trần Cương Trung, tức Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên; An nam dịch ngữ (khoảng thế kỷ XV, XVI)... là cách ghi dùng hai mã chữ ghi một từ, ví dụ:

月 (nguyệt): 勃 文 (bột văn) = blăng > trăng

天(thiên): 勃耒 (bột lồi) = blời > trời

牛 (ngưu): 革 蔞 (cách lâu) = klâu > trâu

Rõ ràng qua tai nghe của người ngoại quốc, các từ hiện nay được đọc thành đơn tiết như trâu, trời, trăng... vốn bắt nguồn từ klâu, blời, blăng,.. . sẽ thành hai âm tiết và được ghi lại thành hai mã chữ riêng biệt. Như vậy, cách dùng hai mã chữ tách rời để ghi một từ đã được sử dụng trong lịch sử.

Trong các văn bản Nôm xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, XVI như Quốc âm thi tập, Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (bản được in lại),... cũng thấy còn lại dấu vết của cách ghi như trên. Ví dụ:

Dùng 婆 馭 (bà ngựa) ghi ngựa (Quốc âm thi tập - bài 1, bài 114)

Dùng 涙多 (la đa) ghi đá. Trường hợp dùng (la đa) ghi đá xuất hiện trong Quốc âm thi tập ở bài 21; trong Chỉ nam ngọc âm ở các câu: làm máy la đá chước dùng bất nhân; bàn thạch la đá cả thay và còn được ghi lại trong từ điển A. de. Rhodes “mưa là đá nghĩa là mưa đá”.

Gần đây, do có điều kiện khai thác, nghiên cứu bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (gọi tắt là Phật thuyết), một bản giải âm kinh Phật xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV và được khắc in lại vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, chúng tôi đã có thêm nhiều cứ liệu quý để có thể thấy rõ hơn về loại chữ Nôm dùng hai mã chữ riêng biệt để ghi một từ Việt này. Về văn bản của bản giải âm Phật thuyết, chúng tôi đã trình bày trong bài: Vài nét về tình hình văn bản của bản giải âm Phật thuyết (Tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 1995). Chúng tôi chỉ muốn nói thêm rằng tuy cũng được khắc in lại sau này như một loạt các văn bản cổ khác nhưng bản Phật thuyết lại giữ được khá trung thực các dạng chữ của bản gốc. Dấu vết của chữ Nôm cổ còn lại rất đậm trong bản giải âm, đặc biệt là loại chữ Nôm dùng hai mã tách rời để ghi một từ Việt. Sự xuất hiện của loại chữ này không phải lẻ tẻ vài trường hợp mà xuất hiện một cách phổ biến, đều đặn và có quy luật trong toàn bộ văn bản. Chúng cũng được thẩm định một cách đáng tin cậy qua sự chuyển dịch cụ thể từ chữ Hán sang chữ Nôm từng dòng, từng chữ trong văn bản. Ví dụ:

Tiếng Việt Chữ Nôm Dịch chữ Hán
? đứt (1) 波 怛 (ba đát) 断 (đoạn)
? băm 阿 貶 (a biếm) 斩 (trảm)
? giặt 阿 质 (a chất) 洗 (tẩy)

Trong văn bản Phật thuyết có tới 75 trường hợp (= 150 mã) được ghi bằng hai mã chữ xuất hiện với tần số là 103 lần. Trong một văn bản có khối lượng chữ Nôm không nhiều như Phật thuyết (khoảng gần 5000 mã) thì số lượng chữ đặc biệt như vậy là khá nhiều. Tuy nhiên, sự tồn tại của các chữ Nôm đặc biệt trong Phật thuyết không phải vì bản thân nó cố tình tạo ra sự khác biệt với các văn bản khác mà vì nhằm cố gắng biểu hiện được bộ mặt của tiếng Việt đương thời. Bởi lẽ, chữ Nôm là một văn tự mà văn tự bao giờ cũng thể hiện bộ mặt của ngôn ngữ bằng những ký hiệu, ký tự. Văn tự Nôm ở giai đoạn nào cũng vậy, luôn luôn cố gắng bắt kịp nhịp độ phát triển của tiếng Việt trong từng giai đoạn. Chính vì vậy, trước khi tìm hiểu về loại chữ Nôm dùng hai mã chữ riêng biệt ghi một tiếng cũng phải nắm được sơ bộ lịch sử phát triển tiếng Việt nhất là đặc trưng, tính chất của tiếng Việt trong giai đoạn xuất hiện và tồn tại của loại chữ này.

Như ta đã biết, tiếng Việt hiện đại đã được đơn tiết hóa hoàn toàn. Nhưng ở giai đoạn xa xưa, đặc biệt từ thế kỷ XV về trước, một từ còn bao gồm âm tiết chính và một âm tiết phụ hay tiền âm tiết. Trong quá trình biến đổi và phát triển của ngôn ngữ, âm tiết chính luôn được bảo lưu còn bộ phận phụ, tiền âm tiết bị mài mòn dần rồi mất hẳn.

1. Dùng hai mã chữ riêng biệt để ghi âm tiết chính và tiền âm tiết hoặc các tổ hợp phụ âm đầu.

1.a. Ghi các tổ hợp phụ âm đầu

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt thì từ thế kỷ XVII về trước, trong tiếng Việt còn tồn tại một số tổ hợp phụ âm đầu và tiền tố như: pl, bl, kl, khl, kr, gr,... và nếu ngược dòng quá khứ thì còn có thể có: km, kb, kn, kđ, a, t,... Theo thời gian, các nhóm phụ âm đầu và yếu tố phụ này bị mài mòn dần, thường là rụng đi thành tố thứ nhất hoặc biến đổi thành một âm mới, ví dụ: bl> tr, gi. Thành tố còn lại thường là âm tiết chính, nó được bảo lưu theo sự biến đổi của tiếng Việt. Những dấu vết của các tổ hợp phụ âm đầu này còn lại khá rõ trong chữ Nôm và ở một số địa danh. Thường thì trong chữ Nôm, ở các văn bản cổ (bản in lại) hiện còn, các tổ hợp phụ âm đầu được ghi lại dưới dạng một mã chữ và mã chữ này gồm hai thành tố đều ghi âm. Ví dụ như:

(ba + lăng) > blăng > trăng

弄古 (cổ + lộng) > klống > trống

Nhưng trong văn bản Phật thuyết các tổ hợp phụ âm đầu được ghi dưới cả hai dạng: dạng một mã chữ và dạng hai mã chữ, ví dụ:

Dùng 个 絤 (cá lung), 車 絤 (cư lung), (cư + long) > klông > trông

Dùng 个 奴 (cá nô), (cá + nô) > kno > no.

Văn bản Phật thuyết chứa đựng khá phong phú về số lượng các tổ hợp phụ âm đầu. Nhiều nhóm rất khó tìm thấy ở bất cứ một văn bản nào hiện còn. Đó là : dấu vết của các nhóm phụ âm với [k*] khởi đầu và âm theo sau là các phụ âm tắc [b], [m], [d], [n]; các nhóm phụ âm với âm theo sau là âm sát [l] và âm rung [r].

Đặc biệt có những tổ hợp phụ âm rất hiếm thấy thì ở Phật thuyết lại được ghi dưới dạng hai mã chữ:

破 了 (phá liễu) > phláu > sáu (dịch chữ 六 , trang 40b)

破 律 (phá luật) > phlốt > sốt (dịch chữ 熾 , trang 29a dòng 5)

坡 律 (pha luật ) > phlốt > sốt (dịch chữ 熱 , trang 29 a dòng 7)

可 列 (khả liệt ) > khlắt > sắt (dịch chữ 金鼓 , trang 29a dòng 9)

車 莽 (cư mãng) > kmắng > mắng (dịch chữ 聞, trang 5b, 6b dòng 5)

Lưu tích về các tổ hợp [khl], [phl] còn thấy trong An nam dịch ngữ (Vương Lộc giới thiệu, chú giải năm 1995, Nxb. Đà Nẵng):

k’ang < khláng = sáng (số 22)

k’ung < khlông = sông (số 56, 85, 86, 87, 88)

k’au < khlâu = sâu (số 76, 85)

p’ai < phlai = say (số 469)

Lưu tích về các [khl], [phl] còn thấy trong cách đọc tên làng bằng tên Nôm và tên Hán Việt ở một số địa phương như:

Nôm
Sang
Sẻ
Sếu

Sâm
Se
Sây
Sọ
HánViệt
Khả Lang
Khả Lễ
Khuê Liễu
Phương La
Phú Lâm
Phả Lễ
Phù Lai
Phù Lỗ

(Quỳnh Phụ, Thái Bình)
(Tiên Sơn, Hà Bắc)
(Tứ Lộc, Hải Hưng)
(Yên Phong, Hà Bắc)
(Hưng Hà, Thái Bình)
(Thuận Thành, Hà Bắc)
(Sóc Sơn, Hà Nội)
(Sóc Sơn, Hà Nội)

1.b. Ghi các phụ âm tiền thanh hầu hóa

Ngoài việc ghi các tổ hợp phụ âm đầu, loại chữ Nôm gồm hai mã riêng biệt này còn thể hiện các phụ âm tiền thanh hầu hóa vốn có trong tiếng Việt. Theo các nhà nghiên cứu ngữ âm học lịch sử như A. G. Haudricourt, N.K.Xokolovskaia, M.Ferlus, Nguyễn Ngọc San thì khoảng thế kỷ XII trong tiếng Việt xuất hiện 4 âm tiền thanh hầu hóa: [b], [d], [j], [g] mà gần đây Difloth cho là những âm hít vào Б, d, … Những cứ liệu để khẳng định về những âm này rất hiếm nhưng bản Phật thuyết lại cung cấp cho ta khá đầy đủ và chúng còn được thể hiện cả trong cách ghi dùng hai mã chữ. Các ký hiệu ghi phụ âm tiền thanh hầu hóa thường gặp trong Phật thuyết là 阿 (a), 巴 (ba), 多 (đa).

Ví dụ:

多 边 (đa biên) > ? bên > bên - dịch 邊 (biên)

阿 貶 (a biếm) > ? băm > băm - dịch 斬 (trảm)

巴 低 (ba đê) > ? để > để (lòng) - (chí tâm, chí thành)

波 怛 (ba đát) > ? đứt > đứt - (đoạn)

阿 計 (a kế) > ? gầy > gầy - (cơ doanh)

阿 枯 (a khô) > ? gõ > gõ - (đả)

阿 質 阿 至 (a chất a chí) > giặt gịa - (sám tẩy)

Đặc biệt bản giải âm Phật thuyết còn cung cấp cho ta một loạt các cứ liệu về dấu vết của các phụ âm tiền thanh hầu hóa khi chúng chuyển sang các âm mũi hóa tương ứng [?m], [?n], [?nh], [?ng], ví dụ:

多 美 (đa mỹ) > ? mỡ > mỡ; 多 蔑 (đa miệt) > ? miệt > miệt

波 涅 (ba niết) > ? nát > nát; 巴 乃 (ba nãi) > ? nấy > nấy

啊 乳 (a nhũ) > ? nhỏ > nhỏ; 啊 与 (a dư) > ? dư > dư (như)

多 仭 (đa nghĩ) > ? nghe > nghe; 阿 吟 (a ngâm) > ? ngậm > ngậm

Qua khảo sát toàn bộ chữ Nôm trong Phật thuyết chúng tôi thấy hiện tượng ghi các yếu tố tiền âm tiết bằng hai mã chữ riêng biệt là xảy ra tương đối phổ biến. Có thể thấy mã ghi tiền âm tiết đứng trước hầu hết các phụ âm đầu của mã ghi âm tiết chính. Ngoài chức năng ghi các tổ hợp phụ âm đầu, các âm tiền thanh hầu hóa, loại chữ hai mã còn ghi những yếu tố tiền âm tiết khác nữa. Việc xác định rõ vai trò, chức năng văn tự của loại chữ ghi bằng hai mã này là hết sức quan trọng, vì nếu không ta sẽ không giải thích được mã đứng trước ghi yếu tố gì trong tiếng Việt. Do khuôn khổ bài viết, chúng tôi xin để dành một dịp khác sẽ bàn về vấn đề này.

2. Mối quan hệ nội tại giữa các thành tố trong loại chữ hai mã riêng biệt

Đây là loại chữ Nôm rất cổ xuất hiện nhiều trong Phật thuyết. Nó gồm hai mã chữ riêng biệt để ghi một từ Việt. Trong hai mã đó, có một mã chính (mã ghi âm tiết chính) và một mã phụ (mã ghi yếu tố phụ; tiền âm tiết). Theo thứ tự trước sau, chúng tôi gọi mã ghi tiền âm tiết là Mã I, mã ghi âm tiết chính là Mã II.

Mã I bao giờ cũng đứng trước mã ghi âm tiết chính, chức năng văn tự của nó là ghi các tiền âm tiết hoặc yếu tố thứ nhất của nhóm phụ âm đầu. Các ký hiệu ghi tiền âm tiết thường gặp trong Phật thuyết là: 阿 (a), 波 ,巴 (ba), 个 (cá), 車 (cư), 多 (đa), 可 (khả), 涙 (la), 麻 (ma), 坡 (pha), 破 (phá). Để ghi các tiền âm tiết, ở Mã I chỉ sử dụng phần âm đầu, ví dụ: lấy [b] trong ba, lấy [k] trong cá, cư để kết hợp với Mã II. Mã II bao giờ cũng là mã chính, ghi âm tiết chính, nó luôn được bảo lưu trước sự biến đổi của lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nếu Mã I chỉ được sử dụng phần âm đầu thì Mã II được sử dụng toàn âm tiết nhưng chỉ phần phụ âm đầu của nó là có quan hệ với Mã I. Khi đọc chữ Nôm bao giờ cũng dựa chủ yếu vào Mã II nhưng khi nghiên cứu quan hệ nội tại, mối quan hệ ngữ âm của loại chữ này phải nhìn chúng trong tổng thể.

Khi trong tiếng Việt yếu tố tiền âm tiết còn rất đậm thì mã ghi tiền âm tiết tách riêng thành một mã đứng trước âm tiết chính. Quá trình đơn tiết hóa xảy ra trong tiếng Việt là quá trình yếu tố tiền âm tiết bị mài mòn dần rồi mất hẳn. Quá trình đó cũng để lại dấu vết trong chữ Nôm, đó là quá trình: Mã I từ đứng riêng đến nhập vào Mã II để thành loại chữ Nôm một mã cho đến cuối cùng ký hiệu ghi âm tiết biến mất hoặc nếu còn lại thì tính chất và chức năng của nó cũng đã thay đổi, ví dụ:

Để ghi no (nghĩa là lúc, khi) trong chữ Nôm có một quá trình diễn biến như sau:

个 奴 (cá nô) = kno Þ (cá + nô) = kno Þ 奴 (nô) = no

Để ghi trông trong chữ Nôm có một quá trình diễn biến tương tự:

車 絤 (cư lung) hoặc 个 絤 (cá lung) = klông Þ (cư + long) = klông Þ 絤 (lung) = trông Þ 鐭 (lung + vọng) = trông

Việc sử dụng các ký hiệu ghi tiền âm tiết như 阿 (a), 巴 (ba), 多 (đa),... có thể cho phép ta xét lại chức năng của các ký hiệu vẫn được coi là “cá nháy” trong chữ Nôm. Ban đầu, các ký hiệu 阿, 巴, 个, 巨, 麻... được dùng để ghi yếu tố thứ nhất của tổ hợp phụ âm đầu, các tiền âm tiết vốn có trong tiếng Việt, chúng nằm ở vị trí thứ nhất ở loại chữ hai mã, sau đó chúng được ghi nhập vào mã chính như đã trình bày ở trên. Trong chữ Nôm dần dần chỉ còn loại chữ một mã. Khi trong tiếng Việt tính đơn tiết đã cao thì yếu tố nào không còn chức năng văn tự sẽ trở thành rườm rà, khó hiểu với người đương thời, chúng phải bị loại bỏ theo quy luật phát triển của văn tự. Nếu còn sót lại khi tiếng Việt đã mang tính đơn tiết thì chúng được hiểu và coi như những ký hiệu phụ kiểu “cá nháy”. Theo chúng tôi, chỉ có ký hiệu ク(nháy) là có tính chất quy ước, còn những mã chữ Hán như: 阿 (a), 巴 , 波 (ba), 个 (cá), 古 (cổ), 車 (cư), 巨 (cự), 可 (khả), 涙 (la), 麻 (ma), 司 (tư),... có thể có nguồn gốc từ cách ghi tiền âm tiết trong loại chữ Nôm dùng hai mã riêng biệt.

Trong lịch sử phát triển chữ Nôm thực sự có loại chữ dùng hai mã riêng biệt để ghi một từ Việt. Sự hiện diện của loại chữ Nôm này đã cho ta thấy rõ đặc trưng, tính chất của chữ Nôm ở thời kỳ đầu. Đây cũng là những lưu tích về ngôn ngữ của một giai đoạn lịch sử được phản ánh trong hệ thống văn tự tương ứng. Nghiên cứu về loại chữ đặc biệt này thực sự rất cần thiết để làm rõ về thời kỳ đầu của sự phát triển văn tự Nôm trong mối liên quan với ngôn ngữ dân tộc.

CHÚ THÍCH

(1) Do hạn chế của phương tiện ấn loát, chúng tôi dùng /?/ để ghi hiện tượng được gọi là tiền thanh hầu hóa của phụ âm đầu. /.

TB

BỘ THỦ HÁN TRONG CẤU TẠO TỪ SONG TIẾT TIẾNG VIỆT
(qua cứ liệu chữ Nôm)

LÃ MINH HẰNG

Từ “song tiết” ở đây muốn nói đến các từ ghép và các từ láy đôi (2 âm tiết). Bước đầu thống kê cho thấy: có 79/111 từ ghép đã dùng bộ thủ giống nhau ở cả hai yếu tố của từ ghép; có 95/125 từ láy đã dùng bộ thủ giống nhau ở cả hai yếu tố của từ láy. Các số liệu trên có thể dễ dàng cho ta thấy được xu hướng chung trong cấu tạo từ song tiết là dùng bộ thủ giống nhau ở cả hai yếu tố. Bài viết này muốn đi vào hiện tượng phổ biến trên đây để qua đó có thể hiểu kỹ hơn về hoạt động, tác dụng của bộ thủ Hán trong cấu tạo từ song tiết tiếng Việt được thể hiện qua chữ Nôm.

1. Trong cấu tạo từ ghép

Theo các nhà ngôn ngữ học, từ ghép có 2 loại: (1) ý nghĩa của từ ghép được dẫn xuất từ ý nghĩa của các thành tố cấu tạo nên nó (từ ghép hợp kết) và (2) ý nghĩa của các bộ phận tạo thành từ ghép mất tính độc lập, nó hòa lẫn vào nhau để cùng biểu thị một khái niệm (từ ghép hòa kết) [1](*). Như vậy, ở cả hai loại từ ghép nêu trên yếu tố nghĩa đều rất quan trọng, bộ thủ được dùng trong các từ ghép này (thể hiện qua chữ Nôm) nhằm mục đích liên kết, gắn nối các yếu tố đó lại thành một khối hoàn chỉnh về mặt nghĩa.

Trong một số từ ghép, lẽ ra theo nghĩa gốc của từng yếu tố thì phải dùng các bộ thủ khác nhau để biểu nghĩa, nhưng đôi lúc người ta lại dùng chung một bộ thủ. Xét các ví dụ sau ở chữ Nôm:

Dùi mài là 2 động tác khác nhau: Mài là động tác của tay cầm dao tác động lên đá để cho dao sắc hơn, nhọn hơn; còn dùi là động tác tạo lỗ thủng bằng cái dùi. Chữ Nôm mài có thể dùng bộ thạch hay bộ tài gẩy để biểu nghĩa đều được. Nhưng trong từ ghép dùi mài lại dùng chung bộ thạch để biểu nghĩa cho cả hai chữ. Ví dụ:

. “ Dùi mài (石椎 砙) kinh sử để chờ đại khoa” [4; 95a].

. Rình là hai động tác khác nhau. Rình là “quan sát kỹ một cách kín đáo để thấy được” nên có thể dùng bộ mục biểu nghĩa. lại là việc tìm khi không thể nhìn thấy được (lần tay trong bóng tối) nên có thể dùng bộ tài gẩy biểu nghĩa. Mặt khác, lại có mối liên tưởng xa với việc nhìn (bằng mắt) do không nhìn thấy được nên mới phải mò. khi đi với rình đã dùng chung bộ mục biểu nghĩa để tạo thành từ ghép Rình mò với nghĩa khái quát, lúc này không còn nguyên nghĩa gốc của nó. Ta có thể tìm thấy từ ghép rình mò ở câu sau:

“Nằm đêm lắm kẻ rình mò (月呈 目谟 ) ước ao [4; 127b.6]

. Máu mủ là hai chất khác nhau trong cơ thể con người, lẽ dĩ nhiên phải dùng hai bộ thủ khác nhau. Nhưng khi đi vào cấu tạo từ ghép, nó đã dùng chung một bộ thủ biểu nghĩa - bộ huyết. Lúc này, máu mủ đã mất đi nghĩa gốc của bản thân chúng, nghĩa của chúng được hòa lẫn vào nhau trong từ ghép máu mủ để chỉ một khái niệm mới, chỉ quan hệ huyết thống, quan hệ họ hàng thân thích. Ví dụ:

“Xót tình máu mủ ( 忋 礲) thay lời nước non” [5; 19a, 7]

Ở loại từ này, cũng có khi phải dùng đến khái niệm gọi là “sự lây lan ngữ nghĩa”. Nghĩa là việc dùng bộ thủ biểu nghĩa nào là do ảnh hưởng, do mượn tạm bộ thủ biểu nghĩa của yếu tố bên cạnh trong từ ghép.

Như ta biết: Sấm là một hiện tượng xảy ra khi mưa do hai đám mây phóng điện va chạm vào nhau mà gây ra tiếng nổ. Sự liên kết ngữ nghĩa trong một từ ghép thể hiện rất rõ qua hai cách ghi khác nhau của chữ sấm như sau:

- Sấm sét là hai hiện tượng xảy ra khi mưa, chữ Nôm đã dùng thống nhất bộ vũ để biểu nghĩa, như câu sau:

“Trộm nhờ sấm sét ( 闙 誀) ra tay” [5; 61b]

- Chớp là hiện tượng ánh sáng lóe mạnh rồi tắt, nên dùng bộ hỏa để biểu nghĩa. Sấm khi đi với chớp lại bị ảnh hưởng cách dùng bộ hỏa ở chữ chớp. Ta có:

“Mưa sa sấm chớp (火武 火执 ) đòi ngàn” [6; 25b]

Các ví dụ trên cho thấy: bộ thủ Hán ngoài khả năng biểu thị ý nghĩa cho từng chữ riêng lẻ nó còn có thể liên kết ngữ nghĩa của hai yếu tố cấu thành từ ghép.

2. Trong cấu tạo từ láy

Vai trò liên kết của bộ thủ còn thể hiện khá rõ ở chữ Nôm ghi các từ láy âm trong tiếng Việt. Láy âm là hiện tượng láy lại một phần âm thanh nào đó giữa các tiếng (các yếu tố) và nhờ đó, các yếu tố được liên kết gắn nối với nhau về mặt ngữ âm, qua đó có thể phân biệt nó với các tiếng rời rạc khác trong lời nói. ở chữ Nôm, thay vì sự láy âm lại là sự lặp lại các bộ thủ chỉ nghĩa (xét về hình thức chữ viết).

Qua nghiên cứu các bộ thủ Hán trong cấu tạo từ láy tiếng Việt, có thể phân biệt 2 loại sau:

2a. Những từ láy mà yếu tố gốc mang nghĩa, bộ thủ ở yếu tố láy là sự nhắc lại bộ thủ đã có ở yếu tố gốc. Nghiên cứu kỹ bộ thủ trong các từ láy loại này, ta lại thấy 2 tiểu loại sau:

+ Tiểu loại thứ nhất: Bộ thủ ở yếu tố gốc mang nghĩa và lại được dùng lặp lại ở yếu tố láy. Đây là hiện tượng thường gặp trong các từ láy tiếng Việt và đã được thể hiện khá rõ qua cứ liệu chữ Nôm.

- Từ láy héo hon đã dùng thống nhất bộ hỏa là bộ thủ biểu nghĩa của chữ héo đứng trước. Ví dụ:

“Chạnh nỗi đôi phương ruột héo hon” ( 幆 燉 ) [7; 67a,8]

- Từ láy say sưa đã dùng chung bộ dậu là bộ thủ biểu nghĩa của chữ say đứng trước. Ví dụ:

“Sang đâu những kẻ say sưa ( 蔢 蔲) tối ngày [8; 16a]

Ở tiểu loại này thay vì việc láy âm là việc dùng lặp lại bộ thủ biểu nghĩa, như vậy bộ thủ ở đây đã đảm nhiệm chức năng láy âm. Kỳ thực nếu xem xét kỹ nó còn có câu chuyện của ngữ nghĩa, của sự liên kết ngữ nghĩa giữa hai yếu tố trong từ láy. Sự liên kết ngữ nghĩa trong từ láy được thể hiện khá rõ qua 2 cách ghi chữ vùng sau đây:

Vẫy vùng là một từ láy chỉ “hoạt động một cách tự do, tùy thích không chịu sự kiềm chế nào cả”. Trong chữ Nôm đã thấy dùng bộ tài gẩy để biểu nghĩa cho cả 2 yếu tố, ta có:

“Giang hồ quen thú vẫy vùng” (壊 瀐 ) [5; 55a, 8]

Nhưng nếu hoạt động này được thực hiện trong môi trường nước thì lại dùng chung bộ thủy cho cả 2 yếu tố, ta có:

“Kình nghê Bố hải vẫy vùng” (壊 瀐) [9; 25a. 6]

+ Tiểu loại thứ hai: Đôi khi ta còn bắt gặp hiện tượng bộ thủ của yếu tố gốc không mang nghĩa mà chỉ là thành tố biểu âm trong chữ đó. Khi cấu tạo từ láy, người ta đã dùng láy lại bộ thủ loại này một cách trung thành. Trước đây, trong bài viết của mình, chúng tôi đã xếp các bộ thủ loại này vào loại bộ thủ mang nghĩa lâm thời [2]. Nhưng nếu đứng ở góc độ từ láy mà nói: coi các bộ thủ loại này là bộ phận biểu âm của yếu tố láy cũng có lý của nó. Ví dụ các chữ sau:

- Chữ Nôm lẻ được viết 絉 gồm có lễ (biểu âm) + chích “đơn chiếc” (biểu ý). Theo đó, yếu tố láy loi trong từ láy lẻ loi được viết là: gồm chữ lôi (biểu âm) + chữ lễ. Chữ lễ trong loi có thể hiểu là bộ thủ mang nghĩa lâm thời, bộ thủ hình thức, nhưng nếu nhìn nhận chúng từ khía cạnh từ láy thì phải coi nó là phần biểu âm cho bộ phận láy âm. Bởi vì liên quan đến từ láy lẻ loi như trên, ta còn thấy dùng lễ để ghi thanh mẫu R tiếng Việt trong từ láy rẻ rúng rẻ rúng :

Mà lòng rẻ rúng ( 錃 忚) đã dành một bên” [5; 13a.10]

- Tương tự với cách cấu tạo này còn có từ láy nợ nần nợ 笡 gồm có nữ (biểu âm) + trái “nợ” (biểu ý). Theo đó, yếu tố láy lại sẽ được dùng lặp lại nữ (biểu âm), ta có nần 女难 .

Như vậy, ở tiểu loại thứ hai này bộ thủ Hán chỉ thuần túy là chất keo dính liên kết 2 yếu tố của từ láy về mặt ngữ âm.

2b. Trong một số từ láy, các yếu tố cấu thành tự bản thân đều không mang nghĩa riêng. Bộ thủ chung cho từ láy được quyết định bởi ý nghĩa cụ thể trong văn cảnh, bởi ý nghĩa chung của từ láy. Các bộ thủ loại này liên kết các từ láy âm đồng thời nó lại mang tính cách của bộ thủ lâm thời trong văn cảnh cụ thể xét về mặt ngữ nghĩa. Ví dụ:

- Từ láy tả tơi dùng để nói đến “áo quần bị rách, bị rời ra thành nhiều mảnh nhỏ”, nó đã dùng bộ y để biểu nghĩa cho cả hai:

“Cày mây, câu nguyệt tả tơi ( 忦 衤哉 ) áo cầu” [3; tr. 520]

- Từ lập lòe để chỉ “ánh sáng phát ra từ điểm nhỏ, khi lóe lên khi mờ đi”. Từ láy lập lòe đã dùng chung bộ hỏa (là bộ thủ biểu nghĩa cho lửa, cho ánh sáng phát ra từ lửa) để biểu nghĩa:

“Đầu tường lửa lựu lập lòe ( 嘠 睶) đâm bông” [5; 33b.5]

- Từ láy sòng sọc mô phỏng mắt ở trạng thái mở to không chớp, đưa đi đưa lại rất nhanh” đã dùng chung bộ mục biểu nghĩa cho cả hai:

“Mắt sòng sọc (紥 矴) khóe mặt sường sượng gân” [10; 21a.5]

Khảo sát các bộ thủ Hán trong cấu tạo từ song tiết tiếng Việt thể hiện qua chữ Nôm, ta có thêm hiểu biết về cơ chế tạo nghĩa, cơ chế láy âm của các từ song tiết tiếng Việt.

Qua nghiên cứu ngữ nghĩa của các bộ thủ Hán trong các từ song tiết thì thấy rằng: ngoài chức năng biểu thị ý nghĩa cho từng chữ, từng từ đơn tiết, bộ thủ còn có chức năng gắn nối liên kết âm thanh và liên kết ý nghĩa giữa 2 yếu tố trong một từ ghép, một từ láy. Đây là những gợi mở quý báu trong việc vận dụng các tri thức hiện đại để nghiên cứu, lý giải những hiện tượng tương tự trong chữ Nôm Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

(*) Số ký hiệu để trong ngoặc vuông gồm 3 nhóm chữ số: nhóm ghi ký hiệu tên sách ghi ở mục tài liệu tham khảo, sau đó là nhóm ghi số trang và số dòng trong tác phẩm.

(1) Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. ĐH & THCN, H. 1985.

(2) Lã Minh Hằng, Bộ thủ Hán mang nghĩa lâm thời trong chữ Nôm, Tạp chí Hán Nôm 2/1998.

(3) Lục Vân Tiên truyện, Trần Nghĩa - Vũ Thanh Hằng phiên âm và giới thiệu, Nxb. KHXH, H. 1994.

(4) Vị thành giai cú tập biên, số ký hiệu AB.194/VHN.

(5) Đoạn trường tân thanh , số ký hiệu AB.12/VHN.

(6) Tây du truyện, số ký hiệu AB.81/VHN.

(7) Hồng Đức Quốc âm thi tập, số ký hiệu AB. 292/VHN.

(8) Nam phong giải trào, số ký hiệu AB.348/VHN.

(9) Đại Nam quốc sử diễn ca, số ký hiệu VNv.3/VHN.

(10) Nhị độ mai diễn ca, số ký hiệu VNb.37/VHN./.

TB

LỆ THƯỞNG ĐÀO CỦA LÀNG ĐÔNG NGẠC VÀ CÁC BÀI VĂN THƯỞNG ĐÀO

TRẦN THỊ KIM ANH

Đông Ngạc - tên Nôm là Kẻ Vẽ là một ngôi làng cổ nằm ven sông Nhị. Nơi đây có bến Ngác và chợ Vẽ nổi tiếng trong lịch sử. Vào cái thuở đường thủy là huyết mạch giao thông, bến Ngác khi ấy là một nơi trên bến dưới thuyền và chợ Vẽ là một "trung tâm thương mại". "Nhất cận thị, nhị cận giang", Đông Ngạc đã hội được cả hai yếu tố để trở thành một làng giàu mạnh về kinh tế. Với một nền kinh tế mạnh và lại có vị trí gần sát Kinh thành Thăng Long nên người Đông Ngạc rất thuận tiện khi ra Kinh đô ăn học và rước thầy giỏi từ Kinh đô về dạy trong làng. Bởi vậy trong nhiều thế kỷ, Đông Ngạc đã đóng góp cho đất nước 25 vị Tiến sĩ và cả ngàn Hương cống, Sinh đồ, Cử nhân, Tú tài... "Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ". Người Đông Ngạc làm quan khắp nơi và không thời nào không có các vị triều quan về làng đóng góp tiền của và trí tuệ để xây dựng quê hương. Nhờ có lực lượng quan viên trí thức đông đảo như vậy nên Đông Ngạc - qua nhiều thế kỷ - nổi tiếng là một làng văn hiến, là làng "Mỹ tục khả phong".

Quả thật trong quá trình tìm hiểu tục lệ Đông Ngạc, chúng tôi nhận thấy lệ làng và các nghi lễ nơi đây đã được quan viên hương lão trong làng quy định hết sức nghiêm ngặt, sang trọng và khá văn minh. Đặc biệt, nghi lễ tế thần nhân dịp làng vào đám có thể xem như một điển hình về phong tục tế lễ của các làng Việt cổ truyền ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Song việc trình bày, giới thiệu về tục lệ và chi tiết lễ hội của Đông Ngạc là một đề tài lớn, chúng tôi xin được trình làng dưới dạng 1 cuốn sách, còn ở đây, trong phạm vi hạn hẹp của bài viết, chúng tôi chỉ giới thiệu về lễ Thị yến thưởng đào.

Thông thường đa số các làng quê của Bắc Bộ Việt Nam mở hội làng, hay còn gọi là "vào đám" lúc đầu xuân, khoảng kỳ tháng Hai, Đông Ngạc cũng vậy. Hội làng Đông Ngạc bắt đầu từ mồng 9 tháng 2 và kéo đến 14 thì tế "giã đám". Trong những ngày này làng tổ chức rước tế Thành hoàng làng, vui chơi, chèo hát suốt đêm ngày và có mời nhà trò hát thờ thần (tức hát cửa đình). Sách Đông Ngạc xã tục lệ(1) cho biết hết sức chi tiết các nghi lễ trong những ngày này. Về lễ Thị yến thưởng đào chúng tôi xin được tóm lược như sau: "Từ ngày 11 đến ngày kết thúc, ba hàng làng(2) và tám giáp(3) cùng thị yến(4). Cỗ yến ở đây do tám giáp đệ đến. Cỗ được bọc giấy hồng điều, dán trang kim chữ "Thọ" và đậy lồng bàn. Sau khi viên chấp sự gõ 1 hồi tang trống và đánh 4 tiếng trống, các viên trung nam đến mở lồng bàn, đốt hương rồi các cô đào đọc thơ chúc rượu. Nhạc công nổi nhạc, các cô đào đến múa, hát mừng. Lần lượt các quan viên ở ba hàng làng ban phiếu thưởng cho cô đào. Sau khi ba hàng làng thưởng xong, tám giáp căn cứ theo phiếu thưởng của ba hàng làng, lần lượt bốn giáp nhất đứng dậy gọi đào, đọc bài tán văn rồi thưởng cho cô đào. Bốn giáp nhất thưởng xong, viên chấp sự lại nổi 1 hồi tang trống và đánh 4 tiếng trống, bốn giáp nhì lại lần lượt đứng lên tiếp tục gọi đào đọc tán văn và trao thưởng.

Việc thưởng đào trong lễ này được Dĩ Thủy Phạm Văn Thuyết, tác giả sách Đông Ngạc tạp biên và là người làng Đông Ngạc - một nhân chứng của lễ hội ở Đông Ngạc vào trước năm 1945 cho biết chi tiết hơn, chúng tôi xin được trích nguyên văn: Sau khi ba hàng làng thưởng xong thì đến tám giáp. "Mỗi giáp phải làm 1 bài chúc mừng dân, dài độ mươi câu, khi gọi đầu thì đọc. Vị cầm chịch đánh 3 tiếng đại cổ thì giáp Đông nhất gọi "ớ đầu". Cô đầu "dạ", đến hát mừng, xong giáp ấy đọc bài chúc dân. Đọc 2 câu 1 lần dằn, nghĩa là cứ đến 2 chữ cuối câu thứ 2 thì phải dằn to lên và vị cầm chịch điểm theo một tiếng trống rồi lại gọi "ớ đầu". Cứ theo thế cho đến hết bài. Đến tiếng trống điểm câu cuối cùng phải gọi "ớ đầu thưởng" rồi thưởng cho cô đầu. Sau đó vị cầm chịch đánh vào tang trống một tiếng, viên vừa đọc hết bài đó "dạ" rồi đi đến chỗ vị cầm chịch lĩnh thưởng. Việc thưởng này tùy theo mỗi giáp đọc bài chúc hay hay không hay, và khi đọc có nhầm lẫn không, để liệu mà ban thưởng cho giáp ấy. Bài chúc phải đưa nộp trước, khi đọc phải đứng và mặc áo thụng. Người đọc phải học thuộc lòng(5)".

Trên đây chúng tôi vừa trình bày trình tự lệ ban thưởng cho cô đào ở Đông Ngạc, theo đó có thể thấy trong lệ này, khi thưởng cho cô đào, mỗi giáp phải đọc một bài tán văn (hoặc bài chúc) và việc đọc này được quy định rõ ràng về nội dung bài văn, cách đọc, nhận thưởng... Vậy bài tán này ra sao ? Sách Đông Ngạc tạp biên(6) có giới thiệu 2 bài, chúng tôi xin được dẫn ra đây 1 bài:

Ngày xuân mở hội thanh bình
Đồng dân cầu phúc linh đình "vui thay"
Tiệc thần chèo hát đêm ngày
Thập hàng thị yến vui vầy "xiết bao"
Bình văn điệu giọng thấp cao
Trống chiêng cầm chịch điểm vào "thấy vang"
Ngác nhì mừng chúc dân làng
Sĩ thời hiển đạt phẩm hàm "vinh thăng"
Nông thời hòa cốc phong đăng
Công thương phát đạt mọi đằng "giàu sang"
Trẻ già trai gái trong làng
Bình yên vui vẻ thọ khang "đời đời"
Thưởng đào một đóa hoa tươi
Đào dâng Ngũ phúc có lời "mừng dân"(7)

Trong quá trình nghiên cứu về tục lệ Đông Ngạc, xung quanh vấn đề tế lễ, chúng tôi thu thập được khá nhiều tư liệu, trong đó có những bài thơ tương tự bài vừa dẫn ra ở trên. Đó là 9 bài trong Đông Ngạc sự thần ca xướng thưởng đào nương văn và 9 bài trong Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao (nhân nói đến 9 bài của Lê Đức Mao, chúng tôi xin được cảm ơn anh Nguyễn Xuân Diện đã chỉ cho chúng tôi biết tư liệu này). Như vậy, phải chăng 9 bài ở Đông Ngạc sự thần ca xướng thưởng đào nương văn và 9 bài ở Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao đều là các bài tán văn để các giáp đọc khi thưởng đào theo như lệ định vừa trình bày ở trên ?

So sánh 18 bài này với hai bài được giới thiệu trong Đông Ngạc tạp biên chúng tôi nhận thấy:

1- Về nội dung: chúng tương tự nhau ở chỗ đều ca ngợi và chúc phúc làng Đông Ngạc.

2- Gần như ở bài nào cuối cùng cũng kết thúc bằng câu có 2 chữ "thưởng đào", như "Thưởng đào một giải mừng làng" hay "Thưởng đào hai chữ phụ khang mừng làng"...

Còn một điều nữa là, ngay tên gọi Sự thần ca xướng thưởng đào nương văn có thể dịch là"Bài văn thưởng đào nương hát thờ thần". Và Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn có thể dịch là "Nghĩ hộ tám giáp bài văn thưởng giải ả đào". Điều này cộng với những điều vừa nói trên có thể cho phép chúng ta khẳng định đây là các bài tán văn mà các giáp phải làm để đọc khi thưởng đào theo lệ định của làng Đông Ngạc. Có lẽ chính vì vậy mà Lê Đức Mao mới phải "nghĩ hộ".

Về 9 bài của Lê Đức Mao, GS Hoàng Xuân Hãn khi trích 3 bài đưa vào sách Thi văn Việt Nam đã cho rằng đây là các bài hát ả đào. Ông viết: "Bài hát này làm khi ông (tức Lê Đức Mao - KA chú) còn ở Đông Ngạc. Nghĩa là trước năm 1504. Mục đích là để cho ả đào hát (chúng tôi nhấn mạnh) chúc làng vào ngày hội xuân lập ra vào tháng Hai để tế thần cầu phúc"(8). Và ông gọi đây là "lối văn hát (chúng tôi nhấn mạnh) bằng thể thất lục bát"(9). Nhận định này của Hoàng Xuân Hãn về sau được các nhà nghiên cứu văn học dẫn lại và nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu nghiễm nhiên coi những bài này là các bài hát ả đào. Ngay gần đây nhất, trong một bài viết về đề tài Hát nói, tác giả Nguyễn Đức Mậu đã viết: "Nếu điệu Hà Nam thời Hồng Đức giống điệu Hà Nam sau này thì Hát nói đã hoàn chỉnh thể loại của nó trước hoặc cùng thời với mấy bài hát của Lê Đức Mao" (chúng tôi nhấn mạnh)(10).

Như vậy trong suốt một thời gian dài đến nửa thế kỷ, giới nghiên cứu vẫn coi đây gần như là những bài hát ả đào cổ nhất. Vậy nay, với những thông tin chúng tôi đưa ra, nên chăng cần xem xét lại ?

CHÚ THÍCH

(1) Đông Ngạc xã tục lệ: Chữ Hán, Thư viện Viện Hán Nôm. Ký hiệu A.732.

(2) Ba hàng làng: tầng lớp bậc trên trong làng, gồm quan viên, hương viên và hương lão.

(3) Tám giáp: Đông Ngạc chia thành tám giáp. Trong tám giáp lại chia thành Tứ nhất và Tứ nhì. Tứ nhất gồm Đông nhất, Ngác nhất, Vẽ nhất, Đoài nhất. Tứ nhì gồm Đông nhì, Ngác nhì, Vẽ nhì và Đoài nhì.

(4) Thị yến: trong lễ này, hàng làng chỉ xơi tửu lạc chứ không ăn cỗ (cỗ sau đó được chia phần) nên gọi là "Thị yến".

(5) Phạm Văn Thuyết: Đông Ngạc tạp biên. Tác giả xuất bản. Sài Gòn 1963, tr.192- 193.

(6) Đông Ngạc tạp biên: Sđd. tr.193.

(7) Tác giả để các chữ cuối câu trong ngoặc kép ý nhắc các chữ này phải đọc dằn theo như lệ định.

(8) và (9) Hoàng Xuân Hãn: Thi văn Việt Nam. Nxb. Sông Nhị, H. 1951, tr.51.

(10) Nguyễn Đức Mậu: Hát nói - Từ điệu thức ca trù đến thể loại văn học. TCVH số 11/1998 tr. 50-59.

TB

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐIỂN CỐ VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ TRUNG HOA

ĐOÀN ÁNH LOAN

Điển cố đóng vai trò khá quan trọng trong văn học Việt Nam và Trung Hoa thời kỳ trung đại. Dùng điển cố, người sáng tác xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, xã hội, văn hóa, kinh nghiệm sống của người xưa. Tuy không còn đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tác như xưa, nhưng nhìn lại nền văn học quá khứ, điển cố thực sự chiếm lĩnh một vai trò và thể hiện một chức năng mạnh mẽ trong sáng tác. Có giai đoạn, điển cố là phương tiện hàng đầu và hữu hiệu cho người cầm viết, từ tác giả của những bài thơ, bài văn, đến nhà ngoại giao, chính khách, thậm chí kẻ đi học cũng tự trang bị cho mình vốn kiến thức trong mười năm đèn sách và thể hiện điển cố trong bài thi.

Điển cố là phương tiện biểu đạt trong văn thơ cũng chịu sự chi phối của qui luật tự nhiên. Là một hiện tượng nổi bật trong sáng tác xưa về mặt tu từ, điển cố cũng trải qua quá trình hình thành, phát triển, thịnh đạt và suy tàn. Việc nghiên cứu hiện tượng sử dụng điển cố trong văn học quá khứ cũng theo chiều hướng phát triển, hưng thịnh của điển cố mà hình thành. Nhìn chung, ở nước ta, không hoặc chưa thấy các học giả xưa chú ý nghiên cứu về biện pháp tu từ đặc biệt này một cách có hệ thống. Chỉ thấy một vài ý kiến có liên quan ít nhiều đến điển cố của một số tác giả hoặc học giả đề cập đến rải rác đây đó nhân dịp phát biểu về tính chất lý luận trong sáng tác. Nhìn chung, các ý kiến ấy đề cập đến các điểm chính về việc sử dụng điển cố như sau:

* Mục đích dùng điển: Vũ Khâm Lân (thế kỷ 18) trong Cổ kim khoa thí thông khảo khi phê bình cái tệ tầm chương trích cú một cách máy móc đã đề cập đến giá trị của điển cố trong sáng tác: “Họ chỉ bo bo đi tìm kiếm những lời cũ kỹ trên mặt giấy, chắp vá, thêm bớt, để đi tới cái thế đối ngẫu mà không có cái hay của việc tận ý tìm lời”. Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn (thế kỷ 18) phát biểu rõ hơn, ông cho rằng: “Ta thường cho làm thơ có ba điều chính : một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi dùng điển tích để nói việc ngày nay, chép việc xưa hay thuật chuyện hiện tại, đều tự nhiên có thần”.

* Về cách dùng điển cố, Nhữ Bá Sĩ (thế kỷ 19) trong Phi điểu nguyên âm cho thấy cái quí của việc gọt chữ luyện câu và bố cục tạo ý là ở chỗ có nền nếp. Nếu có điểm xuyết điển cố, mà dùng kiểu “thoát hóa, dù cho gương cũ lời xưa cũng không cóp nhặt, không dựa vào tường vách của người” và “cái ý của văn quí ở chất mà càng quí ở hàm súc”. Sở dĩ Nhữ Bá Sĩ nhấn mạnh việc dùng điển không nên rập khuôn theo người xưa vì ông thấy tình hình làm văn, làm thơ của kẻ cầm bút trong không khí chung thời kỳ này đang có chiều hướng sa sút, hay bắt chước cổ một cách máy móc. Cao Bá Quát (thế kỷ 19) khi viết lời bạt tập thơ Thương Sơn công cũng đứng trước thực trạng ấy, ông phát biểu thẳng thắn: “Nếu cầm bút cứ theo nếp sẵn, không biết biến hóa thì tuy giống được vẻ mặt ngoài của Lan Đình(1), nhưng người ta cần gì thứ đó”. Chính vì vậy, đa số ý kiến của người xưa đối với cái tệ nệ cổ này được nhiều người phát biểu nhất.

* Phê bình cái tệ bắt chước trong việc sử dụng điển cố: Cao Bá Quát cũng trong lời bạt tập thơ Thương Sơn công đã chế nhạo lối nệ cổ trong việc bắt chước người xưa, theo ông: “Kẻ yếu sức thì rập khuôn dễ dãi, người khí tiết hào hùng thì mắc vào bệnh ăn sống nuốt tươi. Học lực của họ nếu hơi khá đã dương dương tự đắc, chỉ muốn săn bắt trăm nhà, thâu tóm mọi thể, thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có tốn công mà tinh thần không đạt. Tự cho là thơ Thịnh Đường, song đó là chưa tiêu hóa món ăn của người xưa". Ông còn nói: “Làm thơ thì phải gốc ở tính tình. Chớ nên việc nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng học theo người, đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu Dương Quan”(2), xóm cạnh qua chơi đã ngâm câu “tiếng gà điếm cỏ”(3). Nắn nót những lời biên tái, lòe người là tuyệt diệu Gia Châu(4); chải chuốt các thể trong cung, tự phụ là văn nòi Thiếu Bá”(5).

* Kêu gọi sử dụng vốn sống của dân tộc làm thi liệu: Đối với việc tiếp thu những tinh hoa trong sáng tác văn học của Trung Hoa, các tác giả ta từ xưa đã khẳng định giá trị của tính độc lập, tính sáng tạo và phủ định mọi tư tưởng và hành động bắt chước, rập khuôn Trung Quốc. Lê Hữu Trác (thế kỷ18) trong Thượng kinh ký sự lên tiếng kêu gọi sử dụng vốn sống lịch sử, văn hóa, trí tuệ con người của dân tộc làm nội dung, đề tài để biểu hiện trong lĩnh vực văn học, nhằm nâng cao giá trị dân tộc. Ông khuyên: “Không bắt chước người khác mà bắt chước ngay chính tạo hóa”. Để đả phá tư tưởng phục cổ cực đoan và tinh thần vọng ngoại trong sáng tác, Nguyễn Hành (thế kỷ 19) trong Quan đông hải tập cho rằng: “... mơ tưởng về người xưa sao bằng mắt thấy tai nghe về đời nay, cầu ở nước ngoài sao bằng tìm ở nhà”. Thật vậy, nước ta tuy nhỏ, nhưng có truyền thống văn hóa lâu đời, biết bao cái hay cái đẹp chưa được khai thác hết. Sự rập khuôn kẻ khác chỉ là sự ưa chuộng hình thức, làm lu mờ tính đặc thù của văn hóa dân tộc và chứng tỏ sự yếu kém của mình mà thôi. Khi nói về cái tệ hại trong thi cử, Phạm Đình Hổ (thế kỷ 19) trong Vũ trung tùy bút đã than rằng: “Người nào xem rộng nhớ nhiều thì mỗi đề trả lời được đến 16, 17 hay 18 đoạn; mỗi đoạn chỉ nhặt vài ba mươi chữ điển cố ở trong sách thì có thể đoạt giáp tranh khôi được. Làm văn như thế sao có thể xác thực được việc cổ kim, bất luận được sự hay dở, để cho tỏ sở học của mình”.

Có lẽ do ông cha ta không chú ý đến việc dùng điển trong sáng tác một cách cực đoan như Trung Quốc, không xem đó là lối biểu diễn và phô bày sở học về điển cố trong tác phẩm văn học, nên ở ta không hề có trường phái hay phong trào nào hô hào việc dùng điển hay lạm dụng điển như ở Trung Quốc, nên không có ý kiến lý luận chính thống về vấn đề này.

Điển cố với việc hình thành và phát triển thành phong trào, thậm chí lạm dụng điển trong sáng tác chỉ thấy trong lịch sử văn học Trung Quốc. ở Trung Quốc, ngay thời xưa, cụ thể là từ khi điển cố được vận dụng phổ biến và trở thành lời kêu gọi hoặc tôn chỉ của phong trào ưa dùng điển, các văn nhân, học giả bắt đầu chú ý bàn bạc, phê bình, lý luận vấn đề này nhiều hơn và cụ thể hơn. Có thể nói việc nghiên cứu điển cố trong lịch sử Trung Hoa, cũng hình thành và phát triển theo quá trình hình thành, phát triển của điển cố .

Vào thời Tiên Tần, những tác phẩm đầu tiên của văn học Trung Hoa như kinh Thi, kinh Thư... hầu như chưa có điển cố, nhưng sau đó, những tác phẩm ấy trở thành kho tàng điển cố của các tác phẩm văn học đời sau. Các tác giả thời này bắt đầu có nhu cầu dùng điển làm ví dụ cho cơ sở thuyết lý, và sáng tạo ra những câu chuyện mang tính chất ngụ ngôn. Sách Kinh điển thích văn giải thích rằng: “Ngụ là gởi. Vì con người không tin ở mình, nên phải mượn của người khác. Trong mười điều thì hết chín điều thấy được mới tin”. Những tác phẩm lý luận triết học, lịch sử, truyền thuyết của chư tử các giai đoạn này trở thành những mẫu mực và là nguồn điển cố hết sức phong phú cho các thời đại về sau. Vì đây là thời kỳ ban đầu, điển cố chưa trở thành phong cách tu từ trong sáng tác, nên thời kỳ này chưa thấy có những tác phẩm lý luận về hình thức điển cố trong văn học.

Hình thức dùng điển cố đầu tiên trong văn học thời Hán Tấn là nhà văn chỉ đưa vào tác phẩm của mình những lời dạy dỗ, lý luận, ngụ ngôn của người xưa, sau đó dẫn thành lời và dùng nhiều thành ngữ hoặc mang sắc thái của thành ngữ điển cố. Việc dẫn dụng điển cố nói chung chỉ để làm cho rõ ý, hay để chứng minh cho lập luận của mình, chứ không dùng điển cố để trau chuốt, làm bóng bẩy câu văn hay lời thơ. Hiện tượng sử dụng điển cố thời kỳ này chưa thật sự phát triển và phổ biến rộng rãi, rầm rộ trong sáng tác, chưa chín mùi để hình thành những ý kiến nghiên cứu về phương thức tu từ đặc biệt này. Đợi đến sự hình thành và phát triển thể văn biền ngẫu, điển cố thực sự có đất phát triển, người ta mới bắt đầu chú ý đến việc lý luận, phê bình điển cố.

Thời Nam Bắc triều, thể văn biền ngẫu hình thành và phát triển. Sự hoàn chỉnh dần về luật thanh, luật vần, luật đối ngẫu góp phần hoàn thiện thể văn này và đưa đến phong trào dẫn dụng điển cố làm đẹp lời. Việc dùng điển cố trong thời Nam Bắc triều là đỉnh cao phát triển của việc dùng điển so với các thời kỳ trước. Người ta lạm dụng điển cố, tranh nhau dùng những điển khó, những điển ít phổ biến và cho đó mới thực sự là hiểu biết và dùng điển giỏi. Có ý kiến cho rằng “một điển đọc lên mà không biết thì xấu hổ, (làm văn) chữ có xuất xứ mới là cao thâm” (Hoàng Khản, Văn tâm điêu long trác ký, chương Loại sự). Người ta đánh giá sự hiểu biết của nhau qua việc nắm vững và thể hiện nguồn điển cố từ kho tàng thư tịch của người xưa. Đời Lương Vũ Đế còn mở cuộc thi hiểu biết về điển cố để chiêu nạp người tài (Nam sử).

Do phong trào dùng điển ở thời Nam Bắc triều thịnh hành như vậy, các sách về điển cố cũng được biên soạn. Hai quyển sách về điển cố đầu tiên là Loại uyển của Lưu Tuấn, gồm 120 quyển và Hoa lâm biên lược do Lương Vũ Đế lệnh cho các học sĩ soạn. Trong số các tác giả nghiên cứu về điển cố thời bấy giờ, có thể nói Lưu Hiệp là người mở đầu cho việc nghiên cứu và lý luận về điển cố. Trong chương Sự loại sách Văn tâm điêu long, ông không chỉ dẫn chứng xác thực việc người xưa dùng điển mà còn phân lối dùng điển thành hai loại: dẫn câu chuyện và dẫn từ. Ông còn nêu ra mục đích của việc dùng điển: nếu làm sáng tỏ lý lẽ thì dẫn thành từ, để chứng minh ý nghĩa thì dẫn câu chuyện về nhân vật. Điều quan trọng là trong khi luận giải về tính chất của điển cố, ông còn đưa ra những phương pháp cần thiết cho việc dùng điển có hiệu quả để người làm văn chương lấy đó làm gương.

Đời Đường được xem là đỉnh điểm của văn thơ cổ điển, việc dùng điển cũng đạt đến giai đoạn thuần thục. Tuy nhiên, mục đích của việc sáng tác thơ văn thời kỳ này là việc diễn đạt tình cảm, chú trọng tính chất trữ tình, yêu cầu văn phong thâm thúy, sâu sắc. Hơn nữa, ảnh hưởng phong trào phục cổ do Hàn Dũ khởi xướng, phản đối lối văn ướt át, diễm lệ và phê phán phương thức dùng điển cố của thể biền văn thời Lục triều, nên không lấy việc dùng điển làm trọng, không xem đó là tiêu chuẩn đánh giá kiến thức. Vì vậy, người đời Đường dùng điển tự nhiên, không thích đưa quá nhiều điển vào thơ.

Vì không đặt trọng tâm vào việc dùng điển, nên đời Đường không có mấy tài liệu lý luận về điển cố. Chỉ có một vài ý kiến ít nhiều có liên quan như quan niệm: “Thơ có ba cách, một là tình, hai là ý, ba là sự” (“Sự” tức là điển cố) (Giả Đảo, Nhị nam mật chỉ), hay “Thơ có ba cách, trên là dùng ý, kế là dùng khí, dưới mới dùng điển” (Văn Kỷ, Phong tao chỉ cách). Cả hai ý đều đặt việc dùng điển vào hàng cuối cùng trong tiêu chuẩn sáng tác.

Việc dùng điển cố không được chú trọng ở thời Đường, nhưng đến thời Tống lại sống dậy trong không khí mạnh mẽ và có phần đặc biệt hơn. Vào thời này, người ta không chỉ ưa chuộng đưa điển cố vào để trau chuốt câu thơ, câu văn mà còn khởi xướng thành nhiều phong trào, trường phái thơ ca chuyên vận dụng điển cố trong sáng tác. Chẳng hạn Tây Côn thể nổi bật có Dương úc, Lý Tông Ngạc; phái Giang Tây (người đại diện là Hoàng Đình Kiên) cũng chủ trương dùng điển trau chuốt. Các phong trào này gây tiếng vang lớn và ảnh hưởng sâu rộng trong văn giới, ngay cả những thi gia nổi tiếng như Tô Thức và Hoàng Đình Kiên. Đối với thể loại từ đời Tống, lúc đầu người ta không chú trọng lắm, chỉ chú trọng đến việc mô tả rõ ràng, nhưng vì ảnh hưởng chung nên cũng dần dần chú ý đến việc dùng điển.

Về mặt lý luận, từ thời Bắc Tống trở về sau, người ta chú ý đến việc khảo thích, nghiên cứu, bình luận. Đặc biệt là khảo thích nguồn gốc điển cố bài thơ, hoặc bình luận lối dùng điển, như: Trung Sơn thi thoại (Lưu Bân), Hậu Sơn thi thoại (Trần Sư Đạo), Lâm Hán ẩn cư thi thoại (Ngụy Thái), Trúc Ba thi thoại (Chu Tử Chi), Ngạn Chu thi thoại (Hứa Nghĩ), Thạch Lâm thi thoại (Hiệp Mộng Đắc)... Rõ ràng, người đời Tống rất thích dùng điển, nên hình thành phong trào sôi nổi như vậy. Phong trào này truyền đến đời Minh, Thanh vẫn còn khá mạnh mẽ.

Việc dùng điển cố thời Minh Thanh có nhiều biến chuyển, quan trong nhất là do sự phát triển của thể loại hý khúc và tiểu thuyết. Do đặc tính của hai thể loại này, nhất là tiểu thuyết bạch thoại dùng khẩu ngữ nhiều, nên điển cố dần dần không còn cần thiết nữa, chỉ lưu truyền những loại điển cố quen thuộc được dùng trong lời nói thường ngày. Đối với thể loại thơ văn, các văn gia đời Minh Thanh cũng duy trì phong trào dùng điển, đưa đến việc hình thành phái Giang hồ (nổi bật nhất là Triệu Dực, đời Thanh) chủ trương dùng điển trong thơ văn.

Về phương diện lý luận, có nhiều tiến bộ. Tiếp nối lối nghiên cứu, khảo thích điển cố thời Tống, các nhà nghiên cứu thời Minh Thanh cũng có một số tác phẩm bình luận lối dùng điển của các tác giả trước, khảo thích nguồn gốc điển cố bài thơ... Tuy nhiên, còn có những tác phẩm giải thích ý kiến, câu nói của người xưa, đặc biệt là của các danh gia, về việc dùng điển cố trong văn học (Viên Mai, Tùy Viên thi thoại, quyển 1), nghiên cứu mục đích dùng điển (Phương Đông Thụ, Chiêu ám đạm ngôn, quyển 1 Thông luận ngũ cổ), bình luận nghệ thuật dùng điển tiêu hóa (Lý Ngư, Lạp Ông ngẫu tập, chương Từ khúc bộ)...

Nhìn chung, về mặt lịch sử, nghiên cứu, lý luận, phê bình điển cố ở nước ta chưa thành một hệ thống. Chỉ có thể tập trung vài ý kiến thiết thực nhất về mục đích, cách dùng điển cố nói chung. Điều quan trọng nhất, ý kiến về việc dùng điển cố trong sáng tác nói chung được đặt trong phạm vi bao quát, cụ thể nhất, phủ nhận sự rập khuôn người xưa, kêu gọi người cầm bút phải sáng tạo, chú trọng phát huy vốn văn hóa, lịch sử, văn học dân tộc, làm nguồn thi liệu thêm phong phú cho văn học nước nhà, khẳng định sức mạnh độc lập, tự cường của dân tộc. Việc dùng điển cố trong văn học ta xưa không quá cực đoan như Trung Quốc. Điều này cũng chứng tỏ, sự tiếp nhận có chọn lọc của cha ông ta đối với những luồng văn hóa ảnh hưởng từ bên ngoài vào. Dù sao, nội dung, tính chất và lĩnh vực nghiên cứu điển cố ở Trung Quốc có nhiều bước phát triển, và đa dạng: từ các ý kiến về khảo thích nguồn gốc điển cố, bình luận lối dùng điển đến giải thích câu nói, ý kiến phát biểu về nghệ thuật dùng điển, nghiên cứu mục đích sử dụng điển cố v.v... Những ý kiến quí báu của các nhà văn nước ta cũng như Trung Quốc rõ ràng là nền tảng cơ bản, có thể nâng lên thành lý luận có tính chất khái quát cho lĩnh vực nghiên cứu này, giúp cho việc nghiên cứu phương tiện tu từ đặc biệt này trong thời đại quá khứ ở nước ta cũng như ở Trung Quốc. Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu điển cố văn học nước ta và Trung Hoa cần thiết cho lĩnh vực nghiên cứu này về phương diện tu từ, nhất là sự ảnh hưởng sâu rộng của phương thức này đối với việc sáng tác văn học ở nước ta thời kỳ trung đại.

CHÚ THÍCH

(1) Vương Hy Chi đời Tấn, nổi tiếng viết chữ đẹp. Ông có bài Lan Đình thi tự, được đời sau lấy làm mẫu chữ viết thiếp, gọi là thiếp Lan Đình.

(2) Bài thơ tiễn bạn Vị thành khúc của Vương Duy đời Đường có câu “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu. Tây xuất Dương Quan vô cố nhân” (Khuyên bạn hãy cạn một chén rượu. Về phía Tây, ra khỏi Dương Quan không còn cố nhân nữa).

(3) Bài Thương Sơn tảo hành của Ôn Đình Quân đời Đường có câu: “Kê thanh mao điếm nguyệt. Nhân tích bản kiều sương” (Tiếng gà gáy ở điếm cỏ tranh dưới trăng. Vết chân người in trên dấu sương mặt ván cầu).

(4) Là biệt hiệu của Sầm Tham, một nhà thơ đời Đường nổi tiếng về thơ biên tái.

(5) Tức Vương Xương Linh, nhà thơ đời Đường nổi tiếng về thơ cung đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Từ trong di sản..., Nxb. Tác phẩm Mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 1981.

2. Chu Bồi Cao, Trung Quốc cổ đại văn học lưu phái, Hồ Nam xuất bản xã, 1991.

3. Chu Hồng Hưng, Giản minh Trung Quốc cổ đại văn học, Tác gia xuất bản xã, 1990.

4. Chúc Đỉnh Dân, Điển cố, tri thức, tra kiểm, Tri thức xuất bản xã, 1992.

5. Hoàng Khản, Văn tâm điêu long, Bắc Kinh Văn hóa học xã ấn hành, năm Dân quốc 16 (1926).

6. Hoàng Khản, Văn tâm điêu long trác ký, Hoa Đông Sư phạm Đại học xuất bản xã, 1996.

7. Mạnh Giao, Trung Quốc văn học sử, Đại Trung Quốc Viên thư cục ấn hành, 1963.

8. Lục Kiên, Trung Quốc cổ đại văn học tinh giải, Thượng Hải Văn nghệ xuất bản xã, 1989.

9. Lý Tần Phi, Văn tâm điêu long thích dịch, Giang Tây Nhân dân xuất bản xã, 1993.

10. Vương Lực, Cổ đại Hán ngữ, Trung Hoa Thư cục ấn hành, 1985.

TB

DIỆN MẠO TRẦN NHÂN TÔNG QUA TRÚC LÂM ĐẠI SĨ XUẤT SƠN ĐỒ

NGUYỄN NAM

Bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ 竹 林 大 士 出 山 圖 do họa sư đời Nguyên Trần Giám Như 陳鑑如 sáng tác vào năm 1363 là một trong những chứng tích giao lưu văn hóa Việt - Trung1. Nhân vật trung tâm trong bức vẽ là đại sĩ Trúc Lâm, tức vua Trần Nhân Tông (1258 - 1309), người đã hai lần chặn đứng vó ngựa Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288, nhường ngôi cho con vào năm 1293, hoàn toàn dứt bỏ cả gia tư lẫn triều chính để tu Phật từ năm 1299, đại giác và trở thành đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam. Họa phẩm của Trần Giám Như thật đáng chú ý vì lẽ nó là tác phẩm của một danh họa sống dưới một vương triều từng bị đánh bại đôi lần bởi vị Hoàng đế trong tranh; và chủ nhân của nó, Trần Quang Chỉ 陳 光 祇, có thể là một hậu duệ nhà Trần, chưa rõ vì lẽ gì đã lưu lạc đến Hoa Hạ và định cư tại đây. Bức tranh không chỉ khắc họa một sự kiện lịch sử - đại sĩ Trúc Lâm xuống núi sau khi giác ngộ, mà còn yết lộ chân dung của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và cả con của ngài, Hoàng đế Trần Anh Tông (1267 - 1320), những chân dung vốn rất hiếm hoi trong di sản nghệ thuật còn bảo tồn được ở Việt Nam2. Tuy chưa có điều kiện thưởng ngoạn trực tiếp tác phẩm nghệ thuật này, nhưng nhờ vào các lời bình dẫn trong cuộn tranh được in lại trong bộ Thạch cừ bảo cấp bí điện châu lâm tục biên 石 渠 寶 笈 秘 殿 珠 林 續 編 (gọi tắt là Thạch cừ bảo cấp)3 , trước mắt vẫn có thể hình dung được phần nào thần thái của bức tranh, cũng như biết thêm được các thức giả đời Minh (1367 - 1643) đã tiếp nhận và diễn giải bức vẽ trên như thế nào.

Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ -
Quy cách đại lược

Theo thông lệ chung của cả bộ sách, Thạch cừ bảo cấp miêu tả sơ lược quy cách hình thức của cuộn tranh:

“Tranh vẽ trên giấy hoa tiên, ngang 8 thốn 8 phân (khoảng 0,3m), dài 9 xích 6 thốn (khoảng 3m), vẽ rõ chuyện quốc vương An Nam Trần Khâm nhường ngôi, rồi sau xuống núi.

Khoản: Mùa xuân niên hiệu Chí Chính năm thứ 23 (1363), Trần Giám Như viết4.

Dẫn thủ: Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ - (dấu triện:) “Trung thư xá nhân Thạch Điền Trần Đăng”. (Đóng 3 dấu) “Ngọc Đường Thanh Hạ”, “Trần Đăng chỉ ấn”, và "Tư Hiếu”5.

Tiếp theo sau bức tranh: “Lời đề bạt của tiền nhân".

Tác giả các lời bình dẫn trong cuộn tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ

Trước khi đọc các lời bình dẫn, biết qua danh sách tác giả của các lời giới thiệu, luận bàn này hẳn cũng là một điều thiết yếu. Thạch cừ bảo cấp cho biết đại lược về các tác giả như sau:

1. Trần Quang Chỉ: (xem bài dẫn 1).

2. Dư Đỉnh: người Tinh Tử, đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thân (1404) dưới triều Vĩnh Lạc, làm quan đến chức Hàn lâm thị giảng. Bài ký viết năm Vĩnh Lạc 18 (1420).

3. Tăng Khải: tự là Tự Khải, người Vĩnh Phong, Cát An; đỗ Tiến sĩ đệ nhất năm Giáp Thân (1404) dưới triều Vĩnh Lạc, làm quan đến chức Thiếu đảm sự, có viết bộ Sào tiệp tập. Bài kệ tán viết năm Vĩnh Lạc 18 (1420).

4. Lâm Phục: còn có tên là Phục Chân, tự Cương Bá, người Thường Nhiệt. Vốn là một Đạo sĩ ở Long Hổ Sơn, từng tham gia biên tu bộ Vĩnh Lạc đại điển. Bài thất ngôn luật thì không ghi năm, tháng.

5. Sư Bạc Hiệp: tự Nam Châu (Xuyên ?), người Sơn Âm, nguyên là một nhà sư từ Thượng Thiên Trúc (ấn Độ); giữ chức Tả thiện thế dưới triều Hồng Vũ (1368 - 1398), có viết bộ Vũ hiên tập. Theo Trịnh Hiểu, Bạc Hiệp xuống tóc cho Kiến Văn Quân (tức Huệ Đế của Minh triều, 1399 - 1402), Minh Thành Tổ biết được, bèn bắt giam nhà sư. Sau, nhờ có Diêu Quảng Hiếu cứu oan. Bài tán ghi năm Vĩnh Lạc 21 (1423).

6. Đàm Giá Thoái Ân Nhật Đông sa môn Đức Thủy: sau bài tán tụng có đóng bốn dấu: “Tịnh tiến tràng”, “Kim cương thất", “Vô Trúc đạo nhân”, và “Thích Đức Thủy". Bài tán viết năm Vĩnh Lạc Quý Mão (1423).

7. Kim Môn ngoại sử Viên Chi An: Bài thất ngôn luật thi không ghi năm, tháng.

8. Dự Chương Ngô Đại Tiết: Bài thất ngôn luật thi không ghi năm, tháng.

9. Tây Bích: sau bài thất ngôn luật thi có đóng 3 dấu “Huy trần hiên”",Tây Bích", “Ngũ thập tứ đại Thiên sư chương”.

Dẫn, Bình, Tán trong
Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ

Các bài dẫn, bình, tán trong cuộn tranh khá dài, ở đây chỉ dịch toàn văn bài dẫn thuật của Trần Quang Chỉ, và trích dịch bài ký của Dư Đỉnh. Xin xem các phần còn lại trong bản chụp nguyên bản Hán văn kèm theo bài viết này.

1. Bài dẫn của Trần Quang Chỉ, “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” (Tranh Đại sĩ Trúc Lâm xuống núi).

Phiên âm: Đại sĩ nãi An Nam quốc vương Trần Hoảng chi tử, húy Khâm, kế kỳ phụ vị, vương kỳ quốc. Hậu xả vị xuất gia, hiệu Trúc Lâm đại sĩ.

Đản sinh chi sơ, phụ vương mộng Thượng đế tích dĩ bảo kiếm. Sinh nhi dĩnh ngộ, nhật tụng vạn ngôn. Cập trưởng, học thông tam giáo nhi thâm ư Thích điển. Chí ư thiên văn, lịch số, binh pháp, y dược, âm luật, mạc bất giai tạo kỳ khổn việt. Kỳ trị quốc dĩ nhân, kỳ sự Trung Quốc dĩ thành. Ngộ quần thần như thủ túc, phủ bách tỉnh như xích tử. Khinh hình, bạc phú, tín thưởng, tất phạt.

Niên du tứ thập, siêu nhiên hữu xuất trần chi chí. Nãi truyền quốc ư thế tử, nhập Vũ Lâm động tu đạo. Phục tăng già y, trúc am vu Yên Tử sơn đỉnh. Cư lục niên bất há, thảo y, mộc thực, cứu khổ, tích hạnh, cụ tu chư độ. Hậu nãi phóng tình khâu hác, biến du quốc nội danh sơn, thắng cảnh, kim giai hữu tích ngân, bút tích lưu yên. Thời hữu Trung Quốc Đạo sĩ Lâm Thời Vũ, diệc tương tòng Đại sĩ, vãng lai chư phương. Hữu thời viễn du, hóa độ lân quốc. Nam chí vu Chiêm Thành, khất thực thành trung. Kỳ vương tri chi, trí kính yêu thỉnh, tận lễ trai cung. Nhưng cụ dư hoàng nghi trượng, thân tống hồi quốc. Phục quy nhị châu địa, dĩ vi cung dưỡng chi tư, kim Thuận Châu, Hóa Châu, thị dã. Ký hồ mạt niên, hành bất thừa dư, thủ bất đới lạp, hình dung khô cảo, nạp bào lam lũ. Quốc dân kiến chi, mạc tri kỳ vi vương dã.

Đại sĩ Thiền tông, bản xuất Đường Thần Hội đại sư chi duệ. Tiên thị quốc trung Thiền học vị quảng, chí Đại sĩ nhi tông môn đại hưng, cố nhất quốc truy lưu cộng thôi vi sơ tổ. Kỳ sở trước thuật hữu Thiền lâm thiết chủy, Đại hương hải ấn, Thạch thất mị ngữ đẳng tập, truyền vu Giao Chỉ. Đệ tử Pháp Loa thâm đắc Đại sĩ pháp túy, tự vi đệ nhị tổ, hiệu Phổ Huệ tôn giả, y bát ký truyền chi hậu.

Nhất nhật ư Yên Tử sơn Ngọa Vân am, hội đại chúng nhi ngôn viết: “Ngô thế tử, pháp tử dĩ giai đắc nhân, ngô hà vi cửu trú thế tai?”. Toại mộc dục cánh y, nhập thất đoan tọa, am nhiên nhi hóa, thời niên ngũ thập hữu cửu. Di chúc thị giả bảo sát bất dụng quan kham, ư kỳ am nội tích tâm vi tí nhi trà tì yên. Tức hữu ngũ sắc thần quang, cánh dạ bất tán. Thời Pháp Loa sở cư cận cách nhất sơn, vọng kiến kỳ quang, tri Đại sĩ nhập diệt, bồ bặc nhi lai, hưng bảo sát, phụng thu hương cốt xá lợi nhập vương phủ. Khốc lâm chi thời, vương tôn Oanh thượng ấu, thị lập sảo viễn, xá lợi nhất lạp hốt phi nhập kỳ tụ trung, cái thị truyền tự chỉ ý. Hậu Oanh quả tự vị. Quốc nhân kiến kỳ linh cảm, biến xứ Phật sát giai tôn phụng, cung dưỡng. Kỳ đảo giả vô bất hưởng ứng. Đại sĩ sự tích dĩ hữu Truyền đăng lục bị tái. Giao Chỉ nhân thượng năng truyền thuật.

Nhân kiến thị đồ, cảm thuật nhất nhị đại khái, thư ư kỳ tả, thứ cụ nhân giả quan chi, sử Đại sĩ chỉ công hạnh bất mẫn ư thế dã.

Vĩnh Lạc thập bát niên, tuế tại Canh Tý, thượng nguyên nhật. Lô Giang học Phật đạo giả Trần Quang Chỉ, Tích Phú tái bái cẩn chí (thức).

(Kiếm ấn tam:) Tích Phủ, Tố Hiên, Khấu ân Tử.

Dịch nghĩa: Đại sĩ là con của Trần Hoảng, quốc vương An Nam ngày trước. Ngài húy Khâm, kế nghiệp cha xưng vương bản quốc; sau, nhường ngôi, xuất gia, hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ.

Trước khi đản sinh, phụ vương ngài mộng thấy Thượng đế ban cho thanh bảo kiếm6. Ngài bẩm sinh thông minh xuất chúng, mỗi ngày đọc đến vạn chữ. Khi trưởng thành, ngài học thông tam giáo, nhưng tinh thâm độc xuất ở kinh điển nhà Phật. Đến như thiên văn, lịch số, binh pháp, y dược, âm luật, môn nào ngài cũng tinh thâm. Ngài trị quốc với lòng nhân, bang giao với Trung Quốc bằng chữ thành, đãi ngộ quần thần như chân, tay, vỗ an muôn dân như con đỏ. Ngài giảm nhẹ hình phạt, thu thấp thuế khóa, thưởng phạt nghiêm minh.

Tuổi ngoài 40, ngài bỗng có chí xuất gia, bèn truyền quốc đồ cho con, vào động Vũ Lâm tu trì, mang áo tăng già, dựng am trên đỉnh non Yên Tử, ở liền 6 năm không hạ sơn. Ngài mặc áo cỏ, ăn quả cây, cần lao, khổ cực, tích lũy đạo hạnh, tu tập đủ các phép độ trì7. Về sau, ngài mặc tình ngao du khắp chốn, vui chơi danh sơn, thắng cảnh trong nước: nay, các nơi đều còn dấu tích trượng, nét bút đề của ngài. Thuở ấy có Đạo sĩ Trung Quốc là Lâm Thời Vũ, tháp tùng Đại sĩ, thăm thú các nơi, có lúc viễn du, giáo hóa, tế độ cả các nước láng giềng. Các ngài đi về phương nam, đến tận Chiêm Thành, khất thực ở kinh đô.8 Vua nước ấy biết chuyện, hết lòng tôn kính thỉnh mời, trai giới cung dưỡng vô cùng hợp lễ, ngoài việc cho thuyền lớn với quân binh hộ vệ, thân hành tiễn biệt ngài về nước, lại còn giao hoàn đất của hai châu, xem đó là phần tư cấp cung dưỡng: nay ấy là châu Thuận và châu Hóa vậy9. Cho đến những năm cuối đời, ngài đi chẳng dùng xe, nắng không mũ nón, hình dung khô gầy, áo quần lam lũ, con dân trong nước gặp ngài, chẳng ai biết được đấy là vua.

Thiền tông của Đại sĩ gốc từ hậu duệ của Đại sư Thần Hội đời Đường10. Thuở trước, Thiền học ở nước này phổ biến còn chưa rộng, đến thời Đại sĩ tông môn mới hưng khởi. Thế nên tăng đồ cả nước đều suy tôn ngài là sơ tổ. Các trước tác của ngài gồm các tập Thiền lâm thiết chủy, Đại hương hải ấn, Thạch thất mị ngữ lưu truyền ở Giao Chỉ. Đệ tử Pháp Loa lĩnh hội được tinh túy giáo pháp của Đại sĩ, kế nghiệp ngài, thành vị tổ thứ hai, hiệu là Phổ Huệ tôn giả, y bát tiếp tục truyền mãi về sau.

Một hôm, khi đang ở am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, ngài tập hợp mọi người lại và bảo: “Con ta và Phật tử trong nước nay đã nên người, còn ta sao cứ mãi ở thế trần?”. Ngài bèn tắm gội, thay y phục, vào tĩnh thất ngồi ngay ngắn, hồi lâu rồi hóa. Khi ấy, ngài thọ 59 tuổi11.

Đại sĩ di chúc cho thị tòng, dặn rằng Phật tự không dùng đặt áo quan, nên chất cỏ trong am làm củi mà hỏa táng nơi ấy. [Khi hỏa thiêu], có thần quang ngũ sắc, chiếu sáng suốt đêm chẳng tan. Lúc đó, chỗ Pháp Loa cư trú chỉ cách nơi hỏa táng một ngọn núi, sư trông thấy vầng sáng, biết là Đại sĩ đã nhập diệt, bèn thất thểu tìm đến, dựng lại chùa Phật, phụng thu hương cốt xá lợi mang về vương phủ. Trong lúc thương khóc vong linh, vương tôn Oanh còn nhỏ, đứng hầu khá xa, mà xá lợi một viên bỗng nhiên bay vào tay áo người, tựa như biểu thị ý truyền tự. Về sau, Oanh quả nối vương nghiệp. Quốc dân thấy chuyện linh cảm này, khắp chốn trong đất Phật đều tôn phụng, cung dưỡng ngài. Những người cúng bái, cầu xin ai cũng được ứng đáp. Sự tích Đại sĩ đã có Truyền đăng lục ghi chép đầy đủ12, và người Giao Chỉ vẫn còn truyền thuật.

Tôi nhân được thấy tranh, cảm thuật đôi điều đại khái, viết ở bên trái bức họa, để các bậc toàn tri xem, khiến cho công nghiệp, đức hạnh của Đại sĩ không bị mai một.

Viết ngày 15 tháng giêng, năm Canh Tý, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 18 (1420).

Kẻ học đạo Phật ở sông Lô13 Trần Quang Chỉ, tự Tích Phủ, tái bái và cẩn chí. (Đóng 3 dấu): Tích Phủ, Tố Hiên, và Khẩu Ân Tử.

2. Trích dịch bài ký của Dư Đỉnh: Các chi tiết lịch sử liên quan đến Trần Nhân Tông trong bài của Dư Đỉnh không có gì mới, chủ yếu chỉ dựa vào dẫn thuật của Trần Quang Chỉ và An Nam chí lược của Lê Tắc. Đáng chú ý nhất trong ký lục của Dư chính là các miêu tả chi tiết về bức tranh.

Phiên âm: (...) Giao Chỉ học Phật giả Trần Quang Chỉ thị trì Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ trưng dư vi ký.

(...) Kim kỳ đồ nãi mạo kỳ tự Vũ Lâm động xuất du thời dã. Đại sĩ thừa đâu tử, nhi sở tòng giả giai ý nạp. Bạch tượng đà kinh tốt tại hậu. Tượng chi tiền hữu hoàng quan thừa ngưu giả, tắc sở vị Đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Kỳ cung nghênh ư đạo giả vi Đại sĩ chi tử giám quốc giả dã.

(...) Vĩnh Lạc thập bát niên, long tập Canh Tí, xuân nhị nguyệt, vọng nhật15, Hàn lâm tu soạn nho lâm lang, đồng tu quốc sử Khuông sơn Dư Đỉnh ký.

(Kiềm ấn tử:) Khẩu Cao, Tốn Am, Dư Đỉnh Chính An chi chương, Ngọc Đường Thanh Hạ).

Dịch nghĩa: (...) Trần Quang Chỉ, người Giao Chỉ học Phật, cầm bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ đến cho tôi xem, và yêu cầu tôi viết bài ký.

(...) Nay bức họa miêu tả lúc ông [Trần Nhân Tông] từ động Vũ Lâm xuất du. Đại sĩ ngồi trên cáng, còn các tùy tùng đều khoác áo tăng. Voi trắng chở kinh đi ở sau cùng. Phía trước voi có người đội mũ vàng, cưỡi trâu, ấy hẳn là Đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Cung nghênh trên đường chính là con của Đại sĩ, người nối ngôi, thay cha trị nước.

(...) Hàn lâm tu soạn nho lâm lang, kiêm tu quốc sử Khuông Sơn Dư Đỉnh viết vào mùa xuân, 15 tháng 2 năm Canh Tý, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 18 (1420).

(Đóng 4 dấu:) “Khẩu Cao", “Tốn Am", “Dư Đỉnh Chính An chi chương", và “Ngọc Đường Thanh Hạ”.

Đôi điều ghi nhận

Điều đáng nói trước tiên là sự hiện diện của 3 nhân vật họ Trần có liên quan đến Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ: Trần Giám Như, Trần Đăng, và Trần Quang Chỉ. Căn cứ vào những bài bình, tấu trong cuộn tranh, có thể kết luận rằng vào khoảng 1420 họa phẩm mới trở thành sở hữu của Trần Quang Chỉ, người sông Lô. Trước đó, tranh thuộc về Trần Đăng. Không rõ Trần Đăng làm chủ bức tranh từ khi nào, ngay sau khi Giám Như hoàn thành tác phẩm (1363), hay phải đợi đến vài năm sau đó ? Lời Dư Đỉnh trong bài bình, “Người Nam Giao vẽ lại sự kiện nhất thời, và hoan hỉ truyền xem", nên được giải thích như thế nào? Giám Như vẽ theo “đơn đặt hàng” hay cảm kích đạo hạnh của Đại sĩ mà sáng tác ? Nếu vẽ theo yêu cầu thì ai là người đặt vẽ ? phải chăng là Trần Đăng ? Nếu Trần Đăng yêu cầu Giám Như vẽ, hẳn sẽ phải đặt câu hỏi về động cơ và gốc tích của nhân vật này: phải chăng Trần Đăng là người Nam Giao như Dư Đỉnh đã nêu trong bài tựa ? Ngay cả quốc tịch của Giám Như cũng đáng nghi vấn: Đồ hội bảo giám không gọi ông là Hàng Châu nhân (người Hàng Châu), mà chỉ nêu là cư Hàng Châu (sống ở Hàng Châu). Phải chăng họ ít nhiều có liên hệ đến một bộ phận tông thất nhà Trần tán lạc sang Trung Hoa ? Ngay các thời điểm sáng tác, thỉnh cầu đề tranh cũng đáng chú ý. Bức họa được hoàn thành vào đầu thập niên 60 của thế kỷ 14, một thập niên đánh dấu sự suy sụp của nhà Nguyên và sự khởi đầu của Minh triều14. Dù rằng trong bài dẫn của Trần Quang Chỉ không hề nhắc đến những chiến tích hào hùng thắng Nguyên Minh của Trần Nhân Tông, ngay trong lớp áo tăng già, hình ảnh của vị Hoàng đế nước Nam này vẫn gợi lên những năm tháng hào hùng, bất khuất, không thể nào phai trong tâm não người dân Việt. Các lời bình tán trong cuộn tranh hầu hết được viết trong khoảng 1420 - 1423, những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 15 khi nhà Minh đã xác lập xong ách thống trị ở Việt Nam, nhưng cũng chính là lúc nghĩa quân Lam Sơn gian khổ, kiên cường chống quân xâm lược15.

Thứ đến là sự hiện diện của Đạo sĩ Trung Hoa Lâm Thời Vũ, không được sử sách ở ta đề cập đến, nhưng lại được khắc họa trân trọng trong tranh với hoàng quán (mũ vàng)16. Lâm thừa ngưu đúng theo mẫu Lão Tử tiêu dao trên lưng trâu17. Thế nên, không lạ gì khi thấy bức họa được cả cao tăng (Bạc Hiệp, Đức Thủy) lẫn Đạo sĩ (Lâm Phục, Tây Bích) bình tán. Đáng chú ý là Đức Thủy dường như tu tập cả Phật giáo lẫn Đạo giáo (xưng là Vô Trúc đạo nhân), và Tây Bích là hậu duệ đời thứ 54 của Thiền sư Trương Đạo Lăng đời Đông Hán. Một Đạo sĩ Trung Quốc tháp tùng Trúc Lâm đệ nhất tổ vân du là một sự kiện bất ngờ, cần được lý giải. Dung hợp tôn giáo đa dạng đầu đời Trần dường như vẫn là một đề tài chưa được triệt để khai thác.

Sưu tầm lại bức Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ (cho dù chỉ ở dạng phiên bản) là ước nguyện có lẽ không chỉ riêng của người viết bài này.

CHÚ THÍCH

1. Cổ đại Trung Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biên 古 代 中 越 關 係 史 資 料 選 編2 tập. Trung Quốc Xã hội khoa học viện, Lịch sử nghiên cứu sở, “Cổ đại Trung – Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biên” biên tập tổ thực hiện, Trung Quốc Xã hội khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1982, tập 1, tr.286 - 287. Bức họa vốn được bảo tồn tại cung Càn Thanh, thuộc Cố cung bác vật viện ở Bắc Kinh (xem Thạch cừ bảo cấp... Quốc lập cố cung bác vật viện, 1971, tr.118 - 121).

2. Hiện chỉ còn một đôi bức họa về Trần Nhân Tông còn sót lại, ví như trong Tam Tổ thực lục và Thiền uyển truyền đăng lục.

3. Xem chú thích 1.

4. Theo Đồ hội bảo giám 圖 繪 寶 鑑 , tập 5, trong ảnh ấn Văn uyên các tứ khố toàn thư tử bộ, 120. “Nghệ thuật loại”, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán: “Trần Giám Như sống ở Hàng Châu, giỏi về truyền thần, danh họa hàng đầu của quốc triều. Con ông là Chi Điền có thể nối nghiệp cha, (tr.14a).

5. Theo Thạch cừ bảo cấp, Trần Đăng tự là Tư Hiếu, người Trường Lạc. Dưới thời Vĩnh Lạc, ông giữ chức trách 10 năm trong Hàn lâm, sau được đề bạt Trung thư xá nhân. Nếu căn cứ vào phần “Dẫn thủ”, Trần Đăng chính là người sở hữu bức tranh. Thế nhưng bài dẫn Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ lại cho thấy bức tranh thuộc về Trần Quang Chỉ. Hiện chưa rõ Trần Đăng và Trần Quang Chỉ quan hệ như thế nào, và vì sao tác phẩm của Trần Giám Như sau lại về tay Trần Đăng và Trần Quang Chỉ.

6. Đại Việt sử ký toàn thư không hề nhắc gì đến việc tặng kiếm. Tuy nhiên, điềm lành này lại ứng vào đản sinh của Trần Thánh Tông 陳 聖 宗 (1240 - 1290, cha của Trần Nhân Tông). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản (1697), tập 2, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Nxb. KHXH, H. 1993: “Nhân Thái Tông chiêm bao thấy Thượng đế trao cho gươm báu, Hậu có mang” (tr.30). Tam Tổ thực lục nối kết giấc mơ trao - nhận gươm với Hoàng hậu Nguyên Thánh, mẹ vua Trần Nhân Tông: “Khi xưa, Nguyên Thánh Hoàng thái hậu từng mộng thấy thần nhân trao cho hai thanh kiếm, bảo rằng: “Thượng đế có dạy, để mặc ngươi tự chọn”. Hoàng hậu bất giác mừng rỡ tột cùng, ngẫu nhiên chọn được thanh gươm ngắn, nhân đó có mang. Trong những tháng dưỡng thai, Hậu không hề kiêng cữ, vào bếp ăn theo sở thích, mà thai cũng không thương tổn. Hoàng hậu biết rằng ấy là có thần linh phù trợ”. (Xem Hà Nội Viễn đông Bắc cổ học viện hộ 河 內 遠 東 博 古 學 院 護 刊, Việt Nam Phật điển tùng san 越 南 佛 典 叢 刊 , Trần triều dật tồn Phật điển lục, Hà Nội Bắc Kỳ Phật giáo tổng hội 河 內 北 圻 佛 教 總 會 Hanoi. 1943. “Yên Tử sơn đệ nhất tổ - Trúc Lâm Đại sĩ thực lục 安 子 山 第 一 祖 竹 林 大 士 實 錄 ... , tr.1a-1b). Có thể diễn giải giấc mộng tặng kiếm theo những cách khác nhau. Nếu như giấc mơ ấy chỉ xảy đến riêng với Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, mẹ của vua Nhân Tông, có thể xem đấy như điềm báo trước chiến công hiển hách của Trần Nhân Tông trong cuộc kháng chiến xua bạt trận cuồng phong Nguyên Mông sau này (như Nguyễn Duy Hinh đã từng suy giải ở “Tìm hiểu ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần” trong Viện sử học, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb. KHXH, H. 1980, tr.651). Thế nhưng giấc mộng ấy dường như ứng vào với nhiều người, ngay cả những người không liên quan gì đến “kiếm, cung". Như trên đã nêu, điềm lành bảo kiếm ứng vào đản sinh Trần Thánh Tông, và không chỉ thế thôi, cũng chính điềm báo này sau lại ứng vào đản sinh Pháp Loa. Cũng theo Tam Tổ thực lục, trước khi hạ sinh Pháp Loa, “Bà họ Vũ, mẹ của sư, đêm nằm mộng thấy dị nhân tặng cho thần kiếm, mừng rỡ bèn ôm vào lòng, nhân đó có mang師 母 武 氏 ,夜 夢 異 人 , 授 以 神 劍 , 喜 而 懷 之 , 覺 乃 娠 ” (tr.16a). Do vậy cũng có thể nghĩ đến ý nghĩa tôn giáo của giấc mơ. Thanh gươm có thể gợi nhớ “trí kiếm” 智 劍 (khadga), biểu tượng của trí tuệ thanh tĩnh. Mật tông phân biệt hai loại “trí kiếm”: lợi kiếm 利 劍 sắc nhọn trừ tà ma và bảo kiếm 寶 劍 hình cầu tròn thường được các bậc bồ tát sử dụng. Xem Phật quang đại tự điển 佛 光 大 辭 典 (ấn bản 1989) tr.5031.

7. Pàramità 波 羅 密 多 (hay độ) để đạt đáo bỉ ngạn (sang bờ bên kia, bờ Niết Bàn). Có thể kể ra thập độ: 1.Bố thí, 2.Trì giới, 3. Nhẫn nhục, 4. Tinh tiến, 5. Thiền định, 6. Trí tuệ, 7. Phương tiện độ, 8. Nguyện độ, 9. Lực độ, và 10. Trí độ.

8. Đại Việt sử ký toàn thư (sđd.): “[Năm 1301] Tháng 3, Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành". (tr.86).

9. Đại Việt sử ký toàn thư: “[Năm 1306] Mùa hạ, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành là Chế Mân. Trước đấy, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gả rồi". (tr.90); Năm 1307, “Mùa xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hóa. (...) Trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới, nhưng người các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng, không chịu theo". (tr.91).

10. Theo Phật quang đại từ điển (sđd.), Thần Hội 神 會 (668 - 760) tham yết Lục Tổ Tuệ Năng 慧 能 (638 - 713) năm 13 tuổi, sau thành tổ sư Hà Trạch tông 荷 澤 宗. Ông hoằng dương Nam tông của Lục Tổ, chủ trương “đốn ngộ, kịch liệt công kích “Bắc tông” của Thần Tú 神 秀 (600 - 706). Hiển tông ký 顯 宗 記 (745) của ông biện biệt lưỡng tông Nam - Bắc, Nam đốn, Bắc tiệm 南 頓 北 漸 (tr. 4255 - 4256). Theo Lược dẫn thiền phái đồ 略 引 禪 派 圖... “Đạt Ma vào Đông độ (Trung Hoa) truyền cho đại sư Thần Quang, rồi sáu đời xuống đại sư Thần Hội. Chính trong khoảng thời gian ấy chánh pháp Thiền vào nước ta, không biết người nhận lãnh đầu tiên là ai, chỉ biết từ Thiền sư Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tôn, (...) sau đó lần lượt trao truyền nữa, nhưng tên tuổi các ngài lúc ẩn lúc hiện, khó nhận ra manh mối". Căn cứ theo Nguyễn Tự Cường, Zen in Medieval Vietnam (Thiền ở Việt Nam thời trung đại), University of Hawai’s Press, Honolulu, 1997: “Đến cuối đời Đường (618 - 907) ưu thế của Thiền lên cao đến độ đối với phần lớn trí thức Phật giáo gần như đồng nhất với Thiền", (tr.55) và “Trên thực tế, thậm chí vào thời Thần Hội, Thiền “đốn ngộ” của ông đã bắt đầu khiêu chiến với các phái khác của Phật giáo “Trung Hoa” (tr.350, chú 99). Có thể những điều này phần nào là cơ sở cho việc nhìn nhận sự hưng thịnh của Thiền tông Việt Nam khởi đi từ Thần Hội.

Bản Lược dẫn cũng kể rằng, “Bản lục này [tức Thượng sĩ ngữ lục] là do đại đức Tiêu Dao nói cho Thượng sĩ Huệ Trung; rồi Thượng Sĩ nói cho Điều Ngự Giác Hoàng...". Mặt khác, Tiêu Dao có thể là một Thiền sư Trung Hoa: “Vừa đến nước ta, Ngài đã “thoát thể vô y”, cầm cần câu không lưỡi vào kinh thành...". Các phần trích Lược dẫn là từ Thượng sĩ Huệ Trung, Ngữ lục, Trúc Thiên dịch, Tu thư đại học Vạn Hạnh, 1968.

11. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (sđd.), Trần Nhân Tông “ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi". (tr.44).

12. Truyền đăng lục 傳 燈 錄... nêu ở đây có lẽ không phải là Cảnh Đức truyền đăng lục 景 德 傳 燈 錄 Kết quả tra cứu Đại tạng kinh sách dẫn 大 藏 經 素 引 (tập 28 - 29, Tân văn phong xuất bản công ty ảnh ấn), không hé lộ một chi tiết nào về Trần Nhân Tông. Hành trạng của vị sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm này có thể đọc ở Thánh đăng bảo lục 聖 燈 寶 錄 vốn được biên soạn dưới đời Trần. Trần Quang Chỉ có thể đã nhầm lẫn giữa tựa sách và thể loại “truyền đăng”. Cũng nên nhắc thêm rằng ở cuối bản hành trạng của Trần Nhân Tông trong Tam tổ thực lục, có một chú thích liệt kê các trứ tác của sơ tổ, trong đó có nhắc rằng sách Thạch thất mị ngữ tập 石 室 寐 語 集 của ông được chép chung vào Đại tạng và cho lưu hành” (xem Tam tổ thực lực trong Việt Nam Phật điển tùng san, sđd, tr. 14b). Thêm vào đó, bộ Cảnh Đức truyền đăng lục cũng là một giáo tài trọng yếu của cả Trần Nhân Tông lẫn Pháp Loa. Có thể kể ra đây một vài ví dụ: tháng 4 năm Mậu Thân (1308), Đại sĩ đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang và giảng Truyền đăng lục ở đấy. Kế đến, ngài dời về am Tử Tiêu, giảng riêng Truyền đăng lục cho Pháp Loa. Pháp Loa cũng thường giảng Truyền đăng lục, như các lần năm 1311 và 1318 tại chùa Siêu Loại và Thường Lạc (xem Tam tổ thực lục, sđd., tr. 9a, 9b, 21a-b, và 33b). Vậy nên cũng không loại trừ khả năng là thực lục của Trần Nhân Tông đã được chép vào một ấn bản Truyền đăng lục san khác và lưu hành tại Việt Nam, và đấy chính là nguyên nhân vì sao Trần Quang Chỉ nhắc đến hành trạng của Trúc Lâm đệ nhất tổ trong Truyền đăng lục.

13. Chú thích về các tác giả có bài bình, tán trong bức tranh viết rằng: "Sông Lô là một tên khác của sông Phú Lương".

14. Theo Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, in lần thứ ba, Hồng Phát, Saigon, 1958: “Bấy giờ Lưu Phúc Thông khởi binh ở Định Châu tao nhiễu miền bắc; Trương Sĩ Thành cứ đất Ngô, Trần Hữu Lương cứ Giang Châu, Chu Nguy ên Chương cứ Tập Khánh, tao nhiễu phương nam; thế mà vua Thuận Đế thì càng dâm loạn (...) Chu Nguyên Chương thừa cơ hội ấy, đánh diệt được các hào kiệt kia, rồi năm 1368 sai Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân lên bắc, đánh đuổi quân Nguyên, vây kinh thành. Vua Thuận Đế, các hậu phi, và Thái tử bỏ chạy. Chu Nguyên Chương bèn lĩnh toàn bộ Trung Quốc, lên ngôi Hoàng đế, (...) ấy là vua Minh Thái Tổ" (tr. 228 - 229).

15. Theo Viện sử học, Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam (từ đầu đến giữa thế kỷ XIX), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987: “[1420] Bình Định vương Lê Lợi đóng quân ở Ba Lẫm, Lỗi Giang (Thanh Hóa) tổ chức đánh úp và phá được giặc Minh ở trại Quan Du (Thanh Hóa); [1421] nghĩa quân Lam Sơn đánh bại hơn 10 vạn quân Minh xâm lược ở úng Ai (Thanh Hóa) và đánh tan hơn 3 vạn quân Ai Lao sang ứng chiến cho giặc Minh; [1423] giặc Minh ước hẹn với Ai Lao đem đại quân tiến đánh căn cứ Quan Du của nghĩa quân Lam Sơn, nghĩa quân rút lên Sách Khôi. Giặc đuổi theo lên Sách Khôi, nghĩa quân quyết chiến giết chết tướng giặc Phùng Quý và hơn một nghìn tên giặc, bắt được 100 con ngựa. (...) Nghĩa quân rút về Chí Linh, bị giặc vây khốn hơn hai tháng" (tr.246).

16. Thơ của Đường Cầu 唐 求 (đời Đường) Đề Thanh thành sơn Phạm Hiền quán 題 青 城 山 范 賢 觀 có câu, “Sổ lý duyên sơn bất yếm nan, Vị tầm chân quyết vấn hoàng quan 數 里 緣 山 不 \厭 難 , 為 尋 真 訣 問 黃 冠 (Vài dặm núi quanh chẳng ngại ngần, Để tìm chân quyết hỏi hoàng quan). Xem Hán ngữ đại từ điển 漢 語 大 詞 典 (tức ấn bản, 3 quyển), Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1997, quyển 3, tr.7534.

17. Một số tranh “Lão Tử cưỡi trâu” thường thấy là các bức của Triều Bổ Chi 晁 補 之 (1053 - 1140) và Trương Lộ 張 路 (1464 - 1508). Xem Lão Tử Đạo đức kinh Quốc văn giải thích. Hạo Nhiên Nghiêm Toản dịch thuật, 2 tập, Khai Trí, Saigon, tập 1: 1971, tập 2: 1973./.

TB

THỬ BÀN VỀ: CÁC THẾ HỆ TRONG DÒNG THIỀN TRÚC LÂM - YÊN TỬ

THÍCH THANH ĐẬT

Nói đến các thế hệ là nói đến sự tiếp nối giữa người trước và người sau, giữa thầy và trò. Trong Phật giáo thường gọi là: kế đăng, pháp tự, pháp tử, đệ tử...

Việc kế thừa diễn ra dưới hai hình thức, một là kế thừa pháp, hai là kế thừa trụ trì. Người đệ tử sau khi đắc pháp với thầy có thể tùy duyên hành hóa mọi nơi không nhất thiết cứ phải ở nơi thầy tổ của mình. Còn người kế thừa trụ trì ngoài việc được thầy truyền pháp còn phải ở lại trông nom chốn tổ. Cũng có trường hợp không nhất thiết cứ phải là pháp tử mới được trụ trì.

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, việc truyền đăng chủ yếu ở hai phương pháp chính đó là phương pháp truyền đăng theo tư tưởng Thiền Tông và phương pháp truyền đăng theo tư tưởng Luật Tông. Phương pháp Thiền Tông hầu như được áp dụng ngay từ thời kỳ Phật giáo mới du nhập cho đến thế kỷ XIII. Phương pháp Luật Tông được thịnh hành bắt đầu từ Phật giáo thời Trần cho đến nay.

Truyền đăng theo phương pháp Thiền Tông đơn giản, ít hình thức hơn phương pháp Luật Tông. Nhưng phương pháp Luật Tông mang tính tập thể cao hơn so với Thiền Tông. Chính vì thế mối quan hệ giữa thầy với các đệ tử của hai phương pháp này có những đặc thù riêng.

Về các thế hệ trong dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, quả thật là một vấn đề khó. Đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về vấn đề này. Tài liệu nói đến các thế hệ truyền đăng của thiền phái này rất hiếm. Ngoài sơ đồ trong bài Lược dẫn thiền phái đồ in ở đầu sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục năm 1683 của Tỷ khiêu Tuệ Nguyên và cuốn Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục tự Trần chư tổ Lâm Tế - Tào Động quyển hạ (gọi tắt là Đại Nam thiền uyển kế đăng lục) của Hòa thượng Phúc Điền in khoảng năm 1859, hiện nay chúng ta chưa tìm thấy tài liệu nào khác.

Theo sơ đồ ở bài Lược dẫn thiền phái đồ thì Trúc Lâm (tức Trần Nhân Tông) nối pháp của Tuệ Trung, thuộc thế hệ thứ 6, người đứng đầu của chi này là Cư sĩ Thông Thiền.

Sơ đồ như sau(1):

1. Thông Thiền

2. Tức Lự

3. ứng Thuận

4. Tiêu Dao

5. Tuệ Trung

6. Trúc Lâm

7. Pháp Loa

8. Huyền Quang.

Theo Đại Nam thiền uyển kế đăng lục thì Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông) nối pháp của Thiền sư Huệ Tuệ, cũng thuộc thế hệ thứ 6, người đứng đầu chi này là Thiền sư Hiện Quang.

Sơ đồ như sau(2):

1. Hiện Quang

2. Viên Chứng

3. Đại Đăng

4. Tiêu Dao

5. Huệ Tuệ

6. Điều Ngự (Trần Nhân Tông)

7. Pháp Loa

8. Huyền Quang

9. An Tâm

10. Tĩnh Lự Phù Vân

11. Vô Trước

12. Quốc Nhất

13. Viên Minh

14. Đạo Huệ

15. Viên Ngộ

16. Tổng Trì

17. Tam Tạng Khuê Thám

18. Sơn Đằng

19. Hương Sơn

20. Trí Dung

21. Tuệ Quang

22. Chân Trú

23. Vô Phiền

Như vậy, Trần Nhân Tông xuất gia nối pháp của ai ? Tuệ Trung hay Huệ Tuệ ?

Chúng ta đều biết, vào đầu thế kỷ XIII, phái Vô Ngôn Thông truyền đến thế hệ thứ 12 là Thiền sư Thường Chiếu. Theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư Thường Chiếu trước đây đã từng làm quan dưới thời Lý Cao Tông, sau khi từ quan xuất gia tu Phật, bản thân ông vốn đã dày dạn kinh nghiệm, học rộng tài cao. Chính ông đã nối tiếp tư tưởng Thiền sư Thông Biện soạn ra cuốn Nam Tông tự pháp đồ, tiếc thay cuốn sách này không còn, nhưng ta có thể biết được rằng Thường Chiếu đã viết tiếp các thế hệ truyền đăng của các dòng phái Phật giáo nưóc ta. ở ông, ta có thể thấy như một điểm hội tụ của các dòng phái Phật giáo lúc bấy giờ. Đặc biệt là tư tưởng truyền đăng, có thể nói ông đã chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của dòng phái Thảo Đường.

Nhìn lại quá trình truyền thừa của các dòng thiền ta thấy: Phái Tì Ni Đa Lưu Chi từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XIII, sau khi Thiền sư Y Sơn thị tịch năm 1213, trải qua 19 thế hệ, trong số các đệ tử được nối pháp không thấy có một vị cư sĩ nào. Bên cạnh đó phái Vô Ngôn Thông truyền đến Thiền sư Thường Chiếu thuộc thế hệ thứ 12, ngoài Lý Thái Tông là một ông vua ra, cũng không có một vị cư sĩ nào được nối pháp. Việc nối pháp được xen lẫn giữa các vị sư và cư sĩ, giữa người xuất gia và người tại gia. giữa tăng và tục chỉ thấy ở dòng phái Thảo Đường mà thôi. Trong các thế hệ nối pháp của phái Thảo Đường ta thấy rất rõ điều này(3).

Thế hệ thứ nhất có 3 người: Thiền sư Bát Nhã, Lý Thánh Tông Hoàng đế và cư sĩ Ngộ Xá.

Thế hệ thứ hai có 4 người: Thiền sư Hoằng Minh, Không Lộ, Định Giác và cư sĩ Ngô Tham Chính ích.

Thế hệ thứ ba có 4 người: Thiền sư Phạn Ân, Đỗ Đô, cư sĩ Thái phó Đỗ Anh Vũ, Hoàng đế Lý Anh Tông.

Thế hệ thứ tư có 3 người: Thiền sư Trương Tam Tạng, Chân Huyền và cư sĩ Thái phó Đỗ Thường.

Thế hệ thứ năm có 4 người: Thiền sư Hải Tịnh, Hoàng đế Lý Cao Tông và cư sĩ Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự.

Như vậy, phái Thảo Đường truyền pháp, không lệ thuộc vào hình tướng, chỉ căn cứ vào sự giác ngộ của người tiếp nối mà trao truyền, điều này khác hẳn với phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, vì hai phái này vẫn giữ theo truyền thống, nghĩa là thế hệ trước truyền cho thế hệ sau phải là người xuất gia làm tăng sĩ.

Khi phái Vô Ngôn Thông truyền đến Thiền sư Thường Chiếu thì ông phá bỏ, không theo nếp truyền thống mà tiếp thu tư tưởng của phái Thảo Đường, những người đến thụ nghiệp với ông không kể tăng hay tục, nếu có đủ căn cơ, ông đều truyền thụ cho hết. Điển hình trong số các đệ tử của ông là cư sĩ Thông Thiền, người có công đầu trong việc khai sáng ra chi thiền Thăng Long sau Thường Chiếu(4).

Theo sơ đồ trong bài Lược dẫn thiền phái đồ kể trên, chi thiền Thăng Long tiếp nối đến Thiền sư Huyền Quang được 8 đời, thế hệ truyền thừa đan xen giữa tăng sĩ và cư sĩ như sau: Từ cư sĩ Thông Thiền truyền xuống Thiền sư Tức Lự, Thiền sư Tức Lự truyền xuống cư sĩ ứng Thuận, cư sĩ ứng Thuận truyền xuống Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Tiêu Dao truyền xuống cư sĩ Tuệ Trung, cư sĩ Tuệ Trung truyền xuống Trúc Lâm. Trúc Lâm truyền cho Pháp Loa, Huyền Quang nối tiếp Pháp Loa.

Xét về thế hệ truyền thừa ta thấy, chi thiền Thăng Long đã ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng truyền đăng của dòng phái Thảo Đường, cụ thể từ thế hệ thứ nhất là Thông Thiền đến thế hệ thứ 6 là Trúc Lâm, đời trước truyền cho đời sau bao gồm cả tăng sĩ và cư sĩ. Nhưng khi đến Trúc Lâm thì phương pháp này lại bị thay thế, người được nối pháp phải là tăng sĩ và truyền đăng bằng phương pháp Luật Tông là chính.

Phương pháp truyền đăng theo Luật Tông đã có từ thời kỳ Đức Phật Thích Ca. Sau khi Phật nhập diệt, trong 4 lần kết tập kinh điển thì luật tạng là một trong tam tạng. Sau này Phật giáo phát triển lập ra nhiều bộ phái, mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng, trong số các bộ luật này, bộ được nói đến nhiều nhất như: Thập tụng, Tứ phận, Tăng kỳ, Ngũ phận. Riêng bộ luật Tứ phận là thịnh hành nhất, ngày nay vẫn còn được áp dụng rộng rãi. Trong phương pháp thụ giới (tức truyền đăng) của tông này, căn cứ vào tứ phận luật cũng như San bổ giới đàn tăng tập(5) có thể lược nêu một vài đặc điểm cơ bản như sau:

1. Tổ chức giới đàn.

2. Thành lập Hội đồng truyền giới.

3. Danh sách đệ tử được thụ giới.

4. Nghi thức truyền giới.

Tổ chức giới đàn là những thủ tục, nghi lễ trước khi truyền giới.

Thành lập Hội đồng truyền giới: đủ 10 vị danh tăng, gồm có: Tam sư: Hòa thượng sư, Yết ma A xà lê sư, Giáo thụ A xà lê sư và Thất chứng: 7 vị tôn chứng giới đàn.

Danh sách đệ tử được thụ giới: gồm tên, tuổi và những tiêu chuẩn như đã trải qua thời gian tu học, đã thụ giới Sa di, không gặp nạn, đủ 20 tuổi đời, đủ 3 y và bát, thân căn cụ túc, thanh tịnh, không phạm trọng tội, khinh tội, không phải loài phi nhân, nhị hình, hoàng môn, tặc tâm, phá nội ngoại đạo...

Nghi thức truyền giới gồm: lễ cầu gia bị, yết ma, thỉnh giới sư, lãnh thọ giới ...

Khi thụ giới xong, Tỷ khiêu tăng phải giữ 250 giới. Tỷ khiêu ni giữ 348 giới. Đây là giới luật cao nhất của người xuất gia, người thụ giới này được coi là người kế đăng, nối pháp. ở đây chỉ đề cập những điểm thông thường về phương thức tổ chức truyền thụ giới Tỷ khiêu mà thôi, vì giới này là cần thiết đối với người nối pháp.

Như vậy khoảng 100 năm, phái Vô Ngôn Thông đã canh cải hai lần, đầu tiên là Thiền sư Thường Chiếu và sau đó là Thúc Lâm đệ nhất tổ.

Như trên đã trình bày, Thiền sư Thường Chiếu tiếp thu tư tưởng của phái Thảo Đường, còn Trúc Lâm thì tiếp thu tư tưởng của phái nào ? Điều này sẽ trình bày sau.

Nhưng, ngoài chi Thăng Long còn có chi Yên Tử. Vấn đề rắc rối nhất là ở chi Yên Tử. Trước khi Nhân Tông xuất gia cả một thời gian khá dài gần 100 năm, các thế hệ ở chi Yên Tử nối tiếp nhau như thế nào ? Hiện nay chúng ta chỉ có một danh sách do Hòa thượng Phúc Điền ghi trong Đại Nam thiền uyển kế đăng lục như đã dẫn ở trên.

Theo danh sách này, Thiền sư Hiện Quang là người đứng đầu dòng thiền, người có công khai sáng ra chi Yên Tử, sự nghiệp của ông đã được ghi rõ trong Thiền uyển tập anh. Khi mới xuất gia, ông ở với Thiền sư Thường Chiếu, lúc đó ông còn là tăng sinh. Sau khi Thường Chiếu mất, ông đi tham vấn học hỏi khắp nơi, làm pháp tự Thiền sư Trí Thông chùa Thánh Quả, sau lại làm pháp tử Thiền sư Pháp Giới ở phủ Nghệ An, cuối cùng ông về tu ở núi Yên Tử. Thiền uyển tập anh xếp ông vào thế hệ thứ 14 là có lý, vì ông chưa đắc pháp với Thiền sư Thường Chiếu. Nhưng Thiền sư Trí Thông và Thiền sư Pháp Giới có quan hệ thế nào với phái Vô Ngôn Thông ? Thiền uyển tập anh cho ta biết thêm ở thế hệ thứ 12 dòng Vô Ngôn Thông có 7 người, thì chép thiếu 6 người, phải chăng trong số 6 người này có vị đã làm thầy của Trí Thông và Pháp Giới, cho nên hai vị này mới được coi ngang hàng với Thông Thiền, Thần Nghi là đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ thứ 13 ? (6).

Tuy Hiện Quang có làm đệ tử của Thiền sư Thường Chiếu trong 10 năm, nhưng không phải là người nối pháp của Thường Chiếu. Thiền uyển tập anh cũng xác nhận điều này.

Tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Nam cho rằng: "Cả hai chi này (tức chi Thăng Long và chi Yên Tử) đều bắt đầu từ Thiền sư Thường Chiếu thời Lý": hoặc "Chi ứng Thuận là tiếp nối từ cư sĩ Thông Thiền, mà Thông Thiền hay Hiện Quang đều là học trò của Thường Chiếu(7). Lời nhận định trên là có lý. Nhưng xét về thế hệ truyền thừa thì phải căn cứ vào pháp truyền đăng của Thiền Tông hay của Luật Tông để làm chuẩn mực. Hiện Quang không phải là pháp tự của Thường Chiếu, cho nên không thể coi Hiện Quang cũng như chi Yên Tử bắt nguồn từ Thường Chiếu được, đành rằng ông có chịu ơn của Thiền sư Thường Chiếu nuôi cho ăn học.

Thế hệ thứ hai của chi Yên Tử, theo Đại Nam thiền uyển kế đăng lục, là Thiền sư Viên Chứng. Thiền uyển tập anh không ghi hành trạng của ông. Ta không biết ông nối pháp của Thiền sư Hiện Quang như thế nào, nhưng có lẽ Hiện Quang đã trao truyền cho ông bằng phương pháp Luật Tông, bởi vì bản thân Hiện Quang trước khi về Yên Tử đã thụ Cụ túc giới (tức giới Tỷ Khiêu) với Thiền sư Pháp Giới(8). Cho nên tư tưởng truyền đăng bằng phương pháp Luật Tông của Thiền sư Viên Chứng thể hiện rất rõ ở chi Yên Tử sau này.

Người kế thừa Thiền sư Viên Chứng là sư Đại Đăng, ông thuộc thế hệ thứ ba chi Yên Tử, theo Đại Nam thiền uyển kế đăng lục. Lược dẫn thiền phái đồ cho ta biết thêm: Thiên Phong cư sĩ thuộc phái Lâm Tế ở Chương Tuyền, Trung Quốc, sang Việt Nam truyền đạo cho Quốc sư Đại Đăng và Hòa thượng Nan Tư, như vậy Đại Đăng là pháp tự của Thiên Phong. Ta không rõ Đại Đăng đắc pháp với ai trước, Viên Chứng hay Thiên Phong ? Nếu ông ở Yên Tử trước rồi sau mới ra Thăng Long học đạo với Thiên Phong thì lúc này ông đã là pháp tử của Viên Chứng rồi, cũng có khi ông là pháp tự của Thiên Phong sau đó vào Yên Tử tu làm pháp tử của Thiền sư Viên Chứng, nên mới có danh sách trong thế hệ truyền đăng Yên Tử, trường hợp này cũng giống như Thiền sư Hiện Quang, thế hệ thứ nhất chi Yên Tử.

Thế hệ thứ tư chi Yên Tử, theo Đại nam thiền uyển kế đăng lục là Thiền sư Tiêu Dao, ông cũng thuộc thế hệ thứ tư chi Thăng Long. Ông là thầy của sư Huệ Tuệ chi Yên Tử, đồng thời cũng là thầy của Tuệ Trung cư sĩ chi Thăng Long. Ông tu ở Phúc Đường tịnh xá, hiện nay chưa rõ ở đâu. Căn cứ vào truyền thống nối pháp của hai chi này thì Tiêu Dao là pháp tử của Thiền sư Đại Đăng chi Yên Tử, đồng thời còn là pháp tự của cư sĩ ứng Thuận chi Thăng Long, hiện tượng này lại lặp lại giống như Thiền sư Đại Đăng thầy của ông. Nhưng Thiền sư Đại Đăng nối pháp của cư sĩ Thiên Phong người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế.

Nối tiếp Thiền sư Tiêu Dao là sư Huệ Tuệ, thuộc thế hệ thứ năm chi Yên Tử, ông là thầy của Trúc Lâm. Về hành trạng của Thiền sư Huệ Tuệ, hiện nay chưa tìm ra. Tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Nam nhận xét: "Chúng ta không biết gì về nhà sư này cũng không có các tài liệu khác để kiểm tra tính xác thực của nhân vật này"(9), còn tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận cho rằng: "Đã đành Trúc Lâm thờ Tuệ Trung làm thầy, nhưng khi xuất gia thụ 250 giới của một vị Tỷ khiêu thì Tuệ Trung vốn là cư sĩ, không thể truyền giới cho vua được, ai là Hòa thượng trao truyền giới pháp cho Trúc Lâm, và vua thụ giới ở đâu hẳn người làm Hòa thượng đương đầu truyền giới là Thiền sư Huệ Tuệ, lúc đấy đang lãnh đạo sơn môn Yên Tử, tổ sư thứ năm của thiền phái và lễ thụ giới xuất gia của Trúc Lâm chắc chắn được tổ chức trên núi Yên Tử". Tác giả nói thêm: "Chỉ tiếc sử sách không ghi chép lại những chi tiết của ngày xuất gia ấy. Ta cũng không biết 10 vị trong hội đồng truyền giới là những vị nào"(10).

Những ý kiến của tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận nghe ra có lý, vì đã đi tu là phải có thầy, có thụ giới thì mới đúng là người xuất gia. Ngay cả người tu tại gia còn phải quy y Tam bảo và thụ giới, huống chi là người xuất gia. Từ đó, tác giả đã căn cứ vào danh sách thế hệ truyền thừa của chi Yên Tử chép trong Đại Nam thiền uyển kế đăng lục rồi dựng lên một phông cảnh lịch sử như thật. Trong khi đó tác giả còn chưa biết tí gì về con người Huệ Tuệ, ngày thụ giới xuất gia của vua, 10 vị trong hội đồng truyền giới là những vị nào, ai làm thầy Hòa thượng truyền giới... Qua đó có thể thấy lập luận của tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận tuy có lý, nhưng lại không có chứng cứ.

Dựa theo danh sách truyền thừa của hai chi Thăng Long - Yên Tử, Thiền sư Tiêu Dao trước là pháp tự của cư sĩ ứng Thuận chi Thăng Long, sau là pháp tự của Thiền sư Đại Đăng chi Yên Tử, cũng như Trúc Lâm trước là pháp tự của cư sĩ Tuệ Trung chi Thăng Long, sau là pháp tử của Thiền sư Huệ Tuệ chi Yên Tử. Từ đó, tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đưa ra ý kiến như sau: "Chúng ta cũng thấy rằng khi Nhân Tông đến tu ở Yên Tử, ông đã thực hiện lần thứ hai, nếu quả Tiêu Dao đã thực hiện lần thứ nhất trước đó"(11). Trước những vấn đề rắc rối như vừa nêu trên, người viết bài này thử đưa ra một số ý kiến cá nhân, mong góp phần vào việc suy nghĩ chung.

Xét về mối liên quan giữa các thế hệ với nhau, ta thấy Thiền sư Tiêu Dao khi còn tại thế, Tuệ Trung thường đến tham vấn học hỏi. Đến khi ông thị tịch, Tuệ Trung cũng đến điếu viếng, và còn làm nhiều bài thơ tán dương công đức của thầy như Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, Vấn Phúc Đường đại sư tật...(12) Nhân Tông cũng vậy, thường nói về cuộc đời của Tuệ Trung tức thầy ông, như bài Tán Tuệ Trung thượng sĩ, Thượng sĩ hành trạng...(13) Sau khi Tuệ Trung mất, Nhân Tông còn sai người vẽ chân dung để phụng thờ. Pháp Loa cũng viết về các bậc thầy tổ của mình như: Tán Tuệ Trung Thượng sĩ, Trúc Lâm đại tông giả thượng tọa thính sư thị chúng...(14)

Như vậy, các thế hệ nối tiếp sau Thiền sư Tiêu Dao, như Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa đều có tác phẩm để lại, ca ngợi công đức của thầy, dù rằng họ có phải sống xa cách như Tuệ Trung ở Thăng Long với Tiêu Dao nơi Yên Tử, Pháp Loa ở Yên Tử với Tuệ Trung tại Thăng Long.

Chúng ta đã biết, nếu quả Thiền sư Huệ Tuệ là thầy của Trúc Lâm, là tổ của Pháp Loa, người đã dày công xây đắp chốn tổ, lại tác thành giới thân tuệ mệnh cho Trúc Lâm, sao không thấy Trúc Lâm và Pháp Loa nhắc tới, dù rằng đạo học của ông không bằng Tuệ Trung thì con người như Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang đối với Huệ Tuệ không thể coi thường, thờ ơ và vô tâm như thế được.

Việc Nhân Tông xuất gia là một sự kiện vô cùng trọng đại, làm náo động cả từ triều đình đến dân chúng. Đây là sự việc chưa từng có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Một ông bố làm Thái thượng hoàng xuất gia tu Phật, một ông con đang làm vua trị vì đất nước, thế mà việc thụ giới xuất gia của Thái thượng hoàng không được ai nhắc tới ! Thật là điều kỳ lạ !

Cũng có người cho rằng, do chiến tranh nên mất hết cả sử liệu. Điều đó có khả năng, nhưng dầu sao cũng không thể tin được. Bằng chứng là những tư liệu của Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang vẫn còn đó. Vậy nhân vật Huệ Tuệ có thể chỉ là một trong số các đệ tử của Thiền sư Tiêu Dao thuộc thế hệ trước Nhân Tông mà thôi. Không thể coi ông là thầy của Thái thượng hoàng Trúc Lâm đệ nhất tổ được.

Trúc Lâm đệ nhất tổ không phải là pháp tử của Huệ Tuệ.

Khi Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử lấy pháp hiệu là Trúc Lâm đại sĩ hay Hương Vân đại đầu đà, mọi người tôn ông là Phật - Tổ là chính xác, vì các thế hệ tiếp nối trong Phật giáo không ngoài hai phương pháp đã trình bày ở trên. Sự kiện vua Trần Nhân Tông đi tu chỉ có thể được sánh ngang với sự kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bên ấn Độ mà thôi.

CHÚ THÍCH

(1) Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, in năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hòa triều Lê, tờ 6a.

(2) Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục tự Trần chư tổ Lâm Tế - Tào Động (quyển hạ) , tr. 11a.

(3) Thiền uyển tập anh, tr. 247 - 249, Nxb. Văn học, Hà Nội 1990.

(4) Để dễ phân biệt thế hệ truyền đăng giữa hai nguồn tài liệu, người viết bài này tạm gọi danh sách trong Lược dẫn thiền phái đồ in ở đầu sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục là chi thiền Thăng Long, còn danh sách trong cuốn Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục tự Trần chư tổ Lâm Tế - Tào Động (quyển hạ) là chi thiền Yên Tử.

(5) San bổ giới đàn tăng tập, in năm Thành Thái 5 (1893). Luật Tứ phận, Phân viện nghiên cứu Phật học, 1995.

(6) Thiền uyển tập anh, Sđd. tr. 148-159.

(7) (9) (11) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội 1988, tr. 213.

(8) Thiền uyển tập anh, Sđd. tr.160.

(10) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Nxb. Văn học, Hà Nội 1994, tr. 358 - 359.

(12) Thơ văn Lý Trần, Tập II Quyển thượng, Nxb. KHXH. Hà Nội 1988, tr. 229, 258.

(13) Thơ văn Lý Trần, Sđd. tr. 185, 537.

(14) Thơ văn Lý Trần, Sđd. tr. 649, 653.

TB

VỀ TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI CỦA TẬP THƠ ĐI SỨ “MAI DịCH TÂU DƯ

HOÀNG VĂN LÂU

Mai dịch tâu dư, 1 tập, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu giữ 3 bản chép tay, có các ký hiệu A.1280; VHv.1417; A.117/16. ở bản A.117/16, trên tờ 1a, có ghi rõ “Ngô gia văn phái - Mai dịch tâu dư: Lại bộ tham tri Lễ khê hầu Thành phủ công di thảo”. Thành Phủ công của Ngô gia văn phái là Ngô Thì Vị. Lược truyện các tác gia Việt Nam (Tập 1, tr.370), Từ điển văn học (Tập 2, tr.34) đều khẳng định Ngô Thì Vị (nguyên tên là Ngô Thì Hương) có soạn Mai dịch tâu dư.

Nhưng Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả (gọi tắt là Mục lục tác giả) lại có cách nhìn khác. ở trang 167 của sách này, dưới mục Ngô Thì Đạo (1732 - 1802), ghi rằng Mai dịch tâu dư là của Ngô Thì Đạo. ở mục Ngô Thì Sỹ (1726 - 1780) trang 169, lại liệt Mai dịch tâu dư vào tác phẩm của Ngô Thì Sỹ. Đến trang 171, mục Ngô Thì Vị, lại khẳng định Mai dịch tâu dư do Ngô Thì Vị soạn thảo.

Lại, Ngô gia thế phả của Ngô Giáp Đậu, chỉ ghi Ngô Thì Vị có một lần đi sứ vào năm Minh Mệnh Canh Thìn (1820). Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (gọi tắt là Đề yếu) tập II, trang 267, mục Mai dịch trâu dư văn tập, có tóm tắt nội dung như sau: “93 bài thơ, 1 bài ca, 12 bài phú vịnh phong cảnh và các nơi cổ tích trên đường tác giả đi sứ Trung Quốc vào khoảng 1820-1821...”.

Xem ra, có nhiều ý kiến bất đồng về tác giả, về niên đại, thậm chí cả về tên gọi tác phẩm, cần được xem xét để đi đến nhận thức thống nhất.

Trước hết, về tên gọi tác phẩm, Đề yếu ghi Mai dịch trâu dư văn tập 梅 驛 諏 餘 文 集 (Tập 2 tr.267). Mục lục tác giả ghi Mai dịch thú dư (tr.167), Mai dịch tu dư văn tập (tr.169 và tr.171). Từ điển văn học ghi Mai dịch thú dư (Tập 2, tr.34). Lược truyện các tác gia Việt Nam ghi Mai dịch thú dư.

Chữ “văn tập” là do người biên tập thêm vào. Còn lại tên tác phẩm là “Mai dịch tâu dư”, “Mai dịch tu dư”, “Mai dịch trâu dư” hay “Mai dịch thú dư”? Nguyên văn chữ Hán ở tất cả các bản sao chép hiện còn đều ghi là 梅 驛 諏 餘.

Như thế, sự thiếu nhất trí giữa các tài liệu đã dẫn chỉ là ở cách ghi âm Hán Việt chữ thứ 3: 諏. Theo Khang Hy tự điển, chữ này có nhiều cách đọc: tâu, trâu, phù... không thấy có cách đọc là thú. Vậy ta có thể đọc là Mai dịch tâu dư .

Thứ hai, về tác giả của Mai dịch tâu dư, mặc dù nhiều tài liệu đều ghi là Ngô Thì Vị, nhưng Mục lục tác giả lại đưa ra hai tác giả khác là Ngô Thì Sỹ và Ngô Thì Đạo. Hơn nữa, Ngô Gia thế phả lại chỉ ghi Ngô Thì Vị đi sứ 1 lần vào năm 1820, Thư mục đề yếu cũng có cùng quan điểm như vậy, thể hiện rõ trong đoạn lược thuật nội dung đã trích ở trên. Nhưng lần đi sứ năm 1820 Ngô Thì Vị đã trì hoãn thời gian xuất phát. Khi bị Minh Mệnh khiển trách, ông mang bệnh lên đường, tới phủ Nam Ninh thì chết. Trong hoàn cảnh ấy, liệu ông có làm được một tập thơ văn đi sứ hay không?

Trong tập Mai dịch tâu dư, có mấy bài văn mang tính chất “tự thuật”, có thể từ đó, tìm hiểu thân phận của tác giả và lai lịch của tác phẩm.

Như bài số 18 Yết Nhị Thanh động ký, kể lại quá trình phát hiện, kiến tạo động Nhị Thanh, nói động này do “Tiên công” của tác giả đã phát hiện ra khi làm Đốc đồng Lạng Sơn: “Tiên công đốc Lạng tài tam niên, dĩ thứ niên Kỷ Hợi hoạch động, Canh Tý xuân động thành. Kỳ niên thu tiên công thọ chung nhi động tùy hữu linh” (Tiên công làm Đốc trấn Lạng Sơn có ba năm. Năm thứ hai là năm Kỷ Hợi thì phát hiện ra động. Mùa xuân năm Canh Tý thì kiến tạo xong. Mùa thu năm ấy tiên công mất và động cũng theo đó mà linh thiêng). Năm Kỷ Hợi ở đây là năm 1779, năm Canh Tý là năm 1780. Ngô gia thế phả ghi chép về hành trạng Ngô Thì Sỹ như sau (dịch): “Năm Đinh Dậu (1777) đổi làm Đốc trấn Lạng Sơn... ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý thì mất” hoàn toàn phù hợp với lời tự thuật của Yết Nhị Thanh động ký. Những thông tin trên đây cho biết: tác giả của Mai dịch tâu dư là người con của Ngô Thì Sỹ, chứ không phải là Ngô Thì Sỹ hoặc người em của Ngô Thì Sỹ là Ngô Thì Đạo như Mục lục tác giả đã ghi nhận.

Về thân phận tác giả, mở đầu bài Yết Nhị Thanh động ký có đoạn: (dịch) “Tôi thuở nhỏ đọc tác phẩm của Tiên công, thấy có bài Nhị Thanh động ký tán, những muốn đến tận nơi ấy, ngặt vì nghèo khó, nên chẳng được như ý, tính đến nay đã 18,19 năm rồi. Mùa xuân năm Kỷ Tỵ, vì có lệnh đi sứ, tiện đường qua Lạng Sơn...”. Kỷ Tỵ là năm 1809, chứng tỏ, tác giả viết bài Yết Nhị Thanh động ký là vào dịp vâng mệnh đi sứ năm 1809. Năm 1809 là sau khi Ngô Thì Sỹ chết 19 năm, sau khi Ngô Thì Đạo (1732 - 1802) chết 7 năm, lại càng chứng minh hai ông này không viết Mai dịch tâu dư.

Lại, bài thơ ngũ ngôn trường thiên Vệ thành trị tiên thứ huynh húy Thì Đạo ý họa gia điệt có đoạn:

Huynh vong Mậu Thân niên, Kinh kim kỷ hàn úc.

Ngã thì nhất thập ngũ, Kim dĩ tam thập lục.

(Anh mất năm Mậu Thân đến nay đã trải bao mùa nóng lạnh. Bấy giờ em mới 15 tuổi, đến nay đã 36 tuổi).

Năm Mậu Thân ở đây là năm 1788. Năm sinh của tác giả có thể suy ra là 1774, và năm sáng tác bài thơ này là năm 1809, vào thời gian vâng mệnh đi sứ. Ngô gia thế phả ghi: (dịch) "Năm Canh Thìn (1820), niên hiệu Minh Mệnh, (Ngô Thì Vị) vâng mệnh làm Chánh sứ sang nhà Thanh cầu phong, chết ở dọc đường... thọ 47 tuổi” Như vậy, Ngô Thì Vị sinh năm 1774, chết năm 1820, thọ 47 tuổi, năm 1809 vâng mệnh đi sứ, viết Mai dịch tâu dư là điều có thể khẳng định. Còn vị “Tiên thứ huynh” (anh thứ đã mất) ở đây là Ngô Thì Chí. Ngô Thì Chí sinh năm 1753, mất năm 1788. Trong bài thơ đã dẫn, có nói đến sự biến năm Nhâm Dần (“Nhâm Dần biến”), chỉ sự kiện năm Nhâm Dần 1782, Trịnh Sâm chết, quân ba phủ nổi loạn, họ Ngô bị liên lụy đến nỗi “tan nhà, rời cốt nhục” (phá gia ly cốt nhục); nói đến cái loạn năm Bính Ngọ (Bính Ngọ loạn) là chỉ sự kiện lịch sử năm 1786, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, đánh thẳng vào thành Thăng Long.

Mai dịch tâu dư sưu tập 198 tác phẩm văn, thơ. Trong đó, có 3 bài Ký, 2 bài Hành, 1 bài Ca, 2 bài Phú, 5 bài Ngũ ngôn trường thiên, 1 bài Thất ngôn trường thiên, còn lại đều là thơ ngắn. Trước mỗi bài, thường có lời dẫn, giới thiệu bối cảnh của tác phẩm. Ngoài mấy bài mang tính chất tự thuật, có thông tin về thời gian như Yết Nhị Thanh động ký ra, nói chung thiên về tả cảnh, trữ tình, luận sự. Ngô Thì Vị cũng như nhiều sứ thần khác, trong tập thơ đi sứ của mình, thể hiện tác phong quan sát, thăm hỏi. Ông là người nhạy cảm, chú ý khảo sát vấn đề, sưu tập truyền thuyết, và nêu những nhận xét rất độc đáo của mình, như khi phân tích truyền thuyết về Tô Thị vọng phu (Vọng phu sơn ký), hay phân biệt Giang Châu, Tầm Châu (Giao ức Tỳ Bà đình). Có không ít bài thơ phản ánh cuộc sống của người Trung Quốc khi ấy, có giá trị hiện thực, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa nước lớn, biểu hiện lòng tự hào dân tộc của tác giả.

Ngô Thì Vị viết Mai dịch tâu dư vào dịp đi sứ năm 1809. Năm 1820, ông lại được sung làm Chánh sứ đi cầu phong cho Minh Mệnh. Nhưng ông lần lữa, làm chậm bước khởi hành, bị khiển trách. Ông mang bệnh đi đến phủ Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc) thì ốm chết. Cho đến nay, chưa tìm được một bài văn, bài thơ nào về chuyến đi sứ không thành lần này (năm 1820) của ông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện (bản in) Sơ tập Q. 20.

Ngô Giáp Đậu: Ngô Gia thế phả (bản chép tay), VHv.1345

Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu: Nxb. KHXH, Hà Nội 1993.

Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả: Bản in Rônêô. Ban Hán Nôm, Hà Nội 1977.

Từ điển văn học tập 2 Nxb. KHXH, Hà Nội 1984.

Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam (Tập I) Nxb. KHXH, H. 1971.

TB

SUY NGHĨ QUANH CÂU THƠ “NÀY CỦA XUÂN HƯƠNG MỚI QUỆT RỒI”

NGÔ GIA VÕ

Đây là câu thơ thứ hai trong bài thơ tứ tuyệt Mời trầu của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương. Bài thơ được đánh giá là hay, tiêu biểu cho phong cách của nữ sĩ họ Hồ nên được tuyển chọn trích giảng trong sách giáo khoa (SGK) văn học lớp 10 bậc Phổ thông trung học. SGK không giới thiệu nhiều về bài thơ này mà chỉ trình bày tư tưởng chung của tác giả: thương yêu trân trọng phụ nữ, tình yêu nồng nhiệt cuộc sống, thiên nhiên, thái độ phủ định đối với các thế lực thống trị tinh thần (đạo đức, lễ giáo phong kiến) và thế lực thống trị xã hội. Tác giả SGK còn đưa ra những gợi ý khái quát về nghệ thuật thơ của Hồ Xuân Hương để hướng dẫn học sinh tiếp nhận Mời trầu như: ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng mang phong cách riêng tạo ra cái “duyên dáng Xuân Hương”, trào phúng hóm hỉnh sâu cay, trữ tình đằm thắm chua xót, ngôn ngữ bình dị trong sáng và giàu cá tính...

Từ khi bài thơ Mời trầu được đưa vào chương trình văn học nhà trường đến nay, đã có tới vài chục bài viết, lời bình về nó, nhiều nhất là được in trong các sách giảng văn, hướng dẫn học tốt môn văn... của Nhà xuất bản Giáo dục. Ý kiến về Mời trầu khá phong phú, thậm chí khác hẳn nhau và không hiếm những ý kiến sâu sắc, có thể giúp bạn đọc hiểu kỹ, hiểu đúng bài thơ. Tuy nhiên, khá nhiều ý kiến còn giải thích bài thơ một cách chung chung, tiêu biểu như ý kiến của nhóm tác giả Vũ Quốc Anh, Trần Trung trong cuốn Dạy và học văn 10 (Nhà xuất bản Giáo dục) sau đây: “Khát vọng ở một tình yêu chân thành và thủy chung son sắt thấm nhuần tinh thần dân chủ trái hẳn với lễ giáo phong kiến hà khắc; nỗi trăn trở chua xót về sự bạc bẽo của nam giới trong quan hệ tình yêu được thể hiện bằng hệ thống ngôn ngữ của đời thường đậm đà phong vị dân tộc, phong vị đồng quê qua hình tượng trữ tình với cảm xúc phong phú, đa dạng và nhất quán về tính cách... Hai câu đầu biểu hiện sự chân thành cởi mở, tự tin. Câu 3: Tâm sự nguyện vọng khao khát mãnh liệt của nhà thơ về một tình yêu chung thủy, sắt son, bình đẳng..." Những lời giải thích trên không ai nghĩ là sai nhưng sao nó cứ xa vời, nói về bài thơ nào cũng có thể thấy là na ná như vậy và không nêu bật được đặc trưng nội dung và hình thức bài Mời trầu, gây khó khăn cho giáo viên khi giảng bài này, nhất là khi phải giảng từng câu, từng chữ một.

Chúng tôi nhận thấy câu thơ Này của Xuân Hương mới quệt rồi còn chưa được thống nhất về cách hiểu, nhiều nhà nghiên cứu còn nhầm lẫn khi hiểu một vài chữ trong đó, cho nên đã dẫn tới sự mù mờ, chung chung trong việc thẩm định giá trị bài thơ. Bài viết này thử xuất phát từ phong cách thơ chung của Hồ Xuân Hương, bám vào các chữ nghĩa trong câu thơ thứ hai, cố gắng giải mã nó càng gần tư tưởng tác giả bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và do vậy, đây mới chỉ là một cách thăm dò.

Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có những nét riêng khó ai bắt chước được. Không giống bà huyện Thanh Quan ở cái giọng đài các mà mang nỗi khắc khoải hoài vọng về một thời vàng son đã qua đi không trở lại, đặt tình yêu vào một triều đại dĩ vãng theo bà là rực rỡ nhưng giờ đây đã tắt lịm qua bao cuộc tang thương. Nỗi buồn thấm, dàn trải mà bệ vệ. Hồ Xuân Hương không giống Nguyễn Khuyến - một nho sĩ tài đến Tam nguyên mà sinh bất phùng thời, đau đời trước cảnh nước mất nhà tan và buổi giao thời thực dân phong kiến nhố nhăng, ông thằng lẫn lộn. Nguyễn Khuyến thể hiện nỗi đau thầm kín bằng cách ẩn mình tìm chỗ nương náu sau cảnh làng quê bình dị thân thương, giữ phận kẻ sĩ không lập công được thì lập đức, lập ngôn, giữ tâm trạng của kẻ an bần lạc đạo. Vì thế, thơ ông man mác, ảo thực đan nhau, cái trong cái đục lúc chìm lúc nổi, trong yêu da diết vẫn mang nỗi buồn thấu lòng, trong mỉa mai lại có hương vị nước mắt, tất cả thể hiện từ đáy sâu tâm hồn mâu thuẫn giữa một tấm lòng thanh cao với cảnh đời ô trọc. Hồ Xuân Hương cũng không giống với Tú Xương, người đã phần nào chịu ảnh hưởng tư tưởng Tây Dương, đã Cống hỉ mét xì đây thuộc cả nên sự bất bình của ông thể hiện tự do phóng khoáng hơn. Ông đã chán ngấy cả chế độ phong kiến đặc biệt là cảnh bất công ở chốn khoa trường, quan trường với lý tưởng trung-hiếu-tiết-nghĩa lẫn quan điểm thẩm mỹ ôn-nhu-đôn-hậu của nó. Phong cách thơ ông thẳng thừng, huỵch toẹt, sâu cay và lòng yêu thương của ông không gắn với một vương triều cụ thể nào cả mà thường bắt nguồn từ một cảnh quan quê hương giàu kỷ niệm: Một con thuyền nhỏ, một bến đò xưa, một trời đêm yên tĩnh với tiếng chuông chùa day dứt...

Còn Hồ Xuân Hương lại khác. Bà là một phụ nữ có văn tài, thông minh sắc sảo (cứ xem bà ra và họa các câu đối khắc rõ) nhưng cuộc sống hạnh phúc riêng tư lại trắc trở hẩm hiu: hai lần làm lẽ, hai lần khóc chồng. Với bà, tình yêu lứa đôi luôn là niềm khát khao cháy bỏng nhưng sao nó cứ chập chờn, không với tới được. Thông minh, nên bà nhìn thấu được cái dốt nát phi lý của người đời và cuộc đời. Được giáo dục bằng kinh sách thánh hiền nơi cửa Khổng sân Trình, lại có tâm hồn đôn hậu nên bà luôn đồng cảm, thông cảm với nỗi bất hạnh của phụ nữ. Thơ bà có nhiều bài “lỡm” như: Mắng học trò dốt, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Cái quạt, Chùa Quán Sứ, Hang Thánh Hóa, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị../ Nhưng cũng có nhiều bài khóc như: Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình... mà bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Những phong cách xung đột cứ đan lẫn nhau khiến văn chương bà là một hiện tượng cực kỳ phức tạp và đấy là nguồn gốc khiến ta mù mờ khi phân tích một bài thơ như bài Mời trầu.

Bên cạnh yếu tố phong cách, ngôn ngữ thơ bao giờ cũng mang tính lịch sử về bản chất thể loại và ý nghĩa từ vựng. Bởi vậy, chúng ta phải đặt bài thơ Mời trầu vào đúng vùng văn hóa - lịch sử của nó, nghĩa là vào nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX thì mới nhận thức chính xác ý nghĩa và giá trị thi phẩm.

Bài thơ mở đầu bằng câu Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi. Các nhà bình luận thường dựa vào chữ hôi để cho rằng đây là một câu thơ thể hiện tính khiêm nhường của tác giả. Thực ra từ hôi xưa kia bao hàm hai ý nghĩa. ở thế kỷ XVII, trong từ điển Alexandre de Rhodes được giải thích là mùi khó ngửi. Tuy nhiên, ở thuốc hôi lại được giải thích là thuốc có mùi gắt. Đến từ điển của Pigneau de Behaine ở thế kỷ XVIII (cùng thời với Hồ Xuân Hương), từ hôi lại được giải thích là mùi vị, ví dụ miệng còn hôi sữa được dịch là Une bouche qui sent encore le lait. Vậy thì hôi thời Hồ Xuân Hương cũng chỉ có nghĩa là hương vị, mùi vị như người ta thường nói hôi mùi dầu, hôi mùi hoa cúc. Trong thơ Nôm thời trung đại, hầu như không có tác giả nào dùng từ hôi, cho nên không thể hiểu hôi ở đây là hôi hám như người hiện đại được.

Đến câu thơ thứ hai Này của Xuân Hương mới quệt rồi thì rõ ràng đây là một câu nói chanh chua, bốp chát kiểu Hồ Xuân Hương. Từ này có cái gì đó sừng sộ kiểu Này này chị bảo cho mà biết. Cách xưng tên Xuân Hương mà tác giả Nguyễn Lộc cho là hiện tượng mới mẻ của văn học dân tộc thực ra không có ý nghĩa gì độc đáo lắm, bất quá cũng chỉ như Nguyễn Du viết: Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như mà thôi. Nguyễn Du có tên tự thì xưng tự, còn Hồ Xuân Hương không có tên tự thì xưng tên thật. Có lẽ không ai coi câu thơ trên của Nguyễn Du không phải là văn học dân tộc dù nó được viết bằng chữ Hán. Vả chăng trong các bài tự, bạt viết cho các thi tập, văn tập, sử tập trước cũng đã có nhiều người tự xưng tên rồi. Tuy nhiên, phụ nữ tự xưng tên thì đây quả là lần đầu thật, nó thể hiện tính cách một con người có bản lĩnh, ý thức tự ngã cao nhưng đồng thời cũng thể hiện một tính cách ngang ngược, không chịu an phận. Liên hệ cách đặt tên ngôi nhà của bà là Cổ nguyệt đường, chữ ghép với chữ thành chữ và tách tên mình ra trong hai câu thơ Ngán nỗi Xuân đi Xuân lại lại và Chén rượu Hương đưa say lại tỉnh (Tự tình), chúng ta càng thấy rõ bản lĩnh này.

Trong câu thơ, chữ quệt cũng đáng chú ý. Từ quệt được coi là tục nên văn học trước và sau Xuân Hương đều chưa thấy dùng từ này. Thay vào đó, người ta thường dùng từ quết như quết thuốc, quết bột, áo quết bùn (từ điển của Pigneau de Behaine, Huỳnh Tịnh Paulus Của, Génibrel). Quết cũng có nghĩa như quệt nhưng mang phong cách thanh tao hơn.

Đặc biệt, đến từ của trong câu này thì có nhiều ý tứ thú vị, cần làm sáng tỏ xem nó định nói gì. Của hiện nay đã là một hư từ trỏ quan hệ sở hữu, cũng như các hư từ khác phần lớn bắt nguồn từ thực từ. Của lúc đầu cũng là thực từ trỏ của cải, tài sản. Của trỏ quan hệ sở hữu là chuyện sau này. ý thức sở hữu ở Trung Quốc cũng như Việt Nam chậm phát triển do điều kiện kinh tế xã hội nặng về nông nghiệp với chế độ công điền công thổ, người dân cày ruộng nhưng không có quyền sở hữu ruộng đất và đất đai là của nhà vua, của công xã, ý thức sở hữu ít có cơ hội phát triển. Vậy, chữ của trở thành hư từ trỏ quan hệ sở hữu từ lúc nào và thời Hồ Xuân Hương nó chỉ gì? Ta cần làm rõ vấn đề này, trước khi muốn hiểu bài thơ Mời trầu.

Ở thế kỷ XV, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, chữ của xuất hiện 36 lần với các nét nghĩa sau đây:

Của cải
- Của người sơn dã đem nhau đến
Khó ở kinh thành ít kẻ han.
- Mình thác thì nên mọi của tan,
Phú giàu hay đến trăm tuổi.
- Của thết là của con,
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon.
- Có của bo bo hằng chực của,
Oán người nơm nớp những âu người.
- Có của cho người nên rộng miệng,
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày.
- Đồ thư bốn vách nhà lắm của,
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền.
- Bất nhân vô số nhà hào phú,
Của ấy nào ai từng được chầu.
- Tích đức cho con hơn tích của,
Đua lành cùng thế mựa đua khôn.
- Có của hằng cho lại có thông,
Tiền nhiều con cháu nó trông.
- Của chẳng phải đạo làm chi nữa,
Muôn kiếp nào hề lụy đến thân.
- Của nhiều sinh chẳng được con hiền,
Ngày tháng công tư chực lỡ tiền.
- Kim ngân ấy của người cùng muốn.
- Giàu nhiều của con chẳng có,
Sống hơn người mệnh khó khăn.

Vật dụng (thơ, rượu)
- Chi là của tiêu ngày tháng,
Thơ một hai thiên rượu một bình.
- Chén rượu câu thơ ấy huống nồng,
Rày mừng thiên hạ hai của.
- Nào của cởi buồn trong thuở ấy,
Có thơ đầy túi rượu đầy bình.

Hoa, lá, gió, trăng
- Bạch mai hoàng cúc để cho con,
Già chơi dẫu có của no dùng.
- Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh,
Riêng làm của có ai tranh.
- Giang sơn bát ngát kìa quê cũ,
Tùng cúc bồ từ ấy của hằng.

Đồ dùng nói chung
- Mày mò hôm dao lòng mặc khách,
Kỳ mài ngày tháng của thi nhân.
- Quân tử thánh hiền lòng tựa nước,
Công già càng ngẫm của bùi ngon.
- Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội cá trong ao.
- Của đến nước xa nên quý giá,
Người lìa quê cũ lấy làm xiêu.

Đạo, đạo đức
- Ở thế đằng nào là của trọng,
Bui chẳng đã đạo làm lành.
- Ruộng nương là chủ người là khách,
Đạo đức lành ấy của chầy.
- Lòng chẳng mắc tham là của báu,
Người mà hết lụy ấy thần tiên.

Dùng trỏ người
- Gửi tính ngư tiều hai đứa lẩn,
Của ai non nước khiến ta bàn.
- Rầy mừng thiên hạ hai của,
Tể tướng hiền tài chúa thánh minh.

Khảo sát 100 bài trong Hồng Đức quốc âm thi tập ta thấy không có một từ của nào, trong Chỉ Nam ngọc âm - cuốn từ điển Hán Nôm do Pháp Tính biên soạn vào khoảng thế kỷ XVIII dài hàng ngàn câu lục bát cũng chỉ có 3 chữ của và đều là thực từ.

- Phú thuyền của cải ắp đầy,
Sử phàm buồm cất chạy ngay tếch vời.

- Kim khẩu của nậu(1) cài nương.

- Ưu đàm của ghín(2) hoa sung.
Ai được hoa ấy bụt trồng phúc cho.

Sang tới thế kỷ XVIII, ở bộ bách khoa thư của đời sống xã hội Việt Nam đương thời là Truyện Kiều, từ của xuất hiện đã nhiều nhưng chưa có trường hợp nào có thể chứng minh rằng của đã được hư từ hóa. Theo Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, từ “của” xuất hiện 14 lần trong các câu: 308, 309, 317, 356, 583, 736, 739, 832, 1011, 1377, 2066, 2808, 2817, 2827 và đều mang ý nghĩa là “của cải”, “tiền bạc”, “đồ đạc”, “tài sản”, nghĩa là vẫn còn là thực từ (danh từ) tương tự như tình hình ở Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ví dụ:

- Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.

- Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.

- Chiếc thoa là của mấy mươi.

- Của tin gọi một chút này làm ghi.

- Mất người còn chút của tin.

- Đồ tế nhuyễn của riêng tây.
Rõ ràng của dẫn tay trao.

Và cũng có khi trỏ người, ý khinh thị, coi như thứ đồ chơi:

- Khéo oan gia của phá gia.

Như thế, ta thấy cho đến thời Hồ Xuân Hương, từ của vẫn còn giữ vai trò của một thực từ (danh từ) và đứng sau nó là những từ khác làm định ngữ danh từ. Vậy của Xuân Hương không diễn đạt một mối quan hệ sở hữu như của anh, của tôi, của nó v.v... mà diễn đạt một sự vật. Nếu nghĩ của đây là quả cau hay miếng trầu thì của lại trỏ quan hệ sở hữu mà điều này lại chưa thể xảy ra ở thời đại Hồ Xuân Hương. Của đây phải là một cái gì khác hiểu như cái của ấy, của nợ, của ba vạn chín nghìn nói theo kiểu chanh chua bốp chát mà lại phần nào ỡm ờ, diễu cợt. Điều này có thể thấy rõ hơn khi ta đọc một dị bản Mời trầu và bài thơ họa lại của Chiêu Hổ được chép trong Đào nương hiếu ca ký hiệu A164, bản Nôm của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trang 168.

Mời trầu

Hãy làm lần nữa miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới bổ rồi.
Có phải duyên nhau thời thắm mãi,
Đừng như nước ốc bạc như vôi.

Chiêu Hổ họa lại:

Lẳng lơ chi thế chị Xuân ơi,
Của chị ai ai cũng biết rồi.
Thắm mãi đã đành khi nhạt nhẽo,
Cánh hàn đem đến đổ lò vôi.

Bài thơ họa đầy giọng bỡn cợt, trêu chọc và khi so sánh hai câu Này của Xuân Hương mới quệt rồi Của chị ai ai cũng biết rồi người đọc đều hiểu ngay của chỉ cái gì và không phải bỗng dưng vô cớ người họa thơ lại viết: Lẳng lơ chi thế chị Xuân ơi.

Rõ ràng, nhiều nhà nghiên cứu đã bình luận một cách say sưa bài thơ Mời trầu mà không hề chú ý đến tính lịch sử của một số từ loại trong đó. Điều này đã dẫn tới cách hiểu chung chung, thậm chí sai lệch về bài thơ. Hồ Xuân Hương là thế, ngay cả ở những vấn đề nghiêm túc nhất bà vẫn cười đùa, vẫn đưa tiếng cười vào để xóa đi cái trang nghiêm, bệ vệ để tạo ra không khí thân tình, suồng sã và hết sức cởi mở. Từ của ấy, từ quệt ấy trong câu thơ Này của Xuân Hương mới quệt rồi ấy lấp ló hiện lên một hình ảnh tục - một phương tiện nghệ thuật “đặc dị” làm nên thi pháp Xuân Hương.

Trở lại với câu thơ Này của Xuân Hương mới quệt rồi ta còn nhận thấy nó có một cách ngắt nhịp thật lạ: Này/ của Xuân Hương/ mới quệt rồi tức là ngắt nhịp 1/3/3. Đại từ này chỉ một vật cụ thể, rất gần, rất rõ, khác hẳn với đại từ kia chỉ một vật ở xa. Cái của ấy như được phơi ra, bày ra trước mắt với tất cả những gì rõ ràng nhất, nó đúng là quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi đang hiện diện sờ sờ trước mắt kia, nó đang mời gọi, giục giã một cách tinh quái và suồng sã. Bài thơ mang ẩn ý tương đồng với bài Trách Chiêu Hổ dưới đây:

“Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toàn những sự gùn ghè;
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè”.

Có lẽ chính vì vậy mà nữ sĩ mới đẩy tính chất mời gọi ấy lên đến đỉnh điểm của sự giao hòa:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Theo cấu trúc tổng thể của một dòng thơ, theo thủ pháp tiểu đối trong lòng câu thơ cổ, xanh như lá đã chỉ màu sắc thì bạc như vôi tất phải chỉ màu sắc, ở đây là màu trắng chứ không thể hiểu là bạc bẽo, bội bạc được. Từ xưa tới nay, chưa ai dùng xanh như lá để chửi đời cho nên không thể hiểu bạc như vôi là lời chửi như một số tác giả đã viết. Chúng tôi rất nhất trí với công thức mà Giáo sư Đặng Thanh Lê đã đưa ra trong cuốn Hướng dẫn giảng dạy văn 10 cho giáo viên phổ thông là “xanh” + “bạc” = “thắm”. Lá phải tan vào vôi, vôi phải hòa trong lá mới tạo thành sắc thắm tươi và vị nồng say của miếng trầu.

Dù thế nào đi nữa thì cái của ấy, cái nét nghĩa tục, rất trần trụi và rất Xuân Hương ở câu thơ thứ hai vẫn là nội dung đích thực của bài thơ. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy gờn gợn khi bài thơ này được đưa vào chương trình văn học lớp 10 (tức là cho đối tượng học sinh 15-16 tuổi). Chúng tôi băn khoăn không biết giảng dạy cho các em bài Mời trầu như thế nào đây? Bỏ qua ý nghĩa trên thì không được, mà giảng đúng, giảng rõ cũng không xong. Mong các nhà nghiên cứu và các nhà làm sách giáo khoa góp thêm ý kiến.

CHÚ THÍCH

(1) Nậu: thứ đồng tiền bằng vàng hoặc bạc, đồng lớn hơn cúc áo đính trên áo trước ngực theo kiểu dây đeo (theo từ điển Việt-Bồ-La của Aléxandre de Rhodes).

(2) Của ghín: của thiêng, của đáng kính.

TB

ĐÌNH NGUYÊN TIẾN SĨ NGUYỄN ĐÌNH TUÂN
VỚI BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH

NGUYỄN VĂN PHONG

Nguyễn Đình Tuân là danh nhân khoa bảng đăng đệ cuối cùng của xứ Kinh Bắc nói chung, quê hương Bắc Giang nói riêng dưới thời phong kiến. Khoa thi Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901) Nhà nước lấy 9 vị nho sinh ưu tú đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân và lấy thêm 13 vị đỗ Phó bảng. Nguyễn Đình Tuân đã đỗ đầu khoa thi này khi ở tuổi 35. Cùng khoa thi có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thi đỗ với học vị Phó bảng.

Từ thuở thiếu thời đến khi trưởng thành rồi trí sỹ, cuộc đời Nguyễn Đình Tuân đều gắn bó với quê cha đất tổ làng Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa (nay là thôn Trâu Lỗ, xã Mai Đình). Còn nơi chôn rau cắt rốn lại ở làng Thù Sơn có tên Nôm là làng Thùa, nay thuộc xã Hòa Sơn cùng huyện. Cũng vì sinh ra ở làng Thùa nên cụ Tú Khiêm (cha của Nguyễn Đình Tuân) đã đặt tên con trai mình là Thùa với ý nguyện giữ mãi kỷ niệm nơi ông mở trường dạy học.

Quê hương Mai Đình còn truyền tụng nhiều giai thoại về Nguyễn Đình Tuân. Thuở nhỏ, ông nổi tiếng là thông minh dĩnh ngộ và rất giỏi thơ. Năng khiếu bẩm sinh cùng sự kèm cặp nghiêm khắc theo khuôn phép đạo Khổng của người cha đã chắp cánh cho sự nghiệp văn chương của ông sớm hanh thông và thành đạt. Có thể nói, với 75 tuổi đời, ông đã ngót 70 tuổi thơ. Sinh thành, thi cử rồi bước vào hoạn lộ, cuộc đời sự nghiệp của ông gần như chuyên tâm với nghề dạy học. Lúc làm Đốc học tỉnh Yên Bái, lúc làm Đốc học tỉnh Ninh Bình, rồi Giám đốc trường Quy thục Hà Nội, và lại có ngót mười năm làm Đốc học tỉnh Hà Đông. ở đâu, ông cũng gắng gỏi tận tâm cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài, xứng đáng với vị trí của một người thầy mẫu mực. Đôi khi được bổ dụng ở cương vị khác như án sát ở Bắc Ninh, án sát kiêm Tuần phủ Thái Nguyên... ông vẫn khuôn mình theo cốt cách của một nhà nho mẫu mực.

Đương thời ông sáng tác nhiều thơ văn, soạn nhiều văn bia, câu đối cho các địa phương nơi mình cư quan nhậm chức... nhưng đến nay bị thất lạc nhiều. Tác phẩm đồ sộ nhất ông để lại cho hậu thế là bộ sử mang tên Đại Nam quốc sử cải lương. Sách chữ Hán chưa được dịch ra tiếng Việt, nhưng được các học giả đánh giá cao về giá trị của một bộ sử được biên soạn cuối cùng dưới thời phong kiến.

Di văn của Nguyễn Đình Tuân không nhiều, hiện tồn tại trên các di tích nơi ông từng qua thăm viếng, cho nên các nhà nghiên cứu ít có điều kiện quan tâm tìm hiểu cuộc đời sự nghiệp của ông, một nhà nho yêu nước ở đầu thế kỷ 20. Nhưng khi lần đọc di văn của ông lại không thấy ông bộc lộ tư tưởng chính trị rõ ràng. Thơ văn ông không đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, trong khi các nhà nho có nhiệt huyết với dân tộc lại bộc lộ khá rõ nét quan điểm chống lại bọn thực dân và bè lũ tay sai bán nước thời bấy giờ. Thơ ông chủ yếu là những bài mừng tặng, thăm hỏi thân nhân bằng hữu, ca tụng cảnh trí thiên nhiên mỹ lệ... và phải chăng vì lý do này mà đến tận hôm nay vẫn chưa có nhà nghiên cứu nào chuyên tâm tìm hiểu sự nghiệp trước tác của ông ?

Bước đầu sưu tầm để đi đến biên soạn một tập chuyên khảo về cuộc đời sự nghiệp và di văn của Nguyễn Đình Tuân, chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy ở ông những điều mới mẻ lý thú và chúng tôi đã có kết quả khi sưu tầm được bài văn sách thi Đình của ông. Chúng tôi trân trọng giới thiệu với độc giả tác phẩm này.

Bài văn được chép trong tập sách Hội thí văn tuyển, do nhà sách Gia Liễu sao lại nguyên bản rồi đem khắc in, cụ Nguyễn Tiến Đoàn (một vị túc nho) ở xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, là hậu duệ của Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân đã sưu tầm được và cho chúng tôi mượn đọc.

Lời sách vấn (lời vua hỏi) đề cập tới việc cai trị thiên hạ tại sao phải có gốc, có pháp luật? Nguyễn Đình Tuân trả lời rằng: “Dám thưa! Kẻ bề tôi từng nghe dùng hình phạt với dân và vẫn ẩn chứa điều thiện, dùng văn trị lại thuận theo thời thế để thi hành cho phù hợp là cách cai trị của các bậc thánh vương đời trước. Trộm nghĩ, bậc thánh vương phải tùy thời mà trị dân, nhưng cũng chỉ có hai vấn đề cốt yếu là dùng Hình luật và Giáo hóa. Ôi! cái nghĩa của chữ tùy thời lớn lao làm sao. Các bậc thánh vương nhân thời thế, thời cuộc mà định ra chính sách. Thiên hạ không công bằng thì lấy Hình luật mà làm cho cân bằng khoảng cách thấp cao. Phong tục chưa tốt thì giáo hóa để ngày thêm thuần hậu. Phàm xem xét việc định ra kế trị nước và thi hành đạo trị nước, tất yếu phải biết tùy nghi, khéo léo ứng xử theo thời thế. Xét về kinh điển, có câu rằng: “Phải quan sát tình hình dân chúng mà thiết định phương pháp giáo hóa”. Về cách thức làm người trị nước, sách truyện có câu: Lãnh đạo dân chúng, phải công bằng về pháp luật. Trong việc giáo hóa dân chúng, phải xem xét thiên hạ, biết được sự đổi thay của xã hội, từ đó hiểu được đời sống của dân chúng rồi đặt ra sự giáo hóa... Làm được như vậy thì dân chúng sẽ nghiêm cẩn mà có lòng tin, pháp luật sẽ bồi bổ cho việc trị nước. Làm chính sự mà lấy đạo để thi hành, bình đẳng về pháp luật thì dân chúng tránh được tội lỗi mà hiểu rõ được lễ nghĩa, liêm sỉ...”

Như vậy, Nguyễn Đình Tuân đã chỉ ra cái gốc của việc cai trị thiên hạ cho bậc đế vương. Gốc ấy chính là lòng dân, đời sống của dân. Định ra pháp luật để cai trị, giáo hóa, vẫn phải xuất phát từ cái gốc ấy. Mặt khác, bậc đế vương muốn vun vén cho thiên hạ thái bình thì một điều cốt yếu nữa chính là sự bình đẳng về pháp luật, có vậy bậc đế vương mới tránh được sai lầm, người dân mới lìa xa được tội lỗi.

Tiếp đó lời đối sách có đoạn: “Hình luật là để đất nước bình yên(...) việc hưng thịnh hay rối loạn của đất nước đều ở tay người cầm quyền. Hình luật có chỗ khác nhau, quyền là do tình thế mà giữ cho cân. Nước tràn, lửa cháy có cách xử lý của nó. Cho nên dùng đức để cai trị, không câu nệ, không thiên lệch, thì cái đẹp của đức ấy tự làm cho xã hội không sinh ra cái tệ bè đảng...”

Đạo trị nước, theo Nguyễn Đình Tuân, chính là dùng đức để trị. Ông chỉ ra cái tệ kết bè đảng để hại nhau hay phản nghịch, cũng chính bởi sự tha hóa về đạo đức của người cầm quyền. Ngoài ra, trong đối sách, ông còn đề cao sự học: “Dựng nhà học, lại mời các danh nho đến dạy, thì dù không có phép tắc thời Tam đại, người ta vẫn kéo đến học một cách đông đảo, nhàn nhã. Thành tựu của sự học là đáng quý lắm. Sở dĩ đạo trị nước cần đề cao sự học cũng bởi nó làm cái gốc của thiên hạ thái bình vậy...”

Lời đối sách còn khá dài, đề cập đến nhiều lĩnh vực của xã hội, đồng thời Nguyễn Đình Tuân còn đưa ra nhiều kế sách ưu việt cho bậc đế vương. Chúng tôi chỉ trích dẫn vài đoạn tiêu biểu như trên để độc giả suy ngẫm về tư tưởng hành đạo của ông. Thiết nghĩ, những vấn đề mà Nguyễn Đình Tuân trình bày trong bài văn sách vẫn giữ nguyên tính thời sự của nó cho đến tận hôm nay.

TB

TS

TG

TB

BÀI VĂN BIA TỪ CHỈ CỦA HỘI TƯ VĂN,
HUYỆN BÌNH XUYÊN CỦA PHẠM QUÝ THÍCH

MAI XUÂN HẢI

Phạm Quý Thích (1760 - 1825) tự Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường, là một nhà văn, nhà thơ, nhà giáo dục nổi tiếng của nước ta vào nửa sau thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19. Ông là người làng Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), một làng quê một thời nổi tiếng là “danh hương”, từng sản sinh ra nhiều danh sĩ Bắc Hà như Vũ Tông Phan, Vũ Nhự, Phạm Hy Lượng và một số nhà khoa bảng khác. Sau ông tới ngụ cư và dạy học tại phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long (Hà Nội). Đỗ Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Kỷ Hợi năm Cảnh Hưng 40 (1779) lúc mới 20 tuổi, ông được bổ làm quan Đông các Hiệu thư, rồi tới chức Thiêm sai Tri công phiên. Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông bỏ trốn không cộng tác. Vua Nguyễn Gia Long lên ngôi (1802), ông được gọi ra làm quan, giữ chức Thị trung Học sĩ, tước Thích An hầu. Năm 1811 bị triệu vào Kinh làm việc chép sử. Năm 1813 làm Giám thị trường thi Sơn Nam. Sau ông cáo quan về. Năm Minh Mệnh 2 (1821) có chiếu chỉ gọi ra làm quan, nhưng ông viện cớ ốm đau từ chối. Cuộc đời của ông chủ yếu gắn với nghề dạy học, với sự nghiệp giáo dục. Học trò của ông rất đông, và có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Văn Siêu, cụ Nghè Lý v.v...

Phạm Quý Thích sáng tác và trước thuật rất nhiều. Từ điển Văn học Việt Nam cho biết hơn 60 tên sách có chép tác phẩm của ông, nhưng chưa được nhà nghiên cứu nào khảo sát và hệ thống hóa các văn bản ấy. Có thể kể ra ở đây một số tác phẩm như Lập Trai thi tập (gồm 6 bản viết tay, bộ 2 tập), Lập Trai thi tuyển (3 bản in), Lập Trai tiên sinh di thi tục tập (1 bản viết), Lập Trai tiên sinh di văn chính bút tập (2 bản viết), Lập Trai văn tập (1 bản viết)... Các tác phẩm trước thuật: Thiên Nam long thủ lục, Dịch kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa, Luận ngữ ngu án v.v... ấy là chưa kể ông còn viết rất nhiều lời tựa, lời bình các tác phẩm văn thơ được chép trong nhiều sưu tập khác nhau, và soạn nhiều bài văn bia, văn khắc trên chuông cho một số đình, chùa, nhà thờ họ, từ chỉ ... như Hậu Phật bi ký (nhà thờ họ Nguyễn ở thôn Thượng, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội); bài minh trên chuông chùa Phan Long thôn Đức Cung thuộc huyện Bình Xuyên, phủ Phú Bình; bài văn bia từ chỉ Tư văn huyện Bình Tuyền... Số tác phẩm này đã may mắn thoát khỏi cảnh đình phá, chùa đổ, bắc ao, rải đường, nung vôi, xây cống để đến với chúng ta ngày nay, mà tấm bia “Từ chỉ Tư văn huyện Bình Tuyền” của Tiến sĩ Phạm Quý Thích soạn là một ví dụ cụ thể.

Đây là tấm bia 2 mặt, khổ 94´65cm, trán bia mặt 1 chạm mặt trời hai vòng, xung quanh mây lửa, rồng cách điệu, hai góc trên hai bên trán bia chạm hoa văn hình học, riềm bia xung quanh chạm hoa dây thanh tú. Lòng bia có kích thước 72 ´ 55cm, trên cùng là 1 hàng chữ Triện to, gồm 11 chữ sau đây “Tân Tị niên Bình Tuyền huyện Minh nghĩa bi ký” (Bài ký bia “Sáng tỏ đạo nghĩa” huyện Bình Tuyền, dựng năm Tân Tị). Sau đó là phần nội dung bài ký với 17 dòng chữ Hán (dòng ít nhất 9 chữ, nhiều nhất là 27 chữ) và 3 dòng chữ ở dưới góc trái đề tên người soạn, người viết..., tổng cộng chừng 400 chữ Hán khắc chân phương, mềm mại, khoảng cách giữa các dòng và giữa các chữ thưa rộng, thoáng đãng.

Bia được dựng vào ngày lành tháng giữa xuân (tháng 2) năm Hoàng triều Minh Mệnh 2 (1821), tức 4 năm trước khi Phạm Quý Thích qua đời.

Theo nội dung văn bia, thì bia được lập trong dịp xây dựng Từ chỉ hàng huyện của huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên (sau đổi là tỉnh Thái Nguyên). Ngôi Từ chỉ này, theo văn bia cho biết, được làm trên đất thôn Đức Cung, xã Linh Quang. Nhưng khi chúng tôi về địa phương làm công tác sưu tầm tư liệu Hán Nôm vào hạ tuần tháng 10 năm 1998 vừa qua, thì không biết ngôi Từ chỉ đã bị phá hủy từ bao giờ, may sao tấm bia quý giá của Từ chỉ đã được nhân dân địa phương đem về chôn ở trước vườn chùa, phía sau đình Đức Cung, nhờ vậy mà chúng tôi còn có dịp in rập được. Xét thấy đây là một Bài văn bia có giá trị của một nhân vật nổi tiếng, chúng tôi xin dịch ra để bạn đọc cùng tham khảo.

Bia đình thôn Đức Cung, xã Cao Minh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú.

Dịch nghĩa: Bài ký “Sáng tỏ đạo nghĩa” của huyện Bình Xuyên(1) dựng năm Tân Tị.

Bài ký bia từ chỉ(2) của Hội Tư văn(3) huyện Bình Tuyền. Việc thờ tiên hiền(4) đã có từ lâu rồi vậy. Đó là việc làm nhằm biểu dương khuôn mẫu của các bậc tu dưỡng đời trước, vun trồng thanh danh trong lớp hậu tiến đời sau, có quan hệ tới sự xây đắp phong tục tốt đẹp trong nhân dân, há có thể xem nhẹ được sao?

Nước Hoàng Việt ta từ xưa đã là một nước văn hiến. Từ quốc đô cho tới các lộ(5) đều có người đi học, tuế thời phụng thờ tiên thánh(6). Dưới cho tới các huyện ấp, phần nhiều đều có xây dựng Từ chỉ để thờ các vị tiên hiền.

Đất Thái Nguyên tuy gọi là ngoại trấn, nhưng từ xưa vốn đã nổi tiếng là một châu thanh giáo(7). Đến thời cựu Lê Trung hưng, những vị khoa danh hoạn nghiệp(8) đời trước đều còn rành rành, có thể khảo được. Đến nay những người đi học chưa từng bao giờ thiếu vắng, nên việc thờ tiên hiền cũng chưa từng bao giờ bị phế bỏ vậy.

Huyện Bình Tuyền từ trước vốn chưa có Từ chỉ. Còn ở các thôn ấp trong huyện thì tùy nơi có đặt đàn tế lễ. Gần đây thì đổi sang việc thờ Tiên thánh, định xây dựng ở thôn Đức Cung xã Linh Quang(9) để tuế thời tế lễ. Có các ông Dương Tuấn Ngạn, Nguyễn Duy Kỳ, Vũ Đình Sủng cùng mọi người trong Hội Tư văn bản huyện bắt đầu tiến hành xây dựng ngôi Từ chỉ tại đất ấy, và đến tôi xin bài văn bia cùng hỏi han việc thờ tự.

Tôi nghe nói, kẻ sĩ noi theo người hiền, người hiền noi theo bậc thánh, bậc thánh noi theo đạo trời, nên việc thờ thánh tất là ở người đi học, mà noi theo bậc thánh tất là ở người hiền. Ta cứ theo đúng lệ cổ đó thôi. Người khách đứng bên cạnh nói: “Ngài nói đúng lắm. Nhưng theo ý kiến của tôi, việc thờ tiên hiền chỉ là thờ các vị khoa mục đời trước, có đúng như vậy mà thôi chăng?” Tôi trả lời: “Những người trong khoa mục vốn chưa hẳn tất cả đều đã là người hiền. Nhưng người hiền thì chưa ai lại không từ khoa mục mà ra. Cái ý của Nhà nước chọn lấy kẻ sĩ có lẽ cũng là như vậy, theo lễ lại không đúng hay sao?”

Ngày nay đất nước thống nhất(10), văn hóa giáo dục đang được đề cao, thì việc xây dựng ngôi Từ chỉ này là rất thích hợp với thời nay. Ngôi Từ chỉ này, cảnh quan mới mẻ, nhà cửa cao ráo, là nơi lựa chọn nghĩa nhân và sùng chuộng bạn tốt, lấy điều hay làm thầy, để giúp cho thành tựu nhân tài và làm cho phong tục trở nên tốt đẹp. Từ nay về sau, người nhân sĩ miền núi(11) ra sức ganh đua với kẻ hiền sĩ miền xuôi(12), không bao giờ có thể sánh với thời này được vậy”. Người khách thưa rằng: “Vậy nhân đây xin ngài viết cho bài ký”.

Ngày tốt thượng tuần tháng Trọng xuân (tháng 2) năm Hoàng triều Minh Mệnh 2 (1821) dựng bia.

- Thị trung Học sĩ, Cựu Lê triều Tiến sĩ Phạm Quý Thích soạn.

- Bản huyện Tư văn, Tri huyện Dương Tuấn Ngạn viết.

- Danh sách họ tên, quê quán các vị Trùm trưởng Tư văn bản huyện liệt kê ở mặt sau bia(13).

CHÚ THÍCH

(1) Huyện Bình Xuyên: Tên một huyện thời Minh Mệnh thuộc phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên, nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú. Trước đó gọi là Bình Tuyền.

(2) Từ chỉ: nơi thờ các vị tiên hiền, những người trong làng đỗ đạt trong các kỳ thi Nho giáo trước đây, để khuyến khích những người đi học. Còn gọi là Văn chỉ.

(3) Hội Tư văn: Hội quần chúng của những người học chữ Nho, các nhà khoa bảng theo đạo Khổng thời xưa mà hoạt động chủ yếu là tổ chức tế lễ Khổng Tử, bình thơ bình văn, mở trường dạy học, khuyến khích học tập v.v...

(4) Tiên hiền: chỉ các vị học chữ Nho, đỗ đạt các khoa thi chữ Nho, quê quán ở trong làng mà họ tên được ghi trong bia Từ chỉ thời xưa.

(5) Lộ: tên một đơn vị hành chính thời Trần, tương đương với tỉnh ở đời sau.

(6) Tiên thánh: chỉ Khổng Tử, ông tổ của đạo Nho, được thờ trong các Văn miếu ở Kinh đô và hàng tỉnh thờ xưa.

(7) Thanh giáo: có tiếng tăm về văn hóa, giáo dục, ở đây tương đương với các từ “văn hiến”, “văn minh”.

(8) Khoa danh hoạn nghiệp: chỉ những nhà khoa bảng đỗ đạt trong các kỳ thi Hội thời xưa và sự nghiệp làm quan của họ.

(9) Thôn Đức Cung xã Linh Quang: thời Minh Mệnh thuộc tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền (Bình Xuyên), phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên. Nay là thôn Đức Cung, xã Cao Minh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.

(10) Đất nước thống nhất: dịch thoát chữ “xa thư cộng đạo” trong nguyên bản, có xuất xứ từ câu trong Lễ ký - Trung dung: “Kim thiên hạ xa đồng quỹ, thư đồng văn” (Ngày nay thiên hạ xe cùng một loại trục, chữ cùng một lối viết) chỉ đất nước thống nhất, mọi chế độ đều thống nhất chung trong cả nước.

(11), (12) Miền núi, miền xuôi: dịch thoát các từ “bắc phương” và “trung châu”, trong bài có ý chỉ miền núi và miền xuôi.

(13) Mặt sau tấm bia này có khắc họ tên một số vị có chân trong Hội Tư văn bản huyện, nhưng chữ mờ nhiều, không đọc hết được, nên chúng tôi không dịch.

TB

ĐIỀU ƯỚC DÒNG HỌ TRONG MỘT SỐ VĂN BIA TỪ ĐƯỜNG HUYỆN KIẾN THỤY

NGUYỄN THỊ KIM HOA

Trong đời sống làng xã Việt Nam, dòng họ có ý nghĩa rất lớn đối với từng gia đình và từng thành viên trong nội tộc. Mỗi gia đình nhỏ tìm thấy ở cộng đồng cùng huyết thống một chỗ dựa lớn lao về tinh thần. Sức mạnh của tinh thần ấy một phần thể hiện ở những quy định mà ngày nay có thể coi là nét đẹp văn hóa của dòng họ. Khi tiếp cận với những thác bản bia của huyện Kiến Thụy hiện tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tôi đã may mắn được đọc một số điều ước dòng họ ở trên bia từ đường nơi đây.

Người xưa khi đề ra những quy định trong nội tộc, mục đích là mong muốn giữ cho dòng họ mình luôn gắn bó, đoàn kết yêu thương lẫn nhau, giữ nền nếp hiếu đễ, kính trên nhường dưới. Những quy định này gần như là phép tắc của dòng họ, nhờ có nó mà các dòng họ một khi đã phát triển đông đúc năm chi bảy phái, vẫn có khả năng giữ gìn được trên dưới thống nhất, chặt chẽ như một. Điều đầu tiên mà dòng họ quan tâm là việc cúng giỗ ông bà tổ tiên và chăm lo phần mộ sạch sẽ cao ráo. Bia “Nguyễn thị từ đường bi ký” của họ Nguyễn thôn Tú Đôi xã Kiến Quốc có khắc điều ước thứ nhất: “Đệ niên quý đông nhị thập tam nhật Mão khắc gian, từ đường cổ hiệu tịnh tựu cử hành tảo mộ. Khiếm giả phạt lang phù. Các phái tùy nghi biện lễ yết cáo. Trưởng tộc nhật hương đăng phụng tự. Chí minh niên, chính nguyệt thập lục nhật công tộc biện lễ bái yết. Thập thất nhật các phái biện lễ đệ tựu từ đường chỉnh tề y mạo hành lễ. Thảng hà nhân biệt hữu duyên cố thính tương lang phù cáo khiếm. Vi giả phạt tiền tam mạch”. Có nghĩa là: “Hàng năm vào tháng cuối đông (tháng 12), ngày 23, khoảng giờ Mão, khi có hiệu trống ở nhà từ đường, thì tất cả mọi người cùng đến làm lễ tảo mộ. Ai vắng mặt, phạt trầu cau. Các phái tùy nghi biện lễ cáo yết tổ tiên. Vị Trưởng tộc phải biện đèn hương tế lễ. Tới năm sau, ngày 16 tháng Giêng cả họ sẽ biện lễ bái yết. Ngày 17 các phái biện lễ, tập trung ở nhà từ đường, áo mũ chỉnh tề làm lễ. Nếu người nào có lý do riêng thì cho phép mang trầu cau đến xin được vắng mặt. Ai vi phạm, phạt tiền 3 mạch”. Nhớ đến tổ tiên vì tổ tiên là cái gốc để gắn bó các chi nhánh lại với nhau, làm cho dòng họ ngày một vươn xa phát triển. Điều quy ước này đã tạo điều kiện cho con cháu các chi phái gặp gỡ nhau trong giờ phút thiêng liêng cùng hướng về tổ tiên. Đây có thể nói là một tập quán báo hiếu rất có ý nghĩa của các dòng họ trên đất Việt.

Trong dòng họ, cùng với việc báo hiếu tổ tiên, những người đã khuất, là việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa những người còn sống. Hai việc này đã khiến cho dòng họ gắn bó với nhau không những trong đời sống tinh thần mà cả trong đời sống vật chất. Người nào thực sự đói nghèo sẽ được dòng họ cưu mang giúp đỡ. Tấm bia trên còn khắc: “Tộc nhân bất hạnh bị nạn giả tự tường bản tộc dung. Quả nghi bang trợ giả, bản tộc hội thủ công tiền chiểu thứ cấp hứa”. Có nghĩa là: “Trong họ ai gặp chuyện bất hạnh hoặc bị tai nạn đến trình bày báo với họ. Nếu quả là cần giúp đỡ, họ sẽ lấy tiền công chiểu theo vị thứ mà giúp cho”. Quy ước giúp đỡ nhau, dìu dắt nhau qua cơn hoạn nạn không chỉ đặt ra trong những người cùng huyết thống mà từ lâu nó đã là một trong những nếp sống “Thuần phong mỹ tục” của cộng đồng làng xóm Việt Nam. Việc dòng họ đặt ra quy ước này là phản ánh tình yêu thương “lá lành đùm lá rách” của cộng đồng họ mạc. Tuy vậy ý nghĩa giúp đỡ lẫn nhau trong dòng họ cũng có chỗ khác với sự giúp đỡ của làng xóm. Trong dòng họ sự giúp đỡ đó còn là trách nhiệm của những người cùng huyết thống, gìn giữ cho dòng họ ngày một đông, một mạnh, và là một cách báo hiếu với tổ tiên.

Trong những quy ước của dòng họ còn có những điều khoản về việc đóng góp cho công quỹ họ. Nếu không có quỹ chung thì hoạt động của dòng họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì thế cổ nhân đã khéo léo lo liệu cho dòng họ một quỹ chung bằng nhiều nguồn khác nhau. Bia Báo công sùng đức của họ Phạm thôn Du Lễ xã Kiến Quốc có điều ước: “Tộc nội hà nhân: văn Tú tài dĩ thượng, võ Chánh suất đội dĩ thượng, hào Chánh tổng dĩ thượng, thủ vọng ngân tam thập nguyên”. Có nghĩa là: “Người nào trong họ, văn đỗ từ Tú tài trở lên, võ từ chức Chánh suất đội trở lên, hào dịch từ Chánh tổng trở lên thì đóng tiền 30 đồng”. Việc đóng góp có lúc là nỗi lo về tiền bạc vật chất, nhưng với việc thăng quan tiến chức thì đóng góp cho dòng họ là chia sẻ niềm vui, niềm vinh dự mà nhiều người ao ước. Trong bia Nguyễn Thị từ đường bi ký ở thôn Tú Đôi, xã Kiến Quốc có khắc về việc đóng góp trong cưới xin như sau: “Tộc nữ xuất giá tại xã nội giả định thủ lan giai tiền nhất quán nhị mạch, tửu nhất bình, lang phù ngũ thập quả diệp. Tổng, huyện, phủ tiền tam quán, tửu nhất vu, lang phù nhất bách quả diệp”. Có nghĩa là: “Trong họ, con gái lấy chồng người trong xã nộp tiền cheo là 1 quan 2 mạch, rượu 1 bình, trầu cau 50 quả lá. Lấy chồng trong tổng huyện phủ nộp tiền 3 quan, rượu 1 vò, 100 lá trầu quả cau”. Việc đóng góp cho dòng họ khi đi lấy chồng phải chăng là một cách thể hiện lòng biết ơn đối với dòng tộc đã sinh ra mình, mà mình đã từng là một thành viên từ tấm bé. Bia Phạm tộc bi ký ở thôn Du Lễ, xã Kiến Quốc còn khắc điều lệ: “Hà nhân thập bát tuế xuất tiền nhất quán, túc nhất phương dĩ vi công tộc”. Nghĩa là “Ai đến 18 tuổi đóng góp 1 quan tiền, 1 phương thóc làm quỹ chung của dòng họ”.

Trên bia dựng ở tứ đường của các dòng họ còn khắc một số quy định về hoạt động chung cũng như nề nếp sinh hoạt trong gia tộc. Bia Nguyễn thị từ đường bi ký ở thôn Tú Đôi, xã Kiến Quốc có khắc điều lệ: “Tộc nội văn từ đường cổ hiệu nhất thông lục thanh, tôn trưởng ti ấu tịnh tựu thỏa nghị sự, vô đại tiểu vô đắc chuyên hành, các do tôn trưởng thính đoán. Nhược vi giả phạt tiền nhất quán nhị mạch tịnh lang phù”. Có nghĩa là: “Nếu nghe một hồi 6 tiếng trống ở từ đường, cả họ trên dưới già trẻ đều đến họp bàn. Bất cứ việc to, việc nhỏ không được độc đoán, tất cả phải do các vị tôn trưởng nghe rồi xem xét quyết định. Ai trái phạt tiền 1 quan 2 mạch và trầu cau”. Qua đoạn văn trên, chúng ta thấy vai trò của các vị tôn trưởng rất quan trọng trong dòng họ cho nên cũng có những quy định rất chặt chẽ về vị trí thứ bậc. Bia trên còn khắc điều lệ: “Tộc nội ân dĩ tương ái, văn dĩ tương tiếp. Ư yến hội thời hoặc vi tửu sử hoặc trí thế lăng hoặc tọa thứ thất tự giả, phạt tiền nhất quán nhị mạch, lang phù tam thập quả diệp”. Nghĩa là: “Trong dòng họ yêu mến nhau bằng ân nghĩa, đối xử với nhau lễ phép lịch sự. ở chỗ yến hội ai bị rượu sai khiến, ỷ thế làm nhục người khác, hoặc ngồi không đúng vị thứ thì phạt 1 quan 2 mạch tiền, và 30 quả cau lá trầu”. Việc trưởng thứ có phân minh, thì việc gia đình mới thu xếp ổn thỏa. Bia Phạm tộc bi ký ở thôn Du Lễ, xã Kiến Quốc có khắc điều lệ: “Hà nhân tương tranh tương sủy, lệ mạ tổ tiên, bản tộc tróc phạt tiền thập ngũ quán, xuy lục thập thị trưng”. Nghĩa là: “Ai trong họ mà tranh chấp nhục mạ đến tổ tiên thì sẽ bị phạt tiền 15 quan, đánh 60 roi cho mà biết”. Luật lệ của dòng họ rất nghiêm đối với những người sống buông thả. Bia Nguyễn thị từ đường bi ký ở thôn Tú Đôi, xã Kiến Quốc khắc điều lệ: “Tộc nội hà nhân du thiết nhân tài vật, tróc đắc trực tang giả định phạt tiền tam quán lục mạch tịnh phù tửu, suy tam thập thị trưng, chiếu tang bồi thường y số”. Có nghĩa là: “Trong họ có ai ăn trộm của cải của người khác mà bắt được quả tang, quy định phạt tiền 3 quan 6 mạch cùng trầu rượu, phạt 30 roi cho mà biết. Chiểu theo tang vật bắt bồi thường đầy đủ.” Quy định của dòng họ là lời răn trước đối với những ai có ý định, và thi hành việc xử phạt nghiêm túc với những ai đã vi phạm. Bị phạt nộp tiền thậm chí đánh đòn bằng roi trước mắt mọi người đã là một sự đau đớn, nhưng đau đớn hơn là sự chê cười của anh em họ hàng làng xóm. Xã hội, cộng đồng huyết thống khen hay chê là sức nặng tâm lý rất ghê gớm đối với cá nhân vi phạm.

Khi đặt ra những quy định của dòng họ, các bậc tiền nhân đã tổng kết những nguyên tắc sống chuẩn mực của nhiều đời trước, nó được dòng họ chấp nhận như hệ thống tiêu chuẩn đạo đức chung và vi phạm vào những quy định này sẽ gặp phải sự phản đối quyết liệt của mọi người. Khoán ước dòng họ tồn tại lâu dài từ đời này sang đời khác chính là nhờ sự đồng tình và ủng hộ của mọi người trong cộng đồng dòng họ. Xét về khía cạnh giáo dục, khoán ước dòng họ đã đóng góp một phần không nhỏ cho xã hội. Phép tắc gia phong được ghi rõ ràng từng khoản trong bia đá để truyền nối lâu dài, được các thế hệ nghiêm túc thực hiện. Đây là bài học nếp nhà từ thuở ấu thơ cho mỗi người trong gia đình. Sự giáo dục của gia đình và dòng họ từ nhỏ sẽ rất quan trọng đến nhân cách và hành vi của con người trưởng thành sau này. Sự giáo dục trong gia đình cũng rất quan trọng với một quốc gia, bởi chỉ khi nào là người con tốt, có giáo dục trong gia đình thì mới có thể là người công dân tốt của xã hội.

Tất nhiên do hạn chế lịch sử, trong các điều ước của các dòng họ nói trên cũng có không ít những điểm nay đã bị thời đại vượt qua.

TB

VỀ TẤM BIA ”PHỤ KÝ” TRONG
VĂN MIẾU BẮC NINH

NGUYỄN QUANG KHẢI

Bia Phụ ký hiện đang có trong nhà tiền tế tại Văn Miếu Bắc Ninh. Nó được xếp đứng vị trí số 9, ở phía bên tay trái theo hướng từ phía ngoài nhìn vào. Nhưng đúng ra, nó phải được đứng ở vị trí số 6, hàng bên trái, theo hướng từ phía trong nhìn ra cửa, bởi vì, ngay trên diềm bia phía phải có hàng chữ còn khá rõ: "Tả, đệ lục bia” (nghĩa là bia số 6, phía trái).

Cũng như các bia Kim bảng lưu phương khác, bia Phụ ký được khắc vào tháng 10 năm Kỷ Sửu (1889) niên hiệu Thành Thái và có số đo lòng bia là 110 x 75cm. Trán bia hình cong, chạm hình lưỡng long chầu nguyệt. Diềm bia để hẹp, để trơn. Trong lòng bia có 14 hàng chữ chính khắc cả họ tên, hoặc họ, hoặc tên của 46 người đỗ đại khoa từ thời Trần đến thời Nguyễn của tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn (bao gồm cả tỉnh Bắc Giang và hai huyện Văn Giang, Gia Lâm, Đông Anh ngày nay). Trong các hàng chữ đó, tên khoa thi và họ tên người đỗ được khắc chữ to, còn các thông tin khác thì khắc chữ nhỏ.

Như tên gọi của nó, Bia Phụ ký ghi chép lại họ tên, quê quán, học vị, chức tước của 45 vị ở tỉnh Bắc Ninh từ thời Trần đến thời Nguyễn mà nhiều người trong số đó không thấy được chép trong các sách Đăng khoa lục và Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu Huế. Mục đích của việc soạn bia Phụ ký được người soạn văn bia thể hiện ở ngay những dòng đầu của văn bia:

"Từ thời Lê Hồng Đức (năm 1484) bắt đầu dựng văn bia các vị Tiến sỹ khoa mục ở Quốc Tử Giám. Học theo người xưa, [chúng tôi] biên chép những chỗ thiếu khuyết ít nhiều ở các khoa Hoành từ. Xét Sử ký, khi nhà Lê mới bắt đầu lập nước cho đến Trung hưng, ở tỉnh ta chắc đã dựng bia các vị thần đồng khoa mục rồi. Đến khi di chuyển, có bia thất lạc đi. Vậy xin cẩn thận biên chép bổ sung, việc làm này cốt để chấn hưng việc học cho người tỉnh Bắc,..."

Tìm hiểu danh sách 46 vị Tiến sĩ có trong bia "Phụ ký", chúng tôi thấy như sau:

- Có 33 vị không thấy chép trong các sách Đăng khoa lục và cũng không thấy có tên trong các bia ở Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu Huế.

- Có 16 vị được ghi đủ cả họ, tên, học vị, quê quán, chức tước.

- 12 vị khuyết danh chỉ ghi được họ, học vị, quê quán.

- 3 vị khuyết cả họ, tên, chỉ ghi được chức quan, quê quán.

- Có 3 vị ghi là đỗ Trạng nguyên, nhưng cả 3 vị này không thấy được ghi chép ở bất kỳ tài liệu nào, kể cả văn bia Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu Huế.

- Có 12 trường hợp thấy ghi trong các sách Đăng khoa lục nhưng giữa những tài liệu trên và bia Phụ ký có nhiều chi tiết không thống nhất.

Sau đây là danh sách 46 vị Tiến sĩ được chép trong bia Phụ ký:

1. Trần Đăng Tập, người xã Bình Lâm, huyện Yên Phong, đỗ Thái học sinh khoa Bính Dần, thời Trần Thiệu Long (1266). Thấy trong Biệt lục ghi là Thám hoa.

2. Đào Toàn Mân, người xã Song Khê, huyện Yên Dũng, đỗ Tiến sĩ thời Trần. Ông là cha của Đào Trạng nguyên (Đào Sư Tích). Nhà ở xã Cổ Lễ, huyện Nam Trực (Nam Định). Làm quan đến chức Quản tri phiên hình viện. Xem trong quốc sử có thờ ở huyện Nam Trực, huyện Tư Vi làm hiền thần, phiên chức, khoa đó đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ.

3. Trạng nguyên Đặng Xuân, người xã Lãm Sơn Đông, huyện Quế Dương, trong chùa có tượng Trạng nguyên; trong núi có mộ, không biết ở triều nào.

4-5. Hai vị Hàn lâm triều Trần, ở xã Lạc Thổ. Nhưng tại sách Siêu Loại huyện phả đại khoa đều không có họ tên.

6. Trạng nguyên Nguyễn: trong sách Siêu loại, Yên Việt hương phả khuyết tên.

7. Thái Dương điện Hành khiển: trong Tế Giang, Như Phượng hương phả khuyết tên. Người xã Đại Nhiệm, huyện Tế Giang.

8. Trần triều Thái học sinh Trần (khuyết tên), người xã Đan Nhiệm, huyện Tế Giang.

Những vị dưới đây, theo Đoàn tiên sinh ở xã Đại Hạnh, thì đều thấy chép trong Tế Giang huyện phả:

9. Thái học sinh Trương (khuyết tên), người Đa Ngưu, Tế Giang.

10. Thái học sinh Nguyễn Công Cao, người Đan Nhiệm, Tế Giang.

11. Thái học sinh Đỗ Mỹ, người Đan Nhiệm, Tế Giang.

12. Thái học sinh Nguyễn Kiều, người Đan Nhiệm, Tế Giang.

13. Thái học sinh Hoàng Công Trù, người Đan Nhiệm, Tế Giang.

14. Thái học sinh Đỗ (khuyết tên), người Ôn Xá, Tế Giang.

15. Nguyễn (khuyết tên) Tiến sĩ thời Hồ, người Đại Quan, Tế Giang.

16. Nguyễn Như Đỗ, Bảng nhãn thời Lê, người Đại Quan, Tế Giang, đỗ Hội nguyên, 3 lần đi sứ, làm đến Thượng thư, Thiếu bảo.

17. Phạm Quốc Trinh, đỗ Tiến sĩ, người Đại Quan, Tế Giang.

18. Nguyễn Như Huân, đỗ Tiến sĩ, người Đại Quan, Tế Giang.

19. Phạm Phúc Chiếu, đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ, người Từ Hồ, Tế Giang (trước kia thuộc huyện Đông An).

20. Ngô (khuyết tên), đỗ Tiến sĩ, người Đại Hạnh, Tế Giang.

21. Trình Chí Sâm, đỗ Tiến sĩ, người Từ Hồ, Tế Giang.

22. Nguyễn (khuyết tên), đỗ Tiến sĩ, người Từ Hồ, Tế Giang.

23. Nguyễn Tuấn, đỗ Tiến sĩ, người Đại Quan, Tế Giang.

24. Phạm(khuyết tên), đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ, người Nhân Vực, Tế Giang.

25. Lê San, đỗ Bảng nhãn, người Chử Xá, Tế Giang.

26. Nguyễn (khuyết tên), đỗ Tiến sĩ, người Đại Quan, Tế Giang.

27. Nguyễn Xuân Vịnh, đỗ Tiến sĩ, người An Phú, Tế Giang.

28. Đoàn Duy Tĩnh, đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ, người Đại Hạnh, Tế Giang.

29. Bùi Quang Thu, đỗ đồng Tiến sĩ, người Lũng Khê, Siêu Loại (thấy trong Hương hiền phả)

30. Nguyễn Doãn Khâm, người Đại Lai, Gia Định, đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1559) niên hiệu Mạc Quang Bảo, làm quan đến chức Thượng thư, kiêm Đô ngự sử, tước Nghiêm Sơn hầu.

31. Vũ Đăng Long, người Yên Việt, huyện Siêu Loại, đỗ đồng Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1676) triều Lê Vĩnh Trị. Ông là hậu duệ của Vũ Trạng nguyên (Vũ Kiệt), trước đây ở phường Công Bộ, huyện Quảng Đức (Hà Nội), làm quan đến chức Tham chính.

32. Nguyễn Danh Diên, người xã Nghiêm Xá, huyện Quế Dương đỗ đồng Tiến sĩ khoa Đinh Dậu thời Lê, làm quan đến chức Hiến sát. Trong ấp có bia đá cổ vẫn còn.

33. Nguyễn (khuyết tên) hiệu Mặc Trai đỗ đồng Tiến sĩ, người xã Vĩ Vũ, huyện Vũ Ninh, làm quan đến chức Hưng Hóa Thừa sứ (thấy trong Hương hiền phả).

34. Nguyễn (khuyết tên) hiệu Tĩnh Trai, đỗ đồng Tiến sĩ, người xã Cổ Mễ, huyện Vũ Ninh, làm quan đến chức Giám sát Ngự sử (thấy trong Hương hiền phả).

35. Lê Tô, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ khoa Hoành từ triều Lê, làm quan đến chức Hàn lâm hiệu thảo (thấy trong Việt thi tuyển).

36. Hoàng Tùng Xuyên, người xã Tam á, huyện Siêu Loại, đỗ khoa Hoành từ, làm quan đến chức Lạng Sơn chuyển vận sứ (thấy trong Hương hiền phả)

37. Bình Trực (khuyết họ) người xã Đại Đồng, huyện Siêu Loại, đỗ khoa Hoành từ, làm quan đến chức Sơn Tây Giám sát (thấy trong Hương hiền phả).

38. Dương Công Chử, người xã Phương Quang, huyện Siêu Loại, đỗ khoa Hoành từ (thấy trong Hương hiền phả).

39. Lê Đốc Cung, người xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, đỗ khoa Hoành từ (thấy trong Hương hiền phả).

40. Nguyễn Kim Hoành, người xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, đỗ khoa Hoành từ (trong Hương hiền phả).

41. Lâm (khuyết tên) người xã Ngọ Kiều, huyện Gia Lâm, đỗ khoa Hoành từ (thấy trong Hương hiền phả).

42. Trần Y Trạch, người xã Bảo Triện, huyện Gia Định, được vua Lê Cảnh Hưng ban tặng Thần đồng Trạng nguyên, làm quan đến chức Nhập thị nội Học sỹ, tặng Đông các Đại học sỹ, tước Khuê Hoàn bá.

43. Hoàng Tế Mỹ, người xã Đông Bình, huyện Gia Bình, đỗ Đình nguyên đệ nhị giáp Tiến sỹ, khoa Bính Tuất (1826) triều Minh Mệnh. Ông là con Thuận Đình hầu Hoàng Nguyên Thự. Đi sứ, làm quan đến chức Tham tri tặng Thượng thư.

44. Hoàng Tướng Hiệp, người xã Đông Bình, huyện Gia Bình, đỗ đồng Tiến sỹ khoa ất Sửu (1865) triều Tự Đức, là con Hoàng Thượng thư (Hoàng Tế Mỹ), làm đến Tuần phủ.

Phụ lục:

45. Dương Danh Thành, người xã Khắc Niệm, huyện Tiên Du, đỗ chính bảng kỳ thi Hội khoa Mậu Tuất (1838) triều Minh Mệnh, vì có việc nên không dự kỳ thi Đình.

46. Nguyễn Kim Anh, người xã Xuân Lôi, huyện Vũ Giang, đỗ chính bảng kỳ thi Hội khoa Nhâm Dần (1842) thời Thiệu Trị, vì bệnh nên không dự kỳ thi Đình.

Căn cứ vào những ghi chép trong bia Phụ ký, chúng tôi thấy người soạn văn bia đã dựa vào những tư liệu sau đây trong quá trình biên soạn:

- Đại Việt sử ký toàn thư.

- Việt thi tuyển.

- Phần Biệt lục trong các sách Đăng khoa lục.

- Siêu Loại huyện phả.

- Tế Giang huyện phả.

- Yên Việt hương phả.

- Lũng Khê hương hiền phả.

- Phương Quan hương hiền phả.

- Bát Tràng hương hiền phả.

- Ngọ Kiều hương hiền phả.

- Tam á hương hiền phả.

- Vĩ Vũ hương hiền phả.

- Cổ Mễ hương hiền phả.

- Đại Đồng hương hiền phả.

- Như Phượng hương phả.

- Bia đá ở Nghiêm Xá.

- Tượng trong chùa Lãm Sơn Đông.

- Truyền thuyết trong dân gian.

Tìm hiểu bia Phụ ký trong Văn Miếu Bắc Ninh, chúng tôi có mấy nhận xét như sau:

1. Trong quá trình soạn văn bia Phụ ký, các soạn giả đã tham khảo rất nhiều tài liệu, trong đó tài liệu được sử dụng nhiều nhất là các cuốn Huyện phả và các cuốn Hương hiền phả. Những cuốn Huyện phả Hương hiền phả này đa số được biên soạn vào thời Nguyễn, nhưng nội dung của chúng lại ghi chép về những vị đỗ đạt từ thời Trần, thời Lê. Cơ sở tư liệu để biên soạn những cuốn Huyện phả Hương hiền phả này chủ yếu là dựa vào trí nhớ của các vị cao niên trong làng ở thời điểm đó. Do đó, những tư liệu này khó tránh khỏi sự thiếu chính xác.

2. Tính thiếu chính xác trong các tư liệu trên có nguồn gốc tâm lý của người cung cấp tư liệu và biên soạn.

Trong quá trình đi thực tế về các làng ở Bắc Ninh, chúng tôi được tiếp cận với nhiều cuốn thần phả mà ở đó nhiều vị tổ nghề hoặc Thành hoàng được ghi là Tiến sĩ, nhưng tìm trong các sách Đăng khoa lục thì tuyệt nhiên không thấy. Xin đơn cử một số vị: 3 vị Thành hoàng làng Mão Điền, cụ Nguyễn Công Nghệ (tổ nghề đồng làng Quảng Bố), Hà Chiếu, Dương An Quý (Thành hoàng xã Nghĩa Phượng), Hứa Vĩnh Kiều (ông tổ nghề gốm Bát Tràng), Đào Trí Tiến (ông tổ nghề gốm Thổ Hà), Lưu Phong Tú (ông tổ nghề gốm Phu Lãng), Lý Dụng Quang (Thành hoàng làng Vạn Ty)...

Sở dĩ có sự ghi chép như trên đây là vì những người biên soạn thần phả và dân làng đều muốn vị tổ nghề hay Thành hoàng làng mình phải là người có danh vọng lớn. Có thể nói đó là tâm lý phổ biến của những người tiểu nông.

Cũng thuộc dạng tâm lý tiểu nông ấy, việc những người biên soạn Hương hiền phả và người biên soạn bia Phụ ký chép tất cả những vị không ở làng mình hoặc không rõ nguồn gốc vào đây cũng là điều dễ hiểu, và xét về mặt tình cảm thì họ có động cơ tốt, không đáng trách.

3. Từ hai nhận xét trên chúng tôi cho rằng một số vị có tên trong bia Phụ ký là không phải có học vị Tiến sĩ, Trạng nguyên và một số vị là Tiến sĩ lại không phải là người Bắc Ninh, Kinh Bắc.

TB

TỤC LỆ TẾ YẾN LÃO

SONG MAI

I. Tế yến lão

Làng Yên Lộc thuộc xã Hanh Gia, tổng Đô Bái trước Cách mạng tháng Tám, nay là thôn Yên Lộc thuộc xã Nga Yên, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, có phong tục “Lục thập bất nhập đình trung” nghĩa là người trong làng đến tuổi sáu mươi thì không phải ra đình hội họp bàn việc làng, nước nữa. Nhưng cứ đến ngày mười sáu tháng Giêng hàng năm thì nhân dân trong làng tổ chức “Yến lão”, rước các cụ ra đình làng bái yến (chúc thọ).

Ông ngoại tôi là Mai Thái Vận, khi được hưởng tuổi thọ nói trên, cũng được cùng các bô lão dự các buổi tế thọ hàng năm để đại biểu của làng chúc ba tuần rượu và nghe bài văn tế sống các cụ bằng văn Nôm như sau:

1. Mừng nay vận mở thanh hòa,
Muôn dân lê thứ(1) âu ca thái bình.
Bốn phương hải yến hà thanh(2),
Sương dầm khắp đất, cảnh tinh(3) sáng trời.
5. Đền rồng, gác phượng thảnh thơi,
Tôn thần(4) cao ngự thay trời huệ dân(5).
Nam sơn, Bắc đẩu thọ tuần(6),
Nhân thiên che khắp xa gần mọi nơi.
Trí thần sáng suốt muôn đời,
10. Rộng đem năm bức(7) phúc trời cho dân.
Vui về cảnh thọ đền xuân,
Xây nền đại lão thọ tuần thiên thu.
Trước mừng khánh trạch đàm phu(8),
Sau mừng đại lão tổng tù cát xương(9).
15. Rượu xuân dâng chén chỉ cuông (quang)(10),
Tiệc xuân mở trước thánh đường(11) phân minh.
Gọi là nhất phiến đan thầm(12),
Trước tôn thánh lễ, sau trình tôn ông.
Huệ thần vạn phúc du đồng(13),
20. Xin dâng đại lão thong dong khuyên mời.
ẩm hòa thực đức(14) thảnh thơi,
Qui linh hạc toán(15)tuổi trời thêm xuân.
Phúc trời mở để hậu nhân,
Dân yên lộc thịnh, lại tuần thọ mi(16).
25. Chữ rằng thọ khảo di kỳ(17),
Càn khôn phú tái lưỡng nghi tài bồi(18).
Sáu mươi, bảy tám chín mươi,
Cùng một trăm lẻ nên người Thái ông(19).
Mũ ni, gậy trúc, long chung(20)
30. Cờ tiên, rượu thánh hợp cùng vui chơi.
Kiều, Bành(21) tuế nguyệt thảnh thơi.
Nhà Nghiêu cửa Thuấn(22) là nơi thanh nhàn.
Yến dân(23) thế thế lệ thường,
Con con, cháu cháu thọ trường nối dâng.
35. Tung hô vạn tuế vang lừng,
Chúc thiên tử thọ cương lăng đời đời(24).

II. Nghi lễ tế yến lão (Ngày 16 tháng Giêng Âm lịch)

1. Khai lễ (Cũng bằng văn Nôm)
Trên Thánh thượng vạn niên thọ kỷ(25),
Dưới muôn dân thọ vực xuân đài(26).
Mừng dân ta được chữ thái lai,
Lòng kính lão ai ai cùng son sắt.
Nay xuân đến thọ duyên dâng đặt,
Xin Thái ông cất chén kim chi(27),
Chữ rằng xuân tửu giới mi(28).
2. Lễ thành (Văn Nôm)(29)
Ngôi hoàng cực(30) vạn niên thọ kỷ,
Nay xuân phong hòa khí khắp trời.
Mừng Thái ông tóc bạc da mồi,
Vì chữ đức nên thêm chữ thọ.
Bồ đào tửu tam tuần dĩ cụ(31).
Xin Thái ông ngọc bộ thản di(32),
Chữ rằng lão giả yên chi (33) (34).

CHÚ THÍCH

I-(1). Lê thứ : dân đen, dân thường, dân chúng.

(2). Hải yến hà thanh: ý nói khắp nơi sống yên ổn, thanh bình-đất nước thái bình.

(3). Cảnh tinh: sao sáng.

(4). Tôn thần: chỉ Thành hoàng.

(5). Huệ dân: ban phát ân huệ cho dân.

(6). Nam sơn Bắc đẩu thọ tuần: ý chỉ tuổi thọ cao, được lâu dài vĩnh viễn như sao Bắc đẩu, như núi Nam sơn. Có hàm ý như hai câu đề tựa của hai bức tranh khảm trai được treo đối xứng nhau ở nhà giàu có, quyền quý, lại có người già cao tuổi: “Phúc như Đông Hải - Thọ tỷ Nam sơn”.

(7). Năm bức: gồm đủ phú, quý, thọ, khang, ninh.

(8). Khánh trạch đàm phu: gần với nghĩa “Lục tuần khánh đản”, ngày lễ mừng đối với ông già được lên tuổi thọ.

(9). Tổng tù cát xương: tất cả là sự tốt lành, còn có hàm ý nói người có tuổi về già thường là trán cao dài và rộng, tức “Thượng đình trường” là “đại cát xương”, là đẹp đẽ tốt lành.

(10). Chỉ cuông (quang): đây là nói chén vàng, chén quý.

(11). Thánh đường: nơi đình làng thờ Thành hoàng.

(12). Nhất phiến đan thầm: một tấm lòng son.

(13). Vạn phúc du đồng: mọi người cùng được hưởng phúc đức.

(14). Ấm hòa thực đức: được hưởng sự hòa mục và phúc đức.

(15). Qui linh hạc toán: quy (rùa) và hạc là hai giống vật sống lâu, ý chỉ tuổi thọ cao.

(16). Thọ mi: nói người già thường lông mày mọc dài, chỉ tuổi thọ.

(17). Thọ khảo di kỳ: được hưởng tuổi thọ.

(18). Càn khôn phú tái lưỡng nghi tài bồi: Càn, Khôn: hai trong tám quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài trong Chu Dịch; Càn là thiên, là trời, trời bao giờ cũng khinh thanh tại thượng, Khôn là địa, là đất, đất bao giờ cũng trọng trọc tại hạ (theo Phan Bội Châu); lưỡng nghi: “tứ tượng sinh lưỡng nghi”... ở đây là nói nhờ trời đất che chở, phù trợ.

(19). Thái ông: chỉ các cụ bô lão.

(20). Long chung: tay chân không còn nhanh nhẹn nữa.

(21). Kiều Bành: tức Vương Kiều và Bành Tổ. Vương Kiều là một người tiên, giỏi pháp thuật, còn Bành Tổ thì nổi tiếng sống lâu.

(22). Nhà Nghiêu cửa Thuấn: Đời vua Nghiêu vua Thuấn ngày xưa sống trong một xã hội thanh bình, nhàn hạ và trong sạch.

(23). Yến dân: cỗ mừng thọ của dân đối với người già được hưởng tuổi thọ, cũng là tiệc mừng thọ các cụ và khao dân làng, việc này đã trở thành lệ của dân làng, được truyền nối mãi mãi.

(24). Thọ cương lăng: chỉ sự sống lâu.

II - (25). Vạn niên thọ kỷ: sống lâu muôn tuổi.

(26). Thọ vực xuân đài: đời thái bình thịnh trị.

(27). Kim chi: chỉ chén vàng.

(28). Xuân tửu giới mi: chén rượu xuân mừng thọ.

(29). Dâng ba tuần rượu và đọc bài văn tế yến lão xong, lại chúc các bô lão trước khi giải tán.

(30). Hoàng cực: chỉ thiên tử, vua.

(31). Bồ đào tửu tam tuần dĩ cụ: ba tuần rượu chúc mừng đã đầy đủ.

(32). Ngọc bộ thản di: đi bước thong dong thảnh thơi.

(33). Lão giả yên chi: làm cho người già được sống yên vui.

(34). Bài văn Tế yến lão này do người anh bên họ ngoại tôi ghi chép cho, kèm theo bản chữ Nôm viết tay, chữ viết thảo khá đẹp. Năm nay ông đã vào tuổi 85, vốn có chân trong hội Tư văn của làng, tuy không được cử vào xướng tế, nhưng ông lại ở trong hội nhạc, chuyên phục vụ tế lễ, nên ông được am hiểu nhiều điều và thuộc nhiều bài văn thuộc nghi lễ tế tự ngày trước ở làng. Rất tiếc là nay hai mắt ông đã bị lòa, không cầm bút viết được nữa, nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, sáng suốt và nhớ nhiều. Tôi lại chưa kịp hỏi được về lai lịch và ai là tác giả bài văn. Điều rõ ràng là nó có từ lâu lắm rồi. Rất có thể là ông bác (hàng ông) thuộc chi trưởng nối đời trưởng tộc họ tôi làm ra chăng, vì dân làng xưa kia thường gọi cụ là ông Tam trường, là thầy dạy chữ Hán cho con cháu trong họ, trong làng và cho cả vùng, hẳn phải là người giỏi chữ Hán, nhưng cụ lại chỉ cho truyền bá chữ Nôm, văn Nôm; hoặc có thể bài văn này có từ xa xưa đã được truyền tụng lâu đời và có in trong sách cũ mà tôi chưa được đọc. Bài văn trên đây, xét kỹ về nội dung chưa phải là đặc sắc lắm, nhưng theo tôi nghĩ, đây cũng là một vốn quý thuộc văn hóa truyền thống của ông cha ta xưa để lại cho lớp con cháu hôm nay, nên tôi đưa ra đây mong giúp ích cho các nhà nghiên cứu.

Hà Nội, Tết Kỷ Mão - 1999
Song Mai
(Sưu tầm và chú thích).

TB

CA DAO NỬA VIỆT, NỬA HÁN TRONG KHO TÀNG CA DAO VIỆT NAM

TẠ ĐĂNG TUYÊN

Ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống văn hóa, xã hội nước ta như thế nào đã được nhiều tác giả nói đến, và đó cũng là điều mà hầu như ai cũng nhận thấy. Song có một hiện tượng khá lý thú là trong kho tàng ca dao Việt Nam có một số ca dao nửa Việt, nửa Hán và dường như ít được nói đến. Nhân đọc cuốn Kho tàng ca dao người Việt (1), chúng tôi xin được lạm bàn đôi điều về vấn đề này. Đó là:

- Mục đích của việc ra đời những câu ca dao nửa Việt, nửa Hán ?

- Thành phần dân cư chủ chốt trong việc hình thành loại ca dao này?

1. Theo Mã Khắc Thừa(2) “... khoảng đầu thế kỷ XII, giới cầm quyền Việt Nam bắt đầu dùng chữ Nôm để ghi địa danh, tên làng, tên thôn, xóm; nhân dân thì dùng chữ Nôm để ghi tên người, tên đất trong các khế ước, văn bia”. Như vậy chữ Nôm đã ra đời cách đây rất lâu(3). Song suốt thời gian dài của lịch sử, chỉ có những khoảng thời gian ngắn ngủi dưới triều đại của Hồ Quí Li và Quang Trung, chữ Nôm mới được coi trọng và được dùng trong các văn bản chính thức của Nhà nước phong kiến. Còn phần lớn các triều đại khác, đều coi nhẹ chữ Nôm - thứ chữ “nôm na mách qué” - đề cao chữ Hán, coi chữ Hán là chữ nghĩa thánh hiền, là văn tự chính thống trong thi cử, trong việc điều hành guồng máy hành chính Nhà nước phong kiến. Trong bối cảnh như vậy, việc đưa vào ca dao một phần chữ Hán - mà phần lớn là những câu chữ lấy từ kinh sách - dường như ai đó là tác giả đầu tiên của những câu ca, muốn nhắm tới những mục đích sau:

- Trích dẫn phần chữ Hán nhằm tăng tính thuyết phục của câu ca, tương tự ngày nay nhiều người có thói quen, trong bài viết của mình, thường thích trích dẫn các tác giả đông tây về một vấn đề nào đó, hoặc các thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài (mặc dù trong tiếng Việt có thuật ngữ tương đương) rồi sau đó giải thích bằng tiếng Việt trong ngoặc đơn.

Thí dụ:

Đạo vợ chồng duyên kim nợ cải,
Thiếp thưa chi thưa mãi thưa hoài.
Giá thú bất khả luận tài,
(Không tính toán tiền nong trong việc hôn nhân)
Chớ có so đo tiền bạc đòi hoài cho to.

hoặc:

Vô dược khả y khanh tướng bệnh,
Hữu tiền nan mãi tử tôn hiền,

(Không có thuốc gì chữa được bệnh khanh tướng
Có tiền khó mua được con cháu hiền)
Bạc muôn khó chọn bạn hiền sánh đôi.
Ở trên trời có ngôi sao Bắc Đẩu,
Ở dưới hạ giới có con sông Giang Hà.
Sông Giang Hà chảy ra biển rộng,
Bắc Đẩu tinh quay ngõng chầu trời.
Tôi thương mình lắm mình ơi,
Biết sao kể nỗi khúc nhôi ớ mình.

- Vì một mục đích nào đó, trước là người sáng tạo ra câu ca, và sau là những ai sử dụng câu ca, họ muốn dùng chữ Hán, nhất là điển cố, để chứng tỏ sự học nhiều, biết rộng.

Thí dụ:

Kì mã phùng Bá Nhạc,
Bàng điểu ngộ lam phong.

(Ngựa hay gặp được Bá Nhạc - người giỏi xem tướng ngựa,
Chim đại bàng gặp được gió núi)
Qua muốn tường dạ đó đục trong,
Cho hay thuyền bưởi dạ bòng thuyền quyên.

hoặc:

Hữu bằng tự viễn phương lai,
Lạc hồ quân tử
lấy ai bạn cùng.

(nguyên là một câu trong thiên Học nhi, sách Luận ngữ: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ = Có người bạn từ phương xa đến há lại không vui mừng)

Chữ hiếu, chữ trung là thầy với mẹ,
Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân,
Yêu nhau bao quản xa gần !

hoặc nữa:

Nhân bất tri nhi bất uẩn,
Bất diệc quân tử hồ?

(Người ta không biết đến mình mà không giận há chẳng phải người quân tử hay sao - Luận ngữ)

Anh thương em ruột héo gan khô,
Trách ai phân rẽ Hán Hồ đôi nơi !

- Đôi khi người ta dùng cách chiết tự để, hoặc là như một thứ đố vui, hoặc nhắn nhe điều gì đó mà không tiện nói ra.

Thí dụ:

Hỏi chàng học sách Kinh Thi,
Nghìn người đứng viết chữ chi hỡi chàng ?
- Anh đây đọc sách cửu chương,
Nghìn người đứng viết chữ hương rõ ràng!
(Chiết tự chữ hương gồm thiên, nhân, viết)

hoặc:

Hỏi chàng học sách Kinh Thi,
Hai ngang hai phẩy chữ chi rứa chàng?
- Hai ngang hai phẩy chữ thiên,
Cho anh chấm chút cho liền chữ phu!

Trong xã hội phong kiến, một số người như thầy đồ, thầy cúng, thầy thuốc - những người ít nhiều có học chữ Hán, song không nghiêm túc trong cuộc sống - thường là các đối tượng bị đả kích trong các chuyện tiếu lâm, ca dao... Có lẽ cũng với hoàn cảnh như vậy, một số câu ca dao nửa Việt, nửa Hán nhằm làm tăng tính châm biếm, tính hài hước...

Thí dụ:

Xuân hề xuân bất tái lai,
(Xuân à, xuân không trở lại).
Thầy rằng thầy chẳng ăn khoai bao giờ!
Quân sư phụ tam cang giả,
(Thờ vua, thờ thầy, thờ cha là ba rường mối của người quân tử).
Qua chiếc đò đầy sóng ngã cứu ai ?
Thiếp hỏi chàng phân ra cho rõ, hai chữ sắc tài thiếp trao.
Thần hồn bất phụ thể,
Bình địa nổi phong ba,

(Trong lúc đất bằng nổi sóng gió, tâm trí rối bời)
Vớ đụng ai cứu nấy, về nhà thì hay.

- Song cũng không phủ nhận một điều, là trong các sách chữ Hán thuở xưa, có những câu đã trở thành kinh điển, được coi như châm ngôn. Nó phổ biến tới mức mà kể cả những người không biết chút gì chữ Hán cũng hiểu và nhớ, vì vậy nó đi vào ca dao một cách rất tự nhiên:

Thí dụ:

Đại phú do thiên, tiểu phú do cần,
(Giầu to do trời, Giầu nhỏ do chuyên cần)
Thức khuya dậy sớm tảo tần cho quen.

hoặc:

Ngọc bất trác bất thành khí,
Nhân bất học bất tri lí.

(Ngọc không mài rũa thì không thành đồ vật,
Người không được học thì không biết lí lẽ)
Bởi nghèo chịu chữ ngu si,
Phải chi có của lựa gì thua ai.
Nhân tham tài tắc tử,
Điểu tham thực tắc vong,

(Người tham tài thì chết, chim tham ăn cũng hết đời)
Làm người lánh đục tầm trong,
Anh không có dạ bưởi bòng gạt em.

2. Vậy tác giả đầu tiên của những câu ca này là ai? Có thể khẳng định ngay được đó là những người đã từng được “theo đòi nghiên bút”, họ có thể là một anh khóa, một ông tú nào đó. ở nông thôn (ngày nay vẫn còn tới 80% dân số là nông dân, vậy cách đây hàng thế kỷ, tỷ lệ này ắt rất cao) họ vừa là người trí thức, vừa là người nông dân. Do được học hành, biết chữ, được đọc sách nên họ có tri thức, song cuộc sống vẫn gắn với đồng ruộng nên tâm tư, tình cảm vẫn mộc mạc, giản dị. Vì thế những câu ca do họ làm ra nếu đã thực sự hoàn chỉnh, nó được tiếp nhận và lưu truyền trong dân gian; nếu chưa hoàn chỉnh, nó sẽ được “tập thể tác giả” tiếp tục gọt rũa. Với lí do đó những câu ca dao loại này có những nét riêng:

- Do tác giả câu ca là người có tri thức, nên hầu hết những câu ca dao, dù dài, dù ngắn thường mang tính triết lí.

Thí dụ:

Nhất diệp phù bình quy đại hải,
Nhân sanh hà xứ bất tương phùng?

(Một cánh bèo trôi nổi ra biển lớn,
Đời người không chỗ nào mà không gặp được nhau)
Bốn phương chi thiếu anh hùng,
Liễu mai em chọn bá tùng sánh duyên.

hoặc:

Minh quân lương tể tao phùng dị,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
.
(Vua sáng, Tể tướng tốt gặp nhau dễ,
Tài tử giai nhân gặp nhau khó)
Trời xui anh gặp bạn vàng,
Một lời phải nghĩa ngàn vàng khó mua.

- Song do gắn bó với những người lao động mộc mạc, nên tình cảm thể hiện trong câu ca cũng rất mộc mạc, ngồ ngộ, đáng yêu.

Thí dụ:

Đó tưởng lòng mình,
Mình tưởng nghĩa ta.
Chữ thất chữ gia nó là một chữ,
Chữ tâm chữ chí nó là một lòng,
Chữ dục là muốn, chữ tòng là theo
Anh thương em bất luận giàu nghèo,
Có ai gánh của lên đèo mà cân?
Dẫu mà thua sút đôi phân,
Trong sách có chữ phú bần tương lân.
(Người giàu, người nghèo gần gũi nhau)

hoặc:

Tao khang chi thê bất khả hạ đường,
Bần tiện chi giao mạc khả vong.

(Người vợ từ thuở nghèo khó không thể bỏ,
Người bạn từ khi nghèo hèn không thể quên)
Không xong anh đã nói không xong,
Ở cho hết dạ hết lòng cùng anh.

- Có lẽ nhiều người tham gia sáng tạo loại ca dao này là ông đồ hoặc có tính chất “ông đồ”, nên trong câu ca cũng phảng phất “khẩu khí” ông đồ:

Thí dụ:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên...

(Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ - thơ Trương Kế)
Đêm khuya nghe tiếng ai hỏi nhỏ bên thuyền,
Hỏi thăm quân tử vượt miền đi đâu?

hoặc:

Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng,

(Có duyên với nhau thì dù xa cách nghìn dặm cũng có thể gặp nhau,
Không có duyên với nhau thì dù đối mặt cũng không gặp gỡ)
Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng sao nên ?
Nhất nhật bất kiến như tam nguyệt hề
(Một ngày không thấy nhau như ba tháng xa cách)
Thăm em một chút anh trở lộn về,
Kẻo mà con trăng kia nó lặn, tứ bề núi non.

- Có nhiều câu rất giàu chất thơ ở cả phần chữ Hán lẫn phần chữ Việt:

Tửu năng hồng nhân diện,
Tài năng động nhân tâm.

(Rượu có thể làm đỏ mặt người,
Tài có thể làm chuyển lòng người)
Thế gian miệng nói không lầm,
Lụa tuy vóc trắng, vụng cầm cũng đen.

hoặc:

Thiếp tự thiên biên nguyệt,
Quân như lãnh thượng vân.

(Thiếp tựa trăng bên trời,
Chàng giống mây trên núi)
Tuy gần mà chẳng phải gần,
Cũng như biển Sở, non Tần cách xa.

Đọc cuốn sách hay, thấy có điều lạ (ấy là đối với tôi), nổi hứng mà viết nên ắt không tránh khỏi những điều ngộ nhận. Trong trường hợp đó, kính mong được hai chữ đại xá.

CHÚ THÍCH

(1) Kho tàng ca dao người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1995

(2) Chữ Hán ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 4(8), 5(9)- 1996.

(3) Theo Đào Duy Anh, chữ Nôm là chữ viết dân tộc ta đã dùng trong gần mười thế kỷ. Chứng tích xưa nhất của chữ Nôm là tấm bia đời Lý Cao Tông (1210) – Xem Chữ Nôm nguồn gốc - cấu tạo, diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975.

TB

NHỮNG CUỐN SÁCH GIÁO KHOA
TRUYỀN THỐNG CỦA TRUNG QUỐC DÀNH CHO LỨA TUỔI VỠ LÒNG
(1)

THẾ ANH

Trong thời đại nho học thịnh hành, ở Trung Quốc có nhiều loại sách “giáo khoa” dành cho lứa tuổi vỡ lòng còn được lưu truyền mãi đến ngày nay, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách của các tầng lớp nho sĩ đương thời. Thuở đó từ chốn Kinh kỳ hoa lệ đến những vùng nông thôn hẻo lánh, từ những bậc thức giả đến người dân quê bình dị, từ cụ già đến em bé, không ai là không thuộc lòng dăm bảy câu trong bộ “Tam, Bách, Thiên”. Có thể nói không cường điệu là ít có một cuốn sách nào lại được phổ cập và có ảnh hưởng sâu rộng đến thế. Gọi là bộ sách thì có vẻ to tát, đồ sộ, nhưng thực tế đó chỉ là những tập tài liệu mỏng chưa đầy 100 trang in cỡ giấy loại nhỏ, bao gồm:

1. Tam tự kinh,

2. Bách gia tính,

3. Thiên tự văn.

1) Tam tự kinh: là cuốn sách vỡ lòng chữ Hán lâu đời của Trung Quốc, gọi là “Tam tự kinh” vì sách gồm những câu ngắn 3 chữ, tương truyền tác giả là Vương Ứng Lân đời Tống và qua một quá trình lâu dài, cuốn sách đã được bổ sung, chỉnh lý của nhiều người để có được một nội dung phong phú và hoàn chỉnh như hiện nay(1). Đại khái cuốn sách có thể chia ra làm 6 phần với những nội dung chính như sau:

a) Từ “Nhân chi sơ, tính bản thiện” đến “Nhân bất học, bất tri lý”: nói về tầm quan trọng đối với việc dạy dỗ của người thầy và vấn đề học tập của con trẻ.

b) Từ “Vi hiếu tử, phương thiếu thời” đến "Thủ hiếu đễ, thứ kiến văn”: dạy cho các em phải hiếu thảo với bố mẹ, hòa thuận với anh em.

c) Từ “Tri mộ số, thức mộ văn” đến “Thử thập nghĩa, nhân sở đồng”: dạy những kiến thức phổ thông từ cách đếm đến thời tiết 4 mùa, ngũ hành, lục cốc, lục súc...

d) Từ "Phàm huấn mông, tu giảng cứu" đến "Văn Trung Tử, cập Lão Trang": giới thiệu những sách kinh điển của Nho gia và các trước tác của Chư tử

đ) Từ “Kinh sử thông, độc chư sử” đến “Tải trị loạn, tri hưng suy”: trình bày lịch sử phát triển và sự hưng vong của các triều đại Trung Quốc.

e) Từ “Độc sứ giả, khản thực lục” đến “Giới chi tai, nghi miễn lực”: giới thiệu những gương hiếu học điển hình cho các em noi theo.

Cuốn Tam tự kinh trình bày có hệ thống những kiến thức từ dễ đến khó, mang nội dung tích cực. Đó là lý do tại sao cuốn sách được tồn tại lâu dài và lưu truyền mãi đến ngày nay. Sách đã được dịch ra các thứ tiếng Nga, Nhật, Anh, Triều Tiên... Năm 1990 cuốn Tam tự kinh được tổ chức Văn hóa - Giáo dục của Liên hiệp quốc đưa vào bộ “Tùng thư đạo đức của nhi đồng” và phát hành rộng ở nhiều nước.

Để thừa kế và phát huy truyền thống giáo dục, ở Trung Quốc còn biên soạn cuốn Tân tam tự kinh(2), đưa thêm vào sách nhiều nội dung mới, bổ sung thêm các nhân vật lịch sử nổi tiếng trên các lĩnh vực tư tưởng, triết học, chính trị, văn học, nghệ thuật, khoa học... và nhất là các lãnh tụ cách mạng và anh hùng dân tộc của Trung Quốc nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Cuốn sách mở đầu bằng những câu:

Nhân chi sơ,
Như ngọc phác,
Tính dữ tình,
Câu khả sóc.
Nhược bất giáo,
Hành nãi thiên.
Giáo chi đạo,
Đức vị tiên.
...

và những câu cuối sách:

Hảo nhi nữ,
Tế tư lường.
Độc thử kinh,
Đương tự cường.
Thặng trường phong,
Xung thiên khởi.
Chấn Trung Hoa,
Tề nỗ lực.

Ở Việt Nam trước đây, cuốn Tam tự kinh cũng được phổ biến rộng rãi và dùng làm sách vỡ lòng cho những người học chữ Hán. Từ xa xưa cuốn sách đã được dịch ra văn vần, và dưới thời Pháp thuộc cũng có nhiều người dịch ra Quốc ngữ và xuất bản nhiều lần.

2. Bách gia tính: được biên soạn vào những năm đầu của Triều Tống, nhưng không rõ ai là tác giả. Tài liệu hiện hành tập hợp được 444 họ đơn và 60 họ kép được trình bày dưới dạng câu 4 chữ, có vần nên dễ nhớ, tuy không có liên quan với nhau về mặt ý nghĩa và nội dung. Mục đích của tài liệu là giúp cho trẻ con nhớ và nhận được mặt chữ. Cách trình bày theo nguyên tắc là “quốc tính” và những cự tộc được nêu lên đầu. Ví dụ triều Tống đứng đầu là họ Triệu và những câu đầu tiên là:

Triệu Tiền Tôn Lý,
Chu Ngô Trịnh Vương.
Phùng Trần Chử Vệ,
Tưởng Thẩm Hàn Dương.

Những họ kép chỉ có:
Mặc Kỳ, Tư Mã,
Thượng Quan, Âu Dương.
Hạ Hầu, Gia Cát,
Văn Nhân, Đông Phương,
Hách Liên, Hoàng Phủ,
Uất Trì, Công Dương.
...

Bách gia tính có ảnh hưởng rất lớn ở Trung Quốc và cũng được cải biên qua các triều đại. Chẳng hạn đời nhà Minh có Hoàng Minh thiên gia tính mở đầu bằng những câu:

Chu Phụng Thiên Vân,
Phú Hữu Vạn Phương.
Thánh Thần Văn Võ,
Đạo Hợp Đào Đường.
...

Đời Thanh dưới triều Khang Hy thì có Ngự chế bách gia tính và đề cao Khổng Mạnh, nên mở đầu bằng những câu:

Khổng Sư Khuyết Đảng,
Mạnh Tịch Tề Lương.
Cao Sơn Chiêm Ngưỡng,
Trâu Lỗ Vinh Xương.
Nhiễm Quí Tôn Chính,
Du Hạ Văn Chương.
...

Sau này nhiều người cho rằng số chữ trong Bách gia tính không nhiều, nên đã bổ sung và soạn thành Thiên tính thiên, Thiên tự tính văn hoặc viết thành những câu có đầy đủ ý nghĩa.

3. Thiên tự văn được biên soạn vào khoảng những năm 535 - 543 dưới thời Nam Triều. Tương truyền vua Lương Vũ Đế sai người chọn 1000 chữ trong tác phẩm của Vương Hy Chi để dạy thư pháp cho các Hoàng tử, sau đó vua sai Chu Hưng Tự dùng số chữ này để sáng tác ra những vần thơ có nội dung cụ thể. Chu Hưng Tự đã hoàn thành công việc sau một đêm và râu tóc đều bạc trắng, nhà vua phấn khởi và ban thưởng rất hậu cho tác giả.

Cuốn sách gồm 250 câu 4 chữ; căn cứ vào nội dung có thể chia ra làm 4 phần như sau:

a) Từ “Thiên địa huyền hoàng” đến “Lại cập vạn phương”: nói về lịch sử nhân loại từ khi khai thiên lập địa đến các thời Thương, Thang, Chu...; đề cập đến các hiện tượng tự nhiên như trời đất, trăng sao, mây mưa, thời tiết, kim loại, rau quả; những hiện tượng sông chảy, chim bay cho đến vấn đề phát triển của nhân loại cũng như các biến thiên của thời đại.

b) Từ “Cái thử thân phát” đến “Hảo tước tự ti”: nói về vấn đề tu dưỡng và rèn luyện bản thân, vấn đề đối nhân xử thế. Cụ thể làm người phải tận trung, tận hiếu, giữ gìn bản sắc, chú ý đến cả hành vi và lời nói...

c) Từ “Đô ấp Hoa Hạ” đến “Nham tụ diểu minh”: mô tả cảnh phồn hoa tráng lệ của hai Kinh thành (Lạc Dương và Tràng An), cảnh sinh hoạt của xã hội thượng lưu ở Kinh thành và những vấn đề về văn trị võ công, nói về lãnh thổ bao la cũng như phong cảnh mĩ lệ của đất nước.

d) Từ “Trị bản vu nông” đến “Ngu mông đằng tiếu”: nói về cảnh điền viên lạc thú, sống nhàn tản tự do và coi khinh danh lợi của những người đáng được ca ngợi.

Còn lại hai câu cuối “Vị ngữ trợ giả, Yên tai hồ dã” không có ý nghĩa gì đặc biệt.

Thiên tự văn cũng trải qua nhiều lần cải biên, đời Tống có Tự cổ thiên văn, đời Nguyên có Kê cổ thiên văn, đời Minh có Quảng dị thiên văn, Chính tự thiên văn, đời Thanh có Huấn mông thiên tự văn, Tục thiên tự văn...

Thiên tự văn đã được dịch ra các thứ tiếng Triều Tiên, Nhật, Anh, Pháp, La tinh, ý...

Ở Việt Nam trước đây vẫn dùng cuốn Tứ thể thiên tự văn (gồm chân, thảo, lệ, triện) làm mẫu để tập viết và luyện thư pháp.

Ngoài bộ “Tam, Bách, Thiên” đã tồn tại hàng ngàn năm nay, còn có những loại sách “Huấn mông” xuất hiện vào những thời gian sau, bổ sung cho nguồn sách “giáo khoa” cổ truyền của Trung Quốc như Đệ tử qui, Tăng quảng hiền văn...

Đệ tử qui được Lý Dục Tú biên soạn vào những năm Khang Hy đời Thanh với tên gọi là “Huấn mông văn”, sau đó Giả Hữu Nhân tu đính và đổi lại tên gọi là “Đệ tử qui”. Sách Luận ngữ có nói: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” (kẻ đệ tử khi vào thì hiếu, khi ra thì tôn kính các bậc huynh trưởng, khi làm việc thì phải cẩn thận và giữ lòng tin, yêu mọi người và thân cận với người có đức hạnh. Nếu còn dư sức sau đó mới học chữ - kiến thức văn hóa). Đó là tư tưởng chủ đạo của cuốn sách. Nội dung Đệ tử qui có 5 phần

1. Lời nói đầu

2. “Hiếu”, “đễ”.

3. “Cẩn nhi tín”.

4. Phải khoan dung, độ lượng với mọi người, gần bạn tốt, xa lánh kẻ tiểu nhân.

5. Vấn đề học tập, phương pháp học tập và tu dưỡng bản thân.

Tăng quảng hiền văn còn gọi là Tích thời hiền văn cũng xuất hiện vào đời Thanh, không rõ ai là tác giả. Nội dung cuốn sách tập hợp những lời hay ý đẹp của các tiên hiền và danh nhân, và cả những câu cách ngôn, tục ngữ lưu truyền trong dân gian, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống mà người xưa đã đúc kết được qua nhiều thế hệ, nó có ý nghĩa giáo dục và mang tính triết lý sâu sắc. Tăng quảng hiền văn rất được phổ biến ở Trung Quốc, trước đây trong các cuốn lịch hàng năm có in kèm theo văn bản này và xem như sách gối đầu giường của mọi nhà. Mặc dù thời đại hiện nay đã có những thay đổi lớn lao so với trước, nhưng một số điều giáo huấn trong cuốn sách thì vẫn còn giá trị, nó là những viên ngọc quí trong kho tàng văn hóa của nhân loại, chúng ta có thể chọn lọc tiếp thu để tu dưỡng bản thân, đồng thời vận dụng vào việc đối nhân xử thế cũng như quản lý và giáo dục con em trong gia đình. Cuốn sách cũng đã được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Sau đây là một số câu tiêu biểu:

Độc thư tu dụng ý, nhất tự trị thiên kim.
(Đọc sách nghiền ngẫm kỹ càng, một chữ đáng giá ngàn vàng hỡi ai).

Lộ dao tri mã lực, sự cửu kiến nhân tâm.
(Đường xa biết sức ngựa tài, việc lâu mới thấy lòng người dở hay).

Mạc đạo quân hành tảo, cánh hữu tảo hành nhân
(Chớ khoe đi sớm hơn người, trước anh cũng đã có người sớm hơn).

Nhất niên chi kế tại ư xuân,
Nhất nhật chi kế tại ư dần.
Nhất gia chi kế tại ư hòa,
Nhất sinh chi kế tịa ư cần.

(Một năm lo liệu từ xuân,
Một ngày tính toán từ dần tính ra.
Một nhà mạnh phải thuận hòa,
Một đời muốn sướng phải lo chuyên cần).

Tửu trung bất ngữ chân quân tử,
Tài thượng phân minh thị trượng phu.

(Người khôn uống chẳng nói ra,
Tiền nong sòng phẳng ấy là trượng phu)

Thiếu thời bất nỗ lực, lão lai đồ bi thương...
(Lúc trẻ không cố sức, già đến những đau buồn)...

Vô tiền phương đoạn tửu, lâm lão thử khan kinh.
(Hết tiền chừa rượu chậm rồi, già mới đọc sách chao ôi muộn màng!).

CHÚ THÍCH

(1) Trung Hoa thiên cổ lưu truyền thư hệ. Đài Hải xuất bản xã 1997.

(2) Tân tam tự Kinh, Quảng Đông giáo dục xuất bản xã 1995.

TB

MỘT CÔNG TRÌNH VĂN BẢN HỌC RẤT CÓ GIÁ TRỊ: "TRUYỀN KỲ MẠN LỤC SAN BẢN KHẢO"

Nhà Việt Nam học nổi tiếng người Nhật Bản, Giáo sư KAWAMOTO KUNIYÉ (本 邦 衛) vừa cho ra mắt bạn đọc cuốn Truyền kỳ mạn lục san bản khảo (傳 奇 漫 錄 刊 本 攷) do Sở nghiên cứu Ngôn ngữ - Văn hóa Trường Đại học Khánh ứng (Keio Daigaku) phát hành, Tokyo, 1998.

Sách dày gần 300 trang, khổ 22,5 x 16cm. Nội dung gồm 3 phần lớn sau đây:

1. "Truyền kỳ mạn lục" giải đề, gồm 6 chương:

- Chương 1, giới thiệu tác giả và năm biên soạn Truyền kỳ mạn lục (TKML).

- Chương 2, bàn về phương pháp sáng tác và tiêu đề các truyện trong TKML; ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, đối với TKML.

- Chương 3, khảo về các lần san khắc Cựu biên và Tân biên TKML: Vĩnh Thịnh 8 (1712), Cựu biên; Vĩnh Thọ 10 (1714), Tân biên; Vĩnh Hựu 3 (1737), Tân biên; Cảnh Hưng 24 (1763), Tân biên; Cảnh Hưng 35 (1774), Tân biên.

Có sơ đồ các thế hệ truyền bản.

- Chương 4, khảo về các nơi khắc in sách: Hồng Lục, Liễu Chàng...

- Chương 5, nói về vấn đề tị húy ở TKML.

- Chương 6, nói về vấn đề giải âm, hội chú trong TKML.

2. "Truyền kỳ mạn lục" chính văn tịnh hiệu ký: giới thiệu nguyên văn chữ Hán (có chú thích những chỗ khác nhau về văn bản giữa Cựu bản Tân bản) của toàn bộ 20 truyện trong TKML.

3. "Tân biên Truyền kỳ mạn lục" giải âm chú: giới thiệu toàn bộ phần dịch Nôm của 20 truyện trong TKML.

Ngoài ra, sách còn có lời tựa (TKML san bản khảo tự) của tác giả, cùng một số trang chụp đại diện cho các lần khắc in và 2 bản đồ xã Hồng Lục, Liễu Chàng... để minh họa.

Phải nói rằng đây là một tập đại thành trên lĩnh vực nghiên cứu văn bản TKML mà Giáo sư KAWAMOTO đã cống hiến cho độc giả sau nhiều năm dày công nghiên cứu và cũng đã phát biểu phần nào kết quả tìm tòi của mình qua các bài viết như: "Những vấn đề văn bản học đặt ra đối với TKML" (in trong 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1995); "Truyện Dạ Xoa bộ soái lục" (in trong Kỷ yếu của Sở nghiên cứu Ngôn ngữ - Văn hóa trường Đại học Khánh ứng, số 25, 1993); "Sự vay mượn và cải biên của Nguyễn Dữ - qua đối chiếu Lệnh Hồ Sinh minh mộng ký trong Tiễn đăng tân thoại với Tản Viên từ Phán sự lục trong TKML (Kỷ yếu đã dẫn, số 24, 1992); "Sự vay mượn và cải biên của Nguyễn Dữ - qua đối chiếu Mẫu đơn đăng ký trong Tiễn đăng tân thoại với Mộc miên thụ truyện trong TKML (Kỷ yếu đã dẫn, số 22, 1990) v.v.

Thọ Nhân

TB

MỘT BẢN THƯ MỤC MỚI VỀ SÁCH HÁN NÔM VIỆT NAM TÀNG TRỮ TẠI ĐÔNG DƯƠNG
VĂN KHỐ NHẬT BẢN

Đầu năm nay, 1999, Ô. HAJIME KITAMURA (北 村 甫) Giám đốc Đông Dương văn khố Nhật Bản vừa cho phát hành cuốn Đông Dương văn khố tàng Việt Nam bản thư mục 東 洋 文 庫 藏 越 南 本 書 目 Thư mục sách Hán Nôm Việt Nam tàng trữ tại Đông Dương văn khố) do Hội nghiên cứu cổ sử thuộc Đông Dương văn khố Nhật Bản biên soạn, có dựa một phần vào bản thư mục Đông Dương văn khố sở tàng Việt Nam bản mục lục (cảo bản) của cố GS. GOTO KIMPEI 後 籐 均 平) soạn năm 1995.

Sách dày 100 trang, khổ 21,5 x 15,5 cm, gồm 2 phần chính:

1. Thư mục sách Hán Nôm Việt Nam (Việt Nam bản mục lục): gồm 122 mục sách, xếp theo trật tự ký hiệu xếp giá, thí dụ X-1-1; X-1-2; v.v.

2. Thư mục sách in từ vi phim ra (Việt Nam bản [tả chân bản] mục lục): gồm 154 mục sách, cũng xếp theo trật tự xếp giá, thí dụ X-2-46; X-2-47; v.v.

Cả hai phần này đều được biên soạn rất chi tiết, cung cấp nhiều thông tin quan trọng của sách như số quyển, số tập, số trật, ký hiệu, tác giả, bản in hoặc chép tay, khổ sách, số dòng trên một trang, số chữ trên một dòng, bản tâm, cước chú v.v.

Ngoài ra, còn có Tựa Phàm lệ ở đầu sách, cùng Sách dẫn để tra cứu ở cuối sách.

Thọ Nhân.

TB

BỘ “TỨ KHỐ TOÀN THƯ” CỦA TRUNG QUỐC XUẤT BẢN TRÊN ĐĨA QUANG (CD-ROM)

NGÔ THẾ LONG

Chúng ta được biết rằng bộ sách "Tứ khố toàn thư" rất nổi tiếng của Trung Quốc, được xuất bản năm 1773 do triều đình nhà Thanh chủ trì là một công trình sưu tập rất phong phú và hoàn bị về các thư tịch cổ của Trung Hoa.

"Tứ khố toàn thư" tổng cộng thu thập hơn 3400 "loại", hơn 79000 quyển, 36000 sách, chia làm 4 bộ là: Kinh, Sử, Tử, Tập. Để bảo tồn kho kinh điển văn hiến do Hoàng đế "Ngự phê giám chế", triều đình đã trưng tập hơn 3800 văn nhân học sĩ trong cả nước tập trung tại Kinh thành, làm việc trong 10 năm, chỉnh lý, sao chép thành 7 bản, theo kiểu chữ Khải (chân phương) cùng với bản gốc thành 8 bản, rồi làm gác cất chứa kỹ, khiến người đời khó được nhìn thấy !

Tuy do vài nghìn người sao chép, nhưng phong cách chữ viết nghiêm chỉnh đúng quy cách, cẩn thận từng nét, thống nhất như do một người viết ra, cho nên xét về mặt nội dung hay hình thức đều có đầy đủ giá trị bảo tồn, nghiên cứu và thưởng thức. Sau đó trải nhiều phen chiến tranh loạn lạc, sách vở bị hủy hoại, mất mát quá nửa, khiến công trình đồ sộ này trở thành của báu vô giá hiếm thấy trong lịch sử xuất bản thế giới.

"Tứ khố toàn thư" có quy mô to lớn, số quyển rất nhiều, khiến việc tra duyệt và bảo quản rất bất tiện. Giá cả lại quá đắt, khiến người ta chỉ "nhìn rồi bỏ đi". Vì những nguyên nhân đó khiến sách này không thể lưu truyền rộng, người đời khó được xem. Để bảo tồn và phát huy nền văn hóa 5000 năm của Trung Hoa, khiến bộ sách lớn này đi vào mọi gia đình, và nó trở thành kho tư liệu "gối đầu giường" của mọi người, đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo tồn bộ "Tứ khố toàn thư" của nhiều người, Trung tâm "Tế Nam Hối văn khoa kỹ khai phát" của Trung Quốc đã nghiên cứu chế tạo "Tứ khố toàn thư" bản nguyên văn điện tử (trên CD-Rom). Được cơ quan quản lý xuất bản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phê chuẩn (quyết định số 106 năm 1997), do Vũ Hán Đại học xuất bản xã xuất bản.

"Tứ khố toàn thư" nguyên bản điện tử bao gồm nội dung văn hiến của 4 bộ Kinh, Sử, Tử, Tập cộng hơn 2 triệu trang, thu vào 150 đĩa quang, dùng phương thức lưu ảnh để bảo tồn tư liệu văn hiến, bảo tồn phong cách và diện mạo của nguyên thư, và cung cấp công năng kiểm tra thư mục, không chỉ cho phép tra theo mục lục nguyên thư mà còn rất tiệnlợi trong việc tra tìm theo tên sách, tác giả, triều đại tác giả sống, số hiệu đĩa, số sách. Để tiện cho duyệt đọc, hệ thống cung cấp công năng đánh dấu chú thích, để cho độc giả có thể tự mình đánh dấu. Ngoài ra hệ thống còn cung cấp công năng hiển thị phóng to thu nhỏ, cắt đoạn, in ấn. Toàn bộ hệ thống vận hành trong môi trường WINDOWS, thao tác đơn giản, có đủ thuyết minh rõ ràng (Trọn bộ 150 đĩa quang - định giá 25000 "nhân dân tệ").

TB

KỶ NIỆM 3 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CÂU LẠC BỘ THƯ HỌA THĂNG LONG

Sáng 18-5-1995, tại Trường Đại học KHXH & NV thuộc ĐHQG Hà Nội, Câu lạc bộ Thư họa Thăng Long phối hợp với Bộ môn Hán Nôm Khoa Văn học Trường ĐHKHXH & NV đã tổ chức kỷ niệm 109 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 3 năm ngày thành lập Câu lạc bộ. Hơn một trăm người, gồm hội viên CLB và những người hâm mộ thư pháp đã đến dự. Đến dự buổi sinh hoạt này còn có Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc ĐHQG Hà Nội và các vị lãnh đạo trường ĐHKHXH & NV và Khoa Văn học của trường. Trong buổi lễ kỷ niệm này, hai CLB thư pháp trẻ của hai trường ĐHKHXH & NV và ĐHNN thuộc ĐHQG Hà Nội đã được ra mắt. Họa sĩ Phan Cẩm Thượng đã báo cáo trước cử tọa về vấn đề "Quan hệ giữa thư pháp và hội họa". Cuối buổi họp có phần minh họa chữ viết của các nhà thư pháp và các sinh viên trẻ tại phòng trưng bày thư pháp. ở đây đã giới thiệu nhiều thư bản của nhiều tác giả, trong đó có tác phẩm của các hội viên trẻ thuộc hai câu lạc bộ thư pháp trẻ mới ra đời. Cố vấn Câu lạc bộ Thư họa Thăng Long đã phát biểu ý kiến và viết chữ tặng một số đại biểu làm kỷ niệm trước khi ra về.

Nguyễn Vinh

TB

CHỮ HÁN VÀ VĂN HÓA HÁN ĐANG RẤT ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI QUAN TÂM

LÊ HUY TIÊU

Có một Giáo sư người Mỹ từng hỏi học trò của mình: "Trên thế giới, ngôn ngữ nào được nhiều người nói nhất ?"

Anh học trò kia không cần suy nghĩ, trả lời ngay: "Tiếng Anh được nhiều người nói nhất". Vị Giáo sư kia lắc đầu nói: "Không! Tiếng Hán mới là tiếng được nhiều người nói nhất" (xem Trung ngoại văn hóa giao lưu số 5-1995. Trung Quốc đối ngoại văn hóa giao lưu Hiệp hội xuất bản).

Quả là xưa kia nước Anh từng là nước giầu mạnh và có nhiều thuộc địa, nên tiếng Anh được truyền bá rất rộng. Ngoài nước Anh ra, các nước Mỹ, Canađa, ôxtrâylia cũng coi tiếng Anh là quốc ngữ; rồi ấn Độ, Pakixtan, Bangladest, Xri Lanca, Philippin, Tandania, Nam Phi v.v... cũng có nhiều người nói tiếng Anh. Sau Đại chiến thế giới lần thứ 2, nước Mỹ trở thành cường quốc càng làm cho tiếng Anh được đề cao hơn, và trở thành thứ tiếng thông dụng trên trường quốc tế.

Mặc dù vậy, số người nói tiếng Anh vẫn còn ít hơn số người nói tiếng Hán. Theo Niên giám Anh quốc, năm 1995, trên thế giới số người coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất ước chừng 310 triệu người, coi là ngôn ngữ thứ hai là gần 300 triệu người, như vậy tổng cộng là khoảng 600 triệu người. Còn tiếng Hán là 1 tỷ 100 triệu người. Cộng cả người Đài Loan, Hồng Kông, áo Môn, Hoa kiều ở hải ngoại và những người ở Đông Nam châu á v.v... khoảng 60 triệu người nữa, tổng cộng trên toàn thế giới có 1 tỷ 200 triệu người nói tiếng Hán, gấp đôi số người nói tiếng Anh. Có nghĩa là 1/4 dân số trên thế giới nói tiếng Hán hoặc biết tiếng Hán. Sự thực đó chứng tỏ tiếng Hán có địa vị quan trọng và có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.

Cũng như Việt Nam ta, các đền chùa ở Nhật Bản và Triều Tiên đều có tên và câu đối bằng tiếng Hán. ở Hàn Quốc hiện nay vẫn còn "Quốc Tử Giám" (thành lập cách đây 600 năm) đang hoạt động. Các công trình kiến trúc, biển tên nhà máy, công ty, thậm chí biển trước cổng nhà cũng đề tiếng Hán. Ai sang Nhật Bản và Hàn Quốc nếu không biết tiếng bản địa thì có thể bút đàm bằng tiếng Hán.

Từ năm 1949, đặc biệt là sau khi cải cách mở cửa năm 1978, do kinh tế văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh, nên trên thế giới đã hình thành "cơn sốt" học tiếng Hán. ở Hàn Quốc hầu hết các trường Đại học đều có khoa Trung văn, vừa dạy tiếng vừa dạy văn hóa, văn học Trung Quốc. ở Seoul đã thành lập Hội nghiên cứu văn học cổ đại và hiện đại Trung Quốc, tạp chí ra bằng tiếng Hán 3 tháng một kỳ. Số người chuyên nghiên cứu văn học Trung Quốc toàn nước Hàn có gần 800 người (1992), tạp chí học thuật và văn hóa văn học Trung Quốc có tới 12 loại. Số người làm Thạc sĩ và Tiến sĩ về văn học Trung Quốc tăng lên hàng năm. Tính đến năm 1995 đã có 39 luận án Tiến sĩ, 172 luận án Thạc sĩ về văn học hiện đại Trung Quốc (xem Phác Tế Vũ: "Phân tích tình hình nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc tại Hàn Quốc trong 16 năm (từ 1980 - 1995)", tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, quyển 16, năm 1995).

Hiện nay ở Trung Quốc có 30.000 lưu học sinh, tuyệt đại bộ phận trong số đó đều chọn học Trung văn. Nhiều trường Đại học trên thế giới đã mở khoa hoặc chuyên ban Trung văn. 11 thành phố ở Trung Quốc có trung tâm sát hạch trình độ tiếng Hán cho người nước ngoài. Đến năm 1994 ở Singapor, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Đức, Pháp, Italia, Canađa, Mỹ, Oxtrâylia, Việt Nam cũng đã thành lập trung tâm sát hạch trình độ tiếng Hán. Các nước Anh, Thái Lan, Malaixia, cũng đang thành lập trung tâm sát hạch tiếng Hán. ở Singapor tiếng Hán được coi là ngôn ngữ thứ nhất, ở Inđônêxia, Philippin, Malaixia Hán ngữ được coi là ngôn ngữ thứ hai; và ở Canađa được coi là ngôn ngữ thứ ba. ở Hàn Quốc và Việt Nam đang có khuynh hướng đòi khôi phục việc dùng tiếng Hán, hoặc dạy tiếng Hán ở trường Phổ thông trung học (ở Hàn Quốc, cấp 2, học sinh được học tiếng Hán) vì tiếng Hán đã và sẽ làm giàu vốn từ vựng cho ngôn ngữ của các nước này.

Hán ngữ là một trong những văn tự cổ nhất của loài người. Những văn tự cổ như văn tự Ai Cập cổ, văn tự Babilon... đều đã diệt vong, chỉ có Hán tự là tồn tại và ngày một phát triển. Hán tự tồn tại và phát triển là nhờ văn hóa Trung Hoa quá rực rỡ và đang tỏa sáng ở thời hiện đại. Xin kể vài chuyện vui. Một họa sĩ Trung Quốc tên là Tôn Trọng Uy sang dạy vẽ tại nước Mỹ. Trong một cuộc triển lãm tranh của ông tại Oasinhtơn, có một bà già Mỹ nhìn thấy bức tranh "Tiên hạc" tỏ vẻ vô cùng thích thú, bà già đi đi lại lại quanh bức tranh hết ngắm lại sờ, cuối cùng bà móc ví ra, thấy không đủ tiền, bà nhún vai bỏ đi. Thấy vậy họa sĩ Tôn liền gọi lại hỏi. Bà già nói rõ lý do bỏ đi. Ông họa sĩ Trung Quốc nói ông có thể làm bà hài lòng: Ông xin tặng bức tranh đó cho bà. Bà già người Mỹ mở to đôi mắt nói: "Điều đó ở nước Mỹ không thể có được". Họa sĩ Trung Quốc nói: "Người Trung Quốc ở nước Mỹ có thể làm được". Bà già Mỹ nói: "Ông làm như vậy là căn cứ vào đâu ?". Họa sĩ Trung Quốc nói: "Đức Khổng Tử của chúng tôi dạy rằng: "Quân tử thì để tâm vào việc nghĩa, tiểu nhân thì để tâm vào việc lợi". (Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi). Chúng tôi đến nước Mỹ là để giới thiệu văn hóa nghệ thuật Trung Quốc, và cũng là để quảng giao với bạn bè, chứ không nhằm mục đích kiếm tiền". Bà già nói: "Khổng Tử của Trung Quốc thật vĩ đại ! Chả trách nào bức tượng đồng của ông ấy ở Oasinhtơn chúng tôi, hằng ngày có tới mấy vạn người đến chiêm ngưỡng".

Trong một lần triển lãm tranh khác, có một thiếu nữ Mỹ nhìn ngắm một bức tranh thủy mạc xong, móc túi, nhưng quên mang thẻ tín dụng. Họa sĩ Tôn nói: "Xin cô cứ mang tranh về, khi nào tiện thì gửi tiền đến theo địa chỉ này..." Thiếu nữ kia nhìn chòng chọc vào họa sĩ, rồi nói: "Sao ngài lại tin tôi ?" Họa sĩ Trung Quốc nói: "Cô yêu tranh tôi tự đáy lòng, điều đó chứng tỏ lòng cô rất yêu cái đẹp. Cô nói cô không mang tiền, điều đó là chân thật. Bây giờ tôi thỏa mãn ý nguyện của cô, lấy tranh trước trả tiền sau, đó gọi là "thiện". Như vậy, chân, thiện, mỹ hợp thành nhất thể, việc làm tốt như vậy sao tôi lại không làm ? Khổng Tử nói: "Quân tử thành nhân chi mỹ" (Quân tử làm đẹp cho người ), đạo lý là như vậy!" Cô gái Mỹ nói: "Xin ngài viết cho tôi mấy chữ để cho người Mỹ chúng tôi học tập". Họa sĩ Trung Quốc viết 8 chữ: "Vi thiện tối lạc", "Tự cường bất tức", rồi ông giải thích: "Lin Côn của Mỹ giải phóng nô lệ tức là "vi thiện" Oasinhtơn của Mỹ lãnh đạo nhân dân giành độc lập, chẳng phải "tự cường" đó sao ? "Tự cường" là chữ lấy từ trong Kinh Dịch cách đây 3.000 năm đấy. Cô gái Mỹ sung sướng nói: "Ôi chao ! Lịch sử nước Mỹ còn chưa dài bằng con số lẻ của lịch sử Trung Quốc ! Văn hóa và tư tưởng 3.000 năm trước của các ngài, vẫn còn tỏa sáng tại nước Mỹ hôm nay. Thật là vĩ đại !".