|
LỐI VIẾT "TRUYỆN" TRONG BỘ SỬ BIÊN NIÊN ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
HOÀNG VĂN LÂU
Nền sử học truyền thống Việt Nam có lịch sử lâu đời và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các bộ sử, phần lớn viết bằng chữ Hán, có một số viết bằng chữ Nôm với hình thức diễn ca, đã thâu chứa trong đó nguồn trí tuệ to lớn của dân tộc, đã đúc kết những bài học và kinh nghiệm vô giá về tiến trình dựng nước và giữ nước, về lẽ tồn vong, hưng phế, thịnh suy của các triều đại, về đạo lý, nhân luân của mọi tầng lớp trong xã hội,... có ý nghĩa lớn lao trong việc củng cố và nâng cao ý thức dân tộc, cổ vũ ý chí vươn lên, tinh thần học hỏi, đổi mới không ngừng của mỗi người, không những ở thời đã qua, mà còn ở thời hiện tại và tương lai.
Nếu như những giá trị về nội dung của các bộ sử truyền thống là hiển nhiên và không một ai có thể hoài nghi, thì về mặt phương pháp viết sử của người xưa, dường như xưa nay ít được chú ý nghiên cứu một cách đúng mức.
Có thể có người nghĩ rằng: các sử gia xưa kia, xuất thân Nho học, sớm học theo các khuôn mẫu khó vượt qua của những Lân kinh, Mã sử, mượn các thể cách viết sử của nền sử học ưu tú Trung Quốc, nên không có gì sáng tạo xuất sắc về phương pháp viết sử. Nhà sử học Lê Quý Đôn, khi tổng kết thành tựu mấy trăm năm của nền sử học dân tộc cũng đưa ra những khuôn vàng thước ngọc của Bắc sử trước. Ông nói: "Sử có 2 thể, Sách Thượng Thư mỗi việc chép riêng đủ cả đầu cuối từng việc, thể kỷ truyện đời sau là gốc ở đó; Sách Xuân thu gộp cả công việc từng năm, để thấy rõ việc trước sau, thể biên niên đời sau là bắt nguồn từ đó..."(1). Ông cho rằng, "nước Việt ta dựng nước, đặt quan làm sử, nối tiếp nhau đều dùng thể biên niên để chép việc như sử đời Lý của (Lê) Văn Hưu, sử đời Trần của (Phan) Phu Tiên..."(2). Ông phê phán các bộ sử biên niên trước đó "gọn gàng và đúng đắn có thể dùng được, nhưng về điển chương của một triều đại thì bỏ nhiều không thấy chép, người xưa phải lấy làm tiếc"(3). Ông muốn bổ khuyết các bộ sử cũ, bằng phương pháp của thể kỷ truyện. Ông nói: "Tôi không tự xét mình kém cỏi, muốn bắt chước thể kỷ truyện, chép theo sự loại, chia ra từng điều và tóm lại một lối, lại phụ thêm những lời bàn tán thuật bầy theo ý riêng mình"(4). Như vậy, theo Lê Quý Đôn, thì sử có 2 thể là kỷ truyện và biên niên. Các bộ sử nước ta từ ông trở về trước đều chỉ dùng thể biên niên. Chính Lê Quý Đôn là nhà sử học đầu tiên của Việt Nam đã dùng thể kỷ truyện để viết bộ Đại Việt thông sử. Bộ Đại Việt thông sử này đã tàn khuyết nghiêm trọng. Và sau bộ sử này, cũng không còn thấy một bộ sử khác viết theo thể kỷ truyện.
Thế là, một khác biệt dễ nhận thấy giữa nền sử học Việt Nam và nền sử học Trung Quốc là: ở Trung Quốc, sau Thượng Thư, nhất là sau Sử ký thì sử kỷ truyện rộ nở, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam quốc chí, Tống thư... đều viết theo thể kỷ truyện. Trong khi đó, sử biên niên chỉ sau khi Tư trị thông giám và Tư trị thông giám cương mục ra đời, mới đua nhau phát triển. Còn ở Việt Nam, hầu hết các bộ sử hiện còn giữ được, đều viết theo thể biên niên, trong khi đó, sử kỷ truyện chỉ còn lại phần tàn khuyết của bộ Đại Việt thông sử.
Nếu tìm hiểu các bộ sử biên niên của nước ta với các bộ sử biên niên của Trung Quốc, chúng ta cũng có thể tìm thấy những khác biệt rõ rệt về mặt phương pháp. Việc phân tích những khác biệt này, cho phép hiểu rõ sự sáng tạo của các nhà chép sử ngày trước, trên cơ sở những tri thức uyên bác về lịch sử dân tộc và sự học hỏi, vận dụng những thành quả ưu việt của nền sử học Trung Quốc của họ; cũng cho phép lý giải lịch sử dân tộc một cách toàn diện và sâu sắc hơn xưa. Nhưng đây là một công việc lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin phân tích một vài nét về lối viết "truyện" trong một bộ sử nổi tiếng, bộ Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn thư) của Ngô Sỹ Liên.
Ngô Sỹ Liên biên soạn Toàn thư trên cơ sở "hiệu chính, biên soạn lại" hai bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, "thêm vào một quyển Ngoại kỷ", tất cả gồm 15 quyển(5). Về phương pháp biên soạn, trong bài Biểu dâng sách Toàn thư, ông nói rõ: "Theo lối biên niên của Mã sử nhưng thẹn là chỉ làm việc chắp vá. Học cách chép việc của Lân kinh, đâu dám mong chặt chẽ đúng phép". Nghĩa là vận dụng tổng hợp cả hai phương pháp viết sử truyền thống của Trung Quốc: biên niên và kỷ truyện, tạo ra một lối viết sử độc đáo mà chúng tôi tạm gọi là lối viết Toàn thư và đã có dịp bàn tới vấn đề này(6).
Sử biên niên là "chép việc" theo trật tự thời gian, "để thấy rõ việc trước, việc sau". Sử kỷ truyện là để chép riêng trọn vẹn từng sự kiện, từng nhân vật. Lối viết "truyện" cho các nhân vật lịch sử trong thể kỷ truyện, chia thành cung bậc khác nhau: Bản kỷ lựa chọn các nhân vật lịch sử tiêu biểu có vai trò quyết định cục diện thiên hạ để viết sự kiện lớn về mặt chính trị. Thế gia ghi chép các chư hầu và những nhân vật, sự kiện lớn có vai trò nổi bật với xã hội. Liệt truyện chủ yếu là truyện ký danh nhân.
Toàn thư là bộ sử biên niên, lối viết biên niên quán xuyến suốt từ trang đầu đến trang cuối. Nhưng trong Toàn thư, có vô số truyện danh nhân lịch sử, từ hoàng đế hậu phi, đến vương hầu tướng tướng, cho đến viên độc bạ, nhà sư, thầy thuốc... Trong khi viết "truyện" cho danh nhân lịch sử, tác giả không chia thành bản kỷ, thế gia, liệt truyện, mà thường viết xen vào giữa các sự kiện.
Ở phần Ngoại kỷ, các mục viết về Kinh Dương vương Lạc Long Quân, Hùng Vương, An Dương Vương, thực chất là lối viết truyện cho các truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc. Cũng vậy, ở phần này có các truyện nàng Mỵ Nương kén chồng, truyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa, truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy, cũng chính là truyền thuyết được lịch sử hóa. ở phần này, những dòng niên đại chỉ có tính chất tượng trưng.
Các kỷ Nhà Triệu (Quyển 2), kỷ thuộc Tây Hán, kỷ Trương Nữ vương, Kỷ thuộc Đông Hán, Kỷ Sỹ vương (Quyển 3), kỷ thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương (Quyển 4), kỷ thuộc Tùy, Đường, kỷ Nam Bắc phân tranh, kỷ nhà Ngô(7) (Quyển 5), thì do nguồn sử liệu ít ỏi, chủ yếu là tìm từ Bắc sứ, nên tác giả ghi các sự kiện theo trật tự thời gian, đúng với nghĩa "sử biên niên".
Từ Kỷ nhà Đinh (năm 968) đến khi người Minh rút quân về nước (năm 1427) gọi là Bản kỷ Toàn thư. Ở phần này, vẫn tuân thủ cách viết của biên niên: chép công việc từng năm "để thấy rõ việc trước, việc sau". Trong mỗi năm lại chia thành 4 mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), trong mỗi mùa lại chia thành từng tháng. Những sự kiện lớn như "tai biến" của trời đất, ngày sinh, ngày mất của các Hoàng đế, Thái tử thì ghi đến từng ngày. Riêng năm, thì trước ghi năm can chi, rồi ghi niên hiệu của vị Hoàng đế của năm đó, lại chú rõ niên hiệu của Bắc triều tương ứng. Ví dụ:
"Ất Mão, Thái Ninh năm thứ 2 (1073) (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước Phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên".
"Bính Tuất, Kiến Trung năm thứ 2 (1226)(Tống Bảo Khánh năm thứ 2)... Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10. Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo...(9)".
Viết về nhân vật lịch sử, ngoài những hoạt động của họ được ghi chép theo nguyên tắc biên niên ra, còn có cách chép "truyện" riêng.
- Đối với các vị Hoàng đế.
Phần Bản kỷ, mỗi triều đại chia thành từng kỷ (kỷ nhà Đinh, kỷ nhà Lê, kỷ nhà Lý, kỷ nhà Trần...). Trong từng kỷ, mỗi vị Hoàng đế có mục riêng. ở đầu mỗi mục, đều có phần "tiểu sử tóm tắt", giới thiệu tổng quát về vị Hoàng đế đó và sự đánh giá chung. Thí dụ, Kỷ nhà Trần, mục Thái Tông Hoàng đế:
"Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm (1226 - 1258), nhường ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi (1218 - 1277) băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng.
Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp, truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy! Song quy hoạch về việc nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn"(10).
Không chỉ có thế, ở nhiều vị Hoàng đế, còn có những đoạn chép "truyện" riêng, thường là đặt ở sau đoạn đưa tin vị Hoàng đế đó mất. Những "truyện" này có tính chất độc lập, phản ánh nét nhân cách nổi bật hoặc tài lược đặc biệt của nhân vật. Như sau khi chép sự kiện Thượng hoàng (Trần Thái Tông) băng ở cung Vạn Thọ (ngày mồng 1, tháng 4, mùa Hạ, năm Đinh Sửu (1277) niên hiệu Bảo Phù năm thứ 5), có một đoạn dài tới gần 2 trang (Q5, tờ 35a,b) chép "truyện" về tài chiêm đoán của Trần Thái Tông.
Trần Nhân Tông mất (ngày mồng 3, tháng 11, mùa Thu, năm Hưng Long 16) (1308), có chép chuyện ông xuống núi tới thăm bà chị là Thiên Thụy, sau đó trở lên núi (ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử) dặn dò Pháp Loa. Pháp Loa thiêu xác Nhân Tông được hơn 3 ngàn hạt xá lỵ(11).
Trần Anh Tông mất (ngày 15, tháng 3, mùa Xuân năm Đại Khánh 7 tức 1320) ở cung Trùng Quang phủ Thiên Trường, rước linh cữu vào cửa Tường Phủ, quàn tại Cung Thánh Từ, có đoạn dài đến 4 trang (Q6, tờ 36a,b, 37a,b) chép truyện ông khiêm tốn hòa nhã, sáng suốt quyết đoán, giáo dục vua trẻ, dạy bảo các quan, giữ vững quy chế, sử dụng hiền tài... Đến khi mai táng (ngày 12, tháng 12 cùng năm) vào lăng Thái Lăng ở Yên Kinh, lại có 1 đoạn 2 trang (Q6, tờ 39b, 40a) chép truyện ông ký thác con nhỏ cho Quốc Chẩn, thái độ của ông đối với việc sống chết, và sự quan tâm của ông đối với bề tôi.
Trần Minh Tông mất (ngày 19, tháng 2, mùa Xuân, năm Đinh Dậu, Thiệu Phong 7 tức 1357), có đoạn dài 4 trang (Quyển 7, tờ 19b - 21a) chép truyện ông làm việc thuận theo nghĩa, lời ông dạy các Hoàng tử, việc ông không cho lập đàn chay cầu đảo, việc ông làm thơ giễu thầy thuốc Trâu Canh, việc ông đốt các bài thơ do mình làm... lời dặn của ông trước khi mất...
Toàn thư chép truyện cho Hậu phi công chúa, cho Vương hầu khanh tướng, cho các danh nho danh thần, cho đến nhà sư, thầy thuốc, con hát. Nếu xét riêng về kỷ nhà Trần đã có những nhân vật sau đây được chép truyện: Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán, Hiến Từ Hoàng thái hậu, Bảo Từ Hoàng thái hậu, Thiều Dương Công chúa, Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Trần ích Tắc, Đỗ Khắc Chung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Lê Tông Giáo, Đinh Củng Viên, Chu Văn An, Lê Quát, Lê Cư Nhân, Đoàn Khung, Trần Thì Kiến (Pháp quan), Đoàn Nhữ Hài (Nho sinh), Trần Cụ (Độc bạ), Trương Trọng Tử (Chi cục chánh chưởng), Du Chi Bà La (nhà sư), Phí Trực (Hình bộ lang trung), Trâu Canh (thầy thuốc), Lý Nguyên Cát (con hát)... Truyện về nhân vật, thường được chép sau khi nhân vật ấy chết, hay nhân khi nhân vật ấy được Thăng chức hay giáng chức, cũng có khi nhân một sự kiện nào đó mà giới thiệu một nhân vật. Ví như: Các nhân vật Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão thì nhân sự kiện họ chết, đã viết truyện về họ. Hay như Nguyễn Trung Ngạn, thì nhân dịp bị giáng chức làm An phủ sứ Thanh Hóa (tháng 7 năm 1326), đã giới thiệu 1 bài thơ của ông và ghi ông có Giới Hiên tập lưu hành ở đời. Lại như nhân dịp chép sự kiện rước linh cữu của Trần Nhân Tông về chôn ở lăng Quy Đắc (ngày 16 tháng 9 năm Hưng Long 18 tức 1310), chép truyện viên Chi hậu chánh chưởng Trịnh Trọng Tử...
Một đặc điểm chung trong bút pháp viết truyện về các nhân vật lịch sử là có sự lựa chọn rất đắt các sử liệu, không dàn trải, và lối viết rất đa dạng, sinh động. Có nhân vật, chỉ vài dòng, nhưng cũng nêu bật được một nét phẩm chất đẹp của nhân vật, như đoạn viết về công chúa Thiều Dương:
"Hôm Thượng hoàng băng, Công chúa Thiều Dương (con gái Thượng hoàng, tên là Thúy) đương ở cữ, bỗng nghe tiếng chuông liên hồi, mới hỏi: "Có phải là tin dữ đó không?"
Những người hầu bên cạnh nói dối, nhưng Công chúa không nghe, cứ thương khóc kêu gào mãi, mắt nhắm nghiền rồi mất!"(12).
Nhưng có nhân vật viết rất kỹ, rất toàn diện, như Trần Quốc Tuấn. Ngoài những ghi chép khá chi tiết về ông trong các sự kiện lịch sử lớn theo nguyên tắc chép việc của thể biên niên, ngoài việc nhắc tới ông trong truyện về Trần Quang Khải với việc ông chủ động hòa giải với vị Thượng tướng Thái sư, đoàn kết nội bộ vương thất để đối phó với nạn ngoại xâm, hay trong truyện về Phạm Ngũ Lão với việc phát hiện, đào tạo, tiến cử hiền tài cho đất nước, Trần Quốc Tuấn còn được Toàn thư dành hẳn 14 trang (Quyển VI, tờ 8b đến tờ 15b) để chép truyện về ông với một bút pháp rất đa dạng, đặc sắc, nêu bật chiến lược giữ nước "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc". Sau khi tổng kết một cách sâu sắc, súc tích bài học lịch sử, cũng không quên giới thiệu truyền thống giáo dục, lòng trung quân, đức khiêm tốn, tầm suy xa nghĩ rộng của ông. Đặc biệt chép lại toàn văn bài Dụ chư tì tướng hịch văn của ông và bài Tựa của Trần Khánh Dư viết cho tập Vạn Kiếp tông bí truyền thư của ông.
Chính lối viết truyện về nhân vật lịch sử với tính chất làm nổi bật "những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình" trên đây, khiến cho Toàn thư có giá trị văn học không nhỏ. Đó cũng là lý do để Toàn thư được đưa vào Từ điển văn học(13). Đương nhiên, "giá trị văn học" nói ở đây không phải là tài hư cấu, mà như trên đã nói, đó là sự lựa chọn rất khéo, rất đắt sử liệu có trong tay người soạn sử, và được viết theo phương pháp viết "liệt truyện" của sử học.
Không phải nhân vật lịch sử nào của Toàn thư cũng có chép truyện, mức độ đậm nhạt của từng truyện cũng không đều. Nhưng có một sự thực hiển nhiên là: bộ sử biên niên Toàn thư có hàng chục truyện về các vị Hoàng đế, về các danh nhân lịch sử, và có nhiều truyện đạt đến mức không thua kém những Bản kỷ, Thế gia, Liệt truyện của Sử ký, mặc dù Toàn thư không phải là bộ sử kỷ truyện. Phải chăng, đây là một nét đặc sắc của Toàn thư, và cũng là "nét riêng" của sử học Việt Nam so với sử học Trung Quốc ?
CHÚ THÍCH
(1)(2)(3)(4) Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử tự. Xem Lê Quý Đôn toàn tập, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1908, Tập III, tr.19.
(5) Bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên soạn xong năm 1479. Năm 1697, nhóm sử thần Lê Hy, Nguyễn Quý Đức sau khi đã bổ sung và hoàn tất bản thảo đã cho khắc in, vẫn lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư gồm Quyển thủ và 24 quyển nhưng vẫn giữ nguyên kết cấu 15 quyển của bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Trong bài này, khi khảo sát về bộ Toàn thư, chúng tôi hạn chế trong bộ Toàn thư 15 quyển này.
(6) Xem: Nhà sử học Ngô Sĩ Liên với lối viết Toàn thư, trong sách Ngô Sĩ Liên và Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
(7) Kỷ nhà Ngô vốn được Ngô Sĩ Liên xếp vào Bản kỷ. Sau này, khi đưa vào Toàn thư, nhóm Lê Hy theo quan điểm của Vũ Quỳnh đưa vào phần Ngoại kỷ và có giải thích rõ lý do.
(8) Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư). Bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1993, Tập I, tr.277.
(9) Toàn thư, Sách đã dẫn, T. II, tr 8.
(10) Toàn thư, Sách đã dẫn, T. II, tr 7.
(11) Toàn thư, Sách đã dẫn, T. II, tr 92.
(12) Toàn thư, Sách đã dẫn, T. II, tr 42.
(13) Từ điển văn học: Nxb KHXH, Hà Nội 1983, T I, tr.184.
|