Tạp chí Hán Nôm >> TCHN từ 2006 về sau >> Số >> 101(2010)
Nguyễn Thúy Nga
Tìm hiểu việc đổi địa danh ở tỉnh Hà Nội thời Nguyễn qua lệ kiêng húy (Tạp chí Hán Nôm, Số 4(101) 2010; Tr.62-71)

Cập nhật lúc 10h18, ngày 02/01/2012

TÌM HIỂU VIỆC ĐỔI ĐỊA DANH Ở
TỈNH HÀ NỘI THỜI NGUYỄN QUA LỆ KIÊNG HÚY

NGUYỄN THÚY NGA

TS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

         Kiêng húy hay tỵ húy đã tồn tại hàng chục thế kỷ trong chế độ phong kiến ở Việt Nam. Quy định của mỗi triều đại nghiêm ngặt hay nới lỏng khác nhau, nhưng ảnh hưởng của định lệ này đến văn hóa và tập tục xã hội thì rất sâu sắc. Kết quả của nó còn hiện diện cho đến ngày nay và mãi sau này.

         Chữ húy có 2 loại, công húy (hoặc quốc húy) và tư húy. Quốc húy bao gồm: ngự húy (ngự danh) là tên húy của vua và hoàng hậu đương thời, miếu húy là tên húy ông bà cha mẹ vua và đều thuộc diện trọng húy, làm văn phải đổi dùng chữ khác, khi đọc tránh âm, tên người tên đất cấm dùng(1). Theo điều tra của chúng tôi những tên đất thay đổi do kiêng húy phần lớn vẫn còn hiện diện trong tên gọi ngày nay. Đối chiếu lệ kiêng húy với nguồn tư liệu Hán Nôm hiện còn, chúng ta có thể biết chính xác từng địa danh trùng tên húy ai, đời nào, bắt buộc phải đổi vào năm nào v.v...

         Hiện nay các thư viện lớn tại Hà Nội còn lưu giữ được một số tài liệu địa chí Hán Nôm có kê lớp địa danhphường xã thôn. Đại đa số các tài liệu này được biên soạn công phu, một số là bảng kê các công văn hành chính có tính chất nhà nước nên có độ chính xác cao, có thể dùng làm cơ sở nghiên cứu. Các tài liệu xếp theo niên đại như sau:

Các trấn tổng xã danh bị lãm: biên soạn đời Minh Mệnh, khoảng năm 1810-1813, ký hiệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm: A.570/1-2.

Bắc Thành địa dư chí lục: biên soạn đời Minh Mệnh, khoảng năm 1818-1821, A.1565/1-2.

Đại Việt địa dư toàn biên: Phương Đình Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ, người sau hoàn thành năm 1882 đời Tự Đức, nhiều bản.

         Hà Nội địa bạ: biên soạn năm 1866 đời Tự Đức, A.628.

         Đồng Khánh địa dư chí lục: hoàn thành năm 1887 đời Đồng Khánh, A.537.

         Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890: biên soạn năm 1890 đời Thành Thái, văn bản số 1, tập 1255 phông Nha Kinh lược Bắc kỳ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Hà Nội.

         Monographi de la province de Hanoi en 1901, tài liệu lưu trữ, ký hiệu E02 623

         Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kỳ, tài liệu lưu trữ: các công văn năm 1926 đời Thành Thái(2).

A/S De publication d'un ouvrage sur le Tonkin. Liste des communes du huyen Hoan Long, Zône suburbaine de Hanoi, tài liệu lưu trữ năm 1906 đời Thành Thái, ký hiệu E02 625 D61.

         Hà Đông toàn tỉnh tổng xã thôn danh sách: biên soạn năm 1932, VHv.1365

         Hà Đông xã trang thôn trại bạ: ký hiệu A.2800

         Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ: Đặng Xuân Khanh biên soạn 1956, A.2471

         Chúng tôi đã lập một bảng đối chiếu, từ đó tìm ra hệ thống tên riêng những phường, xã, thôn của Hà Nội thay đổi từ đời Gia Long, qua Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh đến Thành Thái. Việc đổi tên rất nhiều và liên tục, đặc biệt trong khoảng từ đời Minh Mệnh sang Tự Đức. Sự thay đổi này có nhiều lý do, có khi vì việc tách nhập đơn vị hành chính, có khi vì lý do tu từ, nhưng nhiều nhất và quan trọng nhất là do lệ kiêng húy.

         Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những địa danh thay đổi do kiêng húy gây ra trong phạm vi tỉnh Hà Nội thời Nguyễn(3).

         Kiêng húy có 2 loại: húy tên người và húy từ tôn kính. Húy tên người do kiêng tránh tên vua, hoàng hậu, cha mẹ vua. Húy từ tôn kính: kiêng họ vua và từ Thiên (chỉ trời).

         Đối chiếu chữ húy thời Nguyễn trong sách Nghiên cứu chữ húy với địa danh trong 12 tài liệu Hán Nôm kể trên, chúng tôi đã thống kê được các địa danh trùng với chữ húy phải đổi ở các đời như sau:

         1. Quốc húy:

         - Đời Gia Long: Cảo , một tên húy không công bố của vua Gia Long (định lệ năm Minh Mệnh 17/1836).

         - Đời Minh Mệnh: Đam , là kiêng chữ cận âm và cùng thiên bàng với chữ Đảm là tên húy vua Minh Mệnh (định lệ năm Minh Mệnh 1/1820).

         - Đời Thiệu Trị: Tuyền (+), Dung (/) , Tông . Tông là ngự danh của vua; Tuyền và Dung là chữ đồng âm với tên húy. Hoa , Thực là tên húy mẹ vua (định lệ năm Thiệu Trị 1/1841). Miên 綿 là chữ trong tên 2 tiểu tự Miên Tông 綿宗 (định lệ năm Thiệu Trị 2/1842). Triền là chữ cận âm với âm Tuyền (+) là tên húy vua (định lệ năm Thiệu Trị 3/1843).

         - Đời Tự Đức: Hồng , Thời là ngự húy; Hằng là tên mẹ vua (định lệ năm Thiệu Trị 7/ 1847).

         - Đời Kiến Phúc: Đăng , Hương . Đăng là ngự húy, Hương là tên mẹ nuôi vua (định lệ năm Kiến Phúc 1/1833).

         - Đời Đồng Khánh: Đường (+) , Biện (/) đều là ngự húy (định lệ năm Đồng Khánh 1/1885).

         - Đời Thành Thái: Chiêu , Chân . Chiêu là ngự húy, Chân là chữ đồng âm với tên húy của cha vua (+)(4) (định lệ năm Thành Thái 1/1889).

         2. Từ tôn kính: quốc tính Nguyễn , Thiên (đời Tự Đức).

         Nguồn tài liệu địa chí có ở các đời và có tính liên tục về thời gian nên đối soát giữa chúng sẽ tìm ra sự thay đổi đáng tin cậy. Chúng tôi lập một bảng kê tên xã, thôn, phường đã thay đổi do kiêng húy và thời gian thực đổi như sau:

Chữ húy

Tên cũ

Tên mới

Thuộc tổng/huyện

Năm đổi

Đam

Tây Đam

Tây Tựu

Tây Tựu/ Từ Liêm

Minh Mệnh 1

 

Phúc Đam

Phúc Lý

-

-

Cảo

Nhật Cảo

Nhật Tảo

Phú Gia/ Từ Liêm

Minh Mệnh 17

 

Minh Cảo

Minh Tảo

Minh Tảo/ Từ Liêm

-

 

Dương Cảo

Dương Tảo

Vân La/ Thanh Trì

-

 

Lai Cảo

Lai Tảo

Bột Xuyên/ Chương Đức

-

 

Cảo Dương

Tảo Dương

Thủy Cam/ Thanh Oai

-

 

Ninh Cảo

Ninh Tảo

Hương Ngải/ Từ Liêm

-

Tông

Tông Tranh

Hòa Tranh

Trầm Lộng/ Sơn Minh

Thiệu Trị 1

Hoa

Hoa Ngạc

Đường Ngạc

Phú Gia/ Từ Liêm

Thiệu Trị 1

 

Hoa Ngư

Nam Ngư

Vĩnh Xương/ Thọ Xương

-

 

Yên Hoa

Yên Phụ

Tổng Thượng/ Vĩnh Thuận

-

 

Bạch Hoa

Bạch Liên

Hà Hồi/ Thượng Phúc

-

 

Phú Hoa

Phú Túc

Phượng Dực/ Thượng Phúc

-

 

Xuân Hoa

Xuân Yên

Thuận Mỹ /Thọ Xương

-

 

Hoa Ả

Mỹ Ả

Nam Phù Liệt/ Thanh Trì

-

 

Hoa Kinh

Minh Kinh

Khương Đình/ Thanh Trì

-

 

Hoa Nhị

Phương Nhị

Ninh Xá/ Thanh Trì

-

 

Hoa Âm

Thanh Âm

Phương Đình/ Sơn Minh

-

 

Hoa Nao

Bạch Nao

Động Cứu/ Thanh Oai

-

 

Tam Hoa

Tam Đăng

Thủy Cam/ Thanh Oai

-

 

Hoàng Hoa

Hoàng Mộc

-

-

 

Ngô Hoa

Ngô Đồng

-

-

 

Hoa Xá

Phương Xá

Kim bảng /Kim Bảng

-

 

Hoa Phong

Khả Phong

Thụy Lôi/ Kim Bảng

-

 

Đích Hoa

Liên Đích

Mai Động/ Bình Lục

 

 

Hoa Sam

Thanh Sam

Bạch Sam/ Sơn Lãng

-

Thực

Đăng Thực

Đăng Văn

Mỹ Lương/ Chương Mỹ

Thiệu Trị 1

Tuyền

Dụ Tuyền

Dụ Tiền

Hà Liễu/ Thanh Trì

Thiệu Trị 1

 

Thạch Tuyền

Thạch Bích

Bảo Đà/ Thanh Oai

-

 

Tuyền Cam

Thủy Cam

Thủy Cam/ Thanh Oai

-

 

Phương Tuyền

Phương Hạnh

Phương Hạnh/ Chương Mỹ

-

Miên

Miên Sơn

Xuân Sơn

Hòa Lạc/ Mỹ Lương

Thiệu Trị 2

Triền

Ứng Triền

Ứng Hòa

Mỹ Lâm/ Phú Xuyên

Thiệu Trị 3

 

Thao Triền

Thao Chính

-

-

 

An Triền

An Cư

Trầm Lộng/ Sơn Minh

-

 

Triền Khê

An Khê

Chúc Sơn/ Chương Đức

-

Hồng

Thượng Hồng

Thượng Cung

Thượng Cung/ Thượng Phúc

Tự Đức 1

 

Hồng Khê

Thanh Khê

Bối Khê/ Thanh Oai

-

 

Hồng Đô

Phú Đô

Đại Mỗ/ Từ Liêm

-

 

Hồng Mai

Bạch Mai

Kim Liên/ Thọ Xương

-

Thời

Thời Trung

Phương Trung

Phương Trung/ Thanh Oai

Tự Đức 1

Hằng

Hằng Vệ

Thường Vệ

Phù lưu tế/ Hoài An

Tự Đức 1

Đường

Đường Bạt

Thường Bạt

Xà Cầu/ Sơn Lãng

Đồng Khánh 1

 

Đường Lệ

Thường Lệ

Hạ Lôi/ Yên Lãng

Thành Thái 1

 

Đường Ngạc

Liên Ngạc

Phú Gia/ Từ Liêm

-

 

Mãn Đường

Mãn Xoang

Đông Lỗ/ Sơn Lãng

-

 

Linh Đường

Linh Đàm

Thanh Liệt/ Thanh Trì

-

 

Cổ Đường

Cổ Hoàng

Hoàng Trung/ Phú Xuyên

-

 

Đường Hoàng Trung

Hoàng Trung

Hoàng Trung/ Phú Xuyên

-

 

Lật Đường

Lật Phương

Khai Thái/ Phú Xuyên

-

 

Liên Đường

Sen Hồ

-

-

 

Đường Xuyên

Thường Xuyên

Thường Xuyên/ Phú Xuyên

-

 

Ngọc Đường

Ngọc Trục

Đông Lỗ/ Sơn Minh

-

Biện

Biện Thủy

Tri Thủy

Tri Thủy/ Phú Xuyên

Thành Thái 1

Hương

Hương Nhị

Phương Nhị

Thủy Cam/ Thanh Oai

Thành Thái 1

 

Phương Hương

Phương Hạnh

Phương Hạnh/ Chương Mỹ

-

 

Văn Hương

Văn Chương

Vĩnh Yên/ Hoàn Long

-

 

Thụy Hương

Thụy Chương

Phú Gia/ Từ Liêm

-

 

Hương Đô

Phú Đô

Đại Mỗ/ Từ Liêm

-

 

Hương Côn

Vân Côn

Thượng Ốc/ Từ Liêm

-

 

Hương Quan

Phương Quan

-

-

 

Hương Canh

Phương Canh

Phương Canh/ Từ Liêm

-

 

Hương Mạc

Phương Mạc

La Thạch/ Đan Phượng

-

 

Hương Bảng

Phương Bảng

Đắc Sở/ Đan Phượng

-

 

Hương Nhị

Phương Nhị

Thủy Cam/ Thanh Oai

-

 

Hương Đàn

Phương Đàn

Phương Đàn/ Kim Bảng

-

 

Hương Giai

Phương Giai

Bình Lăng/ Thượng Phúc

-

Chiêu

Nhật Chiêu

Nhật Tân

Tổng Thượng/ Hoàn Long

Thành Thái 1

Đăng

Đăng Triều

Phong Triều

Mỹ Lâm/ Phú Xuyên

Thành Thái 1

 

Đăng Ngạn

Đạo Ngạn

Quảng Bị/ Chương Mỹ

-

 

Đăng Phối

Tiến Phối

Cao Bộ/ Chương Mỹ

-

 

Đăng Tiên

Tiến Tiên

Phương Hạnh/ Chương Mỹ

-

 

Tam Đăng

Tam Đa

Động Cứu/ Thanh Oai

-

Chân

Chân Vật

Thành Vật

Bạch Sam/ Sơn Minh

Thành Thái 1

 

 

 

 

 

         Thường sau khi lên ngôi, việc đầu tiên là vua ban bố chữ húy, và theo định lệ kiêng húy, những chữ thuộc diện cấm dùng, tên người tên đất phải đổi thường có hiệu lực ngay. Nhưng tìm hiểu kỹ lệ kiêng húy vận dụng vào việc đổi tên đất trong phạm vi tỉnh Hà Nội, chúng tôi có một số nhận xét sau:

         1. Tên địa danh thay đổi ngay sau khi có lệnh kiêng húy:

         - Đời Minh Mệnh: 1 chữ:

         + Địa danh có chữ Đam là chữ cận âm và cùng thiên bàng với chữ Đảm là ngự húy, như Tây Đam đổi thành Tây Tựu, Phúc Đam thành Phúc Lý (năm Minh Mệnh thứ 17/1836).

         - Đời Thiệu Trị: 6 chữ

         + Địa danh có chữ Hoa (18 xã) trùng với tên mẹ vua Thiệu Trị, như Hoa Ngạc thành Đường Ngạc, Hoa Ngư thành Nam Ngư, Yên Hoa thành Yên Phụ v.v… (năm Thiệu Trị thứ 1/1841).

         + Địa danh có chữ Thực trùng với tên mẹ vua, như Đăng Thực thành Đăng Văn (năm Thiệu Trị thứ 1/1841).

          + Địa danh có chữ Miên 綿trùng với tên 2 chữ tiểu tự, như Phú Miên thành Phú Nhiêu, Miên Sơn thành Xuân Sơn (năm Thiệu Trị thứ 2/1842).

         + Địa danh có chữ Tông trùng với ngự danh, như Tông Tranh thành Hòa Tranh (năm Thiệu Trị thứ 1/1842).

         + Địa danh có chữ Tuyền (5 xã) đồng âm với ngự húy, như Dụ Tuyền thành Dụ Tiền, Thạch Tuyền thành Thạch Bích v.v… (năm Thiệu Trị thứ 4/1844).

         + Địa danh có chữ Triền (4 xã) là chữ cận âm với chữ Tuyền đồng âm với ngự húy, như Thao Triền thành Thao Chính, Triền Khê thành An Khê v.v… (năm Thiệu Trị thứ 3/1843).

         - Đời Tự Đức: 3 chữ

         + Địa danh có chữ Hồng (4 xã) trùng với tên tiểu tự, như Thượng Hồng thành Thượng Cung, Hồng Khê thành Thanh Khê v.v… (năm Tự Đức thứ 1/1847(5)).

         + Địa danh có chữ Thời trùng với ngự húy, như Thì Trung thành Phương Trung (năm Tự Đức thứ 1/1847).

         + Địa danh có chữ Hằng trùng với tên mẹ vua, như Hằng Vệ thành Thường Vệ (năm Tự Đức thứ 1/1847).

         - Đời Đồng Khánh: 1 chữ

         Địa danh có chữ Đường trùng với ngự húy: 10 xã là Đường Bạt, Đường Lệ, Đường Ngạc, Mãn Đường, Linh Đường, Cổ Đường, Đường Hoàng Trung, Lật Đường, Đường Xuyên, Ngọc Đường. Nhưng sách Đồng Khánh địa dư chí lục vẫn ghi tên 9 xã với chữ Đường như trên, chỉ duy nhất xã Đường Bạt (thuộc tổng Xà Cầu huyện Sơn Lãng) được ghi đổi thành Thiệu Bạt (năm Đồng Khánh thứ 1/1885).

         - Đời Thành Thái: 2 chữ

         + Địa danh có chữ Chiêu trùng với ngự húy, như Nhật Chiêu đổi thành Nhật Tân.

         + Địa danh có chữ Chân trùng với tên cha vua, như xã Chân Vật đổi thành Thành Vật.

         Nhưng ở cột năm đổi trong bảng thống kê trên, chúng ta thấy có một số địa danh năm đổi không khớp với quốc húy và năm công bố định lệ kiêng chữ húy đó. Chúng tôi đã tìm hiểu và thấy có một số ngoại lệ, gồm 5 chữ:

         - Chữ Cảo là tên húy không chính thức của vua Gia Long, nhưng đến năm Minh Mệnh 17 (1836) mới có lệnh kiêng húy(6). Chữ này là 1 trong 3 chữ Cảo 稿, , thuộc diện không cấm dùng, nhưng phải kiêng âm. Vì vậy 7 xã có tên Cảo như Nhật Cảo, Minh Cảo, Lai Cảo, Cảo Dương v.v… trong các sách Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục vẫn còn hiện diện, đến Hà Nội địa bạ mới thấy ghi đổi thành Nhật Tảo, Minh Tảo, Lai Tảo, Tảo Dương v.v…

         - Địa danh có chữ Đăng (5 xã) trùng với ngự húy vua Kiến Phúc nhưng trong sách Đồng Khánh địa dư chí lục vẫn giữ nguyên, đến đời Thành Thái, tài liệu Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX mới ghi tên mới: Phong Triều, Đạo Ngạn, Tiến Phối, Tiến Tiên, Tam Đa.

         - Địa danh có chữ Hương (13 xã) trùng với tên mẹ vua Kiến Phúc, nhưng tất cả vẫn hiện diện trong sách Đồng Khánh địa dư chí lục. Đến đời Thành Thái, tài liệu Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX mới ghi tên mới: Phương Nhị, Phương Hạnh, Văn Chương, Thụy Phương, Phú Đô, Vân Côn, Phương Quan, Phương Canh, Phương Mạc, Phương Bảng, Phương Nhị, Phương Đàn, Phương Cai.

         - Địa danh có chữ Đường trùng với ngự húy vua Đồng Khánh, nhưng trong sách Đồng Khánh địa dư chí lục là sách được biên soạn ngay trong đời vua đó chỉ có 1 xã đổi (Thiệu Bạt), còn tên 9 xã khác vẫn giữ nguyên. Đến đời Thành Thái, tài liệu Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX mới ghi tên mới: Thường Lệ, Liên Ngạc, Mãn Xoang, Linh Đàm, Cổ Hoàng, Lật Phương và Ngọc Trục.

         - Địa danh có chữ Biện 日弁trùng với ngự húy vua Đồng Khánh, nhưng trong sách Đồng Khánh địa dư chí lục tên tổng và xã Biện Thủy, xã Cổ Biện vẫn còn. Đến đời Thành Thái, tài liệu Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX mới ghi đổi thành tổng và xã Tri Thủy và xã Cổ Giang.

         Tài liệu chính thức có ghi chép các định lệ kiêng húy của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục chính biên đã kết thúc ở Đệ lục kỷ chép về đời vua Đồng Khánh. Vì vậy mà hiện nay chúng tôi không rõ định lệ kiêng húy đời Thành Thái cụ thể như thế nào. Những địa danh trùng với tên húy thay đổi trong đời Thành Thái như Chiêu, Chân; hoặc 4 địa danh truy đổi của đời trước như Đăng, Hương, Đường, Biện cũng không biết chính xác vào năm nào. Vì vậy chúng tôi căn cứ vào tài liệu lưu trữ Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX phụng biên ngày 18 tháng 2 năm Thành Thái thứ 2 (1890) đã có ghi tên xã sau khi đổi (kê ở trên) để kết luận: tất cả những tên xã đổi vào đời Thành Thái đều xảy ra vào năm Thành Thái thứ 1 (1889) theo đúng thông lệ sau khi vua lên ngôi thì cho ban bố lệnh hiêng húy ngay.

         2. Húy từ tôn kính:

         Ngoài lệ kiêng tránh chữ húy tên người, đời Tự Đức còn có lệ kiêng húy từ tôn kính, như chữ Nguyễn (họ vua) vàchữ Thiên (là trời - chỉ vua).

         Lệ kiêng tránh chữ húy loại này không thấy ghi trong định lệ nào, chuyên đề Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại cũng không nhắc đến. Nhưng căn cứ vào 2 tài liệu có kê lớp địa danh làng xã trước đời Tự Đức như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục và tài liệu thừa biên trong đời Tự Đức là Hà Nội địa bạ, có thể biết được sự thay đổi này diễn ra vào những năm đầu đời Tự Đức (trước năm 1866 là năm soạn xong sách).

         Chúng tôi lập bảng kê tên các xã trùng với từ tôn kính phải đổi như sau:

STT

Chữ húy

tên cũ

tên mới

tổng/ huyện

năm đổi

1

Nguyễn

Nam Nguyễn

Nam Phú

Mỹ Lâm/ Phú Xuyên

Tự Đức

2

 

Phú Nguyễn

Phú Mỹ

-

-

3

 

Nguyễn Xá

Hòa Xá

Thái Đường/ Hoài An

-

4

 

Nguyễn Xá

Nam

An Trạch/ Nam Xương

-

5

 

Nguyễn Xá

Tiên Xá

Tiên Xá/ Duy Tiên

-

6

Thiên

Thiên Mỗ

Đại Mỗ

Đại Mỗ/ Từ Liêm

Tự Đức

7

 

Thiên Kiện

Đại Kiện

Mai Cầu/ Từ Liêm

-

8

 

Thiên Mạc

Hòa Mạc

Trác Bút/ Nam Xương

-

9

 

Thiên Mạc

Thanh Mạc

Thanh Mạc/ Đan Phượng

-

10

 

Thiên Lộc

Đa Lộc

Đa Lộc/ Yên Lãng

-

11

 

Thiên Dưỡng

Hậu Dưỡng

Thiên Lộc/ Mỹ Lương

-

         Dựa vào tài liệu Hán Nôm có thể thấy sự kiêng húy này khá chặt chẽ, các tên xã có chữ Nguyễn và chữ Thiên (trời) đều đổi(7). Nhưng có điều thú vị là tên xã Thiên Đông 千冬 thuộc tổng Bối Khê huyện Thanh Oai trong tất cả các tài liệu đều vẫn ghi tên đó. Có lẽ vì chữ Thiên trong tên xã này là Thiên (nghìn), vì vậy mà không phải đổi.

         Ngoài các chữ húy có chủ ra, chúng tôi còn thấy có một chữ nữa cũng được đổi tên khá triệt để vào đời Thành Thái, đó là chữ Bảo .

         Đối chiếu các tài liệu trước đời Thành Thái như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục, Hà Nội địa bạ, Đồng Khánh địa dư chí lục với tài liệu Danh mục làng xã Hà Nội đầu thế kỷ XIX, chúng tôi thấy các xã có chữ Bảo đã đổi như sau:

         Bảo Đà (tg và xã thuộc h Thanh Oai) thành BìnhĐà.

         Bảo Hiền (xã Cổ Hiền tg Cổ Hiền h Thanh Oai) thành Quần Hiền.

         Bảo Thị (xã Vĩnh Trung tg Cổ Điển h Thanh Trì) thành Lạc Thị.

         BảoTừ (tg Lương Xá h Chương Đức) thành Đại Từ.

         Tam Bảo (tg Minh Cảo h Từ Liêm) thành Tam Lạc.

         Vạn Bảo (tg Đại Mỗ h Từ Liêm) thành Vạn Phúc.

         Vạn Bảo (tg Nội h Vĩnh Thuận) thành Vạn Ngọc

         Vạn Bảo (tg Nội h Vĩnh Thuận) thành Vạn Phúc.

         Vĩnh Bảo (tg Tri Thủy h Phú Xuyên) thành Vĩnh Ninh.

         Vĩnh Bảo (tg Vĩnh Hưng Đặng h Thanh Trì) thành Vĩnh Thịnh.

         Chỉ có một trường hợp tên xã Yên Bảo (tg Tiên Xá h Duy Tiên) không đổi.

         Như chúng tôi đã nói về lệ kiêng húy đời Thành Thái ở trên, có thể hiểu rằng địa danh có chữ Bảo cũng được đổi vào năm Thành Thái thứ 1 (1889). Nhưng chủ nhân của chữ húy đó là ai? Chuyên khảo Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại không thấy nói đến chữ húy này, chúng tôi cũng chưa có tư liệu để khẳng định các địa danh phải đổi do kiêng húy nhân vật nào mà mới chỉ có chứng cứ chữ Bảo được kiêng húy đời Thành Thái mà thôi.

         Có thể tóm tắt chữ húy của các đời như sau: Gia Long: Cảo; Minh Mệnh: Đam; Thiệu Trị: Hoa, Thực, Tông, Tuyền, Triền, Miên; Tự Đức: Thời, Hồng, Hằng, Thiên, Nguyễn; Kiến Phúc: Hương, Đăng; Đồng Khánh: Đường, Biện; Thành Thái: Chiêu, Chân.

         Nhưng trên thực tế chỉ có 13 chữ trong tên địa danh được đổi ngay khi có lệnh kiêng húy là Đam (đời Minh Mệnh), Hoa, Thực, Tông, Tuyền, Triền, Miên (đời Thiệu Trị), Thì, Hồng, Hằng (đời Thành Thái), Đường (1 xã - đời Đồng Khánh), Chiêu và Chân (đời Thành Thái); 1 chữ đời sau mới công bố là Cảo (đời Minh Mệnh); 4 chữ đời sau mới truy đổi là Đường, Biện, Hương và Đăng (đời Thành Thái). Ngoài ra tên các xã trùng với 2 từ tôn kính được đổi trong đời Tự Đức là Nguyễn, Thiên và tên các xã trùng với chữ Bảo đổi năm Thành Thái.

         Sở dĩ có hiện tượng trên là vì sau khi vua Tự Đức mất, nội bộ cung đình chia rẽ, nạn ngoại xâm đe dọa, các vụ phế lập liên tiếp xảy ra: vua Dục Đức mới lên ngôi được 3 ngày chưa kịp làm lễ chọn chữ đặt tên, vua Hiệp Hòa lên ngôi 6 tháng chưa kịp ban bố lệnh kiêng húy, vua Kiến Phúc cũng mới làm vua được 6 tháng v.v… Trong bối cảnh chính trị như vậy thì định lệ về kiêng húy chỉ còn mang tính chất hình thức. Vì thế mà các địa danh trùng với tên húy sau đời Tự Đức không còn được đảm bảo tính nghiêm chặt là phải đổi ngay khi công bố, mà phải đợi đến đời Thành Thái, vị vua này mới cho truy đổi một loạt các địa danh trùng với tên húy của các đời Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Đồng Khánh.

Chú thích:

(1) Xem: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại (viết tắt: Nghiên cứu chữ húy). Ngô Đức Thọ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Trung tâm Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội, Nxb. Văn hóa, 1997. Các định lệ và chữ húy trong bài viết, chúng tôi trích dẫn từ sách này.

(2) Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin biên soạn, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1999.

(3) Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) cải cách hành chính cả nước, chia lập tỉnh Hà Nội, địa dư bao gồm thành phố Hà Nội (trừ tỉnh Sơn Tây cũ) và tỉnh Hà Nam ngày nay.

(4) Tức vua Dục Đức, con thứ 2 của Kiến Thụy công Hồng Y. Vua Tự Đức không có con nên nhận làm con nuôi. Khi vào cung được ban tên là Ưng Chân 膺礻真, lên ngôi được 3 ngày thì bị phế truất rồi bị giết.

(5) Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847) vua Thiệu Trị mất, Hoàng tử Hồng Nhậm lên ngôi, xuống chiếu lấy năm sau là năm Mậu Thân làm niên hiệu Tự Đức năm đầu (1848), đồng thời ban bố lệnh kiêng húy lần thứ nhất. Như vậy chính xác thì các chữ húy ở lần công bố này phải tính vào năm Thiệu Trị thứ 7, nhưng để hợp logic và dễ hiểu, chúng tôi tạm xếp các chữ húy này vào năm Tự Đức thứ 1 (1848).

(6) Xem Nghiên cứuchữ húy, Sđd, tr.136.

(7) Một số tên phủ có chữ Thiên như Phụng Thiên đổi thành Hoài Đức (năm Gia Long thứ 4/1805) và Ứng Thiên đổi thành Ứng Hòa (năm Gia Long thứ 13/1814) không liên quan gì đến lệ kiêng húy này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt:

1. Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn. T.III: người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh. Tái bản, Nxb. Thuận Hóa - Huế, 1992.

2. Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh. Nxb. KHXH, H. 1964.

3. Địa chí Thăng Long - Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm. Chủ biên: Nguyễn Thúy Nga - Nguyễn Văn Nguyên, Nxb. Thế giới, 2007.

4. Địa danh Hà Nội thời Nguyễn (khảo cứu từ nguồn tư liệu Hán Nôm). Chủ biên: Nguyễn Thúy Nga; nhóm biên soạn: Nguyễn Thúy Nga, Trịnh Khắc Mạnh, Vũ Thị Lan Anh, Nxb. KHXH, H. 2010.

5. Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ: các công văn năm 1926 đời Thành Thái. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin biên soạn, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1999.

6. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Trung tâm Viễn đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam, Nxb. Văn hóa, 1997.

II. Tài liệu khác:

1. A/S De publication dun ouvrage sur le tonkin. Liste des communes du huyen Hoan Long, Zône suburbaine de Hanoi, tài liệu lưu trữ, ký hiệu E02 625 D61.

2. Bắc Thành địa dư chí lục, A.1565/1-2.

3. Các trấn tổng xã danh bị lãm, A.570/1-2.

4. Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890, tài liệu lưu trữ, văn bản số 1, tập 1255 phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ.

5. Đại Việt địa dư toàn biên, nhiều bản.

6. Đồng Khánh địa dư chí lục, A.537.

7. Hà Đông toàn tỉnh tổng xã thôn danh sách, VHv.1365.

8. Hà Đông xã trang thôn trại bạ, A.2800

9. Hà Nội địa bạ, A.628.

10. Monographi de la province de Hanoi en 1901, tài liệu lưu trữ, ký hiệu E02 623.

11. Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ, A.2471./.

                                                                                      (Tạp chí Hán Nôm, Số 4(101) 2010; Tr.62-71)

In
Lượt truy cập: